Phạm Thị Phương Thái<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
96(08): 195 - 198<br />
<br />
NGUYỄN TRÃI – BẬC VĨ NHÂN HOÀN CHỈNH<br />
*<br />
<br />
Phạm Thị Phương Thái<br />
<br />
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bấy lâu nay trong cảm nhận của hậu thế, Nguyễn Trãi là bậc vĩ nhân. Nét thường nhân trong con<br />
người ông, dường như ít được chú ý. Thực tế thì, sự vĩ đại của vĩ nhân Nguyễn Trãi không chỉ toát<br />
lên từ phẩm chất, nhân cách, tài năng, trí tuệ của người anh hùng cứu quốc, của nhà văn hóa Đại<br />
Việt mà còn được tỏa sáng từ lẽ sống, cách sống, những rung động, xúc cảm, khao khát rất đỗi<br />
bình dị. Ức Trai tiên sinh là “ông tiên sống trong nhà ngọc”, nhưng đồng thời cũng là “người sống<br />
trần thế nhất trần gian”. Đó là sự “thực hiện trọn vẹn của Nguyễn Trãi” mà hậu thế có thể nhận ra<br />
qua Quốc âm thi tập.<br />
Từ khóa: Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập, bậc vĩ nhân, khát vọng, con người trần thế.<br />
<br />
Xưa nay Nguyễn Trãi mới chỉ được nhìn nhận<br />
là một vĩ nhân với tư cách “một danh nhân<br />
hiếm có của nước Hoàng Việt” (Nguyễn<br />
Năng Tĩnh), “viết thư thảo hịch, giỏi hơn hết<br />
một thời” (Lê Quý Đôn), “kinh bang hoa quốc<br />
cổ vô tiền” (Nguyễn Mộng Tuân). Bấy lâu,<br />
khía cạnh “thường nhân” trong con người Ức<br />
Trai tiên sinh dường như bị khuất lấp trong<br />
cảm quan của hậu thế. Đó là đời sống của một<br />
con người bình thường với nét sinh hoạt giản<br />
dị, là những rung cảm, là khát vọng tự nhiên,<br />
chính đáng... Góc khuất rất CON NGƯỜI<br />
trong cảm nhận của hậu thế về Nguyễn Trãi<br />
được hiện lên chân thật, tinh tế, thẳm sâu<br />
qua Quốc âm thi tập – tập nhật ký bằng thơ<br />
của Người.*<br />
Thơ Nôm của Nguyễn Trãi, phần lớn được<br />
sáng tác vào những năm cuối đời, khi “Tuổi<br />
đã năm mươi đầu đã bạc”. Đó là khi nhà thơ<br />
đã trải qua chặng đường nhân sinh hơn 50<br />
năm với bao thăng trầm, vinh quang và cay<br />
đắng, tự hào và tiếc nuối. Chuỗi bi kịch của<br />
bề tôi trung không được tin dùng; bi kịch của<br />
con người khát khao cống hiến mà buộc phải<br />
sống nhàn; bi kịch của con người cô đơn,<br />
thiếu vắng tri âm...cùng một lúc dồn dập đến<br />
với Nguyễn Trãi trong những năm tháng “khó<br />
ngặt” này. Cảnh ngộ bấy giờ khiến ông chỉ có<br />
thể trải lòng mình trên những trang thơ. Có lẽ,<br />
chưa bao giờ con người cá nhân của Nguyễn<br />
Trãi lại được hiện lên trọn vẹn, đầy đủ, sâu<br />
sắc với mọi góc cạnh như ở Quốc âm thi tập.<br />
*<br />
<br />
Tel:0913 354944, Email: phamphuongthai@gmail.com<br />
<br />
Từ anh hùng dân tộc bản lĩnh cứng cỏi, có<br />
phần ngang tàng đến con người nghệ sĩ đa<br />
sầu, đa cảm. Từ tiên ông cốt cách thanh cao<br />
đến đến “thôn nhân” giản dị. Từ những hoài<br />
bão lớn lao vì dân vì nước của bậc vĩ nhân<br />
đến những rung động, khao khát tự nhiên,<br />
chính đáng của thường nhân...<br />
“Xênh xang làm mỗ đứa thôn nhân”<br />
Nguyễn Trãi có hơn 10 năm làm quan dưới<br />
triều Lê sơ. Không phải đợi đến năm 1439<br />
“lui về đất nho thần” mà ngay những năm<br />
tháng còn “đương quyền tướng phủ”, ông đã<br />
chọn lối sống giản dị, thanh bần:<br />
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,<br />
Rau trong nội, cá trong ao.<br />
(Bài 35)<br />
Chốn ở chái căn lều lá,<br />
Mùa qua chằm bức áo sen<br />
(Bài 143)<br />
Ngoài mong ước làm bạn với mây ngàn, hạc<br />
nội, thú vui của Ức Trai tiên sinh là được kết<br />
bạn với “mấy đứa ngư tiều”, với “chúng<br />
thằng chài”. Nhà thơ mãn nguyện với cuộc<br />
sống của một thôn nhân “Xênh xang làm mỗ<br />
đứa thôn nhân” (Bài 33), chẳng hề vướng bận<br />
tục trần “Ngủ thì nằm, đói lại ăn/ Việc vàn ai<br />
hỏi áo bô cằn” (Bài 110). Ông nhận ra niềm<br />
vui trong công việc cuốc cày: Cuốc cày là thú<br />
những thồn chân. Đôi khi, còn có sự hòa kết<br />
giữa thú vui của lão nông với nhã hứng của<br />
nghệ sĩ trong lời tâm sự của Nguyễn Trãi:<br />
195<br />
<br />
Phạm Thị Phương Thái<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Một cày một cuốc thú nhà quê,<br />
Áng cúc lan chen vãi đậu kê.<br />
(Bài 48)<br />
Cày chống tuyết ngâm đòi cảnh,<br />
Cuốc chơi xuân khắp mọi đồi.<br />
(Bài 13)<br />
Ức Trai tiên sinh nhắc đến những công việc<br />
đồng áng một cách thuần thục, say mê như<br />
một điền ông thực thụ:<br />
Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ<br />
ương sen.<br />
(Bài 69)<br />
Vun đất ải, luống mùng tơi<br />
(Bài 10)<br />
Nguyễn Trãi giản dị từ nếp sống đến lối diễn<br />
đạt. Trong thơ Nôm, chủ yếu ông học cách<br />
nói của người bình dân giản dị, dễ hiểu, dễ<br />
nhớ với lối nói vần vè nhịp nhàng, lối ví von,<br />
so sánh sinh động. Vì thế, bên cạnh những<br />
câu thơ trác tuyệt, điệu đà, xứng đáng xếp vào<br />
loại câu thơ Việt đẹp vào bậc nhất, Nguyễn<br />
Trãi có không ít câu thơ mang vẻ đẹp của sự<br />
dung dị, tự nhiên:<br />
Mưa thu rưới ba đường cúc,<br />
Luống xuân đưa một luống lan.<br />
(Bài 17)<br />
Thời nghèo sự biến nhiều bằng tóc<br />
(Bài 46)<br />
Tôi ngươi một tiết bền bằng đá<br />
(Bài 82)<br />
Hơn 10 năm dưới triều Lê sơ, quan Nhập nội<br />
hành khiển họ Nguyễn đã chọn cách sống<br />
giản dị, thanh liêm trong sạch như nước, nhà<br />
trống không như chỗ treo khánh, cảnh thanh<br />
tĩnh như chùa chiền, lòng không chút vướng<br />
bận về vật chất. Đó là lẽ sống thật bình dị,<br />
thanh cao mà thật vĩ đại:<br />
Quan thanh bằng nước nhà bằng khánh,<br />
Cảnh ở tựa chiền lòng tựa sàng .<br />
(Bài 117)<br />
“Viện có hoa tàn chăng quét đất/Nước còn<br />
nguyệt hiện xá thôi chèo”<br />
Có lẽ cái tên Nguyễn Trãi như định sẵn bản<br />
tính (Trãi 豸– tên một loài thú trong trí tưởng<br />
huyển thoại, chỉ có một sừng thẳng ở giữa<br />
196<br />
<br />
96(08): 195 - 198<br />
<br />
trán. Loài thú này có đặc tính biết phân biệt<br />
người tà, người chính. Đời cổ dùng loại thú<br />
này để húc đánh những người có tính gian tà,<br />
nham hiểm, không ngay thẳng) [4.13]. Đó là<br />
bản lĩnh cứng cỏi, khí phách hiên ngang “Cốt<br />
lãnh hồn thanh chăng khứng hóa” (Bài 54).<br />
Dẫu biết rằng, cái chết sẽ treo trên đầu, nếu<br />
một khi “càng còn đi” con đường của riêng<br />
mình, nhưng Nguyễn Trãi vẫn nguyện là con<br />
thuyền nhỏ, đơn độc, mải miết bơi chải giữa<br />
phong ba bão táp, không chịu dừng đỗ<br />
“Thuyền mọn còn chèo chăng khứng đỗ”<br />
(Bài 14). Trước uy vũ, uy quyền, ông khẳng<br />
khái, tỏ rõ thái độ cứng cỏi, cương quyết,<br />
thách thức:<br />
Chớ cậy sang mà ép nề,<br />
Lời chẳng phải vẫn khôn nghe.<br />
(Bài 44)<br />
Kiên cường, bất khuất, “bướng bỉnh” là thế<br />
nhưng trái tim của anh hùng ấy lại rung lên<br />
những tiếng tơ mỏng manh trước những điều<br />
rất đỗi bình dị. Người nâng niu nhặt từng<br />
cánh hoa tàn dưới ánh trăng mờ:<br />
Nhặt hoa tàn xem ngọc rụng,<br />
Soi nguyệt xủ kẻo đèn khêu.<br />
(Bài 105)<br />
Hành động của người anh hùng Nguyễn Trãi<br />
khiến ta chạnh nhớ đến tiểu thư đa sầu đa cảm<br />
Lâm Đại Ngọc từng chôn cánh hoa đào, khóc<br />
thương cho kiếp hoa tàn. Tiếc thương cánh<br />
hoa tàn, thi nhân họ Nguyễn không nỡ quét<br />
sân, sợ vỡ ánh trăng, chẳng dám khua mái<br />
chèo, khuấy động mặt nước.<br />
Viện có hoa tàn chăng quét đất,<br />
Nước còn nguyệt hiện xá thôi chèo.<br />
(Bài 32)<br />
Tâm hồn của thi nhân tinh tế, thanh tao đến<br />
mức sợ làm bi thương đến cảnh vật, tránh thả<br />
cá vào ao hồ để mặt trăng hiện lên trọn vẹn<br />
hơn, nguyên khôi hơn; ngại phát cây để được<br />
rước chim về chốn ngủ:<br />
Đìa tham nguyệt hiện chăng buông cá,<br />
Rừng tiếc chim về ngại phát cây.<br />
(Bài 28)<br />
Thế mới biết, trái tim của bậc đại trượng phu<br />
“uy vũ bất năng khuất” ấy đa sầu đa cảm đến<br />
<br />
Phạm Thị Phương Thái<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
nhường nào! Quả đúng là “Người rất cứng cỏi<br />
là Nguyễn Trãi, mà người rất mềm mại cũng<br />
là Nguyễn Trãi” [3,23].<br />
“Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành”.<br />
Nguyễn Trãi làm thơ Nôm chủ yếu vào tuổi<br />
xế chiều. Thế nhưng nhà thơ rất hay nhắc đến<br />
“xuân” (53 lần) với cảm xúc “tiếc xuân”, “tiếc<br />
cảnh xuân”, “tiếc thiếu niên”, “thương đến<br />
tuổi”, “tiếc khuâng khuâng”... Thương tiếc<br />
ngày xanh, cảm xúc tự nhiên ấy được nhà thơ<br />
lý giải hết sức đơn giản: Tiếc tuổi xuân bởi đã<br />
bỏ lỡ những cơ hội tốt lành để thực hiện khát<br />
vọng riêng tư:<br />
Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành,<br />
Hoa hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình<br />
(Bài 202)<br />
Nỗi tiếc nuối ấy là lẽ thường tình mà đời<br />
người ai cũng trải nghiệm. Đó là xúc cảm của<br />
con người khi đã ở bên kia dốc cuộc đời nhìn<br />
lại chặng đường đã qua. Với Nguyễn Trãi,<br />
niềm tiếc nuối đó càng trở nên đau đáu, da<br />
diết. Bởi lẽ, những tháng ngày xanh, tươi đẹp<br />
của cuộc đời là lúc ông “nếm mật nằm gai”,<br />
“quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã<br />
tinh, lẽ hưng phế đắn đo càng nghĩ...”. Bao<br />
nhiêu tâm lực, Nguyễn Trãi dốc hết phụng sự<br />
Lê Lợi kháng chiến bình Ngô. Nguyễn Trãi tự<br />
hào về một quãng thời gian đắc chí nhất của<br />
đời mình, nhưng cũng không khỏi ngậm ngùi<br />
tiếc nuối thời hoa niên, bởi biết rằng bao cơ<br />
hội duyên lành đã vuột khỏi tầm tay, để đến<br />
bây giờ chuyện hoa hoa nguyệt nguyệt cũng<br />
trở nên vô tình với mình. Không giấu giếm<br />
cảm xúc đó, đồng thời Nguyễn Trãi cũng<br />
chẳng ngại ngần giãy bày khát vọng tình yêu,<br />
cho dù tuổi đã xế chiều:<br />
Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng,<br />
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.<br />
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ,<br />
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng.<br />
(Bài 208)<br />
Bài thơ tựa hồ lời tỏ tình tế nhị, chân thành và<br />
sâu nặng. Nhiều người cho rằng đây là giai<br />
thoại về câu chuyện tình giữa nhà thơ và cô<br />
hàng chiếu Nguyễn Thị Lộ. Tạm gác lại<br />
<br />
96(08): 195 - 198<br />
<br />
những điều tồn nghi về giai thoại, chúng ta<br />
vẫn có thể cảm nhận ở thi nhân một sự thành<br />
thực về khát vọng tình yêu. Nguyễn Trãi đã<br />
sống thành thực với những cảm xúc tiếc nuối<br />
xuân xanh, khao khát tình yêu của chính<br />
mình. Điều đáng trân trọng hơn, ông đã<br />
không ngại ngần, không chút giấu giếm thốt<br />
lên lời con tim, cho dù cuộc đời đã ngả chiều<br />
hôm. Đó là những bộc bạch của người “sống<br />
trần thế nhất trần gian” [3,30]. Tiếc nuối tuổi<br />
xuân, khao khát tình yêu... là cảm xúc,<br />
nguyện vọng tự nhiên, chính đáng trong mỗi<br />
con người biết sống và dám sống. “Phần con<br />
người thông thường, cái phần như mọi người<br />
thường, làm cho một vĩ nhân mới hoàn chỉnh<br />
là một vĩ nhân trọn vẹn” [3,44]. Hào quang<br />
tỏa sáng từ con người vĩ đại Nguyễn Trãi bởi<br />
những điều bình dị như thế.<br />
Nguyễn Trãi - “bậc vĩ nhân hoàn chỉnh” (chữ<br />
dùng của Xuân Diệu). Sự vĩ đại của Người<br />
không chỉ toát lên từ phẩm chất, nhân cách,<br />
tài năng, trí tuệ của người anh hùng cứu quốc,<br />
của nhà văn hóa Đại Việt mà còn được tỏa<br />
sáng từ lẽ sống, cách sống, những rung động,<br />
xúc cảm, khao khát rất đỗi bình dị. Đâu chỉ là<br />
“ông tiên sống trong nhà ngọc” (Nguyễn<br />
Mộng Tuân), Nguyễn Trãi là “người sống<br />
trần thế nhất trần gian” (Xuân Diệu). Đó là sự<br />
“thực hiện trọn vẹn của Nguyễn Trãi”<br />
(Amadou - Mahtar M’bow) mà hậu thế có thể<br />
nhận ra qua Quốc âm thi tập.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Amadou – Mahtar M’bow, “Sự thực hiện trọn<br />
vẹn của Nguyễn Trãi”, Nguyễn Trãi về tác gia và<br />
tác phẩm, Nxb Giáo dục, H, 1999.<br />
[2]. Xuân Diệu, “Quốc âm thi tập, tác phẩm mở<br />
đầu nền thơ cổ điển Việt Nam”, Các nhà thơ cổ<br />
điển Việt Nam, Nxb Văn học, H, 1998.<br />
[3]. Tế Hanh, “Hồn thơ đa dạng của Nguyễn<br />
Trãi”, Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nxb<br />
Giáo dục, H, 1999.<br />
[4]. Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập (trong Ức Trai<br />
di tập), Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm phiên<br />
âm chú giải, Nxb Văn Sử Địa, H, 1956.<br />
[5].Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nguyễn Trãi<br />
toàn tập tân biên, tập 3, Nxb Văn học, H, 2000.<br />
<br />
197<br />
<br />
Phạm Thị Phương Thái<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
96(08): 195 - 198<br />
<br />
SUMMARY<br />
NGUYEN TRAI – THE PERFECT GREAT MAN<br />
Pham Thi Phuong Thai*<br />
College of Sciences – TNU<br />
<br />
Through many centuries, in the sense of people belonging the later generation, Nguyen Trai has<br />
been like a great man while a lot of his usual characteristics seem to have received little attention.<br />
In fact, the greatness of the great man – Nguyen Trai is well-up not only from his quality,<br />
personality, talent, intellectual thinking of the hero saving the country as well as of Vietnamese<br />
humanist but also from his lifestyle and very simple vibrations, emotions and desires. Mr. Uc Trai<br />
are both “the Buddha living a house of jade” and “the man living the most idyllically”. That is also<br />
his absolute perfection which nowadays readers can realize through his best-known work - “Quoc<br />
am thi tap”.<br />
Key words: Nguyen Trai, the great man, personality, vibration, desire, the idyllic man<br />
<br />
*<br />
<br />
Tel:0913 354944, Email: phamphuongthai@gmail.com<br />
<br />
198<br />
<br />