
Nguyễn Huy Tưởng - Nhàchép
sửbằng văn chương
Trong tiểu thuyếtAn Tưcũng xuất hiện vấnđề vềnữsắc. Nhưng nữsắc
ở đây không lộng hành, không độc quyền nhưtuyên phi Đặng ThịHuệ
trong Đêm Hội Long Trì. Nữsắc trong An Tưtượng trưng cho cái đẹp biết dấn
thân, mang một ý nghĩa lớn lao có thểlay chuyển hàng binh thếtrận: “An Tư
đã bắtđầu quen với Thoát Hoan, và tựchủ được mình: nàng thấyđủ sức
quyến rũvà có một lòng tin vững chắc vềoai quyền của sắcđẹp nàng”(5). An
Tư đã gạt lệ, chia tay người yêu và hoàng thân quốc thích nhà Trần, vì việc
nước phải hiến dâng trinh tiết và tấm thân ngà ngọcđể ngăn chặn dù chỉlà
tình thếsức công phá của quân Nguyên thiện chiến. Nguyễn Huy Tưởng bằng
tình cảm và lòng ngưỡng mộcủa mình đã ghi nhận và tôn vinh sựhi sinh thầm
lặng nhưng quyết liệt của An Tư, một nữtrung hào kiệt trong tiểu thuyết như
một chiến công sánh ngang với Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng và trường
hợp của nàng đáng được lưu danh nhưtên tuổi các bậc tiền nhân nhà Trần.
VớiAn Tư, Nguyễn Huy Tưởng không chỉthành công trong cách khơi gợi
vấnđề, trong khắc hoạthếgiới nhân vật mà còn trong tạo dựng bối cảnh,
không khí và tình huống. Trong tiểu thuyếtđã có những trường đoạn gây ấn
tượng với ngườiđọc: Khí thếcủa các bô lão trong hội nghịDiên Hồng, cảnh
vua Thiệu Bảoăn nắm cơm gạođỏ của thảo dân, lễxin 100 quẻâm dương
của Quốc công Trần Hưng Đạo, quyếtđịnh hoà hay đánh cho thấy mệnh trời,

khí thiêng sông núi nhưhợp với lòng dân, mang màu sắc tâm linh; cảnh công
chúa An Tưchia tay Trần Thông trên đồi CổHạc; cảnh An TưbếHuyền Trân
mới sáu tháng tuổi thuộc hàng cháu cùng người thân trong hoàng tộc ra tiễn
chân nàng nhuốm màu tiềnđịnh, là mộtẩn ý của nhà văn cho sốphận giống
nhưAn Tưcủa công chúa Huyền Trân, phảiđem gảcho vua Chiêm Thành lấy
hai châu Ô, Lý sau này. Cảnh thiên nhiên rực rỡ,đầy sắc màu tương phản với
lòng người ra điảmđạm, tái tê... Cảnh An Tưgieo mình xuống dòng sông Cái
dưới ánh trăng bàng bạc, văng vẳng tiếng reo ca thắng trận của quân Đại Việt
và bóng con ngựa bạch ngơngác, đánh hơi tìm chủ... Tất cả đã hiện diện trên
những trang tiểu thuyết mang cảm hứng sửthi, với âm hưởng bi hùng, văn
phong đạtđến mức cổ điểnđã làm nổi bật sốphận bi kịch của An Tưcũng
đồng thời là sốphận của một dân tộc trong cơn sóng gió kinh hoàng của lịch
sử.
Có thểnói Đêm Hội Long Trì và An Tưlà những đóng góp đáng kểcủa
Nguyễn Huy Tưởng với thểtài tiểu thuyết lịch sửnói riêng và với văn học
1932-1945 nói chung. Ông đã đem đến cho thểloại một cách viết mới, với các
biện pháp nghệthuậtđặc sắc, đầy cẩn trọng trong chọn lời chuốt ý, với ý thức
đề cao vai trò của chủthểsáng tạo trong tưduy nghệthuậtđã góp phầnđẩy
nhanh quá trình hiệnđại hoá thểloại. Những đóng góp đáng ghi nhận này đã
đưa Nguyễn Huy Tưởng vào danh sách những nhà văn tiêu biểu của văn học
giai đoạn 1930-1945 không chỉvới tưcách là một tiểu thuyết gia lịch sửmà
còn là một kịch tác gia lịch sửvới kịch bảnVũNhưTô (1942) và Cộtđồng Mã
Viện(1944). Trong đó,VũNhưTô, với sức sống và tuổi thọcủa nó không chỉ
được xếp vào vịtrí hàng đầu của nền kịch Việt Nam hiệnđại mà còn đượcđịnh
danh là “tác phẩm bi kịch duy nhất và đích thực” của Nguyễn Huy Tưởng. Ra
đời trong bối cảnh văn học nửađầu thếkỷXX, trong đó kịch còn là thểloại mới
mẻnhưng VũNhưTô đã hộiđủ tính chất hiệnđại của thểloại: “Một tác phẩm
nhưVũNhưTô chỉcó thểra đời trong thờiđại ngày nay, nó là một trong
những trái chín sớm tuyệt vời của tiến trình văn học Việt Nam hội nhập văn
hoá thếgiới”(6). Nguyễn Huy Tưởng khởi viếtVũNhưTô vào năm 1941. Sau
đó ông đã sửa chữa và bổsung lờiđề tựa vào ngày 3-6-1942.

Chẳng biết VũNhưTô phải hay những kẻgiết VũnhưTô phải.
Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc? Tháp người Hời
nguyên là giống Ăngkor!
Mải vật lộn quên cả đài cao mộng lớn. Công ông cha hay là nỗi thiệt thòi?
Ôi khô khan! Ôi gay gắt! Nhưng đừng vội tủi. Sức sống tràn từ ải Bắcđếnđồng
Nam.
Than ôi! NhưTô phải hay những kẻgiết NhưTô phải? Ta chẳng biết.
Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh vớiĐan Thiềm”.
Lờiđề tựađầy ám gợi và đa nghĩa của Nguyễn Huy Tưởng đã kích thích
hứng thú tranh luận và cảm hứng nghiên cứu, tìm hiểu của các thếhệngười
đọcđối với thếgiới nghệthuật và tưtưởng của kịch bản. Dựa vào vài dòng viết
khô khan trong chính sửvềVũNhưTô, một kiến trúc sưtài ba của thếkỷXVI;
Nguyễn Huy Tưởng đã sáng tác kịch bản cùng tên, đem đến cho nhân vật một
chiều kích mới, trởthành hình tượng nghệthuật, chuyển tải những vấnđề có
tính chất muôn thuởvềvai trò của người nghệsĩ, của trí thức, của nữsắc
trước cường quyền và nghệthuật trước cái đẹp và cái thiện. Từlờiđề tựa cho
đến kịch bản, Nguyễn Huy Tưởng đã đặt ra những vấnđề không chỉ đương
thời mà cảhậu sinh phải nghiền ngẫm, đối thoại và đồng sáng tạo. VũNhư
Tô là bi kịch của một nghệsĩcó tưchất, tài hoa và tâm huyết. Đã bao lần nhân
vật họVũtựmâu thuẫn, giằng xé trong sựlựa chọn. Nhận lời một hôn quân
bạo chúa xây cung điện tráng lệxa hoa, làm khổ đồng loại, muôn dân hay là
chết. VũNhưTô đã chọn cái chết hơn là phụng sựcường quyền. Trong tình
huống hiểm nghèo ấy, cung nhân Đan Thiềm xuất hiện. Hơn ai hết, nàng thấu
biết “tài trời” của VũNhưTô đã khuyên chàng phải sống, mượn tay vua Hồng
Thuậnđể xây dựng công trình nghệthuật lưu danh tên tuổi, làm đẹp cho kinh
thành Thăng Long, cho non sông đất nước. Lời khuyên của ngườiđồng bệnh

làm cho trí óc VũNhưTô được khai sáng. Chàng kiến trúc sưhọVũchấp
nhận và khởi công xây dựng toà Cửu Trùng Đài theo thiết kếvà chọn lựa thợ
của mình. Nhưng công việc xây dựng kéo dài, tốn không ít mồhôi, xương máu
của nhân dân gây ra oán thù và biến loạn. Toà đài bị đốt cháy và VũNhưTô bị
chết chém. Kịch bản khép lại nhưng vấnđề lại mởra, với những khoảng trắng,
khơi gợi và mời gọi ngườiđọc tiếp tục suy ngẫm, liên tưởng, ứcđoán và dự
cảm. Trong bối cảnh phát huy tính dân chủtrong tiếp nhận và thẩmđịnh của
đời sống văn học hôm nay, những người hâm mộVũNhưTô xuất phát từ
nhiều cách tiếp cận và góc nhìn khác nhau đều hướng đến một hệquy chiếu:
khẳng định tính chất mở,độ dưvà sức lan toảcủa văn bản tác phẩm.
Diễn biến tâm lý và hành động của VũNhưTô trong kịch bản lúc an cũng
nhưlúc biến, lúc tĩnh cũng nhưlúc động đều thực hiện dưới hình thứcđối thoại,
hay tựvấn lương tâm, nhằm giãi bày những băn khoăn, day dứt của người
cầm bút trước những vấnđề quan thiết giữa nghệthuật và nhân dân, giữa
nghệthuật và cầm quyền, giữa cầm quyền và nữsắc. Những vấnđề này luôn
cọxát, va xiết và thắt buộc lẫn nhau tạo nên các xung đột, mâu thuẫnđầy kịch
tính trong tác phẩm. Khi VũNhưTô bịgiảiđến cung đình, chờcực hình và cái
chết vì quyết không xây Cửu Trùng Đài theo lệnh Lê Tương Dực, chàng đã đối
diện vớiĐan Thiềm. Vốn ghét vịvua ăn chơi sa đoạvà đám cung nữ, thoạt
đầu, VũNhưTô coi Đan Thiềm cùng một ruộc vớiđám cung nữ, “là người
trong tuý hương mộng cảnh”. Nhưng sau khi nghe nàng tựbạch: “Đôi mắt
thâm quầng này là do những lúc “thức khi người ngủ, khóc khi người cười,
thương khi người ghét”, VũNhưTô chợt nhận ra Đan Thiềm nhưmột người
đồng bệnh. Nàng dần trởthành tri âm tri kỷvới kiến trúc sưhọVũ, và bằng sự
trải nghiệm, sớm thấy: “Tài làm lụy ông cũng nhưnhan sắc phụngười”. Sống
trong một thờiđại vua không biết trọng người tài khiến người tài cũng không
muốn bộc lộvà thi thốtài năng, thì VũNhưTô chỉbiết chọn cái chết chứquyết
không phục vụhôn quân. Nhưng Đan Thiềm, với nhận thức và tâm thếcủa trí
thức, là biểu tượng cho nhan sắc của kẻsĩ đã hơn một lần khuyên VũNhưTô
sống để sáng tạo. Dù trong tình thếlúc ấy phải sáng tạođể phụng sựcường
quyền, nhưng ẩnđằng sau kết quảcủa sựsáng tạo là công trình nguy nga,
tráng lệcó một, không hai, góp phần tô điểm cho giống nòi, đất nước: “Ông

biết một mà không biết hai. Ông có tài, tài ấy phảiđem cống hiến cho non sông,
không nên để mục nát với cỏcây. Ông không có tiền, ông không có thểdựng
lấy một toà đài nhưý nguyện. Chấp kinh phải tòng quyền. Đây là lúc ông nên
mượn tay vua Hồng Thuận mà thực hành cái mộng lớn của ông... Ông cứxây
lấy một toà đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũcung nữkia rồi mấtđi nhưng sự
nghiệp của ông còn lại vềmuôn đời”(6). Những lời lẽ đầy sức thuyết phục của
Đan Thiềmđã đánh trúng vào tâm can của VũNhưTô và đã thổi bùng trong
chàng niềmđam mê sáng tạo bấy lâu nay vẫn theo đuổi “nhưbóng theo hình”.
Lớpđốiđầu và đối thoại giữa Lê Tương Dực và VũNhưTô, giữa bạo quyền và
kẻsĩnhưuỷthác, ký gửi tâm tưquan niệm vềkẻsĩcủa Nguyễn Huy Tưởng.
Tương phản với bạo tàn, gây áp lực với người hiền tài, kẻsĩnhưLê Tương
Dực: “Vua cầnđến thì thần nhân phải xảthân làm việcđến kỳchết thì thôi” là
quan niệm của VũNhưTô: “kính sĩmớiđắc sĩ”... “Một ông quan trịdân, với
một người thợgiỏi, xây những lâu đài tráng quan, điểm xuyết cho đất nước...
chưa biết người nào mớiđáng gọi là sĩ?”(7). Trước Lê Tương Dực, chỉcó Vũ
NhưTô mới trung thực và quảquyết cam đoan chỉmình chàng xây được Cửu
Trùng Đài có trăm nóc, cao mười trượng, dài năm trăm trượng và vâng lệnh
giúp hoàng thượng xây cho nước nhà một toà lâu đài nguy nga, lộng lẫy cùng
vũtrụtrường tồn. Để hoàn thành Cửu Trùng Đài, triềuđình, hoàng thượng
phải xây theo đúng đồ án thiết kếvà phảiđãi công ngang sĩ, trao toàn quyền
làm việc và quản lý thợcho VũNhưTô. Nhưng việc xây dựng Cửu Trùng Đài
chỉphục vụcho ông vua lợn còn đa sốnhân dân vì ngân khốdành cảcho công
trình của vua Hồng Thuận nên đói kém, lầm than. Khắp nơi dân chúng ta thán
vì phải sưu cao thuếnặng để cho thợ ăn mặc, xây cung vàng điện ngọc nên
đòiđuổi VũNhưTô, bãi Cửu Trùng Đài, thải thợ. Hơn nữa, ngay trong đám thợ,
vì công trình kéo dài, lạiđồ sộnguy nga nên hàng trăm thợchết vì rơi trên đỉnh
nóc xuống hoặc bị đổ đá vào người, họ đã bỏtrốn vềnhà. Nhưng theo lệnh Vũ
NhưTô, cứai bỏvềlà kết tội chém nên từca ngợi, thợchuyển sang căm ghét,
cho VũNhưTô là nhẫn tâm, không tình nghĩa với thợthuyền. Hồi thứhai của
kịch bản VũNhưTô mang đậm cảm hứng phê phán việc xây dựng toà đài cho
vua Hồng Thuận với nhiều sắc thái, từlo lắng, nghi ngại nhưThịNhiên, vợVũ
NhưTô đến lên án, kết tội VũNhưTô như đám thợcó nghềdo chàng tuyển
chọn. Với khát vọng và tham vọng xây đài to lớn cho vua Hồng Thuận và cung

