BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VN VIỆN VẬT LÝ ĐỊA CẦU ------------ Họ và tên tác giả luận án:

TRẦN THỊ LAN

TÊN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

NGHIÊN CỨU NỒNG ĐỘ ĐIỆN TỬ TỔNG CỘNG, ĐẶC TRƯNG GRADIENT TẦNG ĐIỆN LY VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG TỚI QUÁ TRÌNH TRUYỀN TÍN HIỆU VỆ TINH GPS Ở KHU VỰC VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VẬT LÝ

HÀ NỘI - 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VN VIỆN VẬT LÝ ĐỊA CẦU ------------ Họ và tên tác giả luận án:

TRẦN THỊ LAN

TÊN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

NGHIÊN CỨU NỒNG ĐỘ ĐIỆN TỬ TỔNG CỘNG, ĐẶC TRƯNG GRADIENT TẦNG ĐIỆN LY VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG TỚI QUÁ TRÌNH TRUYỀN TÍN HIỆU VỆ TINH GPS Ở KHU VỰC VIỆT NAM

Chuyên ngành: Vật lý địa cầu Mã số: 62 44 01 11 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VẬT LÝ

Phản biện 1: PGS. TS. Đinh Văn Trung

Phản biện 2: PGS. TS. Đỗ Đức Thanh

Phản biện 3: TS. Dương Chí Công

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. TS. Lê Huy Minh, Viện Vật lý Địa cầu Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2. TS. Patrick Lassudrie-Duchesne

Trường Đại học Viễn thông quốc gia Brest, Pháp HÀ NỘI – 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi, được thực hiện

tại Viện Vật lý Địa cầu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, không

sao chép của ai. Tất cả các số liệu nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được

công bố ở bất kỳ công trình nào.

Tác giả của luận án

i

Trần Thị Lan

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Tiến

sĩ Lê Huy Minh, Viện Vật lý Địa cầu, người đã tận tình hướng dẫn từ những ngày

đầu tiên khi tôi bước chân vào làm việc tại Đài Điện ly Phú Thụy. Trong toàn bộ

thời gian làm luận án, Tiến sĩ Lê Huy Minh luôn giúp đỡ và sẵn sàng thảo luận về

các kết quả nghiên cứu đạt được của tôi, kịp thời động viên tôi vượt qua những khó

khăn trong cả quãng thời gian dài đã qua.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Tiến sĩ Patrick Lassudrie-Duchesne và

TSKH Christine Amory-Mazaudier đã giúp đỡ để tôi có điều kiện thực hiện chuyến

công tác làm việc tại Trường Đại học Viễn thông quốc gia Brest, chuẩn bị những

kiến thức cơ bản cho việc thực hiện luận án. Tôi cũng chân thành cám ơn Tiến sĩ

Rolland Fleury, giảng viên Trường đại học viễn thông quốc gia Brest, Pháp, đã tận

tình giúp đỡ việc hoàn thiện chương trình tính toán mật độ điện tử tổng cộng tầng

điện ly từ số liệu GPS.

Tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè đồng nghiệp tại Đài Điện ly và Phòng Địa

từ cũng như các bạn bè đồng nghiệp của Viện Vật lý Địa cầu luôn khuyến khích,

chia sẻ kinh nghiệm và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận án.

Cuối cùng, tôi xin gửi lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè thân thiết đã luôn bên

tôi để động viên, hỗ trợ trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, ngày tháng năm 2015

ii

Trần Thị Lan

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU………………………………………………………….…………... 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU…………… 6

1.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới……………………………….. 6

1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước………………………………... 15

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ TẦNG ĐIỆN LY VÀ HỆ THỐNG

19 ĐỊNH VỊ TOÀN CẦU

2.1 Tầng điện ly của Trái Đất................................................................... 19

2.1.1 Tầng điện ly và các lớp................................................................... 19

2.1.2 Lý thuyết hình thành các lớp điện ly và phân bố điện tử thẳng

đứng .................................................................................................................... 23

2.1.2.1 Sự hình thành các lớp điện ly…………………………… 23

2.1.2.2 Hợp phần ion trong tầng điện ly...……………………… 27

2.1.2.3 Hàm sinh ion của Chapman............................................... 29

2.1.3 Truyền sóng radio qua tầng điện ly……………………………… 31

2.1.4 Hoạt tính Mặt Trời……………………………………………..... 33

2.1.5 Tầng điện ly vùng xích đạo và nhiễu loạn điện ly……….............. 36

2.1.5.1 Tầng điện ly vùng xích đạo ……………………………. 36

2.1.5.2 Lớp E rời rạc (Sporadic E)……………………............... 38

2.1.5.3 Vết lớp F trải rộng (Spread-F)………………………….. 38

2.1.5.4 Các nhiễu loạn điện ly………………………………….. 39

2.2 Hệ thống định vị toàn cầu và cơ sở phân tích số liệu GPS 42

2.2.1 Giới thiệu hệ thống định vị toàn cầu............................................... 42

2.2.1.1 Bộ phận không gian…………………………………...... 43

2.2.1.2 Bộ phận điều khiển……………………………………… 45

2.2.1.3 Bộ phận sử dụng………………………………………… 45

2.2.2 Tín hiệu GPS……………………………………………………... 46

2.2.3 Khả năng quan sát của GPS……………………………………… 48

iii

2.2.3.1 Giả khoảng cách (code)…………………………………. 48

2.2.3.2 Quan sát pha mang (Carrier phase)……………………... 49

2.2.3.3 Quan sát Doppler ………………………………………. 50

2.2.4 Các nguồn lỗi của tín hiệu GPS………………………………….. 50

2.2.5 Ảnh hưởng của tầng điện ly lên tín hiệu GPS……………………. 53

2.2.5.1 Sự trễ nhóm – sai số khoảng cách tuyệt đối…………….. 54

2.2.5.2 Sự sớm pha – sai số khoảng cách tương đối…………..... 55

2.2.5.3 Sự trôi dạt Dopler-sai số khoảng cách do dịch chuyển 57

điện ly…………………………………………………………………..

2.2.5.4 Nhấp nháy tín hiệu……………………………………… 57

CHƯƠNG 3. NỒNG ĐỘ ĐIỆN TỬ TỔNG CỘNG TẦNG ĐIỆN LY VÀ

61 QUY LUẬT BIẾN ĐỔI THEO THỜI GIAN Ở KHU VỰC VIỆT NAM

3.1 Số liệu và phương pháp nghiên cứu................................................... 61

3.1.1. Số liệu ................................................................................. 61

3.1.2. Phương pháp nghiên cứu.................................................... 65

3.1.2.1 Rút ra thông tin nồng độ điện tử tổng cộng từ máy thu

GPS hai tần số …………………………………………………………. 65

3.1.2.2 Mô hình lớp đơn và hàm vẽ…………………………….. 67

3.1.2.3 Mô hình TEC toàn cầu GIMs............................................ 69

3.1.2.4 Xác định độ trễ phần cứng máy thu và vệ tinh................. 71

3.1.2.5 Chương trình tính toán nồng độ điện tử tổng cộng từ số

liệu GPS………………………………………………………………... 75

3.2. Biến thiên theo thời gian ngày đêm của TEC khu vực Việt Nam..... 79

3.3. Biến thiên theo mùa và sự phụ thuộc vào mức độ hoạt động mặt

trời …………………………………………………………………………….. 86

3.4 Đặc trưng phân bố theo vĩ độ……………………………………… 91

CHƯƠNG 4. ĐẶC TRƯNG XUẤT HIỆN NHẤP NHÁY ĐIỆN LY KHU

VỰC VIỆT NAM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ LÊN QUÁ TRÌNH

TRUYỀN TÍN HIỆU VỆ TINH GPS ……………………………………… 103

4.1 Thiết bị và phương pháp nghiên cứu…............................................. 103

iv

4.1.1 Thiết bị………………………………………………......... 103

4.1.2 Phương pháp nghiên cứu…….............................................. 103

4.2 Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy theo thời gian trong ngày………..... 106

4.3 Đặc trưng xuất hiện theo mùa và mức độ hoạt động mặt trời............ 108

4.4 Đặc trưng xuất hiện theo không gian………………......................... 117

4.5 Sử dụng dao động pha GPS nghiên cứu sự xuất hiện nhiễu loạn

điện ly khu vực Việt Nam……………………………………………………... 121

4.6 Ảnh hưởng của nhấp nháy điện ly lên quá trình truyền tín hiệu vệ

tinh GPS ………………………………………………………………………. 128

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................... 137

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ....................................... 140

v

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 141

Danh sách hình vẽ

Hình 1.1, Bản đồ TEC toàn cầu 7

Hình 1.2, Biến thiên theo mùa và theo thời gian của giá trị TEC trung bình 9

tháng tại một số trạm ở Ấn Độ

Hình 1.3, Bản đồ phân bố nhấp nháy điện ly toàn cầu tại 23hLT theo mô hình 11

dự báo WBMOD

Hình 1.4, Thống kê nhấp nháy theo thời gian, vĩ độ và theo mùa tại Ấn Độ 13

Hình 1.5, Vị trí các máy thu đặt trong vùng xích đạo của dự án PRIS 15

Hình 1.6, Vị trí ba máy thu GPS tại Việt Nam và vết vệ tinh quan sát tại độ 17

cao 400 km trên tầng điện ly

Hình 2.1, Sơ đồ tầng khí quyển và các lớp điện ly của Trái Đất 20

Hình 2.2, Hợp phần khí quyển và tầng điện ly trong thời gian ngày dựa trên 27

phép đo phổ kế khối lượng và vệ tinh

Hình 2.3, Phân bố tuyến mật độ thẳng đứng của lớp Chapman và tốc độ sinh 31

ion Chapman theo góc thiên đỉnh Mặt Trời từ 0o đến 85o với bước thay

đổi 5o

Hình 2.4, Mô hình truyền sóng qua tầng điện ly 32

Hình 2.5, Số vết đen mặt trời trung bình tháng từ năm 1965 đến 2014 34

Hình 2.6, Tọa độ và vị trí trạm quan sát Dst 35

Hình 2.7, Biến thiên của chỉ số Dst từ ngày 12/04 đến ngày 17/04/2006 36

Hình 2.8, Hiệu ứng vòi phun xích đạo 37

Hình 2.9, Mô hình Dynamo nhiễu loạn điện ly 40

Hình 2.10, Các bộ phận trong hệ thống GPS 42

Hình 2.11, Vệ tinh GPS và quỹ đạo bay trong 6 mặt phẳng nghiêng 55o 43

Hình 2.12, Vết các vệ tinh GPS trên mặt đất 44

Hình 2.13, Các trung tâm điều khiển GPS 45

Hình 2.14, Tín hiệu GPS 47

Hình 2.15, Thời gian truyền tín hiệu giữa vệ tinh và máy thu GPS 48

Hình 2.16, Phép đo pha trong nghiên cứu GPS 48

vi

Hình 2.17, Hiệu ứng đa đường truyền trong quan sát GPS 52

Hình 2.18, Nhấp nháy của tín hiệu vệ tinh khi truyền qua môi trường điện ly 58

nhiễu loạn về mật độ điện tử

Hình 2.19, Sự suy giảm tín hiệu trên dải tần L trong giai đoạn Mặt Trời hoạt 60

động mạnh (trái) và yếu (phải)

Hình 3.1, Hình ảnh bộ máy thu GSV4004 ở Việt Nam 62

Hình 3.2, Mô hình lớp đơn tầng điện ly 68

Hình 3.3, Ví dụ về bản đồ điện ly toàn cầu và vị trí các trạm thu GPS hiện 69

nay

Hình 3.4, Giá trị TEC tính từ mô hình toàn cầu tại Hà Nội, Huế và Tp Hồ 70

Chí Minh vào tháng 01/2010

Hình 3.5, Độ trễ thiết bị (vệ tinh+máy thu) trong tháng 10/2010 tại Hà Nội, 72

Huế và TP. Hồ Chí Minh

Hình 3.6, Giá trị TEC đã hiệu chỉnh độ trễ thiết bị của tất cả các vệ tinh nhìn 74

thấy, giá trị TEC trung bình cho từng thời điểm quan sát và TEC từ mô

hình toàn cầu trong ngày 02/01/2010 tại Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí

Minh.

Hình 3.7, Sơ đồ khối chương trình tính toán TEC 77

Hình 3.8, Biến thiên TECV hàng ngày trong tháng 10/2010 tại Hà Nội 78

Hình 3.9, Biến thiên ngày đêm trung bình tháng của TEC trong năm 2006 tại 80

các trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh

Hình 3.10, Biến thiên ngày đêm trung bình tháng của TEC trong năm 2007 81

tại các trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh

Hình 3.11, Biến thiên ngày đêm trung bình tháng của TEC trong năm 2008 82

tại các trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh

Hình 3.12, Biến thiên ngày đêm trung bình tháng của TEC trong năm 2009 83

tại các trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh

Hình 3.13, Biến thiên ngày đêm trung bình tháng của TEC trong năm 2010 84

tại các trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh

86 Hình 3.14 a) Biến thiên tần số f0F2 tại Phú Thụy; b) Biến thiên tần số f0F2 tại

vii

Thành phố Hồ Chí Minh

Hình 3.15, Biến thiên theo mùa trong năm 2009 và 2010 tại Hà Nội 87

Hình 3.16, Biến thiên theo mùa trong năm 2009 và 2010 tại Huế 87

Hình 3.17, Biến thiên theo mùa trong năm 2009 và 2010 tại TP. Hồ Chí 88

Minh

Hình 3.18, Sự biến đổi theo thời gian của mật độ các hợp phần khí lúc 12h00 89

LT tại độ cao 200km, trong năm 1989 theo mô hình điện ly MSIS-86

Hình 3.19, Biến thiên biên độ cực đại TEC tại a) Hà Nội, b) Huế, c) TP. Hồ 90

Chí Minh và d) Số vết đen mặt trời giai đoạn từ 2006 đến 2010

Hình 3.20, Vết của các vệ tinh với a) theo kinh độ và vĩ độ và b) theo vĩ độ 92

và thời gian trên độ cao 400 km của tầng điện ly nhìn thấy bởi các máy

thu tại Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh ngày 29/05/2008

Hình 3.21, Bản đồ theo thời gian của TEC trung bình tháng trong năm 2006 93

khu vực Việt Nam. Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 2 TECu.

Hình 3.22, Bản đồ theo thời gian của TEC trung bình tháng trong năm 2007 94

khu vực Việt Nam. Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 2 TECu.

Hình 3.23, Bản đồ theo thời gian của TEC trung bình tháng trong năm 2008 95

khu vực Việt Nam. Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 2 TECu.

Hình 3.24, Bản đồ theo thời gian của TEC trung bình tháng trong năm 2009 96

khu vực Việt Nam. Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 2 TECu.

Hình 3.25, Bản đồ theo thời gian của TEC trung bình tháng trong năm 2010 97

khu vực Việt Nam. Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 2 TECu.

Hình 3.26, Số vết đen Mặt trời trung bình tháng; b) Biên độ đỉnh dị thường 99

TEC ngày đêm trung bình tháng ; c) vĩ độ đỉnh dị thường và d) thời gian

đạt cực đại, số liệu giai đoạn 2006-2010

Hình 3.27, Mô hình tổ hợp lý thuyết gió trung hòa chuyển qua xích đạo, vị trí 100

điểm gần Mặt Trời và gió thổi từ vùng cực về phía xích đạo vào thời kỳ

điểm chí với a) Hạ chí nằm ở bán cầu Bắc và b) Hạ chí nằm ở bán cầu

Nam

Hình 4.1, Giới hạn lọc biên độ nhấp nháy tương ứng với hai trường hợp tại 106

viii

trạm Huế: a) Môi trường không có nhấp nháy và b) Môi trường có nhấp

nháy.

Hình 4.2, Đặc trưng xuất hiện theo thời gian trong ngày của nhấp nháy trong 107

giai đoạn 2006 – 2010 trên cả ba trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh.

Hình 4.3, Thống kê sự xuất hiện nhấp nháy theo từng tháng trong năm và 109

theo độ lớn tại Hà Nội (trái), Huế (giữa) và Tp Hồ Chí Minh (phải) trong

giai đoạn 2006-2010

Hình 4.4, Số vết đen mặt trời và sự xuất hiện nhấp nháy theo hai mức độ lớn 110

tại Hà Nội, Huế và TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2006-2011

Hình 4.5, Biến thiên của thành phần nằm ngang H của trường địa từ tại Phú 111

Thụy, chỉ số Dst và kết quả thống kê sự xuất hiện nhấp nháy khu vực Việt

Nam trong trận bão từ ngày 11/10/2010, các mũi tên chỉ thời điểm bắt

đầu của pha đầu, pha chính và pha hồi phục của bão

Hình 4.6, Biến đổi của TEC theo vĩ độ và theo thời gian từ ngày 10 đến 112

14/10/2010. Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 5 TECu.

Hình 4.7, Biến thiên của thành phần nằm ngang H của trường địa từ tại Phú 113

Thụy, chỉ số Dst và kết quả thống kê sự xuất hiện nhấp nháy khu vực Việt

Nam trong trận bão từ ngày 24-25/10/2011, các mũi tên chỉ thời điểm bắt

đầu của pha đầu, pha chính và pha hồi phục của bão

Hình 4.8, Biến đổi của TEC theo vĩ độ và theo thời gian từ ngày 23 đến 114

27/10/2011. Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 5 TECu.

Hình 4.9,Sự thâm nhập của điện trường có nguồn gốc từ quyển xuống tầng 115

điện ly

Hình 4.10, Phân bố thống kê nhấp nháy xuất hiện theo không gian khu vực 117

Việt Nam và lân cận năm 2006

Hình 4.11, Phân bố thống kê nhấp nháy xuất hiện theo không gian khu vực 118

Việt Nam và lân cận năm 2007

Hình 4.12, Phân bố thống kê nhấp nháy xuất hiện theo không gian khu vực 118

Việt Nam và lân cận năm 2008

Hình 4.13, Phân bố thống kê nhấp nháy xuất hiện theo không gian khu vực 119

ix

Việt Nam và lân cận năm 2009

Hình 4.14, Phân bố thống kê nhấp nháy xuất hiện theo không gian khu vực 119

Việt Nam và lân cận năm 2010

Hình 4.15, Phân bố thống kê nhấp nháy xuất hiện theo không gian khu vực 120

Việt Nam và lân cận năm 2011

Hình 4.16, Thống kê xuất hiện nhấp nháy theo vĩ độ từ 2006-2011 trên cả ba 121

trạm quan sát

Hình 4.17, Phân bố nhiễu loạn điện ly toàn cầu sử dụng chỉ số ROTI từ các 123

dao động pha GPS trong trận bão từ 10/1/1997

Hình 4.18, Bản đồ dao động pha ROTI ( - ROTI < 1; - ROTI ≥1) chỉ 125

ra sự xuất hiện nhiễu loạn điện ly khu vực Việt Nam trong 5 ngày 10, 11,

12, 13 và 14/10/2010

126 Hình 4.19, Bản đồ dao động pha ROTI ( - ROTI < 1; - ROTI ≥1) chỉ

ra sự xuất hiện nhiễu loạn điện ly khu vực Việt Nam trong 5 ngày 23, 24,

25, 26 và 27/10/2011

128 Hình 4.20, Mô hình về ảnh hưởng của nhấp nháy điện ly lên tín hiệu vệ tinh

GPS

129 Hình 4.21, Nhấp nháy gây mất tín hiệu trên tần số f2 của vệ tinh thứ 23 trong

ngày 5/4/2011 tại Hà Nội

130 Hình 4.22, Thống kê nhấp nháy theo hai mức độ lớn trong tháng 10/2011 tại

Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh

132 Hình 4.23, DOP và chùm vệ tinh nhìn thấy

134 Hình 4.24, Số vệ tinh nhìn thấy và giá trị GDOP tại a) Hà Nội, b) Huế và c)

TP. Hồ Chí Minh

135 Hình 4.25, Biên độ nhấp nháy trung bình và sai số khoảng cách tương ứng

x

(d=0,1) tại a) Hà Nội, b) Huế và c) Tp Hồ Chí Minh ngày 24/10/2011

Danh sách bảng biểu

Bảng 2.1 Các quá trình tạo và mất ion 26

Bảng 2.2 Tổng số vệ tinh GPS và tình trạng hoạt động 44

Bảng 2.3 Mô hình sai số chuẩn cho mã C/A 51

Bảng 2.4 Mối quan hệ giữa các tham số đo GPS và TEC tầng điện ly 56

Bảng 3.1: Vị trí các trạm thu GPS ở Việt Nam 61

Bảng 3.2: Các thông số thu nhận trực tiếp từ máy thu GSV4004 62

131 Bảng 4.1, Khả năng mất tín hiệu trên tần số f2

xi

Bảng 4.2, Đánh giá trị số GDOP trung bình 133

Danh sách ký tự viết tắt

1. AS: Anti-Spoofing, Chống nhái.

2. C/A code: Coarse/acquisition code, mã thu nhận/thô.

3. CAWSES: Climate and Weather Sun-Earth System, Khí hậu và Thời tiết Hệ

thống Mặt Trời-Trái Đất.

4. CODE: Center for Orbit Determination in Europe, Switzerland, Trung tâm

Xác định Quỹ đạo Châu Âu, Thụy Sỹ.

5. DCBs: Differential Code Biases, Độ lệch mã vi phân.

6. DOP: Dilution Of Precision, Giảm độ chính xác.

7. Dst: Disturbance – storm time, Chỉ số nhiễu loạn thời gian bão từ.

8. EMR: Energy, Mines and Resources, Canada, Năng lượng, Tài nguyên và

Khoáng sản, Canada.

9. ESA: European Space Agency, Germany, Cơ quan Không gian Vũ trụ Châu

Âu, Đức.

10. ESF: Equatorial Spread F, Vết lớp F trải rộng xích đạo.

11. GPS: Global Positioning System, Hệ thống định vị toàn cầu.

12. GEONET: GPS Earth Observation Network, Mạng lưới quan sát Trái Đất

bằng GPS.

13. GDOP: Geometric Dilution of Precision, Giảm độ chính xác hình học.

14. GIM: Global Ionospheric Mapping, Bản đồ điện ly toàn cầu.

15. GISM : Global Ionospheric Scintillation Model, Mô hình nhấp nháy điện ly

toàn cầu.

16. GISTM: GPS Ionospheric Scintillation & TEC Monitor, Theo dõi TEC và

nhấp nháy điện ly bằng GPS.

17. GLONASS: GLObal Navigation Satellite System, Hệ thống vệ tinh dẫn

đường toàn cầu của Nga.

18. GNSS: Global Navigation Setellite System, Hệ thống vệ tinh dẫn đường

toàn cầu.

19. IEEA: Informatique, Electromagnétisme, Electronique, Analyse numérique:

xii

Tin, điện từ, điện tử, phân tích số.

20. IGS: International GPS Service, Dịch vụ GPS quốc tế.

21. IRI: International Reference Ionosphere, Mô hình điện ly chuẩn quốc tế.

22. ISM: Ionospheric Scintillation Monitor, Theo dõi nhấp nháy điện ly.

23. JPL: Jet Propulsion Laboratory, USA, Phòng thí nghiệm Phản lực, Hoa Kỳ.

24. LSTIDs: Large-scale Traveling Ionospheric Disturbances, Các nhiễu loạn

điện ly dịch chuyển quy mô lớn.

25. LT: Local Time, Giờ địa phương.

26. MSTIDs: Medium-scale Traveling Ionospheric Disturbances, Các nhiễu

loạn điện ly dịch chuyển quy mô trung bình.

27. NASA: National Aeronautics and Space Administration, Cơ quan Hàng

không và Không gian quốc gia, Hoa Kỳ.

28. PCA: Polar Cap Absorption, Hấp thụ mũ cực.

29. PPS: Presice Positioning Service, Dịch vụ định vị chính xác.

30. PRIS : Prediction Ionospheric Scintillation, Nhấp nháy điện ly dự báo.

31. PRE: Preversal Electric Field Enhancecement, Sự gia tăng trường điện trước

khi đảo chiều.

32. PRN: Pseudo-Random Noise, Nhiễu giả-ngẫu nhiên.

33. ROT: Rate Of TEC, Tốc độ thay đổi TEC.

34. ROTI: Rate Of TEC Index, Chỉ số của tốc độ thay đổi TEC.

35. RT: Rayleigh-Taylor.

36. SSTIDs: Small-scale Traveling Ionospheric Disturbances, Các nhiễu loạn

điện ly dịch chuyển quy mô nhỏ.

37. SID: Sudden Ionospheric Disturbance, Nhiễu loạn điện ly bất ngờ.

38. TEC: Total Electron Content, Nồng độ điện tử tổng cộng.

39. TECV: Total Electron Content Vertical, Nồng độ điện tử tổng cộng thẳng

đứng.

40. TECu: Total Electron Content Unit, Đơn vị nồng độ điện tử tổng cộng.

41. TID: Traveling Ionospheric Disturbances, Các nhiễu loạn điện ly dịch

chuyển.

xiii

42. UERE: User Equivalent Range Error, Sai số khoảng cách tương đương

người sử dụng.

43. UPC: Polytechnical University of Catalonia, Spain, Trường đại học Bách

khoa Catalonia, Tây Ban Nha.

44. UT: Universal Time, Giờ quốc tế.

xiv

45. WBMOD : WideBand MODel, Mô hình dải rộng.

Mở đầu

MỞ ĐẦU

Hệ thống định vị toàn cầu GPS (Global Positioning System) là một hệ thống

dẫn đường bằng vệ tinh trong không gian ở mọi thời tiết, mọi nơi trên Trái Đất,

được chính phủ Mỹ xây dựng và phát triển từ cuối những năm 1970 phục vụ cho

các mục đích dân sự và quân sự trong việc xác định chính xác vị trí, vận tốc và thời

gian ở khắp mọi nơi ở trên và gần mặt đất. Hệ thống gồm 24 vệ tinh (hoặc hơn),

phân bố trên 6 mặt phẳng quỹ đạo và bay xung quanh Trái đất ở độ cao khoảng

20200 km. Mỗi vệ tinh GPS truyền thông tin định vị trên hai tần số f1 (1,57542

GHz) và f2 (1,22760 GHz), một số vệ tinh GPS phóng từ 2010 được bổ xung thêm

tần số phát f5 (1,17645 GHz). Về nguyên tắc, GPS là một hệ thống đo khoảng cách

một chiều, tín hiệu được phát ra bởi một vệ tinh và thu được bởi một máy thu phù

hợp. Tín hiệu điện từ phát ra từ các vệ tinh GPS tới các máy thu trên mặt đất chịu

ảnh hưởng tán xạ của tầng điện ly và tầng khí quyển, vì thế mức độ chính xác của

phép định vị GPS phụ thuộc nhiều yếu tố: độ trễ gây bởi tầng điện ly, độ trễ gây bởi

tầng khí quyển, độ trễ đồng hồ của vệ tinh và máy thu, và nhiễu thu nhận tín hiệu...

Trong số các yếu tố này, ảnh hưởng gây bởi tầng điện ly là đáng kể nhất.

Tầng điện ly bao phủ vùng trong khoảng độ cao từ 50km tới 1500km phía

trên bề mặt Trái Đất và được đặc trưng bởi sự xuất hiện của một lượng đáng kể các

ion và electron tự do đủ để phản xạ hoặc ảnh hưởng tới các sóng điện từ truyền qua

nó. Đối với các sóng radio, tầng điện ly là môi trường tán xạ, chỉ số khúc xạ là một

hàm của tần số sóng, và hai tần số GPS sử dụng cũng bị tác động trực tiếp bởi tầng

điện ly khi truyền từ vệ tinh tới máy thu trên mặt đất. Nó gây ra sự sớm pha và sự

trễ nhóm khi tín hiệu GPS truyền qua, và mức độ ảnh hưởng tỷ lệ thuận với giá trị

nồng độ điện tử tổng cộng (Total Electron Content - TEC) trên đường truyền tín

hiệu tại thời điểm đó [46, 70, 79]. Bằng phép phân tích độ trễ giữa hai tín hiệu quan

sát sẽ cho phép rút ra thông tin về mật độ điện tử trong tầng điện ly từ số liệu máy

thu GPS hai tần số [79]. Tầng điện ly là môi trường plasma bất đồng nhất và bất

đẳng hướng, ở đó các vùng nhiễu loạn về mật độ điện tử xuất hiện ngẫu nhiên và

liên quan đến các quá trình động học diễn ra phức tạp trong tầng điện ly. Khi tín

1

hiệu GPS truyền qua một vùng nhiễu loạn về mật độ điện tử sẽ bị dao động nhanh

Mở đầu

về biên độ và pha của tín hiệu, hiện tượng này được gọi là nhấp nháy điện ly. Các

nhấp nháy làm giảm sự chính xác của phép đo khoảng cách và pha của các máy thu

GPS. Biên độ nhấp nháy mạnh đôi khi có thể gây ra sự sụt giảm công suất của tín

hiệu xuống dưới ngưỡng máy thu và do đó gây ra sự mất tín hiệu trong thời gian

quan sát. Pha nhấp nháy mạnh có thể gây ra sự trôi dạt Doppler trong tần số của tín

hiệu thu nhận và đôi khi có thể gây ra sự mất pha tín hiệu của máy thu [13, 28,

51].... và do đó sẽ ảnh hưởng tới độ chính xác trong phép đo định vị bằng GPS [34,

73, 80]. Như vậy ảnh hưởng của tầng điện ly là nguồn sai số trong phép đo đạc GPS

với mục đích định vị, nhưng lại là một nguồn số liệu quý giá cho phép nghiên cứu

tầng điện ly, và việc sử dụng tín hiệu thu được tại các máy thu GPS liên tục trên mặt

đất ở khu vực Việt Nam cho việc nghiên cứu điện ly là chủ đề của luận án này.

Xuất xứ đề tài luận án

Lãnh thổ Việt Nam nằm ở vùng vĩ độ thấp khu vực Đông Nam Á, trải dài từ vĩ độ

địa lý 8o37’30”N (chót mũi Cà Mau) tới vĩ độ địa lý 23o21’30”N (đỉnh Lũng Cú),

tương ứng trong khoảng vĩ độ từ (niên đại 2010,0) từ 0,84oN tới 16,89oN. Như vậy

xích đạo từ nằm cách chót mũi Cà Mau chưa đầy 100 km về phía Nam, và do ở vị

trí như vậy nên tầng điện ly ở khu vực Việt Nam có nhiều đặc trưng biến đổi phức

tạp hơn so với vùng vĩ độ khác liên quan tới hiệu ứng vòi phun xích đạo, hiện tượng

nhấp nháy điện ly... Trước năm 2005 mạng lưới trạm thu GPS liên tục trong vùng

còn chưa được lắp đặt và vấn đề nhấp nháy điện ly còn chưa được nghiên cứu. Từ

tháng 4/2005, trong trong khuôn khổ hợp tác giữa Viện Vật lý địa cầu (Viện Hàn

lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), Trường Đại học Tổng hợp Rennes 1 và

Trường Viễn thông Quốc gia Brest (Pháp), 3 trạm thu GPS đã được đặt tại Việt

Nam để theo dõi sự thay đổi theo thời gian của nồng độ điện tử tổng cộng và nhấp

nháy điện ly trong vùng xích đạo. Việc đặt ba trạm thu tín hiệu vệ tinh GPS liên tục

ở Hà Nội (21002’50’’N, 105047’59’’E), Huế (16027’33’’N, 107035’33’’E), và TP

Hồ Chí Minh (10050’54’’N, 106033’35’’E) đã mở ra một hướng nghiên cứu điện ly

mới ở Việt Nam so với trước đây chỉ sử dụng số liệu thăm dò thẳng đứng tầng điện

ly tại Phú Thụy và Tp. Hồ Chí Minh. Với nguồn số liệu liên tục từ ba trạm thu GPS

2

trải đều ở ba miền Bắc-Trung-Nam là một thuận lợi trong nghiên cứu tầng điện ly

Mở đầu

cho khu vực Việt Nam. Trong bối cảnh trên đề tài “Nghiên cứu nồng độ điện tử

tổng cộng, đặc trưng gradient tầng điện ly và ảnh hưởng của chúng tới quá trình

truyền tín hiệu vệ tinh GPS ở khu vực Việt Nam” được xây dựng dưới sự hướng

dẫn của TS. Lê Huy Minh (Việt Nam) và TS. Patrick Lassudrie-Duchesne (Pháp)

Mục đích và nhiệm vụ của luận án

Luận án nghiên cứu các đặc trưng biến thiên nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly,

nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam sử dụng chuỗi số liệu từ năm 2006 đến 2011

thu được từ ba máy thu GPS liên tục đặt tại Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí

Minh. Với mục đích trên, luận án giải quyết những vấn đề sau:

1. Tìm hiểu phương pháp và thuật toán rút ra thông tin về tầng điện ly từ số

liệu vệ tinh GPS.

2. Nghiên cứu các đặc trưng biến đổi theo thời gian của TEC khu vực Việt

Nam như: biến thiên ngày đêm, biến thiên theo mùa và theo hoạt động mặt trời

trong giai đoạn nghiên cứu.

3. Thống kê sự xuất hiện nhấp nháy điện ly (gradient TEC) chỉ ra các các quy

luật xuất hiện theo thời gian, phân bố theo không gian, mối tương quan với mức

độ hoạt động của mặt trời và ảnh hưởng của chúng lên tín hiệu vệ tinh GPS.

Kết quả khoa học và ý nghĩa thực tiễn

1. Đây là công trình nghiên cứu lần đầu tiên ở Việt Nam về biến thiên nồng

độ điện tử tổng cộng và nhấp nháy điện ly sử dụng số liệu vệ tinh GPS.

2. Đã góp phần khẳng định về các đặc trưng biến thiên của TEC và sự xuất

hiện nhấp nháy điện ly ở khu vực Việt Nam.

3, Tạo dựng cơ sở dữ liệu quan trọng ban đầu phục vụ cho mục tiêu nghiên

cứu dự báo điện ly, nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam trong tương lai.

Các luận điểm bảo vệ

Luận điểm 1: Áp dụng phương pháp mới để xác định độ trễ thiết bị trong

phép tính nồng độ điện tử tổng cộng từ số liệu GPS. Sử dụng phương pháp tính

nồng độ điện tử đã hoàn thiện cho số liệu GPS liên tục ở Việt Nam, chỉ ra các đặc

trưng biến thiên của nồng độ điện tử tổng cộng theo thời gian, theo mùa và theo sự

3

hoạt động của Mặt Trời trong giai đoạn nghiên cứu.

Mở đầu

Luận điểm 2: Chỉ ra đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly cho khu vực Việt

Nam: quy luật xuất hiện theo thời gian ngày đêm, quy luật xuất hiện theo mùa và sự

phụ thuộc theo hoạt tính mặt trời.

Những đóng góp mới của luận án

1. Áp dụng phương pháp mới xác định độ trễ thiết bị trong phép tính nồng độ điện

tử tổng cộng từ số liệu GPS hai tần số, hoàn thiện chương trình tính nồng độ điện tử

tổng cộng tầng điện ly sử dụng phép đo giả khoảng cách.

2. Chỉ ra các đặc trưng biến thiên của nồng độ điện tử tổng cộng theo thời gian, theo

mùa và theo sự hoạt động của mặt trời. Xây dựng các bản đồ phân bố TEC theo thời

gian và vĩ độ cho khu vực Việt Nam giai đoạn 2006-2010.

3. Lần đầu tiên công bố các kết quả thống kê và chỉ ra đặc trưng xuất hiện nhấp

nháy điện ly cho khu vực Việt Nam.

Cấu trúc luận án

Luận án ngoài phần mở đầu và kết luận được chia thành 4 chương:

Chương 1 giới thiệu tổng quan về tình hình nghiên cứu trên thế giới và ở

Việt Nam trong lĩnh vực của đề tài luận án.

Chương 2 giới thiệu cở sở lý thuyết về hai vấn đề: thứ nhất là tổng quan về

tầng điện ly một cách ngắn gọn, các lớp điện ly, lý thuyết hình thành và vai trò của

tầng điện ly trong quá trình truyền sóng, đặc trưng của tầng điện ly vùng xích đạo;

thứ hai là tổng quan về hệ thống định vị toàn cầu, các tín hiệu GPS và các thông số

quan sát được từ hệ thống này, các nguồn gây nhiễu, và ảnh hưởng của tầng điện ly

lên tín hiệu vệ tinh GPS.

Chương 3 giới thiệu về kết quả nghiên cứu nghiên cứu nồng độ điện tử tổng

cộng ở Việt Nam bao gồm hai phần: Phần thứ nhất giới thiệu phương pháp tính giá

trị nồng độ điện tử tổng cộng từ số liệu GPS. Phần thứ hai là ứng dụng phương pháp

để tính và nghiên cứu cho tầng điện ly khu vực Việt Nam từ số liệu của ba trạm thu

GPS. Đưa ra các quy luật biến đổi TEC theo thời gian, theo mùa và theo hoạt động

của Mặt Trời trong vùng này. Bản đồ phân bố TEC cho khu vực Việt Nam theo vĩ

4

độ và thời gian cũng được xây dựng và công bố.

Mở đầu

Chương 4 giới thiệu phương pháp xử lý số liệu nhấp nháy, các kết quả thống

kê và chỉ ra đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam. Một số kết

quả bước đầu khi sử dụng dao động pha tín hiệu GPS chỉ ra hoạt động nhiễu loạn

điện ly trong khu vực và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS.

Trong phần kết luận sẽ tổng hợp lại các kết quả đạt được trong luận án, đưa

ra các kiến nghị và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo.

Kết quả của luận án được công bố ở:

1) Hội nghị khoa học quốc tế về SEALION, Bangkok-Thailand, 2011.

2) Hội nghị khoa học quốc tế về Vật lý Địa cầu - Hợp tác và phát

triển bền vững, 14-17/11/2012, Hà Nội.

3) Hội nghị khoa học quốc tế GINESTRA về thăm dò và nghiên cứu

tầng điện ly vùng Châu Á - Thái Bình Dương, 24/1/2013, Hà Nội.

4) Hội nghị khoa học hàng năm của Viện Vật lý Địa cầu và đã đăng

05 bài báo trên Tạp chí Các Khoa học về Trái đất và quốc tế được

5

liệt kê trong danh mục công trình công bố của tác giả.

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Từ những năm 1960 hệ thống dẫn đường vệ tinh toàn cầu đầu tiên của Mỹ

được xây dựng và phát triển (chương trình TRANSIT), những nghiên cứu sử dụng

hệ thống định vị vệ tinh với nhiều mục đích khác nhau được bắt đầu. Năm 1996

chương trình TRANSIT kết thúc, và hệ thống này được thay thế bởi hệ thống định

vị vệ tinh chính xác hơn được gọi là hệ thống định vị toàn cầu đo thời gian và

khoảng cách bằng vệ tinh dẫn đường (Navigation Satellite Timing and Ranging

Global Positioning System – NAVSTAR GPS, hoặc ngắn gọn hơn là hệ thống định

vị toàn cầu (Global Positioning System – GPS), các nghiên cứu về ảnh hưởng của

tầng điện ly tới sự truyền tín hiệu phát ra từ các vệ tinh GPS tới các máy thu đặt trên

bề mặt Trái Đất bắt đầu phát triển và sau đó các ứng dụng khoa học từ công nghệ

GPS ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nhiều nhóm nghiên cứu xây dựng và phát triển

các thuật toán, phần mềm xử lý số liệu GPS từ mạng lưới dịch vụ hệ thống vệ tinh

dẫn đường toàn cầu (Global Navigation Setellite System - GNSS) để thu được các

bản đồ nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly ở phạm vi toàn cầu. Rất nhiều nhà

khoa học đã nỗ lực đưa ra các phương pháp đánh giá TEC tầng điện ly: Wilson et

al. [92] sử dụng số liệu từ mạng lưới máy thu GPS trên toàn cầu để mô hình hóa

TEC thẳng đứng bằng hàm điều hòa cầu; Sardon et al. [78] sử dụng phương pháp

lọc Kalman để nhận được đáng giá chính xác về độ trễ thiết bị và TEC; Liu et al.

[58] cung cấp một phương pháp rút ra giá trị TEC từ tổ hợp phép đo hiệu giả

khoảng cách và pha của máy thu GPS hai tần số, cho kết quả TEC có độ chính xác

cao...

Cộng đồng khoa học quốc tế đã cố gắng đưa ra các tiêu chuẩn quốc tế về thu

thập và xử lý số liệu GPS, và đến tháng 1/1994, dịch vụ GPS quốc tế (IGS) đã được

thành lập và chính thức đi vào hoạt động. Trong đó một nhóm gồm 5 trung tâm

phân tích về tầng điện ly của IGS (CODE, ESA, JPL, EMR và UPC) được thành lập

và bắt đầu hoạt động từ tháng 5/1998, chủ yếu cung cấp các bản đồ điện ly toàn cầu

hàng ngày với khoảng cách thời gian 2 giờ (Global Ionospheric Mapping - GIM) và

6

các thông tin về độ trễ phần cứng máy thu và vệ tinh (Differential Code Biases -

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

DCBs) dựa trên số liệu các trạm thu GPS hai tần số trên toàn cầu [79]. Các bản đồ

phân bố TEC, độ trễ gây bởi phần cứng của vệ tinh (Satellite bias) và máy thu

(Receiver bias) được thông báo hàng ngày trong mô hình TEC toàn cầu và có thể tải

xuống từ website: http://www.aiub.unibe.ch/.

Komjathy et al. [52] đã giới thiệu công nghệ của Phòng thí nghiệm Phản lực

(Jet Propulsion Laboratory – JPL) tự động xử lý số liệu cho hơn 1000 trạm thu GPS

nghiên cứu hiệu ứng bão điện ly, dựa vào mô hình điện ly toàn cầu GIM để đánh

giá độ trễ máy thu. Tiếp theo đó Rideout et al. [75] giới thiệu một phần mềm tự

động xử lý số liệu GPS MIT để cho ra bản đồ TEC toàn cầu (MAPGPS). Hiện nay

các bản đồ điện ly ở phạm vi toàn cầu cung cấp thời gian thực chính xác hóa độ trễ

điện ly cho hệ thống định vị dẫn đường của Cơ quan Hàng không và Không gian

quốc gia, Hoa Kỳ (National Aeronautics and Space Administration - NASA) được

cung cấp hàng ngày trên website với khoảng cách thời gian là 5 phút.

Technology).

Hình 1.1, Bản đồ TEC toàn cầu (NASA JPL Home California Institute of

Từ những kết quả đó đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu về nồng độ điện

tử tổng cộng tầng điện ly ở những phạm vi khác nhau sử dụng các máy thu GPS

toàn cầu hay khu vực được các nhà khoa học trên thế giới công bố như: các bản đồ

TEC ở phạm vi toàn cầu [62, 79]. Ở phạm vi quốc gia, Otsuka et al. [68] và Ma and

Maruyama [61] giới thiệu một phương pháp mới xây dựng bản đồ TEC hai chiều

7

khi sử dụng mạng lưới GEONET (GPS Earth Observation Network) với hơn 1000

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

máy thu GPS ở Nhật Bản. Để đánh giá hiệu quả của các mô hình điện ly, Orús et al.

[67] đã so sánh TEC thu được từ số liệu vệ tinh TOPEX có độ chính xác cao và

TEC thu được từ các mô hình điện ly khác nhau, với mục đích cung cấp một hiệu

chỉnh chính xác về tầng điện ly, kết quả cho thấy TEC thu được từ mô hình GIMs

của NASA là phù hợp tốt nhất với số liệu TEC từ vệ tinh TOPEX trong phạm vi sai

số dưới 30%, tiếp đến là mô hình lý thuyết IRI với sai số là 41% và kém nhất khi sử

dụng mô hình Broadcast GPS của Châu Âu với sai số là 54%. Hiện nay một số

nước phát triển đã tự xây dựng các bản đồ TEC ở phạm vi quốc gia có độ chính xác

cao để phục vụ cho mục đích phát triển truyền thông quốc gia, ví dụ Nhật Bản cung

cấp các bản đồ điện ly phạm vi quốc gia trên trang web

http://wdc.nict.go.jp/IONO/contents/E011_TECmap.html , hay Trung tâm Dịch vụ

khí hậu không gian và truyền sóng của Úc cũng cung cấp thông tin về TEC phạm vi

toàn cầu và quốc gia cho khu vực này trên trang web

http://www.ips.gov.au/Satellite/2/1.

Như đã biết hệ thống mạng lưới các trạm thu GPS nằm rải rác trên toàn cầu

nhưng chủ yếu tập trung trong vùng vĩ độ cao và vĩ độ trung bình. Cho đến nay đã

có rất nhiều kết quả nghiên cứu toàn diện và chi tiết cho hai vùng vĩ độ trên được

công bố nên các thông tin thu được về tầng điện ly trong vùng vĩ độ cao và trung

bình là tương đối chi tiết và đầy đủ [32, 47, 62, 79, 83]. Trong khi đó các trạm thu

GPS được đặt trong vùng xích đạo lại rất thưa thớt cộng với những đặc thù phức tạp

và khác biệt của tầng điện ly vùng xích đạo gây bởi hiệu ứng vòi phun, sự hình

thành các bọng plasma… thì nghiên cứu tầng điện ly xích đạo và ảnh hưởng của nó

lên quá trình truyền tín hiệu vệ tinh đang là một chủ đề quan tâm của nhiều tác giả

trên thế giới. Vladimer et al. [88] đã nói rằng rất khó có thể cung cấp dự báo chính

xác TEC tại vùng vĩ độ thấp do các biến thiên mạnh về thời gian của tầng điện ly

vùng xích đạo. Nhiều nghiên cứu cho thấy các mô hình điện ly hiện nay chưa phản

ảnh hết được các đặc trưng của tầng điện ly trong vùng xích đạo. Bhuyan et al. [30]

sử dụng mạng lưới GPS ở khu vực Ấn Độ để nghiên cứu biến thiên TEC tại đây.

Các giá trị TEC thu được so sánh với TEC rút ra từ mô hình điện ly chuẩn quốc tế

8

(International Reference Ionosphere - IRI), cho thấy các giá trị TEC rút ra từ mô

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

hình IRI thường lớn hơn TEC đo đạc ở hầu hết các thời điểm. Gần đây, Ouattara et

al. [69] đã so sánh giữa giá trị TEC quan sát được từ một trạm Koudougou

(12015’N, -2020’E) gần xích đạo và TEC thu được từ mô hình TEC toàn cầu GIM,

kết quả của ông cho thấy có sự sai lệch đáng kể giữa giá trị mô hình và quan sát

trong vùng này.

Nghiên cứu biến thiên TEC trong vùng xích đạo sử dụng số liệu từ một hay

nhiều trạm thu GPS đã được tiến hành bởi nhiều tác giả: Breed et al. [32] sử dụng

số liệu GPS thu được từ trạm Salisbury ở Nam Úc nghiên cứu biến thiên ngày đêm,

biến thiên theo mùa và theo vĩ độ của TEC ở khu vực quan tâm; Sử dụng mạng lưới

gồm 18 máy thu GPS ở khu vực Ấn Độ bao phủ một dải vĩ độ từ 10S tới 240N để

nghiên cứu biến thiên theo thời gian trong ngày, theo mùa, theo năm và theo mức

độ hoạt động mặt trời của TEC [30, 36, 74]. Các kết quả nghiên cứu tại đây cho

thấy TEC đạt giá trị cực tiểu vào khoảng 05hLT và cực đại trong khoảng từ 13h đến

14hLT, và một sự biến thiên theo mùa rõ rệt, biên độ biến thiên TEC phụ thuộc chủ

yếu vào vị trí trạm quan sát tương ứng với xích đạo từ [30].

Hình 1.2, Biến thiên theo mùa và theo thời gian của giá trị TEC trung bình tháng tại

9

một số trạm ở Ấn Độ (Rama Rao et al.[74]).

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

Nghiên cứu biến đổi của TEC trong vùng đỉnh dị thường điện ly xích đạo, Tsai

et al. [83] chỉ ra biến thiên theo mùa của TEC trong vùng dị thường xích đạo Châu

Á khi sử dụng số liệu từ hai trạm thu tín hiệu GPS đặt ở hai vùng đỉnh dị thường

phía Bắc và phía Nam bán cầu cho một năm số liệu 1997, kết quả cho thấy giá trị

TEC của hai đỉnh dị thường đạt cực đại vào những tháng phân điểm nhưng dị

thường mùa đông không xuất hiện ở phía Nam bán cầu, thời gian đỉnh dị thường đạt

giá trị cực đại thường sớm hơn về mùa đông và muộn hơn về mùa hè, vị trí đỉnh dị

thường dịch chuyển về phía xích đạo vào mùa đông và dịch chuyển về phía cực vào

những tháng mùa hè và phân điểm. Tsai và các cộng sự cũng đưa ra luận điểm để

giải thích hiện tượng này bằng cách kết hợp giữa lý thuyết gió trung hòa thổi qua

xích đạo, vị trí điểm gần Mặt Trời trên Trái Đất và gió vùng cực thổi về phía xích

đạo. Rama Rao et al. [74] nghiên cứu biến thiên đỉnh dị thường phía Nam bán cầu

trong vùng Ấn Độ, kết quả nghiên cứu cho thấy đỉnh dị thường điện ly xích đạo tại

đây đạt giá trị cực đại trong khoảng thời gian từ 13h đến 16h LT và nằm trong

khoảng vĩ độ địa lý 150N đến 250N. Tác giả chỉ ra vị trí xuất hiện và cường độ của

đỉnh dị thường phụ thuộc chủ yếu vào độ lớn của dòng điện xích đạo, vị trí đỉnh dị

thường nằm càng xa xích đạo từ khi cường độ dòng điện xích đạo càng tăng.

Các nghiên cứu về hiệu ứng bão điện ly và các biến đổi của dị thường điện ly

xích đạo trong ngày bão từ cũng được nhiều tác giả đặc biệt chú ý [57, 59, 60, 96].

Liu et al. [59] sử dụng 9 máy thu đặt tại Đài Loan và một số máy thu lân cận để

nghiên cứu hiệu ứng của đỉnh dị thường điện ly trong ngày bão từ. Ông tìm thấy

rằng ngay sau khi bão từ bắt đầu bất ngờ xuất hiện thì cường độ đỉnh dị thường điện

ly xích đạo tại đây gia tăng và dịch chuyển về phía cực, vào một ngày sau khi bão

từ kết thúc thì cường độ đỉnh dị thường bị suy giảm đáng kể và dịch chuyển một

chút về phía xích đạo. Các nghiên cứu cho thấy thường có hai loại bão điện ly

dương và âm xuất hiện khi có bão từ xẩy ra. Bản chất của bão điện ly (bão dương

hay âm) phụ thuộc vào thời gian địa phương, vào mùa và vĩ độ. Tại các vĩ độ thấp

và trung bình, bão từ xuất hiện với pha chính vào thời gian ban đêm ở hầu hết các

mùa trong năm thường gây ra bão điện ly âm, những trận bão từ có pha chính xuất

10

hiện vào thời gian ngày vào mùa đông và tháng phân điểm thường gây ra bão điện

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

ly dương và nếu vào mùa hè thì gây ra bão điện ly dương và kèm theo cả bão điện

ly âm [57]. Độ trễ thời gian giữa nhiễu loạn từ và các phản ứng xẩy ra trong tầng

điện ly phụ thuộc vào mùa, vào thời gian địa phương và vào vĩ độ [60].

Các nghiên cứu trước đây về hiện tượng nhấp nháy điện ly đã chỉ ra rằng nhấp

nháy thường biểu hiện rất mạnh ở vùng xích đạo từ và vùng cực [14, 94].

Hình 1.3, Bản đồ phân bố nhấp nháy điện ly toàn cầu tại 23hLT theo mô hình dự

báo WBMOD (http://www.ips.gov.au).

Khi ngành công nghệ vũ trụ phát triển thì nhấp nháy điện ly liên quan đến các

nhiễu loạn điện ly trở thành chủ đề chính cần xem xét trong lĩnh vực nghiên cứu về

ảnh hưởng thời tiết không gian lên hệ thống truyền thông, đặc biệt là tầng điện ly

xích đạo và vùng vĩ độ thấp. Basu et al. [25] đã phát biểu rằng dự báo nhấp nháy

điện ly trong vùng xích đạo vẫn còn là vấn đề thách thức. Đã có nhiều kết quả

nghiên cứu về đặc trưng tầng điện ly vùng vĩ độ thấp và sự xuất hiện các nhấp nháy

11

điện ly khu vực châu Mỹ. Basu et al. [23] sử dụng số liệu quan trắc tại Peru, Chile

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

để nghiên cứu hiệu ứng nhấp nháy điện ly, tốc độ trôi dạt plasma và gió trung hòa

trong tầng điện ly xích đạo sau khi Mặt Trời lặn. Aarons et al. [15] và Chu et al.

[38] sử dụng một loạt các trạm đặt dọc theo vùng kinh tuyến châu Mỹ để nghiên

cứu dao động pha tín hiệu GPS trong vùng xích đạo vào năm Mặt Trời hoạt động

cực tiểu, kết quả cho thấy có sự xuất hiện các mảng nhiễu loạn dạng lông vũ

(plumes) tại các độ cao lớn gần đỉnh dị thường điện ly. Beach et al. [26], sử dụng số

liệu quan sát tại Ancon, Peru để chỉ ra mối liên hệ giữa nhấp nháy điện ly và giao

động pha GPS tại đây dao động trong khoảng từ 0,2 đến 0,5. Basu et. al. [24] sử

dụng số liệu vệ tinh tại đảo Ascension nghiên cứu nhấp nháy điện ly và dao động

pha, đã đi đến kết luận rằng khó có thể đánh giá định lượng biên độ nhấp nháy từ

chỉ số dao động pha do có sự tồn tại đồng thời các nhiễu loạn quy mô lớn và nhỏ

trong tầng điện ly vùng xích đạo vào giai đoạn trước nửa đêm, vào giai đoạn sau

nửa đêm các nhiễu loạn có kích thước Fresnel suy giảm mạnh do có sự gia tăng

khuếch tán do vậy chỉ còn các nhiễu loạn quy mô lớn gây ra dao động pha mà

không gây ra nhấp nháy biên độ. Anderson et al. [18] và Chen et al. [37] sử dụng số

liệu thống kê nhấp nháy quan sát được tại Ancon, Peru, Chile để dự báo hoạt động

nhấp nháy điện ly vùng xích đạo, kết hợp số liệu GPS và số liệu thăm dò thẳng

đứng chỉ ra mối liên hệ giữa sự xuất hiện Spread F và dao động pha. Valladares et

al. [86, 87] chỉ ra bức tranh xuất hiện nhấp nháy điện ly cho vùng kinh tuyến Nam

Mỹ khi sử dụng một loạt các máy thu GPS đặt dọc theo kinh tuyến hai bên xích đạo

từ, nghiên cứu một lần nữa cho thấy hiện tượng suy giảm TEC và sự xuất hiện

plumes xẩy ra đồng thời với các mức nhấp nháy xuất hiện trên tín hiệu GPS, đỉnh dị

thường điện ly xích đạo là nơi có sự tập trung nhấp nháy xuất hiện và có sự suy

giảm TEC mạnh nhất.

Nghiên cứu sự xuất nhiện nhấp nháy trong vùng Ấn Độ đã được bắt đầu [21, 35,

73]. Rama Rao et al. [73], đã giới thiệu bức tranh xuất hiện nhấp nháy cho vùng Ấn

Độ khi sử dụng mạng lưới quan trắc trong vùng, kết quả cho thấy nhấp nháy xuất

hiện chủ yếu vào khoảng thời gian sau khi Mặt Trời lặn đến trước nửa đêm và ít

xuất hiện vào thời điểm sau nửa đêm, nhấp nháy chủ yếu xuất hiện trong những

12

tháng phân điểm. Nghiên cứu tại đây cũng chỉ ra nhấp nháy hoạt động mạnh nhất

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

xung quanh vùng đỉnh dị thường (150 đến 250N) và các nhấp nháy thường kèm theo

sự suy giảm về TEC trong vùng này.

Hình 1.4, Thống kê nhấp nháy theo thời gian, vĩ độ và theo mùa tại Ấn Độ (Rama

Rao et al.[73]).

Ở khu vực Đông Nam Á Thomas et al. [81] sử dụng mạng lưới máy thu dọc theo

vùng kinh tuyến từ châu Á đến châu Úc để chỉ ra hoạt động nhấp nháy điện ly trong

những năm Mặt Trời hoạt động mạnh (2000-2002), các kết quả này còn được sử

dụng để hiệu chỉnh mô hình nhấp nháy điện ly toàn cầu WBMOD (WideBand

MODel). Cervera et al. [34] sử dụng quan sát nhấp nháy GPS trong vùng kinh tuyến

Đông Nam Á để nghiên cứu các biến thiên theo vĩ độ và thời gian của nhiễu loạn

điện ly xích đạo. Saito et al. [77] dùng số liệu vệ tinh GPS tại Trung Quốc và Việt

Nam kết hợp với số liệu thăm dò thẳng đứng tại Nhật Bản và Úc để nghiên cứu

nhiễu loạn điện ly liên quan tới bọng plasma gây ra nhấp nháy điện ly trong vùng

này. Gần đây Abadi et al. [16] lần đầu tiên công bố kết quả nghiên cứu sự xuất hiện

nhấp nháy xung quanh đỉnh dị thường điện ly xích đạo vùng Indonesia, kết quả

cũng chỉ ra sự biến thiên theo thời gian, theo mùa và theo hoạt động Mặt Trời của

sự xuất hiện nhấp nháy điện ly tại đây... Kết hợp với việc quan sát và thống kê các

hiện tương thì các nghiên cứu hiện nay tập trung vào việc tìm ra cơ chế, các dấu

hiệu hình thành nhiễu loạn gây ra nhấp nháy điện ly trong vùng xích đạo như spread

F, bọng plasma, sóng trọng lực khí quyển [65, 74, 85] tiến tới xây dựng mô hình dự

13

báo nhấp nháy điện ly chính xác cho vùng này.

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

Nhiều tác giả đi vào đánh giá ảnh hưởng của nhấp nháy lên quá trình truyền tín

hiệu GPS khi khảo sát dao động pha tín hiệu GPS trong vùng xích đạo cho một số

trận bão từ sử dụng số liệu các máy thu GPS toàn cầu [34, 73, 74, 80]; ứng dụng

công nghệ GPS để nghiên cứu bức tranh nhiễu loạn điện ly cho vùng xích đạo [15,

38, 84]. Các nghiên cứu thống kê về ảnh hưởng của bão từ lên khả năng xuất hiện

nhấp nháy vùng xích đạo và vùng vĩ độ thấp cũng đã được tiến hành [17, 54, 93],

kết quả cho thấy tác động của bão từ có thể làm gia tăng cường độ xuất hiện nhấp

nháy hoặc làm suy giảm sự phát triển của bọng plasma gây ra nhấp nháy trong vùng

vĩ độ thấp phụ thuộc vào thời điểm thâm nhập trong ngày của bão.

Hiện nay chương trình thời tiết không gian của Mỹ coi các nhấp nháy điện ly

như là một thành phần quan trọng, chương trình đòi hỏi các hệ thống có khả năng

theo dõi, tính toán và dự báo các ảnh hưởng của Mặt Trời lên môi trường không

gian Trái Đất, kể cả hoạt động có tính toàn cầu của các bất thường và nhấp nháy

điện ly, và thực tế mạng lưới quan trắc hiện tượng nhấp nháy đang phát triển và

được sự hưởng ứng của nhiều tổ chức nghiên cứu khoa học trên thế giới. Có hai mô

hình dự báo nhấp nháy điện ly toàn cầu thông dụng nhất đó là WBMOD (WideBand

MODel) của Mỹ và mô hình GISM (Global Ionospheric Scintillation Model) của

Châu Âu. Fort et al. [44], đã so sánh số liệu nhấp nháy rút ra từ hai mô hình GISM

và WBMOD với số liệu quan sát tại Tucuman (Argentina), một trạm nằm gần đỉnh

dị thường điện ly xích đạo để phục vụ cho ứng dụng định vị dẫn đường bằng vệ

tinh. Mục đích của họ là kểm tra xem liệu mô hình dự báo nhấp nháy điện ly toàn

cầu hiện nay có thể dự báo được hoạt động nhấp nháy thực tế tại đây hay không, và

liệu có thể sử dụng mô hình này để đánh giá ảnh hưởng của nhấp nháy lên hệ thống

dẫn đường hay không? Kết quả nghiên cứu của

họ cho thấy, mô hình dự báo không đúng cả về thời gian lẫn vị trí xuất hiện nhấp

nháy trên đường truyền tín hiệu GPS. Khi các tác giả so sánh với số liệu quan sát

trong một ngày đơn lẻ, mô hình cũng cho thấy một sự thiếu chính xác trong lời giải

chi tiết và đi đến kết luận rằng các mô hình nhấp nháy điện ly còn nhiều hạn chế khi

14

ứng dụng dự báo cho trường hợp tín hiệu vệ tinh GPS.

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

Từ 2004 đến nay, cơ quan IEEA (Informatique, Electromagnétisme,

Electronique, Analyse numérique) đã thực hiện một chiến dịch đo đạc có tên PRIS

(Prediction Ionospheric Scintillation) với mục đích thu thập số liệu nhấp nháy để cải

tiến mô hình dự báo nhấp nháy điện ly GISM. Hệ thống máy thu được đặt tại hai

vùng vĩ độ cao và vĩ độ thấp để thăm dò nồng độ điện tử tổng cộng và nhấp nháy

điện ly như được chỉ ra trên hình 1.5. Việt Nam cũng là một quốc gia được hưởng

lợi từ dự án này khi có ba máy thu được đặt tại đây. Các kết quả thu được sẽ là

nguồn tài liệu quan trọng để tiến tới xây dựng các mô hình dự báo nhấp nháy điện

ly có độ chính xác cao phục vụ cho mục đích định vị dẫn đường bằng vệ tinh.

Hình 1.5, Vị trí các máy thu đặt trong vùng xích đạo của dự án PRIS.

1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước:

Các nghiên cứu điện ly ở nước ta đã được tiến hành từ những năm trước, dựa

trên cơ sở số liệu thăm dò thẳng đứng thu được từ Đài điện ly Phú Thuỵ - Hà Nội,

trạm Nha Trang, Đài xích đạo từ Bạc Liêu và Đài quan trắc khí quyển Hóc Môn -

TP Hồ Chí Minh.

Phạm Văn Trì và nnk. [13] đã khảo sát biến thiên các thông số điện ly phục

vụ dự báo truyền sóng, giới thiệu một số đặc trưng biến thiên tại đài điện ly Phú

Thụy; Nghiên cứu những vấn đề vật lý trong tầng điện ly cũng được bắt đầu: Lê

Huy Minh và Phạm Văn Trì [8] sử dụng số liệu thăm dò thẳng đứng từ năm 1962

đến 2000 để chỉ ra biến thiên theo thời gian của lớp E và lớp F tại Phú Thụy; nghiên 15

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

cứu về đặc điểm và cấu trúc các lớp điện ly khu vực phía nam khi sử dụng số liệu

quan sát tại trạm Nha Trang [2]; khảo sát các thông số điện ly tại Phú Thụy, Bạc

Liêu và mối liên hệ với hoạt động mặt trời trong nhiều năm quan sát số liệu [1, 5,

19, 49].

Các kết quả nghiên cứu cho thấy dáng điệu biến thiên ngày đêm của các

tham số giữa các lớp rất khác nhau và có sự phụ thuộc khác nhau vào quá trình

quang ion hóa, hoạt tính mặt trời... : Biến thiên ngày đêm của tần số tới hạn lớp F2

đạt giá trị cực tiểu vào khoảng 5hLT và một giá trị cực đại vào khoảng 14hLT tại

Phú Thụy, đạt hai giá trị cực đại vào khoảng 9h và 17hLT tại các trạm phía Nam

(Nha Trang, Bạc Liêu); Biến thiên chu kỳ dài của các tần số tới hạn có xu thế chung

phù hợp với chu kỳ 11 năm của hoạt động mặt trời, trong khi đó các chiều cao biểu

kiến của các lớp điện ly hầu như không phản ánh quy luật 11 năm theo hoạt động

mặt trời.

Nghiên cứu hiệu ứng bão từ và bão điện ly khu vực xích đạo sử dụng số liệu

thăm dò thẳng đứng tại Phú Thụy và Hóc Môn được tiến hành [9, 55], kết quả cho

thấy bão từ có sự ảnh hưởng mạnh tới lớp F của tầng điện ly và ít có ảnh hưởng ở

độ cao lớp E, chiều cao biểu kiến lớp F thường tăng lên trong pha chính của bão,

nồng độ điện tử trong tầng điện ly biến đổi phức tạp trong thời gian bão từ. Thời

gian gần đây, một số kết quả nghiên cứu về đặc trưng xuất hiện spread F khu vực

xích đạo Việt Nam cũng được công bố khi nghiên cứu đặc trưng xuất hiện spread F

quan sát được tại Đài điện ly Hóc Môn – TP Hồ Chí Minh [3, 4]; So sánh sự xuất

hiện spread F giữa hai vùng kinh tuyến Việt Nam và Brasil [56]. Kết quả quan sát

cho thấy đặc trưng xuất hiện spread F tại trạm Hóc Môn chủ yếu xuất hiện vào thời

điểm trước nửa đêm, sự xuất hiện spread F khác nhau đáng kể tại hai kinh tuyến

Brasil và kinh tuyến Việt Nam về cả thời gian và tần suất xuất hiện. Hiện nay những

hiểu biết về biến thiên ngày đêm, cơ chế hình thành spread F trong vùng xích đạo

vẫn còn là chủ đề nghiên cứu và tìm hiểu trong lĩnh vực nghiên cứu khí hậu không

gian [85].

Từ năm 2005, hưởng ứng chương trình hợp tác nghiên cứu khoa học quốc tế

16

của Hội Địa từ và Cao không quốc tế (Climate and Weather Sun-Earth System -

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

CAWSES), trong khuôn khổ hợp tác quốc tế giữa Viện Vật lý địa cầu, Viện Hàn

lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và một số cơ quan nghiên cứu thuộc Trung

tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp, 3 trạm thu tín hiệu vệ tinh GPS được đặt

tại Hà Nội (Đài Điện ly Phú Thụy), Huế (Trường Đại học Khoa học) và thành phố

Hồ Chí Minh (Đài Quan trắc khí quyển Hóc Môn) đã được lắp đặt. Việc đặt ba trạm

thu tín hiệu vệ tinh GPS liên tục đã mở ra một hướng nghiên cứu mới góp phần thúc

đẩy và phát triển nghiên cứu vật lý địa cầu trong nước và trong khu vực.

Hình 1.6, Vị trí ba máy thu GPS tại Việt Nam và vết vệ tinh quan sát tại độ cao 400

km trên tầng điện ly.

Việc xây dựng thuật toán tính toán nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly từ

số liệu GSP được tìm hiểu lần đầu tiên tại Việt Nam [10, 12]. Sử dụng số liệu các

trạm GPS này cùng với các trạm GPS khác trong khu vực để nghiên cứu sự biến

thiên nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly khu vực dị thường điện ly xích đạo ở

Việt Nam và khu vực Đông Nam Á được bắt đầu [11]. Các nghiên cứu này cho thấy

rằng Việt Nam nằm ở vùng dị thường điện ly xích đạo, khu vực miền Bắc nằm ở

vùng đỉnh của dị thường, khu vực ở phía cực Nam lãnh thổ nằm ở vùng đáy dị

thường.

Ứng dụng công nghệ GPS để nghiên cứu tầng điện ly được các nhà khoa học

17

trên thế giới tiến hành khai thác từ nhiều năm trước và đã có một lượng lớn các

Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

công trình nghiên cứu được công bố để chỉ ra các đặc trưng cho từng vùng nghiên

cứu. Tuy nhiên, đặc điểm của tầng điện ly là mang tính đặc thù địa phương rõ rệt,

đặc biệt là tầng điện ly vùng xích đạo, trong khi Việt Nam vẫn còn là vùng thiếu

vắng thông tin trên bản đồ điện ly thế giới hiện nay. Sử dụng công nghệ GPS để

nghiên cứu tầng điện ly ở Việt Nam cũng mới bắt đầu được tiến hành trong những

năm gần đây và còn khá mới mẻ. Việc lắp đặt ba trạm thu GPS trải đều ở ba miền

Bắc-Trung-Nam là một thuận lợi trong nghiên cứu tầng điện ly cho toàn khu vực

Việt Nam. Để tiếp tục phát triển hướng nghiên cứu này, luận án được xây dựng với

mục đích là sử dụng chuỗi số liệu từ ba máy thu tín hiệu vệ tinh GPS nghiên cứu

tầng điện ly cho khu vực Việt Nam. Các kết quả của luận án sẽ là nguồn tài liệu

quan trọng để tiến tới xây dựng mô hình dự báo điện ly, nhấp nháy điện ly cho khu

18

vực Việt Nam trong tương lai.

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ TẦNG ĐIỆN LY VÀ

HỆ THỐNG ĐỊNH VỊ TOÀN CẦU

2.1 Tầng điện ly của Trái Đất

Phần này sẽ giới thiệu tổng quan về tầng điện ly của Trái Đất: các lớp điện ly,

lý thuyết hình thành và vai trò của tầng điện ly trong quá trình truyền sóng. Yếu tố

ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và biến động trong tầng điện ly đó là hoạt

tính mặt trời. Đặc biệt giới thiệu chi tiết những đặc điểm tầng điện ly vùng xích đạo

để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận án.

2.1.1 Tầng điện ly và các lớp

Tầng điện ly là một vùng khí quyển của Trái Đất được hình thành và tồn tại

dưới tác dụng của bức xạ mặt trời và nhiều quá trình vật lý khác. Quá trình ion hóa

trong tầng điện ly làm cho tầng điện ly có nồng điện tử và các ion đủ lớn có thể ảnh

hưởng tới sự truyền sóng radio. Tầng điện ly nằm ở khoảng độ cao từ 50 km tới

1000 km hoặc hơn so với mặt đất (hình 2.1), nó có thể được xem như nằm giữa tầng

khí quyển trung hòa và tầng khí quyển ion hóa hoàn toàn của Trái Đất do bức xạ

mặt trời. Mức độ ion hoá trong tầng điện ly phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản sau:

- Năng lượng bức xạ ion hoá của Mặt Trời.

- Hệ số hấp thụ năng lượng này của các thành phần khí trong tầng điện ly.

- Mật độ khí quyển.

Đến một độ cao nào đó mà sự ion hoá hoà hợp được 3 yếu tố trên thì đạt

được mức độ ion hoá lớn nhất, quá trình đó dẫn đến giá trị cực đại của mật độ điện

tử theo chiều cao. Do trong tầng điện ly có nhiều loại phân tử khác nhau nên có

nhiều cực trị mật độ điện tử, dựa vào đó người ta đã phân tầng điên ly thành bốn

lớp: lớp D, lớp E, lớp F1 và lớp F2 như đươc chỉ ra trên hình 2.1. Đặc trưng cho mỗi

lớp là các tham số như:

+ độ cao của lớp: h

+ chiều dầy lớp: y

+ mật độ điên tử cực đại: Ne

Các tham số này đều phụ thuộc mạnh vào các yếu tố như: thời gian trong ngày, mùa

19

trong năm, mức độ hoạt động của Mặt Trời và vị trí địa lý của trạm quan sát.

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

Hình 2.1, Sơ đồ tầng khí quyển và các lớp điện ly của Trái Đất (H. Rishbeth and

O. K. Garriott, [76]).

Lớp D

Lớp D là lớp thấp nhất của tầng điện ly, nằm trong khoảng độ cao từ 60 đến

90 km. Nguồn ion hoá lớp D là bức xạ vạch Lyman alpha (Ly α), đối tượng ion hoá

là phân tử NO tạo ra NO+. Lớp này có hiệu ứng âm lên các sóng radio do nó chỉ hấp

thụ năng lượng sóng radio, đặc biệt với các tần số thấp hơn 7MHz. Lớp D xuất hiện

ngay sau khi Mặt Trời mọc và biến mất khi Mặt Trời lặn. Giá trị ion hoá cực đại của

lớp D đạt được khi góc thiên đỉnh của Mặt Trời bằng 0o. Quá trình tái hợp xảy ra rất

mạnh ở lớp D, hiệu ứng ion hóa thực là thấp, nhưng sự mất mát năng lượng sóng

chủ yếu gây bởi các va chạm thường xuyên của các điện tử. Kết quả là sóng radio

tần số cao (HF) không bị phản xạ bởi lớp D nhưng chịu sự mất mát năng lượng

trong lớp này. Người ta thấy rằng lớp D chủ yếu bị chi phối bởi năng lượng bức xạ

20

của Mặt Trời, có ba loại hấp thụ liên quan đến bùng nổ Mặt Trời trong lớp D:

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

+ SID (Sudden Ionospheric Disturbance)- nhiễu loạn điện ly bất ngờ, hấp thụ

SID diễn ra trong khoảng 30 phút đến 1 giờ vào thời gian ban ngày. Hiện tượng này

làm cho nồng độ điện tử trong vùng D tăng lên gây ra hiện tượng hấp thụ mạnh các

tín hiệu vô tuyến điện.

+ Loại hấp thụ xuất hiện ban đêm liên quan đến hiện tượng cực quang và

nhiễu loạn từ trong lớp D vùng cực.

+ Loại PCA (Polar Cap Absorption) liên quan đến các hạt năng lượng cao

xuyên vào lớp D do bùng nổ sắc cầu trên đĩa mặt trời gây ra.

Mật độ điện tử cực đại của lớp D không đo được bằng máy thăm dò thẳng

đứng mà thu được từ kết quả thăm dò bằng tên lửa: Nmax ≈ 103 e/cm3 và đạt được ở

độ cao khoảng 80 km. Hầu hết thông tin về biến thiên theo độ cao của nồng độ điện

tử và tần số va chạm trong lớp D của tầng điện ly thu được một cách gián tiếp từ các

nghiên cứu truyền sóng, các thông tin bổ xung thu được từ các tài liệu đo đạc bằng

tên lửa [46, 76].

Lớp E

Lớp E là lớp điện ly nằm ngay phía trên của lớp D ở độ cao khoảng từ 90 đến

150 km. Lớp E được hình thành bởi bức xạ ion hoá của Mặt Trời, chủ yếu là bức xạ

Rơngen. Lớp này chỉ có thể hấp thụ sóng radio có các tần số nhỏ hơn 5 MHz. Lớp E

xuất hiện ngay sau khi Mặt Trời mọc và biến mất sau khi Mặt Trời lặn vài giờ.

Thực tế vẫn tồn tại lớp E ban đêm và thường gọi là lớp E2, nhưng vì về đêm mật độ

+. Mật độ điện tử của lớp E

điện tử trong vùng E rất thấp nên không thể đo đạc được. Trong lớp E các ion chủ

+ và NO+, trong đó NO+ lớn hơn gấp 3 lần O2

yếu là O2

phụ thuộc vào các yếu tố như: thời gian trong ngày, mùa trong năm, vị trí địa lý và

sự hoạt động của Mặt Trời. Giá trị mật độ đạt cực đại vào giữa trưa với Nmax ≈ 105

e/cm3 vào thời kỳ mặt trời hoạt động yếu và Nmax ≈ 1,5*105 e/cm3 vào thời kỳ mặt

trời hoạt động mạnh.

Thăm dò điện ly thường phát hiện ra các lớp hoặc các mảng ion dày đặc

trong lớp E ở các độ cao từ 90 km đến 120 km, dường như không liên quan tới lớp

E ban ngày bình thường. Hiện tượng này được biết như là lớp E rời rạc hay lớp Es

21

vì nó không có dáng vẻ đều đặn. Đôi khi Es xuất hiện như là các bản mỏng che

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

khuất lớp F bên trên. Ở các thời điểm khác, nó có thể dưới dạng loang lổ trong suốt

từng phần đối với các sóng phản xạ từ các lớp cao hơn. Sự xuất hiện của Es liên

quan đến các dòng hạt năng lượng cao phát ra từ Mặt Trời xâm nhập vào khí quyển,

liên quan đến nhiễu loạn điện từ trường, hiện tượng cực quang, chế độ gió trong lớp

E và những chuyển động rối của khí quyển trong lớp E [46,76].

Lớp F

Lớp F là lớp cao nhất của tầng điện ly. Vào thời gian ban ngày, khi Mặt Trời

chiếu sáng lên phần trên của khí quyển chứa lớp F gây ra sự phân tách lớp F thành

hai lớp và được gọi là lớp F1 và lớp F2. Khi Mặt Trời lặn, độ cao của lớp lúc này

nằm trong khoảng từ 250 đến 500km. Lớp F có thể phản xạ các sóng radio có tần số

tới 20 MHz và thậm chí tới 25 MHz. Các ion ở phần dưới của lớp F chủ yếu là NO+

và phần trên là O+ chiếm ưu thế.

Lớp F1 là lớp trung gian giữa lớp E và lớp F2, nằm trong khoảng độ cao từ

150 đến 200 km, chỉ xuất hiện ban ngày khi có Mặt Trời chiếu sáng lên phần trên

của khí quyển chứa lớp F. Phần dưới của lớp F1 chủ yếu là các ion NO+ và O+, càng

lên cao thì ion O+ chiếm ưu thế. Lớp F1 phản xạ được các sóng radio có tần số đạt

tới 10 MHz. Giá trị cực đại của mật độ điện tử lớp F1 đạt được vào giữa trưa.

Lớp F2 là lớp quan trọng nhất của tầng điện ly, rộng nhất và biến đổi phức

tạp nhất. Lớp F2 thường phân bố ở độ cao từ 200 km trở lên. Các phép đo bằng phổ

kế khối lượng vệ tinh cho biết thành phần cơ bản của lớp F2 là ion nguyên tử N+ và

O+, trong đó O+ >>N+. Những đặc điểm của lớp F2 và sự biến đổi của chúng rất

phức tạp và có quan hệ mật thiết với các hoạt động xẩy ra trên đĩa mặt trời. Những

đặc điểm biến thiên này thường không phù hợp với kết luận trong lý thuyết hình

thành điện ly, sự sai lệch giữa thực tế quan sát được và lý thuyết được gọi là dị

thường lớp F2. Lớp F2 có các dị thường sau: dị thường ngày đêm, dị thường địa lý,

dị thường mùa và dị thường tháng 12. Lớp F2 có thể phản xạ được các sóng radio có

tần số đạt tới 50 MHz trong suốt một thời kỳ cực đại vết đen mặt trời và các tần số

cực đại có thể đạt tới 70 MHz trong một số trường hợp đặc biệt.

Tầng điện ly thường được phân thành 3 vùng địa lý khác nhau dựa trên các

22

đặc trưng, hình dáng và tính chất động học khác nhau của chúng. Tầng điện ly vùng

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

xích đạo và vĩ độ thấp (từ 00 đến ±300), tầng điện ly vùng vĩ độ trung bình (từ ±300

đến ±500) và tầng điện ly vùng vĩ độ cao (từ ±500 đến ±900) tính từ xích đạo từ ở hai

bán cầu của Trái Đất. Giá trị cực đại của mật độ điện tử thường nằm trong vùng

xích đạo của tầng điện ly, và thường vào đầu buổi chiều. Cũng có những vùng có

nồng độ điện tử rất cao tại các vĩ độ từ trong khoảng ±20o. Các cực đại của chúng

được gọi là dị thường xích đạo. Tầng điện ly ở vùng vĩ độ trung bình ít biến đổi. Nó

cũng được quan sát tốt nhất vì hầu hết các thiết bị thăm dò tầng điện ly đều tập

trung ở vùng này. Ở các vùng vĩ độ cao và vùng cực quang, cực đại mật độ điện tử

nhỏ hơn đáng kể so với vùng vĩ độ thấp. Tuy nhiên, vùng vĩ độ cao có rất nhiều

hiện tượng bất ổn định plasma, nghĩa là các biến thiên thời gian ngắn của mật độ

điện tử nói chung lớn hơn nhiều so với ở vùng vĩ độ thấp. Tại các chỏm cực, ở đó

góc thiên đỉnh của Mặt Trời gần như không đổi, biến thiên ngày đêm vẫn còn phát

hiện được. Điều đó chỉ ra rằng có nhân tử khác ngoài bức xạ mặt trời cũng đóng

một vai trò trong việc xác định mật độ điện tử trong tầng điện ly [46,76]..

2.1.2 Lý thuyết hình thành các lớp điện ly và phân bố điện tử thẳng đứng

2.1.2.1 Sự hình thành các lớp điện ly

Các quá trình quang hóa trong tầng điện ly có thể được phân ra thành hai

loại: loại gây ra sự tạo thành hoặc sự mất mát ion và loại gây ra sự vận chuyển ion.

Trong đó, quá trình chính để tạo ra các cặp ion-điện tử được cho là do sự quang ion

hóa mặt trời và do các hạt tích điện có năng lượng cao thâm nhập vào trong tầng khí

quyển. Các quá trình gây mất mát ion lớn có thể kể đến là: sự tái hợp ion-điện tử; sự

gắn kết của điện tử với các nguyên tử khí trung hòa xẩy ra trong lớp dưới của tầng

điện ly. Vì thế, luôn tồn tại một trạng thái cân bằng động trong đó nồng độ điện tử

tự do phụ thuộc vào tốc độ các quá trình sinh và mất của chính các điện tử này.

Để miêu tả các quá trình trên người ta xây dựng một phương trình liên tục

mà các số hạng của nó biểu thị cho các hiệu ứng khác nhau làm thay đổi mật độ

điện tử N như sau [76] :

[Tốc độ thay đổi mật độ điện tử] = [Tốc độ sinh điện tử]

23

- [Mất mát]

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

- [Thay đổi do dịch chuyển]

Nếu quá trình vận chuyển gây ra một vận tốc trôi dạt thực , thì thay đổi do vận

chuyển là đạo hàm của yếu tố thông lượng N . Dùng ký hiệu q và l để biểu thị quá

trình sinh và mất ion một cách tương ứng, chúng ta có phương trình liên tục :

(2.1)

Trong tầng điện ly, ở độ cao dưới 200km, thì quá trình vận chuyển không lớn và

nếu bỏ qua quá trình này thì ta thu được phương trình “quang hóa”. Trên độ cao

250km, vai trò của quá trình vận chuyển chiếm ưu thế và các số hạng quang hóa q

và l là không đáng kể.

Quang ion hóa mặt trời: Bức xạ mặt trời đóng một vai trò quan trọng trong việc

thành tạo tầng điện ly, quá trình ion hóa xẩy ra trong tầng khí quyển của Trái Đất

bởi một phổ rộng bức xạ tia X và bức xạ cực tím. Sự ion hóa, hay sự bứt các điện tử

khỏi các nguyên tử và phân tử, chủ yếu gây bởi sự va chạm của bức xạ cực tím của

Mặt Trời. Sự hấp thụ của ánh sáng cực tím tăng theo sự giảm của độ cao và theo sự

tăng của mật độ các phân tử khí trung hoà một cách tương ứng. Quá trình ion hóa

bắt đầu bằng các phản ứng quang phân (bức xạ mặt trời phân rã các phân tử khí

trung hòa thành các nguyên tử), sau đó là phản ứng ion hóa (các phần tử trung hòa

và nguyên tử bị ion hóa thành các ion và electron).

Ion hóa hạt: Sự quang ion hóa bởi bức xạ cực tím của Mặt Trời không phải là

nguồn duy nhất tạo ra plasma trong tầng điện ly mà còn do các hạt tích điện có năng

lượng cao thâm nhập vào trong tầng khí quyển. Độ sâu các hạt thâm nhập vào khí

quyển phụ thuộc vào năng lượng của chúng. Sự ion hóa bởi va chạm của một hạt

mang năng lượng với khí trung hòa là đặc biệt quan trọng ở những vùng vĩ độ cao.

Ánh sáng nhìn thấy cũng được phát ra khi các hạt va chạm mạnh vào trong tầng khí

quyển và tạo ra hiện tượng cực quang nhìn thấy.

Các phản ứng mất mát ion: Khi được tạo thành, các ion và electron có xu hướng

24

tái kết hợp và phản ứng với các phần tử khí khác để tiếp tục tạo ra các ion. Các kiểu

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

phản ứng quang hóa được cho là khống chế mật độ điện tử và gây ra sự mất mát ion

luôn tồn tại đó là:

(a) Sự tái hợp ion-ion (hệ số tái hợp αi):

X+ + Y- → X + Y

(b) Sự tái hợp điện tử-ion (hệ số tái hợp αe):

Ba vật thể: X+ + e + M → X + M

Bức xạ: X+ + e → X* → X + hν

Phân ly: XY+ + e → X* + Y*

Các dấu (*) chỉ ra rằng các nguyên tử có thể nằm trong trạng thái kích thích, và sau

đó bị mất mát năng lượng do bức xạ hoặc do va chạm với các hạt khác; X, Y là các

phân tử, nguyên tử khí; M ký hiệu hạt trung hòa có trao đổi năng lượng và mômen

động lượng nhưng không xảy ra phản ứng hóa học; e là các ion và hν là năng lượng

bức xạ. Quá trình ba vật thể có thể xẩy ra trong vùng D, nhưng rất hiếm xẩy ra ở độ

cao lớn hơn. Sự tái hợp các điện tử-ion chỉ có thể xẩy ra bởi quá trình bức xạ yếu.

Tại vùng trên cùng của lớp F, các quá trình vận chuyển hoàn toàn chiếm ưu thế. Tại

các độ cao trong vùng E và F, sự tái hợp phân ly là quá trình mất mát quan trọng

nhất.

(c) Thay đổi ion-nguyên tử (hệ số tỷ lệ γ ):

X+ + YZ → XY + Z

(d) Sự phân tách do va chạm (hệ số δ) theo chiều thuận và sự gắn 3 vật thể

(hệ số tỷ lệ at) diễn ra theo chiều ngược lại :

X- + M ↔ X + e + M

Phản ứng phân tách có thể xẩy ra dễ dàng nếu phân tử M ở trạng thái kích thích,

trong trường hợp đó phản ứng có thể được viết :

X- + M* → X + e + M

(e) Sự phân tách kết hợp theo chiều thuận và sự gắn kết phân tách diễn ra

theo chiều ngược lại :

X- + Y ↔ XY + e

(f) Sự quang phân ly (hệ số ρ) theo chiều thuận và sự gắn kết bức xạ (hệ số

25

tỷ lệ ar) theo chiều ngược lại :

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

X- + hν ↔ X + e

Trong đó ρ là tích của thông lượng bức xạ mặt trời gây ra hiện tượng phân ly và tiết

diện ngang hấp thụ của chất khí. Bảng 2.1 tổng kết các quá trình sinh và mất ion

trong tầng điện ly với những bình luận về độ lớn của chúng. Các giá trị hằng số của

các hệ số tỷ lệ được suy ra từ lý thuyết hoặc từ thực nghiệm nên có tính chất tham

khảo.

Quá trình

Vùng D 60-90km (xấp xỉ)

Vùng E 90-150km (xấp xỉ)

Vïng F 150-600km (xấp xỉ)

Đóng góp vào phương trình liên tục (phản ứng/đơn vị thể tích/đơn vị thời gian) và các giá trị của các hệ số

EUV 911-1027Å EUV 170-911 Å

q(h)

Bảng 2.1 Các quá trình tạo và mất ion [76]

Tạo ion Quang ion hóa mặt trời (các bức xạ chính chỉ ra trong dấu [ ])

[Ly  1216 Å] (ion hóa NO) Tia X 1-10 Å

[Ly  1026 Å] O2 bị ion hóa bởi <1027 Å Tia X 10-170 Å

[He II 304 Å, He I 584 Å] O bị ion hóa bởi <911 Å N2 bị ion hóa bởi <796 Å

q(h)

electrons>30keV Protons > 1MeV Các tia vũ trụ

Ion hóa hạt (rất quan trọng ở vùng vĩ độ cao, đặc biệt là vùng cực)

Electrons 1keV (Một lượng nhỏ; có thể đáng kể vào ban đêm)

Electrons 1- 30keV gây ra một số hiện tượng ion hóa ban đêm và lớp Es

Mất ion

Tái hợp ion-ion

Quan trọng

Ít ion âm tồn tại Rất ít ion âm tồn

tại

Tái hợp electron- ion:

iN+N- i ~ 10-7 cm3s-1 =10-13m3s-1 eN+Ne e=(h) e~10-12cm3s-1 =10-18m3s- 1

+ Tái hợp ba vật thể + Tái hợp bức xạ + Tái hợp phân ly

Quan trọng Không có ý nghĩa Quan trọng

Mật độ khí quá thấp Không quan trọng Cơ chế mất mát chiếm ưu thế

Mật độ khí quá thấp Không quan trọng Cơ chế mất mát chiếm ưu thế

e~10-7cm3s-1 =10-13m3s-1

Quan trọng

Quan trọng

+

(h)NA

+nMNA

Trao đổi ion-nguyên tử

+= hàm lượng

(NA

ion nguyên tử)

Có thể duy trì một số ion âm vào ban đêm

Không quan trọng, do chỉ có một lượng ít các ion nguyên tử tồn tại Gắn kết ba vật thể là quan trọng nhất

Gắn kết bức xạ cung cấp một nguồn rất yếu các ion âm

Gắn kết Bức xạ Ba vật thể

a(h)NearnXNe+ atnX nMNe ar~10-15cm3s-1 =10-21m-3s- 1

26

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

Rất quan trọng

Không đáng kể

at~10-30cm6s-1 =10-42m6s-1 (h) Ne  nMN-

Quan trọng, đặc biệt về ban đêm

~10-20cm3s-1 =10-26m3s-1 ~10-10cm3s-1 =10-16m3s-1 ~10-10cm3s-1 =10-16m3s-1

Chỉ ảnh hưởng ban ngày

N-   1s-1

Tách rời do va chạm, ... : + Tách rời va chạm + Tách rời kết hợp + Tách rời bởi các phân tử siêu ổn định Quang phân ly do bức xạ nhìn thấy và tia UV dài

Nguyên nhân chính về sự thiếu vắng của các ion âm

Nguyên nhân chính của sự thay đổi ngày/đêm của ion âm và điện tử (N-/Ne)

2.1.2.2 Hợp phần ion trong tầng điện ly

Hợp phần ion và hợp phần khí trung hòa được rút ra từ tài liệu đo đạc bằng

tên lửa với các phổ kế khối lượng và vệ tinh, Johnson đã tổng kết các kết quả của

phép đo nồng độ sẵn có được minh họa trên hình 2.2.

Hình 2.2, Hợp phần khí quyển và tầng điện ly trong thời gian ngày dựa trên phép đo

phổ kế khối lượng và vệ tinh (H. Rishbeth and O. K. Garriott,[76]).

Ở phía dưới độ cao 100 km, N2 và O2 có cùng tỷ lệ như trong vùng khí quyển

dưới thấp là khoảng 4:1, và chiếm tỷ lệ trội hơn các thành phần khí khác. Từ hình

2.2 ta thấy rằng gần độ cao 110 km, lượng Oxy nguyên tử đạt tới lượng Oxy phân

tử, và phía trên độ cao khoảng 250 km thì mật độ Oxy nguyên tử vượt quá mật độ

của N2. Xu hướng này gây bởi hiện tượng quang phân ly O2 bởi bức xạ cực tím của

Mặt Trời. Sự chiếm ưu thế của Oxy nguyên tử trong hợp phần khí trung hòa được

phản ánh bởi hợp phần plasma. Ở phần bên trái của hình chỉ ra tuyến phân bố ion và

mật độ electron (được gán là e-). Gần đỉnh mật độ plasma, các ion chủ yếu là O+,

27

tương ứng với nồng độ cao của Oxy nguyên tử trong khí trung hòa. Khoảng độ cao

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

+ lại trở lên quan trọng và chiếm

từ 150 đến 500 km được gọi là lớp F, và độ cao mà mật độ điện tử đạt giá trị lớn

nhất được gọi là đỉnh F. Dưới đỉnh này, NO+ và O2

ưu thế trong plasma dưới khoảng 150 km. Khoảng độ cao từ 90 đến 150 km được

gọi là lớp E và tầng ion dưới 90 km được gọi là lớp D. Ở độ cao lớn trên 1000 km,

Hydro trở thành ion chiếm ưu thế và quyển này gọi là quyển proton.

Kết quả trên được áp dụng cho các điều kiện trung bình vào ban ngày đối với

thời kỳ vết đen mặt trời cực tiểu. Từ mô hình ta thấy rằng hợp phần khí trung hòa

+ theo các phương

chính trong nhiệt quyển đó là O, N2 và O2. Như vậy các ion chính được tạo ra bởi sự

quang ion hóa và tương tác trong nhiệt quyển là O+, NO+, O2

trình phản ứng quang hóa sau:

Quang hóa

+ + e

O + h  O+ + e

+ + e

N2 + h  N2

O2 + h  O2

+ + O

Di chuyển hoặc thay đổi

O+ + O2  O2

+ + O  NO+ + N

O+ + N2  NO+ + N

N2

+ + O  O+ + N2

N2

+ + O2  O2

+ + N2

N2

+ + e  O* + O**

Tái hợp phân ly

O2

+ + e  N* + N**

NO+ + e  N* + O*

N2

Chính sự tồn tại của nhiều loại phân tử, ion trong tầng điện ly đã dẫn đến sự

phân tách tầng điện ly thành các lớp tương ứng với các ion đặc trưng của từng lớp

28

như đã được nêu ra ở phần trên.

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

2.1.2.3 Hàm sinh ion của Chapman

Đối với trường hợp đơn giản nhất của một chùm bức xạ mặt trời đơn sắc

song song ion hóa một khí đẳng nhiệt đơn thành phần trong một lớp phân lớp

ngang, tốc độ tạo cặp ion được cho bởi hàm Chapman [76, 79]:

q(h,) = q0e(1-z-sec exp(-z)) với z=(h-h0)/ ∆h (2.2)

Trong đó q(h,χ) là tốc độ tạo ion; h là độ cao; χ là góc thiên đỉnh của Mặt Trời; q0 là

tốc độ sinh ion ở z=0; z là chiều cao rút gọn; h0 là độ cao sinh ion cực đại chuẩn khi

Mặt Trời ở trên đỉnh đầu (hoặc χ=0), và ∆h là độ cao tỷ lệ. Tốc độ tạo ion q0 được

cho bởi:

(2.3)

trong đó I∞ là mật độ thông lượng mặt trời bên ngoài tầng khí quyển tính bằng

photon trên một đơn vị diện tích; η là số cặp ion tạo ra bởi mỗi photon; và e là cơ số

hàm mũ tự nhiên.

Độ cao hmax ở đó xảy ra quá trình tạo ion cực đại thu được bằng cách vi phân

hàm Chapman (2.2), ta có:

(2.4) hmax = h0 + ∆h zmax với zmax = ln sec

Cực đại tạo ion là:

(2.5) qmax = q0 cos

Trong các lớp E và F1, các ion có thể bị tái hợp với các điện tử với tốc độ phụ thuộc

theo qui luật bậc hai vào mật độ điện tử Ne. Loại bỏ số hạng do các quá trình vận

chuyển, ta có phương trình liên tục sau:

(2.6)

Trong đó α là hệ số tái hợp trung bình đối với các ion phân tử. Chú ý rằng (2.6)

không đúng ở độ cao trong tầng điện ly – với mật độ thấp, tại đó tốc độ mất mát phụ

thuộc tuyến tính vào Ne.

Trong cân bằng quang hóa, tức là khi dNe/dt = 0, phân bố mật độ điện tử

29

tương ứng với hàm Chapman (2.2) là:

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

với (2.7)

trong đó Ne,0 là mật độ điện tử ở z = 0. Phân bố này được gọi là phân bố Alpha

Chapman hoặc đơn giản là lớp Chapman.

Độ cao ở đó mật độ điện tử cực đại đồng nhất với độ cao ở đó tốc độ sinh ion

là lớn nhất được cho bởi (2.4). Cực đại mật độ điện tử là:

(2.8)

Tốc độ tạo ion (2.2) và phân bố mật độ điện tử tương ứng (2.7) được chỉ ra

trên các hình 2.3. Với độ cao chuẩn h0 = 350 km, độ cao tỷ lệ ∆h = 100 km, và góc

thiên đỉnh mặt trời là χ=0, nghĩa là độ cao hmax bằng h0 được chỉ ra bằng đường

chấm chấm. Các tuyến đối với góc thiên đỉnh mặt trời: 5o, 10o, 15o, ..., 85o được vẽ

bằng các đường mảnh hơn. Thay đổi cường độ thông lượng mặt trời φ(∞) sẽ thay

đổi giá trị qmax và Ne,max, nhưng không ảnh hưởng tới độ cao tương ứng hmax.

Xem xét kỹ phân bố mật độ (2.7) ta thấy rằng vào buổi trưa Ne,max về mặt lý

thuyết đạt cực đại, và hmax đạt cực tiểu. Khi không có nguồn bức xạ mặt trời, mật độ

điện tử giảm. Ở bán cầu ban đêm, mật độ điện tử thấp và khá ổn định. Chúng ta

thấy rằng mật độ điện tử phụ thuộc mạnh vào vị trí tương đối của Mặt Trời và góc

thiên đỉnh của Mặt Trời, một cách tương ứng, điều này cho thấy có sự biến thiên

ngày đêm cũng như biến thiên theo mùa rõ rệt của mật độ điện tử. Sự phụ thuộc này

của trạng thái tầng điện ly vào vị trí của Mặt Trời có thể được sử dụng một cách có

hiệu quả trong việc mô hình hóa theo không gian và theo thời gian của mật độ điện

tử. Sau khi bị ion hóa, các điện tử tự do có xu hướng phản ứng lại với các phân tử

khác, điều đó cho thấy rằng không chỉ quá trình quang ion hóa mà cả các quá trình

vận chuyển quyết định phân bố không gian của các điện tử và các ion trong tầng

điện ly. Vì vậy tuyến mật độ điện tử thẳng đứng trong tầng điện ly thực tế có thể

30

khác với các tuyến rút ra từ lý thuyết Chapman [76, 79].

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

Hình 2.3, a) Phân bố tuyến mật độ thẳng đứng của lớp Chapman và b) Tốc độ sinh

ion Chapman theo góc thiên đỉnh mặt trời từ 0o đến 85o với bước thay đổi 5o.

2.1.3 Truyền sóng radio qua tầng điện ly

Như trên đã nêu tầng điện ly được xác định là một phần của khí quyển tầng

trên, ở đó tồn tại mật độ điện tử đủ lớn để gây ảnh hưởng lên quá trình truyền sóng

radio. Đối với các sóng radio có tần số nhỏ hơn 100 MHz, thì tầng điện ly được xem

là môi trường hấp thụ và phản xạ sóng. Đối với các sóng cực ngắn, có tần số lớn

31

hơn 100 MHz thì tầng điện ly đóng vai trò là một nguồn nhiễu.

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

Hình 2.4, Mô hình truyền sóng qua tầng điện ly

(http://radiojove.gsfc.nasa.gov/education/educ/radio/tran-rec/exerc/iono.htm).

Quá trình truyền sóng qua tầng điện ly được xác định bởi chỉ số khúc xạ của

môi trường. Chỉ số khúc xạ đối với môi trường ion nhận được từ phương trình

Appleton-Hartree và được biểu diễn như sau [46]:

(2.9)

trong đó X, Y, Z là các đại lượng vô hướng và được xác định như sau:

với:  = 2πf, trong đó f là tần số hoạt động của hệ thống, tính bằng Hz và

2/0m, là tần số góc plasma, tính bằng Hz

N = Ne

B = Be /m, là tần số hồi chuyển của điện tử, tính bằng Hz

L = B cos, là thành phần theo phương kinh tuyến của tần số hồi chuyển

B

T = B sin, là thành phần theo phương ngang của tần số hồi chuyển B

B: mật độ thông lượng từ, Tesla

Ne : mật độ điện tử, tính bằng e/m3

32

e : điện tích của điện tử, = -1.602×10-19 Coulomb,

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

0 : hằng số điện môi trong chân không, = 8.854×10-12 farad/m,

m : khối lượng của điện tử, = 9.107×10-31 kg,

: là góc giữa phương truyền sóng và véc tơ trường từ,

 : tần số va chạm giữa nguyên tử trung hòa và điện tử.

Trong trường hợp bình thường, chỉ số khúc xạ trong tầng điện ly n là một đại lượng

phức tạp và dấu (+) trong phương trình được dùng cho thành phần sóng radio bình

thường O (ordinary wave), dấu (-) được dùng cho sóng bất thường X (extraordinary

wave).

Khác với sự truyền sóng qua tầng đối lưu chủ yếu phụ thuộc vào áp suất,

nhiệt độ và nồng độ hơi nước, sự truyền sóng qua tầng điện ly ảnh hưởng chủ yếu

bởi mật độ điện tử tự do dọc theo đường truyền. Đó chính là đặc trưng quan trọng

của tầng điện ly mà cấu trúc của nó và cực đại mật độ điện tử thay đổi mạnh theo

thời gian trong ngày, theo mùa trong năm, theo vĩ độ địa lý, các nhiễu loạn địa từ và

nhiễu loạn mặt trời.

2.1.4 Hoạt tính mặt trời

Vì quá trình ion hóa trong tầng điện ly bị khống chế chủ yếu bởi bức xạ điện

từ và bức xạ hạt của Mặt Trời, nên nó là một hàm phụ thuộc vào hoạt tính mặt trời.

Trên bề mặt của Mặt Trời có những vệt tối gọi là vết đen mặt trời, lần đầu tiên được

nhận ra bởi Theophrastus khoảng năm 352 trước Công nguyên, đặc trưng cho hoạt

tính của Mặt Trời. Mức độ hoạt động của Mặt Trời thể hiện qua số vết đen trên bề

mặt quan sát được. Các vết đen mặt trời dường như là tối vì nhiệt độ bề mặt ở đó

thấp so với nhiệt độ của vầng hào quang xung quanh Mặt Trời. Các vết đen thường

có kích cỡ từ vài trăm km đến vài chục ngàn km. Thời gian sống của chúng biến đổi

khá rộng, một số vết đen chỉ kéo dài vài ngày, trái lại một số khác còn sống trong

vài chu kỳ quay của Mặt Trời khoảng 27 ngày. Do vết đen mặt trời xuất hiện thành

từng nhóm, trong đó có nhiều vết nhỏ khó mà đếm một cách chính xác nên vào năm

1848, J. R. Wolf ở đài thiên văn Zurich-Thụy Sĩ, đã đề nghị cách tính số vết đen

mặt trời bằng tổng số vết đen riêng biệt cộng với 10 lần số nhóm vết đen (vì mỗi

33

nhóm trung bình có khoảng 10 vết). Tuy nhiên, số này chỉ mang tính tương đối do

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

phụ thuộc nhiều vào quan sát viên, điều kiện và thiết bị quan sát. Số vết đen mặt

trời tính theo công thức của R. Wolf được gọi là số Wolt (W), hay số Rz, là kết quả

quan sát được tại đài quan sát Zurich:

Rz = k (10g + s) (2.10)

Trong đó: g - số nhóm vết đen

s - số vết đen riêng lẻ,

k – hệ số điều chỉnh (Wolf lấy hệ số k = 1)

Số vết đen mặt trời hàng tháng, hàng năm là giá trị trung bình của số vết đen hàng

ngày, có thể là số thập phân. Số Rz được thu thập từ năm 1848 và đến năm 1981

được nối tiếp bằng số vết đen mặt trời quốc tế Ri (International Sunsport Number).

Số này do trung tâm dữ liệu số vết đen mặt trời ở Bỉ cung cấp (Sunsport Index Data

Center - SIDC), dựa trên số liệu thu thập từ hơn 25 trạm quan sát trên nhiều nước.

Ngày nay số trạm trên toàn thế giới mở rộng đến hàng trăm trạm và số Ri được công

bố rộng rãi trên webside: http://www.sidc.be.

Hình 2.5, Số vết đen Mặt Trời trung bình tháng từ năm 1965 đến 2014

(http://www.sidc.be/silso/monthlyssnplot).

Hình 2.5 chỉ ra tiến trình của số vết đen mặt trời trung bình tháng từ năm 1965 đến

năm 2014. Phân tích phổ chuỗi thời gian trung bình tháng của số vết đen mặt trời

34

chỉ ra sự có mặt của các dao động chu kỳ khoảng 11 năm và các hài điều hòa của

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

nó. Trong khoảng thời gian từ 1965 tới 2014 tương ứng với hơn 4 chu kỳ hoạt động

mặt trời.

Khi trên bề mặt của Mặt Trời phát ra các luồng gió mặt trời mạnh, tương tác

với từ quyển của Trái Đất và gây ra nhiễu loạn từ trường của Trái Đất, gọi là bão từ.

Bão từ là một trong những hiện tượng vật lý phức tạp trong trường địa từ. Trong

thời gian bão từ trường từ quan sát được gây bởi nhiều nguồn khác nhau: hệ dòng

Sq trong tầng điện ly gây ra biến thiên ngày đêm đều đặn, các dòng điện ở ranh giới

từ quyển do tương tác của trường địa từ và gió mặt trời ở pha đầu của bão từ, dòng

chạy trong phần đuôi từ quyển, dòng vòng xích đạo, dòng nhiễu loạn trong tầng

điện ly... Các dòng này có độ lớn khác nhau và ở các pha khác nhau của bão. Tham

số thường dùng đặc trưng cho mỗi trận bão từ là chỉ số Dst (disturbance – storm

time). Chỉ số Dst được tính từ sự thay đổi trung bình toàn cầu của thành phần nằm

ngang trường địa từ tại xích đạo từ dựa trên số liệu của bốn trạm đo từ như chỉ ra

Tên trạm

Kinh độ

Vĩ độ

địa lý

địa lý

Hermanus

19.220

-

34.400

Kakioka

140.180

36.230

Honolulu

201.980

21.320

San Juan

292.880

18.110

trên hình 2.6.

Hình 2.6, Tọa độ và vị trí trạm quan sát Dst (http://wdc.kugi.kyoto-u.ac.jp).

Dst được tính mỗi giờ một giá trị và ghi lại theo thời gian thực. Trong thời

gian yên tĩnh, giá trị Dst nằm trong khoảng +20 và -20 nano Tesla (nT). Trong một

trận bão từ thường có 3 pha: pha đầu, pha chính và pha hồi phục. Pha đầu thường

đặc trưng bởi chỉ số Dst tăng lên 20 đến 50 nT trong hàng chục phút. Những trận

bão có xuất hiện pha đầu thường gọi là bão từ bắt đầu bất ngờ. Tuy nhiên không

phải trận bão từ nào cũng có pha đầu và có sự tăng lên bất ngờ của chỉ số Dst. Pha

chính của bão được xác định khi giá trị Dst suy giảm đến giá trị cực tiểu (từ -50nT 35

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

đến -600nT), thời gian xuất hiện pha chính thường kéo dài từ 2 đến 8 giờ. Pha hồi

phục được tính là khi giá trị Dst thay đổi từ giá trị cực tiểu đến giá trị trong ngày

yên tĩnh từ, thời gian của pha hồi phục thường kéo dài từ vài giờ đến vài ngày. Độ

lớn của trận bão từ thường được phân thành 3 mức: trung bình (-100nT < Dst < -

50nT), mạnh (-250nT < Dst < -100nT) và siêu bão (Dst < -250nT).

các thời điểm bắt đầu của pha đầu, pha chính và pha hồi phục của bão từ.

Hình 2.7, Biến thiên của chỉ số Dst từ ngày 12/04 đến ngày 17/04/2006. Các mũi tên chỉ

2.1.5 Tầng điện ly vùng xích đạo và nhiễu loạn điện ly

2.1.5.1 Tầng điện ly vùng xích đạo

Tầng điện ly vùng xích đạo được xác định là vùng điện ly nằm trong khoảng

±200 ở hai phía xích đạo từ. Hình thái của tầng điện ly vùng xích đạo hoàn toàn

khác so với ở các vùng vĩ độ cao và vùng vĩ độ trung bình do đường sức trường từ

ở xích đạo từ gần như song song với bề mặt Trái Đất. Vào ban ngày, các dao

động triều khí quyển và dao động nhiệt trong lớp dưới của tầng điện ly do tác dụng

của bức xạ mặt trời làm di chuyển plasma lên trên và cắt ngang các đường sức từ

trường. Điều đó đã tạo nên một bản dòng trong lớp E cùng với một điện trường

hướng từ tây sang đông. Trường điện này trong lớp E cùng với trường từ nằm

ngang trong vùng xích đạo từ đã đẩy plasma dịch chuyển lên trên vào vùng F của

tầng điện ly (sự trôi dạt dưới tác dụng của lực ). Plasma đã được nâng lên phía

trên xích đạo từ tới các độ cao lớn hơn, đặc biệt khoảng độ cao 500 km, ở đó tốc độ

tái hợp xẩy ra rất chậm, sau đó plasma bị khuếch tán xuống dưới và dịch chuyển

dọc theo đường sức từ trường về phía hai cực dưới tác dụng của trọng lực và

36

gradient áp suất. Kết quả là, dị thường điện ly xích đạo được hình thành với sự suy

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

giảm mật độ ion của lớp F tại xích đạo và sự tăng ion ở hai đỉnh dị thường xung

quanh ±15° vĩ độ từ ở phía bắc và phía nam xích đạo từ (hình 2.8). Hiện tượng này

giống như hình ảnh của “vòi phun” nên người ta thường gọi là “hiệu ứng vòi phun

plasma xích đạo”.

Hình 2.8, Hiệu ứng vòi phun xích đạo

(http://www.everythingselectric.com/forum/index.php?topic=170.0).

Gần với thời điểm Mặt Trời lặn, động học trong tầng điện ly vùng vĩ độ thấp

bị chi phối bởi trường điện hướng đông tăng lên bất thường trước khi đảo chiều đổi

sang hướng tây (Preversal Electric Field Enhancecement - PRE). Trong những giờ

sau khi Mặt Trời lặn, mật độ plasma và động học trường điện trong vùng E giảm,

đồng thời đỉnh dị thường điện ly mất dần, trong khi đó tại thời gian này động học

trường điện bắt đầu phát triển trong vùng F. Với sự suy giảm mật độ ion trong vùng

E sau khi Mặt Trời lặn và sự phát triển trường điện trong vùng F làm hình thành

gradient mật độ plasma thẳng đứng hướng lên ngược với hướng của trọng lực trong

vùng đáy của lớp F. Trạng thái này gọi là trạng thái bất ổn định Rayleigh-Taylor

(RT) và là nguyên nhân phát sinh các dị thường mật độ trong tầng điện ly vùng xích

đạo và vùng vĩ độ thấp, đặc biệt tại vùng đỉnh dị thường. Sự phát triển không tuyến

tính của các bất ổn định này dẫn đến sự hình thành các vùng suy giảm điện ly lớn,

hiện tượng này thường quan sát thấy trong vùng điện ly xích đạo và gọi là bọng

37

plasma [46, 76, 89].

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

2.1.5.2 Lớp E rời rạc (Sporadic E)

Lớp E rời rạc hay còn được gọi là lớp Es xuất hiện trong vùng E của tầng

điện ly, nằm trong vùng độ cao từ 100 đến 130 km. Es là đặc trưng cho sự xuất hiện

các mảng nhiễu loạn trong vùng E, với kích thước khoảng vài trăm mét về độ dầy.

Sự xuất hiện của lớp Es là ngẫu nhiên và không có khả năng dự báo, có thể xuất

hiện bất kỳ thời điểm nào trong ngày, mùa trong năm và ở cả ba vùng vĩ độ, nhưng

xuất hiện thường xuyên nhất tại các vĩ độ gần xích đạo. Sự xuất hiện Es thường

xuyên tại xích đạo được cho là gây bởi các nhiễu loạn plasma liên quan tới dòng

điện xích đạo trong vùng E của tầng điện ly.

2.1.5.3 Vết lớp F trải rộng (Spread-F)

Thuật ngữ “Spread F” hay vết lớp F trải rộng (Fs) được sử dụng để gọi tên

vết khi có hiện tượng vết điện ly trải rộng trên điện ly ở độ cao nằm trong vùng F

của tầng điện ly. Khoảng thời gian xuất hiện hiện tượng này được gọi là thời kỳ của

Fs và các nhiễu loạn gây ra Fs được gọi là nhiễu loạn Fs. Nét đặc trưng chính trong

phân bố theo địa lý của Fs là tồn tại hai vùng thường xuyên xuất hiện đó là ± 200 vĩ

độ hai bên xích đạo từ và tại các vĩ độ cực. Thường xuất hiện trong khoảng độ cao

từ 250 đến 600 km, với kích thước nhiễu loạn đạt tới từ một vài mét tới hàng 100

km hoặc hơn. Spread F xích đạo (ESF-Equatorial Spread F), là hiện tượng biểu hiện

các bất ổn định plasma điện ly, thường xuất hiện trong vùng F khu vực xích đạo sau

khi Mặt Trời lặn. Cơ chế hình thành ESF chủ yếu gây bởi trạng thái bất ổn định

Rayleigh-Taylor (Gravitational Rayleigh-Taylor, GRT) trong mối liên hệ với các

quá trình vật lý khác trong tầng điện ly vùng xích đạo. Vào thời điểm sau khi Mặt

Trời lặn, dưới tác dụng của thành phần trường điện lớp F khu vực xích đạo từ được

nâng lên đột ngột đến một độ cao nơi có mật độ plasma thấp và sự va chạm plasma

hiếm xảy ra. Vùng gradient nồng độ điện tử dương tính của đáy lớp F tăng lên

nhanh chóng làm cho vùng điện ly trở nên mất ổn định và hỗn loạn dẫn tới sự tăng

trưởng bọt plasma. Trạng thái này ảnh hưởng lớn đến cấu trúc vùng đáy của lớp và

là điều kiện quan trọng cho sự hình thành các bất ổn định. Vào giai đoạn đầu của sự

hình thành spread F khi các cấu trúc bất ổn định cỡ nhỏ (vài chục cm đến vài chục

38

m) và các cấu trúc cỡ lớn (vài chục km đến vài trăm km) cùng tồn tại và làm nhiễu

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

loạn phần đáy lớp F. Sau đó khi các cấu trúc bất ổn định này phát triển lên phía trên,

xuyên qua toàn bộ lớp F lên đến phần đỉnh thì các bất ổn định nhỏ bị triệt tiêu chỉ

còn lại các cấu trúc bất ổn định lớn và hình thành các cấu trúc dạng bọt bong bóng

(bubble), đây được gọi là giai đoạn phân rã hay giai đoạn gần kết thúc của quá trình

phát triển ESF [22, 39, 85].

2.1.5.4 Các nhiễu loạn điện ly

Bằng các kỹ thuật khác nhau người ta quan trắc thấy phạm vi bất ổn định có

thể từ hàng chục centimét tới hàng trăm kilômét tạo thành các mảng nhiễu loạn điện

ly có kích thước khác nhau. Các nhiễu loạn điện ly di chuyển (traveling ionospheric

disturbances - TID) có thể gây nên những biến đổi ở mật độ điện tử tổng cộng

khoảng vài phần trăm. Người ta có thể chia các nhiễu loạn theo kích thước như sau:

- Các nhiễu loạn điện ly dịch chuyển quy mô lớn (Large-scale TIDs -

LSTIDs), có chu kỳ từ khoảng 30 phút tới 3 giờ và có bước sóng ngang lớn hơn

1000km.

- Các nhiễu loạn điện ly dịch chuyển quy mô trung bình (Medium-scale TIDs

- MSTIDs), có chu kỳ từ khoảng 10 phút tới 1 giờ và có bước sóng ngang khoảng

vài trăm km.

- Các nhiễu loạn điện ly dịch chuyển quy mô nhỏ (Small-scale TIDs -

SSTIDs), có chu kỳ cỡ vài phút và bước sóng ngang hàng chục km.

Nhiễu loạn điện ly là một hiện tượng có tính toàn cầu. Hiện nay chúng ta còn

chưa có nhiều hiểu biết về khí hậu học các nhiễu loạn điện ly. Các cấu trúc quy mô

nhỏ nhất ở phân bố mật độ điện tử gây nên những hiệu ứng thăng giáng, những biến

thiên nhanh ở nồng độ điện tử. Những thăng giáng điện ly chủ yếu xảy ra trong

vùng xích đạo, vùng vĩ độ cao và vùng cực.

Cuối cùng là những hiện tượng điện ly rất lớn, được gọi là bão điện ly.

Những hiện tượng này thường đi kèm với nhiễu loạn mạnh của trường từ (bão từ)

và những bùng nổ sắc cầu lớn của Mặt Trời. Bão điện ly thường tạo nên một số

lượng lớn điện tử. Kiểu bão điện ly, trong đó có các bất đối xứng theo vĩ độ và kinh

độ, có thể thay đổi đáng kể từ sự kiện này tới sự kiện khác, điều đó làm cho không

39

thể dự báo một cách chính xác các bão điện ly. Năm 1980 Blanc và Richmond [31]

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

đề xuất mô hình dynamo nhiễu loạn điện ly. Nguyên lý cơ bản của mô hình này

được trình bày trên hình 2.9, mô hình dynamo nhiễu loạn điện ly này có thể cho

phép hiểu được một cơ chế phát sinh quan trọng của các dòng và trường điện ở

vùng vĩ độ trung bình và vĩ độ thấp diễn ra sau quá trình đốt nóng vùng cực mạnh

mẽ trong thời gian bão từ.

Hình 2.9, Mô hình Dynamo nhiễu loạn điện ly (Blanc & Richmond, 1980 [31]).

Trong thời gian bão từ, tầng điện ly vùng cực bị đốt nóng do sự toả nhiệt Jun

của các dòng điện vùng cực quang và sự gia tăng của các luồng hạt gió mặt trời.

Nhiệt lượng toả ra được lan truyền đi một cách đồng nhất từ vùng vĩ độ cao tạo nên

gió trung hòa theo phương kinh tuyến hướng về phía xích đạo tại các độ cao vùng F

được ký hiệu là . Do tác động của lực Coriolis, gió kinh tuyến hướng xích đạo tạo

ra chuyển động vĩ hướng hướng về phía tây (véc tơ ). Chuyển động vĩ hướng

tổ hợp với thành phần trường từ hướng xuống dưới (được ký hiệu là ) tạo ra một

dòng Pedersen hướng về xích đạo ( ) ở trong tầng điện ly ở độ cao khoảng 150

km ở đó độ dẫn Pedersen của tầng điện ly là cao nhất. Dòng Pedersen có xu hướng

làm tích tụ các điện tích dương ở xích đạo thiết lập nên một điện trường hướng

ngược với hướng của dòng Pedersen và cuối cùng làm triệt tiêu dòng Pedersen.

Điện trường hướng về cực này được ký hiệu là và hướng vuông góc với thành

phần hướng xuống dưới của trường từ tác động

. Đến lượt mình, điện trường 40

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

với thành phần hướng xuống dưới của trường từ làm xuất hiện một dòng Hall

hướng về phía đông. Các dòng hướng về phía đông này được hy vọng là có cường

độ cực đại ở các vĩ độ trung bình. Dòng Hall được ký hiệu là . Dòng Hall này là

bị gián đoạn ở danh giới bình minh và hoàng hôn ở đó độ dẫn điện ly có gradient

dọc theo phương kinh tuyến lớn. Các dòng bị gián đoạn này tạo nên các hạt tích

điện phân cực ở các ranh giới bình minh và hoàng hôn tạo nên một điện trường

hướng từ phía hoàng hôn sang phía bình minh. Hơn nữa các dòng bị lệch đi về vùng

vĩ độ cao hơn và vùng vĩ độ thấp hơn do đó tạo nên 2 xoáy dòng như được chỉ ra

trên hình 2.9, một xoáy dòng ở vùng vĩ độ cao và một xoáy dòng ở vùng xích đạo.

Điều quan trọng phải nhấn mạnh rằng xoáy dòng nhiễu loạn ở vùng xích đạo xoay

theo chiều kim đồng hồ, nghĩa là có hướng ngược với hướng của xoáy dòng Sq bình

thường, điện trường liên quan với dòng nhiễu loạn này cũng hướng từ phía đông

sang phía tây ngược với hướng của điện trường liên quan với hệ dòng Sq [46, 76,

89]. Trong giai đoạn đầu của bão từ (pha chính), trường từ giữa các hành tinh

hướng về phía Nam, sự tương tác giữa trường từ giữa các hành tinh và gió mặt trời

sẽ tạo nên trường điện hướng từ phía bình minh sang phía hoàng hôn ở tầng điện ly

vùng cực. Sau đó trường điện này thâm nhập trực tiếp xuống vùng xích đạo, làm gia

tăng điện trường hướng đông ở điều kiện bình thường, làm gia tăng hiệu ứng vòi

phun và như vậy thường ở giai đoạn đầu của bão từ người ta quan sát được hiện

tượng gia tăng của mật độ điện tử của đỉnh dị thường (bão điện ly dương) và sự dịch

chuyển của đỉnh dị thường về phía cực. Ở giai đoạn sau của bão khi dynamo nhiễu

loạn điện ly phát triển tạo ra điện trường hướng ngược lại từ đông sang tây ở khu

vực xích đạo như đã phân tích, điện trường hướng đông suy giảm, làm suy giảm

hiệu ứng vòi phun kèm theo sự dịch chuyển về phía xích đạo của đỉnh dị thường

(bão âm). Tuy nhiên, gió không phải là nguyên nhân duy nhất của các hiệu ứng như

vậy. Nhiều cơ chế khác bao gồm sự thay đổi thành phần khí trung hòa, sự ion hóa

vận chuyển theo chiều ngang cùng với điện trường gây ra sự suy giảm mật độ…

[46, 57, 76]. Dấu hiệu từ của dynamo nhiễu loạn điện ly đã được Lê Huy Minh &

Mazaudier [63] chỉ ra trên số liệu các trạm địa từ ở khu vực xích đạo và ở các vùng

41

vĩ độ khác.

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

2.2 Hệ thống định vị toàn cầu và cơ sở phân tích số liệu GPS

Phần này sẽ giới thiệu tổng quan về hệ thống định vị toàn cầu. Các tín hiệu

GPS và các thông số quan sát được từ hệ thống này. Các nguồn gây ảnh hưởng lên

tín hiệu GPS và giới thiệu chi tiết về ảnh hưởng của tầng điện ly lên tín hiệu vệ tinh

GPS.

2.2.1 Giới thiệu hệ thống định vị toàn cầu

Hệ thống định vị toàn cầu là một hệ thống dẫn đường bằng sóng radio trong

không gian ở mọi thời tiết, mọi nơi trên Trái Đất và mọi thời điểm, được chính phủ

Mỹ phát triển và thực hiện phục vụ cho các mục đích dân sự và quân sự trong việc

xác định chính xác vị trí, vận tốc và thời gian ở khắp mọi nơi ở trên và gần mặt đất.

Ngày nay hệ thống định vị toàn cầu cũng được sử dụng rộng rãi trong các nghiên

cứu khoa học: nghiên cứu chuyển động kiến tạo mảng của vỏ Trái Đất, nghiên cứu

thời tiết vũ trụ, tầng khí quyển, tầng điện ly…

Về cơ bản, GPS là một hệ thống xác định khoảng cách 1 chiều, được chia

làm 3 bộ phận chính (hình 2.10): bộ phận trên không gian, bộ phận điều khiển, và

bộ phận sử dụng bao gồm nhiều loại máy thu.

Hình 2.10, Các bộ phận trong hệ thống GPS.

42

(https://www.elprocus.com/gps-based-voice-alert-system-for-blind-people/)

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

2.2.1.1 Bộ phận không gian

Bộ phận hoạt động trên không gian của hệ thống GPS chính là các vệ tinh,

bộ phận này có từ 24 đến 32 vệ tinh được xắp xếp bay trong 6 mặt phẳng quỹ đạo

nghiêng khoảng 55o so với mặt phẳng xích đạo của Trái Đất và cách đều nhau một

góc 60o trên xích đạo. Các quỹ đạo vệ tinh là gần tròn, với một nửa trục chính

khoảng 26600 km, tương ứng với độ cao xấp xỉ 20200 km trên bề mặt Trái Đất

(hình 2.11).

Hình 2.11, Vệ tinh GPS và quỹ đạo bay trong 6 mặt phẳng nghiêng 55o

(http://www.gps.gov/systems/gps/space/). Vệ tinh GPS đầu tiên được chế tạo và phóng thành công vào ngày 22 tháng 2

năm 1978. Đến ngày 8 tháng 12 năm 1993, chùm 24 vệ tinh đã đi vào hoạt động

đầy đủ, cả chùm vệ tinh hoạt động liên tục mọi thời điểm trong ngày đảm bảo rằng

tại bất kỳ thời điểm nào ở bất kỳ vị trí nào trên hoặc gần mặt đất có thể nhìn thấy ít

nhất 4 vệ tinh. Hiện nay chùm vệ tinh của hệ thống GPS có tổng cộng 32 vệ tinh

hoạt động liên tục như được chỉ ra trong bảng 2.2. Hình 2.12 chỉ ra vết các vệ tinh

nhìn thấy trên mặt đất, với mật độ dầy đặc và chu kỳ vòng quay quỹ đạo mỗi vệ tinh

là khoảng 11 giờ 58 phút, gần như đúng một nửa ngày thiên văn, đảm bảo tại mỗi vị

trí trên Trái Đất có thể nhìn thấy ít nhất là 4 vệ tinh. Do chu kỳ quỹ đạo là bội chính

43

xác của chu kỳ quay của Trái Đất, nên các vệ tinh hoàn thành hai vòng quay quỹ

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu đạo trong khi Trái Đất quay được một góc 360o so với không gian quán tính. Tuy

nhiên, các vệ tinh xuất hiện ở một vị trí sớm hơn khoảng 4 phút ở mỗi ngày mặt

trời.

Bảng 2.2 Tổng số vệ tinh GPS và tình trạng hoạt động

(http://www.insidegnss.com/node/918)

Vệ tinh phóng

Thời gian Phóng

Hỏng

Vệ tinh đang bay trên quỹ đạo và tình trạng hiện nay

Thành công

Chuẩn bị phóng

Kế hoạch

Tên nhóm vệ tinh

1978–1985

10

1

0

Không còn hoạt động

0

(số liệu được cập nhật đến ngày 13/6/2014)

I

1989–1990

9

0

0

Không còn hoạt động

0

II

19

0

0

3 vệ tinh hoạt động

0

IIA 1990–1997

12

1

0

12 vệ tinh hoạt động

0

IIR 1997–2004

8

0

0

7 vệ tinh hoạt động

0

IIR-M 2005–2009

9

0

3

9 vệ tinh hoạt động

0

IIF Từ 2010

0

0

0

Chưa phóng

12

IIIA Từ 2016

-

0

0

0

Chưa phóng

8

IIIB

-

0

0

0

Chưa phóng

16

IIIC

67

2

3

32

36

Tổng số

Hình 2.12, Vết các vệ tinh GPS trên mặt đất.

(http://www.colorado.edu/geography/gcraft/notes/gps/gps_f.html)

Ngoài hệ thống định vị toàn cầu của Mỹ, Liên Xô (nay là Nga) cũng phát

triển một hệ thống vệ tinh dẫn đường toàn cầu có tên gọi GLONASS (GLObal

Navigation Satellite System), có các đặc tính tương tự, hiện tại có 28 vệ tinh hoạt 44

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

động. Liên minh Châu Âu cũng đang phát triển hệ thống vệ tinh dẫn đường mang

tên Galileo, hiện tại có 6 vệ tinh đang hoạt động và dự kiến có khoảng 30 vệ tinh

hoạt động vào năm 2019. Tiếp đến là Trung Quốc đang phát triển hệ thống vệ tinh

dẫn đường mang tên BeiDou, đã có 14 vệ tinh hoạt động và dự kiến có khoảng 35

vệ tinh hoạt động bao phủ toàn cầu vào năm 2020. Tên gọi chung cho các hệ thống

vệ tinh này là hệ thống vệ tinh dẫn đường toàn cầu (Global Navigation Setellite

System - GNSS).

2.2.1.2 Bộ phận điều khiển

Bộ phận điều khiển gồm 4 trạm điều khiển và 1 trạm chủ. Trạm chủ được đặt

ở Colorado Springs, Hoa Kỳ. Bốn trạm điều khiển được đặt ở Hawaii, Kwajalein,

Ascension Island, Diego Garcia, (hình 2.13). Hệ thống các trạm điều khiển sử dụng

ăng-ten mặt đất, đảm bảo cho các vệ tinh bay đúng quỹ đạo, thực hiện việc đồng bộ

thời gian cho các đồng hồ nguyên tử, lịch thiên văn trên mỗi vệ tinh, cũng như cập

nhật được “thời tiết không gian".

Hình 2.13, Các trung tâm điều khiển GPS.

2.2.1.3 Bộ phận sử dụng

Các máy thu GPS chính là bộ phận sử dụng trong hệ thống GPS. Ngày nay,

các máy thu GPS được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới với nhiều loại máy thu

khác nhau, máy thu GPS thu nhận thông tin từ các vệ tinh sẽ cung cấp cho người

dùng vị trí, vận tốc di chuyển, thời gian thực... Phân khúc người dùng bao gồm một

số lượng người dùng Mỹ và đồng minh quân sự của Dịch vụ GPS định vị chính xác,

và rất nhiều người sử dụng phục vụ cho mục đích dân sự: thương mại, nghiên cứu

45

khoa học. Một vài ứng dụng nổi bật của công nghệ GPS có thể được kể đến như

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

sau:

- Cung cấp thang thời gian chuẩn toàn cầu phục vụ đồng bộ hệ thống năng

lượng, viễn thông, ngân hàng…

- Định vị dẫn đường trong không gian ba chiều, sử dụng để làm hoa tiêu

trong hàng không, đường thủy và cả vận tải đường bộ.

- Xác định vị trí chính xác, được sử dụng trong trắc địa, nghiên cứu chuyển

động kiến tạo của vỏ Trái Đất.

- Ứng dụng trong nghiên cứu hàm lượng hơi nước trong tầng đối lưu, nghiên

cứu tầng điện ly... cung cấp những thông tin rất hữu ích trong nghiên cứu khí tượng,

truyền thông, thời tiết không gian.

2.2.2 Tín hiệu GPS

Mỗi vệ tinh GPS là một máy dao động chất lượng cao, nó là một tập hợp các

đồng hồ nguyên tử Cesi và Rubidium, được dùng để phát ra kế tiếp nhau hai sóng

mang liên kết L1 và L2 tương ứng với hai tần số GPS là f1 và f2 (hình 2.14). Hai tần

số mang này được rút ra từ tần số cơ bản ν0 = 10,23 MHz: f1 = 154 ν0 = 1575,42

MHz; f2= 120 ν0 = 1227,60 MHz. Tương ứng là 2 bước sóng λ1= c / f1 = 190 mm,

λ2= c / f2 =244 mm, với c là vận tốc ánh sáng trong chân không bằng 299 792 458

m/s. Một số vệ tinh GPS phóng từ năm 2010 được bổ xung thêm sóng mang L5 có

tần số phát f5=1,17645 GHz. Hai sóng mang liên kết L1 và L2 được sử dụng để loại

bỏ ảnh hưởng của nguồn sai số như khúc xạ do tầng điện ly, là một trong những

mục đích chính đề cập tới trong luận án này.

Có hai mã nhiễu giả ngẫu nhiên (PRN) được điều biến trên hai sóng mang cơ

bản được phát ra trong quá trình truyền:

+ Mã thứ nhất là mã C/A có thể dùng cho mục đích dân sự. Mã C/A, được

chỉ định như phục vụ định vị chuẩn (SPS), có bước sóng hiệu dụng xấp xỉ 300m.

Mã C/A là một mã lặp lại nhiễu giả ngẫu nhiên tần số 1,023 MHz. Mã C/A hiện nay

được điều biến chỉ ở tần số f1 và được loại bỏ một cách có chủ ý khỏi tần số f2.

+ Mã thứ hai là mã P (mã chính xác) dành riêng cho quân đội Mỹ và những

người sử dụng được phép khác. Mã P, được chỉ định phục vụ định vị chính xác

(Presice Positioning Service-PPS ), có bước sóng hiệu dụng là 30m, có tần số 10,23 46

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

MHz. Mã P (P1 và P2) được điều biến trên cả hai sóng mang L1 và L2. Để ngăn chặn

không cho những người sử dụng dân sự dùng đầy đủ tính năng của hệ thống, thì chế

độ hoạt động chống giả mạo tín hiệu (Anti-Spoofing - AS) đã được sử dụng từ 31

tháng 1 năm 1993. Mã P1 được viết lại dưới dạng mật mã chuyển thành mã Y và chỉ

sử dụng được khi người dùng có khóa mở mật mã, chỉ còn mã C/A và mã P2 được

sử dụng rộng rãi.

Bên cạnh mã PRN, tín hiệu còn được điều chế bởi bản tin định vị chứa thông

tin về trạng thái vệ tinh, độ lệch đồng hồ vệ tinh, và lịch thiên văn vệ tinh được điều

biến trên cả hai sóng mang.

Hình 2.14 Tín hiệu GPS (http://www.colorado.edu/geography/gcraft/notes/gps/gps.html)

Về nguyên tắc, GPS là một hệ thống đo khoảng cách một chiều. Tín hiệu

được phát ra bởi một vệ tinh và thu được bởi một máy thu phù hợp. Thực chất, quan

sát GPS là đo thời gian truyền tín hiệu từ vệ tinh tới máy thu. Do sự thiếu đồng bộ

của đồng hồ máy thu, người ta không thể suy ra một cách trực tiếp khoảng cách từ

phép đo, do đó khoảng cách đo được gọi là giả khoảng cách.

Trong nghiên cứu GPS, phép đo giả khoảng cách là phép đo rất được quan

tâm, nếu sử dụng mã C/A (giả tần số 1,023 MHz) độ chính xác khoảng 30m. Còn

nếu sử dụng mã P (giả tần số 10,23 MHz) độ chính xác đạt tới 10m, một lưu ý rằng,

47

độ rộng xung càng nhỏ cho độ chính xác càng cao (hình 2.15).

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

Hình 2.15, Thời gian truyền tín hiệu giữa vệ tinh và máy thu GPS.

Với phép đo pha, độ chính xác có thể đạt tới 2 mm trên cả L1 hoặc L2 [48],

nhưng có một khó khăn gặp phải là không biết được độ lệch pha ban đầu (hình

2.16).

Hình 2.16, Phép đo pha trong nghiên cứu GPS.

2.2.3 Khả năng quan sát của GPS

Các kiểu quan sát của các máy thu GPS tùy thuộc vào khả năng kỹ thuật của

các loại máy thu khác nhau. Các kiểu máy thu tần số đơn chỉ có thể thu được trên

tín hiệu L1, trong khi đó những máy thu hai tần số có thể thu được cả hai tín hiệu L1

và L2. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào các quan sát GPS đều thu được ba thông

tin được gọi là: giả khoảng cách, pha sóng mang và độ dịch tần số Doppler.

2.2.3.1 Giả khoảng cách (code)

Tín hiệu mã C/A, mã P hoặc mã hóa Y được phát ra bởi vệ tinh k tại thời

(2.11)

k là giả khoảng cách (quan sát mã hóa) được biểu thị bằng đơn vị độ dài;

điểm tk và được thu bởi máy thu i tại thời điểm ti được xác định như sau:

trong đó Pi

48

c là vận tốc ánh sáng trong chân không; ti là thời gian tới (quan sát) của tín hiệu, đo

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

bởi đồng hồ máy thu i; tk là thời gian phát tín hiệu, đo được trong hệ quy chiếu thời

gian của vệ tinh k; là thời gian truyền tín hiệu không kể sai số của đồng

k, khoảng cách

hồ vệ tinh và của máy thu.

k có thể liên quan tới khoảng nghiêng ρi

Giả khoảng cách Pi

hình học giữa máy thu i tại thời điểm ti-ti và vệ tinh k tại thời điểm tk-tk, và sự trễ

gây bởi tầng khí quyển của Trái Đất. Vì vậy giả khoảng cách trong phương trình

k

k

(2.11) được viết lại như sau:

k = ρi

k + c(∆ti − ∆tk ) + ∆ρi

,trop + ∆ρi

,ion + c(bk + bi ) + ε (2.12)

Pi

k là khoảng cách thực từ vệ tinh thứ k đến máy thu thứ i; ∆ti, ∆tk là các độ

trong đó, ρi

lệch của đồng hồ máy thu và đồng hồ vệ tinh so với thời gian của hệ thống GPS;

i,trop là độ trễ của tín hiệu do tầng đối lưu (hoặc tầng khí quyển trung hòa); ∆ρk

i,ion

∆ρk

là độ trễ của tín hiệu do tầng điện ly; bk, bi là các độ trễ do phần cứng của máy thu

và của vệ tinh được biểu thị bằng đơn vị thời gian; c là vận tốc ánh sáng trong chân

không; ε là sai số ngẫu nhiên, trong đó bao gồm cả sai số do hiệu ứng nhiều đường

truyền của tín hiệu.

2.2.3.2 Quan sát pha mang (Carrier phase)

Quan sát pha mang là phép đo pha của tín hiệu từ vệ tinh đến máy thu, viết

k + ε (2.13)

lại phương trình quan sát (2.12) tương ứng cho quan sát pha mang ta có:

k = ρi

k + c(∆ti − ∆tk ) + ∆ρk

i,trop − ∆ρk

i,ion + λBi

Li

k là khoảng

i là quan sát pha mang, được biểu thị bằng đơn vị độ dài; ρi

trong đó Lk

k là ký hiệu độ lệch không đổi, được biểu thị bằng

cách thực từ vệ tinh thứ k đến máy thu thứ i; λ là bước sóng tương ứng, c là vận tốc

ánh sáng trong chân không; Bi

i. Nói

vòng quay, về nguyên tắc chứa giá trị không xác định pha mang ban đầu Nk

i chứa λ(Nk

i + δNk

i) + c(bk + bi) , trong đó, Nk

i là số nguyên và

một cách chặt chẽ, λBk

i ký hiệu cho sự ảnh hưởng gây bởi “pha kết thúc”. Tuy nhiên, người ta không

δNk

i khỏi bk và bi và vì vậy phải thay thế bằng λBk

i trong đó Bk

i bây giờ là

thể tách Nk

i phải

một số thực. Trong trường hợp tổng quát, một tham số độ lệch chưa biết Bk

được xác định cho mỗi lần vệ tinh đi qua, cho mỗi máy thu và mỗi tần số. So sánh

các phương trình (2.12) và (2.13), người ta thấy rằng độ trễ nhóm và sự sớm pha

i,ion có độ lớn bằng nhau nhưng ngược dấu.

49

gây bởi sự khúc xạ điện ly ∆ρk

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

2.2.3.3 Quan sát Doppler

Tần số Doppler là hệ số thay đổi khi quan sát pha mang, nó phản ánh quan

hệ vận tốc giữa máy thu và vệ tinh GPS. Thông tin này có thể sử dụng khi tính vi

sai vận tốc. Phương trình biểu diễn tương tự như phương trình quan sát pha mang

nhưng không bao hàm hệ số chứa tham số không xác định ban đầu là:

i = ρk

i + c(∆ti − ∆tk ) + ∆ρk

i,trop − ∆ρk

i,ion + ε (2.14)

φk

i là hệ số pha của pha mang, được biểu thị bằng đơn vị độ dài. Các tham

trong đó, φk

số còn lại tương tự như trong phương trình (2.13).

Các phương trình (2.12), (2.13) và (2.14), biểu diễn các phương trình quan

sát GPS cơ bản, chúng cho thấy khả năng ứng dụng “đa ngành” của GPS:

i chứa đựng thông tin “hình học” cho phép xác định vị

+ Khoảng nghiêng ρk

trí các máy thu, các quỹ đạo vệ tinh, các độ lệch và các biến đổi tâm pha ăng-ten.

+ Các số hạng ∆tk và ∆ti chứa đựng thông tin liên quan tới đồng hồ máy thu

và đồng hồ vệ tinh, cho phép chuyển đổi thời gian và tần số sang khoảng cách có

tính liên lục địa.

i,trop và ∆ρk

i,ion chứa đựng thông tin về tầng đối lưu và tầng

+ Các số hạng ∆ρk

điện ly.

Trong phần sau của luận án, chúng tôi cũng chỉ tập trung vào khai thác số

i,ion, chứa thông tin về tầng điện ly, là một trong số ứng dụng quan trọng

hạng ∆ρk

của công nghệ GPS trong nghiên cứu tầng điện ly của Trái Đất.

2.2.4 Các nguồn lỗi của tín hiệu GPS

Ngoài nguyên nhân chủ quan do chính phủ Mỹ sử dụng mã P, để phục vụ

mục đích quân sự, còn có những nguyên nhân khác ảnh hưởng tới tín hiệu GPS. Các

nguồn gây ra sai số trên tín hiệu có thể phân thành 3 nhóm: lỗi liên quan đến vệ

tinh, lỗi gây ra do máy thu, và lỗi liên quan đến môi trường truyền tín hiệu. Lỗi liên

quan đến vệ tinh bao gồm sai số do đồng hồ vệ tinh và sai số do quỹ đạo vệ tinh.

Lỗi liên quan đến máy thu bao gồm sai số do độ lệch tâm pha Ăng-ten, sai số đồng

hồ máy thu, nhiễu. Lỗi liên quan đến đường truyền bao gồm độ trễ gây bởi tầng đối

50

lưu và tầng điện ly, hiệu ứng đa đường truyền, nhiễu. Tổng hợp các nguồn lỗi này

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

và mức độ ảnh hưởng tương ứng được chỉ ra trong bảng 2.3.

Bảng 2.3 Mô hình sai số chuẩn cho mã C/A [70]

Nguồn sai số Sai số (m)

1, Vệ tinh:

- Độ lệch đồng hồ vệ tinh 2,1

- Sai số quỹ đạo vệ tinh 2,1

2, Máy thu:

- Độ lệch tâm pha Ăng-ten, 0,5

nhiễu…

3, Môi trường truyền:

- Hiệu ứng đa đường truyền 1,4

- Khúc xạ gây bởi tầng đối lưu 0,7

- Khúc xạ gây bởi tầng điện ly 4,0

Độ lệch đồng hồ vệ tinh: Đồng hồ nguyên tử gắn trên vệ tinh thường bị chi

phối bởi nhiễu và gây ra các sai số trễ. Các tín hiệu truyền về thường chứa đựng

thông tin hiệu chỉnh cho các sai số này và đánh giá mức độ chính xác của đồng hồ

vệ tinh. Tuy nhiên các giá trị này lại được dự báo dựa trên những quan sát trước đó

và có thể không cho ta biết được trạng thái hiện tại của đồng hồ vệ tinh như thế nào.

Sai số quỹ đạo vệ tinh: Cũng được biết như lỗi thiên văn, do vệ tinh thông

báo vị trí không chính xác.

Sai số do máy thu: sự chính xác của tín hiệu thu nhận cũng phụ thuộc vào

loại máy thu, môi trường đặt máy, độ chính xác đồng hồ, phần mềm sử dụng, hay

độ lệch tâm pha ăng-ten: Tâm pha của ăng-ten là điểm mà tại đó tín hiệu radio được

đo và thông thường không đồng nhất với tâm của ăng-ten về phương diện hình học.

Độ lệch phụ thuộc vào góc nhìn vệ tinh, góc phương vị, và cường độ tín hiệu vệ

tinh, và khác nhau đối với tần số f1 và f2.

Hiệu ứng đa đường truyền: Trong GPS, hiện tượng đa đường truyền xuất

hiện khi tín hiệu phát từ vệ tinh bị va đập vào các tòa nhà, bờ tường hay các dạng

51

địa hình khác trước khi đến ăng-ten thu (hình 2.17).

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

Hình 2.17, Hiệu ứng đa đường truyền trong quan sát GPS (https://www.google.com.vn/search?q=multipath+gps).

Các tín hiệu này mất nhiều thời gian đến ăng-ten thu hơn là được truyền theo

đường thẳng. Kết quả là nhiều bản sao của một tín hiệu xuất hiện tại ăng-ten thu.

Tín hiệu thực được ghi lại sẽ là tổng của nhiều bản sao đó. Không có một mô hình

chuẩn trong hiệu ứng đa đường truyền, sai số do hiện tượng này ở mỗi máy thu là

khác nhau, có tính đặc thù riêng do yếu tố địa hình ảnh hưởng. Tuy nhiên ảnh

hưởng của hiệu ứng này có thể được ước lượng bằng cách tổ hợp các phép đo giả

khoảng cách và pha mang trên hai tín hiệu L1, L2. Nguyên lý này dựa trên thực tế là

sai số do đồng hồ, do tầng đối lưu và các một số hiệu ứng khác ảnh hưởng đến mã

và pha mang có tổng giống nhau. Điều này không còn đúng đối với sự phản xạ trên

tầng điện ly và hiệu ứng đa đương truyền là độc lập tần số.

Sai số gây bởi tầng đối lưu: Tín hiệu GPS không truyền với vận tốc ánh sáng

trong chân không khi truyền qua vùng này. Sự sai lệch vận tốc truyền sóng radio

thay đổi theo nhiệt độ, áp suất và độ ẩm trong tầng đối lưu. Cả quan sát giả khoảng

cách code và quan sát giả khoảng cách pha đều có độ trễ giống nhau khi đi qua

vùng này.

Sai số gây bởi tầng điện ly : Do có sự tồn tại các điện tử tự do trong tầng

điện ly, gây ra sự trễ nhóm và sự sớm pha tín hiệu vệ tinh GPS khi truyền qua. Mức

52

độ ảnh hưởng phụ thuộc vào số lượng điện tử tổng cộng dọc theo đường tia hay phụ

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

thuộc vào nghịch đảo bình phương tần số sóng. Đây có thể được coi là nguồn gây

nhiễu đối với các ứng dụng xác định vị trí chính xác nhưng lại là thông tin quan

trọng trong nghiên cứu đặc trưng của tầng điện ly.

Tiếp sau đây, nghiên cứu sinh chỉ tập trung vào thảo luận chi tiết về ảnh

hưởng của tầng điện ly lên tín hiệu GPS khi truyền từ vệ tinh tới các máy thu trên

mặt đất.

2.2.5 Ảnh hưởng của tầng điện ly lên tín hiệu GPS

Tầng điện ly có thể được coi là nguồn gây ra sai số đáng kể nhất lên độ chính

xác trong phép định vị dẫn đường. Sai số khoảng cách gây bởi tầng điện ly có thể

thay đổi từ một vài mét cho đến vài chục mét tại thiên đỉnh. Tầng điện ly là một môi

trường tán xạ sóng radio, chỉ số khúc xạ là một hàm của tần số sóng, và hai tần số

GPS sử dụng cũng bị tác động trực tiếp bởi tầng điện ly. Không giống như tầng đối

lưu, mật độ điện tử trong tầng điện ly có thể thay đổi rất nhanh về giá trị tuyệt đối.

Mặc dù sai số về khoảng cách gây ra bởi tầng đối lưu thường không thay đổi trong

khoảng ±10%, kể cả trong khoảng thời gian dài, trong khi đó sai số gây bởi tầng

điện ly thay đổi thường ít nhất một bậc biên độ trong tiến trình ngày đêm. Các ảnh

hưởng chính của tầng điện ly lên tín hiệu GPS có thể kể đến như: Sự trễ nhóm hay

sai số khoảng cách tuyệt đối, sự sớm pha hay sai số khoảng cách tương đối, sự trôi

dạt Doppler hay sai số về khoảng cách liên quan đến dịch chuyển, và nhấp nháy tín

hiệu. Tham số của tầng điện ly gây ra hầu hết các ảnh hưởng lên tín hiệu GPS là

tổng số các điện tử trong tầng điện ly, thường gọi là nồng độ điện tử tổng cộng

(TEC). Chi tiết về biến đổi của TEC khu vực Việt Nam sẽ được trình bày trong

chương 3 của luận án.

Cơ sở phân tích các ảnh hưởng trên có liên quan đến chỉ số khúc xạ của tầng

điện ly. Chỉ số này đã được nêu trong mục 2.1.3 của luận án, việc tìm hiểu về chỉ số

khúc xạ có thể cho chúng ta suy ra được các ảnh hưởng lên tín hiệu GPS khi truyền

qua tầng điện ly.

2.2.5.1 Sự trễ nhóm – sai số khoảng cách tuyệt đối

53

Sự trễ nhóm tín hiệu gây ra bởi tầng điện ly khi truyền qua nó sẽ phát sinh

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

sai số về khoảng cách khi đo, nó có thể được biểu diễn theo đơn vị khoảng cách

hoặc theo đơn vị thời gian trễ tùy theo nhu cầu của người sử dụng. Sự trễ nhóm liên

quan đến chỉ số khúc xạ trong môi trường điện ly do có sự xuất hiện các điện tử tự

do, được tính theo công thức sau:

(2.15)

hay (2.16)

trong đó Δt, Δr là độ trễ nhóm tính theo đơn vị thời gian và khoảng cách, c là vận

tốc ánh sáng trong chân không, n là chỉ số khúc trong tầng điện ly tính theo công

thức (2.9). Vì chúng ta chỉ xem xét quá trình truyền sóng radio tại tần số GPS, nên

các số hạng X, YT, YL và Z trong phương trình (2.9) nhỏ hơn 1 rất nhiều. Do đó chỉ

số khúc xạ của tầng điện ly tại tần số GPS có thể biểu diễn như sau [48, 70, 79]:

(2.17)

phân tích các số hạng trong phương trình (2.17) ta thấy rằng với các số hạng bậc

cao như : (XY/2)cos ~ (1/f3) ; (X2/8) ~ (1/f8) , với f là tần số GPS sẽ rất nhỏ, nên

có thể bỏ qua. Do vậy, chỉ số khúc xạ của tầng điện ly tại tần số GPS có thể biểu

diễn một cách đơn giản như sau:

(2.18)

trong đó , Ne là mật độ điện tử tính bằng e/m3, và độ trễ nhóm gây

bởi tầng điện ly được tính như sau:

, (giây) (2.19)

Đại lượng là TEC, nồng độ điện tử tổng cộng dọc theo đường tia sóng từ

máy thu đến vệ tinh.

Đối với máy thu hai tần số f1 và f2 thì sự sai khác độ trễ nhóm gây ra bởi hai

tần số được biểu diễn như sau:

54

(2.20)

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

hay (2.21)

trong đó Δt1 là độ trễ thời gian gây bởi tầng điện ly tại tín hiệu L1. Đại lượng

[ ] được gọi là yếu tố tỷ lệ điện ly. Đối với hai tần số GPS thì yếu tố

này là 1,546. Nếu hai tần số GPS được chọn quá gần nhau thì hiệu độ trễ về thời

gian gây bởi tầng điện ly giữa hai tần số sẽ rất nhỏ, do vậy sẽ bị lẫn vào mức nhiễu

của hệ thống máy thu. Khi sự phân tách của tần số trên tín hiệu L1 và L2 rộng hơn

thì khả năng đánh giá sai số khoảng cách gây bởi tầng điện ly sẽ chính xác hơn

nhưng đòi hỏi phải có hai ăng-ten phát và thu riêng biệt. Vì vậy việc lựa chọn hai

tần số GPS để thu được yếu tố tỷ lệ điện ly là 1,546 là một sự nghiên cứu để xắp đặt

giữa thiết kế phần cứng của hệ thống và yêu cầu về thông tin độ trễ thời gian do

tầng điện ly. Mặc dù độ trễ Δt1 bằng 1,546 lần hiệu độ trễ của cả hai tần số có liên

quan đến nhiễu, nhưng thời gian trễ thu được từ hiệu giả khoảng cách có thể được

lấy trung bình trong một khoảng thời gian nào đó, do vậy nó vẫn có thể đo được với

độ chính xác đạt tới nano giây. Hạn chế trong phép đo hiệu giả khoảng cách tuyệt

đối chủ yếu gây bởi yếu tố nhiều đường và sự thiếu thông tin khi máy thu chỉ thu

nhận tín hiệu từ một vệ tinh GPS.

2.2.5.2 Sự sớm pha – sai số khoảng cách tương đối

Khi tín hiệu radio truyền qua tầng điện ly, pha mang của tần số sóng truyền

đi sẽ sớm hơn (nhanh hơn) so với vận tốc của nó trong chân không. Sự sớm pha liên

quan đến chỉ số khúc xạ trong môi trường điện ly do có sự xuất hiện các điện tử tự

do, được tính theo công thức sau [70]:

, vòng hay bước sóng (2.22)

Và được viết lại như sau:

, vòng (2.23)

Chú ý rằng mặc dù pha được truyền đi với vận tốc nhanh hơn vận tốc ánh sáng,

nhưng nó không chứa dựng thông tin, do đó sự truyền tin cũng sẽ không xuất hiện

55

nhanh hơn vận tốc của ánh sáng.

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

Trong trường hợp máy thu hai tần số, tín hiệu L1 và L2 được phát đi liên tục

và hai tần số này cùng được rút ra từ một dao động chung 10,23 MHz. Độ lệch hiệu

pha giữa hai tần số có thể đo được và liên quan đến TEC theo công thức sau:

, vòng (2.24 )

trong đó m = f1/f2. Hiệu phép đo pha cung cấp một phép đo rất chính xác về những

biến đổi TEC tương đối trong suốt đường truyền tín hiệu của vệ tinh, nhưng chúng

ta không thể biết được chính xác số vòng pha ban đầu, do đó các giá trị TEC tuyệt

đối thường thu được từ các phép đo hiệu độ trễ nhóm hay còn gọi là hiệu giả

khoảng cách. Phương pháp tính giá trị TEC sẽ được trình bày chi tiết trong chương

3 của luận án.

Một số chuyển đổi hữu ích trong phép đo GPS liên quan đến nồng độ điện tử

tổng cộng tầng điện ly được chỉ ra trong bảng 2.4.

Bảng 2.4 Mối quan hệ giữa các tham số đo GPS và TEC tầng điện ly [70]

L2-L1, hiệu độ trễ nhóm

3600 tương đương với 151,098 ns độ trễ đo tại tín hiệu L1, hoặc tương đương với

97,75 ns hiệu độ trễ nhóm

3600 = 278,83 x 1016 (el/m2) ; 10 = 0,7745 x 1016 (el/m2)

1 ns của hiệu độ trễ nhóm

= 2,852 x 1016 (el/m2)

= 1,546 ns của độ trễ tại L1

= 0,464 m sai số về khoảng cách tại L1

1 ns độ trễ tại tín hiệu L1

= 1,8476 x 1016 (el/m2)

= 0,3 m sai số về khoảng cách tại L1

1 vòng hay 1 bước sóng = 19,09 cm của độ sớm pha tại L1

= 1,173 x 1016 (el/m2)

1 m của sai số khoảng cách

= 6,15 x 1016 (el/m2) đo tại L1

56

= 3,73 x 1016 (el/m2) đo tại L2

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

1 TECu [1 x 1016 (el/m2)]

= 0,351 ns của hiệu độ trễ nhóm

= 0,542 ns của độ trễ nhóm tại L1

= 0,163 m của sai số khoảng cách tại L1

= 0,853 vòng của độ sớm pha tại L1

L2-L1, Hiệu độ sớm pha tại L2

10 = 6,456 x 1013 (el/m2)

0,1 rad = 3,699 x 1014 (el/m2)

3600 = 2,324 x 1016 (el/m2)

2.2.5.3 Sự trôi dạt Dopler-sai số khoảng cách do dịch chuyển điện ly

Do phân bố điện tử trong tầng điện ly không đồng nhất về không gian và có

sự biến đổi theo thời gian, nên đã gây ra sự trôi dạt Dopler khi tín hiệu GPS truyền

qua. Sự trôi dạt tần số Dopler gây bởi tầng điện ly thường rất nhỏ so với yếu tố trôi

dạt Dopler hình học giữa máy thu và vệ tinh, và có thể được tính theo công thức sau

[70]:

(2.25 )

Đối với các vệ tinh bay trên quỹ đạo cao như vệ tinh GPS, chuyển động của

vệ tinh khi quan sát từ Trái Đất là chậm, nên sự biến đổi ngày đêm của TEC thường

lớn hơn biến đổi về yếu tố hình học của vệ tinh. Giới hạn trên của tốc độ thay đổi

TEC đối với một trạm bất kỳ được tính là ≈ 0,1x1016 (el/m2)/s. Giá trị này được gán

thêm cho sự trôi dạt tần số là 0,085 Hz tại L1, tương đương với sai số khoảng cách

do dịch chuyển là 1,6 cm/s [70].

Sự trôi dạt Dopler điện ly được cho là do sự thay đổi theo thời gian của TEC.

Sai số khoảng cách do dịch chuyển phụ thuộc vào tốc độ thay đổi ngày đêm của số

lượng điện tử trong tầng điện ly, phụ thuộc vào cấu trúc của các mảng nhiễu loạn và

phụ thuộc vào chuyển động của vật thể bay trong môi trường truyền tín hiệu vệ tinh.

2.2.5.4 Nhấp nháy tín hiệu

Khi tín hiệu vệ tinh GPS truyền qua một vùng nhiễu loạn mật độ điện tử qui

mô nhỏ trong tầng điện ly có thể chịu một sự dao động nhanh về biên độ và pha, 57

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

hiện tượng này được gọi là nhấp nháy điện ly (Ionospheric Scintillation). Các nhiễu

loạn gây ra các dao động thăng giáng tỷ lệ nhỏ trong chỉ số khúc xạ và tiếp đến là

sự tán xạ (scattering) của mặt đầu sóng, phát sinh các dao động pha dọc theo mặt

pha của tín hiệu như được minh họa trên hình 2.18.

Hình 2.18, Nhấp nháy của tín hiệu vệ tinh khi truyền qua môi trường điện ly

nhiễu loạn về mật độ điện tử.

Các nghiên cứu trước đây về quá trình truyền sóng radio trong môi trường

nhiễu loạn ngẫu nhiên và các phân tích phổ nhấp nháy [50, 72, 94], cho thấy nhấp

nháy pha xuất hiện tại tần số nhỏ hơn tần số Fresnel (( , trong đó v là

vận tốc tương đối giữa dịch chuyển theo phương ngang của tia sóng và plasma, DF

là kích thước vùng Fresnel) bị gây ra bởi các nhiễu loạn có kích thước lớn hơn

nhiều kích thước vùng Fresnel. Trong điều kiện như vậy, tín hiệu sóng radio được

xem như yếu tố quang hình học, và dao động pha gây bởi sự thay đổi đường truyền

quang học của sóng radio. Mặt khác đối với các nhiễu loạn có qui mô nhỏ hơn vùng

Fresnel, hiệu ứng nhiễu xạ và tán xạ của sóng radio có thể gây ra nhấp nháy biên độ

và nhấp nháy pha tại tần số lớn hơn tần số Fresnel. Trong trường hợp là tín hiệu vệ

58

tinh GPS, qui mô vùng Fresnel của máy thu GPS hai tần số thay đổi từ 145 đến 310

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

m ( , với λ là bước sóng radio, z độ cao lớp nhiễu loạn) đối với các nhiễu

loạn ở độ cao từ 110 đến 400 km (vùng E và F tầng điện ly).

Theo một khía cạnh nào đó, nhấp nháy điện ly sẽ làm giảm độ chính xác

trong phép định vị GPS. Dọc theo mỗi đường truyền vệ tinh-máy thu, sai số này

được đưa vào các phép đo giả khoảng cách và pha mang. Biên độ nhấp nháy mạnh

có thể gây ra sự sụt giảm công suất của tín hiệu xuống dưới ngưỡng máy thu và do

đó gây ra sự mất tín hiệu trong thời gian quan sát. Pha nhấp nháy mạnh có thể gây

ra sự trôi dạt Doppler trong tần số của tín hiệu thu nhận và đôi khi có thể gây ra sự

mất pha tín hiệu của máy thu. Khi nhấp nháy trên đường truyền đủ mạnh thì đường

truyền không liên tục và không có giá trị cho việc sử dụng trong lời giải định vị.

Việc mất đi mỗi một đường truyền dẫn sẽ làm tăng giá trị DOP (dilution of

precision) do đó sẽ ảnh hưởng lên độ chính xác trong phép định vị và khi có ít hơn 4

đường truyền được duy trì tại bất kỳ thời điểm nào sẽ gây ra sự mất tạm thời dịch

vụ cung cấp thông tin định vị. Khoảng thời gian bị tạm ngừng (outages) phụ thuộc

vào khoảng thời gian và mức độ dữ dội của nhấp nháy, phụ thuộc vào yếu tố hình

học của vệ tinh và thời gian phục hồi của thiết bị.

Độ lớn của nhấp nháy phụ thuộc vào đặc trưng gradient của vùng dị thường

mật độ, nếu vùng dị thường có gradient mật độ lớn sẽ gây ra nhấp nháy biên độ

mạnh và ngược lại vùng có gradient mật độ nhỏ sẽ gây ra nhấp nháy biên độ yếu.

Theo kết quả thống kê đã chỉ ra rằng, trạng thái bất đồng nhất điện tử trong môi

trường điện ly thường gây ra hiện tượng nhấp nháy và chủ yếu xuất hiện trong lớp F

của tầng điện ly tại độ cao trong khoảng từ 200 đến 1000km, tập trung nhiều trong

khoảng độ cao từ 250 đến 400km. Các nhiễu loạn xuất hiện trong lớp E như

Sporadic-E và lớp E vùng cực quang cũng có thể gây ra nhấp nháy nhưng ảnh

hưởng của chúng lên các tín hiệu GPS dải L rất nhỏ. Các nghiên cứu trước đây đã

chỉ ra rằng sự xuất hiện nhấp nháy điện ly phụ thuộc vào vĩ độ, chủ yếu xuất hiện

trong vùng xích đạo và vùng vĩ độ cao và phụ thuộc vào mức độ hoạt động của Mặt

Trời, thường mạnh hơn vào giai đoạn Mặt Trời hoạt động mạnh như được chỉ ra

59

trên hình 2.19 [28, 70, 73, 94].

Chương 2. Tổng quan về tầng điện ly và hệ thống định vị toàn cầu

Hình 2.19, Sự suy giảm tín hiệu trên dải tần L trong giai đoạn Mặt Trời hoạt động

mạnh (trái) và yếu (phải) (Parkinson, B. W., 1996 [70]).

Công nghệ GPS phát triển đã cung cấp một cách đơn giản và hữu hiệu để

nghiên cứu các biến đổi về không gian và thời gian của tầng điện ly như: nồng độ

điện tử tổng cộng, nhiễu loạn điện ly, nhấp nháy điện ly. Ứng dụng công nghệ GPS

để nghiên cứu tầng điện ly ở Việt Nam sẽ được đề cập trong các chương tiếp theo

60

của luận án.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

CHƯƠNG 3. NỒNG ĐỘ ĐIỆN TỬ TỔNG CỘNG TẦNG ĐIỆN LY VÀ QUY

LUẬT BIẾN ĐỔI THEO THỜI GIAN Ở KHU VỰC VIỆT NAM

Trong hơn hai thập kỷ qua, hệ thống định vị toàn cầu (GPS) đã đóng một vai

trò quan trọng trong các ngành khoa học về Trái đất. Cùng với sự phát triển liên tục

và sự đa dạng của các ứng dụng từ công nghệ GPS, các nhà nghiên cứu điện ly trên

thế giới đã nhận thấy tiềm năng của mạng lưới theo dõi GPS để rút ra thông tin về

tầng điện ly của Trái Đất. Mỗi vệ tinh GPS truyền thông tin được định vị trên hai

tần số: f1 (1,57542GHz) và f2 (1,22760GHz), bằng cách phân tích sự khác nhau giữa

các phép đo giả khoảng cách và sự khác nhau giữa các phép đo pha của hai tần số sẽ

cho phép rút ra thông tin về nồng độ điện tử tổng cộng của tầng điện ly từ số liệu

GPS hai tần số. Chương này sẽ giới thiệu phương pháp tính giá trị nồng độ điện tử

tổng cộng tầng điện ly từ số liệu GPS và ứng dụng phương pháp để tính và nghiên

cứu cho tầng điện ly khu vực Việt Nam.

3.1 Số liệu và phương pháp nghiên cứu

3.1.1 Số liệu

Ba máy thu GPS được đặt ở Việt Nam từ tháng 4 năm 2005 theo hợp tác với

Pháp tại các địa điểm và toạ độ địa lý và vĩ độ từ niên đại 2010 được chỉ ra trong

bảng 3.1.

Bảng 3.1, Vị trí các trạm thu GPS ở Việt Nam

Tên trạm Tọa độ địa lý Vĩ độ từ (N)

(niên đại 2010) Vĩ độ (N) Kinh độ (E)

Hà Nội 21o02’50’’ 105o54’59’’ 14,37o

Huế 16o27’33’’ 107o35’33’’ 9,45o

Tp Hồ Chí Minh 10o50’54’’ 106o33’35’’ 3,34o

Đây là các máy thu tín hiệu GPS hai tần số loại GSV4004 (GPS Silicon

Valley’s GPS Ionospheric Scintillation and TEC Monitor system - GISTM) của

hãng NovAtel. Mục đích chính của GSV4004 là thu thập số liệu về TEC và nhấp

nháy điện ly đối với tất cả các vệ tinh nhìn thấy. Hình 3.1 là ảnh của hệ thống máy

61

thu GSV4004 tại Việt Nam. Mỗi máy thu GSV4004 gồm ba bộ phận chính: anten

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam thu tín hiệu GPS, bộ thu và chuyển đổi số liệu, máy tính cá nhân để lưu và hiển thị

số liệu.

Hình 3.1, Hình ảnh bộ máy thu GSV4004 ở Việt Nam.

Tại mỗi thời điểm quan sát, máy có thể thu nhận tối đa tới 11 tín hiệu vệ tinh

GPS mã C/A và tự động xử lý cung cấp tệp số liệu đầu ra có định dạng nhị phân.

Phần mềm đi kèm PARSEISMR [97] cho phép chuyển tệp số liệu đầu ra sang dạng

ASCII cho từng vệ tinh quan sát, cung cấp các thông số liên quan đến TEC và nhấp

nháy như được chỉ ra trong bảng 3.2.

STT

Tham số

Đơn vị đo

Tuần GPS

1

N/A

Thời gian quan sát trong tuần (TOW)

2

Giây (s)

Vệ tinh PRN

3

N/A

Tình trạng máy thu

4

N/A

Góc phương vị (Azimuth)

5

Độ

Góc nhìn vệ tinh (Elevation)

6

Độ

7

dB-Hz

Tỷ số tín hiệu/nhiễu C/N0

8

Không thứ nguyên

Biên độ nhấp nháy tổng (S4T)

9

Không thứ nguyên

Hiệu chỉnh biên độ nhấp nháy tổng (S4No )

10

Pha nhấp nháy (Sigma pha) 1s

Radian

11

Pha nhấp nháy (Sigma pha) 3s

Radian

62

Bảng 3.2: Các thông số thu nhận trực tiếp từ máy thu GSV4004

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

12

Pha nhấp nháy (Sigma pha) 10s

Radian

13

Pha nhấp nháy (Sigma pha) 30s

Radian

14

Pha nhấp nháy (Sigma pha) 60s

Radian

15 Trung bình của độ lệch Code/Carrier

Mét

16 Độ lệch chuẩn của độ lệch Code/Carrier

Mét

17 TEC tại thời gian TOW-45

TECu

TECu

18 TEC tại TOW-60 tới TOW-45

19 TEC tại thời gian TOW-30

TECu

TECu

20 TEC tại TOW-45 tới TOW-30

21 TEC tại thời gian TOW-15

TECu

TECu

22 TEC tại TOW-30 tới TOW-15

23 TEC tại thời gian TOW

TECu

TECu

24 TEC tại TOW-15 tới TOW

25 Thời gian kết nối tín hiệu L1

Giây

26 Tình trạng kênh truyền

N/A

27 Thời gian kết nối tín hiệu L2

Giây

dB-Hz

28 Tỷ số tín hiệu nhiễu trên L2

Tham số TEC: tại mỗi thời điểm phần mềm tự động tính toán và cho ra giá

trị nồng độ điện tử tổng cộng theo đơn vị TECu (1TECu = 1016 e/m2) từ độ trễ gây

bởi tầng điện ly giữa hai tần số f1 và f2 theo công thức [97] :

TEC = [9,483(Pf2-Pf1-∆C/A-P,PRN)+TECCAL] (3.1)

trong đó: Pf1, Pf2 là các giả khoảng cách trên hai tần số f1 và f2 tính bằng mét (m),

là độ trễ đầu vào của vệ tinh giữa chuyển đổi mã C/A và mã P tính bằng

m, và TECCAL là độ trễ bên trong máy thu và phần bù độ lệch hiệu chỉnh đầu vào.

Các giá trị TEC được tự động tính trong khoảng thời gian 15 giây một giá trị.

Tham số TEC: giá trị biến thiên TEC theo thời gian cũng được tính dựa trên

phép đo pha tại hai tần số f1 và f2. Đối với một phép đo độ trễ điện ly trên tần số f1,

TEC = 1,1723.PRL1,carrier, TECu (3.2)

trong đó PRL1,carrier là hiệu pha trên hai tần số :

63

thì giá trị biến thiên TEC được tính theo công thức:

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

PRL1,carrier = 1,54573 . (ADRL1 - ADRL2), vòng

hay TEC = 1,812 . (ADRL1 - ADRL2), TECu (3.3)

với ADRL1 , ADRL2 là hiệu pha trên tần số f1, f2 tại hai thời điểm đo. Các phép đo biến

thiên TEC cũng được tính trong khoảng thời gian 15 giây một giá trị.

Tham số Pha nhấp nháy: Máy thu tập hợp 50 phép đo pha thô mỗi giây. Các

đo pha thô trước hết được được lọc bằng bộ tần cao Butterworth bậc 6, sau đó đối

với mỗi phút, thống kê các phần dư (của 3000 phép đo pha đã được lọc) ở tất cả

các phút được tính toán trên các chu kỳ : 1 giây, 3 giây, 10 giây, 30 giây và 60 giây.

pha 1s, 3s, 10s, 30s, 60s).

Do đó trong khoảng thời gian 60 giây, 5 giá trị pha nhấp nháy được lưu giữ (Sigma

Biên độ nhấp nháy: Các đo đạc biên độ thô cũng được lọc, hoặc bằng bộ lọc

tần thấp hoặc bằng cách lấy trung bình trong khoảng thời gian 60 giây. Sau đó biên

độ nhấp nháy tổng (Total S4) bao gồm cả nhấp nháy do nhiễu môi trường (và hiệu

ứng đa đường) gây ra, được tính trong khoảng thời gian 60 giây như các tham số

pha. Máy thu cũng tính giá trị hiệu chỉnh biên độ nhấp nháy tổng, là hiệu ứng nhiễu

môi trường, dựa trên việc lấy trung bình các giá trị thô của tỷ số tín hiệu/nhiễu

(C/N0) ở tần số 1Hz trong khoảng thời gian 60 giây.

Độ lệch Code/Carrier: máy thu cũng thu thập độ lệch Code/Carrier (độ lệch

giữa code và giả khoảng cách pha mang) thô mỗi giây. Sau đó giá trị trung bình và

độ lệch chuẩn của độ lệch Code/Carrier được tính cho tất cả các phút. Các giá trị

này đặc trưng cho mức độ hoạt động của tín hiệu đa đường truyền, do đó nó có thể

được dùng để phân biệt giữa S4 do tín hiệu đa đường gây ra và S4 do nhấp nháy điện

ly.

Thời gian kết nối tín hiệu L1: tham số này cho biết thông tin về khoảng thời

gian máy thu kết nối với tín hiệu vệ tinh trên tần số f1.

Thời gian kết nối tín hiệu L2: tham số này cho biết thông tin về khoảng thời

gian máy thu kết nối với tín hiệu vệ tinh trên tần số f2. Đây là yếu tố cho biết tính

chất hợp lệ của phép đo TEC.

Với các máy thu GSV4004 còn có phần mềm Convert4, cho phép chuyển

64

đổi tệp số liệu đầu ra sang tệp dạng ASCII, BINARY hay RINEX, cung cấp các

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam thông tin về: giả khoảng cách, các phép đo pha, tần số Doppler, cường độ tín hiệu,

thời gian GPS, vị trí máy thu và vệ tinh... được sử dụng cho các mục đích nghiên

cứu khác nhau tùy thuộc vào người sử dụng.

3.1.2 Phương pháp nghiên cứu

Thực tế từ số liệu đầu ra của máy thu dạng GSV4004 đã cung cấp cho người

dùng thông tin về giá trị TEC đo được theo thời gian. Nhưng đối với máy thu tín

hiệu GPS thông thường sẽ cung cấp các thông tin về giả khoảng cách, các phép đo

pha, tần số Doppler, cường độ tín hiệu, thời gian GPS, vị trí máy thu và vệ tinh...

Do đó để ứng dụng trong nghiên cứu điện ly, người dùng phải lập chương trình tính

để thu được các giá trị TEC không chỉ theo thời gian mà còn phải biểu thị các giá trị

này theo vị trí tương ứng tại điểm cắt tầng điện ly. Việc sử dụng trực tiếp các giá trị

TEC thu được từ phần mềm của máy GSV4004 để nghiên cứu sẽ cho các kết quả

kém chính xác như đã được chỉ ra bởi các tác giả trước đây [10, 58]. Do vậy để

phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận án thì phương pháp tính TEC phải được

tìm hiểu và xây dựng. Trong phần này sẽ giới thiệu một phương pháp rút ra thông

tin nồng độ điện tử tổng cộng từ máy thu GPS hai tần số.

3.1.2.1 Rút ra thông tin nồng độ điện tử tổng cộng từ máy thu GPS hai tần

số

Tầng điện ly là một môi trường tán xạ đối với các sóng radio, với chỉ số khúc

xạ là một hàm của tần số sóng. Đối với tín hiệu GPS, tầng điện ly sẽ gây ra sự trễ

nhóm và sớm pha tín hiệu khi sóng điện từ truyền từ vệ tinh tới các máy thu trên

mặt đất, mức độ ảnh hưởng tỷ lệ thuận với nồng độ điện tử tổng cộng dọc theo

đường truyền. Độ trễ tín hiệu đối với các sóng điện từ có tần số lớn hơn hoặc bằng

100MHz gây bởi tầng điện ly được xác định theo công thức [70]:

(3.4)

trong đó:

Δρion : độ trễ gây bởi tầng điện ly,

65

’,  là khoảng cách hình học và khoảng cách thực giữa máy thu và vệ tinh,

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

n là chỉ số khúc xạ của tầng điện ly, đã được định nghĩa trong phương trình

(2.9).

Như đã đề cập ở phần trên, do chúng ta chỉ xét đến quá trình truyền sóng

radio tại tần số GPS nên chỉ số khúc xạ của tầng điện ly được tính như sau:

với (3.5)

Thay phương trình (3.5) vào phương trình (3.4) chúng ta nhận được:

(3.6)

trong đó f là tần số sóng radio, là nồng độ điện tử tổng cộng trong

tầng điện ly dọc theo đường tia sóng.

Trái với chỉ số khúc xạ trong tầng đối lưu có ntrop >1 và không phụ thuộc tần

số đối với sóng ngắn, chỉ số khúc xạ trong tầng điện ly, nion < 1 và phụ thuộc vào

tần số. Sử dụng phương trình (3.2) và (3.3) đối với một máy thu GPS hai tần số (f1

và f2), ta thu được các phương trình quan sát đối với phép đo pha và giả khoảng

cách trên hai tần số như sau:

(3.7a)

(3.7b)

(3.7c)

(3.7d)

Lấy phương trình (3.7b) trừ đi phương trình (3.7a), phương trình (3.7d) trừ đi

phương trình (3.7c) và kết hợp với phương trình (3.6) ta nhận được:

(3.8a)

(3.8b) và

Trong đó:

66

chỉ số i, k biểu thị cho cặp máy thu i và vệ tinh k,

P1, P2 là phép đo giả khoảng cách trên tần số f1 và f2, mét

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam L1, L2 là phép đo pha trên tần số f1 và f2, mét

là độ trễ vệ tinh và độ trễ máy thu tương ứng, được tính

theo đơn vị thời gian (giây),

là tham số độ lệch pha ban đầu.

Phương trình (3.8a) cho phép tính STEC từ các phép đo giả khoảng cách,

còn phương trình (3.8b) là tính STEC từ các phép đo pha. Chúng ta thấy rằng để

xác định STEC theo phép đo pha thì phải xác định được tham số độ lệch pha ban

i, nếu sử dụng các phép đo hiệu giả khoảng cách thì ta phải xác định được các

đầu Bk

độ trễ thiết bị gây bởi phần cứng máy thu và vệ tinh (bi và bk). Vì vậy, người ta

không thể suy ra một cách trực tiếp giá trị STEC tuyệt đối từ số liệu GPS một thời

kỳ. Để tách STEC ra khỏi các tham số độ lệch thiết bị hoặc các thông số pha ban

đầu chưa biết, người ta phải xử lý số liệu trong khoảng thời gian dài hơn.

Nếu chỉ sử dụng phép đo hiệu giả khoảng cách sẽ cho độ chính xác vài dm

tới 1m, vì các phép đo này là rõ ràng nhưng còn chứa độ trễ nhóm gây bởi thiết bị

(máy thu + vệ tinh). Nếu sử dụng phép đo hiệu pha (3.8b) thường cho độ chính xác

tốt hơn, chỉ khoảng mm nhưng còn chứa tham số độ lệch pha ban đầu chưa biết [32,

79]. Bản thân vấn đề về lời giải các tham số độ lệch pha ban đầu là một lĩnh vực

nghiên cứu tương đối rộng, thường dựa vào các giả thiết có tính chất thống kê. Để

xác định được chính xác các thông số này thường rất phức tạp và khó khăn. Vì vậy

phương trình (3.8a) sử dụng các phép đo giả khoảng cách thường được sử dụng để

tính giá trị tuyệt đối STEC [32, 52, 62, 74, 79].

Ngoài hai phương pháp trên, còn một phương pháp nữa cũng được dùng để

tính TEC đó là sử dụng kết hợp cả phép đo hiệu pha và phép đo hiệu giả khoảng

cách có thể tham khảo thêm trong [58, 61].

3.1.2.2 Mô hình lớp đơn và hàm vẽ

Số liệu GPS chỉ cung cấp các phép đo TEC nghiêng dọc theo đường đi của

tia sóng truyền từ vệ tinh tới máy thu. Do đó cần phải có một phép chuyển đổi

STEC về TEC thẳng đứng (TECV) tại điểm cắt dưới tầng điện ly. Để thực hiện

67

được phép chuyển đổi này thì tầng điện ly được cho là một lớp mỏng bao quanh

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam Trái Đất và tâm của nó trùng với tâm của Trái Đất và được mô phỏng bởi mô hình

lớp đơn (hình 3.2). Mô hình lớp đơn có chiều cao H thường được lấy là 350, 400

hoặc 450 km so với mặt đất, tương ứng xấp xỉ với độ cao của cực đại mật độ điện tử

trong tầng điện ly.

Hình 3.2, Mô hình lớp đơn tầng điện ly [79], z là góc thiên đỉnh của vệ tinh tại vị trí

máy thu và z’ là khoảng cách thiên đỉnh của vệ tinh tại điểm cắt tầng điện ly tính

bằng độ, R  6371 km là bán kính Trái Đất và H là độ cao lớp đơn.

Hàm vẽ tầng điện ly tại độ cao H của mô hình lớp đơn được xác định là

nghịch đảo cosin góc thiên đỉnh tại điểm cắt dưới tầng điện ly như sau:

với (3.9)

trong đó  là góc nhìn vệ tinh tại vị trí máy thu. Như vậy TECV hoặc để cho ngắn

gọn là TEC tương ứng được xác định từ STEC bằng công thức sau:

(3.10)

Nồng độ điện tử tổng cộng thẳng đứng TEC đã tính thường được biểu diễn theo một

hàm của vĩ độ và thời gian địa phương tại vị trí điểm cắt tầng điện ly. Trong các

phần còn lại của luận án ký hiệu TEC được hiểu là TEC thẳng đứng, chúng ta chỉ

68

phân biệt STEC trong những trường hợp cần thiết.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam 3.1.2.3 Mô hình TEC toàn cầu GIMs

Sản phẩm nghiên cứu tầng điện ly từ hệ thống các máy thu GPS trên toàn cầu

hiện nay là mô hình TEC toàn cầu GIMs. Mô hình TEC toàn cầu được tính toán

hàng ngày dùng tài liệu của khoảng 150 trạm máy thu GPS của IGS (International

GPS Service) và của một số cơ quan khác trên toàn cầu. Các bản đồ phân bố TEC,

độ trễ gây bởi phần cứng của vệ tinh (Satellite bias) và máy thu (Receiver bias)

được thông báo hàng ngày trong mô hình TEC toàn cầu và có thể tải xuống từ

website: http://www.aiub.unibe.ch/download/code/.

Hình 3.3, Ví dụ về bản đồ điện ly toàn cầu và vị trí các trạm thu GPS hiện nay

(http://iono.jpl.nasa.gov/).

Các giá trị TEC thẳng đứng được mô hình hóa trong hệ quy chiếu chuẩn Địa

từ-Mặt Trời dùng biểu diễn điều hòa cầu đến bậc và hạng 13. Các hàm tuyến tính

từng đoạn được dùng để biểu diễn trong miền thời gian với bước thời gian là 2 giờ.

Các độ trễ thiết bị đối với tất cả các vệ tinh và các trạm thu được đánh giá là các

hằng số cho từng ngày. Mô hình cho dưới dạng bản đồ tính với lưới tọa độ vuông,

khoảng cách mắt lưới được chia là 2,5o x 2,5o. Việc tính toán TEC tại một trạm có

69

tọa độ nhất định được nội suy từ các giá trị TEC ở các mắt lưới xung quanh mà vị

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam trí trạm nằm trong đó. Hình 3.4 là ví dụ về các giá trị TEC tại Hà Nội, Huế và Tp

Hồ Chí Minh vào tháng 01/2010 tính từ mô hình toàn cầu.

Hình 3.4 Giá trị TEC tính từ mô hình toàn cầu tại Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh

70

vào tháng 01/2010

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam 3.1.2.4 Xác định độ trễ phần cứng máy thu và vệ tinh

Như đã trình bầy ở trên, việc sử dụng các phép đo hiệu giả khoảng cách để

tính STEC là rõ ràng nhưng còn chứa độ trễ nhóm gây bởi thiết bị (máy thu + vệ

tinh). Đối với hệ thống máy thu GPS nằm trong mạng lưới toàn cầu thì độ trễ thiết

bị này đã được tính toán hàng ngày và sẵn có để dùng trong sản phẩm bản đồ TEC

toàn cầu. Đối với các máy thu GPS không có trong mạng lưới trạm thì tham số độ

trễ này không có sẵn và đòi hỏi người dùng phải tính để đưa vào phương trình tính

STEC (3.8a).

Trong hầu hết các trường hợp, các độ trễ thiết bị phải được tính đến, nếu bỏ

qua độ trễ này sẽ gây ra một sai số đáng kể trong phép tính STEC (ví dụ nếu sai số

hiệu độ trễ là 1ns sẽ tương đương với một lượng là 2.853 TECu). Cũng có một vài

phương pháp tính độ trễ máy thu được công bố bởi các tác giả khác nhau khi ứng

dụng để xử lý cho các trạm thu trong vùng nghiên cứu, và cho một số trường hợp cụ

thể [47, 52, 61, 74, 75]. Ý tưởng của các phương pháp chủ yếu là so sánh và hiệu

chỉnh giữa giá trị TEC quan sát và TEC mô hình. Đối với các máy thu ở Việt Nam,

Lê Huy Minh và nnk [10, 11] đã xây dựng phương pháp tính độ lệch máy thu bằng

cách tính độ lệch bình phương trung bình giữa TEC quan sát trong trường hợp chưa

hiệu chỉnh độ lệch máy thu và TEC thu được từ mô hình toàn cầu trong khoảng thời

gian đêm từ 01h đến 05h sáng địa phương tại cùng một vị trí quan sát. Theo phương

pháp này, giá trị độ trễ của vệ tinh được lấy từ mô hình toàn cầu còn giá trị độ trễ

máy thu được tính và hiệu chỉnh hàng ngày. Hạn chế của phương pháp này là ảnh

hưởng có tính chất địa phương trong ngày của tầng điện ly sẽ tác động trực tiếp đến

giá trị độ trễ máy thu tính được mà thực chất lại không phải do phần cứng của máy

thu gây ra. Mặt khác, ý tưởng của phương pháp là lựa chọn khoảng thời gian ít biến

đổi nhất của tầng điện ly trong ngày là từ 01h đến 5h sáng địa phương để so sánh.

Như vậy, khó khăn gặp phải vào những ngày số liệu bị mất trong khoảng thời gian

trên thì không thể tính và hiệu chỉnh độ trễ thiết bị. Năm 2008 với sự giúp đỡ của

TS Rolland Fleury, chúng tôi đã xây dựng bộ chương trình tính TEC theo phương

pháp của Komjathy et al. [52] khi sử dụng bản đồ TEC toàn cầu để đánh giá độ trễ

71

của máy thu bất kỳ. Để tính độ trễ thiết bị, chúng tôi tiến hành tính độ lệch giữa giá

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam trị TEC tính toán theo công thức (3.8a) và (3.10) trong trường hợp chưa hiệu chỉnh

độ trễ thiết bị cho tất cả các vệ tinh nhìn thấy có góc nhìn lớn

hơn hoặc bằng 200 và giá trị TEC tính được từ mô hình toàn cầu tại cùng một vị trí

trạm ở thời điểm quan sát. Do giá trị TEC suy ra từ mô hình toàn cầu với khoảng

thời gian 2 giờ một giá trị, vì vậy các giá trị TEC mô hình tương ứng với khoảng

thời gian quan sát được nội suy để so sánh với các giá trị TEC tính toán được và

như vậy ở từng thời điểm quan sát t trong ngày chúng ta sẽ thu được một giá trị

. Sau đó giá trị độ trễ cho một ngày được lấy là median của tất cả các giá

trị ở các thời điểm quan sát trong ngày.

Hình 3.5, Độ trễ thiết bị (vệ tinh+máy thu) trong tháng 10/2010 tại Hà Nội, Huế và

72

TP. Hồ Chí Minh.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam Hình 3.5 biểu diễn kết quả tính độ trễ thiết bị trong tháng 10/2010 cho từng

cặp vệ tinh-máy thu đặt tại Hà Nội, Huế và TP. Hồ Chí Minh với trục tung biểu thị

giá trị độ trễ thiết bị (vệ tinh + máy thu) và trục hoành biểu thị vệ tinh tương ứng

quan sát tại mỗi trạm. Giá trị độ lệch được tính cho tất cả các cặp máy thu - vệ tinh

(mỗi trạm thu sẽ có 32 cặp giá trị tương ứng với 32 vệ tinh) và cho tất cả các phút

trong ngày quan sát. Các cặp giá trị độ lệch cho ngày sẽ là median độ lệch của tất cả

các phút. Để hạn chế các tác động có tính chất địa phương của tầng điện ly lên kết

quả tính độ trễ, chúng tôi sẽ không lấy trực tiếp các giá trị median ngày để hiệu

chỉnh mà chúng tôi tính median cho khoảng thời gian nhiều ngày mà ở đây là 1

tháng. Các cặp giá trị độ trễ (vệ tinh+máy thu) median tháng được tính mỗi tháng và

sử dụng để đưa vào phương trình tính TEC tuyệt đối tương ứng với mỗi cặp (vệ

tinh+máy thu) cho từng ngày trong tháng. Từ hình 3.5 ta nhận thấy rằng tại mỗi

trạm thu, các giá trị độ trễ thay đổi tùy thuộc vào từng vệ tinh và điều này cũng dễ

hiểu bởi mỗi vệ tinh đều có chứa một độ trễ phần cứng nhất định và khác nhau tùy

thuộc vào kỹ thuật chế tạo, trạng thái vệ tinh hay môi trường vệ tinh đang bay.

Chiều hướng dao động của độ trễ theo từng vệ tinh là như nhau ở cả ba trạm, nhưng

khoảng giá trị độ trễ thiết bị gây ra tại trạm Hà Nội dao động trong khoảng -70

TECu đến -20 TECu, tại trạm Huế giá trị này dao động trong khoảng từ 5 TECu đến

60 TECu và tại trạm đặt ở TP. Hồ Chí Minh là từ 5 TECu đến 50 TECu tùy theo

từng vệ tinh quan sát. Tất cả các cặp giá trị độ trễ thiết bị này được tính cho từng

tháng quan sát số liệu và sẽ được dùng để đưa vào phương trình tính giá trị TEC

tuyệt đối cho mỗi cặp vệ tinh và máy thu tương ứng tại thời điểm quan sát.

Để kiểm tra phương pháp tính, chúng tôi tiến hành so sánh các giá trị TEC

tính được bằng phương pháp đã nêu sau khi đã sử dụng các giá trị độ trễ thiết bị tính

toán và các giá trị TEC rút ra từ mô hình toàn cầu tại vị trí của 3 trạm GPS ở Việt

Nam trong một ngày quan sát số liệu, kết quả được chỉ ra trên hình 3.6. Ta nhận

thấy rằng đường cong giá trị TEC thu được có xu hướng phù hợp với đường TEC

tính từ mô hình toàn cầu, nhưng cũng có nhiều điểm phản ánh xu thế khác, đặc biệt

vào thời gian ngày, khi hiệu ứng vòi phun của tầng điện ly vùng vĩ độ thấp phát

73

triển thì có sự sai lệch về xu hướng giữa giá trị TEC mô hình và giá trị TEC đo đạc

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam thực tế. Điều này có thể là do đặc trưng địa phương phức tạp của tầng điện ly vùng

xích đạo mà mô hình toàn cầu không thể mô tả hết. Ouattara et al., [69] đã so sánh

giữa số liệu mô hình và số liệu quan sát tại trạm vùng xích đạo Koudougou ở Bắc

Mỹ, cũng cho thấy có sự sai lệch đáng kể giữa giá trị TEC tính từ mô hình và TEC

quan sát.

Hình 3.6, Giá trị TEC đã hiệu chỉnh độ trễ thiết bị của tất cả các vệ tinh nhìn thấy

74

(chấm đen), giá trị TEC trung bình cho từng thời điểm quan sát (đường liền nét) và

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam TEC từ mô hình toàn cầu (đường liền nét nhẵn) trong ngày 02/01/2010 tại Hà Nội,

Huế và Tp Hồ Chí Minh.

Phương pháp tính độ trễ thiết bị này đã được Lê Huy Minh et al. [64] giới

thiệu và áp dụng nghiên cứu cho vùng dị thường điện ly xích đạo Đông Nam Á, kết

quả được đăng trên tạp chí Advances in Space Research và nhận được nhiều sự

quan tâm của các nhà khoa học trên thế giới.

3.1.2.5 Chương trình tính toán nồng độ điện tử tổng cộng từ số liệu GPS

Từ các phương pháp tính toán đã nêu, một chương trình tính toán TEC đã được

xây dựng. Ngoài việc tính các giá trị TEC theo phương pháp đã nêu cho mỗi đường

vệ tinh, chúng tôi còn phải tính tọa độ (kinh độ, vĩ độ) cho mỗi giá trị TEC tại điểm

cắt tầng điện ly để phục vụ cho việc xây dựng bản đồ phân bố TEC khu vực Việt

Nam. Trong trường hợp nghiên cứu này, tọa độ điểm cắt tầng điện ly được lấy ở độ

cao 400km theo mô hình lớp đơn đã nêu phần trên. Toàn bộ chương trình tính được

viết bằng ngôn ngữ Matlab gồm khoảng 1000 dòng lệnh được chia thành hai bước

chính tương ứng với 2 chương trình lớn. Các bước thực hiện chương trình được chỉ

ra như trong sơ đồ khối trên hình 3.7.

Chương trình lớn được đặt tên ‘Bias_tot.m’, là một chương trình chính gồm

16 chương trình con và được chia làm 2 bước:

Bước thứ nhất step 1, có nhiệm vụ tính toán các giá trị TEC cho trường hợp

chưa hiệu chỉnh độ trễ thiết bị (bi+bj=0) cho các cặp vệ tinh-máy thu và cho cả

tháng số liệu, với các tệp số liệu đầu vào là: tệp số liệu quan sát dưới dạng RINEX,

tệp số liệu niên giám yuma cung cấp thông tin vệ tinh, tệp codg cung cấp số liệu mô

hình TEC toàn cầu và độ trễ thiết bị (tuy nhiên độ trễ thiết bị trong tệp này sẽ không

được chúng tôi sử dụng). Các kết quả tính được ghi ra tệp đầu ra tương ứng cho tất

cả các ngày quan sát trong tháng với các thông số như: thời gian (s), tên vệ tinh, vĩ

độ điểm cắt tầng điện ly (độ), kinh độ điểm cắt tầng điện ly (độ), TEC nghiêng

(TECu) và góc nhìn vệ tinh (độ). Trong step 1 có chứa 10 chương trình con có chức

năng xử lý khác nhau:

1, Sgps: chương trình chuyển đổi ngày, tháng, năm quan sát sang tuần, ngày

75

GPS.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

2, Quant, Bissec: chương trình đổi ngày, tháng, năm quan sát sang ngày GPS

và tính cho các trường hợp năm nhận hay không nhuận.

3, Lec_alm: chương trình này cung cấp các thông tin liên quan đến tình trạng

vệ tinh từ tệp yuma như: số vệ tinh đang hoạt động, góc nghiêng của quỹ đạo so với

mặt phẳng xích đạo của vệ tinh tại thời điểm quan sát, độ trễ đồng hồ vệ tinh…

4, Parorb: chương trình cung cấp thông tin về các tham số quỹ đạo liên quan

đến mỗi vệ tinh với các thông số đầu vào thu được từ chương trình lec_alm.

5, Entete: chương trình đọc các thông số đầu vào từ tệp số liệu quan sát

RINEX như: toạ độ trạm trong hệ toạ độ (X,Y,Z), khoảng thời gian quan sát, số

lượng các đại lượng quan sát được, và các giá trị tương ứng.

6, Sp3: chương trình tính chuyển tọa độ trạm thu từ hệ toạ độ (X,Y,Z) sang

hệ toạ độ cầu (,,h) theo radian và mét.

7, Icord: chương trình cung cấp vị trí vệ tinh và toạ độ điểm cắt tầng điện ly.

Với các thông số đầu vào là: vĩ độ, kinh độ, độ cao trạm thu và thời gian quan sát.

Thông số lối ra là: tọa độ điểm cắt tầng điện ly, góc nhìn vệ tinh và góc phương vị

của vệ tinh.

8, Isupiono: chương trình tính tọa độ điểm cắt tầng điện ly, với thông số đầu

vào là: kinh độ và vĩ độ trạm quan sát, góc nhìn và góc azimuth của vệ tinh.

9, Iposit: chương trình tính vị trí vệ tinh, với thông số đầu vào là vị trí trạm

quan sát và đầu ra là: độ cao, kinh độ, vĩ độ của vệ tinh, khoảng cách từ trạm thu tới

vệ tinh, góc nhìn vệ tinh và góc phương vị azimuth.

10, Lec_obs_1: chương trình xử lý tệp số liệu quan sát và tính các giá trị

TEC nghiêng theo công thức đã nêu với độ trễ thiết bị chưa hiệu chỉnh.

Bước thứ hai step 2, có nhiệm vụ tính toán các độ lệch giữa giá trị TEC tính

được trong bước 1 và giá trị TEC của mô hình, sau đó tính các giá trị median ngày

và tháng để thu được độ trễ thiết bị cho các cặp (vệ tinh-máy thu) tương ứng và ghi

ra tệp đầu ra thứ hai chứa thông tin về độ trễ thiết bị. Trong step 2 có chứa 6 chương

trình con có chức năng xử lý khác nhau:

1, Sgps: chương trình chuyển đổi ngày, tháng, năm quan sát sang tuần, ngày

76

GPS.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

2, Quant, Bissec: chương trình đổi ngày, tháng, năm quan sát sang ngày GPS

và tính cho các trường hợp năm nhận hay không nhuận.

3, Lect_ionex: chương trình rút ra bản đồ TEC khu vực từ mô hình toàn cầu

cho trạm quan sát.

4, TEC_ionex: chương trình tính các giá trị TEC mô hình tương ứng với kinh

độ, vĩ độ trạm quan sát, nội suy chuỗi số liệu cho tất cả các giờ trong ngày.

5, Spline, Splint: là các hàm nội suy.

6, Biais_res: chương trình tính median độ trễ thiết bị cho các ngày khác nhau

và cho từng vệ tinh.

Hình 3.7, Sơ đồ khối chương trình tính toán TEC.

Sau khi kết thúc chương trình bias_tot.m sẽ chạy chương trình có tên

verify.m, với các tệp số liệu đầu vào là tệp kết quả đầu ra ở chương trình bias_tot.m.

77

Chương trình này có nhiệm vụ tính giá trị TEC thẳng đứng tuyệt đối khi đã có

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam thông tin về tổng độ lệch do phần cứng máy thu và phần cứng vệ tinh và vẽ giá trị

TEC thẳng đứng tuyệt đối theo chuỗi thời gian để kiểm tra.

Kết quả tính giá trị TEC áp dụng bộ chương trình này được biểu diễn trên

hình 3.8 với các giá trị TEC tính được trong tháng 10/2010 cho trạm ở Hà Nội. Ta

thấy rằng biên độ dao động của TEC từ ngày này sang ngày khác là tương đối khác

nhau, nhưng đều có một cực đại vào thời gian ban ngày và một cực tiểu vào thời

gian ban đêm địa phương. Ngoài ra trong một số ngày có xuất hiện giá trị TEC âm

hoặc dương nằm ngoài xu hướng biến thiên chung trong khoảng thời gian quan sát;

các giá trị này có thể gây bởi hiện tượng đa đường truyền tín hiệu, nhiễu đường

truyền… và cần phải loại bỏ trước khi đưa vào nghiên cứu.

Hình 3.8, Biến thiên TEC hàng ngày trong tháng 10/2010 tại Hà Nội.

Trong trường hợp ở đây, các giá trị TEC sau khi tính toán theo chương trình, chúng

tôi sử dụng thêm bước lọc lấy các giá trị theo góc nhìn vệ tinh lớn hơn 200 để hạn

chế ảnh hưởng kể trên. Giới hạn góc nhìn này có thể làm giảm số lượng vệ tinh

78

quan sát nhưng cho phép chúng ta loại bỏ được đáng kể những ảnh hưởng không

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam phải do bởi tầng điện ly. Tập hợp các giá trị TEC đã được lọc như vậy là cơ sở cho

các nghiên cứu sau này về TEC.

3.2 Biến thiên theo thời gian ngày đêm của TEC khu vực Việt Nam

Áp dụng chương trình tính toán TEC đã nêu chúng tôi tiến hành tính TEC

cho số liệu GPS liên tục của 3 trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh với khoảng

cách giữa hai thời điểm quan sát là 30 giây. Để chỉ ra biến thiên theo thời gian ngày

đêm của TEC, các giá trị TEC tính được tại mỗi thời điểm quan sát sẽ được lấy

trung bình cho tất cả các vệ tinh nhìn thấy. Từ hình 3.9 đến hình 3.13 minh họa biến

thiên ngày đêm trung bình tháng trong năm từ 2006 đến 2010 tại các trạm Hà Nội,

Huế và Tp Hồ Chí Minh, với trục tung biểu thị giá trị trung bình của TEC theo đơn

vị TECu (1TECu = 1016 e/m2) trong tháng tại thời điểm quan sát và trục hoành biểu

thị thời gian được tính theo giờ quốc tế (giờ địa phương sẽ được cộng thêm 7). Kết

quả quan sát cho thấy đặc trưng biến thiên ngày đêm chung của TEC là đạt một cực

đại vào ban ngày (06-09UT, tức là 13-16LT) và một cực tiểu vào ban đêm địa

phương (khoảng 21-22UT, tức là 04-05LT). Biên độ dao động ngày đêm trung bình

tháng của TEC thay đổi trong khoảng từ cực tiểu ban đêm cỡ 5TECu đến cực đại

ban ngày cỡ 50TECu tùy thuộc vào từng tháng trong năm và vào mức độ hoạt động

mặt trời. Dựa vào phép chuyển đổi trong bảng 2.4, với biên độ dao động ngày đêm

của TEC kể trên sẽ gây ra độ trễ khoảng cách từ 1m đến 8m trên tín hiệu L1. Sau

79

15hUT (22hLT) TEC ít biến đổi và duy trì giá trị thấp trong suốt thời gian ban đêm.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.9 Biến thiên ngày đêm trung bình tháng của TEC trong năm 2006

tại các trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh

80

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.10 Biến thiên ngày đêm trung bình tháng của TEC trong năm 2007 tại các

81

trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.11 Biến thiên ngày đêm trung bình tháng của TEC trong năm 2008 tại các

82

trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.12 Biến thiên ngày đêm trung bình tháng của TEC trong năm 2009 tại các

83

trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.13 Biến thiên ngày đêm trung bình tháng của TEC trong năm 2010 tại các

trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh

Việc TEC đạt cực đại vào ban ngày và cực tiểu vào ban đêm hoàn toàn dễ

84

hiểu, như đã trình bầy trong chương 2 của luận án, tầng điện ly được hình thành và

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam tồn tại dưới tác dụng của bức xạ mặt trời và phụ thuộc chủ yếu vào quá trình quang

ion hóa. Vào ban ngày quá trình này diễn ra mạnh mẽ với tốc độ sinh ion và điện tử

lớn làm cho nồng độ điện tử trong tầng điện ly tăng lên và đạt giá trị cực đại. Chúng

ta biết rằng vào giữa trưa địa phương (12hLT) vị trí Mặt Trời ở vị trí quan sát nằm ở

thiên đỉnh (=0), tốc độ sinh ion và điện tử đạt cực đại, tuy nhiên cực đại của TEC

hầu như không xảy ra đúng giữa trưa địa phương mà đạt được vào khoảng đầu giờ

chiều, điều này cho thấy ngoài quá trình quang ion hóa của bức xạ mặt trời, TEC

còn phụ thuộc vào các quá trình động học khác như: gió trong tầng điện ly, trường

điện, trường từ Trái Đất,... ảnh hưởng của các yếu tố này đang dần được làm sáng tỏ

trong các nghiên cứu gần đây. Vào thời điểm sau khi Mặt Trời lặn, nồng độ điện tử

sẽ giảm dần do không còn xẩy ra quá trình quang ion hóa mà chiếm ưu thế là quá

trình va chạm và tái hợp, tuy nhiên nồng độ điện tử vẫn được duy trì trong suốt các

giờ ban đêm do gió khí quyển trung hòa trong mặt phẳng kinh tuyến hướng về phía

xích đạo, nâng plasma dọc theo đường sức từ lên các độ cao lớn hơn tại đó hệ số

mất mát điện tử đủ nhỏ để duy trì sự tồn tại nồng độ điện tử suốt đêm.

So sánh với đặc trưng biến thiên ngày đêm của tần số tới hạn của các lớp

điện ly đã công bố bởi các tác giả trước đây [4, 8], ta nhận thấy rằng đặc trưng biến

thiên theo thời gian ngày đêm của TEC hoàn toàn giống với đặc trưng biến thiên

ngày đêm của tần số tới hạn lớp F2 (f0F2) tầng điện ly tại trạm Phú Thụy - Hà Nội là

có một cực đại vào khoảng 14 giờ địa phương. Nhưng khác hơn khi so sánh với kết

quả quan sát được tại trạm phía Nam (Tp. Hồ Chí Minh) khi biến thiên ngày đêm

của tần số tới hạn lớp F2 (f0F2) tại đây đạt giá trị thấp hơn và đạt hai đỉnh vào

khoảng 9 giờ và 17 giờ địa phương như chỉ ra trên hình 3.14, trong khi đó thì xu

hướng hai đỉnh không thể hiện một cách rõ ràng trên đặc trưng biến thiên của TEC

tại Tp. Hồ Chí Minh trong hầu hết các tháng trong năm, nhưng ở Tp Hồ Chí Minh

độ rộng của khoảng cực đại ban ngày của TEC hoàn toàn tương ứng với độ rộng

85

của vùng cực đại ban ngày ở foF2.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.14 a) Biến thiên tần số f0F2 tại Phú Thụy [8]; b) Biến thiên tần số f0F2 tại

Thành phố Hồ Chí Minh [4]

3.3 Biến thiên theo mùa và sự phụ thuộc vào mức độ hoạt động mặt trời

Để tìm hiểu đặc tính mùa của TEC, chúng tôi tiến hành vẽ các giá trị TEC

trung bình tháng ngày đêm theo dạng đường đẳng trị cho từng năm số liệu quan sát,

kết quả được chỉ ra trên hình 3.15, hình 3.16 và hình 3.17 tương ứng cho trạm ở Hà

Nội, Huế và Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian năm 2009 và 2010. Với trục tung biểu

thị các tháng trong năm và trục hoành biểu thị thời gian trong ngày, các đường đẳng

trị với bước chia là 5 TECu biểu thị các giá trị TEC tương ứng theo thang màu từ 0

86

tới 50 TECu.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.15, Biến thiên theo mùa trong năm 2009 và 2010 tại Hà Nội, khoảng cách

giữa các đường đẳng trị 5 TECu.

Hình 3.16, Biến thiên theo mùa trong năm 2009 và 2010 tại Huế, khoảng cách giữa

87

các đường đẳng trị 5 TECu.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.17, Biến thiên theo mùa trong năm 2009 và 2010 tại TP. Hồ Chí Minh,

khoảng cách giữa các đường đẳng trị 5 TECu.

Dễ dàng nhận thấy rằng TEC thể hiện một xu thế biến thiên theo mùa trong

năm rất rõ, đạt hai cực đại vào thời kỳ phân điểm hàng năm: xuân phân (tháng 3-4)

và thu phân (tháng 9-10) và cực tiểu vào những tháng mùa đông và mùa hè. Ngoài

ra biên độ TEC còn phụ thuộc vào vị trí trạm quan sát khi so sánh trong cùng thời

điểm quan sát, ta nhận thấy giá trị TEC đo được tại trạm Hà Nội thường lớn nhất,

tiếp đến là trạm Huế và nhỏ nhất quan sát được tại Tp Hồ Chí Minh, đặc trưng này

sẽ được thể hiện rõ hơn khi biểu diễn theo vĩ độ sẽ được trình bày chi tiết trong

phần sau. Các đặc trưng biến thiên của nồng độ điện tử tổng cộng theo thời gian và

theo mùa quan sát cho khu vực Việt Nam tương đồng với các kết quả nghiên cứu

cho vùng Ấn Độ của Rama Rao et al., [74] như đã được đề cập trong chương 1 của

luận án.

Để giải thích hiện tượng mùa của TEC quan sát ở trên ta sẽ tìm hiểu cơ chế

vật lý liên quan đến hiện tượng này như sau: theo lý thuyết, cường độ bức xạ của

Mặt Trời chiếu lên Trái Đất cao nhất vào mùa hè, và khi đó tốc độ ion hóa do bức

xạ cũng là cao nhất hay nói cách khác là tốc độ sinh ion trong tầng điện ly vào mùa

hè là lớn nhất trong năm. Do đó, theo lý thuyết này thì giá trị TEC sẽ đạt cực đại

vào mùa hè. Trong khi đó, quan sát thực tế lại cho thấy chiều hướng biến thiên mùa 88

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam của TEC có thể được xem là đối ngược với sự tăng lên của tốc độ ion hóa. Kết quả

quan sát như vậy do liên quan đến sự cân bằng giữa quá trình sinh và mất ion trong

tầng điện ly. Như đã trình bầy trong chương 2 của luận án, hợp phần khí trung hòa

+ theo các phương

chính trong nhiệt quyển là O, N2 và O2. Như vậy các ion chính được tạo ra bởi sự

quang ion hóa và tương tác trong nhiệt quyển là O+, NO+ và O2

trình phản ứng quang hóa. Người ta thấy rằng trong vùng F của tầng điện ly, tốc độ

sinh ion tỷ lệ thuận với mật độ oxy nguyên tử (O) và sự tái hợp làm mất ion gia tăng

chủ yếu theo sự tăng của mật độ Nitơ phân tử (N2). Ondoh et al. [66] đã dùng mô

hình điện ly toàn cầu MSIS-86 nghiên cứu sự biến thiên theo mùa trong năm của

các hợp phần khí (hình 3.18) trong tầng điện ly.

Hình 3.18, Sự biến đổi theo thời gian của mật độ các hợp phần khí lúc 12h00 LT tại

độ cao 200km, trong năm 1989 theo mô hình điện ly MSIS-86 (Ondoh et al.,,

2001).

Kết quả quan sát từ mô hình cho thấy mật độ oxy nguyên tử giảm rất mạnh

vào mùa hè và tăng vào thời kỳ phân điểm, hợp phần N2 tăng vào mùa hè và chiếm

ưu thế so với oxy nguyên tử. Như vậy vào mùa hè tốc độ sinh plasma giảm kết hợp

với tốc độ tái hợp tăng lên đáng kể, kết quả là vào mùa hè mật độ điện tử trong tầng

điện ly giảm và vào tháng phân điểm tốc độ sinh ion tăng dẫn đến mật độ điện tử

tăng lên và đạt cực đại. Kiểu biến thiên mùa của TEC như vậy cũng tương tự biến

89

thiên mùa của tần số tới hạn lớp F2 tầng điện ly (foF2) thu được từ thăm dò thẳng

đứng tầng điện ly quan sát được tại trạm điện ly Phú Thụy, Hà Nội [8].

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Ngoài đặc trưng biến thiên theo mùa ở trên, TEC còn phụ thuộc vào mức độ

hoạt động của Mặt Trời, kết quả này đã được đề cập đến trong các công bố trước

đây bởi các tác giả trên thế giới khi nghiên cứu cho tầng điện ly vùng xích đạo [30,

32, 36, 74]. Để xem xét mối liên hệ này chúng tôi đã tính giá trị cực đại TEC trong

tháng của từng năm cho toàn bộ chuỗi số liệu từ 2006 đến 2010, kết quả được chỉ ra

trên hình 3.19.

Hình 3.19, Biến thiên biên độ cực đại TEC tại a) Hà Nội, b) Huế, c) TP. Hồ Chí

90

Minh và d) Số vết đen mặt trời giai đoạn từ 2006 đến 2010.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Các hình a, b và c biểu thị biên độ TEC cực đại trong tháng của các trạm Hà

Nội, Huế và TP. Hồ Chí Minh, hình d biểu thị số vết đen mặt trời trung bình tháng

trong giai đoạn nghiên cứu. Ta nhận thấy rằng biên độ cực đại của TEC cũng thể

hiện biến thiên mùa và biến thiên theo mức độ hoạt động mặt trời, so sánh chuỗi số

liệu từ 2006 đến 2010 tại mỗi trạm ta nhận thấy biên độ TEC giảm dần khi hoạt

động của mặt trời giảm và biên độ đạt giá trị thấp nhất vào năm 2008 và 2009 (khi

hoạt động mặt trời là cực tiểu), và đến năm 2010 lại tăng dần lên. Chúng ta dễ dàng

nhận thấy với chuỗi số liệu quan sát, trong pha đi xuống của hoạt động mặt trời

(2006 đến 2008), cực đại xuân phân lớn hơn cực đại thu phân, trong pha đi lên của

hoạt động mặt trời (2009 đến 1010) thì ngược lại, cực đại thu phân lại lớn hơn cực

đại xuân phân. Như vậy, giá trị của hai cực đại trong thời kỳ phân điểm cũng thay

đổi theo mức độ hoạt động của mặt mrời. Đặc trưng biến thiên theo mùa và theo

pha hoạt động của mặt trời cũng được tìm thấy trong biến thiên của tần số f0F2 tại

Phú Thụy [8, 49].

3.4 Đặc trưng phân bố theo thời gian và vĩ độ

Để có cái nhìn tổng thể về TEC trên toàn lãnh thổ Việt Nam, chúng ta cần

xây dựng các bản đồ phân bố TEC cho khu vực này. Hình 3.20 là vết của các vệ

tinh ở độ cao 400km nhìn thấy được bởi các máy thu ở Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí

Minh trong thời gian 1 ngày (29/05/2008). Các vết vệ tinh vẽ lên được hiển thị với

các góc nhìn vệ tinh  khác nhau; lớp trong cùng >500, lớp thứ hai ,

lớp thứ ba , lớp thứ tư và lớp ngoài cùng . Hình

3.20a biểu diễn phân bố theo kinh độ và vĩ độ, ta thấy rằng với các lớp góc nhìn vệ

tinh khác nhau sẽ chỉ ra vùng điện ly tương ứng quan sát được tại mỗi trạm. Với

giới hạn góc nhìn vệ tinh  >200 được sử dụng trong luận án này thì từ số liệu quan

sát ở ba trạm thu, chúng ta có thể nghiên cứu được vùng điện ly trong khoảng vĩ độ

địa lý từ 30 đến 270 và kinh độ từ 1000 đến 1130. Hình 3.20b biểu diễn phân bố theo

vĩ độ và thời gian chỉ ra vết của các vệ tinh nhìn thấy ở 3 trạm trong 1 ngày. Tại mỗi

thời điểm quan sát mỗi trạm chỉ có thể nhìn thấy nhiều nhất khoảng 11 vệ tinh, do

vậy chúng ta không thể thành lập được bản đồ TEC theo kinh độ và vĩ độ có độ tin

cậy cao tại từng thời điểm quan sát chỉ từ số liệu của 3 trạm thu. Tuy nhiên chúng ta 91

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam có thể thấy rằng trong phân bố thời gian – vĩ độ của các vết vệ tinh nhìn thấy (hình

3.20b) tương đối đồng đều trong khoảng vĩ độ 3o-27o và trong cả khoảng thời gian

24 giờ trong ngày, do vậy chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng được bản đồ TEC

ngày đêm trong dải vĩ độ đã nêu hoặc hẹp hơn nếu muốn có bản đồ với độ tin cậy

cao.

a) b)

Hình 3.20, Vết của các vệ tinh với a) theo kinh độ và vĩ độ và b) theo vĩ độ và thời

gian trên độ cao 400 km của tầng điện ly nhìn thấy bởi các máy thu tại Hà Nội, Huế

và Tp. Hồ Chí Minh ngày 29/05/2008.

Do phân bố theo thời gian và vĩ độ của các điểm số liệu TEC không đều, nên

chúng tôi dùng phương pháp trung bình trượt theo cửa sổ để tạo nên lưới số liệu gần

vuông trước khi thực hiện việc lưới hóa bằng các phần mềm đồ họa, sau đó xây

dựng bản đồ theo lưới số liệu đã được lưới hóa vuông. Trên cơ sở số liệu GPS liên

tục của 3 trạm Hà Nội, Huế và Tp HCM, các bản đồ TEC được xây dựng cho từng

ngày trong khoảng thời gian quan tâm. Sau đó để nghiên cứu các quy luật biến đổi

chu kỳ dài, bản đồ TEC trung bình tháng được xây dựng.

Các hình 3.21 - 3.25 biểu thị bản đồ TEC theo thời gian và vĩ độ trung bình

tháng trong khoảng thời gian 2006-2010, đơn vị là TECu, xích đạo từ nằm ở khoảng

92

vĩ độ 8oN theo IGRF2005. Với số liệu của 3 trạm thu GPS ở Việt Nam chúng ta

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam hoàn toàn có thể nghiên cứu được đỉnh dị thường phía Bắc bán cầu trong dải kinh

tuyến nước ta.

Hình 3.21, Bản đồ theo thời gian của TEC trung bình tháng trong năm 2006.

93

Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 2 TECu.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.22, Bản đồ theo thời gian của TEC trung bình tháng trong năm 2007.

94

Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 2 TECu.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.23, Bản đồ theo thời gian của TEC trung bình tháng trong năm 2008.

95

Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 2 TECu.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.24, Bản đồ theo thời gian của TEC trung bình tháng trong năm 2009.

96

Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 2 TECu.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.25, Bản đồ theo thời gian của TEC trung bình tháng trong năm 2010.

97

Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 2 TECu.

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Chúng ta có thể thấy TEC trung bình có một cực đại rõ rệt ở khoảng vĩ độ

18o-20o trong khoảng thời gian từ 5hUT đến 9hUT (12-16hLT). Bản đồ TEC chỉ ra

rằng vùng phía Bắc nước ta nằm ở vùng đỉnh dị thường điện ly xích đạo, và vùng

phía Nam ở vùng đáy của dị thường. Vào ban đêm từ 22hLT đến khoảng 6hLT

ngày hôm sau, tầng điện ly gần như đồng nhất với giá trị TEC trung bình nhỏ hơn

khoảng 10 TECu. Cơ chế hình thành dị thường điện ly xích đạo đã được trình bầy

chi tiết trong Chương II của luận án. Biến động của hình thái cấu trúc dị thường

điện ly xích đạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố : hoạt tính mặt trời, trường từ Trái Đất,

gió trung hòa trong tầng điện ly..., do vậy nghiên cứu sự biến động của hình thái cấu

trúc của các bản đồ TEC sẽ cho chúng ta hiểu biết về mối quan hệ giữa cấu trúc dị

thường điện ly xích đạo vào các yếu tố đã nêu. Các đặc trưng phân bố theo vĩ độ

của TEC trong vùng đỉnh dị thường khu vực Việt Nam như đã trình bầy ở trên

tương đồng với kết quả nghiên cứu đã công bố trước đây cho vùng kinh tuyến Ấn

Độ (Rama Rao et al., [74] ; Bhuyan et al., [30]). Hình 3.26 là kết quả biểu diễn biến

thiên các thông số đỉnh dị thường như biên độ cực đại TEC, vị trí đỉnh dị thường,

thời gian đạt đỉnh và số vết đen mặt trời trong giai đoạn từ 2006 đến 2010. Biên độ

cực đại của TEC ở đỉnh cũng biến đổi rõ rệt theo mùa và theo số vết đen mặt trời

(hình 3.26a và hình 3.26b). Biên độ đỉnh TEC cực đại vào thời kỳ phân điểm, cực

tiểu vào mùa hè và mùa đông. Từ năm 2006 đến khoảng tháng 3/2009 số vết đen

mặt trời trung bình giảm dần (Mặt Trời ở pha hoạt động đi xuống), sau đó số vết

đen mặt trời bắt đầu tăng dần (Mặt Trời ở pha hoạt động đi lên). Trong pha đi

xuống, biên độ đỉnh TEC ở xuân phân cao hơn ở thu phân, trong pha đi lên thì biên

độ đỉnh TEC ở thu phân cao hơn ở xuân phân. Như vậy biến thiên theo thời gian

trong năm của biên độ đỉnh dị thường TEC tương tự như biến thiên theo mùa của

TEC ở từng trạm, do phụ thuộc vào thành phần khí và sự cân bằng giữa quá trình

sinh và mất ion trong tầng điện ly. Hình 3.26c cho thấy vị trí vĩ độ đỉnh dị thường

trung bình tháng dao động trong khoảng từ 170 đến 210 và vị trí này cũng phụ thuộc

vào mùa, ở xa xích đạo hơn vào những tháng phân điểm và tiến gần xích đạo nhất

vào những tháng mùa đông trong năm, tuy nhiên biểu hiện quy luật mùa về vĩ độ

98

đỉnh kém rõ ràng hơn so với quy luật mùa ở biên độ đỉnh TEC. Vị trí đỉnh dị thường

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam không thể hiện sự phụ thuộc vào mức độ hoạt động Mặt Trời trong giai đoạn nghiên

cứu.

Hình 3.26, a) Số vết đen Mặt trời trung bình tháng; b) Biên độ đỉnh dị thường TEC

ngày đêm trung bình tháng ; c) vĩ độ đỉnh dị thường và d) thời gian đạt cực đại, số

99

liệu giai đoạn 2006-2010

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam Hình 3.26d trình bày một đặc trưng khác của đỉnh dị thường điện ly xích đạo là thời

gian xuất hiện cực đại, chúng ta có thể thấy rằng về mùa Đông thời gian xuất hiện

cực đại sớm hơn cả, tiếp đến là những tháng phân điểm và vào mùa hè dường như

thời gian xuất hiện muộn hơn. Để giải thích cho các hiện tượng quan sát thấy ở trên,

chúng ta sẽ xem xét mô hình phát sinh tổng thể là sự kết hợp của lý thuyết gió trung

hòa chuyển qua xích đạo, vị trí điểm gần Mặt Trời và gió thổi từ vùng cực về phía

xích đạo vào thời kỳ điểm chí như được chỉ ra trên hình 3.27 [83]. Theo mô hình,

điểm O ở giữa chỉ vị trí xích đạo từ, điểm O bên cạnh phía phải chỉ vị trí của xích

đạo địa lý và đường chí tuyến chỉ vị trí điểm gần Mặt Trời. Mũi tên ở giữa và mũi

tên bên cạnh chỉ hướng của gió trung hòa thổi qua xích đạo và gió thổi từ vùng cực

về phía xích đạo một cách tương ứng, và các đường vòng cung biểu thị hiệu ứng vòi

phun trong tầng điện ly.

Hình 3.27, Mô hình tổ hợp lý thuyết gió trung hòa chuyển qua xích đạo, vị trí điểm

100

gần Mặt Trời và gió thổi từ vùng cực về phía xích đạo vào thời kỳ điểm chí với a)

Hạ chí nằm ở bán cầu Bắc và b) Hạ chí nằm ở bán cầu Nam (Tsai et al., [83])

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam

Hình 3.27 chỉ ra hai trường hợp là khi bán cầu phía Bắc vào mùa hè (a) và

khi bán cầu Bắc vào mùa Đông (b). Lý thuyết gió trung hòa thổi qua xích đạo như

sau: gió trung hòa thổi từ bán cầu mùa Hè sang bán cầu mùa Đông sẽ vận chuyển

các ion ở bán cầu mùa hè sang bán cầu mùa đông, do đó làm cản trở sự phát triển

của vùng dị thường ở bán cầu mùa Hè và làm gia tăng đỉnh dị thường ở bán cầu

mùa Đông. Mặt khác theo lý thuyết gió thổi từ vùng cực về phía xích đạo ở bán cầu

mùa Đông sẽ duy trì mật độ điện tử cho đỉnh dị thường ở bán cầu mùa Đông và đẩy

đỉnh dị thường dịch về phía xích đạo. Đây là nguyên nhân tại sao ta quan sát thấy vị

trí đỉnh dị thường nằm gần xích đạo hơn vào mùa đông như đã chỉ ra ở hình 3.26c.

Nhìn vào hình 3.27 ta cũng nhận thấy rằng tại bán cầu Bắc điểm vị trí điểm gần Mặt

Trời vào mùa Hè gần xích đạo từ và vào mùa đông lại xa xích đạo từ hơn. Walker et

al. [90] đã thống kê biến thiên theo mùa của TEC ở cả hai vùng đỉnh dị thường cũng

đã tìm ra đỉnh dị thường về mùa đông thường đạt được sớm hơn và muộn hơn về

mùa hè. Họ cho rằng khi điểm gần Mặt Trời nằm ở vĩ độ trung bình không gần với

xích đạo từ (mùa đông ở bán cầu Bắc hình 3.27b) thì khi đó chủ yếu quá trình

quang ion hóa mặt trời và quá trình vận chuyển plasma xích đạo tầng điện ly chiếm

ưu thế và thời điểm đạt cực đại sẽ vào khoảng giữa trưa địa phương (12h LT). Mặt

khác khi vị trí điểm gần Mặt Trời gần với xích đạo từ (mùa hè ở bán cầu Bắc hình

3.27a) sẽ làm suy giảm đáng kể giá trị TEC trong vùng do làm tăng quá trình

khuyếch tán dẫn đến tăng quá trình tái hợp các ion và electron. Quá trình này chiếm

ưu thế so với quá trình quang ion hóa mặt trời và quá trình vận chuyển plasma xích

đạo tầng điện ly trong vùng này, và thời điểm đạt cực đại sẽ muộn hơn so với mùa

Đông. Đây là nguyên nhân tại sao vào mùa Đông thời gian đạt cực đại thường sớm

hơn và vào mùa hè thì muộn hơn như đã quan sát thấy trên hình 3.26d. Tuy nhiên,

giải thích trên mang tính chất định tính, cần xây dựng các mô hình vật lý và tính

toán định lượng dựa trên các số liệu đo đạc trong khu vực.

Có thể tóm tắt một số kết quả nghiên cứu đã trình bày trong chương như sau:

- Tiến trình ngày đêm của nồng độ điện tử tổng cộng ở 3 trạm khu vực Việt

101

Nam thay đổi liên tục theo thời gian trong ngày, đạt cực đại vào khoảng 14-15 giờ

Chương 3. Nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly và quy luật biến đổi theo thời gian ở khu vực Việt Nam chiều và cực tiểu vào khoảng 5 giờ sáng địa phương với biên độ dao động trung

bình tháng trong khoảng từ 5TECu đến 50TECu.

- Biên độ ngày đêm TEC thể hiện biến thiên mùa rõ rệt, đạt hai cực đại vào

thời kỳ phân điểm hàng năm: xuân phân (tháng 3-4) và thu phân (tháng 9-10) và

cực tiểu vào những tháng mùa đông và mùa hè.

- Giá trị nồng độ điện tử biến đổi theo hoạt động của mặt trời, trong pha hoạt

động mặt trời đi xuống cực đại xuân phân cao hơn cực đại thu phân, trong pha hoạt

động mặt trời đi lên thì ngược lại cực đại xuân phân thấp hơn cực đại thu phân.

- Vị trí vĩ độ đỉnh dị thường khu vực Việt Nam dao động trong khoảng từ 170

đến 200 vĩ độ địa lý và vị trí này cũng phụ thuộc vào mùa trong năm, ở xa xích đạo

hơn vào những tháng phân điểm và tiến gần xích đạo nhất vào những tháng mùa

đông. Biên độ của đỉnh dị thường gia tăng theo hoạt động mặt trời nhưng vị trí đỉnh

102

dị thường dường như không thể hiện sự phụ thuộc vào mức độ hoạt động mặt trời.

103

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS CHƯƠNG 4. ĐẶC TRƯNG XUẤT HIỆN NHẤP NHÁY ĐIỆN LY KHU VỰC

VIỆT NAM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ LÊN TÍN HIỆU VỆ TINH GPS

Khi tín hiệu vệ tinh GPS truyền qua một vùng nhiễu loạn mật độ điện tử

trong tầng điện ly có thể chịu một sự dao động nhanh về biên độ và pha của tín

hiệu, hiện tượng này được gọi là nhấp nháy điện ly. Nhấp nháy thường gây ra sự

suy giảm tín hiệu thu nhận, và đôi khi gây ra hiện tượng mất tín hiệu, trượt vòng

pha… Công nghệ GPS phát triển đã cung cấp một cách đơn giản và hữu hiệu để

nghiên cứu các biến đổi về không gian và thời gian của nhiễu loạn điện ly gây ra

nhấp nháy trên tín hiệu radio. Trong chương này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số đặc

trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam, sử dụng dao động pha tín hiệu

GPS chỉ ra hoạt động nhiễu loạn điện ly trong khu vực và ảnh hưởng của nó lên tín

hiệu vệ tinh GPS.

4.1 Thiết bị và phương pháp nghiên cứu

4.1.1 Thiết bị

Thiết bị theo dõi nhấp nháy điện ly (ISM – Ionospheric Scintillation

Monitor) hiện nay chủ yếu là máy thu GPS một tần số hoặc hai tần số được chế tạo

đặc biệt để thăm dò các mức nhấp nháy điện ly trong thời gian thực. Thiết bị ISM

có vòng lặp tự hiệu chỉnh dải rộng để duy trì trạng thái hoạt động lâu hơn trong

khoảng thời gian có xuất hiện nhấp nháy điện ly mạnh và có tốc độ chuẩn là 50 Hz

để tính giá trị biên độ nhấp nháy S4 và pha nhấp nháy Ф. Mục đích chính của máy

ISM là thu thập các thông số nhấp nháy điện ly (S4 và Ф) đối với tất cả các vệ tinh

GPS nhìn thấy và được lưu trữ dưới dạng tệp nhị phân trong ổ cứng máy thu để tiến

hành xử lý. Phần mềm điều khiển của ISM có thể được lập để thu thập số liệu nhị

phân và cung cấp số liệu đầu ra ở tất cả các thời điểm quan sát. Ba máy thu GPS ở

Việt Nam là loại máy thu hai tần số GSV4004 được chế tạo theo nguyên lý chuẩn

để thu thập số liệu về TEC và nhấp nháy điện ly (GISTM – GPS Ionospheric

Scintillation & TEC Monitor) đối với tất cả các vệ tinh nhìn thấy. Do đó các thông

tin về nhấp nháy được cung cấp từ số liệu đầu ra của phần mềm.

103

4.1.2 Phương pháp nghiên cứu

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

Có nhiều cách để đánh giá cường độ nhấp nháy điện ly, nhưng đại lượng

thường được dùng nhất là chỉ số biên độ nhấp nháy điện ly (S4) và chỉ số pha nhấp

nháy điện ly (Ф). Đã có một số công trình trình nghiên cứu chỉ ra tính rủi ro khi

dùng chỉ số nhấp nháy pha để nghiên cứu nhấp nháy [27, 43] do chỉ số này bị tác

động nhiều bởi các yếu tố đa đường truyền, nhiễu pha máy thu, trượt vòng dưới

điều kiện nhấp nháy, độ trải rộng pha do trôi dạt Doppler…Bởi vậy, chỉ số nhấp

nháy biên độ thường được các tác giả sử dụng nghiên cứu hơn là chỉ số nhấp nháy

pha. Do vậy trong khuôn khổ luận án, chúng tôi lựa chọn tham số biên độ nhấp

nháy để nghiên cứu đặc trưng xuất hiện nhấp nháy cho khu vực Việt Nam.

Phương pháp tính biên độ nhấp nháy cũng đã được đề cập bởi các tác giả

trên thế giới [41, 42, 93, 94, 95], được rút ra từ cường độ của tín hiệu thu nhận từ vệ

tinh. Chỉ số nhấp nháy biên độ thường được tính trong khoảng thời gian 60 giây và

đo đạc tại dải tần số L được xác định theo công thức sau [41]:

(4.1)

trong đó S4T là biên độ nhấp nháy tổng, I là cường độ tín hiệu vệ tinh và là giá

trị cường độ trung bình trong khoảng thời gian 60 giây.

Biên độ nhấp nháy xác định được trong phương trình (4.1) còn bao hàm cả

giá trị gây bởi nhiễu môi trường xung quanh cần phải được loại bỏ. Nhiễu trong

phương trình (4.1) có thể loại bỏ bằng cách đánh giá tỷ số tín hiệu/nhiễu (C/N0)

trung bình trong khoảng thời gian 60 giây. Nếu tỷ số tín hiệu/nhiễu đã biết thì yếu

tố nhấp nháy cho là gây bởi nhiễu được xác định như sau [41]:

(4.2)

trong đó C/No là tỷ số tín hiệu/nhiễu trung bình trong khoảng thời gian 60 giây và

S4No là biên độ nhấp nháy do nhiễu xung quanh gây ra.

Lấy giá trị biên độ nhấp nháy tổng trong phương trình (4.1) trừ đi biên độ

nhấp nháy do nhiễu trong phương trình (4.2) ta sẽ thu được biên độ nhấp nháy được

104

cho là gây bởi tầng điện ly như sau:

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

(4.3)

Biên độ nhấp nháy S4 là một đại lượng không thứ nguyên và cũng được đánh giá

trong khoảng thời gian 60 giây. Người ta thường phân chỉ số này thành 3 mức đó là

mạnh, trung bình và yếu. Nhấp nháy mạnh được xem là xuất hiện khi chỉ số S4 ≥ 0,6

và liên quan đến sự tán xạ mạnh của tín hiệu khi truyền qua tầng điện ly. Dưới mức

này thì được cho là nhấp nháy trung bình và yếu. Về lý thuyết với mức nhấp nháy

có biên độ S4 < 0,3 thì gần như không có ảnh hưởng đáng kể lên tín hiệu vệ tinh

GPS.

Cũng cần phải nói thêm rằng ngoài yếu tố gây bởi nhiễu ảnh hưởng đến giá

trị biên độ nhấp nháy còn có các yếu tố khác ảnh hưởng đến giá trị biên độ này như:

ảnh hưởng của tầng khí quyển, tán xạ của hơi nước và đặc biệt là hiệu ứng đa

đường truyền. Các yếu tố ảnh hưởng này thường gia tăng tại các góc nhìn vệ tinh

bé, vì vậy chúng tôi giới hạn góc nhìn lớn hơn 200 trong chương trình tính cho tất cả

các vệ tinh nhìn thấy. Giới hạn góc nhìn này có thể làm giảm số lượng vệ tinh quan

sát nhưng cho phép chúng ta loại bỏ được đáng kể những ảnh hưởng không phải do

bởi tầng điện ly. Trong thực tế giới hạn góc nhìn này không thể loại bỏ hết được

yếu tố đa đường truyền mà yếu tố đa đường truyền lại đóng vai trò đáng kể trong

giá trị biên độ nhấp nháy tính được. Bản thân vấn đề đa đường truyền đã là một vấn

đề nghiên cứu phức tạp, phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố môi trường nơi đặt máy thu.

Do vậy, khi nghiên cứu nhấp nháy điện ly bằng các máy thu loại GSV4004 người ta

phải sử dụng thêm một giới hạn lọc các giá trị S4 gây bởi tín hiệu đa đường truyền

được xác định như sau [97]:

min = 0,652. S4 – 0,125 (4.4)

trong đó S4 là biên độ nhấp nháy tính được từ công thức (4.3), min là giới hạn phân

tách giữa nhấp nháy điện ly và nhấp nháy gây bởi tín hiệu đa đường truyền. Giới

hạn lọc này được minh hoạ trên hình 4.1.

Tham số độ lệch chuẩn của độ lệch code/carrier (ccd ) đặc trưng cho mức độ

105

xuất hiện tín hiệu đa đường truyền cũng được máy thu GSV4004 thu thập. Các giá

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS trị S4 thu được ứng với tín hiệu có

min được cho là biên độ nhấp nháy điện ly

còn ngược lại là bị gây bởi các tín hiệu đa đường truyền cần được loại bỏ. Như ở

hình 4.1, những giá trị S4 nằm phía dưới đường giới hạn thì được cho là biên độ

nhấp nháy, những giá trị nằm phía trên đường này sẽ do tín hiệu đa đường truyền

gây ra và bị loại bỏ trong chương trình tính. Việc sử dụng phép lọc này sẽ loại bỏ tất

cả các giá trị nhấp nháy yếu có biên độ S4 < 0,2, do đó đối với các nhấp nháy yếu

gây bởi tầng điện ly cũng bị loại bỏ theo giới hạn này. Xét về khía cạnh truyền sóng

radio thì việc bỏ qua các nhấp nháy điện ly biên độ yếu sẽ không ảnh hưởng đến kết

quả nghiên cứu do các nhấp nháy điện ly yếu có biên độ nhỏ hơn 0,2 thường không

có ảnh hưởng đáng kể nào lên việc truyền tín hiệu vệ tinh GPS.

a) b)

Hình 4.1, Giới hạn lọc biên độ nhấp nháy tương ứng với hai trường hợp tại trạm

Huế: a) Môi trường không có nhấp nháy và b) Môi trường có nhấp nháy

4.2 Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy theo thời gian trong ngày

Áp dụng phương pháp nghiên cứu nhấp nháy ở trên, chúng tôi tiến hành tính

toán và nghiên cứu thống kê sự xuất hiện nhấp điện ly khu vực Việt Nam. Hình 4.2

là kết quả thống kê sự xuất hiện nhấp nháy theo thời gian ngày đêm trên tất cả các

đường vệ tinh nhìn thấy với góc nhìn lớn hơn 20o trong giai đoạn từ năm 2006 đến

2010 ở cả ba trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy nhấp nháy

chủ yếu xuất hiện vào khoảng thời gian ban đêm (từ 20h đêm đến 2h sáng ngày

hôm sau), tập trung nhiều vào khoảng thời gian trước nửa đêm và rất ít khi xuất

106

hiện vào thời gian ngày.

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

Hình 4.2, Đặc trưng xuất hiện theo thời gian trong ngày của nhấp nháy trong giai

đoạn 2006 – 2010 trên cả ba trạm Hà Nội, Huế và Tp Hồ Chí Minh.

Để lý giải cho hiện tượng quan sát thấy ở trên, chúng ta sẽ tìm hiểu về quá

trình vật lý phát sinh nhấp nháy điện ly trong vùng xích đạo như sau: Vào thời gian

sau khi Mặt Trời lặn, mật độ plasma và động học điện trường trong vùng E giảm,

đồng thời đỉnh dị thường điện ly mất dần, trong khi đó tại thời gian này động học

điện trường bắt đầu phát triển trong vùng F. Dưới tác dụng của thành phần điện

trường hướng đông tăng lên bất thường trước khi đảo chiều đổi sang hướng tây

(PRE), lớp F khu vực xích đạo từ được nâng lên độ cao lớn hơn nơi có mật độ

plasma thấp và sự va chạm plasma hiếm xảy ra. Vùng gradient nồng độ điện tử

dương tính của đáy lớp F tăng lên nhanh chóng làm cho vùng điện ly trở nên mất ổn

định và hỗn loạn dẫn tới sự tăng trưởng bọng plasma. Trạng thái này gọi là trạng

thái bất ổn định Rayleigh-Taylor và là nguyên nhân phát sinh các dị thường mật độ

trong tầng điện ly vùng xích đạo. Sự phát triển không tuyến tính của các bất ổn định

này dẫn đến sự hình thành các vùng suy giảm điện ly lớn, hiện tượng này thường

quan sát thấy trong vùng điện ly xích đạo và gọi là bọng plasma (plasma bubble)

[23, 34, 73]. Bằng các kỹ thuật khác nhau người ta quan trắc thấy kích thước nhiễu

loạn có thể từ hàng chục centimét tới hàng trăm kilômét. Các gradient trên các gờ

107

suy giảm mật độ phát sinh các nhiễu loạn tỷ lệ nhỏ, đây chính là nguyên nhân gây

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS ra các nhấp nháy biên độ trên tín hiệu vệ tinh truyền trong vùng xích đạo vào thời

gian ban đêm và ghi nhận được trên máy thu GPS như được chỉ ra ở trên.

4.3 Đặc trưng xuất hiện theo mùa và theo mức độ hoạt động mặt trời

Để tìm hiểu đặc trưng xuất hiện theo mùa của nhấp nháy điện ly, chúng tôi

tiến hành thống kê sự xuất hiện nhấp nháy cho chuỗi số liệu từ 2006 đến 2011. Kết

quả được biểu thị dạng cột, phân theo tháng trong năm và chia theo độ lớn của biên

độ nhấp nháy với bước chia 0,1 như được chỉ ra trên hình 4.3.

Kết quả quan sát cho thấy trong mỗi năm sự xuất hiện của nhấp nháy thể

hiện biến thiên theo mùa rõ rệt: nhấp nháy xuất hiện chủ yếu vào thời kỳ phân điểm

(tháng 3-4 và tháng 9-10) trong năm và rất ít khi xuất hiện vào các tháng mùa hè và

mùa đông. Đặc trưng xuất hiện theo mùa của nhấp nháy điện ly tại Việt Nam cũng

phù hợp với kết quả quan sát đã được công bố trước đây khi nghiên cứu cho các

trạm khác trong khu vực [16, 34, 73]. Đặc trưng xuất hiện theo mùa của nhấp nháy

điện ly cũng gần như đặc trưng biến thiên theo mùa của nồng độ điện tử tổng cộng

như đã được chỉ ra trong chương 3 của luận án.

Tần suất xuất hiện nhấp nháy điện ly rất khác nhau ở mỗi năm, thể hiện sự

phụ thuộc mạnh vào mức độ hoạt động của Mặt Trời, nhấp nháy xuất hiện nhiều

hơn khi Mặt Trời hoạt động mạnh như được chỉ ra trên hình 4.4. Vào năm 2007,

2008 và 2009 là thời điểm Mặt Trời hoạt động cực tiểu nên nhấp nháy xuất hiện rất

ít và chủ yếu là nhấp nháy biên độ yếu, hầu như không có xuất hiện nhấp nháy

mạnh (S4 > 0,6). Vào năm 2006 và 2010 Mặt Trời hoạt động tăng hơn, số liệu thống

kê cũng cho thấy nhấp nháy xuất hiện nhiều hơn năm 2007, 2008 và 2009. Đến năm

2011, là pha đi lên của hoạt động Mặt Trời, nhấp nháy xuất hiện nhiều hơn hẳn

những năm trước đó cả về tần suất lẫn độ lớn trên cả ba trạm thu ở Việt Nam. Đặc

trưng này là phù hợp với các kết quả đã công bố trước đây bởi các tác giả trên thế

giới về sự phụ thuộc vào hoạt động Mặt Trời của nhấp nháy khi nghiên cứu cho các

trạm khác nhau ở khu vực xích đạo: Basu et al., [23] nghiên cứu cho vùng Châu

Mỹ; Rama Rao et al., [73] nghiên cứu cho vùng Ấn Độ; Cervera et al., [34] nghiên

108

cứu cho vùng Đông Nam Á.

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

Hình 4.3, Thống kê sự xuất hiện nhấp nháy theo từng tháng trong năm và theo độ lớn tại

Hà Nội (trái), Huế (giữa) và Tp Hồ Chí Minh (phải) trong giai đoạn 2006-2011

109

a)

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

b)

Hình 4.4, Số vết đen mặt trời và sự xuất hiện nhấp nháy theo hai mức độ lớn tại Hà

Nội, Huế và TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2006-2011.

Để tìm hiểu mối liên hệ của sự xuất hiện nhấp nháy điện ly với mức độ hoạt

động từ, chúng tôi xem xét trong hai trường hợp là trận bão từ ngày 11/10/2010 và

110

ngày 24-25/10/2011. Mỗi trường hợp, chúng tôi đều sử dụng số liệu 5 ngày quan sát

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS liên tục trước và sau ngày xẩy ra bão từ. Trên mỗi hình đều biểu diễn đường cong

biến thiên của thành phần nằm ngang H của trường địa từ quan sát được tại Phú

Thụy, chỉ số Dst và kết quả thống kê sự xuất hiện nhấp nháy theo mỗi khoảng thời

gian là 3 giờ trên cả khu vực Việt Nam. Chỉ số Dst được tải về từ trang web của

trung tâm số liệu quốc tế WDC-2, tại địa chỉ: http://swdcwww.kugi.kyoto-u.ac.jp,

chuỗi số liệu có khoảng cách giữa hai giá trị là 1 giờ được chúng tôi nội suy thành

chuỗi số liệu theo từng phút để tiện so sánh.

Hình 4.5, Biến thiên của thành phần nằm ngang H của trường địa từ tại Phú Thụy,

chỉ số Dst và kết qủa thống kê sự xuất hiện nhấp nháy khu vực Việt Nam trong trận

bão từ ngày 11/10/2010 với các mũi tên chỉ thời điểm bắt đầu của pha đầu, pha

chính và pha hồi phục của bão.

Đối với trận bão từ ngày 11/10/2010 (hình 4.5), đây không phải là trận bão từ

mạnh, chỉ số Dst suy giảm cực đại chỉ đạt khoảng -80 nT. Từ thành phần nằm

ngang H và chỉ số Dst chúng ta có thể thấy biểu hiện rõ rệt các pha của trận bão

này: bão từ bắt đầu bất ngờ vào khoảng 4hUT ngày 11/10 khi thành phần trường từ

nằm ngang H tăng lên đột ngột, kế tiếp là pha chính của bão kéo dài trong thời gian 111

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS từ 7 đến 18h00 UT khi thành phần H và chỉ số Dst bắt đầu suy giảm và đạt đến giá

trị cực tiểu, tiếp đến là pha hồi phục kéo dài trong những ngày tiếp theo, ngày 14/10

giá trị Dst trở về mức ngày 10/10 nên có thể coi như là cơn bão đã kết thúc, và các

ngày 10/10 và 14/10 có thể coi là ngày tương đối yên tĩnh từ. Từ kết quả thống kê

sự xuất hiện nhấp nháy trong những ngày này cho thấy: vào ngày xẩy ra bão từ có

sự gia tăng hoạt động nhấp nháy (11/10) ở pha chính của bão, và tiếp tục xuất hiện

với tần xuất yếu hơn trong pha hồi phục (12/10) so với các ngày còn lại.

Để làm rõ hơn phản ứng của tầng điện ly trong thời gian bão từ, chúng tôi sử

dụng thêm số liệu của 3 trạm thu GPS trong khu vực (KUNM (25°01’44’’,

102°47’49’’); NTUS (1°20’45’’, 103°40’48’’); BAKO (-6°29’28’’, 106°50’56’’))

để biểu diễn sự biến đổi của TEC ở hai đỉnh dị thường điện ly trong thời gian trận

bão từ này, kết quả được chỉ ra trên hình 4.6.

Hình 4.6, Biến đổi của TEC theo vĩ độ và theo thời gian từ ngày 10 đến 14/10/2010.

Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 5 TECu.

Hình 4.6 biểu diễn bản đồ phân bố TEC theo vĩ độ và thời gian trong ngày

của 2 đỉnh dị thường điện ly xích đạo từ ngày 10 đến ngày 14/10/2010. Kết quả

quan sát cho thấy có sự thay đổi rõ rệt về vị trí và giá trị của đỉnh dị thường trong

thời gian bão từ: vào ngày xẩy ra bão từ (11/10), giá trị của TEC gia tăng và hai

đỉnh dị thường dịch chuyển ra xa xích đạo hơn so với ngày trước đó (10/10), ngày

tiếp theo (12/10) nằm trong pha hồi phục của bão, giá trị TEC của đỉnh dị thường bị

suy giảm một chút và co lại về gần xích đạo hơn, các ngày tiếp theo (13/10, 14/10)

112

đỉnh dị thường gia tăng và dần trở lại trạng thái ban đầu. Vấn đề về ảnh hưởng của

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS bão từ tới vùng dị thường điện ly xích đạo có thể tham khảo trong bài báo của Lê

Huy Minh và nnk, [11]. Do năm 2010 là năm Mặt Trời vẫn còn hoạt động yếu (số

vết đen trung bình trong tháng 10 chỉ đạt giá trị 20), phân bố TEC cũng cho thấy,

giá trị TEC trong thời gian này là thấp, cực đại của đỉnh dị thường trong những

ngày này chỉ đạt tới 55 đến 60 TECU và duy trì trong khoảng thời gian từ 6 đến

8hUT, vậy nên hoạt động nhấp nháy điện ly thời gian này rất ít do có mối liên hệ tỷ

lệ thuận giữa mật độ điện tử và sự xuất hiện nhấp nháy điện ly [16, 65], các ngày

trước bão từ (10/10) và sau bão (13/10 và 14/10) hầu như không quan sát thấy có sự

xuất hiện nhấp nháy.

Hình 4.7, Biến thiên của thành phần nằm ngang H của trường địa từ tại Phú Thụy,

chỉ số Dst và kết qủa thống kê sự xuất hiện nhấp nháy khu vực Việt Nam trong trận

bão từ ngày 24-25/10/2011 với các mũi tên chỉ thời điểm bắt đầu của pha đầu, pha

chính và pha hồi phục của bão.

Đối với trận bão từ bắt đầu bất ngờ ngày 24-25/10/2011 (hình 4.7), ta có thể

thấy rằng đây là một trận bão từ mạnh, chỉ số Dst suy giảm đến -140 nT. Bão từ bắt

đầu bất ngờ vào khoảng 18hUT ngày 24/10 (01hLT sáng ngày 25/10) và pha chính 113

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS của bão kéo dài khoảng 4 tiếng khi giá trị thành phần H đạt cực tiểu vào 1hUT

(08hLT) ngày 25/10, tiếp đến là pha hồi phục kéo dài trong những ngày tiếp theo

sau của bão (ngày 25, 26 và 27/10). Ngược với kết quả thống kê sự xuất hiện nhấp

nháy trong trận bão từ trước (11/10/2010), kết quả trong trường hợp này cho thấy

nhấp nháy xuất hiện hầu hết các ngày với cường độ khác nhau, ngoại trừ ngày bị

ảnh hưởng trực tiếp của bão từ (pha chính và hồi phục – ngày 25/10/2011) lại không

quan sát thấy nhấp nháy xuất hiện. Hình 4.8 là bản đồ phân bố TEC theo vĩ độ và

thời gian trong ngày của 2 đỉnh dị thường điện ly xích đạo từ ngày 23 đến

27/10/2011.

Hình 4.8, Biến đổi của TEC theo vĩ độ và theo thời gian từ ngày 23 đến 27/10/2011.

Khoảng cách giữa các đường đẳng trị là 5 TECu.

Khác với phân bố TEC trong hình 4.7, biên độ đỉnh dị thường trong những

ngày này khá lớn, giá trị đỉnh dị thường đạt tới 90 đến 100 TECu và mở rộng cả về

thời gian và vĩ độ. Trong hầu hết các ngày, đỉnh dị thường mở rộng và duy trì giá trị

TEC cao ngay cả khoảng thời gian vài giờ sau khi Mặt Trời lặn (12 đến 16hUT)

đỉnh dị thường vẫn tồn tại với giá trị TEC cao. Riêng ngày bão từ (25/10), do bị tác

động của bão từ, sự phát triển của đỉnh dị thường khác hơn so với các ngày còn lại,

đỉnh dị thường dịch chuyển một chút về phía xích đạo và thu hẹp về thời gian,

không có sự tồn tại rõ rệt của đỉnh dị thường vào những giờ sau khi Mặt Trời lặn

như các ngày khác. Năm 2011 là năm Mặt Trời hoạt động mạnh lên, số vết đen

trung bình tháng 10 đạt giá trị là 96, cao hơn nhiều thời điểm 10/2010, giá trị TEC

114

trong tầng điện ly tại đây cũng gia tăng mạnh, do đó hoạt động nhấp nháy sẽ thường

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS xuyên xuất hiện, đấy là lý do ta quan sát thấy nhấp nháy xuất hiện ở hầu hết những

ngày này.

Để giải thích cho sự gia tăng nhấp nháy trong ngày bão từ 11/10/2010 và sự

suy giảm nhấp nháy trong ngày bão 25/10/2011 so với các ngày trước và sau bão từ,

chúng ta hãy tìm hiểu cơ chế phát sinh hiện tượng này như sau: Có hai nguồn điện

trường có thể ảnh hưởng tới hiệu ứng vòi phun xích đạo trong thời gian bão từ đó là

sự thâm nhập trực tiếp của điện trường có nguồn gốc từ quyển xuống tầng điện ly

và sự hình thành dynamo nhiễu loạn điện ly sau khi vùng cực bị đốt nóng trong thời

gian bão từ [82]. Trong pha chính của bão, trường từ giữa các hành tinh là hướng về

phía Nam, tương tác của trường từ giữa các hành tinh hướng nam và gió mặt trời

làm xuất hiện điện trường bình minh sang phía hoàng hôn tác dụng trực tiếp vào

tầng điện ly vùng cực (hình 4.9).

Hình 4.9, Sự thâm nhập của điện trường có nguồn gốc từ quyển xuống tầng điện ly.

Điện trường này thâm nhập trực tiếp xuống tầng điện ly xích đạo vào ban ngày dẫn

đến sự tăng hiệu ứng vòi phun plasma xích đạo. Plasma được nâng lên sau đó

khuếch tán dọc theo đường sức từ trường làm gia tăng nồng độ điện tử tổng cộng ở

115

các vùng vĩ độ cao hơn ở cả hai phía xích đạo và vùng đỉnh dị thường trong pha

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS chính cũng bị dãn ra như được quan sát thấy trong biến đổi TEC ngày 11/10/2010

so với các ngày bình thường. Sự gia tăng hiệu ứng vòi phun trong ngày này sẽ làm

tăng quá trình động học trong vùng F xích đạo ở điều kiện bình thường vào giai

đoạn sau khi Mặt Trời lặn [17, 82]. Sự gia tăng điện trường hướng đông làm dịch

chuyển thẳng đứng của plassma điện ly gia tăng và nhấp nháy cũng gia tăng

trong pha chính của bão ngày 11/10/2010. Trong thời gian bão từ, sự đốt nóng của

vùng cực làm xuất hiện gió nhiệt quyển thổi về phía xích đạo hình thành dynamo

nhiễu loạn điện ly tạo nên hai xoáy dòng như chỉ ra trên hình 2.11 [31]. Xoáy dòng

nhiễu loạn và điện trường liên quan ở vùng vĩ độ thấp có hướng ngược với hướng

của dòng Sq bình thường, kết quả là cường độ điện trường tổng hợp sẽ bị giảm đi,

kéo theo sự suy giảm của hiệu ứng vòi phun xích đạo, do đó đỉnh dị thường trong

ngày này thường suy giảm và dịch chuyển về gần xích đạo hơn như được quan sát

thấy trong phân bố TEC ngày 12/10/2010 và ngày 25/10/2011. Do sự suy giảm của

hiệu ứng vòi phun gây bởi sự suy giảm phát triển điện trường hướng đông gần với

thời điểm Mặt Trời lặn, điều đó ngăn cản sự hình thành các mảng nhiễu loạn do đó

nhấp nháy trong ngày 12/10/2010 bị suy giảm đi so với ngày 11/10/2010 hoặc bị

ngăn cản hoàn toàn như trong ngày 25/10/2011.

Đã có một số nghiên cứu thống kê về ảnh hưởng của bão từ lên khả năng

xuất hiện nhấp nháy vùng xích đạo và vùng vĩ độ thấp [17, 54, 57, 82, 93]. Theo

Abdu, [17], khi pha chính của bão từ xuất hiện vào thời gian ban ngày thì hiệu ứng

dynamo nhiễu loạn điện ly sẽ làm suy giảm sự phát triển điện trường hướng đông

gần với thời điểm Mặt Trời lặn và do đó ngăn cản sự phát triển của bọng plasma và

làm suy giảm nhấp nháy. Hay Tiwari et al., [82] đã chỉ ra các pha khác nhau của

bão từ sẽ ảnh hưởng lên sự phát sinh và phát triển nhiễu loạn điện ly khác nhau và

tác giả đã phân ra ba loại bão từ trong mối liên hệ giữa bão từ và hoạt động nhấp

nháy trong vùng xích đạo. Và trong hai trường hợp bão từ đề cập ở đây cũng cho

thấy phần nào tác động của bão từ lên hoạt động của nhấp nháy điện ly tại vùng

xích đạo Việt Nam. Bão từ có thể làm gia tăng hoạt động nhấp nháy hay làm suy

116

giảm hoạt động nhấp nháy phụ thuộc vào sự thâm nhập của điện trường và sự tác

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS động của hiệu ứng dynamo nhiễu loạn điện ly sẽ làm gia tăng hay suy giảm điện

trường hướng đông vào giai đoạn sau khi Mặt Trời lặn.

4.4 Đặc trưng xuất hiện theo không gian

Để nghiên cứu phân bố theo không gian chúng tôi tiến hành tính toán và biểu

diễn biên độ nhấp nháy xuất hiện theo đường vệ tinh cho cả khu vực Việt Nam

trong từng năm từ số liệu ba trạm thu GPS có được. Để làm được việc này, các giá

trị S4 trên mỗi đường vệ tinh phải được tính ra tọa độ (kinh độ, vĩ độ) tương ứng

trên độ cao được lấy là 400 km của mô hình lớp đơn. Kết quả được chỉ ra trên hình

4.10, hình 4.11, hình 4.12, hình 4.13, hình 4.14 và hình 4.15 tương ứng với năm

2006, 2007, 2008, 2009, 2010 và 2011.

Hình 4.10, Phân bố thống kê nhấp nháy xuất hiện theo không gian khu vực Việt

117

Nam và lân cận năm 2006.

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

Hình 4.11, Phân bố thống kê nhấp nháy xuất hiện theo không gian khu vực Việt

Nam và lân cận năm 2007.

Hình 4.12, Phân bố thống kê nhấp nháy xuất hiện theo không gian khu vực Việt

118

Nam và lân cận năm 2008.

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

Hình 4.13, Phân bố thống kê nhấp nháy xuất hiện theo không gian khu vực Việt

Nam và lân cận năm 2009.

Hình 4.14, Phân bố thống kê nhấp nháy xuất hiện theo không gian khu vực Việt

119

Nam và lân cận năm 2010.

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

Hình 4.15, Phân bố thống kê nhấp nháy xuất hiện theo không gian khu vực Việt

Nam và lân cận năm 2011.

Từ hình 4.10 đến hình 4.15 biểu diễn phân bố không gian của sự xuất hiện

nhấp nháy điện ly cho từng năm số liệu trong khu vực Việt Nam và lân cận. Các

đường vệ tinh được vẽ tại điểm cắt tầng điện ly và với mức độ nhấp nháy được phân

định theo thang mầu bên phải hình vẽ. Các chấm tròn đen biểu thị vị trí trạm quan

sát. Nhìn vào phân bố không gian này ta nhận thấy rằng với số liệu thu được từ 3

trạm thu GPS hiện có, ta có thể nghiên cứu được một vùng từ 30 -> 270 vỹ độ địa lý

và từ 980 -> 1150 kinh độ. Nhấp nháy xuất hiện rải rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam,

xuất hiện rất ít vào năm Mặt Trời hoạt động cực tiểu 2007, 2008 và 2009, xuất hiện

gia tăng mạnh vào năm Mặt Trời hoạt động mạnh 2011.

Hình 4.16 là phân bố thông kê sự xuất hiện nhấp nháy theo vĩ độ cho toàn bộ

số liệu 2006-2011 cho thấy rằng sự xuất hiện của nhấp nháy biến đổi rõ rệt theo vĩ

độ, xuất hiện ít nhất ở xích đạo từ (vĩ độ 8oN) và tập trung nhiều tại khoảng vĩ độ từ

14o-21oN. Ở chương trước hình 3.26c cho chúng ta rằng vị trí vĩ độ đỉnh dị thường

điện ly xích đạo trung bình tháng dao động trong khoảng 17o-21oN, điều này cho

thấy vùng đỉnh dị thường điện ly xích đạo là vùng nhấp nháy xuất hiện nhiều. Nhấp

120

nháy biên độ mạnh (S4 ≥ 0,6) xuất hiện ít và trải dài trong khoảng vỹ độ từ 140 đến

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS 250, đây cũng thuộc vùng đỉnh dị thường điện ly xích đạo và thường quan sát thấy

từ trạm Hà Nội và trạm Huế. Như đã trình bầy ở trên vào giai đoạn sau khi Mặt Trời

lặn, sự suy giảm của đỉnh dị thường sẽ gây ra các nhiễu loạn, thăng giáng mạnh của

phân bố điện tử trong vùng này hơn là vùng điện ly ở xa đỉnh dị thường (TP. Hồ

Chí Minh). Kết quả quan sát ở đây cũng phù hợp với các kết quả quan sát đã công

bố trước đây trên thế giới: Valladares et al., [86, 87] nghiên cứu cho vùng kinh

tuyến Nam Mỹ; Rama Rao et al., [73] nghiên cứu cho vùng Ấn Độ.

Hình 4.16, Thống kê xuất hiện nhấp nháy theo vĩ độ từ 2006-2011 trên cả ba trạm

quan sát.

4.5 Sử dụng dao động pha GPS nghiên cứu sự xuất hiện nhiễu loạn điện

ly khu vực Việt Nam

Trước đây để nghiên cứu nhiễu loạn điện ly người ta phải dựa trên các phép

đo từ một trạm hay một nhóm trạm sử dụng các thiết bị rada, vệ tinh hay tên lửa dựa

trên đặc trưng phát sáng của khí. Ngày nay khi hệ thống vệ tinh GPS hoạt động liên

tục với các máy thu tín hiệu GPS hai tần số thì việc thăm dò nghiên cứu nghiễu loạn

điện ly trở nên thuận tiện và dễ dàng hơn dựa trên các dao động pha của tín hiệu

GPS.

Khi tín hiệu GPS truyền qua vùng nhiễu loạn mật độ điện tử trong tầng điện

ly sẽ bị thay đổi nhanh về biên độ và pha của tín hiệu. Các nhiễu loạn gây ra các dao

121

động thăng giáng tỷ lệ nhỏ trong chỉ số khúc xạ và tiếp đến là sự tán xạ (scattering)

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS của mặt sóng, phát sinh các dao động pha dọc theo mặt pha của tín hiệu. Do đó các

dao động pha được quan sát thấy dọc theo đường truyền tín hiệu vệ tinh GPS sẽ

tương ứng với các dao động về TEC trong tầng điện ly. Phương pháp nghiên cứu

nhiễu loạn sử dụng dao động pha GPS đã được đề cập bởi các tác giả trên thế giới

[15, 24, 38, 72, 84, 91].

Dao động của TEC theo thời gian (ΔTEC) được định nghĩa là sự thay đổi TEC giữa

hai lần quan sát và được tính như sau:

(4.5)

i (tj) là dao động TEC tại thời điểm tj của vệ tinh k và máy thu i, và

trong đó ΔTECk

i (tj), TECk

i (tj-1) là giá trị TEC tính từ phép

được tính theo đơn vị TECu/phút; TECk

đo hiệu pha tại thời điểm tj và tj-1 và được tính từ hiệu của phép đo pha trên hai tần

số theo công thức (3.8b) của chương trước:

(3.8b)

L1, L2 là phép đo pha trên tần số f1 và f2, đơn vị là mét ,

là tham số độ lệch pha ban đầu.

Thay các giá trị tần số GPS với f1=1575,42 MHz và f2 = 1227,60 MHz vào

phương trình (3.8b) và kết hợp phương trình (4.5), dao động TEC rút ra từ quan sát

dao động pha được viết lại như sau [80]:

(4.6)

i là phép đo hiệu pha trên hai tần số f1 và f2, tính bằng vòng quay. Các giá trị

Với Фk

dao động TEC chính là tốc độ thay đổi TEC và thường được gán cho một chỉ số có

tên là ROT (Rate Of TEC), chỉ số này đặc trưng cho mức độ dao động hiệu pha

GPS và đặc trưng cho gradient điện ly tại thời điểm quan sát. Chỉ số ROT có đơn vị

là TECu/phút và được tính cho mỗi khoảng thời gian là 30 giây.

Pi et al. [72] đã chỉ ra rằng tại các vĩ độ cao, ở đó vận tốc trôi dạt plasma là

122

cỡ 1km/giây và khi giá trị ROT được tính trong khoảng thời gian là 30 giây thì ROT

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS được gán cho các nhiễu loạn có kích thước lớn hơn 30 km. Đối với vùng vĩ độ trung

bình và thấp, các giá trị dao động ROT thường gây ra bởi các nhiễu loạn có kích

thước nhỏ hơn rất nhiều (vài trăm mét đến 2,5 km) phụ thuộc vào vận tốc trôi dạt

plasma trong khu vực này. Để đồng nhất và xác định được cả các nhiễu loạn có kích

thước nhỏ, bằng rất nhiều thực nghiệm, Pi đã xác định được một chỉ số của tốc độ

thay đổi TEC có tên là ROTI dựa trên độ lệch chuẩn của ROT dùng để nghiên cứu

sự xuất hiện nhiễu loạn điện ly như sau:

(4.7)

trong đó là giá trị trung bình của ROT.

Khoảng thời gian lựa chọn để tính chỉ số ROTI sẽ phản ánh quy mô của hiện

tượng, và nó thường được lấy là 5 phút để sử dụng trong các nghiên cứu sự xuất

hiện bọng plasma và các nhiễu loạn vùng vĩ độ cao [26, 38, 72].

Hình 4.17, Phân bố nhiễu loạn điện ly toàn cầu sử dụng chỉ số ROTI từ các

123

dao động pha GPS trong trận bão từ 10/1/1997 (Pi et al, 1997).

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

Hiện nay, chỉ số ROTI được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu phân bố

nhiễu loạn điện ly có tính chất khu vực và toàn cầu [38, 72, 84], hay chỉ ra mối liên

hệ giữa chỉ số ROTI và biên độ nhấp nháy nhằm tiến tới xây dựng mô hình dự báo

nhấp nháy điện ly từ các dao động pha tín hiệu GPS [24, 26, 38, 91]. Hình 4.17 là ví

vụ về sử dụng chỉ số ROTI chỉ ra hoạt động nhiễu loạn điện ly toàn cầu trong trận

bão từ 10/1/1997 của Pi et al. [72].

Ba máy thu tín hiệu vệ tinh GPS ở Việt Nam là loại máy thu hai tần số

GSV4004 như đã nêu trong phần trước. Với loại máy này, các giá trị dao động TEC

(ΔTEC) tính từ hiệu pha cũng được tự động tính tại mỗi thời điểm quan sát. Do đó

chúng tôi sẽ sử dụng luôn các giá trị dao động ROT cung cấp bởi số liệu đầu ra của

máy thu để phục vụ nghiên cứu. Tính chỉ số dao động pha ROTI theo công thức

(4.7) và sử dụng chỉ số này, chúng tôi nghiên cứu sự xuất hiện nhiễu loạn điện ly

khu vực Việt Nam từ số liệu ba trạm thu tín hiệu vệ tinh GPS cho hai trường hợp

bão từ đã đề cập ở trên. Hình 4.18 là sơ đồ phân bố dao động pha chỉ ra hoạt động

nhiễu loạn điện ly khu vực Việt Nam và lân cận theo vĩ độ và thời gian trong các

ngày từ 10/10 đến 14/10/2010. Đây là 5 ngày số liệu của trận bão từ ngày

11/10/2010 như đã đề cập ở trên. Đối với ngày trước bão (10/10) và hai ngày sau

bão (13/10,14/10) có từ trường tương đối yên tĩnh, kết quả bản đồ phân bố dao động

pha trong ngày cho thấy gần như không có sự hoạt động của nhiễu loạn trong ngày

này. Ngày xẩy ra bão từ (11/10), có sự xuất hiện gia tăng mạnh của nhiễu loạn so

với ngày trước đó (10/10). Nhiễu loạn tập trung vào khoảng thời gian sau khi Mặt

Trời lặn (18h đến 23h LT) và trong khoảng vĩ độ địa lý từ 140 đến 260. Nhiễu loạn

điện ly xuất hiện trong ngày này với cường độ và độ lớn không mạnh, đa số chỉ số

ROTI < 1 và rất ít trường hợp xuất hiện ROTI > 1, nhưng đã gây ra nhấp nháy trên

khu vực Việt Nam và lân cận (hình 4.5). Sang đến ngày tiếp theo (12/10), từ bản đồ

dao động pha ROTI cho thấy nhiễu loạn cũng xuất hiện trong ngày này nhưng với

tần xuất yếu. Nhiễu loạn xuất hiện tập trung trong khoảng thời gian từ 19h đến

21hLT với cường độ yếu (ROTI < 1) và tập trung trong khoảng vĩ độ hẹp (210 đến

124

240). Mặc dù có xuất hiện nhiễu loạn trong ngày này nhưng với tần xuất và cường

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS độ yếu nên cũng chỉ gây ra một số trường hợp nhấp nháy trên tín hiệu vệ tinh (hình

4.5).

Hình 4.18, Phân bố dao động pha ROTI

( - ROTI < 1; - ROTI ≥1) chỉ ra

sự xuất hiện nhiễu loạn điện ly khu vực

Việt Nam trong 5 ngày 10, 11, 12, 13 và

125

14/10/2010

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

Hình 4.19, Phân bố dao động pha ROTI

( - ROTI < 1; - ROTI ≥1) chỉ ra sự

xuất hiện nhiễu loạn điện ly khu vực Việt

Nam trong 5 ngày 23, 24, 25, 26 và

27/10/2011

Hai ngày sau bão (13/10, 14/10), khi từ trường trở về trạng thái yên tĩnh, bản

đồ dao động pha cho thấy hầu như không có sự xuất hiện nhiễu loạn trong những

ngày này và cũng không quan sát thấy nhấp nháy xuất hiện (hình 4.5). So sánh hoạt

động nhiễu loạn trong năm ngày trên, ta thấy rõ ràng có sự gia tăng nhiễu loạn trong 126

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS ngày bão từ (11/10) so với các ngày còn lại và nguyên nhân là do sự thâm nhập của

điện trường vùng vĩ độ cao làm gia tăng và nhiễu loạn điện trường trong vùng xích

đạo gây ra sự phát triển không bình thường của bọng plasmas như đã được đề cập ở

phần trước.

Tương tự, Hình 4.19 là sơ đồ phân bố nhiễu loạn điện ly khu vực Việt Nam

và lân cận theo vĩ độ và thời gian trong năm ngày của trận bão từ 24-25/10/2011

tính từ dao động pha GPS. Đối với ngày trước bão từ (23/10), đây cũng được coi là

ngày tương đối yên tĩnh từ. Bản đồ phân bố dao động pha ROTI cho thấy ngày

23/10 cũng xuất hiện nhiễu loạn với tần xuất và cường độ không mạnh trong

khoảng thời gian từ 13hUT đến 17hUT, tập trung trong khoảng vĩ độ địa lý từ 150

đến 260. Sang đến ngày tiếp theo (24/10), sơ đồ phân bố dao động pha ROTI cho

thấy sự gia tăng xuất hiện nhiễu loạn điện ly so với ngày trước đó (23/10). Nhiễu

loạn cũng xuất hiện tập trung trong khoảng thời gian ngay sau khi Mặt Trời lặn

(19hLT đến 24hLT), các giờ khác trong ngày gần như không thấy xuất hiện nhiễu

loạn. Vùng hoạt động của nhiễu loạn điện ly tập trung trong khoảng vĩ độ địa lý từ

160 đến 270 (vùng đỉnh dị thường điện ly xích đạo). Trái ngược với ngày trước đó

(24/10), phân bố dao động pha trong ngày 25/10 không cho thấy sự xuất hiện của

nhiễu loạn điện ly ngay cả giai đoạn sau khi Mặt Trời lặn. Hiện tượng này được cho

là gây ra bởi bão từ và đã được giải thích trong phần mối liên hệ của sự xuất hiện

nhấp nháy điện ly với mức độ hoạt động từ mục 4.3. Hai ngày tiếp theo cũng chỉ ra

sự xuất hiện nhiễu loạn trong khoảng thời gian sau khi Mặt Trời lặn và tập trung

trong khoảng vĩ độ địa lý từ 160 đến 270.

Từ các kết quả quan sát ở trên cho thấy nhiễu loạn điện ly gây ra dao động

pha tín hiệu GPS khu vực Việt Nam chủ yếu xuất hiện vào thời điểm ngay sau khi

Mặt Trời lặn (19 đến 24hLT - khoảng thời gian trước nửa đêm) và tập trung dưới

vùng đỉnh dị thường điện ly xích đạo. Bão từ đã làm gia tăng cường độ xuất hiện

nhiễu loạn (ngày 11/10/2010) hoặc làm suy giảm sự phát triển nhiễu loạn (ngày

25/10/2011) so với các ngày trước và sau bão. Các kết quả quan sát phù hợp với kết

quả đã công bố trước đây của các tác giả khác trên thế giới khi nghiên cứu ảnh

127

hưởng của bão từ trong vùng điện ly xích đạo [17, 54, 57, 82, 93].

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

4.6 Ảnh hưởng của nhấp nháy điện ly lên quá trình truyền tín hiệu GPS

khu vực Việt Nam

Ở khía cạnh nào đó, nhấp nháy điện ly sẽ làm giảm độ chính xác trong phép

định vị GPS. Biên độ nhấp nháy tác động trực tiếp lên tỷ số tín hiệu/nhiễu (C/N0)

của tín hiệu máy thu GPS gây ra các mức nhiễu trên phép đo pha và khoảng cách,

làm giảm sự chính xác của các phép đo này. Biên độ nhấp nháy mạnh đôi khi có thể

gây ra sự sụt giảm công suất của tín hiệu xuống dưới ngưỡng máy thu và do đó gây

ra sự mất tín hiệu trong thời gian quan sát. Pha nhấp nháy mạnh có thể gây ra sự trôi

dạt Doppler trong tần số của tín hiệu thu nhận và đôi khi có thể gây ra sự mất pha

tín hiệu của máy thu và do đó làm giảm chất lượng của hệ thống dẫn đường vệ tinh

[28, 42, 73]. Mức bình thường của tỷ số C/N0 đối với tín hiệu của tần số L1 là

45dB-Hz, và hiện tượng mất tín hiệu xẩy ra khi tỷ số này giảm xuống dưới 25 dB-

Hz, phụ thuộc vào vòng lặp tự hiệu chỉnh của từng loại máy thu. Khi có ít hơn 4

đường truyền được duy trì tại bất kỳ thời điểm nào sẽ gây ra sự mất tạm thời dịch

vụ cung cấp thông tin định vị [20, 28, 34, 42, 73].

Hình 4.20, Mô hình về ảnh hưởng của nhấp nháy điện ly lên tín hiệu vệ tinh GPS

[http://www.gpsworld.com/gnss-systemsignal-processinginnovation-ionospheric-

128

scintillations-12809/]

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

Đối với các máy thu GPS hai tần số, các phép đo giả khoảng cách và pha trên

tần số f1 và f2 sẽ được dùng để tính nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly, độ chính

xác của đồng hồ và lịch thiên văn trong suốt đường truyền. Khi bị mất tín hiệu từ

một trong hai tần số sẽ không tính được các giá trị này. Hình 4.21 là một ví dụ về

nhấp nháy gây ra mất tín hiệu trên tần số f2 của vệ tinh thứ 23 trong ngày 5/4/2011

quan sát được tại Hà Nội. Với hình a) là biên độ nhấp nháy trên đường vệ tinh PRN

23 và hình b) là giá trị TEC tương ứng của vệ tinh.

Hình 4.21, Nhấp nháy gây mất tín hiệu trên tần số f2 của vệ tinh thứ 23 trong ngày

5/4/2011 tại Hà Nội.

Chúng ta có thể thấy rằng mặc dù khoảng thời gian từ 12hUT (19hLT) đến

15h45UT (22h45LT) là khoảng thời gian quan sát thấy liên tục vệ tinh PRN 23,

nhưng vào những thời điểm nhấp nháy biên độ mạnh xuất hiện S4 > 0,5 (13h45UT

đến 14h05UT và 14h50UTđến 15h15UT) gây ra hiện tượng mất tín hiệu liên tục

trên tần số f2 và được thể hiện trên đường biến thiên TEC tương ứng của vệ tinh này

(vẫn quan sát được vệ tinh nhưng giá trị TEC không đo được liên tục trong hai

khoảng thời gian có nhấp nháy biện độ mạnh xuất hiện)

Do công suất tín hiệu của tần số f2 GPS nhỏ hơn đáng kể so với công suất tín

hiệu của tần số f1 (~6 dB), và các máy thu GPS hai tần số với mục đích dân sự chỉ

được sử dụng giá trị code đã bị mã hóa đối với tín hiệu f2 làm cho giá trị của tỷ số

129

C/N0 thấp, do đó nhấp nháy điện ly thường tác động nhiều lên tín hiệu f2 GPS hơn là

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS tín hiệu f1. Do đó, trường hợp xẩy ra mất tín hiệu trên máy thu với tín hiệu f2 thường

xuyên hơn tín hiệu f1. Để làm rõ hơn sự ảnh hưởng của nhấp nháy điện ly lên khả

năng mất tín hiệu trên tần số f2, chúng tôi tính và so sánh cho hai trường hợp: ngày

có xuất hiện nhấp nháy và ngày không có nhấp nháy hoặc nhấp nháy yếu (S4 < 0,2)

xuất hiện.

Hình 4.22, Thống kê nhấp nháy theo hai mức độ lớn trong tháng 10/2011 tại Hà

130

Nội, Huế và Tp. Hồ Chí Minh

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

Hình 4.22 là kết quả thống kê sự xuất hiện nhấp nháy trong ngày theo hai

mức độ lớn: nhấp nháy biên độ mạnh ( ) và nhấp nháy trung bình yếu

(S4<0,6) cho từng trạm quan sát trong tháng 10/2011. Để thực hiện việc này, mỗi

trạm chúng tôi chọn ra 3 ngày tiêu biểu trong tháng 10/2011 có nhấp nháy mạnh

nhất và 3 ngày tiêu biểu không có nhấp nháy hoặc nhấp nháy yếu (S4 < 0,2) xuất

hiện. Trường hợp ngày có nhấp nháy xuất hiện với tần xuất và cường độ mạnh nhất

trong tháng được lựa chọn đối với trạm Hà Nội là ngày 13/10, 17/10 và ngày 24/10,

đối với trạm Huế là ngày 18/10, 24/10 và 27/10, đối với trạm ở Tp. Hồ Chí Minh là

ngày 17/10, 18/10 và 19/10 như được chỉ ra trên hình 4.22. Trường hợp cho ngày

không có nhấp nháy đối với trạm Hà Nội là 4/10, 25/10 và ngày 30/10, đối với trạm

Huế là 11/10, 25/10 và 30/10, tương tự đối với trạm ở Tp. Hồ Chí Minh đó là ngày

4/10, 25/10 và 30/10.

Chúng tôi tiến hành thống kê và tính phần trăm gây mất tín hiệu trên tần số f2

cho hai trường hợp trên, trong khoảng thời gian đêm có sự tập trung nhấp nháy xuất

hiện (19hLT đến 24LT) với tất cả các đường vệ tinh có góc nhìn >200, kết quả được

chỉ ra trong bảng 4.1

Bảng 4.1, Khả năng mất tín hiệu trên tần số f2

% mất tín hiệu trên f2 % mất tín hiệu trên f2

Tên trạm đối với ngày không có đối với ngày có nhấp nháy

nhấp nháy

Hà Nội 7,6 14,6

Huế 3,6 12,1

TP. Hồ Chí Minh 3,4 4,1

Kết quả thống kê cho thấy ngay cả khi trong điều kiện không có nhấp nháy

xuất hiện hoặc nhấp nháy yếu thì khả năng mất tín hiệu trên tần số f2 vẫn hiện hữu

và chiếm một tỷ lệ phần trăm nào đó. Trong trường hợp xem xét ở đây đối với trạm

Hà Nội khả năng mất tín hiệu chiếm 7,6%, đối với trạm Huế khả năng mất này là

3,6% và đối với trạm ở Tp. Hồ Chí Minh là 3,4% trên tổng số tín hiệu thu nhận

trong khoảng thời gian từ 19hLT đến 24hLT của 3 ngày yên tĩnh xem xét tương

ứng. Khả năng mất tín hiệu gia tăng mạnh trong những ngày có nhấp nháy xuất 131

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS hiện, đối với trạm Hà Nội khả năng mất tín hiệu lên đến 14,6%, đối với trạm Huế là

12,1% và đối với trạm ở Tp. Hồ Chí Minh là 4,1 % trên tổng số tín hiệu thu nhận

trong khoảng thời gian từ 19hLT đến 24hLT của 3 ngày nhấp nháy mạnh nhất trong

tháng tương ứng cho từng trạm.

Khi nhấp nháy trên đường truyền đủ mạnh thì đường truyền trở lên không

liên tục và không có giá trị cho việc sử dụng trong lời giải định vị. Nếu số lượng vệ

tinh quan sát được vẫn duy trì lớn hơn 4 thì đối với một máy thu GPS chuẩn vẫn có

thể cung cấp thông tin định vị dẫn đường. Tuy nhiên, số lượng vệ tinh quan sát và

vị trí của nó lại ảnh hưởng đến mức độ chính xác trong phép định vị, và đại lượng

DOP (Dilution of Precision) hay còn được gọi là GDOP (Geometric Dilution of

Precision), thường được dùng để định lượng hóa độ chính xác của phép định vị.

Yếu tố DOP liên quan trực tiếp đến phân bố hình học của chùm vệ tinh nhìn thấy

như chỉ ra trên hình 4.23; việc mất đi mỗi một đường truyền dẫn sẽ làm tăng giá trị

DOP và do đó sẽ ảnh hưởng lên độ chính xác trong phép định vị. DOP được sử

dụng để suy ra sai số định vị từ sai số khoảng cách sử dụng tương đương. Đối với

những máy thu chuyên dụng thường có kèm phần mềm để thông báo các giá trị

DOP và cảnh báo cho người dùng khi thực hiện những phép đo không đảm bảo về

độ chính xác, còn đối với các máy thu GPS thông thường thì không có chức năng

này. Việc đánh giá mức độ của giá trị DOP quyết định đến độ tin cậy trong phép

định vị được chỉ ra trong bảng 4.2 [29, 33].

132

Hình 4.23, DOP và chùm vệ tinh nhìn thấy [GISM technical manual, IEEA, 2007].

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

Bảng 4.2, đánh giá trị số GDOP trung bình

GDOP Mức đánh giá Mô tả

1-2 Tuyệt vời Đây là mức độ tin cậy cao, các phép định vị được coi

là chính xác, đủ để đáp ứng các yêu cầu có tính chất

nhạy cảm.

2-5 Tốt Đáp ứng ở cấp độ tối thiểu cho các mục đích thương

mại, các phép định vị có thể được dùng cho mục đích

dẫn đường có đủ độ tin cậy.

5-10 Trung bình Phép định vị có thể được sử dụng để tính toán, nhưng

chất lượng không được đảm bảo và vẫn có thể được

hiệu chỉnh để sử dụng.

10-20 Kém Đại diện cho một mức độ tin cậy thấp. Phép định vị

nên được loại bỏ hoặc chỉ nên sử dụng để đưa ra một

ước tính thô về vị trí.

> 20 Rất kém Ở cấp độ này, phép định vị không chính xác và cần

được loại bỏ.

Hiện nay, phần mềm Trimble’s Planning Software cho phép người dùng có

thể tính giá trị GDOP này. Hình 4.24 là kết quả tính giá trị GDOP và số vệ tinh nhìn

thấy trong thời gian từ 12hUT đến 20hUT ngày 24/10/2011 tại 3 trạm thu GPS ở

Việt Nam. Ta thấy rằng giá trị GDOP tăng mạnh theo sự suy giảm của số lượng vệ

tinh nhìn thấy. Tại trạm ở Hà Nội trong ngày 24/10/2011, giá trị GDOP có thể đạt

tới 15 vào khoảng thời gian từ 15h30 đến 16hUT khi số vệ tinh quan sát thấy giảm

còn 5 vệ tinh. Tại trạm Huế và TP. Hồ Chí Minh, giá trị GDOP cao nhất cũng chỉ

đạt giá trị 7 ngay cả khi số lượng vệ tinh quan sát chỉ đạt con số 5 vệ tinh. Theo

thang đánh giá về giá trị GDOP, tại Hà Nội có 2 khoảng thời gian là từ 13h10 đến

13h30UT và từ 15h15 đến 16hUT có giá trị GDOP kém (>10), do đó thông tin định

vị tại đây nên được loại bỏ hoặc chỉ nên sử dụng để đưa ra một ước tính thô về vị

133

trí.

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

Hình 4.24, Số vệ tinh nhìn thấy và giá trị GDOP ngày 24/10/2011 tại a) Hà Nội, b)

Huế và c) TP. Hồ Chí Minh.

Trong trường hợp môi trường có xuất hiện nhấp nháy điện ly, và nếu tín hiệu

truyền từ một vệ tinh GPS không bị mất thì cũng có thể làm thay đổi mức độ chính

xác trong phép định vị. Do tín hiệu bị dao động trong môi trường nhấp nháy sẽ gây

ra một độ trễ về thời gian khi tới máy thu, và thời gian này lại được dùng để tính

khoảng cách của vệ tinh, do đó sẽ gây ra một lượng sai số trên khoảng cách tính

được. Conker et. al, [40] đã xây dựng mô hình đánh giá ảnh hưởng của nhấp nháy

điện ly lên phép định vị đối với mã L1-C/A có độ dài chip khoảng 293m như sau

[29, 40]:

(4.8)

trong đó: Bn là nhiễu dải rộng có giá trị là 0,1 Hz; d là khoảng trống tương đương

trong C/A chip và có giá trị tiêu biểu trong khoảng 0,1 đến 1; η là tổng thời gian

trước thăm dò, lấy giá trị là 0,02 giây đối với các máy thu GPS; c/n0 = 100.1C/N0, tỷ

số tín hiệu và nhiễu; στ là sai số khoảng cách; và S4 là chỉ số biên độ nhấp nháy.

Cũng cần phải lưu ý rằng mô hình này chỉ áp dụng tính được với biên độ nhấp nháy

134

< 0,704. Đối với trường hợp S4>0,705 được cho là nằm trong ngưỡng gây ra mất tín

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS hiệu vệ tinh hoặc sẽ gây ra sai số khoảng cách vô cùng lớn, do đó cần được loại ra

trước khi đưa vào tính toán.

Áp dụng mô hình trên, chúng tôi tính sai số khoảng cách gây bởi nhấp nháy điện ly

trong ngày 24/10/2011 cho trường hợp d = 0,1, kết quả được chỉ ra trên hình 4.25.

Với các giá trị sai số khoảng cách tương ứng với mức biên độ nhấp nháy trung bình

đo được theo thời gian tại mỗi trạm thu.

Hình 4.25 , Biên độ nhấp nháy trung bình và sai số khoảng cách tương ứng (d= 0,1)

tại a) Hà Nội, b) Huế và c) Tp. Hồ Chí Minh ngày 24/10/2011.

Hình 4.25 cho thấy rằng mức sai số khoảng cách trung bình trong ngày đạt

khoảng 4,5m và gia tăng mạnh khi chỉ số biên độ nhấp nháy > 0,4. Trạm ở Tp. Hồ

Chí Minh, nhấp nháy xuất hiện trong ngày này yếu (< 0,4) và không gây ảnh hưởng

đáng kể nào lên sai số khoảng cách. Đối với trạm Huế, nhấp nháy xuất hiện mạnh

nhất với biên độ đạt được 0,4

số khoảng cách từ 8 đến 11m tại đây. Đối với trạm Hà Nội, nhấp nháy xuất hiện

mạnh hơn trạm Huế ( S4) trong khoảng thời gian từ 13h đến 15hUT, gây ra

sai số khoảng cách tăng lên từ hàng chục mét đến vài chục mét.

Một số kết quả chính thu được khi nghiên cứu nhấp nháy điện ly khu vực

135

Việt Nam có thể tóm tắt như sau:

Chương 4. Đặc trưng xuất hiện nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam và ảnh hưởng của nó lên tín hiệu vệ tinh GPS

-Thống kê về sự xuất hiện nhấp nháy điện ly ở khu vực Việt Nam cho thấy

nhấp nháy xuất hiện khá thường xuyên, trong ngày nhấp nháy chủ yếu xuất hiện vào

thời gian ban đêm trong khoảng 20-24 LT và rất ít khi xuất hiện vào thời gian ngày.

- Trong mỗi năm, tần suất xuất hiện nhấp nháy điện ly biến đổi theo mùa,

chủ yếu xuất hiện vào thời kỳ phân điểm. Ở khu vực Việt Nam, nhấp nháy xuất hiện

xuất hiện tập trung trong vùng đỉnh dị thường điện ly xích đạo, từ vĩ độ 140 đến vĩ

độ 250 với cực đại ở khoảng vĩ độ 16o.

- Tần suất xuất hiện nhấp nháy biến đổi theo hoạt tính mặt trời, vào những

năm Mặt Trời hoạt động mạnh nhấp nháy xuất hiện nhiều hơn, gia tăng cả về tần

suất và độ lớn, so với năm Mặt Trời hoạt động yếu.

- Mức độ ảnh hưởng của tầng điện ly lên tín hiệu vệ tinh GPS gia tăng vào

những tháng phân điểm hàng năm và vào giai đoạn Mặt Trời hoạt động mạnh; vùng

phía Bắc nằm dưới đỉnh dị thường có sự tập trung hoạt động nhấp nháy tín hiệu

136

GPS bị tác động mạnh hơn vùng phía Nam lãnh thổ nước ta.

Kết luận và Kiến nghị

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Trên cơ sở tổng hợp toàn bộ các kết quả nghiên cứu về nồng độ điện tử tổng

cộng trong tầng điện ly và ảnh hưởng của tầng điện ly lên quá trình truyền tín hiệu

vệ tinh GPS khu vực Việt Nam sử dụng số liệu từ ba máy thu tín hiệu GPS liên tục

ở Hà Nội, Huế và TP Hồ Chí Minh đã tiến hành trong luận án cho phép rút ra một

số kết luận như sau:

1. Phương pháp xác định độ trễ thiết bị trình bầy trong luận án đã khắc phục

được hạn chế trong cách tính độ trễ trước đây, giúp cho việc tính toán được thực

hiện nhanh chóng và cho kết quả phù hợp.

2. Ở khu vực Việt Nam, tiến trình ngày đêm của nồng độ điện tử tổng cộng

thay đổi liên tục theo thời gian trong ngày, đạt cực đại vào khoảng 14-15 giờ chiều

và cực tiểu vào khoảng 5 giờ sáng địa phương với biên độ dao động trung bình

tháng trong khoảng từ 5TECu đến 50TECu tương ứng với độ trễ khoảng cách gây

ra trên tín hiệu L1 từ 1m đến 8m tùy thuộc vào từng tháng trong năm và vào mức độ

hoạt động mặt trời. Biên độ ngày đêm TEC thể hiện biến thiên mùa rõ rệt, đạt hai

cực đại vào thời kỳ phân điểm hàng năm: xuân phân (tháng 3-4) và thu phân (tháng

9-10) và cực tiểu vào những tháng mùa đông và mùa hè. Giá trị nồng độ điện tử

biến đổi theo hoạt động của mặt trời, trong pha hoạt động mặt trời đi xuống cực đại

xuân phân cao hơn cực đại thu phân, trong pha hoạt động mặt trời đi lên thì ngược

lại cực đại xuân phân thấp hơn cực đại thu phân.

3. Các bản đồ phân bố TEC theo thời gian và vĩ độ thu được từ số liệu các

trạm GPS liên tục tại Hà Nội, Huế và TP Hồ Chí Minh chỉ ra rằng Việt Nam nằm

trong vùng dị thường điện ly xích đạo khu vực Đông Nam Á. Vị trí vĩ độ đỉnh dị

thường dao động trong khoảng từ 170 đến 200 vĩ độ địa lý và vị trí này cũng phụ

thuộc vào mùa trong năm, ở xa xích đạo hơn vào những tháng phân điểm và tiến

gần xích đạo nhất vào những tháng mùa đông. Biên độ của đỉnh dị thường gia tăng

theo hoạt động mặt trời nhưng vị trí đỉnh dị thường dường như không thể hiện sự

phụ thuộc vào mức độ hoạt động mặt trời.

4. Ở khu vực Việt Nam, nhấp nháy điện ly xuất hiện khá thường xuyên, chủ

137

yếu vào thời gian ban đêm trong khoảng 20-24 LT và rất ít khi xuất hiện vào thời

Kết luận và Kiến nghị

gian ngày. Tần suất xuất hiện nhấp nháy biến đổi theo hoạt tính mặt trời, vào những

năm Mặt Trời hoạt động mạnh nhấp nháy xuất hiện nhiều hơn, gia tăng cả về tần

suất và độ lớn, so với năm Mặt Trời hoạt động yếu. Trong mỗi năm, tần suất xuất

hiện nhấp nháy điện ly biến đổi theo mùa, chủ yếu xuất hiện vào thời kỳ phân điểm.

Nhấp nháy xuất hiện tập trung trong vùng đỉnh dị thường điện ly xích đạo từ vĩ độ

140 đến vĩ độ 250 với cực đại ở khoảng vĩ độ 16o.

5. Sử dụng dao động pha tín hiệu GPS hai tần số nghiên cứu hoạt động nhiễu

loạn điện ly khu vực Việt Nam cho hai trận bão từ ngày 11/10/2010 và ngày 24-

25/10/2011. Các nhiễu loạn chủ yếu xuất hiện vào thời điểm ngay sau khi Mặt Trời

lặn (19h đến 24h LT) và tập trung ở vùng đỉnh dị thường điện ly xích đạo. Kết quả

nghiên cứu cho thấy bão từ có thể làm gia tăng cường độ xuất hiện nhiễu loạn và

gây ra hoạt động nhấp nháy (ngày 11/10/2010) hoặc ngăn cản sự phát triển nhiễu

loạn và do đó làm giảm hoạt động nhấp nháy (ngày 25/10/2011) so với các ngày

trước và sau bão phụ thuộc vào thời điểm xuất hiện của bão trong ngày.

6. Mức độ ảnh hưởng của tầng điện ly lên tín hiệu vệ tinh GPS gia tăng vào

những tháng phân điểm hàng năm và vào giai đoạn Mặt Trời hoạt động mạnh, vùng

phía Bắc nước ta sẽ bị tác động nhiều hơn vùng phía Nam. Kết quả đánh giá ban

đầu về ảnh hưởng của nhấp nháy điện ly lên tín hiệu vệ tinh khu vực Việt Nam

trong một số ngày của tháng 10/2011 cho thấy nhấp nháy làm gia tăng khả năng mất

tín hiệu trên tần số f2, có thể gây ra sai số khoảng cách từ hàng chục mét đến hơn

hai chục mét ở trạm Hà Nội, ở khu vực Huế tới cỡ vài mét, trong khi ở khu vực

thành phố Hồ Chí Minh sai số này hầu như không đáng kể.

Việc lắp đặt ba trạm thu GPS trải đều ở ba miền Bắc-Trung-Nam là một

thuận lợi trong nghiên cứu tầng điện ly cho toàn khu vực Việt Nam. Kết quả quan

sát về biến thiên nồng độ điện tử và đặc trưng xuất hiện nhấp nháy khu vực Việt

Nam. Các kết quả thu được trong luận án sẽ là đóng góp nhất định trong mục tiêu

xây dựng dự báo điện ly, nhấp nháy điện ly khu vực Việt Nam nói riêng và khu vực

138

Đông Nam Á nói chung trong tương lai.

Kết luận và Kiến nghị

Hướng phát triển trong thời gian tới:

Từ những kết quả nghiên cứu trong luận án, tác giả kiến nghị tiếp tục triển

khai các vấn đề sau:

- Tiếp tục hoàn thiện thêm phương pháp tính để cho ra các giá trị TEC có độ

chính xác cao, tiến tới xây dựng các bản đồ TEC địa phương theo kinh và vĩ độ ở

từng thời điểm quan sát để ứng dụng trong phép hiệu chỉnh chính xác tín hiệu vệ

tinh truyền trong vùng này khi có mạng lưới máy thu tín hiệu vệ tinh GPS liên tục

dày đặc hơn trên lãnh thổ Việt Nam. Mở rộng việc tính toán TEC sử dụng thông tin

từ các hệ thống định vị toàn cầu khác như GLONASS, GALILEO tăng cường thông

tin trong việc xây dựng các bản đồ TEC.

- Phát triển hướng nghiên cứu về nhiễu loạn điện ly, nhấp nháy điện ly phục

vụ cho mục đích nghiên cứu vật lý điện ly và mục đích ứng dụng truyền sóng ở Việt

Nam. Để có được kết quả chi tiết cần phải mở rộng thêm với các trạm thu tín hiệu

GPS khác đặt ở Việt Nam và lân cận; kết hợp với các số liệu thăm dò thẳng đứng

tầng điện ly và số liệu khác phát triển các nghiên cứu địa từ điện ly trong mối quan

hệ Mặt Trời-Trái Đất, phục vụ nghiên cứu thời tiết không gian vũ trụ, một hướng

139

nghiên cứu ngày càng được quan tâm trong kỷ nguyên vũ trụ hiện nay.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

1. Trần Thị Lan, Lê Huy Minh, R. Fleury, P. Lassudrie Duchesne, A.

Bourdillon: “Bước đầu nghiên cứu nồng độ điện tử tổng cộng và nhấp nháy

điện ly sử dụng số liệu các trạm thu GPS liên tục ở Việt Nam”, Tạp chí Các

Khoa học về Trái đất, T. 31(3) , 212-223, 9/2009.

2. Trần Thị Lan, Lê Huy Minh: “Biến thiên theo thời gian của nồng độ điện

tử tổng cộng và nhấp nháy điện ly theo số liệu GPS liên tục ở Việt Nam”,

Tạp chí Các Khoa học về Trái đất, T. 33(4), 681-689, 12/2011.

3. Trần Thị Lan, Lê Huy Minh, R. Fleury, P. Lassudrie Duchesne, A.

Bourdillon: Một số biến thiên của nồng độ điện tử tổng cộng và nhấp nháy

điện ly theo số liệu GPS liên tục, Tuyển tập báo cáo hội nghị khoa học Quốc

tế: Vật lý địa cầu – Hợp tác và phát triển bền vững, 108-119, 2012

4. Trần Thị Lan, Đào Thế Cường: “Một số đặc trưng xuất hiện Spread F xích

đạo tại Phú Thụy trong hơn một chu kỳ hoạt động Mặt trời”, Tạp chí Các

Khoa học về Trái đất, T. 35(3) , 258-264, 2013.

5. M. Le Huy, C. Amory-Mazaudier, R. Fleury, A. Bourdillon, P. Lassudrie-

Duchesne, L. Tran Thi, T. Nguyen Chien and T. Nguyen Ha, P. Vila : Time

variations of the total electron content in the Southeast Asian equatorial

ionization anomaly for the period 2006-2011, Advances in Space Research,

140

http://dx.doi.org/10.1016/j.asr.2013.08.03, 54, 355-368, 2014.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

6. Nguyễn Thanh Dung: “Nghiên cứu đặc trưng tầng điện ly ở Việt Nam theo

số liệu ghi được tại trạm Bạc Liêu và Phú Thụy”, luận văn thạc sỹ, 2009.

7. Hoàng Thái Lan, “Cấu trúc các lớp điện ly tại khu vực phía Nam trong giai

đoạn Mặt trời hoạt động mạnh”, Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, 2003 pp.

222-228.

8. Hoàng Thái Lan, Nguyễn Thu Trang: “Một số đặc điểm của spread F xích

đạo quan trắc tại Việt Nam”, Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, 2009, 31 (4),

pp. 368-373.

9. Hoàng Thái Lan,: “Tầng điện ly xích đạo từ ở Việt Nam và dự báo thời tiết

vũ trụ”, Sách chuyên khảo ứng dụng và phát triển công nghệ cao, 2013.

10. Trần Thị Lan: “Quan sát điện ly và sự biến đổi của tầng điện ly tại Phú Thụy

từ 1962 đến nay”, luận văn thạc sỹ, 2004.

11. Trần Thị Lan, Lê Huy Minh, R. Fleury, P. Lassudrie Duchesne, A.

Bourdillon: “Bước đầu nghiên cứu nồng độ điện tử tổng cộng và nhấp nháy

điện ly sử dụng số liệu các trạm thu GPS liên tục ở Việt Nam”, Tạp chí Các

Khoa học về Trái đất, 2009, T. 31(3) , 212-223.

12. Trần Thị Lan, Lê Huy Minh: “Biến thiên theo thời gian của nồng độ điện tử

tổng cộng và nhấp nháy điện ly theo số liệu GPS liên tục ở Việt Nam”, Tạp

chí Các Khoa học về Trái đất, 2011, T. 33(4), 681-689.

13. Lê Huy Minh và Phạm Văn Trì: “Biến thiên theo thời gian của lớp E và lớp

F điện ly quan sát được tại đài điện ly Phú Thụy, Việt Nam”, Tạp chí các

khoa học về Trái đất, 2001, 23(1), 56-69.

14. Lê Huy Minh, Lan T. T., Hồng P. T. T.,: “Bão từ và bão điện ly ngày 6-

7/04/2000 và ngày 31/03/2001 quan sát được tại Phú Thụy”, Tạp chí các

khoa học về Trái đất, 2004, 26(2), 122-135.

15. Lê Huy Minh, A. Bourdillon, R. Fleury, P. Lasudrie-Duchensne, Nguyễn

141

Chiến Thắng, Trần Thị Lan, Trần Ngọc Nam, Hoàng Thái Lan, “Xác định

hàm lượng điện tử tổng cộng tầng điện ly ở Việt Nam qua số liệu các trạm

thu tín hiệu vệ tinh GPS”, Tạp chí Địa Chất, 2006, Vol. 296, N2, 54-62.

16. Lê Huy Minh, Nguyễn Chiến Thắng, Trần Thị Lan, R. Fleury, P. Lasudrie-

Duchensne, A. Bourdillon, C. Amory-Mazaudier, Trần Ngọc Nam, Hoàng

Thái Lan, “Ảnh hưởng của bão từ tới nồng độ điện tử tổng cộng vùng dị

thường điện ly xích đạo Đông Nam Á quan sát được từ số liệu GPS”, Tạp chí

các khoa học về Trái đất, 2007, Vol. 29, N2, 104-112.

17. Nguyễn Chiến Thắng: “Hệ thống định vị toàn cầu và ứng dụng trong nghiên

cứu nồng độ điện tử tổng cộng tầng điện ly”, luận văn thạc sỹ, 2007.

18. Phạm Văn Trì, Tiến T. H., Hưng P. M., Mai N. B., và Quỳnh C. K.,: “Một số

đặc điểm hình thái điện ly trên đài điện ly Hà Nội”, Thành tựu nghiên cứu

vật lý địa cầu, 1997, 355-378.

Tiếng Anh

19. J. Aarons: “Global morphology of ionospheric scintillations”, Proc. IEEE,

1982, 70, 360-378.

20. J. Aarons, M. Mendillo and R. Yantosca: “GPS phase fluctuation in the

equatorial region during sunspot minimum”, Radio Science, 1997, Vol. 32,

N.4, pp 1535-1550.

21. P. Abadi, S. Saito, and W. Srigutomo: “Low-latitude scintillation

occurrences around the equatorial anomaly crest over Indonesia”, Annales

Geophys., 2014, 32, 7-17.

22. M. A. Abdu: “Major phenomena of the equatorial ionosphere-thermosphere

system under disturbed conditions”, Journal of Atmos. And Solar-Terrestrial

Phys., 1997, Vol. 59, 1505-1519.

23. D. N. Anderson, Reinisch B., Valladare C., Chau J., Veliz O.,: “Forecasting

the occurrence of ionospheric scintillation activity in the equatorial

ionospheric on a day-to-day basis ”, Journal of Atmos. And Solar-Terrestrial

142

Phys., 2004, Vol. 66, 1567-1572.

24. C. Amory-Mazaudier, Le Huy Minh, Y. Cohen, V.Doumbia, A. Bourdillon,

R. Fleury, B. Fontaine, C. Ha Duyen, A. Kobea, P. Laroche, P. Lassudrie

Duchesne, H. Le Viet, T. Le Truong, H.Luu Viet, M. Menvielle, Nguyen

Chien Thang, A. Nguyen Xuan, F. Ouattara, M. Petitdidier, H. Pham Thi, T.

Pham Xuan, N. Philippon, Tran Thi Lan, H. Vu Thien, and P. Vila: “Sun-

Earth System Interaction studies over Vietnam : an international cooperative

project”, Annales Geophys., 2006, 24, 3313-3327.

25. W. W. Andrzeij, L. Alfonsi, and M. Materassi,: “Ionospheric Irregularities,

Scintillation and its effect on systems”, Acta Geophysica Polonica, 2004, V.

52, N.2.

26. S. Banola, Pathan B. M., Rao D. R. K., and Chandra H.: “Spectral

characteristics of scintillation producing ionospheric irregularities in the

Indian region”, Earth Planets Space, 2005, 57, 47-59.

27. S. Basu, S. Basu, J. Aarons, J.P. McClure, and M.D. Cousins: “On the

coexistence of kilometer- and meter-scale irregularities in the nighttime

equatorial F region”, Journal of Geophysical Research, 1978, 83 (A9), pp.

4219 - 4226.

28. S. Basu, E. Kudeki, S. Basu, C. E. Valladares and E. J. Weber: “Scintillation,

plasma drifts, and neutral winds in the equatorial ionosphere after sunset”,

Journal of Geophysical Research, 1996, Vol. 101, N.A12, 26795-26809.

29. S. Basu, Groves K.M., Quinn J.M. and Doherty P.,: “A comparision of TEC

fluctuations and scintillations at Ascension Island”, Journal of Atmos. And

Solar-Terrestrial Phys., 1999, Vol. 61, 1219-1226.

30. S. Basu, Groves K.M., Basu S., and Sultan P. J.: “Specification and

forecasting of scintillation in communication/navigation links: current status

and future plans”, Journal of Atmos. And Solar-Terrestrial Phys., 2002, Vol.

64, 1745-1754.

31. L. T. Beach and M. P. Kintner: “Simultaneous Global Positioning System

143

observations of equatorial scintillations and total electron content

fluctuation”, Journal of Geophysical Research, 1999, Vol. 104, N.A10,

22553-22565.

32. L. T. Beach: “Perils of the GPS phase scintillation index (σФ)”, Radio

Science, 2006, Vol. 41, RS5S31, doi:10.1029/2005RS003356.

33. Y. Beniguel, and Adam JP.: “Ionosphere Scintillation and their Effect on the

Positioning Errors”, IEEA, proccesding, 2007, France.

34. Y. Beniguel,: “GISM – Global Ionospheric Scintillation Model”, IEEA,

GISM technical Manual, 9/2011.

35. P. K. Bhuyan, Rashmi Rekha Borah: “TEC derived from GPS network in

India and comparison with the IRI”, Advances in Space Research, 2006, 39,

830-840.

Res., 1980, 85, 1669-1686.

36. M. Blanc and Richmond: “The ionospheric disturbance dynamo”, J. Geophys.

37. A. M. Breed and Goodwin G.L.,: Total electron content measurements in the

southern hemisphere using GPS satellites,1991 to 1995, Radio Science, 1998,

Vol.33 (N.6), 1705-1726.

38. S. C. Carrano, K. M. Groves and J. M. Griffin: “Empirical Characterization

and Modeling of GPS Positioning Errors Due to Ionospheric Scintillation”,

Ionospheric Effects Symposim, Alexandria, VA, 5/2005.

39. M. A. Cervera and R. M. Thomas: “Latitudinal and temporal variation of

equatorial ionospheric irregularities determined from GPS scintillation

observations”, Ann.Geophys., 2006, N.24, 3329-3341.

40. H. Chandra, Vats H. O., Sethia G., Deshpande M. R., Rastogi R. G., Sastri J.

H. and Murthy B. S.,: “Ionospheric scintillatons associated with features of

equatorial ionosphere”, Ann.Geophys., 1979, N.35, 145-151.

41. V. Chauhan, Singh O. P., and Singh B.,: “Diurnal and seasonal variation of

GPS-TEC during a low solar activity period as observed at a low latitude

station Agra”, Indian Journal of radio & Space Physics, 2011, V. 40, pp 26-

144

36.

42. W. S. Chen, Lee C. C., Liu J. Y., Chu F. D., and Reinisch B. W.,:

“Digisonde spread F and GPS phase fluctuations in the equatorial ionosphere

during solar maximum”, Journal of Geophysical Research, 2006, Vol. 111,

A12305.

43. F. D. Chu, C. C. Lee, W. S. Chen and J. Y. Liu,: “A study of long-term

climatology of ionospheric irregularities by using GPS phase fluctuation at

the Brazilian longitudes”, Advances in Space Research, 2007,

doi:10.1016/j.asr.2007.05.003.

44. R. Cohen, and K.L. Bowles: “On the nature of equatorial spread F”, Journal

of Geophysical Research, 1961, 66 (4), pp. 1081 – 1106.

45. R. S. Conker, El-Arini M. B., C. J. Hegarty, T. Hsiao : “Modeling the

Effects of Ionospheric Scintillation on GPS/SBAS Availability”, Radio

Science, 2/2003.

46. V. Dierendonck, A. John Klobuchar, Quyen Hua: “Ionospheric Scintillation

monitoring using commercial single frequency C/A code receivers”,

Proceedings of ION GPS-93, Sep. 1993.

47. S. Dubey, R. Wahi, A.K. Gwal: “Ionospheric effect on GPS positioning”,

Advances in Space Research, 2006, N.38, 2478-2484.

48. B. Forte and Radicella S. M.,:‘Problems in data treatment for ionospheric

scintillation measurements’, Radio Science, 2002, Vol. 37, N. 6.

49. B. Forte and Radicella S. M.,:‘Comparison of ionospheric scintillation

models with experimental data for satellite navigation applications’, Ann.

Geophys, 2005, Vol. 48, N3.

50. L. Guozhu, Baigi Ning, and Hong Yuan,: “Analysis of ionospheric

scintillation spectra and TEC in the Chinese low latitude region”, Earth

planets space, 2007, 59, 279-285.

51. J. K. Hargreaves: “ The solar-terrestrial environment”, Cambridge, Book,

145

1992.

52. M. Hernandez – Pajares, Juan J.M. and Sanz J.,: “High resolution TEC

monitoring method using permanent ground GPS receivers”, Geophysical

reseach letters, 7/1997, Vol. 24(13), 1643-1646.

53. B. Hofmann-Wellenhof , H. Lichtenegger, and J. Collins: “GPS Theory and

Practice”, Springer, Book, 1992.

54. Pham Thi Thu Hong, C. Amory-Mazaudier and M. Le Huy: “Time

variations of the Ionosphere at the Northern tropical creast of ionization at

Phuthuy, Vietnam”, Ann. Geophys, 2011, N29, 197-207.

55. P. M. Kintner, Ledvina B. M., and Paula E. R.: “GPS and ionospheric

scintillations”, Space weather, 2007, Vol.5, S09003,

doi:10.1029/2007W000260.

56. D. L. Knepp: “Effects of ionospheric scintillation on Transit satellite

meansurement of total electron content”, Radio Science, 2004, Vol. 39.

57. A. Komjathy, Sparks L., Wilson B. D. and Mannucci A.J.,: “Automated

daily processing of more than 1000 ground-based GPS receivers for studying

intense ionospheric storms”, Radio Science, 2005, vol. 40.

58. A. Krankowski, Irk I. Shagimuratov: “Impact of TEC fluctuations in the

antarctic Ionosphere on GPS positioning”, Artificial Satellites, 2006, V.41(1).

59. S. Kumar, Gwal, A. K.,: “VHF Ionospheric scintillation near the equatorial

anomaly crest: solar and magnetic activity effects”, Journal of Atmos. And

Solar-Terrestrial Phys., 2000, Vol. 62, 157-167.

60. Hoang Thai Lan, MacDougall, J. W.: “Equatorial ionospheric response to the

major geomagnetic storms in 2003 year observed in South Vietnam”,

Journal of Geology, 2008, Series B (31 - 32), pp.101-109.

61. Hoang Thai Lan, Abdu, M.A., MacDougall, J. W., Batista, I. S.:

“Longitudinal differences in the equatorial spread F characteristics between

Vietnam and Brazil”, Advances in Space Research, 2010, 45, pp. 351-360.

62. D. V. Lekshmi, N. Balan, S. Tulasi Ram, and J. Y. Liu: “Statistics of

146

geomagnetic storm and ionospheric storms at low and mid latitudes in two

solar cycles”, Journal of Geophysical research, 2011, V.116, A11328,

doi:10.1029/2011JA017042.

63. J. Y. Liu, Tsai H. F., and Jung T. K.: “Total electron content obtained by

using the global positioning system”, TAO, 1996, Vol. 7(1), 107-117.

64. J. Y. Liu, Tsai H. F., Wu C. C., Tseng C. L., Tsai L. C., Liou K., and Chao J.

K.: “The effect of geomagnetic storm on ionospheric total electron content at

the equatorial anomaly region”, Advances in Space Research, 1999, Vol.

24(11), 1491-1494.

65. J. Liu, Zhao B., and Liu L.: “Time delay and duration of ionospheric total

electron content responses to geomagnetic disturbances”, Ann. Geophys,

2010, N28, 795-805.

66. G. Ma and T. Maruyama: “Derivation of TEC and Estimation of

Instrumental Biases from Geonet in Japan”, Ann. Geophys., 2003, 21, 2083-

2093.

67. A. J. Mannucci, Wilson, B. D., Yuan, D. N., Ho, C. M., Lindwister, U. J.,

Runge, T. F.: “A global mapping technique for GPS derived ionospheric

total electron content meansurements” Radio Sci., 1998, 33, 565-582.

68. Le Huy Minh and Amory-Mazaudier C.: “Magnetic signature of the

ionospheric disturbance dynamo at equatorial latitudes: “Ddyn””, Journal of

Geophysical Research, 2005, Vol. 10, 10301-10314.

69. Le Huy Minh, C. Amory-Mazaudier, R. Fleury, A. Bourdillon, P. Lassudrie-

Duchesne, L. Tran Thi, T. Nguyen Chien and T. Nguyen Ha, P. Vila : Time

variations of the total electron content in the Southeast Asian equatorial

ionization anomaly for the period 2006-2011, Advances in Space Research,

2014, 54, 355-368.

70. T. Ogawa, Miyoshi Y., Otshuka Y., Nakamura T., and Shiokawa K.,:

“Equatorial GPS ionospheric scintillation over Kototabang, Indonesia and

their relation to atmospheric waves form below”, Earth planets space, 2009,

147

61, 397-410.

71. T. Ondoh and K. Marubashi: “ Science of Space Environment”, IOS Press,

2001.

72. R. Orús, M. Hernasdez-Pajares, Juan J. M., Sanz J., Garcisa-Fernandez.

“Performance of different TEC model to provide GPS ionospheric

corrections”, Journal of Atmospheric and Solar, 2002, 2055-2062.

73. Y. Otsuka, T. Ogawa, Saito A., Tsugawa T., Fukao S., and Miyazaki S.: “A

new technique for mapping of total electron content using GPS network in

Japan”, Earth planets space, 2002, 54, 63-70.

74. F. Ouattara, C. Zoundi and R. Fleury,: “Comparison between CODG TEC

and GPS based TEC observation at Koudougou in Burkina Faso”, Indian

Journal of radio & Space Physics, 12/2012, V. 41, pp 617-623.

75. B. W. Parkinson, James J.Spilker Jr.: “Global Positioning System: Theory

and Applications”, Volume I, Book, USA, 1996.

76. B. W. Parkinson, James J.Spilker Jr.,: “Global Positioning System: Theory

and Applications”, Volume II, Book, USA , 1996.

77. X. Pi, A. J. Mannucci, Lindqwister U. J., and Ho. C. M.: “Monitoring of

global ionospheric irregularities using the worldwide GPS network”,

Geophysical Research letters, 1997, Vol.24, N. 18, 2283-2286.

78. Rama Rao, P. V. S., Gopi Krishna, S., Niranjan, and Prasad, D. S. V. V. D.:

“Study of spatial and temporal characteristics of L-band scintillation over the

Indian low latitude region and their possible effects on GPS navigation”, Ann.

Geophys., 2006a, 24, 1567-1580.

79. Rama Rao, P. V. S., Gopi Krishna, S., Niranjan, and Prasad, D. S. V. V. D.:

“Temporal and spatial variations in TEC using simultaneous measurements

from the Indian GPS network of receivers during the low solar activity

period of 2004-2005”, Ann. Geophys., 2006b, 24, 3279-3292.

80. W. Rideout, and Anthea Coster: Automated GPS processing for global total

electron content data, GPS Solut., 2006, Doi 10.1007.

81. H. Rishbeth and Owen K. Garriott: “Introduction to Ionospheric Physics”,

148

Academic Press, Book, 1969.

82. S. Saito, Maruyama T., Ishii M., Kubota M., Ma G., Chen Y., Li J., Duyen

C. H., Truong T. L.,: “Observation of small to large scale ionospheric

irregularities associated with plasma bubbles with a transequatorial HF

propagation experiment and spaced GPS receivers”, Journal of Geophysical

research, 2008, V.113, A12313.

83. E. Sardon, Rius A., and Zarraaoa N.: “Estimation of the transmitter and

receiver differential biases and the ionospheric total electron content from

Global Positioning System observations”, Radio Science, 1994, vol. 29, 577-

586.

84. S. Schaer: "Mapping and Predicting the Earth's Ionosphere using the Global

Positioning System", Ph. D. thesis, 1999.

85. S. H. Skone: “The impact of magnetic storm on GPS receiver performance” ,

J. of Geodesy, 2001, 75, 457-468.

86. R. M. Thomas, M. A. Cervera, Eftaxiadis K., Manurung S. L., Saroso S.,

Effendi, Ramli A. G., Hassan W. S., Rahman H., Dalimin M. N., Groves K.

M., and Wang Y.,: “A regional GPS receiver network for monitoring

equatorial scintillation and total electron content”, Radio Science, 2001, vol.

36, 1545-1557.

87. S. Tiwari, S. Sarkar, Vishwakarma A., and Gwal A. K.,: “Effect of Magnetic

activity on scintillation at Equatorial Region during Low Solar Activity”,

Advances in Physics Theories and Applications, 2013, vol. 19.

88. H. F. Tsai , J.Y. Liu, W. H. Tsai and C. H. Liu,: “Seasonal variations of the

ionospheric total electron content in Asian equatorial anomaly regions”,

Journal of Geophysical Research , 12/2001, vol 106, 30.363-30.369.

89. T. Tsugawa, A. Saito, Y. Otsuka, M. Nishioka, T. Maruyama , H. Kato, T.

Nagatsuma, and K. T. Murata,: “Ionospheric disturbances detected by GPS

total electron content observation after the 2011 off the Pacific coast of

149

Tohoku Earthquake”, Earth Planets Space, 2011, 63, 875–879.

90. R. T. Tsunoda: “On equatorial spread F: Establishing a seeding hypothesis”,

Journal of Geophysical research, 2010, V.115, A12303,

doi:10.1029/2010JA015564.

91. C. E. Valladares, J. Villalobos, Sheehan R., and Hagan M.P.: “Latitudinal

extension of low laititude scintillations measured with a network of GPS

receivers”, Ann. Geophys., 2004a, 22, 3155-3175.

92. C. E. Valladares, and R. Sheehan: “A Latitudinal network of GPS receivers

dedicated to studies of equatorial spread F”, Radio Sci., 2004b, 39, RS1S23.

93. J. A. Vladimer, M. C. Lee, Doherty P. H., Anderson D. N., and Decker D.

T.: “Comparisons of TOPEX and Global Positioning System total electron

content measurements at equatorial anomaly latitudes”, Radio Sci., 1997, 32,

2209-2220.

94. G. D. Vyas: “Study of low latitude ionospheric irregularities”, Ph. D. thesis,

1979.

95. G. O. Walker, J. H. K. Ma and E. Golton: “The equatorial ionospheric

anomaly in electron content from solar minimum to solar maximum for

South East Asia”, Ann. Geophys., 1994, N.12.

96. R. Warnant and Eric Pottiaux,: “The increase of the ionospheric activity as

meansured by GPS”, Earth Planets space, 2000, Vol. 52, 1055-1060.

97. B. D. Wilson, A. J. Mannucci, C. D. Edwards, and T. Roth: “Global

ionospheric maps using a global network of GPS receiver”, International

Beacom Satellite Symposium, Cambridge, 1992.

98. J. S. Xu, J. Zhu, L. Li, ‘Effects of a major storm on GPS amplitude

scintillations and phase fluctuations at Wuhan in China’, Advances in Space

Research, 2007, N.39, 1318-1324.

99. K. C. Yell and Chao-Han Liu: “Radio wave scintillation in the ionosphere”,

Proceedings of the IEEE, 1992, 70 (4).

100. A. F. M. Zain, H. Y. Hwa, M. Abdullah, Rhazali Z.A., Abdullah S.

and Marsimin M.F.,: “First Ionospheric Experimental campaign and

150

Observation at Fraser’s Hill, Malaysia: Total Electron Content (TEC) and

Scintillation Meansurements”, 2005, Asian-Pacific Conference on applied

electromagnetics proceedings.

101. B. Zhao, W. Wan, and L. Liu: “Responses of equatorial anomaly to

the October-November 2003 superstorms”, Ann. Geophys., 2005, 23, 693-

706.

102. GSV GPS Silicon Valley, 2005: GSV4004/GSV4004A – GPS

Ionospheric Scintillation & TEC Monitor, USER’S MANUAL.

103. http://en.wikipedia.org/wiki/Dilution_of_precision_(GPS).

104. http://www.aiub.unibe.ch/

105. http://wdc.nict.go.jp/IONO/contents/E011_TECmap.html

106. http://www.ips.gov.au/Satellite/2/1

151

107. http://www.ips.gov.au