BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
---- ----
CAO VĂN LƯƠNG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM QUẦN XÃ CỎ BIỂN
VÀ KHẢ NĂNG LƯU TRỮ CACBON CỦA CHÚNG
Ở MỘT SỐ ĐẦM PHÁ TIÊU BIỂU
KHU VỰC MIỀN TRUNG VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
Hà Nội, 2019 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
---- ----
CAO VĂN LƯƠNG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM QUẦN XÃ CỎ BIỂN
VÀ KHẢ NĂNG LƯU TRỮ CACBON CỦA CHÚNG
Ở MỘT SỐ ĐẦM PHÁ TIÊU BIỂU
KHU VỰC MIỀN TRUNG VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
Chuyên ngành: Thực vật học
Mã số: 9420111
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. Đàm Đức Tiến
2. TS. Trần Thị Phương Anh
Hà Nội, 2019 2
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án “Nghiên cứu đặc điểm quần xã cỏ biển và khả năng
lưu trữ cacbon của chúng ở một số đầm phá tiêu biểu khu vực miền Trung Việt
Nam” là công trình của riêng bản thân tôi. Các số liệu và kết quả trong luận án là trung
thực, chưa từng được sử dụng trong luận án nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, cho phép tôi được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS. Đàm Đức
Tiến và TS. Trần Thị Phương Anh– thầy cô hướng dẫn khoa học, đã tạo điều kiện tối
đa, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm, hướng dẫn tôi thực hiện đề tài và viết luận án,
đồng thời luôn động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Xin trân trọng cảm ơn các đề tài mã số KC09.26/06-10, ĐTĐL.2009G/10,
KC08.25/11-15 và Đề án 47 (Hợp phần 1 – Nhiệm vụ số 8) đã tạo điều kiện cho tôi
tham gia và thực hiện các nội dung nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Học viện Khoa học và Công nghệ, Ban lãnh đạo Viện Sinh
thái và Tài nguyên sinh vật, Phòng Quản lý tổng hợp, cùng các thầy cô trong Viện đã luôn
động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Phòng Sinh thái và Tài nguyên thực vật biển, Phòng
Hóa - Môi trường biển và Phòng Địa – Môi trường biển (Viện Tài nguyên và Môi
trường biển) đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi thực hiện các thí nghiệm.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Viện Tài nguyên và Môi trường biển đã
luôn động viên và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học,
các đồng nghiệp, bạn bè trong và ngoài Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Tài
nguyên và Môi trường biển đã truyền dạy kiến thức, chỉ dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành
luận án.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình luôn là chỗ dựa vững
chắc cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Xin chân thành cảm ơn vợ và các
con của tôi đã cho tôi thêm sức mạnh, động lực để tôi vượt qua mọi khó khăn để hoàn
thành luận án.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Nghiên cứu sinh
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................................ii
MỤC LỤC ..................................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT.............................................. vi
DANH MỤC CÁC BẢNG ...........................................................................................vii
DANH MỤC CÁC HÌNH, ĐỒ THỊ .......................................................................... viii
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN .......................................................................................... 4
1.1. Tổng quan về cỏ biển và một số khái niệm ........................................................ 4
1.1.1. Tổng quan về cỏ biển ................................................................................... 4
1.1.2. Khái quát về điều kiện tự nhiên và môi trường sống ................................... 6
1.1.3. Giá trị và vai trò của cỏ biển ....................................................................... 8
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ..................................................................... 9
1.2.1. Nghiên cứu về hệ sinh thái cỏ biển .............................................................. 9
1.2.2. Nghiên cứu về khả năng hấp thụ và lưu trữ cacbon của cỏ biển .............. 16
1.3. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam .................................................................... 20
1.3.1. Nghiên cứu về đa dạng loài và nguồn lợi trong các thảm cỏ biển ............ 20
1.3.2. Nghiên cứu về cacbon trong thực vật nói chung và cỏ biển nói riêng ...... 26
1.4. Một số khái niệm về đầm phá ........................................................................... 28
1.4.1. Đầm phá ..................................................................................................... 28
1.4.2. Đầm phá ven biển ...................................................................................... 29
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .... 32
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu ................................................... 32
iv
2.2. Vật liệu và tư liệu nghiên cứu........................................................................... 36
2.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 38
2.3.1. Điều tra và thu thập mẫu vật ..................................................................... 38
2.3.2. Xác định thành phần loài ........................................................................... 40
2.3.3. Nghiên cứu định lượng .............................................................................. 43
2.3.4. Xác định hàm lượng cacbon hữu cơ và lượng giá trữ lượng cacbon ........ 43
2.3.5. Thành lập sơ đồ phân bố cỏ biển ............................................................... 45
2.3.6. Phân tích số liệu ........................................................................................ 45
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .............................................................. 46
3.1. Thành phần loài cỏ biển và một số đặc điểm hình thái .................................... 46
3.1.1. Thành phần loài ......................................................................................... 46
3.1.2. Khóa định loại cho các taxon .................................................................... 49
3.1.3. Biến động thành phần loài cỏ biển ............................................................ 73
3.2. Các đặc trưng phân bố của cỏ biển ................................................................... 77
3.2.1. Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai ................................................................ 77
3.2.2. Đầm Thị Nại ............................................................................................... 81
3.2.3. Đầm Nại ..................................................................................................... 83
3.3. Độ phủ và mật độ chồi của cỏ biển .................................................................. 85
3.3.1. Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai ................................................................ 85
3.3.2. Đầm Thị Nại ............................................................................................... 86
3.3.3. Đầm Nại ..................................................................................................... 87
3.4. Đặc trưng định lượng của cỏ biển .................................................................... 88
3.4.1. Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai ................................................................ 88
3.4.2. Đầm Thị Nại ............................................................................................... 93
v
3.4.3. Đầm Nại ..................................................................................................... 95
3.4.4. Tỷ lệ sinh khối trên và dưới của cỏ biển .................................................. 101
3.5. Khả năng lưu trữ cacbon của cỏ biển ............................................................. 103
3.5.1. Trữ lượng cỏ biển .................................................................................... 103
3.5.2. Khả năng lưu trữ và hấp thụ cacbon của cỏ biển .................................... 105
3.5.3. Lượng giá khả năng lưu trữ và hấp thụ cacbon của cỏ biển ................... 111
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................... 115
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............... 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 118
vi
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ/nghĩa tiếng Việt
HST Hệ sinh thái
C cacbon
cacbon hữu cơ Corg
USD Đô la Mỹ
GEF Quỹ Môi trường toàn cầu
UNEP Chương trình môi trường Liên hợp quốc
IPCC Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu
RaCSA Đánh giá nhanh về trữ lượng cacbon
PES Chi trả dịch vụ hệ sinh thái
REDD Chương trình giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng
TG-CH đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
TN đầm Thị Nại
KÝ HIỆU VIẾT TẮT CÁC PHÒNG TIÊU BẢN
(Thường gặp trong mục Loc.class.)
BM Herbarium Museum, Institute of Oceanology, Quingdao, China
LE Botanical Institute Komarov, Leningrad (St. Peterbourgh), RFR (USSR)
P Museum National d’Histoire Naturelle, Paris, France
S The Swedish Royal Museum of Natural History, Botanical Department, Stockholm, Sweden
TI Botanical Institute, Faculty of Science, University of Tokyo, Hongo, Japan
UC Herbarium of the University of California, Berkeley, California, USA
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Phân bố cỏ biển liên quan đến nền đáy ........................................................... 7
Bảng 2.1. Bộ mẫu nghiên cứu ........................................................................................ 36
Bảng 2.2. Cấp độ phủ cỏ biển ........................................................................................ 39
Bảng 3.1. Hiện trạng thành phần loài tại 3 vùng nghiên cứu ......................................... 46
Bảng 3.2. Ma trận chỉ số tương đồng Sorresson về thành phần loài ............................. 48
Bảng 3.3. Thành phần loài, phân bố cỏ biển tại Tam Giang – Cầu Hai ........................ 74
Bảng 3.4. Biến động thành phần loài cỏ biển trong đầm Thị Nại .................................. 75
Bảng 3.5. Biến động thành phần loài cỏ biển tại đầm Nại ............................................. 76
Bảng 3.6. Diện tích một số thảm cỏ biển tại Tam Giang – Cầu Hai .............................. 79
Bảng 3.7. Phân bố cỏ biển theo độ sâu ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai .................... 80
Bảng 3.8. Diện tích và độ phủ một số thảm cỏ biển chủ yếu ......................................... 82
Bảng 3.9. Diện tích và độ phủ các thảm cỏ biển đầm Nại ............................................. 83
Bảng 3.10. Mật độ chồi, độ phủ của cỏ biển tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai.......... 85
Bảng 3.11. Diện tích và độ phủ một số thảm cỏ biển chủ yếu ....................................... 86
Bảng 3.12. Diện tích và độ phủ các thảm cỏ biển tại đầm Nại ...................................... 88
Bảng 3.13. Đặc trưng sinh lượng cỏ biển đầm Nại ........................................................ 99
Bảng 3.14. Tổng hợp các đặc trưng sinh lượng của các loài cỏ biển .......................... 100
Bảng 3.15. Bảng tổng hợp ước tính trữ lượng cỏ biển ................................................. 104
Bảng 3.16. Trữ lượng cacbon hữu cơ trong cỏ biển và giá trị quy đổi ........................ 105
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH, ĐỒ THỊ
Hình 1.1. Hình thái chung của cỏ biển ............................................................................. 4
Hình 1.2. Cỏ Năn Syringodium isoetifolium .................................................................... 5
Hình 1.3. Sự sinh sản bằng hạt theo dạng thắt cổ chai .................................................. 16
Hình 2.1. Vị trí 12 đầm hồ ven biển miền Trung ........................................................... 32
Hình 2.2. Sơ đồ vị trí khảo sát tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai ............................... 33
Hình 2.3. Sơ đồ vị trí khảo sát tại đầm Thị Nại ............................................................. 34
Hình 2.4. Sơ đồ vị trí khảo sát tại đầm Nại .................................................................... 35
Hình 2.5. Đặt các khung thu mẫu ngẫu nhiên ................................................................ 39
Hình 2.6. Một số hình thái, cấu trúc sinh sản của cỏ biển ............................................. 41
Hình 2.7. Các đặc điểm sinh dưỡng của cỏ biển ............................................................ 42
Hình 3.1. Cỏ Lá dừa Enhalus acoroides ........................................................................ 52
Hình 3.2. Cỏ Vích Thalassia hemprichii ....................................................................... 54
Hình 3.3. Cỏ Nàn Halophila beccarii ............................................................................ 59
Hình 3.4. Cỏ Xoan Halophila ovalis .............................................................................. 60
Hình 3.5. Cỏ Xoan lớn Halophila major ....................................................................... 61
Hình 3.6. Cỏ Kim biển Ruppia maritima ....................................................................... 64
Hình 3.7. Cỏ Lươn nhật Zostera japonica ..................................................................... 67
Hình 3.8. Cỏ Hẹ ba răng Halodule uninervis ................................................................. 70
Hình 3.9. Cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia ....................................................................... 72
Hình 3.10. Hình thái chung của các loài cỏ biển đầm phá Tam Giang – Cầu Hai ........ 73
Hình 3.11. Hiện trạng và biến động phân bố của cỏ biển .............................................. 78
Hình 3.12. Sơ đồ phân bố cỏ biển đầm Thị Nại. ............................................................ 81
Hình 3.13. Sơ đồ phân bố cỏ biển đầm Nại ................................................................... 84
ix
Hình 3.14. Biến động sinh khối cỏ Lươn nhật Zostera japonica ................................... 89
Hình 3.15. Tương quan sinh lượng loài cỏ Lươn nhật Zostera japonica ...................... 90
Hình 3.16. Biến động sinh lượng cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia tại Cầu Hai ............... 91
Hình 3.17. Biến động sinh khối cỏ Xoan Halophila ovalis ........................................... 92
Hình 3.18. Mật độ chồi và sinh khối cỏ biển đầm Thị Nại ............................................ 95
Hình 3.19. Mối tương quan giữa sinh khối và mật độ chồi cỏ Zostera japonica .......... 95
Hình 3.20. Biểu đồ so sánh sinh lượng của cỏ Enhalus acoroides tại đầm Nại ............ 96
Hình 3.21. Tương quan sinh khối và mật độ chồi cỏ Enhalus acoroides tại đầm Nại .. 97
Hình 3.22. Biểu đồ so sánh sinh lượng của cỏ Halophila ovalis tại đầm Nại ............... 98
Hình 3.23. Tỷ lệ SKT/SKD giữa các loài cỏ biển tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai 101
Hình 3.24. Tỷ lệ sinh khối trên và sinh khối dưới giữa các loài cỏ biển đầm Thị Nại 102
Hình 3.25. Tỷ lệ sinh khối trên và sinh khối dưới ở các loài cỏ biển tại đầm Nại ...... 103
Hình 3.26. Hàm lượng cacbon hữu cơ trong một số loài cỏ biển đầm Thị Nại ........... 108
Hình 3.27. Tương quan giữa sinh khối và hàm lượng cacbon đầm Thị Nại ................ 108
Hình 3.28. Tương quan giữa mật độ chồi và hàm lượng cacbon đầm Thị Nại ........... 109
Hình 3.29. Biểu đồ so sánh trữ lượng cacbon hữu cơ trung bình ................................ 110
Hình 3.30. Giá tín chỉ CO2 theo EEX .......................................................................... 111
Hình 3.31. Giá tín chỉ CO2 theo EUAs ........................................................................ 111
Hình 3.32. Giá tín chỉ CO2 theo BLUENEXT ............................................................. 112
Hình 3.33. Giá tín chỉ CO2 theo từng khu vực hoặc quốc gia...................................... 112
Hình 3.34. Dự báo giá tín chỉ CO2 đến năm 2050 theo EUAs ..................................... 113
Hình 3.35. Áp giá tín chỉ CO2 của chính phủ Úc ......................................................... 113
1
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài luận án
Cỏ biển là nhóm thực vật có hoa duy nhất sống trong môi trường biển và nước
lợ. Tuy có số lượng loài tương đối ít so với các nhóm sinh vật biển khác, nhưng cỏ biển
có vai trò sinh thái rất quan trọng không kém rạn san hô và rừng ngập mặn. Hội nghị
quốc tế về cỏ biển lần thứ III họp tại Manila – Philipin tháng 4/1998 đã nhất trí thông
qua “Hiến chương cỏ biển” gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc và các nước có biển cần
phải quan tâm tới việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi cỏ biển [1].
Hệ sinh thái (HST) cỏ biển là một trong ba HST biển điển hình của vùng
nhiệt đới (gồm rừng ngập mặn, cỏ biển, san hô). Costansa (2000) cho rằng vai trò
của cỏ biển là rất quan trọng, chúng tham gia trong chu trình dinh dưỡng ở biển
ven bờ, ước tính khoảng 3,8 nghìn tỷ USD và giá trị trung bình đạt 212.000 USD/1
ha cỏ biển/năm [1]. Ngoài giá trị sinh thái như điều chỉnh môi trường, bãi đẻ của
một số loài hải sản, v.v. cỏ biển còn được sử dụng trực tiếp trong nhiều ngành kinh
tế như làm giấy viết, hóa chất, vật liệu xây dựng, thuốc chữa bệnh, thực phẩm, thủ
công mỹ nghệ, phân bón, v.v.
Gần đây, cỏ biển đã được công nhận với khả năng lưu trữ cacbon của chúng và
được ước tính trên toàn cầu vào khoảng 19,9 Pg (tương đương 19,9 tỷ tấn) cacbon hữu
cơ (Corg), gấp 2 - 3 lần khả năng lưu trữ cacbon hữu cơ của rừng thường xanh [2].
Trong khi các thảm cỏ biển chỉ chiếm 0,2% diện tích đáy đại dương của thế giới,
nhưng lại chứa 10 - 18% tổng số cacbon hữu cơ có trong đó, lưu trữ cacbon hữu cơ ở
mức 48 - 112 Tg /năm (tương đương 48 – 112 triệu tấn) [3, 4, 5].
Nếu tốc độ suy giảm HST cỏ biển hiện tại không thay đổi sẽ dẫn đến việc phát
thải cacbon được lưu trữ trước đây lên đến 299 triệu tấn C/năm [2]. Căn cứ vào tỷ lệ mất
đi hàng năm từ 0,4 - 2,6% diện tích cỏ biển trên toàn cầu, tương ứng với 5 - 33 triệu tấn
CO2 phát thải trở lại vào bầu khí quyển, tỷ lệ này tương đương với lượng khí phát thải
CO2 hằng năm ở nhiều quốc gia nhỏ. Lượng lớn khí CO2 ở trên phát thải vào khí quyển
có thể dẫn đến một chi phí khoảng 1,9 - 13,7 tỷ USD/năm để khắc phục các hậu quả [6].
2
Ven bờ miền Trung Việt Nam có 12 đầm phá (lagoon) tiêu biểu phân bố ở
khoảng 110 – 160 vĩ Bắc (từ Thừa Thiên Huế tới Ninh Thuận ) và chiếm khoảng 21%
chiều dài đường bờ biển. Các đầm phá Tam Giang – Cầu Hai thuộc tỉnh Thừa Thiên –
Huế, đầm Thị Nại thuộc tỉnh Bình Định và đầm Nại thuộc tỉnh Ninh Thuận là các đầm
tiêu biểu trong số đó. Với 08 loài cỏ biển sinh trưởng và phát triển, phân bố trên 2000
ha, chúng đóng vai trò quan trọng về mặt sinh thái, nguồn lợi cũng như nơi sinh sản và
phát triển của nhiều loài thủy hải sản ở đây [7, 8, 9, 10].
Tuy nhiên, tại 03 đầm nêu trên còn ít những nghiên cứu cụ thể về đặc điểm quần
xã cỏ biển, mối quan hệ giữa chúng với các yếu tố vô cơ và hữu cơ khác và đặc biệt
chưa có nghiên cứu nào về khả năng lưu trữ cacbon các thảm cỏ biển ở đây. Xuất phát
từ những thực tế nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài luận án: “Nghiên cứu đặc điểm
quần xã cỏ biển và khả năng lưu trữ cacbon của chúng ở một số đầm phá tiêu biểu khu
vực miền Trung Việt Nam”.
Mục tiêu nghiên cứu của luận án
- Xác định được thành phần loài, phân bố, cấu trúc quần xã cỏ biển tại một số đầm phá
tiêu biểu miền Trung Việt Nam;
- Đánh giá được khả năng lưu trữ cacbon hữu cơ và lượng giá giá trị hấp thụ CO2 của
các thảm cỏ biển tại một số đầm phá tiêu biểu miền Trung Việt Nam.
Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, đề tài tiến hành thực hiện các nội dung
nghiên cứu sau:
- Điều tra, xác định thành phần, phân bố, cấu trúc quần xã và xây dựng khóa định loại
các loài cỏ biển tại ba đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, đầm Thị Nại và đầm Nại;
- Điều tra, xác định các đặc trưng định lượng, của các loài cỏ biển ở khu vực nghiên cứu;
- Xác định hàm lượng cacbon hữu cơ của các loài cỏ biển, từ đó tính toán trữ lượng
cacbon hữu cơ theo đơn vị diện tích phân bố;
- Phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa các yếu tố điều tra (mật độ chồi, chiều dài lá, sinh
lượng, hàm lượng cacbon hữu cơ);
3
- Lượng giá khả năng hấp thụ CO2 của các quần xã cỏ biển.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa khoa học: kết quả của luận án góp phần bổ sung và hoàn chỉnh hiểu biết về
các loài cỏ biển ở Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: cung cấp cơ sở dữ liệu phục vụ phát triển và mở rộng các khu vực
bảo tồn cỏ biển, ngoài việc duy trì, tái tạo hệ sinh thái ven biển và hệ đầm phá, còn
cung cấp cơ sở khoa học cho Việt Nam chuẩn bị tham gia vào thị trường cacbon,
hướng đến giảm thiểu phát thải khí CO2.
Những đóng góp mới của luận án
- Tại 03 đầm phá tiêu biểu miền Trung (đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, đầm Thị Nại
và đầm Nại), đã phát hiện và bổ sung cỏ Hẹ ba răng Halodule uninervis (Forssk.)
Ascherson vào thành phần loài cỏ biển ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai (tỉnh Thừa
Thiên - Huế) và cỏ Xoan lớn Halophila major (Zoll.) Miquel vào thành phần loài cỏ
biển ở đầm Nại (tỉnh Ninh Thuận). Xây dựng được khóa định loại theo danh pháp mới
từ họ đến loài và mô tả chi tiết 09 loài cỏ biển phân bố ở 03 đầm phá tiêu biểu khu vực
miền Trung;
- Lần đầu tiên đã xác định hàm lượng cacbon hữu cơ trong các loài cỏ biển, đánh
giá trữ lượng cacbon hữu cơ, chuyển đổi tín chỉ cacbon và lượng giá khả năng hấp thụ
CO2 của các quần xã cỏ biển ở khu vực nghiên cứu.
4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về cỏ biển và một số khái niệm
1.1.1. Tổng quan về cỏ biển
Cỏ biển là nhóm thực vật có hoa duy nhất sống trong môi trường biển và nước
lợ, thuộc ngành Anthophyta [11] (= ngành hạt kín Angiospermae [11], =
Angiosperms = ngành mộc
lan Magnoliophyta [12]),
lớp một
lá mầm
Monocotyledoneae [11, 13] (= lớp hành Liliopsida = Monocotyledons [12]), phân
lớp Alismatidae [11, 12] (= Helobiae [12]), bộ Hydrocharitales [11, 12]. Cũng giống
như các loài thực vật bậc cao trên cạn, cỏ biển có rễ, thân bò, thân đứng, lá, bẹ lá,
cuống lá, hoa, quả và hạt. Cỏ biển khác các cây trên cạn là có một số cấu trúc thích
nghi với môi nước biển ven bờ, ven đảo. Cùng với các loài sinh vật phù du, rong biển
và cây ngập mặn, cỏ biển đã tạo nên nhóm những loài thực vật biển rất quan trọng đối
với hệ sinh thái biển nói chung [11].
Về đặc điểm hình thái, các loài cỏ biển đã được nghiên cứu tương đối đầy đủ
trong C. den Hartog (1970) và C. Phillips and G. Menez (1988) [14, 15]. Hầu hết cỏ
biển có hình thái ngoài khá giống nhau, bao gồm thân bò phân đốt, thân đứng, rễ,
chồi mang lá, hoa và quả tùy thuộc vào từng thời điểm sinh trưởng (hình 1.1).
Hình 1.1. Hình thái chung của cỏ biển
(Nguồn: www.seagrasswatch.org)
5
+ Rễ (root): Rễ thường mọc ra từ các đốt ở phần dưới của thân bò, hệ thống
rễ phát triển mạnh, rễ của mỗi loài đều có đặc điểm riêng, phân nhánh như ở chi
Cymodoceae hoặc ít phát triển, không phân nhánh kèm theo nhiều lông mịn như ở
chi Halophila. Số lượng rễ ở mỗi đốt có thể là một hay nhiều tùy vào mỗi loài.
+ Thân (rhizome): Thân gồm có phần thân bò hoặc thân ngầm và chồi đứng
hoặc thân đứng (shoot). Thân thường có dạng hình trụ tròn hoặc dẹp; chia nhánh
theo kiểu đơn trục hay không có qui luật. Trên thân bò có nhiều đốt, khoảng cách
giữa các đốt là lóng (gióng). Tùy loài mà thân bò mọc ngầm dưới lớp bùn (cát) đáy
hoặc bò lan trên mặt nền đáy. Từ đốt mọc lên một hay nhiều chồi đứng, chồi đứng
thường mang các lá.
+ Lá – phiến lá (leaf blade): Lá hình thành từ mô sinh trưởng ở các mấu thân;
có hình dải dài, ô van hay trụ tròn. Đây là chỉ tiêu hình thái quan trọng trong định
loại cỏ. Đa phần các loài cỏ có lá không có cuống, ngoại trừ ở một số chi Halophila.
Lá có cuống thường có hình ô van, còn các lá không cuống có hình dải dài như ở
chi Cymodoceae. Trên lá có các gân chạy song song hay gần hình lông chim, các
gân song song được nối với nhau bằng cách vách ngăn. Chóp lá tròn nhẵn hay có
gai nhọn. Lưỡi (bìa) lá nhẵn hoặc có răng cưa nhỏ.
Hình 1.2. Cỏ Năn Syringodium isoetifolium (Asch.) Dandy
(Côn Đảo năm 2017)
Phiến lá hầu hết đều mỏng, bề mặt phẳng, diện tích lớn, ngoại trừ ở loài cỏ
Năn biển Syringodium isoetifolium (hình 1.2) có lá hình trụ tròn, tất cả các loài khác
6
đều có lá dẹp. Ngoài chức năng quang hợp, phiến lá còn có khả năng hấp thụ dinh
dưỡng và trao đổi khí. Lá cỏ biển còn là nơi sống bám của nhiều loài rong và động
vật không xương sống [1, 11].
+ Bẹ lá (sheath): Bẹ lá là phần cuống lá phình ra ôm lấy chồi đứng (thân
đứng) và bọc lấy những lá non đang phát triển. Bẹ lá có dạng lưỡi nhỏ, màu trắng
do không có lục lạp nên không có chức năng quang hợp.
+ Sẹo lá (leaf scars): Khi các lá rụng đi sẽ để lại các sẹo trên thân đứng, sẹo
lá mở (như ở loài Cymodoceae serrulata) hay sẹo lá đóng (như ở loài Cymodoceae
rotundata) là tùy vào mỗi loài. Các sẹo lá là một kiểu biểu thị cách sắp xếp của lá.
+ Hoa, quả và hạt: Hoa, quả và hạt là cơ quan sinh sản hữu tính của thực vật
hạt kín nói chung và của cỏ biển nói riêng. Ở cỏ biển, một số có hoa đực và hoa cái
trên cùng một cây (đơn tính cùng gốc), số khác có hoa đực và hoa cái riêng biệt trên
mỗi cây (đơn tính khác gốc). Quả được hình thành từ sự phát triển của bầu sau thụ
tinh (giao phấn) và mang các hạt bên trong. Hạt được hình thành từ sự phát triển
của noãn. Hoa, quả và hạt của mỗi loài tùy vào điều kiện sống mà chúng có cấu trúc
và hình dạng khác nhau.
1.1.2. Khái quát về điều kiện tự nhiên và môi trường sống
Chất đáy
Các loài cỏ biển khác nhau có thể phân biệt bởi sự thích nghi của chúng với
các loại hình chất đáy. Loài Zostera japonica thường xuất hiện ở vùng triều kín, cửa
sông hay đầm nước lợ, nền đáy bùn sét bột và bùn nhão. Các loài Halophila ovalis,
H. beccarii và Ruppia maritima phổ biến ở vùng triều ven sông, đầm nuôi thủy
sản,nền đáy là bùn sét hoặc cát mịn. Loài Cymodocea serrundata phổ biển ở nền
đáy bùn cát, cát san hô và ít thấy trên nền cát thô và sỏi [1]. Một số loài
(Phyllospadix spp., Posidonia oceanica và Thalassodendron spp.) có thể sống trên
nền đá ở vùng bờ biển Thái Bình Dương [16, 17]. Tất cả những loài sinh trưởng
trên đá cần có bộ rễ cứng cáp, chúng có thể xâm nhập và bám chắc vào các kẽ trên
đá. Tuy nhiên, hầu hết các loài cỏ biển đều sinh trưởng trên nền đáy cát, bùn nơi bộ
rễ của chúng rất dễ dàng bám giữ vào nền đáy và tạo điều kiện cho hạt nảy mầm. Ở
những vùng có dòng chảy và sóng hoạt động mạnh làm xáo trộn nền đáy, gây ra sự
xói mòn không thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển của cỏ biển.
7
Bảng 1.1. Phân bố cỏ biển liên quan đến nền đáy
Dạng nền
Loài đặc trưng
Địa điểm
đáy
Bùn bột nhỏ
Zostera japonica
Đầm Buôn (Quảng Ninh)
Bùn sét bột
Halophila ovalis
Cát Bà (Hải Phòng)
Ruppia maritima,
Xuân Lộc (Thanh Hóa),
Bùn
Halophila beccarii
Kim Trung (Ninh Bình)
Bột lớn
Halodule pinifolia
Hòn Nôm (Quảng Bình)
Tam Giang – Cầu Hai,
Cát nhỏ
Halodule pinifolia
Lăng Cô (Thừa Thiên – Huế),
Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu)
Cam Ranh (Khánh Hòa),
Bùn cát
Enhalus acoroides
Phú Quốc (Kiên Giang)
Cymodocea serrtulata,
Cồn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu)
Cát san hô
Thalassia hemprichii
Syringodium
Phú Quốc (Kiên Giang)
Cát
isoetifolium
(Nguồn: Nguyễn Hữu Đại và cộng sự, 1999 [18]; Nguyễn Văn Tiến, 1999 [19])
Chất đáy có quan hệ chặt chẽ với sự sinh trưởng và phát triển của cỏ biển. Ở
các bãi ngang ven biển, ven đảo, nền đáy là san hô chết lẫn cát, đá cuội, vỏ sò, vỏ ốc
thì cỏ biển ít phong phú, cằn cỗi. Ở nơi được che sóng chất đáy là cát lẫn bùn và
nhất là trong các vũng vịnh, đầm, chất đáy là bùn hay bùn cát thì cỏ biển phát triển
tốt. Chúng thích nghi nhất với nền đáy bùn và bùn cát [11].
Độ muối
Vùng ven biển và ven đảo của Việt Nam, nơi có cỏ biển phân bố, độ muối
thường dao động từ 5‰ - 32‰ (Zostera japonica, Halodule pinifolia, Halophila
ovalis), dưới 25‰ (Halophila beccarii, Ruppia maritima) và trên 25‰ (Enhalus
acroides, Thalassia
hemprichii, Cymodocea
serrulata, C.
rotundata,
Thalassodendron ciliatum, Halodule uninervis, Halophila decipiends, H. minor).
8
Đa số các loài đều sinh trưởng ở độ muối cao. Khi độ muối hạ thấp và kéo dài kéo
theo sự tàn lụi của cỏ biển [11].
Nhiệt độ
Các loài cỏ biển sinh trưởng và phát triển ở vùng biển ven bờ do đó chúng
thích nghi với chế độ nhiệt của vùng ven bờ miền Bắc nước ta. Nhiệt độ nước biển
có giá trị cực tiểu vào tháng 1, cực đại vào tháng 7 hàng năm. Kết quả đo ngày
09/01/1997 tại thảm cỏ Ruppia maritima ở Đình Vũ (Hải Phòng nhiệt độ nước đạt
160C. Các đợt khảo sát cỏ biển chủ yếu thực hiện vào tháng 5 và tháng 8, nhiệt độ
nước thay đổi từ 24 – 340C. Cá biệt, ở cửa sông Hàn (Đà Nẵng) lúc triều xuống,
thảm cỏ phơi bãi, nhiệt độ nước trong các vũng nước lên đến 370C [11].
Độ đục
Độ đục tác động mạnh đến các hoạt động quang hợp của cỏ biển. Chúng sẽ
không nhận được năng lượng từ ánh sáng cần thiết cho quang hợp nên không phát
triển. Ngoài ra độ đục gia tăng có nghĩa là có nhiều trầm tích bùn nhuyễn bám lên
bề mặt của lá làm giảm quang hợp [11].
Ánh sáng
Sự sinh trưởng và phát triển của thực vật nói chúng, của cỏ biển nói riêng
chịu sự chi phối của ánh sáng, nhân tố có vai trò quan trọng đến khả năng quang
hợp của cỏ biển. Sự phân bố theo độ sâu của cỏ biển chủ yếu phụ thuộc vào thời
gian chiếu sáng [11, 17]. Cường độ quang hợp của cỏ biển được đánh giá thông qua
tốc độ giải phóng oxy vào môi trường [11]. Khả năng quang hợp giữa các loài cũng
khác nhau [20].
Ngoài những điều kiện nêu trên, một số yếu tố khác như pH, cường độ sóng,
chế độ thủy triều, các yếu tố vô sinh và hữu sinh cũng ảnh hưởng tới sự sinh trưởng
và phát triển của cỏ biển. Sự phơi bãi lúc thủy triều xuống thấp nhất vào ban ngày
mùa hè, trời nắng và nhiệt độ cao làm chết cỏ. Đây cũng là yếu tố chính gây ra sự
biến động sinh khối của cỏ ở vùng triều [11].
1.1.3. Giá trị và vai trò của cỏ biển
Theo nghiên cứu của Wood, Odum và Zieman (1969) [22] cho thấy, cỏ biển
có các chức năng chính như sau:
9
Cố định và có tác dụng làm giảm sự xáo trộn nền đáy khi có những áp
lực lớn bởi sóng và các trận bão;
Lá cỏ biển làm giảm và làm chậm dòng chảy và sóng, thúc đẩy sự
lắng đọng trầm tích và các vật chất hữu cơ và vô cơ;
Các thảm cỏ là nơi sống cho một số động vật trưởng thành và là vườn
ươm cho các ấu trùng, trong đó nhiều loài có giá trị kinh tế cao;
Lá cỏ biển đem lại nguồn thức ăn trực tiếp cho các loài động vật ăn cỏ
hay thực vật biểu sinh;
Là nhóm thực vật có năng suất sơ cấp cao, tốc độ sinh trưởng nhanh;
Cỏ biển tham gia vào chu trình dinh dưỡng của hệ sinh thái, là một
mắt xích quan trọng trong lưới thức ăn.
Gần đây, cũng đã có một số nghiên cứu về khả năng kháng khuẩn của cỏ
biển. Người ta phát hiện ra khả năng giảm đau của rễ cỏ Lá dừa Enhalus acoroides.
Một số loài cỏ thuộc chi Cymodocea có thể làm thuốc an thần cho trẻ em và giúp
các bà mẹ đang mang thai chống lại bệnh ho và bệnh sốt rét. Những loài cỏ thuộc
chi Halophila như là một loại thuốc khá hiệu quả đối với bệnh sốt rét và bệnh ngoài
da, đặc biệt đối với với bệnh phong trong giai đoạn đầu [23].
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.2.1. Nghiên cứu về hệ sinh thái cỏ biển
Trong nhiều năm vừa qua, khi các nghiên cứu về hệ sinh thái cỏ biển còn
chưa nhiều và còn rải rác thì các thảm cỏ biển đang chịu những tác động rất lớn từ
các điệu kiện tự nhiên và con người (suy thoái loài, giảm mật độ, sinh khối và diện
tích phân bố). Các nghiên cứu cho thấy, diện tích cỏ biển trên toàn thế giới đã giảm
tới 10 lần so với vài thập kỷ gần đây, trong đó có hơn 40 bãi cỏ biển quan trọng đã
biến mất ở những khu vực khác nhau, ảnh hưởng trực tiếp tới “sức khỏe” của ít nhất
24 loài cỏ biển [17]. Nguyên nhân được đánh giá là 70% từ các tác động của con
người [24].
Theo Short và Wyllie-Echeverria (1996), khoảng 12.000 km2 diện tích các
thảm cỏ biển đã biến mất trên toàn cầu trong những năm 90 [25]. Trong đó, vùng
biển châu Á – Thái Bình Dương có 10 điểm đáng báo động về sự suy giảm cỏ biển
10
(chiếm 25% tổng số các vùng cỏ biển bị mất). Khu vực Đông Nam Á, ngoài Việt
Nam với 40% diện tích bị biến mất, còn có: Philippin: 30 – 50%, Indonesia: 30 –
40% và Thái Lan: 20 – 30% [10].
Do các thảm cỏ biển có ý nghĩa rất quan trọng, nên nhiều nhà nghiên cứu
trên thế giới, đặc biệt các nhà khoa học ở châu Âu đã tập trung vào nghiên cứu
chuyên sâu hơn. Năm 1805, C. Koenig [26] đã nghiên cứu và công bố loài cỏ
Zostera oceanica ở bắc Đại Tây dương. Sau đó, Peterson (1891) [27], Ostenfeld
(1905) [28], Boysen-Jensen (1914) [29], Setchell (1920-1935) [30, 31], Arasaki
(1950) [32], Phillips (1960ª, 1960b, 1988) [15, 33, 34], Den Hartog (1970) [14], đã
công bố nhiều công trình nghiên cứu về hình thái phân loại, sinh thái, phân bố của
cỏ biển. Từ sau năm 1970, việc nghiên cứu cỏ biển với tư cách như một hệ sinh thái
được tiến hành mạnh mẽ ở Úc, Nhật Bản, Ấn Độ, Niu Ghine, Pháp, Hà Lan, Mỹ và
Canada,. Đến năm 1978, đã có 1400 công trình công bố về cỏ biển trên thế giới.
Các nước khu vực Đông Nam Á như Philipin, Inđônexia, Malaixia, Singapo và Thái
Lan, bắt đầu nghiên cứu cỏ biển từ thập niên 80, họ đã hoàn thành việc nghiên cứu
thành phần loài, sinh thái tự nhiên, và phân bố của cỏ biển. Ngày nay, các quốc gia
có biển đã và đang tập trung nghiên cứu về giá trị, vai trò, cấu trúc, chức năng của
cỏ biển và đã có những chương trình trồng phục hồi và quản lí hệ sinh thái cỏ biển.
Về phương pháp nghiên cứu, ban đầu người ta dùng tàu, thuyền khảo sát trực tiếp
trên thảm cỏ, mô tả hiện tượng, thu thập mẫu vật. Đến nay người ta đang dùng các
phương tiện hiện đại như kính hiển vi điện tử, sinh học phân tử, nuôi cấy mô, ảnh
hàng không, vệ tinh, kỹ thuật viễn thám để nghiên cứu cỏ biển [35].
1.2.1.1. Nguồn gốc và sự tiến hóa
Những nghiên cứu hóa thạch và những bằng chứng về cổ sinh vật học đã
chứng minh về sự có mặt của thực vật có hoa trong môi trường biển cách đây 100
triệu năm [36], điều đó cho thấy sự xuất hiện tương đối sớm của cỏ biển so với quá
trình tiến hóa của thực vật có hoa đã hình thành cách đây 400 triệu năm [37].
Larkum và cộng sự (1989) [38] cho rằng tổ tiên của cỏ biển bắt nguồn từ thực vật
nước ngọt. Giả thiết về thực vật vùng đầm lầy là tổ tiên của cỏ biển dựa trên đặc
điểm thân hóa gỗ ở một số chi như Amphibolis và Thalassodendron so với các thân
thảo của thực vật thủy sinh nước ngọt [39]. Mặc dù thực vật có hoa (gồm cả thực
11
vật trên cạn) có nguồn gốc từ thực vật dưới nước nhưng chưa có bằng chững rõ ràng
về nhóm thực vật thủy sinh nào có liên quan đến tổ tiên của cỏ biển vì những phát
hiện về hóa thạch cỏ biển rất ít. Do đó, nguồn gốc phát sinh của cỏ biển cần dựa
trên phân tích di truyền phân tử, một phương pháp đang được áp dụng trong những
năm gần đây [39]. Khi kiểm tra gen của hạt lục lạp trong tế bào cỏ biển, Les và
cộng sự (1997) đã cho rằng Hydrocharitaceae liên quan tới tổ tiên của thực vật
nước ngọt và Zosteraceae liên quan tới tổ tiên của thực vật vùng đầm lầy [39]. Tài
liệu của Hemminge và Duarte (2000) [17] nhắc đến số lượng loài cỏ biển đã xuất
hiện trên trái đất có thể nhiều hơn so với tài liệu hiện có. Một số quan điểm đưa ra
là sự sinh sản hữu tính và sự phát tán thấp kết hợp với sự thụ phấn dưới nước của cỏ
biển làm hạn chế nguồn phát tán nguồn giống ra xung quanh, giảm đa dạng của tổ
hợp gen của cỏ biển so với thực vật trên cạn [17].
Cho đến nay, nguồn gốc và sự tiến hóa của cỏ biển vẫn chưa rõ ràng, cần
được nghiên cứu bổ sung dựa trên các mẫu hóa thạch hay di truyền phân tử. Mặc dù
có một số loài cỏ biển không còn tồn tại, nhưng vẫn chưa có một kết luận chắc chắn
về hệ thống phân loại và số lượng loài cỏ biển trên toàn cầu [17]. Cỏ biển có số
lượng loài thấp (66 loài), cho thấy những mặt hạn chế về sự sống của thực vật có
hoa trong môi trường biển. Tuy nhiên, sự có mặt của hệ sinh thái cỏ biển trên toàn
cầu chiếm tỷ lệ khá lớn về mặt không gian, có vai trò quan trọng với chức năng điều
chỉnh môi trường.
1.2.1.2. Phân loại
Cho đến nay, việc định loại cỏ biển chủ yếu dựa vào đặc điểm hình thái
ngoài, nhất là các cơ quan sinh sản. Den Hartog (1970) [14], Phillips và Menez
(1988) [15] là những nhà khoa học đầu tiên bắt đầu công việc phân loại cỏ biển, họ
đã đưa ra được những đặc điểm cơ bản để phân loại. Hệ thống phân loại cỏ biển chủ
yếu dựa trên các đặc điểm chung giống như với thực vật có hoa khác như: cụm hoa,
hoa, quả, hạt, hệ gân lá, tế bào tanin, răng cưa ở mép lá và đỉnh lá. Qua nhiều năm
nghiên cứu, số lượng loài cỏ biển cũng tăng dần theo thời gian. Năm 1970, Den
Hartog mới phát hiện được 45 loài. Đến năm 1988, Philip và Menez công bố 47
loài. Tổng hợp lại tên loài cỏ biển từ 2 tài liệu trên thì số loài là 54 loài. Sau đó,
Hemminga và Duarte đã đưa ra danh sách loài cỏ biển năm 2000 là 51 loài [17].
12
Tuy vẫn còn những lý giải về tên loài cỏ biển [40], nhưng theo tài liệu mới nhất của
Den Hartog và Kuo (2006) [13] đã công bố thêm một số loài mới và đưa số lượng
loài cỏ biển lên 66 loài.
Thuật ngữ cỏ biển (seagrass) được đề cập đến để mô tả môi trường sống
giống nhau ở hầu hết các đại diện của nó. Thuật ngữ này được sử dụng từ lâu bởi
ngư dân, thợ săn, nông dân và các cư dân khác ở khu vực ven biển của một số quốc
gia châu Âu. Ascherson (1871) là nhà nghiên cứu đầu tiên giới thiệu thuật ngữ này
(seagrass) trong các tài liệu khoa học [13].
Theo đó, các loài cỏ biển tạo thành một nhóm loài sinh thái, chứ không phải
một nhóm phân loại. Nghĩa là các họ cỏ biển khác nhau không nhất thiết phải liên
quan chặt chẽ với nhau. Các loài được coi là cỏ biển có số lượng rất hạn chế trong
các họ thực vật, tất cả đều được phân loại với siêu loài Alismatiflorae
(Monocotyledonae), thường được biết đến với tên gọi Helobiae. Phân lớp
Alismatanae có những đặc điểm giống với Alismatiflorae. Ba trong bốn họ chỉ có
“cỏ biển” là họ Zosteraceae, họ Cymodoceaceae và Posidoniaceae. Trong quá khứ,
những họ này thường được phân loại là phân họ của họ Potamogetonaceae. Một họ
thứ tư là Hydrocharitaceae, chỉ có 03 chi là cỏ biển, 14 chi còn lại trong họ này
được xác định là sống môi trường nước ngọt [13].
Ngoài 04 họ với với tổng cộng 12 chi đã được đề cập ở trên, thì không có chi
nào khác hoàn toàn sống trong môi trường biển. Trong các họ thực vật thủy sinh khác,
cho đến nay chỉ có 02 loài được tìm thấy trong môi trường biển, đó là Ruppia aff.
tuberosa thuộc họ Ruppiaceae và Lepilaena marina thuộc họ Zannichelliaceae [41].
Xác định hệ thống phân loại cỏ biển là rất cần thiết, nó là tiền đề cho các
hướng nghiên cứu về cỏ biển ở các khía cạnh khác nhau của hệ thực vật biển này.
Do đó không thể chỉ dựa trên việc giải phẫu hình thái mà ngày nay người ta còn dựa
trên di truyền học, phân tích phân tử [17]. Đó là bước tiến mới trong khoa học sinh
học nói chung và trong nghiên cứu cỏ biển nói riêng. Nhiều tác giả cũng đã có
những bất đồng về số loài thuộc ba chi Halophila, Zostera và Posidonia [17]. Quả
thật, khi sử dụng phương pháp đánh dấu phân tử đã nhận thấy sự khác biệt về di
truyền giữa Heterozostera và Zostera giống với giữa các loài thuộc chi Zostera, do
đó Les và cộng sự cho rằng 2 chi này nên xác định trong cùng 1 chi [39]. Nhưng
13
cho đến nay, điều này vẫn còn đang được tiếp tục bàn luận và cần nghiên cứu tiếp.
Cũng có thể do sự phân bố của cỏ biển rộng khắp trên các vùng ven biển trên thế
giới, nên nó chịu tác động rất lớn của điều kiện địa lý và có thể do điều kiện tự
nhiên đã tác động đến hình thái ngoài của cỏ biển. Vì vậy, nghiên cứu đặc điểm di
truyền bộ nhiễm sắc thể của chúng để phân loại là rất cần thiết. Và cần có sự kết
hợp giữa hình thái học và di truyền học để giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong
định loại cỏ biển.
1.2.1.3. Phân bố
Cỏ biển phân bố ở hầu hết các vùng biển trên thế giới (trừ vùng biển Nam
Cực), do vậy, người ta chia vùng phân bố của cỏ biển theo hai vùng phân bố địa lý
là cỏ biển vùng ôn đới và cỏ biển vùng nhiệt đới. Trong đó, có 7 họ mang đặc trưng
của vùng nhiệt đới, 5 họ mang đặc trưng vùng ôn đới [17]. Tuy nhiên, ở một số loài
không có ranh giới địa lý rõ ràng. Vẫn có những ngoại lệ như Cymodocea nodosa là
cỏ biển nhiệt đới, thì lại có mặt dọc bờ biển ôn đới của vùng Địa Trung Hải [42].
Trong khi đó, cỏ ôn đới Zostera cũng được tìm thấy ở các vùng biển nhiệt đới, ví dụ
như: Zostera japonica đã được nghiên cứu sự biến động theo chu kỳ mùa ở vùng
biển phía Bắc Việt Nam [43] và phân bố đến vùng biển Bình Định (Nam Trung Bộ,
Việt Nam) [8]. Riêng loài Posidonia oceanica chỉ sống ở vùng biển phía tây Địa
Trung Hải [42]. Phía nam Thừa Thiên – Huế (Việt Nam) là ranh giới địa lý giữa cỏ
biển Tây Thái Bình Dương và cỏ biển Ấn Độ - Thái Bình Dương. Sự phân chia ranh
giới còn thể hiện ở vùng Đại Tây Dương khi cỏ Zostera noltii và Cymodocea
nodosa mọc ở phía bờ biển đông và Halodule wrightii ở phía bờ tây. Mặc dù cỏ
biển xuất hiện dọc bờ biển Nam Mỹ và Tây Phi, nhưng mức độ phong phú của
chúng ở hai phía bờ biển nam Đại Tây Dương còn thấp [17]. Các phát hiện cho thấy
các thảm cỏ biển ôn đới chủ yếu thường là đơn loài. Mức độ đa dạng loài cao nhất
là ở vùng biển nhiệt đới Ấn Độ - Thái Bình Dương, do đó có giả thiết cho rằng
nguồn gốc của cỏ biển là từ vùng này [17]. Giả thiết này dựa trên sự suy giảm số
lượng loài tỷ lệ nghịch với khoảng cách từ vùng trung tâm đến các vùng cận kề.
1.2.1.4. Cấu trúc
Năm 1950 có sự thay đổi trong hướng nghiên cứu về cỏ biển với một báo cáo
hoàn thiện về sự phân bố và sinh thái của cỏ biển ở bang Florida (Mỹ) [32]. Sau bài
14
báo này, nhiều nhà nghiên cứu bước đầu tập trung nghiên cứu các thành phần trong
hệ sinh thái cỏ biển nhiệt đới. Từ năm 1960 đến năm 1970, nghiên cứu về cỏ biển
đã sâu rộng hơn khi mô tả định tính sinh học – sinh thái và các nghiên cứu định
lượng. Các quan niệm về hệ sinh thái cỏ biển đã được hoàn chỉnh và đẩy đủ hơn.
Một nghiên cứu đồ sộ về cỏ lươn ở Alaska đã được hoàn thiện vào năm 1966 bởi
McRoy [44].
Sự khác biệt về hình thái là tính mềm dẻo cao trong cấu trúc của các thảm cỏ
biển để có thể đối mặt với những thay đổi và áp lực môi trường nơi chúng tồn tại
[17, 45, 46]. Trong các nghiên cứu về cỏ biển, các nhà khoa học đã nhận thấy ý
nghĩa sinh thái của sự biến động cấu trúc thân, rễ, tốc độ sinh trưởng, sự phân nhánh
của thân cỏ và các cơ quan khác. Vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu tập trung điều tra
tỷ lệ khối lượng trên mặt đất (chồi lá và chồi hoa) và khối lượng dưới mặt đất (rễ và
thân) của cỏ biển. Trong đó, Verhagen và Nienhuis (1983) [47], đã mô tả sự thay
đổi có tính mùa vụ của khối lượng trên mặt đất và khối lượng dưới mặt đất của cỏ
Lươn bởi kỹ thuật đánh dấu trên lá. Xác định khối lượng cỏ biển và đánh giá vai trò
của chúng trong hệ sinh thái là rất quan trọng [17]. Trong đó hệ thân - rễ cỏ là cơ
quan giúp cây sinh sản dinh dưỡng, một thành phần quan trọng của hệ sinh thái này.
Tuy nhiên, Nelson (1997) [48] cho rằng khối lượng trên mặt đất và tổng khối lượng
có mối liên quan chặt chẽ với nhau, nhưng khối lượng dưới mặt đất thì không. Kiểm
tra khối lượng dưới mặt đất được coi như sự đánh giá khả năng đâm sâu vào trong
nền đáy của cỏ biển và điều đó cũng có thể được giải thích rằng các chồi mới sinh
ra cần năng lượng từ thân hơn là những chồi đã trưởng thành [49]. Các cơ quan bên
dưới mặt đất giữ vai trò quan trọng trong dinh dưỡng, cố định và phát triển của cỏ
biển. Đến nay các nhà khoa học quan tâm nhiều hơn đến hệ rễ trong thảm cỏ.
Kiswara et al., (2009) [50] nghiên cứu cấu trúc rễ của 6 loài cỏ biển và cho rằng,
những loài cỏ sống lâu năm và sinh trưởng chậm như Thalassia hemprichii và
Enhalus acoroides có chiều dài đốt thân ngắn và có ít rễ, còn những loài có sinh
trưởng nhanh như Cymodocea rotundata, Cymodocea serrulata và Syringodium
isoetifolium có nhiều rễ ở đốt thân. Thêm vào đó, sự sinh trưởng và sự phân nhánh
của thân cỏ có ảnh hưởng đến biến động, phát triển và tồn tại của các quần thể cỏ có
đặc điểm sinh sản dinh dưỡng [48]. Điều đó rất cần thiết trong môi trường biển, nơi
có nhiều tác động đến những biến động của hệ thực vật.
15
Cỏ biển có tuổi thọ trung bình từ vài tuần đến hàng chục năm. Nhưng điều đó
lại phụ thuộc vào kích thước của từng loài cỏ biển. Những loài cỏ có kích thước lớn
với thân dày, lá rộng và rễ lớn có thể sống rất lâu trong nhiều năm, nhưng những
loài có kích thước nhỏ thì thời gian sống ngắn hơn chỉ dưới một tháng. Do chu kỳ
sống của chúng rất ngắn, nên những loài cỏ kích thước nhỏ thường có khả năng tái
sinh chồi rất nhanh, như loài cỏ Xoan Halophila ovalis với kích thước nhỏ nhưng
chu kỳ sống của chúng chỉ khoảng vài ngày, còn Posidonia oceanica với kích thước
lớn có thể sống tới 11 năm [51].
1.2.1.5. Sinh sản
Bên cạnh sự duy trì và phát triển quần thể bằng hình thức sinh sản sinh
dưỡng (từ thân chồi), cỏ biển còn có hình thức sinh sản hữu tính bằng hạt. Số lượng
các cây con từ hạt, hay số lượng hạt từ cây mẹ là cách đánh giá khả năng sinh sản
bằng hạt của cỏ biển. Những hạt ở trạng thái ngủ dài bị chôn vùi trong nền đáy và
có khả năng hình thành nguồn dự trữ, từ đó cho phép chúng nảy chồi trong điều
kiện thích hợp. Theo nghiên cứu của Hootsmans và cộng sự (1987) [52], những
loài thuộc chi Zostera thường nảy mầm ở nhiệt độ cao và nồng độ muối thấp, và sự
nảy mầm sẽ chậm lại khi nhiệt độ thấp, nồng độ muối cao. Một loạt các nghiên cứu
cho thấy giới hạn thấp nhất để hạt nảy mầm là độ mặn 10‰, độ mặn trung bình là
17‰ [17]. Khi ươm hạt cỏ Lươn trong các hộp thí nghiệm và gieo đồng thời lên các
thảm cỏ tự nhiên thì sau 6 tháng hạt nảy mầm với tỷ lệ là 2% [52]. Thời gian này
còn gọi là hiện tượng ngủ đông của hạt.
Do điều kiện tự nhiên khác nhau nên thời gian nảy mầm của hạt cũng khác
nhau. Vùng biển Thái Bình Dương có số lượng hạt nảy mầm cao nhất từ tháng 4
đến tháng 7, trong khi ở Đại Tây Dương có hai giai đoạn: cuối thu – đầu đông và
mùa xuân với tỷ lệ lên đến 66% [17], nhưng do là cây non dễ bị tổn thương nên tỷ
lệ sống sót rất thấp khoảng 2%. Cụ thể là, khoảng 100 cây ra hoa và chỉ 10% trong
số đó là hình thành quả, nhưng duy trì để có hạt chỉ khoảng 1-10% và chỉ 1-10% số
hạt đó nảy mầm. Và, 1-10% số hạt nảy mầm đó sẽ hình thành cây non và chỉ 10%
trong số đó có thể phát triển để ra hoa [17] (hình 1.3).
16
Hình 1.3. Sự sinh sản bằng hạt theo dạng thắt cổ chai
(Hemminga và Duarte, 2000 [17])
1.2.1.6. Nguồn lợi trong thảm cỏ biển
Các thảm cỏ biển không chỉ duy trì quẩn thể phát triển liên tục một cách đơn
độc, mà nó còn thể hiện mối liên hệ với các sinh vật khác như động vật sống trong
các thảm cỏ biển [53-56]. Hệ sinh thái cỏ biển là nguồn dự trữ quan trọng cho đa
dạng sinh học biển. Cỏ biển có năng suất sơ cấp cao là nguồn cung cấp vật chất hữu
cơ và là nguồn năng lượng cơ bản trong chuỗi thức ăn. Với chức năng “vườn ươm”
cho các loài hải sản [57] và sự suy giảm nhanh chóng của các thảm cỏ biển trên toàn
thế giới trong vài thập kỷ qua [58] làm cho những nghiên cứu về cỏ biển tăng lên [59]
cùng với các nghiên cứu về động vật sống trong đó. Vào những năm 1989-1997, số
lượng các bài báo về nguồn lợi hải sản trong thảm cỏ biển chiếm hơn 30% tổng số
các công trình đăng trên các tạp chí quốc tế [60]. Tổng số loài sinh vật sống trong các
thảm cỏ trên toàn thế giới gồm 450 loài tảo, 171 loài giun nhiều tơ, 197 loài nhuyễn
thể, 15 loài da gai và 215 loài cá [61]. Những sinh vật này là nguồn thức ăn quan
trọng cho các loài cá và chim trong vùng. Trong số những động vật sống nhờ vào
thảm cỏ biển, phải kể đến Dugong dugon, là loài thú quý hiếm và cỏ biển chính là
nguồn thức ăn chính của chúng. Tuy nhiên, các quần thể dugon có xu hướng suy
giảm và đang bị có nguy cơ tuyệt chủng do sự biến mất dần của các thảm cỏ biển.
1.2.2. Nghiên cứu về khả năng hấp thụ và lưu trữ cacbon của cỏ biển
17
Nhận thấy vai trò của khí nhà kính trong hiện tượng ấm lên toàn cầu, các
quốc gia và các tổ chức khác nhau trên toàn thế giới đã và đang nỗ lực để nghiên
cứu, đề xuất và áp dụng các phương pháp khác nhau để giảm thiểu lượng khí nhà
kính. Một trong những giải pháp nhằm giảm thiểu khí nhà kính CO2 là dùng các
biện pháp kỹ thuật để lưu trữ chúng trong lòng đất [62], hoặc là giải pháp mở rộng
và bảo vệ các hệ sinh thái trên trái đất [63]. Tuy nhiên, các giải pháp mang tính kỹ
thuật được cho là không hiệu quả so với các phương pháp bảo vệ và mở rộng các hệ
sinh thái trên trái đất [64]. Trong đó, giải pháp giảm thiểu khí nhà kính dựa vào các
hệ sinh thái tự nhiên được cho là an toàn và hiệu quả hơn. Các giá trị thực của các
hệ sinh thái mang lại cho cộng đồng dân cư bao gồm nhiều chức năng sinh thái
quan trọng như lưu trữ nước ngầm, điều hòa khí hậu, giảm thiểu tai biến thiên
nhiên, và cung cấp một nguồn sinh kế quan trọng.
Các hệ sinh thái ở biển như cỏ biển, các loài tảo biển, và các hệ sinh thái ven
biển như rừng ngập mặn, các trảng cỏ tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong giảm
thiểu khí nhà kính, bởi vì chúng có khả năng lưu trữ lượng cacbon hữu cơ (Corg) tới
60–210 t/km2/năm [65].
Tuy nhiên, hệ sinh thái thảm cỏ biển, rừng ngập mặn và các trảng cỏ đều
chịu chung tốc độ suy giảm về diện tích và khả năng lưu trữ cacbon hữu cơ (Corg)
trong vòng một thế kỷ qua. So sánh giữa các hệ sinh thái thì tốc độ suy giảm lượng
Corg lưu trữ xảy ra nhanh nhất đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn. Kể từ năm 1970
thì diện tích rừng ngập mặn đã mất là 90.000 km2 và dẫn đến suy giảm khả năng lưu
trữ từ 26.5×106 - 17.3×106 t.Corg/năm. Hệ sinh thái thảm cỏ biển cũng suy giảm
mạnh trong những năm 1970 đến 1980 và trong khoảng thời gian này giảm khoảng
44.000 km2. Cùng với sự suy giảm về diện tích, lượng cacbon hữu cơ lưu trữ giảm
khoảng ~4×106 t.Corg/năm, tuy nhiên hiện nay tốc độ suy giảm lượng cacbon hữu cơ
lưu trữ trong thảm cỏ biển được cho là cao hơn, trung bình khoảng
~16.7×106 t.Corg/năm. Hệ sinh thái thảm cỏ ven biển giảm trong mỗi thập kỷ khoảng
20,000 km2, dẫn đến lượng lưu trữ cacbon hữu cơ giảm khoảng 6.6×106 -
3.1×106 t.Corg/năm [66].
Theo nghiên cứu của James Fourqurean và cộng sự (2012) [2], cỏ biển là một
phần thiết yếu của giải pháp cho tình trạng biến đổi khí hậu và có thể lưu trữ được
18
lượng cacbon hữu cơ hơn 2 - 3 lần so với rừng thường xanh. Tuy cỏ biển chỉ chiếm
phần nhỏ diện tích vùng ven biển toàn cầu, nhưng đánh giá này lại chỉ rõ cỏ biển là
một hệ sinh thái năng động cho sự chuyển đổi cacbon. Cỏ biển có khả năng tiếp tục
lưu trữ cacbon hữu cơ trong rễ của chúng. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện thấy
những trường hợp các thảm cỏ biển đã lưu trữ cacbon hữu cơ hàng nghìn năm.
Nghiên cứu là phân tích toàn cầu đầu tiên về lượng cacbon hữu cơ được lưu
trữ trong cỏ biển và chứng minh rằng các thảm cỏ biển ven biển lưu trữ tới 83.000
t.Corg/km2, chủ yếu là trong đất bên dưới các thảm cỏ biển. Trong khi đó, một khu
rừng trên cạn thông thường lưu trữ khoảng 30.000 t.Corg/km2, chủ yếu dưới dạng gỗ.
Cũng theo đánh giá của nghiên cứu này, mặc dù các thảm cỏ biển chiếm gần 0,2%
diện tích của các đại dương trên thế giới nhưng chúng chịu trách nhiệm hơn 10% tổng
số cacbon hữu cơ được chôn lấp hàng năm dưới biển. Các thảm cỏ biển lưu trữ 90%
cacbon hữu cơ trong đất và tiếp tục “công việc” này trong nhiều thế kỷ. Ở Địa Trung
Hải - vùng địa lý có lượng cacbon hữu cơ trong trầm tích cao nhất được phát hiện
thấy từ nghiên cứu này, các thảm cỏ biển cũng lưu trữ cacbon hữu cơ trong các trầm
tích sâu hàng mét.
Cỏ biển nằm trong số các hệ sinh thái bị đe dọa ở mức cao nhất trên thế giới,
khoảng 29% tổng số các thảm cỏ biển quan trọng đã bị phá hủy chủ yếu là do nạo
vét và suy thoái chất lượng nước. Mỗi năm có 1,5 – 7% diện tích các thảm cỏ biển
bị mất đi. Nghiên cứu của James Fourqurean và cộng sự (2012)[2] ước tính, phá
hủy các thảm cỏ biển có thể khiến tới 25% lượng cacbon phát thải ra môi trường,
lượng phát thải tương đương như phá rừng trên cạn.
Gần đây, những quan tâm về thương mại và thị trường “blue cacbon” cũng đã
giúp việc nghiên cứu, xác định trữ lượng cacbon hữu cơ trong hệ sinh thái cỏ biển.
Đầu những năm 1980, tầm quan trọng của các hệ thực vật ven bờ đã được làm nổi bật
lên như là các bể chứa cacbon, tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu đều chỉ thực hiện
trên các hệ sinh thái trên cạn [67]. Đến năm 2009, trong báo cáo về “blue carbon”
[67, 68] đã nhấn mạnh tiềm năng cố định cacbon hữu cơ của những hệ sinh thái biển
ven bờ, trong đó có cỏ biển. Người ta ước tính rằng các hệ sinh thái biển ven bờ có
khả năng hấp thụ 50% lượng CO2 phát thải trong lĩnh vực vận tải trên thế giới.
19
Những hệ sinh thái này bao gồm rừng ngập mặn, rạn san hô, đầm lầy nước mặn và cỏ
biển, trong đó HST cỏ biển có trữ lượng cacbon hữu cơ lớn hơn hẳn [68].
Cần thiết phải có hướng tiếp cận để khái quát hóa khả năng lưu trữ cacbon
hữu cơ của cỏ biển từ cơ sở dữ liệu còn hạn chế, với hầu hết các tính toán dựa trên
hàm lượng cacbon hữu cơ của trầm tích từ các thảm cỏ biển Posidonia oceanica ở
biển Địa Trung Hải [67, 69]. Tuy nhiên, loài P. oceanica không ổn định trong khả
năng lưu trữ cacbon. Sự tăng trưởng theo chiều thẳng đứng và các mô tạo ra các
mảnh vụn thực vật lớn, bị vùi sâu vài mét dưới lớp trầm tích và tồn tại hàng thiên
niên kỉ, kết quả là hình thành các bể chứa cacbon hữu cơ khổng lồ, lên tới 40 - 410
kg.Corg/m2 [70]. Cũng theo nghiên cứu trên, các loài cỏ biển khác không có khả
năng tương tự và trên thực tế, Walker và cộng sự đã coi khả năng đó ở loài P.
oceanica là một ngoại lệ [71]. Nhưng theo Nelleman và cộng sự, đã công nhận rằng
giả định của họ có khả năng tính được lượng “blue carbon” lưu trữ lớn hơn, một
phần vì sự không chắc chắn về tỉ lệ cacbon hữu cơ chôn vùi của các quần xã cỏ biển
khác nhau [67].
Các đặc điểm liên quan đến khả năng hấp thụ CO2 và lưu trữ cacbon hữu cơ
của khoảng 66 loài cỏ biển trên toàn thế giới có khoảng biến động lớn [13]. Bao gồm
sự khác nhau trong năng suất sơ cấp, sinh khối dưới mặt đất của chúng, sự khó kiểm
soát cacbon hữu cơ trong các bộ phận, khả năng bẫy cacbon của tán lá và các điều
kiện của trầm tích đều ảnh hưởng tới khả năng lưu trữ cacbon hữu cơ [72]. Đối với
hầu hết các loài cỏ biển trên thế giới, hiểu biết về trữ lượng cacbon hữu cơ hoặc độ
phủ còn hạn chế [73], mặc dù đối với nhiều loài cỏ biển, một lượng cacbon hữu cơ
tương đối đã được ước tính trong khoảng từ 1,8 đến 177,8g Corg/m2/năm (trung bình
56,2g Corg/m2/năm), tương đương với 5% đến 65% tổng năng suất (trung bình 18%)
[72]. Bên cạnh đó, khi xem xét 219 bộ dữ liệu trầm tích cỏ biển, bao gồm 20 loài cho
thấy sự thay đổi đáng kể hàm lượng chất hữu cơ với cacbon hữu cơ dao động từ
0,1% đến 11,0% [74].
Gần đây, nỗ lực đầu tiên để thống kê dữ liệu cacbon hữu cơ toàn cầu đã tiến
hành kiểm tra 946 thảm cỏ biển riêng biệt trên thế giới và ước tính được lượng
cacbon hữu cơ trung bình trong tầng trên cùng của lớp trầm tích cỏ biển là 2,5%
(trung bình 1,8%) [75]. Sử dụng các thông tin mới nhất về tổng diện tích có cỏ biển
20
bao phủ (300.000 – 600.000 km2) đã đưa ra ước tính về trữ lượng toàn cầu từ 4,2 -
8,4 tỷ tấn cacbon hữu cơ ở tầng trên của lớp trầm tích dưới bãi cỏ biển. Những
nghiên cứu sơ bộ ở vùng biển Địa Trung Hải đã cung cấp số liệu về trữ lượng lớn
nhất của vùng (372,4 ± 74,5 t.Corg/ha, n=29) nhưng không có chi tiết nào cụ thể về
môi trường sống hoặc trữ lượng của từng loài có thể được đưa ra bởi sự hạn chế về
hệ thống dữ liệu.
Thêm vào đó, sự thay đổi giữa các loài cỏ biển và môi trường sống của
chúng cũng có khả năng ảnh hưởng đến khả năng lưu trữ cacbon hữu cơ. Cỏ biển có
thể phát triển được trên nhiều loại môi trường khác nhau, từ cửa sông đến những
vùng biển ven bờ [76]. Và theo độ sâu của nước, độ sâu của nước ảnh hưởng đến sự
cân bằng lượng cacbon sẵn có [77] và lượng cacbon hữu cơ được lưu trữ do sự khác
biệt về kích thước hạt trầm tích [78]. Chúng cũng có thể phân bố theo vĩ độ và
những môi trường sống có sự thay đổi nhiệt độ đáng kể - điều này làm ảnh hưởng
đến tỷ lệ hô hấp và tái khoáng hóa trầm tích [78]. Kết quả là giữa cỏ biển và môi
trường sống có khả năng tương tác với nhau và tác động mạnh mẽ đến khả năng hấp
thụ và lưu trữ cacbon hữu cơ trong trầm tích.
Những thông tin trên là kết quả khảo sát ban đầu trên một số loài cỏ biển ở
Australia, nhằm đánh giá sự thay đổi trữ lượng cacbon hữu cơ trong trầm tích ở mỗi
loài khác nhau. Mặc dù không khảo sát toàn diện tính đa dạng về thành phần loài,
tuy nhiên, nghiên cứu bao gồm 3 loài cỏ biển phổ biển ở Australia với ước tính tỉ lệ
lưu trữ cacbon hữu cơ, mang đến những hiểu biết ban đầu cho chúng ta về sự thay
đổi trữ lượng cacbon hữu cơ trong trầm tích ở các thảm cỏ biển.
1.3. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.3.1. Nghiên cứu về đa dạng loài và nguồn lợi trong các thảm cỏ biển
Có thể nhận thấy, việc nghiên cứu cỏ biển ở nước ta trước năm 1960 hoàn
toàn do người nước ngoài thực hiện. Năm 1885, Halophila ovalis đã được một
người nước ngoài tên là Balansa phát hiện thấy ở gần Quảng Yên. Năm 1939,
Tsang đã thu được một loài có phiến lá dài và mỏng ở Hà Cối - Quảng Ninh, đó là
phát hiện đầu tiên về loài Zostera japonica ở Việt Nam; hai loài cỏ Thalassia
hemprichii, Halodule pinifolia được tìm thấy ở Cửa Bé - Khánh Hoà vào năm 1949
21
bởi chuyên gia cỏ biển tên là Deroux. Ở Bình Tân (Hòn Tre - Khánh Hoà), loài
Halodule univervis cũng được Feldmann tìm thấy vào năm 1957 [11].
Từ năm 1960 đến 1995, những nhà khoa học trong nước cũng bắt đầu có
những phát hiện đầu tiên về cỏ biển. Tuy nhiên, đó chỉ là những ghi chép trong những
chuyến khảo sát biển về các đối tượng khác mà chưa hề có những nghiên cứu cụ thể
về cỏ biển. Phạm Hoàng Hộ đã ghi lại những phát hiện về cỏ biển ở Qui Nhơn (1960)
và ở Phú Quốc (1985). Vào những năm 80 và 90, hầu hết phát hiện về thành phần
loài cỏ biển là từ những cuộc khảo sát của các đề tài khác của các nhà khoa học ở hai
đơn vị nghiên cứu biển là: Phân Viện Hải dương học tại Hải Phòng (nay là Viện Tài
nguyên và Môi trường Biển) và Viện Hải dương học Nha Trang [11].
Ở nước ta từ trước năm 1995, nhóm cỏ biển được nghiên cứu rất ít so với các
nhóm động, thực vật biển khác. Trong khoảng thời gian này không có đề tài nào
chuyên nghiên cứu riêng về cỏ biển. Từ năm 1996 trở lại đây việc nghiên cứu cỏ
biển mới chính thức được đẩy mạnh. Với 07 đề tài trong nước và 01 dự án quốc tế
nghiên cứu về thành phần loài, phân bố, biến động thảm cỏ biển và một số nguồn
lợi chủ yếu trong vùng biển và ven bờ Việt Nam. Đến 2006 hiểu biết về hệ sinh thái
các thảm cỏ biển Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể. Dựa vào các mẫu
vật cỏ biển hiện có tại Viện Tài nguyên và Môi trường biển, đã xác định được 14
loài cỏ biển, thuộc 4 họ, 9 chi, trong đó có 8 loài phân bố ở cả hai miền nam bắc
Việt Nam và số lượng thành phần loài cỏ biển có xu hướng tăng dần từ Bắc vào
Nam [11].
Cỏ biển thường phân bố ở vùng triều ven biển, ven đảo, vùng cửa sông, rừng
ngập mặn, đầm nước lợ và trong các vũng, vịnh với tổng diện tích đến 2006 khoảng
17.675 ha [10]. Phân bố của cỏ biển thường liên quan đến chất đáy và môi trường
nước. Cỏ Lươn Zostera thường thấy ở trên các bãi bồi kín, trong vùng cửa sông hay
đầm phá với chất đáy là bùn bột nhỏ hoặc bùn. Các loài cỏ Halophila ovalis,
Halophila beccarii, Ruppia maritima xuất hiện trên các bãi bồi - cửa sông, đầm
nước lợ với chất đáy là bùn sét hoặc cát mịn. Hầu hết các loài phân bố từ vùng triều
giữa đến độ sâu 3 – 5 m, thậm chí loài Halophila decipiens tìm thấy ở sâu 28 m
quanh đảo Bạch Long Vĩ . Ở vùng biển miền Nam cỏ biển phân bố từ mực triều
thấp đến độ sâu 3 – 7 m. Loài Halophila pinifolia, Halodule uninervis, Halophila
22
ovalis, Halophila decipiens, Thalassia hemprichii, Cymodocea serrulata,
Syingodium isoetifolium phân bố đến độ sâu 10 - 15 m. Nghiên cứu quan hệ của độ
muối với cỏ biển cho thấy, nhóm thích nghi rộng muối 5 - 32‰ gồm loài Zostera
japonica, Halodule pinifolia, Halophila ovalis. Nhóm loài nước lợ, dưới 25‰ như
Halophila beccarii, Ruppia maritima. Nhóm loài thích nghi độ muối cao trên 25‰
gồm có Enhalus acoroides, Thalassia hemprichii, Cymodocea serrulata,
Cymodocea rotundata, Thalassodendron ciliatum, Halophila decipiens, Halophila
minor, Halodule uninervis. Nghiên cứu này đã xác định được các sinh cảnh đặc
trưng và đặc điểm phân bố một số thảm cỏ biển. Cho thấy, chúng được hình thành
do sự thích nghi phù hợp giữa đặc trưng môi trường đất, nước và đặc điểm sinh thái
phân bố của mỗi loài.
Bên cạnh đó, nhận thức được vai trò của thảm cỏ biển như một nơi cư trú lý
tưởng cho các loại thuỷ sinh vật, nên bắt đầu từ những năm 1997, đa dạng sinh học
của hệ sinh thái cỏ biển cũng được quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên chưa thực sự
đầy đủ và toàn diện. Trong khuôn khổ dự án UNEP (2004) [79], vai trò và chức
năng sinh thái của thảm cỏ biển đã được đề cập trong các nghiên cứu. Qua lượng
giá giá trị kinh tế các thảm cỏ biển, cho thấy, chúng có giá trị lên tới hàng tỉ đồng/ha
thảm cỏ. Ngoài ra, thảm cỏ biển còn là nơi sống, là nguồn thức ăn chính của hai loài
động vật được liệt kê trong danh sách của IUCN và CITES, đó là dugong và rùa
biển. Theo thống kê của Cox từ WWF [78], cách đây khoảng 30 năm đã phát hiện
ra một đàn dugong khoảng hơn 20 con ở Côn Đảo. Nhưng vào năm 2002, thì chỉ
còn lại khoảng 10 cá thể dugong và 300 cá thể rùa biển. Dự báo quần thể dugong ở
Côn Đảo đang bị đe dọa và dẫn đến tiệt vong trong thời gian không xa. Thảm cỏ
biển ở Phú Quốc cùng với Campuchia là nơi sống cho khoảng 100 - 300 cá thể
dugong, theo dự đoán của Cox. Cũng có những thông tin về sự tồn tại của dugong ở
vùng biển Khánh Hòa và Bình Thuận, nhưng chưa có những số liệu cụ thể. Ngoài ra
các nghiên cứu về khả năng trồng phục hồi cỏ biển tại một số thủy vực miền Bắc,
miền Trung và miền Nam cũng đã được tiến hành và cho các kết quả ban đầu.
Trước năm 1995, có rất nhiều dự án lớn nghiên cứu về các hệ sinh thái ven
biển Việt Nam, nhưng chủ yếu tập trung vào hệ sinh thái san hô. Còn những phát
hiện về cỏ biển chỉ là ghi chép trong những chuyến khảo sát biển về các đối tượng
khác. Cho đến năm 1997-1999, một đề tài đầu tiên điều tra cỏ biển ven bờ Việt
23
Nam mới được thực hiện, trong đó Viện Tài nguyên và Môi trường biển chủ trì thực
hiện ở phía Bắc Việt Nam và Viện Hải dương học chủ trì thực hiện ở phía Nam Việt
Nam [18, 19, 80]. Bên cạnh đó, còn có những phát hiện về thành phần loài cỏ biển ở
vùng biển đảo xa của Việt Nam như; Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quý [18, 80 - 82].
Năm 2006, trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu giải pháp bảo vệ, phục hồi các hệ
sinh thái rạn san hô, cỏ biển và khắc phục ô nhiễm môi trường biển tự sinh”, mã số
KS.09-07 đã thực hiện thí nghiệm trồng phục hồi cỏ biển ngoài thực địa và trong
phòng thí nghiệm, bước đầu cho thấy một số tín hiệu khả quan. Một đề tài gần đây
về đánh giá nguồn lợi cỏ biển vùng biển Trung Bộ, Tây Nam Bộ và đề xuất các giải
pháp sử dụng bền vững nguồn lợi được thực hiện từ năm 2004 đến 2006 do Viện
Tài nguyên và Môi trường chủ trì. Cùng thời gian thời gian đó, một dự án lớn với sự
tài trợ của GEF đã được thực hiện tại 7 nước trong khu vực gồm 6 hợp phần. Trong
đó, cỏ biển là một trong những hợp phần quan trọng và Viện Tài nguyên và Môi
trường Biển là cơ quan đầu mối. Dự án thực hiện trong 7 năm và một cơ sở dữ liệu
cỏ biển đã hình thành, qua đó Phú Quốc đã được lựa chọn là điểm trình diễn cỏ
biển, san hô của dự án. Trong khuôn khổ thực hiện dự án, đa dạng sinh học cỏ biển
Phú Quốc được điều tra và đánh giá đầy đủ. Như vậy, cho đến nay, các nghiên cứu
về biến động hệ sinh thái thảm cỏ biển mới chỉ được tiến hành nhỏ lẻ, lựa chọn tại
một số địa phương như Thừa Thiên Huế, Quảng Nam trong đề tài “Đánh giá mức
độ suy thoái các hệ sinh thái vùng ven bờ biển Việt Nam và đề xuất các giải pháp
quản lý bền vững”, mã số KC. 09.26/06.10 do Viện Tài nguyên và Môi trường biển
thực hiện (các vùng khác có cỏ biển phân bố cũng hầu như chưa được nghiên cứu
tới). Tại các khu vực khác, nhất là miền Bắc nước ta, HST cỏ biển mới chỉ được
nghiên cứu như một thành phần trong các đề tài, dự án và cũng chủ yếu về thành
phần loài cỏ biển chứ chưa nghiên cứu đầy đủ về đa dạng sinh học và vai trò của
chúng. Việc nghiên cứu cũng mới ở một vài điểm, chủ yếu vào mùa hè nên kết quả
nghiên cứu về HST này cũng chưa được đầy đủ. Đặc biệt, phần lớn diện tích cỏ
biển phân bố trong các đầm nuôi hải sản ven bờ (vịnh Tiên Yên, đầm Nhà Mạc, ven
bờ Thái Bình...) hầu như chưa được nghiên cứu.
Thành phần loài động vật trong thảm cỏ biển cũng được các nhà khoa học
Việt Nam quan tâm đến. Đầu tiên phải kể đến công bố của Đỗ Công Thung (1998;
1999) [83, 84] khi đánh giá thành phần động vật đáy trong thảm cỏ biển Gia Luận
24
(Hải Phòng) và đầm Lập An (Thừa Thiên – Huế). Tiếp theo là các bài báo đánh giá
nguồn giống tôm cá trong thảm cỏ biển Lập An và Tam Giang – Cầu Hai của
Nguyễn Thị Thu (2001) [85], Nguyễn Thị Thu và Nguyễn Hữu Phụng (2002) [86].
Một công bố gần hơn nữa của Nguyễn Văn Quân (2006) [87] là một phần kết quả
nghiên cứu thành phần loài cá biển thuộc dự án UNEP/GEF/SCS tại điểm trình diễn
cỏ biển Phú Quốc.
Cùng với việc đánh giá giá trị của các thảm cỏ biển trong khu vực, Việt Nam
cũng đã cố gắng lượng giá hệ sinh thái cỏ biển ở một số nơi, tiêu biểu như: Tam
Giang – Cầu Hai và Phú Quốc [88], mặc dù số liệu đầu vào còn hạn chế nhưng báo
cáo cũng đã cho thấy giá trị quan trọng của các thảm cỏ biển ảnh hưởng đến cuộc
sống của người dân ven biển cũng như phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, cũng đã có
một số nghiên cứu về sự suy thoái và khả năng phục hồi của các thảm cỏ biển do
các nhà khoa học ở hai cơ quan là Viện Hải dương học Nha Trang và Viện Tài
nguyên và Môi trường Biển thực hiện [11, 89]. Các nhà khoa học đã lên tiếng cảnh
báo về tình trạng suy giảm của cỏ biển Việt Nam hiện nay và với sự cố gắng bảo vệ
hệ sinh thái cỏ biển, các nhà khoa học cũng đã thử nghiệm trồng phục hồi cỏ biển
[89]. Đây mới là những thử nghiệm bước đầu nên tỷ lệ thành công là rất thấp do
những yếu tố về môi trường và con người. Nhưng đó là chính là khởi điểm và
những bài học để có những phương pháp trồng cỏ biển thích hợp và hiệu quả hơn
trong điều kiện Việt Nam [89-91]. Các nhà quản lý và các nhà nghiên cứu đang cố
gắng tìm hiểu vai trò của đại dương trong việc hạn chế sự thay đổi của khí hậu. Tuy
nhiên, diện tích các thảm cỏ suy giảm hay biến mất đang diễn ra hằng ngày không
chỉ đối với thế giới mà còn cả Việt Nam. Theo tổng kết mới nhất thông qua dự án
UNEP, tổng diện tích cỏ biển toàn Việt Nam đã mất từ 30 - 60% [79, 82, 92]. Vì
vậy, vấn đề ưu tiên cần có những phương án bảo vệ các thảm cỏ biển, trong đó cần
có phương án giám sát các thảm cỏ biển thường xuyên trong kế hoạch quản lý.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, hàng loạt những ấn phẩm khoa học, đề
tài và dự án lớn tập trung vào hệ sinh thái cỏ biển đã và đang được tiến hành. Tiêu
biểu là:
- Năm 1999 - 2000, đề tài “Điều tra khảo sát các bãi giống, bãi đẻ của các
loài thủy sản kinh tế hệ đầm phá Thừa Thiên – Huế và đề xuất các giải pháp bảo
25
vệ”, trong đó cỏ biển được coi là một trong những đối tượng chủ yếu trong nghiên
cứu này.
- “Cỏ biển Việt Nam, thành phần loài, phân bố, sinh thái – sinh học” năm
2002 của Nguyễn Văn Tiến, Đặng Ngọc Thanh, Nguyễn Hữu Đại [11]. Là công
trình đầu tiên có tính hệ thống nhất về cỏ biển Việt Nam, theo đó có 15 loài cỏ biển
được thống kê. Phân bố trên 6.300 ha ở các vùng biển ven bờ từ Quảng Ninh tới Bà
Rịa – Vũng Tàu.
- Năm 2004 – 2006, đề tài “Đánh giá nguồn lợi cỏ biển vùng ven bờ Trung
Bộ, Tây Nam Bộ và đề xuất các giải pháp sử dụng bền vững nguồn lợi”. Qua đề tài
này, lần đầu tiên đã tổ chức điều tra nguồn lợi cỏ biển ở hầu hết các vùng ven bờ
biển các tỉnh phía Nam. Kết quả thu được là các tư liệu đầy đủ về đặc trưng số
lượng, trữ lượng, địa thực vật của cỏ biển, .v.v.
- “Tiến tới quản lý hệ sinh thái cỏ biển Việt Nam” năm 2004 của Nguyễn
Văn Tiến (chủ biên) [88]. Là kết quả của thực hiện thỏa thuận giữa chương trình
môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP) và Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng,
được Bộ trưởng Bộ khoa học, Công nghệ và Môi trường giao nhiệm vụ là đầu mối
quốc gia thực hiện hợp phần cỏ biển thuộc Dự án UNEP/GEF “Ngăn chặn xu
hướng suy thoái môi trường Biển Đông và vịnh Thái Lan”, Tiểu ban Cỏ biển đã tiến
hành tổng kết đánh giá các tài liệu và thông tin hiện có về cỏ biển Việt Nam. Qua
đó thành phần cỏ biển được tổng hợp lại là 14 loài thuộc 4 họ và 9 chi (hai loài cỏ
Lươn biển Zostera marina và cỏ Lươn nhật Zostera japonica được coi là một loài,
sau này được gọi là cỏ Lươn nhật Zostera japonica) và diện tích phân bố là 9.650
ha, từ Quảng Ninh mở rộng tới Kiên Giang [10].
- “Phương pháp nghiên cứu Cỏ biển” năm 2008 của Nguyễn Văn Tiến, Từ
Thị Lan Hương [35]. Cuốn sách là tài liệu tiếng Việt đầu tiên giới thiệu đầy đủ, cập
nhật các phương pháp hiện đại về điều tra, khảo sát và các bước tiến hành giám sát
nhằm mục tiêu quản lý và sử dụng bền vững nguồn lợi cỏ biển.
- Đề tài “Đánh giá mức độ suy thoái các hệ sinh thái ven bờ biển Việt Nam
và đề xuất các giải pháp quản lý bền vững; KC 09.26/06-10” đã lấy hệ sinh thái cỏ
biển là một trong những hệ sinh thái chính (Hệ sinh thái rạn san hô, Hệ sinh thái cỏ
26
biển, Hệ sinh thái rừng ngập mặn, trong đó tập trung nghiên cứu thảm cỏ biển ở phá
Tam Giang – Cầu Hai (Thừa Thiên Huế) và Cửa Đại (Quảng Nam).
- Đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học, pháp lý cho việc đánh giá và đòi bồi
thường thiệt hại do ô nhiễm dầu gây ra tại vùng biển Việt Nam; ĐTĐL.2009G/10”
và cỏ biển cũng là một trong những đối tượng chính trong nghiên cứu này.
- Trong Tiểu dự án 01 của Dự án 47, có nội dung nghiên cứu về cỏ biển đó là
“Xây dựng tổng quan hiện trạng đa dạng sinh học và tình trạng sử dụng hệ sinh
thái cỏ biển ở vùng ven biển Việt Nam phục vụ phát triển bền vững”.
Mới đây là công bố của Nguyễn Xuân Vỵ và cộng sự (2013) đã xác định loài
Halophila major (Zoll.) Miquel, bổ sung cho thành phần loài cỏ biển Việt Nam từ
14 loài lên 15 loài. Cao Van Luong et al. (2013) đã nghiên cứu, sử dụng công cụ
GIS để tổng hợp và thống kê tổng diện tích cỏ biển phân bố ở ven bờ biển Việt Nam
vào khoảng 18.630 ha [7, 9].
Có thể thấy, trong khi thế giới đã nghiên cứu cỏ biển được hơn 50 năm thì
Việt Nam mới bắt đầu được khoảng 15 năm. Tuy chậm so với thế giới và các nước
trong khu vực, nhưng các nhà khoa học trong nước cũng đã tiếp cận và nghiên cứu
cỏ biển ở các khía cạnh khác nhau và đã đưa ra một bức tranh hoàn chỉnh về thành
phần loài và phân bố của cỏ biển Việt Nam. Những công bố về đối tượng này rất có
ý nghĩa cho các nhà quản lý trong việc bảo vệ hệ sinh thái cỏ biển nói riêng và quản
lý hệ sinh thái biển nói chung.
1.3.2. Nghiên cứu về cacbon trong thực vật nói chung và cỏ biển nói riêng
Diện tích phân bố của cỏ biển trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói
riêng, đang suy giảm rất nhanh bởi hàng loạt các tác động do con người gây ra.
Trong khi đó, giá trị và ý nghĩa của cỏ biển đối với môi trường sinh thái và con
người là rất lớn. Một trong những chức năng cơ bản của thực vật là hấp thụ CO2
trong môi trường xung quanh nó và lưu trữ cacbon hữu cơ dưới dạng sinh khối
trong rễ, thân, lá, v.v.
Các nghiên cứu về lưu trữ cacbon trong thực vật biển (rừng ngập mặn, rong
biển và cỏ biển) gần đây cũng chỉ áp dụng các hệ số chuyển đổi của các nghiên cứu
khác để tính toán. Trong Vũ Mạnh Hùng và cộng sự (2015) [93], khi nghiên cứu về
27
khả năng hấp thụ cacbon của rừng ngập mặn ven biển Hải Phòng đã sử dụng hệ số
0,42 [94] để chuyển đổi thành lượng cacbon trên cây từ tổng số sinh khối của cây
đước. Hay trong “Training on Forest Cacbon Assessment” cacbon hữu cơ được ước
tính là một lượng hệ số của sinh khối (số mặc định IPCC) [95], cụ thể, để ước tính
lượng cacbon hữu cơ trong sinh khối thực vật sống và chết đứng họ sử dụng hệ số
0,47; đối với thảm mục họ sử dụng hệ số 0,4. Khi nghiên cứu về năng suất sơ cấp,
Cao Thị Thu Trang và cộng sự (2015) tính toán lượng cacbon hữu cơ thông qua
hàm lượng oxy hòa tan (DO) với thí nghiệm bình sáng tối ở rong biển và cỏ biển tại
đầm Thị Nại và đầm phá Tam Giang – Cầu Hai [96, 97].
Có thể thấy, những nghiên cứu về lưu trữ cacbon tại Việt Nam chủ yếu được
thực hiện đối với rừng thường xanh, rừng trồng và các hệ thống nông lâm kết hợp
thông qua rất nhiều nghiên cứu như của Vũ Tấn Phương (2008) [98], Võ Đại Hải
(2009) [99], Đặng Thịnh Triều (2008) [100] và Bảo Huy (2009, 2013) [101, 102].
Nghiên cứu đánh giá nhanh khả năng lưu trữ cacbon hữu cơ của một số
phương thức nông lâm kết hợp tại vùng đệm quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc của
Trần Đình Đà (2009) [103] cũng thông qua việc áp dụng phương pháp đánh giá
nhanh khả năng lưu trữ cacbon của ICRAF gọi tắt là RaCSA.
Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (PES – Payments for Ecosystem Services) là một
công cụ kinh tế điều tiết mối quan hệ người cung cấp dịch vụ và người hưởng lợi từ
các dịch vụ của hệ sinh thái mang lại. Những người sử dụng dịch vụ chi trả cho
những người tham gia duy trì, bảo vệ và phát triển các chức năng của hệ sinh thái.
Đây là một hướng tiếp cận mới được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và được coi
là một cơ chế tài chính bền vững cho bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học và xóa
đó, giảm nghèo [104-106]. Theo Lê Văn Hưng (2013) [107], trong những năm 2011
và năm 2012, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã mang lại nguồn thu lớn
1.172,3 tỷ đồng cho ngân sách.
Xác định giá trị cacbon là cách quy đổi ngược từ trữ lượng rừng, sinh khối
rừng thành tổng lượng cacbon có trong sinh khối của hệ sinh thái rừng và quy đổi
thành tổng khối lượng CO2 tương đương. Nhân tổng khối lượng CO2 với giá trị tiền
mặt của một đơn vị tín chỉ cacbon.
28
Các dự án đầu tư, các Chương trình của Chính phủ, của các tổ chức quốc tế
tại Việt Nam về PES đã thu được những kết quả tốt giúp cho các nhà quản lý hoạch
định các chính sách, đặc biệt việc thực hiện Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày
24/8/2010 [108] về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã mang lại lợi ích to
lớn cho nguồn thu quốc gia, tạo điều kiện cho công tác trồng, bảo vệ và chăm sóc
rừng tốt hơn ở Việt Nam. Đây cũng là cơ sở cho việc khai thác tiềm năng của các hệ
sinh thái khác trên đất liền và biển cho phát triển kinh tế đất nước.
Trong các cơ chế REDD và PES, cacbon có thể được tính toán, lượng giá và
sử dụng như cơ sở để chi trả cho các hệ thống canh tác lưu trữ được nhiều cacbon.
Xác định cacbon lưu trữ trong hệ thống thực vật ven bờ biển là vấn đề quan trọng
và cần thiết, nhất là khi các cơ quan chức năng của Việt Nam đang xúc tiến quá
trình thể chế hóa “Thị trường CO2”.
1.4. Một số khái niệm về đầm phá
1.4.1. Đầm phá
Từ đầm phá nói chung (lagoon, lugune, luguna, v.v.) có nguồn gốc từ chữ
Latin – lacuna, được sử dụng tương đối rộng rãi để chỉ các đối tượng khác nhau.
Đầm phá được hiểu là một bộ phận được tách khỏi một vực nước nhờ một dạng tích
tụ chắn ngoài. Theo khái niệm này, đầm phá là một phần của biển được tách ra khỏi
biển nhờ một dạng tích tụ chắn ngoài (như đảo cát, doi cát, rạn san hô, v.v.), có thể
là một hồ nước ngọt được tách ra khỏi một hồ nước lớn hơn hoặc một con sông,
cũng có thể là một vùng cửa sông, một nhánh sông vùng cửa hoặc một đầm lầy, v.v.
có nước biển chảy vào [21].
Như vậy định nghĩa này rất rộng, chỉ nhiều đối tượng khác nhau bao gồm cả
đầm phá xa bờ và ven bờ, cả nước mặn và nước ngọt. Ở Việt Nam, có mặt các đầm
phá xa bờ (thường được gọi là vũng) như ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
do ám tiêu san hô tạo thành, có đầm phá ven biển miền Trung nước lợ, nước mặn và
thậm chí có lúc đạt trạng thái siêu mặn (đầm Lăng Cô, đầm Ô Loan), nhưng không
có đầm phá nước ngọt có nguồn gốc sông hoặc hồ như định nghĩa nói trên. Ở Việt
Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới, một vùng cửa sông hay một bộ phận
cấu trúc của vùng cửa sông không được coi là đầm phá [21].
29
Tuy nhiên, cho tới nay đã có nhiều định nghĩa đầm phá, mỗi định nghĩa có
điểm nhấn mạnh nào đó nhưng tất cả đều bổ sung cho nhau nhằm chỉ một đối tượng
xác định:
(1) Vốn là một phần của biển, đại dương,
(2) Được tách ra khỏi biển, đại dương nhờ một dạng tích dụ có thể theo cơ
chế cơ học – thể cát chắn, hoặc cơ chế sinh học – rạn san hô,
(3) Có cửa (một cửa hoặc nhiều cửa) ăn thông với biển.
Định nghĩa đầm phá khái quát và rõ ràng hơn – đầm phá là một phần nước
nông được tách ra khỏi biển hoặc đại dương nhờ một đê cát chắn, một doi cát hoặc
một rạn san hô và ăn thông với biển qua một hoặc nhiều cửa [21].
1.4.2. Đầm phá ven biển
Đầm phá ven biển có khái niệm hẹp hơn đầm phá nói chung, được xác định là:
(1) Một thủy vực ven bờ,
(2) Được ngăn cách với biển nhờ một dạng tích tụ cát chắn ngoài,
(3) Ăn thông với biển phía ngoài qua một hay nhiều cửa hoặc thẩm thấu,
chảy ngầm qua chính thể cát chắn.
Trong số các định nghĩa đầm phá ven biển hiện nay – đầm phá ven biển là
một loại hình thủy vực ven bờ nước lợ, nước mặn hoặc siêu mặn, được chắn bởi
một đê cát và có cửa ăn thông với biển phía ngoài [21].
Theo định nghĩa này, ở Việt Nam đã xác định được hệ thống 12 đầm phá ven
biển tiêu biểu phân bố ở ven bờ miền Trung trong khoảng vĩ độ 110 tới vĩ độ 160
Bắc (từ Thừa Thiên – Huế tới Ninh Thuận), nằm trên khoảng 21% chiều dài đường
bờ biển Việt Nam.
Đó là: 1 – Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai (tỉnh Thừa Thiên – Huế); 2 – Đầm
Lăng Cô (tỉnh Thừa Thiên – Huế); 3 – Đầm Trường Giang (tỉnh Quảng Nam); 4 –
Đầm An Khê (tỉnh Quảng Ngãi); 5 – Đầm Nước Mặn (Sa Huỳnh, tỉnh Quảng Ngãi);
6 – Đầm Trà Ổ (tỉnh Bình Định); 7 – Đầm Nước Ngọt (Degi, tỉnh Bình Định); 8 –
Đầm Thị Nại (tỉnh Bình Định); 9 – Đầm Cù Mông (tỉnh Phú Yên); 10 – Đầm Ô
Loan (tỉnh Phú Yên); 11 – Đầm Thủy Triều (tỉnh Khánh Hòa); 12 – Đầm Nại (tỉnh
Ninh Thuận).
Như vậy, định nghĩa đầm phá ven biển bao hàm 3 khía cạnh cơ bản xác định
thuộc tính của đối tượng [21]:
30
- Là một thủy vực ven bờ - kết quả tương tác lục địa – biển ở đới bờ, tính
chất của khối nước đặc trưng bởi biến động theo mùa, độ muối giảm mạnh về mùa
mưa tới lợ, lợ - nhạt và có hiện tượng phân tầng, đặc biệt là nơi có sông lớn đổ vào
(điển hình là hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai), đồng thời độ mặn tăng mạnh về
mùa khô tới mặn và siêu mặn, đặc biệt là nơi không có sông lớn đổ vào (điển hình
là đầm Lăng Cô, đầm Ô Loan).
- Được ngăn cách với biển nhờ một dạng tích tụ cát chắn ngoài – thường là
một dạng doi cát nối đảo phát triển từ một phía, ở vùng bờ giàu bồi tích cát và năng
lượng cao đang phát triển ở thời kỳ san bằng trên nền sụt hạ tương đối tân kiến tạo
và kiến tạo hiện đại.
- Ăn thông với biển qua một hay nhiều cửa – xuất hiện một hay nhiều cửa là
kết quả tương tác sông – biển (chủ yếu là thủy triều) thông qua đầm phá, cửa luôn
có xu thế đóng kín về mùa khô và thậm chí đóng kín để trao đổi nước theo cơ chế
chảy thấm, thẩm thấu ở các đầm phá chỉ có sông nhỏ hoặc không có sông đổ vào,
cửa có thể mở thường xhuyên hay định kỳ (mở về mùa mưa và đóng về mùa khô
như đầm Trà Ổ ở Bình Định), có thể dịch chuyển vị trí dần do dòng bồi tích cát dọc
bờ hoặc đổi vị trí luân phiên theo chu kỳ ổn định 5 – 10 năm/lần.
Tên gọi địa phương về đầm phá ven biển tồn tại mang tính lịch sử và tập
quán cho tới nay đã trở thành danh từ riêng và viết hoa. Ví dụ những đầm phá ven
biển nổi tiếng có tên gọi lịch sử là hồ - hồ Mặt Trời (Solar Pond) ở Israel, hồ Togo
(Lac Togo) ở Guinea, hồ Mellah (Lac Mellah) ở ven bờ đông Địa Trung Hải, là
vịnh – vịnh Rockport (Rockport Bay) ở Texas hay vịnh Florida (Florida Bay) – là
đầm phá ven biển điển hình tạo bởi các rạn san hô ven bờ chắn ngoài [21].
Ở Việt Nam, các đầm phá ven biển được gọi là “đầm” hoặc “phá”. Ví dụ, ở
Thừa Thiên – Huế có tên gọi phá Tam Giang, đầm Sam, đầm Thanh Lam, đầm Hà
Trung, đầm Thủy Tú và đầm Cầu Hai, mà tất cả chúng là những thủy phần không
có ranh giới tự nhiên hợp thành một hệ đầm phá ven biển thống nhất. Ngay từ xa
xưa, trong thư tịch cổ cũng như dân gian, tồn tại nhiều tên gọi và được phân theo
ranh giới hành chính, có tên là phá Hải Hạc, phá Tam Giang, đầm Niểu, đầm Đà
Đà, vịnh Đông, vịnh Minh Lương, vịnh Hưng Bình, vịnh Giang Tân, vịnh Hà Bạc,
.v.v nhưng trong dân gian vẫn giữ cách gọi riêng và ngày nay vẫn gọi tắt là phá Tam
Giang – Cầu Hai và thậm chí gọi phá Tam Giang. Cùng đối tượng đó ở Quảng Ngãi
31
có tên gọi đầm Nước Ngọt hay đầm Thị Nại, ở Phú Yên có tên gọi đầm Ô Loan và
thậm chí đầm Nha Phu mà đầm Nha Phu là một vịnh ven bờ điển hình. Trong khi
đó, ở miền Bắc sử dụng tên gọi “đầm” theo truyền thống để chỉ một loại hình thủy
vực tự nhiên, tạo ra do một đoạn sông chết, một vùng trũng còn sót lại trong quá
trình phát triển đồng bằng ven biển có liên quan tới quá trình lầy hóa hiện nay. Loại
hình này tương ứng với “trằm” và “bàu” theo cách gọi tên ở miền Trung. Hơn nữa,
chính người dân ven biển tự tạo ra một loại hình thủy vực vùng triểu (quay đắp một
phần bãi triều) để nuôi thủy sản nước lợ rồi cũng gọi nó là “đầm” [21].
Từ đó thấy rằng, thuật ngữ “đầm” hay “phá” tồn tại mang tính địa phương theo
tập quán hoặc do lịch sử để lại. Cùng một tên gọi (đồng âm), ở những nơi khác nhau
được dùng để chỉ những đối tượng khác nhau (không đồng nghĩa). Ngược lại, cũng
một đối tượng (đồng nghĩa) ở những nơi khác nhau có tên gọi khác nhau (không đồng
âm). Mặt khác, một đối tượng cụ thể cũng có thể có những tên gọi khác nhau trong
thư tịch (hành chính), trong dân gian và khác nhau theo thời gian [21].
Tóm lại, cỏ biển là đối tượng đã có nhiều nghiên cứu ở trên thế giới cũng
như ở Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ đa dạng thành phần cỏ
biển trên thế giới chỉ khoảng 66 loài phân bố trên 600.000 km2, riêng cỏ biển ở Việt
Nam có 15 loài được chính thức ghi nhận diện tích phân bố hơn 18.000 ha. Tuy
vậy, về ý nghĩa và chức năng của cỏ biển đối với môi trường và giá trị sử dụng của
chúng là rất lớn. Cỏ biển không được tập trung nghiên cứu về vai trò, chức năng và
khả năng lưu trữ cacbon như các nhóm thực vật trên cạn khác, những nghiên cứu về
cỏ biển tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào thành phần loài, phân bố và đa dạng
sinh học. Trong đó, các nghiên cứu về đặc trưng quần xã cỏ biển ở những đầm phá
ven biển nói chung, đặc biệt ở các đầm phá ven biển miền trung Việt Nam còn ít
được quan tâm.
32
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quần xã cỏ biển tại 03 đầm phá: đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai (tỉnh Thừa Thiên - Huế), đầm Thị Nại (tỉnh Bình Định) và đầm
Nại (tỉnh Ninh Thuận). Các đầm phá này là 03 trong 12 đầm phá tiêu biểu ở miền
Trung [21], ở đó có các quần xã cỏ biển đa dạng và phân bố trên diện tích lên tới
hàng ngàn hecta [7, 8, 11, 18, 19] (hình 2.1).
Hình 2.1. Vị trí 12 đầm hồ ven biển miền Trung (hình theo Trần Đức Thạnh, 2010)
+ Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (tỉnh Thừa Thiên - Huế): nằm trong khoảng
tọa độ 16015’ – 16042’ vĩ độ Bắc và 107022’ - 107057’ kinh độ Đông, thuộc địa
phận năm huyện: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, và Phú Lộc. Là
1 lagun lớn nhất Đông Nam Á, thuộc loại lagun lớn cỡ lớn trên thế giới và là mẫu
33
hình tiêu biều cho các đầm phá vùng ven bờ miền Trung nước ta. Có kết cấu cửa
đầm được xếp vào dạng không ổn định. Có các con sông lớn đổ vào, môi trường
đầm phá có tính chất biến đổi theo mùa khá rõ rệt và đại diện cho kiểu khí hậu nhiệt
đới gió mùa nhưng lại có mùa đông lạnh. Vực nước hệ đầm phá này với tổng diện
tích mặt nước là 216 km2, có chiều dài 68 km, thông với biển bằng cửa Thuận An ở
phía bắc và cửa Tư Hiền ở phía nam, cách nhau hơn 40 km. Hai cửa này thường
không có vị trí cố định, mà theo chu kì thời gian có sự di chuyển vị trí hoặc trạng
thái đóng mở, gây ra những biển đổi về mặt môi trường sinh thái, bồi lấp các cửa
một các tự nhiên. Vực nước hệ đầm phá gồm có 3 vùng: phá Tam Giang, đầm Thủy
Tú, đầm Cầu Hai.
Tại đầm phá Tam Giang - Cầu Hai nghiên cứu thực hiện khảo sát, thu mẫu ở
30 trạm (hình 2.2) vào 6 đợt: mùa mưa vào tháng 10 - 11/2009, mùa khô tháng 4 -
5/2010, mùa mưa tháng 10 - 11/2013, mùa khô tháng 5/2014, mùa khô tháng 4 - 6
năm 2017 và mùa mưa tháng 9 - 11 năm 2017.
Hình 2.2. Sơ đồ vị trí khảo sát tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
34
+ Đầm Thị Nại (tỉnh Bình Định): thuộc thành phố Quy Nhơn và huyện Tuy
Phước, tỉnh Bình Định. Đầm nằm trong khoảng tọa độ 13015’ – 13054’ vĩ độ Bắc và
109012’ – 109019’ kinh độ Đông, có diện tích 5.000 ha khi triều lên và 3.200 ha khi
triều xuống, được xếp vào loại trung bình, thuộc nhóm đầm có kết cấu cửa đầm thuộc
vào nhóm tương đối ổn định. Đầm thông với vịnh Quy Nhơn bằng một cửa rộng
khoảng 700 m. Đầm Thị Nại là đầm nước lợ do mạng lưới nhiều sông đổ vào đầm
nhưng chủ yếu là của hai con sông: sông Côn và sông Hà Thanh đổ ra vùng đỉnh đầm
và phía tây của đầm. Môi trường đầm phá có tính chất biến đổi theo mùa và đại diện
cho kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình (nóng ẩm quanh năm). Vào mùa lũ,
vùng đỉnh đầm thường bị ngọt hóa. Nhiệt độ nước trong đầm 250C – 26,50C, độ muối
dao động 5‰ – 32‰. Chế độ triều là bán nhật triều, dao động 0,4 – 2,1 m, trung bình
là 1,25 m. Độ sâu trung bình của đầm khoảng 1,5 m và chỗ sâu nhất 5 – 7 m.
Tại đầm Thị Nại nghiên cứu thực hiện khảo sát, thu mẫu ở 30 trạm vào 4 đợt
(hình 2.3): mùa mưa tháng 10 - 11/2013, mùa khô tháng 5/2014, mùa khô tháng 4 - 6
năm 2017 và mùa mưa tháng 9 - 11 năm 2017.
Hình 2.3. Sơ đồ vị trí khảo sát tại đầm Thị Nại
35
+ Đầm Nại (tỉnh Ninh Thuận): thuộc huyện Ninh Hải và thị xã Phan Rang,
Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận . Đầm nằm trong khoảng tọa độ 11° 36’ - 11 ° 38’ vĩ
độ bắc, 109 ° - 109 ° 03’ kinh độ đông, có diện tích 750 ha (không kể đìa và vùng
triều trên) tích được xếp vào loại nhỏ, là một eo biển ăn sâu vào đất liền và nối trực
tiếp với biển bằng một con lạch dài 2 km, rộng 500 – 800 m sâu 7 – 8 m, thuộc nhóm
đầm có kết cấu cửa đầm thuộc vào nhóm tương đối ổn định. Đầm Nại có hình đa giác
đơn giản, ít eo ngách. Lưu vực cửa đầm là các cánh đồng lúa thuộc các xã Hộ Hải,
Phương Hải, Khánh Hải, Tri Hải và núi Cà Đú. Không có các con sông lớn đổ vào
mà chủ yếu có các kênh nước ngọt đổ vào từ nguồn nước trong nội đồng là chính.
Môi trường đầm thiên về tính chất biển ít có sự biến động theo mùa và đại diện cho
kiểu khí hậu khô hạn, “sa mạc” điển hình ở miền Trung Việt Nam.
Tại đầm Nại nghiên cứu thực hiện khảo sát, thu mẫu tại 30 trạm vào 4 đợt
(hình 2.4): mùa mưa tháng 10 - 11/2013, mùa khô tháng 4 - 5/2014, mùa khô tháng
4 - 6 năm 2017 và mùa mưa tháng 9 - 11 năm 2017.
Hình 2.4. Sơ đồ vị trí khảo sát tại đầm Nại
36
2.2. Vật liệu và tư liệu nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi đã kế thừa số liệu, vật liệu từ một số
đề tài, dự án mà tác giả là người tham gia chính trực tiếp thu và phân tích mẫu, gồm
các đề tài KC09.26/06-10: “Đánh giá mức độ suy thoái các hệ sinh thái ven bờ biển
Việt Nam và đề xuất các giải pháp quản lý bền vững”; đề tài ĐTĐL.2009G/10:
”Nghiên cứu cơ sở khoa học, pháp lý cho việc đánh giá và đòi bồi thường thiệt hại
do ô nhiễm dầu gây ra tại vùng biển Việt Nam”; đề tài KC.08.25/11-15: ”Nghiên
cứu giải pháp phục hồi hệ sinh thái đầm, hồ ven biển đã bị suy thoái ở khu vực miền
Trung”; Đề án 47 – Nhiệm vụ số 8 – Hợp phần 1 ”Điều tra tổng thể hiện trạng và
biến động đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái ven biển Việt Nam”.
Tổng số thu được là 504 mẫu, trong đó có 378 mẫu định lượng và 126 mẫu
định tính (bảng 2.1). Mẫu lưu tại Phòng Sinh thái và Tài nguyên Thực vật biển,
Viện Tài nguyên và Môi trường biển – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam.
Bảng 2.1. Bộ mẫu nghiên cứu
Số lượng
Địa điểm
Thời gian
TT
Ký hiệu bộ mẫu
mẫu
thu mẫu
thu mẫu
Tam Giang – Cầu Hai,
IMER-TG-ST-I-ĐL
27
1
Thừa – Thiên Huế
Tháng 10
năm 2009
Tam Giang – Cầu Hai,
IMER-TG-ST-I-ĐT
9
2
Thừa – Thiên Huế
Tam Giang – Cầu Hai,
IMER-TG-OND-I-ĐL
27
3
Thừa – Thiên Huế
Tháng 4
năm 2010
Tam Giang – Cầu Hai,
IMER-TG-OND-I-ĐT
9
4
Thừa – Thiên Huế
Tam Giang – Cầu Hai,
IMER-TG-KC08-I-ĐL
27
5
Thừa – Thiên Huế
Tháng 10
năm 2013
Tam Giang – Cầu Hai,
IMER-TG-KC08-I-ĐT
9
6
Thừa – Thiên Huế
Tam Giang – Cầu Hai,
IMER-TG-KC08-II-ĐL
27
7
Tháng 5
Thừa – Thiên Huế
năm 2014
8
IMER-TG-KC08-II-ĐT
9
Tam Giang – Cầu Hai,
37
Thừa – Thiên Huế
Tam Giang – Cầu Hai,
9
IMER-TG-47-I-ĐL
27
Thừa – Thiên Huế
Tháng 5
năm 2017
Tam Giang – Cầu Hai,
10
IMER-TG-47-I-ĐT
9
Thừa – Thiên Huế
Tam Giang – Cầu Hai,
11
IMER-TG-47-II-ĐL
27
Thừa – Thiên Huế
Tháng 10
năm 2017
Tam Giang – Cầu Hai,
12
IMER-TG-47-II-ĐT
9
Thừa – Thiên Huế
13
IMER-TNAI-KC08-I-ĐL
27
Thị Nại, Bình Định
Tháng 10
năm 2013
14
IMER-TNAI-KC08-I-ĐT
9
Thị Nại, Bình Định
15
IMER-TNAI-KC08-II-ĐL
27
Thị Nại, Bình Định
Tháng 5
năm 2014
16
IMER-TNAI-KC08-II-ĐT
9
Thị Nại, Bình Định
17
IMER-TNAI-47-I-ĐL
Thị Nại, Bình Định
27
Tháng 5
năm 2017
18
IMER-TNAI-47-I-ĐT
Thị Nại, Bình Định
9
19
IMER-TNAI-47-II-ĐL
Thị Nại, Bình Định
27
Tháng 10
năm 2017
20
IMER-TNAI-47-II-ĐT
Thị Nại, Bình Định
9
21
IMER-NAI-KC08-I-ĐL
27
Đầm Nại, Ninh Thuận
Tháng 7
năm 2013
22
IMER-NAI-KC08-I-ĐT
9
Đầm Nại, Ninh Thuận
23
IMER-NAI-KC08-II-ĐL
27
Đầm Nại, Ninh Thuận
Tháng 11
năm 2013
24
IMER-NAI-KC08-II-ĐT
9
Đầm Nại, Ninh Thuận
25
IMER-NAI-47-I-ĐL
Đầm Nại, Ninh Thuận
27
Tháng 5
năm 2014
26
IMER-NAI-47-I-ĐT
Đầm Nại, Ninh Thuận
9
38
27
IMER-NAI-47-II-ĐL
Đầm Nại, Ninh Thuận
27
Tháng 5
năm 2017
28
IMER-NAI-47-II-ĐT
Đầm Nại, Ninh Thuận
9
Tổng số
504 mẫu
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Điều tra và thu thập mẫu vật
Phương pháp điều tra, thu thập mẫu vật theo “Phương pháp nghiên cứu cỏ
biển” của Nguyễn Văn Tiến và Từ Thị Lan Hương năm 2008 [35], “Survey manual
for tropical marine resources” của English, S., C. Wilkinson và V. Baker năm 1997
[109], “SeagrassNet – Manual for Scientific Monitoring of seagrass habitat” của
Short, F.T., et.al. năm 2002 [110], “Các phương pháp nghiên cứu quần xã thực vật”
của Hoàng Chung năm, 2008 [111], và “Cơ sở thủy sinh học” của Đặng Ngọc
Thanh, Hồ Thanh Hải năm 2007 [112].
Từ các thông tin về thành phần loài, phân bố của các thảm cỏ biển của các
tác giả đi trước, xác định vị trí và tuyến các trạm khảo sát bằng thiết bị định vị vệ
tinh (GPS). Trên thực địa, tiến hành thu mẫu dưới triều bằng thiết bị lặn chuyên
dụng SCUBA, máy quay phim và máy ảnh dưới nước. Các mặt cắt và khung định
lượng (0,04 m2) được đặt ngẫu nhiên. Xác định độ phủ bằng khung định lượng (50
cm x 50 cm) được chia làm 25 ô sau đó quy về diện tích 1 m2. Tính diện tích thảm
cỏ biển theo bản đồ tỷ lệ lớn, thước dây đo trực tiếp kết hợp ảnh viễn thám.
Tại mỗi vùng đặt 3 mặt cắt dài 50m song song với bờ. Đánh dấu điểm giao
nhau tại điểm giữa 25m của mỗi mặt cắt A, B và C bằng mỏ neo cắm cố định hay
bằng cọc xi măng, sau đó buộc thẻ nhựa đã đánh số vào mỏ neo hay cọc xi măng.
Có thể đặt mặt cắt song song A trước, sau đó đặt các mặt cắt B và C cũng giống như
phương pháp đặt mặt cắt A (hình 2.5).
39
Hình 2.5. Đặt các khung thu mẫu ngẫu nhiên
Tại điểm giám sát, tiến hành thu mẫu, xác định thành phần loài, ước tính độ
phủ của cỏ biển trong 12 khung định lượng của mỗi mặt cắt tại điểm giám sát. Tại
mỗi một mặt cắt, tiến hành thu 4 mẫu (3 mẫu định lượng, 1 mẫu định tính) trên 3
trạm cách nhau 25m. Mẫu định lượng bằng ống nhựa có đường kính 6,67 cm
(0,0035 m2) đối với các mẫu là những loài có kích thước nhỏ (như Halophila
beccarii), bằng khung vuông 25 x 25 cm (0,0625 m2) đối với các loài có kích thước
trung bình (như Zostera japonica) và bằng khung định lượng 50 x 50 cm (0.25 m2)
đối với loài có kích thước lớn như Enhalus acoroides. Đo chiều cao tán và ghi lại
những số liệu đo được vào biểu số liệu thực địa.
Xác định % độ phủ của cỏ biển (seagrass percentage cover) theo Short, F.T.
et al., 2002 [110]. Độ phủ C của cỏ biển tính theo công thức:
C = ∑(Mi x fi)/∑f
( Mi = Điểm giữa của lớp i; f = tần số, gồm những ô có số lớp giống nhau i)
Bảng 2.2. Cấp độ phủ cỏ biển [109]
Lớp Diện tích che phủ % diện tích che phủ Điểm giữa % (M)
5
Từ 1/2 đến toàn bộ
50-100
75,0
4
Từ 1/4 đến 1/2
25-50
37,5
40
3
Từ 1/8 đến 1/4
12,5-25
18,75
2
Từ 1/16 đến 1/8
6,25-12,5
9,38
1
Ít hơn 1/16
5,0-10,0
3,13
0
Không có cỏ biển
0
0
Mẫu bảo quản hoặc làm tiêu bản sau khi thu, được ngâm trong dụng dịch
Formol 5%. Mẫu khô (tiêu bản) được đặt trên giấy Croki sau đó ép trong giấy thấm.
Mẫu nghiên cứu cacbon, sau khi thu được rửa sạch và bảo quản ngay trong
nhiệt độ thấp hơn hoặc bằng 40C (bằng túi bảo quản lạnh). Khi chuyển về phòng thí
nghiệm, bảo quản ở nhiệt độ thấp hơn 40C (ngoài thực địa bảo quản bằng đá khô,
trong phòng thí nghiệm bằng tủ bảo ôn SANAKY sau đó bảo quản lạnh sâu).
2.3.2. Xác định thành phần loài
Để nghiên cứu thành phần loài và định loại các loài cỏ biển ở vùng nghiên
cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp hình thái so sánh dựa vào các tài liệu:
-
Cỏ biển Việt Nam; Thành phần loài, phân bố, sinh thái – sinh học
(Nguyễn Văn Tiến, Đặng Ngọc Thanh và Nguyễn Hữu Đại, 2002) [11];
-
Seagrass taxonomy and identification key (Kuo, J., và Den Hartog, C. ,
2001) [12];
-
Taxonomy and Biogeography of Seagrasses (Den Hartog, C., và Kuo, J.,
2001) [13]
- The seagrass of the world (Den Hartog C., 1970) [14];
-
Seagrasses (Phillips R.C. và Menez E.G., 1988) [15];
Các công việc phân tích, định loại và xử lý số liệu được thực hiện tại phòng
thí nghiệm của Viện Tài nguyên và Môi trường Biển – Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam.
Theo phương pháp này, các đặc điểm hình thái học được sử dụng trong phân
loại thực vật có hoa là các cấu trúc sinh sản, ví dụ: cánh hoa, đài hoa, nhị hoa, quả,
hạt, v.v...(hình 2.6) Tuy nhiên, hoa và quả của hầu hết các loài cỏ biển thường khó
41
thu thập hoặc không phát hiện được ở một số chi Zostera, Halodule,... và do đó việc
định loại các loài và chi cỏ biển phần lớn phụ thuộc vào đặc điểm sinh dưỡng, như
chiều rộng – dài của phiến lá, đỉnh lá, số lượng gân, phân bố gân, kiểu thân, đặc
điểm của rễ và thân rễ, v.v...(hình 2.7). Một số đặc điểm sinh dưỡng có thể cho thấy
sự thay đổi đáng kể, ví dụ, các đầu lá. Do đó, các đặc điểm sinh dưỡng sẽ được sử
dụng trong các khóa định loại cỏ biển.
Hình 2.6. Một số hình thái, cấu trúc sinh sản của cỏ biển [12], A. hoa cái Enhalus,
B. quả Enhalus, C. hoa đực Halophila, D. hoa cái Halophila, E. quả Halophila, F.
cụm hoa Posidonia, G. hoa Posidonia, H. hoa đực Halodule, I. hoa đực
Thalassodendron, K. hoa cái Thalassodendron, L. mo mang hoa quả Zostera, M.
quả Zosterella, N. hạt Zostera.
42
Hình 2.7. Các đặc điểm sinh dưỡng của cỏ biển [12], A. Halophila, B. Thalassia, C.
bẹ lá mở không có lưỡi bẹ Thalassia, D. bẹ lá mở có lưỡi bẹ Cymodocea, E. bẹ lá
kín Halodule, F. Cymodocea, G. sẹo lá hở, H, sẹo lá kín, I. Amphibolis
Sau khi xác định được thành phần loài, đề tài đã tiến hành lập khóa định loại
từ họ đến loài theo khóa lưỡng phân. Trật tự và tên các taxon được sắp xếp, sử dụng
theo quy định chuẩn chung của luật danh pháp Vienna (2006) [113]. Một số thông
tin bổ sung được tra cứu dựa vào tài liệu Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ
(2000) [114].
Hệ số tương đồng Sorresson (S) được sử dụng để đánh giá mức độ khác nhau
giữa các quần xã cỏ biển (hoặc giữa các địa điểm thu mẫu) theo công thức:
S = 2C/A+B
trong đó:
A là số loài của quần xã A
B là số loài của quần xã B
C là số loài chung giữa hai quần xã
43
2.3.3. Nghiên cứu định lượng
Để nghiên cứu định lượng, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
đo lường sinh khối cỏ biển theo F. T. Short, & R. G. Coles (2001) [12].
Mẫu dùng để phân tích định lượng sau khi rửa sạch và tách riêng từng loài,
tiến hành đo kích thước chồi lá, đếm mật độ chồi, chiều dài lá... Sau đó, mẫu được
tách riêng thành 2 phần: Phần trên nền đáy (chồi lá và chồi hoa), phần dưới nền đáy
(thân, rễ) và được sấy khô ở 640C đến khối lượng không đổi. Xác định khối lượng
bằng cân điện tử sai số 0,1 g. Tính hệ số giữa sinh khối khô (p (g)) với sinh khối
tươi (P (g)) theo công thức k = p/P [35].
Từ sinh khối khô của từng bộ phận, có thể tính được tổng sinh khối khô cho
từng ô mẫu và toàn bộ diện tích khu vực nghiên cứu.
Tính trữ lượng cỏ biển ở vùng nghiên cứu theo công thức:
W= b x S
trong đó:
b là sinh lượng trung bình với b = (b1 + b2 + b3 +...+ bn)/n (gram hoặc kg/ m2)
b1 là sinh lượng tại điểm ngẫu nhiên thứ nhất
b2 là sinh lượng tại điểm ngẫu nhiên thứ hai
b3 là sinh lượng tại điểm ngẫu nhiên thứ ba
bn là sinh lượng tại điểm ngẫu nhiên thứ n
S: diện tích có cỏ biển (m2 hoặc ha)
W: trữ lượng cỏ biển (kg hoặc tấn tươi hoặc khô)
2.3.4. Xác định hàm lượng cacbon hữu cơ và lượng giá trữ lượng cacbon
+ Phân tích hàm lượng cacbon hữu cơ trong cỏ biển đồng thời theo 2 phương
pháp:
-
Phân tích lượng cacbon hữu cơ theo Walkley - Black trong TCVN
8726:2012 [115]. Nguyên tắc là oxy hóa cacbon hữu cơ trong mẫu thử bằng dung
dịch Kali dicromat (K2Cr2O7 1N) dư đã biết trước nồng độ trong môi trường axit
sunfuric (H2SO4). Cacbon hữu cơ bị ôxy hóa hết bởi K2Cr2O7, phần K2Cr2O7 dư
44
được chuẩn độ ngược bằng muối Mohr để biết được lượng K2Cr2O7 đã tiêu thụ để
ôxy hóa cacbon hữu cơ có trong mẫu. Từ các số liệu của phép thử này, tính toán xác
định được hàm lượng cacbon hữu cơ (%OC) có trong mẫu. Phân tích được thực
hiện tại Phòng Sinh thái và Tài nguyên Thực vật biển (Viện Tài nguyên và Môi
trường biển).
Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ thực hiện và chi phí thấp.
Nhược điểm là khả năng oxy hóa cacbon hữu cơ tối đa chỉ đạt 75%, thời gian phân
tích kéo dài.
-
Phân tích hàm lượng cacbon hữu cơ theo phương pháp của Micheal
Ensminger (2011) [116] và Brian A. Schumacher (2002) [117]. Nguyên tắc của
phương pháp là dùng modul máy phân tích tự động TOC-VCSN do SHIMADZU sản
xuất, oxy hóa cacbon hữu cơ thành CO2 ở nhiệt độ 6800C, lượng khí CO2 sinh ra
sau khi oxy hóa đi vào đầu đọc được nén lại và định lượng bằng một phép đo duy
nhất. Đề tài đã phối hợp thực hiện phương pháp này phòng thí nghiệm thuộc Viện
nghiên cứu Nghề cá và Môi trường biển Nội địa - FEIS (Cơ quan nghiên cứu Nghề
cá Nhật Bản - FRA).
Ưu điểm là nhanh chóng và chính xác. Nhược điểm là chi phí tốn kém.
+ Tính trữ lượng cacbon hữu cơ tính theo công thức:
Corg = m x %OC x S
trong đó :
Corg là trữ lượng cacbon hữu cơ
m là sinh khối (g.khô/m2)
%OC là hàm lượng cacbon hữu cơ
S là diện tích phân bố (ha, 1 ha = 10.000 m2)
và công thức tính trữ lượng cacbon dioxit: M CO2 = Corg x 3,67 (tấn CO2 /ha)
trong đó: M CO2 là trữ lượng cacbon dioxit
Corg là trữ lượng cacbon hữu cơ
3,67 là hệ số chuyển đổi từ cacbon nguyên tử (C = 12 g/mol)
sang cacbon dioxinde (CO2 = 44 g/mol).
45
+ Để xác định giá trị của trữ lượng cacbon (lượng giá khả năng hấp thụ CO2),
đề tài dựa vào tài liệu của IPCC (2006) [118], có thể diễn giải như sau:
• C + O2 →CO2 [12 + 32 = 44]
• CO2/C = 44/12 = 3,67
• giả sử, 1 tấn than để phát điện có giá 110 USD
• 1 tấn than = 0,75 tấn C
• 0,75 tấn C = 2,75 tấn CO2
• 2,75 tấn CO2 = 2,75 Chứng chỉ phát thải
• 2,75 Chứng chỉ x 33 USD/Chứng chỉ = 90,75 USD
Từ đó, xác định giá trị trữ lượng cacbon theo công thức:
T(USD) = M CO2 (tấn/ha) x giá (USD/tấn theo giá thị trường).
2.3.5. Thành lập sơ đồ phân bố cỏ biển
Trong môi trường GIS, các bản đồ được xây dựng ở dạng số trên cơ sở thông
tin chiết tách từ dữ liệu viễn thám và khảo sát thực tế. Kết quả tổng hợp các thông
tin được thể hiện trên bản đồ nền để tạo ra bản đồ chuyên đề phân bố các HST và
biến động các HST được thành lập theo các qui định trong Quyết định số
22/2007/QĐ-BTNMT [119].
Trong luận án, tác giả kế thừa một số dữ liệu GIS để biên tập thành sơ đồ
phân bố cỏ biển.
2.3.6. Phân tích số liệu
Sử dụng các phầm mềm chuyên dụng để xử lý số liệu như phần mềm
Microsoft Excel với công cụ phân tích thống kê ANOVA và phần mềm thống kê
SPSS 20., với sự sai khác có ý nghĩa thống kê khi giá trị P ≤ 0,05 và sai khác không
có ý nghĩa thống kê khi P ≥ 0,05.
Phân tích hồi quy tuyến tính, phương trình được chọn là y = a.x + b có hệ số
xác định (R2) với độ tin cậy 95%.
46
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần loài cỏ biển và một số đặc điểm hình thái
3.1.1. Thành phần loài
Qua kết quả khảo sát và phân tích mẫu, chúng tôi xác định được tại 3 khu vực
nghiên cứu có tổng cộng 09 loài thuộc 6 chi, 4 họ trong tổng số 15 loài cỏ biển đã biết
của Việt Nam (bảng 3.1).
Bảng 3.1. Hiện trạng thành phần loài tại 3 vùng nghiên cứu
Phân bố thành phần loài
STT Tên taxon TG-CH Thị Nại Nại Tên Việt Nam
TN ĐB TN ĐB TN ĐB
Họ Hydrocharitaceae Juss. Họ Thủy thảo
Chi Enhalus L.C. Rich.
1 Enhalus acoroides (L.f) Royle cỏ Lá dừa +++ +++
Chi Thalassia Banks ex Koenig
cỏ Vích + + + + 2 Thalassia hemprichii (Ehrenb. ex Solms) Asch.
Chi Halophila Du petit Thouars
3 Halophila beccarii Ascherson cỏ Nàn ++ ++ + +
cỏ Xoan + ++ + + ++ ++ 4 Halophila ovalis (R. Br.) Hooker f.
+ 5 cỏ Xoan lớn Halophila major (Zoll.) Miquel
Họ Ruppiaceae Horaninov Họ cỏ Kim
47
Chi Ruppia Linnaeus
6 Ruppia maritima Linnaeus ++ ++ ++ ++ + + cỏ Kim biển
Họ Zosteraceae Domortier Họ cỏ Lươn
Chi Zostera Linnaeus
7 +++ +++ ++ ++ Zostera japonica Ascherson & Graebner cỏ Lươn nhật
Họ Cymodoceaceae N. Taylor Họ cỏ Kiệu
Chi Halodule Endlicher
8 + + ++ ++ + + Halodule pinifolia (Miki) den Hartog cỏ Hẹ tròn
+ 9 + + Halodule uninervis (Forssk.) Ascherson cỏ Hẹ ba răng
6 Tổng số loài theo mùa 5 7 7 6 6
Tổng số loài 6 7 6
Ghi chú: (+): Ít; (++): Nhiều; (+++): Rất nhiều; TG-CH: Tam Giang-Cầu Hai; TN:
mùa gió tây nam, ĐB: mùa gió đông bắc
Thông qua bảng 3.1, tiến hành so sánh thành phần các loài cỏ biển ở các đầm
phá, cho thấy tại đầm Thị Nại có số loài nhiều nhất (7 loài), đầm phá Tam Giang – Cầu
Hai và đầm Nại cùng có là 6 loài, tuy nhiên thành phần loài khác nhau ở các đầm phá
khác nhau. Các loài cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia, cỏ Xoan Halophila ovalis và cỏ
Kim biển Ruppia maritima là những loài có phân bố rộng, xuất hiện ở cả 3 đầm phá.
Qua đây, luận án bổ sung 02 (hai) loài cỏ biển cho khu vực so với các nghiên
cứu trước đây, loài cỏ Hẹ ba răng (Halodule uninervis) tại đầm Cầu Hai (đầm phá Tam
48
Giang – Cầu Hai), loài cỏ Xoan lớn (Halophila major) tại đầm Nại. Nâng tổng số loài
cỏ biển đã biết tại ba đầm từ 08 loài lên 09 loài.
Về mức độ tương đồng giữa các quần xã, kết quả tính toán giá trị chỉ số
Sorresson (S) thành phần các loài cỏ biển ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai và 02 đầm
còn lại được trình bày ở bảng 3.2.
Bảng 3.2. Ma trận chỉ số tương đồng Sorresson về thành phần loài
Khu vực nghiên cứu TG-CH TNAI NAI
TG-CH 1,00 0,92 0,46
TNAI 1,00 0,61
NAI 1,00
Ghi chú: TG-CH: đầm phá Tam Giang – Cầu Hai; TNAI: đầm Thị Nại; NAI: đầm Nại
Từ bảng 3.2, có thể thấy giá trị chỉ số tương đồng Sorresson khác nhau giữa các
đầm phá khác nhau, thấp nhất giữa đầm phá Tam Giang – Cầu Hai và đầm Nại đạt
0,46, đầm Thị Nại và đầm Nại đạt 0,61, cao nhất đầm phá Tam Giang – Cầu Hai và
đầm Thị Nại đạt 0,92. Có nghĩa không có nhiều khác biệt về thành phần loài giữa đầm
phá Tam Giang – Cầu Hai và đầm Thị Nại, còn có sự khác biệt tương đối lớn giữa các
đầm còn lại với nhau.
Kết quả này cũng một phần củng cố với những phân tích của Nguyễn Văn Tiến
(2013) [120] về việc Thị Nại là nơi cuối cùng có loài cỏ Lươn nhật Zostera japonica
phân bố, tính từ phía Bắc xuống phía Nam. Điều đáng chú ý, cỏ Lươn nhật vốn là loài
cỏ ôn đới phân bố từ miền Viên Đông, Liên Bang Nga, Nhật Bản, quần đảo Ryukyu (
Nhật Bản, Triều Tiên, Hồng Kông cho đến các tỉnh miền Bắc và Bắc Miền Trung của
Việt Nam. Ngoại trừ ở Việt Nam, cỏ Lươn nhật không tìm thấy ở các quốc gia vùng
Đông Nam Á. Giả thiết được đưa ra cho sự xuất hiện loài cỏ Lươn nhật ở đầm Thị Nại
là do dòng chảy ngầm ở lớp nước vùng biển Bình Định chịu ảnh hưởng và có mối quan
49
hệ với dòng chảy ở vùng biển miền Bắc nước ta, điều này cần được chứng minh trong
các nghiên cứu cụ thể.
Về loài ưu thế, với bất kỳ một quần xã nào cũng có một hay nhiều loài ưu thế
(dominants), tức là có số lượng và tần số xuất hiện lớn hơn so với các loài khác. Những
loài còn lại là những loài thứ yếu (subdominants) và loài ngẫu nhiên (unexpected).
Việc xác định loài ưu thế chính là tìm hiểu cấu trúc và sự phát triển của quần xã. Căn
cứ vào số lượng loài và tần số xuất hiện của từng loài ở các trạm thu mẫu để xác định
loài ưu thế cho vùng nghiên cứu. Qua đó đề tài xác định được tại mỗi một vùng nghiên
cứu có 01 loài ưu thế, ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai là loài cỏ Lươn nhật Zostera
japonica, ở đầm Thị Nại là loài cỏ Hẹ tròn Halodule pinifilia, ở đầm Nại là loài cỏ Lá
dừa Enhalus acoroides.
3.1.2. Khóa định loại cho các taxon
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về thành phần loài, chúng tôi đã xây dựng được
khóa định loại cho 4 họ, 6 chi và 9 loài cỏ biển tại khu vực nghiên cứu như sau:
KHÓA ĐỊNH LOẠI CÁC HỌ THUỘC BỘ HYDROCHARITALES
1a. Lá được phân biệt thành bẹ lá và phiến lá, không có lưỡi bẹ.....................................2
1b. Lá được phân biệt thành bẹ lá và phiến lá, có lưỡi bẹ................................................3
2a. Hoa đơn tính khác hoặc cùng gốc, nằm trong một bao hoa.......Hydrocharitaceae
2b. Hoa đơn tính cùng gốc, không nằm trong một bao hoa.......................Ruppiaceae
3a. Phiến lá có một gân ở giữa, không có tế bào tanin.........................Zosteraceae
3B. Phiến lá có ba gân dọc rõ ràng, nhiều tế bào tanin..................Cymodoceaceae
HỌ HYDROCHARITACEAE Juss. 1789, Gen. Pl. 67; nom. cons.
Typus: Hydrocharis L.
Họ này bao gồm các loài sống trong môi trường nước ngọt lẫn nước mặn.
Chúng được tìm thấy rộng khắp trên thế giới, nhưng chủ yếu tại khu vực nhiệt đới.
Sống một năm hay lâu năm, với thân rễ đơn trục bò lan, với các lá sắp xếp thành hai
50
hàng theo chiều thẳng đứng, hoặc một thân chính mọc thẳng với các sợi rễ tại gốc và
các lá sắp xếp thành vòng hay vòng xoắn. Lá đơn và thường mọc ngầm trong nước,
mặc dù chúng có thể nổi trên mặt nước hay một phần nhất định nhô lên khỏi mặt nước.
Đa dạng về hình dáng - từ dạng thẳng tới hình cầu, có hay không có cuống lá, và có
hay không có lớp vỏ bọc ngoài tại gốc.
Họ này có 17 chi, trong đó có 3 chi Enhalus, Thalassia, Halophila sống hoàn
toàn ở nước mặn.
KHÓA ĐỊNH LOẠI CÁC CHI THUỘC HỌ HYDROCHARITACEAE
1a. Cây rất thô ráp với một thân bò ngầm to dày. Bẹ lá dai, với nhiều sợi dai tối màu
trên bẹ lá rất dai. Hoa có 3 cánh và 3 đài hoa. Hoa trôi nổi trên mặt nước với một cuống
hoa dài và đôi khi xoắn........................................................................................Enhalus
1b. Cây thô ráp vừa phải với thân bò ngầm mảnh mai. Bẹ lá không dai, với nhiều sợi
lông mềm mịn. Bẹ hoa chỉ chứa 1 hoa duy nhất..............................................................2
2a. Chồi lá phát sinh từ các đốt thành các thân đứng trên thân bò ngầm với khoảng
cách vài lóng đứng, trên thân đứng là sẹo lá trên mỗi đốt. Lá chét, dài, có các gân
chạy song song. Trên phiến lá có tế bào tanin...............................................Thalassia
2b. Chồi lá phát sinh ở mỗi đốt trên thân bò ngầm mảnh nhỏ, không có sẹo lá.
Cuống lá mọc theo cặp trong vảy lá có màu hoặc không màu, gân ngang hoặc ít
song song. Phiến lá trơn mềm, không có tế bào tanin...................................Halophila
CHI ENHALUS L. C. Richard. 1812. Mem. Inst. Paris 12(2): 64, 71, 74.
Type species: Enhalus koenigi Rich. (=E. acoroides (L. f.) Royle).
Cây lâu lăm. Thân rễ leo, thô, không phân nhánh hoặc phân nhánh thưa thớt.
Lóng rất ngắn. Rễ thô, không phân nhánh. Lá xếp cách xa nhau, vỏ bọc ở gốc. Là một
chi đơn loài, phân bố rộng rãi dọc theo bờ biển Ấn Độ Dương và phần nhiệt đới ở phía
Tây Thái Bình Dương.
51
Loài Enhalus acoroides (L.f.) Royle
(L.f.) Royle, 1839. Illustr. Bot. Himal. Mts. 1:377; Phamh. 1993. Illustr. Fl. Vietn.
3(2): 396 “(L. f.) Rich. ex Chatin. 1840”; N.V.Tien, 2002. Cỏ biển Việt Nam. 164,
f.1.8; N. T. Do, 2005. Checkl. Pl. Spec. Vietn. 3: 425; Wang, Q. et al.2010. Fl. China,
23: 97.
- Stratoides acoroides L.f. 1781. Suppl. 268;
- Enhalus koenigi Rich. Mem. 1812. Inst. Paris 12, 2(64):78;
- Valisneria sphaerocarpa Blanco. 1937. Fl. Filip. ed. 1:780;
- Enhalus marinus Griff. 1951. Not. Pl. Asiat. 3:175.
Tên Việt Nam: cỏ lá Dừa, Cọ biển, cỏ Dừa biển, Chân diêm (hình 3.1)
Mô tả: Dạng cây lâu năm. Thân bò (thân rễ) hình trụ, màu nâu đen, đường kính
thân từ 1,5 - 1,8 cm bao bởi rất nhiều lông đen, cứng. Rễ không phân nhánh, màu
trắng, đường kính 1,5 – 5 mm, dài từ 8 - 20 cm. Lá dài từ 30 - 150 cm, chiều rộng lá cỏ
1,2 – 1,8 cm, đỉnh lá thon và tròn có các gân song song, hai bên viền lá có 2 sợi gân
dài. Hoa đực có cuống ngắn; đài thuôn, trắng, dài tới 2 cm; trang dài hơn đài, màu
trắng; nhị trắng, dài 1,5 - 2mm. Hoa cái cuống dài 50 cm, ngoằn ngoèo như lò xo; đài
màu hơi đỏ; tràng trắng, dạng sợi, dài 4 - 5cm, cuộn lại, có lông nhỏ; bầu hình trứng có
lông dài. Quả hình trứng, chóp nhọn, có gai mềm. Trong mỗi quả có 6 - 18 hạt.
Loc.class.: Habitat inter Insulas Zeylonicas, König. Lectotypus: [illustration in]
Rumphius. 1750. Herb. Amboin. 6: 179, t. 75, fig. 2. (designated by Boisset & Ferrer-
Gallego. 2016. 603).
Phân bố: Bình Định (Đề Gi), Phú Yên (Cù Mông), Khánh Hòa (Văn Phong,
Mỹ Giang, Nha Phu, Nha Trang, Cam Ranh, Thủy Triều, Mỹ Hòa), Ninh Thuận (Mỹ
Hòa, đầm Nại), Bà Rịa – Vũng Tàu (Côn Đảo), Kiên Giang (Phú Quốc). Còn có ở Ấn
Độ, Mianma, Xrilanka, Brunây, Campuchia, Inđônêxia, Malaixia, Philippin Thái Lan,
Singapo, Trung Quốc, châu Mỹ và châu Úc.
Sinh thái: Nền đáy cát, cát pha ít bùn, trong những vụng vịnh biển kín.
52
Mẫu nghiên cứu: Việt Nam, tỉnh Ninh Thuận, đầm Nại: IMER-NAI-KC08-I-
ĐT-1,2, 11°36'57.98"N - 109° 1'59.29"E; IMER-NAI-KC08-II-ĐT-1,2, 11°36'6.63"N -
109° 2'35.86"E; IMER-NAI-47-I-ĐT-1,2, 11°37'8.53"N - 109° 1'52.00"E; IMER-
3
NAI-47-II-ĐT-1,2, 11°35'55.51"N - 109° 2'42.11"E (IMER).
Hình 3.1. Cỏ Lá dừa Enhalus acoroides
1. hình thái các cơ quan (a. hình thái chung, b. hoa cái, c. mặt cắt dọc quả, d. mo hoa
đực, e. mặt cắt dọc hoa đực với các nụ hoa, f. nụ hoa đực, g. nụ hoa đã nở) (hình theo
C. den Hartog, 1970); 2. hình dạng cây; 3. dạng sống; 4. cây mang hoa cái (a) và quả
(b); 5. cây mang hoa đực; 6. hình thái quả (ảnh : Cao Văn Lương, đầm Nại, năm 2013)
53
CHI THALASSIA Banks ex Konig in Konig and Sims. 1805. Ann. Bot. 2: 96.
Leccotype species: Thalassia testudium Banks & Sol. ex Koenig (designated by
Rydberg, 1909. Fl. N. Amer. 17: 73).
Chi này gồm có hai loài. Loài Thalassia hemprichii phân bố rộng rãi ở vùng
nước ven biển Ấn Độ Dương và phía tây Thái Bình Dương. Loài Thalassia
testudinumis phân bố giới hạn ở vùng vịnh Mexico và vùng Caribbean.
Trên thế giới có 02 loài, Việt Nam có 01 loài.
Loài Thalassia hemprichii (Ehrenb.) Aschers
Ascherson. 1871. Petermanns Geogr. Mitt. 17: 242; Phamh. 1961. Contr. a l’etude du
peuplement du littoral rocheux du Sud-Vietman. 101; Ernani G. Menez, R.C. Phillips,
Hil. P. Calumpong, 1983. Smith. Contrib. mari. sci. 21:33-38, f.25; Phamh. 1993.
Illustr. Fl. Vietn. 3(2): 396; N.V.Tien, 2002. Cỏ biển Việt Nam. 164, f.1.7; N. T.
Do, 2005. Checkl. Pl. Spec. Vietn. 3: 427; Wang, Q. et al. 2010. Fl. China, 23: 98.
- Schizotheca Ehrenb. 1834. Abh. Berl. Ak. Wiss. 1832(1): 429
Tên Việt Nam: cỏ Vích, cỏ Bò biển, Dương thảo (hình 3.2).
Mô tả: Đường kính thân bò 3 – 5 mm. Lóng dài 4 – 7 mm. Mỗi đốt mọc ra 1 rễ
với nhiều lông tơ, đường kính 1,5 mm, một số có đầu rễ nhọn. Thân đứng từ mỗi đốt
với khoảng cách 5 – 33 lóng, với 3 hay 4 lá. Lá dài 10 – 40 cm, rộng 4 – 11 mm, có 7 -
17 gân dọc nối với gần mép lá ở khoảng cách 1 mm. Bẹ lá dài 3 – 7 cm. Hoa đực có
cuống dài 3 cm, có 5 - 10 nhị. Hoa cái có cuống dài 1 – 1,5 cm, bầu có 6 lá noãn, núm
nhụy phân nhánh. Quả hình xoan, có mỏ dài 1 - 2 mm.
Loc.class.: Eritrea: Massouar. Ehrenberg, C.G., Typus: #s.n. (LT: BM; IT: LE).
Phân bố: Thừa – Thiên Huế (Lăng Cô), Bình Đình (Thị Nại), Bình Định (Đề
Gi), Phú Yên (Cù Mông), Khánh Hòa (Văn Phong, Mỹ Giang, Nha Phu, Nha Trang,
Cam Ranh, Thủy Triều, Mỹ Hòa, quần đảo Trường Sa), Ninh Thuận (Ninh Hải, đầm
Nại), Bình Thuận (Cù Lao Thu, Vĩnh Hảo), Bà Rịa – Vũng Tàu (Côn Đảo), Kiên
Giang (Phú Quốc). Còn có từ bờ Đông châu phi tới Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương,
54
Nhật Bản, Brunây, Campuchia, Inđonêxia, Malaixia, Philippin, Singapo, Thái Lan,
châu Úc và Micronesia.
Sinh thái: Nền đáy cát, cát pha bùn, bãi san hô chết, tạo thành các thảm cỏ rộng
ở vùng triều thấp đến vùng dưới triều.
Mẫu nghiên cứu: Việt Nam, tỉnh Ninh Thuận, đầm Nại: IMER-NAI-KC08-I-
ĐT-3, 11°36'6.63"N -109° 2'35.86"E; IMER-NAI-KC08-II-ĐT-3, 11°36'6.02"N - 109°
2'38.49"E; IMER-NAI-47-I-ĐT-3, 11°35'55.51"N - 109° 2'42.11"E; IMER-NAI-47-II-
ĐT-3, 11°36'8.23"N - 109° 2'34.76"E (IMER).
1 2
3
4
Hình 3.2. Cỏ Vích Thalassia hemprichii – 1. hình thái các cơ quan (a. cây mang hoa
cái, b. cây mang hoa đực, c. bầu nhụy sau khi thụ tinh, d. cây mang quả, e. quả đã mở,
f. hạt) (hình theo C. Den Hartog, 1970); 2,3. dạng cây và đầu lá; 4. dạng sống (ảnh :
Cao Văn Lương, đầm Nại, năm 2013)
55
CHI HALOPHILA Thouars. 1806. Gen. Nov. Madag. 2: 2.
Type species: Halophila madagascariensis Steudel (=H. ovalis (R. Br.) Hook.
f.), validated by Doty and Stone. 1967.
Cây lâu năm, sống ở nước mặn, với thân rễ leo nhiều nhánh. Rễ đơn giản, 1
hoặc hiếm khi 2 từ các đốt, phủ dày đặc bởi những sợi lông dài. Chồi ngắn mọc lên từ
các đốt với một hoặc nhiều cặp lá, mỗi lá được bao quanh bởi một gân lá. Lá mọc đối,
không cuống hoặc có cuống, tuyến tính, đỉnh tù, thuôn hoặc hình trứng, viền lá nhẵn
hoặc có răng thanh, mặt lá nhẵn hoặc có lông; gân giữa lá khác biệt, được kết nối với
nhiều gân thứ cấp ngang. Hoa đơn sắc hoặc lưỡng tính, đơn tính, thường đơn độc trong
nách của một chồi thứ cấp, hiếm khi 1-2 hoa đực và hoa cái cùng nhau trong một ống.
Quả hình trứng, phân chia bằng vách mỏng. Hạt ít đến nhiều, nhỏ, hình cầu.
Trên thế giới có 11 loài, Việt Nam có 5 loài, khu vực nghiên cứu có 3 loài.
KHÓA ĐỊNH LOẠI CÁC LOÀI THUỘC CHI HALOPHILA
1a. Phiến lá hình oval hoặc hình trứng, có các đôi gân ngang………….……...……….2
1b. Phiến lá hình kim, không có gân ngang, có 3 gân song song……Halophila beccarii
2a. Phiến lá dài từ 10 - 12 mm, rộng 7 – 9 mm, có 12 – 16 đôi gân ngang tạo thành
góc 45 – 550 so với gân chính. ……………………………..………Halophila ovalis
2b. Phiến lá dài từ 15 – 18 mm, rộng 9 – 12 mm, có 16 – 18 đôi gân ngang tạo thành
góc 60 – 750 so với gân chính………………………………..…….Halophila major
Loài Halophila beccarii Aschers.
Aschers. 1871. Nuov. Giorn. Bot. Ital. 3: 302; Phamh. 1993. Illustr. Fl. Vietn. 3 (2):
395; N.V.Tien, 2002. Cỏ biển Việt Nam. 164, f.1.3; N. T. Do, 2005. Checkl. Pl. Spec.
Vietn. 3: 425; Wang, Q. et al. 2010. Fl. China. 23: 101.
Tên Việt Nam: cỏ Nàn, cỏ Nàn nàn (hình 3.3).
Mô tả: Thân bò với lóng dài 1 – 2 cm. Thân đứng 1 – 1,5 cm có 6 - 10 lá. Lá dài
2 - 3 cm, rộng 0,2 - 0,4 cm, cuống lá dài 1,5 – 2 cm, viền lá nhẵn không có răng cưa,
không có gân ngang, có 3 gân dọc suốt đỉnh với gân giữa nổi bật. Bẹ 3 – 4 mm. Gốc lá
56
có 2 vảy nhỏ, rễ không phân nhánh, mỗi đốt có 1 rễ. Cây đơn tính khác gốc; lá bắc
thuôn đến hình mác, dài 2,5 mm, có sống; bầu 1 mm, vòi nhụy kéo dài, núm nhụy 2
hoặc 3. Quả hình trứng, dài 0,5 - 1,5 mm, có mỏ.
Loc.class.: Indonesia: Borneo: Sarawak, near mouth of Bintula River. Typus:
Beccari 3666 (IT: S).
Phân bố: Quảng Ninh (Hà Dong, Hà Cối, Hạ Long), Hải Phòng (Cát Hải), Nam
Định (Xuân Thủy), Thanh Hóa (Hoàng Hóa), Quảng Bình (Cửa Gianh), Thừa - Thiên
Huế (Tam Giang – Cầu Hai, Lăng Cô), Quảng Nam (Cửa Đại), Bình Định (Thị Nại, Đề
Gi), Phú Yên (Cù Mông, Ô Loan), Khánh Hòa (Văn Phong, Mỹ Giang, Nha Trang,
Cam Ranh, Thủy Triều, Mỹ Hòa), Ninh Thuận (đầm Nại), Kiên Giang (Phú Quốc).
Còn có ở Borneo, Ấn độ, Mianma, Malaixia, Philipin, Trung Quốc, Srilanka, Xây Lan,
Bruma, Singapo, Thái Lan.
Sinh thái: nền đáy bùn, cát bùn. Gặp nhiều ở vùng cửa sông, đầm phá, bãi triều.
Mẫu nghiên cứu: Việt Nam, tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tam Giang – Cầu Hai:
IMER-TG-ST-I-ĐT-1, 16°33'38.41"N - 107°37'4.09"E; IMER-TG-KC08-I-ĐT-1,
16°21'1.23"N - 107°49'56.70"E; IMER-TG-47-I-ĐT-1, 16°25'33.86"N -
107°46'22.36"E; _tỉnh Bình Định, đầm Thị Nại: IMER-TNAI-ST-I-ĐT-1,
13°49'42.56"N - 109°13'20.52"E; _tỉnh Ninh Thuận, đầm Nại: IMER-NAI-KC08-I-
ĐT-4, 11°37'19.73"N - 109° 2'58.41"E; IMER-TNAI-47-I-ĐT-4, 11°37'43.79"N - 109°
2'50.60"E (IMER).
Loài Halophila ovalis (R.Br.) Hook. f.
Hooker. f. 1858. Fl. Tasman. 2: 45; Phamh. 1993. Illustr. Fl. Vietn. 3 (2): 396;
N.V.Tien, 2002. Cỏ biển Việt Nam. 164, f.1.5; N. T. Do, 2005. Checkl. Pl. Spec.
Vietn. 3: 426; Wang, Q. et al. 2010. Fl. China. 23: 101.
- Caulinia ovalis R. Brown. 1810. Prodr. 339;
- Kernera ovalis (R. Br.) Schult. & Schult. f 1829. Syst. Veg. 7: 170;
- Halophila madagascariensis Steud. 1840. Nomencl. Bot. (ed. 2), 1:720;
57
- Diplanthera indica Steud. 1840. Nomencl. Bot. ed. 2(1): 515;
- Lemnopsis major Zoll. 1854. Syst. Verz. 1: 75.;
- Halophila major Miq. 1855. Fl. Ind. Bat. 3: 230.;
- Halophila euphlebia Makino. 1912. Bot. Mag. Tokyo, 26 (307): 208-209. f. 15.;
- Halophila linearis den Hartog. 1957. Act. Bot. Neerl. 6:46, f. 1.;
- Halophila hawaiina Doty & Stone. 1966. Brittonia, 18 (4): 303-305, f. 1;
- Halophila australis Doty and Stone. 1967. Brittonia, 18: 306.
Tên Việt Nam: cỏ Xoan, cỏ Cánh gián, cỏ Đồng tiền (hình 3.4).
Mô tả: Dạng cây thân bò ít năm, đường kính 1,0 – 1.5 mm. Lóng thân dài tới 10
cm. Rễ mọc từ đốt, mỗi đốt có 1 - 2 rễ, trên rễ có nhiều lông dính cát. Thân đứng ít
phát triển, lá hình trái xoan mọc thành cặp, cuống lá dài 1 – 4,5 cm, phiến lá hơi trong
suốt, dài 1,5 – 1,8 cm, rộng 0,5 – 1,2 cm. Viền lá nhẵn, đỉnh lá tròn, có 12 - 16 đôi gân
ngang tạo thành một góc 45 - 600 so với gân giữa. Gốc cuống lá có 2 vảy mỏng, trong
suốt. Mo đực hình mác rộng, khoảng 4 mm; mảnh bao hoa hình bầu dục, dài 4 mm. Mo
cái hình mác rộng có nút thắt ở đỉnh, cái ở trong bị bao bởi cái ngoài; bầu hơi hình tam
giác, vòi nhụy dài, mảnh, núm nhụy 3, dài 2-3 cm. Quả hình bầu dục-cầu, đường kính
3-4 mm, mỏ dài 4-5 mm.
Loc.class.: Australia: Tasmania. Typus: R. Brown 5816 (BM).
Phân bố: Hầu hết vùng ven biển nước mặn, đầm hồ nước mặn – lợ trên cả nước.
Quảng Ninh (đảo Trần, Cô Tô, Minh Châu, Quan Lạn, vịnh Bái Tử Long, Vận Ninh,
Hà Cối, Đầm Hà, Hạ Long, Hoàng Tân, Quảng Yên), Hải Phòng (quần đảo Cát Bà, Cát
Hải), Hà Tính (Kỳ Phương), Quảng Bình (hòn La, hòn Nôm, Cửa Gianh), Quảng Trị
(Cồn Cỏ), Thừa – Thiên Huế (Tam Giang – Cầu Hai, Lăng Cô), Đà Nẵng (vịnh Đà
Nẵng), Quảng Nam (Cửa Đại, Cù Lao Chàm), Bình Định (đầm Thị Nại), Phú Yên (Cù
Mông, Ô Loan), Khánh Hòa (Vân Phong, Ninh Hòa, Nha Phu, Nha Trang, vịnh Cam
Ranh, Thủy Triều, quần đảo Trường Sa), Ninh Thuận (Ninh Hải, đầm Nại), Bình
Thuận (Cù Lao Thu, Vĩnh Hảo), Bà Rịa – Vùng Tàu (Côn Đảo), Kiên Giang (Phú
58
Quốc). Còn có ở Ai Cập, Su Đăng, Kenya, Tangiania, Mozambic, Madagasca,
Seychelles, Mauritius, Israen, Yemen, Ả Rập Saudi, Cô-oet, Nam Phi, Ấn Độ, Nhật
Bản, Burma, Trung Quốc, Hồng Kông, Malaixia, Philippin, Singapo, Inđônêxia, Thái
Lan, Châu Úc, Hawai, Somoa, Phigi, Niu Caledonia, Burma và Ceylon.
Sinh thái: Mọc phủ trên nền đáy là cát, cát bùn, bùn nhuyễn, bắt gặp nhiều
trong các ao đìa nuôi thủy sản, rừng ngập mặn, vũng vịnh, vùng ven biển, ven đảo,
đầm hồ nước lợ - mặn.
Mẫu phân tích: Việt Nam, tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tam Giang – Cầu Hai:
IMER-TG-ST-I-ĐT-2, 16°32'12.42"N - 107°40'31.51"E; IMER-TG-OND-I-ĐT-2,
16°20'29.63"N - 107°49'56.12"E; IMER-TG-KC08-I-ĐT-2, 16°20'29.71"N -
107°54'47.23"E; IMER-TG-47-I-ĐT-1, 16°20'58.06"N - 107°49'27.31"E; IMER-TG-
47-II-ĐT-1, 16°20'59.89"N - 107°50'19.71"E; Việt Nam, tỉnh Bình Định, đầm Thị Nại:
IMER-TNAI-47-II-ĐT-1, 13°47'45.30"N - 109°16'46.52"E; Việt Nam, tỉnh Ninh
Thuận, đầm Nại: IMER-NAI-KC08-II-ĐT-4, 11°36'14.51"N - 109° 2'0.98"E (IMER).
Loài Halophila major (Zoll.) Miq.
Miq. 1855. Fl. Ind. Bat. 3: 230; Nguyen, X.V., Holz., L., Pap., J., 2013. Bot. Mar. 56
(4): 313-321.
- Lemnopsis major Zoll., 1854. Syst. Verz. 1: 75;
- Halophila ovalis var. major (Zoll.) Ascher., 1868. Linnaea, 35: 174;
- Halophila euphlebia Mak., 1912. Bot. Mag. Tokyo. 26 (307): 208.
Tên Việt Nam: Cỏ Xoan lớn (hình 3.5).
Mô tả: Dạng cây thân bò ít năm, đường kính 1,5 – 2 mm. Lóng thân dài 1 - 5
cm. Rễ mọc từ đốt, mỗi đốt có 1 - 2 rễ, trên rễ có nhiều lông dính cát. Thân đứng ngắn,
lá hình trái xoan mọc thành cặp, cuống lá dài 1 – 4,5 cm, viền lá nhẵn, đỉnh lá tròn,
chiều rộng lá 9 – 12 mm, chiều dài lá 15 – 18 mm, gân ngang 16 – 18 (25) tạo thành góc
60 – 750 so với gân chính. Khoảng cách gân quanh lá tới mép lá 0,20 – 0,25 mm.
59
Loc.class. Indonesia: Sumbawa: Kambing. Lectotype: H. Zollinger 3430 (P,
lectotype here designated).
Phân bố: Khánh Hòa (Nha Trang), Ninh Thuận (đầm Nại). Còn có ở Thái Lan,
Nhật Bản, Inđônêxia, Malaysia, Mianma.
Sinh thái: Chủ yếu mọc nơi có nền đáy là cát, cát bùn.
Mẫu phân tích: Việt Nam, tỉnh Ninh Thuận, đầm Nại: IMER-NAI-KC08-I-ĐT-
5, 11°37'38.35"N - 109° 2'59.04"E; IMER-NAI-KC08-II-ĐT-5, 11°37'23.67"N - 109°
3'3.24"E; IMER-TNAI-47-I-ĐT-5, 11°37'35.87"N - 109° 3'2.62"E; IMER-TNAI-47-I-
1
2
4
3
ĐT-5, 11°37'25.60"N - 109° 3'4.28"E (IMER).
Hình 3.3. Cỏ Nàn Halophila beccarii
1. hình dạng cây (hình theo www.seagrasswatch.org); 2. hình dạng cây; 3. hình dạng
lá, 4. dạng sống (ảnh: tại Tam Giang – Cầu Hai, năm 2015)
4
60
Hình 3.4. Cỏ Xoan Halophila ovalis
1. dạng cây; 2. dạng lá; 3. hình dạng quả (a. bầu nhụy sau khi thụ phấn, b. quả, c. hạt);
4. dạng sống (ảnh: tại Tam Giang – Cầu Hai, năm 2014)
61
c Hình 3.5. Cỏ Xoan lớn Halophila major - A. Hình dạng cây và đầu lá (ảnh theo Vy
N.X., 2013); B. Hình dạng cây và đầu lá, C. dạng sống (ảnh: Cao Văn Lương, tại đầm
Nại, năm 2016)
62
HỌ RUPPIACEAE Horaninov. 1834. Prim. Lin. Syst. Nat. 46., nom. cons.
Typus: Ruppia L.
Sống trong nước mặn, nước lợ, hoặc rất mặn, hoàn toàn ngập nước. Thân rễ
thon, thường phân nhánh. Thân xù xì, thon dài. Lá mọc xen kẽ, không đều, tuyến tính
hẹp, nhỏ dần về đỉnh. Bẹ lá ngắn, không có gân. Cụm hoa có ít gai, có cuống, hoa
lưỡng tính.
Họ Ruppiaceae chỉ có duy nhất 1 chi, Ruppia.
CHI RUPPIA L. 1753. Sp. Pl. 1: 127.
Type species: Ruppia maritima L.
Chỉ có 1 loài phân bố rộng rãi ở vùng ôn đới và nhiệt đới. Thường có mặt ở
vùng nước lợ, nhưng cũng có mặt ở vùng nước kín và mặn ven bờ, ở các đầm, hồ, phá
và ao nước lợ.
Coi chi Ruppia là cỏ biển vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Loài Ruppia maritima L.
L. 1753. Sp. Pl. 1:127; Phamh. 1993. Illustr. Fl. Vietn. 3(2): 405; N.V.Tien, 2002. Cỏ
biển Việt Nam. 164, p.30.; N. T. Do, 2005. Checkl. Pl. Spec. Vietn. 3: 430; Wang, Q.
et al. 2010. Fl. China, 23:1.
- Ruppia maritima var. rostrata J. Agardh, 1823. Physiogr. Sallsk. Arsbetr. 6: 37;
- Ruppia maritima subsp. rostellata (W.D.J. Koch ex Rchb.) Aschers. & Graebn. 1897.
Syn. Mitteleur. Fl. 1(4): 356;
- Ruppia rostellata W. D. J. Koch ex Rchb. 1824. Iconogr. Bot. Pl. Crit. 2: 66, pl. 174,
f. 306;
- Buccaferrea cirrhosa Petagna, 1787. Inst. Bot. 5;
- Ruppia cirrhosa (Petagna) Grande, 1918. Bull. Orto Bot. Regia Univ. Napoli 5: 58.
Tên Việt Nam: cỏ Kim biển (hình 3.6).
63
Mô tả: Thân bò thon dài, phân nhánh dày đặc, dài đến 35 cm hoặc hơn. Bẹ lá 2
– 10 mm, phiến lá dạng sợi dẹp dài 6 – 10 cm, rộng 0,5 - 0,8 mm. Cụm hoa gồm 2
bông, cuống dạng sợi; bao phấn hình bầu dục; lá noãn 4-6. Quả mọc thành cụm 4 - 6
quả trên một cuống dài 2 cm.
Loc.class.: Habitat in Europae maritimis. Lectotypus: Micheli. 1729. Nov. Pl.
Gen. t. 35. (designated by Jacobs & Brock. 1982. Aquatic Bot. 14: 329).
Phân bố: Ở hầu hết cả vùng ven biển, cửa sông, đầm hồ nước lợ trên thế giới.
Sinh thái: ưu thế vùng cửa sông, trong đầm phá trên nền đáy bùn cát.
Mẫu nghiên cứu: Việt Nam, tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tam Giang – Cầu Hai:
IMER-TG-ST-I-ĐT-3, 16°37'49.58"N - 107°26'57.28"E; IMER-TG-OND-I-ĐT-3,
16°36'32.21"N - 107°31'36.13"E; IMER-TG-KC08-I-ĐT-3, 16°33'35.44"N -
107°36'54.09"E; IMER-TG-KC08-II-ĐT-2, 16°31'58.22"N - 107°39'21.08"E; IMER-
TG-47-I-ĐT-2, 16°20'41.20"N - 107°50'5.15"E; IMER-TG-47-II-ĐT-2, 16°16'35.23"N
- 107°52'24.47"E; Việt Nam, tỉnh Bình Định, đầm Thị Nại: IMER-TNAI-KC08-I-ĐT-
2, 13°49'6.06"N - 109°13'25.37"E; IMER-TNAI-KC08-II-ĐT-2, 13°51'36.14"N -
109°14'29.56"E; IMER-TNAI-47-I-ĐT-1, 13°52'30.00"N - 109°14'20.46"E; IMER-
TNAI-47-II-ĐT-1, 13°51'42.02"N - 109°13'53.62"E; Việt Nam, tỉnh Ninh Thuận, đầm
Nại: IMER-NAI-KC08-I-ĐT-6, 11°37'34.47"N - 109° 2'58.73"E; IMER-NAI-KC08-II-
ĐT-6, 11°36'15.94"N - 109° 2'0.45"E; IMER-NAI-47-I-ĐT-6, 11°37'44.65"N - 109°
2'51.23"E; IMER-NAI-47-II-ĐT-6, 11°37'21.86"N - 109° 3'1.91"E (IMER).
64
4
1 2 3
Hình 3.6. Cỏ Kim biển Ruppia maritima
1. hình dạng cây (hình theo www.seagrasswatch.org); 2. cây mang cụm quả; 3. cụm
quả. 4. dạng sống (ảnh Cao Văn Lương, đầm Thị Nại, năm 2013)
65
HỌ ZOSTERACEAE Domortier. 1829. Anal. Fam. Pl. 65, 66; nom. cons.
Typus: Zostera L. 1753
Dạng thân thảo, sống lâu năm ngập trong nước biển, thân rễ leo hoặc củ, rễ đơn
giản mọc ra từ các đốt. Lá chét, chụm lại, có bẹ, không có giả hành. Bẹ tồn tại lâu hơn
phiến lá. Không có lưỡi bẹ. Phiến lá tuyến tính, hiếm khi xẻ thùy. Hoa mọc thành cụm
trong bọc lá. Hoa đực đơn độc, phấn hoa dạng sợi, thụ phấn trong nước. Hoa cái nhô
ra, gồm 1 buồng noãn và 2 cánh chứa mo. Quả dạng hạt, hoặc có 2 phần không đều.
Trên thế giới có 3 chi, 18 loài, Việt Nam, chỉ có 1 chi duy nhất Zostera.
CHI ZOSTERA L. 1753. Sp. Ed. 1: 986.
Type species: Zostera marina L.
Dạng thân thảo, sống lâu năm, thân rễ, chia nhiều nhánh, có 2 hoặc nhiều rễ dài
và mảnh mọc ở mỗi đốt. Phiến lá mỏng, mép lá mỏng mờ, hiếm khi có răng cưa. Bẹ lá
dạng màng dai, kín hoặc mở, khi rụng đôi khi để lại sẹo ở đốt . Có nhiều lá, lá tuyến
tính, có 3 – 11 gân song song, viền lá nhẵn, ít khi có răng. Đỉnh tròn, song song hoặc
lõm. Cụm hoa hình thành từ các nhánh đối xứng, sau đó bao bọc trong một lá đơn và
hoa cái được sắp xếp xen kẽ thành 2 hàng, có hoặc không có thùy bên trong. Quả là
một loại hạt không rõ ràng hoặc mất màu bất thường, dạng hạt.
Trên thế giới có khoảng 12 loài, Việt Nam, chỉ có một loài Zostera japonica.
Loài Zostera japonica Aschers., Graebn.
Asch. & Graebn. 1907. Pfl. Reich Heft 31 (IV.11): 32; N.V.Tien, 2002. Cỏ biển Việt
Nam. 164, f.1.16; N. T. Do, 2005. Checkl. Pl. Spec. Vietn. 3: 432; Wang, Q. et al.
2010. Fl. China. 23: 107.
- Zostera nana Roth. 1827. Enum. Pl. Phaen. Germ. 1: 8;
- Nanozostera japonica (Asch. & Graebn.) Toml. & Posl. 2001. Taxon, 50: 432.
Tên Việt Nam: cỏ Lươn nhật (hình 3.7).
Mô tả: Thân bò chia đốt, đường kính 0,5 – 1,5 mm, lóng dài 0,5 – 3 cm, đốt có
nhiều rễ. Bẹ lá mở dài 2 - 10 cm, lá dài 5 - 35 cm, rộng 1 - 2 mm, rìa lá màng 0,5 mm;
66
gân dọc 3 cái, đỉnh lá tù, lá già có khía giống gân ở giữa. Mọc trên nền đáy cát bùn,
bùn cát. Hiếm khi thấy hoa.
Loc.class.: Japan: Honshu: Miyadzu, fr., October 1901s. Typus: U. Faurie
4889. (HT: P; IT: UC).
Phân bố: Quảng Ninh (Hà Dong, Hà Cối, Đầm Hà, Đầm Buôn, Vân Đồn, Hạ
Long), Hải Phòng (Cát Hải), Ninh Bình (Cửa Đáy), Nghệ An (Cửa Hội), Quảng Bình
(Cửa Gianh), Quảng Trị (Cửa Tùng, Cửa Việt ), Thừa – Thiên Huế (Tam Giang – Cầu
Hai), Quảng Nam (Cửa Đại), Bình Định (Thị Nại). Còn có ở Trung Quốc, Viễn Đông
Liên bang Nga, Nhật Bản, Triều Tiên, châu Á, châu Âu, Nam Mỹ và châu Phi.
Sinh thái: Nền đáy bùn, bùn cát, cát bùn, phát triển tốt và phổ biến ở các đầm
phá, cửa sông.
Mẫu nghiên cứu (10 mẫu). Việt Nam, tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tam Giang –
Câu Hai: IMER-TG-ST-I-ĐT-4, 16°33'5.53"N - 107°38'4.25"E; IMER-TG-OND-I-
ĐT-4, 16°31'7.21"N - 107°40'27.00"E; IMER-TG-KC08-I-ĐT-4, 16°20'15.79"N -
107°54'35.02"E; IMER-TG-KC08-II-ĐT-3, 16°18'24.27"N - 107°55'6.96"E; IMER-
TG-47-I-ĐT-3, 16°20'23.00"N - 107°54'54.43"E; IMER-TG-47-II-ĐT-3,
16°31'50.08"N - 107°39'30.35"E; IMER-TNAI-KC08-I-ĐT-3, 13°49'9.55"N -
109°13'31.49"E; IMER-TNAI-KC08-II-ĐT-3, 13°52'7.17"N - 109°14'40.37"E; IMER-
TNAI-47-I-ĐT-2, 13°49'21.49"N - 109°13'33.59"E; IMER-TNAI-47-II-ĐT-2,
13°51'53.06"N - 109°14'42.40"E (IMER).
67
4
1 2 3
Hình 3.7. Cỏ Lươn nhật Zostera japonica
1. hình dạng cây (hình theo www.seagrasswatch.org), 2. hình dạng cây, 3. đầu lá, 4.
dạng sống (ảnh Cao Văn Lương, tại Tam Giang – Cầu Hai, năm 2015)
68
HỌ CYMODOCEACEAE Taylor. 1909. in A. Amer. Fl. 17: 31; nom. cons.
Typus: Cymodocea Konig, 1805.
Dạng thân thảo sống ngập trong nước mặn, trên trục chính của thân rễ ngầm có
thân đứng ngắn ở mỗi đốt. Bẹ lá tồn tại lâu dài sau khi lá rụng. Lá không có cuống, lá
mọc xen kẽ, hoặc đối diện tại các đốt, lá tuyến tính, gân giữa rõ ràng. Hoa đơn tính,
hoa đực có cuống, hoa cái không có cuống. Trên thế giới có 4 chi, khoảng 20 loài, Việt
Nam có 4 chi, 6 loài, ở khu vực nghiên cứu chỉ có 1 chi Halodule.
CHI HALODULE Endl. 1841. Gen. Pl. Suppl. 1: 1368.
Type species: Diplanthera tridentata Steinheil (=H. uninervis (Forssk.)
Archerson).
Thân rễ phân nhánh, rễ mọc ra từ các đốt. Chồi đứng, có 2 vảy ở gốc. Có từ 1 - 4
lá, mọc xen kẽ, dẹt, tuyến tính, có 3 gân. Viền lá ở đỉnh có răng. Bẹ lá dọc chặt, có lưỡi
bẹ. Hiếm thấy hoa. Trên thế giới có 7 loài, ở Việt Nam chỉ có 2 loài.
KHÓA ĐỊNH LOẠI CÁC LOÀI THUỘC CHI HALODULE
1a. Đỉnh lá có 3 răng rõ ràng. Lá rộng 0,8 – 1,4 mm………………Halodule uninervis
1b. Đỉnh tù hoặc tròn. Lá rộng 0,5 – 0,8 mm……………………….Halodule pinifolia
Loài Halodule uninervis (Forssk.) Aschers.
Asch. 1882. Fl. Orient. 5: 24; Ernani G. Menez, R.C. Phillips, Hil. P. Calumpong,
1983. Smith. Contrib. Mari. Sci. 21:13-18, f.9; Phamh. 1993. Illustr. Fl. Vietn. 3 (2):
408; N.V.Tien, 2002. Cỏ biển Việt Nam. 164, f.1.10; N. T. Do, 2005. Checkl. Pl. Spec.
Vietn. 3: 430; Wang, Q. et al. 2010. Fl. China, 23: 119.
- Zostera uninervis Forssk. 1775. Fl. Aegypt.-Arab. CXX: 157;
- Diplanthera tridentata Steinh. 1838. Ann. Sci. Nat., Bot., sér. 2, 9: 98, Pl. 4 B;
- Diplanthera madagascariensis Steud. 1840. Nomencl. Bot. ed. 2(1): 515;
- Halodule australis Miq. 1855. Fl. Ned. Ind. 3: 227;
- Halodule tridentata (Steinh.) Endl. ex Unge,1843. Chlor. Protogaea, 67;
69
- Diplanthera uninervis (Forssk.) Asch. 1897. Nat. Pflanzenfam. 37; Phamh. 1961.
Contribution à l’étude du peuplenment du littoral rocheux du Sud-Vietnam. 101.
Tên Việt Nam: cỏ Hẹ, cỏ Hẹ ba răng (hình 3.8).
Mô tả: Thân cỏ nhỏ, đường kính 0,5 - 0,8 mm, lóng thân dài 2,5 – 3 cm, vảy lá
hình elip và màng. Lá hẹp, tuyến tính dài 4 – 11 cm, rộng 0,8 mm - 1,4 mm, có 3 gân
với gân giữa nổi bật. Phiến lá dần thu hẹp về đỉnh, răng bên dễ thấy, đỉnh lá có 3 răng.
Bẹ lá 2 – 3 cm. Hoa hiếm gặp, cuống hoa đực 1 – 2 cm, bao phấn 0,5 mm, vòi nhụy 3 –
4 cm. Nhụy hoa cái dài 2 - 7 mm. Quả hình trứng, cỡ 2,5 x 2 mm, có mỏ dài 1 mm.
Loc.class.: Type: Yemen: near Al Mukha: Mocha. Typus: Forsskål (no material
found).
Phân bố: Quảng Ninh (Hà Dong), Thừa – Thiên Huế (Cầu Hai), Bình Định
(đầm Thị Nại), Phú Yên (Cù Mông) Khánh Hòa (Văn Phong, Mỹ Giang, Nha Trang,
Cam Ranh, Thủy Triều, Mỹ Hòa), Bình Thuận (Vĩnh Hảo, Cù Lao Thu), Bà Rịa –
Vũng Tàu (Côn Đảo), Kiên Giang (Phú Quốc). Còn có ở Ấn Độ, Mianma, Xri Lanka,
Inđônêxia, Malaxia, Philippin, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Tây-Nam châu Á,
châu Phi, châu Úc, Tây Thái Bình Dương.
Sinh thái: Nền đáy cát ít bùn, thường gặp ở những vũng vịnh, ven đảo.
Mẫu nghiên cứu: Việt Nam, tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tam Giang – Cầu Hai:
IMER-TG-KC08-II-ĐT-4, 16°17'1.31"N - 107°54'4.90"E; IMER-TG-47-I-ĐT-4,
16°16'56.97"N - 107°53'56.21"E; IMER-TG-47-II-ĐT-4, 16°20'33.43"N -
107°49'50.67"E; Việt Nam, tỉnh Bình Định, đầm Thị Nại: IMER-TNAI-KC08-I-ĐT-4,
13°49'3.86"N - 109°13'25.11"E; IMER-TNAI-KC08-II-ĐT-4, 13°52'26.49"N -
109°14'34.86"E; IMER-TNAI-47-I-ĐT-3, 13°51'46.17"N - 109°14'45.88"E; IMER-
TNAI-47-II-ĐT-3, 13°49'48.76"N - 109°13'22.88"E (IMER).
70
2
4
1 3
Hình 3.8. Cỏ Hẹ ba răng Halodule uninervis
1. hình dạng cây (hình theo www.seagrasswatch.org); 2. hình dạng cây; 3. đầu lá, 4.
dạng sống (ảnh Cao Văn Lương, tại Cầu Hai, năm 2014)
71
Loài Halodule pinifolia (Miki) den Hartog
Hartog. 1964. Blumea, 12 (2): 309–311, f. 10; Ernani G. Menez, R.C. Phillips, Hil. P.
Calumpong, 1983. Smith. Contrib. Mari. Sci. 21:13, f.7; Phamh. 1993. Illustr. Fl.
Vietn. 3(2): 408; N.V.Tien, 2002. Cỏ biển Việt Nam. 164, f.1.9; N. T. Do, 2005.
Checkl. Pl. Spec. Vietn. 3: 430; Wang, Q. et al. 2010. Fl. China, 23: 119.
- Diplanthera pinifolia Miki. 1932. Bot. Mag. Tokyo 46: 787.
Tên Việt Nam: cỏ Hẹ, cỏ Hẹ tròn (hình 3.9).
Mô tả: Thân bò nhỏ, đường kính 1 mm, lóng thân dài 1 - 3 cm, vảy lá hình
trứng, có màng. Lá hẹp tuyến tính, dài 2 – 8 cm, rộng 0,5 – 0,8 mm, có 3 gân dễ thấy.
Răng bên không rõ ràng, đỉnh bị cắt cụt hoặc tù tròn. Bẹ lá 1 – 1,5 cm. Hoa nhỏ. Cuống
hoa đực dài khoảng 1 cm, bao phấn 0,5 mm, đôi khi có vẩy ở gốc. vòi nhụy hoa cái ở
bên, dài 1,3 mm. Quả hình trứng, dài 2 mm, mỏ ở bên, dài 1 mm.
Loc.class.: China: Taiwan: Takao, 16 Dec 1925. Typus: S. Miki s.n.
Phân bố: Quảng Ninh (Hà Dong), Hà Tĩnh (Kỳ Lợi), Quảng Bình (Quảng
Đông), Thừa – Thiên Huế (Tam Giang – Cầu Hai, Lăng Cô), Quảng Nam (Cửa Đại),
Khánh Hòa (Văn Phong, Mỹ Giang, Nha Trang, Cam Ranh, Thủy Triều, Mỹ Hòa),
đầm Nại (Ninh Thuận), Bà Rịa – Vũng Tàu (Côn Đảo), Kiên Giang (Phú Quốc). Còn
có ở Ấn Độ, Mianma, Xri Lanka, Malaixia, Inđônêxia, Philippin, Thái Lan, Trung
Quốc, Nhật Bản, Úc.
Sinh thái: Nền đáy cát, cát mịn, cát bùn.
Mẫu nghiên cứu: Việt Nam, tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tam Giang – Cầu Hai:
IMER-TG-OND-I-ĐT-5, 16°17'0.39"N - 107°54'10.09"E; IMER-TG-KC08-I-ĐT-5,
16°17'0.39"N - 107°54'10.09"E; IMER-TG-47-I-ĐT-5, 16°20'42.81"N -
107°50'4.81"E; Việt Nam, tỉnh Bình Định, đầm Thị Nại: IMER-TNAI-KC08-I-ĐT-5,
13°49'9.20"N - 109°13'31.24"E; Việt Nam, tỉnh Ninh Thuận, đầm Nại: IMER-NAI-
KC08-I-ĐT-7, 11°37'39.95"N - 109° 3'3.07"E (IMER).
72
4
1 2 3
Hình 3.9. Cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia
1. hình dạng cây (hình theo www.seagrasswatch.org), 2. hình dạng cây, 3. đầu lá, 4.
dạng sống (ảnh tại Cầu Hai, năm 2014)
73
3.1.3. Biến động thành phần loài cỏ biển
3.1.3.1. Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Xác định được 6 loài cỏ biển thuộc 4 chi, 4 họ (họ Thủy thảo Hydrocharitaceae,
họ cỏ Kiệu Cymodoceaceae, họ cỏ Lươn Zosteraceae và họ cỏ Kim Ruppiaceae) (bảng
3.3, hình 3.10). Loài cỏ Lươn nhật Zostera japonica chiếm ưu thế, chúng đặc trưng cho
vùng ôn đới và cận nhiệt đới, tại Việt Nam chúng chỉ có ở vùng ven biển từ vịnh Bắc Bộ
cho đến Nam Trung bộ Việt Nam (đầm Thị Nại – tỉnh Bình Định là nơi phân bố cuối
cùng). Lần đầu tiên ghi nhận loài cỏ Hẹ ba răng Halodule uninervis tại đây. Kết quả này
đã nâng tổng số loài cỏ biển được xác định từ trước đến nay tại đây từ 6 lên 7 loài, không
thấy sự xuất hiện loài Xoa nhỏ Halophila minor [121] có thể do nguyên nhân trận lũ lịch
sử tháng 11 năm 1999 là vỡ đập Hòa Duân [122] đã phá hủy toàn bộ hệ sinh thái tại đây.
Hình 3.10. Hình thái chung của các loài cỏ biển đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
(R.m: Ruppia maritima, H.o: Halophila ovalis, H.b: Halophila beccarii, Z.j: Zostera
japonica, H.p: Halodule pinifolia, H.u: Halodule uninervis)
Điều đặc biệt, cỏ Nàn Halophila beccarii là loài nằm trong “Danh lục đỏ - Red
list” của IUCN-2010 [123], là loài dễ bị tổn thương và có nguy cơ tuyệt chủng
(Vulnerable B2ab(iii)c(ii,iii) ver 3.1), nhưng lại xuất hiện rất nhiều tại đầm phá Tam
Giang – Cầu Hai. Cỏ Nàn Halophila beccarii sống trong các đại dương thế giới và
phân bố rải rác ở miền nam Trung Quốc, Đông Nam Á, Ấn Độ và Madagascar, trong
rừng ngập mặn phía biển và đầm phá, vùng cửa sông trên các bãi bùn. Loài cỏ này còn
74
là nguồn thức ăn cho vật không xương sống ở biển và một số loài cá tôm và là môi
trường sống cho cua móng ngựa ở giai đoạn chưa trưởng thành.
Bảng 3.3. Thành phần loài, phân bố cỏ biển tại Tam Giang – Cầu Hai
Phân bố rộng
STT Tên khoa học Tên Việt Nam ÔL TG ĐS HT CH
Họ Hydrocharitaceae – Họ Thủy thảo
1 Halophila beccarii Asch. cỏ Nàn + + +
2 Halophila ovalis (R.Br.) Hook. f. cỏ Xoan + + + +
Họ Ruppiaceae – Họ cỏ Kim
3 Ruppia maritima Lin. cỏ Kim biển + + + + +
Họ Zosteraceae – Họ cỏ Lươn
4 Zostera japonica Ash. & Grarb. cỏ Lươn nhật + + + +
Họ Cymodoceaceae – Họ cỏ Kiệu
Halodule pinifolia (Miki) den 5 cỏ Hẹ tròn + + + + Hartog
6 Halodule uninervis (Forssk.) Asch. cỏ Hẹ ba răng + +
Tổng cộng 1 5 5 5 6
Ghi chú: Ô Lâu (ÔL), Tam Giang (TG), Đầm Sam (ĐS), Hà Trung – Thủy Tú (HT), Cầu Hai (CH).
Qua bảng 3.3 cũng có thể thấy Cầu Hai là khu vực có sự đa dạng thành phần loài cỏ biển cao nhất (6 loài), Ô Lâu chỉ có duy nhất loài cỏ Kim biển Ruppia maritima (khu vực có nguồn nước ngọt do sông Ô Lâu đổ vào).
75
3.1.3.2. Đầm Thị Nại
Kết quả nghiên cứu đã xác định được đầy đủ 7 loài so với 6 loài được biết trước
đây [8, 124], thuộc 5 chi, 4 họ phân bố trong đầm Thị Nại (bảng 3.4).
Bảng 3.4. Biến động thành phần loài cỏ biển trong đầm Thị Nại
Biến động loài Tên Việt TT Tên khoa học Nam 2005(*) 2009(**) 2015
Họ Hydrocharitaceae – Họ Thủy thảo
1 Halophila beccarii Asch. cỏ Nàn + + +
2 Halophila ovalis (R. Br) Hook. f. cỏ Xoan + + +
Thalassia hemprichii (Ehr. ex Sol.) 3 + cỏ Vích + Asch.
Họ Ruppiaceae – Họ cỏ Kim
cỏ Kim 4 Ruppia maritima Lin. + + + biển
Họ Zosteraceae – Họ cỏ Lươn
cỏ Lươn 5 Zostera japonica Asch. & Graeb. + + + nhật
Họ Cymodoceaceae – Họ cỏ Kiệu
cỏ Hẹ Halodule pinifolia (Miki) den + + 6 tròn Hortog
cỏ Hẹ ba + + + 7 Halodule uninervis (Forssk.) Asch. răng
6 6 7 Số lượng loài
Ghi chú: (*)Nguyễn Xuân Hòa (2011) [124]; (**)Nguyễn Văn Tiến (2008) [8]
Qua bảng 3.4, có thể thấy sự biến động của cỏ Hẹ tròn và cỏ Vích qua các thời
kỳ. Theo các báo cáo thì những năm 2005, 2006 không có sự xuất hiện của cỏ Hẹ tròn
76
[8, 124], đến những năm 2008, 2009 cỏ Hẹ tròn xuất hiện và thay vào đó là sự mất đi
của cỏ Vích ở khu vực cửa đầm – nơi có nhiều hoạt động kinh tế diễn ra và đặc biệt là
xây dựng cảng Quy Nhơn [124].
Có sự phân bố tuy không nhiều của loài cỏ Nàn Halophila beccarii là loài nằm
trong “Danh lục đỏ - Red list” của IUCN-2010 [123], là loài dễ bị tổn thương và có
nguy cơ tuyệt chủng (Vulnerable B2ab(iii)c(ii,iii) ver 3.1) trên thế giới.
3.1.3.3. Đầm Nại
Theo Nguyễn Trọng Nho (1994) [125], ở đầm Nại có 3 chi cỏ biển: Diplanthera
(Halodule), Thalassia và Halophila. Chi cỏ Thalassia phát triển gần như quanh năm, trữ
lượng khoảng 200 tấn/năm, được sử dụng làm phân bón và chăn nuôi [126], nhưng đến
này cỏ Vích chỉ là các quần thể rải rác, sống hỗn hợp với độ phủ không cao với các quần
thể cỏ lá Dừa (Enhalus acoroides). Số liệu về trữ lượng của chi cỏ Vích Thalassia như
trên là quá cao chưa chắc đã là cỏ Vích, có thể đó là trữ lượng của loài cỏ Lá dừa
Enhalus acoroides và trong cả 3 đầm phá nghiên cứu, chỉ có đầm Nại có loài này phân
bố. Như vậy, đầm Nại có tổng số 6 loài cỏ biển biển thuộc 3 họ, 5 chi khác nhau:
Halodule pinifolia, Halophila ovalis, Halophila major, Enhalus acoroides, Thalassia
hemprichii, Ruppia maritima (bảng 3.5).
Bảng 3.5. Biến động thành phần loài cỏ biển tại đầm Nại
Biến động loài Tên Việt TT Tên khoa học Nam 1994(*) 2003(**) 2015
Họ Hydrocharitaceae – Họ Thủy thảo
cỏ Lá 1 Enhalus acoroides (L.f) Royle + dừa
Thalassia hemprichii (Ehrenb. ex + 2 cỏ Vích + + Solms) Asch.
cỏ Xoan + 3 Halophila major (Zoll.) Miquel lớn
77
4 Halophila ovalis (R. Br) Hook. f. cỏ Xoan + + +
Họ Ruppiaceae – Họ cỏ Kim
5 Ruppia maritima Lin. cỏ Kim +
Họ Cymodoceaceae – Họ cỏ Kiệu
Halodule pinifolia (Miki) den cỏ Hẹ 6 + + + Hortog. tròn
Số lượng loài 3 3 6
Ghi chú: (*)Nguyễn Trọng Nho (1994) [125]; (**)Đặng Ngọc Thanh (2003) [126]
3.2. Các đặc trưng phân bố của cỏ biển
3.2.1. Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Diện tích phân bố của cỏ biển có xu hướng giảm mạnh vào thời gian 1996 –
2010, năm 1996 diện tích các thảm cỏ biển tại đây là 2.200 ha [1], năm 2003 là 1.200
ha [121], năm 2010 còn lại 1.000 ha [7].
Đến nay, diện tích này đã tăng lên đáng kể, vào khoảng 2.037 ha (hình 3.11),
được nhận định là nhờ những nỗ lực của Dự án“Quản lý Tổng hợp các hoạt động Đầm
phá Tam Giang (Thừa thiên Huế) - For Integrated Management of Lagoon Activities
(IMOLA) Project of Thua Thien Hue Province (FAO, GCP/VIE/029/ITA)" [121] nhằm
cải thiện dân sinh bằng cách tăng cường quản lý bền vững các nguồn tài nguyên thuỷ
sinh ở đầm phá, sự quản lý này sẽ có cộng đồng tham gia và phù hợp với yêu cầu kinh
tế xã hội và sản xuất của dân cư. Đồng thời, quyết định số 1142/QĐ-UBND ngày
06/6/2011 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế về việc phê duyệt “Kế hoạch giải toả, sắp
xếp lại nò sáo trên đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, huyện Phú Vang” [127], theo đó,
thực hiện quy hoạch phân vùng khai thác nghề nò sáo trong đầm phá và giảm 45% số
lượng nò sáo trên toàn vùng đầm phá thuộc huyện Phú Vang; giảm áp lực khai thác
nghề nò sáo nhằm từng bước phục hồi môi trường sinh thái, nguồn lợi thuỷ sản, thông
thoáng các luồng lạch giao thông, di cư của các loài thuỷ hải sản vùng đầm phá Tam
78
Giang – Cầu Hai thuộc địa bàn thị trấn Thuận An và 08 xã: Phú Thuận, Phú Hải, Phú
Diên, Vinh Xuân, Vinh Hà, Vinh Phú, Phú Đa, Phú Xuân.
Hình 3.11. Hiện trạng và biến động phân bố của cỏ biển
tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Một số thảm cỏ biển tập trung như Tam Giang 5 (Cồn Dài) là 1.450 ha; Cầu Hai
2 (Cồn Lậy – Vinh Hiền): 105 ha; Cầu Hai 3 – Cầu Hai 4 (Vinh Giang – Ba Cồn): 224
ha, Cồn Thờ: 130 ha, Cầu Hai 5 và Cầu Hai 1 (Lộc Bình – Lê Thiện): 78 ha; Đầm Sam
và Tam Giang 5 (Cồn Sơn – Hợp Châu): 60 ha; Cồn Tè - Quảng Thanh: 70 ha (bảng
3.6). Đây là những nơi cư trú cũng như bãi đẻ quan trọng của các loài thủy, hải sản
trong đầm phá.
79
Bảng 3.6. Diện tích một số thảm cỏ biển tại Tam Giang – Cầu Hai
STT Trạm Diện tích (ha) Loài phân bố
Ô Lâu 1 1 803 Ruppia maritima
Ô Lâu 2 2
Ô Lâu 3 3
Zostera japonica, Halodule pinifolia, 4 Ô Lâu 4 50 Ruppia maritima
Ô Lâu 5 5
6 Cồn Tè 70 Zostera japonica, Halophila beccarii
7 Đầm Sam 1
Zostera japonica, Halodule pinifolia, 8 Đầm Sam 2 60 Halodule uninervis, Ruppia maritima
9 Tam Giang 4
10 Tam Giang 5 1.450 Zostera japonica, Ruppia maritima
11 Cầu Hai 5 Zostera japonica, Halodule pinifolia, 78 Halodule uninervis, 12 Cầu Hai 1
Zostera japonica, Halodule pinifolia, 13 Cầu Hai 2 105 Halodule uninervis, Halophila ovalis
14 Cầu Hai 3 Zostera japonica, Halodule pinifolia,
224 Halodule uninervis, Halophila ovalis, 15 Cầu Hai 4 Halophila beccarii
Tổng cộng 2.840 6 loài
Đặc điểm phân bố theo mặt rộng của cỏ thủy sinh bậc cao tại đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai được trình bày ở bảng 3.5 và bảng 3.6. Số loài tại phá Tam Giang đã
phát hiện là 5 loài (trong đó có 01 loài là cỏ nước ngọt), tại Cầu Hai: 5 loài cỏ biển, tại
80
Hà Trung - Thủy Tú: 7 loài (có 02 loài cỏ nước ngọt). Hai khu vực có số loài đa dạng
nhất là Ô Lâu và Cầu Hai đều có 09 loài nhưng hoàn toàn khác nhau về thành phần,
trong khi ở Ô Lâu có tới 8 loài cỏ nước ngọt, thì tại đầm Cầu Hai lại có 6 loài cỏ biển.
Sự phân bố theo độ sâu của từng loài là khác nhau ở đầm phá Tam Giang – Cầu
Hai. Ngoài đặc điểm phân bố của loài, sự phân bố này còn phụ thuộc rất nhiều vào đặc
điểm môi trường (chủ yếu là độ đục làm giảm cường độ ánh sáng). Cỏ biển có thể phân
bố ở cả vùng triều và dưới triều (có thể tới độ sâu 28 m, tại Bạch Long Vỹ) [11].
Ngoài ra, tuỳ vào điều kiện sinh thái cụ thể mà phân bố sâu của cỏ biển cũng
khác nhau. Tại Gia Luận, cỏ biển thường phân bố ở độ sâu khoảng 0,5 – 1,5 m. Tại
Tam Giang – Cầu Hai là 0,5 – 0,8 m, nơi có độ sâu hơn 2,0 m vẫn gặp loài cỏ Xoan
Halophila ovalis.
Bảng 3.7. Phân bố cỏ biển theo độ sâu ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
STT Mặt cắt.trạm Độ sâu (m) Loài
Zostera japonica, Halophila beccarii 1 MCI.A 0,5
Zostera japonica, Halophila beccari 2 MCI.B 0,4
MCII.A 0,6 – 0,8 Zostera japonica 3
MCII.B 0,8 – 1,1 Zostera japonica, Halophila ovalis 4
Halodule pinifolia, Ruppia maritima, 5 MCIII.A 0,6 Halophila beccarii
6 MCIII.B 0,5 Ruppia maritima, Halophila beccarii
7 B6 1,5 – 1,7 Ruppia maritima, Halophila beccarii
8 K32 2,5 Halodule pinifolia
Địa hình đáy vùng trung tâm Tam Giang và Thủy Tú có dạng lòng chảo không
có cỏ biển. Qua các chuyến khảo sát ở chính giữa lòng chảo đầm phá (sâu 3 – 5 m, ở
cửa Thuận An có chỗ sâu 7 – 9 m) từ xã Quảng Phước qua cầu Thuận An tới xã Phú
Hải các thợ lặn cho biết, không bắt gặp một loài cỏ nào. Cỏ biển hầu hết phân bố ở ven
81
hoặc trên các cồn nổi và ven rìa đầm phá, có độ sâu từ 0,5 – 2,5 m, tại cồn cát phía
trong cửa Tư Hiền là nơi sâu nhất bắt gặp cỏ biển phân bố với 03 loài Zostera
japonica, Halodule pinifolia và Halophila ovalis. Phân tích này phù hợp với nghiên
cứu của Nguyễn Văn Tiến (2002) [11].
3.2.2. Đầm Thị Nại
Tổng hợp từ các tài liệu đã công bố [8, 18, 124], các thảm cỏ biển đầm Thị Nại
có tổng diện tích từ 200 - 215 ha. Đến nay, sau các đợt khảo sát, thống kê và kết hợp
với phân tích hình ảnh vệ tinh đã cho thấy tổng diện tích cỏ biển ở đây còn khoảng 180
ha. Các loài cỏ Lươn, cỏ Hẹ, cỏ Xoan và cỏ Nàn thường phân bố trên nền đáy bùn cát
và cát bùn dọc theo vùng nước nông ven bờ trong các ao đìa nuôi thủy sản và trên các
cồn nổi như ở phía tây nam cầu Thị Nại, khu vực cửa sông Hà Thanh (TNMR14,
TNMR17) với độ phủ từ 25 – 90% (bảng 3.8, hình 3.12).
Hình 3.12. Sơ đồ phân bố cỏ biển đầm Thị Nại.
82
Loài cỏ Kim phát triển khá tốt ở các vùng ven bờ ao, đìa nuôi thủy sản, với
độ sâu từ 0,5 m – 1 m và khi triều rút có thể bị phơi bãi, như ở các cồn nổi Cồn
Chim. Loài cỏ Vích chỉ phân bố hạn chế ở gần cửa đầm, nơi có độ mặn cao và
tương đối ổn định.
Cỏ Lươn nhật Zostera japonica tuy là loài chiếm ưu thế về diện tích phân bố
(140/180 ha, tính cả diện tích thảm cỏ hỗn hợp), nhưng cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia
lại là loài có tần suất bắt gặp cao nhất (7/11 điểm) (bảng 3.8).
Diện tích
Độ phủ
Loài cỏ
Trạm
(ha)
(%)
5 – 10 Halodule pinifolia, Halophila ovalis
TNMR3
5
TNMR4
20
25 - 50
Zostera japonica
TNMR5
4
5 – 10 Halodule pinifolia
TNMR6
30
25 - 50 Halodule pinifolia, H. uninervis, Zostera japonica
TNMR7
13
5 - 25
H. pinifolia, H. uninervis
2
TNMR10
15 – 25 H. pinifolia
2
TNMR11
5 – 10 Halophila beccarii
50
TNMR14
25 - 50 Halodule pinifolia, Zostera japonica
48
TNMR17
50 - 90 Halodule pinifolia, H. uninervis, Zostera japonica
5
TNMR18
25 – 50 Halophila ovalis, Halodule pinifolia, H. uninervis
1
TNMR19
15 - 25
Thalassia hemprichii
Bảng 3.8. Diện tích và độ phủ một số thảm cỏ biển chủ yếu
Đáng lưu ý, loài cỏ Lươn nhật vốn là loài cỏ ôn đới phân bố từ miền Viễn Đông
Liên Bang Nga, Nhật Bản, quần đảo Ryukyu, Triều Tiên, Hồng Kông cho đến các tỉnh
miền Bắc và Bắc Trung Bộ của Việt Nam [120]. Ngoại trừ ở Việt Nam, loài cỏ Lươn
83
nhật không tìm thấy trong danh mục loài cỏ biển của các quốc gia vùng Đông Nam Á.
Loài cỏ này không tìm được vùng biển ở tỉnh phía nam từ Phú Yên đến Kiên Giang.
Giả thiết đưa ra cho sự xuất hiện của loài cỏ Lươn nhật ở đầm Thị Nại có thể do dòng
chảy ngầm ở lớp nước vùng biển Bình Định chịu ảnh hưởng và có mối quan hệ với
dòng chảy ở vùng biển miền Bắc nước ta. Qua đây, có thể thấy đầm Thị Nại là điểm
phân bố cuối cùng của loài cỏ Lươn về phía nam, điều này cần được nghiên cứu và làm
sáng tỏ trong những nghiên cứu tiếp theo.
3.2.3. Đầm Nại
Cỏ biển tại đầm Nại phân bố rải rác phía Đông nam của đầm, nhưng tập trung
chủ yếu tại các khu vực sát bờ Trị Thủy (đơn loài Enhalus acoroides), trong các đầm
nuôi khu vực cầu Trị Thủy (đơn loài Halophila ovalis), cầu cảng khu vực Dư Khánh
(đơn loài Enhalus acoroides), cầu Đồng Nha là các đầm nuôi lớn với thảm cỏ hỗn hợp
đa loài (H. ovalis, H. major, Halodule pinifolia và Zuppia maritima). Nghiên cứu mặt
rộng của cỏ biển tại đầm Nại cho thấy rằng, cỏ biển thường phân bố ở độ sâu khoảng
0,5 - 1,5 m, ngoại trừ tại khu vực cầu cảng Dư Khánh gần cửa đầm, cỏ biển phân bố ở
độ sâu tới 5 m. Loài chiếm ưu thế lần lượt là E. acoroides, R. maritima, H. ovalis, H.
major và Halodule pinifolia (hình 3.13).
Bảng 3.9. Diện tích và độ phủ các thảm cỏ biển đầm Nại
Diện tích Độ phủ Trạm Loài phân bố (ha) (%)
Ven bờ Trị Thủy Enhalus acoroides 15 25
Đầm nuôi Trị Thủy Halophila ovalis, Ruppia maritima 2 50
Halophila ovalis, Halophila major,
Cầu Đồng Nha 38 80
Halodule pinifolia, Ruppia maritima
Enhalus acoroides, 5 25 - 50 Cầu cảng Dư Khánh Thalassia hemprichii
84
Phát hiện thêm 02 khu vực có cỏ biển phân bố lên tới hàng chục hecta tại khu
vực phía Tây Nam cầu Trị Thủy và trong các đầm nuôi cầu Đồng Khánh so với tài liệu
của Nguyễn Trọng Nho (1994) và Đặng Ngọc Thanh (2003). Dựa vào số liệu khảo sát
thực địa và ảnh vệ tinh, ước tính khu vực đầm Nại có khoảng 90 ha cỏ biển.
Hình 3.13. Sơ đồ phân bố cỏ biển đầm Nại
85
3.3. Độ phủ và mật độ chồi của cỏ biển
3.3.1. Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Nhìn chung, sinh lượng và mật độ các loài cỏ biển tại các khu vực nghiên cứu
có chiều hướng suy giảm khi tiến hành so sánh với các tài liệu nghiên cứu trước đây [7,
122, 128].
Cỏ Lươn nhật Zostera japonica là loài chiếm ưu thế và cũng là loài có mật độ
chồi và độ phủ trung bình cao nhất với 9.905 ± 550 chồi/m2, sau đó là cỏ Hẹ tròn
Halodule pinifolia đạt 6.010 ± 722 chồi/m2 và thấp nhất là loài cỏ Kim biển Ruppia
maritima với 1.112 ± 309 chồi/m2 (bảng 3.10).
Độ phủ (%)
Mật độ (chồi/m2)
Vị trí phân bố
Loài
2009 2017
2009
2017
Ngoại trừ MR1, MR7,
Zostera japonica
52,5
90
8.550 ± 1.775
9.905 ± 550
MR14, MR17, MR28
MR30, MR17
Halodule pinifolia
47,5
75
8.733 ± 1.566
6.010 ± 722
MR30
Halodule uninervis
-
25
-
1.200 ± 125
Ngoại trừ MR1, MR7,
Halophila ovalis
35,0
45
5.358 ± 1.654
3.407 ± 843
MR14, MR17, MR28
MR4, MR7, MR23,
Halophila beccarii
62,5
90
5.850 ± 1.150
5.725 ± 434
MR13, MR16
Ở tất cả các điểm
ngoại trừ MR19,
Ruppia maritima
10
25
200 ± 15
1.112 ± 309
MR29
Bảng 3.10. Mật độ chồi, độ phủ của cỏ biển tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Ghi chú: - không có số liệu
86
So sánh mật độ chồi từ năm 2009 đến năm 2017 cho thấy có sự biến động khác
nhau giữa các loài khác nhau. Năm 2009, mật độ chồi loài cỏ Lươn nhật Zostera
japonica trung bình đạt 8.550 chồi/m2, nhưng đến năm 2016 là 9.905 ± 550 chồi/m2
(tăng 1,15 lần). Tương tự, loài cỏ Kim biển Ruppia maritima có từ 200 chồi/m2 lên 325
± 17 chồi/m2. Tuy nhiên, ở các loài còn lại là sự suy giảm, ở loài cỏ Hẹ tròn Halodule
pinifolia từ 8.734 chồi/m2 còn 6.010 ± 722 chồi/m2, loài cỏ Xoan Halophila ovalis từ
5.359 chồi/m2 còn 3.407 ± 843 chồi/m2 và ở loài cỏ Nàn Halophila beccarii từ 5.850
chồi/m2 còn 5.725 ± 434 chồi/m2 [120]. Riêng loài cỏ Hẹ ba răng Halodule uninervis,
lần đầu tiên được ghi nhận nên không có số liệu so sánh.
3.3.2. Đầm Thị Nại
Tổng diện tích 180 ha có cỏ biển phân bố, các loài chiếm ưu thế lần lượt là cỏ
Lươn nhật Zostera japonica, cỏ Hẹ tròn Halpdule pinifolia, cỏ Xoan Halophila
ovalis và cỏ Nàn Halophila beccarii. Cỏ biển tại Thị Nại phân bố chủ yếu trên nền
đáy bùn cát và cát bùn dọc theo vùng nước nông ven bờ trong các ao đìa nuôi thủy
sản và trên các cồn nổi như ở phía tây nam cầu Thị Nại, khu vực cửa sông Hà
Thanh (TNMR14, TNMR17) với độ phủ từ 25 – 90% (bảng 3.11). Trong khi đó, các
thảm cỏ ở phía nam Cồn Trạng và Cồn Tàu có diện tích lớn, có vai trò quan trọng
về mặt sinh thái, nguồn lợi.
Loài cỏ Lươn nhật Zostera japonica hoàn toàn chiếm ưu thế và có độ phủ từ
31 – 75%, mật độ trung bình đạt 3.051 ± 907 chồi/m2, sinh khối từ 228,03 ± 32,69
g.khô/m2. Độ phủ của thảm cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia từ 20 - 60%, mật độ từ
350 – 1500 chồi/m2. Loài cỏ Xoan Halophila ovalis và cỏ Hẹ ba răng Halodule
uninervis phân bố thưa thớt, riêng loài cỏ Nàn Halophila beccarii hiếm gặp và chỉ
xuất hiện vào mùa mưa.
Diện tích
Độ phủ
Đặc trưng
Trạm
Loài phân bố
(ha)
(%)
quần xã
TNMR3
5
5 – 10
Hỗn hợp
Halodule pinifolia, Halophila
Bảng 3.11. Diện tích và độ phủ một số thảm cỏ biển chủ yếu
ovalis, Ruppia maritima
TNMR4
20
25 - 50
Zostera japonica, Ruppia maritima
Hỗn hợp
TNMR5
4
5 – 10
Halodule pinifolia, Ruppia maritima
Hỗn hợp
Halodule pinifolia, H. uninervis,
TNMR6
30
25 - 50
Hỗn hợp
Zostera japonica, Ruppia maritima
H. pinifolia, H. uninervis, Ruppia
TNMR7
13
5 - 25
Hỗn hợp
maritima
TNMR10
15 – 25
Halodule pinifolia
Thuần loại
2
TNMR11
5 – 10
Halophila beccarii
Thuần loại
2
Halodule pinifolia, Zostera
TNMR14
50
25 - 50
Hồn hợp
japonica, Ruppia maritima
Halodule pinifolia, H. uninervis,
TNMR17
48
50 - 90
Hỗn hợp
Zostera japonica
Halophila ovalis, Halodule
TNMR18
25 – 50
Hỗn hợp
5
pinifolia, H. uninervis
1
TNMR19
15 - 25
Thalassia hemprichii
Thuần loại
87
Cũng qua bảng 3.11, có thể nhận thấy phần lớn các thảm cỏ biển ở Thị Nại là
kiểu quần xã hỗn hợp (HH), chỉ một số ít là các thảm cỏ thuần loài (T) như ở TNMR10
và TNMR19.
3.3.3. Đầm Nại
Độ phủ giao động trong khoảng từ 50% đến 80%, có nơi lên đến 100%. Khu
vực có độ phủ thấp nhất là tại thảm cỏ Enhalus acoroides ở ven bờ Trị Thủy (25%), do
hoạt động khai thác thủy sản liên tục ngày đêm tại khu vực này, nhất là các hình thức
dã cào cày xới nền đáy và các thảm cỏ [7]. Nơi cỏ biển có độ phủ cao nhất là tại khu
88
vực cầu Đồng Nha, với quần xã cỏ biển hỗn hợp của 04 loài, diện tích lên tới 38 ha.
Độ phủ trung bình ở các mặt cắt tại đây là khoảng 65% (bảng 3.12). Mật độ chồi cao
nhất (1.116 ± 336 chồi/m2) ở loài cỏ Xoan Halophila ovalis (bảng 3.14).
Diện tích
Độ phủ
Loài phân bố
Trạm
Đặc trưng quần xã
(ha)
(%)
Ven bờ
15
25
Enhalus acoroides
Thuần loại
Trị Thủy
Đầm nuôi
2
50
Halophila ovalis
Thuần loại
Trị Thủy
Halophila ovalis, H. major,
38
80
Hồn hợp
Halodule pinifolia, Ruppia
Cầu Đồng Nha
maritima
Enhalus acoroides,
Cảng
5
37,5
Hỗn hợp
Thalassia hemprichii
Dư Khánh
Bảng 3.12. Diện tích và độ phủ các thảm cỏ biển tại đầm Nại
3.4. Đặc trưng định lượng của cỏ biển
3.4.1. Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai có tổng số 6 loài, trong đó có 3 loài chiếm
ưu thế lần lượt là cỏ Lươn nhật Zostera japonica, cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia và cỏ
Xoan Halophila ovalis.
3.4.1.1. Cỏ Lươn nhật Zostera japonica
Các chỉ số định lượng ở cỏ Lươn nhật biến đổi mạnh theo không gian (khu
vực phân bố) và thời gian (mùa). Vào mùa mưa, chiều dài của cỏ Lươn nhật thay
đổi từ 8,18 cm tại Đầm Sam đến 20,50 cm tại Tam Giang 5, chiều dài trung bình
của cỏ Lươn nhật tại vùng nghiên cứu đạt 14,14 ± 5,12 cm. Sinh khối thay đổi từ
123,8 g.khô/m2 ở trạm Ô Lâu 4 đến 1.113,8 g.khô/m2 ở Tam Giang 5, sinh khối
trung bình đạt 804,4g ± 54,7 g.khô/m2.
89
Vào mùa khô, chiều dài cỏ Lươn nhật thay đổi từ 19,53 cm ở trạm Cầu Hai 4
đến 36,70 cm ở trạm Tam Giang 5, chiều dài trung bình cỏ Lươn nhật tại vùng
nghiên cứu đạt 27,29 cm. Tương tự như vậy, sinh khối thay đổi từ 1.466,4 g.khô/m2
ở trạm Cầu Hai 4, đến 4.041,5 g.khô/m2 ở trạm Tam Giang 5; trung bình đạt 2.753,9
± 326,5 g.khô/m2. Trung bình năm, chiều dài đạt 20,71 ± 2,15 cm, sinh khối đạt
1.779,1 ± 305,5 g.khô/m2. Qua đây cũng thấy rõ mùa khô thích hợp cho cỏ Lươn
nhật sinh trưởng và phát triển (hình 3.14).
Hình 3.14. Biến động sinh khối cỏ Lươn nhật Zostera japonica
tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Đánh giá sự ảnh hưởng của mật độ chồi và chiều dài tới sinh khối, chúng tôi
tiến hành phân tích tương quan dựa vào 120 mẫu định lượng của loài cỏ Lươn nhật
Zostera japonica ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Áp dụng phương trình tuyến
tính (y = a.x + b, với p<0,05) cho kết quả tương quan thuận (hình 3.15) và qua đó
cũng cho thấy mật độ chồi là yếu tố có ảnh hưởng mạnh tới sinh khối hơn là chiều
dài thân cỏ (r = 0,92 và r = 0,74).
Đồng thời, kết quả phân tích tỷ lệ sinh khối trên/dưới mặt đất cũng cho thấy
rằng vào mùa khô cỏ phát triển tốt hơn mùa mưa với tỷ lệ trung bình là 1,92 (tức là vào
mùa khô với 1 kg thân rễ thì có 1,92 kg chồi lá và chồi hoa), vào mùa mưa tỷ lệ này là
1,07 (1 kg thân rễ thì có 0,97 kg chồi lá và chồi hoa).
90
Hình 3.15. Tương quan sinh lượng loài cỏ Lươn nhật Zostera japonica
tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Kết quả phù hợp với đặc điểm sinh thái nói chung của cỏ biển vùng nhiệt đới,
vào mùa khô mưa ít, độ muối cao và ổn định, ít hoặc không có bão và sóng lớn là điều
kiện cho cỏ biển phát triển tốt. Đồng thời, cỏ biển cũng thường có mật độ chồi thấp vào
mùa mưa do độ đục cao, độ muối giảm và không ổn định. Kết quả này phù hợp với kết
quả khi nghiên cứu loài cỏ Lươn nhật Zostera japonica ở Cửa Đại (Quảng Nam) [120,
129, 130] và tài liệu của Terrados et al (1998)[ 131] khi nghiên cứu cỏ biển ở
Philippin.
3.4.1.2. Cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia
Vào mùa mưa, chiều dài của cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia có giá trị thấp nhất
(8,10 cm) ở trạm Cầu Hai 2, cao nhất (12,88 cm) ở trạm Cầu Hai 4, chiều dài trung
bình của Hẹ tròn tại vùng nghiên cứu đạt 10,49 ± 3,89 cm. Sinh khối cũng thay đổi từ
387,5 g.khô/m2 ở trạm Cầu Hai 2 đến 475,0 g.khô/m2 ở trạm Cầu Hai 4, trung bình đạt
431,3 ± 25,8 g.khô/m2.
Mùa khô, chiều dài của cỏ Hẹ tròn thay đổi từ 9,86 cm ở trạm Cầu Hai 4 đến
17,26 cm ở trạm Cầu Hai 2, chiều dài trung bình đạt 13,56 ± 4,47 cm. Sinh khối thay
91
đổi từ 650,0 g.khô/m2 ở trạm Cầu Hai 4 đến 1.012,5 g.khô/m2 ở trạm Cầu Hai 2, trung
bình đạt 831,3 ± 155,3 g.khô/m2. Trung bình năm, chiều dài đạt 12,02 ± 1,5 cm, sinh
khối đạt 831,3 ± 155,3 g.khô/m2. Qua đây cũng thấy mùa khô thích hợp cho cỏ Hẹ tròn
sinh trưởng và phát triển (hình 3.16).
Hình 3.16. Biến động sinh lượng cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia tại Cầu Hai
3.4.1.3. Cỏ Xoan Halophila ovalis
Tại Tam Giang – Cầu Hai, cỏ Xoan Halophila ovalis chỉ phân bố ở những nơi
có độ mặn cao như vùng phụ cận cửa Thuận An (Cồn Tè, Tam Giang 5), cửa Tư Hiền
(Cầu Hai 2) và khu vực cầu Trường Hà (Vinh Xuân). Vào mùa mưa, chiều dài thân cỏ
thay đổi từ 2,96 cm ở Cầu Hai 2 cho đến 3,59 cm ở trạm Tam Giang 5; chiều dài trung
bình của cả vùng nghiên cứu đạt 3,17 ± 0,39 cm. Sinh khối của cỏ Xoan thay đổi từ
160,0 g.khô/m2 ở trạm Cồn Tè, đến 280,0 g.khô/m2 ở trạm Cầu Hai 2, trung bình toàn
vùng nghiên cứu là 220,0 ± 25,1 g.khô/m2.
Vào mùa khô, chiều dài của cỏ Xoan thay đổi cm từ 3,69 cm ở trạm Cầu Hai 2
đến 3,93 cm ở trạm Tam Giang 5; trung bình đạt 3,79 ± 0,22 cm. Sinh khối thay đổi từ
160,0 g.khô/m2 ở Cồn Tè đến 380,0 g.khô/m2 ở Cầu Hai 2, trung bình toàn vùng
nghiên cứu đạt 293,3 ± 44,9 g.khô/m2 (hình 3.17).
92
Hình 3.17. Biến động sinh khối cỏ Xoan Halophila ovalis
tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
3.4.1.4. Cỏ Nàn Halophila beccarri
Cỏ Nàn Halophila beccarri là loài phân bố phổ biến ở các bãi triều, bãi bồi ở
vùng nghiên cứu, chúng có kích thước nhỏ bé, phát triển thành thảm mỏng bò lan trên
nền đáy. Chiều dài trung bình đạt 3,34 ± 0,06 cm, sinh khối cỏ trung bình đạt 206,6 ±
17,6 g.khô/m2. Trong khi đó, theo nghiên cứu 10 năm về trước của Nguyễn Văn Tiến
(2006) [129] sinh khối cỏ Nàn tại đây chỉ đạt 57,7 g.khô/m2, thấp hơn nhiều so với
nghiên cứu hiện tại.
3.4.1.5. Cỏ Kim biển Ruppia maritima
Phần lớn cỏ Kim biển Ruppia maritima phân bố ở trong đầm thủy sản nước lợ,
do đó sự phát triển và phân bố của cỏ Kim phụ thuộc vào thời gian sản xuất và các hoạt
động của con người (đóng mở cống, phơi đầm hay không phơi đầm, dọn rong-cỏ tạp
v.v.). Tại MR24 có mật độ chồi thấp nhất: 575 ± 25 chồi/m2, cao nhất tại MR13 với
2.200 ± 548 chồi/m2, trung bình toàn vùng đạt 1.112 ± 309 chồi/m2. Chiều dài và sinh
khối trung bình lần lượt là 56,2 ± 12,8 cm 1.963,8 ± 18,0 g.khô/m2.
3.4.1.6. Cỏ Hẹ ba răng Halodule uninervis
Lần đầu tiên được thu mẫu loài cỏ Hẹ ba răng Halodule uninervis tại Cầu Hai
(đầm phá Tam Giang – Cầu Hai) và bước đầu đã có những phân tích định lượng về
93
sinh khối cỏ Hẹ ba răng Halodule uninervis với giá trị chỉ đạt 294,05 ± 27,8 g.khô/m2,
thấp hơn nhiều so với sinh khối của cỏ Hẹ tròn H. pinifolia (831,3 ± 155,3 g.khô/m2).
3.4.2. Đầm Thị Nại
Nhìn chung, các chỉ tiêu định lượng của cỏ biển tại đầm Thị Nại có chiều hướng
suy giảm khi tiến hành so sánh với các tài liệu và nghiên cứu trước đây [1, 8, 11, 129].
3.4.2.1. Cỏ Lươn nhật Zostera japonica
Sinh khối và mật độ chồi cỏ Lươn nhật Zostera japonica tại đây có sự thay
đổi rõ rệt theo mùa, vào mùa khô thường cao hơn mùa mưa. Tại trạm TNMR17,
sinh khối là 114,05 ± 32,57 g.khô/m2, mùa khô là 342,6 ± 55,23 g.khô/m2. Chiều
dài trung bình đạt 22,87 ± 1,5 cm. Có sự biến động trên đây là do các yếu tố môi
trường, trong đó độ mặn đóng vai trò quyết định. Vào mùa mưa độ mặn giảm mạnh
xuống ngưỡng 3 – 5‰, không tích hợp cho các loài cỏ ưa mặn phát triển. Khi mùa
mưa kết thúc, do sự trao đổi nguồn nước trong đầm khiến độ mặn trong đầm tăng
dần và ngoài biển đã giúp cho cỏ biển phục hồi. Sự suy giảm sinh khối, mật độ và
độ phủ theo thời gian còn do các hoạt động khai thác thủy sản không có quy hoạch
từ người dân, khiến nền đáy bị khuấy đảo, độ đục tăng, môi trường đầm bị ô nhiễm
và phú dưỡng là điều kiện cho các loài tảo phát triển mạnh mẽ, phủ lên trên bề mặt
tán cỏ. Không thể diễn ra quá trình quang hợp và hô hấp, vì thế cỏ biển sẽ tàn lụi.
Mật độ chồi và sinh khối cỏ Lươn nhật tại đầm Thị Nại đạt trung bình lần lượt là
3051 ± 907 chồi/m2, 228,03 ± 32,69 g.khô/m2 (bảng 3.14).
3.4.2.2. Cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia
Mật độ chồi cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia tại các trạm nghiên cứu đạt từ 505 –
1928 chồi/m2 (trung bình năm đạt 907 ± 322 chồi/m2) với sinh khối từ 48,17 – 130,93
g.khô/m2 (trung bình năm đạt 81,42 ± 18,56 g.khô/m2) (bảng 3.14).
3.4.2.3. Cỏ Xoan Halophila ovalis
94
Cỏ Xoan Halophila ovalis phân bố tập trung với độ phủ từ 25 – 50% ở khu
Đông Bắc đầm Thị Nại, có sinh khối trung bình năm đạt 141,21 ± 7,80 g.khô/m2 và
mật độ trung bình năm đạt 505 ± 32 chồi/m2 (bảng 3.14).
3.4.2.4. Cỏ Nàn Halophila beccarri
Tại đầm Thị Nại, cỏ Nàn Halophila beccarri phân bố thưa thớt (5 - 25%) và chỉ
bắt gặp vào mùa mưa. Sinh khối và mật độ trung bình năm lần lượt là 23,57 ± 1,52
g.khô/m2 và 156 ± 11 chồi/m2 (bảng 3.14).
3.4.2.5. Cỏ Kim biển Ruppia maritima
Cỏ Kim biển Ruppia maritima chủ yếu có mặt trong các đầm nuôi thủy sản
quanh đầm, và bắt gặp nhiều nhất tại các đầm nuôi khu vực Cồn Chim. Sinh khối và
mật độ trung bình năm đạt: 812,33 ± 21,95 g.khô/m2 và 964 ± 67 chồi/m2 (bảng 3.14).
3.4.2.6. Cỏ Hẹ ba răng Halophila uninervis
Loài cỏ Hẹ ba răng có sinh khối bình thay đổi tùy theo trạm khảo sát, thấp nhất
tại TNMR18 với 325 ± 23,67 g.khô/m2 và cao nhất tại TNMR17 với 461,07 ± 69,0
g.khô/m2, chiều dài và sinh khối trung bình lần lượt đạt 9,7 ± 0,8 cm, 393,0 ± 26,7
g.khô/m2. Mật độ thân chồi thay đổi từ 350 – 1.500 chồi/m2 tùy vào trạm khảo sát,
trung bình đạt 925 ± 33 chồi/m2 (bảng 3.14).
3.4.2.7. Cỏ Vích Thalassia hemprichii
Cỏ Vích Thalassia hemprichii phân bố ở vùng cửa đầm với diện tích không
đáng kể, ở đó có độ mặn cao và ổn định quanh năm. Cỏ Vích tại đây có mật độ chồi
thấp nhất nhưng chiều dài và sinh khối khá cao, lần lượt là 86 ± 11 chồi/m2, 14,43 ±
2,4 cm và 156,06 ± 48,17 g.khô/m2 (bảng 3.14).
Qua các phân tích trên đã cho thấy cấu trúc của các thảm cỏ biển ở Cồn Trạng
và Cồn Tàu có sự thay đổi vào mùa mưa và mùa khô. Mùa khô mật độ, sinh khối và độ
phủ của thảm cỏ biển cao hơn mùa mưa. Sự biến đổi này là do các yếu tố môi trường
mà trong đó độ mặn đóng vai trò quyết định. Sinh khối trung bình các loài cỏ biển tại
đầm Thị Nại đạt 262,23 ± 23,40 g.khô/m2.
95
Để đánh giá là có phải mật độ chồi của cỏ biển có ảnh hưởng đến sinh khối,
chúng tôi tiến áp dụng phương trình tuyến tính (y = a.x + b, với p<0,05) với hệ số
tương quan R2 để tính toán đối với loài cỏ Lươn nhật Zostera japonica. Kết quả R2
= 0,69 (r = 0,83) một lần nữa cho thấy sự tương quan thuận khá mật thiết giữa mật
Số lượng chồi/m2
Sinh lượng g.khô/m2
5000 4500 4000 3500 3000 2500 2000 1500 1000 500 0
H. pinifolia
H. pinifolia
Z. japonica
H. beccarii Z. japonica
H. pinifolia H. pinifolia H. uninervis Z. japonica
H. ovalis T he m prichii
độ chồi và sinh khối ở loài cỏ Lươn nhật (hình 3.18, hình 3.19).
Hình 3.18. Mật độ chồi và sinh khối cỏ biển đầm Thị Nại
Hình 3.19. Mối tương quan giữa sinh khối và mật độ chồi cỏ Zostera japonica
3.4.3. Đầm Nại
Các số liệu về các đặc trưng sinh lượng các loài cỏ biển tại đầm Nại được thể
hiện tại bảng 3.12, bảng 3.13 và được phân tích cụ thể như sau:
96
3.4.3.1. Cỏ Lá dừa Enhalus acoroides
Cỏ Lá dừa Enhalus acoroides là loài chiếm ưu thế, phân bố trên nền đáy cát bùn
phá lẫn vỏ thân mềm. Có thân ngầm cùng bộ rễ phát triển rất mạnh, đâm sâu xuống đáy
bùn tới 0,5 m – 1 m. Độ phủ trung bình đạt 37,5%, Chiều dài thân thay đổi từ 44,55 cm
đến 136,86 cm (trung bình 84,23 ± 9,85 cm). Số lượng chồi đạt 150 ± 5 chồi/m2 (cao
hơn vụng Cù Mông – Phú Yên có 40 – 104 chồi/m2, động Bà Thìn - Cam Ranh có 55 –
120 chồi/m2) [129, 132], sinh khối trung bình đạt 2791,4 ± 145,1 g.khô/m2 (trong khi
tại vụng Cù Mông là 318 g.khô/m2, động Bà Thìn là 165 g.khô/m2, Kiên Giang là
1144,55 g.khô/m2 [129, 132, 133]), cao hơn 2,4 lần sinh khối trung bình của cỏ Lá dừa
Enhalus acoroides trên toàn cầu (464,4 g.khô/m2) [133], cao hơn 1,5 lần so với sinh
khối trung bình cỏ Lá dừa Enhalus acoroides ở vùng biển Papua New Guinea với
773,6 g.khô/m2 [134]. Tỷ lệ sinh khối trên và dưới mặt đất (SKT/SKD) tại đầm Nại là
0,75 (trong khi tại Kiên Giang là 0,31 [132]) thể hiện sinh khối thân ngầm vượt trội của
cỏ Lá dừa Enhalus acoroides.
Hình 3.20. Biểu đồ so sánh sinh lượng của cỏ Enhalus acoroides tại đầm Nại
Để đánh giá được có hay không sự liên quan giữa mật độ chồi với sinh khối,
chúng tôi tiến hành áp dụng phương trình tuyến tính (y = a.x + b, với p<0,05) với hệ số
tương quan R2 để tính toán đối với loài cỏ ưu thế tại khu vực nghiênc ứu, cỏ Lá dừa
Enhalus acoroides. Kết quả thu được với R2 = 0,58 (r = 0,75) cho thấy có mối tương
97
quan khá chặt chẽ giữa mật độ chồi và sinh khối ở loài cỏ Lá dừa Enhalus acoroides
(hình 3.21).
Hình 3.21. Tương quan sinh khối và mật độ chồi cỏ Enhalus acoroides tại đầm Nại
3.4.3.2. Cỏ Vích Thalassia hemprichii
Loài cỏ Vích Thalassia hemprichii tại đầm Nại phân bố xen lẫn dưới tán cỏ Lá
dừa Enhalus acoroides tạo thành quần xã hỗn hợp. Mật độ chồi cỏ Vích không cao, với
112 ± 17 chồi/m2, chiều dài và sinh khối trung bình đạt 18,22 ± 2,2 cm và 353,7 ±
48,7 g.khô/m2.
Trong khi đó, trong một nghiên cứu của Nguyễn Văn Tiến (2006) [129] tại Hói
Mít – đầm Lập An (Thừa Thiên – Huế) cho thấy, cỏ Vích Thalassia hemprichii có mật
độ chồi và sinh khối cao hơn rất nhiều, lần lượt là 2.025 ± 775 chồi/m2, 5.234,4 ±
443,7 g.khô/m2.
3.4.3.3. Cỏ Xoan Halophila ovalis
Cỏ Xoan Halophila ovalis chủ yếu phân bố trong các đầm nuôi bỏ hoang ven
đầm Nại từ mép nước tới độ sâu 1 m, có độ phủ cao nhất ở các đầm nuôi khu vực cầu
Trị Thủy, 50%. Chiều dài thân thay đổi từ 1,40 cm đến 3,22 cm; trung bình là 2,52 ±
0,18 cm.
98
Mật độ chồi cỏ Xoan Halphila ovalis tại đầm Nại đạt 1.116 ± 336 chồi/m2, với
sinh khối là 116,1 ± 34,4 g.khô/m2 (bảng 3.13); trong khi đó, nghiên cứu của Nguyễn
Văn Tiến (2003) và Từ Thị Lan Hương (2005) tại Quảng Ninh và Hải Phòng cho thấy
mật độ chồi tương đương nhưng sinh khối thấp hơn 2 – 5 lần, cụ thể là: tại đảo Thẻ
Vàng – Quảng Ninh có 1.645 chồi/m2 và 9,6 g.khô/m2; tại Đầu Mối – Quảng Ninh là
3.360 – 5.400 (4.300) chồi/m2 và 55,6 – 73,0 (64,3) g.khô/m2 ; tại Gia Luận – Hải
Phòng là 3.500 – 6.900 (5.200) chồi/m2 và 16,2 – 68,5 (42,3) g.khô/m2; ở Inđônêxia là
1.099 chồi/m2 và 24,29 g.khô/m2 [43, 90] (hình 3.22).
Tỷ lệ sinh khối trên và dưới mặt đất của cỏ Xoan Halophila ovalis ở đầm Nại là
1,1 thể hiện ưu thế của sinh khối thân lá.
Hình 3.22. Biểu đồ so sánh sinh lượng của cỏ Halophila ovalis tại đầm Nại
3.4.3.4. Cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia
Cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia tại đầm Nại phân bố hỗn hợp cùng một số loài cỏ
biển khác, diện tích không lớn trong một số ao đầm nước mặn (32‰) chỉ tìm thấy tại
khu vực cầu Đồng Nha, ở đó có nền đáy cát và mực nước không sâu (0,5 – 1m). Chỉ số
định lượng cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia ở đây lần lượt là 17,75 ± 3,98 cm, 525 ± 35
chồi/m2 và sinh khối đạt 125,7 ± 2,4 g.khô/m2 (bảng 3.13).
99
Bảng 3.13. Đặc trưng sinh lượng cỏ biển đầm Nại
Chiều dài STT Loài cỏ thân cỏ (cm) Mật độ (chồi/m2) Sinh khối (g.khô/m2)
Enhalus acoroides 84,23 ± 9,85 150 ± 5 2.791,4 ± 145,1 1
Thalassia hemprichii 18,22 ± 2,2 112 ± 17 353,7 ± 48,7 2
3 Halodule pinifolia 17,75 ± 3,98 525 ± 15 125,7 ± 2,4
4 Halophila ovalis 2,52 ± 0,18 1.116 ± 336 116,1 ± 34,4
5 Halophila major 3,21 ± 0,13 975 ± 113 175,3 ± 47,5
6 Ruppia maritima 58,32 ± 12,55 557 ± 12 765,2 ± 128,1
3.4.3.5. Cỏ Xoan lớn Halophila major
Loài cỏ Xoan lớn Halophila major phân bố hỗn hợp với các loài cỏ biển khác,
tạo thành một quần xã các loài cỏ biển với diện tích không lớn một số ao đầm nước
mặn (32‰) khu vực cầu Đồng Nha, có nền đáy là cát và cát bùn, mực nước không sâu
(0,5 – 1 m). Các chỉ số định lượng cỏ Xoan lớn Halophila major lần lượt là 3,21 ± 0,13
cm, 975 ± 113 chồi/m2 và sinh khối là 175,3 ± 47,5 g.khô/m2 (bảng 3.13).
3.4.3.6. Cỏ Kim biển Ruppia maritima
Tương tự như cỏ Hẹ tròn Halodule pinifolia và cỏ Xoan lớn Halophila major,
cỏ Kim biển Ruppia maritima tại đầm Nại là phân bố hỗn hợp tạo thành một quần
xã cỏ biển, tuy nhiên diện tích không lớn trong một số ao đầm nước mặn (32‰) khu
vực cầu Đồng Nha, ở đó có nền đáy cát và mực nước không sâu (0,5 – 1m). Các chỉ
số định lượng tương đối thấp so với các vùng nghiên cứu khác [7, 13, 120, 121], lần
lượt là 58,32 ± 12,55 cm, mật độ chồi đạt 557 ± 12 chồi/m2 và sinh khối đạt 765,2 ±
128,1 g.khô/m2 (bảng 3.13).
100
Sinh khối
Chiều dài
Mật độ chồi
Diện tích
Loài
trung bình
Khu vực
Tỷ lệ SKT/SKD
(chồi/m2)
thân chồi (cm)
(ha)
(g.khô/m2)
H.b
3,34 ± 0,06
5.725 ± 434
206,6 ± 17,6
1,2
H.o
3,48 ± 0,2
3.407 ± 843
256,6 ± 34,7
0,82
H.p
12,02 ± 1,5
6.010 ± 722
831,3 ± 155,3
0,92
TG
2.037
H.u
12,4 ± 1,5
1.200 ± 125
294,05 ± 27,8
0,6
R.m
56,2 ± 12,8
1.112 ± 309
1.963,8 ± 18,0
1,18
Z.j
20,71 ± 2,15
9.905 ± 550
1.779,1 ± 305,5
1,5
H.p
9,10 ± 1,15
907 ± 322
81,4 ± 18,5
1,38
H.o
3,12 ± 0,07
505 ± 32
141,2 ± 7,8
1,48
H.b
3,40 ± 0,25
156 ± 11
23,57 ± 1,5
0,77
TN
180
H.u
9,7 ± 0,8
925 ± 33
393,0 ± 26,7
1,0
R.m
42,37 ± 12,1
964 ± 67
812,3 ± 21,9
1,95
Z.j
22,87 ± 1,5
3.051 ± 907
228,0 ± 32,6
1,48
Th.h
14,43 ± 2,4
86 ± 11
156,1 ± 48,2
1,6
E.a
84,23 ± 9,85
150 ± 5
2.791,4 ± 145,1
0,75
N
90
Th.h
18,22 ± 2,2
112 ± 17
353,7 ± 48,7
1,0
H.p
17,75 ± 3,98
525 ± 15
125,7 ± 2,4
0,54
Bảng 3.14. Tổng hợp các đặc trưng sinh lượng của các loài cỏ biển
H.o
2,52 ± 0,18
1.116 ± 336
116,1 ± 34,4
1,1
H.mj
3,21 ± 0,13
975 ± 113
175,3 ± 47,5
1,2
R.m
58,32 ± 12,55
557 ± 12
765,2 ± 128,1
0,48
Ghi chú: TG – đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, TN – đầm Thị Nại, N – đầm Nại, E.a –
Enhalus acoroides, Th.h – Thalassia hemprichii, H.p – Halodule pinifolia, H.u – Halodule
uninervis, H. o – Halophila ovalis, H.m – Halophila beccarii, H.mj – Halophila major, R.m –
Ruppia maritima, Z.j – Zostera japonica.
101
3.4.4. Tỷ lệ sinh khối trên và dưới của cỏ biển
3.4.4.1. Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
Nghiên cứu về tỷ lệ sinh khối trên và dưới mặt đất (SKT/SKD) là một yếu tố
để đánh giá được sức khỏe và chiều hướng sinh trưởng của cỏ biển. Kiểm tra sinh
khối dưới mặt đất của cỏ biển được coi như sự đánh giá khả năng đâm sâu vào nền
đáy, và điều đó cũng có thể giải thích rằng, các chồi mới sinh sẽ cần năng lượng từ
thân hơn là những chồi mẹ [54].
Loài cỏ Lươn nhật Zostera japonica có tỷ lệ SKT/SKD cao nhất với 1,5 (cao
hơn khá nhiều so với 0,91 năm 2009) [135]. Tỷ lệ này thấp nhất là loài cỏ Hẹ ba răng
Halodule uninervis với 0,6. Tỷ lệ SKT/SKD trung bình ở các loài là 1,01 (hình 3.23).
Hình 3.23. Tỷ lệ SKT/SKD giữa các loài cỏ biển tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
102
Kết quả trên một phần củng cố thông tin về sự phục hồi của cỏ biển tại đầm
phá Tam Giang - Cầu Hai, khi tổng số lượng loài và diện tích cỏ biển phân bố
không suy giảm, nhưng tỷ lệ sinh khối trên mặt đất và dưới mặt đất của cỏ tăng lên,
đồng nghĩa với việc cỏ biển đang phát triển ổn định.
3.4.4.2. Đầm Thị Nại
Nghiên cứu được áp dụng với các loài cỏ tại Thị Nại, kết quả cao nhất thu được
là 1,95 ở loài cỏ Kim biển Ruppia maritima và thấp nhất ở cỏ Nàn Halophila beccarii
là 0,77. Tỷ lệ SKT/SKD của loài cỏ Lươn nhật Zostera japonica ở mức trung bình
(1,48), thấp hơn so với kết quả nghiên cứu ở đầm phá Tam Giang – Cầu Hai là 1,53.
Tỷ lệ SKT/SKD trung bình các loài là 1,46, cho thấy các loài cỏ biển tại đây đang phát
triển tốt (hình 3.24).
Tuy nhiên, khi nhìn lại kết quả về tỷ lệ SKT/SKD rất cao (1,95) của cỏ Kim biển
Ruppia maritima, là sự phát triển vượt trội của thân - lá, từ đó đánh giá có sự ngọt hóa
nơi mà chúng phân bố, bởi theo Nguyễn Văn Tiến (2002)[11], cỏ Kim biển là loài ưa
lợ, có thể là coi là một trong những sinh vật chỉ thị môi trường.
Hình 3.24. Tỷ lệ sinh khối trên và sinh khối dưới giữa các loài cỏ biển đầm Thị Nại
3.4.4.3. Đầm Nại
Ở loài cỏ Lá dừa Enhalus acoroides cho tỷ lệ SKT/SKD là 0,75; ở loài cỏ Vích
Thalassia hemprichii là 1,0 và thấp nhất ở loài cỏ Kim biển Ruppia maritima (0,48).
103
Tỷ lệ SKT/SKD trung bình ở các loài là 0,84, phản ánh rằng các loài cỏ biển ở đầm Nại
phát triển chủ yếu ở thân rễ (hình 3.25).
Nhìn lại kết quả tỷ lệ SKT/SKD 0,48 của loài cỏ Kim biển Ruppia maritima và
so sánh với độ mặn khá cao 29‰ vào mùa mưa, 30‰ vào mùa khô tại đầm Nại, một
lần nữa củng cố giả thiết rằng cỏ Kim biển Ruppia maritima là loài chỉ thị độ muối.
Hình 3.25. Tỷ lệ sinh khối trên và sinh khối dưới ở các loài cỏ biển tại đầm Nại
3.5. Khả năng lưu trữ cacbon của cỏ biển
3.5.1. Trữ lượng cỏ biển
Để tính trữ lượng cỏ biển thì sinh khối (Biomass), diện tích phân bố (Square) và
độ phủ (Coverage) là các thông số tối thiểu cần có. Riêng về diện tích phân bố với tỷ lệ
lấp đầy, ta sử dụng diện tích phân bố hiện có kết hợp với độ phủ của mỗi bãi cỏ sẽ thu
được diện tích thực tế mà cỏ biển bao phủ hoàn toàn (100%). Với các thông số về định
tính và định lượng như: thành phần loài (Species), diện tích phân bố, độ phủ và sinh
khối tại các bảng 10 – bảng 12 và bảng 14, kết quả về trữ lượng cỏ biển được thể hiện
tại bảng 15.
Trữ lượng cỏ biển (tấn.khô) thu được lần lượt tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
là 10.153,7 tấn.khô, tại đầm Thị Nại là 132,1 tấn.khô và đầm Nại có 281,1 tấn.khô. Có
thể nhận thấy, tuy diện tích cỏ biển phân bố tại đầm Thị Nại (180 ha) lớn hơn 2 lần so
với đầm Nại (90 ha), nhưng trữ lượng của chúng là ngược lại (nhỏ hơn 2,1 lần). Điều
104
này cho thấy, trữ lượng cỏ biển phụ thuộc nhiều vào kích thước loài phân bố và độ phủ
của chúng tại mỗi khu vực.
Bảng 3.15. Bảng tổng hợp ước tính trữ lượng cỏ biển
Loài Trữ lượng (tấn.khô) Khu vực Độ phủ (%) Sinh khối trung bình (g.khô/m2) Diện tích phân bố (ha) Diện tích hao phủ hoàn toàn (ha)
H.b 206,6 ± 17,6 90
H.o 256,6 ± 34,7 45
H.p 831,3 ± 155,3 75
2.037 1.187 10.153,7 TG
H.u 294,05 ± 27,8 25
R.m 1963,8 ± 18,0 25
Z.j 1779,1 ± 305,5 90
H.p 81,4 ± 18,5 15
H.o 141,2 ± 7,8 22
H.b 23,57 ± 1,5 7,5
41 TN H.u 393,0 ± 26,7 180 50,4 132,1
R.m 812,3 ± 21,9 45
Z.j 228,0 ± 32,6 46
Th.h 156,1 ± 48,2 20
E.a 2791,4 ± 145,1 37,5
N 90 38,9 281,1
Th.h 353,7 ± 848,7 37,5
105
H.p 125,7 ± 2,4 80
H.o 116,1 ± 34,4 65
H.mj 175,3 ± 47,5 25
R.m 765,2 ± 128,1 15
Tổng cộng 2.307 ha 1.276,3 ha 10.566,9 tấn
Ghi chú: TG – đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, TN – đầm Thị Nại, N – đầm Nại, E.a –
Enhalus acoroides, Th.h – Thalassia hemprichii, H.p – Halodule pinifolia, H.u –
Halodule uninervis, H. o – Halophila ovalis, H.m – Halophila beccarii, H.mj –
Halophila major, R.m – Ruppia maritima, Z.j – Zostera japonica.
Để đánh giá nhanh trữ lượng cacbon hữu cơ của cỏ biển. Đề tài sử dụng hệ số
mặc định 0,47 của Uỷ ban Quốc tế về biến đổi khí hậu (IPCC, 2006)[118] để quy đổi
trữ lượng sinh khối cỏ biển (10.566,9 tấn) ở 03 đầm phá, kết quả thu được là 4.966,4
tấn.Corg, tương đương với 18.226,7 tấn.CO2 đã được hấp thụ.
3.5.2. Khả năng lưu trữ và hấp thụ cacbon của cỏ biển
Để đánh giá chính xác về khả năng lưu trữ cacbon hữu cơ của cỏ biển, một
hướng tiếp cận khác được sử dụng. Đó là phân tích cụ thể hàm lượng cacbon hữu cơ
của cỏ biển ở mỗi vùng nghiên cứu. Kết quả tính toán được tổng hợp và trình bày chi
tiết như sau (bảng 3.16):
Trạm
Loài
Địa điểm
Sinh khối trung bình (g.khô/m2)
Diện tích (ha)
Giá trị quy đổi (USD)*
Lượng CO2 quy đổi (tấn)
Hàm lượng cacbon hữu cơ (%OC)
Trữ lượng cacbon hữu cơ (tấn.Corg)
Ô Lâu 3
5
H.p
631,3 ± 31,5
27,4 ± 0,6
0,86
3,2
214
TG-
CH
Ô Lâu 4
30
R.m
1963,8 ± 18,0
22,3 ± 1,5
13,14
48,2
3.229
Bảng 3.16. Trữ lượng cacbon hữu cơ trong cỏ biển và giá trị quy đổi
Ô Lâu 5
15
Z.j
Cồn Tè
70
Z.j
Đầm Sam 1
5
Z.j
1779,1 ± 305,5
32,7 ± 4,4
9.017,3
33.093,5
2.217.265
Đầm Sam 2
10
Zj
Tam Giang
1.450
Z.j
4
Tam Giang
45
H.u
294,05 ± 27,8
26,8 ± 2,1
35,4
129,9
8.703
5
Cầu Hai 5
17
H.p
831,3 ± 155,3
35,8 ± 1,2
50,6
185,7
12.442
Cầu Hai 1
61
H.u
294,05 ± 27,8
29,1 ± 2,2
52,2
191,6
12.837
Cầu Hai 2
105
Z.j
1779,1 ± 305,5
39,4 ± 0,9
735,9
2.700,8
180.954
Cầu Hai 3
37
H.b
206,6 ± 17,6
21,7 ± 0,5
16,6
60,9
4.080
Cầu Hai 4
187
H.o
256,6 ± 34,7
30,6 ± 1,7
146,8
538,8
36.100
Tổng cộng 1
10.068,8
36.952,5
2.475.824
TNMR3
5
H.p
77,6 ± 5,04
28,5 ± 1,8
1,25
4,6
308
TNMR4
20
Z.j
162,8 ± 46,1
38,1 ± 2,1
12,41
45,6
3.055
TNMR5
4
H.u
64,2 ± 6,3
28,1 ± 2,5
0,72
2,6
174
TNMR6
30
H.p
130,9 ± 7,4
37,7 ± 0,4
14,82
54,4
3.645
Thị
Nại
TNMR7
13
H.p
59,1 ± 10,1
40,6 ± 5,9
3,12
11,4
764
TNMR10
H.p
48,2 ± 7,2
27,5 ± 1,7
0,26
1,0
67
2
TNMR11
H.b
55,1 ± 13,1
26,6 ± 2,3
0,29
1,1
74
2
TNMR14
50
Z.j
256,7 ± 14,3
41,2 ± 2,6
52,92
194,2
13.011
106
TNMR17
48
Z.j
264,5 ± 34,1
38,3 ± 1,1
48,6
178,4
11.953
TNMR18
H.o
97,4 ± 5,7
29,9 ± 0,9
1,46
5,4
362
5
TNMR19
Th.h
206,6 ± 48,2
40,64± 0,4
0,84
3,1
208
1
Tổng cộng 2
136,7
501,7
33.621
Trị Thủy1
15
E.a
2791,4 ± 145,1
44,7 ± 2,7
187,1
686,7
46.009
Trị Thủy2
2
H.o
116,1 ± 34,4
26,7 ± 1,9
0,62
2,3
154
Đầm
Nại
Đồng Nha
38
125,7 ± 2,4
33,1 ± 2,0
15,8
58,0
H.p
3.886
Dư Khánh
5
Th.h
353,7 ± 848,7
40,8 ± 5,2
7,2
26,4
1.769
Tổng cộng 3
210,7
773,3
51.818
Tổng cộng 1 + 2 + 3
10.416
38.228
2.561.263
Ghi chú: TG-CH – đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, E.a – Enhalus acoroides, Th.h –
Thalassia hemprichii, H.p – Halodule pinifolia, H.u – Halodule uninervis, H.o – Halophila
ovalis, H.m – Halophila beccarii, H.mj – Halophila major, R.m – Ruppia maritima, Z.j –
Zostera japonica, (*) kết quả được làm tròn.
107
- Tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai Hàm: hàm lượng cacbon hữu cơ trong các
loài cỏ đạt từ 21,7 ± 0,5% đến 39,4 ± 0,9% và tùy theo loài, thấp nhất ở loài cỏ Nàn
Halophila beccarii và cao nhất ở loài cỏ Lươn nhật Zostera japonica. Hàm lượng
cacbon hữu cơ trung bình ở các loài là 26,55 ± 2,3% (bảng 3.16).
- Tại đầm Thị Nại: hàm lượng cacbon hữu cơ có trong cỏ biển đạt từ 26,63 ±
2,32% đến 40,64 ± 0,45% và tùy theo loài, thấp nhất ở loài cỏ Nàn Halophila beccarii
và cao nhất ở loài cỏ Vích Thalassia hemprchii. Hàm lượng cacbon trung bình ở các
loài là 34,30 ± 1,82% (bảng 3.16, hình 3.26).
- Hàm lượng cacbon có trong cỏ biển tại đầm Nại từ 26,7 ± 1,9% đến 44,7 ±
2,7%, thấp nhất ở loài cỏ Xoan và cao nhất ở loài cỏ Lá dừa. Hàm lượng cacbon trung
bình ở các loài cỏ là 36,32 ± 4,1% (bảng 3.16), cao nhất trong các khu vực nghiên cứu.
108
Như vậy, với hàm lượng cacbon hữu cơ trung bình trong các loài cỏ ở ba đầm
phá là 32,8 ± 1,3%, cho thấy, không thể áp dụng hệ số quy đổi mặc định 0,47 (47%)
của Uỷ ban Quốc tế về biến đổi khí hậu (IPCC, 2006)[118] để quy ra trữ lượng cacbon
hữu cơ lưu trữ đối với cỏ biển.
Khảo sát mối quan hệ giữa sinh khối và hàm lượng cacbon hữu cơ ở cỏ biển,
nghiên cứu tiến hành phân tích thông qua hàm tương quan, kết quả là có mối tương
quan thuận ở mức khá (R2 = 0,51, r = 0,71) giữa sinh khối và hàm lượng cacbon hữu
cơ (hình 3.27), tuy nhiên, gần như không có sự tương quan nào giữa mật độ chồi và
hàm lượng cacbon (R2 = 0,06) (hình 3.28).
60
y = 0,0533x + 27,358 R2 = 0,512
40
C %
20
0
0
50
100
150
200
250
300
Sinh khối (g.khô/m2)
Hình 3.26. Hàm lượng cacbon hữu cơ trong một số loài cỏ biển đầm Thị Nại
Hình 3.27. Tương quan giữa sinh khối và hàm lượng cacbon đầm Thị Nại
60
y = 0,0011x + 32,469 R2 = 0,0688
40
% C
20
0
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
4500
5000
Mật độ (chồi/m2)
109
Hình 3.28. Tương quan giữa mật độ chồi và hàm lượng cacbon đầm Thị Nại
Trên cơ sở đã xác định được hàm lượng cacbon hữu cơ (%OC) của mỗi loài,
sinh khối (g.khô/m2) và diện tích phân bố của loài tại mỗi trạm (ha). Kết quả tính toán
thu được:
- Cỏ biển tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai có tổng trữ lượng cacbon hữu cơ
lưu trữ được là 10.06,88 tấn.Corg, tương đương 36.952,5 tấn.CO2 đã hấp thụ. Loài cỏ
Lươn nhật Zostera japonica có trữ lượng cao nhất (5,9 tấn.Corg/ha tương đương 21,6
tấn.CO2/ha). Trung bình mỗi hecta cỏ biển tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai có khả
năng lưu trữ 4,9 tấn.Corg (bảng 3.16).
- Cỏ biển tại đầm Thị Nại có tổng trữ lượng cacbon hữu cơ lưu trữ được là
136,7 tấn.Corg, tương đương với 501 tấn.CO2 đã hấp thụ, trong đó trữ lượng cacbon ở
cỏ Lươn nhật đóng góp tới 83% vào tổng trữ lượng. Cỏ Lươn nhật Zostera japonica
cũng là loài có trữ lượng cacbon hữu cơ trung bình của cao nhất (0,89 tấn.Corg/ha tương
đương 3,3 tấn.CO2/ha). Trung bình mỗi hecta cỏ biển tại đầm Thị Nại có khả năng lưu
trữ 0,76 tấn.Corg (bảng 3.16).
- Cỏ Lá dừa Enhalus acoroides tại đầm Nại có khả năng lưu trữ lượng cacbon
hữu cơ cao nhất trong số các loài cỏ ở ba đầm nghiên cứu (12,47 tấn.Corg/ha tương
đương 45,7 tấn.CO2/ha). Tổng trữ lượng cacbon hữu cơ của các cỏ biển ở đầm Nại đạt
được 210,7 tấn.Corg tương đương với 773,3 tấn.CO2 đã hấp thụ (bảng 3.16). Trung bình
mỗi hecta cỏ biển tại đầm Nại có khả năng lưu trữ 2,34 tấn.Corg.
110
Có thể thấy, khả năng lưu trữ cacbon hữu cơ của cỏ biển ở 03 đầm phá từ 0,76 –
4,9 tấn.Corg là không cao, thậm chí rất thấp khi so sánh với kết quả nghiên cứu của
Fourqurean et. al. (2012) [2, 75] đối với cỏ biển ở một số vùng trên thế giới, từ 331,6
tấn.Corg/ha đến 372,4 ± 74,5 tấn.Corg/ha trong nghiên cứu của (hình 3.29).
Hình 3.29. Biểu đồ so sánh trữ lượng cacbon hữu cơ trung bình
Có sự sai khác lớn về khả năng lưu trữ cacbon hữu cơ của cỏ biển như vậy vì
khi đánh giá trữ lượng cacbon hữu cơ của cỏ biển trên toàn thế giới James
Fourqurean et. al., (2012) [2, 75] đã tính toán dựa trên duy nhất hàm lượng cacbon
hữu cơ của loài cỏ Posidonia oceanica tại biển Địa Trung Hải. Đây là một trong
những loài cỏ biển có kích thước lớn nhất thế giới, chúng có lá lớn, thân ngầm và hệ
thống rễ rất phát triển, theo đó, sinh khối trên mỗi đơn vị diện tích là rất lớn.
Ngoài ra, hầu hết các tính toán của Fourqurean et. al., (2012) là gồm hàm
lượng cacbon hữu cơ từ sinh khối cỏ và trầm tích dưới các thảm cỏ biển Posidonia
oceanica tại biển Địa Trung Hải [67, 69, 75]. Cũng theo nghiên cứu trên, các loài cỏ
biển khác không có khả năng tương tự và trên thực tế, Walker và cộng sự [71] đã
coi khả năng đó ở loài P. oceanica là một ngoại lệ.
Trong khi đó, phần lớn các loài cỏ biển có phân bố tại Việt Nam và một số
khu vực lân cận lại có kích thước nhỏ, sinh khối thấp (ngoại trừ loài cỏ Lá dừa
Enhalus acoroides nhưng diện tích phân bố chiếm tỷ trọng thấp so với các loài cỏ
biển khác). Do đó, các đánh giá so sánh giữa khả năng lưu trữ cacbon hữu cơ của cỏ
biển Việt Nam và thế giới có sự chênh lệch rất lớn (lên tới 67 lần).
111
3.5.3. Lượng giá khả năng lưu trữ và hấp thụ cacbon của cỏ biển
Giá trị mỗi tín chỉ cacbon phụ thuộc vào thị trường trao đổi và loại dự án
được thực hiện. Hiện nay, hai thị trường cacbon chủ yếu trong các nỗ lực toàn cầu
nhằm giảm phát thải khí nhà kính là EEX - thị trường Trao đổi Năng lượng của
Châu Âu, BLUENEXT - thị trường Trao đổi Thương mại môi trường Châu Âu và
EUAs - thị trường của Châu Âu. Theo đó, giá tín chỉ CO2 hiện nay chỉ dao động từ
4 - 6 Euro (hình 3.30 - hình 3.32).
Hình 3.30. Giá tín chỉ CO2 theo EEX
Hình 3.31. Giá tín chỉ CO2 theo EUAs
112
Hình 3.32. Giá tín chỉ CO2 theo BLUENEXT
Tuy nhiên, việc xây dựng giá tín chỉ cacbon còn phụ thuộc vào quan điểm của
từng quốc gia đối với việc bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đối khí hậu (hình
3.33).
Hình 3.33. Giá tín chỉ CO2 theo từng khu vực hoặc quốc gia
Theo nghiên cứu của tổ chức Societe Generale thì giá tín chỉ cacbon trung bình
trên toàn thế giới năm 2020 tại thị trường EUAs (thị trường của Châu Âu, trong đó hạn
ngạch giảm phát thải mà các quốc gia nằm trong Cơ chế Thương mại giảm phát thải
113
của cộng đồng chung Châu Âu) sẽ khoảng 45 Euro/tấn, và nếu không có biện pháp
hoặc kế hoạch giảm phát thải thì vào năm 2030 sẽ là 60 Euro, năm 2050 là 250 Euro
(hình 3.34) [136, 137]. Tại Úc, chính phủ đã áp đặt thuế cacbon trên toàn lãnh thổ là 23
AUD/tấn từ 2012 (hình 3.35).
Hình 3.34. Dự báo giá tín chỉ CO2 đến năm 2050 theo EUAs
Hình 3.35. Áp giá tín chỉ CO2 của chính phủ Úc
Giá carbon, thông qua thuế hoặc các chương trình giao dịch khí thải, được
nhiều chính phủ sử dụng để khiến người tiêu dùng năng lượng phải trả chi phí ô
nhiễm và thúc đẩy đầu tư vào công nghệ carbon thấp. Hiện tại, giá cacbon tại các
nền kinh tế tiên tiến và lớn là quá thấp để khiến các quốc gia cắt giảm khí thải nhà
kính và ngăn chặn các tác động xấu nhất của biến đổi khí hậu. OECD – Tổ chức
114
Hợp tác và Phát triển Kinh tế, đã kiểm tra giá carbon giữa năm 2012, 2015 và 2018
tại 42 nền kinh tế và trong đó có G20, chiếm khoảng 80% lượng khí thải carbon
toàn cầu. Mức giá trung bình trên các quốc gia trong năm 2018 thấp hơn 76,5% so
với mức chuẩn 35 đô la/tấn.
Để ước tính giá trị hấp thụ CO2 của cỏ biển, trong nghiên cứu này chúng tôi
sử dụng giá tín chỉ cacbon dự báo đến năm 2030 của Societe Generale là 60 Euro
(tương đương với 67 USD). Kết quả tính toán cho thấy, giá trị hấp thụ CO2 phụ
thuộc vào từng loài cỏ và khả năng hấp thụ của chúng (bảng 3.16). Ở cỏ Lá dừa
Enhalus acoroides tại đầm Nại là rất lớn, vào khoảng 3.067 USD/ha, trong khi cỏ
Xoan (Halophila ovalis) ở đầm Thị Nại chỉ đạt 72 USD/ha (bảng 3.16).
Với diện tích phân bố lên tới 1.655 ha của loài cỏ Lươn nhật Zostera
japonica, cùng với hàm lượng cacbon hữu cơ tương đối cao (32,7 – 39,4%). Theo
đó, giá trị từ việc quy đổi tín chỉ cacbon hữu cơ lưu trữ ở đầm phá Tam Giang – Cầu
Hai là rất cao, khoảng 2,2 triệu USD. Tổng giá trị hấp thụ CO2 của cỏ biển tại ba
đầm phá trong nghiên cứu này đạt được là 2.561.263 USD, tương đương với khoảng
59 tỷ VNĐ (bảng 3.16).
Trong phạm vi của nghiên cứu này, chúng tôi chỉ đánh giá lượng cacbon hữu
cơ có trong sinh khối cỏ biển, chưa đánh giá lượng cacbon hữu cơ rất lớn có trong
lớp trầm tích bên dưới các thảm cỏ biển. Nhưng qua đây cũng có thể thấy, nếu thực
hiện được việc quy đổi và bán tín chỉ cacbon ở mỗi đơn vị diện tích cỏ biển (hecta)
sẽ mang lại thu nhập cho cộng đồng tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, đầm Thị
Nại và đầm Nại lần lượt là: 27,9 triệu đồng/ha, 4,3 triệu đồng/ha và 13,2 triệu
đồng/ha; trung bình là 25,5 triệu đồng/ha. So với các giá trị sử dụng trực tiếp và giá
trị sử dụng gián tiếp khác do hệ sinh thái cỏ biển mang lại, thì giá trị hấp thụ và lưu
trữ cacbon của chúng là rất cao. Ngoài việc coi như một nguồn thu nhập gián tiếp
khá lớn cho người dân ven biển, còn góp phần nâng cao được vai trò của cỏ biển so
với các hệ sinh thái khác (hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái rừng ngập mặn).
115
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận:
1. Tại 3 đầm nghiên cứu, chúng tôi đã xác định và xây dựng khóa định loại theo danh
pháp mới nhất cho 09 cỏ biển thuộc 04 họ, 06 chi. Bao gồm: Enhalus acoroides
(L.f) Royle, Halophila beccarii Ascherson, Halophila ovalis (R. Br.) Hooker f.,
Halophila major (Zoll.) Miquel, Thalassia hemprichii (Ehrenb. ex Solms) Asch.,
Ruppia maritima Linnaeus, Zostera japonica Ascherson & Graebner, Halodule
pinifolia (Miki) den Hartog, Halodule uninervis (Forssk.) Ascherson.
2. Số lượng các loài tại các đầm khác nhau có sự sai khác không lớn: đầm phá Tam
Giang – Cầu Hai có 6 loài, cỏ Lươn nhật Zostera japonica chiếm ưu thế; đầm Thị
Nại có 7 loài, cỏ Hẹ tròn Halodule pinifilia chiếm ưu thế; và đầm Nại có 6 loài, với
cỏ Lá dừa Enhalus acoroides chiếm ưu thế.
3. Tổng diện tích phân bố của cỏ biển ở ba đầm là 2.307 ha, chủ yếu phân bố ở vùng
triều ven bờ các đầm phá, nơi có độ sâu từ 0,5 – 2 m. Tại đầm phá Tam Giang – Cầu
Hai: phân bố ở 15 khu vực với diện tích khoảng 2.037 ha, độ phủ là 58,3%; tại đầm
Thị Nại: phân bố ở 11 khu vực với tổng diện tích là 180 ha, độ phủ là 28,1%; tại
đầm Nại: phân bố ở 4 khu vực với diện tích phân bố trên 90 ha, độ phủ là 43,3%.
Diện tích phân bố và độ phủ của cỏ biển có xu thế thu hẹp so với trước đây, ngoại
trừ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai.
4. Sinh khối các loài dao động trong khoảng 23,6 ± 1,5 g.khô/m2 (cỏ Nàn Halophila
beccarii) đến 2.791,4 ± 145,1 g.khô/m2 (cỏ Lá dừa Enhalus acoroides), trung bình là
604,9 ± 174,7 g.khô/m2. Tỷ lệ sinh khối trên và sinh khối dưới trong khoảng 0,48
đến 1,95, trung bình là 1,1.
5. Tổng trữ lượng cỏ biển tại ba đầm là 10.566,9 tấn.khô. Trong đó, trữ lượng cỏ biển
tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai chiếm phần lớn với 10.153,7 tấn.khô, tiếp theo là
đầm Thị Nại có 132,1 tấn.khô và đầm Nại có 281,1 tấn.khô.
6. Hàm lượng cacbon hữu cơ trung bình của cỏ biển tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
là 26,55 ± 2,3%; tại đầm Thị Nại là 34,30 ± 1,82%, và tại đầm Nại là 36,32 ± 4,1%.
116
Tổng trữ lượng cacbon hữu cơ trong cỏ biển hiện hữu ở 03 (ba) đầm là 10.416
tấn.Corg, tương đương với 38.228 tấn.CO2.
7. Giá trị lượng giá khả năng hấp thụ CO2 của cỏ biển tại ba đầm khi sử dụng giá tín
chỉ năm 2030 để quy đổi tương đương với hơn 59 tỷ VNĐ.
Kiến nghị:
1. Cần mở rộng phạm vi điều tra nghiên cứu đặc điểm quần xã cỏ biển và khả năng lưu
trữ cacbon của chúng tại các khu vực ven bờ biển, các đầm hồ ven biển, đảo trên
toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
2. Cần có những nghiên cứu tiếp theo về lượng cacbon hữu cơ được lưu trữ trong lớp
trầm tích bên dưới các thảm cỏ biển. Vì theo các nghiên cứu trên thế giới cho thấy,
lượng cacbon hữu cơ lưu trữ bởi cỏ biển chủ yếu nằm trong phần dưới mặt đất và
cao hơn 2 - 3 lần so với rừng thường xanh trên cạn. Trong khi đó, cỏ biển Việt Nam
với các đặc trưng thành phần loài, sinh lượng, phân bố và môi trường sống khác
biệt. Để xác định đầy đủ trữ lượng cacbon hữu cơ ở cỏ biển, ngoài việc đánh giá
đúng vai trò – chức năng cỏ cỏ biển, còn nhằm mục tiêu tạo lập cơ sở khoa học vững
chắc và chặt chẽ cho việc áp dụng thuế môi trường. Đồng thời, giúp cho các cơ quan
quản lý - hoạch định chính sách thích hợp việc khai thác, bảo tồn cỏ biển.
3. Sử dụng các phương pháp khác nhau trong nghiên cứu khả năng lưu trữ - tích lũy
cacbon của cỏ biển, trong đó chú trọng đầu tư các thiết bị phân tích tự động TOC
hiện đại, có độ chính xác và tin cậy cao.
117
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Cao Văn Lương, Đàm Đức Tiến, Nguyễn Thị Nga. Quần xã thực vật thủy sinh đầm
phá Tam Giang – Cầu Hai. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển (đã chấp nhận
đăng, đang chờ bản in).
2. Cao Văn Lương, Nguyễn Thị Nga. Bước đầu đánh giá khả năng lưu trữ cacbon
của cỏ biển qua sinh khối tại đầm Thị Nại, tỉnh Bình Định. Tạp chí Khoa học và
Công nghệ biển, 2017, 17(1), 63-71.
3. Nguyễn Thị Thu, Cao Văn Lương, Đỗ Văn Mười,. Phục hồi hệ sinh thái thảm cỏ
biển bằng mô hình sắp xếp lại hệ thống nò sáo tại đầm phá Tam Giang – Cầu Hai.
Tuyển tập Hội nghị Khoa học toàn quốc về Sinh học biển và Phát triển bền vững lần
thứ 2; tiểu ban Đa dạng sinh học và Bảo tồn biển. Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên
và Công nghệ, 2014, 227-231.
4. Cao Văn Lương, Đàm Đức Tiến, Nguyễn Đức Thế, Nguyễn Văn Quân. Thành
phần loài và phân bố cỏ biển tại đầm Nại – Ninh Thuận. Tuyển tập Hội nghị Khoa
học toàn quốc về Sinh học biển và Phát triển bền vững lần thứ 2; tiểu ban Đa dạng
sinh học và Bảo tồn biển. Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ, 2014,
131–137.
118
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Tiến, Lê Thanh Bình, Nguyễn Hữu Đại, Trần Hồng Hà, Từ Thị Lan Hương, Đỗ Nam, Đàm Đức Tiến. Tiến tới quản lý hệ sinh thái cỏ biển Việt Nam (Approaches to management of seagrass ecosystem in Vietnam). Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 2004, 132.
2.
J.W. Fourqurean, C.M. Duarte, H. Kennedy, N. Marbà, M. Holmer, M.A. Mateo, E.T. Apostolaki, G.A. Kendrick, D. Krause-Jensen, K.J. McGlathery, O. Serrano. Seagrass ecosystems as a significant global carbon stock. Nature Geoscience, 2012, 5, 505–509 .
3. C. M. Duarte, N. Marbà, E. Gacia, J.W. Fourqurean, J. Beggins, C. Barrón, and E.T. Apostolaki. Seagrass community metabolism: Assessing the carbon sink capacity of seagrass meadows. Global Biogeochemical Cycles, 2010, 24(4), GB4032.
4. H. Kennedy, J. Beggins, C.M. Duarte, J.W. Fourqurean, M. Holmer, N. Marbà, and J.J. Middelburg. Seagrass sediments as a global carbon sink: Isotopic constraints. Global Biogeochemical Cycles, 2010, 24(4), GB4026.
5. E. McLeod, G.L. Chmura, S. Bouillon, R. Salm, M. Björk, C.M. Duarte, C.E. Lovelock, W.H. Schlesinger, B. Silliman. A Blueprint for Blue Carbon: Towards an improved understanding of the role of vegetated coastal habitats in sequestering CO2. Frontiers in Ecology and the Environment, 2011, 9(10), 552–560.
6. L. Pendleton, D.C. Donato, B.C. Murray, S. Crooks, W.A. Jenkins, et al. Estimating Global “Blue Carbon” Emissions from Conversion and Degradation of Vegetated Coastal Ecosystems. PLoS ONE, 2012, 7(9): e43542.
7. C.V. Luong, N.V. Thao, K. Teruhisa, N.D. Ve, D.T Tien. Status and threats on seagrass beds using GIS in Vietnam. Proc. SPIE 8525, Remote Sensing of the Marine Environment II, 2012, 852512.
8. Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Xuân Hòa. Nguồn lợi thảm cỏ biển đầm Thị Nại, tỉnh Bình Định. Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển”, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 2008, 13, 194-203.
9. N.X. Vy, H. Laura, P. Jutta. New record of the seagrass species Halophila major (Zoll.) Miquel in ietnam: evidence from leaf morphology and ITS analysis. Botanica Marina., 2013, 56(4), 313–321
119
10. UNEP. National Reports on Seagrass in the South China Sea - Vietnam.
UNEP/GEF/SCS Technical Publication, 2008, 12, 32.
11. Nguyễn Văn Tiến, Đặng Ngọc Thanh và Nguyễn Hữu Đại. Cỏ biển Việt Nam; Thành phần loài, phân bố, sinh thái – sinh học. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 2002, 164.
12. J. Kuo, C. den Hartog. Seagrass taxonomy and identification key. In: F.T. Short, R.G. Coles (eds.). Global Seagrass Research Methods. Amsterdam, The Netherlands: Elsevier, 2001, 31-58.
13. C. den Hartog, J. Kuo. Chapter 1. Taxonomy and Biogeography of Seagrasses. In: A.W.D. Larkum, R.J. Orth, C.M. Duarte. Seagrasses: Biology, Ecology and Conservation. Springer, 2006, 1-21.
14. C. den Hartog. The seagrass of the world. North Holland. Publ. Co., Amsterdam,
1970, 265.
15. R.C. Phillips, E.G. Menez. Seagrasses. Publications of the Smithsonan
Institution, Washington D.C, 1988, 105.
16. J. M. Philippart Catharina . Effects of shading on growth, biomass and population maintenance of the intertidal seagrass Zostera noltii Hornem. in the Dutch Wadden Sea. Journal of Experimental Marine Biology and Ecology, 1995, 188(2), 199-213.
17. M.A. Hemminga, C.M. Duate. Seagrass ecology. Cambridge University Press,
2000, 298.
18. Nguyễn Hữu Đại, Nguyễn Xuân Hòa, Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Thị Lĩnh. Các thảm cỏ biển ở vùng biển phía nam Việt Nam. Tuyển tập Báo cáo Khoa học Biển toàn quốc lần thứ IV, 1999, 2, 967-974.
19. Nguyễn Văn Tiến. Dẫn liệu về thành phần loài và phân bố của cỏ biển Việt Nam.
Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường Biển, 1999, 5, 183-190.
20. J.E. Vermaat, N.S.R. Agawin, M.D. Fortes, J.S. Uri, C.M. Duarte, N. Marbá, S. Enríquez, y W. van Vierssen. The capacity of seagrasses to survive increased turbidity and siltation: The significance of growth form and light use. Ambia., 1997, 26, 499-504.
21. Trần Đức Thạnh, Trần Đình Lân, Nguyễn Hữu Cử, Đinh Văn Huy. Tiến hóa và Động lực hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, 2010, 215.
120
22. E.J.F. Wood, W.E. Odum, J.C. Zieman. Influence of seagrass on the productivity of coastal lagoons. In Mem. Simp. Inter. Costers (UNAM-UNESCO), 1969, 495-502.
23. C.S. Kumar, D.V.L. Sarada, T.P. Gideon, R. Rengasamy. Antibacterial activity of three South Indian seagrasses, Cymodocea serrulata, Halophila ovalis and Zostera capensis. World J Microbiol Biotechnol, 2008, 24, 1989-1992.
24. C.M. Duarte. Seagrass ecology at the turn of the millennium: challenges for the
new century. Aquat. Bot., 1999, 65, 7-20.
25. F.T. Short, S. Wylie-Echeverria. Natural and human induced disturbance of
seagrasses. Environ. Conserv., 1996, 23, 17-27.
26. C. König. Addition to M. Cavolini’s these on Zostera oceanica L. Ann. Bot.
(König & Sims), 1805, 2, 91-99.
27. C.G.J. Petersen. Fiskens biologiske forhold i Holbaek Fjord. Report of the Danish
Biological Station, 1891, 1, 1-63.
28. C.H. Ostenfeld. Preliminary remarks on the distribution and biology of the
Zostera of the Danish seas. Bot, Tidsskr., 1905, 27, 123-125.
29. P. Boysen-Jensen. Studies concerning the organic matter of the sea bottom. Rep.
Dan. Biol. Stat., 1914, 22, 1–39.
30. W.A. Setchell. Geographical distribution of the marine Spermatophytes. Bull.
Torrey Bot. Club, 1920, 47, 563-579.
31. W. A. Setchell. Geographic elements ofthe marine flora of the North Pacific
Ocean. Amer.Natur., 1935, 69, 560-577.
32. M. Arasaki. The Ecology of Amamo (Zostera marina) and Koamamo (Zostera nana). Bulletin of the Japanese Society of Scientific Fisheries, 1950, 15, 567.
33. R.C. Phillips. Observations on the ecology and distribution of the Florida seagrasses. Prof. Pap. Ser. No.2, Fla. St. Bd. Conserv., Mar. Lab., St. Petersburg, Fla., 1960, 72.
34. R.C. Phillips. Environmental effect on leaves of Diplanthera du Petit-Thouars.
Bull. Ma. Sci. Gulf. Caribb., 1960, 10, 364-353.
35. Nguyễn Văn Tiến, Từ Thị Lan Hương. Phương pháp nghiên cứu Cỏ biển (Seagrass research methods). Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ Thuật Hà Nội, 2008, 103.
36. C.M. Duarte. Seagrasses. Encyclopedia of Biodiversity, 2001, 5, 255-267.
121
37.
Raven, J.V. The evolution of vascular land plants in relation to supracellular transport process. Advances in Botanical Research, 1977, 5, 153-219.
38. A.W.D. Larkum, C. den Hartog, A.J. McComn, S.A. Shepherd. Biology of seagrasses: a treatise on the biology of seagrasses with species reference to the Australia region. Elsevier, Amsterdam, 1989, 841.
39. D.H. Les, M.A. Cleland, M.A. Waycott. Phylogenetic studies in Alismatidae. II. Evolution of marine angiosperms (seagrasses) and hydrophily. Systematic Botany, 1997, 22, 443-463.
40. J. Kuo, P.G. Wilson. Nomenclature of the seagrass Halophila baillonis
Ascherson. Aquat. Bot., 2008, 88, 178-180.
41. J. Kuo. Taxonomic notes on Halophila ovata and Halophila minor. Biologia
Marina Mediterranea, 2000, 7(2): 79–82
42. N. Marbà, J. Cebrian, S. Enriquea, C.M. Duarte. Growth patterns of Western Mediterranean seagrasses: species-specific responses to seasonal forcing. Marine Ecology Progress Series, 1996, 133, 203-215.
43. Từ Thị Lan Hương. SeagrassNet: một số kết quả giám sát cỏ biển đảo Thẻ Vàng, tỉnh Quảng Ninh. Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, 2005, 9, 189-195.
44. C.P. McRoy. The standing stock and ecology of eelgrass, Zostera marina, Izembek Lagoon, Alaska., Masters thesis. University of Washington, Seattle. 1966, 138.
45. C.M. Duarte. Seagrass depth limits. Aquat. Bot, 1991, 40, 341-344.
46. C.J. Nelson. Shoot morphological plasticity of grasses: leaf growth vs tillering. In: G. Lemaire, J. Hodgson, A. de Moraes, C. Nabinger, P.C.F. Carvalho (eds). Grassland ecophysiology and grazing ecology, CAB International, 2000, 101- 126.
47. J.H.G. Verhagen, P.H. Nienhuis. A simulation Model of production, seasonal changes in biomass and distribution of eelgrass (Zostera marina) in Lake grevelinge. Mar. Eco. Pro. Ser., 1983, 10, 187-195.
48. T.A. Nelson, J.R. Waaland. Seasonality of eelgrass, epiphyte and grazer biomass and productivity in subtidal eelgrass meadows subjected to moderate tidal amplitude. Aquat. Bot., 1997, 56, 51-74.
122
49. S.L. Williams. Disturbance and recovery of deep water Caribbean seagrass bed.
Mar. Eco. Prog. Ser., 1988, 42, 63-71.
50. W. Kiswara, N. Behnke, P. van Avesaath, A.H.L. Huiskes, P.L.A. Erftemeijer, T.J. Bouma. Root architecture of six tropical seagrass species, growing in three contrasting habitats in Indonesian water. Aqua. Bot., 2009, 90, 235-245.
51. C.M. Duarte. Allometric scaling of seagrass form and productivity. Mar. Ecol.:
Prog. Ser., 1991, 77, 289-300.
52. M.J.M. Hootsmans, J.E. Vermaat, W. van Vierssen. Seed-bank development, germination and early seedling survival of two seagrass species from the Netherlands: Zostera marina L. and Zostera noltii Hornem. Aquat. Bot., 1987, 28, 275-285.
53. N.R. Loneragan, R.A. Kenyon, D.J. Staples, I.R. Poiner, C.A. Conacher. The influence of seagrass type on the distribution and abundance of postlarval and juvenile tiger prawns (Penaeus esculentus and P. semisulcatus) in the western Gulf of Carpentaria, Australia. Journal of Experimental Marine Biology and Ecology, 1998, 228, 175-195.
54.
B.R. Dumbauld, E. Wyllie. The influence of burrowing thalassinid shrimps on the distribution of intertidal seagrasses in Willapa Bay, Washington, USA. Aquat. Bot., 2003, 77, 27-42.
55.
S.N. Kwak, D.W. Klumpp. Temporal variation in species composition and abundance of fish and decapods of a tropical seagrass bed in Cockle Bay, Northn Queensland, Australia. Aquat. Bot., 2004, 78, 119-134.
56.
M. Nakaoka. Plant – animal interactions in seagrass beds: ongoing and future challenges for understanding population and community dynamics. Pupol Ecol., 2005, 47, 167-177.
57. K.L. Jr. Heck, C.G. Hays, R.L. Orth. Critical evaluation of the nursery hypothesis
for seagrass meadows. Mar. Ecol. Prog. Ser., 2003, 253, 123-136.
58. F.T. Short, S. Wylie-Echeverria. Natural and human induced disturbance of
seagrasses. Environ. Conserv., 1996, 23, 17-27.
59. C.M. Duarte. The future of seagrass meadows. Environ. Conserv., 2002, 29, 192-
206.
60. C.M. Duarte, C.L. Chiscano. Seagrass biomass and production: a reassessment.
Aquat. Bot., 1999, 65, 159-174.
123
61. M.D. Spalding, M. Taylor, S. Martins, E. Green, M. Edwards. The global distribution and status of seagrass ecosystems. World Conservation Monitoring Centre., 2001, 13-34.
62. http://www.co2storage.org.uk/ (ngày 5/8/2014)
63. A.D. Irving, S.D. Connell, B.D. Russell. Restoring Coastal Plants to Improve Global Carbon Storage: Reaping What We Sow. PLoS ONE, 2011, 5(6), e18311.
64. http://www.theecologist.org/News/news_round_up/337684/forests_and_oceans_ more_effective_than_carbon_capture_technology.html (ngày 5/8/2014).
65. I. Valiela, J.L. Bowen, J.K. York. Mangrove forests: One of the world's
threatened major tropical environments. Bioscience, 2001, 51, 807–815.
66. J. Cebrian. Variability and control of carbon consumption, export, and accumulation in marine communities. Limnol. Oceanogr., 2002, 47, 11-22.
67. C. Nellemann, E. Corcoran, C.M. Duarte, L. Valde´s, C. De Young, et al. Blue carbon - The role of healthy oceans in binding carbon. GRID-Arendal, 2009, 78.
68. D. d’A. Laffoley, G. Grimsditch. The Management of Natural Coastal carbon
Sinks. Gland, Switzerland, 2009, 53.
69. C.M. Duarte, J.J. Middelburg, N. Caraco. Major role of marine vegetation on the
oceanic carbon cycle. Biogeosciences, 2005, 1, 1–8.
70. M.A. Mateo, O. Serrano. Carbon storage. In: G. Pergent, H. Bazairi, C.N. Bianchi, C.F. Boudouresque, M.C. Buia, et al., (editors). Mediterranean seagrasses: resilience and contribution to the attenuation of climate change. A short summary. Gland, Switzerland: IUCN, 2012, 80.
71. D. Walker, W. Dennison, G. Edgar. Status of Australian seagrass research and knowledge. In: A. Butler, P. Jernakoff (editors). Seagrasses in Australia. Collingwood, Victoria: CSIRO Publishing, 1999, 1–24.
72. M.A. Mateo, J. Cebrian, K. Dunton, T. Mutchler. Carbon Flux in Seagrass Ecosystems. In: A. Larkum, R. Orth, C. Duarte (editors). Seagrasses: Biology, Ecology and Conservation. Netherlands: Springer-Verlag, 2006, 159–192.
73. C.M. Duarte, N. Marba`, E. Gacia, J.W. Fourqurean, J. Beggins, et al. Seagrass community metabolism: Assessing the carbon sink capacity of seagrass meadows. Global Biogeochemical Cycles, 2010, 24, 1–8.
124
74. H. Kennedy, J. Beggins, C.M. Duarte, J.W. Fourqurean, M. Holmer, et al. Seagrass sediments as a global carbon sink: Isotopic constraints. Global Biogeochemical Cycles, 2010, 24 1–9.
75. J.W. Fourqurean, C.M. Duarte, H. Kennedy, M. Holmer, M.A. Mateo, et al.
Supplementary information. Nature Geo science, 2012, 5, 1–7.
76. T.J.B. Carruthers, W.C. Dennison, G.A. Kendrick, M. Waycott, D.I. Walker, et al. Seagrasses of south–west Australia: A conceptual synthesis of the world’s most diverse and extensive seagrass meadows. Journal of Experimental Marine Biology and Ecology, 2007, 350, 21–45.
77. C. Collier, P. Lavery, R. Masini, P. Ralph. Morphological, growth and meadow characteristics of the seagrass Posidonia sinuosa along a depth-related gradient of light availability. Marine Ecology Progress Series, 2007, 337, 103–115.
78. N. Cox, T.C. Khuong, E. Hines. Proceedings of the Workshop on the Conservation of the Dugong and Seagrass Habitats of Vietnam. WWF-Indochina, Hanoi – Vietnam, 2003.
79. UNEP. Seagrass in the South China Sea. UNEP/GEF/SCS Technical Publication,
2004, 3, 12.
80. Nguyễn Văn Tiến, Đàm Đức Tiến. Thành phần loài và phân bố cỏ biển ở Côn Đảo. Tài nguyên và Môi trường biển. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, 1999, 9, 263-269.
81. Nguyễn Văn Tiến. Nghiên cứu sự phân bố cỏ biển Việt Nam. Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, 2003, 10, 76-88.
82. Nguyễn Văn Tiến và Chu Thế Cường. Quản lý hệ sinh thái cỏ biển đảo Phú Quý (Bình Thuận). Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học sự sống. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội, 2005, 1098-1105.
83. Đỗ Công Thung. Động vật đáy trong thảm cỏ biển khu vực Quảng Ninh. Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, 1998, 5, 103-198.
84. Đỗ Công Thung. Động vật đáy thảm cỏ biển đầm Lập An (Thừa Thiên Huế). Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, 1999, 6, 239-250.
125
85. Nguyễn Thị Thu. Nguồn giống tôm, cua, cá trong thảm cỏ biển Lăng Cô. Tài nguyên và Môi trường Biển. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, 2001, 8, 211-219.
86. Nguyễn Thị Thu và Nguyễn Hữu Phụng. Thành phần nguồn giống cá trong đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường Biển. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, 2002, 9, 283- 294.
87. Nguyễn Văn Quân. Bước đầu nghiên cứu nguồn lợi cá trong thảm cỏ biển đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Báo cáo Khoa học Hội thảo Khoa học, công nghệ và kinh tế biển phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, 2006, 126-135.
88. Đỗ Nam. Hiện trạng và đánh giá giá trị kinh tế. Tiến tới quản lý hệ sinh thái cỏ biển Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, 2004, 38-56.
89. Nguyễn Hữu Đại. Phục hồi và Bảo vệ các thảm cỏ biển - Mô hình quản lý và phát triển bền vững vùng biển ven bờ. Hội nghị toàn quốc về Môi trường và Bảo vệ nguồn lợi Thủy sản, 2005.
90. Nguyễn Văn Tiến, Lê Thị Thanh. Một số kết quả nghiên cứu trồng phục hồi cỏ biển ở Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Tài nguyên và Môi trường biển, 2003, 10, 262-268.
91. Từ Thị Lan Hương. Một cái nhìn tổng quan về cỏ biển cho các nhà quản lý. Tạp
chí của cục Bảo vệ Môi trường, 2006, 19-20.
92. Nguyễn Hữu Đại, Phạm Hữu Trí, Nguyễn Thị Lĩnh, Nguyễn Xuân Vỵ. Sự suy giảm các thảm cỏ biển ở Khánh Hoà và khả năng phục hồi chúng. Tuyển tập Báo các Khoa học Hội nghị Khoa học tòan quốc về Biển Đông, Nha Trang, 2002, 359-368.
93. Vũ Mạnh Hùng, Đàm Đức Tiến, Cao Văn Lương. Nghiên cứu khả năng hấp thụ cacbon của rừng ngập mặn ven biển Hải Phòng. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, 2015, 15(4), 347-354.
94. K. Kathiresan, R. Anburaj, V. Gomathi, K. Saravanakumar. Carbon sequestration potential of Rhizophora mucronata and Avicennia marina as influenced by age, season, growth and sediment characteristics in southeast coast of India. Journal of Coastal Conservation, 2015, 17(3), 397-408.
95. F. Casarim, A. Grais. LEAF Technical Training on Forest Carbon Assessment.
Ecosystem Services Unit, Winrock International, 2013, 21.
126
96. Cao Thị Thu Trang, Trịnh Thành, Vũ Thị Lựu. Năng suất sơ cấp khu vực đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển, 2013, 17, 196-204.
97. Cao Thị Thu Trang, Lưu Văn Diệu, Lê Xuân Sinh, Trần Đức Thạnh. Năng suất sơ cấp ở đầm Thị Nại, Bình Định. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, 2015, 15(2), 185-192.
98. Vũ Tấn Phương, Nguyễn Viết Xuân. Xây dựng mô hình tính toán trữ lượng cacbon rừng trồng Keo lai ở Việt Nam. Tạp chí nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008, 8, 84-87.
99. Võ Đại Hải, Đặng Thịnh Triều. Nghiên cứu khả năng hấp thụ cacbon rừng trồng Thông mã vĩ trồng thuần loài. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Công nghệ Lâm nghiệp miền Bắc, 2009, 428 - 436.
100. Đặng Thịnh Triều. Khả năng hấp thụ cacbon của rừng Thông mã vĩ (Pinus massoniana Lambert) trồng thuần loài trên các cấp đất khác nhau tại vùng Đông Bắc Việt Nam. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008, 11, 94-99.
101. Bảo Huy. Ước lượng năng lực hấp thụ CO2 của bời lời đỏ (Litsea glutinosa) trong mô hình nông lâm kết hợp bời lời đỏ - sắn ở huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai – Tây Nguyên, Việt Nam. Báo cáo đề tài nghiên cứu được tài trợ bởi Trung tâm Nông Lâm kết hợp thế giới (ICRAF), Mạng lưới Giáo dục Nông Lâm kết hợp Đông Nam Á (SEANAFE), 2009.
102. Bảo Huy. Mô hình sinh trắc và công nghệ viễn thám – GIS để xác định lượng CO2 hấp thụ của rừng lá rộng thường xanh vùng Tây Nguyên. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 2013, 336.
103. Trần Đình Đà, Lê Quốc Doanh. Đánh giá nhanh khả năng lưu trữ cacbon của một số phương thức nông lâm kết hợp tại cùng đệm quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2009, 7, 93 – 98.
104. Bộ Nông nghiệp & PTNT. Báo cáo Phát triển ngành lâm nghiệp năm 2011. Hội
nghị thường niên FSSP ngày 31/01/2013.
105. Forest Trend, Katoomba, UNEP. Cẩm nang Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (bản dịch
ra tiếng Việt năm 2010), 2008.
106. S. Pvan. The Economics of Ecosystems and Biodiversity. Green Week The value
of biodiversity & ecosystems. Brussels, 4th June 2008.
107. Lê Văn Hưng. Chi trả dịch vụ hệ sinh thái và khả năng áp dụng tại Việt Nam.
Tạp chí Khoa học và Phát triển, 2013, 11(3), 337-344.
127
108. Nghị định Chính phủ số 99/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2010 về Chính
sách chi trả dịch vụ môi trường.
109. S. English, C. Wilkinson, V. Baker. Survey Manual for Tropical Marine Resources. 2nd ed, ASEAN-Australia Marine Science Project: Living Coastal Resources, Australian Institute of Marine Science, PMB No. 3, Townsville Mail Centre, Australia 4810, 1997, 390.
110. F.T. Short, L.J. McKenzie, R.G. Coles, K.P. Vidler. SeagrassNet. Manual for
Scientific Monitoring of Seagrass Habitat. (QDPI, QFS, Cairns), 2002, 56p.
111. Hoàng Chung. Các phương pháp nghiên cứu quần xã thực vật. NXB Giáo dục.,
2008, 214.
112. Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải. Cơ sở thủy sinh học (Fundamentals of Hydrobiolgy). Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, 2007, 614.
113. J. Mcneill, F. R. Barrie, H. M. Burdet, V. Demoulin, D. L. Hawksorth, K. Marhold, D. H. Nicolson, J. Prado, P. C. Silva, J. E. Skog, J. H. Wiersema, N. J. Turland. International Code of Botanical Nomenclature (Vienna Code). Regnum Vegetabile. A.R.G. Gantner Verlag KG., 2006, 146, 568.
114. Phạm Hoàng Hộ. Cây cỏ Việt Nam. Nhà xuất bản trẻ, 2000, 3, 1020.
115. TCVN 8726:2012. Tiêu chuẩn Quốc gia về Phương pháp xác định chất hữu cơ
của đất trong phòng thí nghiệm. Hà Nội, 2012, 12.
116. E. Micheal. Total Organic Carbon Analysis for Sediment. Environment
Monitoring Branch, Calif. Department of Pesticide Regulation, CA, USA, 2011.
117. A. S. Brian. Methods for the determination of total organic carbon (toc) in soils
and sediments. United States Environmental Protection Agency, Environmental
Sciences Division National, Exposure Research Laboratory, P.O. Box 93478 Las
Vegas, NV 89193-3478, 2002, 23.
118. IPCC. Guidelines for National Greenhouse Gas Inventories. Published: IGES, Japan, 2006.
119. Quyết định số 22/2007/QĐ-BTNMT ngày 17 tháng 12 năm 2007 về việc Ban
hành Quy định về Thành lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất. Bộ Tài nguyên và
Môi trường, 2013.
128
120. Nguyễn Văn Tiến. Nguồn lợi thảm cỏ biển Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Tự
nhiên và Công nghệ, 2013, 346.
121. Dự án IMOLA Huế GCP/VIE/029/ITA. Nguồn lợi tự nhiên và Môi trường đầm
phá Tam Giang – Cầu Hai, phần “Cỏ biển và thực vật thủy sinh nước ngọt trong
đầm phá Tam Giang - Cầu Hai”. Viện Tài nguyên và Môi trường biển, 2007, 73.
122. https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C5%A9_l%E1%BB%A5t_mi%E1%BB%81n_T
rung_Vi%E1%BB%87t_Nam_th%C3%A1ng_11_n%C4%83m_1999
123. www.iucnredlist.org/sotdfiles/halophilabe-ccarii.pdf, (15h00, 18/7/2014).
124. Nguyễn Xuân Hòa, Nguyễn Thị Thanh Thủy, Tống Phước Hoàng Sơn, Phạm Thị
Lan. Thành phần loài và sự phân bố của rừng ngập mặn, thảm cỏ biển ở đầm Thị
Nại, tỉnh Bình Định. Hội nghị Khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật lần thứ 4, 2011, 635-641.
125. Nguyễn Trọng Nho. Đặc trưng hệ sinh thái các đầm phá ven biển miền Trung.
Trung tâm khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia. Chuyên khảo biển Việt
Nam, 1994, 4, 421 – 475.
126.
127. Đặng Ngọc Thanh, Nguyễn Trọng Nho. Đặc trưng sinh thái đầm phá ven biển.
Biển Đông – IV: Sinh vật và Sinh thái Biển. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
128. UBND Thừa Thiên - Huế. Quyết định 1142/QĐ-UBND ngày 06/6/2011 về việc
phê duyệt “Kế hoạch giải toả, sắp xếp lại nò sáo trên đầm phá Tam Giang – Cầu
Hai, huyện Phú Vang”, 2011.
129. Nguyễn Văn Tiến, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Thị Thu và cộng sự. Báo cáo tổng kết
đề tài “Điều tra khảo sát các bãi giống, bãi đẻ của các loài thủy sản kinh tế hệ đầm
phá Thừa Thiên – Huế. Viện Tài nguyên và Môi trường Biển , 2000, 126.
130. Nguyễn Văn Tiến. Báo cáo đề tài “Đánh giá nguồn lợi cỏ biển vùng ven biển
Trung bộ, Tây Nam bộ và đề xuất các giải pháp sử dụng bền vững”. Viện Tài
nguyên và Môi trường Biển, 2006, 182.
129
131. Cao Văn Lương. Hiện trạng thảm cỏ biển Cửa Đại (Hội An, Quảng Nam).
Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển. Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và
Công nghệ, 2011, 16, 144-150.
132. J. Terrados, C.M. Duarte, M.D. Fortes, J. Borum, N.S.R. Agawin, S. Bach, U. Thampanya, L. Kamp-Nielsen, W.L. Kenworthy, O. Geertz-Hansen, J. Vermaat. Changes in community structure and biomass of seagrass communities along gradients of siltation in SE Asia. Estuarine, Coastal and self Science, 1998, 46, 757-768.
133. Nguyễn Hữu Đại. Cỏ biển ở phía Nam Việt Nam. Dự án UNEP/GEF/SCS Viện
TN & MT biển, 2002, 63.
134. C. M. Duarte, C. L. Chiscano. Seagrass biomass and production: A
reassessment. Aqua. Bot., 1999, 65, 159-174.
135. J. E. M. Brouns. Quantitative and dyamic aspects of a mixed seagrass meadow
in Papua New Guinea. Aqua. Bot., 1997, 29, 33-47.
136. Cao Văn Lương. Hiện trạng thảm cỏ biển đầm phá Tam Giang – Cầu Hai
(Thừa Thiên – Huế). Tuyển tập báo cáo Hội nghị Khoa học biển toàn quốc lần thứ
V. Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, 2011, 4, 312 – 318.
137. www.reuters.com/article/us-carbon-price-forecast-dUSTRE69O2G820101025.
138. C. Carraro, A. Favero. The Economic and Financial Determinants of Carbon
Prices. Czech Journal of Economics and Finance (Finance a uver), 2009, 59(5),
396-409.