BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
TẠ ANH TUẤN
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG HUYẾT TƯƠNG GIÀU YẾU TỐ TĂNG TRƯỞNG TRONG ĐIỀU TRỊ GHÉP XƯƠNG Ổ RĂNG TỰ THÂN CHO BỆNH NHÂN CÓ KHE HỞ CUNG HÀM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ RĂNG HÀM MẶT
HÀ NỘI – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
TẠ ANH TUẤN
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG HUYẾT TƯƠNG GIÀU YẾU TỐ TĂNG TRƯỞNG TRONG ĐIỀU TRỊ GHÉP XƯƠNG Ổ RĂNG TỰ THÂN CHO BỆNH NHÂN CÓ KHE HỞ CUNG HÀM
Chuyên ngành : Răng Hàm Mặt
Mã số
: 62720601
LUẬN ÁN TIẾN SĨ RĂNG HÀM MẶT
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. PHẠM DƯƠNG CHÂU
HÀ NỘI – 2021
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng QLĐT Sau đại học,
Trường Đại học Y Hà Nội; Ban lãnh đạo, Phòng Đào tạo & QLKH, Bộ môn
Bệnh lý miệng và PTHM, Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt, Khoa Răng Hàm
Mặt - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Khoa Phẫu thuật hàm mặt - Bệnh viện
Răng hàm mặt Trung Ương Hà Nội đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong
quá trình học tập, nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận án này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Phạm Dương Châu, Phó hiệu trưởng,
trưởng khoa Răng hàm mặt, trường Đại học Kinh doanh Công nghệ Hà Nội,
người Thầy đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành
luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Ngô Văn Toàn, TS. Đặng Triệu
Hùng đã đóng góp cho tôi những ý kiến quý báu để tôi có thể hoàn thành luận
án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị Phòng QLĐT Sau đại học -
Trường Đại học Y Hà nội đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị em đồng nghiệp và bạn bè đã
quan tâm động viên, giúp đỡ tôi trong những năm qua.
Cuối cùng tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến bố mẹ kính yêu,
những người thân trong gia đình đã thông cảm, động viên và ở bên tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghiên cứu sinh
Tạ Anh Tuấn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Tạ Anh Tuấn, nghiên cứu sinh khóa 33, Trường Đại học Y Hà
Nội, chuyên ngành Răng Hàm Mặt, xin cam đoan:
1. Đây là luận án do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Phạm Dương Châu.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2021
NGƯỜI VIẾT CAM ĐOAN
NCS. Tạ Anh Tuấn
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
bFGF : Yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi
BMP : Protein tạo dạng xương
Col : Collagen
CPC : Calcium phosphate cements
CPD : Citrate phosphate dextrose
CS : Calcium sulphate
DBM : Xương khử khoáng
DFDBAs : Xương đông khô đã khử khoáng
EGF : Yếu tố tăng trưởng biểu bì
FDBAs : Xương đông khô
FGF : Yếu tố tăng trưởng mạch máu
GFs : Các yếu tố tăng trưởng
HA : Hydroxyapatite
IGF : Yếu tố tăng trưởng Insulin
KHM : Khe hở môi
KHM- VM : Khe hở môi- vòm miệng
KHM- VMTB : Khe hở môi- vòm miệng toàn bộ
KHVM : Khe hở vòm miệng
MTB : Kém phát triển hàm trên theo chiều ngang
ONF : Lỗ thông mũi miệng
PDGF : Yếu tố tăng trưởng chuyển hoá từ tiểu cầu
PMMA : Polymethyl methacrylate
PPP : Huyết tương nghèo tiểu cầu
PRP : Huyết tương giầu yếu tố tăng trưởng
RBC : Hồng cầu
RPE : Nong nhanh vòm miệng
RPM : Vòng trên phút
SPT : Sau phẫu thuật
TB : Tế bào
TCP : Tricalcium phosphate
TGF-b1 : Yếu tố tăng trưởng biến đổi bê ta 1
VEGF : Yếu tố tăng trưởng màng nội mạch
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................ 3
1.1. Đại cương giải phẫu vùng vòm miệng .................................................... 3
1.1.1. Vòm miệng........................................................................................ 3
1.1.2. Đặc điểm giải phẫu cần chú ý của xương ổ răng hàm trên............... 5
1.1.3. Liên quan giải phẫu của mũi, môi và vòm miệng. ........................... 6
1.1.4. Mô học của xương ổ răng. ................................................................ 6
1.2. Các rối loạn sau phẫu thuật dị tật KHM- VM. ....................................... 6
1.2.1. Các sai lệch hình thái. ....................................................................... 6
1.2.2. Rối loạn về răng, sự mọc răng và khớp cắn...................................... 8
1.2.3. Lỗ thông mũi miệng. ....................................................................... 10
1.3. Cơ chế tái tạo xương và lành thương. ................................................... 11
1.3.1. Cơ chế của tái tạo xương ................................................................ 11
1.3.2. Sinh lý lành thương của mảnh ghép. .............................................. 12
1.3.3. Sinh lý tạo xương của mảnh ghép. ................................................. 13
1.4. Huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng. ................................................... 16
1.4.1. Khái niệm. ....................................................................................... 16
1.4.2. Độ tập trung của tiểu cầu trong huyết tương. ................................. 16
1.4.3. Các yếu tố sinh học trong huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng .... 17
1.5. Vật liệu ghép. ........................................................................................ 21
1.5.1 Xương tự thân .................................................................................. 21
1.5.2. Xương đồng loại. ............................................................................ 24
1.5.3. Xương ghép dị loại ......................................................................... 25
1.5.4. Ceramics. ........................................................................................ 25
1.5.5. Các vật liệu có yếu tố tăng trưởng .................................................. 28
1.6. Một số nghiên cứu trên thế giới về ghép xương KHCH ....................... 28
1.7. Sự tiêu xương sau phẫu thuật ghép xương KHCH. .............................. 30
1.8. Thời điểm ghép xương. ......................................................................... 33
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......... 36
2.1. Đối tượng nghiên cứu. .......................................................................... 36
2.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứu. ........................................................... 36
2.2.1. Thời gian nghiên cứu. ..................................................................... 36
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu ....................................................................... 37
2.3. Thiết kế nghiên cứu ............................................................................... 37
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu. ..................................................... 37
2.5. Các biến số, chỉ số nghiên cứu và cách thu thập số liệu. ...................... 39
2.6. Kỹ thuật ghép xương có sử dụng PRP. ................................................. 47
2.6.1. Chỉ định chỉ và chống chỉ định. ...................................................... 47
2.6.2. Quy trình kỹ thuật ........................................................................... 48
2.6.3. Chăm sóc sau phẫu thuật. ............................................................... 59
2.7. Công cụ, quy trình thu thập số liệu. ...................................................... 59
2.8. Xử lí và phân tích số liệu. ..................................................................... 61
2.9. Sai số và cách khắc phục. ..................................................................... 62
2.9.1. Sai số. .............................................................................................. 62
2.9.2. Cách khắc phục ............................................................................... 62
2.10. Đạo đức trong nghiên cứu. .................................................................. 63
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................... 64
3.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu .......................................... 64
3.1.1. Một số đặc điểm chung ................................................................... 64
3.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng trước phẫu thuật ................................... 66
3.1.3. Một số đặc điểm cận lâm sàng trước phẫu thuật ............................ 70
3.2. Đánh giá kết quả điều trị sau phẫu thuật ............................................... 72
3.2.1. Đánh giá kết quả lâm sàng sau phẫu thuật ...................................... 72
3.2.2. Đánh giá kết quả cận lâm sàng ....................................................... 77
3.2.3. Đánh giá một số biến chứng sau phẫu thuật ................................... 90
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ............................................................................ 93
4.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân có KHCH. .............. 93
4.1.1. Tuổi - giới. ...................................................................................... 93
4.1.2. Loại khe hở ..................................................................................... 96
4.1.3. Lỗ thông mũi – miệng. .................................................................... 97
4.1.4. Sự hình thành và mọc răng cửa bên và răng nanh. ......................... 99
4.1.5. Vật liệu ghép. ................................................................................ 102
4.1.6. Kỹ thuật tạo vạt và ghép xương .................................................... 104
4.1.7. Hình thái khe hở xương cung hàm trước phẫu thuật .................... 107
4.2. Đánh giá kết quả điều trị giữa hai nhóm có và không sử dụng huyết
tương giàu yếu tố tăng trưởng .................................................................... 110
4.2.1. Kết quả sau 1 tuần ......................................................................... 110
4.2.2. Kết quả sau 3 tháng ....................................................................... 111
4.2.3. Kết quả sau 6 tháng ....................................................................... 112
4.2.4. Kết quả sau 1 năm ......................................................................... 113
4.3. Biến chứng trong và sau lấy xương mào chậu. ................................... 119
4.4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 121
KẾT LUẬN .................................................................................................. 124
KIẾN NGHỊ ................................................................................................. 126
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Bảng phân loại các yếu tố sinh học của tiểu cầu ........................ 17
Bảng 1.2: So sánh các loại xương tự thân. .................................................. 22
Bảng 1.3: Một số nghiên cứu đánh giá mức độ tiêu xương ghép ............... 31
Bảng 2.1: Bảng biến số mục tiêu 1 .............................................................. 39
Bảng 2.2: Bảng biến số mục tiêu 2 .............................................................. 40
Bảng 2.3: Các biến số cần thu thập sau phẫu thuật. .................................... 42
Bảng 2.4: Tiêu chí đánh giá lành thương SPT 7 ngày ................................ 43
Bảng 2.5: Tiêu chí đánh giá lành thương SPT 3 tháng ............................... 43
Bảng 2.6: Phân loại Bergland ...................................................................... 45
Bảng 2.7: Bảng phân loại Kindelan ............................................................ 46
Bảng 3.1: Đặc điểm về tuổi của đối tượng nghiên cứu ............................... 64
Bảng 3.2. Đặc điểm về giới của đối tượng nghiên cứu ............................... 65
Bảng 3.3: Đặc điểm lâm sàng khớp cắn. ..................................................... 66
Bảng 3.4: Đặc điểm lâm sàng khe hở cung hàm ......................................... 67
Bảng 3.5: Đặc điểm lâm sàng lỗ thông mũi miệng ..................................... 68
Bảng 3.6: Đặc điểm lâm sàng răng nanh trước phẫu thuật. ........................ 69
Bảng 3.7: Đặc điểm lâm sàng răng 2 trước phẫu thuật ............................... 69
Bảng 3.8: Kích thước khe hở cung hàm ở nhóm can thiệp ......................... 70
Bảng 3.9: Kích thước khe hở cung hàm ở nhóm đối chứng ....................... 70
Bảng 3.10: Lâm sàng mọc răng nanh sau phẫu thuật .................................... 76
Bảng 3.11: So sánh chiều dài mảnh ghép xương trước- sau ở nhóm can thiệp ....... 78
Bảng 3.12: So sánh chiều dài mảnh ghép xương trước - sau ở nhóm đối chứng .... 80
Bảng 3.13. So sánh chiều dài xương ghép SPT ở NCT và NĐC .................. 81
Bảng 3.14: So sánh chiều dài xương ghép sau 3 tháng ................................. 82
Bảng 3.15: So sánh chiều dài xương ghép sau 6 tháng ................................. 83
Bảng 3.16: So sánh chiều dài xương ghép sau 12 tháng ............................... 84
Bảng 3.17: So sánh tỉ lệ chiều dài xương ghép sau phẫu thuật ..................... 85
Bảng 3.18: So sánh tỉ lệ tiêu xương sau phẫu thuật ...................................... 86
Bảng 3.19: Phân loại xương ghép theo Kindelan sau phẫu thuật 12 tháng .. 87
Bảng 3.20: Tỉ lệ tiêu xương sau 12 tháng theo nhóm chỉnh nha................... 88
Bảng 3.21: Tỉ lệ tiêu xương ghép sau 12 tháng theo giới ............................. 88
Bảng 3.22: Tỉ lệ tiêu xương ghép sau 12 tháng theo nhóm tuổi ................... 89
Bảng 3.23: Đánh giá lâm sàng sau 7 ngày phẫu thuật .................................. 90
Bảng 3.24: Biến chứng chảy máu sau phẫu thuật ......................................... 91
Bảng 3.25: Một số biến chứng 7 ngày sau phẫu thuật .................................. 91
Bảng 3.26. Các biến chứng tại mào chậu 3 tháng SPT ................................. 92
Bảng 4.1. Theo dõi mọc răng nanh ngầm SPT ......................................... 101
Bảng 4.2: Thang điểm Bergland ................................................................ 109
Bảng 4.3: Thang điểm Kindelan ................................................................ 109
Bảng 4.4: Chiều dài mảnh xương ghép sau phẫu thuật ở 2 nhóm. ........... 115
Bảng 4.5. Phân loại mảnh ghép SPT 12 tháng theo Kindelan .................. 116
Bảng 4.6. Đặc điểm khớp cắn và chỉnh nha của đối tượng nghiên cứu .... 117
Bảng 4.7. So sánh tỉ lệ chỉnh nha ở nhóm xương ghép loại IV- Kindelan ... 118
Bảng 4.8. Biến chứng chảy máu sau phẫu thuật ....................................... 119
Bảng 4.9. Biến chứng tại mào chậu SPT 3 tháng ...................................... 121
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ chỉnh nha ở đối tượng nghiên cứu. ................................... 67
Biểu đồ 3.2: So sánh kích thước khe hở cung hàm ở 2 nhóm nghiên cứu .... 71
Biểu đồ 3.3: Tỉ lệ đóng lỗ thông mũi miệng sau phẫu thuật ở nhóm can thiệp ... 72
Biểu đồ 3.4: Theo dõi mọc răng nanh sau phẫu thuật ở nhóm can thiệp. ..... 73
Biểu đồ 3.5: Tỉ lệ đóng lỗ thông mũi miệng sau phẫu thuật ở nhóm đối chứng .. 74
Biểu đồ 3.6: Theo dõi mọc răng nanh sau phẫu thuật ở nhóm đối chứng. .... 75
Biểu đồ 3.7. Chiều dài xương ghép theo dõi sau phẫu thuật ở nhóm can thiệp ... 77
Biểu đồ 3.8: Chiều dài xương ghép theo dõi sau phẫu thuật ở nhóm đối chứng . 79
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Giải phẫu của vòm miệng ............................................................. 4
Hình 1.2: Cấu trúc xương ổ răng .................................................................. 5
Hình 1.3: Sai lệch hình thái xương hàm trên ................................................ 7
Hình 1.4: Bất thường về răng và khớp cắn ................................................... 8
Hình 1.5: Phim 3D cấu trúc xương sau phẫu thuật tạo hình môi và vòm
miệng trên bệnh nhân KHM - VM toàn bộ .................................. 8
Hình 1.6: Bất thường răng ở bệnh nhân KHM- VM toàn bộ bên trái đã
mô tạo hình thì đầu ....................................................................... 9
Hình 1.7: Sơ đồ mô tả quá trình lành thương ............................................. 12
Hình 1.8: Hình ảnh tiêu bản tiểu cầu trong máu toàn phần ........................ 16
Hình 1.9: Hình ảnh tiêu bản tiểu cầu trong huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng . 16
Hình 1.10: Minh họa phân loại Oslo về mức độ tiêu xương ........................ 30
Hình 1.11: Phương pháp ước lượng sự hình thành xương với các răng lân
cận vùng khe hở .......................................................................... 32
Hình 1.12: Trước phẫu thuật ghép xương ổ răng.......................................... 35
Hình 1.13: Sau phẫu thuật ghép xương ổ răng ............................................. 35
Hình 2.1: Vị trí đo chiều cao và rộng của khe hở ....................................... 46
Hình 2.2: Đường rạch tạo vạt nhìn từ ngách tiền đình ............................... 48
Hình 2.3: Đường rạch tạo vạt nhìn từ ngách tiền đình cho khe hở một bên ..... 49
Hình 2.4: Sơ đồ đường rạch tạo vạt phía vòm miệng ................................. 49
Hình 2.5: Đường rạch 2 bên bờ khe hở....................................................... 50
Hình 2.6: Bóc tách vạt niêm mạc tiền đình ................................................. 50
Hình 2.7: Bóc tách vạt niêm mạc màng xương phía vòm miệng ............... 51
Hình 2.8: Sau khâu đóng vạt niêm mạc màng xương phía vòm miệng ...... 51
Hình 2.9: Hình ảnh ghép xương .................................................................. 52
Hình 2.10: Giảm căng vạt niêm mạc màng xương phía tiền đình ................ 53
Hình 2.11: Sau khi khâu phục hồi ................................................................. 53
Hình 2.12. Đường rạch mào chậu ................................................................. 54
Hình 2.13: Lấy xương xốp mào chậu ........................................................... 55
Hình 2.14: Bộ dụng cụ lấy máu và quay li tâm. ........................................... 56
Hình 2.15: Sơ đồ mô tả phương pháp ly tâm chia tách PRP ........................ 57
Hình 2.16: Huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng sau giải chống đông với
Calcium Chloride ........................................................................ 58
Hình 2.17: Hình ảnh chuẩn bị PRP ............................................................... 59
Hình 2.18: Hình ảnh ghép xương .................................................................. 59
Hình 2.19: Quy trình thu thập số liệu ........................................................... 61
Hình 4.1: Kết quả đóng lỗ thông mũi- miệng bằng vạt lưỡi ....................... 98
Hình 4.2: Răng nanh mọc ra cùng xương ghép sau 3 tháng. .................... 102
Hình 4.3: Sử dụng màng để che chắn giữa vùng xương ghép với hốc mũi .. 105
Hình 4.4: Sử dụng màng fibrin và vạt niêm mạc để đóng lỗ thủng giữa
vùng xương ghép với hốc mũi .................................................. 106
Hình 4.5. Hướng phát triển của xương cung hàm trên bệnh nhân có KHCH ... 108
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khe hở môi và vòm miệng (KHM-VM) là dị tật bẩm sinh vùng hàm mặt thường gặp ở Việt Nam và thế giới. Ở Việt Nam, tỷ lệ này vào khoảng 1/1000 - 2/1000 [1], [2], [3]. KHM – VM cần được điều trị toàn diện, bắt đầu từ những tháng đầu sau sinh, phối hợp nhiều quy trình và kéo dài trong suốt 20 năm đầu
của cuộc đời [4].
Dị tật bẩm sinh KHM-VM gây ra những biến đổi về giải phẫu môi, mũi,
cung hàm trên và vòm miệng [5]. Điều trị cho các bệnh nhân KHM-VM cần có sự
phối hợp toàn diện. Theo một số tác giả, tạo hình môi được thực hiện vào thời
điểm 3 tháng tuổi và tạo hình vòm miệng vào thời điểm 18 tháng tuổi [6], [7], [8].
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển thì sẹo sau mổ vùng vòm miệng có thể
gây nên hạn chế sự mở rộng cung hàm trên theo chiều ngang, làm tăng nguy cơ
gây ra cắn chéo răng sau [9]. Cánh mũi bên khe hở vẫn sập xuống, do chân cánh
mũi không được đặt trên nền xương đầy đủ [8], [10]. Sau phẫu thuật vẫn còn khe
hở xương cung hàm và thiếu khối lượng xương hai bên bờ khe hở, nhiều trường
hợp vẫn còn đường rò mũi miệng. Để phục hồi hình thái giải phẫu của xương
hàm, đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về việc ghép xương ổ răng: Năm 1908,
Lexer đã thử ghép xương ổ răng ở khe hở cung hàm đồng thời với việc phẫu
thuật tạo hình môi và vòm miệng. Từ đó liên tục xuất hiện các báo cáo sử dụng
kỹ thuật ghép xương sườn, xương chậu, đầu trên xương mác, hoặc vỏ hộp sọ để
đóng khe hở cung hàm vùng ổ răng ngay thì đầu cùng với việc phẫu thuật tạo
hình môi và vòm miệng [11], [12], [13]. Năm 1972 Boyne và Sands lần đầu tiên
thực hiện ghép xương mào chậu đóng kín khe hở cung hàm, bên cạnh đó còn có
nhiều tác giả cũng sử dụng xương mào chậu để điều trị cho bệnh nhân có khe hở
cung hàm như Waite và Kersten (1980), Abyholm, Bergland, Semb và cộng sự
(1981), Olekas J và Zaleckas L (2003) [14], [15], [16].
Ghép xương ổ răng ở bệnh nhân sau phẫu thuật tạo hình KHM – VM giúp
đóng kín khe hở xương vùng ổ răng, phục hồi hình thái giải phẫu của cung hàm
[16], [17]. Tuy nhiên nhiều tác giả cho thấy xảy ra sự tiêu xương tự thân sau
ghép xương, điển hình như nghiên cứu của Merkx và cộng sự, sự tiêu xương sau
ghép bắt đầu từ tuần thứ 3 đến tuần thứ 6 sau ghép, các mảnh ghép bắt đầu tiêu
đi và để lại các hốc rỗng [18]. Câu hỏi được đặt ra là: làm thế nào để giảm mức
độ tiêu của xương ghép, sau ghép xương khe hở cung hàm? Đó chính là việc sử
dụng xương tự thân phối hợp với các yếu tố tăng trưởng được chiết tách từ chính
cơ thể của bệnh nhân [19], [20].
Đã có một số nghiên cứu trên thế giới về hiệu quả của ghép xương khe hở
cung hàm bằng xương tự thân phối hợp với huyết tương giầu yếu tố tăng trưởng
hoặc ghép xương tự thân phối hợp với xương nhân tạo và với huyết tương giàu yếu
tố tăng trưởng như: Camilo Roldan và cộng sự (2004), Alireza Akbarzadeh và cộng
sự (2009) [21], Eriko Marukawa và cộng sự (2011) [22], Chandan Gupta và cộng
sự (2013) [23], Ruiter và cộng sự (2013) [24], Gholamreza Shirani và cộng sự
(2017) [25]. Các nghiên cứu cho thấy mức độ tiêu xương ghép trong quá trình lành
thương đều giảm, khối lượng xương đạt được đã đáp ứng kỳ vọng của các nhà phẫu
thuật khi có sử dụng huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng.
Tại Việt Nam, cũng đã có một số nghiên cứu về ghép xương khe hở cung hàm
bằng xương tự thân [10], [26], [27]. Nhưng chưa có nghiên cứu một cách khoa học
đề cập tới ghép xương khe hở cung hàm bằng xương tự thân, phối hợp với huyết
tương giàu yếu tố tăng trưởng. Chính vì vậy tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu ứng
dụng huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng trong điều trị ghép xương ổ răng tự thân
cho bệnh nhân có khe hở cung hàm“ với 2 mục tiêu:
2
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và X quang của bệnh nhân khe hở cung hàm
có chỉ định ghép xương ổ răng tự thân tại Bệnh viện RHM TW HN và
Bệnh viện ĐHY HN từ năm 2014-2019.
2. Đánh giá kết quả điều trị giữa hai nhóm có và không sử dụng huyết
tương giàu yếu tố tăng trưởng.
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đại cương giải phẫu vùng vòm miệng [28],[29], [30]
1.1.1. Vòm miệng.
Vòm miệng (VM) gồm hai phần: vòm miệng cứng và vòm miệng mềm.
Vòm miệng ngăn cách bởi khoang miệng ở dưới và hốc mũi ở phía trên.
Vòm miệng cứng có giới hạn phía trước và hai bên là cung răng, giới hạn phía
sau là vòm miệng mềm và lưỡi gà.
1.1.1.1. Vòm miệng mềm (màn hầu).
Vòm miệng mềm là vách cân cơ chếch từ trên xuống dưới, từ trước ra
sau, ngăn cách miệng với hầu. Ở trước trên, vách này dính với bờ sau xương
khẩu cái, hai bên liên tiếp với thành hầu, ở dưới lơ lửng và có lưỡi gà ở giữa.
Cấu tạo của màn hầu gồm cân màn hầu và các cơ:
- Cơ khẩu cái màn hầu: là cơ đơn, đi từ gai mũi sau tới lưỡi gà.
- Cơ căng màn hầu: đi từ xương bướm và vòi nhĩ, bám vào móc cánh
trong xương chân bướm rồi tỏa ra vào cân màn hầu.
- Cơ nâng màn hầu: đi từ xương đá và mặt dưới vòi nhĩ đến tận hết ở
màn hầu.
- Cơ lưỡi màn hầu (cơ trụ trước): dính vào màn hầu, qua trụ trước để tỏa
vào lưỡi.
- Cơ hầu màn hầu (cơ trụ sau): cơ này gồm ba bó: bó màn hầu, bó vòi
nhĩ, bó chân bướm. Ba bó này chụm lại thành một thân cơ, chạy vào trụ sau
rồi bám tận vào sụn giáp và các cơ ở hầu.
1.1.1.2. Vòm miệng cứng.
Hai phần ba trước của VM cứng được tạo bởi mảnh ngang của mặt trong
xương hàm trên hai bên. Hai mảnh ở hai bên tiếp khớp với nhau ở đường giữa
hình thành một mái vòm. Mặt dưới của vòm gồ ghề, mặt trên lõm là máng
mũi, hai máng mũi ngăn cách nhau bởi xương lá mía.
4
Một phần ba sau của VM cứng được hình thành do mảnh ngang của
xương khẩu cái. Bờ trước của mảnh này tiếp khớp với bờ sau mảnh ngang
xương hàm trên, bờ trong tiếp khớp với bờ trong của mảnh ngang xương khẩu
cái bên kia, bờ sau tạo thành vành dưới của lỗ mũi sau.
Phía sau VM cứng hai bên có lỗ ống khẩu cái sau cho bó mạch thần kinh
khẩu cái lớn đi qua. Phía trước - giữa VM có lỗ ống răng cửa (còn gọi là lỗ
khẩu cái trước) là nơi thoát ra của động mạch khẩu cái trước và dây thần kinh
bướm khẩu. Lỗ này cũng là mốc để phân định VM tiên phát và thứ phát trong
thời kỳ hình thành của bào thai.
Tiền hàm
Lỗ răng cửa
Xương hàm trên
Xương
khẩu cái
Móc bướm
Cơ căng
màn hầu
Cơ nâng màn hầu
Hình 1.1: Giải phẫu của vòm miệng [30]
1.1.1.3. Mạch máu thần kinh vùng vòm miệng.
ĐM mạch khẩu cái trước và ĐM khẩu cái lớn, là các nhánh của ĐM hàm
trong cấp máu nuôi dưỡng vòm miệng cứng và niêm mạc vòm miệng.
Các nhánh của ĐM hầu lên thuộc ĐM hàm trong và ĐM khẩu cái lên
thuộc ĐM mặt, cấp máu nuôi dưỡng VM mềm.
5
Hệ TM đổ vào đám rối hầu rồi từ đó đổ vào TM cảnh trong.
Bạch mạch đổ vào hạch sau hầu và chuỗi hạch cảnh trong.
TK cảm giác do các dây khẩu cái trước, giữa, sau (nhánh của dây hàm
trên) chi phối. TK vận động do các nhánh của dây hàm dưới, nhánh dây VII,
đám rối hầu (nhánh dây IX, X) chi phối.
1.1.2. Đặc điểm giải phẫu cần chú ý của xương ổ răng hàm trên.
1.1.2.1. Đặc điểm giải phẫu
Xương ổ răng hàm trên được tạo thành bởi bờ dưới xương hàm trên, và
tạo nên cung hàm trên. Phía trước là môi trên. Che phủ mặt ngoài và mặt
trong là lớp niêm mạc miệng, ở giữa có chứa huyệt ổ răng. Quanh huyệt ổ
răng là xương ổ răng nối tiếp với dây chằng quanh răng, xương chân răng và
chân răng.
Xương ổ răng
Niêm mạc phía vòm miệng
Dây chằng quanh
Hình 1.2: Cấu trúc xương ổ răng [31]
Ở giữa, phía trước có lỗ khẩu cái trước, còn gọi là lỗ răng cửa chạy vào
ống khẩu cái, cho ĐM khẩu cái trước và dây TK bướm - khẩu cái đi qua.
6
Liên quan của xương ổ răng hàm trên: Ở giữa - trên là hốc mũi, cùng với
vách ngăn mũi phía trước bám vào mấu tiền hàm. Ở mặt bên - trên là xoang
hàm hai bên và chính nó tạo thành đáy xoang hàm [28].
1.1.2.2. Cấu trúc giải phẫu khe hở cung hàm
Khi xuất hiện khe hở cung hàm là có sự gián đoạn của cấu trúc xương và
biểu mô lợi che phủ. Sự thay đổi về hình thái giải phẫu dẫn tới sự thay đổi về
cách sắp xếp các răng trên cung hàm hoặc sự bất thường về vị trí và số lượng
của mầm răng vĩnh viễn tại vùng khe hở.
1.1.3. Liên quan giải phẫu của mũi, môi và vòm miệng.
Giới hạn phía trên của môi chính là nền mũi.
Chân cánh mũi được nâng đỡ bởi cung hàm, cơ nâng cánh mũi, các cơ
vòng môi, cơ nâng môi trên.
Hốc mũi được ngăn cách với khoang miệng bởi vòm miệng.
Vách ngăn mũi bám vào đường giữa của vòm miệng cứng ở phía sau và
mấu tiền hàm ở phía trước.
1.1.4. Mô học của xương ổ răng.
Xương ổ răng là một phần của xương hàm trên, tạo nên cung hàm.
Xương ổ răng là khối xương xốp, có cấu trúc như “tổ ong”, xen kẽ là hệ mao
mạch dầy đặc [31].
1.2. Các rối loạn sau phẫu thuật dị tật KHM- VM.
1.2.1. Các sai lệch hình thái.
Theo Timothy, các sai lệch về hình thái có thể gặp ở trẻ sau phẫu thuật
tạo hình KHM - VM bao gồm [32]:
- Sẹo ở môi và mũi.
- Lệch vách mũi, đỉnh mũi kém nhô, nền mũi hẹp.
- Các lỗ thông mũi miệng và viêm nhiễm mô xung quanh.
- Khuyết xương ổ răng.
- Răng chen chúc, bất thường về số lượng, hình thể, sai lệch khớp cắn.
7
- Kém phát triển xương hàm trên theo cả 3 chiều, nghiêng, bất cân xứng.
- Rối loạn phát triển và bất cân xứng xương hàm dưới kèm theo.
- Mấu tiền hàm nhô, có thể thông mũi miệng 2 bên, nuôi dưỡng kém.
Hình 1.3: Sai lệch hình thái xương hàm trên
Trong các sai lệch hình thái trên, thường gặp nhất là sai lệch hình thái
xương hàm trên. Nguyên nhân do phẫu thuật đóng khe hở môi – vòm miệng
tiến hành trong giai đoạn đầu đời thường ảnh hưởng đến sự phát triển của
xương hàm [33], [34].
- Phẫu thuật KHM thường làm hẹp chiều ngang cung răng ở phía trước.
- Phẫu thuật KHVM có xu hướng tăng tỉ lệ cắn chéo sau này, do sẹo mổ
vòm miệng hạn chế mở rộng cung hàm trên theo chiều ngang.
- Sẹo mổ ở vòm miệng, có thể hạn chế sự dịch chuyển xuống dưới và ra
trước của xương hàm trên. Trong trường hợp nặng, KHM - VMTB một bên
có thể gây lùi xương hàm trên và tương quan răng hạng III theo Angle.
- Bên cạnh sai lệch hình thái xương hàm trên, bất thường về răng và
lệch lạc khớp cắn cũng là vấn đề thường gặp ở trẻ sau phẫu thuật KHM –
VM. Với trẻ có KHM toàn bộ phối hợp khe hở cung hàm, cung hàm biến
dạng thường gây lệch và xoay trục các răng hai bên khe hở. Với trẻ bị
KHM - VM toàn bộ, đặc biệt ở KHM - VMTB hai bên, các răng trên mấu
tiền hàm thường dị dạng, xoay lệch trục, mọc bất thường. Sai lệch hình thái
xương hàm kết hợp bất thường về số lượng, hình thể răng, răng sữa thường
8
bị sâu vỡ lớn hay mất sớm do vệ sinh răng miệng kém khiến tình trạng sai
lệch khớp cắn thêm trầm trọng [2], [35].
Hình 1.4: Bất thường về răng và khớp cắn
Hình 1.5: Phim 3D cấu trúc xương sau phẫu thuật tạo hình môi và vòm
miệng trên bệnh nhân KHM - VM toàn bộ [36].
1.2.2. Rối loạn về răng, sự mọc răng và khớp cắn.
1.2.2.1. Rối loạn về răng, sự mọc răng.
Khi so sánh trong cộng đồng, các bệnh nhân có bệnh lý dị tật môi và
vòm miệng (CLP) thì có tỷ lệ cao về bất thường răng, ví dụ như các bất
thường về số lượng và vị trí, bất thường về hình thái, kích thước và hầu hết
các bất thường này đều ở vị trí khe hở [37].
Lucas et al. (2000) nghiên cứu có sự biến đổi về về màu sắc men răng ở
trẻ em có CLP khi so sánh với nhóm chứng [38]. Ribeiro et al. (2002, 2003)
nhận thấy có tỷ lệ cao về thiếu răng cửa bên (49.8%) cùng với chậm phát triển
9
chân răng khi so sánh với bên đối diện [37]. Hầu hết các nghiên cứu cho thấy
có bất thường về răng ở bên khe hở ở tất cả các loại khe hở.
Các bất thường về răng: Không có răng, răng trong răng, núm phu răng,
răng mọc kẹt, thân răng kéo dài, tật răng nhỏ, tuỷ hoá đá, răng gập khúc, thiểu
sản men răng, chân răng ngắn, thừa răng, răng mọc sai vị trí.
Đối với răng cửa bên: Tỷ lệ bẩm sinh của sự thiếu răng cửa bên ở bệnh
nhân KHM - VM toàn bộ khoảng từ 35 - 60% (theo các nghiên cứu khác
nhau). Số còn lại có sự mọc răng cửa bên thì tỷ lệ phần trăm về thay đổi vị trí
và xoay hướng là rất cao [13], [15], [39]. Theo tác giả Vig K.W.L và cộng sự,
trong nghiên cứu của mình cho thấy 36% bệnh nhân KHM và cung hàm
không có răng cửa bên, 64% có răng cửa bên. Trong 64% có răng cửa bên có
đến 90% răng di lệch hướng vào phía khe hở. Cũng trong nghiên cứu này, đối
với KHM - VM toàn bộ có tới 57% không có răng cửa bên và 43% có răng
cửa bên, trong đó 87% trường hợp răng cửa bên lệch hướng vào khe hở [40].
Đối với răng cửa giữa: Tỷ lệ phần trăm không có răng cửa giữa là không
đáng kể, ngay cả trong các trường hợp mắc KHM - VM toàn bộ hai bên.
Những răng cửa giữa bên khe hở có đến 82% lệch về phía khe hở, kèm theo là
xoay trục theo chiều ngược chiều kim đồng hồ.
Đối với răng nanh bên khe hở phần lớn các báo cáo cho thấy sự chậm trễ
về tuổi mọc răng.
Hình 1.6: Bất thường răng ở bệnh nhân KHM- VM toàn bộ bên trái đã mô
tạo hình thì đầu
10
1.2.2.2. Rối loạn về khớp cắn.
Do sự kém phát triển của XHT theo chiều đứng và theo chiều trước - sau
ở bệnh nhân KHM - VM toàn bộ, khối xương sọ mặt giảm phát triển tầng mặt
trên, tầng mặt dưới phát triển bình thường hoặc phát triển hơn. Đặc biệt sự
kém phát triển XHT theo chiều trước – sau dẫn đến tình trạng khớp cắn loại
III ở bệnh nhân KHM - VM toàn bộ chiếm tỷ lệ khá cao [36], [39], [41].
Bên cạnh đó thì không thể không nói đến sự kém phát triển xương hàm
trên theo chiều ngang (Maxillary transverse deficiency – MTD).
Kém phát triển chiều ngang xương hàm trên
Kém phát triển chiều ngang xương hàm trên gặp ở 8 - 18% bệnh nhân
đến khám chỉnh nha ở giai đoạn răng sữa, răng hỗn hợp. Có nhiều nguyên
nhân toàn thân hoặc tại chỗ, đơn lẻ hoặc phối hợp dẫn đến MTD [42], gồm:
- Thói quen xấu (mút ngón tay), tắc nghẽn đường thở khi ngủ
- Di truyền
- Các hội chứng: KHM - VM, Marfan, Treacher Collins, các hội chứng
dính liền khớp sọ mặt, ...
- Iatrogenic: Sau phẫu thuật tạo hình khe hở vòm miệng
So với kém phát triển xương hàm trên theo chiều đứng và chiều trước
sau, MTD khó chẩn đoán chính xác hơn. Chẩn đoán cần phối hợp chặt chẽ
lâm sàng, đánh giá trên mẫu thạch cao và phân tích trên phim xquang.
1.2.3. Lỗ thông mũi miệng (Oro-nasal fisula).
Lỗ thông mũi miệng (ONF) là biến chứng hay gặp nhất phối hợp với
phẫu thuật đóng khe hở môi vòm miệng. Tỷ lệ lỗ thông mũi miệng khoảng 4-
35% thậm chí còn hơn [43]. Hai triệu chứng chủ yếu của lỗ thông mũi miệng
là viêm mũi và phát âm, chủ yếu là giọng mũi. Như đã đề cập, tỷ lệ thay đổi
nhiều. Musgrave và Bremmer cho rằng tỷ lệ gặp lỗ thông mũi miệng là 12,5%
ở khe hở hai bên và 7,7% ở khe hở một bên.
11
Nguyên nhân đầu tiên của ONF chính là vạt phẫu thuật bị căng. Tuy
nhiên, một vài khe hở vòm miệng thì có kích thước lớn và lượng mô mềm
dường như là không đủ để che phủ. Với những trường hợp này thì tỷ lệ gặp
ONF cao hơn. Nguyên nhân khác đó chính là viêm nhiễm sau phẫu thuật
thường hay gặp ở trẻ em. Việc không cung cấp đủ mạch máu nuôi dưỡng là
một nguyên nhân gây ra vạt bị thất bại và liên quan đến việc tạo thành lỗ
thông mũi miệng.
Phân loại lỗ thông mũi miệng (ONF) Chủ yếu dựa vào kích thước, lỗ
thông mũi miệng được phân ra làm ba mức độ, nhỏ (<2mm), trung bình
(3-5mm), lớn (>5mm).
Theo vị trí thì lỗ thông mũi miệng được phân ra phía trước, giữa là tại
ranh giới khẩu cái cứng và khẩu cái mềm, sau là lỗ thông ở khẩu cái mềm.
Khi nghiên cứu trên 64 bệnh nhân, Diah, Lo, Yun et al. [44] đã cho rằng lỗ
thông mũi miệng hay gặp ở vị trí giữa đến ranh giới khẩu cái cứng và mềm
(53,1%). Sử dụng vạt tại chỗ và vạt vòm miệng 2 bên có thể đóng kín tổn
thương này.
1.3. Cơ chế tái tạo xương và lành thương.
1.3.1. Cơ chế của tái tạo xương [45], [46], [47].
Sự tái tạo xương có thể diễn ra thông qua 3 quá trình riêng biệt:
1.3.1.1. Sự tạo xương
Sự tạo xương là quá trình hình thành và phát triển của xương, diễn ra ngay
cả khi không có các tế bào trung mô chưa biệt hóa. Xương ghép tự thân tạo điều
kiện thuận lợi cho các giai đoạn khác nhau của quá trình tái tạo xương do đó sự
tái tạo xương diễn ra nhanh trong hầu hết các trường hợp lâm sàng.
1.3.1.2. Biệt hóa các tế bào sinh xương
Biệt hóa các tế bào sinh xương là quá trình biến đổi của các tế bào trung
mô chưa biệt hóa thành các nguyên bào xương hoặc nguyên bào sụn dưới ảnh
hưởng của các yếu tố phát triển chỉ có ở xương người còn sống.
12
1.3.1.3. Tạo xương có hướng dẫn
Tạo xương có hướng dẫn là quá trình tạo một khung sinh học phù hợp
cho sự phát triển của xương mới được ghép. Việc ghép xương có hướng dẫn
cho phép xương được ghép gắn kết được với các tổ chức xương xung quanh
hoặc tạo điều kiện cho các tế bào trung mô chưa biệt hóa có thể phát triển trên
toàn bộ bề mặt được ghép. Quá trình này không kích thích tạo xương mới.
1.3.2. Sinh lý lành thương của mảnh ghép.
Bất cứ tác động vật lý nào tới vùng phẫu thuật đều bắt đầu bằng phản
ứng viêm. Qua nhiều năm nghiên cứu có thể thấy phản ứng viêm đều xuất
hiện sau khi có tác động gây tổn thương và đóng vai trò sống còn đối với quá
trình sửa chữa. Nếu không có phản ứng viêm sự lành thương sẽ không xảy ra.
Cùng với nó là sự sinh xương mới và tiêu xương, chúng xảy ra đồng thời
trong quá trình lành thương và đây là chu trình luân chuyển của xương.
TẠI CHỖ
TUẦN HOÀN
TB TẠO XƯƠNG NGUYÊN THỦY
TẾ BÀO ĐƠN NHÂN
TẾ BÀO TẠO XƯƠNG
TẾ BÀO HỦY XƯƠNG
TIÊU XƯƠNG
HÌNH THÀNH XƯƠNG
CHU TRÌNH LUÂN CHUYỂN CỦA XƯƠNG
TÌNH TRẠNG
SINH XƯƠNG
BỆNH LÝ
LÀNH THƯƠNG
GẮN KẾT
Hình 1.7: Sơ đồ mô tả quá trình lành thương
13
1.3.3. Sinh lý tạo xương của mảnh ghép.
Quá trình diễn tiến trong mô ghép xương tự thân có thể chia làm bốn giai
đoạn, trong giai đoạn sớm và giai đoạn tăng sinh mô ghép xương xốp và mô
ghép xương vỏ không có sự khác biệt, sự khác biệt giữa chúng chỉ thể hiện
trong giai đoạn lành thương và giai đoạn muộn [48], [49].
1.3.3.1. Giai đoạn sớm của mô ghép.
Ngay sau khi phẫu thuật, quá trình đông máu bắt đầu, quá trình này bao
gồm cả cơ chế thể dịch và phản ứng tế bào. Phản ứng tế bào cơ bản là sự
tương tác của tiểu cầu bám dính cơ học với nhau để kiểm soát chảy máu và
cung cấp các thành phần cần thiết, khởi động quá trình đông máu nội sinh.
Trong giờ đầu khi cục máu đông được hình thành sẽ làm mất nguồn nuôi
mảnh ghép ngoại trừ các tế bào ở ngoại vi mảnh ghép được dinh dưỡng bằng
thẩm thấu, càng vào trung tâm mảnh ghép sự nuôi dưỡng càng kém dẫn đến
hoại tử dần dần ở mảnh ghép.
Sau khi quá trình đông máu kết thúc, nhiều loại tế bào xuất hiện. Sớm
nhất là bạch cầu đa nhân và bạch cầu đơn nhân trong máu. Sau khi xâm nhập
vào vùng ghép bạch cầu đơn nhân hoạt hóa thành đại thực bào. Bạch cầu đa
nhân xuất hiện trong vài giờ đầu sau phẫu thuật, tăng cường số lượng trong 1
- 2 ngày sau đó số lượng tế bào giảm nhanh nếu không có nhiễm khuẩn. Bạch
cầu đơn nhân xâm nhập vào miếng ghép nhanh chóng chuyển dạng thành đại
thực bào, đạt số lượng cao nhất trong vòng 24 giờ. Đại thực bào được duy trì
tại vùng ghép nhiều tuần đến vài tháng tại mô ghép.
Sự ngưng kết tiểu cầu sẽ đem đến mô ghép các yếu tố kích thích tăng
sinh tế bào, cùng với đại thực bào kích thích hình thành các mạch tân tạo ở rìa
mô mềm kết hợp với sự chuyển động của các tế bào dẫn tới hình thành tổ
chức hạt là tiền đề cho sự xâm nhập mạch máu vào mảnh ghép.
14
1.3.3.2. Giai đoạn tăng sinh.
Xảy ra vào ngày thứ 4 sau khi ghép. Chủ yếu diễn ra ở mô mềm quanh
mảnh ghép. Đại thực bào vẫn chiếm đa số, theo thời gian số lượng tế bào xơ tại
mô mềm tăng lên. Các tế bào xơ ở mô mềm bị bám sát bởi các nhú biểu mô của
mao mạch. Đến cuối tuần đầu quanh mảnh ghép tập trung nhiều tế bào miễn
dịch từ máu và các hủy cốt bào, mô sợi phần mềm được hình thành quanh mảnh
ghép chứa mao mạch tân tạo, tế bào xơ, đại thực bào và tế bào khổng lồ.
1.3.3.3. Giai đoạn lành thương.
Diễn ra trong tuần thứ hai sau phẫu thuật, có đặc điểm bởi sự tái tạo
mạnh mẽ với tăng cường sức bền của mô mềm, dẫn đến giảm thiểu số lượng
đại thực bào đồng thời giảm các mạch máu tân tạo. Tình trạng này tạo thành
sẹo xơ Collagen đặc tương đối ít mạch.
Giai đoạn này đặc trưng bởi quá trình viêm giảm mạnh số lượng mô sợi
tăng lên cùng các hủy cốt bào. Các đại thực bào xâm nhập vào mảnh ghép qua
các khoảng trống và ống Havers, tiêu hóa các tế bào hoại tử trong mảnh ghép.
Quá trình lành thương tại mô mềm hình thành kết dính mô mềm với mảnh
ghép do đó một số vi mạch đã có thể được tân tạo và xâm nhập mảnh ghép.
1.3.3.4. Giai đoạn muộn của mô ghép.
Sau khoảng 2 tuần quá trình khôi phục mạch máu, tốc độ sinh xương
mới, hủy xương ghép diễn ra nhanh hơn. Nhìn chung trong xương xốp quá
trình xảy ra nhanh hơn so với xương vỏ.
Sự xâm nhập mạch máu: Trong xương xốp dưới sự hoạt động của đại
thực bào tạo điều kiện các mạch máu xâm nhập vào các hốc trống của tủy
xương. Đối với xương vỏ quá trình này diễn ra chậm hơn dọc theo các ống
Havers. Mạch máu tân tạo mang các chất cần thiết cho sự khoáng hóa mô
xương ghép, ngoài ra còn mang đến một số tế bào trung mô chưa biệt hóa,
dưới tác động của các yếu tố hóa học các tế bào này biệt hóa thành các tế bào
đầu dòng xương và sau đó là các tạo cốt bào và hủy cốt bào.
15
1.3.3.5. Hủy xương, sinh xương và thay đổi tính chất của mô ghép
Quá trình sinh xương trước tiên diễn ra ở xương xốp, trên cơ sở hình
thành các mạch máu tân tạo, cung cấp các yếu tố thiết yếu để kích thích sinh
xương và khoáng hóa. Các tạo cốt bào sản xuất ra các chất căn bản xương
hình thành các lá xương lát lên vách của các hốc tủy xương cũ. Xương ghép
hoại tử tạo thành một khung được bao bọc kín bởi xương mới, lúc này trên
phim XQ miếng ghép tăng dần độ đặc. Một vài tuần sau đến vài tháng các đại
thực bào và các hủy cốt bào tăng dần hoạt tính tiếp cận tiêu hủy lõi xương
hoại tử. Do đó mật độ xương trên phim XQ giảm dần. Trong các hốc trống
xuất hiện tế bào tủy xương mới. Toàn bộ mảnh ghép được thay thế sau vài
tháng đến một năm.
Trong mô ghép xương vỏ quá trình thay thế bắt đầu bằng sự hủy xương.
Ngay sau tuần thứ 2 sau ghép hoạt tính hủy cốt bào tăng lên, đạt đến cực đại sau
6 tuần, cùng với hoạt động của đại thực bào và các yếu tố sản sinh ra do các tế
bào miễn dịch khác, sự hủy xương diễn ra dọc các ống Havers bắt đầu ở ngoại vi
miếng ghép sau đó xâm nhập vào vùng trung tâm. Hoạt tính của hủy cốt bào sau
đó giảm dần đến khoảng hơn một năm sau thì trở về mức bình thường, dần dần
xương mới được thay thế xương ghép và lấp kín các khoảng do hủy cốt bào tạo
thành. Xương mới sẽ lấp kín bề mặt của xương ghép làm cho quá trình hủy
xương giảm đi thậm chí hầu như chấm dứt. Như vậy có thể thấy sự khác biệt
trong quá trình tạo xương là xương vỏ có thể hòa đồng với xương cung hàm mà
không thể thay thế hết khác biệt hẳn với xương xốp.
Nhìn chung quá trình tiêu xương và tái tạo xương là hai hoạt động chủ
yếu tại vùng ghép và chúng diễn ra đồng thời. Tiêu xương ở giai đoạn sớm
chủ yếu do các tế bào miễn dịch, các tế bào này ngoài việc tạo các điều kiện
để lành thương cũng sản sinh ra các yếu tố gây tiêu xương ghép. Quá trình tái
tạo xương chủ yếu do các tế bào tạo cốt bào, tế bào trung mô chưa biệt hóa,
16
kích thích sinh xương khoáng hóa xương ghép từ các thành phần do mạch tân
tạo mang đến [48], [49].
1.4. Huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng.
1.4.1. Khái niệm.
Huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng là một chế phẩm được chiết xuất ra từ
máu toàn phần. Chế phẩm này bao gồm lượng huyết tương nhỏ nhưng có độ tập
trung rất nhiều yếu tố tăng trưởng được giải phóng ra từ tiểu cầu. Huyết tương
giàu yếu tố tăng trưởng được viết tắt là PRP (Platelet – Rich Plasma).
1.4.2. Độ tập trung của tiểu cầu trong huyết tương.
Số lượng tiểu cầu bình thường là 150.000-400.000 tiểu cầu/mm³ máu.
Theo nghiên cứu của Robert E. Marx và cộng sự (1998): trong máu toàn phần lượng tiểu cầu trung bình là: 232.000/mm3, còn trong huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng là: 785.000/mm3.
J. Camilo Roldan (2004): trong máu toàn phần lượng tiểu cầu trung bình là: 406.790/mm3, còn trong huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng là: 2.035.717/mm3 [50].
Hình 1.8: Hình ảnh tiêu bản tiểu cầu trong máu toàn phần
Hình 1.9: Hình ảnh tiêu bản tiểu cầu trong huyết tương giàu yếu tố
tăng trưởng
17
1.4.3. Các yếu tố sinh học trong huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng
Giuseppe Intini đã nghiên cứu và đưa ra bảng phân loại những yếu tố
tăng trưởng được giải phóng từ tiểu cầu vào năm 2009 [51].
Bảng 1.1: Bảng phân loại các yếu tố sinh học của tiểu cầu
Hoạt động sinh học trong Tên yếu tố Chức năng chung quá trình sinh trưởng
Tương tác với thụ thể trong Tái tạo và phát triển xương:
tiểu cầu. dẫn dắt các hormone và yếu
Dẫn dắt những hoạt động tiếp tố tăng trưởng khác của tiểu ADP theo của tiểu cầu. cầu tham ra quá trình sinh
xương. Tương tác với thụ thể P2 của
TB hủy xương và sinh xương.
Tái tạo và phát triển xương: Vận chuyển năng lượng hóa dẫn dắt các hormone và yếu học cho TB vòng trong. tố tăng trưởng khác của tiểu ATP Tương tác với thụ thể P2 của cầu tham gia quá trình sinh TB hủy xương và sinh xương. xương.
Tham gia quá trình hình Tái tạo và hình thành mạch Angioprotein-2
thành mạch máu. máu. (Ang-2)
Peptide III Tham gia vào phản ứng viêm. Gây viêm. (CATP III)
Tăng sinh, tăng trưởng và Tăng sinh tế bào sinh xương EGF biệt hóa tế bào. và hủy xương.
Factor V, Các yếu tố trên đóng vai trò
trung tâm trong quá trình Factor XI,
18
đông máu, có nhiều nghiên Factor XIII,
cứu chỉ ra vai trò của các yếu Fibrinogen
tố này trong sửa chữa vết Đông máu.
thương. Bên cạnh đó thì một
nghiên cứu nêu ra vai trò của
yếu tố XIII trong sự lành
thương xương.
Hình thành mạch máu.
Làm tăng sinh và biệt hóa bFGF Tạo ra hình thái các mạch tiền tế bào và tế bào tạo máu. (FGF2) xương.
Tái tạo xương.
Là glucoprotein phân tử cao. Cần thiết cho sự sống, phân
chia tế bào tạo xương. Fibronectin Cấu thành tế bào màng, sợi
Tái tạo xương. huyết.
Tăng sinh tế bào. Factor -1 Tái tạo xương. Ngăn chặn tế bào chết. (IGF-1)
Điều chỉnh muối khoáng và Tái tạo xương. Osteocalcin calci.
P-Selectin Có trong tế bào nội mạc và Đông máu. tiểu cầu. (GMP-140)
PDECGF Là một enzym chuyển hóa Hình thành mạch máu. (Thymidine cao phân tử. phosphorylase)
19
Được tổng hợp và tiết ra từ tế
bào khác như: đại thực bào và Sửa chữa xương bị thương TB nội mạch. tổn. Phân chia tế bào gốc. PDGF Tái tạo xương. Hình thành thành mạch.
Hoạt động như một đại thực
bào.
Tham gia quá trình lành Tu sửa các mô. Serotomin thương.
Là một protein được tổng hợp
và tiết ra từ tiểu cầu, đại thực Lành thương. Factor-b1 bào và các tế bào khác. Là Tái tạo xương. (TGF-b1) yếu tố tăng trưởng tham gia
sửa chữa và tái tạo xương.
Tái tạo và hình thành mạch Thrombospon Là protein đa chức năng. máu. din-1 Tái tạo xương.
Là một protein quan trọng Tái tạo và hình thành mạch VEGF trong thành mạch máu. máu.
Là một protein dạng keo. Đông máu. vWF
a. Epidermal growth factor (EGF)
Có rất nhiều các nghiên cứu trên lâm sàng đều chỉ ra rằng ảnh hưởng tích
cực của EGF, TNF-α, HB-EGF trên việc sửa chữa vết thương, có vai trò quan
trong quá trình lành thương. Có nghiên cứu chỉ ra rằng, EGF có tác dụng kích
thích sự hình thành màng xương và tăng quá trình tiêu trong tuỷ xương ở
chuột [52].
20
b. Basic Fibroblast Growth Factor (bFGF or FGF2)
FGF bao gồm một tập hợp các yếu tố tăng trưởng liên quan đến các
chuỗi polypeptide gồm 22 thành phần. Vai trò của Basic Fibroblast Growth
Factor (là FGF 2 hay bFGF) được biết đến là sửa chữa các tổn thương [53].
Vai trò của FGF2 là cảm ứng tái tạo xương, bên cạnh đó còn có vai trò trong
tái tạo nha chu [54].
c. Yếu tố IGF-1.
IGF bao gồm 3 yếu tố (insulin, IGF-1, IGF-2), và 3 receptor bề mặt là
(Insulin, IGF-1, IGF-2/ manose 6-phosphate), và ít nhất 6 Protein liên kết
(IGFBPs) có chức năng liên kết tuần hoàn IGFs và điều hoà hoạt động sinh
học [55]. IGF-1 là hormone tăng trưởng phụ thuộc và hoạt động tăng trưởng
mạnh hơn IGF-2. IGF-1 có chức năng kích thích tế bào tạo xương trong môi
trường nuôi cấy để tăng sinh và tổng hợp protein.
d. Yếu tố PDGF (platelet-derived growth factor)
PDGF được tách ra từ tiểu cầu, là một yếu tố tự thân có trọng lượng
phân tử 30 kDa và có 2 đồng phân tử là chuỗi A (16-18kDa) và chuỗi B (14.5
– 16kDa) [56]. PDGF có vai trò tương tác với Transforming Growth Factor-β1
(TGF-β1). Bên cạnh đó còn có tác động lên quá trình tái tạo xương [57].
e.Yếu tố TGF-β
TGF-β là một loại protein điều khiển sự tăng sinh biệt hóa tế bào và các
chức năng khác trong hầu hết các tế bào. TGF-β1 được giải phóng từ tiểu
cầu trong quá trình lành xương [58]. Khi được giải phóng, TGF-β1 hoạt
động như là yếu tố tăng trưởng có tín hiệu, tác động lên sự tăng trưởng của
nguyên bào sợi, tế bào gốc tuỷ xương và tiền nguyên bào tạo xương.
f. Yếu tố VEGF.
Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) là một protein tín hiệu
được sản xuất bởi các tế bào kích thích sự hình thành mạch và được chứng
minh có vai trò nhất định trong quá trình hình thành mạch máu trong giai
đoạn lành thương [59].
21
g. Yếu tố FGF.
Một trong những chức năng quan trọng của FGF1 và FGF2 là việc thúc
đẩy phát triển tế bào nội mô và tổ chức sắp xếp các tế bào nội mô vào cấu trúc
ống. Do đó chúng thúc đẩy sự hình thành mạch, sự tăng trưởng các mạch máu
mới từ mạch máu có sẵn từ trước.
h. Yếu tố EGF.
Yếu tố tăng trưởng biểu bì là một yếu tố tăng trưởng kích thích sự
tăng trưởng tế bào, tăng sinh, và sự biệt hóa bằng cách gắn vào EGFR thụ
thể của nó [60]. Có rất nhiều các nghiên cứu trên lâm sàng đều chỉ ra rằng
ảnh hưởng tích cực của EGF, TNF-α, HB-EGF trên việc sửa chữa vết thương,
có vai trò quan trọng trong quá trình lành thương.
1.5. Vật liệu ghép.
Các dạng vật liệu ghép:
- Xương tự thân
- Xương ghép đồng loại
- Xương ghép dị loại
- Ceramics (Hydroxyapatite, TCP, Calcium sulphate)
- Có nguồn gốc từ yếu tố tăng trưởng (DBM, PRP, BMP’s)
1.5.1 Xương tự thân
Trong tất cả các vật liệu dùng để ghép xương thì xương tự thân luôn
được coi là tiêu chuẩn vàng. Xương tự thân có khả năng kích thích cả ba cơ
chế: tạo xương, biệt hóa các tế bào sinh xương, tái tạo xương có hướng dẫn và
cả ba quá trình này sẽ luôn nối tiếp nhau trong quá trình lành thương.
a. Mảnh ghép xương sọ [61], [62]
Mảnh ghép xương sọ là xương vỏ thường dùng ghép nơi cần chịu lực,
sau khi ghép một phần xương ghép tiêu đi, vì vậy thường dùng cho vùng thiếu
hổng xương những nơi cần chịu lực như sau nhổ răng để cấy Implant. Các
nghiên cứu cho thấy để mảnh ghép ngưng sự tiêu xương và tái tạo xương thì
22
cần khoảng thời gian là 6 – 24 tháng. Vùng xương đỉnh là nơi thích hợp nhất
để lấy xương, vì xương ở vùng này khá dầy.
b. Mảnh ghép xương hàm dưới [63]
Mảnh ghép xương hàm dưới thường được dùng ở những nơi cần chịu lực
và thường có sự tiêu đi một phần sau khi ghép, chính vì vậy mảnh ghép cần
phải được đục lỗ và thường được dùng trong cấy ghép Implant, các nghiên
cứu chỉ ra rằng thời gian để mảnh ghép ngưng sự tiêu xương và tạo xương là
từ 6 – 24 tháng.
c. Mảnh ghép xương chày [64]
Xương chày sử dụng cho ghép xương ổ răng được giới thiệu bởi
Ilankovan vào năm 1998 việc sử dụng xương chày có những ưu điểm như
việc lấy mảnh ghép đơn giản hơn, nhanh hơn xương chậu nhưng khối lượng
xương lấy không nhiều.
Peterson đưa ra bảng so sánh các loại xương tự thân và chỉ định cho các
trường hợp sử dụng [65] như sau:
Bảng 1.2: So sánh các loại xương tự thân.
Loại Đặc điểm Chỉ định
Xương chậu Nhiều xương xốp Cho tất loại khe hở với tỷ lệ thành công cao
Vỏ hộp sọ Ít xương xốp hơn Sử dụng trong KH một bên, tỷ lệ thành công ít hơn
Xương hàm dưới Không nhiều xương xốp Sử dụng cho trẻ lớn, với khe hở hẹp
Xương sườn Xương xốp nghèo nàn Không nên sử dụng
Ít xương xốp Đầu trên xương chày Không nên sử dụng khi trẻ chưa hết tuổi lớn
23
d. Mảnh ghép xương chậu
Xương chậu được coi là lựa chọn số một trong ghép xương ổ răng bởi nó
cung cấp mảnh xương ghép lớn với số lượng nhiều. Để lấy xương mào chậu
với số lượng lớn, vỏ xương bản trong thường được lấy thành mảnh dùng để
bao phủ phía ngoài cung răng và xương xốp được moi ra bằng thìa nạo.
+ Tuổi càng trẻ mức độ tái tạo xương càng nhanh, quá trình xâm nhập
mạch máu và các tế bào sinh xương vào mảnh ghép càng mạnh, tốc độ biệt
hóa của tế bào trung mô thành nguyên bào xương nhanh.
+ Độ xốp của mảnh ghép: Độ xốp càng lớn thì quá trình tiêu mảnh ghép
diễn ra nhanh hơn quá trình tạo xương, nhưng cũng là yếu tố thuận lợi cho sự
xâm nhập của mạch máu vào mảnh ghép. Trong kỹ thuật ghép xương mào
chậu đơn thuần thì đây là nhược điểm lớn nhất.
+ Vật liệu ghép: Với vật liệu ghép là xương xốp tự thân là vật liệu ghép
có sức sống cao, quá trình tạo xương diễn ra nhanh do mạch máu có điều kiện
thuận lợi để xâm nhập vào miếng ghép, sự sinh xương diễn ra nhanh do có
hiện diện của tế bào tạo xương, tế bào trung mô chưa biệt hóa có trong mảnh
ghép. Tuy vậy do độ xốp lớn nên quá trình tiêu xương ghép cũng diễn ra
nhanh hơn do vậy khối lượng xương ghép thường tiêu đi phần lớn.
Tuy có nhiều ưu điểm nhưng ghép xương tự thân cũng có khuyết điểm.
- Vùng lấy xương ghép là một phẫu thuật, điều này gây phiền phức cho
bệnh nhân khi tiến hành ghép.
- Phẫu thuật lấy xương sẽ tạo khuyết hổng tại vùng cho. Trong trường
hợp lấy xương trong miệng có nguy cơ làm tổn thương chóp răng hoặc các
nhánh thần kinh cảm giác.
- Chỉ lấy được 1 lượng xương nhất định nếu vùng cho là miệng.
24
- Quá trình tiêu xương ghép có thể tiên lượng được nhất là với xương
chậu nhưng đối với xương hàm chúng ta rất ít gặp tiêu xương vì chúng có
chung nguồn gốc phôi thai với vùng nhận.
1.5.2. Xương đồng loại.
Xương đồng loại luôn gây ra phản ứng miễn dịch để loại trừ mảnh ghép.
Để giảm phản ứng trên, tính miễn dịch của xương ghép phải được loại trừ, có
3 dạng chủ yếu:
a. Xương đông khô (FDBAs)
Xương đông khô là xương được làm khô ở nhiệt độ thấp, không có hơi
nước trong toàn bộ quá trình. Sản phẩm thương mại là Regen Oss của
Neobiotech- Korean.
b. Xương đông khô đã khử khoáng (DFDBAs)
Xương đông khô đã khử khoáng là toàn bộ phần khoáng của xương bị
loại bỏ, lưu giữ lại toàn bộ phần collagen và Protein tạo dạng xương. Trong
trường hợp này xương vỏ hay được sử dụng vì chúng có tính kháng nguyên
thấp và hàm lượng collagen lớn. Tuy nhiên trong quá trình khử khuẩn bằng tia
gamma tiếp sau lại loại bỏ gần hết các Protein tạo dạng xương.
c. Xương xốp đã xử lý tia xạ
Xương xốp đã xử lí tia xạ đã được sử dụng từ rất sớm, trong bước chuẩn
bị ban đầu, xương được chiếu xạ với liều lượng từ 6 đến 8 triệu Rads.
Ưu điểm của việc sử dụng xương ghép đồng loại là nguồn cung sẵn có,
không cần phẫu thuật lấy xương do đó giảm thiểu thời gian gây mê và phẫu
thuật. Nhược điểm của dạng vật liệu ghép này phụ thuộc vào tiền sử của
xương ghép, chất lượng của xương ghép, phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe
của người cho.
25
1.5.3. Xương ghép dị loại
Xương bò lần đầu tiên được giới thiệu bởi Maatz và Bauermeister
vào năm 1957 [66]. Mục đích của xương ghép dị loại được sử dụng là để
tạo ra cấu trúc mạng lưới calci. Ngoài ra san hô hoặc cấu trúc dạng san hô
cũng được nghiên cứu và xử lý để tạo thành vật liệu “hạt cấu trúc san hô”
(CDG) cũng được ứng dụng trong ghép xương [67]. Trên lâm sàng các
sản phẩm có cấu trúc san hô là Interpore và Proosteon cùng với đó là các
sản phẩm có nguồn gốc từ xương bò như Bio-Oss (Geistlich Biomaterials)
Osteograf-N (CeraMed) và Enbodon (Merck Co). Nhược điểm của loại
vật liệu này là nguy cơ gây phản ứng miễn dịch tại cơ thể được ghép, dễ
gãy vỡ, dễ bị di chuyển.
Do sự phổ biến của các loại xương ghép khác nên xương khác loài ít
được sử dụng.
1.5.4. Ceramics.
Sản phẩm thay thế xương được làm từ sứ là hỗn hợp của HA
(Hydroxyapatite) và TCP (Tricalcium Phosphate). HA có đặc tính vật lý là rất
cứng, trong khi đó TCP lại có đặc tính vật lý ngược lại. Hỗn hợp 2 thành phần
calcium phosphate, có 40-60% là TCP với 60-40% HA có đặc tính vật lý
cứng chắc của HA, đồng thời đặc tính của TCP là có thể tiêu được [68]. Các
vật liệu này đều có tính giống như bột xương nhưng khác nhau về thành phần
cấu tạo và bản chất vật lý, chính điều này sẽ xác định loại vật liệu nào phù
hợp cho từng ứng dụng lâm sàng. Có năm nhóm vật liệu nhân tạo:
- Hydroxyapatite và tricalcium phosphate
- Calcium phosphate Cements
- Calcium sulphate
- Hợp chất Polymer
- Vật liệu tổng hợp
26
1.5.4.1. Hydroxyapatite và tricalcium phosphate
HA có công thức hóa học là [Ca10(PO4)6(OH)2] có cấu trúc tinh tể được
hình thành từ tricalcium phosphate (TCP) và là cấu trúc tự nhiên tạo nên răng
và xương. Khoảng 30 năm trước, thành phần này được sử dụng phổ biến
trong phẫu thuật hàm mặt, sọ mặt, chỉnh hình xương mặt, ghép xương. Các
nhà nghiên cứu cũng đã thêm vào alginate, strontium, silicone, carbonate và
magnesium, dưới dạng tổng hợp để biến HA là thành phần khoáng chất tự
nhiên giống với xương hơn. Qua đó kích thích hoạt động sinh học và tính dẫn
xương [69].
Nhược điểm lớn nhất của HA là việc cắm Implant rất khó do vậy ứng
dụng của HA như một vật liệu ghép hạn chế, thường được dùng để làm đầy
các khuyết hổng xương nhỏ.
1.5.4.2. Calcium phosphate cements
Calcium phosphate cements (CPC) là vật liệu thay thế xương tổng hợp
phát minh vào năm 1986 bởi Chow và Brown, hai nhà khoa học người Mỹ
[70]. Dạng Cements tồn tại là bột trắng, bao gồm phân tử calcium phosphate,
sau đó khi chất này được trộn với dung dịch, nó sẽ hình tạo thành các dạng
dẻo qua đó có thể dễ dàng định hình trong phẫu thuật đối với các tổn thương
mất xương.
1.5.4.3 Calcium sulphate
Calcium sulphate (CS) được biết đến là thạch cao, được ứng dụng lần
đầu trên cơ thể người như là chất làm đầy trong điều trị viêm xương do lao
bởi Peltier năm 1957 [71]. Ngoài ra còn có những tác giả đề nghị sử dụng CS
như là một vật liệu làm đầy, cho phép hình thành mạch máu, và sự tiêu đi
nhanh chóng và tiêu toàn bộ sẽ cho phép sự lành thương xương dễ dàng hơn.
27
1.5.4.4. Polymer – sản phẩm thay thế xương ghép
Một trong những cấu trúc polymer tự nhiên đóng vai trò quan trọng nhất
trong xương đó chính là collagen. Cortoss là một dạng sản phẩm có thể tiêm
truyền. Nó bao gồm 33% là methacrylates được hình thành từ liên kết bắc cầu
3 chiều polymer, được gia tăng với 67% là thành phần sợi thuỷ tinh. Một
trong những ứng dụng của Cortoss là bơm xi măng sinh học trong điều trị các
bệnh lý cột sống [72].
a. Loại tiêu được
Nhựa Polymer sinh học tổng hợp có khả năng hấp thụ được sử dụng
trong y học từ rất lâu. Trong nhiều năm các sản phẩm được làm từ Polyactic
và Polyglycolic đã được sử dụng như: Chỉ khâu, vít cố định, nẹp xương...
b. Loại không tiêu.
Vật liệu này là một hợp chất hóa học của Polymethyl methaerylate
(PMMA) và Poly hydroxy ethylmethar crylate (PHEMA) với một lượng nhỏ
barum Sulfate có tác dụng cản quang và có bề mặt là: Calcium hydroxide có
tác dụng như một mặt tiếp xúc với vùng xương ghép và tạo ra CaCO3 apatite
nếu được tiếp xúc với máu PMMA là polyme tổng hợp được sử dụng rộng rãi
nhiều năm qua trong lĩnh vực cấy ghép và dụng cụ y học bao gồm cả kính áp
tròng, van tim nhân tạo, ghép xương sọ, xương trán, phục hình răng.
1.5.4.5. Vật liệu tổng hợp của collagen và hydroxyapatite
Xương được cấu thành chủ yếu bởi collagen (Col) và thành phần
carbonate hydroxyapatite (HA). Trên thực tế thì có khả năng pha trộn hai
thành phần này với nhau tạo thành vật liệu tổng hợp Col-HA [73].
Các vật liệu có tính năng ghép vào trong cơ thể mà chứa đựng hai
thành phần này thì dường như tốt hơn các thành phần thay thế xương khác.
28
1.5.5. Các vật liệu có yếu tố tăng trưởng
1.5.5.1 Xương khử Calci
Xương được bảo quản trong ngân hàng xương có thể sản xuất là loại
xương khử khoáng (DBM), lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1975 [74] và
đưa vào sử dụng trong phẫu thuật sọ mặt và bệnh lý quanh răng từ những năm
1980. Việc khử calci (lượng calci < 5%) tạo ra mạng lưới collagen mà được
nâng đỡ bởi cấu trúc không gian ba chiều, nhờ đó hướng dẫn các tế bào xâm
nhập, tăng trưởng và biệt hoá [75]. Hơn nữa DBM sẽ duy trì các yếu tố tăng
trưởng cảm ứng từ xương, như protein định dạng xương (BMP), yếu tố tăng
trưởng insulin (IGF), yếu tố tăng trưởng chuyển dạng (TGF), yếu tố tăng
trưởng nguyên bào xơ (FGF), có khả năng kích thích và thu hút các tế bào gốc
của xương và các tế bào nguyên thuỷ, cảm ứng quá trình tái tạo mạch máu.
1.5.5.2 Protein định dạng xương
Protein định dạng xương (BMP) có khả năng tăng cường quá trình hình
thành xương thông qua sự biệt hoá của tế bào gốc để tạo thành các tế bào sụn
và tế bào xương trưởng thành, kích thích quá trình tạo mạch máu và hoạt
động của enzym alkaline phosphatase [76]. Khả năng tạo xương và cảm ứng
xương của BMP được chứng minh trong nghiên cứu tiền lâm sàng và lâm
sàng và được so sánh với xương ghép tự thân [77], [78], [79].
1.6. Một số nghiên cứu trên thế giới về ghép xương KHCH
Năm 1908, Lexer là tác giả đầu tiên ghép xương ổ răng ở khe hở cung
hàm đông thời với việc phẫu thuật tạo hình môi và vòm miệng bằng việc sử
dụng xương tự thân đặt vào vị trí khe hở.
Năm 1972 Boyne and Sands [14] và Abyholm [15] là các tác giả đầu tiên
nhấn mạnh được tầm quan trọng của việc thiết kế vạt phần mềm trong việc
che phủ xương ghép trong điều trị ghép xương ổ răng cho bệnh nhân có khe
hở cung hàm đồng thời là tác giả đầu tiên sử dụng xương mào chậu để ghép
vào KHCH cho các bệnh nhân ở giai đoạn mọc răng nanh.
29
Năm 1980 tác giả Waite và Kersten nghiên cứu ghép xương cung hàm
bằng việc sử dụng xương xốp mào chậu cho 52 trường hợp bệnh nhân ở giai
đoạn mọc răng nanh có kết quả rất tốt, chỉ có 3 trường hợp miếng ghép bị
đào thải.
Năm 2003 thì Olekas J [16] và cộng sự nghiên cứu ghép xương mào
chậu có sử dụng cả xương vỏ và xương xốp trên 76 trường hợp bệnh nhân ở
giai đoạn mọc răng nanh đều đạt kết quả tốt, như có sự hình thành cầu xương
và sự xuất hiện của biểu mô bám dính.
Năm 2009 thì Akbarzadeh [21] có nghiên cứu về đánh giá so sánh giữa
việc sử dụng xương bò với các nghiên cứu sử dụng xương tự thân trong điều
trị cho bệnh nhân có khe hở cung hàm và tác giả kết luận chưa đủ bằng chứng
để chứng minh xương bò có hiệu quả thực sự tốt hơn so với xương tự thân,
nhưng một điều chắc chắn rằng sử dụng xương bò có ưu điểm vượt trội là
tránh được việc phải can thiệp trên bệnh nhân trong việc lấy xương ghép.
Năm 2013 thì Ruiter [24] và cộng sự nghiên cứu về việc sử dụng
calcium phosphate ceramic để bù cho sự thiếu hổng sau khi lấy xương ở vùng
cằm trong điều trị ghép xương tự thân cho bệnh nhân có KHCH, kết quả đạt
được là rất tốt trên phim 3D, và tác giả cũng kết luận là việc sử dụng calcium
phosphate ceramic có tính tiêu chậm có thể thay thể cho việc sử dụng xương
tự thân.
Cũng vào năm 2013 thì Chanda Gupta và cộng sự [23], nghiên cứu về
việc sử dụng huyết tương giầu yếu tố tăng trưởng trong điều trị ghép xương
cho bệnh nhân có khe hở cung hàm trên 20 bệnh nhân từ 9-29 tuổi được chia
làm hai nhóm có sử dụng PRP và không sử dụng PRP, tác giả cho thấy ở
nhóm có sử dụng PRP kết quả đạt được vượt trội như: sự lành thương sau 7
ngày đạt trên 90%, không có bệnh nhân nào bị đào thải mảnh ghép trong khi
đó ở nhóm không sử dụng PRP là 10% bị đào thải mảnh ghép, triệu chứng
sưng đau thì ít hơn, và việc sử dụng PRP làm tăng tỉ trọng xương ghép
30
(1028 ± 11.30) so với nhóm không sử dụng PRP (859.5 ± 27.73). Nhóm tác
giả kết luận với việc sử dụng PRP với xương tự thân lấy từ mào chậu trong
điều trị cho bệnh nhân có KHCH có khả năng kích thích sự lành thương, tăng
khả năng tái tạo xương.
Năm 2017, thì Gholamreza và cộng sự [25], thực hiện nghiên cứu so
sánh giữa việc ghép xương mào chậu với sử dụng xương đông khô đồng loại
có sử dụng huyết tương giầu yếu tố tăng trưởng trong điều trị bệnh nhân có
KHCH. Nhóm tác giả cho thấy việc sử dụng xương tự thân là mào chậu có
phối hợp với huyết tương giầu yếu tố tăng trưởng có kết quả thành công hơn
nhóm sử dụng xương đông khô đồng loại phối hợp với huyết tương giầu yếu
tố tăng trưởng trong điều trị cho các bệnh nhân có KHCH.
1.7. Sự tiêu xương sau phẫu thuật ghép xương KHCH.
Abyholm và cộng sự [15] là nhóm tác giả đầu tiên ứng dụng việc chụp
phim trong đo đạc độ cao liên xương ổ răng và chia ra Type 1 (xấp xỉ bình
thường), type 2 (ít nhất ¾ độ cao bình thường), type 3 (ít hơn ¾ độ cao
bình thường), type 4 (thất bại) được biết đến là phân loại Oslo. Theo tác giả
khi nghiên cứu trên 69 khe hở, tỉ lệ chiều cao xương loại I và loại II chiếm
khoảng 81,2%, còn xương loại III là 7.2%, loại IV là 11.6%.
Phân loại Oslo
Loại I Loại II Loại III Thất bại
Hình 1.10. Minh họa phân loại Oslo về mức độ tiêu xương [15]
31
Kể từ đó thì rất nhiều các phân loại để đánh giá sự thành công sau ghép
xương ổ răng được công bố [80], [81], [82].
Bảng 1.3: Một số nghiên cứu đánh giá mức độ tiêu xương ghép
Hệ cấp bậc
Tác giả đầu tiên Đăng trên báo
SJPRS Abyholm 1981 [15]
Đánh giá XQ chiều cao vách xương ổ răng: loại I (chiều cao bình thường); loại II (≥ bằng ¾ chiều cao bình thường); loại III (< ¾ chiều cao bình thường); loại IV (thất bại)
CPJ Hệ thống Oslo: được mô tả ở trên Bergland 1986 [80]
CPCJ Long Jr 1995 [83]
CPCJ Kindelan 1997 [82]
CPCJ Witherow 2002 [84]
BJPS Hynes 2003 [81]
Sử dụng các tỉ lệ để nghiên cứu đường viền xương ghép. Các thông số được đánh giá bao gồm: lượng xương ghép, chiều dài chân gần và xa; vị trí mào xương ổ răng, và mức độ bám dính về phía thân răng của xương ở 2 bên Thang điểm 4 mức độ đánh giá mức độ lấp đầy xương vào khuyết hổng khi so sánh với vị trí ghép xương ban đầu Mức 1: có hơn 75% Mức 2: 50-70 % Mức 3: ít hơn 50% Mức 4: không xuất hiện cầu xương Thang điểm 8 mức độ mô tả vị trí xương ghép so với huyệt ổ răng. Phụ thuộc vào vị trí các cầu xương trong huyệt ổ răng, hình ảnh XQ được nhóm vào 1 trong 6 nhóm (A đến F). Có thể sử dụng cho bộ răng hỗn hợp Hệ thống này là hệ thống cải tiến của hệ thống Oslo, sử dụng hình ảnh XQ khảo sát vùng quanh chóp răng. Tổng chiều cao của xương mới, mức trên (về phía mặt nhai) và mức dưới của xương mới được phân bậc theo hệ thống Oslo và chiều cao xương ghép được so sánh với chiều cao của xương mong muốn.
32
Theo tác giả Long Jr [83], nghiên cứu trên 56 khe hở, cả một bên và hai
bên thì tác giả cho thấy tỉ lệ hình thành cầu xương là 91%, trong đó chiều cao
xương ghép đạt được so với chân răng bình thường phía bên lành là 93%, và
so với chân răng bên khe hở là 96%. Điều này cho thấy sự thành công của
ghép xương ổ răng là rất cao, nghiên cứu trên dựa trên đường viền xương
ghép được hình thành so với chiều dài chân răng bên lành và bên khe hở.
Hình 1.11: Phương pháp ước lượng sự hình thành xương với các răng lân
cận vùng khe hở [84]
A: Chiều dài chân răng bên lành
B: chiều cao bám dính xương dọc theo phía xa chân răng bên lành
C: Vị trí mào xương ổ răng phía gần chân răng bên lành
D: vị trí thấp nhất của xương ghép
E: Chiều dài chân răng bên khe hở
F: Chiều cao bám dính xương dọc theo phía gần chân răng bên khe hở
G: Vị trí mào xương ổ răng phía gần chân răng bên khe hở
Vào năm 1997, Kindelan và cộng sự đưa ra cách đánh giá mức độ tiêu
xương và kết quả thành công sau phẫu thuật [82], và phương pháp của ông đã
được hầu hết các nghiên cứu về sau áp dụng. Dựa vào phần trăm thay đổi
33
chiều cao của xương vùng ghép theo thời gian, đã đưa ra một thang điểm gồm
4 mức độ như sau:
- Độ I: Tiêu xương từ 0 - 25%
- Độ II: Tiêu xương từ 25 - 50%
- Độ III: Tiêu xương từ 50 - 75%
- Độ IV: Tiêu xương từ 75 - 100%
Với thang điểm trên, tiêu xương ở mức độ I và II được coi như là phẫu
thuật ghép xương thành công. Tiêu xương ở mức độ III và IV bị coi là phẫu
thuật thất bại. Tỷ lệ thành công của ghép xương trong y văn cũng rất đa dạng.
Với những trường hợp ghép xương trước khi răng nanh mọc, tỷ lệ thành công
vào khoảng 72% đến 90%, trong khi đó khi ghép xương sau khi răng nanh
mọc, tỷ lệ này vào khoảng 67% đến 85%. Chúng ta có thể điểm qua kết quả
của một số các nghiên cứu nổi bật. Kindelan và cộng sự tiến hành ghép xương
cho 38 bệnh nhân tại thời điểm răng nanh đã mọc và tỷ lệ thành công là 73%.
Tỷ lệ thành công trong nghiên cứu của Newland là gần 90% với 72 bệnh nhân.
Filho cũng đạt được mức thành công 72% trong nghiên cứu của ông với 50
bệnh nhân, phẫu thuật tại thời điểm trước khi răng nanh đã mọc.
1.8. Thời điểm ghép xương.
Theo nghiên cứu có đến 75% những bệnh nhân có khe hở môi và vòm
miệng thì có khe hở cung hàm. Việc ghép xương ở khe hở cung hàm là một
phẫu thuật để tái cấu trúc lại hình dạng của cung hàm. Mục tiêu của phẫu thuật
này chính là sửa chữa các thiếu hổng xương tại vị trí khe hở cung hàm, nền mũi
và nâng đỡ sụn cánh mũi, đóng những lỗ thông mũi miệng còn lại, tạo điều
kiện thuận lợi cho mô mềm quanh răng tại vị trí răng cửa bên và răng nanh
được hoàn thiện và lành thương ở vị trí khe hở. Cải thiện hình thể của sụn cánh
mũi, tăng chiều cao xương để giúp đỡ cho răng cửa bên cũng như răng nanh
mọc và tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấy ghép implant sau này.
34
Trước đây, việc ghép xương ổ răng được thực hiện tại ba thời điểm khác
nhau liên quan đến sự phát triển của răng [85], thời điểm đầu tiên đó là giai
đoạn mọc răng sữa, giai đoạn thứ hai đó là thời kỳ răng hỗn hợp, và thời điểm
thứ ba là giai đoạn mọc hết các răng vĩnh viễn. Ba phương pháp này đều được
nghiên cứu và đưa ra sự so sánh với nhau. Và nhiều tác giả ủng hộ cho việc
ghép xương ở giai đoạn hai đó chính là thời kỳ răng hỗn hợp. Do đó, ghép
xương ở thời kỳ răng hỗn hợp cho đến hiện nay vẫn là tiêu chuẩn cho những
bệnh nhân có khe hở cung hàm kể từ lần đầu tiên được đưa ra bởi 2 tác giả
Boyne và Sands [14] vào năm 1992.
Một trong những yếu tố có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ thành công của phẫu
thuật đó chính là thời điểm ghép xương [77]. Hầu hết các nghiên cứu đều thực
hiện tại thời điểm từ 8-12 tuổi trước khi răng nanh mọc, một vài tác giả cho
rằng nên ghép vào giai đoạn sớm hơn từ 4-7 tuổi trước khi mọc răng cửa bên
có thể đem lại tỷ lệ thành công cao hơn. Tuy có nhiều nghiên cứu về ghép
xương khe hở xương hàm trên, tuy nhiên không nhiều ủng hộ cho việc ghép
xương ở giai đoạn sớm.
Một yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật nữa đó chính là thời
điểm ghép xương liên quan đến sự mọc răng cửa bên và răng nanh. Mặc dù
hầu hết các tác giả đều ủng hộ việc ghép xương nên thực hiện vào giai đoạn
muộn từ 8-12 tuổi trước thời điểm mọc răng nanh, một số tác giả vẫn ủng hộ
việc ghép xương vào giai đoạn sớm từ 4-7 tuổi thì có cung cấp một lượng
xương tốt hơn tại vùng khe hở [14].
Kể từ khi phương pháp ghép xương ổ răng được đưa ra bởi Boyne và
Sands vào năm 1976, thì đã có nhiều nghiên cứu về việc ghép xương vào
giai đoạn sớm. Kortebein và cộng sự đã đánh giá trên phim ở 171 bệnh nhân
vào năm 1991 và cho rằng thời điểm ghép xương thực hiện vào lúc 5-7 tuổi
thì có tỷ lệ thành công về phẫu thuật cao hơn (97.2%) khi so sánh với nhóm
ghép xương vào giai đoạn muộn 8-12 tuổi (92.5%), 12-15 tuổi (90.5%), 16
(58.3%) [86].
35
Mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu về việc ghép xương ở giai đoạn sớm
từ 4-7 tuổi trước thời điểm mọc răng cửa bên hay việc ghép xương muộn từ
8-12 tuổi trước thời điểm mọc răng nanh. Nhiều ý kiến vẫn ủng hộ việc ghép
xương vào giai đoạn muộn từ 8-12 tuổi do kết quả mang lại như giúp tạo ra
lượng xương tốt hơn ở ổ ghép, hướng dẫn cho việc mọc răng nanh.
Tuổi tối ưu cho việc ghép xương ổ răng sau khi phẫu thuật tạo hình
KHM - VM vẫn còn là đề tài còn được tranh luận. Với lý lẽ, sự phát triển của
xương hàm trên theo chiều đứng dọc và chiều ngang phần lớn hoàn thành khi
trẻ 8 tuổi, còn sau đó XHT phát triển theo chiều đứng nhờ sự thêm vào của
xương ổ răng. Cùng với lý do tuổi mọc răng của răng cửa bên thường vào lúc
trẻ 7 đến 8 tuổi, thời điểm trẻ 9 đến 11 tuổi chân răng nanh vĩnh viễn hình thành dài được khoảng 1/4 đến 1/2 so với lúc nó đã hoàn thiện, tuổi mọc răng nanh vào lúc trẻ 11 đến 12 tuổi và các nhà phẫu thuật tạo hình ủng hộ việc
ghép xương ổ răng thì sau trong thời kỳ răng hỗn hợp khi trẻ lớn từ 7 đến 12
tuổi. Tuy nhiên việc phẫu thuật ghép xương ổ răng vẫn được tiến hành muộn
hơn sau 12 tuổi với mục đích hỗ trợ cho chỉnh nha và phục hình răng giả.
Hình 1.12: Trước phẫu thuật ghép xương ổ răng
Hình 1.13: Sau phẫu thuật ghép xương ổ răng
36
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là tất cả những bệnh nhân đã được phẫu thuật tạo
hình khe hở môi và vòm miệng toàn bộ một bên, đến khám tại Khoa Răng
Hàm Mặt, Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội và Bệnh viện Răng Hàm Mặt - Trung
ương Hà Nội, có chỉ định phẫu thuật ghép xương khe hở cung hàm.
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân:
- Có khe hở cung hàm một bên chưa phẫu thuật, hoặc đã phẫu thuật
nhưng còn thiếu xương.
- Với bệnh nhân trên 18 tuổi: bản thân bệnh nhân tự nguyện hợp tác
tham gia nghiên cứu này. Trường hợp bệnh nhân dưới 18 tuổi: Cha mẹ
hoặc người giám hộ của bệnh nhân đồng ý cho bệnh nhân tham gia
nghiên cứu này.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Bệnh nhân có viêm nhiễm tại chỗ khe hở cung hàm.
- Những bệnh nhân không đủ điều kiện sức khỏe để phẫu thuật.
- Những bệnh nhân có bệnh toàn thân chưa đủ điều kiện phẫu thuật.
2.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứu.
2.2.1. Thời gian nghiên cứu.
Nghiên cứu này được tiến hành từ tháng 9 năm 2014, đến tháng 09
năm 2019.
37
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện tại Khoa Răng Hàm Mặt, Bệnh viện
Đại học Y Hà Nội và Khoa Phẫu Thuật Bệnh lý, Tạo Hình Hàm Mặt, Bệnh
viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp lâm sàng có so sánh với nhóm đối chứng.
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu.
- Quần thể nghiên cứu: Bệnh nhân có khe hở hòm miệng toàn bộ 1 bên
đến khám, chẩn đoán và có chỉ định ghép xương tại tại Khoa Răng
Hàm Mặt, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Khoa Phẫu Thuật Bệnh lý,
Tạo Hình Hàm Mặt, Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội, tự
nguyện và đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Mẫu nghiên cứu: Chọn toàn bộ bệnh nhân có khe hở hàm miệng toàn
bộ 1 bên được tác giả nghiên cứu trực tiếp tham gia khám, chẩn đoán
và tiến hành phẫu thuật ghép xương tại tại Khoa Răng Hàm Mặt, Bệnh
viện Đại học Y Hà Nội và Khoa Phẫu Thuật Bệnh lý, Tạo Hình Hàm
Mặt, Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội, tự nguyện và đồng
ý tham gia nghiên cứu.
- Cỡ mẫu :
2
+
−
+
−
−
)
)
)
1(
p
p
1(2 p
p
Z
Tính cỡ mẫu theo công thức:
[ Z
]
2
)2/
p 1
2
− 1
p 1
− α 1(
=
=
n
n 1
2
1( 2
β −
)
(
p
p 1
2
= Cỡ mẫu cho nhóm đối chứng + n1
(Chỉ ghép xương mào chậu đơn thuần)
38
= Cỡ mẫu cho nhóm nghiên cứu + n2
(Có ghép xương mào chậu phối hợp với PRP)
)2/
1( α−Z
+ = Hệ số tin cậy (95%)
1( β−Z )
+ = Lực mẫu (80%)
= Tỷ lệ bệnh nhân có tiêu xương trong nhóm ghép xương + p1
mào chậu đơn thuần (ước lượng khoảng 75%)
= Tỷ lệ bệnh nhân có tiêu xương trong nhóm ghép xương + p2
mào chậu có phối hợp với PRP (ước lượng khoảng 50%)
+ P = (P1 + P2)/2
- Cách chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện.
- Mẫu thực tế: Tất cả các bệnh nhân chúng tôi đều giải thích cách thức
phẫu thuật, và tư vấn bệnh nhân có hay không lựa chọn sử dụng huyết
tương giàu yếu tố tăng trưởng. Sau đó chúng tôi đã chọn được 74 bệnh
nhân tham gia vào nghiên cứu. Các đối tượng nghiên cứu được chia
thành 2 nhóm:
+ Nhóm can thiệp gồm 39 bệnh nhân; là nhóm đối tượng được
ghép xương mào chậu phối hợp với PRP.
+ Nhóm đối chứng gồm 35 bệnh nhân; là nhóm đối tượng chỉ ghép
xương mào chậu đơn thuần.
39
2.5. Các biến số, chỉ số nghiên cứu và cách thu thập số liệu.
Mục tiêu 1: Mô tả một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.
Bảng 2.1: Bảng biến số mục tiêu 1
Loại Cách thu Tên biến số Định nghĩa biến số thập biến số
Tuổi Tuổi theo năm dương lịch Liên tục
Phỏng vấn
Giới Nam/ nữ Nhị phân
Khớp cắn Loại I/ II/ III Danh mục
Chỉnh nha Có/Không Nhị phân
Khe hở cung hàm Trái/ phải Danh mục
Khám lâm
Lỗ thông vòm sàng Có/ Không Nhị phân miệng
Đặc điểm mọc R3 Đủ/ Không có/ Mầm Danh mục
Đặc điểm mọc R2 Thiếu/ Đủ Danh mục
Đo trên phim CT- Chiều dài KHCH Liên tục Đo đựa trên Conebeam, đơn vị mm
cận lâm
Chiều rộng Đo trên phim CT- sàng Liên tục KHCH Conebeam, đơn vị mm
40
Mục tiêu 2: Đánh giá hiệu quả sau phẫu thuật ở 2 nhóm nghiên cứu.
Bảng 2.2: Bảng biến số mục tiêu 2
Loại Cách thu Tên biến số Định nghĩa biến số biến số thập
Tuổi theo năm dương lịch Liên tục Tuổi
Phỏng vấn
Giới Nam/ nữ Nhị phân
Khớp cắn Loại I/ II/ III Danh mục
Chỉnh nha Có/Không Nhị phân
Khe hở cung hàm Trái/ phải Danh mục
Lỗ thông vòm miệng Có/ Không Nhị phân
Đặc điểm mọc R3 Đủ/ Không có/ Mầm Danh mục Khám lâm
Đặc điểm mọc R3 sàng Đã mọc/ Chưa mọc Danh mục ngầm 3 tháng SPT
Đặc điểm mọc R3 Đã mọc/ Chưa mọc Danh mục ngầm 6 tháng SPT
Đặc điểm mọc R3 Đã mọc/ Chưa mọc Danh mục ngầm 12 tháng SPT
Chiều dài KHCH Đo trên phim CT- Liên tục Conebeam, đơn vị mm Đo đựa trên
cận lâm Chiều dài mảnh Đo trên phim CT- sàng Liên tục xương ghép sau Conebeam, đơn vị mm 3 tháng
41
Chiều dài mảnh Đo trên phim CT- xương ghép sau Liên tục Conebeam, đơn vị mm 6 tháng
Chiều dài mảnh Đo trên phim CT- xương ghép sau Liên tục Conebeam, đơn vị mm 12 tháng
Lâm sàng 7 ngày SPT Tốt/ Xấu Danh mục
Chảy máu SPT
Vùng ghép Có/ Không Nhị phân
Mào chậu
Sưng nề 7 ngày SPT
Môi Có/ Không Nhị phân
Khám lâm Mào chậu
sàng
Đau 7 ngày SPT
Môi Có/ Không Nhị phân
Mào chậu
BC 3 tháng SPT
Tê bì Có/ Không Nhị phân Đau khi vận động
Hạn chế vận động
42
Các biến số theo dõi định kì sau phẫu thuật
Bảng 2.3: Các biến số cần thu thập sau phẫu thuật.
Thời điểm SPT
Biến số
1 tuần 3 tháng 6 tháng 1 năm
Sốt x
Chảy máu sau phẫu thuật x
Sưng nề x
Rò dịch x x
Liền thương vết mổ x x
Phục hồi hình thái giải phẫu cung hàm x x x
Đường rò miệng-mũi x x
Sự mọc răng nanh x x x
Đánh giá liền thương bằng X-quang x x x
Chiều cao xương cung hàm x x x
Bệnh nhân được theo dõi về lâm sàng giai đoạn sau phẫu thuật tới khi cắt
chỉ ra viện (7 đến l0 ngày). Được khám lâm sàng, được chụp CT - Conebeam
xương hàm trên để đánh giá vào thời điểm sau phẫu thuật 3 tháng, 6 tháng và
sau l năm. Dựa vào tiêu chí đánh giá kết quả ghép xương tạo hình khuyết
cung hàm trên các bệnh nhân có khe hở môi vòm của Lygidakis (2013) [87]
và Semb G (2014) [88], chúng tôi xây dựng các bảng tiêu chí đánh giá kết quả
sau ghép xương cung hàm sau phẫu 1 tuần, 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng.
43
Tiêu chí đánh giá kết quả.
Bảng 2.4: Tiêu chí đánh giá lành thương SPT 7 ngày
Kết quả Tiêu chí Xấu Tốt
Sốt Có Không
Chảy máu sau phẫu thuật Có Không
Sưng nề Nhiều ít
Rò dịch Có Không
Liền thương vết mổ Liền thương Không liền thương
- Tốt: bệnh nhân không sốt, vết mổ không chảy máu, vết mổ liền tốt
không sưng nề hay rò dịch mủ.
- Xấu: bệnh nhân sốt kéo dài, vết mổ chảy máu thứ phát, vết mổ sưng nề
và rò dịch mủ [62], [63].
Bảng 2.5: Tiêu chí đánh giá lành thương SPT 3 tháng
Kết quả
Tiêu chí
Tốt Xấu
Liền thương vết mổ Liền thương Không liền thương
Lỗ thông mũi miệng Đóng kín Chưa đóng kín
Rò dịch Không Có
Đánh giá bằng X-quang Liền xương Viêm xương
Phục hồi hình thái Phục hồi Không phục hồi giải phẫu cung hàm
44
- Tốt: vết mổ liền tốt, không rò mủ, xương không bị thải loại, những
bệnh nhân có lỗ thông mũi miệng đã được đóng kín, khối lượng xương
ghép còn đầy đủ và phục hồi được hình thái giải phẫu cung hàm vùng ổ
răng đã được ghép xương, X-quang cho thấy xương ghép không bị tiêu
- Xấu: Vết mổ có lỗ rò dịch mủ, xương ghép bị đào thải, những bệnh
đi, xương liền tốt với xương xung quanh hai bên bờ khe hở.
nhân có lỗ thông mũi miệng thì vẫn còn thông mũi miệng (ăn, uống
thức ăn, nước vẫn chảy lên mũi), X-quang cho thấy hình ảnh xương
ghép bị tiêu đi gần hết hoặc hết.
- Sự đóng kín của lỗ thông mũi miệng: bệnh nhân không còn bị thức ăn,
nước uống lên mũi. Khám lâm sàng thấy đường rò được đóng kín.
- Sự mọc răng của răng nanh chưa mọc trên vùng xương ghép: bao gồm
mầm răng trên vùng khe hở hoặc ở hai bên bờ khe hở đã di chuyển vào
vùng xương ghép và răng đã mọc trên sống hàm. Bằng khám lâm sàng và
X- quang. Được tính bằng khoảng cách từ rìa cắn tới sống hàm [87], [88].
- Sự tiêu xương ghép: Được đánh giá bởi phép đo chiều cao xương cung
hàm vùng được ghép xương, ở vị trí nhất định, bằng CT- Cone beam.
Tại thời điểm sau phẫu thuật 3 tháng. Trong đó:
o Vị trí đo chiều cao: được xác định tại đường giữa khe hở cung hàm (nơi đã được ghép xương), tính từ mặt bên các răng liền kề, với chiều
cao được đo từ bờ xương cung hàm phía nền mũi tới bờ sống hàm phía
dưới [89].
o Mức độ tiêu xương được tính bằng cách so sánh giữa chiều cao (H) đo được trước phẫu thuật (chiều cao cần bù), với chiều cao đo được
tại thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật.
o So sánh mức độ tiêu xương giữa phương thức ghép xương mào chậu
đơn thuần với ghép xương mào chậu phối hợp với PRP.
45
* Sau phẫu thuật 6 tháng, 12 tháng
- Sự mọc răng của răng nanh: Bao gồm mầm răng trên vùng khe hở hoặc
ở hai bên bờ khe hở đã di chuyển vào vùng xương ghép và răng đã mọc
trên sống hàm bằng khám lâm sàng và X-quang (được tính bằng
khoảng cách từ rìa cắn tới sống hàm) [87], [88].
- Sự tiêu xương ghép: Được đánh giá bởi phép đo chiều cao xương cung
hàm vùng được ghép xương ở vị trí nhất định bằng CTCB tại thời điểm
sau phẫu thuật 6, 12 tháng. Trong đó:
o Vị trí đo chiều cao: được xác định tại đường giữa khe hở cung hàm (nơi đã được ghép xương), tính từ mặt bên các răng liền kề, với
chiều cao được đo từ bờ xương cung hàm phía nền mũi tới bờ sống
hàm phía dưới [89].
o Mức độ tiêu xương được tính bằng cách so sánh giữa chiều cao (H) đo được trước phẫu thuật (chiều cao cần bù), chiều cao đo được tại
thời điểm 3 tháng với chiều cao xương ghép đo được tại thời điểm 6
tháng, 12 tháng sau phẫu thuật.
o So sánh mức độ tiêu xương giữa phương thức ghép xương mào chậu
đơn thuần với ghép xương mào chậu phối hợp với PRP.
o Đánh giá mảnh xương ghép còn lại theo phân loại Bergland hoặc
Kinderland.
Bảng 2.6: Phân loại Bergland
Thang điểm Chiều cao xương ghép
I Được gần như chiều cao cần bù
II Chỉ được ¾ chiều cao cần bù
III Dưới ¾ chiều cao cần bù
IV Chỉ còn cầu xương
46
Bảng 2.7: Bảng phân loại Kindelan
Thang điểm Chiều cao xương ghép
1 > 75%
2 50% - 75%
3 < 50%
4 Không còn xương
* Phương pháp đo chiều cao khe hở xương cung hàm (H) trước phẫu thuật:
𝐻 = Trong đó:
ℎ1 + ℎ2 2
H là chiều cao trung bình cần đo của khe hở xương cung hàm.
h1 là chiều cao xương cung hàm tại bờ khe hở bên lành, tính từ mào
xương cung hàm tới giới hạn cuối cùng phía nền mũi.
h2 là chiều cao xương cung hàm tại bờ khe hở bên khe hở, tính từ mào
xương cung hàm tới giới hạn cuối cùng phía nền mũi (hình 2.1).
Hình 2.1: Vị trí đo chiều cao và rộng của khe hở
47
* Phương pháp đo chiều rộng khe hở xương cung hàm (W) trước phẫu thuật:
Trong đó: 𝑾 = 𝒘𝟏 + 𝒘𝟐 𝟐 W là chiều rộng trung bình cần đo của khe hở xương cung hàm.
w1 là chiều rộng xương cung hàm được tính từ mào xương cung hàm
trên bờ khe hở bên lành tới mào xương cung hàm trên bờ khe hở bên bệnh.
w2 là chiều rộng xương cung hàm được đo tại bờ khe bên lành tới bờ
khe hở hở bên bệnh, ở giới hạn cuối cùng của xương cung hàm phía nền mũi
(hình 2.1).
Theo dõi sau phẫu thuật: Bệnh nhân được theo đõi về lâm sàng giai đoạn
sau phẫu thuật tới khi cắt chỉ ra viện (7 đến l0 ngày). Được khám lâm sàng,
được chụp CT - Conebeam xương hàm trên để đánh giá vào thời điểm 3
tháng, 6 tháng và sau l năm.
2.6. Kỹ thuật ghép xương có sử dụng PRP.
Quy trình kỹ thuật ghép xương cho bệnh nhân ở cả 2 nhóm can thiệp và
nhóm đối chứng đều giống nhau ở giai đoạn tạo nền nhận xương ghép và kỹ
thuật lấy xương ghép. Chỉ khác nhau ở nhóm can thiệp có sử dụng thêm quy
trình chuẩn bị huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng và sử dụng phối hợp với
xương ghép.
2.6.1. Chỉ định chỉ và chống chỉ định.
* Chỉ định
- Tất cả bệnh nhân có sức khỏe tốt cho phép gây mê nội khí quản, không
có bệnh toàn thân có thể gây tai biến trong quá trình phẫu thuật.
- Đã được tạo hình khe hở môi, vòm miệng toàn bộ. Còn khe hở hoặc
thiếu xương cung hàm vùng ổ răng bên khe hở.
- Vùng miệng nói chung, hay tại chỗ vùng khe hở ổ răng không có bệnh
lý gì.
- Vùng dự kiến lấy xương ghép không có bất thường về giải phẫu và
không có bệnh lý.
48
* Chống chỉ định
- Bệnh nhân có điều kiện toàn thân không cho phép gây mê nội khí quản.
- Vùng miệng nói chung, hay tại chỗ vùng khe hở ổ răng đang viêm nhiễm.
- Vùng dự kiến lấy xương ghép có bất thường về giải phẫu và bệnh lý.
2.6.2. Quy trình kỹ thuật
* Chuẩn bị trước phẫu thuật.
- Vệ sinh răng miệng, chữa các răng bệnh lý trong miệng.
- Gây mê toàn thân cùng với có đặt ống nội khí quản qua mũi.
Dụng cụ phẫu thuật.
- Bộ nẹp vis miniplate.
- Bộ phẫu thuật tạo hình xương.
- Máy quay ly tâm và bộ dụng cụ lấy máu quay ly tâm để chia tách PRP
(New-PRP pro Kit – Công ty TNHH Geneworld, TP HCM, Việt Nam).
* Kỹ thuật
a.Tạo nền nhận xương ghép.
Chúng tôi sử dụng quy trình kỹ thuật ghép xương khe hở cung hàm
chuẩn theo Peter E.L (2004) [63], gồm các bước:
Bước 1: Gây tê tại chỗ để cầm máu
Hình 2.2: Đường rạch tạo vạt nhìn từ ngách tiền đình [90]
Sử dụng bơm tiêm nha khoa, gây tê tại chỗ bằng Lidocaine 2% có
Adrenaline 1:100.000, tiêm thuốc tê vào mô mềm (không tiêm dưới màng
xương) dọc theo ngách tiền đình tương ứng với chiều rộng của vạt niêm mạc
đã thiết kế.
49
Bước 2: Đường rạch tạo vạt
Hình 2.3: Đường rạch tạo vạt nhìn từ ngách tiền đình
cho khe hở một bên [90]
Đường rạch tạo vạt bắt đầu từ ngách tiền đình hai bên bờ khe hở, đi
xuống tới giữa sống hàm, đi sang hai bên tới sát cổ răng hai bên khe hở (mặt
bên), tiếp tục đi theo đường viền túi lợi của các răng hai bên khe hở ở phía
mặt ngoài, đường rạch này được kéo dài qua răng 4 hoặc 5 rồi hướng lên phía ngách tiền đình với mục đích giảm căng đối với bên khe hở. Phía bên đối diện (bên lành) đường rạch theo đường viền túi lợi qua các răng cửa giữa, cửa bên
tới răng nanh rồi hướng lên ngách tiền đình.
Hình 2.4: Sơ đồ đường rạch tạo vạt phía vòm miệng [65].
Sau đó từ đường rạch trên sống hàm sát cổ răng (mặt bên) của hai răng ở
hai bên bờ khe hở, rạch tiếp theo đường viền túi lợi phía mặt trong vòm miệng,
qua các răng hai bên khe hở tận cùng tương ứng với đường rạch phía tiền đình.
50
Hình 2.5: Đường rạch 2 bên bờ khe hở [90]
Bước 3: Bóc tách tạo vạt niêm mạc – màng xương
Bóc tách sát xương tạo vạt niêm mạc bao gồm cả màng xương (cốt mạc)
bắt đầu từ hai bên bờ khe hở phía mặt ngoài, đi sang hai bên theo đường viền
cổ răng phía trước, rồi đi lên về phía ngách tiền đình tạo vạt niêm mạc màng
xương phía ngách tiền đình (lưu ý khi bóc tách vạt niêm mạc màng xương này
tránh gây tổn thương thông vùng ghép xương với hốc mũi).
Hình 2.6: Bóc tách vạt niêm mạc tiền đình [90]
Sau đó tiếp tục bóc tách vạt niêm mạc màng xương phía vòm miệng, bắt
đầu từ đường viền cổ răng trên sống hàm hai bên bờ khe hở, đi theo đường
viền cổ răng sang hai bên phía trong, rồi đi xuống dưới vùng vòm miệng cứng
phía trước (lưu ý khi bóc tách vạt niêm mạc màng xương này tránh gây tổn
thương ĐM khẩu cái trước và TK bướm khẩu đi ra ở lỗ khẩu cái trước).
51
Hình 2.7. Bóc tách vạt niêm mạc màng xương phía vòm miệng [65]
Bước 4: Khâu tạo vạt nền chứa xương ghép
Khâu đóng phục hồi vạt niêm mạc màng xương phía vòm miệng để tạo
nền chứa xương ghép. Kỹ thuật khâu được thực hiện bằng mũi khâu đơn, với
chỉ khâu là vicryl 3.0 hoặc 4.0. Việc khâu này phải kín và đủ khỏe để chứa
xương ghé
Hình 2.8: Sau khâu đóng vạt niêm mạc màng xương phía vòm miệng [65]
52
Bước 5: Ghép xương
Xương ghép là xương xốp (Cancellous bone) đã lấy, được làm nhỏ đồng
đều, đưa lên đặt vào vùng khe hở ổ răng và nằm trên vạt niêm mạc màng
xương phía vòm miệng đã khâu kín. Xương ghép phải đủ để phủ kín khe hở,
đủ dày tương đương với chiều dày trước sau của xương ổ răng hai bên bờ khe
hở và phủ một lớp mỏng lên mặt trước, sau hai bên bờ khe hở. Lớp xương
ghép phải được nén chặt không có khoảng rỗng. Sau đó sử dụng xương ghép
là xương khối mỏng, bao gồm cả xương vỏ (Cortical bone) đặt vào mặt ngoài
vùng xương xốp đã ghép. Khối xương này phải có kích thước vừa đủ so với
chiều cao sống hàm và che phủ được chiều rộng khe hở cùng một phần xương
ổ răng hai bên bờ khe hở. Cuối cùng cố định khối xương ghép này bằng vít
hay nẹp vít (mục đích ép chặt xương xốp bên trong và cố định xương vỏ).
Hình 2.9: Hình ảnh ghép xương [90]
Bước 6: Giảm căng vạt niêm mạc màng xương phía tiền đình
Dùng dao rạch đứt màng xương của vạt niêm mạc màng xương phía tiền
đình. Đường rạch ngang nằm ở phần niêm mạc di động. Song song với ngách
tiền đình. Chạy từ vị trí bờ khe hở tới đường rạch chếch trên, ở phía xa.
53
Hình 2.10: Giảm căng vạt niêm mạc màng xương phía tiền đình [90]
Bước 7: Khâu phục hồi vết mổ
Khâu đóng vết mổ được bắt đầu từ vùng sống hàm nơi có khe hở. Đóng
kín lớp niêm mạc màng xương mặt ngoài hai bên bờ khe hở từ sống hàm
hướng lên phía ngách tiền đình. Tiếp tục với những mũi khâu trên sống hàm,
để đóng kín lớp niêm mạc màng xương phía vòm miệng với lớp niêm mạc
màng xương phía ngách tiền đình. Sau đó khâu phục hồi đường viền túi lợi
của các răng liên tiếp ở hai bên khe hở (Những mũi khâu này cũng giúp đóng
kín hai vạt niêm mạc màng xương phía vòm miệng và ngách tiền đình). Cuối
cùng là khâu đóng niêm mạc ở đường rạch giảm căng, phía ngách tiền đình
hai bên khe hở. Thứ tự này cho phép giảm căng trong việc kéo vạt niêm mạc
màng xương từ sau ra trước, và vì vậy vùng xương ghép được che phủ và
đóng kín hoàn toàn.
Hình 2.11: Sau khi khâu phục hồi [90]
54
b. Kỹ thuật lấy xương ghép.
Trong nghiên cứu này chúng tôi lựa chọn xương ghép là xương mào
chậu. Chúng tôi sử dụng kỹ thuật lấy xương mào chậu của Michael (2002)
[49], gồm các bước:
o Bước 1: Rạch toàn bộ chiều dày da, đường rạch chính giữa, cao nhất
trên mào chậu. Cách gai chậu trước trên 1,5 – 2cm (hình vẽ).
o Bước 2: Bóc tách cơ bộc lộ màng xương vùng mào của xương chậu. o Bước 3: Rạch màng xương, bóc tách màng xương ba phía: trong,
trước, sau bộc lộ mào xương chậu.
Hình 2.12. Đường rạch mào chậu [49]
o Bước 4: Dùng lưỡi cắt xương, cắt ngang mào xương chậu theo ba phía: trong, trước, sau. Tiếp theo tách mở mào xương chậu theo hướng từ
trong ra ngoài (như mở nắp hòm để mào chậu không bị tách rời nhờ
màng xương phía ngoài). Nhờ đó xương xốp trong mào xương chậu
được bộc lộ.
55
Hình 2.13: Lấy xương xốp mào chậu [49]
o Bước 5: Dùng mũi khoan lấy xương, hoặc đục nhỏ lấy xương xốp trong mào chậu. Dùng mũi cắt xương hoặc đục để lấy mảnh xương khối bao
gồm cả vỏ xương và mặt trong mào chậu. Xương đã lấy được bảo quản
trong cốc inox nhỏ, có nước muối sinh lý vừa đủ để giữ ẩm.
o Bước 6: Đậy nắp mào chậu, đặt dẫn lưu, khâu phục hồi phần mềm.
* Chuẩn bị huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng
Máu toàn phần được lấy ra từ tĩnh mạch, người ta thêm vào nó chất
chống đông máu Citrate Phosphate Dextrose (CPD) với tỷ lệ 1ml CPD/5 -
10ml máu. Lượng máu thu được đưa vào máy quay ly tâm với tốc độ 2000
vòng/ phút. Thời gian quay ly tâm 10 phút. Sau đó các thành phần của máu
được tách ra theo thứ tự: dưới cùng phần màu đỏ chủ yếu là hồng cầu, tiếp
theo là lớp màu trắng đó là thành phần máu trắng chủ yếu là bạch cầu, bên
trên lớp này là huyết tương màu vàng rơm đó là huyết tương giàu yếu tố tăng
trưởng và cuối cùng là huyết tương nghèo yếu tố tăng trưởng màu vàng nhạt.
Lấy loại bỏ huyết tương nghèo yếu tố tăng trưởng. Rồi lấy ra huyết tương
giàu yếu tố tăng trưởng cho vào ống nghiệm khác, quay ly tâm lần hai, với tốc
độ 1500 vòng/ phút, trong 8 phút ta sẽ lấy ra được huyết tương giàu yếu tố
tăng trưởng với độ tập trung tiểu cầu cao ở 2/3 dưới ống nghiệm. Phần huyết
tương giàu yếu tố tăng trưởng này được trộn với vật liệu ghép [27], [42].
56
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thực hiện quy trình tách chiết huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng theo bộ New-PRP pro Kit – Công ty TNHH
Geneworld, TP HCM, Việt Nam. Bộ Kit này bao gồm:
Bộ dụng cụ lấy máu:
+ Dây ga-rô.
+ Kim, dây lấy máu.
+ Ống nghiệm vô khuẩn:
- Ống nghiệm có chứa chất chống đông máu Citrate Phosphate
Dextrose (CPD) ( mỗi ống 8ml)
- Ống nghiệm để tách huyết tương giàu tiểu cầu ly tâm lần hai.
- Ống nghiệm chứa plasma.
- Ống nghiệm chứa huyết tương nghèo tiểu cầu.
- Ống nghiệm chứa huyết tương giàu tiểu cầu có Calcium Chloride kích
hoạt để làm đông huyết tương.
Hình 2.14: Bộ dụng cụ lấy máu và quay li tâm.
* Thời gian lấy máu: Trước khi gây mê, hoặc sau gây mê trong thời gian
phẫu thuật.
* Chuẩn bị bệnh nhân: Bệnh nhân nằm trên bàn phẫu thuật.
* Các bước kỹ thuật
Bước 1: Lấy máu toàn phần từ tĩnh mạch vào ống nghiệm đã có chất
chống đông ( lấy vào 3 ống nghiệm, mỗi ống 8ml , tổng là 24ml máu tĩnh
mạch)
57
Bước 2: Quay ly tâm lần thứ nhất:
- Máu toàn phần được lấy, được đưa vào máy quay ly tâm.
- Quay ly tâm với tốc độ 2000 vòng/ phút.
- Thời gian quay ly tâm 10 phút.
Kết quả có được các thành phần của máu được tách ra theo thứ tự: dưới
cùng phần màu đỏ chủ yếu là hồng cầu, tiếp theo là lớp màu trắng đó là thành
phần máu trắng chủ yếu là bạch cầu, bên trên lớp này là huyết tương màu
vàng rơm đó là huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng (có mật độ tiểu cầu
nhiều) và cuối cùng là huyết tương nghèo yếu tố tăng trưởng màu vàng nhạt.
Lớp TB máu
Ly tâm
2000 RPM
Lớp huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng
Thời gian 10 phút
Lớp TB máu đỏ
MÁU TOÀN PHẦN SAU KHI LY TÂM HT GIÀU YTTT
Ly tâm
1500 RPM
Thời gian 8 phút
Hình 2.15. Sơ đồ mô tả phương pháp ly tâm chia tách PRP
58
Bước 3: Lấy loại bỏ huyết tương nghèo yếu tố tăng trưởng. Rồi lấy ra huyết
tương giàu yếu tố tăng trưởng cho vào ống nghiệm khác để quay ly tâm lần hai.
Bước 4: Quay ly tâm lần hai với tốc độ 1500 vòng/ phút trong 8 phút.
Kết quả cho lớp huyết tương nghèo yếu tố tăng trưởng màu vàng nhạt nằm ở
1/3 trên ống nghiệm. Lớp huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng với độ tập
trung tiểu cầu cao ở 2/3 dưới ống nghiệm.
Bước 5: Lấy ra phần huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng.
Sau đó huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng được trộn với vật liệu ghép,
cùng với Calcium Chloride, để trong khoảng 5-10 phút.
Hình 2.16. Huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng sau giải chống đông với
Calcium Chloride
* Chuẩn bị xương ghép và yếu tố tăng trưởng
Lấy mảnh xương ghép, là xương khối, bao gồm cả xương vỏ. Sao cho
kích thước khối xương bằng chiều cao cung hàm, có thể dài hơn. Chiều ngang
đảm bảo đủ bù những thiếu hụt xương cung hàm trên vùng khe hở. Thông
thường khối xương này tối thiểu phải phủ kín khe hở và tới được chân cánh
mũi bên khe hở, với chiều dầy tối thiểu bằng chiều dầy xương vỏ, tối đa
không quá 3mm. Tiếp tục lấy lượng xương xốp vừa đủ cho vùng khe hở.
Trộn huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng với xương xốp.
Tiến hành các bước kỹ thuật ghép xương như quy trình kỹ thuật chuẩn
59
Hình 2.18: Hình ảnh ghép xương Hình 2.17: Hình ảnh chuẩn bị PRP
- Toàn thân: Sử dụng các thuốc kháng sinh, chống viêm.
- Tại chỗ: Vệ sinh trong miệng bằng cách súc miệng nước muối sinh lý
2.6.3. Chăm sóc sau phẫu thuật.
hoặc các loại dung dịch vệ sinh răng miệng khác sau mỗi khi ăn.
Với vết mổ tại vùng lấy xương ghép: thay băng, làm sạch vết mổ hàng
ngày bằng Betadine…
2.7. Công cụ, quy trình thu thập số liệu.
* Bộ công cụ.
Nghiên cứu này sử dụng bệnh án nghiên cứu được thiết kế riêng để thu
thập các dữ liệu cần thiết trả lời các câu hỏi nghiên cứu. Bệnh án gồm 3 phần:
- Thông tin chung: tuổi, giới, địa chỉ, người liên hệ…
- Các biến số, chỉ số trước phẫu thuật (Bảng 2.1)
- Các biến số, chỉ số sau phẫu thuật (Bảng 2.2)
* Quy trình thu thập số liệu:
Tất cả các bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn đều được mời tham
gia vào nghiên cứu. Các bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ được lập
bệnh án nghiên cứu và tiến hành thu thập thông tin.
60
Về đặc trưng cá nhân: Bệnh nhân được phỏng vấn về tuổi, giới, địa chỉ,
người liên hệ (cha, mẹ hoặc người chăm sóc thay thế), dấu hiệu cơ năng (ăn
uống có sặc hay không để phát hiện triệu chứng cơ năng của biến chứng rò
miệng - mũi sau phẫu thuật tạo hình KHM - VM), tiền sử (thời gian được
phẫu thuật môi, vòm miệng thì đầu, có bệnh toàn thân nào khác kèm theo?).
Khám lâm sàng
Toàn thân: Xác định xem bệnh nhân có bệnh toàn thân ảnh hưởng đến sự
an toàn của người bệnh khi tiến hành gây mê nội khí quản hay kết quả ghép
xương hay không.
Tại chỗ: Đánh giá mức độ thiếu xương vùng ổ răng bên có khe hở và
mức độ biến dạng cung hàm trên. Xác định có còn lỗ rò miệng mũi hay
không. Ghi nhận sự hình thành và mọc răng của răng nanh và răng cửa
bên bờ khe hở. Tình trạng viêm nhiễm của niêm mạc hai bên bờ khe hở và
toàn miệng.
X - quang.
Phim Panorama (Panoramic radiography) được sử dụng tại thời điểm ban
đầu trước phẫu thuật để đánh giá sự hình thành răng, sự mọc răng và cũng
như tương quan của mầm răng chưa mọc với chân răng đã mọc hai bên bờ
khe hở trước - sau phẫu thuật.
Phim CT- Conebeam được sử dụng để đánh giá cấu trúc xương hai bên
bờ khe hở bao gồm độ rộng và chiều cao của khe hở xương cung hàm, trước
và sau phẫu thuật ghép xương, cũng như theo dõi sự mọc răng của các răng
chưa mọc vào vùng ghép xương sau phẫu thuật tại các thời điểm 3 tháng, 6
tháng và 1 năm.
61
Giải thích mục đích và mời người bệnh tham gia vào nghiên cứu
Tiến hành thu thập các biến số ở mục tiêu 1 thông qua phỏng vấn, khám lâm sàng, cận lâm sàng
TIẾN HÀNH PHẪU THUẬT
Nhóm đối chứng Ghép xương mào chậu đơn thuần Nhóm can thiệp Ghép xương mào chậu + PRP
Đánh giá lành thương 7 ngày SPT
Đánh giá lâm sàng, cận lâm sàng định kì SPT 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng. Hoàn thiện bệnh án nghiên cứu.
Hình 2.19: Quy trình thu thập số liệu
2.8. Xử lí và phân tích số liệu.
+ Số liệu sau khi thu thập được kiểm tra, làm sạch bằng tay trong quá trình
thu thập số liệu.
+ Số liệu được mã hóa, nhập bằng Excel 2016
+ Số liệu được xử lí bằng phần mềm SPSS 20.0
+ Các biến định lượng:
62
Các biến phân bố chuẩn được mô tả bằng tần số quan sát,trung bình,
độc lệch chuẩn, min, max. So sánh trung bình các biến định lượng
bằng ANOVA test hoặc t-test, so sánh trước sau bằng t-test ghép cặp.
Các biến định lượng không chuẩn được mô tả bằng tần số quan sát,
trung vị, khoảng tứ phân vị, min, max. So sánh trung vị giữa các
biến bằng Mann Whitney test, Kruskal Wallis test, W
+ Các biến định tính được mô tả bằng tần số và tỉ lệ phần trăm. So sánh tỉ
lệ giữa các biến được kiểm định bằng χ2 test, Fisher’s exact test.
+ Mức ý nghĩa thống kê được lựa chọn mặc định là 95% (α=0,05)
2.9. Sai số và cách khắc phục.
2.9.1. Sai số.
+ Sai số đo lường
+ Sai số nhập và xử lí số liệu.
+ Sai số bỏ nghiên cứu.
2.9.2. Cách khắc phục
+ Lựa chọn đối tượng nghiên cứu phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, xây
dựng tiêu chuẩn lụa chọn cụ thể, rõ ràng.
+ Các biến số thu thập được xây dựng thành bệnh án nghiên cứu, các biến
số chỉ số có định nghĩa, tiêu chuẩn phân loại rõ ràng.
+ Sai số đo lường có thể được khắc phục bằng cách đo lại nhiều lần rồi
lấy trung binh cộng giữa các lần đo.
+ Sai số bỏ nghiên cứu được khắc phục bằng cách thể hiện sự quan tâm
đến bệnh nhân, giữ liên lạc thường xuyên sau phẫu thuật với bệnh nhân
và người giám hộ.
+ Các bệnh án nghiên cứu được xem lại ngay sau khi thu thập, được
chỉnh sửa bổ sung đầy đủ.
63
+ Làm sạch số liệu trước khi nhập
+ Nhập liệu 2 lần, sau khi nhập kiểm tra ngẫu nhiên 20% số phiếu điều tra. Hai
bộ nhập liệu được xử lý độc lập và so sánh kết quả sau khi hoàn thành.
2.10. Đạo đức trong nghiên cứu.
- Nghiên cứu được chấp thuận của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y
sinh học - Trường Đại học Y Hà Nội thông qua theo quyết định số
158/HĐĐĐĐHYHN.
- Đề cương nghiên cứu được Hội đồng chấm đề cương nghiên cứu sinh
của Viện đào tạo Răng Hàm Mặt – Trường Đại học Y Hà Nội thông qua
nhằm đảm bảo tính khoa học trong nghiên cứu.
- Những can thiệp này được thông báo, giải thích cho người bệnh hoặc
người nhà hiểu rõ và đồng ý tham gia trong quá trình nghiên cứu.
- Những người không tham gia nghiên cứu không bị phân biệt đối xử
trong điều trị.
- Tất cả các số liệu thu thập và kết quả đảm bảo trung thực.
64
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Sau khi tiến hành nghiên cứu và thực hiện ghép xương cung hàm cho 74
bệnh nhân có khe hở cung hàm đã được tạo hình môi vòm miệng thì đầu tại
khoa Răng Hàm Mặt – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và khoa Phẫu thuật Bệnh
lý và Tạo Hình Hàm mặt - Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội và
dựa trên phân nhóm bệnh nhân: Nhóm can thiệp gồm 39 bệnh nhân ghép
xương có sử dụng xương mào chậu, phối hợp với huyết tương giàu yếu tố
tăng trưởng. Nhóm đối chứng gồm 35 bệnh nhân ghép xương chỉ sử dụng
xương mào chậu. Chúng tôi thu được những kết quả như sau:
3.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Một số đặc điểm chung
Bảng 3.1: Đặc điểm về tuổi của đối tượng nghiên cứu
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng Tổng
n P n n Tuổi
(%) (%) (%)
19 19 38 Từ 8-12 (48,72) (54,29) (51,35)
20 16 36 0,63* Trên 12 (51,28) (45,71) (48,65)
*: Kiểm định bằng test χ2
39 35 74 Tổng (100) (100) (100)
Nhận xét: Bảng trên biểu diễn tỉ lệ nhóm tuổi của các đối tượng nghiên
cứu. Ở nhóm can thiệp, độ tuổi từ 8-12 chiếm 48,72%; độ tuổi trên 12 chiếm
65
51,28%. Ở nhóm đối chứng tỉ lệ độ tuổi từ 8-12 và trên 12 lần lượt là 54,29%
và 45,71%. Như vậy phân bố nhóm tuổi ở 2 nhóm là như nhau, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với p=0,63 (kiểm định χ2).
Dựa vào tỉ lệ trên cho thấy số lượng các bệnh nhân trên 12 tuổi mới có
chỉ định ghép xương là tương đối lớn. Vì theo lí thuyết, thời điểm ghép xương
cho khe hở vòm lí tưởng nhất là từ 8-12 tuổi.
Bảng 3.2. Đặc điểm về giới của đối tượng nghiên cứu
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng Tổng
Giới P n n n
(%) (%) (%)
21 27 48 Nam (53,85) (77,14) (64,86)
18 8 26 0,04* Nữ (46,15) (22,86) (35,14)
39 35 74 Tổng (100) (100) (100)
*: Kiểm định bằng test χ2
Nhận xét: Bảng trên biểu diễn tỉ lệ về giới của các đối tượng nghiên cứu.
Ở nhóm can thiệp, nam giới từ chiếm 53,85%; nữ giới chiếm 46,15%. Ở
nhóm đối chứng tỉ lệ nam giới và nữ giới lần lượt là 77,14% và 22,86%. Như
vậy phân bố về giới tính ở 2 nhóm là khác nhau, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với p=0,04 (kiểm định χ2).
Theo các nghiên cứu về dịch tễ học về giới thì tỉ lệ nam gặp khe hở cung
hàm nhiều hơn nữ giới. Số liệu trong nghiên cứu được trình ở trên cũng chỉ ra
điều tương tự.
66
3.1.2. Một số đặc điểm lâm sàng trước phẫu thuật
Bảng 3.3: Đặc điểm lâm sàng khớp cắn.
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng Tổng
n P n n Khớp cắn
(%) (%) (%)
10 22 12 Loại I (30,77) (28,57) (29,73)
9 16 7 Loại II (17,95) (25,71) (21,62) 0,72* 16 36 20 Loại III (51,28) (45,72) (48,65)
39 35 74 Tổng (100) (100) (100)
*: Kiểm định bằng test χ2
Nhận xét: Bẳng trên chỉ ra đặc điểm lâm sàng khớp cắn của đối tượng
nghiên cứu. Dễ nhận thấy ở cả 2 nhóm đối tượng khớp cắn hạng III chiếm
phần lớn lần lượt là 51,28% ở nhóm can thiệp và 48,65% ở nhóm đối chứng.
Khớp cắn hạng I ở hai nhóm can thiệp và đối chứng chiếm tỉ lệ lần lượt là:
30,7% và 28,57%. Khớp cắn hạng II chiếm tỉ lệ ít nhất ở 2 nhóm với tỉ lệ là
17,95% và 25,71%. Tỉ lệ sai khớp cắn ở cả 2 nhóm nghiên cứu là như nhau, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p= 0,72 (kiểm định χ2).
40
7(17,95%)
35
6(17,14%)
30
25
Không chỉnh nha
20
Chỉnh nha
32 (82,05%)
29(82,86%)
15
10
5
0
Nhóm can thiệp
Nhóm đối chứng
67
Biểu đồ 3.1: Tỉ lệ chỉnh nha ở đối tượng nghiên cứu.
Nhận xét: Biểu đồ trên cho thấy sự so sánh tỉ lệ lệ chỉnh nha giữa 2
nhóm nghiên cứu. Ở cả 2 nhóm tỉ lệ bệnh nhân chỉnh nha là tương đương
nhau và đều cao hơn nhóm không chỉnh nha. Cụ thể tỉ lệ chỉnh nha ở nhóm
can thiệp chiến 82,05% và nhóm đối chứng là 82,86%.
Bảng 3.4: Đặc điểm lâm sàng khe hở cung hàm
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng Tổng Khe hở n P n n cung hàm (%) (%) (%)
16 16 32 Trái (41,03) (45,71) (43,24)
23 19 42 0,68* Phải (58,97) (54,29) (56,76)
39 35 74 Tổng (100) (100) (100)
*: Kiểm định bằng test χ2
68
Nhận xét: Bảng trên chỉ ra đặc điểm lâm sàng khe hở cung hàm của đối
tượng nghiên cứu. Ở cả 2 nhóm, khe hở bên phải chiếm phần lớn hơn với tỉ lệ
lần lượt là 58,97% và 54,29%. Khe hở bên trái chiếm tỉ lệ lần lượt là 41,03%
và 45,71%. Tỉ lệ khe hở cung hàm ở cả 2 nhóm nghiên cứu là như nhau, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p= 0,68 (kiểm định χ2).
Bảng 3.5: Đặc điểm lâm sàng lỗ thông mũi miệng
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng Tổng Lỗ thông n n n P mũi miệng (%) (%) (%)
5 5 10 Có (12,82) (14,29) (13,51)
34 30 64 0,56* Không (87,18) (85,71) (86,49)
39 35 74 Tổng (100) (100) (100)
*: Kiểm định Fisher’s exact test
Nhận xét: Bảng trên chỉ ra đặc điểm lâm sàng lỗ thông mũi miệng của
đối tượng nghiên cứu. Tỉ lệ khe hở cung hàm có lỗ thông mũi miệng ở nhóm
can thiệp là 12,82% và ở nhóm đối chứng là 14,29%. Tỉ lệ có lỗ thông mũi
miệng ở cả 2 nhóm nghiên cứu là như nhau, sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê với p= 0,56 (kiểm định Fisher’s exact test).
69
Bảng 3.6: Đặc điểm lâm sàng răng nanh trước phẫu thuật.
P Lâm sàng răng nanh Nhóm can thiệp n (%) Nhóm đối chứng n (%) Tổng n (%)
Đủ R3 19 (48,72) 20 (57,14) 39 (52,7)
Không có R3 9 (23,07) 7 (20) 16 (21,62) 0,75*
Mầm R3 11 (28,21) 8 (22,86) 19 (25,68)
Tổng 39 (100) 35 (100) 74 (100)
*: Kiểm định bằng test χ2
Nhận xét: Bảng trên mô tả đặc điểm răng nanh của các đối tượng nghiên
cứu trước phẫu thuật. Ở nhóm can thiệp tỉ lệ không có R3 chiếm 23,07%, có
mầm R3 chiếm 28,21% và mọc đủ răng chiếm 48,72%. Các tỉ lệ tương ứng
trên nhóm đối chứng lần lượt là: 20%, 22,86% và 52,7%. Tỉ lệ R3 ngầm và
không có R3 ở 2 nhóm nghiên cứu là như nhau, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p= 0,75 (kiểm định χ2).
Bảng 3.7: Đặc điểm lâm sàng răng 2 trước phẫu thuật
P Lâm sàng răng 2 Nhóm can thiệp n (%) Nhóm đối chứng n (%) Tổng n (%)
Thiếu R2 26 (58,97) 18 (51,43) 41 (55,41)
Đủ R2 0,51* 16 (41,03) 17 (48,57) 33 (44,59)
Tổng 39 (100) 35 (100) 74 (100)
*: Kiểm định bằng test χ2
70
Nhận xét: Bảng trên mô tả đặc điểm răng 2 của các đối tượng nghiên cứu
trước phẫu thuật. Có 26 bệnh nhân ở nhóm can thiệp thiếu răng 2 chiếm
58,97%, tương ứng ở nhóm đối chứng có 18 bệnh nhân thiếu răng 2 chiếm
51,43%. Tỉ lệ không có R2 ở 2 nhóm nghiên cứu là như nhau, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p= 0,51 (kiểm định χ2).
3.1.3. Một số đặc điểm cận lâm sàng trước phẫu thuật
Bảng 3.8: Kích thước khe hở cung hàm ở nhóm can thiệp
Trung bình Độ lệch chuẩn Min Max
Độ dài khe hở (mm) 12,59 1,25 9,02 14,7
Độ rộng khe hở (mm) 8,61 1,17 6,59 10,72
Nhận xét: Bảng trên mô tả kích thước trung bình khe hở cung hàm ở
nhóm can thiệp trước phẫu thuật. Trung bình chiều dài khe hở cung hàm là
12,59mm, Min là 9,02mm, Max là 14,7mm. Trung bình chiều rộng khe hở
cung hàm là 8,61mm, Min là 6,59mm, Max là 10,72mm.
Bảng 3.9: Kích thước khe hở cung hàm ở nhóm đối chứng
Trung bình Độ lệch chuẩn Min Max
Độ dài khe hở (mm) 12,39 1,29 8,9 14,58
Độ rộng khe hở (mm) 8,46 1,4 6,14 10,82
Nhận xét: Nhận xét: Bảng trên mô tả kích thước trung bình khe hở cung
hàm ở nhóm can thiệp trước phẫu thuật. Trung bình chiều dài khe hở cung
hàm là 12,39mm, Min là 8,9mm, Max là 14,58mm. Trung bình chiều rộng
khe hở cung hàm là 8,46mm, Min là 6,14mm, Max là 10,82mm.
16
14
12,59± 1,25
12,39±1,29
12
10
8,61± 1,17
8,46± 1,4
8
6
4
2
0
Nhóm can thiệp
Nhóm đối chứng
Chiều dài
Chiều rộng
71
Biểu đồ 3.2: So sánh kích thước khe hở cung hàm ở 2 nhóm nghiên cứu
Nhận xét: Biểu đồ trên cho thấy trung bình kích thước chiều dài và
chiều rộng khe hở cung hàm ở 2 nhóm đối tượng nghiên cứu. Có thể nhận
thấy kích thước trung bình khe hở cung hàm ở 2 nhóm là tương đồng với
nhau. Trung bình chiều dài khe hở cung hàm ở nhóm can thiệp là 12,59mm
và ở nhóm đối chứng là 12,39mm. Trung bình chiều rộng khe hở cung hàm
ở nhóm can thiệp là 8,61mm và ở nhóm đối chứng là 8,46mm. Kích thước
khe hở cung hàm ở 2 nhóm gần như không có sự khác sẽ thuận lợi khi so
sánh hiệu quả sau phẫu thuật.
72
3.2. Đánh giá kết quả điều trị sau phẫu thuật
3.2.1. Đánh giá kết quả lâm sàng sau phẫu thuật
* Nhóm can thiệp
3(60%)
5(12,82%)
34(87,18%)
2(40%)
Trước phẫu thuật
Sau phẫu thuật
Không có lỗ thông
Còn lỗ thông
Đóng lỗ thông
Biểu đồ 3.3: Tỉ lệ đóng lỗ thông mũi miệng sau phẫu thuật ở nhóm can thiệp
Nhận xét: Biểu đồ trên cho thấy tỉ lệ đóng lỗ thông mũi miệng sau phẫu
thuật ở nhóm can thiệp. Trước phẫu thuật, có 5 bệnh nhân (12,82%) có lỗ
thông mũi miệng. Sau phẫu thuật, tỉ lệ đóng lỗ thông mũi miệng là 60% và tỉ
lệ chưa đóng lỗ thông sau phẫu thuật là 40%.
0
12
1 (9.1%)
10
6 (54,55%)
8
7 (63,64%)
6
11 (100%)
10 (90,9%)
4
5 (45,45%)
4 (36,36%)
2
0
Sau 3th
Sau 6th
Sau 12th
Trước PT
Răng 3 ngầm
Đã mọc
73
Biểu đồ 3.4: Theo dõi mọc răng nanh sau phẫu thuật ở nhóm can thiệp.
Nhận xét: Biểu đồ trên cho thấy tại thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật đã
có 1 đối tượng nghiên cứu trong nhóm can thiệp đã mọc răng nanh ngầm
chiếm 9,1%. Tại thời điểm 6 tháng và 12 tháng tỉ lệ răng ngầm đã mọc lần
lượt là 54,55% và 63,64%.
74
*Nhóm đối chứng
3(60%)
5(14,29%)
2(40%)
30(85,71%)
Sau phẫu
Trước phẫu
Không có lỗ thông
Còn lỗ thông
Đóng lỗ thông
Biểu đồ 3.5: Tỉ lệ đóng lỗ thông mũi miệng sau phẫu thuật ở nhóm đối chứng
Nhận xét: Biểu đồ trên cho thấy tỉ lệ đóng lỗ thông mũi miệng sau phẫu
thuật ở nhóm đối chứng. Trước phẫu thuật, có 5 bệnh nhân (14,29%) có lỗ
thông mũi miệng. Sau phẫu thuật, tỉ lệ đóng lỗ thông mũi miệng là 60% và tỉ
lệ chưa đóng lỗ thông sau phẫu thuật là 40%.
0
8
1 (12,5%)
7
4 (50%)
6
5 (62,5%)
5
8 (100%)
4
7 (87,5%)
3
4 (50%)
2
3 (37,5%)
1
0
Sau 3th
Sau 6th
Sau 12th
Trước PT
Răng 3 ngầm
Đã mọc
75
Biểu đồ 3.6: Theo dõi mọc răng nanh sau phẫu thuật ở nhóm đối chứng.
Nhận xét: Biểu đồ trên cho thấy tỉ lệ mọc răng ngầm ở nhóm đối chứng
theo dõi trong 12 tháng. Tại thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật, có 1 bệnh nhân
đã mọc răng ngầm chiếm 12,5%. Tỉ lệ này tại thời điểm 6 tháng và 12 tháng
lần lượt là 50% và 62,5%.
76
* So sánh
Bảng 3.10: Lâm sàng mọc răng nanh sau phẫu thuật
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng Đặc điểm chung p-value n n
(%) (%)
Đã mọc 1(9,1) 1(12,5)
Chưa mọc 10(90,9) 7(87,5) 0,68* Sau 3 tháng
11(100) 8(100) Tổng
Đã mọc 6(54,55) 4(50)
4(50) Chưa mọc 5(45,45) 0,61* Sau 6 tháng
11(100) 8(100) Tổng
Đã mọc 7(63,64) 5(62,5)
Chưa mọc 4(36,36) 3(37,5) 0,66* Sau 12 tháng
Tổng 11(100) 8(100)
*: Kiểm định Fisher’s exact test
Nhận xét: Bảng trên cho thấy tỉ lệ mọc răng 3 ngầm theo dõi trong 12
tháng của các đối tượng nghiên cứu. Tại thời điểm 3 tháng cả nhóm can thiệp
và nhóm đối chứng đều có 1 bệnh nhân đã mọc răng ngầm lần lượt chiếm tỉ lệ
là 9,1% và 12,5%. Ở tháng thứ 6 và tháng 12, tỉ lệ mọc răng ngầm ở nhóm
can thiệp lớn hơn ở nhóm đối chứng lần lượt là 54,55%, 63,64% so với 50%,
62,5%. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩ thống kê trên cỡ mẫu nghiên
cứu với p- value đều lớn hơn 0,05 (kiểm định Fisher’s exact test)
77
3.2.2. Đánh giá kết quả cận lâm sàng
16
15
14,54 ± 1,28
14
13
12,59
12,02 ± 1,17
Trung bình chiều dài xương ghép
12
11
Trung bình chiều dài khe hở
10
9,43 ± 0,92
9
8
Sau 3 tháng
Sau 6 tháng
Sau 12 tháng
* Nhóm can thiệp
Biểu đồ 3.7. Chiều dài xương ghép theo dõi sau phẫu thuật ở nhóm can thiệp
Nhận xét: Biểu đồ trên biểu diễn trung bình và lệch chuẩn chiều dài xương
ghép ở nhóm can thiệp theo dõi trong 12 tháng. Ta nhận thấy chiều dài xương
ghép có xu hướng giảm theo thời gian. Tại thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật,
trung bình chiều dài xương ghép đo được là 14,54 ± 1,28 mm, lớn hơn so với
trung bình chiều dài khe hở là 12,59 mm. Sau phẫu thuật 6 tháng và 12 tháng,
trung bình chiều dài xương ghép lần lượt là: 12,01 ± 1,17 và 9,43 ± 0,92 mm,
ngắn hơn so với trung bình chiều dài khe hở.
78
Bảng 3.11: So sánh chiều dài mảnh ghép xương trước- sau
ở nhóm can thiệp
Chiều dài xương ghép M ± sd (mm) p-value
Độ dài khe hở 12,59 ± 1,25 -
Sau 3 tháng 14,54 ± 1,28 P0-3<<0,001*
P0-6=0,01* Sau 6 tháng 12,01 ± 1,17 P3-6<<0,001**
P0-12<<0,001*
Sau 12 tháng 9,44 ± 0,92 P3-12<<0,001*
*: Kiểm định Wilcoxon test, **: Kiểm định t-test ghép cặp
P6-12<<0,001*
Nhận xét: Bảng trên cho thấy chiều dài xương ghép sau phẫu thuật ở nhóm
can thiệp tại các thời điểm 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng. Coi chiều dài khe hở
là độ dài xương mong muốn đạt được, chúng tôi nhận thấy tại các thời điểm
tái khám, chiều dài xương ghép đều khác với chiều dài mong muốn và sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với các p<0,05. Tại thời điểm 3 tháng sau phẫu
thuật trung bình chiều dài xương ghép là 14,54mm lớn hơn so với trung bình
độ dài khe hở cung hàm ban đầu là 12,59mm. Điều này có thể lí giải vì sự tiêu
xương sau khi ghép nên chúng tôi thường ghép mảnh ghép có chiều dài lớn
hơn so với chiều dài cần ghép. Tại thời điểm 6 tháng và 12 tháng sau phẫu
thuật, trung bình chiều dài xương ghép lần lượt là 12,01mm và 9,44mm. Tại
hai thời điểm này trung bình chiều dài xương ghép đều nhỏ hơn so với trung
bình độ dài khe hở ban đầu là 12,59mm.
79
16
15
14
13,72 ± 1,29
13
12,39
12
11,62 ± 1,1
Trung bình chiều dài xương ghép
11
10
Trung bình chiều dài khe hở
9
8
8,29 ± 2,22
7
6
Sau 3 tháng
Sau 6 tháng
Sau 12 tháng
* Nhóm đối chứng
Biểu đồ 3.8: Chiều dài xương ghép theo dõi sau phẫu thuật ở nhóm đối chứng
Nhận xét: Biểu đồ trên biểu diễn trung bình và lệch chuẩn chiều dài
xương ghép ở nhóm đối chứng theo dõi trong 12 tháng. Ta nhận thấy chiều
dài xương ghép có xu hương giảm theo thời gian. Tại thời điểm 3 tháng sau
phẫu thuật, trung bình chiều dài xương ghép đo được là 13,72 ± 1,29 mm, lớn
hơn so với trung bình chiều dài khe hở là 12,39 mm. Sau phẫu thuật 6 tháng
và 12 tháng, trung bình chiều dài xương ghép lần lượt là: 11,62 ± 1,1 và
8,29 ± 2,22 mm, ngắn hơn so với trung bình chiều dài khe hở.
80
Bảng 3.12: So sánh chiều dài mảnh ghép xương trước - sau
ở nhóm đối chứng
Chiều dài xương ghép M ± sd (mm) p-value
Độ dài khe hở 12,39 ± 1,29 -
Sau 3 tháng 13,72 ± 1,29 P0-3<<0,001*
P0-6=0,001* Sau 6 tháng 11,62 ± 1,1 P3-6<<0,001**
P0-12<<0,001*
Sau 12 tháng 8,29 ± 2,22 P3-12<<0,001*
*: Kiểm định Wilcoxon test, **: Kiểm định t-test ghép cặp
P6-12<<0,001*
Nhận xét: Bảng trên cho thấy chiều dài xương ghép sau phẫu thuật ở nhóm
đối chứng tại các thời điểm 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng. Coi chiều dài khe hở
là độ dài mong muốn đạt được, chúng tôi nhận thấy tại các thời điểm tái
khám, chiều dài xương ghép đều khác với chiều dài mong muốn và sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với các p<0,05. Tại thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật
trung bình chiều dài xương ghép là 13,72mm lớn hơn so với trung bình độ dài
khe hở vòm ban đầu là 12,39mm. Điều này có thể lí giải vì sự tiêu xương sau
khi ghép nên chúng tôi thường ghép mảnh ghép có chiều dài lớn hơn so với
chiều dài cần ghép. Tại thời điểm 6 tháng và 12 tháng sau phẫu thuật, trung
bình chiều dài xương ghép lần lượt là 11,62mm và 8,29mm. Tại hai thời điểm
này trung bình chiều dài xương ghép đều nhỏ hơn so với trung bình độ dài
khe hở ban đầu là 12,39mm.
81
Bảng 3.13. So sánh chiều dài xương ghép SPT ở NCT và NĐC
Nhóm can Nhóm đối Chiều dài p-value p-value thiệp chứng xương ghép M ± sd (mm) M ± sd (mm)
Độ dài khe hở 12,59 ± 1,25 - 12,39 ± 1,29 -
Sau 3 tháng 14,54 ± 1,28 P0-3<<0,001* 13,72 ± 1,29 P0-3<<0,001*
11,62 ± 1,1 P0-6=0,01* P0-6=0,001* Sau 6 tháng 12,01 ± 1,17 P3-6<<0,001** P3-6<<0,001**
P0-12<<0,001* 8,29 ± 2,22 P0-12<<0,001*
Sau 12 tháng 9,44 ± 0,92 P3-12<<0,001* P3-12<<0,001*
*: Kiểm định Wilcoxon test, **: Kiểm định t-test ghép cặp
P6-12<<0,001* P6-12<<0,001*
Nhận xét: Bảng trên cho thấy chiều dài chiều dài xương ghép ở cả 2
nhóm đều giảm dần theo thời gian sau phẫu thuật ghép xương. Trước phẫu
thuật độ dài khe hở ở 2 nhóm là tương đương nhau với trung bình độ dài khe
hở ở nhóm can thiệp và nhóm đối chứng lần lượt là 12,59mm và 12,39mm.
Tại thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật, chiều dài mảnh xương ghép ở nhóm can
thiệp lớn hơn so với nhóm đối chứng, nhưng nhìn chung chiều dài mảnh
xương ghép ở 2 nhóm đều lớn hơn chiều dài ổ xương ghép, sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Tại thời điểm 6 tháng và 12 tháng sau phẫu
thuật, chiều dài xương ghép ở cả 2 nhóm đều nhỏ hơn chiều dài khe hở cần
ghép, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Nhận thấy rằng sau phẫu
thuật sự tiêu xương diễn ra ở cả 2 nhóm nghiên cứu, tuy nhiên kết quả cho
thấy chiều dài xương ghép ở các thời điểm khác nhau sau phẫu thuật ở nhóm
can thiệp đều tốt hơn so với nhóm đối chứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p< 0,01.
82
* So sánh
Bảng 3.14: So sánh chiều dài xương ghép sau 3 tháng
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng p-value
M ± sd M ± sd
Độ dài khe hở cung hàm 12,59 ± 1,25 12,39 ± 1,29 0,5* ban đầu (mm)
Chiều dài xương ghép
14,54 ± 1,28 13,72 ± 1,29 0.02** 3 tháng SPT (mm)
*: Kiểm định t-test độc lập, **: Kiểm định Mann – Whitney test
Tỉ lệ chênh xương ghép so 15,85 ± 7,01 11,08 ± 7,11 <0,01** với chiều dài khe hở (%)
Nhận xét: Bảng trên so sánh chiều dài xương ghép và tỉ lệ chênh của
xương ghép tại thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật. Độ dài khe hở cung hàm
ban đầu được xem như là độ dài xương ghép mong muốn đạt được là như
nhau khi so sánh giữa 2 nhóm nghiên cứu với p=0,5 (kiểm định t-test độc
lập). Sau 3 tháng, chiều dài xương ghép của nhóm can thiệp tốt hơn so với
nhóm đối chứng (14,54 ± 1,28mm so với 13,72 ± 1,29mm). Sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với p= 0,02 (kiểm định Mann –
Whitney test).
83
Bảng 3.15: So sánh chiều dài xương ghép sau 6 tháng
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng p-value
M ± sd (%) M ± sd
Chiều dài xương ghép
12,01 ± 1,17 11,62 ± 1,1 0,1* 6 tháng SPT (mm)
Tỉ lệ tiêu xương ghép 17,26 ± 5,27 18,29 ± 8,4 0,93*
*: Kiểm định Mann – Whitney test.
tháng 3-6 (%)
Nhận xét: Bảng trên cho thấy chiều dài xương ghép sau 6 tháng và tỉ lệ
tiêu xương từ tháng thứ 4 đến tháng thứ 6. Tại thời điểm 6 tháng sau phẫu
thuật, chiều dài xương ghép ở nhóm can thiệp dài hơn ở nhóm đối chứng, tuy
nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với
p=0,1 (kiểm định Mann – Whitney). Tỉ lệ tiêu xương từ tháng thứ 4 đến tháng
thứ 6 ở 2 nhóm nghiên cứu là như nhau với p=0.93 (kiểm định Mann –
Whitney). Như vậy tốc độ tiêu xương ở cả hai nhóm từ tháng thứ 4 đến tháng
thứ 6 sau phẫu thuật là như nhau dẫn đến chiều dài mảnh ghép đo tại thời
điểm 6 tháng sau phẫu thuật ở cả 2 nhóm nghiên cứu là tương đương nhau.
Không có sự khác biệt về chiều dài mảnh ghép xương tại thời điểm 6 tháng
sau phẫu thuật.
84
Bảng 3.16: So sánh chiều dài xương ghép sau 12 tháng
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng p-value
M ± sd M ± sd
Chiều dài xương ghép
9,44 ± 0,92 8,29 ± 2,22 <0,01* 12 tháng SPT(mm)
Tỉ lệ tiêu xương ghép 20,87 ± 8,63 24,07 ± 8,37 0,1** tháng 12-6 (%)
Tỉ lệ tiêu xương ghép
*: Kiểm định Mann – Whitney test, **: Kiểm định t-test độc lập
35,03 ± 4,93 35,99 ± 4,9 0,39* tháng 12-3 (%)
Nhận xét: Bảng trên so sánh chiều dài mảnh ghép xương và tỉ lệ tiêu
xương tại thời điểm 12 tháng sau phẫu thuật. Tỉ lệ tiêu xương từ tháng thứ 7
đến tháng thứ 12 ở 2 nhóm lần lượt là 20,87% so với 24,07%, tuy có khác
nhau nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu
với p12-6=0,1 (kiểm định t-test độc lập). Khi so sánh trung bình tỉ lệ tiêu xương
từ tháng thứ 4 đến tháng 12 sau phẫu thuật gần như không có sự khác biệt
giữa 2 nhóm với trung bình tỉ lệ tiêu xương lần lượt là 35,03% và 35,99%
(p12-3= 0,39). Tuy nhiên sau 12 tháng theo dõi, chiều dài mảnh ghép xương ở
nhóm can thiệp (được ghép xương mào chậu kết hợp với PRP) tốt hơn so với
nhóm đối chứng (ghép xương mào chậu đơn thuần). Kết quả có ý nghĩa thống
kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với p<0,01 (kiểm định Mann – Whitney).
85
Bảng 3.17: So sánh tỉ lệ chiều dài xương ghép sau phẫu thuật
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng p-value
M ± sd M ± sd
Tỉ lệ chiều dài xương ghép
115,85 ± 7,01 111,08 ± 7,12 <0,01*
sau 3 tháng (%)
Tỉ lệ chiều dài xương ghép
95,96 ± 9,61 94,44 ± 9,87 0,39*
sau 6 tháng (%)
Tỉ lệ chiều dài xương ghép
68,92 ± 20,4 66,45 ± 16,95 0,58**
*: Kiểm định Mann – Whitney test, **: Kiểm định t-test độc lập
sau 12 tháng (%)
Nhận xét: Bảng trên biểu diễn tỉ lệ chiều dài xương ghép so với chiều
dài khe hở theo thời gian của các đối tượng nghiên cứu. Tại thời điểm 3
tháng sau phẫu thuật chiều dài xương ghép của nhóm can thiệp lớn hơn
nhóm đối chứng và đều lớn hơn chiều dài khe hở (115,85 ± 7,01% và
111,08 ± 7,12%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu
với p< 0,01 (kiểm định Mann- Whitney). Tại thời điểm 6 tháng và 12 tháng
sau phẫu thuật, tỉ lệ chiều dài xương ghép của nhóm can thiệp đều lớn hơn
ở nhóm đối chứng. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê trên
cỡ mẫu nghiên cứu với p> 0,05.
86
Bảng 3.18: So sánh tỉ lệ tiêu xương sau phẫu thuật
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng
p-value
M ± sd M ± sd
Tỉ lệ tiêu xương ghép
15,85 ± 7,01 11,08 ± 7,11 <0,01**
sau 3 tháng (%)
Tỉ lệ tiêu xương ghép
-4,04* ± 9,61 -5,56* ± 9,87 0,39**
sau 6 tháng (%)
Tỉ lệ tiêu xương ghép
-25,34* ± 3,32 -29,52* ± 3,55 <0,01**
*: Tháng thứ 6 và 12 âm do chiều dài xương ghép nhỏ hơn chiều dài khe hở
**: Kiểm định Mann – Whitney test
sau 12 tháng (%)
Nhận xét: Bảng trên cho thấy tỉ lệ chênh xương ghép theo thời gian so
với độ dài khe hở của các đối tượng nghiên cứu. Thời điểm sau phẫu thuật 3
tháng, trung bình tỉ lệ chênh xương ghép của nhóm can thiệp là 15,85% tốt
hơn so với nhóm đối chứng là 11,08%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trên
cỡ mẫu nghiên cứu với p< 0,01 (kiểm định Mann – Whitney). Tại thời điểm 6
tháng, tỉ lệ tiêu xương ghép ở 2 nhóm không có sự khác biệt trên cỡ mẫu
nghiên cứu với p > 0,05. Tại thời điểm 12 tháng sau phẫu thuật trung bình ở
nhóm can thiệp đã tiêu 25,34% so với chiều dài cần ghép, tỉ lệ này ở nhóm
đối chứng là 29,52%. Như vậy có sự khác biệt về tỉ lệ tiêu xương sau 12 tháng
ở 2 nhóm nghiên cứu với p<0,01 (kiểm định Mann – Whitney).
87
Bảng 3.19: Phân loại xương ghép theo Kindelan sau phẫu thuật 12 tháng
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng
n Tổng p-value n
(%) (%)
Loại I 11 4 15
(30,56) (12,12) (21,74)
Loại II 23 24 47
(63,89) (72,73) (68,72) 0,13* Loại IV 2 5 7
(5,56) (15,15) (10,14)
Tổng 36 33 69
(100) (100) (100)
*: Kiểm định bằng Fisher’s exact test
Nhận xét: Bảng trên cho thấy tỉ lệ phân loại xương ghép theo Kindelan
sau 12 tháng phẫu thuật của các đối tượng nghiên cứu. Ta nhận thấy ở cả
nhóm can thiệp và nhóm đối chứng xương ghép loại II chiếm phần lớn lần
lượt là: 63,89% và 72,73%. Xương ghép loại I và IV chiếm các tỉ lệ ít hơn, ở
nhóm can thiệp là 30,56% và 5,56%; ở nhóm đối chứng là 12,12% và
15,15%. Tỉ lệ xương ghép sau 12 tháng theo phân loại Kindelan là không có
sự khác biệt trên cỡ mẫu thống kê với p=0,13 (kiểm định Fisher’s exact test).
88
Bảng 3.20: Tỉ lệ tiêu xương sau 12 tháng theo nhóm chỉnh nha
Chỉnh nha
p-value Có Không
M ± sd M ± sd
Chiều dài xương ghép 9,01 ± 1,49 8,23 ± 2,72 0,08* sau 12 tháng (mm)
Tỉ lệ tiêu xương ghép 27,16 ± 4,02 28,19 ± 3,98 0,54** sau 12 tháng(%)
*: Kiểm định t-test độc lập, **: Kiểm định Mann – Whitney test
Nhận xét: Bảng trên cho thấy chiều dài xương ghép ở nhóm chỉnh nha lớn
hơn so với nhóm không chỉnh nha (9,01 ± 1,49 so với 8,23 ± 2,72), tuy nhiên
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với p=0,08
(Kiểm định ttest độc lập). Tỉ lệ tiêu xương sau 12 tháng ở hai nhóm là như
nhau với p=0,54 (kiểm định Mann – Whitney test)
Bảng 3.21: Tỉ lệ tiêu xương ghép sau 12 tháng theo giới
Giới
p-value Nam Nữ
M ± sd M ± sd
Chiều dài xương ghép 8,64 ± 2,06 9,33 ± 0,91 0,95 * Sau 12 tháng (mm)
Tỉ lệ tiêu xương ghép 27,50 ± 3,9 27,03 ± 4,25 0,25* sau 12 tháng(%)
*: Kiểm định Mann – Whitney test
89
Nhận xét: Bảng trên cho thấy chiều dài xương ghép ở nữ giới sau 12
tháng tốt hơn ở nam giới (9,33 ± 0,91 so với 8,64 ± 2,06), tuy nhiên sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với p=0,95
(kiểm định Mann – Whitney). Tỉ lệ tiêu xương ở nữ giới cao hơn ở nam
giới, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p=0,25
(kiểm định Mann – Whitney). Như vậy không có sư khác biệt về kết quả
ghép xương giữa 2 giới trên mẫu nghiên cứu.
Bảng 3.22: Tỉ lệ tiêu xương ghép sau 12 tháng theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi
p-value Từ 8-12 Trên 12
M ± sd M ± sd
Chiều dài xương ghép 8,77 ± 1,75 8,98 ± 1,83 0,36*
sau 12 tháng (mm)
Tỉ lệ tiêu xương ghép 27,78± 3,9 26,89 ± 4,11 0,36**
sau 12 tháng (%)
*: Kiểm định t-test độc lập, **: Kiểm định Mann – Whitney test
Nhận xét: Bảng trên cho thấy chiều dài xương ghép ở nhóm từ 8-12 tuổi
sau 12 tháng kém hơn ở nhóm trên 12 tuổi (8,77 ± 1,75 so với 8,98 ± 1,83),
tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với
p=0,36 (kiểm định t-test độc lập). Tỉ lệ tiêu xương ở nhóm từ 8-12 tuổi cao
hơn ở nhóm trên 12 tuổi, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê với p=0,36 (kiểm định Mann - Whitney). Như vậy không có sự khác biết
giữa hai nhóm tuổi về kết quả ghép xương sau phẫu thuật 12 tháng.
90
3.2.3. Đánh giá một số biến chứng sau phẫu thuật
Bảng 3.23: Đánh giá lâm sàng sau 7 ngày phẫu thuật
Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng
Lâm sàng
n p-value n 7 ngày sau phẫu thuật
(%) (%)
35 25
Tốt (89,74) (71,43)
4 10 0,045* Xấu (10,26) (28,57)
39 35
*: Kiểm định bằng test χ2
Tổng (100) (100)
Nhận xét: Bảng trên biểu diễn tỉ lệ lành thương trên lâm sàng tại thời
điểm 7 ngày sau phẫu thuật của các đối tượng nghiên cứu. Trong đó, tỉ lệ lành
thương tốt và ở nhóm can thiệp và nhóm đối chứng lần lượt là 89,74% và
71,43%. Tỉ lệ lành thương ở nhóm can thiệp và nhóm đối chứng lần lượt là
10,26% và 28,57%. Như vậy, ở nhóm can thiệp có sự lành thương trên lâm
sàng tốt hơn nhóm đối chứng tại thời điểm 7 ngày sau phẫu thuật; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với p=0,045 (kiểm định test χ2).
91
Bảng 3.24: Biến chứng chảy máu sau phẫu thuật
p-value Biến chứng chảy máu
Nhóm can thiệp n (%) Nhóm đối chứng n (%)
Chảy máu vùng ghép 0,03* 2 (5,13) 8 (22,86)
*: Kiểm định bằng Fisher’s exact test, **: Kiểm định bằng test χ2
Chảy máu mào chậu 0,14** 4 (10,26) 8 (22,86)
Nhận xét: Bảng trên cho thấy tỉ lệ chảy máu sau phẫu thuật của nhóm
can thiệp ít hơn so với nhóm đối chứng. Sự khác biệt về tỉ lệ chảy máu vùng
ghép của 2 nhóm đối tượng là có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với
p=0,03 (kiểm định Fisher’s exact test).
Bảng 3.25: Một số biến chứng 7 ngày sau phẫu thuật
p-value Biến chứng 7 ngày sau phẫu thuật Nhóm can thiệp n (%) Nhóm đối chứng n (%)
Sưng nề môi 0,07* 3 (7,69) 8 (22,86)
Sưng nề mào chậu 0,16* 4 (10,26) 8 (22,86)
Đau môi trên 0,11** 3 (7,69) 7 (20)
*: Kiểm định bằng test χ2=, **: Kiểm định bằng Fisher’s exact test
0,11** Đau mào chậu 3 (7,69) 7 (20)
Nhận xét: Bảng trên cho thấy tỉ lệ mắc các biến chứng sau phẫu thuật 7
ngày của nhóm can thiệp ít hơn so với nhóm đối chứng. Tuy nhiên sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với p> 0,05.
92
Bảng 3.26. Các biến chứng tại mào chậu 3 tháng SPT
Nhóm CT Nhóm ĐC
Các biến chứng p-value
n(%) n(%)
Đau khi vận động 2(5,13) 2(5,71) 0,65*
Tê bì 2(5,13) 3(8,57) 0,45*
Hạn chế vận động 2(5,13) 2(5,71) 0,65*
*: Kiểm định bằng Fisher’s exact test
Nhận xét: Bảng trên chỉ ra tỉ lệ các biến chứng tại mào chậu sau 3 tháng
phẫu thuật của các đối tượng nghiên cứu. Tỉ lệ mắc các biến chứng sau 3
tháng phẫu thuật ở 2 nhóm là tương đương nhau. Tỉ lệ tê bì ở nhóm đối chứng
lớn hơn ở nhóm can thiệp, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
trên cỡ mẫu nghiên cứu với p=0,45 (kiểm định Fisher’s exact test).
93
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân có KHCH.
4.1.1. Tuổi - giới.
Khe hở cung hàm chiếm khoảng 75% các bệnh nhân có khe hở môi,
vòm miệng [91]. Việc ghép xương ổ răng với mục đích tái cấu trúc lại xương
ổ răng, sửa chữa lại các tổn thương ở ổ răng, nâng đỡ nền mũi, chân cánh
mũi, đóng lỗ thủng vòm miệng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển đầy
đủ các tổ chức quanh răng, qua đó giúp cho quá trình mọc răng cửa bên hoặc
là răng nanh vào vùng xương ghép. Bên cạnh đó còn cải thiện hình thái của
chân cánh mũi, tăng khối lượng xương ổ răng để phục vụ cho mục đích cấy
ghép implant. Và để đạt được các mục đích trên thì điều quan trọng cần phải
đánh giá đó chính là hiệu quả của phẫu thuật với thời điểm phát triển của
xương hàm. Đã có nhiều nghiên cứu về ghép xương ổ răng tại 3 thời điểm
khác nhau liên quan đến sự phát triển của răng. Theo Stellmach [85] ghép
xương cung hàm giai đoạn sớm được thực hiện ở giai đoạn răng sữa, ghép
xương cung hàm giai đoạn hàm răng hỗn hợp và ghép xương cung hàm ở giai
đoạn muộn. Khi so sánh cả 3 phương pháp trên thì ghép xương cung hàm ở
giai đoạn hàm răng hỗn hợp tỏ ra có nhiều ưu điểm vượt trội hơn cả. Chính vì
vậy ghép xương cung hàm ở giai đoạn thời kì răng hỗn hợp được lựa chọn
hơn cả kể từ khi lần đầu được giới thiệu bởi Boyne và Sands năm 1972 .
Hầu hết các tác giả đưa ra lựa chọn và kết luận tuổi ghép xương khe hở
cung hàm tốt nhất là 8-12 tuổi [10], [14]. Lý do được đưa ra đây là thời điểm
mọc răng của răng cửa bên và răng nanh (những răng nằm trên vùng khe hở).
Trên bệnh nhân mắc dị tật KHM-VM ở độ tuổi này chỉ có dưới 30% có mầm
răng cửa bên nhưng tới trên 90% các răng này không thể mọc ra, trong đó đối
với răng nanh có 93,87% có mầm răng nanh nhưng có 60,21% đến 71.26%
(tùy theo các nghiên cứu) các răng chưa thể mọc [10], [14], [65]. Việc ghép
94
xương nhằm tạo nền xương đầy đủ cho các răng này mọc ra. Hơn thế nữa dựa
vào nghiên cứu của Berkowitz năm (2006) [62], và Bin Feng (2017) [89] còn
khẳng định tại thời điểm này sự phát triển tầng giữa mặt theo chiều ngang
hoàn toàn kết thúc, chỉ còn là sự phát triển của xương hàm theo chiều đứng-
dọc, tuy nhiên quá trình này rất chậm, tác động của việc ghép xương không
làm thay đổi tầng giữa mặt.
Dựa theo các nghiên cứu trên, nghiên cứu này được tiến hành trên 74
bệnh nhân, được lựa chọn ngẫu nhiên. Được chia thành hai nhóm tuổi theo
mỗi nhóm nghiên cứu:
- Nhóm bệnh nhân có độ tuổi từ 8 – 12 tuổi: ở nhóm này ngoài việc
nghiên cứu theo mục tiêu như ở nhóm tuổi khác, còn để đánh giá kết quả mọc
răng nanh sau ghép xương.
- Nhóm bệnh nhân có độ tuổi trên 12 tuổi: được lựa chọn để ghép xương
ổ răng vùng khe hở với ba lý do:
+ Tái tạo cung hàm bên khe hở.
+ Hỗ trợ cho chỉnh nha.
+ Chuẩn bị nền xương cho cấy ghép implant cho những bệnh nhân thiếu
mầm răng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở nhóm can thiệp, độ tuổi từ 8-12
chiếm 48,72%; độ tuổi trên 12 chiếm 51,28%. Ở nhóm đối chứng tỉ lệ độ tuổi
từ 8-12 và trên 12 lần lượt là 54,29% và 45,71%. Như vậy phân bố nhóm tuổi
ở 2 nhóm là như nhau, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu
nghiên cứu với p=0,4.
Theologie (2013) trong nghiên cứu của mình cũng chia làm hai nhóm
tuổi tương tự: với 65 bệnh nhân, tuổi từ 8- 16 tuổi, trung bình 11,6 [87].
Gholamreza và cộng sự (2017) [25] khi so sánh việc sử dụng xương chậu với
95
xương đông khô có phối hợp với PRP cũng có lựa chọn bệnh nhân tuổi từ 8
đến 27 tuổi, trung bình tuổi là: 15±5,7. Tương đồng với nghiên cứu của
Gholamreza sự phân bố về tuổi giữa hai nhóm nghiên cứu của chúng tôi
không có sự khác biệt. Kết quả phẫu thuật có liên quan đến độ tuổi phẫu thuật
hay không? Điều này không được đặt ra trong nghiên cứu này, nhưng theo
Alexandre Meireles trong nghiên cứu của mình vào năm 2014 đưa ra kết luận
rằng: tuổi tác liên quan tới kết quả phẫu thuật, tỷ lệ bệnh nhân phải phẫu thuật
ghép xương lại ở độ tuổi trên 23 là cao hơn ở lứa tuổi nhỏ hơn.
Trong tổng số 74 bệnh nhân tham gia nghiên cứu này có 48 nam chiếm
tỷ lệ 64,86%, còn lại là 26 nữ, chiếm tỷ lệ 35,14%. Số bệnh nhân này được
chia làm hai nhóm nghiên cứu:
- Nhóm can thiệp: có 21 nam và 18 nữ (tương ứng với tỷ lệ: 53,85%
và 46,15%).
- Nhóm đối chứng : có 27 nam và 8 nữ (tương ứng với tỷ lệ: 77,14%
và 22,86%).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở cả 2 nhóm can thiệp và đối chứng đều
có tỉ lệ nam nhiều hơn nữ. Như vậy là tỉ lệ về giới tính là khác nhau, sự khác
biệt là có ý nghĩa thống kê với p=0,04.Vậy sự khác biệt về giới có ảnh hưởng
tới kết quả nghiên cứu không? Chúng tôi cho rằng, sự khác biệt về giới trong
nghiên cứu này chỉ có ý nghĩa tham khảo mà không có ý nghĩa thống kê và
không ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu. Nesrin Saruhan năm 2017 [92] cho
rằng không có sự khác biệt về kết quả hình thành xương giữa nam và nữ trong
nghiên cứu. Đồng ý kiến với chúng tôi, Marukawa E (2011) [22] cho rằng
giới tính không ảnh hưởng tới kết quả ghép xương. Liao và Huang (2015)
[93] lại cho rằng bệnh nhân nữ có niêm mạc màng xương vùng khe hở ít hơn
so với bệnh nhân nam do vậy kết quả phẫu thuật phụ thuộc vào kỹ năng và kỹ
thuật tạo vạt niêm mạc màng xương của phẫu thuật viên.
96
4.1.2. Loại khe hở
Trong khi tham khảo tài liệu, phần lớn các tác giả phân loại khe hở để
tìm ra tổng số khe hở trong nghiên cứu của mình, hầu hết được dùng để
nghiên cứu về kết quả tái tạo xương cung hàm, sự hình thành và mọc các răng
trên vùng khe hở, hiệu quả của phẫu thuật trong đóng đường thông miệng –
mũi... như các nghiên cứu của Olekas J and Zaleckas L (2003) [16], Nguyễn
Mạnh Hà (2009) [10], Theologie 2017 [87], Bin Feng (2017) [89]. Việc phân
loại khe hở bên phải, bên trái rõ ràng không có ý nghĩa trong đánh giá hiệu
quả của ghép xương. Cũng như việc phân loại bệnh nhân khe hở một bên và
khe hở hai bên, bởi vì trên phương diện hiệu quả của ghép xương đối với khe
hở hai bên thì khó đánh giá hơn. Bởi các bệnh nhân với khe hở hai bên có thể
có biểu hiện lâm sàng nặng hơn so với một bên. Với đặc điểm đối với bệnh
nhân có khe hở cung hàm hai bên thiếu mô niêm mạc và mô xương nhiều hơn
bệnh nhân có khe hở một bên. Dẫn đến khi thực hiện phẫu thuật ghép xương
khe hở cung hàm việc tạo hình các vạt niêm mạc nền chứa xương ghép cũng
như vạt niêm mạc che phủ khó khăn hơn. Khối lượng xương ghép cũng cần
nhiều hơn. Vì vậy can thiệp phẫu thuật lớn hơn, điều này có ảnh hưởng tới kết
quả điều trị. Khi tham khảo các tài liệu để so sánh thì chúng tôi không thấy có
nhiều tài liệu để so sánh kết quả phẫu thuật giữa khe hở cung hàm một bên
với khe hở cung hàm hai bên. Theo tác giả AS Murthy và cộng sự năm 2006
[94] thì không có sự khác biệt về kết quả ghép xương giữa 2 nhóm khe hở
một bên hoặc hai bên. Chính vì vậy trong nghiên cứu này chúng tôi chú ý
chọn các bệnh nhân chỉ bị khe hở cung hàm một bên để tiện phân tích so sánh
và theo dõi.
Với 74 bệnh nhân được chia đều làm hai nhóm:
- Nhóm can thiệp: Có 39 bệnh nhân, 16 trường hợp có khe hở cung hàm
bên trái (chiếm 41,03%), và 23 trường hợp có khe hở bên phải (chiếm 58,97%).
97
- Nhóm đối chứng: Có 35 bệnh nhân, 16 trường hợp có khe hở cung hàm
bên trái (chiếm 45,71%), và 19 trường hợp có khe hở cung hàm bên phải
(chiếm 54,29%).
Với số liệu không quá chênh lệch về tỉ lệ khe hở cung hàm một bên giữa
2 nhóm nghiên cứu, chúng tôi đánh giá hiệu quả của phẫu thuật ghép xương
vào khe hở sau phẫu thuật.
4.1.3. Lỗ thông mũi – miệng.
Lỗ thông mũi miệng (ONF) là biến chứng hay gặp nhất phối hợp với
phẫu thuật đóng khe hở môi vòm miệng. Tỷ lệ lỗ thông mũi miệng khoảng
4-35% thậm chí còn hơn [43]. Hai triệu chứng chủ yếu của lỗ thông mũi
miệng là viêm mũi và phát âm, chủ yếu là giọng mũi. Như đã đề cập, tỷ lệ
thay đổi nhiều. Musgrave và Bremmer cho rằng tỷ lệ gặp lỗ thông mũi miệng
là 12,5% ở khe hở hai bên và 7,7% ở khe hở một bên. Phua và Chalain
nghiên cứu trên 211 bệnh nhân được phẫu thuật bởi 5 bác sỹ khác nhau và
nhân thấy tỷ lệ còn lỗ thông mũi miệng là 12,8%. Lỗ thông mũi miệng thì
tăng cao hơn khi khe hở càng nặng nhưng không bị ảnh hưởng bởi giới tính
và phương pháp phẫu thuật. Theo Nguyễn Việt Thành trong nghiên cứu năm
2016, độ tuổi dưới 6 tuổi chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chỉ có 2,77%, tỷ lệ bệnh này gặp
nhiều nhất ở lứa tuổi từ 6 - 12 tuổi với 55,55% [95]. Phân loại lỗ thông mũi
miệng (ONF) chủ yếu dựa vào kích thước, lỗ thông mũi miệng được phân ra
làm ba mức độ, nhỏ (<2mm), trung bình (3-5mm), lớn (>5mm).
Lỗ thông mũi miệng có hình thái lâm sàng khác nhau: có thể là khe rất
nhỏ ngay dưới khe hở cung hàm, nhưng cũng có thể là những đường thông có
kích thước từ 3mm đến lớn hơn 1,5cm nằm ở 1/3 trước vòm miệng. Hầu hết
đường thông mũi miệng có kích thước dưới 1,5 cm đều được đóng kín cùng
lúc bằng kỹ thuật ghép xương khe hở cung hàm. Những đường thông có kích
thước lớn hơn 1,5 cm phải tạo hình đóng kín trước, sau 6 tháng mới tiến hành
98
ghép xương cung hàm. Kỹ thuật sử dụng vạt lưỡi để tạo hình các đường thông
miệng - mũi có kích thước lớn này thường được các nhà phẫu thuật lựa chọn.
Hình 4.1. Kết quả đóng lỗ thông mũi- miệng bằng vạt lưỡi
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có sự khác biệt về tỷ lệ lỗ thông
mũi miệng giữa hai nhóm nghiên cứu. Ở nhóm can thiệp chiếm 12,82% và
nhóm đối chứng là 14,29%. Cả hai nhóm có kết quả tương đồng với kết quả
của Nguyễn Mạnh Hà (2009) với tỷ lệ 15,2% [10], và gần tương đương với
M. Paris (2015) với tỷ lệ 20% [96].
Kết quả sau phẫu thuật 3 tháng, ở nhóm can thiệp có 3 trường hợp được
đóng kín lỗ thông chiếm 60%, trong đó ở nhóm đối chứng cũng có 3 trường
hợp được đóng kín lỗ thông mũi miệng mà không có sự khác biệt giữa hai
nhóm nghiên cứu. Việc còn lỗ thông mũi miệng sau phẫu thuật có thể do vạt
bị căng sau phẫu thuật, dẫn đến việc lỗ thông chưa được đóng kín sau 3 tháng
phẫu thuật. Trong nghiên cứu của chúng tôi không có bệnh nhân nào cần phải
xử lý đóng lỗ thông mũi miệng trước khi tiến hành ghép xương khe hở cung
hàm. J. Olekas ghi nhận chỉ có 1 trường hợp có thông trở lại của đường thông
miệng - mũi, trong tổng số 76 bệnh nhân mà tác giả ghép xương từ năm 1994
đến năm 2002, tuy nhiên tác giả không cho biết bao nhiêu bệnh nhân có thông
miệng – mũi trước khi ông tiến hành phẫu thuật ghép xương ổ răng [16]. Còn
99
nghiên cứu của Gholamreza Shirani (2017) thì cho thấy tất cả đường thông
mũi miệng đều được đóng kín khi khám lại ở tháng thứ 6 [25]. Như vậy hiệu
quả của việc đóng kín đường thông miệng - mũi bằng ghép xương khe hở
cung hàm là có hiệu quả.
4.1.4. Sự hình thành và mọc răng cửa bên và răng nanh.
Theo Brattstrom và McWilliam (1989) [97], sự phát triển của xương
hàm trên phía trước, theo chiều đứng dọc và chiều ngang phần lớn được hoàn
thiện khi trẻ 8 tuổi. Sau độ tuổi đó chỉ là sự phát triển của xương hàm trên
theo kích thước thẳng đứng. Điều này xảy ra bởi sự thêm vào của xương ổ
răng. Mà sự mọc răng là yếu tố kích thích hình thành và phát triển xương ổ
răng. Sau 8 tuổi đó là tuổi hình thành và mọc các răng trên vùng khe hở, đó là
răng cửa bên và răng nanh. Trước đó Berkowitz [9] cũng đã đề cập tới vấn đề
này. Trong khi đó tỷ lệ không có răng cửa bên ở bệnh nhân khe hở môi - vòm
miệng là rất cao từ 52% đến 68% tùy theo từng nghiên cứu [10], [65].
Theo Viveca Brattstrom và John McWilliam [97], các tác giả này nghiên
cứu về việc ảnh hưởng của ghép xương theo độ tuổi lên sự bất thường của
răng và sự mọc răng cũng như liên quan đến chiều cao của xương ổ răng sau
ghép xương, các tác giả này nghiên cứu trên 202 bệnh nhân có khe hở môi
vòm miệng một bên và có khe hở cung hàm, được chia làm 4 nhóm dựa trên
độ tuổi ghép xương. Nhóm 1 được ghép xương trước một tuổi, nhóm 2 được
ghép xương trước một tuổi nhưng đã được tiền phẫu thuật chỉnh cánh mũi,
nhóm 3 được ghép xương khi mọc 2 răng cửa giữa vĩnh viễn, còn nhóm 4
được ghép ở độ tuổi mọc răng nanh vĩnh viễn. Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ thiếu
răng cửa bên tương đối cao ở cả 4 nhóm từ 54% đến 75%, tương đồng với
nghiên cứu của chúng tôi khi tỉ lệ thiếu răng cửa bên ở cả 2 nhóm nghiên cứu
là 58.97% ở nhóm can thiệp và 51.43% ở nhóm đối chứng. Nhưng khác biệt ở
chỗ trong nghiên cứu của Viceca Brattstrom và John Mc William không đề
100
cập đến việc tỉ lệ thiếu răng cửa bên trước khi tiến hành phẫu thuật ghép
xương, đồng thời đối tượng nghiên cứu của các tác giả này trên những bệnh
nhân còn quá nhỏ, nên việc chụp phim XQ trước phẫu thuật để đánh giá tình
trạng răng là khó khăn.
Đồng thời khi nghiên cứu về sự thiếu hụt của răng nanh, nhóm tác giả
này cũng cho thấy tỉ lệ không có răng nanh trong nghiên cứu của họ là từ 4%-
13%, có thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi lần lượt là ở nhóm đối
chứng 23.07% và ở nhóm can thiệp là 20%. Điều này cũng có thể lý giải là do
trong nghiên cứu của họ thì số lượng bệnh nhân được chia là 4 nhóm, trong
đó nhóm nhỏ tuổi nhất để phẫu thuật ghép xương ổ răng là dưới 1 tuổi, chính
vì vậy không được đánh giá và theo dõi tình trạng mọc răng nanh trên phim
XQ trước phẫu thuật.
Theo nghiên cứu của chúng tôi ở hai nhóm: Nhóm can thiệp tỉ lệ không
có răng nanh ở khe hở chiếm 23,07%, có mầm răng nanh là 28,21%, và răng
nanh đã mọc là 48,72%. Nhóm đối chứng tỉ lệ không có răng nanh ở khe hở là
20%, có mầm răng nanh là 22,86%, và răng nanh đã mọc là 57,14%.
Jia Y. L và cộng sự tại Đại học Bắc Kinh – Trung Quốc đã ghi nhận
trong nghiên cứu của mình [98]. Ở nhóm bệnh nhân có khe hở môi và vòm
miệng một bên tỷ lệ răng nanh chưa mọc là 40% và răng đã mọc là 60%.
Để so sánh hiệu quả mọc răng giữa hai nhóm, trong nghiên cứu của
chúng tôi, sự hình thành và mọc răng nanh được phân loại trước phẫu thuật và
theo dõi sự mọc răng sau phẫu thuật.
Với nghiên cứu theo dõi bằng phim panorama, và phim CT conebeam
kết quả nghiên cứu về việc mọc răng nanh của hai nhóm sau khi ghép xương
khe hở cung hàm được thể hiện ở theo thứ tự thời gian như sau:
Sau 3 tháng: nhóm can thiệp có 9,1%, trong khi đó đối chứng có 12,5%
răng mọc ra - vào vùng ghép xương. Tỉ lệ mọc răng nanh sau 3 tháng ở cả 2
101
nhóm là như nhau, điều này có thể cho thấy ở giai đoạn này khi mới ghép
xương, thì chất lượng xương tại ổ ghép chưa được hoàn thiện, chính vì vậy tỉ
lệ mọc răng nanh ở cả 2 nhóm sau 3 tháng là thấp.
Sau 6 tháng: nhóm can thiệp tỷ lệ mọc răng nanh là 54,55% và nhóm đối
chứng có tỷ lệ 50%. Ở giai đoạn này, khi xương ghép đã ổn định, thì có thể
giúp đỡ cho sự mọc răng nanh, và sự mọc răng nanh còn có thể thuận lợi hơn
dưới tác động của quá trình chỉnh nha.
Sau một năm: nhóm can thiệp có tỷ lệ mọc răng nanh là 63,64% và
nhóm đối chứng là 62,5%.
Bảng 4.1. Theo dõi mọc răng nanh ngầm SPT
Đặc điểm chung Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng p-value N = 74 n(%) n(%)
Đã mọc 1(9,1) 1(12,5)
Chưa mọc 10(90,9) 7(87,5) 0,68* Sau 3 tháng
8(100) Tổng 11(100)
Đã mọc 4(50) 6(54,55)
4(50) Chưa mọc 5(45,45) 0,61* Sau 6 tháng
8(100) Tổng 11(100)
Đã mọc 5(62,5) 7(63,64)
Chưa mọc 4(36,36) 3(37,5) 0,66* Sau 12 tháng
Tổng 11(100) 8(100)
Sự chậm trễ của việc mọc răng nanh so với tuổi mọc răng ở bên khe
hở được giải thích do thiếu khối lượng và chất lượng xương trên vùng khe
hở. Vì vậy sau ghép xương 6 tháng, quá trình tái tạo xương vùng khe hở đã
hoàn tất nên việc mọc răng nanh trên vùng khe hở là tương đồng do những
102
trường hợp này đã đến tuổi mọc răng nanh và khối lượng xương vùng khe
hở đầy đủ tạo điều kiện tốt cho việc mọc răng. Caroline Dissaux trong
nghiên cứu của mình vào năm 2016 cho thấy kết quả mọc răng nanh sau 6
tháng ghép xương mào chậu là 51,4% trên tỷ lệ 69% trong tổng số bệnh
nhân tham gia nghiên cứu đạt khối lượng xương ghép từ 75% - 90% [99].
Tuy nhiên năm 2015, Susarla S.M và cộng sự không thấy sự khác biệt
trong quá trình mọc răng nanh trên vùng khe hở khi so sánh giữa hai nhóm
nghiên cứu sử dụng vật liệu ghép tự thân và vật liệu ghép đồng loại có kết
hợp với tự thân. Tác giả nhận thấy cứ mỗi tháng răng di chuyển ra sống
hàm một khoảng cách là: 0,02 – 0,18 mm [100].
Hình 4.2: Răng nanh mọc ra cùng xương ghép sau 3 tháng.
Các nghiên cứu tại thời điểm, phương pháp khác nhau nhưng đều thể
hiện kết quả: ghép xương cung hàm là điều kiện tiên quyết để tạo điều kiện
cho răng nanh bên khe hở mọc ra.
4.1.5. Vật liệu ghép.
Trong tổng quan của nghiên cứu này đã tập hợp rất đầy đủ những kiến
thức về vật liệu ghép. Dù vật liệu là loại nào đi nữa thì mục tiêu cuối cùng của
xương ghép là tái tạo xương cung hàm bên khe hở về khối lượng và chất
lượng, có đầy đủ để tiếp tục chỉnh nha, cấy ghép implant, cũng như hướng
dẫn sự mọc răng sau khi ghép xương. Vì vậy chúng tôi muốn bàn kỹ hơn nữa
về việc lựa chọn vật liệu để đạt được hiệu quả ghép xương tốt nhất.
103
Peterson (2004) đưa ra bảng phân loại và đặc tính của xương ghép tự
thân, theo đó do có đặc tính xương xốp, cung cấp được khối lượng lớn xương
ghép theo nhu cầu, xương chậu được lựa chọn sử dụng cho ghép xương cung
hàm nhiều nhất. Nhưng chính nó lại là xương có mức độ tiêu xương sau ghép
nhiều nhất [65]. Alan S. Herford trong nghiên cứu công bố năm 2011 cho
thấy nhóm bệnh nhân ghép xương mào chậu đơn thuần chỉ có 25% số bệnh
nhân đạt được > 75% khối lượng xương ghép so với lúc ghép ban đầu sau 1
năm nghiên cứu (50% số bệnh nhân đạt được khối lượng từ 50% đến <75%)
[101]. Mới nhất vào đầu năm 2018, C.Wu sau khi thống kê rất nhiều các
nghiên cứu cũng có kết luận có mức độ tiêu xương ghép là 50% – 80% khi
ghép xương khe hở cung hàm bằng xương mào chậu [102]. Đối với vỏ hộp sọ
Kihwan Han và cộng sự (2017) cho rằng việc lấy xương ghép ở vỏ hộp sọ
hoàn toàn an toàn. Xương vỏ hộp sọ xốp dễ dàng cho việc mọc răng, nghiên
cứu cho biết đã có 32 răng nanh mọc ra trên tổng số 49 bệnh nhân tham gia
nghiên cứu. Nhưng tác giả cũng nhận định rằng vỏ hộp sọ mỏng cung cấp
lượng xương ghép hạn chế [103].
Các xương tự thân còn lại không những cung cấp khối lượng xương hạn
chế, mà mật độ xương cứng khó khăn cho các răng trên vùng ghép mọc ra.
Bên cạnh các nghiên cứu sử dụng xương ghép tự thân thì còn có nhiều
các nghiên cứu kết hợp giữa xương tự thân với vật liệu ghép đồng loài, hay dị
loại hoặc nhân tạo như các báo cáo của Takemaru Masashi (2016) [104],
Gholamreza (2017) [25] , Melek L.N (2017) [105], và gần đây nhất là của tác
giả Nguyễn Tấn Văn (2020) [106]. Tuy nhiên các nghiên cứu này khi thực
hiện việc ghép xương tự thân cũng như phối hợp với xương nhân tạo không
đề cập đến việc phối hợp về tỉ lệ xương ghép như thế nào. Chỉ có tác giả
Nguyễn Tấn Văn đề cập đến việc sử dụng xương nhân tạo phải nhỏ hơn hoặc
bằng khối lượng xương xốp tự thân. Tuy nhiên để khẳng định được tỉ lệ này
104
là chính xác và hợp lý thì cần có nhiều hơn các bằng chứng về khoa học, đặc
biệt là thêm các nghiên cứu về sử dụng xương nhân tạo trong ghép xương để
tìm ra được công thức chung cho việc sử dụng xương ghép trên bệnh nhân có
khe hở cung hàm.
4.1.6. Kỹ thuật tạo vạt và ghép xương
Chúng tôi thấy có 1 số vấn đề trong quá trình phẫu thuật cần được bàn
luận để kết quả phẫu thuật được tốt hơn.
- Đối với độ rộng của khe hở, trong nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng
ở nhóm can thiệp khe hở có độ rộng nhỏ nhất là 6,59 mm và khe hở có độ
rộng lớn nhất là 10.72 mm và ở nhóm đối chứng khe hở có độ rộng nhỏ nhất
là 6,14 mm và khe hở có độ rộng lớn nhất là 10,82 mm. Chính độ rộng của
khe hở này quyết định đến việc sử dụng đường rạch bóc tách vạt, đặc biệt là
từ phía vòm miệng. Thông thường đường rạch bắt đầu từ phía tiền đình chính
giữa hai bên bờ khe hở, tuy nhiên với các bệnh nhân có độ rộng khe hở lớn thì
đường rạch thường được mở rộng thiên về phía gần và phía xa hai bên bờ khe
hở hơn để khi bóc vạt về phía vòm miệng đảm bảo được việc khâu đóng được
kín vạt phía vòm miệng. Theo giải phẫu thì vạt phía nền mũi bao giờ cũng là
vị trí mỏng nhất, đối với các bệnh nhân không có lỗ thông mũi miệng thì việc
bóc tách niêm mạc tương đối dễ dàng hơn, chỉ chú ý đến vị trí niêm mạc phía
vòm miệng vì rất mỏng và dễ rách. Còn đối với các bệnh nhân có lỗ thông
mũi miệng thì việc giải phóng vạt phía vòm miệng là cần thiết, đôi khi có thể
sử dụng vạt trượt sang bên để có thể đóng kín được lỗ thông mũi miệng trong
cùng một thì phẫu thuật và tránh tối đa sự căng khi đóng kín lỗ thông, đồng
thời tránh được sự thất bại sau ghép xương. Tuy nhiên trong nghiên cứu của
chúng tôi, không có trường hợp bệnh nhân nào cần phải xử lý vạt trượt từ
phía vòm miệng.
105
- Chúng tôi thấy rằng trong các bệnh nhân của chúng tôi thì các lỗ
thông mũi miệng đều có kích thước nhỏ, rất tiếc là chúng tôi không thu thập
được đặc điểm kích thước của lỗ thông để có thể tiến hành theo dõi. Tuy
nhiên chúng tôi thấy, kích thước lỗ thông càng lớn thì khả năng khâu đóng
với vạt niêm mạc đơn thuần là rất khó để có thể che được lỗ thủng trong cùng
thời điểm ghép xương ổ răng. Theo giải phẫu thì vị trí niêm mạc mỏng nhất là
vị trí nền mũi. Niêm mạc vị trí này rất mỏng, dễ tạo thành lỗ thủng thông
thương vùng ghép xương với hốc mũi khi bóc tách vạt, thậm chí là trong quá
trình lành thương sau ghép xương. Để giải quyết điểm yếu này có tác giả đễ
xuất sử dụng màng để che chắn lỗ thủng này [51].
Hình 4.3. Sử dụng màng để che chắn giữa vùng xương ghép
với hốc mũi
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có 1 bệnh nhân được sửng dụng
màng Fibrin để tiến hành cùng thời điểm ghép xương khe hở cung hàm và vạt
niêm mạc màng xương (được lấy ra từ vạt niêm mạc che phủ mặt ngoài
xương cung hàm) để đóng kín vị trí thông thương với hốc mũi, theo thứ tự
màng fibrin được khâu cố định che lỗ thủng trước, sau đó vạt NM được khâu
đóng lỗ thủng ở phía trên. Sử dụng cách thức này cho kết quả rất tốt sau phẫu
thuật ghép xương.
106
Hình 4.4: Sử dụng màng fibrin và vạt niêm mạc để đóng lỗ thủng giữa
vùng xương ghép với hốc mũi
- Đối với vạt niêm mạc che phủ mặt ngoài xương cung hàm ở vùng
ghép xương:
+ Đường rạch chéo giảm căng từ cuối đường rạch quanh cổ răng, hướng
lên trên ngách tiền đình phải đi qua ranh giới niêm mạc lợi dính và niêm mạc
lợi di động tới vùng tiếp giáp với niêm mạc má.
+ Đường rạch giảm căng chạy ngang vạt niêm mạc này phải nằm trên
phần niêm mạc di động, tại vị trí sâu nhất của ngách tiền đình. Bắt đầu từ
điểm cao nhất của đường rạch hai bên bờ khe hở đi hết chiều ngang của vạt.
- Đối với cách thức sử dụng xương ghép: trong việc sử dụng xương
ghép nhiều tác giả dùng xương xốp hoặc xương xốp kết hợp với PRP trong
điều trị ghép xương khe hở cung hàm [23], [107], [108]. Qua nghiên cứu
chúng tôi nhận thấy rằng cách thức này phù hợp với tất cả các loại khe hở
cung hàm, dù là rộng hay hẹp, dù là cung hàm mất cân xứng nhiều hay ít. Võ
Văn Nhân và cộng sự (2018) có công bố việc ghép xương khe hở cung hàm
bằng hai mảnh xương khối đặt đối xứng nhau theo chiều trong – ngoài trên
tạp chí khe hở sọ mặt quốc tế [109]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, không
có bệnh nhân nào được can thiệp theo phương pháp này. Chúng tôi nghĩ rằng
kỹ thuật này không thể thực hiện khi khe hở cung hàm hẹp có hai bờ khe hở
107
sát nhau hoặc độ rộng khe hở dưới 3mm. Cũng như rất khó khăn khi thực hiện
trên bệnh nhân có khe hở mất cân xứng nhiều giữa hai bên bờ khe hở.
Trong khi tìm tài liệu tham khảo chúng tôi chỉ tìm được hai nghiên cứu
về cách thức sử dụng xương khối này, đó là Mikoya và cộng sự năm 2010
[110] và Võ Văn Nhân và cộng sự năm 2018 [109].
Cũng với nghiên cứu của Omar A.M. Osman và cộng sự năm 2019
[109], nhóm tác giả này cũng có nghiên cứu giống với nghiên cứu của chúng
tôi. Với phương pháp nghiên cứu ghép xương ổ răng sử dụng xương ghép tự
thân từ mào chậu có phối hợp với PRP, ngoài các tác dụng của PRP mang lại
như: kích thích quá trình lành thương, làm giảm quá tình tiêu xương, giảm
khả năng nhiễm trùng vết mổ, giảm biến chứng sau mổ thì nghiên cứu còn chỉ
ra rằng PRP có tác dụng làm tăng mật độ xương lên đến 1,6 đến 2,2 lần khi so
sánh với nhóm chỉ ghép xương mào chậu đơn thuần.
4.1.7. Hình thái khe hở xương cung hàm trước phẫu thuật
Cùng với sự xuất hiện của khe hở cung hàm là sự tác động của lực lưỡi
vào vùng khe hở, kèm theo sự mất cân bằng về lực kéo của các cơ bám phía
ngoài xương cung hàm hai bên khe hở thì xương cung hàm bên lành thường
phát triển theo hướng ra (trước theo chiều trước - sau) và xoay ra ngoài (theo
hướng cùng bên). Còn xương cung hàm bên khe hở thì phát triển hướng sang
bên lành và ra sau. Điều này làm xương cung hàm hai bên bờ khe hở mất đối
xứng theo chiều trước sau. Mặc dù sau phẫu thuật tạo hình môi, nhờ phục hồi
liên tục cơ vòng môi và trương lực của nó, cùng sự phát triển chung của cơ
thể theo tuổi sự mất cân xứng này dần được cải thiện nhưng không đáng kể.
Thêm vào đó là sự lạc chỗ và xoay trục của các răng hai bên bờ khe hở gây
khó khăn cho quá trình ghép xương khe hở cung hàm và ảnh hưởng tới kết
quả ghép xương.
108
Hình 4.5. Hướng phát triển của xương cung hàm trên
bệnh nhân có KHCH
Yu-Fang Liao và cộng sự (2015) cho rằng kết quả ghép xương khe hở
cung hàm liên quan tới chỉnh nha hay không trước và sau phẫu thuật [93].
Tương tự nghiên cứu của Chun-Shin Chang năm 2016 cho thấy khối lượng
xương ghép đạt được ở nhóm bệnh nhân chỉnh nha trước phẫu thuật cao hơn
nhóm ghép xương khe hở cung hàm không chỉnh nha trước phẫu thuật
(0.81 ± 0.26 cm3 so với 0.59 ± 0.22 cm3) [112].
Trong nghiên cứu này khe hở cung hàm đo được trước phẫu thuật của
hai nhóm nghiên cứu theo thứ tự: nhóm can thiệp có chiều cao: 12,59± 1,25
và độ rộng: 8,61 ± 1,17, trong khi đó nhóm đối chứng có kết quả với chiều
cao: 12,39 ± 1,29 và độ rộng: 8,46 ± 1,4 số liệu này cho thấy chiều cao và độ
rộng xương cung hàm ở cả 2 nhóm gần như không có sự khác biệt. Sự không
khác biệt này sẽ cho phép chúng tôi nghiên cứu mức độ tiêu xương ghép sau
phẫu thuật có kết quả tin cậy. Caroline Dissaux (2016) [99] khi nghiên cứu
kết quả ghép xương khe hở cung hàm ở lứa tuổi từ 5 đến 10 cho thấy chiều
cao trung bình xương cung hàm cần ghép là 11,0 ± 1,5 và độ rộng là 7,1 ± 1,3
khác biệt về chỉ số này so với nghiên cứu của chúng tôi là không nhiều, sự
khác biệt chủ yếu là do lứa tuổi khác nhau. Cùng với sự phát triển của CT -
Conebeam và các phần mềm nghiên cứu về khe hở cung hàm trong thời gian
gần đây đều hướng tới việc tính thể tích vùng khe hở. Trong một nghiên cứu
109
mới gần đây năm 2012, nhóm tác giả Antonio Jorge V.Forte [113] và cộng sự
sử dụng hình ảnh 3 chiều để so sánh được sự thành công của xương ghép, dựa
vào chiều cao đo được từ phần thấp nhất xương hốc mũi đến mào xương ổ
răng vùng răng cửa bên lành, đồng thời đo bên khe hở và được chia làm 3
phân độ I, II, III tương ứng với trên 67%, từ 34% đến 66% và ít hơn 33%.
Tuy nhiên nghiên cứu này chỉ thực hiện được đối với hàm răng hỗn hợp và
đối với các bệnh nhân có khe hở cung hàm 1 bên.
Vậy câu hỏi đặt ra là chỉ theo dõi chiều cao xương ghép vùng khe hở có
đánh giá được mức độ tiêu xương ghép hay không? Dựa theo cách tính điểm
của Bergland và Kindelan dưới đây [80], [82], [114].
Bảng 4.2: Thang điểm Bergland
THANG ĐIỂM CHIỀU CAO XƯƠNG GHÉP
I Được gần như chiều cao cần bù
II Chỉ được ¾ chiều cao cần bù
III Dưới ¾ chiều cao cần bù
IV Chỉ còn cầu xương
Bảng 4.3: Thang điểm Kindelan
THANG ĐIỂM CHIỀU CAO XƯƠNG GHÉP
1 > 75%
2 50% - 75%
3 < 50%
4 Không còn xương
Chúng tôi cho rằng việc ghi nhận chiều cao xương ghép vẫn còn nguyên
giá trị để đánh giá mức độ tiêu xương ghép trong nghiên cứu của mình.
110
4.2. Đánh giá kết quả điều trị giữa hai nhóm có và không sử dụng huyết
tương giàu yếu tố tăng trưởng
4.2.1. Kết quả sau 1 tuần
Ở nghiên cứu này của tôi, sau 7 ngày can thiệp tỉ lệ có kết quả tốt ở
nhóm can thiệp (89,74%) cao hơn nhóm đối chứng (71,43%). Như vậy, ở
nhóm can thiệp có sự lành thương trên lâm sàng tốt hơn nhóm đối chứng tại thời
điểm 7 ngày sau phẫu thuật; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với p=0,045 (kiểm định bằng test χ2). Điều này có thể giải thích được rằng,
với kết quả có sự khác biệt lên tới gần 20% đã thể hiện rõ hiệu quả của sự có
mặt của PRP trong vật liệu ghép - một trong nhân tố quan trọng tham gia vào
hoạt động chống viêm của quá trình lành thương. Theo Mooren khi có mặt
của PRP trong thành phần xương ghép, ở giai đoạn sớm 1 tuần sau phẫu thuật
thì chưa có sự sinh xương tại vị trí tiếp giáp giữa xương ghép và vùng nhận,
lúc này chỉ có lượng nhỏ tổ chức sợi quanh vùng ghép và chỉ có hiện tượng
tiêu viêm tại chính xương ghép và tiếp giáp giữa xương ghép và vùng nhận [20]. Chandan Gupta và cộng sự năm 2013 [23], khi nghiên cứu ghép xương
khe hở cung hàm trên hai nhóm nghiên cứu: sử dụng PRP và không có PRP
kết hợp với xương tự thân cho thấy: đến 90% bệnh nhân có sử dụng PRP lành
thương sớm, trong đó 10% còn lại phải đợi lành thương muộn hơn. Còn ở
nhóm không có PRP, đến 30% bệnh nhân cần phải chờ đến lành thương ở giai
đoạn muộn. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với Mooren [20] giai đoạn một tuần
sau ghép xương kết quả đáng lưu ý nhất đó là sự tham gia tiêu viêm của PRP
tại vùng ghép làm cho quá trình sinh xương và lành thương tiếp theo diễn ra
nhanh hơn và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó nghiên cứu của Omar A.M. Osman
và cộng sự năm 2019 [111] khi nghiên cứu trên 2 nhóm, mỗi nhóm 10 bệnh
nhân thì cho rằng ở nhóm sử dụng PRP thì tỉ lệ viêm nhiễm chỉ là 10% và
nhóm này được sử dụng thêm kháng sinh và lành thương hoàn toàn sau 2
111
tuần. Còn ở nhóm không sử dụng PRP tỉ lệ gặp nhiễm trùng vết mổ lên đến
30%, nhóm này cũng phải sử dụng kháng sinh và hướng dẫn vệ sinh răng
miệng tuy nhiên không gặp trường hợp nào bị đào thải mảnh ghép. Bên cạnh
đó chảy máu sau 7 ngày theo dõi thì gặp 10% ở nhóm không sử dụng PRP, và
không gặp trường hợp nào chảy máu sau mổ đối với nhóm có sử dụng PRP.
Kết quả này cũng khá tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi là tỉ lệ chảy
máu sau mổ tại vùng ghép ở nhóm có sử dụng PRP là 5,13% so với nhóm
không sử dụng PRP là 22,86%. Điều này một lần nữa khẳng định vai trò của
PRP trong kích thích quá trình lành thương, giảm khả năng chảy máu.
4.2.2. Kết quả sau 3 tháng
Cũng theo Mooren [20] ở tuần lễ thứ 2 bắt đầu xuất hiện nhiều tế bào
viêm, cũng như dấu hiệu tiêu xương vừa phải ở chính xương ghép. Kèm với
nó là sự có mặt của tế bào hủy xương. Một vài khoảng trống trong mảnh
xương ghép được quan sát thấy. Sự hình thành xương mới bắt đầu được
quan sát thấy tại tiếp giáp giữa xương ghép và xương nhận, tuy nhiên không
thấy nhiều tế bào xương.
Vào tuần thứ 6 sau ghép xương: không còn dấu hiệu viêm tại vùng ghép.
Cũng còn ít dấu hiệu của xương ghép được nhận dạng. Khối lượng xương ghép
tại thời điểm này giảm đi rất nhiều so với tuần lễ đầu tiên sau ghép xương.
Vào tuần thứ 12 sau ghép xương: không còn dấu hiệu viêm tại vùng
ghép. Chỉ còn thấy rất ít dấu hiệu của xương ghép ban đầu, nhưng không
thể xác định được ranh giới giữa xương ghép và xương mới. Những lát cắt
qua vùng ghép không thấy những hốc rỗng. Việc tiêu xương ghép giai đoạn
từ tuần thứ 6 tới tuần thứ 12 ít hơn nhiều so với giai đoạn từ tuần thứ 2 đến
tuần thứ 6.
Ở thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật ở nhóm đối chứng chiều cao xương
ghép đo được 14,54± 1,28 so với chiều cao ban đầu 12,59± 1,25 với tỷ lệ
112
chênh xương ghép được ghi nhận là 15,85± 7,01%. Còn ở nhóm thứ đối
chứng chiều cao xương ghép đo được 13,72± 1,29 so với chiều cao ban đầu
12,39± 1,29 với tỷ lệ chênh xương ghép được ghi nhận là 11,08± 7,11%. Như
vậy nhóm can thiệp là nhóm sử dụng xương ghép mào chậu có sử dụng PRP
có chiều dài xương ghép tốt hơn hơn so với nhóm chỉ sử dụng xương mào
chậu đơn thuần. Điều này vẫn chưa thực sự có ý nghĩa khi đánh giá sự tiêu
xương ghép bởi trong nghiên cứu của tôi, các bệnh nhân đều được ghép
xương tăng lên về chiều cao so với chiều dài xương cần bù vì mục đích của
chúng tôi nghĩ rằng xương ghép chắc chắn sẽ tiêu đi và việc ghép cao hơn
chiều dài cần bù là để dự phòng cho việc tiêu xương sau này.
4.2.3. Kết quả sau 6 tháng
Việc sinh xương và hình thành xương mới trong quá trình lành thương
sau ghép xương hoàn tất ở tháng thứ tư sau ghép. Từ lúc này chỉ còn hiện
tượng tiêu xương ghép, sự tiêu xương này cũng giảm dần theo thời gian .
Nghiên cứu của chúng tôi cũng phản ánh rõ điều này. Tại thời điểm 6 tháng
sau phẫu thuật ở nhóm can thiệp chiều dài xương ghép đo được 12,01± 1,17
so với thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật tỷ lệ tiêu xương ghép được ghi nhận
là 17,26± 5,27%. Còn ở nhóm đối chứng chiều dài xương ghép đo được
11,62 ± 1,1 so với thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật tỷ lệ tiêu xương ghép
được ghi nhận là 18,29 ± 8,4%. Sự khác biệt về mức độ tiêu xương giữa hai
nhóm là không đáng kể. Chúng tôi cho rằng giai đoạn lành thương này chỉ
còn có xương mào chậu sau ghép. Tỉ lệ tiêu xương từ tháng thứ 4 đến tháng
thứ 6 ở cả 2 nhóm nghiên cứu là như nhau với p=0,93. Điều này cho thấy vai
trò của PRP ở giai đoạn này dường như không còn đóng vai trò nhiều trong
việc làm giảm quá trình tiêu xương ghép ở nhóm can thiệp. Kết quả sau 6
tháng theo dõi của tôi cũng trùng với nghiên cứu của Nakamura và cộng sự
2009, thì nhóm tác giả này cho rằng PRP có thể kích thích sự tái cấu trúc
113
xương ở giai đoạn sớm, tuy nhiên ở giai đoạn muộn hơn, thì với sự có mặt
của PRP dường như là chưa đủ để làm chậm lại quá trình tiêu xương.
4.2.4. Kết quả sau 1 năm
Thời điểm 1 năm sau phẫu thuật ở nhóm can thiệp chiều dài xương ghép
đo được 9,44 ± 0,92 so với thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật tỷ lệ tiêu xương
ghép được ghi nhận là 20,87± 8,63%. Còn ở nhóm đối chứng chiều dài xương
ghép đo được 8,29 ± 2,22 so với thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật tỷ lệ tiêu
xương ghép được ghi nhận là 24,07 ± 8,37%. Và tỷ lệ tiêu xương ghép so với
thời điểm 3 tháng ở nhóm can thiệp là 35,03 ± 4,93%, ở nhóm đối chứng là
35,99± 4,9%. Giai đoạn này là giai đoạn ổn định không còn hoạt động tái tạo
nào tại vùng xương ghép, nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy sự tiêu xương
ghép vẫn diễn ra, với mức độ đáng kể, và tỷ lệ tiêu xương ghép ở cả 2 nhóm
là như nhau. Tuy nhiên sau 12 tháng theo dõi, chiều dài xương ghép ở nhóm
can thiệp tốt hơn so với nhóm đối chứng. Kết quả có ý nghĩa thống kê trên cỡ
mẫu nghiên cứu với p<0,01. Như vậy chiều cao xương đạt được trung bình ở
nhóm can thiệp là 68,92% (3/4 chiều cao cần bù) đạt được xếp loại xương
ghép loại 2 theo thang điểm của Kindelan, trong khi đó nhóm đối chứng đạt
66,45% (¾ chiều cao cần bù) được xếp loại 2 theo cách tính điểm này. Dựa
theo thang điểm của Bergland, tác giả Hatem Hussien sử dụng xương tự thân
+ collagen có chứa Hydroxyapatite dưới dạng xốp + PRP để ghép xương khe
hở cung hàm đưa ra kết quả ghép xương ở thời điểm 12 tháng trong từng
nhóm như sau:
- Nhóm nghiên cứu kết quả xương loại I chiếm tỷ lệ: 70%, loại II: 20%
và loại IV là: 10%.
- Nhóm chứng có kết quả theo thứ tự: xương loại I chiếm tỷ lệ: 40%, loại
II: 20% và loại IV là: 40%.
114
Tuy nhiên đây là hai cách tiếp cận khác nhau, và trong nghiên cứu của
chúng tôi, quan sát thấy tỷ lệ phân loại xương ghép loại 2 theo Kindelan vẫn
chiếm tỉ lệ cao nhất, và không có sự khác biệt trên cỡ mẫu thống kê ở cả 2
nhóm can thiệp với p=0,13.
Quan sát biểu đồ thay đổi chiều cao xương ghép theo thời gian, chúng ta
có thể nhận thấy ở thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật thì tỉ lệ chênh của sự tiêu
xương ghép so với độ dài khe hở ở nhóm can thiệp là 15,85% tốt hơn so với
nhóm đối chứng là 11,08%. Sự khác biệt này có thể là do yếu tố tăng trưởng
PRP được sử dụng ở nhóm can thiệp. Theo nghiên cứu của Maximillian có
bốn nhân tố quan trọng để tái tạo xương, đó là: hướng dẫn sinh xương (tạo
khung), yếu tố tăng trưởng, tế bào xương và chống viêm. Tác giả cũng cho
biết tế bào viêm có trong nhóm chứng cao hơn rất nhiều so với nhóm có kết
hợp với PRP. Sự có mặt của tế bào viêm với mật độ cao diễn ra liên tục từ
tuần lễ thứ 2 đến thứ 4 sau phẫu thuật và dẫn tới việc tiêu xương nhiều nhất ở
thời điểm từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 6 sau phẫu thuật [115]. Tại thời điểm 6
tháng, tỷ lệ tiêu xương ghép ở cả 2 nhóm không có sự khác biệt với cỡ mẫu
nghiên cứu p>0,05. Tại thời điểm 12 tháng sau phẫu thuật trung bình ở nhóm
can thiệp đã tiêu 25,34% so với chiều dài cần ghép, tỷ lệ này ở nhóm đối
chứng là 29,52%. Như vậy có sự khác biệt về tỉ lệ tiêu xương sau 12 tháng ở
2 nhóm nghiên cứu với p<0,01. Cũng trùng với nghiên cứu của Marukawa
[116] và cộng sự năm 2011, nhóm tác giả cũng theo dõi 2 nhóm có sử dụng
PRP và không sử dụng PRP, đã kết luận rằng việc sử dụng PRP có tác dụng là
giảm quá trình tiêu xương và đây là một vật liêu sinh học tương đối tin cậy
trong điều trị ghép xương ổ răng cho bệnh nhân có khe hở cung hàm.
Khi nghiên cứu về chiều dài xương ghép theo thời gian, trong nghiên
cứu của tôi thấy rằng xương ghép đều giảm dần theo thời gian sau phẫu thuật
ghép xương. Trong khi trước phẫu thuật, độ dài khe hở ở 2 nhóm là tương
đương nhau với trung bình độ dài khe hở ở nhóm can thiệp và nhóm đối
115
chứng lần lượt là 12,59mm và 12,39mm. Tại thời điểm 6 tháng và 12 tháng
sau phẫu thuật, chiều dài xương ghép ở cả 2 nhóm đều nhỏ hơn so với chiều
dài cần ghép, sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Nhận thấy
rằng sau phẫu thuật sự tiêu xương diễn ra ở cả 2 nhóm nghiên cứu, tuy nhiên
kết quả cho thấy chiều dài xương ghép ở các thời điểm khác nhau sau phẫu
thuật ở nhóm can thiệp đều tốt hơn so với nhóm đối chứng, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,01. Nghiên cứu của tôi cũng có kết quả tương tự với
Marukawa [116] và cộng sự, cho thấy sau 1 năm thì tỉ lệ tiêu xương ở nhóm
có sử dụng PRP là 26,5± 0,71%, và ở nhóm không sử dụng PRP là
35,5± 2,12%. Segura-Castilo [117] và cộng sự cũng chỉ ra rằng việc sử dụng
PRP thì thấy tỉ lệ tiêu xương chỉ là 29,72% trong đó ở nhóm không sử dụng
PRP thì là 62,26%.
Bảng 4.4: Chiều dài mảnh xương ghép sau phẫu thuật ở 2 nhóm.
Nhóm CT Nhóm ĐC Chiều dài M ± sd p-value M ± sd p-value xương ghép (mm) (mm)
Độ dài 12,59 ± 1,25 - 12,39 ± 1,29 -
khe hở
Sau 3 tháng 14,54 ± 1,28 P0-3<<0,001* 13,72 ± 1,29 P0-3<<0,001*
Sau 6 tháng 12,01 ± 1,17 11,62 ± 1,1 P0-6=0,01* P0-6=0,001*
P3-6<<0,001** P3-6<<0,001**
Sau 12 8,29 ± 2,22 9,44 ± 0,92 P0-12<<0,001* P0-12<<0,001*
tháng P3-12<<0,001* P3-12<<0,001*
P6-12<<0,001* P6-12<<0,001*
Đồng ý kiến với Shawky và Seifeldin [118] năm 2016, nhóm tác giả cho
thấy sự tiêu xương theo chiều dài ở nhóm có sử dụng PRP thấp hơn ở nhóm
chứng. Với kết quả đo được là 82,6± 3,9% và 68,38± 6,67%, điều này càng
116
củng cố cho nghiên cứu của tôi rằng, sự tiêu xương là điều chắc chắn xảy ra
sau ghép xương ổ răng ở bệnh nhân có khe hở cung hàm, tuy nghiên nếu có
sử dụng PRP thì tỉ lệ tiêu xương sẽ thấp hơn so với không sử dụng PRP.
Trong nghiên cứu của tôi cho thấy, sau 1 năm phân loại xương ghép ở cả
2 nhóm có sự khác biệt
Bảng 4.5. Phân loại mảnh ghép SPT 12 tháng theo Kindelan
Nhóm CT Nhóm ĐC Tổng p-value
n(%) n(%)
Loại I 11(30,56) 4(12,12) 15(21,74)
Loại II 23(63,89) 24(72,73) 47(68,72) 0,13* Loại IV 2(5,56) 5(15,15) 7(10,14)
Tổng 36(100) 33(100) 69(100)
Dựa vào bảng trên có thể thấy tỷ lệ xương ghép loại IV theo Kindelan ở
nhóm can thiệp là 5,56%, ở nhóm đối chứng là 15,15%. Tức là các bệnh nhân
này sau 12 tháng được đánh giá là thất bại trong việc ghép xương, và những
bệnh nhân này có chỉ định ghép xương cung hàm thì hai sau đó. Cũng với
nghiên cứu của Viveca Brattstrom và tác giả này nghiên cứu trên 4 nhóm
bệnh nhân thì thấy tỉ lệ xương ghép thành công lại rất cao ở nhóm 3, tức là
ghép ở thời điểm khi hai răng cửa bên mọc và trước thời điểm mọc răng nanh,
tỉ lệ này là 73%, tiếp theo sau mới là nhóm 4 là nhóm ghép xương ở thời điểm
khi răng nanh vĩnh viễn mọc, tỉ lệ thành công là 60%. Điều này có thể giải
thích được rằng, khi ghép xương ở thời điểm trước khi mọc răng nanh, thì
xương ghép sẽ được lấp vào khe hở, kích thích cho sự mọc răng cửa bên và
răng nanh, đồng thời giúp cho sự hình thành cũng như mô mềm xung quanh
khe hở được ổn định hơn, qua đó làm ổn định xương ghép dẫn tới việc xương
ghép có tỉ lệ thành công cao hơn.
117
Khi tiến hành nghiên cứu, nhiều tác giả cho rằng có mối liên quan giữa
tỉ lệ thất bại của việc ghép xương cung hàm với tỉ lệ chỉnh nha trước phẫu
thuật ghép xương. Một trong những bước trước khi ghép xương cung hàm
chính là việc chỉnh nha trước phẫu thuật. Trong nghiên cứu của chúng tôi, thì
số lượng bệnh nhân được chỉnh nha trước phẫu thuật ở nhóm can thiệp là 32
bệnh nhân, ở nhóm đối chứng là 29 bệnh nhân.
Bảng 4.6. Đặc điểm khớp cắn và chỉnh nha của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm chung Nhóm can thiệp Nhóm đối chứng p- value n(%) n(%)
Loại I 12(30,77) 10(28,57)
Loại II 7(17,95) 9(25,71) 0,72* Khớp cắn
Loại III 20(51,28) 16(45,72)
Không 7(17,95) 6(17,14) 0,93* Chỉnh nha Có 32(82,05) 29(82,86)
Các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi nếu có chỉnh nha trước
phẫu thuật đều được tiến hành nong hàm bằng các khí cụ RPE (vít nong hàm
nhanh) và kết thúc trước thời điểm ghép xương trước 6 tháng. Sau đó được
gắn mắc cài để duy trì và giảm thiểu việc xương hàm trên tái phát đổ vào
trong. Với việc nong hàm trước phẫu thuật giúp cho cung hàm bên tổn thương
rộng ra, mũi bên tổn thương nhô lên, kích thích quá trình mọc răng nanh, và
tạo điều kiện thuận lợi cho việc ghép xương cung hàm [119], [111]. Tuy
nhiên khi tìm tài liệu thì chúng tôi thấy có rất ít các nghiên cứu về tỉ lệ thành
công của ghép xương với chỉnh nha. Một nghiên cứu được thực hiện tại Anh
từ năm 2000 đến 2004, nghiên cứu cho thấy ở những bệnh nhân được nong
hàm trước phẫu thuật thì có tỉ lệ ghép xương thành công cao hơn so với các
bệnh nhân không được nong hàm. Điều này được lý giải như sau, do sau khi
118
nong hàm thì sàn mũi được làm rộng hơn, do đó có thể nhận được một lượng
lớn xương ghép, dẫn tới việc thành công hơn khi ghép xương cho bệnh nhân
[120]. Một nghiên cứu khác được thực hiện ở Tehran từ 2005 dến 2008 thì
cho rằng tỉ lệ thành công cho việc ghép xương ở những bệnh nhân có khe hở
cung hàm thì liên quan mật thiết với chỉnh nha, có tới 91% là thành công
[121]. Tuy nhiên kết quả không thể dự đoán được và nghiên cứu cho thấy tỉ lệ
gặp lỗ thông mũi miệng cao hơn.
Khi nghiên cứu về phân loại mức độ xương ghép đặc biệt là mối liên
quan giữa phân loại xương ghép theo Kindelan và tỉ lệ bệnh nhân chỉnh nha.
Trong nghiên cứu của chúng tôi thì thấy rằng các bệnh nhân có xương ghép
loại IV theo Kindelan liên quan đến tỉ lệ bệnh nhân có chỉnh nha hay không
chỉnh nha là có chênh lệch với nhau vể tỉ lệ, cụ thể là các bệnh nhân không
được chỉnh nha trước phẫu thuật ở nhóm can thiệp có 1 bệnh nhân, còn ở
nhóm đối chứng là 5 bệnh nhân. Tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa
thống kê.
Bảng 4.7 So sánh tỉ lệ chỉnh nha ở nhóm xương ghép loại IV- Kindelan
Nhóm can Nhóm đối
thiệp chứng Tổng p-value n n
(%) (%)
1 0 1 Chỉnh nha (50) 0 (14,29)
1 5 Không chỉnh 6 0,29* nha (50) (100) (85,71)
2 5 Tổng 7
(100) (100) (100)
119
Dựa vào bảng trên có thể thấy các vai trò của chỉnh nha trước phẫu thuật
ghép xương cung hàm là rất quan trọng, bên cạnh đó tỉ lệ xương loại IV theo
Kindelan ở nhóm can thiệp cũng có tỉ lệ rất thấp, điều này có thể minh chứng
được phần nào giá trị của huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng PRP trong điều
trị ghép xương cung hàm mang lại kết quả tốt cho bệnh nhân.
4.3. Biến chứng trong và sau lấy xương mào chậu.
Đối với can thiệp phẫu thuật, việc lấy xương mào chậu để ghép xương khe
hở cung hàm đều có thể gặp phải các biến chứng. Trong y văn thế giới cũng như
các nghiên cứu trước đã liệt kê ra các biến chứng thường gặp như: chảy máu sau
phẫu thuật, nhiễm trùng bề mặt vết mổ, đau kéo dài khi vận động, hạn chế vận
động, tê bì tại chỗ, viêm xương và sẹo lồi.... Những biến chứng hiếm gặp như:
vỡ xương chậu, thoát vị ổ bụng, gẫy cổ xương đùi.
Có ba biến chứng sớm thường gặp tại vùng ghép xương được nhiều tác
giả đề cập tới, đó là chảy máu, đau và nhiễm trùng. Trong nghiên cứu của
chúng tôi không gặp phải bất kỳ những biến chứng hiếm gặp nào, nhưng cũng
gặp phải các biến chứng thường gặp. Nghiên cứu này chúng tôi thấy biến
chứng chảy máu và đau xảy ra sớm ngay 24 giờ đầu sau phẫu thuật. Biến
chứng chảy máu thường là không ồ ạt, chỉ rỉ ra từ vùng ghép. Chúng tôi nhận
thấy có sự khác biệt khi so sánh biến chứng tại vùng ghép, các chỉ số chảy
máu, đau ở nhóm can thiệp đều thấp hơn nhóm chứng một cách rõ ràng. Bệnh
nhân bị chảy máu ở vùng ghép xương được bơm rửa sạch sẽ sau đó được tiến
hành băng ép cầm máu và theo dõi.
Bảng 4.8. Biến chứng chảy máu sau phẫu thuật
Biến chứng chảy máu Nhóm CT Nhóm ĐC p-value
sau phẫu thuật n(%) n(%)
Chảy máu vùng ghép 2(5,13) 8(22,86) 0,03*
Chảy máu mào chậu 4(10,26) 8(22,86) 0,14**
120
Quan sát bảng trên cho thấy tỉ lệ chảy máu sau phẫu thuật của nhóm can
thiệp ít hơn so với nhóm đối chứng. Sự khác biệt về tỉ lệ chảy máu vùng ghép
của 2 nhóm đối tượng là có ý nghĩa thống kê trên cỡ mẫu nghiên cứu với
p=0,03
Điều này rất có ý nghĩa, nó khẳng định các yếu tố tăng trưởng của PRP
đã ảnh hưởng tốt đến quá trình phẫu thuật với các chức năng cầm máu, chống
viêm và quá trình lành thương. Còn ở vùng mào chậu, chảy máu vết mổ vùng
ghép xương sau phẫu thuật có 12 trường hợp chảy máu trên tổng số 74 bệnh
nhân. Tỷ lệ này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Hamada Mahran [122] năm 2018 có 10,69% bệnh nhân chảy máu sớm tại vết mổ vùng lấy
xương mào chậu. Qua quá trình xử trí và theo dõi, chúng tôi nhận ra rằng
chảy máu chủ yếu từ trong bề mặt xương xốp của mào chậu. Để không xảy ra
loại biến chứng này chúng tôi đã xử dụng sáp xương và surgicel để cầm máu.
Theo nghiên cứu của Emily Liu [108] cũng sử dụng surgicel để cầm máu ở
mào chậu trước khi tiến hành khâu đóng vết mổ. Tuy nhiên trong nghiên cứu
của chúng tôi thì không có bệnh nhân nào phải vào lại phòng mổ để tiến hành
cầm máu. Sau 3 tháng ở nhóm can thiệp và nhóm đối chứng có tỉ lệ biến
chứng ở mào chậu là như nhau gồm có các biến chứng hay gặp như đau, tê bị,
hạn chế vận động.
Trong 74 trường hợp chỉ có 10 trường hợp còn đau sau 7 ngày. Tỷ lệ
bệnh nhân còn đau giảm nhiều sau 7 ngày, tuy nhiên vẫn có 4 trường hợp còn
đau nhẹ khi vận động sau 3 tháng. Các trường hợp này nằm trong số bệnh
nhân có tê bì kéo dài. Để giảm đau cho bệnh nhân 100% bệnh nhân được cho
dùng thuốc giảm đau trong 3 ngày đầu sau phẫu thuật, sau đó triệu chứng đau
này sẽ mất dần theo quá trình lành thương.
121
Bảng 4.9. Biến chứng tại mào chậu SPT 3 tháng
Nhóm CT Nhóm ĐC Các biến chứng p-value n(%) n(%)
Đau khi vận động 2(5,13) 2(5,71) 0,65*
Tê bì 2(5,13) 3(8,57) 0,45*
Hạn chế vận động 2(5,13) 2(5,71) 0,65*
Chúng tôi cũng gặp 5 trường hợp bệnh nhân có tê bì sau 3 tháng
phẫu thuật, và sau 12 tháng thì không còn 1 bệnh nhân nào có triệu chứng tê bì. Mahran [122] (2018) công bố chỉ có 2 trên 18 bệnh nhân trong nhóm
nghiên cứu của ông mắc biến chứng tê bì sau 03 tháng với tỷ lệ chỉ
11,11%. Tỷ lệ này khá tương đồng với kết quả của chúng tôi. Tuy nhiên
công bố khác của Nandagopal [107] (2013) biến chứng tê bì chiếm tỷ lệ
này lại không nhỏ 29,86%. Nhưng tất cả các nghiên cứu đều cho thấy sau
01 năm biến chứng này đều không còn. Việc tê bì này xảy ra do phẫu thuật
viên làm tổn thương nhánh bì ngoài dây thần kinh hạ bì, những loại tổn
thương này sẽ tự mất đi theo thời gian.
Xương mào chậu là xương tự thân cung cấp khối lượng xương ghép nhiều hơn cả so với các loại xương tự thân khác, có thể lấy tới 50cm3. Tỷ lệ
các tai biến đều liên quan tới khối lượng xương ghép được lấy, khối lượng
càng lớn tai biến càng dễ xảy ra, ngoài ra những tai biến này còn phụ thuộc
vào môi trường, điều kiện y tế của mỗi cơ sở phẫu thuật.
4.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi thì phương pháp nghiên cứu được lựa chọn
chính là phương pháp nghiên cứu can thiệp lâm sàng có so sánh với nhóm đối
chứng với các đặc điểm về cỡ mầu và phương pháp chọn mẫu như sau:
122
Quần thể nghiên cứu: Bệnh nhân có khe hở hòm miệng toàn bộ 1 bên
đến khám, chẩn đoán và có chỉ định ghép xương tại tại Khoa Răng Hàm Mặt,
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Khoa Phẫu Thuật Bệnh lý, Tạo Hình Hàm
Mặt, Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội, tự nguyện và đồng ý
tham gia nghiên cứu.
Mẫu nghiên cứu: Chọn toàn bộ bệnh nhân có khe hở hòm miệng toàn bộ
1 bên được chúng tôi trực tiếp tham gia khám, chẩn đoán và tiến hành phẫu
thuật ghép xương tại tại Khoa Răng Hàm Mặt, Bệnh viện Đại học Y Hà nội
và Khoa Phẫu Thuật Bệnh lý, Tạo Hình Hàm Mặt, Bệnh viện Răng Hàm Mặt
Trung ương Hà Nội, tự nguyện và đồng ý tham gia nghiên cứu.
Cách chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện.
Chúng tôi cũng đã lựa chọn được 74 bệnh nhân có đầy đủ các yếu tố
thuộc tiêu chuẩn lựa chọn để tham gia vào nghiên cứu. Số lượng bệnh nhân
được chia làm 2 nhóm :
+ Nhóm can thiệp gồm 39 bệnh nhân, là nhóm đối tượng được ghép
xương mào chậu phối hợp với PRP
+ Nhóm đối chứng gồm 35 bênh nhân, là nhóm đối tượng chỉ ghép
xương mào chậu đơn thuần
Đây là một phương pháp nghiên cứu khoa học có tính giá trị rất cao
nhằm mục đích đánh giá được vai trò của PRP trong ghép xương cung hàm
cho bệnh nhân. Tuy nhiên việc lựa chọn ngẫu nhiên là không cần thiết với lý
do chúng tôi không thể làm mù bệnh nhân, không thể không giải thích cho
bệnh nhân việc sử dụng PRP hay không hoặc không thể không giải thích cho
bệnh nhân về cách thức phẫu thuật.
Theo nghiên cứu về can thiệp lâm sàng trên phẫu thuật vào năm 2002
của tác giả Peter McCulloch và cộng sự [123] nhóm tác giả này đã nêu lên
123
được các vấn đề của nghiên cứu can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng
(RCT), trong đó có 3 dạng phương pháp nghiên cứu can thiệp lâm sàng ngẫu
nhiên đó là thử nghiệm loại 1- RCT tiêu chuẩn so sánh các phương pháp điều
trị y tế ở bệnh nhân phẫu thuật chiếm 75% “thử nghiệm phẫu thuật”. Thử
nghiệm loại 2- so sánh các kỹ thuật phẫu thuật- đặt ra các vấn đề được mô tả
ở trên. Thử nghiệm loại 3- so sánh phương pháp điều trị phẫu thuật và không
phẫu thuật. Bệnh nhân thường từ chối tham gia vào thử nghiệm lâm sàng
ngẫu nhiên có đối chứng vì họ không muốn quá trình điều trị của mình được
quyết định bởi một hình thức tình cờ và ngẫu nhiên. Cũng như việc làm mù
thì đặc biệt khó trong các can thiệp phẫu thuật thử nghiệm lâm sàng, nhưng có
thể làm mù với các quan sát khi đánh giá kết quả điều trị.
Qua các luận điểm nêu trên, việc chọn phương pháp nghiên cứu là can
thiệp lâm sàng có so sánh với nhóm đối chứng được chúng tôi lựa chọn, cùng
với quan điểm này thì tác giả Nguyễn Tấn Văn (2020) [106] cũng thực hiện
việc nghiên cứu ghép xương khe hở cung hàm trên các bệnh nhân với việc sử
dụng xương tự thân có phối hợp với xương nhân tạo và PRP khi so sánh với
nhóm chỉ sử dụng xương tự thân đơn thuần. Và phương pháp nghiên cứu của
chúng tôi cũng giống như các nghiên cứu của tác giả nước ngoài khác như
Omar A.M. Osman và cộng sự năm 2019 [111] nhóm tác giả này cũng nghiên
cứu vai trò của PRP trong ghép xương khe hở cung hàm ở nhóm bệnh nhân
có sử dụng xương tự thân phối hợp với PRP và nhóm còn lại chỉ sử dụng
xương tự thân đơn thuần. Cả 2 nghiên cứu trên đều lựa chọn phương pháp
nghiên cứu can thiệp lâm sàng có so sánh với nhóm đối chứng và có kết quả
đáng tin cậy.
124
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu kỹ thuật ghép xương khe hở cung hàm bằng xương mào
chậu, kết hợp với huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng chúng tôi rút ra được
các kết luận sau:
1. Về đặc điểm lâm sàng và X quang của bệnh nhân khe hở cung hàm có
chỉ định ghép xương ổ răng tự thân:
- Về tuổi của bệnh nhân: Ở nhóm can thiệp, độ tuổi từ 8-12 chiếm 48,72%;
độ tuổi trên 12 chiếm 51,28%. Ở nhóm đối chứng tỉ lệ độ tuổi từ 8-12 và
trên 12 lần lượt là 54,29% và 45,71%.
- Về giới tính thì tỉ lệ nam giới gặp khe hở cung hàm nhiều hơn so với nữ
giới tương ứng 64,86% và 35,14%
- Về đặc điểm khớp cắn, tỉ lệ bệnh nhân gặp khớp cắn loại III chiếm tỉ lệ
cao nhất tương ứng là 48,65%, tiếp theo là nhóm khớp cắn loại I và loại II
với tỉ lệ lần lượt là 29,73% và 21,62%
- Về đặc điểm lâm sàng của khe hở, thì trong nghiên cứu cho thấy tỉ lệ bệnh
nhân có khe hở cung hàm bên phải và bên trái là tương đương nhau lần
lượt là 56,76% và 43,24%
- Đặc điểm lâm sàng về sự thiếu hụt răng nanh trước khi phẫu thuật chiếm tỉ
lệ 21,62%
- Ngoài ra lỗ thông mũi miệng là 1 trong những biến chứng thường gặp sau
khi trẻ đã được tạo hình môi và vòm miệng. Trong nghiên cứu của chúng
tôi thấy có 13,51% bệnh nhân có lỗ thông mũi miệng trước phẫu thuật.
- Về kích thước khe hở trước phẫu thuật, chúng tôi thu thập được kích thước
chiều dài và rộng của khe hở với tỉ lệ trung bình khe hở ở cả 2 nhóm can
thiệp và nhóm chứng là như nhau lần lượt là : chiều dài ở nhóm can thiệp
12,59mm, nhóm đối chứng 12,39mm còn chiều rộng ở nhóm can thiệp là
8,61mm, nhóm đối chứng là 8,46mm.
125
2. Kết quả điều trị giữa hai nhóm có và không sử dụng huyết tương giàu
yếu tố tăng trưởng.
- Ghép xương khe hở cung hàm là một kỹ thuật giúp cho việc đóng kín lỗ
thông mũi miệng, kế quả đạt được sau 1 năm theo dõi ở cả 2 nhóm lần lượt
là ở nhóm can thiệp 60%, nhóm đối chứng 60%.
- Ghép xương vào vùng khuyết xương ở khe hở cung hàm có sử dụng PRP
là một trong những phương pháp an toàn và giúp cho việc mọc răng nanh
vào vị trí khe hở, trong nghiên cứu này thỉ lệ mọc răng nanh sau 1 năm
theo dõi ở nhóm can thiệp là 63,64% và ở nhóm đối chứng là 62,5%
- Ghép xương khe hở cung hàm bằng xương mào chậu tự thân kết hợp với
huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng cho kết quả giảm mức độ tiêu
xương ghép, trong nghiên cứu này chúng tôi thấy ở nhóm can thiệp thì
việc tiêu xương có thấp hơn so với nhóm đối chứng sau 1 năm theo dõi
và sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê, qua đó duy trì khối
lượng xương đạt được sau một năm đáp ứng được những yêu cầu cho
những điều trị khác tiếp theo trong quá trình điều trị cho bệnh nhân mắc dị
tật khe hở môi – vòm miệng.
- Ghép xương khe hở cung hàm bằng xương mào chậu tự thân kết hợp với
huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng là kỹ thuật an toàn, với kết quả cao
ngay sau phẫu thuật (sau 7 ngày: nhóm can thiệp 89,4% có kết quả tốt), ít
biến chứng (đặc biệt chảy máu sau phẫu thuật (5,13%).
126
KIẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu chúng tôi có một số đề xuất sau:
1. Cần có các nghiên cứu tiếp theo sử dụng tế bào gốc trong tái tạo
xương cung hàm ở bệnh nhân có khe hở xương cung hàm.
2. Cần có những nghiên cứu tiếp theo để đánh giá tác động của ghép
xương khe hở cung hàm tới sự phát triển của xương hàm trên, trong mối
tương quan với sự phát triển của tầng giữa và tầng dưới mặt.
3. Hiện nay tỷ lệ bệnh nhân được ghép xương khe hở cung hàm so với bệnh
nhân đã được phẫu thuật tạo hình môi và vòm miệng là rất nhỏ. Vậy cần có hình
thức tuyên truyền và tư vấn sâu rộng tới người bệnh và gia đình người bệnh.
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN
1. Tạ Anh Tuấn, Phạm Dương Châu (2020). Đặc điểm lâm sàng và X-quang
của bệnh nhân khe hở cung hàm có chỉ định ghép xương ổ răng tự thân.
Tạp chí Y học Việt Nam, tập 495, Tháng 10, số 2, tr. 1-3.
2. Tạ Anh Tuấn, Phạm Dương Châu (2021). Đánh giá kết quả điều trị ghép
xương giữa hai nhóm có và không sử dụng huyết tương giàu yếu tố tăng
trưởng. Tạp chí Y học Việt Nam, tập 498, Tháng 1, số 1, tr. 47-51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Nguyệt Nhã (1996). Một vài nhận xét về tình hình dị tật khe hở
môi và hàm ếch bẩm sinh tại một số tỉnh biên giới phía Bắc. Tạp chí Y
học thực hành, Số 6/1996, 15–18.
2. P.Randall, D.LaRossa, và Samuel Berkowitz (2006). Lip and palate
surgery. Cleft lip and palate. Springer, 280–377.
3. Trần Văn Trường (1999). Tạo hình khe hở môi một bên và hai bên. Tạp
chí Y học Việt Nam, 81–88.
4. Bernard J. Costello (2004). Cleft Lip and Palate: Comprehensive
Treatment Planning and Primary Repair. Peterson’s Principles of Oral
and Maxillofacial Surgery. BC Decker Inc, London, 839–858.
5. Zuccati G., Casci S., Doldo T. et al. (2013). Expansion of maxillary
arches with crossbite: a systematic review of RCTs in the last 12 years.
Eur J Orthod, 35(1), 29–37.
6. James R. H (1979). Cleft Lip and Cleft Palate. Textbook of Oral and
Maxillofacial Surgery. Mosby, 317–324.
7. Riden K (1998). Cleft of The Lip and Palate. Key Topic in Oral and
Maxillofacial Surgery. Bios Scientific, 69–74.
8. Arup R (2003). Cleft of The Lip and Palate. Texbook of General and
Oral. 131–139.
9. Samuel Berkowitz (2006). Type of cleft. Cleft lip and palate. Springer,
43–190.
10. Nguyễn Mạnh Hà (2009), Đánh giá hiệu quả phẫu thuật ghép xương ổ
răng bằng xương mào chậu ở bệnh nhân sau mổ tạo hình khe hở môi và
vòm miệng toàn bộ, Luận văn bác sĩ chuyên khoa II, Trường đại học Y
Hà Nội.
11. Nylen B. (1966). Surgery of the alveolar cleft. Plastic and reconstructive
surgery. 42–46.
12. Matthews D., Broomhead I., Grossmann W. et al. (1970). Early and late
bone grafting in cases of cleft lip and palate. Br J Plast Surg, 23(2), 115–129.
13. Anthony W. S (1977). Alveolar and Anterior Palatal Clefts. Plastic and
Reconstructive Surgery. Mc Carthy, 2753–2767.
14. Boyne P.J. và Sands N.R. (1972). Secondary bone grafting of residual
alveolar and palatal clefts. J Oral Surg, 30(2), 87–92.
15. Abyholm F.E., Bergland O., and Semb G. (1981). Secondary bone
grafting of alveolar clefts. A surgical/orthodontic treatment enabling a
non-prosthodontic rehabilitation in cleft lip and palate patients. Scand J
Plast Reconstr Surg, 15(2), 127–140.
16. J.Olekas (2003). Late Results of the Secondary Alveolar Bone Grafting
in Complete Unilateral Cleft Lip and Palate Patients. Stomatologija,
5(1), 17–21.
17. Collins M., James D., and Mars M. (1998). Alveolar bone grafting: a review
of 115 patients. European Journal of Orthodontics, 20(2), 115–120.
18. Merkx M.A., Maltha J.C., Freihofer H.P. et al. (1999). Incorporation of
particulated bone implants in the facial skeleton. Biomaterials, 20(21),
2029–2035.
19. Deatherage J. (2010). Bone materials available for alveolar grafting.
Oral Maxillofac Surg Clin North Am, 22(3), 347–352, v.
20. Mooren R.E.C.M., Merkx M. a. W., Bronkhorst E.M. et al. (2007). The
effect of platelet-rich plasma on early and late bone healing: an experimental
study in goats. Int J Oral Maxillofac Surg, 36(7), 626–631.
21. Akbarzadeh Baghban A., Dehghani A., Ghanavati F. et al. (2009).
Comparing alveolar bone regeneration using Bio-Oss and autogenous
bone grafts in humans: a systematic review and meta-analysis. Iran
Endod J, 4(4), 125–130.
22. Marukawa E., Oshina H., Iino G. et al. (2011). Reduction of bone
resorption by the application of platelet-rich plasma (PRP) in bone
grafting of the alveolar cleft. J Craniomaxillofac Surg, 39(4), 278–283.
23. Gupta C., Mehrotra D., Mohammad S. et al. (2013). Alveolar bone graft
with Platelet Rich Plasma in cleft alveolus. Journal of Oral Biology and
Craniofacial Research, 3(1), 3–8.
24. De Ruiter A., Dik E., van Es R. et al. (2014). Micro-structured calcium
phosphate ceramic for donor site repair after harvesting chin bone for
grafting alveolar clefts in children. Journal of Cranio-Maxillofacial
Surgery, 42(5), 460–468.
25. Gholamreza Shirani (2017). Comparison between autogenousiliac bone
and freeze-dried bone allograft for repair of alveolar clefts in th. Journal
of Cranio - Maxillo - Facial Surgery. 1698–1703.
26. Nguyễn Hữu Nam (2011), Nghiên cứu sử dụng mảnh ghép xương xốp từ
đầu gần xương chày để điều trị khuyết xương ổ răng trên bệnh nhân khe
hở môi vòm miệng bẩm sinh, Luận văn Tiến sĩ Y học, Viện nghiên cứu
khoa học Y- Dược lâm sàng 108.
27. Võ Văn Nhân (2012), Nghiên cứu cấy ghép implant ở bệnh nhân đã cấy
ghép xương hàm sau phẫu thuật tạo hình khe hở môi và vòm miệng toàn
bộ, Luận văn Tiến sĩ Y học, Viện nghiên cứu khoa học Y- Dược lâm
sàng 108.
28. Subcourse (2000). The Skull and Jaw. Dental Anatomy and Physiology.
US Army Medical School Houston.
29. Đỗ Xuân Hợp (1971), Giải phẫu đại cương: giải phẫu đầu mặt cổ, Nhà
xuất bản Y học, Đại học Y Hà Nội.
30. Frank H. Netter (2006). Head and neck. Atlas of Human Anatomy. WB
Saunders, 20–22.
31. Carranza F.A. (2008), Clinical Periodontology, WB Saunders.
32. Scott J.K., Webb R.M., và Flood T.R. (2007). Premaxillary osteotomy and
guided tissue regeneration in secondary bone grafting in children with
bilateral cleft lip and palate. Cleft Palate Craniofac J, 44(5), 469–475.
33. Baek SH (2002). Cleft type and angle’s classification of malocclusion in
Korean cleft patients. The European Journal of Orthodontics, 647–653.
34. Aaron Molen (2009), Transverse Stability after RPE in Cleft Palate
Patients, American Asociation Of Orthodontic Annual Session.
35. Y. Shibasaki and R. B. Ross (1967), Facial growth in children with
isolated cleft palate, American Cleft Palate Association.
36. Berkowitz S. (2006). Facial and Palatal Growth. Cleft Lip and Palate.
Springer, 23–40.
37. Ribeiro L.L., Neves L.T.D., Costa B. et al. (2002). Dental development
of permanent lateral incisor in complete unilateral cleft lip and palate.
The Cleft Palate-Craniofacial Journal, 39(2), 193–196.
38. Lucas V.S., Gupta R., Ololade O. et al. (2000). Dental Health Indices and
Caries Associated Microflora in Children with Unilateral Cleft Lip and
Palate. The Cleft Palate-Craniofacial Journal, 37(5), 447–452.
39. Samuel Pruzansky (1964), Arch Formand the Deciduous Occlusionin
Complete Unilateral Clefts, Convention of the American Cleft Palate
Association, Los Angeles, California.
40. Vig K.W.L (1996). Orthodontic and Surgical Considerations in Bone
Grafting in The Cleft Lip and Palate. Facial Cleft and Craniosynostosis:
Principles of Management. WB Sauder, 396.
41. Nguyễn Thị Thu Phương (2007), Nghiên cứu ứng dụng lực kéo ngoài
miệng để điều trị kém phát triển chiều trước – sau xương hàm trên, Luận
văn Tiến sĩ Y học, Trường đại học Y Hà Nội.
42. Suri L. and Taneja P. (2008). Surgically assisted rapid palatal expansion:
a literature review. Am J Orthod Dentofacial Orthop, 133(2), 290–302.
43. Cohen S.R., Kalinowski J., LaRossa D. et al. (1991). Cleft palate
fistulas: a multivariate statistical analysis of prevalence, etiology, and
surgical management. Plast Reconstr Surg, 87(6), 1041–1047.
44. Diah E., Lo L.-J., Yun C. et al. (2007). Cleft oronasal fistula: a review of
treatment results and a surgical management algorithm proposal. Chang
Gung Med J, 30(6), 529–537.
45. Feinberg S.E., Aghaloo T.L., and Cunningham L.L. (2005). Role of
tissue engineering in oral and maxillofacial reconstruction: findings of
the 2005 AAOMS Research Summit. J Oral Maxillofac Surg, 63(10),
1418–1425.
46. Raymond Fonseca, H. Dexter Barber, Micahel Powers, David Frost
(2012). Healing of Traumatic Injuries. Oral and Maxillofacial Trauma.
4th Edition.
47. 2012 (2012). Bone present and future. Dental Implants the Art and
Science. WB Sauder, 59–84.
48. Tayapongsak P., O’Brien D.A., Monteiro C.B. et al. (1994). Autologous
fibrin adhesive in mandibular reconstruction with particulate cancellous
bone and marrow. J Oral Maxillofac Surg, 52(2), 161–165; discussion 166.
49. Michael E. (2002). Autogenous Bone Graft in Maxillofacial
Reconstruction. Craniomaxillofacial Reconstructive and Corrective
Bone Sergery. Springer, 295–300.
50. Roldán J.C., Jepsen S., Miller J. et al. (2004). Bone formation in the
presence of platelet-rich plasma vs. bone morphogenetic protein-7. Bone,
34(1), 80–90.
51. Intini G. (2009). The use of platelet-rich plasma in bone reconstruction
therapy. Biomaterials, 30(28), 4956–4966.
52. Steed D.L. (1998). Modifying the Wound Healing Response with
Exogenous Growth Factors. Clinics in Plastic Surgery, 25(3), 397–405.
53. Ortega S., Ittmann M., Tsang S.H. et al. (1998). Neuronal defects and
delayed wound healing in mice lacking fibroblast growth factor 2. PNAS,
95(10), 5672–5677.
54. Takayama S., Murakami S., Shimabukuro Y. et al. (2001). Periodontal
regeneration by FGF-2 (bFGF) in primate models. J Dent Res, 80(12),
2075–2079.
55. Werner H. and Katz J. (2004). The emerging role of the insulin-like
growth factors in oral biology. J Dent Res, 83(11), 832–836.
56. Antoniades H.N., Scher C.D., and Stiles C.D. (1979). Purification of
human platelet-derived growth factor. Proc Natl Acad Sci U S A, 76(4),
1809–1813.
57. Marden L.J., Fan R.S., Pierce G.F. et al. (1993). Platelet-derived growth
factor inhibits bone regeneration induced by osteogenin, a bone
morphogenetic protein, in rat craniotomy defects. J Clin Invest, 92(6),
2897–2905.
58. Gale N.W. and Yancopoulos G.D. (1999). Growth factors acting via
endothelial cell-specific receptor tyrosine kinases: VEGFs,
angiopoietins, and ephrins in vascular development. Genes Dev, 13(9),
1055–1066.
59. Wang Y., Wan C., Deng L. et al. (2007). The hypoxia-inducible factor
alpha pathway couples angiogenesis to osteogenesis during skeletal
development. J Clin Invest, 117(6), 1616–1626.
60. Harris R.C., Chung E., and Coffey R.J. (2003). EGF receptor ligands.
Experimental Cell Research, 284(1), 2–13.
61. Ramon R.R. (2005). Cranio bone graft. Atlas of the Oral and
Maxillofacial Surgery Clinics of North America. 128–139.
62. Wolfe S.A. and Berkowitz S. (1983). The use of cranial bone grafts in
the closure of alveolar and anterior palatal clefts. Plast Reconstr Surg,
72(5), 659–671.
63. Michael A.P. (2005). Mandible block Auto Graft. Atlas of The Oral and
Maxillofacial Surgery Clinics of North America. at, 91–107.
64. Ilankovan V., Stronczek M., Telfer M. et al. (1998). A prospective study
of trephined bone grafts of the tibial shaft and iliac crest. British Journal
of Oral and Maxillofacial Surgery, 36(6), 434–439.
65. Peter E.L. (2004). Reconstructive of Alveolar Cleft. Peterson’s
Principles of Oral and Maxillofacial Sergery. BC Decker Inc, 859–869.
66. Bauermeister A, Maatz R. (1957), A method of bone maceration results
of animal experiments, J Bone Joint Surg Am.
67. Jensen S.S. and Terheyden H. (2009). Bone augmentation procedures in
localized defects in the alveolar ridge: clinical results with different bone
grafts and bone-substitute materials. Int J Oral Maxillofac Implants, 24
Suppl, 218–236.
68. Boyan BD (2002). Basic information for successful clinical use with
special focus on synthetic graft substitutes. Bone graft substitutes.
Philadelphia: ASTM Int, 231–259.
69. Landi E., Logroscino G., Proietti L. et al. (2008). Biomimetic Mg-
substituted hydroxyapatite: from synthesis to in vivo behaviour. J Mater
Sci: Mater Med, 19(1), 239–247.
70. Friedman C.D., Costantino P.D., Takagi S. et al. (1998). BoneSourceTM
hydroxyapatite cement: A novel biomaterial for craniofacial skeletal
tissue engineering and reconstruction. Journal of Biomedical Materials
Research, 43(4), 428–432.
71. Peltier L.F., Bickel E.Y., Lillo R. et al. (1957). The Use of Plaster of
Paris to Fill Defects in Bone. Ann Surg, 146(1), 61–69.
72. Palussière J., Berge J., Gangi A. et al. (2005). Clinical results of an open
prospective study of a bis-GMA composite in percutaneous vertebral
augmentation. Eur Spine J, 14(10), 982–991.
73. Tampieri A., Celotti G., Landi E. et al. (2003). Biologically inspired
synthesis of bone-like composite: Self-assembled collagen
fibers/hydroxyapatite nanocrystals. Journal of Biomedical Materials
Research - Part A, 67(2), 618–625.
74. Urist M.R., Mikulski A., and Boyd S.D. (1975). A chemosterilized
antigen-extracted autodigested alloimplant for bone banks. Arch Surg,
110(4), 416–428.
75. Lane J.M. (2005). Bone Morphogenic Protein Science and Studies.
Journal of Orthopaedic Trauma, 19(10), S17.
76. Dabra S., Chhina K., Soni N. et al. (2012). Tissue engineering in
periodontal regeneration: A brief review. Dent Res J (Isfahan), 9(6),
671–680.
77. Garrison K.R., Donell S., Ryder J. et al. (2007). Clinical effectiveness
and cost-effectiveness of bone morphogenetic proteins in the non-
healing of fractures and spinal fusion: a systematic review. Health
Technol Assess, 11(30), 1–150, iii–iv.
78. Mussano F., Ciccone G., Ceccarelli M. et al. (2007). Bone
morphogenetic proteins and bone defects: a systematic review. Spine
(Phila Pa 1976), 32(7), 824–830.
79. Pola E. (ORCID:0000-0001-5350-3910), Nasto L.A., Tampieri A. et al.
(2011). Bioplasty for vertebral fractures: preliminary results of a pre-
clinical study on goats using autologous modified skin fibroblasts.
80. Bergland O., Semb G., and Abyholm F.E. (1986). Elimination of the
residual alveolar cleft by secondary bone grafting and subsequent
orthodontic treatment. Cleft Palate J, 23(3), 175–205.
81. Hynes P.J. and Earley M.J. (2003). Assessment of secondary alveolar
bone grafting using a modification of the Bergland grading system.
British Journal of Plastic Surgery, 56(7), 630–636.
82. Kindelan J.D., Nashed R.R., and Bromige M.R. (1997). Radiographic
assessment of secondary autogenous alveolar bone grafting in cleft lip
and palate patients. Cleft Palate Craniofac J, 34(3), 195–198.
83. Long R.E., Spangler B.E., and Yow M. (1995). Cleft width and
secondary alveolar bone graft success. The Cleft Palate-Craniofacial
Journal, 32(5), 420–427.
84. Witherow H., Cox S., Jones E. et al. (2002). A new scale to assess
radiographic success of secondary alveolar bone grafts. Cleft Palate
Craniofac J, 39(3), 255–260.
85. Stellmach R. (1993). Historical development and current status of
osteoplasty of lip-jaw-palate clefts. Fortschr Kiefer Gesichtschir, 38, 11–14.
86. Kortebein M.J., Nelson C.L., and Sadove A.M. (1991). Retrospective
analysis of 135 secondary alveolar cleft grafts using iliac or calvarial
bone. J Oral Maxillofac Surg, 49(5), 493–498.
87. Theologie-Lygidakis N., Chatzidimitriou K., Tzerbos F. et al. (2014).
Development of surgical techniques of secondary osteoplasty in cleft
patients following 12 years experience. J Craniomaxillofac Surg, 42(6),
839–845.
88. Semb G. (2012). Alveolar Bone Grafting. Frontiers of oral biology, 16,
124–36.
89. Feng B., Jiang M., Xu X. et al. (2017). A new method of volumetric
assessment of alveolar bone grafting for cleft patients using cone beam
computed tomography. Oral Surgery, Oral Medicine, Oral Pathology
and Oral Radiology, 124(2), e171–e182.
90. AO Surgery Reference Alveolar bone grafting of bilateral cleft lip and
palate – CLP.
91. Guo J., Li C., Zhang Q. et al. (2011). Secondary bone grafting for
alveolar cleft in children with cleft lip or cleft lip and palate. Cochrane
Database Syst Rev, (6), CD008050.
92. Nesrin Saruhan (2017), The Evaluation of Gender Effect in Treatment of
Alveolar Cleft with Iliac Bone Graft By Means of Volumetric Analysis,
Middle Black Sea Journal of Health Science.
93. Liao Y.-F. and Huang C.-S. (2015). Presurgical and postsurgical
orthodontics are associated with superior secondary alveolar bone grafting
outcomes. Journal of Cranio-Maxillofacial Surgery, 43(5), 717–723.
94. Murthy A.S. and Lehman J.A. (2006). Secondary alveolar bone grafting:
An outcome analysis. Can J Plast Surg, 14(3), 172–174.
95. Nguyễn Việt Thành (2016), Hiệu quả của vạt lưỡi trong phẫu thuật đóng
kín lỗ thủng vòm miệng ở bệnh nhân sau phẫu thuật tạo hình vòm miệng,
Luận văn Cao học, Đại học Y Hà Nội, Viện đào tạo Răng hàm mặt.
96. Paris M., Paquin R., and Valcourt A.-C. (2015). Sulcular translation flap
in secondary bone grafting: retrospective study of 72 alveolar clefts. Int J
Oral Maxillofac Surg, 44(8), 965–970.
97. Brattström V. and McWilliam J. (1989). The influence of bone grafting
age on dental abnormalities and alveolar bone height in patients with
unilateral cleft lip and palate. Eur J Orthod, 11(4), 351–358.
98. Jia Y.L., Fu M.K., and Ma L. (2006). Long-term outcome of secondary
alveolar bone grafting in patients with various types of cleft. British
Journal of Oral and Maxillofacial Surgery, 44(4), 308–312.
99. Dissaux C., Bodin F., Grollemund B. et al. (2016). Evaluation of success
of alveolar cleft bone graft performed at 5 years versus 10 years of age.
Journal of Cranio-Maxillofacial Surgery, 44(1), 21–26.
100. Susarla S.M., Andrews R., Hilal N. et al. (2015). Is Canine Eruption
Velocity Affected by the Presence of Allograft Within a Repaired
Alveolar Cleft?. J Oral Maxillofac Surg, 73(10), 1888–1893.
101. Herford A.S., Dean J.S. (2011). Complications in Bone Grafting. Oral
and Maxillofacial Surgery Clinics of North America, 23(3), 433–442.
102. Wu C., Pan W., Feng C. et al. (2018). Grafting materials for alveolar
cleft reconstruction: a systematic review and best-evidence synthesis. Int
J Oral Maxillofac Surg, 47(3), 345–356.
103. Han K., Jeong W., Yeo H. et al. (2017). Long-term results of secondary
alveolar bone grafting using a technique to harvest pure calvarial
cancellous bone: Evaluation based on plain radiography and computed
tomography. J Plast Reconstr Aesthet Surg, 70(3), 352–359.
104. Takemaru M., Sakamoto Y., Sakamoto T. et al. (2016). Assessment of
bioabsorbable hydroxyapatite for secondary bone grafting in unilateral
alveolar cleft. J Plast Reconstr Aesthet Surg, 69(4), 493–496.
105. Melek L.N. and El Said M.M. (2017). Evaluation of “Autogenous
Bioengineered Injectable PRF – Tooth graft” combination (ABIT) in
reconstruction of maxillary alveolar ridge defects: CBCT volumetric
analysis. The Saudi Journal for Dental Research, 8(1), 86–96.
106. Nguyễn Tấn Văn (2020), Đánh giá hiệu quả ghép xương cho bệnh nhân
có khe hở cung hàm, Luận văn Tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội.
107. Nandagopal Vura (2013). Donor Site Evaluation: Anterior Iliac Crest
Following Secondary Alveolar Bone Grafting. Journal of Clinical &
Diagnostic Reserch, 7(11), 2627–2630.
108. Emily Liu (2017). Recovery and complications after iliac crest bone
harvest for alveolar cleft bone grafting. Inter Paediatric Surgery. 16–20.
109. Van Nhan V., Van Son L., Tuan T.A. et al. (2018). A New Technique in
Alveolar Cleft Bone Grafting for Dental Implant Placement in Patients
With Cleft Lip and Palate. Cleft Palate Craniofac J, 55(2), 180–188.
110. Mikoya T., Inoue N., Matsuzawa Y. et al. (2010). Monocortical
mandibular bone grafting for reconstruction of alveolar cleft. Cleft
Palate Craniofac J, 47(5), 454–468.
111. Omar A.M. Osman (2019). Effect of Platelet Rich Plasma (PRP) on
Bone Graft in Alveolar Cleft Repair. Egypt, J. Plast. Reconstr. Surg.
417–424.
112. Chang C.-S., Wallace C.G., Hsiao Y.-C. et al. (2016). Difference in the
Surgical Outcome of Unilateral Cleft Lip and Palate Patients with and
without Pre-Alveolar Bone Graft Orthodontic Treatment. Sci Rep, 6, 23597.
113. Forte A.J.V., Freitas R. da S., and Alonso N. (2012). Use of Three-
Dimensional Computed Tomography to Classify Filling of Alveolar
Bone Grafting. Plastic Surgery International, 2012.
114. Dobbyn L.M., Gillgrass T.J., and Devlin M.F. (2012). Reliability of the
Kindelan scoring system for alveolar bone grafting with and without a
pre-graft occlusal radiograph in patients with cleft lip and palate. British
Journal of Oral and Maxillofacial Surgery, 50(7), 617–620.
115. Oley M.C., Islam A.A., Hatta M. et al. (2018). Effects of platelet-rich
plasma and carbonated hydroxyapatite combination on cranial defect Bone
Regeneration: An animal study. Wound Medicine, 21, 12–15.
116. Marukawa E., Oshina H., Iino G. et al. (2011). Reduction of bone
resorption by the application of platelet-rich plasma (PRP) in bone
grafting of the alveolar cleft. J Craniomaxillofac Surg, 39(4), 278–283.
117. Segura-Castillo J.L., Aguirre-Camacho H., González-Ojeda A. et al. (2005).
Reduction of bone resorption by the application of fibrin glue in the
reconstruction of the alveolar cleft. J Craniofac Surg, 16(1), 105–112.
118. Shawky H. và Seifeldin S.A. (2016). Does Platelet-Rich Fibrin Enhance
Bone Quality and Quantity of Alveolar Cleft Reconstruction?. Cleft
Palate Craniofac J, 53(5), 597–606.
119. Toscano D., Baciliero U., Gracco A. et al. (2012). Long-term stability of
alveolar bone grafts in cleft palate patients. American Journal of
Orthodontics and Dentofacial Orthopedics, 142(3), 289–299.
120. McIntyre G.T. và Devlin M.F. (2010). Secondary alveolar bone grafting
(CLEFTSiS) 2000-2004. Cleft Palate Craniofac J, 47(1), 66–72.
121. Shirani G., Abbasi A.J., and Mohebbi S.Z. (2012). Need for Revision
Surgery After Alveolar Cleft Repair. Journal of Craniofacial Surgery,
23(2), 378–381.
122. Hamada Mahran (2018). Complications after Use of Iliac Bone Graft for
Post Cleft Alveolar Bone Defect. American Journal of Oral and
Maxillofacial Surgery, 5(1), 22–28.
123. McCulloch P., Taylor I., Sasako M. et al. (2002). Randomised trials in
surgery: problems and possible solutions. BMJ, 324(7351), 1448–1451.
PHỤ LỤC: MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
Ảnh 1: Tình trạng trong miệng và phim
Panorama của bệnh nhân trước phẫu thuật.
Ảnh 2: Quá trình lấy xương mào chậu và tạo nền xương ghép
Ảnh 3: Ghép xương mào chậu vào khe hở cung hàm
TRƯỜNG HỢP 1
Ảnh 4: Phẫu thuật ghép xương ổ răng sử dụng xương mào chậu và PRP
Ảnh 5: Ảnh sau 6 tháng sau phẫu thuật
Ảnh 6: Tháo nẹp vít sau phẫu thuật 6 tháng cho thấy xương ghép lành thương tốt
và che kín khe hở cung hàm
TRƯỜNG HỢP 2
Ảnh 7: Ảnh trong miệng bệnh nhân trước và trong phẫu thuật
Ảnh 8: Ảnh thì phẫu thuật và ghép xương ổ răng
Ảnh 9: Ảnh khâu kín đóng vạt phẫu thuật
TRƯỜNG HỢP 3
TRƯỜNG HỢP 4
Ảnh 10: Ảnh trong miệng bệnh nhân trước phẫu thuật và CBCT của bệnh nhân
trước phẫu thuật
Ảnh 11: Ảnh trong miệng bệnh nhân sau phẫu thuật 6 tháng và CBCT sau phẫu thuật 6 tháng
Ảnh 12: Ảnh trong miệng bệnh nhân sau phẫu thuật 12 tháng và CBCT sau phẫu thuật 12 tháng
Ảnh 13: CBCT của bệnh nhân sau phẫu
Ảnh 14: CBCT của bệnh nhân sau phẫu
thuật 6 tháng
thuật 12 tháng
Ảnh 15: Ảnh trong miệng bệnh nhân trước và trong phẫu thuật
Ảnh 16: Ghép xương và khâu kín vạt phãu thuật
-Ảnh 17: Phẫu thuật đặt Implant và phục hình răng giả
TRƯỜNG HỢP 5
4-7,10,14,22,23,29,31,38,47,49-56,58-61,63,69,74-