Nhà thơ
Lý Tử Tấn
L ý TTấn (sau đổi là Nguyễn Tử Tấn) hiệu Chuyết Am, sinh m
1378, quê làng Triu Đông, huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã n Minh,
huyện Thường Tín, tỉnh y). Ông thi đThái học sinh năm 1400, cùng
khoa vi Nguyễn Trãi, dưới triều Hồ Quý Ly, nhưng không ram quan.
Sau khi Lợi khởi nghĩa chống Minh, Tử Tấn đã theo Li và
được giao giữ chức n cáo, tức là m nhim vụ thảo công văn, giấy tờ, thư
tín...
Cuộc kháng chiến chống Minh kết thúc thắng li, vương triều Lê ra
đời, TTấn lại mặt trong công cuộc xây dựng vương triều mới. Ông
làm quan ti chức Nhập nội hành khiển tri tam quán kiêm Nhập thị kinh
diên, trải 3 đời vua: Lê Thái T(1428 - 1433), Lê Thái Tông (1434 - 1442),
Nhân ng (1443 - 1459). TTấn mất m o chưa rõ. Căn cứ vào
bài tựa sách Việt âm thi tập, Tử Tấn viết năm 1459, thể suy đoán ông
mất phải sau nămy, tức là ông thhơn 80 tuổi.
Trong lch svăn học Việt Nam, tên tuổi TTấn gắn liền với bài
Phú Xương Giang, ông viết để ca ngợi chiến công ngày 3-11-1427 ca nghĩa
quân Lam n đã tiêu diệt 7 vạn quân Minh và bắt sống my trăm tướng
lĩnh ca giặc tại Xương Giang trong đó có Thôi T, Hoàng Phúc. Qua i
Phú Xương Giang người đọc không chỉ thấy TTấn một trái tim yêu
nước thiết tha, một tinh thần thào dân tộc mà còn có một tưởng chính trị
sâu sc khi ông nói về sự thành bi trong việc giữ nước.
Theo ông, muốn giữ vững nước, không cốt núi sông him yếu,
không cốt binh hùng tướng mạnh, điều căn bản là phải có con người,
chính nghĩa:
Có đức công mới lớn
Có người đất mới linh
Giữ nước không cốt ở hiểm yếu
Giữ dân không cốt ở hùng binh.
Strường n học của Tử Tấn là m phú. n cnh PXương
Giang, ông n hơn 20 i pkhác, trong đó CLinh n phú, Triều
tinh phú, Quân chu phú, Hội anh diện p... là những bài giá trcao về
nội dung và ngh thuật, phản ánh tình cm nồng thắm đối với đất nước, lòng
lo nước, thương đời của Tử Tấn. Di sản phú ca Tử Tấn để lại được
chép trong Hoàng Việt văn tuyển và Qun hiền phú tập.
T Tấn sáng tác khá nhiu t nhưng thất lạc cũng nhiu, hiện ch
còn hơn 70 i nằm rải rác các sách Việt âm thi tập, Tinh tuyển cgia
luật thi, Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển.
TTấn m ttrên quan điểm thi pháp của mình. Ông từng i:
"Tôi cho rằng phép m thơ khó lắm thay! Thơ luật chỉ 56 chữ, ttuyệt
li chỉ 28 chữ, đmọi thể cách. Muốn thơ ckính, thanh đạm thì
li gần với thô; muốn đẹp đẽ, phong pthì lại gần slòe loẹt; hào phóng
thì dbng thả, thật thà thì dquê mùa. Cho n lời ý giản dị đầy đủ, mạch
lạc thông suốt, chất phác mà vẫn nhã, mi l mà kng trúc trc, trung hậu
nhưng kng thô kệch, cao siêu vẫn ôn hòa, đó là nhng điều rất kcó
thđạt được" (Tựa ch Việt âm thi tập). Nhận xét về tLý TTấn, Phan
Huy Cviết: "Thơ ông chuộng gin dị, phần nhiều có ý t cổ". Đọc thơ
TTấn, chúng ta bắt gặp một m hồn thanh thản, ung dung, cao khiết,
gặp một thiên nhiên trong mát vi những hương v của hoa trái, cua đồng,
của trời, nước, nắng gió hiền hòa; tất cả, chỉ thể tìm thấy trong thế giới
tinh thần tĩnh tại á Đông xưa:
Nắng hòe êm dịu xế tường vôi,
Mềm mại chồi sen quạt gió trời.
Sắc lẫn màu thu trời rợn bóng,
ánh lồng vẻ núi nước trong ngời.
Cua vàng gạch óng vào đăng sớm,
Phật thủ da xanh nở múi rồi,
Bình sẵn ợu ngon vui cứ uống,
Đợi gì giậu cúc nhị vàng phơi.