Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br />
<br />
Soá 3/2011<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT SURIMI TỪ CÁ<br />
MÈ HOA (Hypophthalmichthys nobilis)<br />
STUDY ON SURIMI PROCESSING TECHNOLOGY FROM BIGHEAD CARP<br />
(Hypophthalmichthys nobilis)<br />
Nguyễn Anh Tuấn (1), Nguyễn Xuân Duy (1*), Nguyễn Bảo (1), Phạm Thị Hiền (1),<br />
Nguyễn Hồng Ngân (1) và Đào Trọng Hiếu (2)<br />
1<br />
Khoa Chế biến - Trường Đại học Nha Trang<br />
2<br />
Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và Nghề muối, Bộ NN & PTNT<br />
*Email tác giả liên lạc: duy.ntu.edu@gmail.com<br />
TÓM TẮT:<br />
Surimi là sản phẩm được sản xuất từ thịt cá. Theo truyền thống nguyên liệu dùng sản xuất surimi chủ<br />
yếu từ nguồn cá biển. Tuy nhiên, sự khai thác quá mức cùng với phương pháp khai thác không phù hợp đã làm<br />
cho nguồn nguyên liệu này có nguy cơ cạn kiệt trong thời gian gần đây. Sản xuất surimi từ cá nước ngọt vẫn<br />
còn mới mẻ và là một trong những hướng mới trong công nghệ sản xuất surimi. Bài báo này trình bày những<br />
kết quả nghiên cứu sản xuất surimi từ cá Mè hoa, một loại cá nước ngọt, đang được nuôi thương phẩm ở nhiều<br />
nơi. Chúng tôi đã xác định được những thông số kỹ thuật quan trọng trong quy trình công nghệ sản xuất surimi<br />
từ cá Mè hoa như sau: quá trình rửa được thực hiện trong ba lần: lần 1 sử dụng dung dịch NaCl 0,2%; lần 2<br />
dùng dịch a xít acetic 0,01% và lần 3 dùng nước thường. Thời gian mỗi lần rửa và tỷ lệ dung dịch rửa so với<br />
thịt cá là 20 phút và 7:1 (v/w). Thời gian ép tách nước là 30 phút. Phụ gia sử dụng bao gồm đường 4%, sorbitol<br />
4%, tari K7 0,3%. Quá trình tạo gel được thực hiện ở nhiệt độ 0 - 50C trong 24 giờ. Surimi được sản xuất ra<br />
có chất lượng đảm bảo vệ sinh và an toàn thực phẩm.<br />
Từ khóa: Surimi, quy trình, cá Mè hoa, Hypophthalmichthys nobilis<br />
ABSTRACT<br />
Surimi is a product from fish meat. Traditionally, materials for producing surimi are mainly from marine<br />
fish. However, overcatch and concominant with incorrect catching methods have resulted in risk of shortage<br />
of this recource recently. Surimi production from freshwater fish is still new and is one of new trends in surimi<br />
technology. This article presents research results in producing surimi from bighead carp, a kind of freshwater<br />
fish, is comercially culturing at many places. We determined the important technical factors of surimi<br />
production process from bighead carp as follows: using NaCl 0.2% for the first washing, acetic acid 0.01% for<br />
the second washing and freshwater for the third washing. Duration for each washing time and ratio of washing<br />
solution and fish meat were 20 minutes and 7:1 (vol./wt.). Dewater duration was 30 minutes. Addtitives were<br />
used, including sugar 4%, sorbitol 4% and tari K7 0.3%. Gel setting process was carried out from 0 to 5oC for<br />
24 hours. Surimi produced from this process had quality meet food safety and higene standards.<br />
Keywords: Surimi, process, bighead carp, Hypophthalmichthys nobilis<br />
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG ❖ 3<br />
<br />
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
Soá 3/2011<br />
2. Quy trình chế biến surimi dự kiến<br />
<br />
Surimi là chất nền protein quan trọng để<br />
<br />
Quy trình chế biến surimi được thực hiện<br />
<br />
sản xuất các sản phẩm mô phỏng. Các chuyên<br />
<br />
theo quy trình của Trần Thị Luyến (2004) trên đối<br />
<br />
gia FAO trong lĩnh vực thực phẩm đã nhận định<br />
<br />
tượng cá biển và có một vài sự hiệu chỉnh nhỏ.<br />
<br />
rằng: surimi là cơ sở thực phẩm trong tương lai<br />
(Trần Thị Luyến, 2004). Nhiều công trình nghiên<br />
cứu về công nghệ sản xuất surimi từ các loại<br />
nguyên liệu thủy sản khác nhau, đặc biệt là từ cá<br />
biển đã được thực hiện (Trần Thị Luyến, 2006,<br />
2004). Tuy nhiên, nghiên cứu sản xuất surimi từ<br />
các loài cá nước ngọt còn rất hạn chế, đặc biệt<br />
surimi từ cá Mè mới được nghiên cứu bước đầu.<br />
Cá Mè là loài cá ăn tạp có khả năng sinh trưởng<br />
phát triển rất mạnh, năng suất cao nhưng chưa<br />
được nuôi ở quy mô lớn vì thịt cá có mùi tanh<br />
khó được người tiêu dùng chấp nhận. Vì vậy,<br />
cần nghiên cứu sản xuất các sản phẩm có giá trị<br />
gia tăng từ cá Mè (surimi và các sản phẩm mô<br />
phỏng) để thúc đẩy nghề nuôi cá Mè, đa dạng<br />
hóa sản phẩm và nâng cao thu nhập cho người<br />
nông dân là vấn đề cần quan tâm. Mục tiêu của<br />
nghiên cứu này là xây dựng quy trình công nghệ<br />
sản xuất surimi từ cá Mè, góp phần gia tăng giá<br />
trị cho đối tượng nguyên liệu này.<br />
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu<br />
Đối tượng nghiên cứu chính là cá Mè hoa<br />
(Hypophthalmichthys nobilis) được nuôi tại<br />
Diên Khánh, Khánh Hòa. Các phụ gia sử dụng<br />
trong nghiên cứu này gồm đường, sorbitol dạng<br />
lỏng (nồng độ 70%), muối NaCl và a xít acetic<br />
(d =1,05 g/ml), các hai loại hóa chất này đều đáp<br />
ứng yêu cầu sử dụng trong thực phẩm. Hóa chất<br />
<br />
Các thông số kỹ thuật của quy trình được nghiên<br />
cứu và xác định phù hợp với đối tượng cá Mè<br />
hoa. Tóm tắt quy trình như sau:<br />
Nguyên liệu → Xử lý → Rửa 1 → Rửa 2 →<br />
Rửa 3 → Ép tách nước → Phối trộn phụ gia →<br />
Nghiền giã → Định hình → Cấp đông → Bảo quản.<br />
3. Phân tích các cảm quan và vật lý<br />
Đánh giá các chỉ tiêu cảm quan theo<br />
phương pháp được mô tả bởi Nguyễn Thị Thục<br />
(2000). Hội đồng cảm quan được xây dựng<br />
gồm 5 người (3 nữ và 2 nam). Họ được huấn<br />
luyện và đào tạo trong thời gian ít nhất 2 tuần<br />
về các kỹ năng đánh giá surimi trước khi tham<br />
gia chính thức vào hội đồng đánh giá. Giá trị pH<br />
được xác định theo tiêu chuẩn ngành số 28 TCN<br />
119:1998 sử dụng thiết bị đo pH (420A, Orion,<br />
USA). Chỉ tiêu tạp chất và độ dẻo cũng được<br />
xác định theo 28 TCN119:1998. Độ chắc của gel<br />
được xác định theo phương pháp được mô tả<br />
bởi Võ Thanh Trực (2010) sử dụng thiết bị đo độ<br />
chắc gel (Sun Rheo meter, CR-500DX, Japan).<br />
Màu sắc được xác định trên thiết bị đo màu<br />
(Chroma meter, CR-400, Minolta, Osaka, Japan).<br />
Độ trắng được tính toán theo Park (2005).<br />
4. Phân tích các chỉ tiêu hóa học<br />
Hàm lượng ẩm và tro được xác định theo<br />
AOAC 950.46 và AOAC 923.03 (1995). Xác định<br />
hàm lượng protein theo TCVN 4321-1 (1997),<br />
hàm lượng chất béo được xác định theo phương<br />
pháp của Folch (1957) và hàm lượng gluxit<br />
được thực hiện theo phương pháp của Dubois<br />
(1956) sử dụng máy đo độ hấp thu quang học<br />
<br />
sử dụng trong phân tích các chỉ tiêu protein, chất<br />
<br />
(Spectrophotometry DR 4000, Hatch, USA).<br />
<br />
béo, gluxit, NH3, histamin và các chỉ tiêu vi sinh<br />
<br />
Hàm lượng NH3 được xác định theo SMEWW<br />
<br />
vật thuộc loại tinh khiết, đáp ứng yêu cầu phân<br />
<br />
417B (1985). Histamin được phân tích trên hệ<br />
<br />
tích.<br />
<br />
thống HPLC (Shimadzu, CBM-10A, Japan).<br />
<br />
4 ❖ TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG<br />
<br />
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br />
5. Phân tích các chỉ tiêu vi sinh vật<br />
<br />
Soá 3/2011<br />
đoạn rửa là một trong những công đoạn quan<br />
<br />
Tổng vi sinh vật hiếu khí (TPC) được phân<br />
<br />
trọng nhất trong công nghệ sản xuất surimi<br />
<br />
tích theo TCVN 4884:2005; Coliforms theo<br />
<br />
nhằm loại bỏ các protein hòa tan mà chủ yếu là<br />
<br />
TCVN 6848:2007; Escherichia coli theo TCVN<br />
<br />
sarcroplasmic. Sarcroplasmic là một loại protein<br />
<br />
6846:2007; Staphylococcus aureus theo TCVN<br />
<br />
chiếm khoảng 23,5 % tổng số các protein trong<br />
<br />
4830:2005; Salmonella theo TCVN 4829:2005;<br />
<br />
cơ thịt cá, có tác dụng cản trở quá trình tạo gel,<br />
<br />
Vibrio parahaemolyticus theo 3349/QĐ-BYT/2001;<br />
<br />
điều này dẫn đến làm giảm GS. Cũng theo Park<br />
<br />
Vibrio cholerae theo ISO/TS 21872-1:2007;<br />
<br />
(2005) thì myofibrillar là protein sợi cơ có khả<br />
<br />
Shigella<br />
<br />
theo<br />
<br />
TCVN<br />
<br />
5287:1994;<br />
<br />
Listeria<br />
<br />
monocytogenes theo TCVN 7700-1:2007.<br />
6. Xử lý số liệu thống kê<br />
Các số liệu thí nghiệm được tiến hành lặp<br />
lại từ hai đến ba lần để đảm bảo đánh giá sự<br />
khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê. Phép kiểm<br />
định Turkey’s HSD được thực hiện theo sau<br />
phân tích ANOVA để kiểm chứng sự khác nhau<br />
có ý nghĩa (p < 0,05). Toàn bộ số liệu được xử<br />
lý trên phần mềm Statistica 9.0 (Stasoft, Tulsa,<br />
Ok, USA).<br />
<br />
năng hình thành mạng lưới gel ba chiều, chiếm<br />
khoảng 70% tổng số protein trong thịt cá. Do đó,<br />
công đoạn rửa nhằm giảm hàm lượng protein<br />
hòa tan sarcroplasmic đồng thời làm tăng nồng<br />
độ myofibrillar lên, dẫn đến cải thiện độ chắc của<br />
gel surimi.<br />
Khi tăng nồng độ NaCl trong nước rửa<br />
lớn hơn 0,2%, ngoài việc giảm khả năng khử<br />
sarcroplasmic còn làm giảm hiệu quả khử chất<br />
béo. Các hạt mỡ và các phân tử sarcroplasmic<br />
được giữ lại sẽ làm cản trở quá trình tạo gel cho<br />
surimi. Do đó độ chắc gel surimi giảm. Từ kết<br />
<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
<br />
quả nghiên cứu này cho thấy sử dụng nồng độ<br />
<br />
1. Xác định nồng độ NaCl cho lần rửa 1<br />
<br />
NaCl 0,02% có lẽ là một sự lựa chọn thích hợp<br />
<br />
NaCl có ảnh hưởng đến độ chắc gel của<br />
<br />
cho công đoạn rửa 1.<br />
<br />
surimi (GS) như được trình bày trong hình 1. Khi<br />
<br />
2. Xác định nồng độ a xít acetic cho lần rửa 2<br />
<br />
tăng nồng độ NaCl từ 0,1% lên 0,2% thì GS tăng<br />
<br />
Ảnh hưởng của nồng độ a xít acetic (AA)<br />
<br />
lên đáng kể (p < 0,05), từ 326 lên 379 g/cm. Tuy<br />
<br />
lên độ chắc của gel như được thể hiện trong<br />
<br />
nhiên, nếu tiếp tục tăng nồng độ NaCl thì GS<br />
<br />
hình 2. Khi nồng độ AA tăng từ 0,01% đến 0,05%<br />
<br />
lại giảm. Giá trị GS ở nồng độ NaCl 0,5% giảm<br />
<br />
thì GS surimi sẽ giảm đáng kể (p < 0,05), từ 592<br />
<br />
chỉ còn 311 g/cm, giá trị này thì thấp đáng kể<br />
<br />
g.cm xuống còn 274 g.cm. Điều này có thể được<br />
<br />
(p < 0,05) so với giá trị của nó tại nồng độ muối<br />
<br />
lý giải là do khi tăng nồng độ AA làm tăng các<br />
<br />
0,2%. Sử dụng NaCl trong công đoạn rửa có tác<br />
<br />
nhóm cực tính, gây cắt mạch peptit, các liên kết<br />
<br />
dụng hai mặt. NaCl có thể làm tăng độ chắc của<br />
<br />
hydro cũng bị cắt mạch. Do đó, độ dài và liên kết<br />
<br />
gel nhưng đồng thời nếu sử dụng không hợp lý<br />
<br />
giữa các phân tử protein với nhau giảm, kết quả<br />
<br />
có thể dẫn đến tác dụng ngược. Tác dụng hai<br />
<br />
làm GS giảm. Ngoài ra, khi tăng nồng độ AA làm<br />
<br />
mặt của việc sử dụng NaCl trong công đoạn<br />
<br />
cho pH môi trường giảm xuống xa pH trung tính,<br />
<br />
rửa trong công nghệ sản xuất surimi đã được<br />
<br />
các phân tử protein bị rửa trôi vào nước càng<br />
<br />
đề cập đến bởi Park (2005). Tác dụng cải thiện<br />
<br />
nhiều, làm giảm nồng độ myofibrillar trong thịt<br />
<br />
độ chắc của gel surimi có thể là do NaCl có tác<br />
<br />
cá, điều này cũng góp phần làm giảm GS. Trần<br />
<br />
dụng làm tăng tính ổn định của protein. Công<br />
<br />
Thị Luyến (2004) đã báo cáo nồng độ AA thích<br />
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG ❖ 5<br />
<br />
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br />
<br />
Soá 3/2011<br />
<br />
hợp cho lần rửa 2 đối với cá biển (cá nhám, đỏ củ, mối và sơm thóc) dao động từ 0,007 - 0,008%.<br />
Từ kết quả đạt được như được thể hiện trong hình 2, chúng tôi chọn nồng độ AA cho lần rửa 2 là<br />
0,01% để tiến hành các thực nghiệm tiếp theo.<br />
<br />
Hình 1. Ảnh hưởng của nồng độ NaCl<br />
đến độ chắc của gel surimi<br />
<br />
3. Xác định thời gian rửa<br />
Ảnh hưởng của thời gian rửa đến độ chắc<br />
gel của surimi được trình bày trong hình 3. Kết<br />
quả nghiên cứu cho thấy thời gian rửa có ảnh<br />
hưởng đáng kể (p < 0,05) đến GS của surimi.<br />
Khi tăng thời gian rửa thì GS của gel tăng theo,<br />
nhưng khi đến một giới hạn thời gian thì GS của<br />
gel bắt đầu giảm. Khi tăng thời gian rửa từ 5<br />
phút đến 20 phút, GS của gel tăng từ 467 g.cm<br />
lên 616 g.cm, nhưng khi thời gian xử lý tăng<br />
lên 25 phút thì GS của gel lại giảm xuống chỉ<br />
còn 527 g.cm. Điều này có thể giải thích là khi<br />
tăng thời gian rửa thì hàm lượng chất béo và<br />
sarcroplasmic được loại bỏ càng nhiều, điều này<br />
có thể dẫn đến làm tăng nồng độ protein trong<br />
cơ thịt cá trong đó có myofibrillar. Sự tăng nồng<br />
<br />
Hình 2. Ảnh hưởng của nồng độ a xít acetic<br />
đến độ chắc của gel surimi<br />
<br />
liên kết phân tử giữa các protein. Vì vậy làm cho<br />
độ chắc gel surimi giảm.<br />
4. Xác định tỉ lệ thịt cá xay so với dung dịch<br />
rửa<br />
Ảnh hưởng của tỉ lệ dung dịch rửa so với<br />
thịt cá xay (RV) đến độ chắc gel của surimi được<br />
trình bày trong hình 4. Độ chắc gel của surimi<br />
tăng cùng với sự tăng của tỉ lệ dung dịch rửa<br />
so với thịt cá xay, nhưng đến một tỉ lệ nhất định,<br />
nếu tiếp tục tăng tỉ lệ RV thì chẳng những GS<br />
của gel không tăng mà lại có chiều hướng giảm.<br />
Khi RV tăng thì 3:1 lên 7:1 thì GS của surimi<br />
tăng lên đáng kể (p < 0,05), từ 458 g.cm lên 770<br />
g.cm. Tuy nhiên, khi tăng tỉ lệ RV lên 8:1 thì GS<br />
bắt đầu giảm xuống chỉ còn 473 g.cm.<br />
<br />
độ protein này sẽ góp phần làm tăng các liên<br />
<br />
Rửa là công đoạn cực kỳ quan trọng trong<br />
<br />
kết trong phân tử của các protein với nhau. Do<br />
<br />
công nghệ sản xuất surimi. Rửa nhằm loại bỏ<br />
<br />
đó, độ chắc của gel tăng (Park, 2005). Nhưng<br />
<br />
các sarcroplasmic, máu, chất béo, đạm và các<br />
<br />
khi đến một giới hạn thời gian nhất định thì hàm<br />
<br />
hợp chất khác từ thịt cá xay. Nhiều nghiên cứu<br />
<br />
lượng chất béo và sarcroplasmic hòa tan vào<br />
<br />
đã được thực hiện và kết quả chỉ ra rằng độ chắc<br />
<br />
nước rửa không tăng lên nữa. Trái lại, lượng<br />
<br />
gel surimi được cải thiện vì rửa loại bỏ một số<br />
<br />
myofibrillar có thể bị rửa trôi vào môi trường lại<br />
<br />
thành phần gây trở ngại cho quá trình hình thành<br />
<br />
tăng theo thời gian rửa, dẫn đến làm giảm các<br />
<br />
gel như sarcroplasmic, chất béo và các tạp chất<br />
<br />
6 ❖ TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG<br />
<br />
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br />
<br />
Soá 3/2011<br />
<br />
khác. Sự loại bỏ bớt protein dạng hòa tan góp phần làm tăng nồng độ myofibrillar, là một tác nhân<br />
quan trọng để hình thành mạng lưới gel surimi trong thịt cá. Tuy nhiên, nếu tăng tỉ lệ RV cao quá có<br />
thể sẽ dẫn đến những tác hại nhất định đến khả năng tạo gel vì rằng myofibrillar cũng sẽ bị rửa trôi<br />
theo nước rửa, điều này dẫn đến giảm độ chắc của gel surimi (Võ Thanh Trực, 2010; Park, 2005).<br />
<br />
Hình 3. Ảnh hưởng của thời gian rửa<br />
đến độ chắc của gel surimi<br />
<br />
5. Xác định thời gian ép tách nước<br />
<br />
Hình 4. Ảnh hưởng của tỉ lệ dung dịch rửa/thịt cá<br />
đến độ chắc của gel surimi<br />
<br />
CT, không sử dụng đường và sorbitol, chỉ sử<br />
<br />
Ảnh hưởng của thời gian ép tách nước đến<br />
<br />
dụng 0,3% phosphate). Tỉ lệ kết hợp giữa đường<br />
<br />
hàm lượng ẩm còn lại của surimi như được trình<br />
<br />
và sorbitol ảnh hưởng đến độ chắc gel. Kết quả<br />
<br />
bày trong hình 5. Nhìn chung, hàm lượng ẩm<br />
<br />
nghiên cứu chỉ ra rằng ở tỉ lệ kết hợp giữa đường<br />
<br />
còn lại trong surimi giảm khi thời gian ép tăng.<br />
<br />
và sorbitol là 4:4 (mẫu SS2) cho độ GS của<br />
<br />
Khi tăng thời gian ép từ 10 phút đến 35 phút,<br />
<br />
surimi là cao nhất 643 g.cm (0 ngày bảo quản)<br />
<br />
hàm lượng ẩm còn lại trong surimi giảm đáng kể<br />
<br />
và 620 g.cm (30 ngày bảo quản) so với các tỉ lệ<br />
<br />
(p < 0,05), từ 83,06% xuống còn 74,98%. Mục<br />
<br />
kết hợp khác. Kết quả cũng chỉ ra rằng khi tăng<br />
<br />
tiêu của thực nghiệm là chọn được thời gian ép<br />
<br />
tỉ lệ kết hợp giữa SS từ 7% lên 8%, có tác dụng<br />
<br />
thích hợp để đạt được độ ẩm còn lại trong surimi<br />
trong khoảng (76 ± 1)%, đây là giá trị tiêu chuẩn<br />
cho surimi của một số thị trường như Nhật Bản,<br />
Hàn Quốc, Nga, Ucraina,… Dựa vào kết quả<br />
nghiên cứu đạt được (hình 5), thời gian ép tách<br />
nước 30 phút được xem xét lựa chọn như là thời<br />
gian thích hợp để đạt được mục tiêu đặt ra.<br />
6. Xác định tỷ lệ phối trộn phụ gia<br />
<br />
cải thiện GS của gel surimi, vượt quá giới hạn<br />
này, có thể dẫn đến sự giảm GS gel của surimi.<br />
Điều này có thể được giải thích là vì cả đường<br />
và sorbitol là những chất chống biến tính cho<br />
protein trong quá trình đông lạnh, sử dụng chúng<br />
trong công nghệ surimi giúp ổn định và bảo vệ<br />
tính chất chức năng của protein. Vì vậy, nếu sử<br />
dụng ở một tỉ lệ thích hợp sẽ cải thiện được GS<br />
<br />
Ảnh hưởng của đường và sorbitol đến độ<br />
<br />
của surimi (Park, 2005). Ngược lại, nếu sử dụng<br />
<br />
chắc của gel surimi sau cấp đông (0 ngày và<br />
<br />
quá mức, có thể sẽ gây tác dụng ngược, khi đó<br />
<br />
bảo quản đông 30 ngày) như được trình bày<br />
<br />
cả đường và sorbitol lại đóng vai trò là những<br />
<br />
trong hình 6. Nhìn chung, sử dụng kết hợp giữa<br />
<br />
chất hút và giữ nước làm cho hàm ẩm của<br />
<br />
đường và sorbitol (SS) có tác dụng cải thiện độ<br />
<br />
surimi tăng, điều này sẽ dẫn đến giảm GS. Từ<br />
<br />
chắc của gel surimi so với mẫu đối chứng (mẫu<br />
<br />
kết quả đạt được về ảnh hưởng của đường và<br />
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG ❖ 7<br />
<br />