BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
LÊ THỊ PHƯƠNG THẢO
NGHIÊN CỨU MỨC ĐỘ NHIỄM AFLATOXIN VÀ ĐỀ XUẤT
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CÔNG NGHỆ BẢO QUẢN LẠC
SAU THU HOẠCH Ở CÁC TỈNH MIỀN TRUNG VÀ BẮC
VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CÔNG NGHỆ SAU THU HOẠCH
Hà Nội - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
LÊ THỊ PHƯƠNG THẢO
NGHIÊN CỨU MỨC ĐỘ NHIỄM AFLATOXIN VÀ ĐỀ XUẤT
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CÔNG NGHỆ BẢO QUẢN LẠC
SAU THU HOẠCH Ở CÁC TỈNH MIỀN TRUNG VÀ BẮC
VIỆT NAM
Ngành: Công nghệ sau thu hoạch
Mã số: 9540104
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CÔNG NGHỆ SAU THU HOẠCH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS. TS. HÀ DUYÊN TƯ
2. PGS. TS. PHẠM XUÂN ĐÀ
Hà Nội - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu bởi bản thân tôi
dưới sự hướng dẫn của tập thể hướng dẫn. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm
Thay mặt tập thể giáo viên hướng dẫn Tác giả luận án
i
PGS. TS Phạm Xuân Đà Lê Thị Phương Thảo
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội, Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia đã
giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận án.
Tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến các giáo viên hướng
dẫn khoa học: GS. TS. Hà Duyên Tư - nguyên phó hiệu trưởng trường Đại học
Bách Khoa Hà Nội và PGS. TS. Phạm Xuân Đà - Cục trưởng Cục công tác phía
Nam; Các thầy cô: PGS. TS. Lê Thanh Mai, PGS. TS. Nguyễn Thị Xuân Sâm,
PGS. TS. Nguyễn Thị Minh Tú, TS. Vũ Hồng Sơn đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ, động viên tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn tốt
nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy/Cô Bộ môn Quản lý chất lượng, các
thầy cô Viện Công nghệ Sinh học - Thực phẩm đã đóng góp ý kiến và hướng
dẫn tôi, các cán bộ phụ trách đào tạo - Viện đào tạo sau đại học - Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi hoàn thành mọi
thủ tục cần thiết trong quá trình làm nghiên cứu sinh.
Tôi trân trọng cảm ơn PGS.TS. Lê Thị Hồng Hảo và các đồng nghiệp
công tác tại Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia đã giúp đỡ
tôi trong quá trình thu thập dữ liệu, cung cấp tài liệu cần thiết cho luận án, cũng
như có những ý kiến đóng góp quý báu trong quá trình nghiên cứu.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến PGS. TS. Phạm Anh Tuấn - Viện
trưởng Viện Cơ điện Nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch đã tận tình giúp
đỡ tôi về chuyên môn trong quá trình nghiên cứu.
Tôi rất biết ơn những người thân trong gia đình đã quan tâm và tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi học tập và nghiên cứu.
Quá trình thực hiện luận án còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong nhận được
sự góp ý của Quý Thầy/Cô để bản thân có thể khắc phục những hạn chế và hoàn chỉnh luận án, đóng góp tích cực cho ngành.
Trân trọng cảm ơn!
ii
Tác giả luận án
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ ii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ..................................... ix
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................... xii
DANH MỤC HÌNH ẢNH, ĐỒ THỊ ............................................................ xiv
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Đặt vấn đề ............................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 2
3. Nội dung nghiên cứu .............................................................................................. 2
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................................ 2
4.1. Ý nghĩa khoa học .................................................................................................................2
4.2. Ý nghĩa thực tiễn ..................................................................................................................3
5. Những đóng góp mới của luận án........................................................................... 3
6. Cấu trúc của luận án ............................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN .......................................................................... 5
1.1. Cây lạc ................................................................................................................. 5
1.1.1. Giới thiệu chung về cây lạc ..............................................................................................5
1.1.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ lạc trên thế giới và Việt Nam.........................................7
1.1.3. Quy định về mức nhiễm nấm mốc và aflatoxin trong lạc ........................................... 11
1.2. Aflatoxin ............................................................................................................ 12
1.2.1. Tính chất hóa lý của aflatoxin ....................................................................................... 12
1.2.2. Ảnh hưởng của aflatoxin đối với sức khỏe .................................................................. 13
iii
1.2.3. Các phương pháp lấy mẫu, phương pháp phân tích aflatoxin .................................... 15
1.2.4. Tình hình nhiễm aflatoxin trên lạc ................................................................................ 17
1.3. Aspergillus trên lạc ............................................................................................ 19
1.3.1. Tình hình nhiễm nấm mốc trên lạc ............................................................................... 19
1.3.2. Aspergillus flavus .......................................................................................................... 21
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh aflatoxin của A. flavus ........... 23
1.4.1. Ảnh hưởng của độ ẩm và hoạt độ nước ....................................................................... 24
1.4.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ ................................................................................................ 28
1.4.3. Ảnh hưởng của nấm mốc đến chất lượng lạc trong quá trình bảo quản .................... 29
1.4.4. Ảnh hưởng của tinh dầu tới sự phát triển và sinh aflatoxin của Aspergillus flavus .. 30
1.4.5. Ảnh hưởng của môi trường không khí đến chất lượng lạc trong quá trình bảo quản 33
1.5. Các biện pháp kiểm soát aflatoxin nhiễm trong lạc và nông sản khô sau thu hoạch
trên thế giới và Việt Nam ......................................................................................... 35
1.5.1. Kiểm soát chất lượng sau thu hoạch và trong quá trình bảo quản .............................. 35
1.5.2. Đóng gói điều biến khí quyển ....................................................................................... 38
1.5.3. Các loại bao bì dùng trong bảo quản lạc ...................................................................... 40
1.5.4. Bảo quản hoặc giảm nhiễm aflatoxin bằng phương pháp hóa học ............................ 41
CHƯƠNG 2. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 43
2.1. Nguyên vật liệu nghiên cứu ............................................................................... 43
2.1.1. Nguyên vật liệu .............................................................................................................. 43
2.1.2. Hóa chất sử dụng ........................................................................................................... 43
2.1.3. Thiết bị sử dụng chính ................................................................................................... 43
2.1.4. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ................................................................................ 44
2.2. Phương pháp lấy mẫu ........................................................................................ 45
2.3. Phương pháp phân tích hóa lý ........................................................................... 45
iv
2.3.1. Xác định độ ẩm .............................................................................................................. 45
2.3.2. Xác định hàm lượng aflatoxin ...................................................................................... 47
2.3.3. Đánh giá về mặt cảm quan của các mẫu lạc thu thập mùa thu năm 2013 ................. 50
2.4. Phương pháp phân tích sinh học ........................................................................ 51
2.4.1. Xác định tổng số bào tử nấm men - mốc ..................................................................... 51
2.4.2. Phân lập nấm mốc sinh độc tố từ lạc ............................................................................ 52
2.4.3. Định danh nấm mốc Aspergillus flavus ....................................................................... 52
2.4.3. Chuẩn bị dịch bào tử Aspergillus flavus với hàm lượng khác nhau ........................... 54
2.5. Đánh giá mức độ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc ..................................... 55
2.5.1. Đánh giá trên lạc nhân, lạc củ và lạc rang húng lìu thu thập tại Bắc Giang, Thanh
Hóa và Nghệ An vào mùa hè .................................................................................................. 55
2.5.2. Đánh giá mức nhiễm AF, nấm mốc trên lạc củ và lạc nhân vào mùa thu ................ 55
2.6. Phương pháp công nghệ ................................................................................................... 56
2.6.1. Điều chỉnh độ ẩm của lạc thí nghiệm ........................................................................... 56
2.6.2. Thiết kế thí nghiệm: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh
aflatoxin trên lạc của Aspergillus flavus ................................................................................. 56
2.6.3. Thiết kế thí nghiệm nghiên cứu các giải pháp và đề xuất một số quy trình nhằm giảm
nhiễm aflatoxin trong lạc ......................................................................................................... 62
2.7. Xử lý số liệu....................................................................................................... 63
2.8. Sơ đồ nghiên cứu ............................................................................................... 66
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN ................................................... 67
3.1. Đánh giá mức độ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trên lạc tại Nghệ An, Thanh
Hóa và Bắc Giang ..................................................................................................... 67
3.1.1. Đánh giá mức độ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trên lạc nhân, lạc củ và lạc rang
húng lìu thu thập vào mùa hè .................................................................................................. 67
3.1.2. Đánh giá mức độ nhiễm nấm mốc và AF trong lạc trên địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh
v
Bắc Giang vào mùa thu ........................................................................................................... 75
3.1.3. Phân lập và xác định chủng sinh aflatoxin trên lạc...................................................... 79
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh AF trên lạc của Aspergillus flavus
BG1 ........................................................................................................................... 85
3.2.1. Đánh giá sự thay đổi độ ẩm của các mẫu lạc trong các loại bao bì khác nhau .......... 85
3.2.2. Ảnh hưởng của độ ẩm đến sự phát triển và sinh AF của chủng Aspergillus flavus
BG1 trên lạc .............................................................................................................................. 86
3.2.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển và sinh AF của Aspergillus flavus BG1
trên lạc ....................................................................................................................................... 92
3.2.4. Ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus đến sự sinh AF trên lạc ................................... 96
3.2.5. Ảnh hưởng của điều kiện hút chân không đến sự phát triển và sinh aflatoxin trên lạc
của A. flavus BG1................................................................................................................... 100
3.2.6. Phân tích mối quan hệ của các yếu tố đến sự phát triển và sinh aflatoxin trên lạc của
A. flavus BG1 ......................................................................................................................... 102
3.2.7. Nghiên cứu ảnh hưởng của tinh dầu hồi, quế đến khả năng ức chế sự phát triển của
A. flavus................................................................................................................................... 108
3.3. Khảo nghiệm và đề xuất quy trình bảo quản nhằm tránh nguy cơ nhiễm aflatoxin
trong lạc .................................................................................................................. 117
3.3.1. Khảo nghiệm quy trình bảo quản lạc nhân bằng giải pháp kiểm soát chất lượng trước
khi bảo quản ........................................................................................................................... 117
3.3.2. Quy trình bảo quản lạc bằng đóng gói hút chân không............................................. 120
3.3.3. Quy trình bảo quản lạc nhân bằng cách sử dụng tinh dầu hồi, quế .......................... 123
3.3.4. Đề xuất quy trình bảo quản lạc nhân nhằm giảm nhiễm aflatoxin trong lạc ........... 127
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................. 130
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN................. 132
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 133
vi
PHỤ LỤC 1. KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NHIỄM NẤM MỐC VA ̀
AFLATOXIN TRONG LẠC...................................................................................... 1
1.1. Kết quả phân tích nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc nhân thu thập vào mùa hè tại
các tỉnh Bắc Giang, Thanh Hóa và Nghệ An ............................................................................1
1.2. Kết quả phân tích nấm men-mốc và aflatoxin của lạc củ thu thập vào mùa hè tại các
tỉnh Bắc Giang, Thanh Hóa và Nghệ An ..................................................................................3
1.3. Kết quả phân tích nấm men-mốc và aflatoxin của lạc rang húng lìu thu thập tại các tỉnh
Bắc Giang, Thanh Hóa và Nghệ An ..........................................................................................5
1.4. Tổng hợp tình trạng mẫu, độ ẩm, mức nhiễm nấm mốc và AF trong lạc nhân thu thập
vào mùa thu tại Bắc Giang .........................................................................................................7
1.5. Tổng hợp tình trạng mẫu, độ ẩm, mức nhiễm nấm mốc và aflatoxin của lạc củ thu thập
vào mùa thu tại Bắc Giang .........................................................................................................9
PHỤ LỤC 2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ SINH AF TRÊN LẠC CỦA
A. FLAVUS BG1 ....................................................................................................... 11
2.1. Ảnh hưởng của độ ẩm ...................................................................................................... 11
2.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ ................................................................................................... 12
2.3. Ảnh hưởng của điều kiện hút chân không ...................................................................... 13
2.4. Ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus đến khả năng sinh Aflatoxin trên lạc ................ 14
2.5. Ảnh hưởng của tinh dầu quế đến khả năng phát triển của A. flavus trên đĩa thạch ...... 15
PHỤ LỤC 3. XỬ LÝ SỐ LIỆU ................................................................................ 18
3.1. Phần mềm xử lý số liệu R 3.4.1 ....................................................................................... 18
3.2. Đánh giá mức độ nhiễm nấm men-mốc và Aflatoxin trên lạc....................................... 19
3.2.1. So sánh mức nhiễm nấm men-mốc và Aflatoxin trên lạc nhân giữa các tỉnh Nghệ
An, Thanh Hóa và Bắc Giang ................................................................................................. 19
3.2.2. So sánh mức nhiễm nấm men-mốc và Aflatoxin trên lạc củ giữa các tỉnh Nghệ
vii
An, Thanh Hóa và Bắc Giang ................................................................................................. 20
3.3. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của A. flavus và sinh AF trên lạc 21
3.3.1. Phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng của độ ẩm ............................................... 21
3.3.2. Phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng của nhiệt độ ............................................ 22
3.3.3. Phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus ....................... 23
3.3.4. Phân tích mô hình hồi quy tuyến tính đa biến......................................................... 24
PHỤ LỤC 4. MỘT SỐ SẮC ĐỒ PHÂN TÍCH AFLATOXIN ............................... 26
4.1. Sắc đồ phân tích AF trong nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm ....................................... 26
4.2. Sắc đồ phân tích AF trong nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ .................................... 27
4.3. Sắc đồ phân tích AF trong nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện hút chân không ....... 27
viii
4.4. Sắc đồ phân tích AF trong nghiên cứu ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus BG1 ..... 28
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Chú giải
Ký hiệu, chữ viết tắt Tiếng Việt Tiếng Anh
AF Aflatoxin Aflatoxin
ALARA Thấp ở mức có thể đạt được as low as reasonably achievable
Acetonitrin Acetonitrile AN
Acid deoxyribonucleic ADN
Tiêu chuẩn thông tin Akaike Akaike Information Criterion AIC
AOAC Hiệp hội các nhà hóa phân tích Association of Official Analytical
Chemists
ATCC Bộ sưu tập chủng của Mỹ American Type Culture Collection
Adenosine Triphosphate ATP
Tiêu chuẩn thông tin Bayesian Bayesian Information Criterion BIC
BLAST Công cụ BLAST
Basic Local Alignment Search Tool
Mô hình trung bình Bayes Bayesian Model Average BMA
Bộ Y tế BYT
Cặp điện cực Calliper Electronic CE
Đơn vị khuẩn lạc Colony Forming Unit CFU
Thạch Czapeck Dox Czapek Dox Agar CZA
Dichloran Glycerol Dichloran Glycerol DG
ĐHBKHN Đại học Bách khoa Hà Nội
Bộ phát hiện bắt điện tử Electron Capture Detector ECD
Ethylenediaminetetraacetic acid EDTA
Ethylenediaminetetraacetic acid
immunosorbent ELISA
Hấp thụ miễn dịch liên kết enzyme Enzyme-linked assay
FAO Tổ chức nông lương thế giới Agriculture and
Food Organization
Sự phân cực huỳnh quang Fluorescence Polarization FP
Sắc ký khí Gas Chromatography GC
ix
Liquid Performance HPLC Sắc ký lỏng hiệu năng cao High Chromatography
sodium calcium HSCAS Thuỷ hợp natri canxi nhôm silicat Hydrated aluminosilicate
ITS Vùng đệm trong được sao mã Internal Transcribed Spacer
ISO for
Tổ chức tiêu chuẩn hóa thế giới International Organization Standardization
KEBS Văn phòng tiêu chuẩn Kenya Kenya Bureau of Standards
KPH Không phát hiện
KQĐ Không quy định
LOD Giới hạn phát hiện Limit of Detection
LOQ Giới hạn định lượng Limit of Quantitation
MEA Thạch chiết xuất malt Malt Extract Agar
MeOH Methanol Methanol
MIC Nồng độ ức chế tối thiểu Inhibitory
Minimum Concentration
MIP In dấu phân tử polymer Molecularly Imprinted Polymer
MIR Mid-infrared Giữa hồng ngoại
ML Maximum limit Giới hạn tối đa
MS Mass spectrometry Khối phổ
NAFDAC
Cơ quan hành chính và kiểm soát thuốc và thực phẩm National Agency for Food and Drug Administration and Control
NCBI
Trung tâm thông tin công nghệ sinh học quốc gia National Center for Biotechnology Information
NIR Hồng ngoại gần Near-infrared
OD Optical density Mật độ quang
OPP Oriented Polypropylene
Bao bì màng phức hợp polypropylene
PCR Polymerase Chain Reaction
“Phản ứng chuỗi trùng hợp” hay “phản ứng khuếch đại gen”
PDA Potato Dextrose Agar
Môi trường thạch khoai tây dextrose
PE Polyethylene Polyethylene
PP Polypropylene Polypropylene
PVC Vinylchoride Vinylchoride
x
QCVN Quy chuẩn Việt Nam
QĐ Quyết Định
SDA Thạch Sabouraud Dextrose Sabouraud Dextrose Agar
SĐH Sau Đại Học
SDS Natri dodecyl sulfate Sodium dodecyl sulfate
SPE Chiết pha rắn Solid Phase Extract
RF Quang phổ hồng ngoại Red Fluorescent
TCVN Tiêu Chuẩn Việt Nam
TLC Sắc ký lớp mỏng Thin layer chromatography
USDA Phòng nông nghiệp Hoa kỳ
United States Department of Agriculture
UV Cực tím Ultra Violet
YEP xuất nấm men Yeast Extract Phosphate
Chiết Phosphate
YPD Yeast Extract Peptone Dextrose
xi
Chiết xuất nấm men Peptone Dextrose
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1. 1. Diện tích, sản lượng và lượng tiêu thụ lạc của Việt Nam .............................. 8
Bảng 1. 2. Quy định mức tối đa cho phép nhiễm aflatoxin trong lạc ............................ 12
Bảng 2. 1. Chương trình gradient phân tích aflatoxin .................................................. 47
Bảng 3. 1. Số lượng mẫu nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc nhân ................ 68
Bảng 3. 2. Phân tích so sánh tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc và AF trong lạc nhân ............. 69
Bảng 3. 3. Số mẫu nhiễm nấm men-mốc và AF trong lạc củ ........................................ 70
Bảng 3. 4. Phân tích so sánh tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc và AF trong lạc củ ................. 71
Bảng 3. 5. Số mẫu nhiễm nấm men-mốc và AF trong lạc rang húng lìu ...................... 72
Bảng 3. 6. Phân tích so sánh tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc và AF trong lạc rang ............. 73
Bảng 3. 7. Tỉ số nguy cơ nhiễm AF với tình trạng của mẫu lạc nhân ........................... 76
Bảng 3. 8. Tỉ số nguy cơ nhiễm AF với tình trạng của mẫu lạc củ ............................... 78
Bảng 3. 9. Nồng độ DNA sau khi tách chiết của các chủng.......................................... 82
Bảng 3. 10. Kết quả tìm kiếm trên ngân hàng gen quốc tế............................................ 83
Bảng 3. 11. Khả năng sinh AF của ba chủng phân lập từ lạc ........................................ 84
Bảng 3. 12. Sự thay đổi độ ẩm của mẫu lạc nhân trong các bao bì khác nhau ............. 85
Bảng 3. 13. Ảnh hưởng của độ ẩm đến sự phát triển của A. flavus BG1 và sinh AF.... 86
Bảng 3. 14. Ảnh hưởng nhiệt độ đến sự phát triển của nấm mốc A. flavus BG1 .......... 92
Bảng 3. 15. Ảnh hưởng của lượng nấm mốc đến sự phát triển của A. flavus BG1 ....... 96
Bảng 3. 16. Ảnh hưởng của áp lực hút chân không đến sự phát triển của A. flavus BG1
..................................................................................................................................... 100
Bảng 3. 17. Mối liên quan giữa mức độ sinh trưởng của A. flavus BG1 và hàm lượng
AF ................................................................................................................................ 103
Bảng 3. 18. Bốn mô hình tối ưu và các thông số ......................................................... 106
Bảng 3. 19. Đường kính trung bình (cm) của khuẩn lạc A. flavus BG1 trên môi trường
PDA với nồng độ tinh dầu quế khác nhau ................................................................... 109
Bảng 3. 20. Đường kính trung bình (cm) của khuẩn lạc A. flavus BG1 trên môi trường
xii
PDA với nồng độ tinh dầu hồi khác nhau ................................................................... 111
Bảng 3. 21. Mức nhiễm nấm mốc trên lạc với nồng độ tinh dầu quế khác nhau theo
thời gian ....................................................................................................................... 113
Bảng 3. 22. Mức nhiễm AF trên lạc có nồng độ tinh dầu quế khác nhau theo thời gian
..................................................................................................................................... 114
Bảng 3. 23. Mức độ nhiễm nấm mốc trên lạc với nồng độ tinh dầu hồi khác nhau theo
thời gian ....................................................................................................................... 115
Bảng 3. 24. Mức nhiễm AF trên các mẫu có nồng độ tinh dầu hồi khác nhau theo thời
gian .............................................................................................................................. 116
Bảng 3. 25. Hàm lượng AFB1 (µg/kg) của lạc nhân bảo quản bằng kiểm soát quá trình
..................................................................................................................................... 119
Bảng 3. 26. Kết quả hàm lượng aflatoxin B1 (µg/kg) của lạc nhân đóng gói hút chân
không ........................................................................................................................... 122
Bảng 3. 27. Mức nhiễm AFB1 (g/kg) trên lạc với lượng tinh dầu quế khác nhau theo
thời gian ....................................................................................................................... 124
Bảng 3. 28. Mức nhiễm AFB1 (g/kg) trên lạc với lượng tinh dầu hồi khác nhau theo
thời gian ....................................................................................................................... 125
xiii
Bảng 3. 29. Tinh chi phí có và không sử dụng tinh dầu trong bảo quản lạc ............... 126
DANH MỤC HÌNH ẢNH, ĐỒ THỊ
Hình 1. 1. Tổng diện tích/sản lượng lạc thế giới từ năm 2012 đến 2016 ....................... 8
Hình 1. 2. Hình minh họa giống lạc L14 ........................................................................ 9
Hình 1. 3. Cấu trúc hóa học của AFB1, AFB2, AFG1, AFG2, AFM1 và AFM2 ............ 13
Hình 1. 4. Sự đồng hóa aflatoxin trong gan................................................................... 14
Hình 1. 5. Màu sắc của Aspergillus flavus: a-trên hạt; b-trên môi trường thạch Czapek
Dox ................................................................................................................................ 21
Hình 1. 6. Hình ảnh cuống bào tử Aspergillus flavus ................................................... 22
Hình 1. 7. Hình ảnh bào tử Aspergillus flavus............................................................... 22
Hình 1. 8. Đẳng nhiệt hút ẩm của thực phẩm ................................................................ 24
Hình 1. 9. Hoạt độ nước và sự ổn định của thực phẩm ................................................ 25
Hình 1. 10. Cân bằng hoạt độ nước và hàm lượng nước .............................................. 26
Hình 1. 11. Độ ẩm không khí trung bình theo tháng đo tại một số trạm vào năm 2013
....................................................................................................................................... 27
Hình 1. 12. Nhiệt độ trung bình theo tháng đo tại một số trạm vào năm 2013 ............ 29
Hình 1. 13. Cơ chế tác động của tinh dầu lên tế bào vi sinh vật .................................. 31
Hình 2. 1. Sắc đồ phân mảnh của các aflatoxin............................................................. 48
Hình 2. 2. Sắc đồ các điểm chuẩn Aflatoxin B1 ........................................................... 49
Hình 2. 3. Sắc đồ đường nền và chuẩn AFB1 ............................................................... 49
Hình 2. 4. Sắc đồ đường nền và chuẩn AFB2 ............................................................... 49
Hình 2. 5. Sắc đồ đường nền và chuẩn AFG1 ............................................................... 50
Hình 2. 6. Sắc đồ đường nền và chuẩn AFG2 ............................................................... 50
Hình 2. 7. Mô phỏng quá trình pha loãng dịch bào tử A. flavus.................................... 54
Hình 2. 8. Mô phỏng quá trình cấy dịch bào tử pha loãng trên đĩa thạch ..................... 54
Hình 2. 9. Mẫu lạc thí nghiệm ảnh hưởng của độ ẩm tới sự phát triển và sinh AF ...... 58
Hình 2. 10. Mẫu lạc thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ tới sự phát triển và sinh AF . 59
Hình 2. 11. Mẫu thí nghiệm ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus B1 .......................... 59
Hình 2. 12. Mẫu thí nghiệm điều kiện hút chân không ................................................. 60
xiv
Hình 2. 13. Mô hình thực nghiệm hút chân không ........................................................ 60
Hình 2. 14. Đo kích thước đường kính A. flavus ........................................................... 61
Hình 2. 15. Thí nghiệm ảnh hưởng của tinh dầu trên lạc thí nghiệm ............................ 62
Hình 2. 16. Mô phỏng phát hiện lạc nhiễm AF bằng đèn UV ở bước sóng 365 nm ..... 63
Hình 2. 17. Sơ đồ nghiên cứu ........................................................................................ 66
Hình 3. 1. Tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc trong lạc thu thập tại Nghệ An, Thanh Hóa và
Bắc Giang ...................................................................................................................... 74
Hình 3. 2. Tỉ lệ nhiễm AF trong lạc thu thập tại Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang . 74
Hình 3. 3. Các đĩa nuôi cấy: a) không có nấm mốc; b) và c) có nấm mốc và nấm men
....................................................................................................................................... 75
Hình 3. 4. Mặt trước (a) và mặt sau (b) của đĩa nuôi cấy sau 3 ngày ............................ 79
Hình 3. 5. Hình thái khuẩn lạc sau 3 ngày nuôi cấy trên môi trường SDA ................... 80
Hình 3. 6. Chủng phân lập từ lạc (a, b) và ATCC 204304 (c) cấy điểm trên SDA sau 5
ngày................................................................................................................................ 80
Hình 3. 7. Bọng nấm hình chùy đến cầu, thể bình 1 lớp (a), thể bình hai lớp (b); Bào tử
nấm hình cầu đến gần cầu, màu xanh (c,d) ................................................................... 81
Hình 3. 8. Ảnh hiển vi điện tử quét chủng nấm A1....................................................... 81
Hình 3. 9. Kết quả điện di sản phẩm PCR đoạn ITS; (+): Đối chứng A. flavus ATCC
204304, (-): Đối chứng âm ............................................................................................ 83
oC ................................................................................................................................... 84
Hình 3. 10. Mẫu lạc nhiễm A. flavus BG1 phát huỳnh quang sau 10 ngày nuôi cấy ở 25
Hình 3. 11. Sắc đồ AFB1 của chuẩn (a) và mẫu (c); sắc ký đồ AFB2 của chuẩn (b) và
mẫu (c) ........................................................................................................................... 85
Hình 3. 12. Màu sắc của A. flavus BG1 phát triển trên lạc ........................................... 89
Hình 3. 13. Biểu đồ AFB1 và AF tổng số trong các mẫu có độ ẩm khác nhau; AFB1-
10% (mẫu có độ ẩm 10 %); AFs-10% (mẫu có độ ẩm 10%); ML-AFB1 (Ngưỡng cho
phép của AFB1); ML- AFs (Ngưỡng cho phép của AF tổng số) ................................ 90
Hình 3. 14. Aflatoxin nhiễm trong các mẫu ở nhiệt độ khác nhau; AFB1-25 (AFB1
trong mẫu ở điều kiện 25oC); AFs-25 (AF tổng số ở điều kiện 25 oC); ML-AFB1
(Ngưỡng cho phép của AFB1); ML- AFs (Ngưỡng cho phép của AF tổng số) ......... 94
xv
Hình 3. 15. Xác suất phân phối mật độ cho biến nhiệt độ (Tem) .................................. 95
Hình 3. 16. Kết quả phân tích AF trong thí nghiệm ảnh hưởng mức nhiễm A. flavus
theo tuần; AFB1-10^1 (AFB1 trong mẫu nhiễm 101 CFU A. flavus/g); AFs-10^1 (AF
tổng số trong mẫu nhiễm 101 CFU A. flavus/g); ML-AFB1 (Ngưỡng cho phép của
AFB1); ML- AFs (Ngưỡng cho phép của AF tổng số) ................................................ 99
Hình 3. 17. Kết quả phân tích AFB1 theo tuần trong thí nghiệm điều kiện hút chân
không ........................................................................................................................... 102
Hình 3. 18. Biểu đồ mối tương quan giữa các biến (Thời gian – Week, Độ ẩm – Moi,
Nhiệt độ - Tem, Mức nhiễm A. flavus – Flavus, AFB1 và AF tổng số - AFTotal) ..... 105
Hình 3. 19. Các mô hình được BMA lựa chọn ............................................................ 107
Hình 3. 20. Khuẩn lạc phát triển trên các đĩa thạch: a) đối chứng - không bổ sung tinh
dầu; b) bổ sung tinh dầu Quế 0,0125 %; c) bổ sung tinh dầu Quế 0,025%; d) bổ sung
tinh dầu Hồi 0,2 %; e) bổ sung tinh dầu Hồi 0,4 %; f) bổ sung tinh dầu Hồi 0,8 % ... 108
Hình 3. 21. Biểu đồ phát triển của khuẩn lạc trên đĩa thạch bổ sung tinh dầu quế ..... 110
Hình 3. 22. Biểu đồ phát triển của khuẩn lạc trên đĩa thạch bổ sung tinh dầu hồi ...... 112
Hình 3. 23. Quy trình khảo nghiệm bảo quản lạc nhân bằng kiểm soát quá trình ...... 118
Hình 3. 24. Quy trình khảo nghiệm bảo quản lạc nhân bằng đóng gói hút chân không
..................................................................................................................................... 121
Hình 3. 25. Quy trình bảo quản lạc nhân có sử dụng tinh dầu .................................... 123
Hình 3. 26. Quy trình bảo quản lạc đề xuất ................................................................. 127
Hình 3. 27. Mô hình băng tải kiểm tra phát hiện AF trong lạc ................................... 128
xvi
Hình 3. 28. Máy đóng túi hút chân không ................................................................... 129
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Aflatoxin là độc tố vi nấm có thể bị nhiễm trong nhiều lương thực thực phẩm.
Tổ chức nghiên cứu ung thư thế giới xếp aflatoxin vào nhóm chất có độc tính gây ung
thư loại 1, là nguyên nhân chính gây ung thư gan, giảm miễn dịch và tình trạng còi
cọc ở trẻ. Aflatoxin nhiễm trong thực phẩm ảnh hưởng đến kinh tế và thương mại
trong mọi giai đoạn trên thị trường tiêu thụ và xuất khẩu.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm là điều kiện thuận lợi cho nấm
mốc phát triển, đặc biệt là nấm mốc sinh độc tố aflatoxin [16, 104]. Trong số nấm
mốc đã được phân loại có 30-40 % có thể sinh độc tố với liều lượng khác nhau. Nhiều
loài nấm mốc khác nhau có thể sinh ra cùng một loại độc tố. Một loài nấm mốc cũng
có thể sinh ra nhiều độc tố khác nhau tùy thuộc vào điều kiện môi trường và cơ chất
[4]. Lạc là cơ chất thích hợp cho sự phát triển của nấm mốc sinh aflatoxin [35, 110].
Cây lạc là cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao và chiếm vị trí quan trọng trong
nền kinh tế thế giới. Lạc được dùng rộng rãi trong chế biến thực phẩm, nông nghiệp,
công nghiệp và là nguồn nguyên liệu cho các ngành phụ trợ khác. Việt Nam có sản
lượng lạc xếp thứ 15 trong số 118 nước trồng lạc [62] và có sản lượng lạc xuất khẩu
đứng thứ 10 trên thế giới [126]. Lạc cũng là một trong những loài cây lương thực
quan trọng đối với đời sống và kinh tế của Việt Nam.
Sau thu hoạch lạc được bảo quản và tích trữ để phục vụ cho sản xuất và chế biến
các sản phẩm trong công nghiệp, nông nghiệp và thực phẩm quanh năm. Lạc có thể
bị nhiễm nấm mốc và aflatoxin xuất phát từ: nhiễm trong quá trình trồng trọt, sơ chế
và bảo quản. Các điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh độc tố của nấm mốc
bao gồm: nhiệt độ, độ ẩm, môi trường không khí và tình trạng nhiễm nấm mốc ban
đầu của lạc. Ngoài ra, khả năng sinh aflatoxin trong lạc còn phụ thuộc vào loài nấm
mốc bị nhiễm trong lạc.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu và khảo sát về tình trạng nhiễm nấm mốc
và aflatoxin trong lạc nhưng chưa có nghiên cứu nào định danh đến chủng cụ thể để
1
từ đó tìm giải pháp bảo quản hạn chế sự phát triển và sinh độc tố của chủng phân lập
được. Đề tài này đã thực hiện nghiên cứu mức độ nhiễm aflatoxin trong lạc, phân lập
và định danh nấm mốc sinh độc tố, sau đó tiến hành nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng
đến sự phát triển và sinh aflatoxin, nghiên cứu một số giải pháp bảo quản nhằm giảm
nhiễm aflatoxin trên lạc, từ đó đề xuất quy trình bảo quản lạc sau thu hoạch.
Xuất phát từ những phân tích trên, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài
“Nghiên cứu mức độ nhiễm aflatoxin và đề xuất một số giải pháp công nghệ bảo
quản lạc sau thu hoạch ở các tỉnh miền Trung và Bắc Việt Nam".
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng nhiễm nấm
mốc và aflatoxin trên lạc tại một số tỉnh miền Trung và Bắc Việt Nam.
- Đề xuất được giải pháp công nghệ bảo quản lạc có hiệu quả ngăn ngừa nguy cơ
nhiễm aflatoxin trong lạc.
3. Nội dung nghiên cứu
Để đánh giá được thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng nhiễm nấm
mốc và aflatoxin trong lạc, từ đó đề xuất quy trình bảo quản lạc có hiệu quả ngăn
ngừa nguy cơ nhiễm aflatoxin trong lạc, đề tài đã nghiên cứu các vấn đề liên quan có
nội dung chính như sau:
- Nghiên cứu mức độ nhiễm nấm mốc, aflatoxin trong lạc và một số yếu tố liên
quan tại miền Bắc (Bắc Giang) và miền Trung (Thanh Hóa, Nghệ An). Phân lập
chủng sinh độc tố aflatoxin từ lạc.
- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh aflatoxin trên lạc của
chủng nấm phân lập được.
- Khảo nghiệm và đề xuất quy trình giải pháp bảo quản lạc có hiệu quả ngăn
nhiễm aflatoxin.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
4.1. Ý nghĩa khoa học
- Qua các số liệu khảo sát và phân tích, đề tài đã đánh giá được thực trạng nhiễm
2
nấm mốc và aflatoxin trong lạc ở 3 vùng trồng lạc: Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc
Giang góp phần cảnh báo nguy cơ nhiễm aflatoxin trong lạc; đã xác định được
các yếu tố nguy cơ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhiễm nấm mốc và aflatoxin
trong lạc. Đây là cơ sở khoa học để có hướng bảo quản lạc sau thu hoạch có chất
lượng ổn định. Đề tài cũng phân lập và định danh được một số chủng sinh
aflatoxin trong lạc, đánh giá khả năng sinh aflatoxin trong lạc của các chủng
này, từ đó lựa chọn được chủng có khả năng sinh aflatoxin cao nhất để phục vụ
cho nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng.
- Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm, mức nhiễm nấm sinh độc
tố đến sự phát triển và sinh độc tố của Aspergillus flavus, đã đưa ra được mô
hình tiên đoán ảnh hưởng của các yếu tố độ ẩm và mức nhiễm Aspergillus flavus
đến khả năng sinh aflatoxin trên lạc theo thời gian.
- Việc áp dụng có hiệu quả tinh dầu hồi và quế gợi ý cho các nhà khoa học mở
rộng phạm vi sử dụng các hợp chất có hoạt tính sinh học để hạn chế sự phát triển
và sinh aflatoxin trên lạc nhân của Aspergillus flavus.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm, mức nhiễm nấm mốc sinh độc
tố, điều kiện đóng gói hút chân không, nồng độ tinh dầu hồi/ quế, trong bao bì
đóng kín và bảo quản là cơ sở để đề xuất giải pháp công nghệ có tính khả thi
trong điều kiện ứng dụng ở quy mô hộ gia đình tại Việt Nam.
- Góp phần giải quyết được khó khăn của người dân do nấm mốc phát triển và
sinh độc tố aflatoxin trong bảo quản lạc nhân, giảm tổn thất sau thu hoạch, gia
tăng giá trị và sức cạnh tranh của lạc nhân Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Đã phân lập và định danh được một số chủng nấm mốc có khả năng sinh
aflatoxin từ lạc, trong đó xác định được Aspergillus flavus BG1 sinh lượng
aflatoxin cao nhất.
- Nghiên cứu đã tìm ra được mối liên quan giữa các yếu tố chất lượng và tình
trạng nhiễm aflatoxin trên lạc, tìm ra các yếu tố bất lợi có nguy cơ là nguyên
3
nhân nhiễm aflatoxin trên lạc nhân và lạc củ.
- Đã nghiên cứu đưa ra được mối quan hệ tuyến tính của các yếu tố ảnh hưởng
(độ ẩm và mức nhiễm A. flavus BG1) tới mức nhiễm aflatoxin theo thời gian.
- Đề xuất được giải pháp công nghệ bảo quản lạc nhân bằng kiểm soát chất lượng
trước bảo quản, đóng gói hút chân không và bảo quản bằng sử dụng tinh dầu
quế, hồi với quy mô hộ gia đình đảm bảo hiệu quả kinh tế.
- Bảo quản lạc bằng cách sử dụng tinh dầu hồi (quế) mở ra một hướng mới trong
giải pháp bảo quản thực phẩm an toàn và thân thiện với môi trường.
6. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm 143 trang (không kể phụ lục), 32 bảng, 56 hình và 130 tài liệu
tham khảo, được trình bày 4 chương trong 8 phần lớn: Mở đầu (4 trang); Tổng quan
(38 trang); Nguyên vật liệu và phương pháp nghiên cứu (24 trang); Kết quả và bàn
luận (63 trang); Kết luận và kiến nghị (2 trang ); Danh mục các công trình đã công
4
bố của luận án (1 trang); Tài liệu tham khảo (11 trang); Phụ lục (28 trang).
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Cây lạc
1.1.1. Giới thiệu chung về cây lạc
Cây lạc (Arachis hypogaea Linn.) có tên bắt nguồn từ hai từ Hy lạp: Arachis là
họ đậu đỗ, hypogaea là dưới lòng đất, do quả lạc hình thành trong đất. Lạc trồng rộng
rãi ở khu vực nhiệt đới, cận nhiệt đới và khí hậu ấm. Ban đầu cây lạc được trồng ở
Nam Mỹ, tiếp đó được thuần hóa ở Tây Ban Nha, người Tây Ban Nha đã mang lạc
đến châu Âu, sau đó các nhà buôn đã mang lạc đến châu Á và châu Phi [59].
Lạc được trồng rộng rãi tại Việt Nam cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao. Lạc
là cây công nghiệp ngắn ngày được sử dụng trong công nghiệp, nông nghiệp và các
ngành phụ trợ. Trong công nghiệp lạc được dùng cho công nghiệp thực phẩm để chế
biến bánh kẹo, ép lạc lấy dầu. Dầu lạc còn được dùng cho các ngành công nghiệp
khác như: làm chất dẻo, xi mực in, dầu diesel, làm dung môi cho thuốc bảo vệ thực
vật ... . Trong nông nghiệp, vỏ quả (chiếm 25 - 30 % trọng lượng quả) sau khi tách
phần hạt được nghiền thành cám để dùng cho chăn nuôi. Cám vỏ quả lạc có thành
phần dinh dưỡng tương đương với cám gạo để nuôi lợn, gà vịt công nghiệp rất tốt.
Các phụ phẩm của hạt lạc như khô dầu lạc, thân và lá của lạc cũng được dùng làm
thức ăn chăn nuôi. Ngoài ra, các vi sinh vật cộng sinh cố định đạm như Rhizobium
vigna có thể tạo nốt sần ở rễ một số cây họ đậu, trong đó lạc tạo được nốt sần lớn và
khả năng cố định đạm cao hơn cả, do tác dụng cải tạo đất tốt nên lạc là cây quan trọng
nhất trong hệ thống luân canh cây trồng đạt hiệu quả cao.
Hạt lạc (hay đậu phộng) là lương thực thực phẩm quen thuộc, là nguồn thức ăn
giàu chất béo và đạm có giá trị dinh dưỡng cao trong bữa ăn hàng ngày của người
dân. Hạt lạc nằm trong vỏ mày, mỗi quả có từ 1 - 3 nhân. Tỉ lệ vỏ mày khoảng 14 -
33 %. Lạc nhân có vỏ mỏng màu hồng, nâu sáng, nâu đỏ hoặc đỏ thẫm. Khối lượng
1.000 hạt dao động trong khoảng 300 - 1.300 g. Thành phần sinh hoá của lạc có thể
thay đổi phụ thuộc vào giống, sự biến động của điều kiện khí hậu giữa các năm, vị trí
của hạt ở quả khác nhau cũng ảnh hưởng đến thành phần sinh hoá của hạt lạc. Hạt lạc
5
chứa rất ít tinh bột. Các chất dinh dưỡng của hạt lạc chủ yếu ở dạng chất béo và
protein, trong đó hàm lượng chất béo khá cao - trung bình khoảng 50 % (chủ yếu ba
axit béo oleic, linolic và palmitic), protein chiếm khoảng 20 - 37 % [8], cacbonhydrat
chiếm khoảng 15,5 % và là nguồn cung cấp các chất khoáng (Kali, Phospho, Magnesi,
Mangan, Sắt, Natri, Kẽm, Đồng), các Vitamin (PP, E, B5, B1, B2, B6, Folat), các
Acid amin [28].
Thành phần dinh dưỡng của lạc bao gồm:
Lipit (Chất béo): Theo hiệp hội lạc của Mỹ, chất béo lạc có chứa 50 % acid béo
đơn không no (MUFAs), 33 % Para formadehyde (PFAs) and 14 % acid béo bão hòa
là hỗn hợp acid béo tốt cho tim mạch. Với lượng acid béo đơn không no cao trong
chất béo lạc làm giảm tổng cholesterol trong cơ thể tới 11 % và cholesterol LDL xấu
tới 14 % trong khi cholesterol HDL tốt được duy trì giảm triglyceride. Việc tiêu thụ
các sản phẩm chất béo từ lạc làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch, và cung cấp năng
lượng tốt đối với trẻ suy dinh dưỡng [112]. Trong chất béo của lạc, Oleic acid chiếm
tỉ lệ cao (38 - 54 %), sau đó đến Linoleic acid (29 - 37 %), Palmitic acid (10 - 13 %),
Steric acid (2 - 3 %), còn lại các acid béo: arachidic, eicosenoic, behenic và lignoseric
(1 - 3 %) [57, 91, 114].
Protein: Lạc có chứa 20 acid amin và là lượng cung cấp arginine lớn, acid amin
trong lạc có thể là nguồn bổ sung protein trong bữa ăn. Protein trong lạc có hoạt tính
nhũ tương hóa, khả năng nhũ tương hóa ổn định, khả năng tạo bọt, khả năng giữ ẩm
cao, tính hòa tan cao, và là thành phần nguyên liệu cung cấp protein cao trong công
nghiệp thực phẩm. Arginine hay L-arginine là acid amin cần thiết cho gan, da, khớp
và các cơ khỏe mạnh. Arginine giúp tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể; điều hòa
hormone, đường máu và cải thiện khả năng sinh sản của nam giới; arginine còn là
một trong những chất dinh dưỡng có tác dụng bảo vệ đường tiêu hóa [112].
Chất xơ: Lạc cũng là nguồn cung cấp chất xơ. Cacbonhydrat trong lạc bao gồm
chất xơ và tinh bột là hai dạng cacbonhydrat có ảnh hưởng thấp và ít tới đường huyết.
Hiệp hội tiểu đường Mỹ xếp lạc vào siêu thực phẩm của bệnh tiểu đường [112].
Các vitamin: Việc tiêu thụ 100 g lạc đáp ứng tới 75 % lượng Niacin khuyến
nghị ăn vào hàng ngày (RDA), 60 % RDA của folat, 55,5 % RDA của vintamin E,
6
53 % RDA của thiamin, 35 % RDA của pantothenic acid, 27 % RDA của pyridoxin
và 10 % RDA của riboflavin. Nguồn niacin cao rất quan trọng cho chức năng của hệ
thống tiêu hóa, thần kinh da, giúp chuyển hóa thực phẩm thành năng lượng và hỗ trợ
chống bệnh Alzheimer và sự giảm nhận thức. Tiêu thụ lạc có thể cung cấp vitamin E
giúp chống bệnh tim mạch. Lạc cũng chứa folat là chất đặc biệt quan trọng đối với
trẻ nhỏ và phụ nữ có thai trong việc sản sinh và duy trì các tế bào [112]. Hàm lượng
α-, β-, γ- và δ-Tocopherol trong lạc tương ứng là 10,9; 0,5; 10,8 và 1,1 mg/100g
(tính theo chất khô) [74].
Các khoáng chất: Tiêu thụ 100 g lạc có thể đáp ứng 127 % RDA đồng, 84 %
RDA mangan, 57 % RDA sắt, 54 % RDA phosphor, 42 % RDA magnesi làm giảm
chứng viêm và giảm nguy cơ hội chứng chuyển hóa và tiểu đường type II [112].
Các hoạt chất sinh học: Lạc có chứa các hoạt chất sinh học tốt cho sức khỏe
như phenolic acid và flavonoid. Phytosterol (sterol thực vật và stanol ester) là một
nhóm các hợp chất tìm thấy trong màng tế bào hạt lạc có khả năng ngăn hấp thu
cholesterol và giảm cholesterol trong máu [112].
Với thành phần chất béo không bão hòa, các vitamin và khoáng chất, các hoạt
chất sinh học trong hạt lạc có tác dụng phòng ung thư. Phytoterol trong lạc giảm sự
phát triển của khối u đến 50 %. Resveratrol trong lạc cũng giúp ngừng cung cấp máu
cho khối u phát triển và ngăn tế bào ung thư phát triển [112].
Do tác dụng của cây lạc đối với đời sống nên cây lạc chiếm một vị trí quan trọng
trong nền kinh tế thế giới, là lương thực thực phẩm quan trọng thứ 13 và quan trọng
thứ 4 trong số các loại hạt có dầu quan trọng nhất trên thế giới [49], đồng thời nhu
cầu sử dụng và tiêu thụ lạc ngày càng tăng đã và đang khuyến khích đầu tư phát triển
sản xuất lạc với quy mô ngày càng mở rộng ở các quốc gia trên thế giới.
1.1.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ lạc trên thế giới và Việt Nam
Lạc được trồng rộng rãi trên thế giới ở 119 nước, trong đó chủ yếu là châu Á
(chiếm tỉ lệ 60,4 %), sau đó đến châu Phi (29,7 %), châu Mỹ (9,8 %) và châu Đại
dương (0,1 %). Diện tích trồng lạc trên toàn thế giới năm 2012 là 25.563.601 ha, đến
7
năm 2016 là 27.660.802 ha. Sản lượng lạc trung bình trên thế giới năm 2012 là
42.020.180 tấn, đến năm 2016 là 43.982.066 tấn [62]. Tổng diện tích và sản lượng
lạc trung bình trên thế giới có chiều hướng phát triển ngày càng tăng (hình 1.1).
Hình 1. 1. Tổng diện tích/sản lượng lạc thế giới từ năm 2012 đến 2016 (nguồn [62])
Sản lượng lạc của Việt Nam được xếp thứ 10 trên thế giới [126]. Theo kết quả
điều tra diện tích trồng lạc của các vùng trong cả nước cho thấy: ba vùng miền Bắc
bao gồm đồng bằng sông Hồng (Vĩnh Phúc), Đông Bắc (Bắc Giang), Bắc Trung Bộ
(Thanh Hóa, Nghệ An) có tổng diện tích trồng lạc khoảng chiếm 58,6 % tổng diện
tích trồng lạc trên cả nước. Tổng diện tích sản xuất lạc khu vực miền Trung và khu
vực miền Nam hàng năm chiếm tỉ lệ tương ứng 10,2 % và 19,6 % diện tích trồng lạc
cả nước [11]. Theo số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam, sản lượng lạc trong cả
nước năm 2012 là 470 nghìn tấn, với sản lượng theo địa phương từ 6,3 - 39,7 nghìn
tấn. Trong đó Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang là trong số các tỉnh phía Bắc và
Bắc Trung bộ có sản lượng lạc cao tương ứng là 39,7; 25,6 và 28,3 nghìn tấn [18].
Cho đến năm 2016, kết quả thống kê sản lượng lạc và tình hình tiêu thụ lạc tại Việt
Nam như bảng 1.1.
Bảng 1. 1. Diện tích, sản lượng và lượng tiêu thụ lạc của Việt Nam
Năm
2012
2013
2014
2015
Sơ bộ 2016
Các thông số
Diện tích trồng trọt (nghìn ha)
219,3
216,3
208,7
199,9
191,3
Sản lượng (nghìn tấn)
468,5
491,9
453,3
454,1
441,4
Năng suất trung bình (tấn/ha)
2,14
2,27
2,17
2,27
2,31
Nguồn: tổng cục Thống kê việt Nam [20]
8
Qua bảng 1.1 ta thấy, mặc dù diện tích trồng lạc trên cả nước có giảm đi qua các
năm, diện tích trồng lạc năm 2016 giảm 12,7 % so với năm 2012. Tuy nhiên năng
suất tăng dần theo năm, năng suất năm 2016 tăng 7,9 % so với năm 2012.
Các giống lạc mới đã góp phần nâng cao năng suất lạc, trong đó một số giống
lạc mới có tiềm năng như: LO2, 1660, LVT, LO5, L14, LO8, MD7, L15, VD1 đã
được đưa vào sản xuất [15]. Cơ cấu giống được sử dụng trong sản xuất của nông dân
miền Bắc nhiều nhất là L14 và MD7 chiếm tỉ lệ 68,7 %, tiếp đó đến giống sen lai, sen
thất, L12, L18, L23, V78 [11]. Giống lạc L14 là giống nhập từ Trung Quốc. Cây có
dạng thân đứng, lá xanh đậm, chống đổ tốt, kháng bệnh bạc lá, đốm nâu, gỉ sắt, đốm
đen, chết ẻo. Quả to, eo nông, gân quả nông, vỏ lụa màu hồng. Khối lượng 100 quả
khoảng 150 - 155 g, 100 hạt khoảng 55 - 58 g. Thời gian sinh trưởng vụ Xuân là 115
- 120 ngày; vụ Thu và vụ Đông là 100 - 105 ngày. L14 là giống chịu thâm canh tốt,
năng suất 40 - 45 tạ/ha. Giống lạc MD7 có thời gian sinh trưởng 120 ngày trong vụ
Xuân, sinh trưởng tốt, cây cao 49,2 cm. Khối lượng 100 hạt là 51 g, chịu hạn tốt, chịu
đất ướt tốt. Năng suất 35 tạ/ha, là giống yêu cầu thâm canh [3]. Hình ảnh giống lạc
L14 như hình 1.2.
Hình 1. 2. Hình minh họa giống lạc L14
Thời vụ trồng lạc ở các tỉnh phía Bắc [3]:
- Vụ Xuân: gieo tốt nhất trong tháng 2 dương lịch, thu hoạch vào cuối tháng 6,
9
trước khi bước sang tháng 7.
- Vụ Thu: gieo tháng 7-8, thu hoạch tháng 11-12.
- Vụ Đông: gieo tháng 8-9, thu hoạch tháng 12 năm trước tới tháng 1 năm tiếp
theo.
Tại miền Bắc và miền Trung, lạc thường được trồng luân canh với cây trồng
màu vào vụ Xuân hoặc Đông Xuân. Điều kiện sinh thái trong mùa Xuân của miền
Bắc thích hợp cho lạc phát triển, do đó hầu hết diện tích đất màu ở khu vực này được
nông dân sử dụng để trồng lạc Xuân. Tại Bắc Giang đa số các hộ dân trồng lạc trong
tháng 2 (chiếm 78,9 %). Tại Bắc Trung Bộ đa số hộ dân trồng lạc từ giữa tháng 1 đến
đầu tháng 2 (chiếm 83,2 %) [11]. Theo kết quả tổng điều tra dinh dưỡng gần đây nhất,
mức tiêu thụ hạt có dầu (lạc, vừng) trung bình của mỗi người là 2,37 g/người/ngày;
khu vực tiêu thụ nhiều nhất là vùng Trung du và miền núi phía Bắc với mức trung
bình là 5 g/người/ngày [6]. Việc duy trì diện tích và sản lượng lạc tại Việt Nam qua
các năm đã nói lên được khả năng thích nghi và vai trò của cây lạc trong nền nông
nghiệp, đóng góp vào thu nhập của người nông dân nói riêng và thu nhập chung của
nền kinh tế quốc dân trong cả nước nói chung, đặc biệt là người dân miền Bắc và
Trung bộ.
Thống kê lượng lạc nhân xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2009 đến 2013
cho thấy lượng xuất khẩu giảm từ 55.921 tấn (năm 2009) xuống 8.477 tấn vào năm
2013. Trong khi đó, lượng nhập khẩu tăng từ 1.812 tấn (năm 2009) lên 5.000 tấn
(năm 2013) [61], điều đó chứng tỏ nhu cầu tiêu thụ lạc của Việt Nam được duy trì
không giảm.
Mức nhập khẩu lạc của các nước trên thế giới theo tỉ lệ phần trăm lượng nhập
khẩu trên toàn thế giới như sau: cao nhất là châu Âu (chiếm tỉ lệ 46,3 %), sau đó đến
châu Á (30,8 %), châu Mỹ (14,6 %), châu Phi (7 %) và châu Đại dương (1,3 %) [60].
Theo kết quả thống kê của ngân hàng thế giới từ năm 2002 đến 2010 thì thực
phẩm của Việt Nam nhiễm mycotoxin bị từ chối nhập khẩu vào các nước như Mỹ,
châu Âu và Nhật bản tương ứng là 32, 23 và 7 lần [118].
Mycotoxin nhiễm trong lương thực, thực phẩm nói chung chủ yếu là aflatoxin.
10
Thực phẩm nhiễm aflatoxin đã gây nhiều tổn thất về kinh tế, Cục Dược và Thực phẩm
của Nigeria đã tiêu hủy thực phẩm nhiễm aflatoxin trị giá 200.000 đô la Mỹ, việc đưa
ra quy định mức chấp nhận tối đa hàm lượng aflatoxin nhiễm trong thực phẩm của
cộng động châu Âu vào năm 1997 đã ảnh hưởng đến xuất khẩu ngũ cốc, hoa quả khô
và các loại hạt ăn được của châu Phi làm tổn thất ước tính 400 triệu đô la Mỹ. Nghiên
cứu của ngân hàng thế giới cho thấy quy định của cộng đồng châu Âu về aflatoxin
làm chín nước châu Phi tổn thất trong xuất khẩu ngũ cốc, hoa quả khô và hạt tới 750
triệu đô la Mỹ mỗi năm [50, 123].
Miền Bắc là vùng có diện tích trồng lạc lớn nhất, trong đó các tỉnh có sản lượng
lớn là Bắc Giang, Thanh Hóa và Nghệ An; Trung du và miền núi phía Bắc là những
vùng tiêu thụ lạc nhiều nhất. Vì vậy nghiên cứu thực hiện đánh giá mức độ nhiễm
nấm mốc và aflatoxin trong lạc tại các địa bàn này.
L14 và MD7 là giống lạc được trồng phổ biến tại miền Bắc, với ưu thế về tính
thích nghi và chống chịu sâu bệnh của L14 nên giống lạc này được trồng rộng rãi
trên các tỉnh này, do đó L14 là giống lạc được sử dụng trong nghiên cứu này.
1.1.3. Quy định về mức nhiễm nấm mốc và aflatoxin trong lạc
Theo tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn Codex về lạc, quy định số hạt lạc bị
mốc cho phép tối đa không quá 0,2 % khối lượng, nhân lạc mốc được xác định là
nhân có hình sợi mốc có thể quan sát bằng mắt thường [23, 39].
Phòng Nông nghiệp của Hoa Kỳ (USDA) quy định mức nhiễm nấm mốc trong
lạc không vượt quá 100 MPN/g [121]. Cục Dược phẩm và Thực phẩm của Philipin
quy định mức nhiễm nấm mốc trong lạc phơi nắng (sun dried peanut) cho phép tối đa
là 102 CFU/g [63].
Việt Nam không quy định giới hạn cho phép mức nhiễm nấm men - mốc cho
lạc, nhưng quy định với các sản phẩm “ngũ cốc, khoai củ, đậu đỗ: bột, miến, mì sợi”
trong quyết định số 46/2007/QĐ-BYT, giới hạn cho phép tổng số bào tử nấm men -
mốc là 103 CFU/g đối với sản phẩm có xử lý nhiệt trước khi sử dụng, và 102 CFU/g
đối với sản phẩm dùng trực tiếp không qua xử lý nhiệt trước khi sử dụng [2].
Quy định mức tối đa cho phép aflatoxin B1 và aflatoxin tổng số (B1, B2, G1,
11
G2) trong lạc trên thế giới và Việt Nam như bảng 1.2.
Bảng 1. 2. Quy định mức tối đa cho phép nhiễm aflatoxin trong lạc
Sản phẩm
Hàm lượng aflatoxin (µg/kg)
Quy định của các nước
B1
Tổng số (B1, B2, G1,G2)
KQĐ
Lạc nhân
20
Thái Lan [85]
CODEX [40] Lạc có xử lý nhiệt trước khi sử dụng
KQĐ
15
USDA [122] Lạc nhân dùng trong chế biến
KQĐ
15
8
15
Cộng đồng châu Âu [117]
Lạc dùng để phân loại, hoặc xử lý vật lý, trước khi sử dụng cho con người hoặc làm nguyên liệu thực phẩm
2
4
Lạc và sản phẩm lạc đã chế biến, dùng cho ăn liền hoặc nguyên liệu thực phẩm ăn liền
Việt Nam [1] Lạc phải sơ chế trước khi tiêu thụ
8
15
2
4
Lạc sử dụng trực tiếp không cần phải sơ chế
Ghi chú: “KQĐ” nghĩa là “Không quy định”.
Aflatoxin được xác định là nhóm chất gây ung thư rõ rệt trên người [108] nên
các cơ quan quốc tế và Châu Âu không thiết lập một lượng chấp nhận ăn vào hàng
ngày cho aflatoxin, mức tối đa cho phép được thiết lập ở mức thấp có thể đạt được
(ALARA) [40, 117].
1.2. Aflatoxin
Aflatoxin là từ ghép của A = Aspergillus, fla = flavus và toxin = độc. Afatoxin
là một nhóm khoảng 20 đồng phân, trong tự nhiên aflatoxin thường xuất hiện một
nhóm 4 đồng phân chính (AFB1, AFB2, AFG1, AFG2) và hai sản phẩm đồng hóa là
AFM1 và AFM2 được tách từ sữa của động vật có vú ăn phải thức ăn nhiễm aflatoxin
[44]. Các chất này có tính chất hóa lý như sau.
1.2.1. Tính chất hóa lý của aflatoxin
Aflatoxin (B1, B2, G1, G2) được phân biệt bởi màu huỳnh quang của chúng
12
dưới ánh sáng cực tím có bước sóng dài, aflatoxin có màu xanh dương (B = Blue)
hoặc màu xanh lục (G = Green). Phổ hấp thụ cực tím của các đồng phân này tương
tự nhau, ở bước sóng: 223, 265 và 363 nm [44].
Các đồng phân chính của aflatoxin có công thức phân tử là:
• AFB1: C17H12O6 • AFB2: C17H14O6
• AFG1: C17H12O7 • AFG2: C17H14O7
Với cấu trúc hóa học như hình 1.3.
Hình 1. 3. Cấu trúc hóa học của AFB1, AFB2, AFG1, AFG2, AFM1 và AFM2 (nguồn [86])
AFM1 và AFM2 là hai sản phẩm trao đổi chất 4-hydroxy aflatoxin B1 và 4-
dihydroxy aflatoxin B2. AFB2 và AFG2 là dẫn xuất dihydroxy của AFB1 và AFG1.
Với tác dụng của chất xúc tác hydro hóa, sau khi kết thúc quá trình hydrogen hóa
AFB1 hấp thụ ba phân tử hydro và tạo dẫn xuất tetrahydrodeôxy, trường hợp quá
trình hydrogen hóa giữa chừng AFB1 hấp thu một phân tử hydro sẽ tạo thành AFB2.
AFB1 cũng phản ứng với nhóm hydrôxyl dưới tác dụng xúc tác của acid mạnh. Sự
phân giải ozon làm phân giải AFB1 thành levulinic, succinic, malonic và glutaric
acid. Aflatoxin có thể bị phân hủy từng phần trong dung dịch cồn dưới tác dụng của
ánh sáng và nhiệt [44].
1.2.2. Ảnh hưởng của aflatoxin đối với sức khỏe
Aflatoxin (AF) ảnh hưởng đến sức khỏe con người và động vật, làm giảm khả
13
năng miễn dịch, kém tăng trưởng và thấp còi ở trẻ [72]. Trẻ em ăn phải thực phẩm
nhiễm AF kết hợp với dinh dưỡng trong khẩu phần ăn thấp cũng góp phần đáng kể
trong việc nhiễm một số bệnh truyền nhiễm, ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch và
không tăng trưởng phát triển [53], việc phơi nhiễm AF cũng liên quan với tình trạng
trẻ còi cọc và thiếu cân [68].
Tổ chức nghiên cứu ung thư thế giới (IARC) phân loại AF là các chất gây ung
thư thuộc nhóm 1. Thực phẩm thường nhiễm đồng thời AFB1 và AFB2 hoặc AFG1
và AFG2. Hoạt tính sinh học của AFB2 và AFG2 hạn chế, không đủ bằng chứng về
tác dụng gây ung thư đối với động vật. AFG1 ít gây đột biến hơn AFB1. AFM1 và
AFM2 chỉ có trong sữa và các sản phẩm của sữa và ít gây ung thư hơn AFB1 [108].
Ung thư là nguyên nhân chính của bệnh tật và tử vong [46]. Thống kê tỉ lệ chết
năm 2012 cho thấy ung thư gan là nguyên nhân chính thứ hai gây chết người do ung
thư trên toàn thế giới. Ung thư gan xếp thứ năm trong số các bệnh ung thư thông
thường ở đàn ông (554.000 trường hợp chiếm tỉ lệ 8 % trên tổng số) và thứ chín trong
các bệnh ung thư thông thường ở phụ nữ (228.000 trường hợp, chiếm 3 % tổng số).
Tỉ lệ ung thư gan cao nhất ở khu vực châu Á và châu Phi mà nguyên nhân chính là
nhiễm virus viêm gan B, virus viêm gan C và do nhiễm AF [93]. AF trong thực phẩm
sau khi hấp thu qua dạ dày, tới gan AFB1 sẽ bị enzym microsomal đồng hóa thành
các đồng phân khác nhau qua hydrôxyl hóa, thủy hóa, khử methyl và epoxit hóa như
AFM1, AFQ1, AFB2, AFP1. Cơ chế đồng hóa AF trong gan [44] như hình 1.4.
Hình 1. 4. Sự đồng hóa aflatoxin trong gan
Để xác định mức độ ảnh hưởng của AF trong lạc đối với sức khỏe, đánh giá phơi
14
nhiễm AF trong khẩu phẩn ăn có chứa lạc cũng là vấn đề được quan tâm. Đánh giá
phơi nhiễm khẩu phần ăn với aflatoxin B1, orchatoxin A và fumonisin đối với người
lớn tại tỉnh Lào Cai, Việt Nam cho thấy phơi nhiễm khẩu phần ăn với aflatoxin B1
là 39,4 ng/kg trọng lượng cơ thể/ngày [33]. Tuy nhiên trong báo cáo vắn tắt về đánh
giá nguy cơ đối với mycotoxin trong chuỗi thức ăn của con người và động vật của cơ
quan an toàn thực phẩm Pháp [129] và đánh giá của JECFA về mức cho phép ăn vào
hàng ngày [125] cho thấy aflatoxin là nhóm được xác định là chất gây ung thư rõ rệt
trên người nên các cơ quan quốc tế và Châu Âu không thiết lập một lượng chấp nhận
ăn vào hàng ngày đối với aflatoxin.
Aflatoxin được phát hiện và định lượng bằng các phương pháp được giới thiệu
dưới đây.
1.2.3. Các phương pháp lấy mẫu, phương pháp phân tích aflatoxin
Để kết quả phân tích phản ánh trung thực, đại diện chất lượng sản phẩm thì
phương pháp lấy mẫu và xử lý mẫu phải được lựa chọn và áp dụng phù hợp. Một số
thuật ngữ về lấy mẫu được hiểu như sau:
- Lô hàng: Lượng xác định vật liệu (lạc hoặc sản phẩm lạc) mà từ đó mẫu được
lấy ra và kiểm tra để xác định một (hoặc nhiều) đặc tính.
- Mẫu ban đầu: Lượng vật liệu được lấy tại một thời điểm từ các điểm lấy mẫu
riêng lẻ trong khắp lô hàng.
- Mẫu chung: Mẫu gộp - Tập hợp của hai hoặc nhiều mẫu ban đầu, được lấy
mẫu thực tế trong khắp lô hàng, được gộp lại và trộn đều.
- Mẫu phòng thử nghiệm: Mẫu được chuẩn bị bằng cách trộn đều và chia mẫu
chung để gửi đến phòng thử nghiệm và dùng để kiểm tra hoặc thử nghiệm.
Các phương pháp lấy mẫu quy định trên thế giới và Việt Nam như:
- Theo hướng dẫn của CODEX STAN 209 [37] và CODEX STAN 193-1995 sửa
đổi năm 2015 [40]: lượng mẫu ban đầu phải từ 200 g trở lên, tùy theo số lượng
mẫu ban đầu để lấy được lượng mẫu chung là 20 kg. Để đảm bảo sự đồng nhất
của mẫu, mẫu chung phải gộp từ nhiều phần nhỏ hoặc mẫu ban đầu thu thập từ
nhiều vị trí khác nhau của lô. Nếu mẫu chung nhiều hơn lượng muốn lấy thì ta
15
phải trộn và chia nhỏ đến khi đạt được lượng mẫu phân tích. Với mẫu ở trạng
thái tĩnh, mẫu chung phải được gộp từ những phần mẫu ban đầu được lấy ngẫu
nhiên từ các vị trí khác nhau của lô. Đối với các lô tĩnh được đóng trong những
bao túi đơn lẻ, số túi lấy mẫu được tính theo công thức:
SF = (LT × IS)/(AS × IP) (1)
Trong đó: SF - tần suất lấy mẫu hay số túi mẫu được lấy,
LT - trọng lượng của lô,
IS – khối lượng của mẫu ban đầu,
AS – trọng lượng của mẫu chung và
IP – trọng lượng của từng bao túi lẻ.
Số lượng mẫu ban đầu, tùy theo khối lượng của lô, số mẫu lấy từ 10 đến 100
mẫu.
- Quy định của cộng đồng châu Âu (EC) No 401/2006 [130]: lượng mẫu ban đầu
khoảng 300 g, trường hợp mẫu đóng túi có khối lượng nhỏ hơn 300 g thì lấy 2
túi hoặc nhiều hơn. Mẫu thử nghiệm từ 1 đến 10 kg.
Mẫu lạc thu thập ngoài chợ có thể ở dạng đống, các dụng cụ chứa, hoặc đóng
Trọng lượng của lô × Trọng lượng của mẫu ban đầu
bao, túi bán lẻ. Số mẫu ban đầu (n) được tính theo công thức:
(2) n= Trọng lượng của mẫu chung ×Trọng lượng của bao gói lẻ
Trong đó: Trọng lượng tính bằng kg
Số mẫu ban đầu n là số nguyên đã được làm tròn
Số lượng mẫu ban đầu, tùy theo khối lượng của lô, số mẫu lấy từ 10 đến 100
mẫu.
- Theo hướng dẫn lấy mẫu của cơ quan tiêu chuẩn Anh [64]: lượng mẫu chung
tối thiểu là 1 kg, số mẫu ban đầu từ 5 đến 100 mẫu.
- Theo tiêu chuẩn Việt Nam [25]: lượng mẫu ban đầu tối thiểu là 400 g đến 3000g.
16
Mẫu phòng thử nghiệm từ 1 kg đến 10 kg. Số mẫu ban đầu từ 10 đến 100 mẫu.
Các quy định về lấy mẫu lạc để phân tích aflatoxin hiện hành, chưa có quy định
hoặc hướng dẫn lấy mẫu lạc trên thị trường. Các quy định về lấy mẫu trên thế giới
cũng như Việt Nam quy định số lượng mẫu ban đầu từ 5 đến 100 mẫu, lượng mẫu
chung từ 1 kg đến 20 kg, lượng mẫu ban đầu từ 200 g trở lên.
Sự có mặt của aflatoxin có thể được phát hiện bằng các thiết bị phân tích hấp
thụ miễn dịch liên kết enzyme (ELISA - Enzyme-linked immunosorbent assay), sắc
ký lớp mỏng (TLC - thin layer chromatography) hoặc các kit thử dùng để phát hiện
aflatoxin [47], sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) [32] và Sắc ký lỏng khối phổ (LC-
MSn) [82]. Ngoài ra, dựa vào đặc tính phát huỳnh quang màu xanh, aflatoxin B còn
được phát hiện dưới đèn UV ở bước sóng 365 nm lên huỳnh quang màu xanh dương,
aflatoxin G lên huỳnh quang màu xanh lục [128]. Kết quả phát hiện nhanh aflatoxin
bằng TLC và ELISA trong các mẫu lạc thu thập trên thị trường và tại các nông trại ở
Kenya phát hiện mức nhiễm từ 6,9 tới 88,7 ppb [47].
Aflatoxin được định lượng bằng các thiết bị TLC, HPLC, GC và LC/MS-MS.
Các mẫu lạc được phân tích hàm lượng AF đồng thời bằng TLC và HPLC, kết
quả cho thấy độ thu hồi của kết quả phân tích bằng TLC là 79 % trong khi HPLC là
95 %; giới hạn phát hiện (LOD) của AF bằng HPLC là 0,4 g/kg trong khi TLC là
0,8 g/kg [128]. Các mẫu lạc phân tích bằng HPTLC có LOD được xác định là 0,84
g/kg [90]. Giới hạn định lượng (LOQ) của AF trong gạo và lạc phân tích bằng LC-
MS/MS được xác định trong khoảng 0,9-2 g/kg [82]. LOQ gấp 3,3 lần LOD [26],
do đó qua các kết quả nghiên cứu trên ta thấy LC-MS/MS là thiết bị hiện đại và có
độ nhạy cao, đáp ứng được yêu cầu kiểm soát mức độ nhiễm AF trong lạc.
1.2.4. Tình hình nhiễm aflatoxin trên lạc
Aflatoxin nhiễm trong nhiều thực phẩm, trong đó lạc là cơ chất thích hợp cho
nấm mốc phát triển và sinh aflatoxin.
Tại Brazil, 101 mẫu thu thập tại 5 thành phố của bang Rio Grande do Sul từ năm
2009 và 2010, kết quả phát hiện có 14 % số mẫu có hàm lượng AFB1 vượt quá giới
17
hạn cho phép (20 µg/kg). Trong khi kết quả đánh giá trong vòng 2 năm từ 2000 đến
2002, trong số 664 mẫu lạc và sản phẩm lạc phát hiện 31,3 % mẫu phân tích bị nhiễm
AF ở mức 92,1 đến 5476,0 µg/kg [83].
Nghiên cứu mức độ nhiễm AF trong lạc nhân tại 5 tỉnh của Perak được thực
hiện trên 210 mẫu, kết quả có 129 mẫu phát hiện AFB1 trong khoảng 0,7 - 547,5
µg/kg (chiếm tỉ lệ 61 %), 118 mẫu phát hiện AFG1 trong khoảng 0,3 - 376,0 µg/kg
(chiếm tỉ lệ 56 %), có 92 % nhiễm AF tổng số trong khoảng 0,3 - 762,1 µg/kg [70].
Trong số 260 mẫu lạc nhân được lấy tại bang Kaduna ở Tây Bắc Nigeria (2015),
có 28,75 % số mẫu phát hiện nhiễm AF, trong đó có 9,2 % vượt quá ngưỡng cho phép
(20 µg/kg) theo quy định của Cục Dược và Thực phẩm của Nigeria (NAFDAC) [73].
1.263 mẫu lạc và sản phẩm lạc thu thập tại miền Tây Nyanza và tỉnh Nairobi
của Kenya để phân tích AF, kết quả có 37 % số mẫu vượt quá ngưỡng cho phép (10
µg/kg) theo quy định của Văn phòng tiêu chuẩn Kenya (KEBS), lạc củ có tỉ lệ nhiễm
AF thấp nhất với 96 % thấp hơn 4 µg/kg và 4 % hơn 10 µg/kg. Hầu hết AF nhiễm
trong các sản phẩm bơ lạc (69 %) và lạc hỏng (75 %) [92].
110 mẫu lạc nhân và lạc củ được thu thập vào mùa ẩm tháng 2 năm 2004 tại
miền Tây Java, Indonesia, trong đó có 53 mẫu lạc củ (13 mẫu lấy từ 12 hộ nông dân
và 40 mẫu lấy từ 23 người thu mua), 57 mẫu lạc nhân được lấy (7 mẫu lạc khô lấy từ
người thu mua, 5 mẫu lấy từ 2 nhà buôn và 45 mẫu lấy từ 45 nhà bán lẻ trên thị trường
truyền thống). Số mẫu lạc bị nhiễm AFB1 cao hơn ngưỡng cho phép của CODEX
(15 µg/kg) có tỉ lệ cao nhất trong các mẫu lạc thu từ nhà buôn là 80 %, tiếp đến nhà
bán lẻ (75,6 %), hộ nông dân (38,3 %) và người thu mua 30,0 và 14,3 %) [98].
Nghiên cứu mức nhiễm AFB1 trong các mẫu lạc thu thập từ các tỉnh Hà Tây,
Thanh Hóa, Nghệ An và Đồng Nai bảo quản sau 5 - 6 tháng phát hiện 41/200 mẫu
nhiễm AFB1 (chiếm tỉ lệ 20,5 %); Tỉ lệ nhiễm AFB1 theo tỉnh Hà Tây, Thanh Hóa,
Nghệ An và Đồng Nai tương ứng là 30 %, 20 %, 16 % và 16 %; khoảng nhiễm theo
từng tỉnh tương ứng: 5 - 170 µg/kg; 3 - 90 µg/kg; 3 - 100 µg/kg; 3 - 90 µg/kg [11].
Nghiên cứu mức độ nhiễm AF trong lạc và ngô tại 3 xã huyện Tân Kỳ, Nghệ
An đã thực hiện với 243 mẫu nông sản, có tới 232 mẫu (95,4 %) phát hiện AF, trong
18
đó có 56 mẫu (23 %) có lượng AF vượt quá tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế. Trong
đó số mẫu phát hiện nhiễm AF từ lượng vết với từng đối tượng là lạc vỏ (98,3 %),
ngô bột (87,5 %) và ngô hạt (98,4 %). Trong 90 mẫu lạc vỏ phát hiện 98,3 % nhiễm
AF (vết) với 33,3 % nhiễm >2 µg/kg; 6,6 % nhiễm >10 µg/kg; 5 % nhiễm >20 µg/kg
và 1,6 % nhiễm >100 µg/kg [7].
Qua các kết quả nghiên cứu tình hình nhiễm nấm mốc và aflatoxin trong lạc ta
thấy nấm mốc nhiễm và sinh độc tố trên lạc chủ yếu là thuộc nhóm Aspergillus, trong
đó Aspergillus flavus cần được quan tâm nhiều nhất do khả năng sinh độc tố aflatoxin,
đặc biệt chất có độc tính mạnh nhất là aflatoxin B1. Đồng thời thực trạng nhiễm
aflatoxin trong lạc cũng là vấn đề an toàn thực phẩm cần được quan tâm.
1.3. Aspergillus trên lạc
1.3.1. Tình hình nhiễm nấm mốc trên lạc
Nấm mốc phát triển yêu cầu một nguồn cung cấp năng lượng ở dạng
cacbonhydrat, chất béo từ thực vật, nguồn nitơ vô cơ hoặc hữu cơ, các kim loại ở
lượng vết và độ ẩm đủ để sinh trưởng và sinh độc tố. Nguồn cung cấp năng lượng từ
cơ chất đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện hay ức chế sự phát triển của
của các chủng sinh độc tố. Các chủng Aspergillus flavus sinh độc tố được phân lập
nhiều nhất từ lạc, hạt bông, sau đó đến gạo và cây cao lương [99]; 1.400 loài nấm
được phân lập từ lạc của Ai cập, các nấm mốc này chủ yếu thuộc các giống như
Aspergillus, Fusarium, Penicillium, Rhizopus và Epicoccum; loài Aspergillus có mặt
chủ yếu là A. niger, A. parasiticus, A. flavus và A. tereus [50], trong đó A. flavus và
A. parasiticus là các loài sinh aflatoxin chủ yếu [67].
Nấm mốc sinh AF phân lập được từ lạc chủ yếu là Aspergillus flavus [9, 96,
123]. Kết quả thử khả năng sinh AF của các chủng Aspergillus phân lập được cho
thấy A. flavus sinh AFB1 và AFB2, trong khi A. parasiticus sinh AFB1, AFB2, AFG1
và AFG2 [36, 43, 50, 123].
Nghiên cứu sự có mặt của nấm mốc và mức độ nhiễm AF trong hạt lạc giai đoạn
thu hoạch và tích trữ ở bang Kaduna, Nigeria đã chỉ ra rằng có đến 85 % các chủng
19
phân lập từ lạc là nấm mốc sinh AF, trong chủng Aspergillus flavus chiếm 65 %;
chủng Aspergillus parasiticus chiếm 20,3 %; chủng Aspergilus niger chiếm 7 % và
chủng Aspergillus tereus là 1,2 % [73].
210 mẫu lạc nhân thu được tại 5 tỉnh của Perak có hoạt độ nước trong khoảng
0,72 - 0,75 và mức nhiễm A. flavus trong khoảng 1,0×102 đến 1,1×105 CFU/g,
161/210 mẫu nhiễm nhóm A. flavus (chiếm tỉ lệ 77 %) [70].
270 mẫu lạc nhân thu thập tại Đông Ethiopia vào năm 2010 được phân tích cho
thấy tỉ lệ nhiễm nấm 50-80 % chủ yếu là các loài Aspergillus niger, Aspergillus flavus,
Aspergillus ochaceus, Aspergillus paraciticus và Penicilium [30].
110 mẫu lạc nhân và lạc củ được lấy vào mùa ẩm tháng 2 năm 2004 tại miền
Tây Java, Indonesia, gồm 53 mẫu lạc củ (13 mẫu lấy từ 12 hộ nông dân và 40 mẫu
lấy từ 23 người thu mua) và 57 mẫu lạc nhân (7 mẫu lạc khô lấy từ người thu mua, 5
mẫu lấy từ 2 nhà buôn và 45 mẫu lấy từ 45 nhà bán lẻ trên thị trường truyền thống).
Tỉ lệ nhiễm A. flavus cao nhất ở các nhà bán buôn cũng như bán lẻ (100 %), sau đó
đến các mẫu từ người thu mua (85-85,7 %) và hộ nông dân (84,6 %). [98].
Các nghiên cứu về tình trạng nhiễm nấm mốc và aflatoxin trên lạc cho thấy lạc
bị nhiễm nấm mốc sinh AFB1 chủ yếu là Aspergilus flavus [54, 73].
Tại Việt Nam, kết quả định danh bước đầu các nấm mốc trên hạt lạc trong khu
vực chợ Xuân Khánh, Thành phố Cần Thơ năm 2009 phát hiện được các loài:
Aspergillus flavus, Aspergillus oryzae, Aspergillus niger, Aspergillus ficuum [9].
Nghiên cứu mức nhiễm nấm mốc vàng (A. flavus) trên lạc thu thập tại nhà dân, chợ
và đại lý ở các miền Bắc - Trung - Nam cho kết quả tỉ lệ nhiễm nấm mốc vàng là
79,33 %, trong đó mức nhiễm nấm mốc vàng tại miền Bắc là cao nhất do đặc điểm
khí hậu miền Bắc có độ ẩm cao, nóng ẩm thất thường [11]. Các mẫu lạc thu thập tại
các tỉnh miền Bắc Việt Nam như Nghệ An, Hải Dương và Hà Nội được phân lập, thu
được 30 chủng A. flavus và 3 chủng A. niger, kết quả phát hiện bốn gien đích ver-1,
omt-1, nor-1 và apa-2 tham gia vào quá trình sinh tổng hợp AF bằng phản ứng PCR
cho thấy có 19 chủng A. flavus chứa cả bốn gen đích, 8 chủng A. flavus chứa ít hơn
bốn gen đích, 3 chủng A. flavus và 3 chủng A. niger không chứa bất kỳ gien đích nào.
Chủng A. flavus sinh AF phát hiện cả bốn gien đích, không phát hiện gien đích nào
20
trong hai chủng A. niger và các chủng A. flavus không sinh độc tố [17].
Như vậy nấm mốc sinh độc tố phát hiện trên lạc chủ yếu là A. flavus và A.
parasiticus. A. flavus chủ yếu sinh AFB1 và AFB2, trong khi A. parasiticus sinh
AFB1, AFB2, AFG1 và AFG2.
Qua kết quả nghiên cứu tình hình nhiễm nấm mốc và aflatoxin trong lạc cho
thấy Aspergillus flavus là nấm sinh aflatoxin phổ biến trong lạc. Do đó A. flavus được
quan tâm nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và khả năng sinh
aflatoxin trên lạc.
1.3.2. Aspergillus flavus
Sự có mặt của Aspergilus flavus được phát hiện bước đầu thông qua những đặc
điểm hình thái mô tả khóm nấm mốc và bào tử nấm mốc dưới đây.
1.3.2.1. Khóm nấm mốc
A. flavus sinh trưởng trên hạt lạc thường có màu vàng xanh nhạt, vàng xanh
đậm, nâu olive, hoặc nâu (hình 1.5.a) [109]. Trên môi trường thạch Czapek Dox, các
khóm nấm mốc có hạt, phẳng, thường có rãnh tia, ban đầu màu vàng nhưng nhanh
chóng chuyển từ màu vàng-xanh sáng đến vàng-xanh đậm theo tuổi (hình 1.5.b) [45].
Hình 1. 5. Màu sắc của Aspergillus flavus: a-trên hạt; b-trên môi trường thạch Czapek Dox
Màu của khuẩn lạc thay đổi khi môi trường nuôi cấy thay đổi, A. flavus được
cấy trên bốn môi trường (PDA, SDA, MEA và thạch Czapecks). Khuẩn lạc có màu
xanh trên môi trường SDA, màu xanh lục trên môi trường MEA, màu vàng xanh trên
môi trường PDA và màu vàng trên môi trường CZA [96]. A. flavus cũng có thể phân
biệt dựa trên mặt sau của đĩa thạch. Trên môi trường PDA: ban đầu khuẩn lạc có màu
trắng, sau 3 ngày nuôi cấy bào tử nấm có màu oliu và xanh lục đậm, viền xung quanh
khuẩn lạc có màu trắng, mặt sau của khuẩn lạc có màu vàng nhạt; Trên môi trường
21
SDA: ban đầu khuẩn lạc có màu trắng, sau 4 ngày nuôi cấy bào tử có màu vàng xanh
và ôliu, viền xung quanh khuẩn lạc màu trắng, viền trắng sẽ mất đi khi khuẩn lạc phát
triển rộng ra và sinh nhiều bào tử, mặt sau tạo rãnh có màu nâu nhạt; Trên môi trường
RBCA: bào tử có màu vàng nhạt sau chuyển sang xanh đậm và ôliu sau 6 ngày nuôi
cấy, mặt sau của khuẩn lạc không có màu; Trên môi trường MEA: bào tử có màu ôliu
và xanh đậm, mặt sau của khuẩn lạc có màu nâu nhạt hoặc nâu sáng [81].
1.3.2.2. Bào tử nấm
Cuống bào tử (hình 1.6.a) phình ở đầu và chứa một số bào tử đính chứa các tế
bào hình ống với chuỗi bào tử đính khô dài. Đầu bào tử đính thường có hình cầu chia
thành nhiều ống (hình 1.6.b) [109]. Cuống bào tử trong suốt và thô ráp, thể bình 1 lớp
hoặc hai lớp, vách cuống xù xì, cuống bào tử đính hình cầu hoặc hình quả lê, bông
tỏa hình tia hoặc đôi khi tạo cột (hình 1.6.c) [45, 109].
Hình 1. 6. Hình ảnh cuống bào tử Aspergillus flavus
Bào tử của A. flavus có hình cầu đến gần cầu, màu xanh nhạt (hình 1.7.a) [45,
109]. Khi sử dụng kính hiển vi điện tử quét (Scanning Electron Micoroscopy-SEM)
có thể cho thấy rõ đặc điểm bào tử A. flavus với bề mặt tương đối mỏng và hơi xù xì,
bào tử của A. flavus có hình cầu đến hình elip (hình 1.7.b) [101].
Hình 1. 7. Hình ảnh bào tử Aspergillus flavus
1.3.2.3. Các phương pháp phát hiện Aspergillus flavus
Các phương pháp phát hiện A. flavus dựa vào: 1) Đặc điểm hình thái: sự phát
triển của A. Flavus trên môi trường thạch, dựa vào màu sắc và hình dạng của nấm; 2)
22
Khả năng sinh độc tố aflatoxin; và 3) so sánh trình tự gen trên ngân hàng gen thế giới.
Dựa vào đặc điểm hình thái của khuẩn lạc trên môi trường SDA, sau bốn ngày
nuôi cấy bào tử nấm mốc có màu vàng-xanh và oliu, viền xung quanh khuẩn lạc màu
trắng, viền trắng sẽ mất đi khi khuẩn lạc phát triển rộng ra và sinh nhiều bào tử, mặt
sau tạo rãnh có màu nâu nhạt [81].
Dựa vào màu sắc và hình dạng của A. flavus: Các loài Aspergillus được xác định
dựa trên sự sắp xếp đầu bào tử, hình dạng và kích thước của bọng, cấu trúc và chiều
dài của cuống, hình dạng, cấu trúc và màu của bào tử đính. Đường kính của bọng
trong khoảng 10 - 65 mm [43].
Khẳng định thông qua khả năng sinh aflatoxin: các loài A. flavus khác nhau
được nuôi cấy trên môi trường thạch và quan sát dưới ánh sáng đèn UV ở bước sóng
365 nm lên huỳnh quang màu xanh dương [128].
Aspergillus flavus sinh ra một loạt các chất đồng hóa thứ cấp bao gồm aflatoxin,
cyclopiazonic acid, aflatrem, aflavin, kojic acid, aspergillus acid, neoaspergillic acid,
b-nitropropionic acid và paspalinine. Trong số đó aflatoxin là mối đe dọa lớn đối với
sức khỏe con người và động vật [43].
Để nghiên cứu khả năng ức chế sự phát triển và sinh độc tố của A. flavus, việc
phân lập và khẳng định chủng sinh độc tố aflatoxin trên lạc là cần thiết, từ đó nghiên
cứu các giải pháp hạn chế sự sinh aflatoxin của chủng được phân lập.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh aflatoxin của
A. flavus
Để tìm được các giải pháp kiểm soát nguy cơ nhiễm aflatoxin trong lạc, chúng
ta cần nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nấm mốc và sinh
aflatoxin trên lạc, đặc biệt là A. flavus.
Nấm mốc phát triển trên lạc sử dụng dinh dưỡng của hạt lạc để cung cấp năng
lượng và phát triển tế bào. Nấm mốc hấp thu dinh dưỡng qua thành tế bào trong điều
kiện môi trường thích hợp để duy trì sự sống và phát triển, sinh độc tố. Các yếu tố
ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nấm mốc như: nhiệt độ, môi trường không khí,
pH…, quan trọng nhất là hoạt độ nước không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của
23
nấm mốc mà còn là nguyên nhân gây hư hỏng lạc.
1.4.1. Ảnh hưởng của độ ẩm và hoạt độ nước
Độ ẩm hay hàm lượng nước là một thành phần quan trọng ảnh hưởng đến hệ vi
sinh vật, độ ổn định hóa học và vật lý của thực phẩm. Độ ẩm trong thực phẩm bao
gồm nước liên kết và nước tự do và được xác định bằng phương pháp sấy. Nước liên
kết hóa học không hỗ trợ sự phát triển của vi sinh vật hoặc ảnh hưởng đến chất lượng
thực phẩm. Nước tự do ảnh hưởng đến sự phát triển của vi sinh vật và các tính chất
của thực phẩm, người ta thường được đề cập đến hoạt độ nước (aw).
Hoạt độ nước nằm trong khoảng từ 0 ≤ aw ≤ 1. Hoạt độ nước có thể xác định
bởi áp suất hơi nước bên trên thực phẩm (p) và áp suất bay hơi của nước tinh khiết
(p0) ở cùng nhiệt độ, hoặc có thể xác định bởi độ ẩm cân bằng tương đối (ERH, %)
𝐸𝑅𝐻
của không khí xung quanh mẫu trong buồng đo [106]:
(3)
=
𝑎𝑤 =
100
𝑝 𝑝0
1.4.1.1. Mối quan hệ giữa độ ẩm và hoạt độ nước
Mối quan hệ giữa độ ẩm và hoạt độ nước được biểu thị bằng biểu đồ đẳng nhiệt
hút ẩm và nhả ẩm của thực phẩm, sự khác biệt giữa đường hút ẩm và nhả ẩm gọi là
độ trễ. Biểu đồ này được chia thành 3 vùng: vùng I - các sản phẩm giàu đường hoặc
pectin (ví dụ: táo sấy), tổng độ trễ lớn nhất ở hoạt độ nước 0,65; vùng II - thực phẩm
giàu protein (như thịt lợn), độ trễ trung bình bắt đầu ở hoạt độ nước 0,85; vùng III -
thực phẩm giàu tinh bột, độ trễ lớn nhất ở hoạt độ nước khoảng 0,7 [88] như hình 1.8.
Hình 1. 8. Đẳng nhiệt hút ẩm của thực phẩm
Biểu đồ 1.8 thể hiện độ trễ nhiệt động của quá trình hấp thu (hút ẩm) và khử
24
nước (nhả ẩm), các quá trình này làm thay đổi đặc tính vật lý của thực phẩm trong
quá trình thêm hoặc loại nước. Qua biểu đồ ta cũng thấy ở thực phẩm bất kỳ, quá
trình nhả ẩm cũng chứa nhiều nước hơn hút ẩm. Độ ẩm và hoạt độ nước của sản phẩm
có quan hệ chặt chẽ với nhau và có ý nghĩa rất lớn trong công nghệ bảo quản. Đối
với sản phẩm dạng khô, có độ ẩm thấp, có thể hút ẩm trở lại và làm thay đổi aw, ngược
lại sản phẩm có độ ẩm cao với tác động của nhiệt độ và thời gian có thể khử nước tạo
ra sản phẩm có hoạt độ nước cao hơn là điều kiện thuận lợi cho nấm mốc phát triển.
Nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt độ nước tới sự phát triển của A. flavus và sinh
AF trong ngô có độ ẩm cao sau thu hoạch, ngô được điều chỉnh về aw 0,92 và 0,95
bằng cách tính toán để thêm lượng nước khác nhau rồi để cân bằng ở 4 oC qua đêm,
sau đó gây nhiễm 104 bào tử A. flavus/g rồi để ở nhiệt độ phòng. Kết quả cho thấy, ở
điều kiện aw 0,95 A. flavus phát triển gấp 10 lần so với aw 0,92 [102]. 210 mẫu lạc
nhân thu được tại 5 tỉnh của Perak có hoạt độ nước trong khoảng 0,72-0,75 phát hiện
nhiễm A. flavus trong khoảng 1,0 × 102 đến 1,1 × 105 CFU/g [70].
Nhiệt động hấp thu ẩm là công cụ quan trọng cho các nhà khoa học trong việc
dự đoán độ ổn định của thực phẩm. Hầu hết các thực phẩm đều có hoạt độ nước tới
hạn, dưới ngưỡng đó mức độ giảm chất lượng không đáng kể [88] do vi sinh vật
không thể phát triển được. Đồ thị biểu diễn ảnh hưởng của aw đến độ ổn định của thực
phẩm như hình 1.9.
Hình 1. 9. Hoạt độ nước và sự ổn định của thực phẩm (nguồn [88])
Hình 1.9 cho thấy vùng liên kết ion có aw dao động từ 0÷0,25 là vùng tuyệt
25
đối an toàn, các emzym và các phản ứng đều không xảy ra, vi sinh vật không thể tồn
tại. Khi aw dao động từ 0,3÷0,8 ở vùng liên kết đồng hóa trị, một số enzym bắt đầu
hoạt động, các phản ứng ôxy hóa lipit, hydrô hóa, các phản ứng enzym bắt đầu xảy
ra, tại aw ≥ 0,6 độ ẩm của sản phẩm tăng lên. Ở cuối vùng liên kết đồng hóa trị có sự
xuất hiện của các vi sinh vật như nấm men, nấm mốc, vi khuẩn. Tốc độ phát triển của
chúng đạt cực đạt khi aw dao động từ 0,8÷1 và gây hại nghiêm trọng cho sản phẩm.
Đường cân bằng giữa aw và độ ẩm trong thực phẩm thể hiện như hình 1.11.
Hình 1. 10. Cân bằng hoạt độ nước và hàm lượng nước (nguồn [52])
Như vậy hoạt độ nước và độ ẩm có mối quan hệ chặt chẽ, người ta có thể ước
tính hoạt độ nước thông qua độ ẩm dựa vào đường đẳng nhiệt hấp thu.
1.4.1.2. Ảnh hưởng của độ ẩm
Nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm đến sự sinh AF trong lúa mạch được thực
hiện bằng cách lấy từng 50 g lúa mạch đã được tiệt trùng bề mặt cho vào bình 4-oz
và thêm 1 mL bào tử A. parasiticus vào mỗi bình, thêm nước cất vừa đủ theo lý thuyết
để tăng độ ẩm của mẫu ở các mức khác nhau: 10, 13, 16, 19, 22, 25, 28, 31 và 37 %.
Sự cân bằng của độ ẩm được điều chỉnh bằng cách lắc lọ trong 10 phút. Các lọ này
được cho vào túi nhựa (7×9 inch) có chứa giấy lọc được làm ẩm. Túi được đóng lại
và chuyển vào hộp giữ ở 25 oC, để đến 50 ngày. Không phát hiện sinh AF ở độ ẩm
13,5 % trở xuống, có phát hiện vết ở độ ẩm 16,5 %. Hàm lượng AF cao nhất phát
hiện trong khoảng độ ẩm 28 - 31 % [71].
Nghiên cứu ảnh hưởng của công nghệ sau thu hoạch tới sự phát triển và sinh
26
AF trên lạc của A. flavus đã tiến hành đánh giá ảnh hưởng độ ẩm của hạt lạc (10, 12,
14, 16 %). Kết quả sau 10 tháng bảo quản cho thấy các mẫu lạc có độ ẩm 16 % có tỉ
lệ nhiễm nấm cao nhất, thấp nhất ở độ ẩm 10 % [13].
Nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm đến tình trạng nhiễm AF, trên ngô nguyên hạt
và hạt bị vỡ có độ ẩm ban đầu 10,5 và 13,5 % được cấy chủng A. flavus và A.
parasiticus tỉ lệ (50:50), bảo quản trong 4 tuần rồi xác định tổng số nấm mốc và hàm
lượng AF. Kết quả cho thấy ngô có độ ẩm 10,5 % ở độ ẩm tương đối 70 %, nấm mốc
không phát triển ở cả ngô hạt nguyên và ngô hạt vỡ. Các mẫu ngô có độ ẩm ban đầu
13,5 %, độ ẩm tương đối 70 % phát hiện nấm mốc là 3 CFU/10 g sau tuần đầu tiên
và ngô hạt vỡ nhiễm AFB1 cao hơn ngô hạt nguyên (34,0 > 12,0 ng/g). Từ đó nghiên
cứu đề xuất ngô hạt có thể bảo quản trong thời gian dài, ngăn được nấm mốc phát
triển và sinh AF, khi làm khô đến độ ẩm thấp hơn 11 % ở điều kiện môi trường: 25
3 oC, độ ẩm tương đối 70 - 75 % [65].
Theo chuyên khảo về sự hình thành AF trong lạc thì lạc tích trữ an toàn ở độ ẩm
tương đối cân bằng 70 %, ở điều kiện này nấm mốc ít phát triển. Sự phát triển của A.
flavus hạn chế ở độ ẩm tương đối 80 % [120]. Việt Nam là nước có khí hậu nóng ẩm,
tại khu vực trồng lạc nhiều của Việt Nam như miền Bắc và miền Trung [11], độ ẩm
trung bình các tháng theo năm qua thống kê cho thấy các vùng này có độ ẩm trung
bình của không khí nhìn chung > 80 % từ tháng 1 - 4, tháng 7 - 12 trong năm, còn
các tháng 5, 6 và 12 có độ ẩm trung bình của không khí < 80 % [19], hình 1.11.
Hình 1. 11. Độ ẩm không khí trung bình theo tháng đo tại một số trạm vào năm 2013 (nguồn [19])
Như vậy hoạt độ nước và độ ẩm không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc
27
xác định mức độ hoạt động của enzym và hàm lượng vitamin trong thực phẩm, nguyên
nhân chính tác động tới màu sắc, mùi vị. Muốn kéo dài thời gian bảo quản của các
sản phẩm, người ta thường kiểm soát độ ẩm ở mức an toàn để nhằm hạn chế các ảnh
hưởng xấu đến chất lượng của sản phẩm.
1.4.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ
Nấm mốc có thể phát triển và sinh độc tố ở nhiệt độ tối ưu thông thường trong
khoảng 20 đến 30 oC [99].
Aflatoxin có thể được sinh ra trong mọi điều kiện môi trường nhưng tỉ lệ cao
nhất là ở khu vực địa lý nóng ẩm. Aflatoxin có thể được phát hiện trong đất ở khu
vực có nhiệt độ ấm nhiều hơn khu vực nhiệt đới hoặc khu vực nhiệt độ mát. Aflatoxin
hiếm có ở nhiệt độ trên 45 oC, trong lạc aflatoxin thường phát hiện trong điều kiện
nhiệt độ môi trường dưới 35 oC [54].
Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến sự phát triển của các
chủng Aspergillus kết hợp với hạt kê tích trữ ở Sokoto xác định sự phát triển của các
oC, 35 oC và 40 oC. Kích thước phát triển của khuẩn lạc được đo hàng ngày và giá trị
chủng Aspergillus trong đĩa môi trường đặt trong tủ ấm ở các điều kiện nhiệt độ 30
trung bình của 3 đĩa lặp được coi như tỉ lệ phát triển của mỗi chủng nấm mốc. Nhìn
chung các chủng phát triển cao ở điều kiện nhiệt độ 30 oC và 35 oC [75].
Thí nghiệm sự sinh aflatoxin của các chủng A. flavus và A. paraciticus theo thời
gian trên lạc tiệt trùng nuôi cấy ở các điều kiện nhiệt độ khác nhau (20, 25, 30, 35,
oC, 20 oC , nhiệt độ 45 oC ức chế sự phát triển của A. flavus trong lạc và 50 oC ngăn
40, 45 và 50 oC). Kết quả cho thấy A. flavus phát triển tối ưu ở 30 oC, sau đó đến 25
A. flavus phát triển trong 24 giờ. A. parasiticus sinh AFB1 tối đa ở 30 đến 35 oC và
AFG1 tối đa ở 25 đến 30 oC [119]. Nghiên cứu sự hình thành bào tử A. flavus trên
môi trường làm từ cuống ngô và môi trường CZA ở điều kiện nhiệt độ khác nhau cho
thấy A. flavus phát triển tối ưu trên các môi trường này ở các nhiệt độ tương ứng là
20 - 25 oC và 30 - 35 oC [103].
Tại khu vực trồng lạc nhiều của Việt Nam, miền Bắc và miền Trung [11], nhiệt
28
độ trung bình các tháng theo năm qua thống kê từ năm 2012 đến 2017 cho thấy các
vùng này có nhiệt độ trung bình trong khoảng 25-30 oC diễn ra từ tháng 4 - 10, các
tháng còn lại trong năm có nhiệt độ thấp hơn 25 oC [19], hình 1.12.
Hình 1. 12. Nhiệt độ trung bình theo tháng đo tại một số trạm vào năm 2013 (nguồn [19])
Qua các kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ cho thấy A. flavus phát
triển và sinh aflatoxin ở nhiệt độ < 45 oC, ở nhiệt độ từ 45 oC có thể ức chế sự phát
triển và sinh aflatoxin của A. flavus. Các chủng này có thể phát triển tối ưu ở khoảng
nhiệt độ 20 - 35 oC tùy theo môi trường cơ chất.
Qua các kết quả nghiên cứu 1.4.1 và 1.4.2 ta thấy cần tìm ra độ ẩm lạc nhân mà
có khả năng ức chế sự phát triển và sinh aflatoxin của A. flavus. Cần tìm ra nhiệt độ
tối ưu mà A. flavus phát triển và sinh độc tố để có thể phòng tránh. Cần tìm ra mối
quan hệ giữa mức nhiễm Aflatoxin với độ ẩm của lạc, nhiệt độ và mức nhiễm A. flavus
theo thời gian.
Miền Bắc và miền Trung Việt Nam có điều kiện khí hậu thích hợp cho nấm mốc
phát triển và sinh Aflatoxin.
1.4.3. Ảnh hưởng của nấm mốc đến chất lượng lạc trong quá trình bảo
quản
Kết quả khảo sát mức độ nhiễm A. flavus và aflatoxin trong lạc tại Indonesia
[98] cho thấy lạc nhiễm A. flavus cao nhất ở những hộ kinh doanh và bán lẻ lạc (chiếm
tỉ lệ 100 %), sau đó đến các hộ thu mua lạc (85 %) và hộ nông dân (84,6 %). Mức
nhiễm aflatoxin B1 trên 15 µg/kg cao nhất ở các hộ kinh doanh (80,0 %), sau đó đến
29
các hộ bán lẻ (75,6 %), hộ nông dân (38,5 %) và hộ thu mua (30 %).
Giống Aspergillus có khoảng 180 loài. Chi Flavi được chia thành hai nhóm
loài, một nhóm gồm các loài A. flavus, A. parasiticus và A. nomius gây ra những vấn
đề nghiêm trọng cho các mặt hàng nông nghiệp; một nhóm khác gồm các loài không
có gen sinh độc tố aflatoxin như A. oryzae, A. sojae và A. tamarii dùng trong sản xuất
các sản phẩm lên men trong thực phẩm của các nước châu Á. Các loài A. parasiticus
và A. nomius sinh cả aflatoxin B và G nhưng không phát hiện sản phẩm đồng hóa thứ
cấp là Cyclopiazonic acid; A. flavus được phát hiện sinh aflatoxin B1 và B2 và
Cyclopiazonic acid [101].
Nghiên cứu tỉ lệ nhiễm Aspergillus flavus và aflatoxin nhiễm trong lạc tại các
tỉnh khác nhau của Ấn độ cho thấy không có sự tương quan giữa nhiễm A. flavus và
nhiễm aflatoxin trong hạt lạc. Mẫu lấy tại tỉnh Telangana, ở Nizambad có mức nhiễm
A. flavus 90,7 % có hàm lượng aflatoxin ở mức thấp (4,9 µg/kg), ở Mahaboobnagar
nhiễm A. flavus 42 % có hàm lượng aflatoxin ở mức 11,5 µg/kg [78].
Như vậy, nấm sinh độc tố aflatoxin trên lạc chủ yếu là Aspergillus flavus. Tuy
nhiên mức độ nhiễm aflatoxin còn tùy thuộc vào chủng A. flavus đã nhiễm trên lạc.
1.4.4. Ảnh hưởng của tinh dầu tới sự phát triển và sinh aflatoxin của
Aspergillus flavus
Trong tự nhiên tinh dầu đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ thực vật. Tinh dầu
có chứa các chất đồng hóa thứ cấp có thể ức chế, làm chậm sự phát triển của vi khuẩn,
nấm men và nấm mốc. Các hoạt chất của tinh dầu tác động đến màng tế bào, nguyên
sinh chất và thậm chí làm biến dạng hình thái tế bào [58] do đặc tính kỵ nước của tinh
dầu là nguyên nhân phá vỡ cấu trúc vi khuẩn dẫn đến tăng tính thấm do không thể
tách tinh dầu ta khỏi màng tế bào vi khuẩn. Khả năng chống thấm của màng tế bào
cần thiết đối với nhiều chức năng của tế bào bao gồm duy trì trạng thái năng lượng
của tế bào, các quá trình chuyển hóa năng lượng, vận chuyển và chuyển hóa chất tan.
Tinh dầu làm xuống cấp thành tế bào, làm hỏng màng tế bào chất, đông tụ tế bào chất,
làm hỏng các màng protein, tăng tính thẩm thấu dẫn đến rò rỉ làm giảm lượng ATP
trong tế bào do giảm tổng hợp ATP và tăng sự thủy phân [58]. Cơ chế tác động của
30
tinh dầu tới tế bào vi sinh vật như mô tả trong hình 1.13.
Hình 1. 13. Cơ chế tác động của tinh dầu lên tế bào vi sinh vật (nguồn [58])
Như vậy với cơ chế tác động của tinh dầu tới tế bào vi sinh vật mở ra một hướng
mới trong bảo quản thực phẩm từ nguồn nguyên liệu tự nhiên không ảnh hưởng tới
sức khỏe con người và có khả năng tăng tính chất cảm quan đối với một số sản phẩm.
Quế là cây nhiệt đới được trồng rộng rãi trên các vùng núi khắp cả nước Việt
Nam. Quế được dùng trong thực phẩm, y dược, sản xuất công nghiệp, làm gỗ và củi.
Các cây này không chỉ có tác dụng phủ xanh đất rừng để bảo vệ môi trường mà còn
được đánh giá mang lại hiệu quả kinh tế cao [27, 29]. Nghiên cứu khả năng ức chế
sự phát triển của nấm sinh aflatoxin ở quy mô phòng thí nghiệm cho thấy: tinh dầu
quế (mua từ Hong Huad Co. Ltd, Bangkok, Thailand) có thể ức chế tối đa sự phát
triển của Aspergillus flavus IMI 242684 trên môi trường PDA ở hàm lượng 50 %
(v/v) [48], tinh dầu quế ( mua từ Sigma Aldrich, USA) ức chế sự phát triển của sợi
nấm Aspergillus parasiticus (phân lập từ lạc tại Georgia - USA) trên môi trường PDA
ở hàm lượng 1000 ppm (0,1 %) [84].
Ít nhất 46 hợp chất được phát hiện trong tinh dầu quế [100]. Tinh dầu quế chiết
bằng các phương pháp khác nhau như chưng cất hơi nước và chiết Soxhlet bằng các
dung môi khác nhau thu được các hoạt chất với hàm lượng khác nhau nhưng nhiều
31
nhất vẫn là Trans-cinnamaldehyde (68,47 - 86,67 %), sau đó đến 2H-1-Benzopyran-
2-one (6,51 - 10,59 %); 1,2-Napthalenedione (0 - 9,03 %); Benzaldehyde (0 - 2,76
%); Borneol (0 - 1,03 %); α-Calacorene 3-methyl-4-undecene (0 - 1,13 %); Ethanone
(0 - 1,11 %) và một số hoạt chất khác (3-cyclohexene-1 methanol, Bicyclohexane-2-
ol, p-menth-1-en-8-ol, 3-cyclohenene-1-ol, 13-cyclohenene-1-methanol, …) [97].
Thành phần các chất bay hơi chiết xuất trong lá của cây quế (Cinnamomum
zeylanicum Blum) của Sri Lanka tìm thấy nhiều nhất là Eugenol (74,9 %), sau đó đến
β-caryophyllene (4,1 %), Benzyl benzoate (3,0 %), Linalool (2,5 %), Eugenyl acetate
(2,1 %) và Cinnayl acetate (1,8 %) [51].
Một số tinh dầu có khả năng kháng Aspergillus flavus như: tinh dầu xả và đinh
hương có thể ức chế sự phát triển sợi của A. flavus khi thêm 3 µL dầu vào đĩa petri;
tinh dầu cây chè, tinh dầu cây quảng hoắc hương, tinh dầu hạt thìa là đen cũng có tác
dụng kháng A. flavus; trans-cinnamaldehyde trong tinh dầu quế xâm nhập vào chu
chất của tế bào và phá vỡ chức năng của tế bào [79], tinh dầu quế cũng ức chế sự phát
triển của các loài Aspergillus, ngoài ra quế được sử dụng trong dược phẩm và được
thừa nhận là an toàn (GRAS) [127].
Cây hồi là một cây gia vị quan trọng ở Việt Nam, cây hồi được trồng nhiều ở
Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng và Quảng Ninh. Lạng Sơn là vùng trồng
hồi quan trọng nhất với tổng diện tích trồng trên 9.000 ha. Nhà nước có kế hoạch
trồng hồi lên đến 20.000 ha. Tinh dầu hồi có mùi đặc trưng của hoa hồi và có màu từ
trong suốt đến vàng xanh. Hàm lượng anethole trong dầu tinh khiết lên đến 85 - 90
%, các hợp chất khác tìm thấy trong tinh dầu bao gồm: methyl chavicol, α-pinene,
limonene và phellandrene [34]. Nghiên cứu khả năng ức chế sự phát triển của nấm
sinh độc tố A. flavus và A. parasiticus quy mô phòng thí nhiệm cho thấy tinh dầu hồi
có thể ức chế sự phát triển và sinh độc tố của hai loài nấm mốc này hoàn toàn ở hàm
lượng 200 ppm (0,02 %) [115].
Tại Việt Nam sản phẩm lạc rang húng lìu là sản phẩm truyền thống phổ biến
trên thị trường, nguyên liệu chế biến sản phẩm này bao gồm cả gia vị sử dụng có
nguồn gốc từ hồi và quế, sản phẩm có hương thơm đặc trưng của hồi và quế làm
hương vị thêm phần hấp dẫn. Các nghiên cứu chỉ ra rằng tinh dầu nói chung có tác
32
dụng ức chế sự phát triển và phá vỡ chức năng tế bào của vi sinh vật nói chung và A.
flavus nói riêng. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào chỉ ra mức độ ức chế sự phát triển
và sinh độc tố của A. flavus trên cơ chất lạc của tinh dầu hồi và quế.
Lạc rang là sản phẩm dân dã được nhiều người ưa chuộng với hương vị hồi và
quế, tinh dầu hồi và quế có tác dụng ức chế sự phát triển của nấm mốc nói chung và
A. flavus nói riêng, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào về khả năng ức chế sự phát
triển và sinh Aflatoxin trên lạc.
1.4.5. Ảnh hưởng của môi trường không khí đến chất lượng lạc trong quá
trình bảo quản
Trong không khí sạch và khô (không chứa hơi nước và những hạt chất rắn và
chất lỏng nào cả) có chứa hàm lượng các chất như sau: 78,08 % Nitơ; 20,95 % Ôxy;
0,93 % Argon; 0,03 % CO2 và một lượng nhỏ các khí khác (Neon, Methan, Kripton,
Hydro, Oxit nitơ,…) [10]. Ảnh hưởng của các thành phần khí trong không khí đến
chất lượng thực phẩm trong quá trình bảo quản được phân tích dưới đây.
1.4.5.1. Ảnh hưởng của khí nitơ
Nitơ (N2) là khí trơ, chiếm 78,08 % về thể tích trong không khí và hầu như
không tham gia hấp thụ năng lượng và chuyển thành hợp chất trong khí quyển. Trong
lớp thổ nhưỡng có một số loại vi khuẩn sử dụng nitơ chuyển vào thành phần cơ thể
sống và thải vào khí quyển một lượng không lớn 2-Oxit nitơ (N2O) có mặt trong tầng
đối lưu khoảng 3,5×10-5 % thể tích, khí này sau đó có thể tạo ra Ôxit nitơ (NO) [10].
Vì đặc tính trơ của nitơ nên trong công nghiệp thực phẩm khí này thường được sử
dụng đóng gói có tác dụng chống ôxy hóa, tuy nhiên việc đóng gói khí nitơ không có
tác dụng kìm hãm đáng kể đến sự phát triển của vi sinh vật [113].
1.4.5.2. Ảnh hưởng của khí ôxy
Hạt lạc sau thu hoạch vẫn tiếp tục sự sống và cần năng lượng cho các tế bào
sống thông qua sự hô hấp. Sự hô hấp có thể là hiếu khí (có ôxy) hoặc yếm khí (không
có ôxy). Hô hấp hiếu khí tiêu thụ ôxy sinh CO2 và nước [8]. Giảm hô hấp có thể giảm
thay đổi chất lượng và kéo dài thời gian bảo quản bằng cách bảo quản nhiệt độ thấp
33
và hàm lượng O2 thấp [76].
Lạc có hàm lượng chất béo cao nên hiện tượng ôxy hóa chất béo thường xuyên
xảy ra ảnh hưởng đến chất lượng cảm quan (màu sắc, mùi vị), hình thành các thành
phần không có lợi cho sức khỏe và giảm thời hạn bảo quản của lạc. Quá trình ôxy
hóa chất béo xảy ra một chuỗi các phản ứng, liên quan đến ba giai đoạn: 1) ban đầu:
tách nguyên tử hydrô từ một nhóm methylene tạo thành gốc alkyl (R⚫); 2) tiếp theo:
gốc alkyl tác dụng với ôxy tạo thành gốc peroxy (ROO⚫ ) có khả năng phản ứng với
các acid béo chưa no hình thành hydroperoxide (ROOH); 3) bước cuối cùng: hình
thành các gốc không tự do bằng sự tương tác giữa gốc R⚫ và ROO⚫ .(trong đó: R⚫ -
gốc acid béo, ROOH - hydroperoxide acid béo; ROO⚫ - gốc peroxy). Các quá trình
phản ứng này làm thay đổi một chút chất béo và nhanh chóng thay đổi mùi [55].
Nghiên cứu nhu cầu ôxy của loài Aspergillus cho thấy Aspergillus flavus không
phát triển, chậm sinh bào tử hoặc không có bào tử ở điều kiện môi trường không có
ôxy hoặc nồng độ ôxy thấp. A. flavus phát triển ở môi trường ôxy từ 0,1 % [77].
Qua đó ta thấy, sự có mặt của ôxy trong môi trường bảo quản lạc không chỉ
ảnh hưởng đến chất lượng cảm quan mà còn là điều kiện thuận lợi cho nấm mốc phát
triển và sinh độc tố.
1.4.5.3. Ảnh hưởng của khí CO2
CO2 là chất khí không màu, không mùi và không độc, CO2 có khả năng ngăn
hoạt động vi sinh vật, ngăn quá trình ôxy hóa chất béo, có tính khuếch tán, thấm qua
bao bì và tan trong thực phẩm. CO2 tan trong thực phẩm tốt hơn so với ôxy [56].
Nghiên cứu ảnh hưởng của khí CO2 đối với sự phát triển của A. flavus trong ngô
sau thu hoạch được thực hiện ở bốn chế độ: 1) không khí thường (21 % O2; 0,03 %
CO2; 79 % N2); 2) 25 % CO2; 3) 30 % CO2 và 4) 75 % CO2. Các mẫu này được kiểm
tra mật độ A. flavus sau 7, 14 và 21 ngày. Kết quả cho thấy sự phát triển của A. flavus
giảm đáng kể khi hàm lượng CO2 tăng so với không khí thư, tương ứng là 40 %, 70
% và 90 % [102].
1.4.5.4. Ảnh hưởng của Argon và một số khí trơ khác
Argon (cũng như Neon và Kripton) hầu như bị động, các chất khí nặng nên
34
không có trong tầng nhiệt quyển. Heli được tạo thành khi có phản ứng phóng xạ [10].
Do tác động của môi trường khí đối với chất lượng sản phẩm trong quá trình
bảo quản, điều biến khí cũng là một giải pháp cần được nghiên cứu và đưa ra khuyến
nghị cho người dân trong bảo quản tránh nhiễm aflatoxin trong lạc.
1.5. Các biện pháp kiểm soát aflatoxin nhiễm trong lạc và nông
sản khô sau thu hoạch trên thế giới và Việt Nam
Mặc dù với nỗ lực của các nhà nông học để giảm thiểu nguy cơ sinh aflatoxin
trong quá trình trước thu hoạch nhưng các sản phẩm sau thu hoạch vẫn có nguy cơ
nhiễm aflatoxin. Nghiên cứu các giải pháp bảo quản lạc sau thu hoạch nhằm giảm
nguy cơ nhiễm aflatoxin trong lạc là cần thiết.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng điều kiện bảo quản sau thu hoạch tác
động đáng kể đến sự xuất hiện aflatoxin trong lạc [42]. Lạc sau khi thu hoạch đến tay
người tiêu dùng, nhà sản xuất trong vòng khoảng 2 - 6 tháng (thu hoạch, làm khô, lưu
kho, vận chuyển, phân phối, sơ chế - bóc vỏ) nên cần được bảo quản tốt trong khoảng
thời gian này. Các biện pháp bảo quản lạc và nông sản khô bao gồm: kiểm soát chất
lượng lạc sau thu hoạch và trong quá trình bảo quản; đóng gói điều biến khí; và bảo
quản bằng sử dụng các chất hóa học có tác dụng phòng chống nấm mốc, giảm độc tố
trong sản phẩm.
Nghiên cứu về thực trạng sản xuất lạc ở các tỉnh trồng lạc chính [11] cho thấy:
Khí hậu nóng ẩm trong vụ Xuân của miền Bắc rất thuận lợi cho các đối tượng sâu
bệnh phát triển và tấn công lạc. Phương thức thu hoạch ở miền Bắc thường là thủ
công (nhổ và bứt quả bằng tay hoặc đập). Sau khi vặt xong lạc được phơi khô dưới
nắng, thời gian phơi khô phụ thuộc vào điều kiện thời tiết tại thời điểm thu hoạch;
Hầu hết các gia đình miền Trung cũng thu hoạch thủ công, quá trình làm khô lạc được
thực hiện bằng phơi cả cây dưới nắng, sau khi khô lạc được bứt và bán ra thị trường.
1.5.1. Kiểm soát chất lượng sau thu hoạch và trong quá trình bảo quản
Nghiên cứu về thực trạng bảo quản lạc ở các tỉnh trồng lạc chính cho thấy: Tại
miền Bắc phương thức bảo quản của nông dân thường phụ thuộc vào mục đích sử
dụng của từng hộ gia đình, đa số nông dân (chiếm 95,0 %) có thời gian bảo quản
35
ngắn, vì sản phẩm sẽ được bán ngay sau thu hoạch để lấy lại vốn tái sản xuất. Có
khoảng 10,0 % số hộ nông dân bảo quản dài vì mục đích kinh doanh, chờ lên giá hoặc
để bán giống cho vụ sau. Miền Trung có khoảng 3,0 % số hộ nông dân bảo quản dài
vì mục đích kinh doanh, chờ lên giá hoặc để bán giống cho vụ sau [11].
Chất lượng lạc có thể biến đổi trong quá trình bảo quản làm giảm chất lượng và
giá trị sử dụng của lạc. Sự biến đổi chất lượng có thể do yếu tố bên ngoài hoặc quá
trình nội tại, các quá trình biến đổi bao gồm: vật lý, hóa học và vi sinh vật [41].
Quá trình vật lý: Đối với hạt lạc tươi, sự bốc hơi nước làm thay đổi trọng lượng
và trạng thái vật lý của hạt. Đối với hạt khô, việc hấp thu nước làm thay đổi trạng thái
giòn của hạt.
Hạt lạc chưa phát triển hoàn chỉnh, sau khi làm khô sẽ bị nhăn lại (hạt nhăn/lép).
Hạt lạc có thể bị biến màu sẫm hơn màu vàng nhạt hoặc có nhiều đốm màu vàng nhạt;
và/hoặc lớp vỏ bị biến màu thành nâu sẫm, xám sẫm, xanh sẫm hoặc đen [23].
Hạt lạc bị sứt, vỡ trong quá trình thu hoạch là một trong những nguyên nhân
quan trọng hình thành aflatoxin do nhiễm A. flavus [35].
Quá trình sinh hóa: Các thành phần hóa học của lạc có thể bị biến đổi trong quá
trình bảo quản do phản ứng của các thành phần chất trong lạc với các yếu tố bên
ngoài, ví dụ như ôxy. Sự ôi khét diễn ra do phản ứng thủy phân/ phân giải lipit và
phản ứng ôxy hóa.
Trong quá trình bảo quản tế bào sống tiếp tục hô hấp. Ôxy trong không khí cắt
mạch cacbonhydrat trong thực vật thành carbon dioxide và nước, phản ứng này sinh
năng lượng dạng nhiệt, tiêu hao tinh bột là chủ yếu. Các chất dinh dưỡng của hạt bị
ôxy hóa sinh năng lượng, một phần năng lượng đó cung cấp cho tế bào để duy trì sự
sống, phần lớn năng lượng còn lại thoát ra môi trường xung quanh. Chất béo trong
lạc bị tiêu hao một phần nhờ phản ứng hô hấp hiếu khí phân hủy chất béo Tripalmictic
((C15H31COO)3C3H5). Sản phẩm cuối cùng của quá trình hô hấp hiếu khí là CO2 và
nước. Sản phẩm cuối cùng của quá trình hô hấp yếm khí là CO2 và rượu. Lượng nhiệt
hô hấp yếm khí thoát ra ít hơn nhiều so với hô hấp hiếu khí [8].
Việc giảm chất béo trong hạt bị giảm chất lượng do hai enzym chính là Lipase
36
và Lipoxygenase. Lipase có thể tăng do hoạt tính có sẵn trong nguyên liệu hoặc do vi
sinh vật sinh ra và làm tăng acid béo tự do. Lipase trong vi sinh vật thủy phân
triglyceride nhanh chóng. Lipoxygenase ôxy hóa chuỗi acid béo không bão hòa và
este hóa thành Hydroperoxide, chất này sau đó phân hủy thành keton, aldehyt, acid
và các thành phần phân tử thấp hơn. Một số thành phần này là nguyên nhân mất mùi
và vị của hạt tàng trữ. Các thành phần này cũng phản ứng với Protein, Acid amin và
Vitamin làm giảm chất lượng của hạt [31]. Hàm lượng Tocopherol (vitamin E) trong
lạc giảm cùng với sự tăng của peroxide trong quá trình tàng trữ, α-Tocopherol giảm
tới 95 % sau 40 ngày tàng trữ ở 50 oC [74].
Sự biến đổi do vi sinh vật: Sự phát triển của một loại vi sinh vật trong quá trình
tàng trữ thực phẩm phụ thuộc vào các yếu tố quan trọng như: mức nhiễm vi sinh vật
ở giai đoạn bắt đầu tàng trữ; đặc tính hóa lý của thực phẩm như độ ẩm, pH, chất bảo
quản; phương pháp chế biến sử dụng trong sản xuất thực phẩm; và môi trường bên
ngoài của thực phẩm như thành phần khí xung quanh và nhiệt độ tàng trữ [41]. Có
nhiều chủng Aspergillus flavus sinh aflatoxin được phân lập nhiều nhất từ lạc, hạt
bông, sau đó đến gạo và cây cao lương [99]. Aflatoxin ảnh hưởng đến mô thực vật,
với hàm lượng 25 µg/mL có thể ức chế sự này mầm, với hàm lượng 10 µg/mL có thể
tác động và sự tổng hợp chlorophyll làm mất màu hạt [67].
Để đảm bảo phòng tránh nhiễm aflatoxin trong lạc, trên thế giới đã có các quy
định để kiểm soát chất lượng như sau:
- Kiểm soát độ ẩm: Độ ẩm là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển và
sinh aflatoxin của A. flavus trên cơ chất tự nhiên như lạc. Theo quy phạm thực
hành để ngăn và giảm nhiễm aflatoxin trong lạc của Codex, trong quá trình lưu
kho và vận chuyển phải kiểm soát hoạt độ nước nhỏ hơn 0,7 và độ ẩm tương đối
70 % [38]. Codex cũng quy định độ ẩm của lạc tối đa là 10 % đối với lạc củ và
9,0 % đối với lạc nhân [39]. Tiêu chuẩn Việt Nam quy định độ ẩm lạc tối đa là
10 % đối với lạc củ và 9,0 % đối với lạc nhân [23]. Nghiên cứu phòng chống
nhiễm A. flavus và aflatoxin trong lạc khuyến nghị lạc nên được làm khô ngay
sau khi thu hoạch đến độ ẩm hạt dưới 12 % [12].
- Kiểm soát nhiệt độ: Bảo quản lạc ở nhiệt độ thấp cũng là phương pháp hiệu quả.
37
Theo quy phạm thực hành ngăn và giảm nhiễm AF trong lạc của Codex, nhiệt
độ môi trường trong quá trình lưu kho và vận chuyển phải được kiểm soát trong
khoảng 0 - 10 oC để giảm thiểu sự hư hỏng do nấm mốc phát triển [38]. Nghiên
cứu trên lạc có độ ẩm 12 %, trong kho mát có điều hòa ở nhiệt độ 18 - 22 oC bảo
quản được 10 tháng, trong kho thường chỉ bảo quản được 4 tháng [12].
- Sử dụng bao bì phù hợp: Theo quy phạm thực hành để ngăn và giảm nhiễm
aflatoxin trong lạc của Codex, lạc được đóng gói trong bao tải đay, thùng carton
hoặc bao PE. Tất cả các bao bì/ thùng carton phải được xác định lô để truy xuất
nguồn gốc của sản phẩm trước khi đổ ra để kiểm soát điều kiện lưu trữ và vận
chuyển [38]. Nghiên cứu bảo quản lạc trong các bao bì khác nhau cho thấy, lạc
trong bao dứa PP và bao PE nhiễm aflatoxin tổng số nhiều hơn trong bao đay
tương ứng là 5,6 % và 13,4 %. Bao đay dễ hút ẩm nhưng cho phép thông gió tốt
hơn bao dứa PP và bao PE [92]. Lạc có độ ẩm 12 % bảo quản trong bao bì hai
lớp sau 10 tháng hàm lượng aflatoxin bị nhiễm trong hạt cao hơn bao dứa 1 lớp
và dùng cót [12]. Lạc nhân có độ ẩm ban đầu 7 % bảo quản trong các bao bì
khác nhau: bao đay, bao polypropylen (PP), bao hai lớp gồm bao đay và bao
polyethylen trong 6 tháng ở điều kiện khí quyển. Kết quả mức nhiễm aflatoxin
cao nhất ở bao đay (> 30 ppb), sau đó đến bao PP (23 ppb), bao hai lớp (17-19
ppb) [116]. Các kết quả này cho thấy cùng loại bao bì nhưng các nghiên cứu
khác nhau có kết quả khác nhau, do đó ngoài tính chất của bao bì còn ảnh hưởng
của độ ẩm của lạc, điều kiện môi trường không khí bên ngoài.
1.5.2. Đóng gói điều biến khí quyển
Đóng gói điều biến khí (MAP) là đóng gói thực phẩm trong bao bì kín mà khí
quyển bên trong được thay thế hoặc thay đổi để tăng thời hạn sử dụng và duy trì chất
lượng thực phẩm. Điều biến khí quyển (MA) có thể đạt được bằng cách chủ động
hoặc bị động, trong khi Kiểm soát khí quyển (CA) thành phần khí được điều khiển
nghiêm ngặt trong suốt quá trình. Điều biến khí chủ động liên quan đến thay thế kiểm
soát hỗn hợp khí mong muốn. Điều biến khí bị động xảy ra là kết quả của quá trình
hô hấp và/ hoặc quá trình đồng hóa của vi sinh vật liên quan đến thực phẩm [69].
Điều biến khí quyển trong môi trường đóng gói là biện pháp giảm lượng ôxy
38
trong môi trường không khí, từ đó giảm quá trình ôxy hóa chất béo có trong lạc và
giảm khả năng hô hấp của nấm mốc để hạn chế quá trình phát triển và sinh độc tố.
Tác giả Philippe Villers đã chỉ ra rằng việc đóng gói kín với hàm lượng ôxy thấp 3 %
và nồng độ khí CO2 lên đến 90 % hoặc nhiều hơn ngăn được nhiễm côn trùng và
aflatoxin [105]. Nghiên cứu kiểm soát nồng độ hỗn hợp khí O2 và CO2 ở quy mô
phòng thí nghiệm cho thấy hỗn hợp khí O2 và CO2 (3,0 % : 40 %) đã ức chế mạnh
nấm mốc vàng sau 7 ngày và ức chế hoàn toàn sự phát triển của nấm mốc vàng trên
lạc sau 30 ngày. Ở nồng độ O2 lớn hơn 3,0 % ức chế sự phát triển của nấm mốc vàng
yếu hơn nhưng cũng ức chế được hoàn toàn sau 30 ngày [11].
Có ba khí chính dùng trong MAP là O2, CO2 và N2. Ngoài ra argon, CO và SO2
cũng được sử dụng trong MA. Hỗn hợp khí dùng trong MAP của các thực phẩm khác
nhau dựa vào bản chất và cơ chế hư hỏng của thực phẩm. Khi thực phẩm hư hỏng do
vi sinh vật, thành phần khí phổ biến là 30 - 60 % CO2 và 40 - 70 % N2. Đối với sản
phẩm nhạy cảm với ôxy do sự ôxy hóa làm ôi khét, thường thay thế 100 % N2 hoặc
N2/CO2. Đối với sản phẩm hô hấp, tránh vi khuẩn kỵ khí bằng cách tránh CO2 quá
cao hoặc O2 quá thấp [69].
Có hai kỹ thuật khác nhau để thay thế không khí: Xả khí và Bù chân không.
Kỹ thuật xả khí là thực hiện thay thế khí bên trong bao bì được bằng một dòng
khí liên tục, dòng khí này đuổi khí trong bao bì ra trước khi hàn kín. Phương pháp
này đuổi khí không hiệu quả nên nồng độ ôxy còn dư trong bao bì thường là 2-5%
O2. Vì vậy, phương pháp này không phù hợp với sản phẩm nhạy cảm với ôxy. Ưu
điểm lớn nhất của kỹ thuật xả khí là công suất của máy cao do quá trình vận hành đơn
giản và liên tục.
Kỹ thuật bù chân không được thực hiện qua hai giai đoạn: Giai đoạn hút chân
không (rút khí ra khỏi bao bì); Giai đoạn xả khí (không khí điều biến được xả vào
bao bì). Giai đoạn rút khí ra khỏi bao bì làm lượng ôxy còn lại trong bao bì thấp hơn
kỹ thuật xả khí. Do đó kỹ thuật này phù hợp để bảo quản các sản phẩm nhạy cảm với
ôxy, nhưng kỹ thuật bù khí diễn ra hai giai đoạn làm cho tốc độ đóng gói chậm hơn.
Đóng gói hút chân không (VP) được coi như một dạng đặc biệt của MAP, chỉ
qua giai đoạn thứ nhất, khoảng trống trong bao bì bị thay thế và không kiểm soát
39
lượng khí. VP được vận hành ở áp suất 40 kPa trong khi đóng gói điều biến khí (MAP)
hoặc đóng gói kiểm soát khí (CAP) hầu hết ở áp suất 101 kPa [76]. 1 kPa tương đương
7,5 mmHg, như vậy 40 kPa = 300 mmHg.
Côn trùng gây hại cũng là một trong những nguyên nhân tạo điều kiện thuận lợi
cho nấm mốc phát triển. Nghiên cứu của Philips và cộng sự cho thấy môi trường áp
suất thấp có thể kiểm soát côn trùng trong bảo quản. Trứng của Rhyzopertha dominica
(F.). P.interpunctella, và Tribolium castaneum khi tiếp xúc với áp suất 32,5 mmHg
trong phòng kín ở nhiệt độ 25, 33, 37 và 40 oC trong thời gian từ 30 phút đến 144
giờ dẫn đến tử vong. Tỷ lệ tử vong của các loài côn trùng tiếp xúc với áp suất thấp là
do tác dụng sinh lý với oxy thấp, tại áp suất 32,5 mmHg tương ứng nồng độ oxy thấp
khoảng 0,9 %. Ngoài ra nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đối với trứng của sâu và bọ cánh
cứng có thể bị giết chết ở áp suất chân không 200 mmHg [66].
Bao bì sử dụng trong MAP cũng cần xem xét các đặc tính quan trọng như: tính
thấm khí và thấm hơi nước, tính chất cơ lý, khả năng hàn và tính trong [69]. Hiện nay
polyethylene (PE) và polyvinyl chloride (PVC) là các vật liệu polyme được sử dụng
thông dụng nhất [76].
1.5.3. Các loại bao bì dùng trong bảo quản lạc
Bao bì thực phẩm hiện hữu trong đời sống con người từ hàng ngàn năm trước
đây. Từ thời nguyên thủy con người sử dụng lá và vỏ cây để chứa đựng thực phẩm.
Hiện nay bao bì được sử dụng đa dạng về chủng loại và công dụng. Bao bì dùng để
vận chuyển, bảo quản, chống ô nhiễm và chống tái nhiễm. Vật liệu bao bì có thể là
nhựa, màng kim loại, giấy, và sợi dệt. Bao bì đóng vai trò quan trọng trong an toàn
thực phẩm [87]. Trong bảo quản lạc người ta thường dùng các loại bao bì và vật liệu
như nhựa, bao tải dứa, bao đay, và các loại dụng cụ thông dụng khác trong gia đình.
Nhựa là bao bì được sử dụng nhiều nhất trong thực phẩm, nhựa được sử dụng
thay thế các loại bao bì truyền thống do chi phí thấp và năng lượng tiêu thụ để sản
xuất nhựa thấp. Các loại bao bì nhựa như PE, PP, PVC, PS [107] là các loại vật liệu
thông dụng có thể sử dụng đựng lạc bao gồm:
Polyethylene (PE) là sản phẩm trùng hợp của khí ethylene có công thức là
40
(CH2)n. Tùy theo quá trình sản xuất, có hai loại sản phẩm PE là LDPE và HDPE.
LDPE được tạo thành ở áp suất cao (1000-3000 atm), tạo thành chuỗi nhánh dài
liên kết với nhau yếu bởi lực Van Der Waal nhưng chịu lực mạnh theo chiều dài. Các
chuỗi cạnh nhau có thể trượt qua nhau nên vật liệu này dễ dàng uốn (mềm dẻo). LDPE
có mật độ thấp và chuỗi dài nên các phân tử không thể kết hợp chặt chẽ với nhau, vật
liệu này dễ nóng chảy. LDPE dẻo dai, bán truyền qua (độ trong kém). LDPE bền với
hầu hết hóa chất ở dưới 60 oC, chịu nước ở mức vừa phải, ngăn khí (O2) kém.
HDPE được sản xuất ở nhiệt độ thấp và áp suất khoảng 10 atm. HDPE dùng
làm chai lọ, túi, ống, thìa dĩa nhựa,… HDPE chịu chất béo và dầu tốt hơn LDPE, tuy
nhiên không dễ hàn.
Polypropylene (PP) là đơn hợp có công thức CH2CH-CH3. PP có độ trong và
bóng cao, cứng, chịu nhiệt (điểm mềm 150 oC). Có tính chống xước, chống thủng và
cứng. PP có tính ngăn ẩm tuyệt vời và ngăn khí trung bình. PP có khả năng hàn tốt.
PP được kéo thành sợi rồi dệt thành các loại bao bì gọi là bao tải dứa.
Polyvinyl chloride (PVC) là đơn hợp có công thức CH2CH-Cl. PVC có độ truyền
qua tốt khi tinh khiết, cứng và rắn hơn PE. PVC có độ trơ cao, ngăn ẩm, béo và khí.
Polyamides (nylon) được làm bằng cách cô đặc một diacid (như adipic acid) và
một diamine (như hexanmethylene diamine). Polyamide có độ trong suốt cao, dai,
chống xước, mềm dẻo, điểm chảy và điểm mềm (225 oC), đồng thời khả năng chịu
hóa chất tốt, nhưng khả năng ngăn nước thấp và khả năng thấm khí cao.
Như vậy trong các lọai bao bì trên (PE, PP, PVC và PS), PVC là vật liệu ngăn
ẩm và chống thấm khí tốt nhất.
1.5.4. Bảo quản hoặc giảm nhiễm aflatoxin bằng phương pháp hóa học
Sử dụng hóa chất nhằm giảm nhiễm aflatoxin trong thực phẩm và thức ăn chăn
nuôi đã được nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng 3 %
hydrogen peroxide, 75 % methanol, 5 % dimethylamine hydrochloride hoặc 3 %
perchloric acid có thể giảm hàm lượng aflatoxin xuống dưới mức 20 µg/kg, nhưng
xử lý bằng cách này có thể giảm trọng lượng, protein và lipit. Ngô được xử lý bằng
calcium hydroxide cũng giảm đáng kể hàm lượng aflatoxin. Thức ăn chăn nuôi với
41
ngô mốc được xử lý bằng calcium hydroxide phục hồi được giá trị dinh dưỡng. Tuy
nhiên theo báo cáo của FAO, cho đến nay không có hóa chất hoặc chất phụ gia nào
được chấp nhận [105]. Nghiên cứu của Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau
thu hoạch về khả năng khử aflatoxin trên ngô và khô lạc bằng khí amoniac ở quy mô
phòng thí nghiệm cho thấy khí amoniac lỏng có tác dụng khử aflatoxin tới 90 % [11].
Trong số nhiều giải pháp bảo quản thực phẩm thì giải pháp ức chế sự phát triển
của vi sinh vật được ứng dụng nhiều nhất. Xu hướng sử dụng các sản phẩm tự nhiên
thân thiện với môi trường, hạn chế sử dụng chất bảo quản tổng hợp trong thực phẩm
đang được xã hội quan tâm. Muối và đường là những sản phẩm tự nhiên có khả năng
ức chế sự phát triển của vi sinh vật nhưng hiện nay người tiêu dùng có xu hướng giảm
nhu cầu tiêu thụ muối và đường. Việc sử dụng tinh dầu mở ra một hướng mới trong
bảo quản thực phẩm. Nhiều thành phần tinh dầu được Cộng đồng châu Âu chấp nhận
dùng làm chất tạo hương trong thực phẩm như: linalool, thymol, eugenol, carvone,
cinnamaldehyde, vanillin, carvacrol, citral và limonene là những chất được xem như
không có tác hại đến sức khỏe người tiêu dùng. Cục Dược và thực phẩm (FDA) của
Hoa Kỳ cũng phân loại những chất trên là những chất được thừa nhận chung là an
toàn (generally recognized as safe - GRAS) [89]. Nghiên cứu ứng dụng tinh dầu xạ
hương để bảo quản cá filet được thực hiện bằng cách dùng trực tiếp 10 mL dung dịch
tinh dầu đã pha loãng theo nồng độ mong muốn (nước: propyleneglycol: tween = 80:
20: 0,02 % v/v) lên cá fillet để 1 ngày trong tủ lạnh (2 - 4 °C) để tinh dầu phân bố
đều, sau đó bảo quản lạnh cho thấy việc sử dụng tinh dầu làm giảm sự ôxy hóa sản
phẩm [124]. Nghiên cứu khả năng chống nấm mốc của tinh dầu xạ hương trên hạt lúa
mạch cho thấy, tinh dầu tiếp xúc trực tiếp với hạt lúa mạch có hiệu quả chống nấm
đặc biệt nhưng ảnh hưởng đến khả năng nảy mầm của hạt, trong khi tinh dầu tiếp xúc
gián tiếp giảm khả năng nhiễm nấm mốc nhưng không ảnh hưởng đến sự nảy mầm
của hạt [111]. Các nghiên cứu khả năng ức chế của tinh dầu tới sự phát triển của vi
sinh vật gây bệnh trong thực phẩm cho thấy tinh dầu quế, bạc hà, sả, gừng và tinh dầu
chanh có khả năng ức chế sự phát triển của một số vi khuẩn gây bệnh [5, 94, 95].
Qua tổng hợp các kết quả nghiên cứu ở trên cho thấy việc bảo quản lạc có thể
dựa trên nguyên tắc điều chỉnh độ ẩm của lạc đưa vào bảo quản, nhiệt độ môi trường,
thành phần khí đóng gói, sử dụng tinh dầu nhằm hạn chế được quá trình phát triển
42
và sinh aflatoxin của nấm mốc trên lạc.
CHƯƠNG 2. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Nguyên vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Nguyên vật liệu
- Lạc nhân và lạc củ giống L14, giống đang được trồng phổ biến tại các tỉnh miền
Bắc và miền Trung; và lạc rang húng lìu.
- Chủng chuẩn đối chứng: Aspergillus flavus ATCC 204304 được cung cấp từ thư
viện chủng quốc gia Mỹ.
- Tinh dầu hồi và tinh dầu quế được mua của Công ty TNHH chế biến và xuất
khẩu nông lâm sản Lạng Sơn. Tinh dầu quế đựng trong chai thủy tinh màu nâu,
hai lớp nút chai, dung tích 20 mL, đặt trong hộp giấy. Tinh dầu hồi đựng trong
chai thủy tinh màu nâu dung tích 100 mL, hai lớp nút chai, đặt trong hộp giấy.
2.1.2. Hóa chất sử dụng
- Các dung môi dùng cho phân tích bao gồm: acetonitrile, methanol, chloroform
(loại dùng cho phân tích HPLC), được cung cấp bởi Meck.
- Các dung môi và hóa chất khác như: các dung môi methanol, benzen,
chloroform, dichlomethan, n-hexan, acetone; muối natri clorua, amoni acetat
(loại tinh khiết phân tích) được cung cấp bởi Meck.
- Chất chuẩn aflatoxin B1, B2, G1, G2 có độ tinh khiết 99% được cung cấp bởi
Supelco.
- Cột chiết pha rắn SPE-IM được cung cấp bởi Supelco, Mỹ.
- Các hóa chất và dung môi khác sử dụng trong phòng thí nghiệm
2.1.3. Thiết bị sử dụng chính
- Cân phân tích độ chính xác ± 0,1 mg, xuất xứ: Thụy sĩ.
- Cân kỹ thuật độ chính xác ± 0,01 g, xuất xứ: Nhật.
43
- Tủ sấy Shellab, duy trì nhiệt độ ở 105 ± 2 oC, xuất xứ: Đức.
- Sắc ký lỏng khối phổ (LC-MS/MS): AB Sciex Triple Quad 5500 xuất xứ: Mỹ.
Nguồn ion hóa: Electrospray (ESI).
- Cột sắc ký pha đảo C18 Dionex hoặc tương đương: 150 mm 2,5 mm 3,5m.
- Tủ sấy Shellab, duy trì nhiệt độ ở 105 ± 2 oC, xuất xứ: Đức.
- Tủ ấm FOC 225E, có thể duy trì nhiệt độ 20, 25, 30, 35, 30 ± 1 oC, xuất xứ: Ý.
- Kính hiển vi để phân biệt nấm men với các tế bào vi khuẩn (có trường sáng, độ
khuếch đại từ 250 - 1.000 lần), kính hiển vi soi nổi OPTIKA - xuất xứ: Ý.
- Kính hiển vi soi ngược Axiovert 40 CFL - xuất xứ: Đức; kính hiển vi CX32 -
xuất xứ: Nhật bản.
- Máy đếm khuẩn lạc, xuất xứ: Anh.
- Tủ an toàn sinh học cấp 2, TELSTAR Model BIO-II-A, xuất xứ: Tây Ban nha.
- Máy PCR S1000, xuất xứ: Mỹ.
- Máy NanoDropTM1000, xuất xứ: Mỹ.
- Các dụng cụ và thiết bị thông thường của phòng thí nghiệm.
2.1.4. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2013 đến năm 2018.
- Nghiên cứu mức độ nhiễm nấm mốc và aflatoxin trong lạc, mẫu lạc được thu
thập vào năm 2013 tại Nghệ An (Diễn Châu và thành phố Vinh), Thanh Hóa
(Nga Sơn, thành phố Thanh Hóa), Bắc Giang (Lục Nam, thành phố Bắc Giang).
- Chuẩn bị bao bì thí nghiệm tại Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu
hoạch.
- Phân tích và nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh aflatoxin
trên lạc của Aspergillus flavus được thực hiện tại Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ
sinh thực phẩm quốc gia.
Để đạt được các nội dung của đề tài, luận án đã sử dụng các phương pháp nghiên
44
cứu sau đây:
2.2. Phương pháp lấy mẫu
(4)
* Cỡ mẫu được tính theo công thức tính cỡ mẫu trong nghiên cứu mô tả như sau:
𝛼 2
2 𝑛 = 𝑍1− 𝑝(1−𝑝) 𝑑2
Theo nghiên cứu đánh giá ô nhiễm aflatoxin trong lạc tại 3 xã huyện Tân Kỳ
tỉnh Nghệ An [7], tỉ lệ mẫu phát hiện nhiễm aflatoxin là 98 %; Độ chính xác tuyệt đối
d= 0,05 và Z = 1,96 với độ tin cậy α = 0,05. Từ công thức (4) ta tính được số mẫu lạc
cần lấy là n = 30.
* Lượng mẫu lấy:
- Trong nghiên cứu mức độ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin: Lạc củ lấy 3
kg/mẫu; Lạc nhân lấy 1 kg/mẫu; Lạc rang húng lìu lấy nguyên túi, lượng tối
thiểu 500 g/mẫu, trường hợp đóng túi nhỏ hơn thì lấy nhiều hơn 1 túi để đảm
bảo ít nhất 500 g/mẫu.
- Trong nghiên cứu ảnh hưởng của bao bì đối với sự thay đổi độ ẩm của lạc,
nghiên cứu khảo nghiệm các giải pháp bảo quản lạc, lượng mẫu lấy tối thiểu là
25 kg và tổng lượng mẫu đảm bảo đủ cho từng thiết kế thí nghiệm.
* Lấy mẫu vào mùa hè: Mẫu được lấy tại các chợ trên địa bàn các tỉnh Nghệ An
(Diễn Châu, Thành Chương và Thành phố Vinh), Thanh Hóa (Bỉm Sơn, Nga Sơn và
thành phố Thanh Hóa), Bắc Giang (Lục Nam và thành phố Bắc Giang).
Nghiên cứu thực hiện thu thập 90 mẫu/tỉnh bao gồm: 30 mẫu lạc nhân, 30 mẫu
lạc củ và 30 mẫu lạc rang húng lìu.
* Lấy mẫu vào mùa thu: Mẫu được thu thập tại các hộ gia đình và hộ kinh doanh lạc
trên địa bàn của tỉnh được lựa chọn trong 3 tỉnh trên. Nghiên cứu thu thập 30 mẫu
lạc nhân và 30 mẫu lạc củ.
2.3. Phương pháp phân tích hóa lý
2.3.1. Xác định độ ẩm
Độ ẩm của lạc được xác định theo TCVN 2384-1993. Phương pháp sấy đến
45
khối lượng không đổi ở nhiệt độ 105 ± 2 oC trong 5 h [21].
Chuẩn bị mẫu: Bóc khoảng 20 g lạc củ đã loại tạp chất, xác định riêng khối
lượng hạt (m1) và vỏ (m2) với độ chính xác 0,1 mg, phần vỏ xay nhỏ và đựng trong
bình tam giác có nút kín, phần hạt thái lát ngang hạt lạc có độ dày dưới 2 mm bằng
dao lưỡi mỏng và cho vào bình tam giác có nút đậy kín; Lạc nhân cân khoảng 15 g
và cũng cắt thành lát mỏng.
Tiến hành thử: Chén cân đã sấy khô và đã xác định khối lượng (m3). Cân khoảng
5 g lạc hạt (hoặc lạc vỏ) lấy từ bình tam giác đậy nút ở trên, cho vào chén cân có nắp.
Xác định khối lượng chén cân và mẫu (m4). Đặt chén cân vào tủ sấy, mở nắp chén
cân, sấy ở nhiệt độ 105 ± 2 oC trong 5 h. Làm nguội chén cân trong bình hút ẩm
khoảng 30 phút, cân và ghi khối lượng chén cân chứa mẫu đã sấy. Tiếp tục sấy khoảng
45 phút, làm nguội và cân lần thứ hai (m5). Sai lệch giữa hai lần cân không vượt quá
0,001 g.
- Tính toán kết quả:
Độ ẩm lạc hạt (Xh) hoặc độ ẩm của lạc vỏ (Xv) tính bằng % khối lượng theo
công thức:
𝑚4−𝑚5 𝑚4−𝑚3
× 100 (5) 𝑋ℎ(ℎ𝑜ặ𝑐 𝑋𝑣) =
Độ ẩm của lạc củ (Xc) được tính bằng % khối lượng theo công thức:
𝑚1𝑋ℎ+𝑚2𝑋𝑣 𝑚1+𝑚2
× 100 (6) 𝑋𝑐 =
Trong đó:
m1: khối lượng hạt lạc trong mẫu thử, tính bằng g;
m2: khối lượng vỏ lạc trong mẫu thử, tính bằng g;
m3: khối lượng chén cân, tính bằng g;
m4: khối lượng chén cân và mẫu thử, tính bằng g;
m5: khối lượng chén cân và mẫu thử sau khi sấy, tính bằng g;
Kết quả về độ ẩm lạc hạt hoặc lạc vỏ là số trung bình của hai phép thử song
46
song. Không được lệch quá 0,3 % và được tính với độ chính xác 0,1 %.
2.3.2. Xác định hàm lượng aflatoxin
Hàm lượng AF trong lạc được xác định bằng sắc ký lỏng khối phổ (LC-MS/MS)
theo phương pháp đã được công nhận phù hợp theo yêu cầu của TCVN ISO/IEC
17025 tại Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm quốc gia. Quá trình phân tích
hàm lượng AF trong lạc được thực hiện và tính toán kết quả như sau:
Tách chiết aflatoxin: Cân khoảng 25 g mẫu, thêm 5 g NaCl và 125 mL dung
dịch MeOH 60 %. Lắc ngang 140 v/p trong 30 phút, lọc qua giấy lọc, lấy 15 mL dịch
lọc và thêm 30 mL nước. Lấy 15 mL dịch lọc vừa thu được đem làm sạch [22].
Làm sạch trên cột SPE-IM: Gỡ nắp đậy phía trên và dưới cột ái lực rồi gắn vào
giá đỡ của bộ chiết pha rắn. Đổ dung dịch thử ở trên vào xilanh. Điều chỉnh bơm sao
cho tốc độ qua cột khoảng 1 giọt/giây. Rửa tạp bằng 15 mL nước cất, tốc độ 1
giọt/giây. Rửa giải bằng 1 mL MeOH, tốc độ 1 giọt/giây, rồi bơm vào LC-MS/MS.
Phân tích bằng LC-MS/MS: hệ thống AB Sciex Triple Quad 5500 [80]. Pha
động chạy theo chương trình gradient như sau:
Bảng 2. 1. Chương trình gradient phân tích aflatoxin
Thời gian (phút)
Tỷ lệ % MeOH
Tỷ lệ % Amoniacetat 10 mM
0,01
95
5
4
0
100
5
0
100
5,01
95
5
10
95
5
Thể tích bơm mẫu: 10 µL. Tốc độ dòng pha động: 0,4 mL/phút
- Điều kiện khối phổ:
+ Nguồn ion hóa: Electrospray (ESI)
+ Thế ion hóa: 4000 KV
+ Chế độ: Ion dương
+ Nhiệt độ nguồn: 300 oC
+ Khí: Curtain gas: 25 psi; Ion source gas 1 : 30 psi; Ion source gas 2 : 10 psi.
47
+ Năng lượng bắn phá: CE = 30 eV
+ Ion chọn lọc : B1 : 313 –> 241, CE=41 ; ->269 , CE=37 B2 : 315 -> 259 , CE=35 ; ->287 , CE=43 G1 : 329 ->243 , CE47 ; ->215 , CE=41 G2 : 331 ->245 , CE=39 ; ->285 , CE=33
- Kết quả hàm lượng aflatoxin (B1, B2, G1, G2) được tính như sau [22, 80]:
(7) X = V × K × Cm/m
Trong đó :
X: hàm lượng aflatoxin B1, B2, G1, G2 trong mẫu phân tích (ng/g) V - Thể tích dịch chiết cuối cùng chạy máy (mL) K: Hệ số pha loãng (nếu có) Cm - Nồng độ aflatoxin B1, B2, G1, G2 trong dịch chiết mẫu tính theo chuẩn (ng/mL). m - Khối lượng của mẫu phân tích (g)
Kết quả xác nhận giá trị sử dụng của phương pháp thử xác định: Giới hạn phát
hiện (LOD) là 0,1 µg/kg; Giới hạn định lượng (LOQ) là 0,3 µg/kg.
Phương pháp đảm bảo tính chọn lọc và tính đặc hiệu, thể hiện trong kết quả xác
G
21
B
21
B
1
G
2
nhận giá trị IP bằng cách kiểm tra phân mảnh của các AF (hình 2.1).
Hình 2. 1. Sắc đồ phân mảnh của các aflatoxin
Thực hiện phân tích các mẫu trắng và kiểm tra tỷ lệ đáp ứng tín hiệu của ion
48
định lượng và ion định tính thực hiện trên chuẩn và trên mẫu lạc không có AF.
Mặt khác trên sắc đồ mẫu trắng không xuất hiện pic tại các thời gian lưu của
các aflatoxin nghiên cứu. Còn trên sắc đồ mẫu thêm chuẩn có xuất hiện các pic tại
các thời gian lưu tương ứng. Như vậy phương pháp có tính đặc hiệu và chọn lọc đáp
ứng yêu cầu.
Sắc đồ các điểm chuẩn và đường chuẩn AFB1 như hình 2.2.
Hình 2. 2. Sắc đồ các điểm chuẩn Aflatoxin B1
Sắc đồ chuẩn AF và đường nền như các hình 2.3, 2.4, 2.5 và 2.6 dưới đây.
Hình 2. 3. Sắc đồ đường nền và chuẩn AFB1
Hình 2. 4. Sắc đồ đường nền và chuẩn AFB2
49
Hình 2. 5. Sắc đồ đường nền và chuẩn AFG1
Hình 2. 6. Sắc đồ đường nền và chuẩn AFG2
2.3.3. Đánh giá về mặt cảm quan của các mẫu lạc thu thập mùa thu năm
2013
Trong quá trình lấy mẫu vào mùa thu tại một tỉnh được lựa chọn trong 3 tỉnh
nghiên cứu, để đánh giá mối liên quan giữa tình trạng mẫu và tình trạng nhiễm
aflatoxin, nghiên cứu đã đánh giá về mặt cảm quan. Tình trạng mẫu khi lấy được ghi
chép lại và theo dõi đến khi có kết quả kiểm nghiệm (nguyên hạt/ hạt vỡ, dóc vỏ lụa/
không dóc vỏ lụa, hạt mẩy/ hạt nhăn/ hạt lép, màu khác thường - không hồng, không
đỏ, có vết màu khác so với những hạt bình thường: đen, vàng, ...).
Các yếu tố giả thiết là không có nguy cơ liên quan đến tình trạng nhiễm aflatoxin
trong lạc nhân như:
- Nguyên hạt: hạt còn nguyên vỏ lụa, không bị trầy xước, không bị vỡ.
- Hạt mẩy: hạt căng đầy, không có vết nhăn, bề mặt nhẵn.
- Dóc vỏ lụa: hạt lạc khô, dễ dóc vỏ lụa khi để xoa trên lòng bàn tay.
Các yếu tố giả thiết là có nguy cơ liên quan đến tình trạng nhiễm aflatoxin trong
lạc nhân như:
- Hạt vỡ (Nhân bị vỡ và tách đôi): nhân bị vỡ là nhân có phần vỡ lớn hơn một
phần tư nhân. Nhân tách đôi là nhân bị tách làm hai mảnh, hạt vỡ chiếm tới 3%
tổng số hạt trong mẫu lấy [23].
- Hạt nhăn/ lép: Nhăn do chưa phát triển hoàn chỉnh và nhăn lại, hạt nhăn chiếm
50
tới 5% tổng số hạt trong mẫu lấy [23].
- Hạt bị biến màu: Hạt bị biến màu sẫm hơn màu vàng nhạt hoặc có nhiều đốm
màu vàng nhạt; và/hoặc lớp vỏ bị biến màu thành nâu sẫm, xám sẫm, xanh sẫm
hoặc đen và lớn hơn 25 % nhân. Hạt bị biến màu chiếm tới 3 % tổng số hạt trong
mẫu lấy [23].
- Không dóc vỏ lụa: hạt lạc không dễ dóc vỏ lụa khi để xoa trên lòng bàn tay.
- Có mầm: hạt có mầm nhú ra khỏi vỏ áo, đã bị héo khô do quá trình làm khô hạt.
- Có mốc: có mốc nhìn thấy trên bề mặt hạt lạc.
Các yếu tố giả thiết là không có nguy cơ liên quan đến tình trạng nhiễm aflatoxin
trong lạc củ là lạc sạch: lạc không có lẫn các tạp chất hữu cơ và vô cơ.
Các yếu tố giả thiết là có nguy cơ liên quan đến tình trạng nhiễm aflatoxin trong
lạc củ như:
- Lạc có tạp: có lẫn tạp chất vô cơ hoặc hữu cơ không phải lạc (đá, bụi, thân cây,
hạt khác,…) từ 0,1 % số củ.
- Hạt mốc: có hình sợi mốc có thể quan sát được.
2.4. Phương pháp phân tích sinh học
2.4.1. Xác định tổng số bào tử nấm men - mốc
Xác định tổng số bào tử nấm men - mốc bằng kỹ thuật đếm khuẩn lạc theo
TCVN 8275-2:2010 (ISO 21527-2:2008) [24] như sau:
- Tiến hành thử: Cân 10 g mẫu thử vào 9 phần dung dịch muối pepton, trộn đều.
Dung dịch pha loãng ban đầu được pha loãng tiếp theo bằng cách lặp lại các thao
tác pha loãng cho đến khi thu được các dãy dung dịch pha loãng thập phân thích
hợp. Lắc các dung dịch pha loãng, dùng pipet vô trùng chuyển 0,1 mL mẫu dạng
lỏng cho vào một đĩa thạch DG18, dùng các pipet vô trùng khác nhau để chuyển
các dung dịch pha loãng tiếp theo vào các đĩa thạch khác nhau. Ủ các đĩa này
trong môi trường hiếu khí, nắp hướng lên trên, tư thế thẳng đứng trong tủ ấm ở
25±1 oC trong 5 ngày đến 7 ngày.
- Đếm và chọn các khuẩn lạc để khẳng định: Chọn các đĩa chứa ít hơn 150 khuẩn
lạc/đĩa và đếm. Nếu trên các đĩa có nấm mốc phát triển quá nhanh thì có thể đếm
51
các khuẩn lạc sau khi ủ 2 ngày và đếm lại sau khi ủ 5 ngày đến 7 ngày.
- Tính toán kết quả: Tính số lượng N vi sinh vật có mặt trong mẫu thử theo trung
∑ 𝐶
bình từ hai độ pha loãng liên tiếp. Kết quả được tính theo công thức sau:
(8)
N =
V×1,1×d
Trong đó:
C là tổng số khuẩn lạc đếm được trên hai đĩa được giữ lại từ hai độ pha loãng
liên tiếp và trong đó ít nhất một đĩa có chứa tối thiểu 10 khuẩn lạc;
V là thể tích dịch cấy trên mỗi đĩa, tính bằng mililit;
d là hệ số pha loãng tương ứng với độ pha loãng thứ nhất được giữ lại.
Làm tròn số các kết quả thu được đến hai chữ số có nghĩa.
Lấy kết quả là số thích hợp giữa 1,0 và 9,9 nhân với 10x, trong đó x là lũy thừa tương
ứng của 10, hoặc làm tròn số với hai chữ số có nghĩa.
2.4.2. Phân lập nấm mốc sinh độc tố từ lạc
- Phân lập nấm trên lạc theo Hướng dẫn định danh nấm mốc trên hạt cao lương
bằng hình ảnh [109] và TCVN 8275-2:2010 [24].
- Nhận diện nấm quan sát được theo mô tả hình thái của A. flavus trong Mô tả
nấm trong y học [45] và Hướng dẫn định danh nấm mốc trên hạt cao lương bằng
hình ảnh [109].
- Nấm được làm thuần bằng cách cấy chấm điểm trên đĩa thạch SDA.
2.4.3. Định danh nấm mốc Aspergillus flavus
Phương pháp định danh tham chiếu phương pháp định danh Aspergillus flavus
trên tạp chí ứng dụng vi sinh [101].
- Bào tử nấm được thu từ đĩa nuôi cấy bằng cách sử dụng 0,05 % Tween 80, ly
tâm 1000 vòng/ 5 phút, sau đó gạn lấy bào tử và bảo quản bằng glycerol 30 %
trong tủ lạnh đông.
- Tách chiết DNA bằng TES (10 mM Tris-HCl, 1mM EDTA, pH 8,0, SDS 1%),
52
cát trắng, ly tâm rồi thu phần trên.
- DNA được làm sạch bằng hỗn hợp phenol: chloroform: isoamyl alcohol
(25:24:1), sodium acetate, ethanol; DNA được cô đặc bằng máy cô đặc miVAC,
sau đó thêm 100 L nước khử ion. Dựa vào khả năng hấp thu ánh sáng tử ngoại
ở bước sóng 260 nm (A260) của các phân tử ADN. Từ giá trị mật độ quang ở
bước sóng 260 nm của các mẫu đo bằng máy đo độ hấp thu ánh sáng tử ngoại
nanodrop, với hệ số A260 = 1 tương đương với 50 µg/mL, chúng ta tính được
nồng độ DNA theo công thức C = A260 × 50 × n (trong đó n là số lần pha loãng).
Độ sạch của DNA được so sánh bằng đo tỉ số mật độ quang của mẫu DNA ở
bước sóng 260 nm và 280 nm, tỉ số A260/A280 trong khoảng 1,8 ÷ 2,2 thì DNA
chiết được là sạch.
- Khuếch đại DNA bằng PCR và điện di sản phẩm khuếch đại: nhằm tăng bản sao
đoạn DNA đoạn mồi ITS1 và ITS2. Khuếch đại PCR được thực hiện trên 50 L
hỗn hợp phản ứng: 25 µL của Master mix 2X, 19 µL H2O, 2 µL của mỗi mồi
(ITS1 và ITS2), và 2 µL dịch chiết DNA. Chương trình PCR thực hiện như sau:
1) 1 bước ở 96 ºC trong 4 phút; 2) 35 chu kỳ theo 3 bước: 45 giây ở 94 ºC, 1
phút gia nhiệt ở 57 ºC), 1 phút 20 giây ở 72 ºC; và 3) 1 bước cuối trong 8 phút
ở 72 ºC.
- Sản phẩm PCR được kiểm tra bằng điện di trên gel chứa 1,5 % agarose + 0,5 %
ethidium bromide trong đệm 1×TAE (40 mM Tris base; 40 mM acetic acid; 1,0
mM EDTA; pH 8,0) và quan sát dưới ánh sáng đèn UV. Sử dụng thang đo DNA
chuẩn để xác định chiều dài tương đối của sản phẩm PCR. Kết quả phân tích
được xem xét kết luận là có gen của A. flavus khi mẫu có sản phẩm khuếch đại
DNA với kích thước 600 bp.
- Giải trình tự gen, so sánh trên ngân hàng gen: Các mẫu giải trình tự tiến hành
tại công ty 1st BASE Sequencing INT, Hàn Quốc. Trình tự thô sẽ được xử lý tiếp
bằng phần mềm FinchTV để chọn những nucleotide phù hợp cho các sắc đồ.
Trình tự nucleotid chuẩn được chuyển lên công cụ BLAST tại NCBI so sánh với
chủng đã định danh có trình tự ITS được công bố tương đồng trên 98 %, lựa
53
chọn chủng có điểm tương đồng cao nhất.
- Khẳng định chủng đã phân lập được có khả năng sinh aflatoxin: 1 mL của dung
dịch bào tử thu được sau khi phân lập và làm thuần chủng, thêm vào 50 g lạc đã
tiệt trùng rồi nuôi cấy trong 10 ngày. Sau đó đem mẫu lạc này đi phân tích
aflatoxin bằng LC-MS/MS.
- Chọn một trong số các chủng phân lập được có khả năng sinh aflatoxin mạnh
nhất để sử dụng cho nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh
aflatoxin, chủng lựa chọn được đặt tên là Aspergillus flavus BG1.
2.4.3. Chuẩn bị dịch bào tử Aspergillus flavus với hàm lượng khác nhau
Để đạt được mức nhiễm A. flavus theo thiết kế thí nghiệm các yếu tố ảnh hưởng
đến sự phát triển và sinh aflatoxin của nấm mốc này, nghiên cứu cần thực hiện:
- Pha loãng dịch bào tử thu ban đầu (hình 2.7)
Hình 2. 7. Mô phỏng quá trình pha loãng dịch bào tử A. flavus
- Xác định bằng phương pháp đếm bào tử (buồng đếm hồng cầu) hoặc,
- Xác định lại nồng độ bằng kỹ thuật đổ đĩa bằng cách cấy 1 mL dịch pha loãng ở
mỗi nồng độ đã chọn vào các đĩa petri. Đổ 15 mL môi trường SDA vào các đĩa
vừa cấy, lắc đều. Dùng giấy sạch gói các đĩa lại, ủ ở 25 oC trong 5 ngày (hình 2.8).
Hình 2. 8. Mô phỏng quá trình cấy dịch bào tử pha loãng trên đĩa thạch
Từ kết quả đổ đĩa của dịch bào tử ở các nồng độ khác nhau, tính nồng độ của
54
dịch bào tử ban đầu theo công thức:
∑ 𝐶
(9)
N =
V×1,1×d
Trong đó:
C là tổng số khuẩn lạc đếm được trên hai đĩa được giữ lại từ hai độ pha loãng
liên tiếp và trong đó ít nhất một đĩa có chứa tối thiểu 10 khuẩn lạc;
V là thể tích dịch cấy trên mỗi đĩa, tính bằng mililit;
d là hệ số pha loãng tương ứng với độ pha loãng thứ nhất được giữ lại.
Làm tròn số các kết quả thu được đến hai chữ số có nghĩa.
Lấy kết quả là số thích hợp giữa 1,0 và 9,9 nhân với 10x, trong đó x là lũy thừa
tương ứng của 10, hoặc làm tròn số với hai chữ số có nghĩa.
2.5. Đánh giá mức độ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc
2.5.1. Đánh giá trên lạc nhân, lạc củ và lạc rang húng lìu thu thập tại Bắc
Giang, Thanh Hóa và Nghệ An vào mùa hè
* Nghiên cứu mô tả thực hiện tại các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang.
* Đối tượng mẫu gồm 3 loại sản phẩm: lạc củ, lạc nhân và lạc rang húng lìu.
* Thời gian thực hiện: tháng 6-7/2013.
* Chỉ tiêu phân tích: Hàm lượng aflatoxin B1, B2, G1, G2 và Tổng số nấm mốc
trên lạc.
Từ kết quả nghiên cứu và so sánh, tỉnh có mức độ nhiễm nấm men-mốc và
aflatoxin trên lạc, chọn một trong 3 tỉnh trên để triển khai nghiên cứu tiếp theo.
2.5.2. Đánh giá mức nhiễm AF, nấm mốc trên lạc củ và lạc nhân vào mùa
thu
* Địa điểm: một trong ba tỉnh được lựa chọn nghiên cứu tiếp theo sau kết quả của
nghiên cứu 2.5.1.
* Thời gian thực hiện: tháng 9 - 10/2013 vào mùa thu.
55
* Ghi chép tình trạng mẫu trong quá trình thu thập mẫu.
* Chỉ tiêu phân tích: Độ ẩm, hàm lượng AFB1, B2, G1, G2 và Tổng số nấm mốc
trong lạc.
Từ kết quả phân tích độ ẩm, mức độ nhiễm aflatoxin và nấm mốc trên lạc, kết
hợp với tình trạng mẫu ghi chép trong quá trình lấy mẫu chúng tôi phân tích mối liên
quan giữa tình trạng mẫu và mức nhiễm aflatoxin trong lạc.
2.6. Phương pháp công nghệ
Trong nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh aflatoxin trong
lạc của Aspergillus flavus, độ ẩm của lạc là một yếu tố quan trọng được quan tâm
đến, để đạt được độ ẩm của lạc theo thiết kế thí nghiệm, nghiên cứu thực hiện như
sau.
2.6.1. Điều chỉnh độ ẩm của lạc thí nghiệm
Nước cất được thêm vào trên bề mặt của lạc trong túi PVC vô trùng. Lắc, nhào,
trộn, túi sau đó được làm lạnh xuống 4 oC trong 48 h. Kiểm tra lại độ ẩm của lạc trước
khi đưa vào thí nghiệm, sai số cho phép là 0,3 %.
Cách tính lượng nước bổ sung vào lạc theo công thức sau:
(10)
=
𝑚1 𝑚0
𝑤2−𝑤0 𝑤1−𝑤2
Trong đó:
m1: lượng nước cần bổ sung vào (g/ mL)
m0: lượng lạc ban đầu (g)
w0: độ ẩm của lạc ban đầu (%)
w1: độ ẩm của nước dùng bổ sung = 100 (%)
w2: độ ẩm của lạc cần điều chỉnh đến (%)
Ghi chú: với các thí nghiệm có gây nhiễm A. flavus BG1, lượng nước tính toán
bổ sung sẽ trừ đi 1 mL/100 g lạc, do 1 mL dịch bào tử A. flavus.
2.6.2. Thiết kế thí nghiệm: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát
triển và sinh aflatoxin trên lạc của Aspergillus flavus
Độ ẩm là một trong những yếu tố quan trọng cho vi sinh vật tồn tại và phát triển,
56
lạc trong quá trình bảo quản có thể hút ẩm từ môi trường bên ngoài, hoặc xảy ra hô
hấp hiếu khí hấp thu ôxy và tạo ra nước làm tăng độ ẩm của lạc. Bao bì chứa đựng
ngăn thấm khí tốt có thể hạn chế sự thay đổi độ ẩm trong lạc. Do đó luận án thực hiện
nghiên cứu ảnh hưởng của các loại bao bì đối với sự thay đổi độ ẩm của lạc.
2.6.2.1. Thiết kế nghiên cứu ảnh hưởng của bao bì tới sự thay đổi độ ẩm của lạc
- Lạc củ, lạc nhân được thu thập tại các hộ gia đình tại địa bàn huyện Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang, đây là lạc thu hoạch vào vụ Xuân khoảng tháng 5 - 6/2014.
- Bao bì sử dụng trong nghiên cứu: bao đay, bao tải hai lớp (lớp ngoài là bao tải
dứa làm từ vật liệu PP, lớp trong là túi PE có độ dày 80 µm), túi PE độ dày 80
µm, túi PVC độ dày 100 µm.
- Phương pháp truyền thống: lạc đựng trong bao đay, bao tải hai lớp. Mỗi bao
đựng 25 kg.
- Bảo quản trong phòng có kiểm soát nhiệt độ 25±2 oC.
- Độ ẩm được kiểm tra hàng tháng trong vòng 4 tháng.
Từ kết quả nghiên cứu sự thay đổi độ ẩm của lạc trong các loại bao bì, luận án
lựa chọn bao bì thích hợp đảm bảo chống thấm khí tốt để dùng cho các nghiên cứu
các yếu tố ảnh hưởng tiếp theo.
Thiết kế thí nghiệm chung cho các nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố độ ẩm,
nhiệt độ, mức nhiễm A. flavus và ảnh hưởng của áp lực hút chân không. Các điều
kiện: mức nhiễm A. flavus, nhiệt độ, độ ẩm được cố định như nhau trong các nghiên
cứu, đối với nghiên cứu yếu tố nào thì yếu tố đó sẽ được thay đổi còn các yếu tố còn
lại cố định ở một điều kiện. Điều kiện cố định chung của các nghiên cứu như sau:
* Lượng mẫu và quy cách đóng gói: 100 g lạc/túi hàn kín.
* Mẫu chứng 1 (C1): mẫu không gây nhiễm A. flavus, để ở điều kiện nhiệt độ phòng.
* Mẫu chứng 2 (C2): mẫu gây nhiễm 103 CFU A. flavus/g, ở điều kiện nhiệt độ phòng.
* Độ ẩm của lạc thí nghiệm: 10 %. Sau khi xác định độ ẩm ban đầu của lạc, lạc được
điều chỉnh đến độ ẩm thí nghiệm như mục 2.6.1.
* Mức nhiễm A. flavus: 103 CFU A. flavus /g.
57
* Nhiệt độ: 25 oC. Lạc thí nghiệm được để trong tủ ổn nhiệt với nhiệt độ 25±2 oC.
* Thời gian nghiên cứu và tần suất kiểm tra: Mẫu được bảo quản trong 4 tháng,
quan sát sự phát triển của A. flavus hàng tuần, định lượng aflatoxin trong lạc thực
hiện 2 tuần/lần, mỗi lần phân tích lấy ra 3 túi để đồng nhất mẫu và phân tích.
2.6.2.2. Thiết kế nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm
* Độ ẩm của lạc: Lạc đưa vào thí nghiệm được điều chỉnh đến độ ẩm 6, 8, 10, 12 và
14 % với ký hiệu tương ứng là: M11, M12, M13, M14 và M15.
* Các yếu tố còn lại: Mức nhiễm nấm A. flavus và nhiệt độ lưu giữ cố định chung
như các nghiên cứu khác.
* Số lượng túi mẫu cho thí nghiệm: Mỗi lần lấy 3 túi, đồng nhất mẫu và kiểm tra
hàm lượng AF. Thí nghiệm thực hiện trong 4 tháng, kiểm tra 2 lần/tháng. Tổng số túi
mẫu: 3 túi/mẫu × (5 mức độ ẩm + 2 mẫu chứng) × 8 lần = 168 túi (hình 2.9).
Hình 2. 9. Mẫu lạc thí nghiệm ảnh hưởng của độ ẩm tới sự phát triển và sinh AF
2.6.2.3. Thiết kế nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ
* Nhiệt độ bảo quản: Các mẫu thí nghiệm để trong tủ ổn nhiệt ở nhiệt độ 20, 25, 30,
35 và 40 1 oC. Các mẫu được ký hiệu tương ứng: M21, M22, M23, M24 và M25.
* Các yếu tố còn lại: Mức nhiễm nấm A. flavus và độ ẩm cố định chung như các
nghiên cứu khác.
* Số lượng túi mẫu cho thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ: Tổng số túi mẫu chuẩn
58
bị: 3 túi/mẫu × 5 mức nhiệt độ × 8 lần/thí nghiệm = 120 túi (hình 2.10).
Hình 2. 10. Mẫu lạc thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ tới sự phát triển và sinh AF
2.6.2.4. Thiết kế nghiên cứu ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus đến sự phát
triển và sinh aflatoxin trên lạc
* Mức nhiễm nấm A. flavus BG1 trong các mẫu: 100, 101, 102, 103, 104, 105 và 106
CFU A. flavus/g. Ký hiệu tương ứng là M51, M52, M53, M54, M55, M56, M57.
* Các yếu tố còn lại: độ ẩm và nhiệt độ cố định chung như các nghiên cứu khác.
* Số lượng túi mẫu cho thí nghiệm: Tổng số túi chuẩn bị là 3 túi/mẫu × 7 mức nhiễm
A. flavus BG1 × 8 lần = 168 túi (hình 2.11).
Hình 2. 11. Mẫu thí nghiệm ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus B1
2.6.2.4. Thiết kế nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện hút chân không đến sự
phát triển và sinh aflatoxin trên lạc của A. flavus BG1
* Áp lực hút chân không của các mẫu là 50, 100, 150, 200 và 350 mmHg có ký hiệu
tương ứng là M31, M32, 33, M34 và M35.
* Các yếu tố còn lại: Mức nhiễm nấm A. flavus, nhiệt độ và độ ẩm cố định chung
như các nghiên cứu khác.
* Số lượng túi mẫu cho thí nghiệm: Tổng số túi chuẩn bị là 3 túi/mẫu × 5 mức áp
59
lực hút chân không × 8 lần = 120 túi (hình 2.12).
Hình 2. 12. Mẫu thí nghiệm điều kiện hút chân không
Mô hình thực nghiệm hút chân không như hình 2.13.
Hình 2. 13. Mô hình thực nghiệm hút chân không
Ghi chú: 1) Bao bì nguyên liệu; 2) Bơm hút chân không; 3) Đồng hồ đo ấp suất chân không
2.6.2.4. Thiết kế nghiên cứu ảnh hưởng của tinh dầu hồi, quế đến khả năng ức
chế sự phát triển của chủng đã phân lập
a) Nghiên cứu khả năng ức chế của tinh dầu hồi, quế đến sự phát triển của chủng
phân lập được trên môi trường thạch
Nồng độ tinh dầu được chọn theo phương pháp nhân đôi để tìm ra nồng độ ức
chế tối thiểu (MIC), sử dụng. (hồi, quế) với dãy 9 nồng độ từ: 0,0125; 0,025; 0,05;
0,1; 0,2; 0,4; 0,8; 1,6 và 3,2 %v/v.
Lượng thạch đổ đĩa là 30 mL/đĩa, tinh dầu không tan trong thạch nên chúng tôi
đã tiến hành thử với lượng tinh dầu nhiều nhất trong một đĩa là 10,666 mL (tương
đương với 3,2 %v/v) cần dùng một lượng 440 L tween 20 để hòa tan được tinh dầu
trong thạch. Mỗi thí nghiệm được chuẩn bị cho 6 đĩa × 9 nồng độ tinh dầu × 2 loại
60
tinh dầu = 108 đĩa.
Chuẩn bị thạch cho mỗi nồng độ tinh dầu: đổ 50 mL thạch ấm vào ống đong
dung tích 200 mL, thêm 440 mL tween 20, thêm lượng tinh dầu như đã tính toán
(bảng PL 2.5 trong phụ lục), rồi đổ thạch vào đến vạch 180 mL, đổ sang bình tam
giác, lắc đều rồi rót vào đĩa thí nghiệm đã ghi ký hiệu tinh dầu (Hồi - H, Quế - Q)
cùng nồng độ tương ứng.
Chủng A. flavus hàm lượng 103 CFU/mL được cấy điểm 10 L trên môi trường
thạch, nuôi cấy ở điều kiện nhiệt độ 25±2 oC trong vòng 1 tháng. Đo đường kính phát
triển của khuẩn lạc được đo lần đầu sau 3 ngày, sau đó 2 ngày/lần cho đến khi nấm
phát triển tràn đĩa (100 %). Khả năng ức chế của tinh dầu đối với sự phát triển của A.
flavus BG1 được đánh giá thông qua đo đường kính phát triển của khuẩn lạc bằng
thước đo có độ chính xác 0,1cm (hình 2.14).
Hình 2. 14. Đo kích thước đường kính A. flavus
Mỗi lần đo 4 đĩa/nồng độ với mỗi loại tinh dầu để tính đường kính trung bình.
Lần đầu đo sau 3 ngày nuôi cấy, sau đó đo 2 ngày/lần, thực hiện như sau: điểm
0 của thước được đặt thẳng hàng với mắt nhìn và viền ngoài màu trắng của khuẩn lạc,
lấy điểm 0 của thước làm tâm điểm, xoay đầu còn lại của thước và quan sát vạch chia
của thước trùng với viền ngoài màu trắng của khuẩn lạc đến khi đọc được giá trị lớn
nhất thì ghi kết quả đến 0,1 cm.
b) Nghiên cứu khả năng ức chế của tinh dầu hồi, quế đến sự phát triển của chủng
phân lập được trên lạc nhân thí nghiệm
Từ kết quả xác định hàm lượng tinh dầu có khả năng ức chế sự phát triển của A.
61
flavus. Chọn 4 nồng độ tinh dầu để thí nghiệm trong nghiên cứu này.
Chuẩn bị thí nghiệm (hình 2.15): Cân 50 g lạc nhân vào đĩa petri 140 sạch,
cho 1 mL dịch bào tử rải đều trên bề mặt hạt lạc, nhỏ tinh dầu theo tính toán lên giấy
lọc Whatman đã tiệt trùng, đậy nắp, bọc giấy parafilm, cho lên máy lắc ngang lắc
trong 24 h ở 25 oC, sau đó theo dõi thí nghiệm ở điều kiện nhiệt độ 25±2 oC.
Hình 2. 15. Thí nghiệm ảnh hưởng của tinh dầu trên lạc thí nghiệm
Số đĩa petri chuẩn bị cho thí nghiệm: 4 nồng độ × 3 đĩa/lần kiểm tra × 5 lần kiểm
tra × 2 loại tinh dầu + 3 đĩa đối chứng × 5 lần kiểm tra = 140 đĩa (mỗi lần phân tích
tổng nấm và aflatoxin, chọn 3 đĩa/lần để đồng nhất rồi phân tích mẫu).
Thời gian phân tích tổng nấm và aflatoxin: 7 ngày/lần, trong vòng 28 ngày.
2.6.3. Thiết kế thí nghiệm nghiên cứu các giải pháp và đề xuất một số quy
trình nhằm giảm nhiễm aflatoxin trong lạc
2.6.3.1. Bảo quản lạc nhân ở điều kiện kiểm soát chất lượng trước khi đưa vào
bảo quản lạc và điều kiện môi trường trong quá trình bảo quản lạc
Lạc nhân trước khi bảo quản được kiểm tra chất lượng theo đề xuất từ kết quả
của nghiên cứu 2.6.2 về: độ ẩm, mức nhiễm nấm mốc và chưa bị nhiễm aflatoxin.
Việc kiểm tra phát hiện lạc nhiễm aflatoxin theo mô hình hình 2.16. Lạc được loại
62
những hạt mốc, lép, nhăn, hạt biến màu.
Hình 2. 16. Mô phỏng phát hiện lạc nhiễm AF bằng đèn UV ở bước sóng 365 nm
- Điều kiện bảo quản: lạc đóng bằng bao tải hai lớp, 50 kg/bao, để trên kệ gỗ,
trong phòng ở điều kiện nhiệt độ 25±2 oC trong 6 tháng.
- Các mẫu được kiểm tra aflatoxin hàng tháng, mẫu được lấy từ các bao tại các vị
trí: bên trên, giữa và đáy bao với lượng mẫu chung là 1 kg.
2.6.3.2. Bảo quản lạc nhân bằng cách sử dụng tinh dầu hồi hoặc quế
Từ kết quả nồng độ tinh dầu có thể ức chế sự phát triển và sinh AF của nấm mốc
trên lạc nhân thí nghiệm trong nghiên cứu 2.6.2.4. Chọn 3 nồng độ tinh dầu để thực
hiện khảo nghiệm quy trình bảo quản bằng tinh dầu quy mô hộ gia đình như sau: Bao
tải hai lớp có thể đóng được 5 kg lạc nhân. Cho tinh dầu tự nhiên được thấm vào giấy
lọc và cho vào các bao mẫu với các nồng khác nhau. Giấy lọc được đặt vào bên trong
ở giữa bao, sau đó đổ lạc nhân vào 2 bên giấy lọc rồi đóng gói kín.
Tần suất kiểm tra: Phân tích tổng số bào tử nấm, hàm lượng aflatoxin sau các
khoảng thời gian 1 tháng/lần, trong 12 tháng.
2.7. Xử lý số liệu
Xử lý số liệu thông qua phân tích thống kê sử dụng phần mềm R [14].
- So sánh sự khác biệt giữa các tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc
tại các tỉnh khác nhau, sử dụng hàm prop.test sau đó dùng kiểm định Khi bình
63
phương (2) cho biết trên phương diện thống kê các tỉ lệ này có khác nhau không.
- Để tìm được mối liên quan giữa tình trạng mẫu với tình trạng nhiễm aflatoxin
trong lạc ta sử dụng tỉ số nguy cơ (Relative Risk hay Risk Ratio – RR). Nhóm
n1 các mẫu lạc có yếu tố có được cho là yếu tố bất lợi liên quan đến tình trạng
nhiễm aflatoxin trong lạc, có k1 mẫu phát hiện nhiễm AF, p1=k1/n1; nhóm n2
các mẫu có các yếu tố được cho là có lợi, không có nguy cơ có liên quan đến
tình trạng nhiễm aflatoxin trong lạc, có k2 mẫu phát hiện nhiễm aflatoxin,
p2=k2/n2. Ta có tỉ số RR = p1/p2.
+ Nếu RR = 1 (tức là p1=p2): ta nói rằng không có mối liên hệ nào giữa yếu
tố nguy cơ và khả năng nhiễm aflatoxin;
+ Nếu RR > 1 (tức là p1>p2), cúng ta có thể phát biểu rằng yếu tố nguy cơ làm
tăng khả năng nhiễm aflatoxin;
+ Nếu RR < 1 (tức là p1 nhiễm aflatoxin. - So sánh sự khác biệt giữa độ ẩm lạc thu thập tại hộ gia đình và hộ kinh doanh bằng hàm t-test cho biết trên phương diện thống kê độ ẩm của lạc thu thập từ hai loại hình này có khác nhau không. - Để xác định một yếu tố có liên hệ tuyến tính với mức nhiễm aflatoxin trong lạc, chúng ta phân tích hồi quy tuyến tính đơn giản. Mô hình hồi quy tuyến tính đơn giản (simple linear regression model) là mô hình có một yếu tố duy nhất (là x) được diễn đạt qua phương trình: y = + x + (11) - Dùng phân tích BMA để tìm ra mô hình tối ưu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh aflatoxin trong lạc bằng chương trình phần mềm phân tích thống kê R [14]. Mô hình tối ưu tìm được là mô hình có ít yếu tố nhiễu nhất, có thông số BIC (Bayesian Information Criteria) nhỏ nhất và xác xuất cho mô hình là cao nhất (post prob). - Sau khi tìm được mô hình tối ưu ở trên, chúng ta sử dụng mô hình hồi quy tuyến 64 tính đa biến (multiple linear regression) để tìm ra phương trình hồi quy tuyến tính mô phỏng khả năng nhiễm aflatoxin trong lạc với các yếu tố ảnh hưởng trên. Đối với mô hình hồi quy tuyến tính đa biến ta có phương trình: (12) yi = + 1x2 + 2x2 +…+ kxk +I - Để xác định mối tương quan giữa các biến ta dùng lệnh “pairs.panels” trong R để tìm mối tương quan, tỉ số tương quan giữa hai biến càng lớn thể hiện mối quan hệ phụ thuộc giữa hai biến càng cao. - Trường hợp yếu tố ảnh hưởng có tỉ số tương quan với mức nhiễm aflatoxin thâm và hai biến này không có quan hệ tuyến tính, để xác định điểm tối ưu của yếu tố đó ảnh hưởng đến phát hiện sinh aflatoxin, dùng lệnh “hist” và “plot(density)” 65 để vẽ biểu đồ tần suất phân phối chuẩn. 66 Miền Bắc có diện tích trồng lạc lớn nhất trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh Bắc Giang, Thanh Hóa và Nghệ An. Nghiên cứu đã tiến hành lấy mẫu đánh giá mức độ nhiễm nấm mốc và aflatoxin trong lạc nhân, lạc củ và lạc rang húng lìu thu thập vào mùa hè và mùa thu tại các tỉnh Bắc Giang, Thanh Hóa và Nghệ An. Tại các tỉnh phía Bắc và miền Trung thường trồng lạc vào vụ Xuân và vụ Đông [11], thời điểm thu hoạch vào khoảng tháng 6-7 và tháng 12 năm trước đến tháng 1 năm sau [3], nông dân miền Bắc có đến 95 % bảo quản trong thời gian ngắn còn miền Trung chỉ có 3 % bảo quản thời gian dài [11], do đó đa số lạc thu thập ngoài thị trường vào mùa hè (tháng 7-8) và mùa thu (tháng 9-10) có thời gian bảo quản trong khoảng 3-8 tháng. Theo kết quả thống kê về điều kiện nhiệt độ và độ ẩm trung bình các tháng của năm 2013 cho thấy [20], các mẫu lạc thu thập vào mùa hè chịu 4 tháng (từ tháng 1- 4) là thời gian có điều kiện nhiệt độ và độ ẩm không khí thích hợp cho nấm mốc phát triển, còn các mẫu lạc thu thập vào mùa thi có 3 tháng có điều kiện thích hợp cho nấm mốc phát triển (từ tháng 7 đến tháng 10). 3.1.1. Đánh giá mức độ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trên lạc nhân, lạc củ và lạc rang húng lìu thu thập vào mùa hè Nghiên cứu đã thu thập 90 mẫu lạc nhân, 90 mẫu lạc củ và 90 mẫu lạc rang húng lìu được thu thập tại các chợ ở các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang như mô tả trong mục 2.3. Kết quả phân tích tổng số bào tử nấm men-mốc và hàm lượng AF trong các mẫu lạc nhân, lạc củ và lạc rang húng lìu của cả ba tỉnh được tập hợp tại các bảng tương ứng: PL1.1, PL1.2 và PL1.3 trong Phụ lục I. 3.1.1.1. Mức độ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trên các mẫu lạc nhân Kết quả phân tích tổng số bào tử nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc nhân, 67 thể hiện trong bảng PL 2.1 tại Phụ lục I, được tóm tắt tại bảng 3.1. Số mẫu đã lấy 30 30 30 > 101 CFU/g (*) 14 16 18 Số mẫu nhiễm nấm men-
mốc ≥ 102 CFU/g (**) 10 10 12 > 0,1 µg/kg (*) 12 9 16 Số mẫu phát hiện nhiễm
aflatoxin 5 3 5 AFB1 > 8 g/kg (***) Ghi chú: (*) ngưỡng phát hiện của phương pháp
(**) ngưỡng tối đa cho phép mức nhiễm nấm mốc trong lạc của USDA và FDA - Philipin
(***) ngưỡng tối đa cho phép mức nhiễm aflatoxin B1 trong lạc theo QCVN 8-1:2011/BYT Từ số liệu bảng 3.1, mức độ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin các mẫu lạc nhân thu thập tại Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang có kết quả như sau: - Số mẫu phát hiện nhiễm nấm men-mốc trong các tỉnh trên lần lượt là 14; 16 và 18 mẫu; chiếm tỉ lệ nhiễm tương ứng là 46,7 %, 53,3 % và 60 %. Trong đó số mẫu vượt ngưỡng cho phép (102 CFU/g) tương ứng là 10; 10 và 12 chiếm tỉ lệ 30 %; 30 % và 40 %. - Số mẫu phát hiện nhiễm aflatoxin trong các tỉnh trên lần lượt là 12; 9 và 13 mẫu; chiếm tỉ lệ nhiễm tương ứng là 40 %, 30 % và 53,3 %. Trong đó số mẫu nhiễm aflatoxin B1 vượt ngưỡng cho phép (>8 µg/kg) tương ứng là 5; 3 và 5 chiếm tỉ lệ 16,7 %; 10,0 % và 16,7 % Để biết tỉ lệ mức nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin giữa các tỉnh có khác nhau hay không, sử dụng lệnh prop.test trong chương trình phân mềm phân tích dữ liệu R 68 cho kết quả như mục 3.2.1 tại Phụ lục 3. Kết quả phân tích thống kê như bảng 3.2. 2 Tổng số bào tử nấm 46,7 53,3 60,0 1,0714 0,5853 men-mốc Aflatoxin 40,0 30,0 53,3 3,3962 0,183 Tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc trong lạc nhân của các tỉnh như sau: 46,7 % tại Nghệ An; 53,3 % tại Thanh Hóa và 60,0 % tại Bắc Giang, tuy nhiên kiểm định 2 cho biết trên phương diện thống kê, các tỉ lệ này không khác nhau, vì trị số p = 0,5853. Tỉ lệ nhiễm aflatoxin trong lạc nhân của các tỉnh như sau: 40,0 % tại Nghệ An; 30,3 % tại Thanh Hóa và 53,3 % tại Bắc Giang, tuy nhiên kiểm định 2 cho biết trên phương diện thống kê, các tỉ lệ này không khác nhau, vì trị số p = 0,183. Kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy nấm mốc nhiễm trong lạc chủ yếu là Aspergillus flavus [73], trong đó nghiên cứu mức nhiễm A. flavus trong lạc tại Perak có mức nhiễm trong khoảng 1,0×102 đến 1,1×105 CFU/g với tỉ lệ số mẫu nhiễm chiếm tỉ lệ 77 % [70]. Trong nghiên cứu này chúng tôi phân tích tổng số nấm men-mốc với mức nhiễm trong khoảng 1,3×101 đến 9,3×108 CFU/g, mức nhiễm thấp nhất thấp hơn và mức nhiễm cao nhất cũng cao hơn nghiên cứu tại Perak, với tỉ lệ nhiễm tại ba tỉnh trong khoảng 46,7 - 60 %, thấp hơn nghiên cứu tại Perak. Aflatoxin nhiễm trong lạc nhân tại các tỉnh trong nghiên cứu này trong khoảng 0,34 đến 10.498 g/kg, thấp hơn kết quả mức nhiễm cao nhất trong thời gian xảy ra ngộ độc cấp tại Kenya vào năm 2004 (aflatoxin nhiễm trong thực phẩm ở mức 1 - 46.400 µg/kg) với 7 % số mẫu vượt mức 1.000 µg/kg [72], còn trong nghiên cứu này có 1 mẫu vượt 1.000 µg/kg (chiếm tỉ lệ 1,1 %), trong thời gian nghiên cứu không có vụ việc ngộ độc cấp do nhiễm aflatoxin tại Việt Nam. Mức nhiễm cao nhất trong nghiên cứu này cao hơn ở Brazil năm 2010 (5476,0 µg/kg) [83], cao hơn tại Perak (762,1 µg/kg) [70]. Số mẫu nhiễm trong nghiên cứu này chiếm tỉ lệ 30 - 53,3 % cao hơn tại Brazil (31,3 %) [83], Tây Bắc Nigeria (28,75 %) [73], thấp hơn so với Perak 69 (61 %) [70]. 3.1.1.2. Mức độ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trên mẫu lạc củ Kết quả phân tích tổng số bào tử nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc củ, thể hiện ở bảng PL 1.2 của Phụ lục I, được tóm tắt trong bảng 3.3. Số mẫu đã lấy 30 30 30 > 101 CFU/g (*) 16 13 17 Số mẫu nhiễm nấm men-
mốc ≥ 102 CFU/g (**) 10 9 11 > 0,1 µg/kg (*) 9 8 12 Số mẫu phát hiện nhiễm
aflatoxin 3 3 4 AFB1 > 8 g/kg (***) Ghi chú: (*) ngưỡng phát hiện của phương pháp (**) ngưỡng tối đa cho phép mức nhiễm nấm mốc trong lạc của USDA và FDA – Philipin (***) ngưỡng tối đa cho phép mức nhiễm aflatoxin B1 trong lạc theo QCVN 8-1:2011/BYT Từ số liệu bảng 3.3, mức độ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin các mẫu lạc củ thu thập tại Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang có kết quả như sau: - Số mẫu phát hiện nhiễm nấm men-mốc trong các tỉnh trên lần lượt là 16; 13 và 17 mẫu; chiếm tỉ lệ nhiễm tương ứng là 53,3 %; 43,3 % và 56,7 %. Trong đó số mẫu vượt ngưỡng cho phép (> 102 CFU/g) tương ứng là 10; 9 và 11 chiếm tỉ lệ 33,3 %; 30,0 % và 36,7 %. - Số mẫu phát hiện nhiễm aflatoxin trong các tỉnh trên lần lượt là 12; 9 và 12 mẫu; chiếm tỉ lệ nhiễm tương ứng là 40 %, 30 % và 40,0 %. Trong đó số mẫu nhiễm aflatoxin B1 vượt ngưỡng cho phép tương ứng là 3; 3 và 4 chiếm tỉ lệ 10,0 %; 10,0 % và 13,3 %. Để biết tỉ lệ mức nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc củ giữa các tỉnh có khác nhau hay không, sử dụng lệnh prop.test trong chương trình phân mềm phân tích 70 dữ liệu R như mục 3.2.2 tại Phụ lục 3. Kết quả phân tích thống kê như bảng 3.4. 2 53,3 43,3 56,7 1,1561 0,561 Tổng số bào tử nấm
men-mốc Aflatoxin 30,0 26,7 40,0 1,3228 0,5161 Tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc trong lạc củ của các tỉnh như sau: 53,3 % tại Nghệ An; 43,3 % tại Thanh Hóa và 56,7 % tại Bắc Giang, tuy nhiên kiểm định 2 cho biết trên phương diện thống kê, các tỉ lệ này không khác nhau, vì trị số p = 0,561. Tỉ lệ nhiễm aflatoxin trong lạc nhân của các tỉnh như sau: 30,0 % tại Nghệ An; 26,7 % tại Thanh Hóa và 40,0 % tại Bắc Giang, tuy nhiên kiểm định 2 cho biết trên phương diện thống kê, các tỉ lệ này không khác nhau, vì trị số p = 0,5161. Tổng số nấm men-mốc trong các mẫu lạc củ với mức nhiễm trong khoảng 1,3×101 đến 7,5×108 CFU/g, mức nhiễm thấp nhất thấp hơn và mức nhiễm cao nhất cũng cao hơn nghiên cứu tại Perak, với tỉ lệ nhiễm tại ba tỉnh trong khoảng 43,3 - 56,7 %, thấp hơn nghiên cứu tại Perak (77 %) [70]. Aflatoxin nhiễm trong lạc củ trong khoảng 0,64 đến 215 g/kg, mức nhiễm thấp hơn ở Brazil năm 2010 (5476,0 µg/kg) [83], Perak (762,1 µg/kg) [70]. Tỉ lệ số mẫu nhiễm trong nghiên cứu này chiếm tỉ lệ 26,7-40 % cao hơn tại Brazil (31,3 %) [83], Tây Bắc Nigeria (28,75 %) [73], thấp hơn so với Perak (61 %) [70] và thấp hơn tỉ lệ nhiễm trong lạc vỏ trong nghiên cứu của Lê Văn Giang công bố năm 2011 (98,3 % phát hiện vết) [7]. Kết quả trên cũng cho thấy, các mẫu nhiễm aflatoxin đều phát hiện nhiễm nấm mốc, nhưng không phải tất cả những mẫu nhiễm nấm mốc đều phát hiện aflatoxin. Như vậy, nấm mốc nhiễm trong lạc có cả các chủng sinh aflatoxin và chủng không sinh aflatoxin. Các mẫu nhiễm nấm vượt ngưỡng (>102 CFU/g) là những mẫu phát hiện 71 aflatoxin. Kết quả trong các bảng trên cũng cho thấy tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc nhân cao hơn trong lạc củ, như vậy lạc củ bảo quản tránh nhiễm nấm mốc và aflatoxin tốt hơn lạc nhân. 3.1.1.3. Mức độ nhiễm nấm men-mốc và AF trên mẫu lạc rang húng lìu Kết quả phân tích tổng số nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc rang húng lìu, thể hiện trong bảng PL 1.3 tại Phụ lục I, được tóm tắt trong bảng 3.5. Số mẫu đã lấy 30 30 30 > 101 CFU/g (*) 9 7 11 Số mẫu nhiễm nấm
men-mốc ≥ 102 CFU/g (**) 3 4 4 > 0,1 µg/kg (*) 2 1 4 Số mẫu phát hiện
nhiễm aflatoxin 0 0 0 AFB1 > 4 g/kg (***) Ghi chú: (*) ngưỡng phát hiện của phương pháp (**) ngưỡng tối đa cho phép mức nhiễm nấm mốc trong lạc của USDA và FDA – Philipin (***) ngưỡng tối đa cho phép mức nhiễm aflatoxin B1 trong lạc theo QCVN 8-1:2011/BYT Từ số liệu bảng 3.5, mức độ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin các mẫu lạc rang húng lìu thu thập tại Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang có kết quả như sau: - Số mẫu phát hiện nhiễm nấm men-mốc trong các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang lần lượt là 9; 7 và 11 mẫu; chiếm tỉ lệ nhiễm tương ứng là 30,0 %; 23,3 % và 36,7 %. Trong đó số mẫu vượt ngưỡng cho phép (> 102 CFU/g) tương ứng là 3; 4 và 4 chiếm tỉ lệ 10,0 %; 13,3 % và 13,3 %. - Số mẫu phát hiện nhiễm aflatoxin trong các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang lần lượt là 2; 1 và 4 mẫu; chiếm tỉ lệ nhiễm tương ứng là 6,67 %; 3,33 % và 13,3 %. Trong đó không có mẫu nào nhiễm aflatoxin B1 vượt ngưỡng cho 72 phép (> 4 µg/kg). Để biết tỉ lệ mức nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc rang giữa các tỉnh có khác nhau hay không, sử dụng lệnh prop.test trong chương trình phân mềm phân tích dữ liệu R. Kết quả phân tích thống kê như bảng 3.6. 2 30,0 23,3 36,7 1,2698 0,53 Tổng số bào tử nấm
men-mốc Aflatoxin 6,67 3,33 13,3 2,1687 0,3381 Tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc trong lạc củ của các tỉnh như sau: 30,0 % tại Nghệ An; 23,3 % tại Thanh Hóa và 36,7 % tại Bắc Giang, tuy nhiên kiểm định 2 cho biết trên phương diện thống kê, các tỉ lệ này không khác nhau, vì trị số p = 0,53. Tỉ lệ nhiễm aflatoxin trong lạc nhân của các tỉnh như sau: 6,67 % tại Nghệ An; 3,33 % tại Thanh Hóa và 13,3 % tại Bắc Giang, tuy nhiên kiểm định 2 cho biết trên phương diện thống kê, các tỉ lệ này không khác nhau, vì trị số p = 0,3381. Kết quả cũng cho thấy: - Mức nhiễm nấm men-mốc của lạc rang trong ba tỉnh nằm trong khoảng 1,1×101 đến 1×103 CFU/g, mức nhiễm này thấp hơn nhiều so với trong lạc nhân (1,3×101 - 9,3×108 CFU/g) và trong lạc củ (1,1×101 - 7,5×108 CFU/g). Tỉ lệ số mẫu nhiễm nấm men-mốc trong khoảng 26,7 - 40,0 % cũng thấp hơn trong lạc nhân (46,7 - 60 %) và trong lạc củ (43,3 - 56,7 %). - Mức nhiễm aflatoxin trong lạc rang húng lìu trong khoảng 0,65 - 2,3 g/kg. Mức nhiễm này thấp hơn nhiều trong lạc nhân (0,34 – 10.498 g/kg) và trong lạc củ (0,64 - 215 g/kg). Tỉ lệ nhiễm aflatoxin trong lạc rang húng lìu trong ba tỉnh nằm trong khoảng 6,7 - 13,3 %, thấp hơn nhiều trong lạc nhân (30 - 53,3 %) và trong lạc củ (26,7 - 40 %), không có mẫu nào vượt ngưỡng cho phép (4 g/kg). Kết quả tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc của lạc nhân, lạc củ và lạc rang húng lìu tại 3 73 tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang được biểu diễn như hình 3.1. Biểu đồ hình 3.1 cho thấy tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc trong các mẫu lạc nhân thu thập tại các tỉnh đều là cao nhất, sau đó đến lạc củ và thấp nhất là lạc rang húng lìu. Tỉ lệ các mẫu có mức nhiễm nấm men-mốc vượt ngưỡng cho phép (>102 CFU/g), thấp nhất trong lạc rang húng lìu, sau đó đến lạc củ và cao nhất trong lạc nhân. Điều này chứng tỏ lạc đã qua chế biến có thể giảm mức nhiễm nấm men-mốc. Kết quả tỉ lệ nhiễm aflatoxin trong lạc nhân, lạc củ và lạc rang húng lìu được biểu diễn như hình 3.2. Biểu đồ hình 3.2 cho thấy tỉ lệ nhiễm AF trong các mẫu lạc nhân thu thập tại các tỉnh đều là cao nhất, sau đó đến lạc củ và thấp nhất là lạc rang húng lìu. Tỉ lệ 74 các mẫu có mức nhiễm AF vượt ngưỡng cho phép (> 8 µg/kg) cao nhất trong lạc nhân, sau đó đến lạc củ, không có mẫu lạc rang húng lìu nào có hàm lượng AF vượt ngưỡng cho phép (> 4 µg/kg). Đều này chứng tỏ lạc đã qua chế biến có nguy cơ nhiễm AF thấp hơn lạc chưa chế biến. Nghiên cứu tiếp theo được thực hiện thu thập mẫu vào mùa thu, trên địa tỉnh Bắc Giang, tại huyện Lục Nam. Lục Nam là một huyện miền núi có diện tích trồng lạc lớn ở Bắc Giang. Các mẫu lạc nhận và lạc củ thu thập được đánh giá mức độ nhiễm nấm mốc và AF. 3.1.2. Đánh giá mức độ nhiễm nấm mốc và AF trong lạc trên địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang vào mùa thu Nghiên cứu mức độ nhiễm nấm mốc và aflatoxin thực hiện với 30 mẫu lạc nhân và 30 mẫu lạc củ được thu thập tại các hộ gia đình và hộ kinh doanh lạc của huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang như mô tả trong mục 2.2. Quá trình thu thập mẫu được thực hiện ghi chép tình trạng mẫu với từng mẫu lấy, tình trạng bảo quản trước khi lấy mẫu như mục 2.3.3. Các mẫu phân tích tổng số bào tử nấm, nghiên cứu chỉ thực hiện đếm những khuẩn lạc của nấm mốc, là những khuẩn lạc có sợi khí sinh, như hình 3.3.b) và 3.3.c). Hình 3. 3. Các đĩa nuôi cấy: a) không có nấm mốc; b) và c) có nấm mốc và nấm men 3.1.2.1. Mức độ nhiễm aflatoxin và các yếu tố nguy cơ nhiễm aflatoxin trên mẫu lạc nhân Kết quả khảo sát thực trạng sử dụng công cụ chứa đựng bảo quản lạc nhân, tình trạng mẫu, độ ẩm, mức độ nhiễm nấm mốc, hàm lượng aflatoxin và thông tin về mẫu lạc nhân được tổng hợp trong bảng PL 1.4 tại Phụ lục 1. Kết quả khảo sát cho thấy đa số người dân sử dụng bao tải hai lớp để chứa đựng 75 và bảo quản lạc nhân (14/30) chiếm tỉ lệ 46,7 %; sau đó đến bao tải một lớp (10/30) chiếm tỉ lệ 33,3 %; 3 trường hợp đựng trong bao nilon, chiếm tỉ lệ 10 %; còn lại 10 % chứa trong các loại dụng cụ khác (chậu, rổ tre và đổ dưới sàn nhà). Độ ẩm các mẫu lạc nhân trong khoảng 5,1 - 12,8 %. Các mẫu phát hiện nhiễm AF có độ ẩm từ 9,5 % trở lên. Các mẫu nhiễm AF đều phát hiện nhiễm nấm mốc và không được bảo quản trong bao tải hai lớp. Tổng số bào tử nấm mốc phát hiện trong 15/30 mẫu lạc nhân trong khoảng 1,0×101-7,0×103 CFU/g (chiếm tỉ lệ 50 %), thấp hơn mẫu thu thập mùa hè (60 %). Số mẫu vượt ngưỡng 102 CFU/g là 10 mẫu (chiếm tỉ lệ 33,3 %). Hàm lượng AF phát hiện trong 14/30 mẫu lạc nhân trong khoảng 0,66-115 µg/kg (chiếm 46,7 %), tỉ lệ này thấp hơn so với mẫu thu thập vào mùa hè (53,3 %) tại cùng địa bàn Bắc Giang. Sự khác biệt này do đặc điểm khí hậu trong thời gian bảo quản của mẫu thu thập vào mùa hè nóng ẩm, còn mẫu thu thập mùa thu được bảo quản trong thời gian khí hậu mát mẻ và khô ráo hơn. Hàm lượng AFB1 phát hiện từ 0,66 - 115 µg/kg, trong đó có 2/30 mẫu (6,7 %) có hàm lượng AFB1 vượt quá ngưỡng cho phép (>8 g/kg) theo QCVN 8-1:2011/BYT. Mối liên quan giữa tình trạng mẫu và tình trạng nhiễm aflatoxin được đánh giá thông qua tỉ số nguy cơ (RR) với tiêu chí đánh giá là mẫu lạc phát hiện aflatoxin. Các yếu tố bất lợi trong lạc nhân được giả thiết gồm: hạt vỡ, lép/nhăn, có màu khác thường, không dóc vỏ, có mầm. Các yếu tố có lợi: nguyên hạt, hạt mẩy, hạt dóc vỏ lụa. So sánh hai nhóm yếu tố có lợi và bất lợi. Kết quả tỉ số nguy cơ như bảng 3.7. vỡ mẩy có không nguyên nhăn/
lép biến
màu bình
thường không
dóc vỏ dóc
vỏ 12 2 9 5 6 8 4 10 13 1 Số mẫu nhiễm
AF (a) Tổng số mẫu (N) 18 12 12 18 8 22 4 26 18 12 = = Nguy cơ p=a/N p1 =
0,67 p2 =
0,17 p1 =
0,75 p2 =
0,28 p1 =
0,75 p2
0,36 p1 =
1,00 p2 =
0,38 p1
0,72 p2 =
0,08 4,0 2,7 2,1 2,6 8,7 Tỉ số nguy cơ
(RR=p1/p2) 76 Kết quả cho thấy các tỉ số nguy cơ đã tính toán đều có giá trị RR >1. Chứng tỏ các yếu tố về tình trạng mẫu như: nguyên hạt, hạt mẩy, hạt dóc vỏ lụa đều là các yếu tố có lợi và có khả năng giảm nguy cơ nhiễm AF trong lạc. Kết quả tại bảng 3.7 cũng cho thấy các mẫu thỏa mãn cả 3 yếu tố có lợi về tình trạng mẫu (hạt mẩy, nguyên hạt, hạt dóc vỏ lụa) đều là những mẫu không phát hiện nhiễm AF trong lạc nhân. Những mẫu có lạc nhân phát hiện nhiễm AF có độ ẩm từ 9,2 % trở lên, các mẫu có thể dóc vỏ lụa có độ ẩm trong khoảng từ 5,1 - 7,2 %. 3.1.2.2. Mức độ nhiễm và các yếu tố nguy cơ nhiễm aflatoxin trên mẫu lạc củ Kết quả khảo sát thực trạng sử dụng công cụ chứa đựng bảo quản lạc củ, tình trạng mẫu, độ ẩm, mức độ nhiễm nấm mốc, hàm lượng aflatoxin và thông tin về mẫu lạc củ được tổng hợp trong bảng PL 1.5 tại Phụ lục 1. Qua ghi chép trong quá trình lấy mẫu cho thấy, đa số các trường hợp lạc củ được bảo quản trong bao tải hai lớp (22/30) chiếm tỉ lệ 73,3 %, còn lại 8/30 trường hợp (26,7 %) sử dụng bao tải một lớp. So sánh cách thức bảo quản lạc nhân và lạc củ trên cùng địa bàn cho thấy, lạc củ thường được đóng trong bao tải hai lớp là chính, một phần đóng trong bao tải một lớp vì lạc củ được người dân bảo quản trong thời gian dài hơn, đến vụ sau hoặc để làm giống. Còn lạc nhân thường chuẩn bị ở dạng thương phẩm hoặc sử dụng trong thời gian ngắn hơn nên bao bì chứa đựng đa dạng hơn. Các mẫu lạc củ khảo sát có độ ẩm từ 5,94 - 10,19 %, trong đó các mẫu phát hiện aflatoxin có độ ẩm từ 8,70 % trở lên và đều phát hiện có nấm mốc. Phát hiện nấm mốc trong 8/30 mẫu lạc củ với mức 1×101 - 3×102 CFU/g (chiếm tỉ lệ 26,7 %). Hàm lượng AFB1 phát hiện từ 0,46 - 2,5 µg/kg trong 8/30 mẫu lạc củ (chiếm tỉ lệ 26,7 %), tuy nhiên không có mẫu nào bị vượt quá giới hạn cho phép theo QCVN 8-1:2011/BYT. Tỉ lệ này thấp hơn trong mẫu thu thập vào mùa hè tại Bắc Giang (40 %). Trong số 8 mẫu phát hiện AFB1 chỉ có 1 mẫu phát hiện AFB2 (chiếm tỉ lệ 3,3 77 %). Không phát hiện AFG1 và AFG2 trong 30 mẫu thu thập. Mối liên quan giữa tình trạng mẫu tại thời điểm lấy mẫu và tình trạng nhiễm aflatoxin được đánh giá thông qua tỉ số nguy cơ (RR) với tiêu chí đánh giá là phát hiện aflatoxin trong mẫu. Trong mẫu lạc củ chúng ta giả thiết các biến cố bất lợi bao gồm: lạc không sạch (có lẫn tạp), có củ mốc. Các yếu tố có lợi là: lạc sạch, không bị mốc. Chúng ta tiến hành so sánh hai nhóm: nhóm có yếu tố có lợi và nhóm có yếu tố không có lợi. Kết quả tỉ số nguy cơ thể hiện trong bảng 3.8. Số mẫu nhiễm AF (a) 5 2 2 5 Tổng số mẫu (N) 7 23 2 28 Nguy cơ p=a/N p1 = 0,71 p2 = 0,09 p1 = 1,00 p2 =0,18 8,2 5,6 Tỉ số nguy cơ (RR=p1/p2) Kết quả cho thấy các tỉ số nguy cơ đã tính toán đều có giá trị RR >1. Chứng tỏ các yếu tố về tình trạng mẫu như: lạc sạch, lạc không có hạt mốc đều là các yếu tố có lợi và có khả năng giảm nguy cơ nhiễm aflatoxin trong lạc. Như vậy, các yếu tố chất lượng để kiểm soát nguy cơ nhiễm aflatoxin trong lạc nhân bao gồm: nguyên hạt, hạt mẩy, hạt dóc vỏ lụa; trong lạc củ bao gồm: lạc sạch, lạc không có củ mốc. Mức nhiễm nấm mốc, tỉ lệ nhiễm và hàm lượng aflatoxin trong các mẫu lạc nhân và lạc củ lấy vào mùa hè cao hơn mẫu lấy tại mùa thu tại cùng địa bàn lấy mẫu. Nguyên nhân sự khác biệt này có thể do khí hậu mùa hè nóng ẩm thích hợp cho nấm mốc phát triển và sinh AF, mặt khác những mẫu lấy vào mùa hè là mẫu thu thập ngoài chợ, các mẫu lấy vào mùa thu là mẫu thu thập tại các hộ gia đình và hộ kinh doanh lạc nên điều kiện bảo quản lạc cũng tốt hơn điều kiện bảo quản ngoài chợ. Như vậy, kết quả nghiên cứu 3.1.1. và 3.1.2. cho thấy: - Không phát hiện aflatoxin G1 và G2 trong các mẫu lạc thu thập tại các tỉnh 78 nghiên cứu. - Tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc trong lạc không tỉ lệ thuận với tỉ lệ nhiễm aflatoxin trong lạc. - Tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin tại các tỉnh khác biệt không có ý nghĩa thống kê. - Tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin tại Bắc Giang trong lạc thu thập vào mùa hè cao hơn các mẫu thu thập vào mùa thu. 3.1.3. Phân lập và xác định chủng sinh aflatoxin trên lạc 3.1.3.1. Phân lập khuẩn lạc nghi là Aspergillus flavus từ lạc mốc Các mẫu lạc dùng để phân lập nấm lấy từ 23 mẫu có phát hiện nấm nghi ngờ là A. flavus trong nghiên cứu 3.1.2 ở trên. Có nhiều nấm mốc có màu sắc khác nhau, màu vàng xanh, màu trắng, màu đen được phát hiện trong quá trình cấy hạt lạc trên môi tường thạch. Các mẫu phát hiện nấm nghi là A. flavus theo như đặc điểm hình thái về màu sắc của khuẩn lạc phù hợp với kết quả nghiên cứu của Matome Gabriel Thathana và cộng sự [81], trên môi trường SDA bào tử nấm có màu vàng xanh, mặt sau có vết loang hình rãnh màu nâu nhạt (hình 3.4). Quá trình nuôi cấy để phân lập khuẩn lạc, nghiên cứu thu được 28 chủng nghi ngờ là A. flavus được đánh số từ A1 đến A28. Các khuẩn lạc nghi ngờ và chủng chuẩn A. flavus ATCC 204304 được nuôi cấy trên môi trường SDA ở 25 oC để so sánh đặc điểm hình thái. Sau 3 ngày nuôi cấy, các chủng có hình thái quan sát được tương đồng với chủng chuẩn được chọn để theo dõi, dưới đây là hình ảnh của các chủng phân lập 79 từ mẫu A1, A12, A14, A15 và A28 (Hình 3.5). Các chủng nghi ngờ được lấy khuẩn lạc cho bước làm thuần chủng sau đây. 3.1.3.2. Làm thuần và định danh Aspergillus flavus thông qua cấu tạo hình thái Để làm thuần và nghiên cứu đặc điểm hình thái khuẩn lạc và cấu tạo vi thể, những khuẩn lạc này được xác định lại bằng cách cấy điểm trên môi trường SDA nuôi ở 25±1 oC sau 5 ngày. Hình ảnh cấy điểm của chủng phân lập từ chủng A1 và chủng đối chứng ATCC204304 như hình 3.6. Các chủng sau phân lập được làm tiêu bản nhuộm Lactophenol Amann, soi dưới kính hiển vi quang học, so với các đặc điểm của chủng đối chứng. Kết quả có 20 chủng phân lập được có đặc điểm tương đồng với đặc điểm của A. flavus ATCC 204304 như: Bông hình cầu, tỏa tia, thể bình 1 lớp và 2 lớp, thân nhám, bào tử hình 80 cầu hoặc gần cầu, đó là: A1÷A10, A12÷A16, A18, A21, A25, A26 và A28. Hình thái của nấm A. flavus thu được sau phân lập của mẫu A1 được chụp bằng kính hiển vi CX31 xuất xứ Nhật bản với độ khuếch đại 40 lần (Hình 3.7. a, b) và kính hiển vi soi ngược Axiovert 40 CFL xuất xứ Đức có độ khuếch đại 250 đến 1.000 lần (Hình 3.7. c, d). Kết quả hình thái nấm: Bông hình chùy đến cầu, tạo cột, thể bình 1 hoặc 2 lớp; Bào tử đính hình cầu đến gần cầu, màu xanh nhạt, đường kính 3-6 µm. Để thu được kết quả chính xác nhất chúng tôi đã tiến hành chụp ảnh hiển vi điện tử quét, bào tử đính của chủng nấm nghi ngờ là A. flavus như hình 3.8. Hình 3.8 cho thấy cuống bào tử xù xì, đường kính 12,9 µm, Kết quả ảnh hiển vi điện tử quét được so sánh với kết quả của Rodrigues P. và cộng sự [101] cho thấy đây 81 là bào tử đính điển hình của A. flavus. Dựa vào đặc điểm hình thái của 20 chủng nấm lựa chọn để soi tiêu bản và chụp ảnh kính hiển vi điện tử, chúng tôi chọn được 11 chủng bao gồm: A1, A3, A6, A12, A14, A15, A16, A18, A21, A25 và A28. Các chủng này sẽ tiếp tục định danh ở bước tiếp theo. 3.1.3.3. Định danh nấm Aspergillus flavus bằng giải trình tự gen ITS a) Tách chiết và nhân DNA DNA tổng số của 11 chủng đã chọn ở trên và A. flavus ATCC 204304. Chất lượng của các mẫu DNA tổng số được kiểm tra theo phương pháp đo quang phổ hấp thụ ở bước sóng λ= 260 và 280 nm (bảng 3.9). A1 20,39 1,87 A3 46,99 1,94 A6 62,62 1,83 A12 20,52 1,88 A14 38,88 2,03 A15 53,25 1,86 A16 42,86 1,91 A18 46,80 1,87 A21 69,21 2,05 A25 40,60 2,12 A28 35,63 2,01 57,32 1,81 A. flavus ATCC 204304 Có thể thấy rằng các mẫu DNA đều có tỷ số A260/280 trong khoảng 1,8 đến 2,2 chứng tỏ DNA thu được sạch, không lẫn protein và RNA. Như vậy các mẫu DNA tổng số thu được theo phương pháp tách chiết này đảm bảo chất lượng. Các mẫu DNA tổng số được sử dụng làm sợi khuôn cho phản ứng PCR đặc hiệu 82 với cặp mồi ITS1 và ITS2. Các mẫu DNA tổng số thu được có nồng độ phù hợp được dùng là khuôn mẫu cho phản ứng PCR với cặp mồi ITS1 và ITS2. Kết quả điện di sản phẩm của phản ứng PCR (hình 3.9). Trên hình 3.9: Băng M là băng thang chuẩn DNA có kích thước từ 100 đến 1500 bp, băng sáng nhất ở giữa có kích thước 650 bp, các mẫu băng lên rõ ràng, không có băng phụ, kích thước đoạn ITS 600 bp phù hợp với kết quả trong nghiên cứu của tác giả P. Rodrigues và cộng sự [101], và thích hợp để giải trình tự. b) Giải trình tự gen ITS Chúng tôi chọn 5 sản phẩm PCR từ 5 chủng A1, A12, A14, A15 và A28 để giải trình tự. Dựa vào mức độ tương đồng giữa chủng phân tích và chủng đã công bố trên ngân hàng gen quốc tế NCBI để định danh và dùng phần mềm BLAST để so sánh độ tương đồng. Kết quả tìm kiếm sự tương đồng như trong bảng 3.10. A1 TUHT115 ITS1, ITS2 Aspergillus flavus 100 100 A12 KP214054.1 ITS1, ITS2 Aspergillus flavus 100 100 A15 MTCC 8654 ITS1, ITS2 Aspergillus flavus 100 100 A16 ZJ4-A ITS1, ITS2 Aspergillus flavus 99 100 A28 ITS1, ITS2 Không định được loài Không có trình tự
tương đồng 83 Trong 5 chủng được giải trình tự có 4 chủng được định danh là A. flavus và 1 chủng chưa định danh được do trình tự gen không tương thích với ngân hàng gen. Từ kết quả trong bảng 3.10, chúng tôi lựa chọn 3 chủng để kiểm tra khả năng sinh Aflatoxin trên lạc bao gồm: A1, A12 và A15. c) Kiểm tra khả năng sinh aflatoxin của các chủng phân lập được từ lạc Sau khi định danh được A. flavus, các chủng A1, A12 và A15 được thu thập và nhiễm vào lạc nhân đã tiệt trùng trong 10 ngày với mức nhiễm 107 CFU/g. Dựa vào đặc tính phát quang của aflatoxin, mẫu này sau đó được quan sát sự phát huỳnh quang của mẫu để xác định mẫu có nhiễm aflatoxin không. Kết quả quan sát dưới đèn UV (bước sóng 365 nm) được thể hiện trên hình 3.10. Sau khi quan sát dưới đèn UV, những vùng phát quang màu xanh lam cho thấy đã có aflatoxin được sinh ra. Mẫu tiếp tục được tiến hành phân tích hàm lượng aflatoxin bằng LC-MS/MS, kết quả phát hiện AFB1 và AFB2 trên các mẫu như sau: 25,2 A1 1310 23,7 A12 975 22,8 A15 763 Kết quả tại bảng 3.11 cho thấy các chủng phân lập được chỉ phát hiện sinh AFB1 và AFB2, kết quả này tương tự kết quả nghiên cứu của E.M. Embaby và Mona M. Abdel-Galel [50], chỉ phát hiện AFB1 và AFB2 sinh ra từ chủng A. flavus phân lập 84 từ lạc. Trong đó, chủng A1 có khả năng sinh AFB1 mạnh mẽ nhất tới 1.310 µg/kg. Sắc đồ phân tích aflatoxin trong lạc của chủng A1 như hình 3.11. Để xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của A. flavus và sinh độc tố trên lạc, chủng A1 phân lập được từ nghiên cứu này được lưu trữ để phục vụ cho các nghiên cứu tiếp theo, chủng này sau đây được gọi là Aspergillus flavus BG1. 3.2.1. Đánh giá sự thay đổi độ ẩm của các mẫu lạc trong các loại bao bì khác nhau Thiết kế nghiên cứu sự thay đổi độ ẩm của lạc trong các bao bì khác nhau như mục 2.6. Kết quả độ ẩm của lạc được tổng hợp trong bảng 3.12. Bao đay 6,35 6,43 6,56 7,68 7,68 6,35 6,56 7,09 7,72 7,79 Bao tải hai lớp 7,48 7,61 7,63 7,87 8,08 5,18 5,74 6,41 6,52 6,57 Túi PE 6,29 6,31 6,65 6,60 6,55 5,54 5,78 6,73 6,88 7,00 Túi PVC 6,37 6,42 6,46 6,52 6,66 5,60 5,72 6,40 6,57 6,59 Ghi chú: T0 là độ ẩm ban đầu trước khi đưa vào bảo quản T1, T2, T3, T4 là độ ẩm sau 1, 2, 3, 4 tháng bảo quản. 85 Kết quả cho thấy: - Độ ẩm của lạc nhân sau 4 tháng thay đổi nhiều đối với lạc đựng trong bao đay và bao PE (chênh độ ẩm sau 4 tháng là 19,0 và 8,8 %) còn với bao tải hai lớp và bao PVC thì chênh lệch độ ẩm đều là 4,0 %. - Độ ẩm của lạc củ sau 4 tháng thay đổi nhiều đối với lạc đựng trong bao đay và bao PE (chênh độ ẩm sau 4 tháng là 20,4 và 9,8 %) còn với bao tải hai lớp và bao PVC thì chênh lệch độ ẩm tương ứng là 2,9 và 2,2 %. Qua kết quả trên ta thấy, quá trình hô hấp của lạc khô không mạnh mẽ nên không thay đổi độ ẩm nhiều sau 4 tháng bảo quản. Ta cũng thấy lạc đựng trong bao bì hai lớp hoặc bao bì PVC có độ ẩm chênh lệch giữa tháng đầu tiên và tháng thứ tư ít hơn bao đay và bao PE. Điều đó chứng tỏ bao hai lớp và bao PVC ngăn thấm khí tốt. Lạc khô đưa vào bảo quản trong bao bì kín thay đổi độ ẩm không đáng kể. Sự thay đổi độ ẩm của lạc trong bao PVC là thấp nhất. 3.2.2. Ảnh hưởng của độ ẩm đến sự phát triển và sinh AF của chủng Aspergillus flavus BG1 trên lạc Thí nghiệm được tiến hành như mô tả trong mục 2.6.2. 3.2.2.1. Sự phát triển của Aspergillus flavus BG1 ở các độ ẩm khác nhau Kết quả theo dõi sự phát triển của A. flavus BG1 trong 4 tuần đầu được ghi chép cùng với ghi nhận kết quả soi UV ở bước sóng 365 nm như trong Bảng 3.13. Tuần 1 6 C1 K K không quan sát thấy có nấm phát triển K K 6 C2 K K không quan sát thấy có nấm phát triển K K 6 M11 K K không quan sát thấy có nấm phát triển K K 8 M12 K K không quan sát thấy có nấm phát triển K K 86 10 M13 C thưa thớt vàng nhạt K có 1 số hạt có xuất hiện sợi nấm màu
vàng nhạt thưa thớt quanh hạt lạc, có
1 số sợi nấm trắng mờ nhạt xuất hiện 12 M14 C thưa thớt vàng nhạt K có 1 số hạt có xuất hiện sợi nấm màu
vàng nhạt thưa thớt quanh hạt lạc, có
1 số sợi nấm trắng mờ nhạt xuất hiện 14 M15 C thưa thớt trắng K có 1 số hạt có xuất hiện sợi nấm trắng
mờ nhạt xuất hiện Tuần 2 K 6 C1 K K không quan sát thấy có nấm phát triển K K 6 C2 K K không quan sát thấy có nấm phát triển K K 6 M11 K K không quan sát thấy có nấm phát triển K K 8 M12 K K không quan sát thấy có nấm phát triển K C 10 M13 thưa thớt vàng xanh C có nấm màu vàng xanh quanh hạt lạc,
một số sợi nấm chuyển sang xanh lục,
có 1 số sợi nấm trắng xuất hiện 12 M14 C thưa thớt C vàng nhạt,
vàng xanh có nấm màu vàng nhạt quanh hạt lạc,
1 số hạt có xuất hiện sợi nấm vàng
xanh thưa thớt, có 1 số có sợi nấm
trắng 14 M15 C thưa thớt trắng có nấm trắng xung quanh hạt lạc K Tuần 3 K 6 C1 K K không quan sát thấy nấm phát triển K K 6 C2 K K không quan sát thấy nấm phát triển K C 6 M11 thưa thớt vàng nhạt nấm vàng nhạt phát triển thưa thớt, sợi K ngắn, sợi mỏng 8 M12 C thưa thớt vàng nhạt nấm vàng nhạt phát triển thưa thớt, sợi K ngắn, mỏng manh 10 M13 C C mọc
nhiều vàng xanh,
xanh lục nấm màu vàng xanh xung quanh hạt,
sợi mỏng, ngắn, có một số nấm
chuyển màu xanh lục, phát hiện một
số nấm trắng 87 C 12 M14 C thưa thớt vàng nhạt nấm vàng lẫn vàng xanh, nấm trắng
rải rác khắp các vị trí K 14 M15 C thưa thớt trắng nấm trắng xuất hiện nhiều rải rác khắp
các vị trí Tuần 4 K K K không quan sát thấy nấm phát triển 6 C1 K K K K không quan sát thấy nấm phát triển 6 C2 K K 6 C M11 thưa thớt vàng nhạt sợi nấm vàng nhạt mọc lưa thưa,
mỏng manh K 8 M12 C thưa thớt vàng nhạt,
vàng xanh sợi nấm vàng nhạt mọc lưa thưa,
mỏng manh C 10 M13 C mọc
nhiều vàng xanh,
xanh lục nấm màu vàng xanh xung quanh hạt,
sợi mỏng, ngắn, có một số nấm
chuyển màu xanh lục, một số nấm
trắng C 12 M14 C mọc rõ rệt vàng nhạt, nấm vàng lẫn vàng xanh, nấm trắng
rải rác khắp các vị trí trắng K trắng 14 M15 C mọc
nhiều nấm trắng xuất hiện nhiều rải rác khắp
các vị trí Ghi chú: C: có quan sát thấy nấm/ có phát quang; K: không quan sát thấy nấm / không phát quang Mẫu chứng C1: có độ ẩm 5,98 % và không nhiễm A. flavus Mẫu chứng C2: có độ ẩm 5,98 % và nhiễm A. flavus ở mức 103 CFU/g - Các mẫu đối chứng C1 và C2 là các mẫu có độ ẩm ban đầu 3,2 % không quan sát thấy nấm phát triển trong 16 tuần nghiên cứu. - Các mẫu có độ ẩm 6 % không quan sát thấy nấm phát triển trong 2 tuần đầu, nấm bắt đầu phát triển từ tuần thứ 4 nhưng ở mức độ thưa thớt và có màu vàng nhạt, sau tuần thứ năm nấm bắt đầu chuyển sang màu vàng xanh và không phát triển thêm vào các tuần tiếp theo. - Các mẫu có độ ẩm 8 % không quan sát thấy nấm phát triển trong 2 tuần đầu, 88 nấm bắt đầu phát triển từ tuần thứ 4 nhưng ở mức độ thưa thớt và có màu vàng nhạt, sau tuần thứ tư nấm bắt đầu chuyển sang màu vàng xanh và không phát triển thêm vào các tuần tiếp theo. - Các mẫu có độ ẩm 10 %, 12 % và 14 %, nấm bắt đầu xuất hiện thưa thớt màu vàng xanh ngay từ tuần đầu tiên, và bắt đầu chuyển sang màu xanh từ tuần thứ hai, một phần chuyển sang xanh lục từ tuần thứ tư trở đi. Hình ảnh màu sắc của nấm được mưu tả như hình 3.12. Ngoài việc quan sát sự phát triển của nấm mốc, trong quá trình nghiên cứu các mẫu thí nghiệm được soi UV ở bước sóng 365 nm và phân tích hàm lượng aflatoxin. 3.2.2.2. Ảnh hưởng của độ ẩm tới mức độ nhiễm aflatoxin trên lạc Hàm lượng aflatoxin trong các mẫu thí nghiệm ảnh hưởng của độ ẩm tại bảng PL2.1 trong Phụ lục 2, một số sắc đồ phân tích aflatoxin trong các mẫu nghiên cứu tại phụ lục 4. Kết quả cho thấy: - Các mẫu chứng C1 và C2 không phát hiện sinh AF sau 16 tuần nghiên cứu. - Các mẫu có độ ẩm 6 % và 8 % không phát hiện sinh AF sau 16 tuần nghiên cứu. - Chỉ phát hiện AFB1 và AFB2, không phát hiện AFG1 và AFG2 trong các mẫu nghiên cứu. Các mẫu có độ ẩm 10 %, 12 % và 14 % phát hiện sinh AFB1 sau 2 89 tuần nghiên cứu, hàm lượng AF sinh ra theo thời gian (hình 3.13). 75 72 AFB1-10% 64 AFB1-12% 60 56 AFB1-14% 48 45 ML-AFB1 40 ML-AFs 32 30 AFs-10% 24 AFs-12% 16 15 AFs-14% 8 0 2 4 6 8 10 12 14 16 - Sau 2 tuần nghiên cứu, các mẫu có độ ẩm 10 %, 12 % và 14 % phát hiện sinh AFB1 nhưng dưới ngưỡng cho phép (>8 g/kg) theo QCVN 8-1:2011/BYT. Sau 4 tuần các mẫu thí nghiệm có độ ẩm từ 10 % đến 14 % đều có hàm lượng AFB1 vượt ngưỡng cho phép. Các mẫu thí nghiệm vượt ngưỡng cho phép trên 2 lần sau 10 tuần đối với các mẫu có độ ẩm 12 % (gấp 2,0 lần) và 14 % (gấp 2,1 lần) còn mẫu có độ ẩm 10 % sau 12 tuần (gấp 2,97 lần). Các mẫu độ ẩm từ 10 % đến 14 % đều có hàm lượng AFB1 vượt ngưỡng cho phép trên 3 lần sau 14 tuần đối với các mẫu có độ ẩm 12 % (gấp 3,23 lần) và 14 % (gấp 3,47 lần) còn mẫu có độ ẩm 10 % sau 16 tuần (gấp 3,24 lần). Sau 16 tuần hàm lượng AFB1 của các mẫu có độ ẩm 12 % cao gấp 4,47 lần và các mẫu có độ ẩm 14 % cao gấp 3,61 lần so với ngưỡng cho phép. - Chỉ phát hiện AFB2 trong các mẫu độ ẩm 14 % sau 4 tuần thí nghiệm , nhưng đến tuần thứ 6 bắt đầu phát hiện được AFB2 trên các mẫu độ ẩm 10 %, 12 % và 14 %. Hiện các văn bản quy phạm pháp luật không quy định ngưỡng cho phép cho riêng AFB2. Hàm lượng AF tổng số bắt đầu vượt ngưỡng cho phép (>15 µg/kg) ở tất cả các mẫu sau 8 tuần nghiên cứu. Các mẫu thí nghiệm vượt ngưỡng cho phép trên 2 lần sau 16 tuần đối với các mẫu có độ ẩm 10 % (gấp 2,37 lần), 90 mẫu có độ ẩm 12 % (gấp 2,49 lần) và 14 % (gấp 2,97 lần). Kết quả cho thấy, lạc có độ ẩm 6 % và 8 % không phải là điều kiện thuận lợi cho nấm sinh độc tố phát triển. Với độ ẩm từ 10 % và 12 % nấm phát triển tốt và sinh độc tố AFB1 sau 2 tuần, sinh AFB2 sau 8 tuần. Với độ ẩm 14 % nấm phát triển tốt và sinh độc tố AFB1 sau 2 tuần, phát hiện AFB2 sau 4 tuần và định lượng được AFB2 sau 6 tuần. Các mẫu có độ ẩm 10 %, 12 % và 14 % phát hiện hàm lượng AFB1 vượt ngưỡng cho phép sau 4 tuần. Để xác định mối quan hệ giữa độ ẩm và hàm lượng aflatoxin có tuyến tính không, nghiên cứu thực hiện phân tích hồi quy tuyến tính bằng chương trình R 3.4.1, trong đó hàm lượng AFB1 là biến phụ thuộc và các biến liên tục là phần trăm độ ẩm bắt đầu từ 10 % và thời gian theo tuần. Kết quả phân tích như trong mục 3.3.1 tại Phụ lục 3 cho thấy mối quan hệ giữa độ ẩm và sự sinh AF có ý nghĩa thống kê (p< 0,05). Ta có phương trình hồi quy tuyến tính quan hệ giữa mức nhiễm AFB1 (Y1) theo độ ẩm (x1) và thời gian - tuần (x2)như sau: (13) Y1 = -78,19 + 7,56 x1 + 2,0 x2 Phương trình trình (12) có nghĩa là với độ ẩm từ 10 % trở lên, độ ẩm tăng lên 1 % thì hàm lượng AFB1 tăng lên 7,56 g/kg; thời gian tăng lên thêm 1 tuần thì hàm lượng AFB1 tăng 2,0 g/kg. Kết quả phân tích thống kê cũng cho ta phương trình hồi quy tuyến tính quan hệ giữa mức nhiễm aflatoxin tổng số (Y) theo độ ẩm (x1) và thời gian - tuần (x2) cho thấy mối liên hệ này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Ta có phương trình tiên đoán như sau: (14) Y = -76,91 + 7,24 x1 + 2,6 x2 Phương trình trình (13) có nghĩa là với độ ẩm từ 10 % trở lên, độ ẩm tăng lên 1% thì hàm lượng AF tổng số tăng lên 7,24 g/kg; thời gian tăng lên thêm 1 tuần thì hàm lượng AFB1 tăng 2,6 g/kg. Như vậy hàm lượng aflatoxin trong các mẫu lạc có độ ẩm càng tăng thì mức nhiễm càng tăng, nguyên nhân do độ ẩm cao là điều kiện thuận lợi cho A. flavus phát triển và sinh aflatoxin. Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm lạc củ của 91 tác giả Nguyễn Văn Thắng [13] cho thấy độ ẩm càng cao các mẫu lạc có độ ẩm 16 % có tỉ lệ nhiễm nấm cao nhất, thấp nhất ở độ ẩm 10 %, tuy nhiên nghiên cứu này chưa đưa ra được mối quan hệ tuyến tính của mức nhiễm aflatoxin với độ ẩm của lạc. Như vậy ở nhiệt độ 25 oC, độ ẩm từ 10 % là điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển và sinh độc tố AF của A. flavus, độ ẩm càng cao thì mức nhiễm aflatoxin càng cao, aflatoxin nhiễm trong lạc tăng lên theo thời gian. 3.2.3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển và sinh AF của Aspergillus flavus BG1 trên lạc Thí nghiệm được tiến hành như mô tả trong mục 2.6.2.3. Các mẫu được được quan sát sự phát triển của nấm A. flavus và soi UV sau mỗi tuần (kết quả ghi chép như bảng 3.14); phân tích AF sau mỗi 2 tuần. K K K K không quan sát thấy có nấm màu vàng phát
triển, có một số sợi nấm trắng thưa thớt C thưa thớt vàng nhạt K có 1 số hạt có xuất hiện sợi nấm màu
vàng nhạt thưa thớt quanh hạt lạc, có 1
số sợi nấm trắng mờ nhạt xuất hiện C thưa thớt vàng nhạt, K xuất hiện nấm màu vàng sáng mọc thưa
thớt sợi nhỏ liti, nấm trắng mọc nhiều hơn trắng C thưa thớt vàng nhạt, K xuất hiện nấm màu vàng sáng mọc thưa
thớt sợi nhỏ liti, nấm trắng mọc nhiều hơn trắng C thưa thớt vàng nhạt, K xuất hiện nấm màu vàng sáng mọc thưa
thớt sợi nhỏ li ti, nấm trắng mọc nhiều hơn trắng C thưa thớt vàng nhạt K quan sát thấy có nấm màu vàng phát triển
thưa thớt, có một số sợi nấm trắng thưa thớt C C mọc
nhiều vàng xanh,
xanh lục nấm mọc rõ nét màu vàng xanh, xanh
lục, xen lẫn một số sợi nấm trắng C thưa thớt vàng xanh C một số hạt xuất hiện nấm màu vàng
xanh, xen lẫn nấm màu trắng 92 C thưa thớt vàng xanh, C trắng xuất hiện nấm màu vàng ánh xanh mọc
thưa thớt, nấm trắng mọc nhiều hơn C thưa thớt vàng nhạt, K trắng nấm màu vàng sáng mọc thưa thớt sợi
nhỏ liti, nấm trắng mọc nhiều hơn C thưa thớt vàng nhạt, K nấm vàng nhạt, sợi mỏng, nhỏ, mỏng
manh C C mọc
nhiều vàng xanh,
xanh lục nấm màu vàng xanh xung quanh hạt, có
một số nấm chuyển màu xanh lục, phát
hiện một số nấm trắng C C thưa thớt vàng xanh,
vàng nhạt nấm vàng xanh phát triển thưa thớt, nấm
vàng nhạt phát triển ít C C thưa thớt vàng xanh,
vàng nhạt nấm vàng xanh phát triển trên những hạt
lạc bị tổn thương, nấm vàng sáng phát
triển thưa thớt C thưa thớt vàng nhạt K nấm vàng nhạt phát triển lấm tấm, sợi
mỏng, ngắn C thưa thớt vàng nhạt K nấm vàng nhạt, sợi mỏng, nhỏ, mỏng
manh, nấm vàng xanh phát triển thưa
thớt ở 1 số hạt lạc C C mọc
nhiều vàng xanh,
xanh lục nấm màu vàng xanh xung quanh hạt, có
một số nấm chuyển màu xanh lục, một số
nấm trắng C thưa thớt C Vàng,
vàng xanh,
trắng nấm vàng xanh phát triển thưa thớt, nấm
vàng nhạt phát triển ít, xuất hiện nấm
trắng mọc vượt lên C C thưa thớt vàng xanh,
vàng nhạt nấm vàng có ánh xanh phát triển trên 1 số
hạt lạc, nấm vàng sáng phát triển thưa thớt C thưa thớt vàng nhạt K nấm vàng nhạt phát triển lấm tấm, sợi
mỏng manh, ngắn Ghi chú: C: có quan sát thấy nấm/ có phát quang; K: không quan sát thấy nấm /không phát quang 93 Kết quả quan sát hàng tuần cho thấy: Các mẫu bảo quản ở 20 oC nấm phát triển chậm, trong vòng 2 tuần đầu chỉ thấy các sợi nấm trắng thưa thớt, sau 4 tuần thấy nấm có màu vàng tươi rồi chuyển sang xanh và xanh thẫm từ tuần thứ 6. Trong khi đó các mẫu bảo quản ở 25 oC nấm phát triển mạnh mẽ trong 2 tuần đầu, trong vòng 2 tuần đầu chỉ thấy các sợi nấm trắng thưa thớt, sau 4 tuần thấy nấm có màu vàng tươi rồi chuyển sang xanh và xanh thẫm từ tuần thứ 6. Hàm lượng aflatoxin trong các mẫu thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ được tâp hợp tại bảng PL 2.2 trong Phụ lục 2. Kết quả cho thấy các mẫu M22 (nhiệt độ 25 oC) có mức nhiễm AF cao nhất, hàm lượng AF tăng dần từ tuần thứ hai đến tuần thứ 10, sau đó hầu như không tăng trong các tuần tiếp theo. Hàm lượng AFB1 và AF tổng số theo thời gian (tuần) trong các mẫu thí nghiệm ở nhiệt độ 20, 25, 30 và 35 oC được biểu diễn trong hình 3.14. 32 30 AFB1-20 24 AFB1-25 AFs-25 16 AFs-30 15 AFs-35 ML-AFB1 8 ML-AFs 0 2 4 6 8 10 12 14 16 Qua biểu đồ hình 3.14 ta thấy, A. flavus sinh độc tố trong điều kiện thí nghiệm tăng dần từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 10, các tuần sau đó hầu như thay đổi không đáng 94 kể, có thể do lượng ôxy trong bao gói không đủ cho sự phát triển và sinh aflatoxin. Kết quả nghiên cứu cho thấy 25 oC là nhiệt độ tốt nhất cho A. flavus phát triển sinh AFB1 và AFB2 trên lạc, 40 oC là nhiệt độ hạn chế sự phát triển và sinh AF của A. flavus. Điều này hoàn toàn phù hợp với công bố của Enjie Diao và cộng sự về việc AF trong lạc thường thấy ở nhiệt độ dưới 35 oC mà hiếm thấy ở nhiệt độ 45 oC [54]. Tuy nhiên đối với nghiên cứu trên hạt kê ở Nigeria [75] cho thấy nấm phát triển ở điều kiện RH cao và khoảng nhiệt độ 30 - 35 oC nên hạt kê được khuyến cáo bảo quản ở điều kiện dưới nhiệt độ môi trường hoặc từ 40 oC trở lên và RH thấp hơn 55%. AFB1 phát hiện có trong các mẫu ở nhiệt độ 20, 25 và 30 oC sau 2 tuần nghiên cứu. Sau 4 tuần hàm lượng AFB1 trong các mẫu để ở 25 oC cao hơn 8 µg/kg, ML- oC, sau 8 tuần với các mẫu để ở 20 oC, và sau 12 tuần với các mẫu để ở 35 oC. AFB1 theo QCVN 8-1:2011/BYT, tương tự sau 6 tuần với các mẫu để ở nhiệt độ 30 Để xác định mối quan hệ giữa nhiệt độ và mức aflatoxin sinh ra có tuyến tính không, nghiên cứu đã thực hiện phân tích hồi quy tuyến tính bằng chương trình R 3.4.1, trong đó hàm lượng AFB1 là biến phụ thuộc và các biến liên tục là nhiệt độ (Tem) oC và thời gian theo tuần (Week). Kết quả phân tích như trong mục 3.3.2 tại phụ lục 3 cho thấy mối quan hệ giữa nhiệt độ và sự sinh AF không có ý nghĩa thống kê (p = 0,1042 > 0,05. Để biểu diễn tần số các mẫu phát hiện AFB1 của biến nhiệt độ (Tem), dùng lệnh hist(Tem) và plot(density) ta có biểu đồ đồ thị phân phối xác suất như hình 3.15. Biểu đồ hình 3.15 cho thấy, các mẫu phát hiện AFB1 có tần suất phân phối nhiệt 95 độ ở đỉnh cao nhất là nhiệt độ 25 oC. Qua phân tích trong phần tổng quan tài liệu, tham khảo một số kết quả nghiên cứu [54, 75] và từ kết quả nghiên cứu thực tế cho rằng yếu tố nhiệt độ cần duy trì nhiệt độ dưới 25 oC sẽ làm giảm khả năng phát triển và sinh aflatoxin của A. flavus trong quá trình bảo quản lạc. 40 oC đã có khả năng ức chế sự phát triển của A. flavus, tuy nhiên nhiệt độ cao là điều kiện thuận lợi cho chất béo trong lạc bị ôxy hóa dẫn đến hiện tượng chảy dầu và ôi khét của lạc. Nhiệt độ trong khoảng 25 - 30 oC là nhiệt độ thích hợp cho A. flavus phát triển và sinh aflatoxin, trong đó 25 oC và độ ẩm lạc 10% là điều kiện tối ưu. Nhiệt độ càng thấp càng thuận tiện cho quá trình bảo quản lạc, tuy nhiên để giảm nhiệt độ xuống dải nhiệt độ thấp sẽ làm tăng chi phí và tốn kém năng lượng của thiết bị. Do vậy, nhiệt độ lựa chọn trong thấp hơn 25 oC là phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. 3.2.4. Ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus đến sự sinh AF trên lạc Thí nghiệm được tiến hành như mô tả trong mục 2.6.2.4. Các mẫu được được quan sát sự phát triển của nấm A. flavus và soi UV sau mỗi tuần (như bảng 3.15); phân tích AF sau mỗi 2 tuần. Tuần 1 100 M51 K - - Chưa phát hiện nấm phát triển K 101 M52 K - - Chưa phát hiện nấm phát triển K 102 M53 C K thưa
thớt vàng nhạt 1 số sợi nấm mới nhú màu vàng thưa thớt
quanh hạt lạc, một số nấm trắng vượt lên C 103 M54 vàng nhạt K thưa
thớt có 1 số hạt có xuất hiện sợi nấm màu
vàng nhạt thưa thớt quanh hạt lạc, có 1
số sợi nấm trắng mờ nhạt xuất hiện 104 M55 C C thưa
thớt vàng ánh
xanh sợi nấm vàng ánh xanh mọc thưa thớt
xung quanh hạt lạc, có 1 số sợi nấm
trắng mờ nhạt xuất hiện 105 M56 C mọc rõ K vàng ánh
xanh nét sợi nấm vàng ánh sáng mọc thưa thớt
xung quanh hạt lạc, có 1 số sợi nấm
trắng mờ nhạt xuất hiện 96 106 M57 C mọc rõ K vàng ánh
xanh nét sợi nấm vàng ánh sáng mọc xung quanh
hạt lạc, có 1 số sợi nấm trắng mờ nhạt
xuất hiện Tuần 2 100 M51 C K thưa
thớt vàng nhạt Lác đác 1 vài sợi nấm mới nhú màu vàng
nhạt thưa thớt, ngắn, khó quan sát mọc
quanh 1 hạt lạc 101 M52 C vàng nhạt 1 số sợi nấm mới nhú màu vàng thưa thớt K quanh hạt lạc thưa
thớt 102 M53 C mọc rõ C vàng ánh
xanh sợi nấm màu vàng ánh xanh quang hạt
lạc, một số nấm vàng sáng nét 103 M54 C mọc rõ C nét vàng
xanh,
xanh lục sợi nấm màu vàng nhạt, vàng xanh, xanh
lục mọc quanh hoạt lạc, một số chỗ nấm
mọc thành cụm 104 M55 C mọc rõ C vàng ánh
xanh sợi nấm vàng ánh xanh mọc thưa thớt
xung quanh hạt lạc, xen lẫn nấm trắng nét 105 M56 C mọc rõ C vàng ánh
xanh sợi nấm vàng ánh xanh mọc thưa thớt
xung quanh hạt lạc, xen lẫn nấm trắng nét 106 M57 C mọc rõ C vàng ánh
xanh sợi nấm vàng ánh xanh mọc thưa thớt
xung quanh hạt lạc, xen lẫn nấm trắng nét Tuần 4 100 M51 C vàng nhạt K 1 số sợi nấm màu vàng nhạt thưa thớt
quanh 1 hạt lạc thưa
thớt 101 M52 C vàng nhạt C 1 số sợi nấm màu vàng ánh xanh thưa
thớt quanh 1 số hạt lạc thưa
thớt 102 M53 C C vàng
sáng, xám nấm vàng sáng phát triển, xuất hiện một
số cụm nấm màu xám mọc
nhiều 103 M54 C C vàng
xanh, lục mọc
nhiều nấm màu vàng xanh xung quanh hạt, sợi
mỏng, ngắn, có một số nấm chuyển màu
xanh lục, phát hiện một số nấm trắng 104 M55 C C mọc
nhiều vàng
xanh, lục,
trắng nấm xanh lục mọc dày đặc, xuất hiện
nấm màu trắng phát triển xen kẽ nấm
vàng xanh 105 M56 C C vàng
xanh, lục nấm màu xanh lục phát triển nhiều, nấm
vàng xanh mọc dày đặc mọc
nhiều 106 M57 C vàng xanh C sợi nám vàng xanh mọc nhiều, sợi mỏng
manh mọc
nhiều Ghi chú: C: có quan sát thấy nấm/ có phát quang; K: không quan sát thấy nấm / không phát quang 97 Kết quả quan sát hàng tuần cho thấy: Các mẫu nhiễm nấm ở mức 103 CFU/g phát triển mạnh nhất và chậm phát triển sau 8 tuần. Các mẫu nhiễm nấm ở mức 101 CFU/g phát triển nhanh ở tuần thứ nhất, bào tử nấm phát triển và già dần ở các tuần tiếp theo và chậm phát triển sau 8 tuần. Các mẫu nhiễm nấm ở mức 102 CFU/g phát triển nhanh ở tuần thứ nhất, bào tử nấm phát triển và già dần ở các tuần tiếp theo và chậm phát triển sau 10 tuần. Các mẫu nhiễm nấm ở mức 104, 105 và 106 CFU/g phát triển nhanh ở tuần thứ nhất, bào tử nấm chậm phát triển và không già đi nhiều ở các tuần tiếp theo và chậm phát triển sau 8 tuần. Giới hạn cho phép mức nhiễm nấm men-mốc trong ngũ cốc và hạt có dầu (có xử lý nhiệt trước khi sử dụng) theo Quyết định số 46/2007/QĐ-BYT là 103 CFU/g [2], trong nghiên cứu này các mẫu nhiễm ở mức 103 đến 106 CFU A. flavus/g sinh AFB1 sau 2 tuần và vượt ngưỡng cho phép sau 4 tuần nghiên cứu. Hàm lượng aflatoxin trong thí nghiệm ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus tổng hợp tại bảng PL2.4 trong Phụ lục 2. Kết quả phân tích hàm lượng aflatoxin cho thấy chủ yếu phát hiện AFB1, một số mẫu phát hiện AFB2, không phát hiện AFG1 và AFG2 trong các mẫu nghiên cứu. Các mẫu nhiễm ở mức 100 CFU A. flavus/g không phát hiện sinh AF sau 16 tuần nghiên cứu. Các mẫu nhiễm ở mức 101 CFU A. flavus/g sinh AFB1 sau 8 tuần nghiên cứu, mức nhiễm AFB1 không vượt ngưỡng cho phép sau 16 tuần nghiên cứu. AFB2 không sinh ra sau 16 tuần nghiên cứu. Các mẫu nhiễm mức 102 CFU A. flavus/g sinh AFB1 sau 4 tuần và vượt ngưỡng cho phép sau 14 tuần nghiên cứu. AFB2 không sinh ra sau 16 tuần nghiên cứu. Các mẫu nhiễm ở mức 103 CFU A. flavus/g sinh AFB1 sau 2 tuần và vượt 98 ngưỡng cho phép sau 4 tuần nghiên cứu. AFB2 sinh ra sau 6 tuần nghiên cứu. Các mẫu nhiễm ở mức 104, 105, 106 CFU A. flavus/g sinh AFB1 sau 2 tuần và vượt ngưỡng cho phép sau 4 tuần nghiên cứu. AFB2 sinh ra sau 4 tuần nghiên cứu. Hàm lượng AFB1 và AF tổng số trong các mẫu nhiễm từ 101 CFU A. flavus/g được thể hiện trong hình 3.16. 90 88 AFB1-10^1 80 AFB1-10^3 75 72 AFB1-10^2 64 AFs-10^3 60 AFB1-10^4 56 AFs-10^4 48 45 AFB1-10^5 40 AFs-10^5 32 30 AFB1-10^6 24 AFs-10^6 16 15 ML-AFB1 8 ML-AFs 0 2 4 6 8 10 12 14 16 Kết quả trong hình 3.17 cho thấy mức nhiễm A. flavus BG1 càng cao thì khả năng nhiễm AF trong mẫu càng cao. Để xác định mối quan hệ giữa mức nhiễm A. flavus BG1và sự sinh aflatoxin có tuyến tính không, chúng tôi phân tích hồi quy tuyến tính bằng chương trình R 3.4.1, trong đó hàm lượng AFB1 là biến phụ thuộc và các biến liên tục là mức nhiễm A. flavus BG1 bắt đầu từ 100 CFU/g và thời gian theo thời gian (Tuần). Kết quả phân tích như trong mục 3.3.3 tại phụ lục 3 cho thấy mối quan hệ giữa mức nhiễm A. flavus 99 và sự sinh AF có ý nghĩa thống kê (p< 0,05). Ta có phương trình hồi quy tuyến tính quan hệ giữa mức nhiễm AFB1 (Y1) theo mức nhiễm A. flavus BG1 (x3) và thời gian (x2) như sau: (15) Y1 = 0,93 + 5,99×10-6 x3 + 2,0 x2 Phương trình trình (14) có nghĩa là với độ ẩm từ 10 % trở lên, mức nhiễm A. flavus tăng lên 1 CFU thì hàm lượng AFB1 tăng lên 5,99×10-6 g/kg; thời gian tăng lên thêm 1 tuần thì hàm lượng AFB1 tăng 2,0 g/kg. 3.2.5. Ảnh hưởng của điều kiện hút chân không đến sự phát triển và sinh aflatoxin trên lạc của A. flavus BG1 Thí nghiệm được tiến hành như mô tả trong mục 2.6.2.5. Các mẫu được được quan sát sự phát triển của nấm A. flavus sau mỗi tuần và phân tích AF sau mỗi 2 tuần. Sự phát triển của nấm được quan sát hàng tuần, kết quả ghi chép như bảng 3.16. Tuần 1 50 M41 C vàng xanh sợi nấm vàng ánh sáng mọc thưa K mọc rõ
nét thớt xung quanh hạt lạc 100 M42 C thưa thớt vàng xanh C sợi nấm vàng ánh xanh mọc
thưa thớt xung quanh hạt lạc 150 M43 C thưa thớt vàng xanh C sợi nấm vàng ánh xanh mọc
thưa thớt xung quanh hạt lạc 200 M44 C K thưa thớt vàng xanh có 1 số hạt có xuất hiện sợi nấm
màu vàng nhạt , một số sợi nấm
vàng xanh thưa thớt quanh hạt
lạc 250 M45 K - - Chưa phát hiện nấm phát triển K Tuần 2 C 50 M41 C vàng xanh mọc rõ
nét sợi nấm màu vàng nhạt, vàng
xanh 100 C 100 M42 C vàng xanh sợi nấm màu vàng ánh xanh
quang hạt lạc mọc rõ
nét C 150 M43 C vàng xanh sợi nấm vàng ánh xanh mọc
thưa thớt xung quanh hạt lạc mọc rõ
nét C 200 M44 C vàng xanh sợi nấm vàng ánh xanh mọc
thưa thớt xung quanh hạt lạc mọc rõ
nét 250 M45 K - - Chưa phát hiện nấm phát triển K Tuần 4 50 M41 C vàng xanh nấm màu vàng xanh xung quanh C mọc rõ
nét hạt 100 M42 C vàng xanh nấm màu vàng xanh xung quanh C mọc rõ
nét hạt 150 M43 C vàng xanh nấm màu vàng xanh xung quanh C mọc rõ
nét hạt 200 M44 C vàng xanh nấm màu vàng xanh xung quanh C mọc rõ
nét hạt 250 M45 K - - Chưa phát hiện nấm phát triển K Ghi chú: C: có quan sát thấy nấm/có phát quang; K: không quan sát thấy nấm/không phát quang Kết quả quan sát định kỳ hàng tuần cho thấy: Các mẫu đóng gói hút chân không ở áp lực 250 mmHg không quan sát thấy nấm phát triển sau 16 tuần nghiên cứu. Các mẫu đóng gói hút chân không ở áp lực 50, 100, 150 và 200 mmHg quan sát thấy có nấm mọc sau 2 tuần. Kết quả mức nhiễm AF trong các mẫu thí nghiệm tại bảng PL2.3 trong phụ lục 2. Sắc đồ phân tích AF trong các mẫu này tại phụ lục 4. Hàm lượng AF trong các mẫu áp lực hút chân không 50, 100, 150 và 200 mmHg 101 theo thời gian được biểu diễn như hình 3.17. 32 24 30 16 15 8 50 mmHg
100 mmHg
150 mmHg
200 mmHg
ML-AFB1
ML-AFs 0 0 2 4 6 8 10 12 14 16 Các mẫu được đóng gói với áp lực hút chân không 50 mmHg có mức nhiễm AFB1 cao nhất và phát hiện AFB1 từ sau 2 tuần với mức nhiễm AFB1 gấp 3,3 lần so với ngưỡng cho phép (<8 g/kg) theo QCVN 8-1:2011/BYT. Các mẫu được đóng gói với áp lực hút chân không 100 mmHg phát hiện AFB1 từ sau 2 tuần với mức nhiễm AFB1 gấp 2,9 lần so với ngưỡng cho phép. Các mẫu được đóng gói với áp lực hút chân không 150 mmHg phát hiện AFB1 từ sau 2 tuần với mức nhiễm AFB1 gấp 1,97 lần so với ngưỡng cho phép. Các mẫu được đóng gói với áp lực hút chân không 200 mmHg phát hiện AFB1 từ sau 2 tuần với mức nhiễm AFB1 thấp hơn so với ngưỡng cho phép. Lạc được bảo quản bằng đóng gói hút chân không ở điệu kiện áp lực hút chân không càng cao thì khả năng ức chế sự phát triển và sinh AF của A. flavus BG1 càng cao. A. flavus BG1 không phát triển và sinh AF sau 4 tháng ở điều kiện đóng gói hút chân không với áp lực hút 250 mmHg. 3.2.6. Phân tích mối quan hệ của các yếu tố đến sự phát triển và sinh aflatoxin trên lạc của A. flavus BG1 3.2.6.1. Mối liên quan giữa sự phát triển của nấm, sự phát quang và phát hiện AF trên lạc Tổng hợp các yếu tố quan sát và phân tích được về sự phát triển của A. flavus, 102 kết quả soi UV của mẫu và kết quả phân tích AF như bảng 3.17. C1 K KPH K K KPH K C2 K KPH K K KPH K M-6% K KPH vàng nhạt K KPH K M-8% vàng nhạt K KPH vàng, xanh K KPH M-10% C 112,08 vàng, xanh C 124,03 vàng
xanh M-12% C 4,23 C 5,91 vàng xanh,
lục vàng
xanh M-14% trắng K KPH trắng K KPH M-20oC vàng nhạt K KPH vàng nhạt C KPH M-25oC xanh, lục C 112,77 C 130,26 vàng xanh,
lục M-30oC C 18,32 vàng xanh C 21,32 vàng
xanh M-35oC C KPH C KPH vàng nhạt,
vàng xanh vàng
xanh M-40oC vàng nhạt K KPH vàng nhạt K KPH M-100CFU vàng nhạt K KPH vàng nhạt K KPH M-101CFU vàng nhạt K KPH vàng xanh C 15,75 M-102CFU C KPH xanh, lục C 30,13 vàng
xanh M-103CFU xanh, lục C 128,05 xanh, lục C 63,71 M-104CFU C 14,62 xanh, lục C 15,8 vàng
xanh M-105CFU C 12,72 xanh, lục C 15,1 vàng
xanh 103 M-106CFU C 12,87 vàng xanh C 14,69 vàng
xanh C vàng xanh C 26,4 26,5 M-50mmHg vàng
xanh C vàng xanh C 23,3 23,97 vàng
xanh M-
100mmHg C vàng xanh C 15,75 18,14 vàng
xanh M-
150mmHg C vàng xanh C 3,12 4,23 vàng
xanh M-
200mmHg - K KPH - K KPH M-
250mmHg Ghi chú: C: có phát quang; K: không quan sát thấy nấm phát triển/ không phát quang C1, C2: mẫu đối chứng Kết quả tại bảng 3.17 cho thấy, khi A. flavus BG1 phát triển đến quan sát thấy có màu xanh thì bắt đầu phát hiện có aflatoxin (có phát ánh sáng xanh dưới đèn UV 365 nm), mẫu phát hiện có phát huỳnh quang có thể chưa đủ để phân tích được aflatoxin, tuy nhiên tất cả các mẫu phát hiện aflatoxin thì trước khi phân tích đều phát hiện có phát huỳnh quang dưới đèn UV 365 nm, đa số các mẫu có hàm lượng AF cao đều quan sát thấy A. flavus BG1 có màu xanh lục, thể hiện bào tử đã già. Như vậy, Aspergillus flavus BG1 phát triển đến khi bào tử có màu xanh mới bắt đầu sinh AF, mẫu có AF có phát ánh sáng xanh dưới đèn UV bước sóng 365 nm. 3.2.6.2. Phân tích mối tương quan giữa các yếu tố và xây dựng mô hình hồi quy logistic Từ kết quả mức nhiễm AF trong các mẫu thí nghiệm với các yếu tố ảnh hưởng: độ ẩm, nhiệt độ và mức nhiễm A. flavus khác nhau chúng ta phân tích mối tương quan 104 giữa các yếu tố ảnh hưởng và mức nhiễm AF như biểu đồ hình 3.18. Trên biểu đồ hình 3.18, các hình vuông trong đường chéo biểu diễn phân phối chuẩn của các biến. Biến thời gian (Week) phân phối chuẩn do tất cả các thí nghiệm thiết kế thời gian như nhau. Biến Độ ẩm (Moi) phân bố lệch chuẩn do đa số các mẫu thí nghiệm thiết kế độ ẩm 10 %, sau đó mới đến độ ẩm 12 % và 14 %. Biến nhiệt độ (Tem) cũng có phân bố chuẩn do đa số các thí nghiệm bố trí ở nhiệt độ 25 oC, một số ít thí nghiệm bố trí ở 20 oC, 30 oC và 35 oC. Biến mức nhiễm A. flavus (Flavus) cũng không phân bố chuẩn, do đa số thí nghiệm bố trí ở mức nhiễm 103 CFU/g, một số ít 105 các thí nghiệm bố trí các mức nhiễm khác nhau. Biến AFB1 và AF tổng số (AFTotal) phân bố lệch chuẩn do đa số các mẫu thí nghiệm có mức nhiễm aflatoxin ở hàm lượng thấp, số mẫu có hàm lượng cao giảm dần. Mức nhiễm AFB1 và AF tổng số có mối tương quan lớn nhất với chỉ số tương quan tương ứng là 0,95 và có mối quan hệ tuyến tính thể hiện ở đường thẳng tuyến tính biểu diễn mối quan hệ của hai biến này. Sau đó đến mối tương quan giữa mức nhiễm aflatoxin (AF tổng số và AFB1) với thời gian (Week) tương ứng là 0,62 và 0,59. Tiếp theo là mối tương quan giữa mức nhiễm AFB1 và độ ẩm (Moi) với hệ số tương quan là 0,52. Tỉ số tương quan giữa mức nhiễm AF tổng số và độ ẩm là 0,32. Sử dụng hàm bic.glm trong chương trình phân tích dữ liệu R [14] để tìm các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh AF trong lạc. Các biến độc lập gồm: Thời gian (Week), Độ ẩm (Moi), Nhiệt độ (Tem) và Mức nhiễm A. flavus (Flavus). Kết quả phân tích cho ta 4 mô hình tối ưu được lựa chọn như trong bảng 3.18. Mô hình 1 Thời gian, Độ ẩm, Mức nhiễm A. flavus -3,518e+02 0,535 Mô hình 2 Thời gian, Mức nhiễm A. flavus -3,509e+02 0,344 Mô hình 3 -3,480e+02 0,081 Thời gian, Nhiệt độ, Độ ẩm, Mức nhiễm
A. flavus Mô hình 4 Thời gian, Nhiệt độ, Mức nhiễm A. flavus -3,466e+02 0,039 Kết quả tại bảng 3.18 cho thấy xác xuất xuất hiện của mô hình 1 là lớn nhất (53,5 %) và chỉ số BIC của mô hình này là nhỏ nhất, do đó mô hình này là mô hình tối ưu trong số 4 mô hình tốt nhất được lựa chọn. Sử dụng hàm imageplot.bma(s) trên phần mềm R, kết quả phân tích như trong mục 3.2.4 tại phục lục 3 cho thấy các yếu tố: thời gian (Tuần) và mức nhiễm A. flavus BG1 ảnh hưởng đến sự sinh AF có tính nhất quán cao nhất, các yếu tố này xuất hiện cao nhất trong mô hình (100 %); Độ ẩm xuất hiện trong mô hình 61,6 %; Nhiệt độ xuất hiện trong mô hình 12,2 %. Điều đó chứng tỏ thời gian và mức nhiễm A. flavus BG1 là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự sinh AF trong lạc, sau đó đến độ ẩm 106 và yếu tố nhiệt độ. Các mô hình hồi quy được BMA lựa chọn thể hiện như hình 3.19. Kết quả trong bảng 3.18 và hình 3.19 cho ta thấy mô hình 1 là mô hình tối ưu. Sử dụng hàm glm để dự đoán công thức hồi quy tuyến tính đa biến cho biến phụ thuộc AFB1 (Y1) vào các yếu tố thời gian (x2) , độ ẩm (x1) và mức nhiễm A. flavus BG1 (x3) như sau: Y1 = -80,365 + 1,997 x2 + 7,969 x1 + 1,135×10-5 x3 (16) Phương trình (15) cho biết khi thời gian tăng lên 1 tuần thì hàm lượng AFB1 tăng lên 1,997 g/kg; độ ẩm tăng lên 1 % thì hàm lượng AFB1 tăng lên 7,969 g/kg; mức nhiễm A. flavus BG1 tăng lên 1 CFU/g thì AFB1 tăng 1,135×10-5 g/kg. Phương trình hồi quy tuyến tính đa biến cho biến phụ thuộc AF tổng số (Y) vào các yếu tố độ ẩm (x1), mức nhiễm A. flavus BG1 (x2) và thời gian - tuần (x3) như sau: (17) Y = -82,41 + 7,65 x1 + 1,14×10-5 x3 + 2,6 x2 Phương trình trình (16) có nghĩa là độ ẩm tăng 1 % thì hàm lượng AF tổng số tăng lên 7,65 g/kg; mức nhiễm A. flavus BG1 tăng lên 1 CFU/g thì AF tổng số tăng lên 1,14×10-5 g/kg; thời gian tăng lên thêm 1 tuần thì AF tổng số tăng 2,6 g/kg. Như vậy, với độ ẩm của lạc từ 10 % trở lên, lạc nhiễm A. flavus BG1 sẽ có hàm lượng AF tăng dần theo thời gian và độ ẩm tăng. Đề tài tiếp tục nghiên cứu giải pháp ức chế khả năng phát triển và sinh AF của A. flavus BG1 bằng các hoạt chất từ thiên nhiên đảm bảo an toàn thực phẩm, tinh dầu hồi, quế được tính đến trong nghiên cứu 107 tiếp theo. 3.2.7. Nghiên cứu ảnh hưởng của tinh dầu hồi, quế đến khả năng ức chế sự phát triển của A. flavus 3.2.7.1. Nghiên cứu trên môi trường thạch Khả năng ức chế của các tinh dầu đơn hồi (quế) đối với sự phát triển của A. flavus BG1 trên môi trường PDA được đánh giá dựa trên kết quả đo đường kính của khuẩn lạc theo thời gian như mô tả trong mục 2.6.2.4. Quan sát sự phát triển của A.flavus BG1 ta thấy: trên đĩa thạch có bổ sung tinh dầu khuẩn lạc phát triển chậm hơn, có rìa trắng rõ nét và tròn đều; đĩa thạch không bổ sung tinh dầu khuẩn lạc phát triển nhanh với rìa trắng không rõ nét và không tròn đều (hình 3.20). Hình 3. 20. Khuẩn lạc phát triển trên các đĩa thạch: a) đối chứng - không bổ sung tinh dầu; b) bổ sung Như vậy trong điều kiện không bị ức chế các bào tử của A.flavus BG1 có thể dễ dàng lan rộng ra. Sự có mặt của tinh dầu quế hoặc hồi, các bào tử này không dễ dàng lan rộng ra, thậm chí không thể phát triển khi tinh dầu ở nồng độ cao. Đường kính của khuẩn lạc được đo lần đầu sau 3 ngày, sau đó đo 2 ngày/lần, mỗi lần đo 4 đĩa/nồng độ tinh dầu. a. Thí nghiệm với tinh dầu quế Kết quả đo đường kính khuẩn lạc 4 đĩa/nồng độ/ lần đo được như trong Phụ lục 2 tại bảng PL2.6. Kết quả trung bình của đường kính khuẩn lạc đo được như trong 108 bảng 3.19. Hàm lượng tinh dầu quế (% v/v) 0 0,0125 0,025 0,05 0,1 0,2 0,4 0,8 1,6 3,2 Thời gian
nuôi cấy
(ngày) 3 3,2 3,1 1,9 0 0 0 0 0 0 0 5 5,4 5,3 4,5 0 0 0 0 0 0 0 7 6,6 6,6 5,0 0 0 0 0 0 0 0 9 7,6 7,5 6,5 0 0 0 0 0 0 0 11 9,0 9,0 7,1 0 0 0 0 0 0 0 13 9,0 9,0 9,0 0 0 0 0 0 0 0 15 9,0 9,0 9,0 0 0 0 0 0 0 0 17 9,0 9,0 9,0 0 0 0 0 0 0 0 19 9,0 9,0 9,0 0 0 0 0 0 0 0 Đ
ư
ờ
n
g
k
í
n
h
k
h
u
ẩ
n
l
ạ
c
(
c
m 21 9,0 9,0 9,0 0 0 0 0 0 0 0 ) 23 9,0 9,0 9,0 0 0 0 0 0 0 0 25 9,0 9,0 9,0 0 0 0 0 0 0 0 27 9,0 9,0 9,0 0 0 0 0 0 0 0 29 9,0 9,0 9,0 0 0 0 0 0 0 0 Qua bảng 3.19 ta thấy sau 13 ngày, khuẩn lạc phát triển tràn đầy trên các đĩa đối chứng, các đĩa có nồng độ tinh dầu quế từ 0,0125 % và 0,025 %, những đĩa có nồng độ tinh dầu quế từ 0,05 % khuẩn lạc không phát triển được cho đến 29 ngày. Như vậy, môi trường PDA bổ sung tinh dầu quế nồng độ ≥ 0,05 %v/v có thể ức chế sự phát triển của A. flavus BG1 ở điều kiện nhiệt độ 25 oC. Sự phát triển của nấm trên các đĩa thí nghiệm có bổ sung tinh dầu quế với nồng độ từ 0 % (mẫu đối chứng) đến 0,025 % được tính phần trăm đường kính phát triển 109 so với đường kính của đĩa và được biểu diễn trên biểu đồ hình 3.21. 100.0 90.0 80.0 70.0 Mẫu đối chứng 60.0 Quế 0,0125% 50.0 Quế 0,025% 40.0 30.0 20.0 10.0 3 5 7 9 11 13 Qua biểu đồ hình 3.21 ta thấy A. flavus BG1 nuôi cấy trong môi trường thạch không có nồng độ tinh dầu 0 %v/v (mẫu đối chứng) và thạch bổ sung tinh dầu quế 0,0125 % phát triển gần giống nhau, còn mẫu bổ sung tinh dầu quế 0,025 % phát triển chậm hơn do sự có mặt của tinh dầu làm ức chế sự phát triển của nấm. Các mẫu bổ sung tinh dầu quế ở nồng độ 0,05 % đến 3,2 % nấm không phát triển được. Gọi nhóm mẫu chứng là nhóm 1, nhóm bổ sung tinh dầu quế 0,0125 % là nhóm 2, nhóm bổ sung tinh dầu quế 0,025 % là nhóm 3. Phân tích số liệu trong bảng 3.19 bằng phần mềm R để xác định mức độ khác biệt cũng như khoảng tin cậy 95 % giữa các nhóm. Sử dụng hàm aov (analysis of variance) và hàm TukeyHSD (HSD - Honest Significant Difference). Kết quả cho thấy ở khoảng tin cậy 95 %, kết quả so sánh giữa nhóm có bổ sung tinh dầu và nhóm không bổ sung tinh dầu có sự khác biệt đáng kể (p<0,05). Tuy nhiên sự khác biệt giữa các nhóm có bổ sung tinh dầu ở hàm lượng 0,0125 % và 0,025 % là không đáng kể (p = 0,316). Môi trường thạch có bổ sung tinh dầu quế nồng độ từ 0,0125 % trở lên có tác dụng hạn chế sự phát triển đối với A. flavus BG1, tinh dầu quế nồng độ từ 0,05 % trở 110 lên có tác dụng ức chế A. flavus BG1 không phát triển được ở nhiệt độ 25 oC. b. Thí nghiệm với tinh dầu hồi Kết quả đo đường kính phát triển của nấm trên các đĩa thạch trong thí nghiệm sử dụng tinh dầu hồi được tổng hợp trong Phụ lục 2 tại bảng PL2.6. Kết quả trung bình của đường kính nấm như bảng 3.20. Hàm lượng tinh dầu hồi (% v/v) 0 0,0125 0,025 0,05 0,1 0,2 0,4 0,8 1,6 3,2 Thời gian
nuôi cấy
(ngày) 3 3,2 3,0 2,1 1,8 1,4 0,4 0 0 0 0 5 5,4 4,1 4,0 3,8 2,6 0,8 0,6 0 0 0 7 6,6 6,5 6,4 5,9 4,8 2,5 1,6 0 0 0 9 7,6 7,7 7,6 7,3 7,1 4,8 3,1 0 0 0 11 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 7,7 6,3 0 0 0 13 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 7,8 0 0 0 15 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0 0 0 17 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0 0 0 19 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0 0 0 21 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0 0 0 Đ
ư
ờ
n
g
k
í
n
h
k
h
u
ẩ
n
l
ạ
c
(
c
m ) 23 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0 0 0 25 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0 0 0 27 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0 0 0 29 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0 0 0 Qua bảng 3.20 ta thấy, A. flavus BG1 nuôi cấy trong môi trường thạch không bổ sung tinh dầu (mẫu đối chứng) và thạch bổ sung tinh dầu hồi 0,0125 % phát triển gần giống nhau, còn mẫu bổ sung tinh dầu hồi từ 0,1 % đến 0,4 % phát triển chậm hơn rõ nét do sự có mặt của tinh dầu làm ức chế sự phát triển của nấm. Các mẫu bổ 111 sung tinh dầu hồi ở nồng độ 0,8 %, 1,6 % và 3,2 % nấm không phát triển được. Sự phát triển của khuẩn lạc trên các đĩa thí nghiệm có nồng độ tinh dầu hồi từ 0% (mẫu đối chứng) đến 0,4 % được tính phần trăm đường kính phát triển so với đường kính của đĩa và được biểu diễn trên biểu đồ hình 3.22. 120.0 100.0 Hồi 0,0125% Hồi 0,025% 80.0 Hồi 0,05% 60.0 Hồi 0,1% Hồi 0,2% 40.0 Hồi 0,4% 20.0 mẫu đối chứng 0.0 Thời gian (ngày) 3 5 7 9 11 13 15 17 Qua biểu đồ hình 3.24 ta thấy: sau 11 ngày, các mẫu chứng và mẫu có nồng độ tinh dầu hồi từ 0,0125 % đến 0,1 % nấm mọc đến 100 % diện tích đĩa thạch. Nấm mọc đến 100 % diện tích đĩa thạch sau 13 ngày với các đĩa thạch có nồng độ tinh dầu hồi 0,2 %, sau 15 ngày với đĩa thạch có nồng độ tinh dầu hồi 0,4 %. Các đĩa thạch có nồng độ tinh dầu 1,6 % và 3,2 % nấm không phát triển được. Gọi nhóm mẫu chứng là nhóm 1, nhóm bổ sung tinh dầu hồi 0,0125 % là nhóm 2, nhóm bổ sung tinh dầu hồi 0,025 % là nhóm 3, nhóm bổ sung tinh dầu hồi 0,05 % là nhóm 4, nhóm bổ sung tinh dầu hồi 0,1 % là nhóm 5, nhóm bổ sung tinh dầu hồi 0,2 % là nhóm 6, nhóm bổ sung tinh dầu hồi 0,4 % là nhóm 7. Phân tích số liệu bằng phần mềm R để xác định mức độ khác biệt cũng như khoảng tin cậy 95 % giữa các nhóm, sử dụng hàm ANOVA. Qua kết quả trung bình bình phương (mean square) của bảy nguồn dao động của đường kính nấm phát triển, chúng ta thấy ảnh hưởng của lần đo có vẻ quan trọng hơn là ảnh hưởng của nồng độ tinh dầu thí nghiệm. Kết quả của các lần đo với các nồng độ khác nhau của tinh dầu hồi khác nhau có ý nghĩa thống 112 kê, vì trị số p = 0,0423 (<0,05). Như vậy, nồng độ tinh dầu hồi bổ sung vào môi trường thạch càng cao thì càng hạn chế sự phát triển của A. flavus BG1. Khuẩn lạc phát triển chậm hơn khi nồng độ tinh dầu hồi tăng từ 0,0125 %v/v đến 0,4 %v/v trong từng lần đo. Khuẩn lạc A. flavus BG1 bị ức chế không phát triển được với hàm lượng tinh dầu hồi từ 0,8 %v/v. Từ các kết quả trên ta thấy tinh dầu quế nồng độ 0,05 %v/v và tinh dầu hồi ở nồng độ 0,8 %v/v có thể ức chế sự phát triển của A. flavus BG1 trên môi trường thạch trong 28 ngày nghiên cứu. 3.2.7.2. Nghiên cứu ứng dụng tinh dầu trong bảo quản lạc nhân quy mô phòng thí nghiệm Từ các kết quả trên ta thấy tinh dầu quế ở hàm lượng 0,05 %v/v và tinh dầu hồi ở hàm lượng 0,8 %v/v có thể ức chế sự phát triển của A. flavus BG1, từ đó nghiên cứu tiếp theo về khả năng ức chế sự phát triển của A. flavus BG1 trên lạc được nhóm nghiên cứu thực hiện với các hàm lượng tinh dầu quế là: 0,0125; 0,025; 0,05 và 0,1 %v/v. Còn tinh dầu hồi thực hiện với các hàm lượng là: 0,4; 0,8, 1,6 và 3,2 %v/v. a. Khả năng ức chế của tinh dầu quế đối với sự phát triển và sinh aflatoxin của A. flavus BG1 trên lạc Kết quả phân tích tổng số bào tử nấm mốc trong các mẫu lạc (mẫu đối chứng và mẫu bổ sung tinh dầu quế từ 0,0125 đến 0,1 %v/v ) từng tuần như bảng 3.21. Mức nhiễm nấm (CFU/g) Hàm lượng tinh dầu
(% v/w) C (-) C (+) 0,0125 0,025 0,05 0,1 Thời gian (ngày) 7 0 1,0 × 104 1,8 × 102 1,1 × 102 KPH KPH 14 0 1,3 × 105 2,6 × 103 1,8 × 102 1,0 × 101 KPH 21 0 6,6 × 105 3,3 × 104 2,7 × 102 2,2 × 101 KPH 28 0 1,4 × 106 3,4 × 105 5,1 × 102 5,5 × 101 KPH Ghi chú: C(-) là mẫu chứng không bổ sung chủng nấm và không bổ sung tinh dầu
C(+) là mẫu chứng có bổ sung chủng nấm và không bổ sung tinh dầu Kết quả phân tích tổng số bào tử nấm mốc phát triển sau các tuần khác nhau cho 113 thấy: mẫu chứng (nồng độ tinh dầu 0 %v/w), số bào tử nấm tăng lên từng tuần và tăng đến 1,4×106 sau 28 ngày nuôi cấy. Lạc bổ sung tinh dầu quế hàm lượng 0,0125 %v/w và 0,025 %v/w được kiểm tra sau 7 ngày, số bào tử nấm thấp hơn so với lượng bổ sung ban đầu. Với hàm lượng tinh dầu quế 0,05 %v/w nấm bị ức chế không phát triển sau 1 tuần và bắt đầu phát triển sau tuần thứ hai. A. flavus BG1 bắt đầu bị ức chế và không phát triển được với hàm lượng tinh dầu quế 0,1 %v/w. Trong khi đó kết quả nghiên cứu trên môi trường thạch ở trên có kết quả nồng độ ức chế của tinh dầu quế là 0,05 %v/v, kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu về khả năng kháng nấm của tinh dầu xạ hương khi tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm có hiệu quả ức chế sự phát triển của A. flavus cao hơn tiếp xúc gián tiếp [111]. Kết quả này tương đương với khả năng ức chế sự phát triển sợi nấm A. parasiticus phân lập từ lạc của tinh dầu quế ở hàm lượng 1.000 ppm (tương đương 0,1 %) trên môi trường thạch [84]. Như vậy, tinh dầu quế từ hàm lượng 0,0125 % đã hạn chế sự phát triển của A. flavus BG1 trên lạc nhưng đến hàm lượng 0,1 % mới ức chế hoàn toàn sự phát triển của A. flavus BG1. Tinh dầu quế tiếp xúc trực tiếp với cơ chất nhiễm A. flavus BG1 có hiệu quả ức chế cao hơn việc tiếp xúc gián tiếp. Kết quả kiểm tra hàm lượng AF trong các mẫu đối chứng âm (lạc tiệt trùng không gây nhiễm A. flavus BG1) không phát hiện AF, còn trong các mẫu đối chứng dương (lạc tiệt trùng có gây nhiễm A. flavus BG1 nhưng không sử dụng tinh dầu) và các mẫu bổ sung tinh dầu quế được tổng hợp trong bảng 3.22. Các mẫu thí nghiệm chỉ phát hiện AFB1, không phát hiện AFB2, G1, G2. Hàm lượng tinh dầu (% v/w) Hàm lượng Aflatoxin B1 (µg/kg) Thời gian (ngày) C+ 0,0125 0,025 0,05 0,1 7 KPH KPH KPH KPH KPH 14 KPH KPH KPH KPH KPH 21 KPH KPH KPH KPH KPH 28 3,01 3,30 KPH KPH KPH Kết quả cho thấy mẫu đối chứng dương (C+) và mẫu bổ sung tinh dầu quế hàm 114 lượng 0,0125 % sinh AFB1 sau 28 ngày, còn các mẫu bổ sung tinh dầu quế từ hàm lượng 0,025 % không sinh AF sau 28 ngày. Tuy nhiên lạc bổ sung A. flavus BG1 mức 103CFU/g với độ ẩm 10 % ở điều kiện nhiệt dộ 25 oC cho đến 28 ngày, lượng AFB1 phát hiện không vượt quá giới hạn cho phép (≤8 g/kg) theo QCVN 8-1:2011. Kết quả tại bảng 3.21 và 3.22 cũng cho thấy Như vậy, tinh dầu quế hàm với hàm lượng 0,025 % đã ức chế sự phát triển và sinh Aflatoxin trên lạc của A. flavus BG1 sau 28 ngày nghiên cứu. b. Khả năng ức chế của tinh dầu hồi đối với sự phát triển và sinh aflatoxin trên lạc của A. flavus BG1 Kết quả phân tích tổng số bào tử nấm trên lạc có bổ sung tinh dầu hồi (hàm lượng từ 0,4 % đến 3,2 %) từng tuần được tổng kết trong bảng 3.23. Hàm lượng tinh dầu (% v/w) Mức nhiễm nấm (CFU/g) Thời gian (ngày) 0,4 0,8 1,6 3,2 7 1,8 × 101 KPH KPH KPH 14 1,4 × 102 KPH KPH KPH 21 2,5 × 103 1,1 × 101 KPH KPH 28 3,4 × 104 1,4 × 101 KPH KPH Kết quả cho thấy lạc bổ sung tinh dầu hồi với hàm lượng 0,4 % sau 2 tuần đầu số bào tử nấm mốc giảm so với ban đầu và bắt đầu phát triển sau tuần thứ hai và thứ ba, có thể do tinh dầu trong mẫu lạc bắt đầu bị khuếch tán và giảm tác dụng. Với lạc bổ sung tinh dầu hồi 0,8 % nấm không phát triển được trong 2 tuần đầu và bắt đầu phát triển chậm ở tuần thứ ba và thứ tư, tuy nhiên với lượng thấp hơn lượng bổ sung ban đầu. Từ hàm lượng tinh dầu hồi 1,6 % nấm không phát triển được trên lạc. Kết quả nồng độ tinh dầu hồi tối thiểu ức chế sự phát triển (MIC) của A. flavus BG1 trên môi trường thạch và cơ chất lạc tiệt trùng tương đương nhau, trong khi kết quả MIC của tinh dầu quế trên môi trường thạch thấp hơn trên cơ chất lạc tiệt trùng, có thể do MIC của tinh dầu hồi cao hơn (1,6 %) so với tinh dầu quế (0,05 %) nên khả năng 115 khuếch tán làm giảm hiệu quả ức chế thấp hơn. Nghiên cứu này cho kết quả mức MIC của tinh dầu hồi cao hơn trong nghiên cứu của khả năng chống mycotoxin và chống ôxy hóa [115], tinh dầu hồi ở nồng độ 200 ppm (0,02 %) đã ức chế hoàn toàn sự phát triển của A. flavus và A. parasiticus phân lập từ ngô. Sự khác biệt này có thể xuất phát từ chủng A. flavus trong hai nghiên cứu là khác nhau, nguồn gốc tinh dầu hồi của hai nghiên cứu cũng khác nhau nên hàm lượng các hoạt chất có chứa trong tinh dầu cũng khác nhau về tỉ lệ. Như vậy, tinh dầu hồi sử dụng trong nghiên cứu này với nồng độ 1,6 %v/w có khả năng ức chế sự phát triển của A. flavus BG1. Kết quả hàm lượng AF trong các mẫu bổ sung tinh dầu hồi như bảng 3.24. Chỉ phát hiện AFB1 trong mẫu có nồng độ tinh dầu hồi 0,4 %. Các mẫu có nồng độ tinh dầu hồi: 0,8 %; 1,6 % và 3,2 % không phát hiện AF. Không phát hiện AFB2, G1, G2. Hàm lượng Aflatoxin B1 (µg/kg) Hàm lượng tinh dầu
(%v/w) 0,4 0,8 1,6 3,2 Thời gian (ngày) 7 KPH KPH KPH KPH 14 KPH KPH KPH KPH 21 KPH KPH KPH KPH 28 2,31 KPH KPH KPH Kết quả cho thấy mẫu bổ sung tinh dầu hồi nồng độ 0,4 %v/w sinh AF sau 28 ngày, còn các mẫu bổ sung tinh dầu hồi với nồng độ ≥ 0,8 %v/w không sinh AF sau 28 ngày. Tuy nhiên lạc gây nhiễm A. flavus BG1 ở mức 103 CFU/g với độ ẩm 10 % ở điều kiện nhiệt độ 25 oC sinh AF sau 28 ngày nhưng hàm lượng AF không vượt quá giới hạn cho phép (≤ 8 g/kg) theo QCVN 8-1:2011. Như vậy, tinh dầu hồi nồng độ 0,8 %v/w đã ức chế khả năng sinh aflatoxin trên 116 lạc sau 28 ngày nghiên cứu. 3.3.1. Khảo nghiệm quy trình bảo quản lạc nhân bằng giải pháp kiểm soát chất lượng trước khi bảo quản 3.3.1.1. Quy trình khảo nghiệm Mục đích của giải pháp: Bảo quản lạc bằng kiểm soát quá trình kể từ giai đoạn sau thu hoạch được triển khai tại quy mô hộ gia đình với các biện pháp kiểm soát từng bước trước khi đưa vào bảo quản nhằm giảm thiểu các nguy cơ tạo điều kiện thuận lợi cho nấm mốc phát triển và sinh aflatoxin. Thời gian bảo quản tối thiểu là 6 tháng (tính đến vụ thu hoạch lạc tiếp theo), đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm. Nguyên tắc giải pháp: Lạc nhân phải được kiểm soát chất lượng trước và trong quá trình bảo quản để đảm bảo không nhiễm Aflatoxin trong quá trình bảo quản (tối thiểu là 6 tháng). Quy trình dễ áp dụng với quy mô hộ gia đình. 117 Quy trình bảo quản lạc nhân bằng kiểm soát quá trình như sơ đồ hình 3.23. 3.3.1.2. Kết quả khảo nghiệm Lạc được khảo nghiệm bảo quản theo quy trình 3.23 được so sánh với mẫu lạc đối chứng (lạc đưa vào bảo quản không theo các bước của quy trình, đóng trong bao tải một lớp), mỗi loại bao bì được đóng 3 bao, mỗi bao 50 kg. Kết quả khảo nghiệm như sau: Kiểm tra chất lượng ban đầu của lạc trước khi đưa vào bảo quản: - Kiểm tra độ khô của lạc đưa vào bảo quản: Kiểm tra về mặt cảm quan: mẫu lạc xoa trên lòng bàn tay, vỏ lụa bong ra dễ 118 dàng. Kiểm tra độ ẩm bằng phương pháp sấy đến khối lượng không đổi: 3 mẫu lạc được lấy tại ba vị trí khác nhau của lạc đưa vào khảo nghiệm cho kết quả độ ẩm ban đầu của lạc là 8,04 %. Như vậy độ ẩm của lạc (8,04 %) và dóc vỏ lụa đưa vào bảo quản đạt yêu cầu theo quy trình đề xuất. - Kết quả kiểm tra mức nhiễm nấm mốc ban đầu của lạc khảo nghiệm: mức nhiễm nấm mốc ban đầu của lạc đưa vào khảo nghiệm là 1,2×102 CFU/g. - Kết quả kiểm tra sàng lọc tình trạng nhiễm AF trong lạc: lạc nhân được dàn trên khay, sau đó đưa vào máy quét đèn UV ở bước sóng 365 nm để kiểm tra. Toàn bộ lạc đưa vào khảo nghiệm không phát hiện có phát quang màu xanh. - Lạc khảo nghiệm được loại tạp theo quy trình, lạc đối chứng không loại tạp. Kiểm tra tình trạng nhiễm aflatoxin hàng tháng của các mẫu lạc khảo nghiệm: Kết quả kiểm tra hàng tháng hàm lượng AF trên mẫu lạc khảo nghiệm và lạc đối chứng, chỉ phát hiện AFB1 trong mẫu đối chứng sau 4 tháng thí nghiệm (bảng 3.25). Thời gian (tháng) 0 1 2 3 4 5 6 Lạc nhân Đối chứng KPH KPH KPH KPH 3,56 9,75 15,32 Khảo nghiệm KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH Kết quả tại bảng 3.25 cho thấy, mẫu lạc khảo nghiệm không phát hiện AF sau 6 tháng thí nghiệm, mẫu lạc đối chứng phát hiện AF sau 4 tháng thí nghiệm và vượt ngưỡng cho phép (8 µg/kg). Kết quả bảng này khác biệt với kết quả trong nghiên cứu 3.2.7.2, lạc tiệt trùng có độ ẩm cao và nhiễm 103 CFU/g A. flavus BG1 phát hiện AFB1 sau 28 ngày (1 tháng) còn mẫu lạc có độ ẩm 8 % nhiễm nấm mốc (bao gồm cả nấm mốc không phải A. flavus) ở mức 1,2×102 CFU/g và không được loại tạp phát hiện aflatoxin B1 sau 6 tháng nghiên cứu. Còn mẫu có độ ẩm 8 % có mức nhiễm nấm mốc ban đầu là 1,2×102 CFU/g nhưng đã loại tạp, loại hạt nhăn, hạt biến màu thì 119 không phát hiện AFB1 sau 4 tháng nghiên cứu. Kết quả khảo nghiệm cho thấy: Lạc nhân bảo quản theo quy trình đề xuất không phát hiện có nguy cơ nhiễm aflatoxin sau 6 tháng khảo nghiệm. Lạc nhân trước khi đưa vào bảo quản phải đảm bảo đạt độ khô, loại tạp, loại những hạt nhăn, lép, mốc và biến màu. Lạc đóng gói trong bao tải hai lớp, đóng gói kín, để trong điều kiện khô thoáng ở 20 oC và ngăn côn trùng xâm nhập. 3.3.2. Quy trình bảo quản lạc bằng đóng gói hút chân không 3.3.2.1. Quy trình khảo nghiệm Mục đích của giải pháp: Lạc được đóng gói hút chân không kể từ giai đoạn sau thu hoạch được triển khai tại quy mô hộ gia đình bằng máy đóng gói hút chân không trước khi đưa vào bảo quản nhằm giảm thiểu các nguy cơ nhiễm nấm mốc, giảm điều kiện thuận lợi cho nấm mốc này phát triển và sinh AF. Thời gian bảo quản tối thiểu là 6 tháng (tính đến vụ thu hoạch lạc tiếp theo). Nguyên tắc giải pháp: Lạc nhân phải được đóng gói hút chân không trước khi bảo quản để đảm bảo không nhiễm AF sau quá trình bảo quản (tối thiểu là 6 tháng). Quy trình dễ áp dụng với quy mô hộ gia đình. Quy trình khảo nghiệm bảo quản lạc nhân đóng gói hút chân không như sơ đồ 120 hình 3.24. 3.3.2.2. Kết quả khảo nghiệm Lạc được khảo nghiệm bảo quản theo quy trình đề xuất được so sánh đối chứng với lạc đưa vào bảo quản không theo các bước của quy trình 3.24, bao bì sử dụng là túi PVC, mỗi túi đóng 1 kg. Kết quả khảo nghiệm như sau: Kiểm tra chất lượng ban đầu của lạc trước khi đưa vào bảo quản: - Kiểm tra độ khô của lạc đưa vào bảo quản: Kiểm tra về mặt cảm quan: mẫu lạc xoa trên lòng bàn tay, vỏ lụa bong ra dễ dàng. Kiểm tra độ ẩm bằng phương pháp sấy đến khối lượng không đổi: 3 mẫu lạc được lấy tại ba vị trí khác nhau của lạc đưa vào khảo nghiệm cho kết quả độ ẩm ban 121 đầu của lạc là 8,13 %. Như vậy độ ẩm của lạc (8,15 %) và dóc vỏ lụa đưa vào bảo quản đạt yêu cầu theo quy trình đề xuất. - Kết quả kiểm tra mức nhiễm nấm mốc ban đầu của lạc khảo nghiệm: mức nhiễm nấm mốc ban đầu của lạc đưa vào khảo nghiệm là 1,1×102 CFU/g. - Kết quả kiểm tra sàng lọc tình trạng nhiễm AF trong lạc: lạc nhân được dàn trên khay, sau đó đưa vào máy quét đèn UV ở bước sóng 365 nm để kiểm tra. Toàn bộ lạc đưa vào khảo nghiệm không phát hiện phát quang màu xanh. - Lạc khảo nghiệm được loại tạp theo quy trình 3.26, lạc đối chứng không đóng gói hút chân không. Kiểm tra tình trạng nhiễm aflatoxin hàng tháng của các mẫu lạc khảo nghiệm: Kết quả kiểm tra hàng tháng hàm lượng AF trên mẫu lạc khảo nghiệm và lạc đối chứng, chỉ phát hiện AFB1 trong mẫu đối chứng sau 4 tháng thí nghiệm (bảng 3.26). Tháng 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Mẫu KPH KPH KPH KPH 3,56 9,75 15,32 19,74 25,31 39,55 53,14 76,43 85,58 Đối
chứng KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH Khảo
nghiệm Kết quả tại bảng 3.26 cho thấy, mẫu lạc khảo nghiệm không phát hiện AF sau 12 tháng thí nghiệm, mẫu lạc đối chứng phát hiện AF sau 4 tháng thí nghiệm và vượt ngưỡng cho phép (8 µg/kg) sau 5 tháng thí nghiệm. Kết quả bảng này khác biệt với kết quả trong nghiên cứu 3.2.7.2, lạc tiệt trùng có độ ẩm cao và nhiễm 103 CFU/g A. flavus BG1 phát hiện AFB1 sau 28 ngày (1 tháng), còn mẫu có độ ẩm 8,13 % có mức nhiễm nấm mốc ban đầu là 1,1×102 CFU/g đóng gói hút chân không không phát hiện aflatoxin B1 sau 4 tháng nghiên cứu. Kết quả khảo nghiệm cho thấy: Lạc nhân bảo quản theo quy trình đề xuất không phát hiện có nguy cơ nhiễm 122 aflatoxin sau 12 tháng khảo nghiệm. Lạc nhân trước khi đưa vào bảo quản phải đảm bảo đạt độ khô, loại tạp, loại những hạt nhăn, lép, mốc và biến màu. Lạc đóng gói hút chân không ở điều kiện nhiệt độ phòng. 3.3.3. Quy trình bảo quản lạc nhân bằng cách sử dụng tinh dầu hồi, quế 3.3.3.1. Quy trình khảo nghiệm Mục đích của giải pháp: Tinh dầu ứng dụng trong bảo quản lạc nhân nhằm ức chế sự phát triển và sinh AF trên lạc của nấm mốc, bảo quản lạc nhân bằng tinh dầu có nguồn gốc tự nhiên là giải pháp thân thiện với môi trường, tinh dầu tồn dư trong sản phẩm không ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm. Thời gian bảo quản 12 tháng. Nguyên lý của giải pháp: Tinh dầu có tác dụng ức chế sự phát triển và phá vỡ chức năng tế bào của vi sinh vật, cụ thể là A. flavus BG1 làm ức chế sự phát triển và sinh AF trên lạc nhân. Quy trình bảo quản lạc nhân bằng tinh dầu hồi (quế) như hình 3.25. 3.3.3.2. Kết quả khảo nghiệm quy trình Lạc được khảo nghiệm bảo quản theo quy trình 3.27 so sánh đối chứng với lạc đưa vào bảo quản cùng chất lượng không sử dụng tinh dầu. Kiểm tra hàm lượng AF 123 trong lạc đối chứng và lạc khảo nghiệm hàng tháng, bảo quản lạc trong 12 tháng. Kết quả kiểm tra chất lượng ban đầu như sau: - Độ ẩm ban đầu của lạc đưa vào bảo quản được xác định là 8,57 %. - Tổng số bào tử nấm men-mốc trong lạc nhân là 1,2×102 CFU/g. - Kiểm tra sàng lọc không phát hiện aflatoxin trong lạc nhân đưa vào khảo nghiệm. Kết quả kiểm tra hàng tháng như sau: Kết quả phân tích cho thấy, chỉ phát hiện AFB1 trong mẫu đối chứng và mẫu có hàm lượng tinh dầu thấp nhất sau 3 tháng khảo nghiệm, không có mẫu nào phát hiện AFB2, G1, G2. a. Thí nghiệm bằng tinh dầu quế Kết quả phân tích AF trong các mẫu thí nghiệm tinh dầu quế và mẫu đối chứng như trong bảng 3.27. Nồng độ tinh dầu (%v/w) 0,0125 0,025 0,05 0,1 Mẫu đối
chứng Thời gian (tháng) 1 KPH KPH KPH KPH KPH 2 KPH KPH KPH KPH KPH 3 3,67 3,62 KPH KPH KPH 4 7,48 6,00 KPH KPH KPH 5 9,73 8,56 KPH KPH KPH 6 13,54 10.92 KPH KPH KPH 7 15,77 13,85 KPH KPH KPH 8 19,26 15,72 KPH KPH KPH 9 24,48 18,99 KPH KPH KPH 10 29,63 24,78 KPH KPH KPH 11 34,15 27,47 KPH KPH KPH 12 40,09 35,59 KPH KPH KPH 124 Kết quả cho thấy: mẫu đối chứng và mẫu bổ sung tinh dầu quế hàm lượng 0,0125 % có sinh AFB1 sau 2 tháng, tuy nhiên hàm lượng AFB1 phát hiện chưa vượt quá giới hạn cho phép (≤8 g/kg) theo QCVN 8-1:2011. Mẫu lạc bổ sung tinh dầu quế từ 0,025 % không phát hiện sinh AF sau 12 tháng thí nghiệm. Như vậy, cùng mức bổ sung tinh dầu quế nhưng lạc có độ ẩm cao hơn và mức nhiễm A. flavus BG1 cao hơn thì sinh aflatoxin trong thời gian ngắn hơn. Tuy nhiên với lượng tinh dầu sử dụng là 0,025 % thì đều ức chế sự phát triển và aflatoxin dù ở độ ẩm khác nhau và mức nhiễm A. flavus BG1 khác nhau (1,2×102 và 103 CFU/g). b. Thí nghiệm bằng tinh dầu hồi Kết quả phân tích aflatoxin trong các mẫu thí nghiệm khả năng ức chế của tinh dầu hồi đến khả năng sinh aflatoxin như trong bảng 3.28. Nồng độ tinh dầu (%v/w) 0,4 0,8 1,6 3,2 Thời gian (tháng) 1 KPH KPH KPH KPH 2 KPH KPH KPH KPH 3 3,58 KPH KPH KPH 4 5,99 KPH KPH KPH 5 8,55 KPH KPH KPH 6 12,78 KPH KPH KPH 7 16,54 KPH KPH KPH 8 20,69 KPH KPH KPH 9 25,85 KPH KPH KPH 10 30,04 KPH KPH KPH 11 35,99 KPH KPH KPH 12 40,11 KPH KPH KPH Kết quả cho thấy, mẫu bổ sung tinh dầu hồi hàm lượng 0,4 % sinh AFB1 sau 3 125 tháng, tuy nhiên hàm lượng AFB1 phát hiện chưa vượt quá giới hạn cho phép theo QCVN 8-1:2011 sau 5 tháng thí nghiệm. Mẫu lạc bổ sung tinh dầu hồi từ 0,8 % không phát hiện sinh AF sau 12 tháng thí nghiệm. Như vậy, cùng mức bổ sung tinh dầu quế nhưng lạc có độ ẩm cao hơn và mức nhiễm A. flavus BG1 cao hơn thì sinh aflatoxin trong thời gian ngắn hơn. Tuy nhiên với lượng tinh dầu sử dụng là 0,8 % thì đều ức chế sự phát triển và aflatoxin dù ở độ ẩm khác nhau và mức nhiễm A. flavus BG1 khác nhau (1,2×102 và 103 CFU/g). Tính toán chi phí của việc sử dụng tinh dầu (hồi, quế) và không sử dụng tinh dầu (lạc nhân bị nhiễm aflatoxin phải loại bỏ) như bảng 3.30 sau đây: Nguyên liệu Đơn giá Lượng dùng Chi phí (vnđ) Tỉ lệ chi phí
(%) 0,44 Tinh dầu quế 700.000 vnđ/1000 mL 1,25 mL 875 vnđ 9,09 Tinh dầu hồi 500.000 vnđ/1000 mL 40 mL 20.000 vnđ 100 Lạc nhân 40.000 vnđ/kg 5 kg 200.000 vnđ Như vậy sử dụng tinh dầu quế trong bảo quản lạc, chi phí cho sử dụng tinh dầu quế chiếm tỉ lệ 0,44 % so với đầu tư ban đầu, chi phí cho sử dụng tinh dầu hồi chiếm tỉ lệ 9,09 % so với đầu tư ban đầu, trường hợp không sử dụng tinh dầu thì sau 3 tháng bảo quản với mức nhiễm nấm mốc 1,2×102 CFU/g có nguy nhiễm Aflatoxin, số lạc này phải bỏ đi không sử dụng gây tổn thất thực phẩm 100 %. Trong hai loại tinh dầu thí nghiệm, hàm lượng tinh dầu quế (0,025 %) có khả 126 năng ức chế sự sinh aflatoxin trên lạc thấp hơn hàm lượng tinh dầu hồi (0,8 %). 3.3.4. Đề xuất quy trình bảo quản lạc nhân nhằm giảm nhiễm aflatoxin trong lạc 3.3.4.1. Đề xuất quy trình bảo quản lạc 3.3.4.2. Thuyết minh quy trình bảo quản lạc Từ các kết quả khảo nghiệm trên nghiên cứu đề xuất quy trình bảo quản lạc. Lạc sau thu hoạch được làm sạch được làm khô, kiểm tra chất lượng ban đầu 127 của lạc và bảo quản theo các bước sau: Bước 1. Kiểm tra chất lượng ban đầu của lạc trước khi đưa vào bảo quản - Kiểm tra độ khô: Bằng cảm quan: lạc dóc vỏ lụa, vỏ lụa có thể tróc ra khi xoa hạt lạc trên lòng bàn tay. Độ ẩm của lạc không quá 9,0 %. - Mức nhiễm nấm mốc: không quá 1,2×102 CFU/g. - Kiểm tra sàng lọc Aflatoxin: Cho lạc trên băng chuyền chạy qua buồng có đèn UV bước sóng 365 nm (hình 3.27), nếu có viên lạc nào phát hiện có phát quang màu xanh thì loại bỏ, phần còn lại không phát hiện có phát quang màu xanh thì thực hiện bước tiếp theo để bảo quản. Bước 2. Đóng bao và bảo quản Cách 1: Đóng bao 50 kg/bao trong bao tải hai lớp. Dùng máy khâu bao bằng tay hoặc quấn mép bao rồi khâu chéo. Bảo quản ở nhiệt độ 20±2 oC trong phòng kín. Bảo quản trong 6 tháng. Cách 2: Đóng 1 kg trong túi PVC, đóng gói hút chân không với áp lực hút 200 mmHg bằng máy đóng túi hút chân không (hình 3.28). Bảo quản trong 12 tháng ở 128 điều kiện nhiệt độ thường. Cách 3: bảo quản bằng sử dụng tinh dầu Chuẩn bị giấy lọc thấm tinh dầu: Giấy lọc Whatman số 1, kích thước 350×450 mm. Được thấm lượng 1,25 mL tinh dầu quế (hoặc 40 mL tinh dầu hồi) cho bao lạc đóng 5 kg/bao. Bao tải hai lớp (lớp bao dứa bên ngoài và lớp bao nilon bên trong). Bao bì sạch, khô, không bị rách. Đặt giấy lọc đã thấm tinh dầu vào giữa bao tải hai lớp. Cân 5 kg lạc nhân, rải đều vào 2 bên giấy thấm đã đặt trong bao tải. Dùng máy khâu bao bằng 129 tay hoặc quấn mép bao rồi khâu chéo. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu, Nghiên cứu sinh đã rút ra được một số kết luận sau: 1. Đã xác định được mức nhiễm nhiễm nấm men-mốc và Aflatoxin trong lạc của 3 tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang. - Tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc trong lạc nhân, lạc củ và lạc rang húng lìu tương ứng là 46,7 - 60 % (nhiễm ở mức 1,3×10 - 9,3×108 CFU/g); 26,7 - 56,7 % (1,1×10 - 7,5×108 CFU/g); 10 - 23,3 % (1,1×10 - 15×103 CFU/g). Tỉ lệ nhiễm nấm men - mốc vượt ngưỡng tương ứng là 33,3 - 40,0 %; 30,0 - 36,7 % và 10,0 - 13,3 %. - Tỉ lệ nhiễm aflatoxin trong lạc nhân, lạc củ và lạc rang húng lìu tương ứng là 30 - 53,3 % (với hàm lượng 0,34 - 1.498 µg/kg); 26,7 - 40 % (với hàm lượng 0,64 - 215 µg/kg); 3,3 - 23,3 % (với hàm lượng 0,65 - 2,3 µg/kg). Tỉ lệ nhiễm aflatoxin vượt ngưỡng cho phép trong lạc nhân và lạc củ tương ứng là 10 - 16,7 %; 10 - 13,3 %; không phát hiện aflatoxin vượt ngưỡng cho phép trong lạc rang húng lìu. - Nghiên cứu đã phân lập được 20 chủng nấm mốc từ lạc mốc của Bắc Giang, định danh và khẳng định được 4 chủng là Aspergillus flavus, trong số đó có chủng A. flavus BG1 có khả năng sinh AFB1 và AFB2 cao tương ứng là 1.310 và 25,2 µg/kg sau 10 ngày nuôi cấy trên lạc tiệt trùng. 2. Đã xác định được ảnh hưởng của các yếu tố đến sự phát triển của A. flavus BG1 và mức sinh aflatoxin trên lạc: - Lạc nhân có độ ẩm từ 10 - 14 %, A. flavus BG1 đều có thể phát triển và AFB1 vượt ngưỡng cho phép sau 4 tuần bảo quản ở nhiệt độ 25 oC. Lạc có độ ẩm oC. Độ ẩm có quan hệ tuyến tính với mức nhiễm aflatoxin trên lạc theo thời gian. không vượt quá 8 % không sinh aflatoxin sau 4 tháng bảo quản ở nhiệt độ 25 - Nhiệt độ từ 40 oC có khả năng ức chế sự phát triển và sinh aflatoxin của A. flavus BG1. Ở điều kiện nhiệt độ 25, 30, 35 và 20 oC, A. flavus BG1 sinh AFB1 vượt ngưỡng cho phép sau thời gian tương ứng là 4 tuần, 6 tuần, 8 tuần và 12 tuần. Nhiệt độ không có quan hệ tuyến tính với mức nhiễm AF trên lạc, A. flavus BG1 130 phát triển và sinh aflatoxin ở khoảng nhiệt độ ≤ 35 oC. - Đã xác định được phương trình hồi quy tuyến tính của ba yếu tố: khi thời gian tăng lên 1 tuần thì hàm lượng AFB1 tăng lên 1,997 µg/kg; độ ẩm tăng lên 1 % thì hàm lượng AFB1 tăng lên 7,969 µg/kg; mức nhiễm A. flavus tăng lên 1 CFU/g thì AFB1 tăng lên 1,135×10-5 µg/kg. - Với nồng độ tinh dầu quế 0,025 % v/w hoặc tinh dầu hồi 0,8 % v/w có khả năng ức chế nấm mốc phát triển và không phát hiện aflatoxin sau 5 tháng nghiên cứu. 3. Đã đề xuất giải pháp bảo quản lạc nhằm tránh nguy cơ nhiễm nấm mốc và aflatoxin. - Đã đề xuất được giải pháp bảo quản lạc hiệu quả ở quy mô hộ gia đình bằng các cách: kiểm soát chất lượng, sử dụng tinh dầu hồi (hoặc quế), đóng gói hút chân không với áp lực hút chân không 200 mmHg, bảo quản lạc được ít nhất 12 tháng. Kiến nghị: - Tiếp tục nghiên cứu ứng dụng các giải pháp bảo quản lạc ở quy mô lớn hơn, đặc biệt quy trình bảo quản lạc bằng kiểm soát chất lượng để nâng cao thời hạn bảo quản. - Nghiên cứu mở rộng việc áp dụng tinh dầu trong bảo quản và chế biến các sản phẩm của lạc để có được công nghệ chế biến sản phẩm từ lạc không chỉ an toàn 131 còn mang lại giá trị cảm quan tốt cho sản phẩm. 1. Lê Thị Hồng Hảo, Lê Thị Phương Thảo, Nguyễn Hùng Long, Phạm Xuân Đà, Hà Duyên Tư (2014) Đánh giá mức độ ô nhiễm mycotoxin trong ngô, lạc ở một số xã tại huyện Lục Nam Bắc Giang năm 2013; Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, Tập 10 - số 3 - tháng 9 năm 2014, tr. 76-84. 2. Lê Thị Phương Thảo, Lê Thị Hồng Hảo, Nguyễn Hùng Long, Phạm Xuân Đà, Hà Duyên Tư (2014) Kiến thức, thực hành của người dân trong xử lý và bảo quản lạc sau thu hoạch tại một số xã huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang năm 2013; Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIV, Số 10(159), tr. 96-100. 3. Le Thi Phuong Thao, Le Thi Hong Hao, Ta Thi Yen, Pham Xuan Da, Le Thanh Mai, Ha Duyen Tu (2017) Isolation and Selection of Aflatoxin producing Aspergillus flavus from peanut; Viet Nam Journal of Science and Technology, Vol. 55 (5A), pp 125-133. 4. Nguyễn Thành Trung, Phạm Như Trọng, Lê Thị Hồng Hảo, Lê Thị Phương Thảo (2017) Xây dựng phương pháp phân lập, định danh nấm Aspergillus flavus và Aspergillus parasiticus từ lạc; Tạp chí phân tích Hóa, Lý và Sinh học, Tập 22, số 3/2017, tr. 128-131. 5. Le Thi Phuong Thao, Le Thi Hong Hao, Pham Xuan Da, Le Thanh Mai, Ha Duyen Tu (2017) Effect of Some Factors on Aflatoxins Production of Aspergillus flavus in Peanut of Vietnam; Hội thảo khoa học ASEAN lần thứ 15 (15th Asean Food 132 Conference) tháng 11/2017. ISBN: 978-604-67-1007-3, pp 169-175. Tiếng Việt [1] Bộ Y tế (2011), QCVN 8-1:2011/BYT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với
giới hạn độc tố vi nấm trong thực phẩm, Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành kèm theo
Thông tư số 02/2011/TT-BYT ngày 13 tháng 01 năm 2011. [2] Bộ Y tế (2007), Quy định giới hạn tối đa ô nhiễm sinh học và hóa học trong
thực phẩm, 6.5. Quy định giới hạn cho phép vi sinh vật trong ngũ cốc và sản
phẩm ngũ cốc, Bộ Y tế, Hà Nội, tr. 61. [3] Dự án Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp No.2283-VIE(SF) (2014), Kỹ thuật trồng lạc, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội. [4] Lê Ngọc Tú, Lâm Xuân Thanh, Phạm Thu Thủy, Trần Thị Xô, Tô Kim Anh,
Nguyễn Trọng Cẩn, Lưu Duẩn, Quản Lê Hà, Ngô Đăng Nghĩa, Nguyễn Xuân
Sâm, Nguyễn Thị Sơn, Lê Thị Liên Thanh, Đặng Thị Thu, Đỗ Thị Hoa Viên,
Lê Tiến Vĩnh, (2006), Độc tố học và An toàn thực phẩm, Nhà xuất bản Khoa
học và Kỹ thuật, Hà Nội, 396. [5] Lê Thanh Mai, Nguyễn Thị Bình, Vũ Đình Huyên, Trịnh Thị Thanh Nga,
Nadia Oulaha, (2014), "Nghiên cứu khả năng kháng khuẩn của tinh dầu quế
đối với vi khuẩn Listeria innocua LRGIAO1". Tạp chí Khoa học và Công
nghệ. 52(5C), tr. 115-120. [6] Lê Thị Hợp, Lê Danh Tuyên (2010), Tổng điều tra dinh dưỡng 2009-2010,
Nhà xuất bản y học, Hà Nội, 248. [7] Lê Văn Giang, Phan Thị Kim (2011), "Đánh giá ô nhiễm Aflatoxin trong lạc,
ngô và thử nghiệm áp dụng biện pháp phòng trừ cho sản phẩm chế biến tại 3
xã huyện Tân Kỳ tỉnh Nghệ An". Tạp chí Y học thực hành. 6/2011(767), tr.
80-82. [8] Mai Lê, Bùi Đức Hợi và Lương Hồng Nga (2013), Bảo quản lương thực, Nhà xuất bản Bách khoa - Hà Nội, 232. [9] Nguyễn Thu Mai và Nguyễn Bảo Lộc và Lâm Thị Việt Hà (2009), "Phân lập
và định danh sơ bộ một số loài Aspergillus trên hạt đậu phộng ở chợ Xuân
Khánh - TP Cần Thơ". Tạp chí Khoa học. 11, tr. 301-3909. [10] Nguyễn Văn Thắng (2016), Vật lý khí quyển, Nhà xuất bản Tài nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội, 171. [11] Nguyễn Văn Thắng (2017), Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật phòng
chống xâm nhiễm của nấm Aspergillus flavus gây độc tố Aflatoxin đối với lạc,
Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 133 [12] Nguyễn Văn Thắng, Phan Quốc Gia, Nguyễn Thị Yến, Nguyễn Thị Chỉnh,
Nguyễn Xuân Thu, (2010), "Ảnh hưởng của công nghệ sau thu hoạch tới sự phát triển của nấm A. flavus và khả năng sinh độc tố Aflatoxin ở lạc". Tạp chí
khoa học và công nghệ nông nghiệp Việt Nam. 3(16), tr. 87-93. [13] Nguyễn Văn Thắng, Phan Quốc Gia, Nguyễn Thị Yến, Nguyễn Thị Chỉnh,
Nguyễn Xuân Thu, (2011), "Ảnh hưởng của công nghệ sau thu hoạch tới sự
phát triển của nấm A. flavus và khả năng sinh độc tố Aflatoxin ở lạc". Tạp chí
khoa học và công nghệ nông nghiệp Việt Nam. 3(16), tr. 87-93. [14] Nguyễn Văn Tuấn (2014), Phân tích dữ liệu với R, Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, 518. [15] Nguyễn Văn Viết, Tạ Kim Bình, Nguyễn Thị Yến, (2006), Kỹ thuật trồng một
số giống lạc và đậu tương mới trên đất cạn miền núi, Tái bản lần 4, Nhà xuất
bản Nông nghiệp, Hà Nội. [16] Phạm Thị Tố (2003), Nấm mốc lương thực, thực phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 119. [17] Phạm Xuân Hội và Đàm Quang Hiếu (2010), "Phát hiện nấm Aspergillus
flavus sinh độc tố Aflatoxin trên lạc ở miền bắc Việt nam bằng phản ứng
multiplex PCR". Tạp chí Sinh học. 32(2), tr. 54-59. [18] Tổng Cục Thống kê (2013), Sản lượng lạc phân theo địa phương, truy cập
ngày 15/4-2013, tại trang web https://gso.gov.vn/default.aspx?tabid. [19] Tổng cục thống kê (2018), Số liệu thống kê, truy cập ngày 17/10-2018, tại trang web tps://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=713. [20] Tổng Cục Thống kê (2018), Số liệu thống kê - Danh sách, truy cập ngày 30/4- 2018, tại trang web https://gso.gov.vn/default.aspx?tabid=717. [21] Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (1993), TCVN 2384:1993: Lạc quả và lạc hạt - Phương pháp thử, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. [22] Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng (2004), TCVN 7407:2004: Ngũ cốc,
đậu đỗ và hạt có dầu - Xác định Aflatoxin bằng phương pháp sử dụng cột ái
lực miễn dịch, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. [23] Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng (2008), TCVN 2843-2008: Lạc - Peanuts, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, tr. 3-5. [24] Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng (2010), TCVN 8275-2:2010/ ISO
21527-2:2008. Vi sinh vật trong thực phẩm và thức ăn chăn nuôi – Phương
pháp đinh lượng nấm men và nấm mốc. Phần 2: Kỹ thuật đếm khuẩn lạc trong
các sản phẩm có hoạt độ nước nhỏ hơn hoặc bằng 0,95. 15 tr. 134 [25] Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng (2011), Ngũ cốc và sản phẩm ngũ
cốc - Lấy mẫu, TCVN 9027:2011 (ISO 24333:2009), Bộ Khoa học Công nghệ
và Môi trường, Hà Nội, tr. 19. [26] Trần Cao Sơn, Phạm Xuân Đà, Lê Thị Hồng Hảo, Nguyễn Thành Trung, Phạm
Gia Huệ, Bùi Thanh Nhã, (2010), Thẩm định phương pháp trong phân tích hóa
học và vi sinh vật, Nhà xuất bản hoa học và kỹ thuật, 93. [27] Trần Kim Ngọc, Phạm Duy Hưng, Nguyễn Văn Lợi, (2017), "Nghiên cứu
tuyển chọn cây trội giống quế bản địa (Cinnamomum Cassia BL.) ở huyện Trà
Bồng, Tỉnh Quảng Ngãi". Tạp chí Khoa học & Công nghệ Nông nghiệp. 1(2),
tr. 321-330. [28] Viện Dinh dưỡng - Bộ Y tế (2007), Bảng thành phần thực phẩmViệt Nam, Nhà xuất bản y học, 527. [29] Vũ Thị Hường, Triệu Thị Hồng Hạnh (2015), "Đánh giá tình hình sinh trưởng
và hiệu quả kinh tế của mô hình rừng trồng quế (Cinnamomum Cassia Blume)
tại xã Yên cư - huyện cợ mới - tỉnh Bắc Cạn". Tạp chí Khoa học và Công nghệ
Lâm nghiệp. 3-2015, tr. 11-16. Tiếng Anh [30] Abdi Mohammed and Alemayehu Chala (2014), "Incidence of Aspergillus
contamination of groundnut (Arachis hypogaea L.) in Eastern Ethiopia".
African Journal of Micobiology Research. 8(8), pp. 759-765. [31] Allen J. St. Angelo and Robert L. Ory (1983), Lipid Degradation During Seed
Deterioration Symposium: Deterioration Mechanisms in Seeds, The American
Phytopathological Society, New Orleans, LA, pp. 315-317. [32] Biljana Stojanovska - Dimzoska, Zehra Hajrulai - Musliu, Elizabeta
Dimitrieska - Stojkovic, Risto Uzunov, Pavle Sekulovski, (2013), "Occurrence
of Aflatoxins in Peanuts and Peanut Products Determined by Liquid
Chromatography With Flourescence Detection". Journal of Natural Science
124, pp. 27-35. [33] Bui Thi Mai Huong et al. (2016), "Dietary Exposure to Aflatoxin B1,
Orchatoxin a and Fumonisins of Adults in Lao Cai Province, Viet Nam: A
Total Dietary study Approach". Food Chemical Toxicology. 98(Pt B), pp. 127-
133. [34] C. K. George, Peermade Development Society, India, (2004), "Star anise". in
Peter, K. V., Editor, Handbook of Herbs and Spices, Woodhead Publishing, p.
360. [35] C.W. Hesseltine, O.L. Shotwell, J.J. Ellis and R.D. Stubblefield, (1996),
"Aflatoxin Formation by Aspergillus flavus". Bacteriological review. 30(4),
pp. 795-805. [36] Carl A. Batt, Mary Lou Tortorello (2014), "Encyclopedia of Food 135 Microbiology". Academic Press is an imprint of Elsevier, London. [37] Codex Alimentatius (2001), Maximum level and sampling plan for total
aflatoxins in peanuts intended for further processing, CODEX STAN 209-
1999, Rev. 1-2001, Codex Alimentarius. [38] Codex Alimentatius International Food Standards Code of practice for the
prevention and reduction of aflatoxin contamination in tree nuts, CAC/RCP
59-2005. [39] Codex Alimentatius International Food Standards (1995), CODEX
STANDARD FOR PEANUTS, CODEX STAN 200-1995, Codex
Alimentatius International Food Standards. [40] Codex Alimentatius International Food Standards (1995), General Standards
for contaminants and toxin in food and feed, CODEX STAN 193-1995, Codex
Alimentatius International Food Standards, p. 9. [41] CRC Press Boca Raton Boston New York Washington DC (2000), The
stability and shelf-life of food, ed. David Kilcast and Persis Subramaniam,
Woodhead Publishing limited, 340. [42] Cynthia Bley N'Dede, Curtis M. Jolly, Davo Simplice Vodouhe and Pauline
E. Jolly, (2013), "Aflatoxin and Peanut Production Risk and Net Incomes".
Aflatoxins - Recent Advances and Future Prospects, INTECH. [43] D Bhatnagar, K C Ehrlich, G G Moore, and G A Payne, (2014), "Aspergillus
flavus". in Carl A. Batt, Mary Lou Tortorello, Editor, Encyclopedia of Food
Microbiology, Academic Press is an imprint of Elsevier, London, pp. 77-92. [44] D. Dhanasekaran, S. Shanmugapriya, and N. Thajuddin and A. Panneerselvam
(2011), "Aflatoxins and Aflatoxicosis in Human and Animals". in Guevara-
Gonzalez, Ramon G., Editor, Aflatoxins - Biochemistry and Mocular Biology,
INTECH, pp. 221-254. [45] David Ellis, et al. (2007), Descriptions of medical fungi, Mycology unit,
Women’s and children’s hospital, School of Molecular & Biomedical Science
University of Adelaide, Adelaide, Australia. [46] David Forman and Jacques Ferlay (2014), "The global and regional burden of
cancer". World cancer report 2014, International Agency for Research on
Cancer, World Health Organization., p. 16. [47] David Ondieki, et al. (2014), "Rapid assessment of aflatoxin contamination of
groundnuts by thin layer chromatography and competitive enzyme linked
immunosorbent assay from selected divisions of Busia county in Kenya".
African Journal of Food Science and Technology. 5(1), pp. 12-20. 136 [48] Dusanee Thanaboripat, Yaowapa Suvathi, Prapaporn Srilohasin, Saowalak
Sripakdee, Orphan Pathanawanitchai án Sittichai Charoensettasilp, (2007),
"Inhibitory effect of essential oils on the Growth of Aspergillus flavus".
KMITL Sci Tech J. 7(No. 1 Jan. - Jun. 2007), p. 7. [49] E.C. Surendranatha Reddy and C. Sudhakar and N.P. Eswara Reddy (2011),
"Afflatoxin contamination in groundnut induced by Aspergillus flavus type
fungi: A critical review". International Journal of applied biology and
pharmaceutical technology, India. Vol. 2(issue 2), pp. 180-192. [50] E.M. Embaby and Mona M. Abdel-Galel (2014), "Detection of fungi and
aflatoxins contaminated peanut samples (Arachis hypogaea L.)". Journal of
Agricultural Technology 10(2), pp. 423-437. [51] EErich Schmidt, Leopold Jirovetz, Gerhard Buchbauer, Gernot A. Eller,
Ivanka Stoilova, Albert Krastanov, Albena Stoyanova and Margit Geissler,
(2006), "Composition and Antioxidant Activities of the Essential Oil of
Cinnamon (Cinnamomum Zeylanicum Blume) Leaves from Sri Lanka".
Jeobp. 9(2), pp. 170-182. 2017-2017, accessed Dec, [52] Elisaveta Sandulachi (2012), Water Activity Concept and Its Role in Food
Preservation
from
10
https://www.researchgate.net/publication/310605656_WATER_ACTIVITY_
CONCEPT_AND_ITS_ROLE_IN_FOOD_PRESERVATION. [53] Elsasser, T.J., Klasing, K.C., and Filipov N. and Thompson F. (2000), The
metabolic consequences of stress: Targets for stress and priorities of nutrient
use, The Biology of Animal Stress. CABI Publishing, New York. [54] Enjie Diao, et al. (2015), "Factors Influencing Aflatoxin Contamination in
Before and After Harvest Peanuts: A review". Journal of Food Research. Vol.
4, No. 1; 2015, pp. 148-154. [55] Erwin Wasowicz, Anna Gramza, Marzanna Hes, Henryk H. Jelen, Józef
Korczak, Maria Malecka, Sylwia Mildner-Szkudlarz, Magdalena Rudziñska,
Urszula Samotyja, Renata Zawirska-Wojtasiak, (2004), "Oxidation of Lipids
in Food". Polish Journal of Food and Nutrition Sciences. 13/54(SI 1), pp. 87-
100. [56] Estelle Chaix, Carole Guillaume and Valérie Guillard (2014), "Oxygen and
Carbon Dioxide Solubility and Diffusivity in Solid Food Matrices: A Review
of Past and Current Knowledge". Comprehensive Reviews in Food Science
and Food Safety. 13, 2014, pp. 261-286. [57] FAYYAZ-UL-HASAN and MUKHTAR AHMED (2012), "Oil and Fatty
Acid composition of peanut cultivars grown in Pakistan ". Pak. J. Bot. 44(2),
pp. 627-630. [58] Filomena Nazzaro, Florinda Fratianni, Laura De Martino, Raffaele Coppola
and Vincenzo De Feo, (2013), "Effect of Essential Oils on Pathogenic
Bacteria". Pharmaceuticals. 6, pp. 1451-1474. [59] Food and Agriculture Organization of the United Nations (2002), Groundnut: 137 Post-harvet Operation, Danilo Mejia, Beverly Lewis, 'Editor', AGSI/FAO. [60] Food and Agriculture Organization of the United Nations (2017), Commodity
balances - Crops Primary Equivalent, accessed December 24-2017, from
http://www.fao.org/faostat/en/#data/BC/visualize. [61] Food and Agriculture Organization of the United Nations (2018), Import -
export trends in Viet Nam 2009 - 2013, accessed May 02-2018, from
http://www.fao.org/faostat/en/#data/BC/visualize. [62] Food and Agriculture Organization of the United Nations (2018), Production
from accessed April 30-2018, groundnuts, with shell, of
http://www.fao.org/faostat/en/#data/QC. [63] Food and Drug Administration (2013), Revised Guidelines for the Assessment
of Microbiological Quality of Processed Foods, FDA Circular No. 2013-010,
Health, Department of, Department of Health, Republic of Philipin, Filinvest
Corporate City; Alabang, MuntinlupaCity, p. 11. [64] Food Standards Agency (2016), Mycotoxins sampling guidance, Agency, Food Standards, Food Standards Agency UK, p. 35. [65] G.H.C.M. Hettiarachchi and Jaanaki Gooneratne and W.K. Hirimburegama
(2001), "Effect of initial moisture content and relative humidity on the
accumulation of aflatoxin in maize grain (zee mays) during storage ". J. Natn.
Sci. Foundation Sri Lanka 2001. 29(1&2), pp. 29-34. [66] George N. Mbata and Thomas W. Phillips (2001), "Effects of Temperature
and Exposure Time on Mortality of Stored-Product Insects Exposed to Low
Pressure". Journal of Economic Entomology. Oct 2001, pp. 1302-1307. [67] Gerald N. Wogan (1996), "Chemical Nature and Biological Effects of the Aflatoxins". Bacteriological review. 30(2), pp. 460-470. [68] Gong, Y.Y., et al. (2002), "Dietary aflatoxin exposure and impaired growth in
young children from Benin and Togo: Cross sectional study". Br. Med. J.
2002. 325, pp. 20-21. [69] Gordon L. Robertson (2009), "Foof packaging". in Campbell-Platt, Geoffrey,
Editor, Food Science and Technology, Wiley-Blackwell A John Willey & Son,
Ltd, Publication, pp. 279-298. [70] H. Abidin, S.Mohd, and Rosni và A.Hazniza (2003), "Status of aflatoxin
contamination in groundnut from five districts in Perak". J. Trop. Agric. and
Fd. Sc. 31(2, 2003), pp. 199-205. [71] H.G. Chang and P.Markakis (1981), "Effect of Moisture Content on Aflatoxin
Production in Barley". American Association of Cereal Chemists, Inc. Vol.
58, No.2, pp. 89-91. [72] 138 International Agency for Research on Cancer (2015), Mycotoxin control in
low- and middle- income countries, Christopher P. Wild, J. David Miller, and John D. Groopman,, 'Editor', International Agency for Research on Cancer,
Geneva. [73] J.R.Wartu, C.M.Z.Whong, and V.J.Umoh and A.W.Diya (2015), "Occurrence
of Aflatoxin Levels in Harvest and Stored Groundnut Kernels in Kaduna State,
Nigeria., Toxicology and Food Technology (IOSR-JESTFT)". IOSSR Journal
of Environmental Science. Volume 9(Issue 1 Ver.II), pp. 62-66. [74] Ji-Yeon Chun (2002), Vitamin E content and stability in peanut product during
processing and storage Doctor of Philosophy, Philosophy, The university of
Georgia in Partial, Athens, Georgia. [75] K. Shehu and M.T. Bello (2011), "Effect of Enviromental Factors on the
Growth of Asspergillus Species Associated with stored Millet Grains in
Sokoto". Nigerian Journal of Basic and Applied Science. 19(2), pp. 218-223. [76] Leon G. M. Gorris and Herman W. Peppelenbos (2007), "Modified-
Atmosphere Packaging of Produce". in M. Shafiur Rahman, Editor, Handbook
of Food Preservation, CRC Press Taylor & Francis Group, London, pp. 316-
329. [77] Linda A. Hall and D. W. Denning (1994), "Oxygen requirements of Aspergillus scpecies". Journal of Medical Microbiology. 41, pp. 311-315. [78] M. Ravi Teja, K. Vijay Krishna Kumar, P. Srilakshmi, H. Sudini, P. Kishore
Varma and S. R. Koteswara Rao, (2017), "Prevalence of Aspergillus flavus
Infection and Aflatoxin Contamination of Groundnut in Telangana and
Andhra Pradesh". International Journal of Pure and Applied Bioscience. 5(5),
pp. 1603-1614. [79] Mallappa Kumara, Mohd Sayeed Akkhtar and Uma Rani Sinniah (2016),
"Antimicrobial Properties of Plant Essential Oils against Human Pathogens
and Their Mode of Action: An Updates Review". Evidence-Based
Complementary and Alternative Medicine. 2016, p. 21. [80] Masako Takino and Toshitsugu Tanaka (2008), Determination of aflatoxins in food by LC/MS/MS, Agilent Technology. [81] Matome Gabriel Thathana, Hunja Murage, Akebe Luther King Abia and
Michael Pillay, (2017), "Morphological Characterization and Determination
of Aflatoxin-Production Potentials of Aspergillus flavus Isolated from Maize
and Soli in Kenya". Agriculture. 7(80), p. 14. [82] Mehdi Sameni, Arne Dũbecke and Jean-Frédéric F Weber (2014),
"Simultaneous Multi-Residue Determination of Mycotoxins in Foods Using
LC-MS/MS". Journal of Environmental and Analytical Toxicology. 5(2), p. 6. 139 [83] Michele Hoeltz, et al. (2012), "The occurrence of Aflatoxin B1 contamination
in Peanuts and Peanut Products Marketed in Southern Brazil". Brazilian
Archives of Biology and Technology. Vol.55, n.2, pp. 313-317. [84] Mina M. Yooussef, Quyen Pham, Premila N. Achar, Marikunte Yanjarappa
Sreenivasa, (2016), "Antifungal activity of essential oils on Aspergillus
parasiticus isolated from peanuts". Journal of Plant Protection Research. 56(2),
pp. 139-142. [85] Ministry of Agriculture and Cooperatives (2011), Thai Agricultural standard:
TAS 4700-2011 - Dried peanut, Standards, National Bureau of Agricultural
Commodity and Food. [86] Mohamed A. Zain (2011), "Impact of mycotoxins on humans and animals". Journal of Saudi Chemical Society. 15, pp. 129-144. [87] Mohammad Shafiur Rahman (2007), "Packaging as a Preservation
Technique". in Rahman, M. Shafiur, Editor, Handbook of Food Preservation,
CRC Press Taylor & Francis Group, pp. 907-914. [88] Mohammad Shafiur Rahman and Theodore P. Labuza "Water Activity and
Food Preservation". in Rahman, M. Shafiur, Editor, Handbook of Food
Preservation, CRC Press Taylor & Francis Group, London, pp. 447-471. [89] Morten Hydgaard, Tina Mygind and Rikke Louse Meyer (2012), "Essential
oils in food preservation: mode of action, synergies, and interactions with food
matrix components". Frontiers in Microbiology. 3(12), p. 12. [90] Mukund Nagarnaik, Arun Sarjoshi, Neeta Phatak, Mangesh Wandhare,
Meenal Dhabale, and Girish Pandya, (2014), "A Validation Study of Aflatoxin
in Real Samples of Peanuts and Dry Fruits in Urban City by HPTLC". Journal
of Food and Dairy Technology. 2(2), pp. 13-20. [91] Musa Özcan and Serap Seven (2003), "Physical and Chemical analysis and
fatty acid composition of peanut, peanut oil and peanut butter from ÇOM and
NC-7 cultivars". Grasas y Aceites. Vol. 54. Fasc. 1(2003), pp. 12-18. [92] Mutegi C.K., et al. (2013), "Effect of storage conditions on quality and
aflatoxin contamination of peanuts (Arachis hypogae L.)". International
Journal of AgriScience. Vol. 3(10), pp. 746-758. [93] Neil D. Theise (2014), "Liver cancer". World Cancer Report 2014,
International Agency for Research on Cancer, World Health Organization., p.
403. [94] Nga-Thi-Thanh Trinh, Raja Lejmi, Adem Gharsallaoui, Emilie Dumas, Pascal
Degraeve, Mai Le Thanh and Nadia Oulahal, (2015), "Effect of emulsification
the antilisterial activity of
and spray-drying microencapsulation on
transcinnamaldehyde". Journal of Microencapsulation, p. 5. 140 [95] Nga Thi Thanh Trinh, et al. (2013), "Study of the antimicrobial effect of
essential oils from Vietnam to assess their potential application to food
preservation". Tạp chí khoa học và công nghệ Việt Nam. 51(6A), pp. 346-
352. [96] Nida’a Shihab Hamed and Abeer Fauzi Murad and Eman Abdul-Wahed
Abdul-Rahim (2016), "Molecularly Diagnostic of Aflatoxigenic Aspergillus
flavus Isolated from Nuts". Research Journal of Environmental Toxicology.
10(1), pp. 39-49. [97] Nur Nasulhah Kasim, Syarifah Nursyimi Azlina Syed Ismail, N.D. Masdar,
Fatimah Ab Hamid, W.I Nawawi, (2014), "Extraction and Potential of
Cinnamon Essential Oil towards Repellency and Insecticidal Activity".
International Journal of Scientific and Research Publications. 4(7). [98] Okky Setyawati Dharmaputra (2005), "Aspergillus flavus infection and
aflatoxin contamination in peanuts at various stages of the delivery chains in
cianjur regency". west java, Indonesia, Biotropia. No.24, 2005, pp. 1-19. [99] Olusegun Atanda, Hussaini Anthony Makun, Isaac M. Ogara, Mojisola
Edema, Kingsley O. Idahor, Margaret E. Eshiett and Bosede F. Oluwabamiwo,
(2013), "Fungal and Mycotoxin Contamination of Nigerian Foods and Feeds".
Mycotoxin and Food Safety in Dveloping Countries, INTECH. [100] P. A. Paranagama, S. Wimalasena, G. S. Jayatilake, A. L. Jayawardena, U. M.
Senanayake and A. M. Mubarak, (2001), "A Comparison of Essential Oil
Constituents of Bark, Leaf, Root and Fruit of Cinnamon (Cinnamomum
Zeylanicum Blum) Growth on Sri Lanka". J. Natn. Sci. Foundation Sri Lanka
2001. 29(3&4), pp. 147-153. [101] P. Rodrigues, et al. (2007), "Identification and characterization of Aspergillus
flavus and aflatoxins". Communicating Current Research and Educational
Topics and Trends in Applied Microbiology. 2(1), pp. 527-534. [102] Paola Giomi, et al. (2008), "Effect of aw and CO2 level on Aspergillus flavus
growth and aflatoxin production in high moisture maize post-harvest".
International Journal of Food Microbioly 122(2008), pp. 109-113. [103] Paola GIORNI, et al. (2012), "Comparison of temperature and moisture
requirements for sporulation of Aspergillus flavus sclerotia on natural and
artificial substrates". Fungal Biology 116, pp. 637-649. [104] Peter J. Cotty, Ramon Jaime-Garcia (2007), "Influences of climate on
aflatoxin producing fungi and aflatoxin contamination". International Journal
of Food Microbiology. 119(2007), pp. 109-115. [105] Philippe Villers (2017), "Food Safety and Aflatoxin Control". Journal of Food Research. 6(2), p. 12. [106] Richard A. Frazier (2009), "Food chemistry". in Geoffrey Campbell-Platt,
Editor, Food Science and Technology, A John Willey & Son Ltd. Publication,
New Delhi, pp. 25-31. 141 [107] Robert H. Driscoll and Mohammad Shafiur Rahman (2007), "Types of
Packaging Materials Used for Foods". in Rahman, M. Shafiur, Editor, Handbook of Food Preservation, CRC Press Taylor & Francis Group, pp. 917-
938. [108] Ronal T. Riley (2014), "Naturally occurring chemical carcinogens". World
Cancer Report 2014, International Agency for Research on Cancer, World
Health Organization, France. [109] S S Navi, et al. (1999), "A Pictorial Guide for the Identification of Mold Fungi
on Sorghum Grain". International Crops Research Institute for the Semi-Arid
Tropics - Patancheru 502 324 - Andhra Pradesh, India and Natura Resources
Institute - Central Avenue - chatham Maitime - Kent ME4 4TB - UK.
Information Bulletin No. 59, pp. 24-25. [110] S.A. Bankole and A. Adebanjo (2003), "Review Mcotoxins in food in West
Africa: current situation and posibilities of controlling it". African Journal of
Biotechnology. 2(9), pp. 254-263. [111] Sabina Anžlovar, Matevž Likar, Jasna Dolenc Koce, (2016), "Antifungal
potential of thyme essential oil as a preservative for storage of wheat seeds".
Acta Bot. Croat. 76(1), pp. 64-71. [112] Shalini S. Arya, Akshata r. Salve, S. Chauhan, (2016), "Peanuts as functional food: a review". Journal of Food Science and Technology. 53(1), pp. 31-41. [113] Shigenobu Koseki and Kazuhiko Itoh (2002), "Effect of Nitrogen Gas
Packaging on the Quality and Microbial Growth of Fresh-Cut Vegetables
under Low Temperatures". Journal of Food Protection. 65(2), pp. 326-332. [114] SHIV K. BERRY (1982), "Fatty Acid Composition of 16 Groundnut (Arachis
hypoaea L.) cultivars grown under Malaysian conditions". Pertanika. 5(1), pp.
20-324. [115] Soher E. Aly, Bassem A. Sabry, Mohamed S. Shaheen, Amal S. Hathout,
(2014), "Assessment of antimycotoxigenic and antioxidant activity of star
anise (Illicium verum) in vitro". Journal of the Saudi Society of Agricultural
Sciences. 15, pp. 20-27. [116] Sonia S.P. Bulaong and Okky S. Dharmaputra (2002), "Fungal population,
Aflatoxin and free fatty acid contents of peanuts packed in different bag
types". BIOTROPIA: . 19, pp. 1 - 25. [117] The Commission of the European Communities (2006), Commission
Regulation (EC) No 1881/2006 of 19 December 2006: Setting maximum
levels for certain contaminants on food stuffs, Official Journal of the European
Uniion L. 364/5, commission, European Union, p. 20. [118] The World Bank (2016), Vietnam Food Safety ríks management: Challenges 142 and Opportunities, Washington DC 20433. [119] Urban L. Diener and Norman D. Davis (1977), Factor influencing production
of Aflatoxin in peanuts, Aflatoxin formation in peanuts by Aspergillus flavus,
Agricultureral Expiriment Station, Auburn University, Auburn, Alabama. [120] Urban L. Diener and Norman D. Davis (1977), Aflatoxin formation in peanuts
by Aspergillus Flavus. Alabama Agricultural Experiment Station, BULLETIN
493. [121] USDA (2010), USDA Commodity Requirements - Peanut Products for use in Domestic Programs, PP12, Agriculture, United States Department of, p. 7. [122] USDA (2016), USDA Commodity Requirements - Peanut Products for use in
International Food Assistance programs, PP11, United States Department of
Agriculture, p. 3. [123] WHO (2006), Impacts of Aflatoxins on Health and Nutrition, Report of an
expert group meeting, Brazzaville, World Health Organization regional office
for Africa. [124] Williams ALBARRACÍN H., Christian ALFONOSO A., Iván C. SÁNCHEZ
B., (2012), "Application of essential oils as a preservative to improve the shelf
life of nile tilapia (Oreochoromisniloticus)". VITAE, REVISTA DE LA
FACULTAD DE QUÍMICA FARMACÉUTICA. 19(1), pp. 34-40. [125] World Health Organization (2014), Evaluations of the Joint FAO/WHO
Expert Committee on Food Additives (JECFA), accessed 4/3/2017, from
apps.who.int/food-additives-contaminations-jecfa-
database/search.aspx?fcc=2. [126] Worldatlas (2018), Top Peanut (Groundnut) Producing Countries, accessed 19
April-2018, from https://www.worldatlas.com/articles/top-peanut-groundnut-
producing-countries.html. [127] Yaru Li, Ying Nie, Linyan Zhou, Shutong Li, Xuanming Tang, Yang Ding
and Shuying Li, (2014), "The posible mechanism of antifungal activity of
cinnamon oil against Rhizopus nigricans". Journal of Chemical and
Pharmaceutical Research. 6(5), pp. 12-20. [128] Younis M. H. Younis and Kamal. M. Malik (2003), "TLC and HPLC assays
of aflatoxin contamination in Sudanese peanuts and peanut products". Kuwait
J. Sci. Eng. . 30(1), pp. 79-92. [129] French Food Safety agency (2006), Summary report: Risk assessment for mycotoxins in human and animal food chains. 143 [130] European Parliament and Council (2006), Laying down the methods of
sampling and analysis for the official control of the levels of mycotoxins in
foodstuffs, L 70/12, Official journal of the European Union. 1.1. Kết quả phân tích nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc nhân thu thập vào mùa hè tại các tỉnh Bắc Giang, Thanh Hóa và Nghệ An TT Nghệ An Thanh Hóa Bắc Giang AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) 1 KPH KPH KPH 5 × 10 KPH KPH 2 × 102 KPH KPH 0,76 KPH KPH KPH 2,1 × 105 8,4 2 KPH KPH KPH KPH KPH KPH 3 × 103 KPH KPH 648 68 KPH KPH 2 × 104 1,5 3 15 KPH KPH KPH KPH KPH 1,1 × 102 KPH KPH 3,1 KPH KPH KPH 7,5 × 108 122 4 KPH KPH KPH 5 × 101 KPH KPH 8 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 5 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 1,5 × 105 1,9 6 KPH KPH KPH 1 × 102 0,74 KPH 9 × 101 KPH KPH 0,66 KPH KPH KPH KPH KPH 7 KPH KPH KPH 1,5 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 8 KPH KPH KPH 2 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 9 KPH KPH KPH KPH KPH KPH 3 × 105 KPH KPH 21 KPH KPH KPH 5,8 × 102 0,76 10 KPH KPH KPH 1 × 102 KPH KPH 1,2 × 102 KPH KPH 2,4 KPH KPH KPH KPH KPH 11 KPH KPH KPH 9 × 104 16,6 KPH 6 × 102 KPH KPH 0,76 KPH KPH KPH KPH KPH 12 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 13 KPH KPH KPH 2,1 × 102 2,1 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 4,6 × 101 2,1 14 KPH KPH KPH 7,5 × 102 1,3 KPH 1,2 × 105 KPH KPH 9567 931 KPH KPH KPH KPH 15 KPH KPH KPH KPH KPH KPH 3 × 103 KPH KPH 5,2 KPH KPH KPH 9,8 × 105 151 1 TT Nghệ An Thanh Hóa Bắc Giang AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) 16 3,5 ×103 0,81 KPH KPH KPH 2,5 × 105 14 KPH KPH 7,5 × 106 6,6 KPH KPH KPH KPH 17 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 18 KPH KPH KPH KPH KPH 8 × 102 1,2 KPH KPH 9,3 × 108 115 KPH 8,8 KPH KPH 19 KPH KPH KPH KPH KPH 5 × 103 1,5 KPH KPH 5 × 102 0,74 KPH KPH KPH KPH 20 4,7 × 105 252 KPH KPH KPH 4 × 106 160 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 21 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 6,4 × 104 16 KPH KPH KPH KPH 22 5.3 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 7 × 101 1,3 KPH KPH KPH KPH 23 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 1,3 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH 24 9,2 × 101 0,34 KPH KPH KPH 4 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 25 1.7 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 26 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 9 × 101 1,5 KPH KPH KPH KPH 27 KPH KPH KPH KPH KPH 2 × 10 KPH KPH KPH 8,5 × 101 1,4 KPH KPH KPH KPH 28 6,7 × 102 2,8 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 29 9,5 × 102 8,2 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 30 KPH KPH KPH KPH KPH KPH 1,4 5,6 × 102 KPH KPH KPH KPH KPH KPH TS BT nấm men-mốc: Tổng số bào tử nấm men-mốc KPH
Ghi chú: KPH – Không phát hiện (nghĩa là dưới ngường phát hiện của phương pháp) 2 1.2. Kết quả phân tích nấm men-mốc và aflatoxin của lạc củ thu thập vào mùa hè tại các tỉnh Bắc Giang, Thanh Hóa và Nghệ An TT Nghệ An Thanh Hóa Bắc Giang AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) 1 KPH KPH KPH KPH KPH KPH 2,5 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 2 7,3 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 3 KPH KPH 4,5 × 101 1,5 4 × 102 KPH KPH 0,7 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 4 KPH KPH KPH KPH 2 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH 9 × 101 0,64 KPH KPH 5 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 6 KPH KPH KPH KPH 3 × 102 KPH KPH 2,1 KPH KPH KPH 3,7 × 105 215 KPH KPH 7 KPH KPH KPH KPH 7 × 102 KPH KPH 4,3 KPH KPH KPH 5,6 ×102 2,6 KPH KPH 8 KPH KPH 4 ×102 3,7 9,3 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 9 KPH KPH 2 × 103 9,8 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 6 × 101 KPH KPH KPH 10 KPH KPH 1,6 × 103 9,6 1,1 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 11 KPH KPH KPH KPH 1,5 × 102 KPH KPH KPH KPH KPH KPH 3,5 × 102 KPH KPH KPH 12 KPH KPH KPH KPH 3,4 × 105 KPH KPH 12 KPH KPH KPH 3 × 101 KPH KPH KPH 13 KPH KPH 6,6 × 102 5,8 1,4 × 105 KPH KPH 17,4 KPH KPH KPH 8 × 102 2,5 KPH KPH 14 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 5 × 101 KPH KPH KPH 15 KPH KPH 6 × 103 13 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 7 × 101 KPH KPH KPH 16 KPH KPH 5 × 102 3,9 1 × 102 KPH KPH 1,7 KPH KPH KPH 7,3 × 102 6,7 KPH KPH 3 TT Nghệ An Thanh Hóa Bắc Giang AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) 17 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 3,5 × 104 18 KPH KPH KPH KPH KPH KPH 18 4.5 × 102 4,6 KPH KPH 2 × 102 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 19 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 20 KPH KPH KPH KPH KPH 1 × 102 KPH 2,5 × 102 KPH KPH 0,67 KPH KPH KPH KPH 21 5,2 × 102 KPH KPH KPH KPH 3 × 10 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 22 KPH KPH KPH KPH KPH 4,9 × 102 6,4 KPH KPH 12 KPH 5 × 103 KPH KPH KPH 23 7 × 102 5,8 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 2,7 KPH 4 × 102 KPH KPH KPH 24 KPH KPH KPH KPH KPH KPH 9,3 × 10 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 25 6 × 103 16 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 2,8 KPH 6 × 102 KPH KPH KPH 26 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 27 KPH KPH KPH KPH KPH 5,6 × 10 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 28 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 3,1 KPH 9 x 102 KPH KPH KPH 29 2,9 × 104 28 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 30 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH Ghi chú: KPH – Không phát hiện (nghĩa là dưới ngường phát hiện của phương pháp) TS BT nấm men-mốc: Tổng số bào tử nấm men-mốc 4 1.3. Kết quả phân tích nấm men-mốc và aflatoxin của lạc rang húng lìu thu thập tại các tỉnh Bắc Giang, Thanh Hóa và Nghệ An TT Nghệ An Thanh Hóa Bắc Giang AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) 1 8 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 2 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 2,4 × 102 0,84 KPH KPH KPH 3 1 × 103 0,65 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 1,3 × 101 KPH KPH KPH KPH 4 2,4 × 102 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 5 1,5 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 6 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 7 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 8 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 1,2 × 102 KPH KPH KPH KPH 9 3,6 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 5 × 101 KPH KPH KPH KPH 10 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 11 4,2 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 12 4,9 × 102 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 13 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 3,6 × 101 KPH KPH KPH KPH 14 5 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 15 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 12 × 102 1,9 KPH KPH KPH 16 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 5 × 101 KPH KPH KPH KPH 5 TT Nghệ An Thanh Hóa Bắc Giang AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) AF B1
(g/kg) AF B2
(g/kg) AF G1
(g/kg) AF G2
(g/kg) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) TS BT nấm
men-mốc
(CFU/g) 17 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 18 KPH KPH KPH KPH KPH 1,1 × 102 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 19 KPH KPH KPH KPH KPH 8 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 20 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 21 KPH KPH KPH KPH KPH 1 × 103 0,78 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 22 KPH KPH KPH KPH KPH 2,4 × 102 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 23 KPH KPH KPH KPH KPH 1,1 × 101 KPH KPH KPH KPH 2,5 × 102 2,3 KPH KPH KPH 24 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 4 × 102 KPH KPH KPH KPH 25 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 26 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 2 × 102 KPH KPH KPH KPH 27 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 28 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 29 KPH KPH KPH KPH KPH 4,2 × 101 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 30 4,9 × 102 KPH KPH KPH KPH 3 × 102 2,1 KPH KPH KPH 2,5 × 102 2,3 KPH KPH KPH Ghi chú: KPH – Không phát hiện (nghĩa là dưới ngường phát hiện của phương pháp) TS BT nấm men-mốc: Tổng số bào tử nấm men-mốc 6 1.4. Tổng hợp tình trạng mẫu, độ ẩm, mức nhiễm nấm mốc và AF trong lạc nhân thu thập vào mùa thu tại Bắc Giang TT Bao bì chứa đựng Tình trạng mẫu Hàm lượng Aflatoxin (µg/kg) Độ ẩm
(%) AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng số bào
tử nấm mốc
(CFU/g) Độ nguyên
vẹn của hạt Độ căng
của hạt Màu sắc
của hạt Hạt có
mầm Mức độ
khô của hạt + + + KPH KPH KPH KPH - 8,1 KPH 1 Bao tải hai lớp - - + + KPH KPH KPH KPH - 9,2 KPH 2 Bao tải hai lớp - - + - 1,7 KPH KPH KPH - 10,5 1 × 102 3 Bao tải một lớp + - - + 1,8 KPH KPH KPH - 11,3 3 × 102 4 Chậu nhôm + + + + KPH KPH KPH KPH - 9,7 KPH 5 Bao tải hai lớp - + + - 1,3 KPH KPH KPH 2,3 × 101 - 11,0 6 Bao tải một lớp - + - + + 6,5 KPH KPH KPH KPH KPH 7 Bao tải một lớp - + + + - 11,4 0,74 KPH KPH KPH 2 × 101 8 Bao nilon - - - - + 7,1 KPH KPH KPH KPH KPH 9 Bao tải hai lớp - - + + - 9,5 KPH KPH KPH KPH 1 × 101 10 Bao tải một lớp - + + + + 5,3 KPH KPH KPH KPH KPH 11 Bao tải hai lớp - - - + - 12,6 6,6 KPH KPH KPH 5 × 102 12 Đổ trên sàn nhà - + + + + 5,7 KPH KPH KPH KPH KPH 13 Bao tải hai lớp - - + - + 6,2 KPH KPH KPH KPH KPH 14 Bao tải hai lớp - - - + - 12,8 1,4 KPH KPH KPH 4 × 102 15 Bao nilon - - + + + 6,9 KPH KPH KPH KPH KPH 16 Bao tải hai lớp - - - - - 11,6 KPH KPH KPH 1,5 2 × 102 17 Bao nilon - - - - - 12,5 16 18 Trên bao tải dưới sàn nhà KPH KPH KPH 4,7 × 103 + 7 TT Bao bì chứa đựng Tình trạng mẫu Hàm lượng Aflatoxin (µg/kg) Độ ẩm
(%) AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng số bào
tử nấm mốc
(CFU/g) Độ nguyên
vẹn của hạt Độ căng
của hạt Màu sắc
của hạt Hạt có
mầm Mức độ
khô của hạt 19 Bao tải hai lớp - - + + 7,1 KPH KPH KPH KPH KPH - 20 Bao tải hai lớp + + + + 6,8 KPH KPH KPH KPH KPH - 21 Bao tải hai lớp + + + + 5,9 KPH KPH KPH KPH KPH - 22 Phơi dưới nền sân gạch - - - - 12,7 115 8,8 KPH KPH 7 × 103 + 23 Bao tải hai lớp + + + + 5,1 KPH KPH KPH KPH KPH - 24 Bao tải một lớp - + + - 10,9 0,67 KPH KPH KPH 4 × 102 - 25 Bao tải một lớp - + + - 9,7 0,66 KPH KPH KPH 2,7 × 101 - 26 Trong rổ tre - - + - 11,3 2,4 KPH KPH KPH 2,5 × 102 - 27 Bao tải hai lớp + + + + 6,5 KPH KPH KPH KPH KPH - 28 Bao tải một lớp - - - - 10,7 1,5 KPH KPH KPH 2 × 102 - 29 Bao tải hai lớp + + + + 7,2 KPH KPH KPH KPH KPH - 30 Chậu nhựa - - + - 11,8 KPH KPH KPH 1,9 3 × 102 - Số phát hiện/(+) 12 18 22 12 14 1 0 0 15 4 Mức nhiễm/hàm lượng thấp nhất 5,1 0,66 8,8 0 0 1 × 101 Mức nhiễm/hàm lượng cao nhất 12,8 115 8,8 0 0 7 × 103 Ghi chú: - Độ nguyên vẹn của hạt: (+) tức là nguyên hạt; (-) tức là mẫu lấy có tới 3% số hạt bị vỡ hoặc bị tách đôi
- Độ căng của hạt: (+) tức là hạt mẩy; (-) tức là mẫu lấy có tới 5% tổng số hạt nhăn do chưa phát triển hoàn chỉnh và bị nhăn lại sau khi phơi
- Màu sắc của hạt: (+) hạt có màu săc bình thường; (-) mẫu lấy có tới 3% tổng số hạt bị biến màu,sẫm hơn màu vàng nhạt hoặc có nhiều đốm màu vàng, hoặc lớp vỏ biến thành nâu sẫm, xanh xẫm hoặc đen và lớn hơn 25% nhân. - Hạt có mầm: (+) tức là hạt có mầm nhú ra khỏi vỏ áo, đã bị héo khô do quá trình làm khô hạt; (-) tức là hạt không có mầm
Mức độ khô của hạt: (+) tức là hạt khô đến độ dễ dàng bó vỏ lụa khi xoa nhẹ trên lòng bàn tay; (-) tức là hạt khó bong vỏ lụa khi xoa trên lòng bàn tay 8 1.5. Tổng hợp tình trạng mẫu, độ ẩm, mức nhiễm nấm mốc và aflatoxin của lạc củ thu thập vào mùa thu tại Bắc Giang 10,19 KPH KPH 2,3 2,3 KPH 2,5 × 102 Bao tải một lớp - + - 1 9,66 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải một lớp + - - 2 8,76 KPH KPH 0,7 KPH 0,7 1,5 × 101 Bao tải một lớp - + + 3 6,93 KPH KPH KPH KPH KPH 1 × 101 Bao tải hai lớp - + - 4 7,93 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - - 5 8,77 2,1 KPH 2,1 KPH KPH 2,7 × 102 Bao tải một lớp - + - 6 6,63 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp - + - 7 6,69 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - - 8 6,68 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - - 9 6,21 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - - 10 6,37 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - - 11 6,52 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - - 12 6,74 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - 13 5,94 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - - 14 5,94 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - - 15 6,70 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - 16 6,52 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - - 17 6,37 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - - 18 6,29 KPH KPH KPH KPH KPH KPH Bao tải hai lớp + - - 19 9 + - - Bao tải hai lớp 20 6,18 KPH KPH KPH KPH KPH KPH + - - Bao tải hai lớp 21 6,18 KPH KPH KPH KPH KPH KPH + - - Bao tải hai lớp 22 6,53 KPH KPH KPH KPH KPH KPH - + - Bao tải một lớp 23 8,70 0,52 KPH KPH KPH 0,52 3 × 101 + - - Bao tải hai lớp 24 6,38 KPH KPH KPH KPH KPH KPH + - - Bao tải một lớp 25 9,33 0,46 KPH KPH KPH 0,46 1,5 × 101 + - - Bao tải hai lớp 26 6,72 KPH KPH KPH KPH KPH KPH - + + Bao tải một lớp 27 8,74 0,86 KPH KPH KPH 0,86 2 × 101 + - - Bao tải hai lớp 28 6,45 KPH KPH KPH KPH KPH KPH + - - Bao tải hai lớp 29 7,31 KPH KPH KPH KPH KPH KPH + - - Bao tải một lớp 30 9,53 2,5 KPH KPH KPH 2,5 3 × 102 7 2 Số phát hiện/(+) 23 Mức nhiễm/hàm lượng thấp nhất 5,94 0,46 0 0 0 0,46 1 × 101 Mức nhiễm/hàm lượng cao nhất 10,19 2,5 0 0 0 2,5 3 × 102 Ghi chú: “+” tức là “có tình trạng như tiêu đề của cột tương ứng”; “-” tức là “không có tình trạng như tiêu đề của cột tương ứng” 10 2.1. Ảnh hưởng của độ ẩm AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 6% C1 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 6% C2 6% M11 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 8% M12 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 10% M13 4,28 KPH KPH KPH 4,28 10,97 KPH KPH KPH 10,97 16,69 0,42 KPH KPH 17,11 20,80 0,99 KPH KPH 21,79 12% M14 5,19 KPH KPH KPH 5,19 12,84 KPH KPH KPH 12,84 18,45 0,69 KPH KPH 19,14 34,35 1,52 KPH KPH 35,88 14% M15 6,68 KPH KPH KPH 6,68 15,70 0,30 KPH KPH 16,00 36,03 0,76 KPH KPH 36,79 47,64 1,60 KPH KPH 49,25 AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 6% C1 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 6% C2 6% M11 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 8% M12 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 10% M13 26,28 1,65 KPH KPH 27,93 26,73 3,08 KPH KPH 29,80 26,39 3,87 KPH KPH 30,26 25,27 6,69 KPH KPH 31,96 12% M14 45,41 1,79 KPH KPH 47,20 48,64 3,88 KPH KPH 52,52 51,72 4,51 KPH KPH 56,23 53,79 6,63 KPH KPH 60,41 14% M15 57,62 1,85 KPH KPH 59,47 61,51 3,91 KPH KPH 65,42 62,99 5,89 KPH KPH 68,97 63,69 7,51 KPH KPH 71,19 Ghi chú: KPH – Không phát hiện (nghĩa là dưới ngường phát hiện của phương pháp) 11 2.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFG1 AFG2 Tổng KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 8,65 KPH KPH KPH 8,65 200C M21 4,28 KPH KPH KPH 4,28 10,97 KPH KPH KPH 10,97 16,69 0,42 KPH KPH 17,11 20,80 0,99 KPH KPH 21,79 4,61 KPH KPH KPH 4,61 7,92 KPH KPH KPH 7,92 12,82 KPH KPH KPH 12,82 15,86 KPH KPH KPH 15,86 300C M23 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 1,66 KPH KPH KPH 1,66 3,73 KPH KPH KPH 3,73 350C M24 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 400C M25 AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng 11,19 KPH KPH KPH 11,19 13,07 KPH KPH KPH 13,07 14,44 KPH KPH KPH 14,44 15,00 KPH KPH KPH 15,00 200C M21 26,28 1,65 KPH KPH 27,93 26,73 3,08 KPH KPH 29,80 26,39 3,87 KPH KPH 30,26 25,27 6,69 KPH KPH 31,96 17,52 KPH KPH KPH 17,52 19,54 KPH KPH KPH 19,54 19,83 KPH KPH KPH 19,83 20,22 KPH KPH KPH 20,22 300C M23 6,53 KPH KPH KPH 6,53 11,75 KPH KPH KPH 11,75 12,96 KPH KPH KPH 12,96 13,19 KPH KPH KPH 13,19 350C M24 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 400C M25 LOQ – Giới hạn định lượng ( Ghi chú: KPH – Không phát hiện (nghĩa là dưới ngường phát hiện của phương pháp) 12 2.3. Ảnh hưởng của điều kiện hút chân không AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFG1 AFG2 Tổng 50 M31 26,4 KPH KPH KPH 26,4 26,5 KPH KPH KPH 26,5 27,79 KPH KPH KPH 27,79 28,23 KPH KPH KPH 28,23 100 M32 23,3 KPH KPH KPH 23,3 23,97 KPH KPH KPH 23,97 25,5 KPH KPH KPH 25,5 26,12 KPH KPH KPH 26,12 150 M33 15,75 KPH KPH KPH 15,75 18,14 KPH KPH KPH 18,14 18,99 KPH KPH KPH 18,99 18,9 KPH KPH KPH 18,9 200 M34 3,12 KPH KPH KPH 3,12 4,23 KPH KPH KPH 4,23 4,62 KPH KPH KPH 4,62 4,62 KPH KPH KPH 4,62 250 M35 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng 50 M31 28,73 KPH KPH KPH 28,73 28,92 KPH KPH KPH 28,92 29,15 KPH KPH KPH 29,15 29,56 KPH KPH KPH 29,56 100 M32 26,16 KPH KPH KPH 26,16 26,01 KPH KPH KPH 26,01 26,13 KPH KPH KPH 26,13 26,64 KPH KPH KPH 26,64 150 M33 19,15 KPH KPH KPH 19,15 19,53 KPH KPH KPH 19,53 19,6 KPH KPH KPH 19,6 19,8 KPH KPH KPH 19,8 200 M34 5,19 KPH KPH KPH 5,19 5,74 KPH KPH KPH 5,74 5,8 KPH KPH KPH 5,8 6,62 KPH KPH KPH 6,62 250 M35 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH LOQ – Giới hạn định lượng ( Ghi chú: KPH – Không phát hiện (nghĩa là dưới ngường phát hiện của phương pháp) 13 2.4. Ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus đến khả năng sinh Aflatoxin trên lạc AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng 1CFU/g M31 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 101CFU/g M32 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 0,91 KPH KPH KPH 0,91 102CFU/g M33 KPH KPH KPH KPH KPH 0,89 KPH KPH KPH 0,89 1,60 KPH KPH KPH 1,60 4,63 KPH KPH KPH 4,63 104CFU/g M35 4,74 KPH KPH KPH 4,74 10,57 2,95 KPH KPH 13,52 18,16 1,88 KPH KPH 20,04 23,24 2,10 KPH KPH 25,33 105CFU/g M36 9,45 KPH KPH KPH 9,45 15,99 1,92 KPH KPH 17,92 17,82 6,40 KPH KPH 24,22 23,84 10,08 KPH KPH 33,92 106CFU/g M37 12,81 KPH KPH KPH 12,81 15,82 1,60 KPH KPH 17,42 19,16 3,01 KPH KPH 22,17 27,47 2,75 KPH KPH 30,22 AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng AFB1 AFB2 AFG1 AFG2 Tổng 1CFU/g M31 KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH KPH 101CFU/g M32 1,72 KPH KPH KPH 1,72 3,10 KPH KPH KPH 3,10 5,06 KPH KPH KPH 5,06 5,76 KPH KPH KPH 5,76 102CFU/g M33 5,67 KPH KPH KPH 5,67 8,07 KPH KPH KPH 8,07 12,72 KPH KPH KPH 12,72 13,22 KPH KPH KPH 13,22 104CFU/g M35 26,62 2,49 KPH KPH 29,11 34,40 3,31 KPH KPH 37,71 36,51 3,18 KPH KPH 39,70 37,98 3,75 KPH KPH 41,73 105CFU/g M36 28,37 18,56 KPH KPH 46,93 39,21 20,27 KPH KPH 59,49 39,81 27,07 KPH KPH 66,88 41,48 31,61 KPH KPH 73,09 106CFU/g M37 36,60 11,45 KPH KPH 48,05 40,24 23,96 KPH KPH 64,20 41,36 31,62 KPH KPH 72,98 44,27 34,23 KPH KPH 78,50 14 2.5. Ảnh hưởng của tinh dầu quế đến khả năng phát triển của A. flavus trên đĩa thạch 2,64 0 0(*) 440 0 2,64 0,25 0,0125 440 41,7 2,64 0,5 0,025 440 83,3 2,64 1 0,05 440 166,7 2,64 2 0,1 440 333,3 2,64 4 0,2 440 666,7 2,64 8 0,4 440 1333,3 2,64 16 0,8 440 2666,7 2,64 32 1,6 440 5333,3 2,64 64 3,2 440 10666,7 Ghi chú: (*) Mẫu đối chứng, cho tween 20 nhưng không cho tinh dầu. 15 Ngày 3 5 7 9 11 13 Nồng
độ tinh dầu (%) 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 C(-) 3,2 3,0 3,2 3,3 5,4 5,5 5,3 5,2 6,5 6,6 6,6 6,6 7,5 7,4 7,8 7,7 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 C(+) 3,1 3,1 3,2 3,1 5,2 5,4 5,3 5,3 6,5 6,6 6,6 6,6 7,4 7,5 7,6 7,6 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0,0125 2,1 1,7 2,0 1,8 4,5 4,6 4,3 4,4 5,0 5,1 4,9 5,1 6,5 6,4 6,5 6,5 7,1 7,0 7,2 7,1 9,0 9,0 9,0 9,0 0,025 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0.0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,05 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,1 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,2 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,4 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,8 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 1,6 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 3,2 16 Ngày 3 5 7 9 11 13 Nồng
độ tinh dầu (%) 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 C(-) 3,2 3,0 3,2 3,3 5,4 5,5 5,3 5,2 6,5 6,6 6,6 6,6 7,5 7,4 7,8 7,7 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 C(+) 3,1 3,0 3,0 2,9 4,1 4,2 4,1 4,0 6,6 6,5 6,5 6,5 7,7 7,8 7,6 7,8 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0,0125 2,1 2,2 2,0 2,1 4,1 4,0 4,0 4,0 6,3 6,4 6,4 6,4 7,5 7,6 7,6 7,5 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0,025 1,7 1,8 1,9 1,8 3,8 3,8 3,7 3,7 6,0 5,9 6,0 5,8 7,3 7,2 7,3 7,2 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0,05 1,3 1,5 1,4 1,5 2,6 2,7 2,6 2,6 4,7 4,8 4,7 4,8 7,0 7,1 7,1 7,1 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 9,0 0,1 0,3 0,4 0,3 0,4 0,8 0,8 0,8 0,7 2,5 2,6 2,5 2,5 4,7 4,8 4,8 4,8 7,7 7,6 7,8 7,6 9,0 9,0 9,0 9,0 0,2 0,0 0,0 0,0 0,0 0,6 0,6 0,5 0,6 1,5 1,6 1,6 1,5 3,0 3,2 3,1 3,2 6,3 6,3 6,2 6,2 7,8 7,9 7,8 7,8 0,4 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,8 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 1,6 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 3,2 17 18 3.1. Phần mềm xử lý số liệu R 3.4.1 3.2. Đánh giá mức độ nhiễm nấm men-mốc và Aflatoxin trên lạc 3.2.1. So sánh mức nhiễm nấm men-mốc và Aflatoxin trên lạc nhân giữa các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang > nam = c(14, 16, 18) > AF = c(12, 9, 16) > Total = c(30, 30, 30) > prop.test(nam, total) > prop.test(AF, total) 3-sample test for equality of proportions without continuity correction data X-squared df alternative hypothesis: two.sided p-value sample estimates prop 1 prop 2 prop 3 nam out of total 1.0714 0.4666667 0.5333333 0.6000000 0.5853 2 19 AF out of total 3.3962 0.4000000 0.3000000 0.5333333 0.183 2 3.2.2. So sánh mức nhiễm nấm men-mốc và Aflatoxin trên lạc củ giữa các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang > namcu = c(16, 13, 17) > AFcu = c(9, 8, 12) > Total = c(30, 30, 30) > prop.test(namcu, total) > prop.test(AFcu, total) 3-sample test for equality of proportions without continuity correction data X-squared df alternative hypothesis: two.sided p-value sample estimates prop 1 prop 2 prop 3 namcu out of total 1.1561 0.5333333 0.4333333 0.5666667 2 0.561 20 AFcu out of total 1.3228 0.3000000 0.2666667 0.4000000 2 0.5161 3.3. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của A. flavus và sinh AF trên lạc a. Mối quan hệ giữa độ ẩm và thời gian tới hàm lượng AFB1 sinh ra 3Q Phần dư của mô hình:
1Q
-8.865 Median
1.743 9.418 Max
19.215 Min
-24.968
Các hệ số: Std. Error
10.2652
0.2537
0.9426 Estimate
-78.1876
1.9971
7.5601 t value
-7.617
7.873
8.020 Pr(>|t|)
3.32e-11 ***
1.02e-11 ***
5.15e-12 *** (Intercept)
Week
Moi
Signif. codes: 0 ‘***’ 0.001 ‘**’ 0.01 ‘*’ 0.05 ‘.’ 0.1 ‘ ’ 1
Residual standard error: 10.9 on 85 degrees of freedom
Multiple R-squared: 0.5978, Adjusted R-squared: 0.5883
F-statistic: 63.16 on 2 and 85 DF, p-value: < 2.2e-16 Median
-0.608 3Q
8.772 Max
40.996 -11.291 b. Mối quan hệ giữa độ ẩm và thời gian tới hàm lượng AF tổng số sinh ra:
Phần dư của mô hình:
Min 1Q
-31.434
Các hệ số: Estimate
Std. Error
-76.9121 15.0087
0.3709
2.6051
1.3782
7.2425 t value Pr(>|t|)
-5.125 1.84e-06 ***
7.024
5.255 4.97e-10 ***
1.08e-06 *** (Intercept)
Week
Moi
Signif. codes: 0 ‘***’ 0.001 ‘**’ 0.01 ‘*’ 0.05 ‘.’ 0.1 ‘ ’ 1
Residual standard error: 15.94 on 85 degrees of freedom
Multiple R-squared: 0.4752, Adjusted R-squared: 0.4628 F-statistic: 38.48 on 2 and 85 DF, p-value: 1.262e-12 21 3.3.1. Phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng của độ ẩm Mối quan hệ giữa nhiệt độ và thời gian tới hàm lượng AFB1 sinh ra Phần dư của mô hình: Min 1Q Median 3Q Max -28.364 -10.171 0.804 6.267 35.479 Các hệ số: Estimate Std. Error t value Pr(>|t|) (Intercept) 19.5715 11.4777 1.705 0.0918 . Week 1.9971 0.3310 6.034 4.04e-08 *** Tem -0.6961 0.4238 -1.642 0.1042 Signif. codes: 0 ‘***’ 0.001 ‘**’ 0.01 ‘*’ 0.05 ‘.’ 0.1 ‘ ’ 1 Residual standard error: 14.23 on 85 degrees of freedom Multiple R-squared: 0.3151, Adjusted R-squared: 0.299 F-statistic: 19.55 on 2 and 85 DF, p-value: 1.034e-07 22 3.3.2. Phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng của nhiệt độ a. Mối quan hệ giữa mức nhiễm A. flavus và thời gian tới hàm lượng AFB1 sinh ra Phần dư của mô hình:
1Q
-11.272 Median
-0.695 3Q
6.792 Max
36.713 Min
-27.124
Các hệ số: Std. Error
Estimate
t value
9.297e-01 3.414e+00 0.272
1.997e+00 3.338e-01 5.984
5.987e-06 5.356e-06 1.118 Pr(>|t|)
0.786
5.02e-08 ***
0.267 (Intercept)
Week
Flavus
---
Signif. codes: 0 ‘***’ 0.001 ‘**’ 0.01 ‘*’ 0.05 ‘.’ 0.1 ‘ ’ 1
Residual standard error: 14.35 on 85 degrees of freedom
Multiple R-squared: 0.3036, Adjusted R-squared: 0.2872
F-statistic: 18.53 on 2 and 85 DF, p-value: 2.098e-07 b. Mối quan hệ giữa mức nhiễm A. flavus và thời gian tới hàm lượng AF tổng số sinh ra Phần dư của mô hình:
1Q Min Median 3Q Max Các hệ số: Estimate Std. Error t value Pr(>|t|) 23 3.3.3. Phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus a. Tìm mô hình tối ưu
> search=glm(fx~., family="binomial", data=dat1)
> step(search)
Start: AIC=33.57
fx ~ Week + Moi + Tem + Flavus 3.3.4. Phân tích mô hình hồi quy tuyến tính đa biến Df
1
1
1
1 Deviance AIC
24.275 3
29.489
35.454
45.223 2.275
37.489
43.454
53.223 - Tem
- Moi
- Flavus
- Week
Step: AIC=32.27
fx ~ Week + Moi + Flavus Df
1
1
1 Deviance AIC
29.636
35.750
45.624 35.636
41.750
51.624 - Moi
- Flavus
- Week
Call: glm(formula = fx ~ Week + Moi + Flavus, family = "binomial", data = dat1) Coefficients:
(Intercept) Week Moi Flavus
-92.592468 0.665122 8.919759 0.001301 Degrees of Freedom: 87 Total (i.e. Null); 84 Residual; Null Deviance: 58.09; Residual Deviance: 24.27 AIC: 32.27 24 4 models were selected p!=0
EV SD model 1 model 2
100 -58.617377 1.042e+04 -9.259e+01 -3.116e+00
100.0 0.644505
2.308e-01 6.651e-01 6.073e-01
61.6 5.507737 1.042e+03 8.920e+00
5.029e-02 .
12.1 0.009783
1.196e-03 1.301e-03 1.954e-03
100.0 0.001532 model 3
-9.629e+01
6.832e-01
. 9.036e+00
. 9.800e-02
1.099e-03 model 4
-4.289e+00
6.095e-01
.
4.660e-02
1.885e-03 3 2 3 -3.518e+02 -3.509e+02
0.344 0.535 4
-3.480e+02
0.081 -3.466e+02
0.039 25 Best 4 models (cumulative posterior probability = 1 ):
Intercept
Week
Moi
Tem
Flavus
nVar
BIC
post prob 4.1. Sắc đồ phân tích AF trong nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm Sắc đồ phân tích các mẫu nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm sau 4 tuần: 26 4.2. Sắc đồ phân tích AF trong nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ Sắc đồ phân tích các mẫu nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ sau 4 tuần: 4.3. Sắc đồ phân tích AF trong nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện hút chân không Sắc đồ phân tích các mẫu nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện hút chân không sau 4 tuần: 27 4.4. Sắc đồ phân tích AF trong nghiên cứu ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus BG1 Sắc đồ phân tích các mẫu nhiễm A. flavus BG1:
100 CFU/g (M51), 101 CFU/g (M52), 102 CFU/g (M53), 103 CFU/g (M54), 104 CFU/g (M55), 105 CFU/g (M56), 106 CFU/g (M57) 282.8. Sơ đồ nghiên cứu
Hình 2. 17. Sơ đồ nghiên cứu
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Đánh giá mức độ nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trên lạc
tại Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang
Bảng 3. 1. Số lượng mẫu nhiễm nấm men-mốc và aflatoxin trong lạc nhân
Tỉnh lấy mẫu
Nghệ An Thanh Hóa Bắc Giang
Các thông số
Bảng 3. 2. Phân tích so sánh tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc và AF trong lạc nhân
Chỉ tiêu đánh giá
Tỉ lệ nhiễm (%)
Giá trị
p
Nghệ An Thanh Hóa Bắc Giang
Bảng 3. 3. Số mẫu nhiễm nấm men-mốc và AF trong lạc củ
Tỉnh lấy mẫu
Nghệ An Thanh Hóa Bắc Giang
Các thông số
Bảng 3. 4. Phân tích so sánh tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc và AF trong lạc củ
Chỉ tiêu đánh giá
Tỉ lệ nhiễm (%)
Giá trị
p
Nghệ An Thanh Hóa Bắc Giang
Bảng 3. 5. Số mẫu nhiễm nấm men-mốc và AF trong lạc rang húng lìu
Tỉnh lấy mẫu
Nghệ An
Thanh Hóa Bắc Giang
Các thông số
Bảng 3. 6. Phân tích so sánh tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc và AF trong lạc rang
Chỉ tiêu đánh giá
Tỉ lệ nhiễm (%)
Giá trị
p
Nghệ An Thanh Hóa Bắc Giang
Hình 3. 1. Tỉ lệ nhiễm nấm men-mốc trong lạc thu thập tại Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang
Hình 3. 2. Tỉ lệ nhiễm AF trong lạc thu thập tại Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang
Bảng 3. 7. Tỉ số nguy cơ nhiễm AF với tình trạng của mẫu lạc nhân
Các thông số
Hạt
Màu sắc
Có mầm Mức độ khô
Độ căng của
hạt
Bảng 3. 8. Tỉ số nguy cơ nhiễm AF với tình trạng của mẫu lạc củ
Độ sạch
Có hạt mốc
Các thông số
có tạp
sạch
không
có
Hình 3. 4. Mặt trước (a) và mặt sau (b) của đĩa nuôi cấy sau 3 ngày
Hình 3. 5. Hình thái khuẩn lạc sau 3 ngày nuôi cấy trên môi trường SDA
Hình 3. 6. Chủng phân lập từ lạc (a, b) và ATCC 204304 (c) cấy điểm trên SDA sau 5 ngày
Hình 3. 7. Bọng nấm hình chùy đến cầu, thể bình 1 lớp (a), thể bình hai lớp (b); Bào tử nấm hình cầu
đến gần cầu, màu xanh (c,d)
Hình 3. 8. Ảnh hiển vi điện tử quét chủng nấm A1
Bảng 3. 9. Nồng độ DNA sau khi tách chiết của các chủng
Chủng
Nồng độ (ng/ µL)
A260/A280
Hình 3. 9. Kết quả điện di sản phẩm PCR đoạn ITS; (+): Đối chứng A. flavus ATCC 204304, (-): Đối
chứng âm
Bảng 3. 10. Kết quả tìm kiếm trên ngân hàng gen quốc tế
Loài xác định
Mẫu
nấm
Đoạn ADN
so sánh
Chủng, trình tự
trên ngân hàng
gen quốc tế
Phần trăm
đoạn so
sánh (%)
Mức đồng
nhất trình
tự (%)
Hình 3. 10. Mẫu lạc nhiễm A. flavus BG1 phát huỳnh quang sau 10 ngày nuôi cấy ở 25 oC
Bảng 3. 11. Khả năng sinh AF của ba chủng phân lập từ lạc
Chủng nấm
Hàm lượng AFB1 (µg/kg)
Hàm lượng AFB2 (µg/kg)
Hình 3. 11. Sắc đồ AFB1 của chuẩn (a) và mẫu (c); sắc ký đồ AFB2 của chuẩn (b) và mẫu (c)
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh AF trên lạc
của Aspergillus flavus BG1
Bảng 3. 12. Sự thay đổi độ ẩm của mẫu lạc nhân trong các bao bì khác nhau
Độ ẩm lạc nhân (%)
Độ ẩm lạc củ (%)
Độ ẩm/
tháng
T0
T1
T2
T3
T4
T0
T1
T2
T3
T4
Loại bao bì
Bảng 3. 13. Ảnh hưởng của độ ẩm đến sự phát triển của A. flavus BG1 và sinh AF
Mức độ Màu sắc
Ghi chú khác
Độ ẩm
(%)
Ký hiệu Quan
sát
Soi
UV
Mức độ Màu sắc
Ghi chú khác
Độ ẩm
(%)
Ký hiệu Quan
sát
Soi
UV
Mức độ Màu sắc
Ghi chú khác
Soi
UV
Độ ẩm
(%)
Ký hiệu Quan
sát
Hình 3. 12. Màu sắc của A. flavus BG1 phát triển trên lạc
AF (µg/kg)
0
Thời gian (Tuần)
Hình 3. 13. Biểu đồ AFB1 và AF tổng số trong các mẫu có độ ẩm khác nhau; AFB1-10% (mẫu có độ
ẩm 10 %); AFs-10% (mẫu có độ ẩm 10%); ML-AFB1 (Ngưỡng cho phép của AFB1); ML- AFs
(Ngưỡng cho phép của AF tổng số)
Bảng 3. 14. Ảnh hưởng nhiệt độ đến sự phát triển của nấm mốc A. flavus BG1
Nhiệt độ
Mức độ Màu sắc
Ghi chú khác
Ký
hiệu
Quan
sát
Soi
UV
(0C)
Tuần 1
20 M21
25 M22
30 M23
35 M24
40 M25
Tuần 2
20 M21
25 M22
30 M23
Nhiệt độ
Mức độ Màu sắc
Ghi chú khác
Ký
hiệu
Quan
sát
Soi
UV
(0C)
35 M24
40 M25
Tuần 3
20 M21
25 M22
30 M23
35 M24
40 M25
Tuần 4
20 M21
25 M22
30 M23
35 M24
40 M25
AF (µg/kg)
0
Thời gian (Tuần)
Hình 3. 14. Aflatoxin nhiễm trong các mẫu ở nhiệt độ khác nhau; AFB1-25 (AFB1 trong mẫu ở điều
kiện 25oC); AFs-25 (AF tổng số ở điều kiện 25 oC); ML-AFB1 (Ngưỡng cho phép của AFB1); ML- AFs
(Ngưỡng cho phép của AF tổng số)
Hình 3. 15. Xác suất phân phối mật độ cho biến nhiệt độ (Tem)
Bảng 3. 15. Ảnh hưởng của lượng nấm mốc đến sự phát triển của A. flavus BG1
Mức nhiễm
Màu sắc
Ghi chú khác
Ký hiệu Quan
sát
Mức
độ
Soi
UV
(CFU/g)
Mức nhiễm
Màu sắc
Ghi chú khác
Ký hiệu Quan
sát
Mức
độ
Soi
UV
(CFU/g)
AF (µg/kg)
0
Thời gian (Tuần)
Hình 3. 16. Kết quả phân tích AF trong thí nghiệm ảnh hưởng mức nhiễm A. flavus theo tuần; AFB1-
10^1 (AFB1 trong mẫu nhiễm 101 CFU A. flavus/g); AFs-10^1 (AF tổng số trong mẫu nhiễm 101 CFU
A. flavus/g); ML-AFB1 (Ngưỡng cho phép của AFB1); ML- AFs (Ngưỡng cho phép của AF tổng số)
Bảng 3. 16. Ảnh hưởng của áp lực hút chân không đến sự phát triển của A. flavus BG1
Mức độ Màu sắc
Ghi chú khác
Ký
hiệu
Quan
sát
Soi
UV
Áp lực hút
chân không
(mmHg)
Mức độ Màu sắc
Ghi chú khác
Soi
UV
Ký
hiệu
Quan
sát
Áp lực hút
chân không
(mmHg)
AF (µg/kg)
Thời gian (Tuần)
Hình 3. 17. Kết quả phân tích AFB1 theo tuần trong thí nghiệm điều kiện hút chân không
Bảng 3. 17. Mối liên quan giữa mức độ sinh trưởng của A. flavus BG1 và hàm lượng AF
Sau 2 tuần thí nghiệm
Sau 4 tuần thí nghiệm
Điều kiện
thí nghiệm
màu sắc
màu sắc Soi
UV
Soi
UV
Hàm lượng
AF tổng số
(g/kg)
Hàm lượng
AF tổng số
(g/kg)
Sau 2 tuần thí nghiệm
Sau 4 tuần thí nghiệm
Điều kiện
thí nghiệm
màu sắc
màu sắc Soi
UV
Soi
UV
Hàm lượng
AF tổng số
(g/kg)
Hàm lượng
AF tổng số
(g/kg)
Hình 3. 18. Biểu đồ mối tương quan giữa các biến (Thời gian – Week, Độ ẩm – Moi, Nhiệt độ - Tem,
Mức nhiễm A. flavus – Flavus, AFB1 và AF tổng số - AFTotal)
Bảng 3. 18. Bốn mô hình tối ưu và các thông số
Mô hình
Các biến
BIC
Xác xuất
Hình 3. 19. Các mô hình được BMA lựa chọn
tinh dầu Quế 0,0125 %; c) bổ sung tinh dầu Quế 0,025%; d) bổ sung tinh dầu Hồi 0,2 %; e) bổ sung
tinh dầu Hồi 0,4 %; f) bổ sung tinh dầu Hồi 0,8 %
Bảng 3. 19. Đường kính trung bình (cm) của khuẩn lạc A. flavus BG1 trên môi trường PDA với nồng
độ tinh dầu quế khác nhau
Tỉ lệ (%)
110.0
Thời gian (ngày)
Hình 3. 21. Biểu đồ phát triển của khuẩn lạc trên đĩa thạch bổ sung tinh dầu quế
Bảng 3. 20. Đường kính trung bình (cm) của khuẩn lạc A. flavus BG1 trên môi trường PDA với nồng
độ tinh dầu hồi khác nhau
Tỉ lệ (%)
Hình 3. 22. Biểu đồ phát triển của khuẩn lạc trên đĩa thạch bổ sung tinh dầu hồi
Bảng 3. 21. Mức nhiễm nấm mốc trên lạc với nồng độ tinh dầu quế khác nhau theo thời gian
Bảng 3. 22. Mức nhiễm AF trên lạc có nồng độ tinh dầu quế khác nhau theo thời gian
Bảng 3. 23. Mức độ nhiễm nấm mốc trên lạc với nồng độ tinh dầu hồi khác nhau theo thời gian
Bảng 3. 24. Mức nhiễm AF trên các mẫu có nồng độ tinh dầu hồi khác nhau theo thời gian
3.3. Khảo nghiệm và đề xuất quy trình bảo quản nhằm tránh nguy
cơ nhiễm aflatoxin trong lạc
Hình 3. 23. Quy trình khảo nghiệm bảo quản lạc nhân bằng kiểm soát quá trình
Bảng 3. 25. Hàm lượng AFB1 (µg/kg) của lạc nhân bảo quản bằng kiểm soát quá trình
Hình 3. 24. Quy trình khảo nghiệm bảo quản lạc nhân bằng đóng gói hút chân không
Bảng 3. 26. Kết quả hàm lượng aflatoxin B1 (µg/kg) của lạc nhân đóng gói hút chân không
Hình 3. 25. Quy trình bảo quản lạc nhân có sử dụng tinh dầu
Bảng 3. 27. Mức nhiễm AFB1 (g/kg) trên lạc với lượng tinh dầu quế khác nhau theo thời gian
Bảng 3. 28. Mức nhiễm AFB1 (g/kg) trên lạc với lượng tinh dầu hồi khác nhau theo thời gian
Bảng 3. 29. Tinh chi phí có và không sử dụng tinh dầu trong bảo quản lạc
Hình 3. 26. Quy trình bảo quản lạc đề xuất
Hình 3. 27. Mô hình băng tải kiểm tra phát hiện AF trong lạc
Hình 3. 28. Máy đóng túi hút chân không
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1. KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NHIỄM NẤM MỐC VÀ AFLATOXIN TRONG LẠC
Bảng PL1. 1. Kết quả phân tích Tổng số bào tử nấm men-mốc và AF trong các mẫu lạc nhân thu thập tại Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang năm 2013
Bảng PL1. 2. Kết quả phân tích Tổng số bào tử nấm men-mốc và AF trong các mẫu lạc củ thu thập tại Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang năm 2013
Bảng PL1. 3. Kết quả phân tích Tổng số bào tử nấm men-mốc và AF trong các mẫu lạc rang húng lìu thu thập tại Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Giang năm 2013
Bảng PL1. 4. Tình trạng mẫu, độ ẩm, mức nhiễm nấm mốc và AF trong mẫu lạc nhân
Bảng PL1. 5. Tình trạng mẫu, độ ẩm, mức nhiễm nấm mốc và AF trong mẫu lạc củ
Bao bì chứa đựng
Tình trạng mẫu
Hàm lượng Aflatoxin (g/kg)
TT
Số bào tử nấm mốc
(CFU/g)
Độ ẩm
(%)
sạch
lẫn tạp
có củ mốc
B2
G1
G2
Tổng số
B1
Bao bì chứa đựng
Tình trạng mẫu
Hàm lượng Aflatoxin (g/kg)
TT
Số bào tử nấm mốc
(CFU/g)
Độ ẩm
(%)
sạch
lẫn tạp
có củ mốc
B2
G1
G2
Tổng số
B1
PHỤ LỤC 2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ SINH AF TRÊN LẠC CỦA A. FLAVUS BG1
Bảng PL2. 1. Ảnh hưởng của độ ẩm đến sự sinh AF trên lạc theo thời gian
Sau 2 tuần
Sau 4 tuần
Sau 6 tuần
Sau 8 tuần
Độ
ẩm
Ký
hiệu
Sau 10 tuần
Sau 12 tuần
Sau 14 tuần
Sau 16 tuần
Độ
ẩm
Ký
hiệu
Bảng PL2. 2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự sinh AF trên lạc theo thời gian
Sau 2 tuần
Sau 4 tuần
Sau 6 tuần
Sau 8 tuần
Nhiệt
Ký
độ
hiệu
250C M22
Sau 10 tuần
Sau 12 tuần
Sau 14 tuần
Sau 16 tuần
Nhiệt
Ký
độ
hiệu
250C M22
Bảng PL2. 3. Ảnh hưởng của điều kiện hút chân không đến sự sinh AF trên lạc theo thời gian
Sau 2 tuần
Sau 4 tuần
Sau 6 tuần
Sau 8 tuần
Áp lực
Ký
(mmHg)
hiệu
Áp lực
Ký
Sau 10 tuần
Sau 12 tuần
Sau 14 tuần
Sau 16 tuần
(mmHg)
hiệu
Bảng PL2. 4. Ảnh hưởng của mức nhiễm A. flavus đến sự sinh AF trên lạc theo thời gian
A. flavus
Ký
Sau 2 tuần
Sau 4 tuần
Sau 6 tuần
Sau 8 tuần
hiệu
103CFU/g M34
4,28
KPH
KPH
KPH
4,28
16,69
10,97 KPH KPH KPH
10,97
0,42 KPH KPH
17,11
20,80
0,99 KPH KPH
21,79
A. flavus
Ký
Sau 10 tuần
Sau 12 tuần
Sau 14 tuần
Sau 16 tuần
hiệu
103CFU/g M34
26,28
1,65 KPH
KPH
27,93
26,73
3,08 KPH KPH
29,80
26,39
3,87 KPH KPH
30,26
25,27
6,69 KPH KPH
31,96
Bảng PL2. 5. Tính toán lượng tween và tinh dầu bổ sung vào môi trường thạch
Tính cho mỗi đĩa thạch (30mL)
Chuẩn bị cho 6 đĩa (180 mL)
Nồng độ tinh
dầu (% v/v)
Lượng tween 20 (L) Lượng tinh dầu (L) Lượng tween 20 (mL) Lượng tinh dầu (mL)
Bảng PL2. 6. Kết quả đo đường kính khuẩn lạc phát triển khi bổ sung tinh dầu quế trên đĩa thạch
Bảng PL2. 7. Kết quả đo đường kính khuẩn lạc phát triển khi bổ sung tinh dầu hồi trên đĩa thạch
PHỤ LỤC 3. XỬ LÝ SỐ LIỆU
PHỤ LỤC 4. MỘT SỐ SẮC ĐỒ PHÂN TÍCH AFLATOXIN
Hình PL4. 1. Sắc đồ AFB1 của các mẫu độ ẩm 10%(M13), 12%(M14) và 14%(M15)
Hình PL4. 2. Sắc đồ AFB2 của mẫu độ ẩm 14%
Hình PL4. 3. Sắc đồ AFB1 của mẫu 25oC và 30oC
Hình PL4. 4. Sắc đồ AFB1 trong nghiên cứu điều kiện hút chân không
Hình PL4. 5. Sắc đồ AFB1 các mẫu M51M55
Hình PL4. 6. Sắc đồ AFB2 mẫu M51 và M52