
Nghệ thuật hình khối dân gian
Việt Nam
Nghệ thuật hình khối là thuật ngữ chúng tôi dùng để chỉ hai loại hình nghệ thuật có
liên quan mật thiết với nhau là hội họa (hình) và điêu khắc (khối).
Vài nét về nghệ thuật Hình Khối Việt NamChất liệu cổ xưa nhất của các loại hình
nghệ thuật hình khối là đá. Tác phẩm xưa nhất trên đá đã tìm được là bức tranh khắc hình
ba đầu người trên vách đá ở hang Đồng Nội (Hòa Bình) có niên đại vào khoảng 1 vạn
năm tr.CN. Trong thung lũng Sapa (Lào Cai) từng phát hiện được cả một rừng đá (159
hòn lớn nhỏ) có khắc hình người, muông thú, chữ cổ, bản đồ,…Từ những hình khắc thô
sơ, nghệ thuật chạm khắc đá Việt Nam đã đi những bước vững chắc để đạt đến những tác
phẩm chạm khắc đá nổi tiếng như pho tượng đức Phật Adiđà bằng đá cao gần 2 mét ở
chùa Phật Tích (Hà Bắc) tạc vào thời Lí hoặc như nghệ thuật chạm đá của người
Chàm.Việt Nam nói riêng và Đông Nam á nói chung là một trong những nơi có đồ gốm
xuất hiện sớm nhất thế giới. Cách đây 1 vạn năm ở Việt Nam đã ra đời loại gốm đất nung
tìm thấy ở Hòa Bình và nhiều nơi khác. Từ đất nung đến đồ sành, sứ…; từ gốm mộc đến
gốm tráng men các màu (men trắng ngà, men hoa nâu, men lam, men ngọc,…), nghệ
thuật gốm Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài. Nhiều quốc gia châu Á, châu âu,
đặc biệt là Nhật Bản và Đông Nam Á đã từng nhập khẩu đồ gốm Việt Nam với số lượng
lớn. Có loại gốm men mà người Nhật Bản xưa gọi là ” Hồng An Nam” rất được ưa dùng
trong nghệ thuật trà đạo. Theo cuốn Đồ gốm Nhật Bản (La céramique Japonaise) của o-
neda Tokomosouke (Paris, 1873) thì trong khoảng thế kỉ XVI-XIX, ở Nhật Bản có nhiều
thợ gốm giỏi đã bắt chước làm theo đồ gốm cổ Việt Nam mà họ gọi là Kochi (gốm Giao
Chỉ). Ngay từ buổi đầu thời vua Hùng dựng nước, khoảng 1.500 năm tr.CN, tổ tiên ta đã
chế được hợp kim đồng thau.

Từ vật liệu kim loại, tổ tiên ta sáng tác ra vô số những tác phẩm chạm khắc tinh tế
trên trống đồng, thạp đồng, các pho tượng đồng quý giá và nhiều vật dụng bằng đồng
khác…Từ vật liệu gỗ, tuy phần nhiều đã bị hủy hoại, lịch sử vẫn còn nhắc đến những pho
tượng Tứ Pháp tạc bằng gỗ dâu vào đầu CN, vẫn còn giữ được những pho tượng gỗ kiệt
xuất như tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay chùa Bút Tháp (Hà Bắc) tạc năm 1656; 18
pho tượng La-hán chùa Tây Phương tạc vào thế kỉ XVlll, mỗi người một vẻ, một số phận,
một tính cách, một nội tâm , . . .Trên gỗ, sừng, .. . người Việt Nam có nghề khảm trai, xà
cừ tạo nên những tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Vỏ ốc xà cừ, vỏ trai thay đổi màu sắc lấp
lánh theo vị trí của người đứng xem, dường như có trăm kính tam lăng phát ra đủ sắc cầu
vồng tạo nên muôn hồng ngàn tía.Đặc biệt, Việt Nam có thể loại tranh sơn mài rất được
thế giới ưa chuộng. Nghề sơn ở nước ta đã có từ hàng trăm năm tr.CN , trong các di chỉ
khảo cổ tìm thấy nhiều đồ nghề làm sơn và những sản phẩm sơn. Ta cũng còn giữ được
khá nhiều tác phẩm nghệ thuật thời Lí-Trần được sơn son thếp vàng như các pho tượng,
các đồ thờ, hoành phi, câu đối,. .. Theo kĩ thuật cổ truyền, trong việc sơn son thếp vàng
các đồ thờ thì từ nước sơn này qua nước sơn khác đều phải qua khâu mài để cho mặt sơn
được phẳng trơn, nhẵn nhụi. Từ năm 1928, sinh viên Trường Mỹ thuật Đông Dương đã
vận dụng kĩ thuật này để vẽ tranh và tìm tòi làm tăng bảng màu. Tên gọi “tranh sơn mài”
ra đời từ đấy. Tranh sơn mài tạo nên những hình khối nổi sinh động, với không gian sâu
thẳm và những màu sắc đằm thắm hòa quyện vào nhau, vừa lộng lẫy kiêu sa lại vừa thâm
trầm trang nhã. Tranh sơn mài phản ánh cái thần của văn hóa Việt Nam, thích hợp với
những đề tài tĩnh, âm tính, đặc biệt là thể loại phong cảnh.Tranh lụa cũng là một thể loại
độc đáo và lâu đời của nghệ thuật hội họa Việt Nam. Do chất liệu dễ bị hủy hoại nên
tranh lụa thời xưa chỉ còn lại vài bức như Chân dung Nguyễn Trãi, Chân dung Phùng
Khắc Khoan, . . . Trên chất liệu vải lụa cổ truyền mỏng và đều sợi, mịn và óng ả, người
nghệ sĩ vừa đặt nét bút vào, màu mực đã loang nhẹ ra xung quanh, tạo nên những đường
nét mờ ảo, thanh thoát, tươi mát và êm dịu… Giống như tranh sơn mài, tranh lụa cũng
phản ánh chính xác cái thần của văn hóa Việt Nam, rất thích hợp cho những đề tài tĩnh,
âm tính, đặc biệt là các thể loại phong cảnh và phu nữ (cảnh nông thôn, hoa lá, thiếu nữ,
bà mẹ, trẻ em, v.v.).Chất liệu giấy là nhanh bị hủy hoại hơn cả. Vào tk.III, người Việt

Nam đã chế tạo được những loại giấy đặc biệt như giấy mật hương làm từ gỗ trầm mà lái
buôn La-mã đã mua mang đi hàng vạn tờ, nghĩa là chậm nhất là vào thời đó đã có nghệ
thuật viết, vẽ trên giấy rồi. Sử sách ghi rằng vào thời Lí, tranh vẽ về đề tài Phật giáo rất
nhiều, riêng năm 1040 đã có tới hàng nghìn bức. Năm 1936, nhà Hồ phát hành tiền giấy
với số lượng nhiều, kĩ thuật vẽ và in tinh tế, chính xác; ấy vậy mà vẫn có người như
Nguyễn Nhữ Các trốn vào núi Thiết Sơn để in giấy bạc giả. Từ đó về sau, tranh vẽ trẽn
giấy ngày càng phát triển.
Trong những dòng tranh giấy mà cho đến giờ còn lưu truyền thì nổi tiếng nhất là tranh
dân gian Đông Hồ với phong cách dân dã và tranh dân gian Hàng Trống với phong cách
đô thị tinh tế. Về mặt kĩ thuật, những tranh này được sáng tác theo phương pháp khắc gỗ
màu với những chất liệu của đồng quê: trên nền giấy dó, bức tranh mang màu đỏ của đất
son, gỗ vang; màu đen của than tre, than rơm; màu vàng của hoa hòe; màu xanh của
chàm; màu lục của rỉ đồng; màu trắng của vỏ sò, vỏ trai,…Tranh sơn dầu là thể loại mới
xuất hiện, sản phẩm của quá trình giao lưu với phương Tây. Với loạI hình mới này, ngay
từ buổi đầu, các nghệ sĩ Việt Nam đã tạo nên nhiều bức sơn dầu tuyệt tác như Thiếu nữ
bên hoa huệ (l943) của Tô Ngọc Vân, Em Thúy (1943) của Trần Văn Cẩn…
2. Tính biểu trưng của nghệ thuật hình khối Việt Nam
Giống như nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật thanh sắc và hình khối Việt Nam cũng có
tính biểu trưng như một nét dặc thù tiêu biểu nhất : Mục đích của nghệ thuật ở đây là
thông qua những biểu tượng để nhằm diễn đạt nội dung chứ không phải hình thức, cái cốt
lõi chứ không phải các chi tiết phụ trợ. Điều này khác hẳn với truyền thống nghệ thuật
phương Tây đi theo con đường tả thực. Trong nghệ thuật hình khối thì chủ nghĩa tự nhiên
(naturalisme) thống trị ở phương Tây : Ngay cả những đề tài tưởng tượng như thiên thần
bay lượn, Thiên chúa giáng trần, v.v. người ta cũng vẽ một cách rất thực .
Trong NGHỆ THUẬT HÌNH KHỐI, biện pháp đơn giản nhất để thể hiện tính biểu
trưng là nhấn mạnh. Đồng thời với nhấn mạnh là giảm thiểu và lược bỏ. Nhấn mạnh cái
này thì giảm thiểu và lược bỏ cái kia.Nghệ thuật hình khối Việt Nam chú trọng diễn tả
nội tâm, tình cảm nhân vật, do vậy mà sơ sài, giản lược về mặt hình thức; nếu dựa vào đó

để đánh giá trình độ nghệ thuật của tác giả thì sẽ sai lầm. Chẳng hạn, hình người trong
bức trai gái đùa vui ở đình Hương Lộc (Nam Hà, tk. XVII) được chạm bằng những nhát
đục to, thô, tạo nên những mảng, khối; nhưng những hình hoa lá trang trí trên cây cột
phía sau lại hết sức tinh tế. Hơn thế nữa, chính những nhát đục thô sơ ấy lại tạo nên bốn
nhân vật với bốn thế giới nội tâm khác hẳn nhau. Chàng trai ngồi ở trung tâm đang ôm
bạn gái trong lòng và rụt rè luồn tay phải vào yếm bạn, gương mặt si tình nở một nụ cười
ngượng ngập của người con trai đang cố tỏ ra bạo dạn. Nụ cười trên mặt cô gái còn rụt rè
tội nghiệp hơn, trong lòng cô đang diễn ra một cuộc đấu tranh tư tưởng, sự giằng xé ấy
thể hiện ngay nơi cánh tay phải với một động tác ngập ngừng, vừa như muốn hất tay bạn
ra, lại vừa như muốn níu giữ lại. Người bạn gái ngồi phía bên trái còn lúng túng khó xử
hơn : là con gái, có thẹn thùng quay người đi và bất giác đưa tay che mặt, nhưng thực ra
cô lại rất muốn nhìn, bởi vậy mà người thì quay đi nhưng mặt thì quay lại và tay che mặt
ở phía không cần che. Người bạn trai ngồi bên phải thì, với tính cách bạo dạn phóng
khoáng của đàn ông, anh ta khoái chí cười ngả cười nghiêng, hở rốn hở răng, tay chỉ vào
hai bạn… Mỗi người một vẻ, tạo nên những thế đối lập phản ánh rất chính xác tâm lí
nhân vật: đối lập nam – nữ, người trong cuộc – người ngoài cuộc…Nghệ thuật hình khối
Việt Nam chú trọng làm nổi bật trọng tâm của đề tài với sự đầy đủ , trọn vẹn của nó , bất
chấp yêu cầu về tính hợp lý của hiện thực – cái mà hội hoạ châu âu gọi là góc nhìn, là
luật viễn thị. Trên trống đồng, hình chim bay ngang được vẽ với đôi cánh giang theo
phương thẳng đứng như nhìn từ trên xuống. Trên bức chạm gỗ Đánh cờ ở đình Liên Hiệp
(Hà Tây, tk. XVII), để thể hiện đầy đủ sự gay cấn của ván cờ lúc tàn cuộc, nghệ nhân đã
sử dụng cả góc nhìn ngang lẫn góc nhìn từ trên xuống. Trên trống đồng, hình nhà nhìn từ
bên ngoài được vẽ với đầy đủ người ngồi đánh trống, giã gạo ở trong. Thủ pháp “nhìn
xuyên vật thể” (chiếu X-quang) này ta cũng thấy trên bức chạm gỗ Chèo thuyền ở đình
Phủ Lưu (Hà Bắc, đầu tk.XVll) : Nhìn con thuyền từ bên ngoài, ta thấy cả người cầm lái
và chân của những người chèo thuyền lẽ ra bị che khuất trong lòng thuyền.Nghệ thuật
hình khối Việt Nam còn chú trọng làm nổi bật nhân vật trung tâm hoặc phân biệt vị trí xã
hội bằng cách phóng to hoặc thu nhỏ kích thước của chúng. Trên bức tranh Đám cưới
chuột, con mèo (đại diện cho tầng lớp thống trị) được phóng to, con ngựa (vật cưỡi của

con chuột) được thu nhỏ, thành ra con mèo to hơn con ngựa nhiều lần. Việc phóng to –
thu nhỏ không chỉ áp dụng trong việc xử lí các các nhân vật mà còn áp dụng đối với cả
các bộ phận của nhân vật. Bức chạm gỗ Tiên cưỡi hạc ở đền Hai Bà Trưng (Vĩnh Phú) đã
khắc khuôn mặt và đôi cánh cô tiên to rõ (tiên phải đẹp và có cánh) còn thân mình chân
tay thì thu nhỏ lại.
Không chỉ dừng ở mức thu nhỏ, nghệ thuật hình khối Việt Nam còn áp dụng thủ
pháp lược bỏ. Trên các tác phẩm hội họa, điêu khắc, từ truyền thống Đông Sơn cho đến
sau này, không bao giờ có chi tiết thừa. Cảnh Đánh vật trên bức tranh dân gian Đông Hồ
chỉ có hai chi tiết duy nhất cần thiết để tạo nên không khí hội hè là hai tràng pháo, ngoài
ra không có cỏ cây, hoa lá, không có cả người xem (hai đô vật ngồi chờ lượt kiêm luôn
chức năng người xem). Trên bức chạm Trai gái đùa vui ở đình Hương Lộc (Hà Tây, tk.
XVIl), việc lược bỏ còn áp dụng cho cả các bộ phận của cơ thể con người : Những bộ
phận cơ thể không cần thiết cho chủ đề như mình, chân và tay trái của chàng trai đã bị
lược bỏ đi hoàn toàn !Để đạt mục đích gợi nhiều hơn tả của tính biểu trưng, nghệ thuật
hình khối Việt Nam, giống như nghệ thuật thanh sắc, cũng sử dụng thủ pháp mô hình
hoá. Trong bức tranh Đánh vật vừa nhắc, ba đôi vật với những nét vẽ sơ sài – thủ pháp
quen thuộc của bút pháp biểu trưng – được khoanh gọn trong ba hình hình học rất cơ bản
: hình tam giác (trên), hình thang (dưới phía trái), và hình bán nguyệt (dưới phía phải).
Trước mắt ta là một sự hòa hợp tuyệt vời của cái động (vật nhau) trong thế tĩnh của ba
hình hình học với những cạnh đáy vững vàng nhằm nói lên sự ngang sức ngang tài của
các chàng trai.
Rất phổ biến là các mô hình trang trí mang tính triết lý sâu sắc. Bộ Tứ LINH với
Long (rồng) biểu trưng cho uy lực, cho nam tính; li (long mã) hoặc lân (kì lân, một con
vật tưởng tượng đầu sư tử rất hiền lành, ăn cỏ, không hề làm hại một sinh vật nào) biểu
trưng cho ước vọng thái bình, quy (rùa) biểu tượng cho sự sống lâu và phượng (phụng)
biểu tượng cho nữ tính. Cặp rồng-phượng biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi.Đồ án trang
trí RồNG phổ biến đến mức nó phản ánh những đặc trưng của từng thời đại. Rồng thời

