
Nguyễn Du: Nhà thơ yêu nước
Hơn hai trăm năm trôi qua, nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu nổi tiếng
trong và ngoài nước đã từng khẳng định và ngợi ca không tiếc lời trước thiên tài sáng
tạo của đại thi hào Nguyễn Du...
Ngày nay, chẳng dễ dàng nếu muốn nói thêm được một điều gì đó mới mẻ
xung quanh sáng tác của nhà thơ.
Rõ ràng là nếu như Truyện Kiều được hết lòng ngưỡng mộ và có sức sống
trong lòng nhân dân đã bao năm tháng, thì phần thơ chữ Hán - phần phản ánh khá đầy
đủ tâm hồn Nguyễn Du một cách sâu sắc mà chúng tôi đề cập dưới đây chỉ là một
phương diện trong muôn màu tâm trạng của nhà thơ.
Bài này, người viết không đi sâu vào thế giới quan của thi hào, mà chỉ muốn
nghiên cứu một chủ đề quan trọng trong sự nghiệp đồ sộ của ông. Đó là tâm trạng yêu
nước và ý thức dân tộc trong thơ chữ Hán qua các tác phẩm cụ thể: “Thanh hiên thi
tập”: 78 bài; “Nam trung tạp ngâm”: 40 bài; “Bắc hành tạp lục”: 131 bài (Tư liệu: dựa
theo cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Hà Nội, 1965. Để nắm được ý chính của
nguyên tác, người viết và trích nguyên văn bản dịch nghĩa).

Có thể nói đây là ba tập nhật ký liền mạch kéo dài khá đầy đủ gần 30 năm, kể
từ “mười năm gió bụi” (Đề mục lớn trong Thanh hiên thi tập - xem Lời giới thiệu của
giáo sư Trương Chính) (1786 đến 1795), rồi tiếp tục viết đến lúc giã từ cõi đời vào
năm 1820. Nếu xem kỹ, ngày nay bạn đọc có thể hiểu được hoàn chỉnh con người và
cuộc sống của Nguyễn Du về thế giới quan cũng như quan điểm thẩm mỹ. Dưới ngòi
bút của tác giả, tuy là cảm xúc tức thời, song đối tượng phản ánh thật phong phú, sinh
động, muôn hình muôn vẻ.
Đặc điểm nổi bật đầu tiên là về mặt đối tượng sáng tác. Nhà thơ không viết
theo khuôn mẫu đề tài định sẵn, mà dòng cảm xúc tuôn trào đến đâu thì phóng bút đến
đấy. Vui buồn, yêu thương, căm giận, ưu tư, ham muốn... tức thời đan xen. Suy nghĩ
của nhà thơ không phải thể hiện theo những công thức giáo điều đương thời. Ông
cũng chẳng hề viết theo đơn đặt hàng, càng không lệ thuộc vào các cuộc thi thố văn
chương định kỳ có thưởng như ngày nay. Nếu như hồi thế kỷ XVIII - XIX, phần nhiều
nhà thơ, nhà văn ở ta, tuy chưa bao giờ đặt chân lên đất Trung Hoa, nhưng thường vẫn
nghiêng về ngâm vịnh sơn thuỷ, phong hoa, tuyết nguyệt theo kiểu nước người với bút
pháp ước lệ, tượng trưng... thì ở Nguyễn Du lại có nét bút khác biết là chẳng phụ
thuộc vào các mô hình truyền thống, mà chỉ ghi chép hiện thực tâm trạng bằng thơ
những gì được nảy sinh từ đáy lòng mình qua từng bước nếm trải cuộc sống đời
thường. Đó là nhật ký bằng chữ Hán.
Thật sẽ không sợ quá lời rằng, Nguyễn Du là một bậc “thánh thi”. Dường như
mỗi bước đi, mỗi góc nhìn là có thể cầm bút viết nên một bài thơ tứ tuyệt, hoặc một
bài thất ngôn đầy cảm xúc như lời đối thoại tâm tình với chính mình hoặc với thế giới

bên ngoài, lúc bằng chữ Hán, lúc bằng chữ Nôm trước vô vàn chuyện cảnh, chuyện
người trong biến đổi linh hoạt giữa dòng đời cuộn chảy.
Với một khối lượng kiến thức uyên bác, mênh mông, đầy nhạy cảm, qua các
nhân vật văn hoá, lịch sử... của Việt Nam lẫn Trung Hoa, nhà thơ muốn gửi gắm tâm
tư, nguyện vọng của mình về thời cuộc trên các nẻo đường đã trải qua. Đây cũng là
một phong cách quen thuộc của không ít nhà nho xưa kia ở nước ta thường lấy điển
tích trong sách vở tận bên Tàu để làm dẫn chứng sáng tỏ cho mọi vấn đề.
Cùng với chủ nghĩa nhân đạo, Nguyễn Du còn bộc lộ rõ tâm trạng yêu nước
qua các bài thơ chữ Hán. Cụ thể là chùm thơ viết liền mạch 4 bài trong “Bắc hành tạp
lục” được viết vào năm 1813 trên đường đi sứ: “Trấn nam quan”; “Quỷ môn quan”;
“Giáp Thành Mã Phục Ba miếu” (Miếu thờ Mã Phục Ba ở Giáp Thành); “Đề Đại
Than Mã Phục Ba miếu” (Đề miếu Mã Phục Ba ở Đại Than). Đã từ lâu, chùm thơ này,
chưa một lần được chú ý đến trong hệ thống sáng tác của thi hào. Trước hết, hãy đọc
bài “Trấn nam quan”:
“Việc cũ đời Lý Trần xa xôi khó tìm biết,
Trải qua ba trăm năm cho đến nay.
Bức thành lẻ loi này phân chia hai nước,
Một cửa ải hùng vĩ đứng trần giữa lòng muôn ngọn núi.
(Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm)
Ở nơi hẻo lánh thường vì nghe lời đồn đại mà hiểu lầm,
Gần trời mới biết mưa móc thấm sâu.
Quay đầu trông về cửa khuyết ở ngoài tầm mây biếc,
Bên tai còn vẳng tiếng nhạc quân thiều”.

(Phạm Khắc Khoan và Ngô Ngọc Can dịch
“Trần nam quan” được nhà thơ khắc họa như lời khẳng định thêm một lần nữa
biên cương của Tổ quốc từng được thiết lập bao đời giữa lưỡng quốc và hùng trấn một
phương giữa điệp trùng núi non phân cách. Quả thật “nhất quan hùng trấn vạn sơn
tâm” là một bức tranh ngời sáng, hùng vĩ, đầy nét tạo hình cho người đọc nhớ đến âm
thanh hào sảng từ bài thơ thần thời Lý Thường Kiệt (1076) hơn 700 năm về trước:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư...”.
Và như đâu đây vẫn còn vang lên âm điệu mạnh mẽ của bản tuyên ngôn độc
lập dân tộc “Đại cáo bình ngô” sau chiến thắng quân Minh: “Như nước Đại Việt ta từ
trước. Vốn xưng văn hiến đã lâu. Núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng
khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng
cứ một phương...”.
Không phải tình cờ mà bài “Trấn nam quan” xuất hiện cùng thời gian với bài
“Quỷ môn quan”. Có thể làm một sự so sánh với chùm thơ được viết trước đây trong
hành trình thứ nhất đến Lạng Sơn nghênh tiếp sứ thần nhà Thanh sang phong sắc cho
vua Gia Long vào năm 1830 - tác giả đã sáng tác bài “Quỷ môn quan đạo trung” cùng
4 bài khác: “Lạng Sơn đạo trung”, “Vọng phu thạc”, “Đệ nhị Thanh động”, “Xuân tiêu
lữ thứ”.
Quả là chùm thơ năm bài trên được xếp trong tập “Nam trung tạp ngâm” chỉ
dừng lại ở cảm xúc trữ tình cá nhân trước thiên nhiên đầy ấn tượng chốn biên thuỳ hai

nước Việt Trung, giống như các cảm xúc thường gặp mỗi khi nhà thơ đứng trước
phong thuỷ hữu tình, mây trời tươi đẹp, nhất là trên quê hương Hồng Lĩnh, Lam
Giang và dãy Hoành Sơn trùng điệp. Hơn nữa, tuy là đi sứ lần đầu, nhưng ở thời kỳ
này tâm trạng nhà thơ đang buồn chán đến “nước mắt thấm khăn” trước nỗi đời đa
đoan cũng như sự nghiệp chung ngổn ngang gò đống. Bây giờ, đúng lúc ông mới “lơ
láo” (Lơ láo: tiếng Nghệ gần nghĩa ngơ ngác qua câu Kiều: “Hàng thần lơ láo phận
mình ra đâu?”) vào trốn quan trường của triều đình Gia Long vừa bước đầu xây dựng,
và có lẽ, lòng dạ cũng trăm mối, nên ông chưa thể hòa nhập được với niềm vui thời
cuộc mà chỉ muốn về quê (Trong bài “Lạng Sơn đạo trung” được viết ở thời kỳ tiếp sứ
giả nhà Thanh (1803) có câu: “Mộng trung tùng cúc ức quy dư” (Trong mộng thấy
tùng cúc lại nhớ đến chuyện muốn về). Nỗi bâng khuâng giữa dòng đời được bộc lộ rõ
trong bài “Xuân tiêu lữ thứ” (Đêm xuân lữ thứ):
“... Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không nghĩ đến chuyện rong ruổi,
Trên đường danh lợi, buồn hay vui cũng không được tự nhiên.
Người thì tiều tuỵ, nhưng xuân vẫn đẹp,
Đứng dưới Đoàn thành (6), nước mắt thấm khăn”. (Đoàn thành: tên khắc của
thành Lạng Sơn thời bấy giờ).
Khác hẳn bài “Quỷ môn đạo trung” viết mười năm về trước, trong chuyến đi sứ
lần thứ hai, hình ảnh Quỷ môn quan lại hiện ra dưới tầm mắt nhà thơ - sứ giả một
điểm nhìn mới với một sự tự ý thức đậm nét về “phương diện quốc gia” trong vai trò
đại diện Việt Nam. Thật không phải ngẫu nhiên, tác giả lại tưởng nhớ về chuyện xưa
với cảm xúc sử thi. Đúng là vị tướng quân nhà Hán từ năm 40 đã đánh chiếm đất Giao