intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nguồn gốc HIV và AIDS – Phần 2

Chia sẻ: Pham Phong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

141
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nguồn gốc HIV Hiện nay , HIV được số chủng SIV chấp nhận là hậu duệ của SIV bởi vì một có cấu trúc di truyền rất giống với HIV-1 và HIV-2 . HIV-2 tương ứng với SIVsm, là 1 chủng của SIV tìm thấy ở loài khỉ mặt xanh (sooty mangabey) , là loài khỉ bản địa vùng tây Phi . Còn typ HIV-1, có độc lực mạnh hơn , gây đại dịch nhiều hơn . Mãi cho đến năm 1999 , mới xác định được đối tác gần gũi nhất của HIV-1 là SIVcpz, là SIV tìm thấy ở...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nguồn gốc HIV và AIDS – Phần 2

  1. Nguồn gốc HIV và AIDS – Phần 2 Nguồn gốc HIV Hiện nay , HIV được chấp nhận là hậu duệ của SIV bởi vì một số chủng SIV có cấu trúc di truyền rất giống với HIV-1 và HIV-2 . HIV-2 tương ứng với SIVsm, là 1 chủng của SIV tìm thấy ở loài khỉ mặt xanh (sooty mangabey) , là loài khỉ bản địa vùng tây Phi . Còn typ HIV-1, có độc lực mạnh hơn , gây đại dịch nhiều hơn . Mãi cho đến năm 1999 , mới xác định được đối tác gần gũi nhất của HIV-1 là SIVcpz, là SIV tìm thấy ở loài tinh tinh ( chimpanzee ) . Tuy nhiên , chủng virus này vẫn còn có một số khác biệt với HIV ở nhiều điểm quan trọng .
  2. 1999 : Phát hiện nguồn gốc HIV đi từ SIV . Vào tháng 2 /1999 , một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc trường đại học Alabama ( Mỹ ) tuyên bố là họ đã tìm thấy 1 typ SIVcpz rất giống với HIV-1 . Chủng virus này đươc phát hiện từ 1 mẫu nghiệm đông lạnh lấy từ 1 con tinh tinh bắt được thuộc phân nhóm Pan troglodytes troglodytes (P. t. troglodytes), là loài rất phổ biến tại vùng Trung và Tây Phi . Các nhà nghiên cứu (do Paul Sharp của Nottingham University và Beatrice Hahn của Đại học Alabama dẫn đầu) đã đưa ra phát hiện này sau 10 năm miệt mài nghiên cứu về nguồn gốc của virus HIV. Họ cho rằng mẫu nghiệm này chúng minh được HIV-1 đi từ tinh tinh, và virus này đã có lúc vượt qua được giới hạn loài để đi từ tinh tinh sang người . Kết quả nghiên cứu của nhóm được công bố 2 năm sau đó trên tạp chí Nature, trong đó họ kết luận rằng tinh tinh hoang dã đã bị nhiễm cùng lúc 2 chủng SIV khác nhau , 2 chủng này “giao phối “ và sinh ra 1 chủng virus thứ 3, chủng tứ 3 này có thể đã được lây sang những con tinh tinh khác, và điều đáng chú ý hơn, là chủng này có khả năng gây nhiễm cho người và gây ra AIDS
  3. Người ta truy tìm nguồn gốc của 2 virus này và lần ra được 1 SIV gây nhiễm cho khỉ mangabey đầu đỏ và 1 SIV khác gặp ở loài khỉ lớn mũi đốm (spot-nosed ) . Các nhà nghiên cứu tin rằng sự lai tạo đã xảy ra trong cơ thể loài tinh tinh khi chúng bị nhiễm với cả 2 chủng SIV sau khi chúng săn đuổi và giết 2 loài khỉ kia vốn nhỏ con hơn . Họ cũng kết luận rằng 3 nhóm HIV-1 ( M, N và O ) đều phát xuất từ SIV tìm thấy ở loài tinh tinh P. t. troglodytes, và mỗi nhóm đại diện cho 1 biến cố "nhảy" (crossover) riêng rẽ từ lòai tinh tinh sang người . Sau 17 năm nghiên cứu thực địa tại các vùng Đông, Tây, Xích đạo châu Phi, các nhà khoa học từ nhiều nứơc chứng minh có ít nhất có 40 lòai khỉ khác nhau bị nhiễm với 40 typ SIV khác nhau; 3 nhóm HIV-1 và 8 phân typ HIV-2 khác nhau là kết qủa của 11 biến cố nhảy sang lòai khác , trong đó có sự tham gia của 8 lòai khỉ mặt xanh và 3 tinh tinh đối với tất cả các trừơng hợp gây nhiễm ở người . Làm thế nào HIV nhảy sang loài khác được ? Từ lâu người ta biết rằng một số virus có thể “ nhảy “ từ loài này sang loài khác . Thật vậy , chính từ việc tinh tinh “ nhận “ SIV từ 2 loài khỉ nhân hình khác chứng tỏ rằng sự nhảy chéo này có thể xảy ra dễ
  4. dàng như thế nào . Con ngừơi là động vật , cho nên chúng ta cũng sẽ dễ bị cảm nhiễm như loài tinh tinh. Khi virus đựơc truyền từ động vật sang người , ta gọi đó là bệnh từ súc vật (zoonosis) . Dưới đây là một số lý thuyết được nhiều người nhắc tới giải thích về sự hình thành những bệnh từ súc vật và bằng cách nào mà SIV trở thành HIV ở người : Thuyết “ngừơi đi săn “ Thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất là thuyết “ ngừơi đi săn “. Theo thuyết này, thì SIVcpz đựơc chuyển sang người khi tinh tinh bị thợ săn giết và ăn thịt hoặc do máu của chúng vấy vào các vết cắt hoặc thương tích của ngừơi săn thú. Bình thừơng , cơ thể của thợ săn sẽ đánh bật SIV, nhưng trong một vài tình huống, virus này sẽ tìm cách thích ứng với cơ thể vật chủ mới và trở thành HIV-1 . Thuyết này căn cứ trên theo thực tế là có nhiều chủng HIV sớm khác nhau , mỗi chủng có bộ gien (make-up) hơi khác một chút (thừơng gặp nhất ở HIV -1M ) : mỗi khi những chủng HIV ban đầu này đi từ 1 tinh tinh sang 1 người , virus sẽ phát triển hơi khác chút ít trong cơ thể người đó, và từ đó sẽ tạo ra 1 chủng khác biệt một chút .
  5. Một bài báo trên tờ The Lancet năm 2004, cho biết ngay cả đến hiện nay retrovirus từ loài linh trưởng vẫn còn chuyển dịch sang người đi săn. Trong số những mẫu bệnh phẩm lấy từ 1099 cá thể tại Cameroon , các nhà nghiên cứu phát hiện có đến 10% bị nhiễm SFV ( (Simian Foamy Virus) , là 1 bệnh giống như SIV , trứơc đây người ta cho rằng chỉ gây nhiễm cho loài linh trưởng . Người ta tin rằng tất cả các trường hợp nhiễm virus này là do hành động săn giết và ăn thịt những con khỉ đó. Từ những phát hiện này đã dẫn đến lời kêu gọi nên cấm ngay việc tàn sát thú rừng để tránh lây truyền virus từ loài khỉ chuyển sang ngừơi . Thuyết vaccin bại liệt uống (OPV) Thuyết vaccin OPV bị vấy nhiễm gây nhiều tranh luận nhất và cũng là thuyết gây nhiều suy nghĩ nhất . Người chủ trò của thuyết này là Edward Hooper , vốn là cựu phóng viên đài BBC đã từng sống tại châu Phi từ 1981 đến 1986 bằng nhiều nghề khác nhau như thủ kho , thầy giáo , người dẫn đường … Vào tháng 8/1986 , đang ở tại Kampala , ông ta nghe là có hàng trăm dân làng Kasensero ở bờ tây hồ Victoria đang chết dần mòn vì 1 chứng bệnh bí hiểm mà các chuyên gia y tế cho rằng có thể là do AIDS . Hooper đến ngay làng này và tổ chức gặp mặt các già làng dưới bóng 1 cái cây to duy nhất trong làng . Căn bệnh bí hiểm này có các triệu chứng như ho , sốt , loét miệng , lở loét ngoài da và tiêu
  6. chảy liên tục . Tất cả các bệnh nhân đều rất gầy ốm và suy mòn , đựơc gọi là bệnh Slims . Hooper nhớ lại cái cảm giác kinh hoàng và buồn rầ u khi thấy cảnh đó . Các già làng cho biết là dân làng mắc chứng bệnh đó khi tiếp xúc với binh lính, các nhà buôn và gái bán dâm từ Tanzania tới . Kịch bản sau đó đựơc chuyển sang Mỹ. Vào ngày 31/5/1987, trên 1 chương trình radio của đài WABC "Natural Living with Gary Null" , Eva Lee Snead, một thầy thuốc tại San Antonio cho rằng OPV bị vấy nhiễm SIV từ loài khỉ mặt xanh châu Phi và từ đó đã gây ra vụ dịch AIDS . Louis Pascal , một ngừơi dân New York vốn sống ẩn dật , nghe đựơc chương trình này . Vốn không hề đựơc đào tạo gì về y học , nhưng có tham gia 1 bài viết duy nhất trong 1 tuyển tập triết học . Pascal quyết định nghiên cứu về lý thuyết này . Pascal nghiền ngẫm các tạp chí khoa học cho tới lúc ông ta tin rằng tế bào thận của loài tinh tinh ( không phải là của khỉ mặt xanh châu Phi theo ý kiến của Bs Snead ) được sử dụng để chế tạo OPV trong 1 chiến dịch thanh toán polio vào năm 1950 tại Trung Phi , bị vấy nhiễm virus SIV-SV40 , mà vào những năm 1950 là virus chưa đựơc phát hiện . OPV vốn đựơc 1 nhà virus học nổi danh , Hilary Koprowski, giám đốc viện Wistar tại Philadelphia phát triển . Pascal cũng nhấn mạnh rằng có 1 sự liên hệ
  7. giữa các địa điểm tiêm chủng và những trừơng hợp AIDS đầu tiên tại châu Phi . Pascal cố công viết ra 1 bài báo và tìm cách đăng trên những tạp chí chuyên ngành như Lancet, Nature và New Scientist. Nhưng những gì ông ta nhận được từ cọng đồng khoa học là sự từ chối hoặc i m lặng. Sau 5 năm đầy thất vọng , trường đại học Wollongong, NSW, Australia công bố bài báo của ông này vào tháng 12/1991. Không có gì ngạc nhiên vì chẳng mấy ai chú ý . Nhưng tên của bài báo khá bắt mắt “ Điều gì xảy ra khi khoa học sai lầm . Sự sai lạc của khoa học và nguồn gốc bệnh AIDS - 1 nghiên cứu về sự hình thành tự phát “ . Nhưng để hiểu rõ hơn về diễn biến của vụ việc , ta cần phải hiểu rõ một vài sự kiện về việc ra đời vaccin polio . Nguyên vào tháng 8/1921 , Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt bị mắc bệnh “ polio bại liệt trẻ em “ . Trong đời mình , Roosevelt đã dành nhiều công sức cho các hoạt động thanh toán polio . NFIP là tên gọi của 1 tổ chức quốc gia nhằm mục đích thanh toán polio ra đời vào năm 1938 và do Basil O'Connor , bạn thân của Tổng thống phụ trách . O'Connor mở chiến dịch gây quĩ và trong 20 năm , mỗi năm đã quyên góp đựơc 25 triệu USD . NFIP tài trợ cho Jonas Salk - Giám đốc Phòng thí nghiệm nghiên cứu virus tại trừơng đại học Pittsburg . Vaccin polio bất hoạt dùng để tiêm ( IPV = Inactivated polio vaccine ) ra đời từ viện nay ,
  8. và sau đó hàng ngàn trẻ em đã đựơc tiêm chủng . Nhưng vaccin tiêm lại gây biến chứng : ngày 26 tháng 5 /1955 – có 5 đứa trẻ sau khi tiêm IPV bị liệt chi dưới sau khi tiêm - vì thế ngừơi ta mới chuyển sang sử dụng vaccin uống OPV. Những ngừơi tham gia phát triển OPV là Hilary Koprowski và Albert Sabin của Đại học Cincinnati và Herald Cox của Lederle Laboratories. Vào ngày 27 tháng 2/1950 , Koprowski là nhà khoa học đầu tiên trên thế giới đem OPV sử dụng cho người . Koprowski cho dựng 1 trại thí nghiệm tại Lindi , gần Stanleyville, Belgian Congo (hiện nay là Kisengani, Cọng hoà Dân chủ Congo ) để lấy thận tinh tinh . Những quả thận này được sử dụng để bào chế 1 loại vaccin OPV được gọi là CHAT . Từ năm 1957 đến 1960 , vaccin CHAT được đem ra sử dụng cho khoảng 300.000 người tại lãnh thổ cựu thuộc địa của Bỉ tức là vùng đất bao gồm Cọng hoà dân chủ Congo , Rwanda và , Burundi ngày nay . Thuyết vaccin OPV bị vấy nhiễm sẽ trôi vào quên lãng nếu một số biến cố sau đây làm sống lại . Vào ngày 12/3/1992 , không có Tom Curtis , là 1 phóng viên tự do tại Texas viết 1 bài báo đăng trên tờ Rolling Stones , trong đó ông ta đưa ra 1 giả thuyết về vụ dịch AIDS . Thuyết của Curtis về cơ bản cũng giống như giả thuyết do Louis Pascal trình bày năm 1987 . Nhưng không như bài báo c ủa Pascal ,
  9. bài của Curtis gây đựơc sự quan tâm rộng rãi của các phương tiện truyền thông . Koprowski rất lấy làm giận dữ vì nhũng ức đoán của giới không chuyên môn . Tuy nhiên , khi được Curtis phỏng vấn , ông ta không nhớ nổi hoặc đưa ra đựơc bằng chứng là nhóm nghiên cứu của ông tại viện Wistar đã dùng tế bào thận của khì mặt xanh châu Phi, khỉ macaque hoặc tinh tinh . Viện Wistar chỉ định 1 nhóm chuyên gia trình bày những phát hiện của họ trong 1 báo cáo dài 8 trang trứơc 1 hội nghị báo chí vào tháng 10/1992. Báo cáo này đã giải tội cho vaccin CHAT. Ngay lập tức , Koprowski và viện Wistar kiện Tom Curtis và tờ báo Rolling Stones vì tội phỉ báng . Vụ việc đựơc dàn xếp tại toà khi tờ báo đưa ra lời giải trình rằng “ họ chưa bao giờ có ý định cho rằng có bằng chứng khoa học chứng minh vaccin gây ra bệnh AIDS “ Vào tháng 6/1992 , Hooper đọc được bài báo của Curtis bị và thuyết vaccin OPV vấy nhiễm thuyết phục . Ông ta kiên trì bám lấy lý thuyết này và cuối cùng trở thành ngừơi ủng hộ nhiệt tình nhất . Hooper liên lạc với Curtis và Pascal và xin đựơc tất cả các tài liệu nghiên cứu của họ . Qua nghiên cứu về vaccin polio , Hooper tình cờ đọc đựơc tên giáo sư William Hamilton. Hamilton là 1 nhà sinh học tiến hoá đã từng đạt đựơc nhiều phần thưởng danh giá . Ông giáo sư bị những khía cạnh tiến hoá của bệnh AIDS lôi cuốn và và hết sức quan
  10. tâm đến thuyết vaccin OPV bị vấy nhiễm . Hamilton cho rằng báo cáo của nhóm Wistar “không đủ chứng cứ khoa học “ và còn hời hợt quá . Tuy nhiên , điều làm cho ông lo ngại nhất là cọng đồng khoa học đã thằng thừng gạt bỏ thuyết vaccin OPV bị vấy bẩn và việc các tờ báo khoa học không chịu đăng công trình của Pascal . Hamilton đã viết nhiều thư cho các tờ báo nhưng đa số đếu không đựơc đăng và vì thế ông ta khuyến khích và hướng dẫn cho Hooper theo đuổi công trình của mình . Trong suốt 7 năm sau đó , Hooper kiên trì đào sâu thuyết vaccin OPV bị vấy nhiễm. Để bổ sung kiến thức cần thiết cho nghiên cứu , Hooper đã nghiền ngẫm rất nhiều ngành khoa học như sinh học phân tử , virus học, ngành học về loài linh trưởng và nhiều chuyên ngành khác . Việc nghiên cứu , bắt đầu từ năm 1986 , đã đem lại 1 công trình đồ sộ dày 1070 trang với tiêu đề -Dòng sông (The River) - việc truy tìm nguồn gốc HIV và AIDS “ đựơc xuất bản vào tháng 12/1999. Để viêt cuốn sách , Hooper đã rà lại hàng ngàn trang bệnh án , các bài báo khoa học và tài liệu , đã thực hiện hơn 600 cuộc phỏng vấn , có khi gặp những ngừơi ít thiện cảm , gọi ông là “đồ ngoan cố , quá khích và hiếu chiến “. Trong quyển sách , Hooper đưa ra các bằng chứng gián tiếp chứng minh rằng CHAT đã bị vấy nhiễm bởi SIV và là nguyên nhân gây ra dịch AIDS . Ông ta cũng chứng minh rằng có mức độ
  11. tương ứng cao giữa các địa điểm cho uống vaccin CHAT và bằng chứng đầu tiên của bệnh AIDS tại châu Phi . Hooper rà soát hồ sơ những mẫu nghiệm máu HIV dương tính đựơc lấy tại châu Phi trứơc năm 1981 . Có 47 trong số 52 mẫu nghiệm lấy tại các địa điểm cho uống CHAT. Tất cả các mẫu nghiệm đều được lấy trong vòng 100 dặm quanh khu vực chủng ngừa trong đó có làng Kasensero mà hồi tháng 8/1986 ông ta đã đựơc nghe về bệnh SLIMS lần đầu tiên . Cuốn sách “ Dòng sông “ ra đời đã dấy lên 1 cuộc tranh cãi gay gắt, buộc Koprowski và viện Wistarvà ra sức bác bỏ thuyết vaccin . Bill Hamilton quyết định chấm dứt việc tranh cãi này và tổ chức 1 hội nghị của Hội Hoàng gia về đề tài “ Nguồn gốc của HIV và dịch AIDS “ trong 2 ngày từ 11-12/9/2000 . Thuyết của Hooper đựơc nhiều nhà khoa học tìm cách kiểm chứng . Beatrice Hahn và cọng sự của trừơng Đại học Alabama , chứng minh rằng SIV từ 3 con tinh tinh ở vùng Tây Phi rõ ràng là có liên quan đến HIV-1 , trong lúc 1 con khác từ Trung Phi (con tinh tinh của trại Lindi) không tương quan với HIV-1 . Từ đó , dựa trên bộ gien (genetic makeup) của 1 con tinh tinh , họ cho rằng vaccin Wistar không bị vấy nhiễm bởi SIV cpz .
  12. Năm 2000, Betty Korber cùng với các đồng nghiệp từ Los Alamos National Laboratory , sử dụng 1 máy tính cực mạnh là Nirvana để tìm nguồn gốc HIV-1 nguyên thủy ( Eve HIV-1 ) và xác định thời điểm xuất hiện là năm 1930 ( xê xích 20 năm tức là từ 1910 đến 1950 ) . Còn John Beale , một chuyên gia về vaccin , cho rằng không thể nào có trừơng hợp vaccin vấy nhiễm vì chỉ có 1 vi hạt virus trong số 10.000 tỉ mới “ còn sống được “ trong qúa trình sản xuất vaccin bao gồm đun nóng , làm lạnh , làm khô và xử lý bằng enzyme . Nhưng Hooper vẫn không hề nao núng và kiên cường bảo vệ lý thuyết của mình . Xem ra cuộc tranh cãi vẫn còn tiếp tục . Vào tháng 2/2000 , viện Wistar cho biết là họ đã tìm ra trong kho lưu trữ 1 lọ vaccin polio đã đựơc sử dụng trong chương trình tiêm chủng tại châu Phi . Vaccin này được đem đi phân tích và đến tháng 4/2001 kết qủa đựơc công bố là không hề tìm thấy trong vaccin có vết tích gì của HIV hoặc SIV cpz . Một phân tích thứ 2 cũng xác định rằng vaccin CHAT chỉ sử dụng tế bào thận khỉ macaque , mà tế bào này không thể bị nhiễm bởi SIV hoặc HIV . Điều này chứng tỏ thuyết vaccin OPV không đứng vững .
  13. Một thực tế nữa là thuyết vaccin OPV chỉ chú ý đến 1 nhóm HIV- 1 ( nhóm M) cũng cho thấy rằng sự lây chuyền còn phải đi theo những con đường khác . Yếu tố cuối cùng chứng minh rằng thuyết OPV không đáng đựơc coi như là cách duy nhất để SIV truyền từ khỉ sang người dựa trên lập luận rằng HIV đã hiện diện trên con ngừơi khá lâu trứơc khi có các thử nghiệm vaccin .
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2