intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ngã rẽ đường đời (quyển 1)

Chia sẻ: Nguyễn Thị Út Linh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:317

29
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

ngã rẽ đường đời (quyển 1) trình bày những kỷ niệm về những người lính và những bạn học đồng môn. tưởng nhớ hương hồn các liệt sỹ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh chống mỹ trên tuyến đường mòn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ngã rẽ đường đời (quyển 1)

  1.                                                            NGUYỄN ĐỨC BẢO                                                                        *                                                           NGÃ RẼ ĐƯỜNG ĐỜI Quyển 1 Từ nhà trường đến                        Chiến Trường                                        *                                           Kỷ niệm về những người lính                       những bạn học đồng môn            Tưởng nhớ hương hồn các liệt sỹ đã                 hy sinh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ                         trên tuyến đường mòn                             HỒ CHÍ MINH                                                                *                          TG: 0166 874 3008                                                                                                1
  2.                                                           LỜI NÓI ĐẦU                                          *             Nếu như không có một cuộc chiến tranh   nào   cả   và…Không   có   những   “   Ngã   Rẽ   Đường  Đời’’ thì những cô, những cậu học trò của những  năm 62, 63 và sau này, họ sẽ được học hành thành  đạt, sẽ  trở  thành những người có tri thức, đóng  góp được nhiều công lao bổ  ích cho quê hương,  đất   nước,   song   do   thời   thế....Một   cuộc   chiến  tranh tàn bạo nhất trong lịch sử ( Của thế kỷ 20 )   đã sảy ra, và họ, những cô, những cậu học trò  ngày ấy, đã phải xếp bút nghiên cần súng ra trận,  để rồi có người hy sinh, thân sác phải gửi lại trên  xa trường. Có người   đã bị  mất đi một phần cơ  thể, có người được trở  về  khỏe mạnh, lấy vợ,  sinh con, nhưng con cái của họ lại giống như loài   vật vô tri, vô giác, bởi bản thân người cha, đã bị  ngấm   nhiều   chất   độc   da   cam.   Cũng   có   người   trông bề  ngoài tinh tươm  lành lặn, nhưng trong  nội tâm lại phải mang nhiều nỗi khuất oan thua  thiệt               Hiện tại, chiến tranh đã đi qua trên non   thế  kỷ. Mọi dấu vết đã được người đương thời  và lớp hậu sinh dần dần xóa đi, dù cho khi xưa  nơi  ấy tít tắp là bãi mìn, túi bom, hoặc dày đặc,  2
  3. chi chít những mảnh đạn của pháo bầy các loại.  Ở  những nơi  ấy, ngày nay người ta đã xây lên  những   nhà   máy,   xí   nghiệp   sầm   uất,   nguy   nga,   những khu chung cư cao chín, mười tầng, hoặc là  những khu du lịch xanh, đẹp tráng lệ, ngày đêm  tấp nập kẻ vào người ra.               Những cô, những cậu học trò khi xưa, đã  đi qua một thời trận mạc, nay trở về đời thường,  có cuộc sống yên bình, nhưng những kỷ niệm của  một thời chiến tranh, một thời ra trận, thì vẫn in   sâu trong tâm thức chưa bao giờ tĩnh lặng              Nhớ về những kỷ niệm xưa, nhớ về một   thời  tuổi  hoa, và nhớ  lại  những câu  chuyện  đã  chót để  thương để nhớ trong suốt chiều dài cuộc  chiến, cùng những gian khổ, mất mát hy sinh của  một thời làm lính, một thời khó khăn, thiếu thốn  sau cuộc chiến tranh, cùng những lận đận mưu  sinh bươn trải đời thường.   Dù cho thời gian và  công việc có thể  lãng quên trong khoảnh khắc,   Nhưng mỗi khi có dịp nhớ  lại, nó vẫn hiện diện  như ngày hôm qua               Các bạn cùng thời, hãy nhớ lại để chung   vui với  những  kỷ  niệm xưa, kỷ  niệm của một   thời trẻ trai hào hùng ­ Sẻ dọc Trường Sơn ­ Một   thời chiến tranh, một thời ra trận, một thời cống   hiến trọn tuổi thanh xuân để  đổi lại sự  yên bình,  non sông thống nhất và sẽ thấy mình như vẫn còn  3
  4. được trẻ  mãi  ở  lứa tuổi hai mươi! Và hơn thế  nữa,   rất   mong   được   các   bạn   đọc   gần   xa   cảm  nhận và có một đôi lời chia sẻ.                                               TÁC  GỈA                                                                                                   LỜI TỰA                                            *     “ Ngã Rẽ  Đường Đời’’ Của Nguyễn Đức Bảo  khác với những tác phẩm không đi vào chủ   đề  “Tôi” Tác phẩm “ Ngã Rẽ…” đó cũng khác với  kiểu loại tác phẩm như “ Mẫn và Tôi ” của Phan  Tứ   cùng   viết   về   tôi   ở   những   năm   Chiến   tranh  chống Mỹ, nhưng lại để  một nhân vật khác xen  vào, luôn luôn song hành với “ Tôi ”                  “ Ngã Rẽ Đường Đời ’’ lấy tôi là nhân   vật số  một “ Tôi ” tức là tác giả  trong quan hệ  biện chứng với mọi môi trường. Tác giả  viết “  Ký Sự  Tiểu Thuyết ” là ghi lại sự  việc để  “ Kỷ  Niệm Về  Những Người Bạn, tưởng nhớ  hương   hồn các liệt sỹ ” đã gắn bó với “ Tôi ” và họ đã hy  sinh trên tuyến đường mòn  ở  Trường Sơn. Đó là  những câu chuyện “ Nhớ  lại về  những kỷ  niệm  xưa, nhớ lại những gian khổ, mất mát hy sinh của   một thời trai trẻ ” Thế nên tính “ Chuyện ’’ tính “  Hồi Ức ’’ của tác phẩm là chủ  yếu với “ Tôi ” ở  4
  5. ngôi thứ  nhất, quán xuyến. Vậy đây là một tác  phẩm   tự   truyện   như   kiểu   loại   Ba   Thiên   Tự  Truyện “ Thời Thơ   Ấu ” “ Kiếm Sống” “ Những   Trường   Đại   Học   Của   Tôi   ”   mà   M.X.P   GorKy,  người khai sinh ra nền văn học hiện thực xã hội  chủ  nghĩa  ở  Nga đã sang tác. Nó cũng chân thật  mang tính hồi ký văn học như  tác phẩm “ Những   ngày thơ   ấu của Nguyên Hồng” viết về  tuổi trẻ  cay đắng để  trưởng thành của chính bản thân tác  giả. Nhưng có điều khác căn bản hơn là tác phẩm   của Nguyễn Đức Bảo viết về  thời binh lửa mà  tác giả  lại chính là một lính chiến dày dạn đã đi  qua một phần ba thế  kỷ  ( Như  anh đã cho biết )   vậy thời gian, không gian  ở  đây rộng lớn hơn “  Những ngày thơ   ấu ” nhiều hơn. Nên tác phẩm  hoành tráng, kể cả khi viết về cái bi thảm, cái đau  rộng lớn của một thời  trước  những di hại của   một cuộc chiến tranh                            Nguyễn Đức Bảo viết tác phẩm này   không phải là theo đơn đặt hàng của một cá nhân,  một nhóm người, hay một tập thể  quyền uy, mà  là do sự thôi thúc tự nhiên từ bầu nhiệt huyết của   mình trước tình trạng “ Dấu vết của cuộc chiến  tranh   đang   được   người   đương   thời   và   lớp   hậu  sinh dần dần xoá đi, dù cho ngày xưa nơi ấy là bãi  mìn, túi bom, hoặc dày đặc, chi chít những mảnh  đạn   của   pháo   bầy   các   loại…Về   người   lính   và  những vết thương cũng đã lên da, kín miệng, nhìn  5
  6. bề ngoài cuộc sống đã yên bình, nhưng còn những  kỷ  niệm của một thời  chiến tranh, và việc lận  đận mưu sinh sau thời hậu chiến vẫn in sâu trong  tâm thức thì chưa khi nào tĩnh lặng ”…và “ Dù cho  thời   gian   và   công   việc   có   thể   lãng   quên   trong  khoảnh khắc, nhưng mỗi khi có dịp nhớ  lại, nó  vẫn hiện diện như ngày hôm qua ” như tác giả đã  thốt lên             Thời gian từ cuối thế kỷ xx đến nay, bắt   đầu từ  những việc “ Cần làm ngay ”….“ Tự  cởi   trói ” đất nước đã đổi mới, với nền kinh tế  thị  trường, cùng chủ nghĩa hiện sinh và những luồng  gió Âu, Á tràn vào. Vậy nên đã hết cái thời văn  học chỉ  minh hoạ, tụng ca, mô phỏng theo một ý  chí sắp đặt, và đã hết rồi thời né tránh cái tôi hay  để cho cái riêng, cái tôi hoà tan trong cái chúng ta,  cái chung. Do đó văn học có thể  đi sâu hoặc thể  hiện cái tôi như  trên đã nói, làm cho cá tính, bản  sắc   riêng   của   nhà   văn   càng   đậm   đặc.   Nhà   văn  không còn sợ  nếu nói đến buồn. đến đau khổ  thì  bị quy chụp, không ngại khi nói đến tình yêu riêng  tư. Đó là nguyên nhân dẫn đến thành công của tác   phẩm  này,  một   phong cách  hiện  thực  phê  phán  ( Chứ  không phải chỉ  là những hiện thực có cánh   nào khác…) sống dậy trong  đó. Nhờ  đó  mà tác  phẩm   viết   khá  mạnh  dạn,  trung  thực   về   chiến   tranh, về  tình yêu, tình bạn, về  tình hình thời sự  của đất nước thủa  ấy và những vấn đề  bức xúc  6
  7. về lý lịch, về Trí, Phú, Địa, Hào, đã vận dụng hẹp   hòi, giáo điều, máy móc ở các địa phương để  gây  khó khăn cho gia đình, cho bản thân tác giả, cũng  như bè bạn của anh.                       Về  chiến tranh: Một cuộc chiến tranh   được mệnh danh là “ Chống Mỹ  cứu nước ” mà  tình   hình   cũng   rất   phức   tạp   với   bao   quan   hệ  chồng chéo, khác hẳn các cuộc chiến chống ngoại  xâm của tổ tiên ta ngày xưa. Các cuộc chiến tranh   chống Tống, Nguyên, Minh, Thanh…Của tổ  tiên  ta   xưa   là   do   các   anh   hùng   cứu   quốc,   hoặc   các  vương   triều   lãnh   đạo   với   sự   ủng   hộ   của   toàn  quân, toàn dân đối  đầu với  một bên là kẻ  xâm  lược. Các chính quyền chống ngoại xâm đó không  nhờ  vào vũ khí ngoại, không dựa vào ngoại để  chống ngoại. Có bọn được gọi là tay sai ngoại  như  Trần Ích Tắc, Lương Nhữ  Hốt…Chỉ  là một  bộ phận nhỏ chạy theo quân giặc, nếu so với gần   như   toàn   quân,   toàn   dân   ủng   hộ   chính   quyền  chống xâm lược, cứu nước. Bọn tay sai đó không  có chính quyền Việt ăn đến các cấp cơ  sở  trong   nước. Còn cuộc chiến vừa qua của nước ta diễn  ra trong điều kiện phe xã hội chủ  nghĩa chưa bị  xoá,   với   vị   trí   tiền   đồn   của   nước   ta   (   Như   có  người đã nói ) nên các cường quốc cùng phe như  Liên   Xô,   Trung   Quốc…hết   lòng   ủng   hộ   chống  Mỹ. Còn từ  vĩ tuyến 17 trở  vào đã tồn tại một  chính quyền Việt ăn đến các cấp cơ  sở, với quân  7
  8. số tính đến hàng triệu. Chính quyền gọi là tay sai,  là Nguỵ  đó cũng có bàu cử, có quốc hội, có pháp  luật,   được   Mỹ   và   các   nước   đồng   minh   công  nhận…Trong hoàn cảnh  đối   đầu  ấy, thì  vũ khí  nước ngoài cực kỳ  hiện đại, tối tân, cố  vấn hay  nhân viên quân sự  nước ngoài từ  các phía do thế  mà dồn vào, nên khủng khiếp hơn tất cả các cuộc  chiến tranh từ  trước đến nay  ở  nước ta. Do thế,   tác giả Nguyễn Đức Bảo viết rất có lý khi anh  “  Nhìn lại tổng thể  của một cuộc chiến tranh…”  bằng hình tượng “ Như có một trận cuồng phong  dữ  dội, như  là một đợt  sóng thần tàn phá, huỷ  diệt đã cướp đi sinh mạng của những con người  đang  ở  độ  tuổi thanh xuân, thui chột mầm sống  của biết bao thế hệ vẫn còn tồn tại trên đời, đang  sống vất vưởng, còm cõi, vật vờ  như  những xác  chết chưa chôn ” Trong tác phẩm có nhiều minh  chứng về sự thực ấy. Những minh chứng sâu sắc  nhất, cảm động nhất, gây ấn tượng nhiều nhất là  tác phẩm đã nêu lên, mô tả  toàn cảnh cuộc sống   của ba chị  em nhà Thu Thuỷ, Thu Trang và Thu   Hương,   cùng   những   trắc   trở   đường   đời   của  người lính một thời ra trận.. “  Muốn   lảng  tránh   cũng  đâu   có   được”   và  càng  công bẳng, càng thực tế  nữa khi tác giả  khẳng  định về những thiệt thòi của nhân dân và binh lính  phía bên kia trận tuyến đang chịu những tổn thất,  đau thương, hy sinh, mất mát, nhưng cũng mong  8
  9. muốn “ Đất nước Việt Nam được thống nhất ”   Cũng thêm cảm động hơn khi tác phẩm có những  đoạn văn đáng nhớ về cách “ Chôn cất kẻ thù ” …  “ Cùng là người Việt của chúng ta ” Sâu sắc biết  bao nhiêu, nhân hậu biết bao nhiêu, khi tác giả  nhắc đến hai tiếng “ Đồng Bào ”                Chưa thể  đủ  để  cho rằng đây là cuốn “  Toàn thư  ” về  lính chiến  ở  thời gọi là “ Chống  Mỹ  ” Nhưng rõ rang tác phẩm đã cung cấp cho  độc giả những nguồn tư liệu thật phong phú, thật  quý báu về  người lính thời này. Chẳng hạn tác  phẩm nói về  lính chuyển quân  ở  Trường Sơn,  ở  Lào và lính từ  miền Nam ra Bắc ra sao. Những   sinh hoạt dọc đường nơi trú quân và chiến đấu,  cảnh bộ  đội nhận thư  nhà, viết thư, giao thiệp   với dân, theo dõi thời sự đất nước, đón tết, ăn tết   thời chiến, kể  chuyện, tâm tình với nhau, kể  cả  việc đi săm đêm và…bắn cọp…đều được mô tả  tỷ  mỷ. Có những trang nói về  việc học tập tấm   gương đồng chí Lôi Phong ( Chiến sỹ  quân giải  phóng nhân dân Trung Quốc ) đã hé thấy một cái  nhìn sâu sắc về  người bạn phương Bắc ngay  ở  giai đoạn hữu nghị  mặn mà. Đặc biệt là những  trang viết về  con đường Trường Sơn, con đường  huyền   thoại   và   chân   thật,   vùa   huyền   diệu,   đã  mang tính du lịch, lại thể  hiện sự  khám phá hiện  thực mà không thiếu chất lãng mạn. Thật là đẹp  đẽ khi ta đọc những trang thuật tả về các loài hoa  9
  10. Phong   Lan,   tác   giả   phải   thốt   lên   “   Nếu   không  phải là đang lúc chiến tranh, thì đây đúng là một  cuộc du Sơn ngoạn Thuỷ ”…Hẳn cũng có lý               Về  tình yêu, tình bạn: Tác giả  nhắc đi,   nhắc lại và có nhiều đoạn văn thuật tả hay kể về  những người bạn gắn bó với mình từ thủa học trò  tới trưởng thành như các bạn – Chương, Kỷ. Hữu  Đang, và hai người bạn gái mến thân – Thu Thuỷ,   Phương Liên…Đó là những người thật, nói cách  khác là những nhân chứng một thời đã mất hoặc  đang còn  ở  thị  xã Sơn Tây hiện nay. Những nhân   vật  ấy  được  tác giả  dàn dựng  theo hai hướng:  Viết hoàn toàn đúng với sự thật, hoặc có thể trên  nền sự  thật mà thêm bớt viết uyển chuyển hơn,  dù có chất hư  cấu mà vẫn đúng với lô gich nội  tại, phát triển hợp lý. Đặc biệt với các nhân vật   như Thu Thuỷ, Phương Liên vừa là tình bạn, vừa   là tình yêu. Ở Thu Thuỷ tình yêu nhiều hơn, còn ở  Phương   Liên   tình   bạn   nhiều   hơn.   Biết   bao   thô  kệch, ngây thơ  của tuổi học trò, biết bao duyên  dáng, dí dỏm, giận hờn, khổ  đau, ghen tuông toát  ra từ những mối tình “ Già trẻ con, non người lớn   ” của một thời cắp sách. Trong đó ngòi bút tả tình  đầy năng lực của tác giả  đã tỏ  rõ  ở  những trang  nói về  ba người tình  ở  đền Hùng, đến với giếng  thờ  hai người  con gái tuyệt sắc của Hùng Duệ  Vương, hay những trang viết về  cuộc tiễn đưa  ở  bến xe thị  xã Sơn Tây, Việc Phương  Liên đến  10
  11. thăm tác giả khi mới vừa nhập ngũ, và cuộc hạnh  ngộ  với Phương Liên lần cuối  ở  bến đợi xe dốc  Phùng huyện Đan Phượng…Thật là hấp dẫn, thật  là thương buồn. Các bản tình ca dang dở mà diễm  lệ  đó lại được điểm xuyết thêm một bản tình ca   dang dở nữa trên con đường quân ngũ tại xã Diễm   Sơn huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh của tác giả  với o Miên. Nghệ  thuật tả  tình ( Kể  cả  tả  việc   làm tình ) cũng chân thật, tự  nhiên, vừa sôi sục,  vừa sâu lắng của anh. Thể hiện ở đây câu thơ nổi  tiếng của Hồ  Zếnh hẳn là có thể  vận dụng vào  những mối tình xi mê ngày ấy              “ Tình chỉ đẹp nhưng khi còn dang dở”            Câu thơ tuyệt tác ấy, cũng có thể an ủi cho  tác giả  được một phần nào, và cho chính tất cả  những người trong cuộc                                            Tình dừng, bài tựa cũng xin dừng, nhưng   dư âm, hình bóng của nó vẫn như còn văng vẳng,   phảng phất đâu đây, trong đó còn vang vọng tình  bạn. Nó như  đang hồi tưởng về  “ Cái buổi ban   đầu lưu luyến  ấy ” đã và đang hằn sâu mãi mãi  trong ký  ức về  cuộc hạnh ngộ  thủa đầu đời của  ba người bạn thân trong đêm ngủ ( Học trò đi lao  động giúp dân ) tại xã Phương Độ, ngoại thị  xã  Sơn Tây gồm tác giả sách này, tác giả bài tựa này  và anh bạn chí thân Lê Văn Chương ( Tức Lê Văn  Chung ) một nhân vật trong sách. Trong đêm  ấy  11
  12. tác giả  Nguyễn Đức Bảo đã kể  chuyện Tây Du  Ký nói về những mưu ma chước quỷ của bọn đội  lốt người, đâu trâu mặt ngựa yêu tinh             Dù Nguyễn Đức Bảo là người có năng lực  về văn chương, Năng lực ấy đã tỏ rõ ngay ở năng  khiếu hồi anh cùng học với tôi  ở  trường Phùng  Hưng B ( Nay là trường Ngô Quyền ) thị  xã Sơn  Tây. Dù “ Ngã rẽ Đường Đời ” của anh có những  giá trị ( Như trên đã bàn ) nhưng làm sao được, có  thể  còn có những “ Ngã Rẽ  ” bất ngờ  nào khác,  nên hẳn là việc viết lách và nhất là việc in ấn tác  phẩm này cũng gian khổ  như  con đường xa lắc  Tây Du ?                    Tôi rất mong tác phẩm của bạn tôi   sớm được in  ấn, và được nhiều người biết tới  đúng với tâm, với tầm của nó. Xin trân trọng giới  thiệu “ Ngã Rẽ  Đường Đời ” với đông đảo bạn  đọc trong và ngoài nước                     Ngày sáp bước vào xuân Mậu Tuất                                Tiến sĩ Đinh Công Vỹ                          PHẦN THỨ NHẤT TUỔI HOA CÙNG NGÃ RẼ ĐƯỜNG ĐỜI @                                         1 12
  13.           Tiết trời tháng chạp rét lạnh, giá buốt, lại   luôn có từng đợt gió mùa đông bắc, kèm theo là  những cơn mưa phùn ẩm ướt. Đêm nào cũng vậy,  tôi học bài rất khuya, đi ngủ  muộn. Nằm trong  ổ  rơm, đắp tấm chăn chiên phủ  kín chùm đầu, ngủ  say mê mết. Gần sáng, có hôm thì mẹ, hôm thì bà  nội phải đánh thức tôi dậy sửa soạn sách vở, ăn  sáng rồi đi học ngay.           Ở làng cũng có vài ba đứa đi học cùng, song  vì   đường   xa,   đằm   mình   trong   giá   lạnh,   chúng  lười, ngại, nên đã bỏ  học ngay từ đầu mùa đông.  Tôi phải đi một mình, không có bạn, chán  ơi là  chán,   nhưng   cha   tôi   không   cho  phép   lơ   là.   Ông  luôn khuyên – Đời bố  đã khổ, không được học  hành, các anh chị  phải  ở  nhà phụ  giúp cha mẹ.   Con phải cố gắng mà học, có công mài sắt, ắt có  ngày nêm kim con ạ! ­ Nghe lời cha, tôi luôn chăm  chỉ, nhưng cứ  nghĩ đến đoạn đường phải đi học  xa mà hốt.              Làng Hiệp Lực của tôi ở dưới chân núi Ba  Vì,   đất   rộng,   người   thưa.   Từ   xa   xưa   không   có  trường công lập. Trẻ con muốn học chữ, dân làng  phải góp tiền của thuê thầy giáo từ miền suôi lên  dạy. Người  nào cũng chăm chỉ  học chữ, nhưng   khi đã đạt được đến trình độ đọc thông, viết thạo  là thôi, bởi muốn học lên cao thì phải suôi về tận  thị  xã. Người nhà quê, phần lớn phận nghèo, có  13
  14. muốn, cũng đành phải chịu, bởi miếng cơm, manh   áo hàng ngày mới là điều quan trọng                     Gia đình nhà tôi cũng chỉ   ở vào bậc trung,  nhưng cha tôi lại muốn cho con học hành thành  đạt, hơn người, nên ông đã dành hết kỳ vọng vào  đứa con có ý thông minh hơn các anh, các chị. Bởi   vậy tôi mới được cả  gia đình cưng chiều, cho ăn  học, những mong kiếm được một chút vinh danh  cho   quê   hương,   dòng   họ,   nhưng   vì   chiến   tranh  loạn lạc, nên việc học hành của tôi cũng có năm  được, năm bỏ. Mãi sau ngày hoà bình, mới được   đi học lại…Khi đến tuổi trưởng thành, đất nước  loạn ly, lại phải buông bút nghiên để  vào quân  ngũ. Dòng dã gần hai mươi năm gắn kết cuộc đời  binh nghiệp, hứng chịu biết bao gian khổ, hy sinh,   buồn  vui, thiệt   thòi, trắc  trở.  Song  ở  tôi  – cậu  khóa  nhà quê ­ đã làm tròn bổn phận của người   con trai thời loạn…                                * Đường đời của riêng tôi cũng thật mô mấp,  gập ghềnh. Chí muốn vươn cao, mong có một chút  danh thơm thể  hiện với đời. Cố  học thành tài, để  đền đáp công ơn cha mẹ, bởi vậy dù có ở vùng núi  xa xôi, lắt lẻo đường đi lối lại, một thiếu niên nhà  quê như  tôi vẫn cơm nắn, gạo đùm, sớm khuya  chuyên tâm việc học. Vào đầu những năm đất nước hòa bình,  ở  quê không có cấp hai, nên lần đầu tiên, tôi phải ra   14
  15. theo   học   ở   thị   xã   Sơn   Tây.   (   Trường   tư   thục   Nguyễn Du. Sau này sát nhập với trường Phùng  Hưng B, thành trường cấp 2 Ngô Quyền. Phùng  Hưng A, là trường công lập )   Đường  từ  quê ra thị  xã chừng mười bốn,  mười lăm cây số, phải đi bộ. Thời gian đầu, chưa  tìm được nhà trọ, tôi cứ  phải lẽo đẽo đi về  trong  ngày. Không biết bà và mẹ  dậy nấu cơm từ  lúc   nào, nhưng cứ vào cữ gà gáy canh cuối, ( ngày ấy  ở nông thôn không nhà nào có đồng hồ) lại gọi con  dậy ăn cơm, rồi chuẩn bị sách vở  đi ngay. Những   hôm sáng trăng thì nhìn rõ mặt đường, còn những  hôm khác, trời chỉ  sáng nhờ  nhờ, tôi cứ  bập bõm,  lặng lẽ đi trong đêm vắng. Cũng sợ, nên phải thủ  sẵn   cây   gậy   cầm   tay.   Nhiều   hôm   gặp   cáo   cầy  chạy ngang qua đường, bất chợt, giật nảy mình,  lặng đi vì hoảng hốt, nhưng sau một vài lần như  vậy, mãi cũng nên quen .   Các   bạn!.....Một   cậu   bé   nhà   quê   mới   hơn  mười tuổi, chưa hẳn là người lớn ­ cứ  mải miết  một mình đi trong đêm vắng, lo sợ lắm chứ, nhưng  vì việc học, nên phải quyết tâm vượt qua mọi thử  thách cho bản thân mình. Nghĩ lại,  ước muốn học  để  thành tài cũng đâu có dễ. Để  ngơ  đi, cứ  phái  luôn miệng lẩm nhẩm ôn lại bài học thuộc lòng để  quên đi quãng đường xa vắng,  chưa có một bóng  dáng người nào qua lại.  15
  16. Ra đến ngã ba làng Mỗ, mới nghe đài tiếng  nói Việt Nam, mở  nhạc và hô bài tập thể  dục … một…hai…Đi tiếp đến cống Ba Quân (bên ngoài  lề  đường, sát sân vận động, nước cống trong hào  chảy thẳng ra lòng sông Tích ). Tôi giả  vờ  xuống   hào khoắng nước rửa chân, nhưng thực tình là để  cất giấu cây gậy và đôi dép quai ngang, treo ép mé  trên thành cống (dép được làm bằng da trâu, hoặc  lốp xe đạp phế  thải cắt ra, có một quai ôm gọn   lấy mu bàn chân và một khuy để  lồng, cài vào  ngón trỏ. Dép này của các bà, các chị  mua đeo để  đi chợ. Đàn ông con trai ít khi dùng đến. Dép này  tôi   mượn   của   mẹ   để   đi   đường   xa   cho   đỡ   đău  chân. Nó giống hệt dép mo nang của trẻ  con nhà  quê đeo nghịch)…             Các bạn trẻ  !...Đọc đến đây, hẳn có bạn  cho   rằng   tôi   đang   kể   chuyện   tiếu   lâm,   nhưng  đúng là như  vậy. Vào những năm sau giải phóng  khỏi ách đô hộ  của thực dân Pháp. Nhà nước ta   đang có chủ  trương – hàn gắn vết thương chiến  tranh và phục hồi kinh tế    ­ nên cả  nhà nước và  người dân ta còn nghèo quá lắm.   Ngày nay các  bạn đi học, có đầy đủ  quần áo đẹp, dày nọ, dép  kia.   Một   bước   đi,   cũng   dùng   xe   máy,   xe   đạp.  Nhưng ở thời buổi ấy, con em học sinh nhà nghèo  ở  thị  xã và đa phần  ở  các vùng   nông thôn, cắp  sách đến trường, cũng chỉ  có quần nâu  áo vải –  có khi còn mặc cả  quần  áo vá. Hàng ngày đều  16
  17. phải cuốc bộ và đi chân không, chân đất, mà vẫn  chuyên cần học tập không mảy may đòi hỏi. Tự  mình cũng phải thích nghi, rèn luyện cho quen            Cứ  như  vậy, tôi phải dài chân đi bộ  mất   hơn một năm, sau đó dò hỏi và được trọ học cùng  các bạn quê ở  vùng xuôi. Hàng tuần mới phải về  gia  đình  một  lượt.   Ngày  trước   đi  bộ  hàng   đêm  thấy sợ, nay  được  đi ban ngày cũng chẳng yên  tâm. Bởi có nhiều đoạn đường vắng vẻ hoang sơ.   Nhất là đoạn từ  nông trường Việt Phi đến miếu  Ba Cô, giáp với làng Mỗ Cả một quãng đường dài thỉnh thoảng mới có  một ngôi quán lợp gianh, bán kẹo nước cho khách  qua đường, nhưng cũng chỉ ngồi có nửa ngày, còn  khách vắng, nên buổi chiều thường là nghỉ. Quãng   đường   dài   mênh   mông,   toàn   là   đồi  hoang. Duy nhất một thứ cỏ lông mọc xen với cây  sim, cây muôm um tùm, vắng teo, vắng ngắt. Đứng trên cao, nhìn con đường ngoằn nghèo,  lên xuống, đỏ quạch giữa đồi hoang. Đi bộ thì leo   dốc mỏi chân, đi xe đạp hầu như phải dắt bộ, đố  ai dám bạo phổi mà lao xuống mấy con dốc thăm   thẳm đầy “ổ  gà, ô trâu”. Sáng và chi ̉ ều chỉ  có hai  chuyến ô tô khách vừa đi, vừa về. Đường vắng,  không   có   cây   to,   không   có   nhà   ở,   vậy   nên   vào   những buổi trưa thanh vắng, hoặc chiều tối nhá  nhem,   không   ai   dám   đi   qua   cầu   Đá   Bạc,   phần  vắng vẻ hoang sơ, phần lo gặp cướp đường. 17
  18.           Là học trò, chẳng có gì để  mất, song  tôi   cũng sợ, tránh trước là hơn, mỗi lần ra tỉnh học,   có đem theo hai đon củi nhỏ, một bọc gạo và lọ  muối vừng. Đi qua các làng Xuân Khanh, Văn khê,  Nhân lý, qua thôn Vân Gia để  vào Thị  xã. Đường  quanh co, nhưng được đi trong làng nên cũng yên  tâm.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                    *   So với các bạn cùng trang lứa, tôi không                          được bằng người. Đương thì, nhưng mảnh mai  như  con gái.Tính hiền, ít nói, học chăm, vẽ  đẹp,  có năng khiếu học văn, hầu như bài văn nào chấm   xong cũng được thầy giáo đọc bình trước lớp. Ở  lớp, tôi chơi thân với nhiều bạn, nhưng  thân   hơn   cả   là   Đinh   Công   Kỷ   giỏi   sử,   Lê   văn  Chương giỏi Toán, và Nguyễn hữu Đang rất giỏi  trung   văn.   Cả   ba   thường   bổ   xung   văn   bài   cho  nhau, chẳng mấy khi xa vắng trong ngày. Hồi  ấy, bọn bạn trong lớp giữa trai và gái  như  người khác xứ. Dè dặt, lạnh lùng. Chả  thế  mà trước  mặt bọn con gái,  thằng trai nào bẻm  mép nhất cũng phải ngậm miệng như  cóc. Trong  lớp,     một   vài   đứa   đã   có   vợ   và   có   con.   Thằng  Hưởng   ở  Sơn  Đông  có  một  con, thằng Dĩnh  ở  Vĩnh Tường   Vĩnh Phúc  – bên  kia sông  ­   có vợ  chưa có con, mỗi lần mang gạo sang cho chồng ăn  18
  19. học, cậu chàng  đều phải nói dối “ Nó là em gái  tớ ” Bọn con trai, con gái trong lớp, chúng nhu mì  như bụt cả. Các thầy cô nhìn lướt qua “mặt bằng  dân sự” thật hết chê. Nhưng cái “ mặt bằng dân  sự”  ấy nó chỉ  được nửa năm đầu, càng về  cuối  năm học nó càng lúng liếng như  mặt nước trong  hồ, mà đã là hồ  thì hồ  nào chả  có sóng. Nhỏ  thì  lăn tăn, to thì vỗ  ì oạp, có phẳng lặng được bao  giờ, với lại, trâu bò  ở  với nhau lâu ngày lạ  cũng  nên quen, huống hồ  đây lại là con người. Các cô  tú, cậu tú ở vào cái tuổi trăng náu, trăng tròn, trăng  xế, bảo chúng phải làm phật sống với nhau, thì e   rất chi là huyền thoại.  Bản tính tôi hiền lành nhút nhát, nhưng khéo  tay  hay   làm.   Các   bạn  ở   lớp   ai   cũng   cảm  mến.  Trong giao tiếp tôi luôn nói nhẹ, đi khẽ không làm  mất lòng ai, kể  cả Long gàn, một thằng bạn đầu   bò nhất lớp, khi gặp, nói chuyện   cũng tỏ  ra dư  thừa lịch sự. Bọn con gái tuổi sàn sàn như nhau, út nhất là  Phương Liên mười sáu tuổi rưỡi, nhiều nhất là  nàng Tuất đen mười tám tuổi, sở  dĩ có tên đen vì  cô nàng vừa to cao, vừa sứt một chiếc răng cửa,   vừa đen, lại vừa nói ngọng nên thường bị bọn con  trai tròng dai. Nhớ  ngày còn học  ở  cấp hai. Lúc  bấy giờ cả thị xã  và các công sở ­ nơi nào có điều  19
  20. kiện đều tổ chức học nhảy “van” ­ hay còn gọi là   “ vũ điệu quốc tế ” Trong nhà trường  ở  lứa tuổi thanh niên ( từ  mười lăm ) đều phải đi tập. Mỗi tuần học một   buổi, địa điểm học tại nhà hát thị  xã. Hướng dẫn   là các thầy cô giáo của trường và một cố vấn của  thị Đoàn. Buổi đầu tiên đi tập nhảy, thầy Ninh ­ giáo  viên văn thể  của trường ­ cho nam nữ  tập riêng.  Khi   thấy   đạt   yêu  cầu   mới   ghép   từng   đôi  nhảy  chung. Xem ra cũng chẳng có gì khó cả. Từng đôi   xếp thành hàng. Tay nắm chặt tay. Nam tay phải,  nữ tay trái giơ cao ngang vai. Tay phải nữ đặt trên  vai trái nam, còn tay trái nam đặt nhẹ eo phải bạn  gái. Nhạc hiệu bằng trống và mồm. Thầy Ninh tay gõ nhịp trống ­ Thùm, chát,  chát, chát, thùm, chát, chát, chát ­ có lúc lại đếm  một…hai...ba...bốn này. Nhưng mà…mặc thầy gõ  trống mỏi tay, la khản cả  cổ, còn lũ trò yêu của  thầy hình như  điếc cả, chúng có đi đúng đường  đúng lối chi mô. Bời vì: Trời  ạ! Cho nhảy riêng   thì điệu đàng, còn nhảy chung từng đôi nam nữ  như vầy thì ngượng quá đi thôi. Hai đứa đứng sát  bên nhau, nhưng có ai dám dòm mặt ai đâu. Thằng  trai   thì   đếm   ngói   trên   mái,   còn   đứa   gái   lại   tìm   người quen ngoài phố. Mặt cô, mặt cậu nào cũng  chín đỏ  như  tôm luộc, thẹn  ơi là thẹn. Thẹn đến  lạnh toát cả người, song có lúc cũng no cười, tức   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2