HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ CÚC
NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ CỦA VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ CÚC
NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ CỦA VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 9 31 01 02
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. AN NHƢ HẢI
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Cúc
MỤC LỤC
10
Trang 1
MỞ ĐẦU Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ 1.1. Các công trình nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài về nhân lực để phát
triển ngành công nghiệp nội dung số
10
1.2. Những nghiên cứu trong nước có liên quan đến nhân lực để phát triển
ngành công nghiệp nội dung số
20
1.3. Những kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài, vấn đề đặt ra và hướng
nghiên cứu của luận án
27
32
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ 2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò nhân lực để phát triển ngành công nghiệp
nội dung số
32
2.2. Yếu tố cấu thành nhân lực để phát triển ngành công nghiệp nội dung số,
tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng
51
2.3. Kinh nghiệm của một số nước về phát triển nhân lực ngành công nghiệp
nội dung số
69
76
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ CỦA VIỆT NAM 3.1. Khái quát quá trình ra đời và phát triển ngành công nghiệp nội dung số
Việt Nam
76
3.2. Chủ trương, biện pháp tổ chức và thực trạng nhân lực để phát triển ngành
công nghiệp nội dung số Việt Nam từ 2008 đến nay
81
3.3. Đánh giá chung thực trạng nhân lực để phát triển ngành công nghiệp nội
dung số ở Việt Nam
111
122
Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ CỦA VIỆT NAM 4.1. Dự báo và phương hướng về nhân lực để phát triển ngành công nghiệp
nội dung số Việt Nam đến năm 2030
122
4.2. Giải pháp về nhân lực để phát triển ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam
thời gian tới
129 148
KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
150 151
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CN : Công nghiệp
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTT : Công nghệ thông tin
CNTT&TT : Công nghệ thông tin và truyền thông
DN : Doanh nghiệp
HDI : Human development index (Chỉ số phát triển con người)
NDS : Nội dung số
NL : Nhân lực
TT&TT : Thông tin và truyền thông
UN : United Nations (Liên hợp quốc)
UNDP : United Nations Development Programme (Chương trình
Phát triển Liên hợp quốc)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Tổng hợp hiện trạng Internet ở Việt Nam 2003-2005 77
Bảng 3.2: Bức tranh về ngành công nghiệp nội dung số của Việt Nam
2015-2018 81
Bảng 3.3: Một số dự án thuộc chương trình giai đoạn 2015 - 2020 do
ngân sách Trung ương đảm bảo 90
Bảng 3.4: Số lượng nhân lực ngành công nghiệp nội dung số của
Việt Nam: tổng số và phân theo lĩnh vực hoạt động giai đoạn
2008 - 2018 92
Bảng 3.5: Trình độ tin học và ngoại ngữ của người lao động trong ngành
công nghiệp nội dung số Việt Nam giai đoạn 2008-2018 100
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Diễn biến về nhân lực CN NDS Việt Nam theo ngành, lĩnh
vực hoạt động giai đoạn 2008-2018 93
Hình 3.2: Quy mô nhân lực ngành công nghệ thông tin của Việt Nam
phân chia theo lĩnh vực hoạt động giai đoạn 2008 - 2018 94
Hình 3.3: Số năm làm việc của người lao động trong Tổng công ty
Truyền thông đa phương tiện (VTC) năm 2018 95
Hình 3.4: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động trong ngành
công nghiệp nội dung số Việt Nam giai đoạn 2008-2018 96
Hình 3.5: Phát triển nhân lực ngành công nghiệp nội dung số Việt
Nam theo trình độ học vấn ở một số năm 97
Hình 3.6: Tỷ trọng nhân lực làm việc trong các lĩnh vực thuộc ngành
công nghiệp nội dung số Việt Nam năm 2008 và năm 2018 102
Hình 3.7: Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của nhân lực tại ngành
công nghiệp nội dung số Việt Nam năm 2008 và năm 2018 104
Hình 3.8: Cơ cấu độ tuổi của người lao động trong ngành công nghiệp 104
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới đang ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư (The Fourth Industrial Revolution), với vai trò chủ đạo là các công
nghệ kỹ thuật số mới. Trong giai đoạn này, hầu khắp các nền kinh tế quốc
gia đều thực hiện việc chuyển đổi mạnh mẽ từ sử dụng các công nghệ
truyền thống sang sử dụng hệ thống công nghệ mới chưa từng có trong lịch
sử, trong đó có sự kết hợp các công nghệ kỹ thuật số, sinh học và vật lý
trong tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị và xã hội. Những hệ thống mới
này được xây dựng trên kết cấu hạ tầng của cuộc cách mạng kỹ thuật số.
Những công nghệ mới của cuộc cách mạng kỹ thuật số đã và đang lần lượt
được biết đến, dẫn đầu là trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big data),
tiếp theo là sự tiến hóa lần thứ ba của Internet, Internet vạn vật (IoT),
Blockchain, kinh tế chia sẻ (hay còn gọi là kinh tế hợp tác - sharing
economy), máy in 3D, 4D và dịch vụ đám mây. Trong các ngành mới được
biết đến, có ngành công nghiệp nội dung số (Digital content industry).
Công nghiệp nội dung số (CN NDS) là ngành kinh tế đang ngày càng được
nhắc đến nhiều hơn trong thời đại bùng nổ thông tin thế hệ mới và được
xem là xu thế tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất, sản phẩm của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, có tác động mạnh mẽ không chỉ
tăng năng suất lao động xã hội và nâng cao hiệu quả kinh tế, mà còn thúc
đẩy sự phát triển mới của quan hệ sản xuất trong các hình thái kinh tế - xã
hội theo hướng ngày càng hiện đại hơn.
Về lịch sử, ngành CN NDS thế giới thực sự bắt đầu phát triển vào
nửa cuối những năm 1990 khi máy tính cá nhân (PC), hệ điều hành
Windows, phần mềm xử lý ảnh số - video số, trình duyệt Internet trở nên
phổ biến và Internet lan rộng trên khắp thế giới khiến cho các nội dung số
được sản xuất, trình bày, truyền dẫn, trao đổi, mua bán một cách dễ dàng.
2
Sau 20 năm ra đời, ngành CN NDS thế giới đã có bước phát triển
mạnh mẽ. Theo McKinsey và Company, năm 2008, tổng doanh thu của
ngành trên toàn cầu là 308,374 tỷ USD, năm 2009 là 344,346 tỷ USD.
Theo phân tích thị trường hàng năm của Pricewaterhouse Coopers (PwC) -
một Công ty kiểm toán hàng đầu trên thế giới, thì tổng giá trị thị trường
trên toàn thế giới của ngành CN NDS năm 2013 là 1.733 tỷ USD, đến năm
2017 đạt 2.115 tỷ USD và duy trì xu hướng tăng trưởng trung bình khoảng
5-6%/năm. Ngành CN NDS đã phát triển và vươn lên mạnh mẽ ở các quốc
gia châu Á như Hàn Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Singapore, Hồng
Kông… Để phát triển ngành kinh tế này, yếu tố tri thức, con người hay
nhân lực (NL) trực tiếp làm việc trong ngành CN NDS là một bộ phận
nguồn lực đặc biệt quan trọng [136].
Tại Việt Nam, ngành CN NDS chính thức ra đời và được thừa nhận
kể từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 56/2007/QĐ-TTg
ngày 03/5/2007, phê duyệt Chương trình phát triển CN NDS Việt Nam đến
năm 2010. Trong đó, đã nêu ra các quan điểm, mục tiêu, chính sách và giải
pháp nhằm phát triển ngành CN NDS trong giai đoạn tới. Đến nay, sau hơn
10 năm hình thành và phát triển, ngành CN NDS của Việt Nam đã có nhiều
loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng trong các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, giáo dục, giải trí trực tuyến, ứng dụng di động… Đã có doanh
nghiệp (DN) CN NDS Việt Nam lọt vào top 5 DN cùng ngành lớn nhất của
Đông Nam Á, đủ sức cạnh tranh với các DN các nước trong cùng khu vực.
Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT), riêng trong
giai đoạn 2008-2014, ngành CN NDS Việt Nam đã có mức tăng trưởng
bình quân 20%/năm, thu hút hơn 4.500 DN tham gia sản xuất, tạo việc làm
cho gần 60.000 lao động với mức đóng góp ngày càng tăng nhanh trong
tổng sản phẩm quốc dân, góp phần tích cực vào thúc đẩy tăng trưởng của
nền kinh tế [16]. Ngành CN NDS đã và đang phát huy vai trò là một ngành
kinh tế có nhiều tiềm năng, là lực lượng đi đầu trong cuộc cách mạng công
3
nghiệp lần thứ tư, kết nối với thế giới và phát huy tiềm năng sáng tạo, trí
thông minh của người Việt Nam, nhất là của thế hệ trẻ.
Tuy nhiên, trong thực tế, kết quả đạt được của ngành CN NDS ở Việt
Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong
cơ cấu thu nhập toàn ngành công nghệ thông tin (CNTT) nói riêng và của
nền kinh tế quốc dân nói chung. Số lượng DN tuy nhiều, nhưng đa số là
DN nhỏ và vừa, tốc độ phát triển chậm, năng lực cạnh tranh còn yếu. Bên
cạnh đó, nhu cầu xã hội đòi hỏi cần phải có những giải pháp hữu hiệu để
đối phó với các cuộc tấn công mạng dựa trên công nghệ cao và nhu cầu bảo
mật trong thông tin về các hoạt động kinh tế và xã hội. Thực tế đó đòi hỏi
một mặt phải tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và dịch vụ thông
tin dựa trên công nghệ số mới, mặt khác cần nhanh chóng phát triển nhân
lực ngành CN NDS. Năm 2010, Bộ TT&TT đã xây dựng Đề án “Sớm đưa
Việt Nam trở thành nước mạnh về CNTT&TT” và đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt trong Quyết định số 1755/QĐ-TTg với yêu cầu:
“Phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam nằm trong top 10 nước dẫn đầu về
cung cấp dịch vụ gia công phần mềm và Nội dung số”[73]. Theo Quyết
định này, bên cạnh đầu tư mạnh mẽ vào phát triển hạ tầng kỹ thuật, nước ta
phải cấn tới nguồn NL với 148.000 người có năng lực trực tiếp đảm đương
được các công việc trong ngành kinh tế này.
Để đáp ứng yêu cầu trên, việc nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ
thống để tìm giải pháp về NL đảm bảo cho phát triển ngành CN NDS ở
nước ta hiện nay là rất cần thiết. Từ thực tế của ngành những năm qua và
trên quan điểm của Đảng đã được xác định tại Đại hội XII: “Lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”, để góp phần vào lời giải phát triển ngành CN NDS ở Việt Nam,
nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Nhân lực để phát triển ngành công
nghiệp nội dung số của Việt Nam” để nghiên cứu làm luận án tiến sĩ Kinh
tế, chuyên ngành Kinh tế chính trị. Nghiên cứu sinh hy vọng rằng kết quả
4
nghiên cứu sẽ có đóng góp hữu ích, thiết thực trong quá trình giải quyết
vấn đề bức thiết này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xác định cơ sở lý luận và nghiên cứu kinh nghiệm thực
tiễn về NL để phát triển ngành CN NDS, đánh giá thực trạng nguồn lực này
của Việt Nam giai đoạn 2008-2018, chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu và nguyên
nhân để đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm đảm bảo nguồn lực này
đáp ứng yêu cầu phát triển ngành CN NDS của Việt Nam thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa để xác định cơ sở lý luận về NL để phát triển ngành
CN NDS trong điều kiện của Việt Nam trước sự bùng nổ cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư trên thế giới hiện nay.
- Tìm hiểu và nghiên cứu kinh nghiệm đảm bảo về NL để phát triển
ngành CN NDS của một số quốc gia, rút ra bài học kinh nghiệm mà Việt
Nam có thể tham khảo nhằm phát triển ngành CN này.
- Phân tích và đánh giá thực trạng NL để phát triển ngành CN NDS
của Việt Nam giai đoạn 2008 - 2019, làm rõ những kết quả đạt được, hạn
chế và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát triển NL đảm bảo
cho phát triển ngành CN NDS của Việt Nam đến năm 2030.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Nghiên cứu NL để phát triển ngành CN NDS dựa trên tiếp cận là
một nguồn lực chủ yếu của sản xuất, là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và trước yêu cầu
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Do đề tài luận án thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị, nên tác giả chú
5
trọng nghiên cứu các quan hệ kinh tế liên quan đến NL để phát triển ngành
CN NDS bao gồm quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ lợi
ích kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình thu hút, phát triển và sử dụng
nguồn lực này cho phát triển của ngành trên những nét tổng thể.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
+ Phạm vi về nội dung
Về lý luận, nghiên cứu vai trò của NL để phát triển ngành CN NDS, nội
dung, tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm bảo nguồn lực này cho quá trình
phát triển. Về thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước để tìm kiếm
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, đánh giá thực trạng NL để phát triển
ngành CN NDS của Việt Nam và đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm
bảo đảm nguồn lực này cho phát triển ngành CN NDS thời gian tới.
+ Phạm vi về không gian
Luận án tập trung phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp
phát triển NL đang làm việc tại ngành CN NDS của Việt Nam. Ngoài ra, để
nghiên cứu kinh nghiệm bảo đảm NL để phát triển ngành CN NDS, tác giả
còn chú ý đến phạm vi ở những quốc gia có nhiều điểm tương đồng mà
Việt Nam có thể học hỏi.
+ Phạm vi về thời gian
Phạm vi đánh giá thực trạng NL để phát triển ngành CN NDS của
Việt Nam được xác định trong giai đoạn 2008-2018. Phạm vi để đề xuất
phương hướng và giải pháp NL để phát triển ngành này tính đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận và phương pháp tiếp cận nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên phương pháp tiếp cận và cơ sở lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về NL cho phát triển kinh tế trong điều
kiện lịch sử cụ thể của lực lượng sản xuất trong các hình thái kinh tế - xã
6
hội. Việc nghiên cứu kinh nghiệm trên thế giới và thực tiễn trong nước còn
dựa trên các quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam
có tính đến những phát triển mới trong lý luận kinh tế chính trị hiện đại
nhằm xây dựng khung lý thuyết, phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp
cho vấn đề nghiên cứu trên quan điểm khoa học và có tính thiết thực.
- Phương pháp tiếp cận nghiên cứu
Luận án tiếp cận các vấn đề nghiên cứu từ các khía cạnh sau:
Về lý luận, dựa trên quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử, tác giả tiếp
cận vấn đề NL để phát triển ngành CN NDS từ góc độ một bộ phận nguồn
lực cơ bản, có tính quyết định nhất và đặt trong quan hệ với các nguồn lực
cơ bản khác để phát triển ngành công nghiệp này.
Về thực tiễn, sử dụng các phương pháp tiếp cận thực tiễn gồm thu
thập và xử lý các nguồn tài liệu chính thức, nhất là những tài liệu của các
cơ quan quản lý có liên quan trực tiếp đến nguồn NL để phát triển ngành
CN NDS của Việt Nam trong phạm vi thời gian đối tượng nghiên cứu đã
xác định trong luận án.
Tiếp cận mục tiêu, chiến lược phát triển NL để phát triển ngành CN
NDS phục vụ cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam trong điều kiện cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư nhằm phát triển lực lượng sản xuất sớm đưa nước ta
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập khu vực và thế giới trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Về tổng quát, để nghiên cứu một đề lài luận án tiến sĩ thuộc chuyên
ngành kinh tế chính trị, trước hết, tác giả sử dụng các phương pháp chung,
phổ biến trong nghiên cứu lý luận gồm: phương pháp hệ thống hóa, phương
pháp logic kết hợp với lịch sử, phân tích và tổng hợp, phương pháp thống
kê, so sánh để làm rõ bản chất, nội dung và sự vận động của đối tượng
7
nghiên cứu. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp có tính đặc thù
trong nghiên cứu kinh tế chính trị như phương pháp trừu tượng hóa khoa
học, kết hợp với sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phương
pháp thu thập tài liệu từ các nguồn, báo cáo chính thức về đối tượng nghiên
cứu; phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp mô hình, lập bảng số
liệu, đồ thị trong phân tích, đánh giá thực tiễn đối tượng nghiên cứu.
Cụ thể, việc sử dụng phương pháp nghiên cứu trong các chương của
luận án như sau:
Chương 1, sử dụng phương pháp thu thập, phân loại tài liệu bao gồm
các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước là các đề tài khoa học, các luận
án tiến sĩ, các chuyên đề và báo cáo khoa học của các tổ chức và tác giả đã
công bố có liên quan đến chủ đề nghiên cứu luận án mà nghiên cứu sinh đã
lựa chọn. Sử dụng phương pháp phân tích, đối chiếu để xác định những kết
quả đạt được của các công trình đã công bố có liên quan đến đề tài luận án,
phát hiện khoảng trống về lý luận và thực tiễn cần được tiếp tục nghiên cứu
và giải quyết, lựa chọn phạm vi nội dung nghiên cứu, điểm mới và đóng góp
mới trong kết quả thực hiện đề tài luận án của nghiên cứu sinh.
Chương 2, sử dụng phương pháp hệ thống hóa, trừu tượng hóa khoa
học, phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử để xác định bản chất, vài trò,
nội dung, tiêu chí đánh giá và các điều kiện hay nhân tố ảnh hưởng đến NL
để phát triển ngành CN NDS của Việt Nam trong điều kiện cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư. Nghiên cứu sinh sẽ sử dụng phương pháp thu thập
tài liệu, phương pháp mô tả, phân tích và tổng hợp trong nghiên cứu kinh
nghiệm thực tiễn các nước mà Việt Nam có nhiều điểm tương đồng về đảm
bảo NL để phát triển ngành CN NDS nhằm rút ra bài học có thể tham khảo
phục vụ cho giải quyết vấn đề nghiên cứu đặt ra trong luận án.
Chương 3, sử dụng các phương pháp thu thập tài liệu và số liệu,
phương pháp mô tả, xử lý thông tin, phương pháp thực chứng, thống kê,
8
mô tả bằng các bảng số liệu, mô hình, đồ thị… để phân tích, tổng hợp, so
sánh, đối chiếu với lý luận và đánh giá thực trạng NL để phát triển ngành
CN NDS của Việt Nam, làm rõ đối tượng nghiên cứu cả về mặt định tính
và định lượng, chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu, hạn chế và nguyên nhân hạn
chế trong đảm bảo nguồn lực này cho quá trình phát triển ngành CN NDS
Việt Nam từ năm 2008 đến nay.
Nguồn tài liệu sử dụng phục vụ cho công trình nghiên cứu trong luận
án là tài liệu thứ cấp, một số nhận định, đánh giá được tác giả rút ra từ
những kinh nghiện thực tế công tác của bản thân tại Tổng công ty Truyền
thông đa phương tiện (VTC) là một trong những đơn vị đi đầu và đặt nền
móng cho sự hình thành và phát triển của ngành công nghiệp CN NDS của
Việt Nam. Các tài liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn chính thức trên
các báo cáo và được công bố trên các sách, báo, tạp chí và các công trình
nghiên cứu có liên quan ở trong và ngoài nước; các tài liệu của các cơ quan
quản lý ngành CN NDS và các cơ quan có liên quan như Bộ Kế hoạch và
Đầu tư và Văn phòng Chính phủ trong phạm vi thời gian mà luận án xác
định nghiên cứu.
Chương 4, sử dụng các phương pháp dự báo để làm rõ triển vọng
phát triển ngành CN NDS, các yếu tố tác động đến NL để phát triển ngành
CN NDS của Việt Nam trong 10 năm tới. Sử dụng phương pháp tổng hợp
dựa trên cơ sở lý luận, kinh nghiệm các nước, thực trạng NL để phát triển
ngành CN NDS của Việt Nam và định hướng chiến lược phát triển nguồn
lực này để đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm thu hút, sử dụng và
nâng cao chất lượng nguồn lực này đáp ứng yêu cầu phát triển ngành CN
NDS Việt Nam thời gian tới.
Trong quá trình nghiên cứu, nghiên cứu sinh còn sử dụng phương
pháp hệ thống thông qua kế thừa và tiếp thu có chọn lọc một số kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học và các luận án đã công bố có liên
9
quan đến NL để phát triển ngành CN NDS ở trong và ngoài nước để tránh
sự trùng lặp không cần thiết, bảo đảm tính liên tục trong tư duy khoa học,
góp phần vào phát triển nhận thức lý luận và giải quyết vấn đề nghiên cứu.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Đóng góp về lý luận:
Góp phần xác định cơ sở lý luận về NL để phát triển ngành CN NDS
của Việt Nam trong bối cảnh mới của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư với các nội dung vai trò và sự cần thiết phải đảm bảo NL để phát triển
ngành CN NDS, nội dung, tiêu chí đánh giá và các nhân tố tố ảnh hưởng
đến việc đảm bảo nguồn lực này đáp ứng yêu cầu phát triển ngành CN
NDS của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Đóng góp về thực tiễn:
Nghiên cứu và rút ra bài học về đảm bảo NL để phát triển ngành CN
NDS của một số nước để Việt Nam có thể tham khảo, học hỏi.
Tổng kết, đánh giá thực trạng NL để phát triển ngành CN NDS của
Việt Nam giai đoạn 2008-2018, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm
thu hút, sử dụng và phát triển nguồn lực này đáp ứng yêu cầu phát triển
ngành CN NDS của Việt Nam đến năm 2030.
- Bên cạnh những đóng góp trên, kết quả của luận án còn là tài liệu
tham khảo cần thiết cho những nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách, tổ
chức thực tiễn việc đảm bảo NL để phát triển các ngành kinh tế nói chung,
ngành CN NDS của Việt Nam nói riêng và cho những ai quan tâm đến chủ
đề này.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học của
tác giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận án được kết cấu gồm 4 chương, 11 tiết.
10
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH
CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ Ở NƢỚC NGOÀI
VỀ NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ
1.1.1. Hướng nghiên cứu về vốn nhân lực và vai trò của nhân lực
để phát triển ngành công nghiệp nội dung số
- Những nghiên cứu về vốn nhân lực
Vốn nhân lực (Human Capital) là một thuật ngữ đã được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Khởi xướng tư tưởng về nguồn vốn này là Adam
Smith, nhà kinh tế học người Anh. Trong cuốn “Của cải của các dân tộc”
viết năm 1776, ông cho rằng: có 4 loại vốn cố định (được đặc trưng là loại
vốn mang lại doanh thu hoặc lợi nhuận mà không cần lưu thông hoặc thay
đổi chủ). Đó là: (1) máy móc, công cụ hữu ích của thương mại; (2) các tòa
nhà làm phương tiện mua sắm doanh thu; (3) cải tạo đất; và (4) khả năng có
được và hữu ích của tất cả cư dân hoặc thành viên của xã hội. Trong đó, vốn
NL được hiểu như sau: “khả năng có được và hữu ích của tất cả cư dân hoặc
thành viên của xã hội. Việc có được những tài năng như vậy, bằng cách con
người muốn tiếp thu kiến thức, học tập hoặc học nghề luôn luôn phải trả một
khoản chi phí thực sự, đó là một khoản vốn cố định như chính con người anh
ta. Những tài năng đó tạo ra một phần tài sản của bản thân, đồng thời nó
cũng là tài sản của xã hội mà người đó đang sống. Sự khéo léo được cải
thiện của một công nhân có thể được xem xét như là một cỗ máy hoặc công
cụ thương mại tạo điều kiện thuận lợi và tiết kiệm lao động, và mặc dù nó có
chi phí nhất định, nhưng được hoàn lại bằng lợi nhuận [150].
Từ đó, ông cho rằng có mối quan hệ phức tạp giữa phân công lao
động và vốn nhân lực. Sức mạnh sản xuất của lao động đều phụ thuộc vào
11
sự phân công lao động: Sự cải thiện lớn nhất về năng lực sản xuất của lao
động, và phần lớn hơn về kỹ năng, sự khéo léo và phán đoán mà bất kỳ nơi
nào được chỉ dẫn, hoặc áp dụng, dường như là những tác động của sự phân
công lao động.
Arthur Lewis, nhà kinh tế học người Saint Lucia,người đi đầu trong
lĩnh vực kinh tế phát triển đã nêu ý tưởng về vốn NL khi ông viết vào năm
1954 "Phát triển kinh tế với nguồn cung lao động không giới hạn" [156].
Ông phân biệt sự khác biệt giữa nền kinh tế trong tiêu dùng và nền kinh tế
trong đầu tư và cho rằng việc kiểm tra tiêu dùng của cá nhân cũng là một
sự kiểm tra đầu tư.
Trường phái Tân cổ điển hiện đại, với bài viết "Investment in Human
Capital and Personal Income Distribution" (Đầu tư vào nguồn NL và phân
phối thu nhập cá nhân) của Jacob Mincer trên Tạp chí Kinh tế chính trị
năm 1958 [141]. Sau đó, Theodore Schultz cũng đóng góp vào sự phát triển
của vấn đề. Ứng dụng nổi tiếng nhất về ý tưởng "vốn NL" trong kinh tế học
là của Mincer và Gary Becker của "Trường phái Chicago" về kinh tế. Cuốn
sách “Human Capital” (Vốn NL) [141] của Becker xuất bản năm 1994, đã
trở thành một tài liệu tham khảo chuẩn mực trong nhiều năm. Theo quan
điểm này, vốn con người tương tự như "phương tiện sản xuất vật chất", ví
dụ, nhà máy và máy móc: người ta có thể đầu tư vào vốn con người (thông
qua giáo dục, đào tạo, điều trị y tế) và đầu ra của một người phụ thuộc một
phần vào tỷ suất lợi nhuận của con người vốn một sở hữu. Do đó, vốn con
người là một phương tiện sản xuất, trong đó đầu tư bổ sung mang lại sản
lượng bổ sung. Vốn con người là thay thế, nhưng không thể chuyển
nhượng như đất đai, lao động, hoặc vốn cố định.
Một số lý thuyết tăng trưởng đương đại coi vốn NL là một yếu tố
tăng trưởng kinh tế quan trọng [133]. Nghiên cứu sâu hơn cho thấy sự liên
quan của giáo dục đối với phúc lợi kinh tế của người dân [148].
12
- Vai trò của vốn NL đối với phát triển các ngành kinh tế
Nghiên cứu về vai trò và tầm quan trọng của vốn NL đối với các
nước đang phát triển, Haq, Mahbub ul (1996) [134] cho rằng, sự dư thừa
nguồn NL có sẵn ở các nước này nhiều hơn so với nguồn vốn hữu hình.
Trong điều kiện đó, nguồn NL có thể được chuyển thành vốn NLthành đầu
vào hiệu quả khi được giáo dục, y tế và đạo đức. Việc chuyển NL thô thành
nguồn NL có năng suất cao với các yếu tố đầu vào này là quá trình hình
thành vốn NL. Vấn đề khan hiếm vốn hữu hình ở các nước dư thừa lao
động có thể được giải quyết bằng cách đẩy nhanh tốc độ hình thành vốn
NL bằng cả đầu tư tư nhân và công cộng vào các lĩnh vực giáo dục và y tế
của các nền kinh tế quốc gia. Vốn tài chính hữu hình là một công cụ hiệu
quả để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Mặt khác, vốn con
người vô hình là một công cụ thúc đẩy sự phát triển toàn diện của quốc
gia vì vốn con người liên quan trực tiếp đến sự phát triển của con người,
và khi có sự phát triển của con người, sự tiến bộ về chất lượng và định
lượng của quốc gia là không thể tránh khỏi. Tầm quan trọng của vốn NL
thể hiện rõ trong cách tiếp cận thay đổi của Liên hợp quốc đối với việc
đánh giá so sánh sự phát triển kinh tế của các quốc gia khác nhau trong
nền kinh tế thế giới. Liên hợp quốc công bố Báo cáo phát triển con người
ở các quốc gia khác nhau với mục tiêu đánh giá tốc độ hình thành vốn
nhân lực ở các quốc gia này.
Về tiêu chí đánh giá vốn NL, các nhà nghiên cứu và hoạch định
chính sách đã có sự thống nhất đo lường bằng chỉ số phát triển con người
(HDI), bao gồm chỉ số tuổi thọ, chỉ số giáo dục và chỉ số thu nhập. Nó
phản ánh mối tương quan tích cực giữa hình thành vốn NL và phát triển
kinh tế. Nếu HDI tăng, tỷ lệ hình thành vốn NL sẽ cao hơn để đáp ứng tiêu
chuẩn giáo dục và y tế cao hơn. Tương tự, nếu HDI tăng, thu nhập bình
quân đầu người của quốc gia cũng tăng. Ngẫu nhiên, HDI tiết lộ rằng sự
13
hình thành vốn NL cao hơn do mức độ y tế và giáo dục tốt, thu nhập bình
quân đầu người của quốc gia càng cao. Quá trình phát triển con người này
là nền tảng vững chắc của một quá trình phát triển kinh tế liên tục của quốc
gia trong một thời gian dài. Ý nghĩa này của khái niệm vốn NL trong việc
tạo ra sự phát triển kinh tế lâu dài của quốc gia không thể bị bỏ
qua.Mahroum (2007) quan tâm đến ba năng lực: phát triển tài năng, khả
năng triển khai tài năng và khả năng thu hút nhân tài từ nơi khác là “xương
sống” cho khả năng cạnh tranh vốn NL của bất kỳ quốc gia nào [143]. Các
chính sách kinh tế vĩ mô của tất cả các quốc gia đều tập trung vào việc thúc
đẩy phát triển con người làm cơ sở cho phát triển kinh tế.
Nghiên cứu của E. Ibok và E. Ibanga còn cho thấy, phát triển vốn
con người là một nội dung không thể thiếu nhằm mở rộng tiềm năng của
mọi người và cho phép họ tham gia tích cực vào sự phát triển phát triển
kinh tế. Nó đòi hỏi phải cung cấp phương tiện thông qua đó các kỹ năng,
kiến thức, năng suất và tính sáng tạo của con người được nâng cao [121].
P.V.C. Okoye và Raymond A. Ezejiofor trong “The Effect of Human
Resources Development on Organizational Productivity” (Tác động của
phát triển nguồn nhân lực lên năng suất của tổ chức) [145], xác định mức
độ mà tại đó HRD có hiệu quả có thể nâng cao năng suất nhằm giảm hiệu
suất kém trong tổ chức, hiệu quả của đào tạo và HRD trong sự tăng trưởng
của tổ chức, HRD có tác động đáng kể đến lợi nhuận của tổ chức, các yếu
tố ảnh hưởng đến HRD và năng suất tổ chức, thái độ của quản lý cấp cao
đối với việc sử dụng đúng nguồn NL. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu,
các tác giả đã thu thập dữ liệu sơ cấp và thứ cấp, sử dụng giá trị trung bình,
phương sai và độ lệch chuẩn để phân tích và kiểm định bằng thống kê z-
test. Kết quả nghiên cứu cho thấy HRD là rất quan trọng đối với bất kỳ tổ
chức nào từ nhỏ đến lớn vì một trong những chức năng chính của HRD là
sự cam kết của mọi người trong công việc để đạt được tốc độ tăng trưởng
14
doanh số bán hàng và lợi nhuận. Dựa trên những phát hiện của nghiên cứu
này, các nhà nghiên cứu khuyến cáo rằng các tổ chức cần khắc sâu những
thói quen tham dự các cuộc hội thảo và hội nghị, các công ty nên chắc chắn
rằng nỗ lực của người tuyển dụng được đánh giá theo thời gian để biết
được bằng cách nào họ đóng góp vào việc đạt được mục tiêu của tổ chức,
cũng như chất lượng giáo dục phải là điều kiện tiên quyết cho việc tuyển
dụng, đề bạt và sắp xếp nhân sự.
Bên cạnh đó, có những nghiên cứu cho rằng, khái niệm về vốn NL có
thể co giãn vô hạn, bao gồm các biến số không thể đo lường được như tính
cách cá nhân hoặc kết nối với con người trong cuộc sống (thông qua gia
đình hoặc tình bạn bè). Lý thuyết này đã có một phần đáng kể nghiên cứu
trong lĩnh vực chứng minh rằng tiền công có thể cao hơn cho nhân lực trên
các khía cạnh khác ngoài vốn con người. Một số biến số đã được xác định
trong tài liệu của vài thập kỷ qua bao gồm, chênh lệch tiền công và giới
tính tự nhiên, phân biệt đối xử tại nơi làm việc và tình trạng kinh tế xã hội.
Vốn NL cũng là trung tâm của các cuộc tranh luận về phúc lợi, giáo
dục, chăm sóc sức khỏe và nghỉ hưu. Việc sử dụng thuật ngữ "vốn con
người" dễ bị nhầm lẫn với sự phát triển của con người. Liên Hợp Quốc đề
nghị "Sự phát triển của con người biểu thị cả quá trình mở rộng sự lựa chọn
của mọi người và cải thiện sức khỏe của họ" [157]. Các chỉ số Phát triển
con người của Liên Hợp Quốc cho rằng vốn NL chỉ là phương tiện để kết
thúc sự phát triển của con người: "Các lý thuyết về sự hình thành vốn NLvà
phát triển nguồn NL xem con người là phương tiện để tăng thu nhập và sự
giàu có hơn là kết thúc. Con người là đầu vào để tăng sản lượng" [157]...
- Nghiên cứu về nhân lực liên quan đến phát triển ngành công
nghiệp nội dung số
Bài: “The Digital Divide and the Cognitive Divide: eflections on the
Challenge of Human Development in the Digital Age” (Sự phân chia kỹ
15
thuật số và sự phân chia nhận thức: những sự kiện về thách thức phát triển
con người trong kỷ nguyên số) [106]. Nêu luận điểm cuộc cách mạng kỹ
thuật số đã thay đổi cục diện phát triển. Bản chất đột phá của việc chuyển
đổi đã buộc các quốc gia và xã hội phải thực hiện các dự án và đầu tư lớn.
Tuy nhiên, để hiểu được nền tảng của cuộc cách mạng này là một quá trình
chậm chạp và phức tạp, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển.Giải
quyết NL để phát triển các công nghệ này là cấp thiết. Điều này sẽ luôn
phụ thuộc trực tiếp vào tầm nhìn của xã hội và các nhà lãnh đạo để kích
thích các kỹ năng trí tuệ, năng suất và sáng tạo của công dân, cùng với các
năng lực kỹ thuật cần thiết hơn từ khả năng mà các công nghệ này có thể
làm cho có sẵn.
Chuyên đề: “6 Technological Trends that Redefine Human Resource
Management” (6 xu hướng công nghệ xác định lại quản lý nguồn NL)
[122] của Cơ quan phát triển EU, đưa ra gồm: Tổ chức quyền lực dữ liệu
lớn (Big Data), Ứng dụng di động là tương lai (Mobile Apps are the
Future), Truyền thông xã hội - Một công cụ mạnh mẽ (Social Media - A
Powerful Tool), Công nghệ đám mây và SaaS, Công nghệ thông minh
(BYOT) và Công nghệ may mặc. Đây là các ngành thuộc ngành CN NDS.
Xác định lại phương thức quản lý nguồn NL này đòi hỏi nhà quản lý phải
có hiểu biết và kỹ năng vè ngành CN NDS.
Cuốn “Digital Content: Creativity plus connectivity, driving value,
jobs and competitiveness in business, government and the community
throughout NSW” (Nội dung số: Sáng tạo cộng kết nối, giá trị thúc đẩy,
việc làm và cạnh tranh trong kinh doanh, chính phủ và cộng đồng tại New
South Wales) [89] là một báo cáo của Tập đoàn tư vấn Allen cho chính
quyền New South Wales về vấn đề NDS. Báo cáo đi sâu phân tích lý luận
chung về NDS, phân biệt NDS và vai trò của nó, các bộ phận của nội dung
số tại New South Wales, giá trị kinh tế, việc làm, thương mại trong NDS,
16
các động lực tăng trưởng và những trở ngại cũng như triển vọng cho hoạt
động NDS trong tương lai.
Cuốn “OECD Policy Guidance for Digital Content” (Sổ tay hướng
dẫn chính sách cho NDS của OECD) [144], khẳng định NDS ngày càng
giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Khi
nền kinh tế dịch chuyển theo hướng ngày càng dựa vào các hoạt động thâm
dụng tri thức, giàu thông tin trong đó NDS được tạo ra, sưu tầm, quản lý, xử
lý, lưu trữ, phân phối và truy cập, thì nền kinh tế đó đang mở ra hàng loạt
ngành nghề mới, góp phần thúc đẩy đổi mới, tăng trưởng và tạo thêm nhiều
việc làm. Đồng thời, nó cũng làm cho NDS trở thành trọng tâm của các dịch
vụ nghiên cứu, y tế, giáo dục, xã hội, tri thức, văn hóa và chính phủ. Chính
phủ cần có chính sách phù hợp để thúc đẩy ngành CN NDS phát triển, góp
phần vào tăng trưởng, an sinh xã hội và phổ biến các lợi ích mà NDS mang
lại rộng rãi hơn. Chính vì vậy, cuốn sổ tay hướng dẫn này đã trình bày các
nguyên tắc nhằm giúp cung cấp nền tảng cơ bản cho việc thảo luận, phân
tích, khái quát và phát triển các chính sách liên quan đến NDS.
Bên cạnh các nghiên cứu về mặt lý luận, còn có các nghiên cứu về
kinh nghiệm phát triển CN NDS ở các quốc gia, tiêu biểu là:
Bài “Creative industries in East Asia” (Các ngành công nghiệp sáng
tạo ở Đông Á) [149], khẳng định quá trình tăng trưởng và các nguồn lực
của nó đang làm thay đổi rất nhiều các lĩnh vực, đặc biệt là tại các nền kinh
tế có thu nhập trung bình và cao hơn của khu vực này. Các hoạt động đổi
mới đặc biệt trong các ngành công nghiệp sáng tạo dựa vào công nghệ cao
tập trung ở những thành phố được kết nối toàn cầu với nhau. Từ phân tích
thực trạng, tác giả bài viết đã đưa ra một số khuyến nghị về chính sách
nhằm tạo ra và cung cấp một môi trường hỗ trợ các hoạt động đổi mới góp
phần mang lại tăng trưởng nhanh chóng.
17
Cuốn “Digital Media in East Asia: National Innovation and the
Transformation of a Region” (Truyền thông số ở Đông Á: Đổi mới quốc gia
và sự chuyển mình của khu vực) [102], trong đó coi truyền thông số là một
nhân tố quan trọng trong quá trình hội nhập của Hàn Quốc, Trung Quốc,
Nhật Bản và Đài Loan, với sự tương tác về kinh tế/thương mại đi kèm với
chia sẻ nội dung và dịch vụ trong khu vực, trong đó chú ý sự “lặng lẽ” gây
dựng sự thống trị toàn cầu của các nước này trong sản xuất, triển khai số và
gần đây nhất là CN NDS. Trong quá trình này, có sự hiện diện ngày càng
chủ động của các chính phủ các nước khu vực Đông Á nhằm hỗ trợ sự lựa
chọn và khuyến khích các ngành mới xuất hiện phát triển.
Bài “Taiwan Digital Content Industries” (Các ngành CN NDS ở Đài
Loan) [114] và “Developing the Digital Content Industry in Taiwan” (Phát
triển ngành CN NDSở Đài Loan” [135] phân tích về tốc độ tăng trưởng
toàn cầu trung bình hàng năm các sản phẩm NDS đã gia tăng đáng kể do
những tiến bộ về khoa học và công nghệ, cắt giảm chi phí và sự sẵn có của
các công nghệ hỗ trợ như xử lý số, lưu trữ số và viễn thông số. Sự phát
triển của ngành CN NDS đòi hỏi cần phải có nền tảng văn hóa mạnh mẽ,
các ý tưởng sáng tạo, sự tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ và cơ sở hạ tầng
viễn thông mà tất cả những nội dung này phụ thuộc vào các chính sách hỗ
trợ của chính phủ. Các tác giả đã chỉ ra vắn tắt các chính sách của chính
phủ, những tiến triển cũng như những rào cản trong quá trình phát triển
ngành CN NDS của Đài Loan và so sánh chúng với một số nước khác như
Mỹ, các nước EU, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đồng thời, các nghiên cứu còn
tập trung đi sâu phân tích các lĩnh vực CN NDStiềm năng có thể phát triển
ở Đài Loan thông qua phân tích SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và
thách thức) ngành này.
Bài “A Strategy for the Digital Content Industry in Ireland” (Chiến
lược phát triển ngành công nghiệp nội dung số ở Ireland) [127], đề cập
18
NDS là ngành kinh tế mới có nhiều tiềm năng để phát triển ở Ireland. Đây
là sự hội tụ của các ngành hoàn toàn khác biệt như nội dung, truyền thông và
giải trí, phần mềm và đa phương tiện truyền thống cũng như phần cứng và
viễn thông điện tử, bao gồm việc tạo ra, thiết kế, quản lý và phân phối các
sản phẩm, dịch vụ cũng như công nghệ số gắn liền với chúng. Các tác giả đã
có phân tích chỉ ra những cơ hội cho việc phát triển ngành CN NDS ở
Ireland trong một số lĩnh vực như trò chơi, thư viện số, học trực tuyến, các
dịch vụ kinh doanh và tiêu dùng không dây/di động viễn thông và các ứng
dụng phi truyền thông. Ngoài ra, bài nghiên cứu còn đưa ra một số khuyến
nghị cụ thể để giải quyết những vấn đề mà Ireland gặp phải trong quá trình
phát triển ngành CN NDS như tài chính và cấp ngân sách; nghiên cứu và
phát triển; môi trường pháp lý và quản lý; môi trường tài chính; cơ sở hạ
tầng; giáo dục và kỹ năng; phát triển DN; các dự án của khu vực công.
1.1.2. Hƣớng nghiên cứu nội dung bảo đảm nhân lực để phát
triển ngành công nghiệp nội dung số
Song song với các nghiên cứu về vốn NL, ngành CN NDS, các tác
giả ở các nước còn hướng nghiên cứu vào nội dung bảo đảm NL để phát
triển ngành CN NDS. Chủ yếu là:
Cuốn sách“Human Resource Management” (Quản trị nguồn NL)
[132] của H. John Bernardin đã tập trung vào việc nâng cao năng lực cá
nhân trong khi cung cấp cách tiếp cận lý luận và thực tiễn liên quan đến
việc nghiên cứu quản trị nguồn NL. Tác giả nêu quan niệm về quản trị
nguồn NL, kinh nghiệm thực tiễn về quản trị nguồn NL.
Báo cáo “The Supply of Information Technology Workers in the United
States” (Nguồn cung lao động công nghệ thông tin ở Mỹ) [108], viết và đánh
giá về thực trạng cung và cầu về NL trong ngành công nghệ thông tin ở Mỹ
và đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát triển nguồn lực này.
19
Ngoài ra, còn có cuốn “Human Resource Development for Information
Technology” (Phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghệ thông tin)
[103] khẳng định công nghệ, con người và nơi làm việc điện tử là những
nhân tố mà các tổ chức đang di chuyển nhanh chóng sử dụng để đáp ứng
yêu cầu kinh doanh đang thay đổi mạnh mẽ thông qua sử dụng công nghệ
để tạo ra những quá trình kinh doanh mới, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức và
triển khai các hoạt động quản lý mới. Trong bối cảnh hiện nay, các tổ chức
phát triển thành công đã coi việc phát triển kết hợp công nghệ thông tin và
nguồn NL là ưu tiên hàng đầu của mình. Với sự trợ giúp các chuyên gia
NL, các tổ chức cần nắm được các khía cạnh liên quan đến các vấn đề về
con người và công nghệ để có thể tạo ra một nơi làm việc điện tử hiệu quả.
Tác giả còn so sánh các phương pháp và công cụ mà các tổ chức có thể sử
dụng để tạo ra các biện pháp phát triển nguồn NL đáp ứng tốt nhất nhu cầu
của tổ chức.
Báo cáo “Information Technology Workforce Crisis: Planning for
the Next Environment” (Khủng hoảng lực lượng lao động công nghệ thông
tin: lập kế hoạch trong môi trường mới) [151], đề cập đến các nhu cầu
chương trình của cơ quan mới trong sự hỗ trợ sự phát triển năng lực của
các DN và sự thiếu hụt NL công nghệ thông tin, cần có sự hỗ trợ của chính
phủ mới giải quyết sự thiếu hụt này có hiệu quả.
Bên cạnh đó, còn có một số nghiên cứu về kinh nghiệm bảo đảm NL
để phát triển ngành CN NDS ở một số nước, như cuốn: “Information
Technology Policy and Strategy Papers for Nepal”(Nghiên cứu chính sách
và chiến lược công nghệ thông tin cho Nepal) [104], trong đó có chương
“Human Resources Development: Information Technology for
Development” (Phát triển nguồn NL: công nghệ thông tin vì mục tiêu phát
triển) đã phân tích, đánh giá thực trạng nguồn NL của Nepal nhất là số
lượng NL trong ngành công nghệ thông tin thông qua mô tả hệ thống giáo
20
dục quốc gia của Nepal. Tác giả cũng phân tích những điểm mạnh và điểm
yếu về NL trong ngành công nghệ thông tin của Nepal.
Nghiên cứu của Joan McNaboe về “Skills Requirements of the
Digital Content Industry in Ireland: Phase 1” (Các kỹ năng cần thiết cho
ngành CN NDS Ireland: Giai đoạn 1) [137], đánh giá những yêu cầu về
mặt kỹ năng đối với ngành CN NDS mới xuất hiện ở Ireland trong bối cảnh
các kỹ năng do hệ thống giáo dục và đào tạo cung cấp. Nghiên cứu này đặc
biệt lưu ý đến NL trong các ngành nghề như trò chơi, học tập trực tuyến và
lĩnh vực di động/không dây- những ngành nghề được coi là mang lại tốc độ
tăng trưởng đáng kể cho Ireland theo báo cáo trước đó của Forfass.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NHÂN
LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ
1.2.1. Những nghiên cứu lý luận về nhân lực để phát triển ngành
công nghiệp nội dung số
Bài: “Nâng cao chất lượng nguồn NL phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế tri thức” của Nguyễn Văn
Sơn [66], nghiên cứu khái quát vai trò của nguồn NL đối với sự phát triển
bền vững. Trên cơ sở phân tích một số nét tích cực và hạn chế của nguồn
NL nước ta hiện nay cả về mặt số lượng lẫn chất lượng, tác giả đã đề xuất
và luận chứng một số giải pháp cần thiết để nâng cao chất lượng nguồn NL
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
phát triển kinh tế tri thức. Cụ thể là: Đẩy mạnh giáo dục và đào tạo; nâng
cao thể lực cho con người; khai thác và sử dụng hợp lý nguồn NL; tăng
cường công tác dự báo nguồn NL;và xây dựng chính sách tiền lương hợp
lý. Bài viết là những gợi ý quan trọng để tác giả nghiên cứu chủ đề NL để
phát triển ngành CN NDS ở Việt Nam.
Luận án tiến sĩ: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
quá trình Việt Nam hội nhập quốc tế” của Phạm Đức Tiến [77] nghiên cứu
21
vấn đề phát triển nguồn NL chất lượng cao ở Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế giai đoạn từ 2006-2016, đề xuất khuyến nghị một số phương
hướng, giải pháp bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước nhằm đẩy mạnh phát triển nguồn NL này trong hội nhập quốc tế của
Việt Nam. Trong đó, có một số nội dung liên quan đến NL để phát triển
ngành CN NDS tiếp cận từ góc độ quan hệ chính trị.
Luận án tiến sĩ: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam đến năm 2025” của Nguyễn Phan Thu Hằng [46].
Hướng khám phá mối liên hệ giữa phát triển nguồn NL chất lượng cao với
hiệu năng của tập đoàn dầu khí Việt Nam, xem xét các yếu tố bên trong nội
tại của Tập đoàn tác động đến sự phát triển nguồn NL cả trực tiếp và gián
tiếp, đo lường tác động của phát triển nguồn NL, các yếu tố bên trong, các
thành tố chất lượng tác động đến phát triển nguồn NL chất lượng cao và đề
xuất quan điểm, giải pháp phát triển nguồn lực nàyđể phát triển Tập đoàn.
Bài: “Vai trò của thông tin và công nghiệp nội dung trong xã hội
thông tin” của Nguyễn Tuấn Khoa [52]. Nội dung phân tích một số lý luận
cơ bản về thông tin và CN NDS như khái niệm, đặc điểm, phân loại, đồng
thời đi sâu phân tích làm rõ những vai trò của CN NDS trong xã hội thông
tin hiện nay, nếu một số giải pháp để giúp phát triển ngành CN NDS trước
yêu cầu thay đổi ngày càng nhanh hiện nay.
Nguyễn Đình Bắc với bài “Phát triển nguồn NL chất lượng cao ở
nước ta trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” [4] đã
đặt vấn đề cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với xu hướng phát triển
dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa, vật lý, sinh
học với trung tâm và khâu đột phá là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo,
internet kết nối vạn vật, robot, công nghệ nano, công nghệ sinh học,…
đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới, tạo ra những cơ hội
22
rất lớn nhưng cũng đặt ra thách thức không nhỏ cho mỗi quốc gia. Nó cũng
tác động đến Việt Nam trên mọi lĩnh vực, khía cạnh khác nhau của đời
sống xã hội. Phát triển nguồn NL chất lượng cao trong đó có NL ngành CN
NDS là một trong những lĩnh vực chịu sự tác động mạnh mẽ và trực tiếp
nhất từ cuộc cách mạng này.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh với bài: “Phát
triển NL khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của cách mạng công
nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng” [2] dựa vào lý
luận đã chỉ ra việc thực hiện “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Việt Nam đã có đội ngũ cán bộ khoa
học và công nghệ không ngừng gia tăng về số lượng và chất lượng, trưởng
thành về mọi mặt, từng bước được chuẩn hóa, trẻ hóa, thích ứng với nhiệm
vụ trong giai đoạn mới và có đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, NL khoa học và công nghệ của nước ta còn
nhiều hạn chế, chất lượng thực tế chưa tương xứng, thậm chí còn thấp, đặc
biệt là thiếu các chuyên gia đầu ngành trong nhiều lĩnh vực khoa học và
công nghệ quan trọng như CN NDS, tinh thần hợp tác nghiên cứu và kỹ
năng làm việc nhóm của đội ngũ NL khoa học và công nghệ còn yếu, cơ
chế quản lý đối với NL khoa học và công nghệ chưa phù hợp và còn nhiều
bất cập. Từ đó, đề xuất một số giải pháp thúc đẩy phát triển nguồn lực này
thời gian tới.
Luận án “Đào tạo nguồn NL trong các DN thuộc ngành CN NDS Việt
Nam” của Đinh Thị Hồng Duyên [40], nghiên cứu định tính, bổ sung và xây
dựng thêm một biến mới cho thang đo hiệu quả đào tạo trong mô hình
nghiên cứu tác động của các nhân tố tới hiệu quả đào tạo nguồn NL trong
các DN thuộc ngành CN NDS; đề xuất mô hình nghiên cứu có điều chỉnh để
đánh giá những nhân tố tác động đến hiệu quả đào tạo nguồn NL trong các
23
DNNDS ở Việt Nam dựa trên mô hình nghiên cứu của K.J.Jayawardana &
al. (2007). Sử dụng phương pháp nghiên cứu điển hình tại Công ty VMG
để chỉ ra những vấn đề trong đào tạo và đánh giá hiệu quả đào tạo của DN
thuộc ngành CN NDSViệt Nam. Đề xuất giải pháp kiểm soát chặt chẽ nhân
tố động lực của nhân lực, sự hỗ trợ của người quản lý và văn hóa học tập
liên tục, kiểm soát nhân tố tự nhận thức của nhân lực bằng cách sử dụng
đồng bộ nhiều biện pháp nhằm tăng sự tự tin của nhân lực với chính bản
thân mình.
Một số bài viết có liên quan đến lý luận và thực tiễn về NL cho phát
triển ngành CN NDS như: Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong các
DN nội dung số cho mạng di động [33]; Vai trò của công tác đào tạo
nguồn nhân lực trong các DN thuộc ngành công nghiệp nội dung số tại
Việt Nam [35]; Đào tạo nguồn nhân lực Công nghiệp nội dung số: Từ kinh
nghiệm quốc tế đến thực trạng Việt Nam [34]; Quá trình hình thành và
phát triển ngành công nghiệp nội dung số ở Việt Nam [36]; Thu hút người
tài để phát triển tại các DN nội dung số nổi tiếng thế giới [37]; Human
Resources Training Effectiveness of Enterprises in the Digital content
industry in Vietnam (Hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực trong các DN thuộc
ngành công nghiệp nội dung số ở Việt Nam) [38]; Đào tạo nguồn nhân lực
trong các DN thuộc ngành công nghiệp nội dung số trong giai đoạn khó
khăn [41]. Những bài viết này đã tập trung làm rõ những khía cạnh liên
quan đến đào tạo NL trong các DN thuộc ngành CN NDS cũng như phân
tích những kinh nghiệm đào tạo NNL tại các DN nội dung số trên thế giới,
đồng thời đi sâu làm rõ thực trạng công tác đào tạo NL trong các DN thuộc
CN NDS ở Việt Nam. Trong đó, tập trung nghiên cứu trường hợp điển hình
là Cổ phần Truyền thông VMG. Đây là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích
cho quá trình thực hiện luận án của tác giả.
24
1.2.2. Những nghiên cứu liên quan đến kinh nghiệm thực tiễn về
nhân lực để phát triển ngành công nghiệp nội dung số
Nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển ngành CN NDS có các công
trình và bài viết sau:
Bài “Những thách thức của sự phát triển trong xã hội thông tin” của
Bùi Biên Hòa [47], cho biết vào cuối và đầu thiên niên kỷ thứ ba, các nước
trên thế giới đang đà phát triển dựa vào nền tảng của cuộc cách mạng thông
tin lần thứ năm. Sự phát triển này, đã tạo ra mặt bằng tri thức của nhân loại
ngày càng gia tăng, xuất hiện những thành tựu khoa học - công nghệ và
kinh tế - xã hội to lớn. Song, đứng trước một số khu vực, nhiều quốc gia
cũng nảy sinh những thách thức mới, đó là: hố ngăn cách số. Đã chỉ ra một
số thành tựu mới và những vấn đề bất cập nảy sinh do công nghệ thông tin
số hóa hiện nay gây nên.
Bài “Vai trò của thông tin và công nghiệp nội dung trong xã hội
thông tin” của Nguyễn Tuấn Khoa [52] đã trình bày những vấn đề cơ bản
về thông tin và công nghiệp nội dung như khái niệm, đặc điểm, phân loại,
đồng thời đi sâu phân tích làm rõ những vai trò của thông tin và công
nghiệp nội dung trong xã hội thông tin hiện nay. Đưa ra một số giải pháp
để giúp thông tin và CN NDS được thực hiện đúng vai trò của mình trong
xã hội thông tin với những thay đổi ngày càng diễn ra nhanh chóng.
Hội thảo khoa học “Công nghệ xử lý ngôn ngữ & Phát triển thị
trường NDS Việt Nam ra thế giới” do Viện Công nghệ thông tin - Đại học
Quốc gia Hà Nội [84] với mục đích tìm kiếm các cơ hội hợp tác giữa đơn
vị nghiên cứu và DN, khuyến nghị các DN về việc cần tăng cường các hàm
lượng chất xám trong các sản phẩm NDS của mình, tạo cơ hội cạnh tranh
với các sản phẩm quốc tế. Hội thảo đã thu hút sự tham gia của các công ty,
đơn vị hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển sản phẩm nội dung
số như Viettel, VTC, VDC, CadPro, FSI...
25
Hội thảo Việt Nam - Hàn Quốc về CN NDS do Bộ Thông tin và
Truyền thông tổ chức vào tháng 3/2013 với hai chủ đề: (1) Hiện trạng
ngành CN NDS Việt Nam và Kinh nghiệm phát triển của Hàn Quốc (sáng
ngày 27/3/2013 ở Hà Nội); (2) Đầu tư của DN ngành CN NDS Việt Nam
và Triển vọng hợp tác với Hàn Quốc (chiều ngày 29/3/2013 ở TP. Hồ Chí
Minh). Hội thảo đã tập trung phân tích thực trạng phát triển ngành CN
NDS ở Việt Nam cũng như kinh nghiệm phát triển ngành CN này của Hàn
Quốc; những triển vọng hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong đầu tư
vào ngành CN NDS trong đó có hợp tác về NL.
Luận án tiến sĩ “Quan hệ giữa năng lực cạnh tranh ngành công
nghiệp và hỗ trợ phát triển Cluster (cụm ngành): nghiên cứu Cluster CN
NDS ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Vẹn [82], đã hệ thống hóa cơ sở lý
thuyết nền tảng Cluster, năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp hỗ trợ phát
triển Cluster, xác định thang đo mô hình nghiên cứu giúp tiếp cận lý thuyết
Cluster với 3 thành phần chính, đó là: (1) tác nhân tác động đến năng lực
cạnh tranh ngành công nghiệp; (2) nhận thức tác động tổng thể năng lực
cạnh tranh ngành công nghiệp và (3) những yếu tố thuộc nhóm hỗ trợ phát
triển Cluster. Thang đo trong nghiên cứu này góp phần vào việc đặc thù
hóa thang đo lường mối quan hệ năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp và
hỗ trợ phát triển Cluster thuộc ngành CN NDS ở Việt Nam và đề xuất các
hàm ý chính sách và quản trị, khi ra quyết định nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh và hỗ trợ phát triển Cluster trong bối cảnh phát triển ngành CN
NDS Việt Nam.
Bài “Cơ hội và thách thức để phát triển ngành công nghiệp nội dung
số của Việt Nam” [31]. Tác giả Bùi Thị Thanh Diệu khẳng định CN NDS là
một ngành kinh tế mới nhưng phát triển rất nhanh, Nhà nước cần nhanh
chóng nhận diện rõ ngành kinh tế này để có biện pháp quản lý, thúc đẩy
26
phát triển phù hợp. Bởi lẽ đây là ngành kinh tế mang hàm lượng trí tuệ cao,
lợi nhuận lớn, đồng thời là động lực và phương tiện để đẩy nhanh quá trình
tiến tới xã hội thông tin, kinh tế tri thức. Công nghiệp NDS sẽ là nền tảng
để các chương trình ứng dụng công nghệ thông tin, chương trình Chính phủ
điện tử, chương trình tin học hoá nền hành chính nhanh chóng đạt được
mục tiêu, đồng thời đây cũng là ngành kinh tế tốt có vai trò chủ chốt trong
định hướng cạnh tranh hội nhập và phát triển xã hội trong tương lai.
Những nghiên cứu kinh nghiệm các nước về phát triển NL ngành CN
NDS, như “Những nét mới trong đào tạo và thu hút NL công nghệ cao của
Ấn Độ” [80] tập trung phân tích làm rõ thực trạng đào tạo và thu hút NL
công nghệ cao của Ấn Độ thời gian qua, đồng thời nêu một số nét mới
trong công tác này so với những gì mà Ấn Độ đã làm, từ đó đưa ra một số
đánh giá về những mặt được và chưa được của chính sách đào tạo và thu
hút NL công nghệ cao của Ấn Độ, đề xuất một số khuyến nghị cho chính
sách đào tạo và thu hút NL công nghệ cao của Việt Nam.
Bài “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở một số nước và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam” [48]. Đề tài đã nêu tổng quan kinh nghiệm của
Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc và Singapore để rút ra cần thực hiện mô
hình giáo dục đại học đại chúng, đầu tư để phát triển giáo dục đại học quốc
gia, phải thực sự là quốc sách hàng đầu, đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực phù hợp với nhu cầu thị trường, tạo điều kiện tốt cho nguồn nhân lực
trẻ tài năng, tăng cường công tác đào tạo nghề, và kế thừa, phát huy giá trị
văn hóa truyền thống.
1.2.3. Những nghiên cứu liên quan đến cơ chế, chính sách về
nhân lực để phát triển ngành công nghiệp nội dung số ở Việt Nam
Hội thảo quốc gia: “Đào tạo nguồn NL công nghệ thông tin và truyền
thông theo yêu cầu xã hội” [8] đã phân tích cho thấy có 34 văn bản thỏa
27
thuận hợp tác được ký kết giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và
Truyền thông, 7 trường đại học, 3 trường cao đẳng và 31 DN trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và nêu vấn đề trong 10 năm tới, ngành công nghệ
thông tin của Việt Nam sẽ đi đến đâu và đưa ra những giải pháp để biến các
mục tiêu đó thành hiện thực.
Hội thảo quốc gia: “Đào tạo NL công nghệ cao theo nhu cầu xã hội”
[9] do Bộ Giáo dục Đào tạo và Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp tổ
chức để tìm kiếm giải pháp giúp các cơ sở đào tạo nhận thức sâu sắc hơn
yêu cầu bức thiết phải đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào
tạo; các điều kiện đảm bảo chất lượng để từng bước đáp ứng yêu cầu của
các DN, đơn vị sử dụng nguồn NL công nghệ cao.Các nhóm giải pháp
được đề xuất đều nhàm vào nâng cao hiệu quả đào tạo và sử dụng nguồn
NL công nghệ cao trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, bài viết “Đào tạo nguồn NL công nghệ thông tin phục
vụ phát triển kinh tế-xã hội của khu vực miền Trung-Tây Nguyên” [45] của
tác giả Nguyễn Công Hào, khẳng định đào tạo nguồn NL công nghệ cao
nói chung và công nghệ thông tin nói riêng là một nhiệm vụ rất quan trọng,
góp phần vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tình hình đào tạo
nguồn NL công nghệ thông tin tại Đại học Huế trong thời gian qua và đưa
ra một số định hướng nhằm tiếp tục đào tạo nguồn NL công nghệ thông tin
nhằm phục vụ phát triển kinh tế-xã hội khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
1.3. NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI, VẤN ĐỀ
ĐẶT RA VÀ HƢỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.3.1. Những kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Các công trình và bài viết đã công bố ở trong và ngoài nước nêu trên
đã giải quyết được nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến nhận
diện NL ngành CN NDS, vai trò, mức độ đạt được và cách thức thu hút, sử
dụng và phát triển nguồn lực này cho một DN, một ngành kinh tế quốc dân.
Kết quả cụ thể như sau:
28
- Kết quả đạt được về lý luận
Nghiên cứu về ngành CN NDS nói chung, NL phát triển ngành CN
NDS nói riêng trên các khía cạnh như khái niệm, đặc điểm, vai trò... là
những kết quả được trình bày khá nhiều ở các nghiên cứu liên quan đã
được công bố dựa trên cách tiếp cận của một số lĩnh vực chuyên ngành
khác nhau, tùy thuộc vào yêu cầu của đối tượng nghiên cứu mà mức độ
phân tích hoặc cách tiếp cận nghiên cứu các phạm trù này là khác nhau.
Vốn NL không chỉ là tài sản của một cá nhân mà nó còn là của xã hội
mà người đó đang sống, nó là một nhân tố để tiết kiệm lao động, tăng năng
suất lao động và tăng thu nhập. Vốn NL tương tự như "phương tiện sản
xuất vật chất" và có thể đầu tư thông qua giáo dục, đào tạo, điều trị y tế.
Vốn NL có thể thay thế, nhưng không thể chuyển nhượng như đất đai, lao
động, hoặc vốn cố định. Vốn NL có thể co giãn vô hạn, bao gồm các biến
số không thể đo lường được như tính cách cá nhân hoặc kết nối với con
người trong cuộc sống. Từ đó, có đề xuất lý thuyết về tiền công có thể cao
hơn cho nhân lực trên các khía cạnh khác ngoài vốn NL.
Có nghiên cứu lại hướng vào phân tích vai trò quan trọng của vốn
NL đối với các nước đang phát triển. Các nước này có thể chuyển NL thô
thành nguồn NL có năng suất cao ở các ngành công nghiệp mới trong quá
trình hình thành vốn NL. Tầm quan trọng của vấn đề này cũng đã được
Liên hiệp quốc ghi nhận.
Một số nghiên cứu đã quan tâm đến tiêu chí đánh giá vốn NL trong
phát triển một DN, một ngành kinh tế. Dựa vào đó, cho rằng quá trình phát
triển nguồn NL là nền tảng vững chắc của một quá trình phát triển kinh tế
liên tục của quốc gia trong một thời gian dài. Ví dụ, Mahroum quan tâm
đến ba năng lực: phát triển tài năng, khả năng triển khai tài năng và khả
năng thu hút nhân tài từ nơi khác là “xương sống” cho khả năng cạnh tranh
vốn NL của bất kỳ quốc gia nào.
29
Đã có một số nghiên cứu về những thách thức phát triển con người
trong kỷ nguyên số, xác định lại việc quản lý NL trong xu hướng phát triển
các công nghệ mới thuộc ngành CN NDS. Hướng nghiên cứu nội dung bảo
đảm NL để phát triển ngành CN NDS như tập trung nâng vào năng lực cá
nhân, quản trị nguồn NL...
Tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu đi sâu luận bàn về nội dung,
các nhân tố ảnh hưởng, các biện pháp nhằm thu hút, sử dụng và đào tạo NL
để phát triển ngành CN NDS trong thời đại mới của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
- Kết quả đạt được về thực tiễn
Một số nghiên cứu về kinh nghiệm bảo đảm NL để phát triển ngành
CN NDS ở một số nước; các kỹ năng cần thiết cho ngành CN NDS trong
các nghề như trò chơi, học tập trực tuyến và lĩnh vực di động không dây...
Ở Việt Nam cũng đã có những nghiên cứu kinh nghiệm về phát triển NL
ngành CN NDS của các nước như Ấn Độ, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Trung
Quốc và Singapore.
Một số công trình đã hướng vào phân tích, đánh giá, chỉ ra những
điểm mạnh và điểm yếu về NL trong phát triển ngành CN NDS. Những
thách thức về NL trong sự phát triển xã hội thông tin. Ở Việt Nam đã có một
số nghiên cứu liên quan đến cơ chế, chính sách về NL để phát triển ngành
CN NDS; đã chú ý đến đào tạo NL ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên.
Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu đã được công bố thiên nhiều về
CNTT cũng như ngành CN NDS nói chung hoặc đào tạo nhân lực ngành
CN NDS nói riêng nhưng thường gắn với DN hoặc với một lĩnh vực hay
với một vùng/ miền...đồng thời, tập trung mối quan tâm nhiều hơn ở góc độ
đào tạo NNL phục vụ ngành CN NDS. Dường như chưa có nghiên cứu nào
nghiên cứu tổng quát về ngành CN NDS hay NL ngành CN NDS mang tính
hệ thống và đặt trong mối quan hệ tổng thể với các ngành kinh tế khác, với
30
chiến lược phát triển nền kinh tế và đặc biệt là chưa có bất kỳ nghiên cứu
nào trùng lặp với đề tài luận án này kể cả phạm vi nội dung lẫn phạm vi
thời gian nghiên cứu.
1.3.2. Vấn đề đặt ra và hƣớng nghiên cứu của luận án
1.3.2.1. Vấn đề đặt ra
Mặc dù đã có những kết quả như trên, nếu tiếp cận nghiên cứu từ
khoa học kinh tế chính trị, thì các công trình khoa học đã công bố còn thiếu
vắng không ít nội dung đòi hỏi phải được nghiên cứu làm sáng tỏ mới có
quan điểm, phương thức và giải pháp thích hợp. Những vấn đề đặt ra hiện
nay là:
Thứ nhất, về lý luận, vẫn chưa có nghiên cứu nào làm rõ cơ sở lý
luận, khung lý thuyết phân tích, đánh giá về NL để phát triển ngành CN
NDS trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Trong
đó, đáng lưu ý là NL trong ngành CN NDS là một nguồn lực mới, có
những yêu cầu, đòi hỏi riêng và nó cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
khác nhau.
Trong các công trình nghiên cứu, hiện vẫn đang thiếu vắng một cách
nhìn tổng thể về vai trò, tầm quan trọng của NL cho phát triển ngành CN
NDS cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Tính tương thích và sự tương hợp
giữa công nghệ mới và NL sử dụng công nghệ mới đó trong điều kiện nền
kinh tế thị trường với các nguồn lực khan hiếm. Vấn đề tổ chức, cơ chế
quản lý nhân sự và động lực cho việc bảo đảm nguồn NL hoạt động cho
ngành kinh tế mới này như thế nào vẫn chưa được đặt ra. Điều này nếu
không được giải quyết trên cơ sở khoa học thì sẽ không thể có sự phát triển
bền vững đối với một ngành, nhất là đối với ngành kinh tế mới đòi hỏi
nguồn chất lượng NL cao.
Thứ hai, về thực tiễn, tuy là nước đi sau, nhưng cho đến nay ở nước ta
31
vẫn thiếu những nghiên cứu mang tính hệ thống về về kinh nghiệm thu hút,
sử dụng và phát triển NL chất lượng cao NL cho phát triển ngành CN NDS.
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có chủ trương phát triển ngành CN
NDS từ năm 2006 và đến nay đã có quá trình phát triển hơn 10 năm, gần
đây đã có phân tích, đánh giá thực trạng của ngành CN này trong đó thực
trạng NL ngành CN NDS, nhưng các kết quả công bố mới chỉ dừng ở dạng
báo cáo mà chưa có phân tích sâu dựa trên cơ sở lý luận có tính hệ thống và
cũng chưa có nhiều về nghiên cứu thực tiễn và kinh nghiệm.
1.3.2.2. Hướng nghiên cứu của luận án
Để góp phần vào giải quyết các khoảng trống trên, trong khuôn khổ
một đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị, tác giả hướng vào
một số nội dung như sau:
Về lý luận, làm rõ cơ sở lý luận về NL để phát triển ngành CN NDS
của Việt Nam trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với
các nội dung vai trò, tầm quan trong của nguồn lực này, cơ sở của cơ chế
chính sách tổ chức, quản lý và tạo động lực để thu hút, sử dụng và phát
triển NL để từ đó bảo đảm cho phát triển ngành CN NDS, tiêu chí đánh giá
và các yếu tố ảnh hưởng đến việc bảo đảm đó trong điều kiện hiện nay.
Về thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm thu hút, sử dụng và phát triển
NL cho phát triển ngành CN NDS của một số nước mà Việt Nam có nhiều
tương đồng và có thể tham khảo.
Tổng kết, phân tích và đánh giá thực trạng NL để phát triển ngành
CN NDS của Việt Nam từ năm 2008 đến nay để có phương hướng, giải
pháp thu hút, sử dụng và phát triển NL để phát triển ngành CN này thời
gian tới.
32
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ NHÂN LỰC
ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN
NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ
2.1.1. Khái quát về nhân lực ngành công nghiệp nội dung số
2.1.1.1. Các khái niệm cơ bản
* Nhân lực
Nhân lực (NL) là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả cả những
người làm việc cho một công ty hoặc tổ chức và bộ phận chịu trách nhiệm
quản lý các nguồn lực liên quan đến nhân viên. Thuật ngữ này lần đầu tiên
được đặt ra vào những năm 1960 khi giá trị của quan hệ lao động bắt đầu
thu hút sự chú ý và khi các khái niệm như động lực, hành vi tổ chức và
đánh giá lựa chọn bắt đầu hình thành. Tuy đến nay đã có những nhận thức
khác nhau về NL, nhưng cách tiếp của C. Mác về khái niệm sức lao động là
căn cứ rất quan trọng để hiểu thực chất khái niệm NL. Theo C. Mác, "Sức
lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh
thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó
đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó"" [59,
tr.251]. Điều này tức là người có sức lao động phải là người đang sống và
phải có cả hai yếu tố cấu thành là thể lực và trí lực. Thiếu một trong hai
yếu tố này thì một người không thể có khả năng lao động bình thường và
cũng rất khó có thể tham gia vào thị trường lao động.
Người mang theo hai yếu tố thể lực và trí lực, đủ điều kiện để lao
động, nếu được tuyển dụng vào làm việc trong một tổ chức thì đều được
gọi là NL. Nhân lực là những người tạo nên lực lượng lao động của một tổ
chức, khu vực kinh doanh hoặc nền kinh tế. Người đó phải có sức lao động
33
và sẵn sàng sử dụng sức lao động của mình vào hoạt động của tổ chức.
Nhân lực được nhiều nhà chiến lược kinh doanh coi là quan trọng nhất
trong tất cả các nguồn lực của DN. Bởi vì người lao động có thể đạt được
các kỹ năng mới, do đó tăng quy mô của một DN có lợi thế cạnh tranh theo
thời gian. Các tài nguyên khác chỉ đơn giản là không thể có khả năng đó.
Xét trên bình diện vĩ mô, NL là một bộ phận nguồn lực của xã hội, là yếu
tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữ vai trò quyết định sự phát triển kinh tế
- xã hội của mọi quốc gia. Cùng với quá trình phát triển lực lượng sản xuất
và tiến bộ về khoa học và công nghệ, chất lượng NL có xu hướng ngày
càng tăng lên.
Tổng số NL trong một tổ chức, DN hay của toàn bộ nền kinh tế còn
được nhiều nhà nghiên cứu gọi là nguồn NL [138]. Nguồn NL cũng được
nhấn mạnh là nguồn tài nguyên con người trong đó chủ yếu nhấn mạnh
kiến thức, kỹ năng và động lực của con người. Nguồn NL là “thiết bị di
động” ít nhất trong bốn yếu tố sản xuất (lao động, tài nguyên thiên nhiên,
tư bản và công nghệ) và (trong điều kiện phù hợp) nó cải thiện theo tuổi tác
và kinh nghiệm, điều mà không nguồn lực nào khác có thể làm được. Do
đó, nó được coi là nguồn lực sản xuất quan trọng nhất tạo ra lợi thế lớn
nhất và lâu dài nhất cho một tổ chức.
Như vậy, NL là tổng thể các yếu tố cấu thành thể lực và trí lực của
con người đang sống, của toàn bộ lực lượng lao động xã hội làm việc trong
một tổ chức kinh tế, xã hội, trong một doanh nghiệp, một ngành, một địa
phương và một quốc gia được xác định trong một điều kiện lịch sử cụ thể
nhất định. Ngoài các yếu tố thể lực và trí lực, NL còn được cấu thành bởi
các yếu tố truyền thống, kinh nghiệm lao động, sức suy nghĩ, sức sáng tạo
của con người được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
34
* Vốn nhân lực
Hoạt động đầu tư nhằm nâng cao chất lượng nguồn NL để người lao
động làm việc có năng suất và hiệu quả cao hơn, được gọi là đầu tư vào
con người. Vốn NL là vốn hình thành thông qua đầu tư vào con người
(Becker, 1978). Vốn NL là kiến thức, kỹ năng và khả năng thể chất có thể
làm tăng thêm thông tin về tiền bạc và vật liệu trong tương lai. Vốn NL
liên quan đến năng lực của con người, và có thể được phân loại thành bốn
loại bao gồm giáo dục, công nghệ và vốn kiến thức, vốn sức khỏe, di cư và
vốn di chuyển [98]. Từ những nhận thức nêu trên, nghiên cứu sinh quan
niệm, vốn NL hay còn gọi là tư bản con người (human capital) là khái
niệm dùng để chỉ toàn bộ hiểu biết của con người về phương thức tiến hành
các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nó là vốn đầu tư để có được kiến
thức, kỹ năng làm cho một người hay một tập thể người có thể thực hiện và
hoàn thành một công việc nhất định. Nền tảng kiến thức của một quốc gia
được tăng cường nhờ các hoạt động nghiên cứu (cơ bản và ứng dụng) và
truyền bá kiến thức thông qua hệ thống giáo dục và đào tạo nghề. Đội ngũ
cán bộ, nhân viên và tất cả kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm v.v... mà họ sở
hữu làm cho chúng có giá trị đối với một doanh nghiệp hoặc nền kinh tế
được gọi là vốn NL của một tổ chức. Việc đầu tư vào vốn NL sẽ tạo ra điều
kiện để sản xuất được nhiều sản phẩm mới và cải tiến, nhiều quy trình công
nghệ đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Vốn NL cũng có ý nghĩa quan trọng
như vốn vật chất trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh như Adam Smith từ cuối thế kỷ
XVIII đã quan tâm đến đối tượng đầu tư này khi ông cho rằng con người
phải có những chi phí cho việc học tập, rèn luyện thì mới có được một kỹ
năng hay một tài năng làm việc tốt hơn. Chi phí đó chính là vốn NL [136].
Đầu tư vào vốn NL bao gồm những chi phí để có kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm cho mỗi con người nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn thành một công việc
35
nhất định. Vốn NL là tài sản vô hình hoặc chất lượng không được liệt kê trên
bảng cân đối kế toán của DN hay của toàn bộ nền kinh tế. Nó có thể được
phân loại là giá trị kinh tế của kinh nghiệm và kỹ năng của một nhân lực. Nó
bao gồm các giá trị tài sản như giáo dục, đào tạo, trí thông minh, kỹ năng,
sức khỏe và những thứ khác mà nhà tuyển dụng đánh giá cao như sự trung
thành và đúng giờ...Vốn NL được đầu tư bởi cá nhân hoặc tổ chức tuyển
dụng NL là DN, tổ chức xã hội hay tuyển dụng nhà nước.
Vốn NL là tài sản của một cá nhân, nhưng nó cũng có thể là tài sản
của một tổ chức tùy thuộc vào việc đầu tư để tạo ra nguồn vốn đó. Vốn NL
của một tổ chức là kết quả của việc tuyển dụng và đào tạo NL của tổ chức
đó. Nhờ có những đầu tư này mà tổ chức có được một tập thể, một đội ngũ
lao động vừa có tính chuyên môn hóa trong phân công lao động, vừa có sự
gắn kết, phối hợp và nhờ đó có sức mạnh để hoàn thành mục tiêu chung
của tổ chức. Sức lao động tập thể của tổ chức là bộ phận nguồn lực đặc biệt
quan trọng tạo nên “thương hiệu” của tổ chức trong quan hệ với các tổ
chức khác và với nền sản xuất xã hội. Ngày nay, do sự phát triển nhanh
chóng của khoa học và công nghệ, nên kiến thức chuyên ngành cần thiết
ngày càng trở nên phức tạp. Nó đã trở thành yếu tố quyết định sự thành
công của DN, của ngành và của nền kinh tế. Theo đó, vai trò của sở hữu
kiến thức của các nhà quản lý, nhà khoa học, kỹ sư, luật sư, v.v... càng
được đề cao. Theo đó, vai trò của vốn NL ngày càng được coi trọng trong
tất cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Lý thuyết và thực tế cho thấy, các nhà tuyển dụng NL có thể cải
thiện chất lượng của nguồn vốn đó bằng cách đầu tư vào nhân viên, giáo
dục, kinh nghiệm,năng lực sáng tạo, khả năng làm việc trong điều kiện áp
lực cường độ cao và tinh thần hợp tác, tính kỷ luật của nhân lực. Những
đầu tư để có được nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng lao
động cao, có kỷ luật và có sức sáng tạo đáp ứng yêu cầu của một công việc
36
nhất định không chỉ có giá trị kinh tế cho bản thân nhân lực và người sử
dụng lao động mà còn cho toàn bộ nền kinh tế.
* Ngành công nghiệp nội dung số
Trong lịch sử, con người đã biết đến máy ảnh kỹ thuật số đầu tiên do
hãng Kodak phát minh vào những năm 1970. Tuy nhiên, chỉ đến những
năm 1990, xu hướng phát triển sản xuất và phân phối các sản phẩm NDS
mới trở thành một ngành công nghiệp và gia nhập vào hệ thống các ngành
trong nền kinh tế quốc dân của một số nước đi trước. Ngành CN NDS Việt
Nam được coi là xuất phát chậm hơn thế giới khoảng 10 năm nhưng đến
nay khoảng cách về trình độ và quy mô phát triển đã tăng nhiều. Để nhận
biết ngành kinh tế này, trước hết phải bắt đầu tư khái niệm về NDS.
Nội dung số ((Digital Content) là khái niệm mới được biết đến trong
ba thập kỷ vừa qua và nó ngày càng được nhắc nhiều khi có sự bùng nổ
thông tin trong những năm gần đây. Theo các từ điển về CNTT thì NDS là
những sản phẩm có sẵn theo dạng số như âm nhạc, thông tin, hình ảnh,
video... có thể tải về từ trên mạng Internet hoặc được phân phối trên hệ
thống mạng thông tin truyền thông. Nội dung số là bất kỳ loại nội dung nào
tồn tại dưới dạng dữ liệu số. Nội dung số có thể được lưu trữ trên các thiết
bị lưu trữ kỹ thuật số hoặc thiết bị lưu trữ kỹ thuật tương tự ở các định
dạng cụ thể. Các hình thức của NDS bao gồm các thông tin được phát sóng
quảng bá, truyền phát trên mạng bằng công nghệ số hoặc chứa trong các
tập tin máy tính. Có ý kiến cho rằng, NDS là các dữ liệu hoặc các sản phẩm
thông tin được cung cấp ở định dạng kỹ thuật số như là một chuỗi các số 0
và 1 mà chúng có thể được đọc bằng máy tính và đưa ra các chỉ lệnh cho
máy tính. Nội dung số bao gồm nhạc số, phần mềm, các bộ phim được
truyền phát qua mạng, sách điện tử, game online và các ứng dụng. Phương
thức cung cấp các NDS rất đa dạng, nó có thể được tải hoặc truyền phát
qua Internet, gửi qua email hoặc qua các phương thức khác như cung cấp
37
qua phương thức vật lý (ví dụ như đĩa DVD) hoặc tích hợp vào các sản
phẩm khác (ví dụ như xe ô tô với hệ thống dẫn đường). Hoạt động sản xuất
và phân phối NDS đã đem lại thu nhập không nhỏ cho những DN hoạt
động trong lĩnh vực này.
Ngành công nghiệp NDS (tiếng Anh: Digital content industry - DCI)
là ngành sản xuất, cung cấp và kinh doanh các dịch vụ NDS ở mức chuyên
sâu và đạt được quy mô lớn. Theo Leo Hwa Chiang, chuyên gia về phát triển
ngành game và NDS của Cục Phát triển CNTT Hàn Quốc, thì “Công nghiệp
NDS đơn giản là nội dung cộng với công nghệ số”. Theo Bộ CNTT Hàn
quốc, ngành CN NDS đưa lại lợi ích trực tiếp từ các sản phẩm như đào tạo,
giải trí, y tế, ngân hàng, mua sắm trực tuyến đã đưa ra một khái niệm rất
rộng. Ngành CN NDS là ngành mang đến:
Một cuộc sống tiện nghi, an toàn, nhiều niềm vui, giàu có tương
ứng với những sản phẩm mà ngành CN NDS đã mang lại như học
tập trực tuyến, điều trị bệnh theo hướng cá nhân hoá, điều khiển từ
xa, mạng băng rộng, game giải trí, quản lý thông tin cá nhân,
phòng chống tội phạm, ngân hàng tực tuyến, mua sắm trực
tuyến,... [158].
Các quốc gia, lãnh thổ khác như Đài Loan, Ailen, Áo, Úc... là những
nơi có ngành CN NDS phát triển mạnh cũng không đưa ra một khái niệm
đồng nhất nào về ngành CN NDS mà chỉ phân loại ngành công nghiệp
thành các lĩnh vực chính. Đài Loan phân thành 8 lĩnh vực chính bao gồm:
Game kỹ thuật số, phim, hình ảnh trên máy tính, đào tạo trực tuyến, âm
thanh và các ứng dụng video, nội dung mạng di động, các dịch vụ mạng,
nội dung phần mềm, xuất bản - lưu trữ và cơ sở dữ liệu số. Ailen nhóm
thành 5 lĩnh vực cơ bản: game, thư viện số, đào tạo số; các dịch vụ trên nền
viễn thông/không dây. Viện CNTT, truyền thông và nghệ thuật của Áo đã
đưa ra 4 nội dung quan trọng của CN NDS: trò chơi tương tác, tương tác đa
38
phương tiện; quảng cáo; nội dung giáo dục. Hiệp hội công nghiệp truyền
thông đa phương tiện Úc về Tiêu chuẩn của ngành CN NDS định nghĩa về
ngành CN NDS tương ứng với các lĩnh vực: hình ảnh hiệu ứng và hình ảnh
động (bao gồm cả thực tế ảo và các sản phẩm 3D), tương tác đa phương
tiện (các trang web ví dụ như, CD-ROM), phát triển phần mềm máy tính,
các trò chơi trực tuyến, giáo dục đa phương tiện (e-learning) và sản xuất
phim truyền hình kỹ thuật số. Một số quốc gia thậm chí còn coi ngành công
nghiệp nội dung như là "ngành công nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hóa,
ngành công nghiệp bản quyền, hoặc ngành công nghiệp giải trí bởi vì đặc
điểm của sản phẩm sáng tạo và văn hóa” [130]. Tức là cho đến nay gần như
không có một khái niệm thống nhất chung về CN NDS. Với sự phát triển
mạnh mẽ của CNTT, xu hướng hội tụ số kết hợp nhiều ngành nghề với
công nghệ số tạo thêm nhiều mảng sản phẩm mới sẽ khiến khái niệm theo
sản phẩm ngày càng được mở rộng và thay đổi không ngừng.
Tại Việt Nam, khái niệm NDS được đề cập tại Điều 4, Luật CNTT:
"Công nghiệp NDS là một lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp CNTT, bao
gồm các hoạt động sản xuất và cung cấp sản phẩm nội dung thông tin số,
tức các thông tin được tạo lập bằng phương pháp dùng tín hiệu số” [64].
Khái niệm đó được chi tiết hơn trong Nghị định 71/2007 /NĐ-CP của
Chính phủ. Theo đó, CN NDS là ngành công nghiệp sản xuất, cung cấp và
phân phối các sản phẩm và nội dung thông tin số, gồm: Giáo trình, bài
giảng, tài liệu dưới dạng điện tử; sách, báo, tạp chí dưới dạng số; các loại
trò chơi điện tử; sản phẩm giải trí trên mạng viễn thông; thư viện số, kho
dữ liệu số; phim, ảnh, nhạc, quảng cáo số.
Các quan niệm ở trong và ngoài nước nêu trên cho thấy, CN NDS là
một ngành mới được gia nhập vào hệ thống các ngành kinh tế quốc dân
trong những năm gần đây. Nó phản ánh trình độ phát triển mới của lực
lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là sự
39
phát triển mạnh mẽ của CNTT. Những tiến bộ và phát triển đó đã thúc đẩy
phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu rộng
làm ra đời và phát triển các ngành kinh tế mới. Có thể hiểu, CN NDS là
ngành sản xuất, cung cấp và phân phối các sản phẩm và nội dung thông tin
số. Ở nước ta hiện nay, đã có một số tài liệu có nhắc đến Thương mại điện
tử là một thành phần trong ngành CN NDS. Tuy nhiên, trong nhiều nghiên
cứu đã coi Thương mại điện tử là một ngành riêng biệt, thuộc về Thương
mại nhiều hơn là NDS. Vì vậy, trong luận án sẽ không xét đến lĩnh vực
Thương mại điện tử cũng như lĩnh vực tiếp thị số trong ngành CN NDS.
2.1.1.2. Khái niệm nhân lực ngành công nghiệp nội dung số
Để thực hiện việc sản xuất kinh doanh của một DN nói riêng và
ngành CN NDS nói chung, cần phải có các điều kiện cần thiết, trong đó các
yếu tố sản xuất (đầu vào) hay các nguồn lực là những điều kiện cơ bản,
không thể thiếu. C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, muốn tiến hành sản xuất
thì đều phải có các yếu tố cần thiết. Các ông cho rằng, “Những yếu tố giản
đơn của quá trình lao động là: sự hoạt động có mục đích, hay bản thân sự
lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động” [59, tr.266-267]. Quá
trình sản xuất là quá trình kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất.
Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất
dưới tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ, con người càng đi sâu
hơn trong hiểu biết và nhận thức các yếu tố tạo ra quá trình sản xuất của xã
hội. Alfred Marshall, nhà kinh tế học người Anh, đã nêu ý tưởng đầu tiên
về bốn yếu tố cấu thành quá trình sản xuất bao gồm: lao động, tài nguyên
thiên nhiên, tư bản và công nghệ (kiến thức và tổ chức). Kể từ những năm
1990 lại đây, ý tưởng đó tưởng đó đã được thừa nhận rộng rãi với bốn yếu
tố sản xuất bao gồm vốn vật chất, vốn NL, tài nguyên thiên nhiên và kiến
thức công nghệ. Gregory Mankiw, nhà kinh tế học người Mỹ, đã coi đây là
các yếu tố đầu vào không thể thiếu của mọi quá trình sản xuất. Ông đã tách
40
vốn NL ra khỏi tư bản và xác định đó là nguồn vốn và là yếu tố sản xuất
độc lập trong nền kinh tế hiện đại [139]. Điều này có nghĩa là, để một quá
trình sản xuất được diễn ra, một điều kiện không những không thể thiếu mà
hơn nữa còn có tính quyết định đó là phải có người lao động hay còn gọi là
NL. Người lao động không chỉ trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất,
mà còn là người tổ chức, quản lý sản xuất để việc sản xuất có hiệu quả. Do
sự phát triển của phân công lao động xã hội, trình độ chuyên môn hóa lao
động đã ngày càng trở nên sâu sắc hơn, làm xuất hiện những lao động có
chuyên môn kỹ thuật. Nhân lực ngành CN NDS là bộ phận nguồn lực được
hình thành bởi sự thúc đẩy của quá trình phát triển phân công lao động xã
hội và chuyên môn hóa trong các nền sản xuất hiện đại.
Có thể hiểu, NL ngành CN NDS bao gồm những người tạo nên lực
lượng lao động trong các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc ngành CN NDS.
Do hoạt động của ngành NC NDS rất đa dạng và có sự kết hợp của các
nhóm ngành công nghệ thông tin, truyền thông và những ngành sản xuất
nguyên liệu đầu vào như văn hoá, giáo dục, y tế…, nên NL trong ngành CN
NDS bao gồm những người không chỉ có trình độ chuyên môn kỹ thuật
khác nhau mà còn am hiểu về những lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội
khác nhau. Cũng như tất cả các ngành kinh tế khác, NL ngành CN NDS
bao gồm cả những nhân lực trực tiếp sản xuất kinh doanh và người làm
công tác quản lý, quản trị đảm bảo cho quá trình hoạt động và phát triển
của ngành.
Trong phân tích, nghiên cứu kinh tế, người ta có thể xem xét NL
ngành CN NDS từ khía cạnh cụ thể (cá thể) là nguồn lực trong mỗi con
người (cá nhân) và từ khía cạnh tổng thể (xã hội) là nguồn lực con người
của một tổ chức, một tập thể lao động trong một DN, một ngành hay một
quốc gia.
41
Nhân lực ngành CN NDS được xem xét trên quan điểm cụ thể (cá
nhân) là nguồn lực của mỗi con người với tính cách là một chủ thể sở hữu
sức lao động, trong đó có kết cấu cơ bản bao gồm thể lực và trí lực tồn tại
trong mỗi chủ thể đó. Việc xem xét nêu trên liên quan đến hành vi cá nhân
của NL. Một người có thể lựa chọn làm việc ở một tổ chức, đơn vị kinh tế
mà họ thấy phù hợp, có hứng thú và động lực làm việc. Những nghiên cứu
về hành vi nhân lực những năm gần đây cho thấy có rất nhiều yếu tố khác
nhau dẫn đến quyết định của một người có khả năng lao động trong lựa
chọn công việc, nhưng có hai yếu tố chủ yếu có tính quyết định nhất đối
với việc lựa chọn của tất cả mọi người đó là điều kiện làm việc thuận lợi và
mức tiền công cao. Tuy nhiên, để có thể làm việc và hoàn thành một công
việc trong một nghề nhất định, người có sức lao động phải có trình độ
chuyên môn kỹ thuật và có các phẩm chất khác.
Do là một ngành sản xuất kinh doanh đòi hỏi tính chuyên môn hóa
cao và trình độ kỹ thuật đặc thù, nên để một người có thể làm việc trong
ngành CN NDS cần phải được đào tạo về chuyên môn, kỹ thuật ở một trình
độ nhất định. Do tính đặc thù của ngành CN này, nhân lực không chỉ phải
có thể lực, trình độ chuyên môn kỹ thuật thích hợp với công việc của ngành
mà còn có khả năng sáng tạo, khả năng làm việc trong điều kiện áp lực
cường độ cao thích ứng với công việc của một ngành kỹ thuật đòi hỏi độ tỷ
mỉ và chính xác cao, có tinh thần hợp tác với những nhân lực khác trong tổ
chức và có hiểu biết về ngành, lĩnh vực mà người đó phục vụ để phát triển,
sử dụng sản phẩm CN NDS. Với đòi hỏi đó, NL ngành CN NDS khi xem
xét ở mỗi con người cụ thể là một nguồn vốn NL có một giá trị cụ thể nhất
định để người đó có thể tham gia vào thị trường lao động, có khả năng sẵn
sàng lao động và hoàn thành công việc trong ngành CN NDS.
Nhân lực ngành CN NDS được xem xét trên quan điểm tổng thể (xã
hội) là tổng thể nguồn lực con người của một tổ chức. Nhân lực ngành CN
42
NDS là lực lượng lao động được thu hút, tuyển dụng trong xã hội để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của các DN, công ty, đơn vị trong ngành CN
NDS đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất và đời sống xã hội. Đây là một bộ
phận nguồn NL của xã hội mang tính chuyên môn hóa cao được hình thành
và thúc đẩy bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động
xã hội.
Xét về tính chất, cũng như ở tất cả các ngành kinh tế khác, NL trong
các tổ chức thuộc ngành CN NDS không phải là phép cộng số học tất cả
NL đơn độc được tuyển dụng và sử dụng vào làm việc ở trong tổ chức đó,
mà là một nguồn lực tổng hợp nhiều loại năng lực của tất cả mọi người tạo
nên sức mạnh của tổ chức.Nó cũng không phải là phép gộp đơn giản các
nhân tố như sức quan sát, khả năng của trí nhớ, sức suy nghĩ, óc tưởng
tượng, kỹ năng thực hành và sức sáng tạo của mỗi con người, mà là sự kết
hợp trong một cấu trúc tạo nên giá trị vốn NL, thương hiệu, danh tiếng của
mỗi DN hay của một ngành. Mặc dù có nhiều yếu tố tạo nên giá trị của
nguồn lực này này, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn nghiêng về nhấn mạnh
tầm quan trọng của tri thức, kỹ năng và coi đây là yếu tố then chốt tạo nên
sức mạnh NL của một tổ chức.
Xét trên quan điểm tổng thể, NL ngành CN NDS là nguồn lực của
một tổ chức. Tổ chức đó có thể hoạt động ở tầm vi mô như một tập thể lao
động trong một DN, một công ty, và cũng có thể hoạt động ở tầm vĩ mô
như NL của ngành CN NDS và NL trong lĩnh vực CNTT của một quốc gia.
Khi xem xét ở tầm vĩ mô tức là xem xét NL ngành CN NDS từ quan điểm
tổng thể của ngành có quan hệ với các ngành khác trong nền kinh tế, quan
hệ với hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, có quan hệ với
vấn đề dân số, lao động, việc làm, thu nhập trong tổng thể nền kinh tế quốc
dân. Xét theo góc độ kinh tế chính trị, NL ngành CN NDS phải được xem
43
xét, nghiên cứu để làm rõ các quan hệ lao động và quan hệ lợi ích kinh tế
trong toàn bộ quá trình thu hút, sử dụng và phát triển nguồn lực này để bảo
đảm cho sự phát triển của ngành CN NDS, một ngành kinh tế mới có rất
nhiều triển vọng đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội
của một quốc gia.
Cũng như bất kỳ ngành sản xuất nào, ngành CN NDS cần rất nhiều
nhân sự tài năng có chuyên môn sâu và có thể đáp ứng được yêu cầu phát
triển của ngành. Còn những vị trí hỗ trợ và cơ bản khác như nhân sự, hành
chính, tài chính, hỗ trợ kinh doanh... thì không khác nhiều các ngành công
nghiệp khác. Chính vì vậy, trong nghiên cứu này luận án chỉ chú trọng tới
những vị trí, chức danh có những khác biệt cơ bản và gần như chỉ có ở trong
ngành CN NDS. Tương ứng với những sản phẩm (lĩnh vực) của ngành CN
NDS sẽ có những chức danh công việc mà có thể kể dưới đây [145]:
Game: Lập trình cho các trò chơi, các thiết kế và hoạch định trò chơi
sáng tạo, các nhà thiết kế âm thanh và video, các nhà sản xuất trò chơi.
Hình ảnh động trên máy tính: giám đốc, nhà sản xuất, nhà viết kịch,
nhân sự lập kế hoạch phim hoạt hình, họa sĩ đồ họa, thiết kế nghệ thuật,
quản lý sản xuất và nhân viên.
Đào tạo trực tuyến: người lập kế hoạch đào tạo trực tuyến, thiết kế
khóa học, các nhà hoạch định và sản xuất tài liệu giáo dục, các nhà quản lý
và nhân viên để quản lý sáng tạo, kiến thức và các nguyên tắc giáo dục;
quản lý sáng tạo, nghiên cứu và thực hiện; các lập trình viên.
Các ứng dụng video và âm thanh: các kỹ sư và biên tập viên âm thanh
và hình ảnh, kỹ sư thực hiện, nén video trực tuyến, công nghệ sản xuất nội
dung tương tác, các nhà quản lý và hoạch định hoạt động sáng tạo, nhà viết
kịch, làm phim hoạt hình bằng máy tính, các kỹ sư công nghệ viễn thông...
44
Nội dung cho điện thoại di động: kỹ sư phần mềm, các nhà phát triển
hệ thống, nhân viên thiết kế mỹ thuật, phát triển nội dung, trưởng dự án.
Dịch vụ mạng: viễn thông, thông tin liên lạc, điện tử, kỹ thuật điện,
thông tin, quản lý thông tin.
Phần mềm Nội dung: thiết kế chương trình, các nhà phân tích
chương trình, phân tích hệ thống, các tester (kiểm thử), lập trình, quản lý
dự án và quản lý sản phẩm.
Xuất bản kỹ thuật số và lưu trữ kỹ thuật số: biên tập viên, quản lý
sản xuất, quyền sở hữu trí tuệ.
Nhu cầu cao về NL trong ngành CN NDS được nhắc đến trong hầu
hết các nghiên cứu và trong các chiến lược phát triển của các quốc gia đang
định hướng CN NDS là một trong những ngành CN chủ chốt của đất nước.
Tuy nhiên, nhu cầu ở đây trọng tâm vào cán bộ cấp trung và cao cấp bởi
vẫn còn khoảng cách lớn giữa giáo dục tại trường với kỳ vọng của DN. Bên
cạnh đó, như đã nói ở trên ngành CN NDS là ngành kết tinh giữa nghệ
thuật - kinh doanh và công nghệ nên việc tìm kiếm, đào tạo và phát triển
những nhân sự kết hợp được cả ba yếu tố trên là điều không hề dễ dàng và
những nhân sự mới tốt nghiệp ra trường rất khó để yêu cầu họ có đủ những
kiến thức cần thiết để bắt nhịp ngay vào công việc.
Do là một ngành sản xuất và phân phối những sản phẩm dịch vụ đáp
ứng nhu cầu của các ngành sản xuất khác và đời sống xã hội, nên NL
ngành CN NDS có thể thu hút rất nhiều người vào làm việc có tính thời
vụ (part-time). Điều này xuất phát từ sự phong phú, không ngừng thay
đổi, phát triển cũng như tính cạnh tranh về tiến độ “độ sớm ra thị trường”
của các sản phẩm NDS. Nhân lực hiện có của một DN không thể nhanh
chóng có được những kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực mới nên DN phải
thuê các chuyên gia bên ngoài để nhanh chóng thực hiện sản phẩm cũng
45
như đào tạo lại cho nhân sự. Hơn thế nữa, vì tính chất dự án của mỗi sản
phẩm nên tuỳ từng giai đoạn nhu cầu nhân lực có thể thay đổi nên doanh
nghiệp thường chỉ có những nhóm nhân sự chủ chốt còn lại sẽ thuê ngoài
khi cần thiết.
Tóm lại, NL ngành CN NDS là những người lao động làm việc trong
lĩnh vực NDS. Nó bao gồm 3 lực lượng chủ yếu: NL có trình độ chuyên môn
về CNTT và viễn thông; NL sáng tạo và thiết kế sáng tạo; NL kinh doanh.
2.1.2. Đặc điểm nhân lực ngành công nghiệp nội dung số
Do lĩnh vực hoạt động của ngành CN NDS có tính đặc thù, khác với
các ngành kinh tế khác, nên NL làm việc trong ngành CN này cũng có
những yêu cầu riêng, theo đó sẽ có những đặc điểm khác biệt. Cụ thể là:
Thứ nhất, NL ngành CN NDS là đội ngũ bao gồm những người làm
việc trong lĩnh vực sáng tạo. Đầu vào thiết yếu của một sản phẩm NDS là ý
tưởng sáng tạo và nó phụ thuộc rất nhiều vào năng lực cá nhân nhân lực.
Tuy nhiên, DN có lợi thế trong việc tổng hợp, quản lý, duy trì, kết hợp kiến
thức sẵn có và tạo ra kiến thức mới. Doanh nghiệp là người tạo ra, phát
triển và quản lý khả năng sáng tạo của nhân lực nhờ đó DN có thể nhanh
chóng thay đổi và tạo ra những lợi thế cạnh tranh mới.
Thứ hai, NL ngành CN NDS làm việc có tính hợp tác cao và có khả
năng làm việc theo dự án. Tính chất liên tục ra sản phẩm mới và đổi mới,
phát triển sản phẩm cũ khiến DN luôn phải xây dựng những nhóm dự án để
thực hiện và duy trì, phát triển sản phẩm. Trong một nhóm dự án, phân
công lao động được xác định bởi nhiệm vụ chuyên môn của mỗi người, nếu
không có khả năng hợp tác và làm việc theo dự án tốt thì rất dễ dẫn tới
những xung đột trong giao tiếp, ứng xử khi làm việc.
Thứ ba, NL ngành CN NDS được tích hợp lực lượng lao động thuộc
nhiều lĩnh vực. Tính tích hợp hay tính hợp nhất là sự am hiểu không chỉ
lĩnh vực riêng có của ngành CNTT, công nghệ kỹ thuật số... mà còn am
46
hiểu các lĩnh vực mà ngành CN NDS cung ứng sản phẩm. Ngành CN NDS
được coi là sự kết tinh của nghệ thuật -kinh doanh và công nghệ vì vậy
những người thành công nhất trong lĩnh vực này là những người có sự hiểu
biết đều cả ba mảng nêu trên.
Thứ tư, hoạt động của NL ngành CN NDS luôn coi trọng tính cập
nhật. Sự thành công về mặt thương mại của sản phẩm NDS phụ thuộc rất
nhiều vào độ mới, lạ và độc đáo của sản phẩm. Trong một môi trường công
nghệ thay đổi nhanh chóng và thị trường ngày càng cạnh tranh, DN có thể
có được lợi thế cạnh tranh bằng cách giới thiệu sản phẩm mới sớm hơn so
với các đối thủ của mình.
Ngành CN NDS cũng là ngành tạo ra cái mới bằng cách kết hợp các
lĩnh vực trước đây không được kết nối, ví dụ như bảo tàng trực tuyến, kho
nhạc, kho game trực tuyến,… Chính vì vậy, nhân sự làm trong lĩnh vực này
phải không ngừng chủ động tìm kiếm và phát triển những kiến thức mới cả
chính thức lẫn phi chính thức.
Xét về tổng thể, đặc điểm của NL ngành CN NDS thường quy tụ
những người lao động trẻ trung và hiểu biết về CNTT, có tính sáng tạo, năng
động và linh hoạt cao, tinh thần ham học hỏi, tìm tòi, nhanh chóng thích ứng
với sự thay đổi liên tục của thị trường; có khả năng ngoại ngữ tốt, có thể
giao lưu quốc tế và chịu được áp lực mạnh trong công việc [145]. Xét theo
đặc điểm đó, cũng như nhiều nước đang phát triển khác, Việt Nam còn thiếu
rất nhiều những tài năng trong sáng tạo, trong công nghệ, trong marketing,
kinh doanh và các nhà quản lý thuộc lĩnh vực CN NDS [154].
2.1.3. Vai trò của nhân lực để phát triển ngành công nghiệp nội
dung số
Theo tiếp cận của C. Mác, sức lao động là một điều kiện để quá trình
lao động và để một quá trình sản xuất được diễn ra. Trong bất cứ xã hội
nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Trong quá trình
47
sản xuất, con người không chỉ là chủ thể của sản xuất, mà còn là chủ thể
sáng tạo ra những hoạt động sản xuất mới để phát triển và hoàn thiện việc
sản xuất, làm cho việc sản xuất có hiệu quả hơn. Nhờ quá trình hoạt động
đó, con người ngày càng được hoàn thiện hơn. Theo Ph. Ăngghen: "Trước
hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là
hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho
bộ óc đó dần dần chuyển thành bộ óc của con người" [58, tr.646]. C.Mác
cho rằng, trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản
nhất của sản xuất. Công cụ lao động nếu không có tác động sức lao động
của con người thì không thể hoạt động được và như vậy không thể là nhân
tố quyết định nhất sự biến đổi của lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản
xuất được. Ông ví dụ, một cái máy không dùng vào quá trình lao động là
một cái máy vô ích. Ngoài ra, nó còn bị hư hỏng đi do sức mạnh hủy hoại
của sự trao đổi chất của tự nhiên. Sắt thì han rỉ, gỗ thì bị mục. Sợi không
dùng để dệt hoặc đan thì chỉ là một số bông bị hư hỏng. Lao động sống
phải nắm lấy những vật đó, cải tử hoàn sinh cho chúng, biến chúng từ
những giá trị sử dụng chỉ có tính chất khả năng thành những giá trị sử dụng
hiện thực và tác động. Điều này không chỉ nói lên vai trò quyết định của
nguồn lực con người trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác, mà còn
phản ánh một đặc điểm quan trọng của nó; đó là, nguồn lực con người là
nguồn duy nhất nhờ vào đó các nguồn lực khác mới phát huy được tác
dụng và có ý nghĩa tích cực đối với quá trình phát triển kinh tế.
Vận dụng vào phân tích vai trò của NL trong ngành CN NDS cho
thấy đây không chỉ là một yếu tố sản xuất, một bộ phận nguồn lực đầu vào
không thế thiếu đối với quá trình sản xuất và cung ứng sản phẩm, mà còn là
nhân tố có vai trò quyết định nhất đối với các hoạt động sản xuất, kinh
doanh đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành trong mọi giai đoạn phát triển.
Vai trò của NL đối với phát triển ngành CN NDS được thể hiện: là nhân tố
48
quyết định nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động của ngành; là lực
lượng có nhiều khả năng sáng tạo, đón bắt và đảm bảo cho sự phát triển
công nghệ được liên tục; là một yếu tố giúp nâng cao lợi thế cạnh tranh của
ngành và của quốc gia.
Những công trình gần đây về tăng trưởng kinh tế đã chứng minh vai
trò to lớn của giáo dục, sức khoẻ và các mặt chất lượng khác của con người
trong việc tạo ra tăng trưởng kinh tế. Ví dụ, giải thích nguyên nhân của “sự
thần kỳ” châu Á, người ta ngày càng nhận rõ vai trò nền tảng và cực kỳ
quan trọng thuộc về sự nâng cao chất lượng và kỹ năng của người lao động.
Thực tế, đây chính là vốn NL để phát triển con người. Vai trò kinh tế của
việc học hành tốt hơn và phổ cập hơn, sức khoẻ và dinh dưỡng tốt hơn và
tiến bộ công nghệ đều cho thấy tầm quan trọng của năng lực con người như
là tác nhân số một tạo ra sự tiến bộ kinh tế. Các nghiên cứu trắc nghiệm đã
chỉ ra rằng những đầu tư về vốn chỉ góp một phần nhỏ vào sự tăng trưởng
kinh tế. Phần lớn giá trị của sản phẩm thặng dư là do chất lượng lực lượng
lao động quyết định. Thêm vào đó, trong thời đại của cách mạng khoa học
và công nghệ và đến nay là cách mạng công nghiệp lần thứ tư, yếu tố thông
tin và tri thức trở thành thành phần cốt lõi của cả hệ thống kinh tế hiện đại.
Số liệu thống kê cho thấy, phần đóng góp của thông tin, tri thức trong thu
nhập quốc dân của Mỹ là 47,4%, Anh là 45,8%, Đức là 40% [44]. Vì vậy,
không phải ngẫu nhiên mà Gary Becker, người được giải thưởng Nobel về
kinh tế năm 1992, đã khẳng định rằng “không có đầu tư nào mang lại nguồn
lợi lớn như đầu tư vào nguồn lực con người, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục”
[99]. Hiệu quả đầu tư phát triển con người luôn cao hơn hiệu quả đầu tư vào
các lĩnh vực khác, tiết kiệm được việc sử dụng và khai thác các nguồn lực
khác và có độ lan toả đồng đều hơn so với các hình thức đầu tư khác.
Nền kinh tế thế giới đang dần chuyển sang phát triển kinh tế số. Đó
là nền kinh tế được vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các
49
giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet. Trong nền kinh tế đó, kỹ
thuật số được áp dụng vào tất cả các lĩnh vực, các ngành từ công nghiệp,
đến nông nghiệp và dịch vụ; từ sản xuất đến phân phối và lưu thông hàng
hóa cho đến các hạ tầng hỗ trợ như giao thông vận tải, logistics, tài chính,
ngân hàng,... điều kiện đó, NL là bộ phận nguồn lực có tầm quan trọng đặc
biệt. Theo khảo sát về mức độ sẵn sàng chuyển đổi số trong các tổ chức,
doanh nghiệp của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt
Nam (VINASA) công bố tại Diễn đàn Cấp cao CNTT, TT Việt Nam
(Vietnam ICT Summit) ngày 18/7/2018, thì NL là một trong ba dữ liệu
đáng chú ý để phát triển kinh tế số tại Việt Nam. Kết quả khảo sát cho thấy,
khi được hỏi về 3 nhân tố quan trọng nhất để Việt Nam phát triển nền kinh
tế số, đa số đã cho rằng việc xây dựng chính phủ số kiến tạo, hành động,
minh bạch, hiệu lực, hiệu quả; cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ cao
cho người dân, doanh nghiệp là quan trọng nhất (76,1%); tiếp theo là Phát
triển nguồn NL CNTT (57%); và cuối cùng là Phát triển hạ tầng số/kết nối
liên thông và dữ liệu mở (50%).
Trong Mục tiêu phát triển bền vững (SDG 8) của Liên Hợp Quốc gần
đây, việc trang bị những kỹ năng số mới cho NL là điều kiện quan trọng
nhất đảm bảo cho phát triển nền kinh tế mới thích ứng với cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư.
Trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra sâu rộng và nhanh chóng thì
vai trò quyết định của NL đối với phát triển đất nước nói chung và phát
triển ngành CN NDS nói riêng ngày càng rõ nét hơn. Các lý thuyết tăng
trưởng kinh tế gần đây đã chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng
nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản là: áp dụng công
nghệ, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng NL. Trong
đó, yếu tố và cũng là động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế
bền vững chính là NL, đặc biệt là NL chất lượng cao, trong đó có NL phục
vụ ngành CN NDS.
50
Thực tế cho thấy, lợi thế cạnh tranh quốc gia trong phát triển nền
kinh tế số trong đó bộ phận cốt lõi là ngành CN NDS, phụ thuộc vào đội
ngũ NL và tính linh hoạt của họ trong triển khai các công nghệ kỹ thuật số.
Nền kinh tế số đang phát triển với tốc độ nhanh đến mức làm thay đổi căn
bản cách thức hoạt động của các tổ chức, trong khu vực tư nhân hoặc công
cộng và đòi hỏi họ phải phát triển những cách nghĩ mới về cung cấp dịch
vụ ảnh hưởng đến cách thức hoạt động của các mô hình được thiết kế. Để
thực hiện những thay đổi đó, các nước đã và đang đặc biệt coi trọng vai trò
của NL để sản xuất và phân phối các phương pháp mới để sản xuất và quản
lý hoạt động của các ngành kinh tế. Trong nền kinh tế toàn cầu hoá đầy
biến động và cạnh tranh quyết liệt, thì ưu thế cạnh tranh luôn nghiêng về
các quốc gia có NL chất lượng cao. Bởi vậy, hiện nay trong chiến lược phát
triển của mình, nhiều quốc gia đã xác định phát triển nguồn vốn NL là yếu
tố cạnh tranh cơ bản nhất.
Ngành CN NDS đòi hỏi một lực lượng lao động đa hệ bao gồm
những công dân kỹ thuật số thế hệ mới với siêu liên kết, có khả năng thích
nghi với mô hình kinh doanh đầy năng động và luôn căng thẳng do tính
gián đoạn của kỹ thuật số. Sự ưu tiên phát triển NL cho ngành CN NDS là
rất cần thiết, vì nó đóng vai trò rất quan trọng trong việc định hình bản sắc
kỹ thuật số của mỗi DN và toàn bộ nền kinh tế. Ba lĩnh vực chính cần đặc
biệt coi trọng vai trò của NL có liên quan trực tiếp đến sự thành công để
phát triển ngành CN NDS gồm (1) Tái cấu trúc tổ chức để cho phép phát
triển ngành CN NDS đảm bảo sự phù hợp với mô hình kinh tế số tổng thể;
(2) Nắm bắt vòng đời công nghệ số để có kế hoạch, chiến lược phát triển
sản phẩm trong tương lai; (3) Việc quyết định, thiết kế và cung cấp tổ chức
kỹ thuật số để mở đường cho chuyển đổi số thích ứng với công nghệ mới
do cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại.
Nghiên cứu của Đại học Oxford và Tập đoàn tư vấn McKinsey (Mỹ)
51
đưa ra dự báo về việc 50% số công việc tại các nước phát triển sẽ được
thay thế bởi quy trình tự động hóa trong 15 năm tới. Tỷ lệ này cao hơn ở
các nước đang phát triển như Việt Nam vì có lợi thế cạnh tranh về giá trị
gia tăng của lực lượng lao động trong nước so với mức trung bình của thế
giới. Do đó, nhu cầu đào tạo và đào tạo lại nguồn NL nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển ngành CN NDS và của nền kinh tế số ngày càng trở nên cấp
bách [140].
2.2. YẾU TỐ CẤU THÀNH NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG
NGHIỆP NỘI DUNG SỐ, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
2.2.1. Yếu tố cấu thành nhân lực để phát triển ngành công nghiệp
nội dung số
2.2.1.1. Số lượng nhân lực
Nói đến NL của bất kỳ một tổ chức, một địa phương hay một quốc
gia nào, câu hỏi đầu tiên đặt ra là có bao nhiêu người và sẽ thêm bao nhiêu
người nữa trong tương lai. Đấy là những câu hỏi cho việc xác định số
lượng NL. Sự phát triển về số lượng NL dựa trên hai nhóm yếu tố bên
trong (ví dụ: nhu cầu thực tế công việc đòi hỏi phải tăng số lượng lao động)
và những yếu tố bên ngoài của tổ chức như sự gia tăng về dân số hay lực
lượng lao động do di dân. Vì vậy số lượng NL ngành CN NDS là những
người hiện đang làm việc trong ngành CN NDS và cả những sinh viên và
những người khác đang được đào tạo để trở thành NL phục vụ ngành CN
NDS trong tương lai.
Số lượng NL để phát triển ngành CN NDS phụ thuộc vào yêu cầu
về quy mô phát triển của ngành trong từng giai đoạn nhất định. Quy mô
của ngành quyết định cầu về số lượng NL và quy mô NL cho ngành, bởi
NL là yếu tố “phái sinh” của sản xuất. Số lượng NL luôn được xem xét
cùng với chất lượng và cơ cấu NL. Bởi vì, nếu chỉ có số lượng nhưng chất
52
lượng kém thì không sử dụng loại NL này được. Nếu cơ cấu không phù
hợp với yêu cầu của ngành thì sẽ dẫn đến lãng phí NL ở bộ phận này
nhưng lại thiếu NL ở bộ phận khác, hoạt động của ngành cũng sẽ không
có hiệu quả.
Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, do ngành CN NDS là
một ngành tương đối mới, nên số lượng NL phát triển của ngành chưa
nhiều. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra
như vũ bão như hiện nay, ngành CN NDS ngày càng có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của nhiều ngành trong nền kinh tế thế giới nói chung
và nền kinh tế của mỗi nước nói riêng. Tuy nhiên, do sự thay đổi liên tục
của CNTT nói chung và CN NDS nói riêng cũng như những đòi hỏi và nhu
cầu ngày càng mới mẻ của con người nên xu hướng cầu về số lượng NL để
phát triển ngành CN NDS ngày càng tăng lên.
2.2.1.2. Chất lượng nhân lực
Chất lượng NL là giá trị con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả
trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở
thành người lao động có những năng lực và phẩm chất đạo đức, đáp ứng được
những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội [68].
Về cơ bản, nhân lực để phát triển ngành CN NDS đòi hỏi phải có NL
chất lượng cao. Đó là những nhân lực đã được đào tạo bài bản, có trình độ
chuyên môn, kỹ thuật, có tính sáng tạo, đồng thời có kinh nghiệm hoặc
được đào tạo trong lĩnh vực công nghệ thông tin và CN NDS, có trình độ
ngoại ngữ để tiếp cận trực tiếp tri thức từ nước ngoài và giao lưu, liên
thông khoa học và công nghệ của ngành. Ngoài ra, NL đó cũng phải có các
kỹ năng mềm cần thiết có thể đáp ứng yêu cầu của công việc cụ thể khi
được giao để phát triển ngành CN NDS.
Chất lượng NL được đánh giá thông qua ba yếu tố chính bao gồm thể
lực, trí lực và tâm lực. Nếu xem xét chi tiết ba yếu tố này thì chúng bao
53
gồm sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, trình độ
lành nghề và các năng lực, phẩm chất cá nhân như sức sáng tạo, sức suy
nghĩ, độ bền của trí nhớ, tính kỷ luật, tinh thần hợp tác, ý thức trách nhiệm,
sự chuyên tâm v.v. Chất lượng NL chính là khả năng mà nhân lực sẵn sàng
đáp ứng và hoàn thành công việc được giao. Nhân lực làm việc đúng
chuyên môn kỹ thuật đã được đào tạo, huấn luyện thường có năng suất và
chất lượng lao động tốt hơn so với người không đúng chuyên môn. Người
nắm vững chuyên môn kỹ thuật, có trình độ học vấn cao làm việc đúng
chuyên môn được đào tạo sẽ lao động có năng suất và chất lượng cao hơn
so với người ít được đào tạo và có học vấn thấp. Chất lượng NL còn tùy
thuộc vào tính năng động, sáng tạo, ham hiểu biết của mỗi người mà không
nhất thiết cứ phải qua giáo dục, đào tạo. Đó là những phẩm chất bẩm sinh.
Phẩm chất này rất cần cho phát triển ngành CN NDS ví đây là ngành sản
xuất liên quan mật thiết với sáng tạo.
Chất lượng NL để phát triển ngành CN NDS còn thể hiện ở sức
mạnh tập thể của đội ngũ lao động làm việc trong mỗi DN và trong toàn
ngành CN này. Năng lực phối hợp và hợp tác giữa những người lao động
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức. Chất lượng NL của ngành
CN NDS là chất lượng tổng hợp của tập thể lao động trong ngành, chứ
không phải đơn giản là tổng số theo phép cộng chất lượng của từng nhân
lực làm việc tại ngành đó. Chất lượng NL để phát triển ngành CN NDS
không chỉ có trình độ chuyên sâu về tri thức chuyên môn kỹ thuật, mà còn
có cả sự chia sẻ và cộng tác giữa những người lao động trong cùng ngành,
có tính sáng tạo và không ngừng đổi mới theo kịp và có thể đi trước các
tiến bộ công nghệ đáp ứng yêu cầu của ngành với mức độ đa dạng và phức
tạp của cuộc cách mạng kỹ thuật số nói riêng và cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư nói riêng.
54
2.2.1.3. Cơ cấu nhân lực
Cơ cấu nhân lực là yếu tố không thể thiếu trong các yếu tố cấu thành
NL để phát triển ngành CN NDS khi xem xét đánh giá về nhân lực. Cơ cấu
NL thể hiện trên các phương diện khác nhau như: cơ cấu trình độ đào tạo,
giới tính, độ tuổi... Cơ cấu NL của một quốc gia nói chung được quyết định
bởi cơ cấu đào tạo và cơ cấu kinh tế được xác định theo một tỷ lệ nhất định
trong một giai đoạn phát triển nhất định.
Nói đến cơ cấu NL để phát triển ngành CN NDS là nói đến tỷ lệ của
lao động làm việc trong ngành CN này được phân chia theo trình độ đào
tạo, trình độ chuyên môn kỹ thuật, các ngành nghề cụ thể mà người lao
động đảm nhiệm, giới tính, độ tuổi... Ở các nước khác nhau sẽ có cơ cấu
NL ngành CN NDS khác nhau do trình độ phát triển ngành khác nhau. Tại
các nước phát triển, nhất là những nước tiên phong trong phát triển ngành
CN NDS, cơ cấu NL để phát triển có khác so với ở các nước đang phát
triển, những nước mới bước vào phát triển ngành CN NDS.
Ngành CN NDS có tính đa dạng về công nghệ sản xuất, đa dạng về
sản phẩm và dịch vụ. Ví dụ, ngành CN NDS ở nước ta hiện nay đã và đang
cung ứng trên thị trường rất nhiều loại sản phẩm, như: giáo trình, bài giảng,
tài liệu học tập dưới dạng điện tử; sách, báo, tài liệu dưới dạng số; các loại
trò chơi điện tử bao gồm trò chơi trên máy tính đơn, trò chơi trực tuyến, trò
chơi trên điện thoại di động; trò chơi tương tác qua truyền hình; sản phẩm
giải trí trên mạng viễn thông di động và cố định; thư viện số, kho dữ liệu
số, từ điển điện tử; phim số, ảnh số, nhạc số, quảng cáo số và các sản phẩm
NDS khác. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều loại dịch vụ NDS, như: dịch vụ
phân phối, phát hành sản phẩm NDS; dịch vụ nhập, cập nhật, tìm kiếm, lưu
trữ và xử lý dữ liệu số; dịch vụ quản trị, duy trì, bảo dưỡng, bảo hành sản
phẩm NDS; dịch vụ chỉnh sửa, bổ sung tính năng, bản địa hóa sản phẩm
NDS; dịch vụ đào tạo từ xa; dịch vụ khám, chữa bệnh từ xa; dịch vụ truyền
55
thông được cung cấp trên môi trường mạng; và các dịch vụ NDS khác. Do
vậy, trong xác định cơ cấu về NL ngành CN NDS xét theo chuyên môn kỹ
thuật và lĩnh vực hoạt động thường có khá nhiều phức tạp. Ngoài cơ cấu
ngành nghề, việc lựa chọn một cơ cấu NL để phát triển ngành CN NDS còn
tùy thuộc vào điều kiện phát triển của ngành trong mỗi giai đoạn cụ thể.
Điều này được quyết định bởi giới hạn nguồn vốn tài chính mà ngành có
thể huy động được và mức độ có thể có được của các yếu tố sản xuất khác
cho hoạt động của ngành. Ví dụ, khi nguồn vốn của ngành có giới hạn nhất
định hay còn bị hạn hẹp thì cũng không thể lựa chọn một cơ cấu NL đa
dạng có mặt ở tất cả các lĩnh vực sản xuất và phân phối khác nhau.
Tuy nhiên, về cơ bản, ngành CN NDS đòi hỏi NL đã qua đào tạo về
CNTT nói chung, các phân ngành cụ thể trong ngành CN NDS nói riêng và
các ngành có liên quan cần thiết cho phát triển CN NDS.
Do đặc điểm của ngành CN NDS, nên phần lớn sử dụng lao động là
nam giới. Nam giới không chỉ chiếm tỷ lệ lớn lao động trong ngành mà còn
đảm nhiệm các vị trí quan trọng như kỹ sư điện tử, chuyên gia phân tích hệ
thống máy tính, lập trình viên. Trong khi đó, nữ giới chỉ đảm nhận các
công việc khiêm tốn như nhập dữ liệu, điều khiển máy, trực tổng đài. Theo
các nhà khoa học, việc thiếu cơ hội học tập, thiếu tính sáng tạo đã làm cho
phụ nữ trở nên yếu thế trong ngành CNTT nói chung và ngành CN NDS
nói riêng. Tuy nhiên, số lượng nữ giới làm việc trong ngành này ở các nước
cũng có xu hướng tăng lên. Đây là những lao động trẻ, được đào tạo bài
bản về CNTT nói chung và CN NDS nói riêng. Thêm vào đó, nền tảng của
CNTT dựa trên tư duy toán học, vì vậy, lao động trong ngành CNTT nói
chung và ngành CN NDS nói riêng đòi hỏi phải có tư duy tốt về toán học.
Trong lịch sử phát triển của nó, ngành CNTT được khởi phát từ Mỹ,
sau đó phát triển mạnh tại các nước phương Tây. Kinh nghiệm các nước
cho thấy, để có được NL đáp ứng tốt yêu cầu phát triển ngành CN NDS,
56
đội ngũ NL phải có trình độ ngoại ngữ tiếng Anh không chỉ sử dụng vào
tiếp thu tri thức từ các nước tiên tiến mà còn sử dụng máy móc, phương
tiện trong hoạt động lao động sản xuất và dịch vụ. Thực tế hiện nay, hầu
hết các sản phẩm CNTT được sản xuất ở những nước như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc, và đều được hướng dẫn sử dụng bằng tiếng Anh.
2.2.2. Tiêu chí đánh giá nhân lực để phát triển ngành công
nghiệp nội dung số
2.2.2.1. Các tiêu chí định tính
Trên thực tế có rất nhiều các tiêu chí định tính đánh giá NL để phát
triển ngành CN NDS, ví dụ như kỹ năng mềm, sự lạc quan, sự trung thực,
sự nhiệt tình, sự tôn trọng, giờ giấc, độ tin cậy... Tuy những phẩm chất này
không thể đo đếm được, nhưng nhà quản lý và những người lao động có
thể cảm nhận được thông qua thái độ, phong cách và việc làm hàng ngày
của NL.
- Tiêu chí về kỹ năng mềm. Nếu trình độ chuyên môn, kỹ thuật, kiến
thức chuyên môn hay bằng cấp và chứng chỉ chuyên môn được gọi là
những "kỹ năng cứng", thì "kỹ năng mềm" biểu thị ở kỹ năng thực hành xã
hội. Đó là các phẩm chất liên quan đến trí tuệ xúc cảm của con người như:
kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, kỹ năng quản lý
thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới. Các kỹ
năng này thuộc về tính cách của con người, không mang tính chuyên môn,
không thể định lượng, không phải là kỹ năng cá tính đặc biệt, nhưng có tầm
quan trọng trong quyết định khả năng một người có thể hoàn thành công
việc, trở thành nhà lãnh đạo, nhà thương thuyết hay người sẵn sàng hợp
tác, sáng tạo, giải quyết vấn đề.
- Tiêu chí về yếu tố tâm lực: Xác định mức độ đạt được về ý chí, tinh
thần, thái độ, tính kỷ luật, tính trách nhiệm của NL khi thực hiện công việc
được giao. Các mức độ này có thể nhận biết thông qua hành vi ứng xử và
57
hoạt động lao động của mỗi người. Nó cũng có thể làm tiêu thức đánh giá
chất lượng của một tập thể người lao động trong một tổ chức. Nếu tập thể
đó có sự cộng tác gắn bó giữa các cá nhân, làm việc có trách nhiệm, có tỉnh
kỷ luật cao và đều hướng vào nâng cao hiệu quả hoạt động của DN, của
ngành thì đó là tập thể có chất lượng. Tuy không thể định lượng yếu tố tâm
lực, nhưng người ta có thể dựa vào thực tiễn các quan hệ hàng ngày trong
công việc, giao tiếp và thái độ của mỗi người lao động để đánh giá. Những
đánh giá thường nhằm vào xác định tính lạc quan, tính trung thực, sự nhiệt
tình, sự tôn trọng, hành vi thực hiện nghiêm túc giờ giấc lao động, độ tin
cậy, tính cẩn trọng.
Về tính lạc quan, nếu cảm nhận thấy người lao động luôn có tinh
thần tích cực làm việc thì đó là người có thể gắn bó lâu dài được với DN,
với ngành và có sự cầu tiến. Đây là những người muốn được cống hiến
nhiều và mang đến cho môi trường làm việc tính chuyên nghiệp, thân thiện
và tích cực.
Về tính trung thực, tuy phẩm chất này nhiều khi bất lợi cho nhà kinh
doanh, nhưng đối với nhà quản lý thì lại là yếu tố cần thiết để đánh giá
phẩm chất và khả năng hoàn thành công việc của một người lao động trong
DN, trong ngành. Một người lao động có sự trung thực luôn được đánh giá
cao bởi họ biết phân biệt đúng sai, có tư tưởng cầu tiến bộ.
Về sự nhiệt tình. Có thể thấy rằng nhiệt tình trong công việc sẽ giúp
không khí làm việc khẩn trương và chuyên nghiệp hơn, được những người
cùng làm việc coi trọng, mà còn được khách hàng đánh giá cao. Sự nhiệt
tình là yếu tố có thể đem lại kết quả công việc tốt, nhanh chóng.
- Tiêu chí về sự tôn trọng. Khi làm việc, người lao động cần có sự
tôn trọng với chính cấp trên và đồng nghiệp của mình. Sau đó chính là sự
tôn trọng đối với khách hàng. Đồng thời, nhà quản lý cũng phải có sư tôn
trọng đối với các nhân viên làm việc trong tổ chức của mình. Nếu không có
58
sự tôn trọng thì cũng không thể phát huy tính tích cực, sáng tạo của người
lao động. Họ sẽ không thể “hết mình” làm việc cho công ty.
- Tiêu chí về việc thực hiện nghiêm túc giờ giấc. Đây là tiêu chí quan
trọng để đánh giá tính chuyên nghiệp của mỗi nhân viên và nhà quản trị.
Quản lý thời gian làm việc hiệu quả cũng là một trong những tiêu chí đánh
giá NL, bạn không cần làm việc 12-14 giờ mỗi ngày nhưng khoảng thời
gian bạn làm việc phải thực sự mang lại hiệu quả. Điều đó mới là quan
trọng nhất.
- Tiêu chí về độ tin cậy, cẩn trọng. Có thể thấy rằng việc chăm lo
công việc, cẩn trọng là yếu tố mang lại hiệu quả công việc tốt, sự tin tưởng
từ các đồng nghiệp và cấp trên. Thận trọng khi xử lý công việc là điều
không bao giờ thừa, bởi lẽ nó sẽ tránh được những sai sót không cần thiết
có thể xảy ra.
2.2.2.2. Các tiêu chí định lượng
- Tiêu chí về số lượng nhân lực
Số lượng NL trong một ngành là số người lao động tham gia vào các
công việc của ngành được xác định tại một thời điểm hay một khoảng thời
gian nhất định. Ví dụ, số lượng NL của ngành tính đến ngày 31 tháng 12
năm 2019 hoặc số lượng NL tính trung bình trong năm 2019. Đối với
ngành CN NDS, tiêu chí số lượng NL dùng để đánh giá độ biến động của
lực lượng lao động làm việc trong ngành tính theo thời gian hoặc thời điểm
nêu trên. Nó là tổng số lao động hay tổng số việc làm được thu hút và sử
dụng trong ngành CN này tại một thời điểm nhất định. Số lượng NL phản
ánh quy mô việc làm của ngành. Nó được xác định bằng hai phương pháp
tính, gồm chỉ số tuyệt đối và chỉ số tương đối. Chỉ số tuyệt đối của số
lượng NL bao gồm tổng số người mà ngành thu hút trong xã hội. Nó cho
biết quy mô NL của một ngành tại một thời điểm cụ thể là bao nhiêu, tăng
lên hay giảm xuống so với thời điểm trước đó (tháng trước, năm trước...).
59
Số lượng NL trong ngành CN NDS có thế được xác định trong ngắn hạn
tức là khi chưa có những thay đổi lớn về công nghệ, và cũng có thể được
xác định trong dài hạn khi công nghệ cho hoạt động của ngành đã có sự
thay đổi cơ bản. Khi các điều kiện khác như công nghệ sản xuất, quy mô
vốn và cơ cấu bố trị NL cho các vị trí của ngành không đổi, nếu số lượng
NL của ngành mà tăng lên theo thời gian thì quy mô sản xuất kinh doanh
của ngành tăng lên. Ngược lại, khi số lượng NL giảm xuống thì quy mô
hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành giảm xuống. Số lượng NL trong
ngành CN NDS còn có thế được xác định trong dài hạn và dùng để mô tả
sự biến động của NL trong ngành khi có sự thay đổi về công nghệ sản xuất.
Chỉ số tương đối của số lượng NL ngành CN NDS được tính theo tỷ
lệ phần trăm (%) tùy theo mục đích nghiên cứu. Nó có thể dùng để đánh
giá mức độ biến động tổng số NL của từng phân ngành, từng DN và của
toàn ngành theo % giữa các thời kỳ khác nhau; đánh giá sự thay đổi của lực
lượng lao động làm việc trong ngành theo giới tính, độ tuổi, trình độ văn
hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật...
- Tiêu chí về chất lượng nhân lực
Tiêu chí về chất lượng NL trong một ngành thường được đo lường
bằng các chỉ tiêu về thể lực, trí lực và tâm lực của lực lượng lao động được
thu hút và sử dụng vào làm việc trong ngành tính trong một thời điểm hay
một khoảng thời gian nhất định.
Chỉ tiêu về thể lực: Đây là thước đo điều kiện về sức khỏe để đánh
giá mức độ có thể đáp ứng công việc khi sử dụng lao động. Nó được xác
định trên cơ thể của mỗi người về chiều cao, cân nặng, lực bóp tay, lực kéo
thân, chỉ số về tim mạch, nước tiểu, các giác quan nội khoa, ngoại khoa,
thần kinh, tình trạng bệnh tật... Tiêu chí này dùng để xác định và đánh giá
sự thay đổi về sức khỏe, mức độ làm việc dẻo dai của cơ thể con người đáp
ứng yêu cầu thực hiện một công việc cụ thể trong ngành. Do đặc điểm của
60
ngành CN NDS đòi hỏi người lao động phải có sức suy nghĩ, sức sáng tạo,
độ bền của trí nhớ và khả năng làm việc trong điều kiện áp lực cường độ
cao, nên các kết quả đánh giá chất lượng NL về thể lực có ý nghĩa rất quan
trọng để các nhà tuyển dụng, quản lý, sử dụng và hoạch định chính sách
NL có kế hoạch và giải pháp phát triển lâu dài đáp ứng yêu cầu phát triển
của ngành. Đến nay, việc đánh giá theo định lượng đối với các chỉ tiêu về
thể lực vẫn còn hạn chế về kỹ thuật, bởi không phải mọi yếu tố cấu thành
thể lực của con người đều có thể đo đếm được. Tuy nhiên, người ta có thể
đánh giá dựa vào các chỉ tiêu tỷ lệ lao động trẻ trong lực lượng lao động
trong ngành, số người và số thời gian nghỉ việc do ốm đau, tỷ lệ người lao
động theo phân loại sức khỏe do ngành y tế khám và xác định...
Việc đánh giá chất lượng NL làm việc trong ngành CN NDS về yếu
tố sức khỏe là rất cần thiết, để ngành có kế hoạch, chế độ kiểm tra, chăm
sóc, bồi dưỡng sức khỏe, nâng cao mức sống của người lao động, tạo điều
kiện để họ duy trì và tăng thêm sức khỏe đáp ứng tốt hơn yêu cầu của một
công việc cụ thể nhằm phát triển ngành.
Chỉ tiêu về trí lực: Đây là thước đo các năng lực về sức quan sát, khả
năng của trí nhớ, sức suy nghĩ, óc tưởng tượng, kỹ năng thực hành và sức
sáng tạo của con người nhằm đánh giá chất lượng của NL được sử dụng
trong ngành. Tuy không phải mọi yếu tố cấu thành trí lực của con người
đều có thể đo đếm được, nhưng trong xem xét, đánh giá, người ta thường
sử dụng một số chỉ tiêu như trình độ văn hóa, trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn kỹ thuật của người lao động làm việc trong ngành tại một thời
điểm cụ thể. Trong luận án, tác giả sẽ sử dụng các chỉ tiêu thông thường
này để đánh giá chất lượng NL để phát triển ngành CN NDS, cụ thể là:
Đánh giá về trình độ văn hóa của NL: Đến nay, việc đo lường trình
độ NL mới chủ yếu dựa vào trình độ học vấn. Tức là mới đo lường mức độ
61
đạt được về học tập cao nhất mà một người đã có theo cấp giáo dục, đào
tạo, gồm tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông... đến đại học, trên
đại học.
Trình độ về ngoại ngữ, tin học cũng là một chỉ tiêu xác định mức độ
học vấn của NL trong ngành. Đối với ngành CN NDS thì đây là một chỉ
tiêu quan trọng và là một kỹ năng không thể thiếu, bởi mọi hoạt động của
ngành đều có tính mở, hội nhập quốc tế và luôn dựa vào nền tảng CNTT.
Đánh giá về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Chỉ tiêu này có ý nghĩa
đánh giá trình độ văn hóa, nhưng nó đi sâu vào xác định mức độ đạt được
về năng lực ngành nghề mà người lao động có thể đảm nhiệm. Nó thể hiện
ở chuyên ngành mà một người lao động được đào tạo. Chẳng hạn, NL có
trình độ đại học chuyên ngành CNTT có thể phân biệt với NL có trình độ cử
nhân chuyên ngành kế toán. Ngay trong ngành CNTT cũng có rất nhiều
chuyên ngành hẹp hơn, như kỹ thuật mạng, công nghệ phần mềm, hệ thống
thông tin quản lý, thiết kế đồ họa/game/multimedia, Big Data và Machine
Learning... Việc xác định tiêu chí đánh giá cả về chỉ số tuyệt đối và chỉ số
tương đối đối với NL ngành CN NDS càng chi tiết bao nhiêu thì càng cung
cấp được chính xác nhu cầu, mức độ phù hợp và xu hướng thay đổi NL
trong ngành càng rõ ràng và thiết thực bấy nhiêu. Thông thường, với chỉ tiêu
về trình độ chuyên môn kỹ thuật của NL được tính bằng tỷ lệ lao động có
chuyên môn kỹ thuật và tỷ lệ nhân lực không có chuyên môn kỹ thuật; tỷ lệ
lao động theo từng ngành nghề chuyên môn cụ thể; tỷ lệ lao động được đào
tạo phù hợp hay không phù hợp với ngành nghề, công việc được giao.
Việc đánh giá về trình độ chuyên môn kỹ thuật có thể còn dựa vào kỹ
năng nghề, kinh nghiệm làm việc hay mức độ thành thạo trong công việc
của người lao động. Trước đây, các đánh giá thường dựa vào thời gian hay
thâm niên mà một người đảm nhiệm một công việc nhất định. Theo đánh
62
giá này, người có kinh nghiệm là người có thâm niên công việc lâu năm
hơn so với người có thời gian làm việc trong ngành đó ít năm hơn. Tất
nhiên, người có kinh nghiệm làm việc còn do tính sáng tạo và tích cực
trong công việc mà có. Bởi vậy, có thể dựa vào những đánh giá của tập thể
lao động trong ngành thông qua các bình chọn, tôn vinh hàng năm, cụ thể
như người đó có đạt danh hiệu “thợ giỏi”, “tiên tiến” hay không; năng suất
lao động của người đó theo thời gian có được tăng lên hay không và ở mức
nào. Các chỉ tiêu này có ý nghĩa đánh giá chất lượng NL của ngành. Khi
đánh giá định lượng, người ta có thể sử dụng bảng, hình để biểu thị.
2.2.3. Các nhân tố ảnh hƣởng tới nhân lực để phát triển ngành
công nghiệp nội dung số
2.2.3.1. Các nhân tố bên trong ngành công nghiệp nội dung số
Các nhân tố bên trong của ngành CN NDS có ảnh hưởng trực tiếp
đến kết quả hoạt động của ngành. Chúng bao gồm chính sách thu hút NL,
chế độ bố trí, sử dụng NL, chế độ đào tạo và đào tạo lại, chế độ đãi ngộ,
môi trường làm việc và trình độ công nghệ của nơi người lao động làm việc
thuận lợi hay không thuận lợi...
- Năng lực hoạch định, chính sách thu hút, sử dụng và phát triển NL.
Năng lực hoạch định nguồn NL của ngành nếu đúng hướng, xác định
rõ quy mô, cơ cấu và chất lượng NL phù hợp với yêu cầu phát triển sản
xuất và phân phối sản phẩm của ngành và có giải pháp thích hợp thì sẽ giúp
cho ngành chủ động trong việc đảm bảo nguồn lực này để phát triển ngành.
Nếu không có năng lực quy hoạch hoặc nội dung quy hoạch chất lượng
kém thì không thể có được giải pháp NL như mong đợi.
Chính sách thu hút NL là tổng thể các giải pháp được người đứng
đầu một ngành ban hành làm công cụ để thu hút nguồn NL trong xã hội vào
làm việc vì mục tiêu phát triển của ngành trong một điều kiện lịch sử cụ thể
gắn với chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của ngành. Chính sách
63
đó phản ánh quan điểm về mục đích, yêu cầu, đối tượng và cách thức tuyển
chọn lao động nhằm đảm bảo cho ngành có đủ số lượng và chất lượng NL
với cơ cấu phù hợp để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của mình trong
giai đoạn hiện tại hay tương lai.
Nếu ngành CN NDS có chiến lược/ kế hoạch phát triển NL phù hợp
với chiến lược/ kế hoạch phát triển của ngành, các hoạt động đào tạo cần
phản ánh tầm nhìn, chiến lược của ngành, thì việc việc định hướng và thực
hiện thu hút NL sẽ được chính xác và không bị lãng phí. Nếu xác định rõ
ràng quan hệ giữa sử dụng và đào tạo NL, lợi ích kinh tế của các chủ thể
trong ngành gắn với kết quả kinh doanh thì đây sẽ là điều kiện thuận lợi để
thu hút NL.
Một ngành có chính sách thu hút NL phù hợp và hấp dẫn, xuất phát
từ việc hoạch định nguồn NL chính xác và khoa học, sẽ thu hút được nhiều
người đảm bảo chất lượng hơn, tức là NL có chất lượng ban đầu cao hơn.
Điều này góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển NL trong ngành.
Bên cạnh đó, nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến các yêu cầu và cách thức
phát triển NL của ngành.
- Sự phát triển của các hiệp hội doanh nghiệp NDS và các nhà sáng
tạo trong ngành CN NDS.
Một trong những nhân tố quan trong góp phần thúc đẩy ngành CN
NDS là hình thành hiệp hội ngành nghề của các doanh nghiệp kinh doanh
trong ngành CN NDS và hiệp hội các nhà nghiên cứu (sáng tạo) trong
ngành CN NDS. Việc hình thành các hiệp hội nghề nghiệp một mặt đảm
bảo cho các doanh nghiệp và nhà nghiên cứu có nhiều hơn những cơ hội
trao đổi kinh nghiệm trong ngành, mặt khác tạo liên kết để tăng khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, việc đăng ký và bảo hộ bản quyền của các công trình
nghiệp cứu của các nhà nghiên cứu cũng thuận lợi hơn, việc giải quyết
64
tranh chấp về bản quyền và xâm hại bản quyền với các tổ chức, cá nhân
quốc tế cũng đạt hiệu quả cao hơn khi có sự tham gia của các hiệp hội
ngành nghề.
- Quy mô và trình độ phát triển của các hoạt động đào tạo và bồi
dưỡng NL cho ngành CN NDS.
Đào tạo và bồi dưỡng là nhân tố cốt lõi có tác động trực tiếp và mạnh
mẽ đến chất lượng NL trong ngành. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng và cơ cấu của NL, nhất là ảnh hưởng đến trình độ chuyên môn kỹ
thuật, năng lực sáng tạo của người lao động để phát triển ngành CN NDS.
Quy mô và trình độ phát triển của việc đào tạo và bồi dưỡng NL cho ngành
CN NDS được xác lập không chỉ bởi các cơ sở trường hoặc của ngành giáo
dục và đào tạo, mà còn có sự tham gia của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng NL
có tính chuyên sâu do chính ngành CN NDS lập ra.
Nếu các hoạt động đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật,
năng lực sáng tạo cho các đối tượng NL trong ngành được quan tâm và tiến
hành thường xuyên, thì chất lượng NL sẽ được tăng lên. Những hoạt động
này là rất cần thiết đối với một ngành mới và luôn biến đổi bởi các chu kỳ
công nghệ như ngành CN NDS. Nếu chính sách đào tạo nâng cao trình độ
của ngành được áp dụng cho tất cả các đối tượng NL, với một mức độ hợp
lý, suất chi toàn bộ đủ lớn cho bất kỳ hình thức đào tạo nào trong hoặc
ngoài nước… được coi trọng, thì nó sẽ có tác dụng kích thích người lao
động có động cơ học tập để nâng cao tay nghề, gắn bó và cống hiến cho sự
phát triển của ngành tốt hơn. Nếu không quan tâm đến chính sách đào tạo
và đào tạo lại NL thì chất lượng NL không thể nâng cao, do đó người lao
động cũng sẽ khó hoàn thành công việc được giao.
Nếu các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng NL có dự báo đúng xu hướng
cầu về NL ngành CN NDS trong từng giai đoạn phát triển nhất định và có
sự phối hợp chặt chẽ của cơ quan chủ quản ngành CN NDS trong việc xác
65
định và thực hướng xu hướng này để chủ động về kế hoạch và chương trình
đào tạo thì sẽ chủ động được số lượng, chất lượng và cơ cấu NL cho ngành
hơn là khi không có được những dự báo và kế hoạch như vậy. Mức độ tạo
ra và đáp ứng về các điều kiện trường, lớp, phương tiện phục vụ đào tạo,
bồi dưỡng NL, các cơ sở vật chất cần thiết nhất là giáo trình, bài giảng và
các lực lượng nhất là đội ngũ giảng viên, nhà quản lý... đều có ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng học tập của người lao động.
Nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện này thì việc chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng NL sẽ được nâng lên; ngược lại nếu không được đáp ứng đầy đủ
hoặc chất lượng đáp ứng thấp, không tiên tiến, không phù hợp thì việc đào
tạo, bồi dưỡng NL cũng không thể đạt được như mong muốn. Nếu việc đào
tạo và bồi dưỡng NL cho ngành không được quan tâm, thiếu thường xuyên,
thiếu coi trọng chất lượng đào tạo thì cũng không thể có được NL để đáp
ứng nhu cầu phát triển của ngành. Nếu nguồn tài chính phục vụ cho các
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng NL không được đáp ứng đầy đủ thì cũng
không thể có được NL để phát triển ngành CN NDS như trên...
- Trình độ công nghệ: Trình độ công nghệ hiện có của ngành và triển
vọng được trang bị mới và luôn có sự phát triển thì đây là nhân tố rất quan
trọng để người lao động làm việc và hoàn thành một công việc trong
ngành. Đối với ngành CN NDS thì trang bị những công nghệ mới là rất cần
thiết. Nếu chỉ có nguồn NL mạnh về cả số lượng và chất lượng, nhưng lại
thiếu công nghệ cần thiết để con người tiến hành quá trình lao động thì
hoạt động sản xuất không thể diễn ra. Mức độ phù hợp, tương thích giữa
công nghệ với NL không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động
và sự thành công của ngành mà còn tác động trực tiếp đến phát huy vai trò
của NL trong quá trình sử dụng công nghệ. Khi có đủ công nghệ cần thiết
để người lao động làm việc thì họ cũng không muốn rời bỏ ngành để tìm
việc làm ở các nơi khác.
66
- Chế độ bố trí, sử dụng NL: Là một trong những yếu tố quan trọng
tác động đến phát huy năng lực và động lực của người lao động trong
ngành. Phân công đúng người, đúng việc, đánh giá đúng tính chất và mức
độ tham gia, đóng góp của từng người lao động để có chính sách khích lệ,
đãi ngộ kịp thời sẽ mang lại mức độ sinh lợi cao của hoạt động chung và
tạo ra sự động viên to lớn đối với người lao động.
- Chế độ đãi ngộ người lao động: Các chế độ đãi ngộ về vật chất và
tinh thần đối với người lao động là một trong những yếu tố tạo động lực để
phát triển ngành. Đãi ngộ về vật chất là yếu tố tác động vào lợi ích kinh tế
của người lao động; còn đãi ngộ về tinh thần là yếu tố tác động vào lợi ích
tinh thần, thái độ của người lao động. Các chế độ này được thể hiện trong
việc thiết lập và áp dụng các chính sách hợp lý về tiền lương, khen thưởng,
kỷ luật, hoàn thiện môi trường và điều kiện làm việc, thực hiện các chế độ
về y tế, bảo hiểm và an toàn lao động. Tùy theo mức độ tác động tích cực
của người quản lý mà người lao động có những hứng khởi nhất định trong
quá trình làm việc, cống hiến cho ngành. Do nhu cầu đời sống vật chất và
tinh thần của con người luôn ngày càng được nâng cao, nên việc không
ngừng đổi mới, hoàn thiện chế độ khuyến khích vật chất, tinh thần người
lao động là cần thiết. Nếu người đứng đầu của ngành có chính sách đúng và
thực thi tốt thì đây sẽ là nhân tố quan trọng để nâng cao chất lượng NL đáp
ứng yêu cầu phát triển của ngành. Ngược lại, nếu không được quan tâm, thì
người lao động không có động lực để tiến hành các công việc được giao.
Trong các chế độ đãi ngộ người lao động, chính sách tiền lương là
nhân tố có tác động mạnh mẽ nhất đến động cơ làm việc của họ. Một chế
độ tiền lương được dựa trên nguyên tắc phân phối thu nhập công bằng, hợp
lý sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ để người lao động quan tâm đến công việc,
hăng say lao động để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị
và của ngành. Ngược lại, nếu phân phối không hợp lý thì người lao động
67
mất động lực làm việc và cống hiến, thậm chí họ còn có những phản ứng
tiêu cực ngăn trở hoặc phá hoại sự phát triển của ngành. Nếu thiếu coi
trọng việc công khai, minh bạch trong phân phối thu nhập hoặc có tình
trạng tham nhũng, lợi ích nhóm thì người lao động cũng mất động lực để
hoàn thành công việc được giao.
Môi trường làm việc cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến
sự gắn bó, tính sáng tạo và năng động của người lao động trong ngành CN
NDS. Nếu làm việc trong một ngành, một tổ chức có môi trường làm việc
chuyên nghiệp và thân thiện, có sự đoàn kết đồng lòng giữa những người
lao động, tôn trọng dân chủ và công bằng thì người lao động sẽ hăng say
làm việc và sẵn sàng cống hiến cho tổ chức, cho ngành, không bị “nhảy
việc” hơn là so với những nơi không có được những điều kiện như vậy.
2.2.3.2. Các nhân tố bên ngoài ngành công nghiệp nội dung số
Các nhân tố bên ngoài ngành CN NDS có ảnh hưởng đến NL NDS
bao gồm môi trường kinh tế, pháp luật về lao động và thị trường lao động,
khoa học, công nghệ và các yếu tố văn hoá, xã hội của quốc gia.
- Môi trường kinh tế và xã hội bao gồm các yếu tố như tốc độ tăng
trưởng kinh tế, mức độ ổn định của chính sách kinh tế, của tiền tệ và giá cả,
mức độ đạt được của trật tự, an toàn xã hội... đều có ảnh hưởng trực tiếp
đến nhu cầu thu hút và sử dụng NL của ngành. Nếu môi trường kinh tế và
xã hội thuận lợi, tăng trưởng kinh tế được liên tục và ổn định, trật tự án
toàn xã hội được giữ vững... thì nó kích thích việc thu hút và sử dụng NL
hơn, người lao động và nhà quản lý ngành yên tâm trong hoạt động để phát
triển sản xuất hơn so với khi không có được môi trường thuận lợi như vậy.
Khi nền kinh tế hoặc xã hội bất ổn định thì nó cũng gây áp lực, tác động
tiêu cực đối với người lao động trong quá trình thực hiện công việc.
- Quy mô dân số và thị trường lao động. Nếu có quy mô dân số đủ
lớn, có ưu thế về lực lượng lao động, nhất là lao động trẻ, thì việc thu hút và
68
sử dụng NL sẽ thuận lợi hơn so với một nước thuộc loại có ít người và có tỷ
lệ dân số già. Nếu thị trường lao động được xác lập và hoạt động có hiệu
quả, làm tốt công tác phổ biến và giới thiệu việc làm, thì sẽ thu hút đúng và
đủ NL hơn là so với nơi không có được thị trường lao động như vậy.
- Các yếu tố văn hoá, xã hội của quốc gia có tác động lớn đến tâm lý,
hành vi, phong cách, lối sống và sự thay đổi trong cách nhìn nhận về các
giá trị của nhân lực. Và như vậy, nó ảnh hưởng đến cách tư duy và các
chính sách phát triển NL nhằm phát huy cao độ những yếu tố tích cực,
đồng thời khắc phục những mặt tiêu cực trong tác phong lao động của NL
tại mỗi DN và trong toàn ngành CN NDS.
- Cạnh tranh thu hút nhân lực của DN và của ngành CN NDS cũng
có tác động mạnh đến số lượng và chất lượng NL. Thông qua cơ chế này,
có thể tạo ra sự di chuyển NL từ DN này đến DN khác, đặc biệt là đối với
việc di chuyển NL chất lượng cao.
- Năng lực cung ứng NL của các cơ sở đào tạo là một trong những
nguồn cung cấp lao động rất quan trọng cho các DN trong ngành, khả năng
này cao hay thấp trực tiếp ảnh hưởng đến mức độ dư thừa hay khan hiếm
NL trong các thời kỳ khác nhau. Ngoài ra, chất lượng của các cơ sở đào tạo
cũng phải được xem xét kỹ lưỡng vì nó sẽ quyết định chất lượng NL của
DNvà trong toàn ngành trong tương lai.
- Bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam ảnh hưởng tới NL để phát
triển ngành CN NDS.
Trong điều kiện Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào thị
trường quốc tế, các hoạt động thuê mướn trong ngành CN NDS cũng được
các doanh nghiệp trong ngành CN DNS thực hiện như một tất yếu theo quy
luật của nền kinh tế thị trường. Việc các doanh nghiệp trong nước thuê
mướn lao động nước ngoài thực hiện các công đoạn hoặc toàn bộ một lĩnh
vực trong ngành CN NDS sẽ góp phần nhanh chóng đưa sản phẩm của
69
ngành CN NDS Việt Nam đủ khả năng tham gia và cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Đồng thời quá trình chuyển giao kinh nghiệm, công nghệ
trong ngành CN NDS cũng qua đó được thực hiện góp phần nâng cao trình
độ cho NL CN NDS của Việt Nam.
Ở chiều ngược lại, nhân lực CN NDS của Việt Nam cũng có cơ hội
tham gia vào các công đoạn trong ngành CN NDS của các doanh nghiệp quốc
tế. Quá trình này góp phần quan trọng đưa ngành CN NDS của Việt Nam
tham gia vào từng khâu trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành CN NDS.
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nhân tố bên
ngoài có ảnh hưởng mạnh tới NL để phát triển CN NDS của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
2.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC VỀ PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC
NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ
2.3.1. Tổng quan kinh nghiệm của một số nƣớc về phát triển
nhân lực ngành công nghiệp nội dung số
2.3.1.1. Kinh nghiệm của Ấn Độ
Kể từ thập niên 1990, Ấn Độ đã đóng vai trò quan trọng trong việc
cung cấp NL về CNTT chất lượng cao cho thế giới. Để có nguồn NL
CNTT chất lượng cao, Ấn Độ đã thành lập Hội DN Dịch vụ và Phần mềm
(The Association of Software and Services companies - NASSCOM) có
nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển ngành CNTT quốc gia.
NASSCOM đã lập dự án phát triển nguồn NL quốc gia và chỉ ra rằng
các nước có nhu cầu lao động CNTT của Ấn Độ là Mỹ, Nhật, Đức và Anh.
Dự án dự đoán từ năm 1999-2008, Ấn Độ cần 2,2 triệu lao động CNTT,
trong đó có 1,1 triệu lao động CNTT có bằng chính quy, trong khi hệ thống
đào tạo chính quy lúc bấy giờ chỉ có thể cung cấp khoảng 1,06 triệu lao
động (UN, 2001) [153].
70
Đáp ứng cho nhu cầu NL như dự báo, hệ thống giáo dục và đào tạo
CNTT được mở rộng gồm 2.579 đơn vị đào tạo chính quy và 2.300 đơn vị
đào tạo phi chính quy (UN, 2001) [153]. Chính phủ Ấn Độ còn khuyến
khích tư nhân tham gia vào hệ thống đào tạo CNTT quốc gia. Đến năm
2008, Ấn Độ đã đào tạo được hơn 2 triệu lao động. Bên cạnh đó, chính phủ
còn phân rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc phát triển
NL NDS:
Thứ nhất, Bộ Phát triển nguồn NL có trách nhiệm liên kết các bộ
phận có liên quan trong hệ thống giáo dục để đào tạo CNTT.
Thứ hai, Bộ CNTT có trách nhiệm liên kết các DN với nhà trường
trong việc đào tạo CNTT.
Thứ ba, Hội đồng Giáo dục công nghệ có trách nhiệm làm việc với
các ban ngành để tư vấn, hỗ trợ xây dựng chương trình đào tạo và quản lý
chất lượng đào tạo CNTT.
Thứ tư, các trường có trách nhiệm quản lý chương trình đào tạo
CNTT tại trường theo đúng định hướng của chính phủ.
Hệ thống giáo dục và đào tạo CNTT của Ấn Độ được mở rộng đã thật
sự phát huy có hiệu quả trong việc đào tạo và phát triển NL CNTT Ấn Độ.
Để tránh tình trạng chảy máu chất xám, chính phủ Ấn Độ còn thực
hiện chính sách di cư theo từng ngành, từng giai đoạn khác nhau để giữ
được người giỏi. Bên cạnh đó, chính phủ Ấn Độ còn khuyến khích phát
triển các trung tâm CNTT của người nước ngoài tại Ấn Độ.
Chính vì những chính sách thông thoáng, tạo điều kiện cho nhà đầu tư
nước ngoài vào Ấn Độ, cũng như chính sách phát triển công nghiệp phần
mềm đã tạođiều kiện cho thị trường CNTT Ấn Độ phát triển mạnh. Kết quả,
Ấn Độ không chỉ giữ được người giỏi tại quốc gia mà còn tạo ra sự cạnh tranh
gay gắt với các nước trong việc đào tạo và phát triển NL CNTT.
71
2.3.1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Vào những năm 1990, công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-
TT) của Hàn Quốc bắt đầu phát triển, đặc biệt là từ năm 1996-1999,
CNTT-TT đã đóng góp cho nền kinh tế Hàn Quốc từ 8,1% đến 9,9% GDP.
Doanh thu của ngành CNTT-TT hàng năm tăng 14%. Ngành công nghiệp
phần mềm phát triển với tốc độ là 30% mỗi năm (UN, 2001) [17].
Với tốc độ phát triển của CNTT-TT, dự báo nhu cầu cho NL CNTT
cho quốc gia được xác định vào khoảng 1 triệu lao động CNTT vào năm
1998, năm 2003 khoảng 1,4 triệu lao động CNTT và đến năm 2010 khoảng
gần 2 triệu lao động lao động CNTT.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc đã dự báo khủng hoảng NLCNTT trình độ
kỹ sư hoặc cao hơn sẽ xảy ra vào giai đoạn 2000-2004, giai đoạn này, riêng
ngành công nghiệp phần mềm cần hơn 20.000 lao động có trình độ kỹ sư
và hơn 3.000 lao động có trình độ tiến sĩ (UN, 2001) [17].
Để giải quyết bài toán NL CNTT, Hàn Quốc đã có các chính sách sau:
Thứ nhất, là mở rộng hệ thống đào tạo CNTT ở bậc đại học và tiến
sĩ, chính quyền Hàn Quốc đã hỗ trợ, cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng
CNTT, mở rộng quy mô cho các trường đào tạo CNTT.
Thứ hai, để nâng cao chất lượng đào tạo CNTT, chính quyền Hàn
Quốc còn hỗ trợ, tư vấn xây dựng các chương trình đào tạo CNTT tiên tiến,
đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển về CNTT, và đào tạo giáo viên CNTT cho
hệ thống giáo dục đại học. Xây dựng hệ thống tiêu chí (chuẩn đầu ra) cho
lực lượng lao động trong ngành CNTT.
Thứ ba, chính quyền hỗ trợ cho việc đào tạo lại lao động CNTT hiện
có để tăng năng suất và hiệu quả làm việc của họ.
Thứ tư, tuyên truyền về CNTT, hỗ trợ cho việc ứng dụng CNTT
trong cộng đồng để chuẩn bị các kiến thức CNTT cho cộng đồng nhằm
phát triển nguồn nhân lực CNTT lâu dài, hướng tới xây dựng xã hội học
tập và hình thành cho người dân ý thức học tập suốt đời.
72
Thứ năm, xây dựng các chương trình phát triển NL CNTT, bố trí ngân
sách cho việc đào tạo NL và giao trách nhiệm cho BTT&TT thực hiện.
Thứ sáu, Hàn Quốc đã kêu gọi đầu tư của xã hội vào công tác phát
triển nguồn NL.
Như vậy, nhờ vào những dự báo chính xác, Hàn Quốc đã có thể lập
kế hoạch và xây dựng các chương trình đào tạo CNTT hợp lý để phát triển
nguồn NL này. Với đội ngũ NL mạnh mẽ, Hàn Quốc đã phát triển mạnh
ngành CNTT và trở thành một quốc gia phát triển như hiện nay.
2.3.1.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Ở Trung Quốc, phát triển công nghệ cao, đặc biệt là CNTT là một
trong những yếu tố then chốt để phát triển nền kinh tế. Do là một nước
đang phát triển, dân số đông, nền giáo dục có xuất phát điểm lạc hậu, nên
Trung Quốc thật sự gặp khó khăn trong việc phát triển nguồn NL phục vụ
cho CNTT. Để giải quyết nhu cầu này, Trung Quốc đã đưa tin học vào
chương trình chính khóa bắt đầu từ giáo dục phổ thông.
Trong các trường cao đẳng, đại học, 62% sinh viên theo học khoa
học tự nhiên và kỹ thuật, tất cả các sinh viên này đều bắt buộc phải học
môn tin học. Năm 2001, cả nước có 468 khoa từ các trường cao đẳng hoặc
đại học có chuyên ngành CNTT. Hàng năm, Trung Quốc có khoảng 30.000
sinh viên tốt nghiệp ngành CNTT [153].
Bên cạnh đó, kiến thức cơ bản về máy tính còn trở thành nội dung
mà các chuyên gia bắt buộc phải vượt qua trong kỳ kiểm tra quốc gia dành
cho những chuyên gia trong lĩnh vực khoa học tự nhiên hoặc công nghệ
nếu như người đó muốn thăng chức trong nghề nghiệp. Ngoài ra, Trung
Quốc còn tổ chức xã hội hóa đào tạo CNTT, đặc biệt khuyến khích các nhà
đầu tư nước ngoài tham gia đào tạo CNTT. Nhìn chung, với những chính
sách mở rộng giáo dục và đào tạo CNTT, Trung Quốc đã phần nào giải
quyết được nhu cầu NL CNTT, giúp cho ngành CNTT thật sự phát triển và
trở thành một trong những ngành quan trọng của Trung Quốc.
73
2.3.2. Bài học rút ra cho Việt Nam về phát triển nhân lực ngành
công nghiệp nội dung số
Do là nước đi sau, việc nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của nước đi
trước là có ý nghĩa thiết thực vì tính hiệu quả. Để xây dựng và bảo đảm NL
chất lượng cao cho ngành CN NDS, chính phủ của nhiều nước đã xây dựng
những chiến lược tổng thể trong việc đào tạo và phát triển NL quốc gia với
việc ban hành và thực thi rất nhiều chính sách hỗ trợ. Một số chính sách có
thể tham khảo để áp dụng ở Việt Nam là:
Thứ nhất, thúc đẩy sự hợp tác giữa chính phủ và các tổ chức giáo dục
và đào tạo nhằm tăng cường năng lực cho các cơ sở đào tạo và thu nhỏ
khoảng cách về cung cầu NL cho ngành CN NDS. Hầu hết các quốc gia
phát triển đều rất chú trọng trong việc phát triển NL đầu vào cho ngành CN
NDS. Chính vì vậy, rất nhiều các chương trình đào tạo cấp quốc gia đã
được đưa vào các trường học ngay từ bậc trung học để học sinh có thể có
cơ hội tiếp xúc với ngành CN NDS nhằm có những định hướng phát triển
nghề nghiệp rõ ràng trong tương lai bằng việc thi vào các trường đại học
chuyên ngành hoặc tham gia các chương trình đào tạo ngắn, dài hạn chuyên
biệt trong lĩnh vực NDS.
Ví dụ, tại Hàn Quốc, Chính phủ khuyến khích phụ nữ tham gia vào
lực lượng lao động chuyên nghiệp, đào tạo lực lượng trẻ thông qua các
cuộc thi, chú trọng phát triển NL chất lượng cao tại trường học, cấu trúc lại
nội dung về phát triển CNTT số trong chương trình môn học, hỗ trợ phát
triển các khóa học ảo, khóa học qua mạng; cấp nhiều học bổng cho người
nước ngoài: học bổng cao học và tiến sỹ, mời các giáo sư nổi tiếng của
nước ngoài hợp tác giảng dạy và làm việc.
Thứ hai, cung cấp dịch vụ đào tạo và tư vấn. Việc cung cấp dịch vụ
đào tạo và tư vấn phát triển các DN thuộc ngành CN NDS sẽ giúp nâng cao
chất lượng sản phẩm, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của DN. Nhà nước
74
phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống quốc gia cung cấp dịch
vụ đào tạo, tư vấn cho các DN thuộc ngành CN NDS. Tổ chức đều đặn và
rộng khắp các lớp đào tạo và đào tạo lại NL cho các DN với các khóa đào
tạo nâng cao năng lực quản lý cho những người muốn hoặc mới thành lập
DN, các khóa học về phương pháp quản lý hiện đại cho các DN thuộc
ngành CN NDS chương trình đào tạo đại chúng để động viên sự phát triển
các doanh nhân... Các tài liệu giảng dạy luôn được hoàn thiện, đổi mới, cập
nhật các kiến thức và công nghệ hiện đại. Ngoài việc cung cấp dịch vụ đào
tạo, nhà nước còn thực hiện chương trình trợ cấp cho đào tạo tại chỗ ở
công ty.
Thứ ba, cung cấp các dịch vụ tư vấn, hướng dẫn cả về kỹ thuật và
kinh doanh cho người lao động và nhà quản lý. Áp dụng công nghệ trong
quản lý, tư vấn chuyển đổi công nghệ, lập kế hoạch, xây dựng chiến lược
phát triển DN, phát triển hệ thống thông tin quản lý, thực hiện tiêu chuẩn
chất lượng ISO 9000, kèm cặp, hướng dẫn các DN ngành CN NDS nâng
cao năng lực quản lý và phát triển kỹ năng cá nhân, hội thảo tư vấn cho
xuất khẩu thành công.
Thứ tư, tài trợ chi phí nghiên cứu và phát triển cho các DN thuộc
ngành CN NDS. Nhà nước cần hỗ trợ cho việc biên soạn ấn phẩm dành riêng
cho các nhà quản lý, các DN thuộc ngành CN NDS như “Sổ tay tra cứu Các
DN thuộc ngành CN NDS”, “Niên giám khởi nghiệp DN nhỏ và vừa”.
Thứ năm, nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho các DN thuộc
ngành CN NDS. Thông qua trợ giúp các DN tham gia hội chợ quốc tế, xúc
tiến thị trường ở nước ngoài. Khi các DN được trực tiếp tham gia hội chợ
quốc tế, được cung cấp thông tin thị trường quốc tế thì cán bộ của họ được
nâng cao sự hiểu biết về thị trường quốc tế, về kỹ năng và phương pháp tổ
chức hội chợ.
Thứ sáu, nâng cao nhận thức xã hội về học tập suốt đời. Mục đích
75
xây dựng xã hội học tập tạo ra cơ hội rộng rãi để người dân tiếp cận với
ngày càng nhiều các loại hình học tập, giúp làm phong phú cuộc sống và trí
tuệ; tạo thuận lợi cho người dân tiếp tục học tập để phản ứng kịp thời với
các thay đổi nhanh chóng hiện nay về mặt xã hội, công nghệ và kinh tế,
đồng thời giúp họ năng động hơn trên thị trường lao động. Bốn tiêu chí dẫn
đường cho quá trình học tập suốt đời là: học để biết, học để làm việc, học
để làm người, học để sống cùng nhau.
Thứ bẩy, phát triển các Bộ tiêu chuẩn năng lực của người lao động.
Bộ tiêu chuẩn này sẽ định vị ra những kiến thức, năng lực, thái độ nào cần
thiết đối với từng nhóm công việc trong ngành CN NDS trong hiện tại cũng
như để chuẩn bị cho sự phát triển trong tương lai. Đó được xem là Từ điển
năng lực cho nguồn CNTT quốc gia.
Ngoài ra, còn có thể học hỏi các nước một số bài học khác như: Thực
hiện tốt công tác thống kê dự báo sự phát triển của ngành CN NDS và nhu
cầu NL phục vụ cho sự phát triển đó; Xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm
của các nhóm nghề CNTT nói chung và ngành CN NDSnói riêng từ đó xây
dựng chương trình đào tạo phù hợp nhu cầu thực tế của xã hội; Mở rộng
quy mô và đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cho phù hợp với sự phát
triển của ngành CN NDS; Có chính sách xã hội hóa đào tạo NL CNTT nói
chung và ngành CN NDS nói riêng, thực hiện liên kết giữa công nghiệp và
nhà trường trong đào tạo NL CNTT nói chung và ngành CN NDS nói
riêng; và triển khai đào tạo lại NL hiện có thuộc CN NDS.
76
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN
NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ CỦA VIỆT NAM
3.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG
NGHIỆP NỘI DUNG SỐ VIỆT NAM
3.1.1. Quá trình ra đời ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam
Ngành CN NDS của Việt Nam được ra đời và phát triển trong bối
cảnh có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, nhất là CNTT
với sự ra đời của ngành CN NDS trên thế giới.
Trong bối cảnh thế giới bước vào quá trình chuyển dịch số, vai trò
của NDS ngày càng trở nên quan trọng. Nội dung số là một xu hướng tất
yếu. Nó là hình thức thể hiện sinh động tài nguyên số, nguồn tài nguyên
thiết yếu để triển khai các hoạt động nghiên cứu, sản xuất, phát triển kinh
tế - xã hội, sáng tạo và đổi mới các lĩnh vực của đời sống. Tại Việt Nam,
với sự phát triển của Internet, viễn thông những năm 1990 cũng là nhân tố
thúc đẩy nhanh hơn sự ra đời ngành CN NDS.Năm 1993, mạng VARENET
(Viet Nam Academic Research Education network) được xây dựng tạo tiền
đề cho sự hình thành mạng lưới Internet và đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên
của mạng Internet ở Việt Nam. Sau VARENET, mạng máy tính lớn thứ hai
hình thành ở Việt Nam là mạng VINANET (Vietnam Network). Mạng này
tuy không kết nối Internet nhưng lại là mạng duy nhất cung cấp thông tin
thương mại vào thời điểm năm 1993-1997. Đến 19-11-1997, Chính phủ
quyết định chính thức kết nối Internet với tên miền (.vn). Từ đây, bắt đầu
hình thành hàng loạt các nhà cung cấp dịch vụ Ineternet. Tờ báo trực tuyến
đầu tiên của Việt Nam ra đời là tờ Tạp chí Quê hương điện tử, đây là tờ
Tạp chí của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài trực thuộc Bộ Ngoại
Giao, phát hành số đầu tiên vào ngày 6/2/1997, chính thức ra mắt ngày
77
3/12/1997; Năm 1998 Báo điện tử Vietnamnet ra đời; Năm 1999 Báo Nhân
dân điện tử ra đời.
Ngày 17/10/2000, Chỉ thị số 58-CT/TW được phê duyệt về “Đẩy
mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH” đã thúc đẩy sự phát triển của ngành CNTT ở Việt Nam, theo thống
kê số lượng người sử dụng internet ở Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng.
Dấu mốc của sự ra đời ngành CN NDS tại Việt Nam kể từ năm 2001, với
sự góp mặt của các trò chơi trực tuyến và các dịch vụ gia tăng trên điện
thoại di động rồi lan sang các các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
khác điển hình là sự ra đời của các trang báo điện tử trong nước song hành
với các tờ báo giấy đã có từ trước. Công nghiệp NDS ra đời ở Việt Nam là
một xu thế tất yếu, trong bối cảnh toàn cầu hóa, công nghệ thông tin, điện
tử phát triển với tốc độ hết sức nhanh chóng.
3.1.2. Quá trình phát triển ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam
Từ khi được ra đời, ngành CN NDS Việt Nam đã có những phát triển
nhanh chóng. Bảng 3.1 cho thấy sự tăng trưởng trong lĩnh vực cung ứng
dịch vụ internet của ngành giai đoạn 2003-2005.
Bảng 3.1: Tổng hợp hiện trạng Internet ở Việt Nam 2003-2005
Đơn vị
Tháng
Tháng
Tháng
TT
Số liệu thống kê
tính
5/2003
5/2004
10/2005
1 Số lượng thuê bao Internet qui đổi
Thuê bao 449.959 1.164.893 2.478.433
2 Số người sử dụng Internet
người
1.799.836 4.700.372 9.213.020
3 Tỷ lệ người sử dụng/ dân số Việt Nam
%
2,25
5,77
11,10
4 Dung lượng kết nối Internet quốc tế Mbit/s
255
1.038
3.507
Lưu lượng Internet trong nước trao
5
Gbyte
0
2.969
2.084.413.3
đổi giữa các IXP
6 Tên miền Internet .vn
Tên
2.746
7.088
13.295
7 Địa chỉ IP sử dụng
IP
61.680
152.064
755.200
Nguồn: Trung tâm Internet Việt Nam - Bộ Bưu chính, Viễn thông [80]
78
Việt Nam đã có bước tiến bộ vượt bậc, là một trong những quốc gia
có tốc độ phát triển viễn thông và Internet nhanh và rộng. Hạ tầng viễn
thông đạt trình độ hiện đại về công nghệ, đáp ứng mọi loại dịch vụ theo
nhu cầu của xã hội. Thế giới có dịch vụ nào, Việt Nam cũng có thể cung
cấp dịch vụ đó khi có yêu cầu. Mạng truyền dẫn cáp quang đã lan rộng tạo
nền móng vững chắc cho một mạng thông tin băng rộng đa dịch vụ, an toàn
và chất lượng cao. Một số tổng đài thế hệ mới NGN đã được đưa dần vào
khai thác trong mạng lưới, cập nhật với các công nghệ mới nhất và đáp ứng
hướng hội tụ các tính năng nghe, nhìn và truyền số liệu của các dịch vụ:
bưu chính, viễn thông, Internet và phát thanh truyền hình trên một mạng
lưới duy nhất. Dung lượng kết nối Internet Việt Nam với quốc tế đã đạt
3.770 Mbps vào loại cao nhất trong khu vực nếu tính bình quân trên một
thuê bao Internet.
Tính đến cuối năm 2005, tổng số thuê bao điện thoại của Việt Nam
đã đạt gần 18 triệu, tương ứng mật độ khoảng 21 máy/ 100 dân. Điện thoại
được phổ cập rộng rãi tới vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. 100% tổng
số xã trong cả nước đã có máy điện thoại. Sự tăng nhanh của mật độ điện
thoại nhờ có sự bùng nổ của thông tin di động. Trong 5 năm, trong khi tốc
độ phát triển bình quân của thông tin di động thế giới đạt 34-35%/năm, của
Châu Á-Thái Bình Dương - khu vực phát triển kinh tế năng động nhất đạt
39,5% thì ở Việt Nam trong vòng 2-3 năm tốc độ phát triển thông tin di
động đã cao gấp đôi so với thế giới, đạt 60-65%/năm. Sự ứng dụng nhanh
các công nghệ mới, sự tăng trưởng của kinh tế và mức sống nhân dân, tiến
trình mở cửa cạnh tranh, lộ trình giảm cước... là những yếu tố thúc đẩy sự
phát triển đó tại Việt Nam [80].
Internet Việt Nam có sức tăng trưởng rất lớn, chỉ trong 3 năm kể từ
lúc Internet tại Việt Nam chính thức đi vào hoạt động tháng 11/1997, mạng
79
lưới hạ tầng mạng đã kết nối đến 64/64 tỉnh thành trên toàn quốc, người
dân đều có thể truy nhập Internet qua mạng điện thoại công cộng (PSTN)
tại địa phương. Chỉ trong hai năm 2004-2005, số thuê bao Internet tăng
2,38 lần, số người dùng Internet tăng 1,6 lần, hiện đạt mật độ người sử
dụng Internet gần 15%... [80]. Nhiều trang báo điện tử được ra đời và hoạt
động trong năm 2001-2005, như Thanhnien Online, Tuoitre Online,
Vietnamnet, Vnexpress, Dân Trí…, từ năm 2005 trở đi xuất hiện thêm các
dạng blog, các địa chỉ web của các cá nhân, cơ quan, các diễn đàn…
Để khẳng định và thúc đẩy phát triển CN NDS, Luật CNTT (2006)
nêu định nghĩa: “Thông tin số là thông tin được tạo lập bằng phương pháp
dùng tín hiệu số” [64]. Theo đó, CN NDS là một lĩnh vực thuộc ngành CN
CNTT, bao gồm các hoạt động sản xuất và cung cấp sản phẩm nội dung
thông tin số, tức các thông tin được tạo lập bằng phương pháp dùng tín
hiệu số.
Để khuyến khích, thúc đẩy phát triển ngành CN NDS, ngày
03/5/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 71/2007/NĐ-CP, Quy định
chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật CNTT về công nghiệp
CNTT. Trong đó, quy định Nhà nước áp dụng mức ưu đãi cao nhất cho các
tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động CN NDS theo quy định của pháp luật,
bao gồm các tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất sản phẩm NDS được hưởng
chế độ ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật thuế và ưu đãi sử dụng
đất; các sản phẩm NDS được sản xuất tại Việt Nam được áp dụng mức ưu
đãi cao nhất về thuế giá trị gia tăng và thuế xuất khẩu.
Những căn cứ pháp lý được tiếp tục bổ sung hoàn thiện. Ngày
15/7/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2012/NĐ-CP về quản lý,
cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng. Ngày
12/11/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 118/2015/NĐ-CP, quy định
80
chi tiết và hướng dẫn thi hành về Luật đầu tư (có điều khoản liên quan hỗ
trợ). Ngày 1/3/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2018/NĐ-CP sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 72/2013/NĐ-CP.
Đặc biệt, Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ
về Chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng CNTT tại
Việt Nam, trong đó có liên quan đến CN NDS, bao gồm giảm 50% số thuế
thu nhập cá nhân phải nộp đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của các
cá nhân nhân lực công nghệ cao làm việc trong lĩnh vực CNTT (nội dung
này tuy không trực tiếp liên quan đến NDS nhưng áp dụng khả thi vì hiện
nay nhiều công nghệ cao được sử dụng trong sản xuất NDS); trường hợp
dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực CNTT cần đặc biệt khuyến khích đầu tư,
có sử dụng thường xuyên trên 1,000 lao động (kể cả trường hợp dự án đã
hết thời gian 15 năm hưởng thuế suất 10%), được kéo dài thêm thời gian áp
dụng mức thuế suất 10% trong 15 năm.
Hoạt động sản xuất kinh doanh NDS cơ bản hiện nay ở Việt Nam
bao gồm hai nhánh chính là trò chơi điện tử và truyền hình trả tiền. Sản
phẩm trò chơi điện tử thiên về nhập khẩu, phát hành đến nay các doanh
nghiệp đã có quan tâm hơn đến làm chủ công nghệ và có chiến lược đầu tư
lâu dài để sản xuất và sản xuất gia công các phần mềm trò chơi điện tử theo
yêu cầu của từng thị trường nước ngoài. Các doanh nghiệp game tiêu biểu
hiện nay gồm VNG, VTCmobile, CMN Online, SohaGame, ME Corp,
Gamota. Sản phẩm truyền hình trả tiền sử dụng giao thức internet ở Việt
Nam chủ yếu là dạng IPTV (Internet Protocol Television) do các nhà mạng
cung cấp. Truyền hình internet dạng OTT (Over The Top) cũng đã có một
số đơn vị cung cấp, truyền tải nội dung như các gói dữ liệu riêng biệt đến
khách hàng. Những sản phẩm này được phổ cập vào nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, như phục vụ giáo dục, sách, tài liệu dưới dạng số, sản phẩm
giải trí, giáo dục trên mạng viễn thông di động và cố định, các loại trò chơi
81
điện tử, thư viện số, kho dữ liệu số, phim số, ảnh số, nhạc số, quảng cáo
số... Có thể khái quát tình hình phát triển ngành CN NDS bằng bảng 3.2
dưới đây.
Bảng 3.2: Bức tranh về ngành công nghiệp nội dung số
của Việt Nam 2015-2018
TT
Nhóm, tên chỉ tiêu
Đơn vị tính
2015
2016
2017
2018
1 Số DN đăng ký hoạt động
DN
2.339
2.700
3202
4.500
2 Số lượng lao động
Người
44.320 46.647 55.908 57.000
3 Doanh thu
Triệu USD
638
739
799
1.000
4 Kim ngạch xuất khẩu
Triệu USD
503
661
734
822
5 Thu nhập bình quân
USD/người/năm
6.120
6.189
6.737
7.200
Nguồn: Sách trắng CNTT-TT 2015- 2018 [16]
3.2. CHỦ TRƢƠNG, BIỆN PHÁP TỔ CHỨC VÀ THỰC TRẠNG NHÂN
LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ VIỆT NAM TỪ
2008 ĐẾN NAY
3.2.1. Những chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về
nhân lực để phát triển ngành công nghiệp nội dung số
3.2.1.1. Chủ trương của Đảng về nhân lực để phát triển ngành
công nghiệp nội dung số
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng Cộng sản Việt
Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000,
trong đó ghi rõ “Giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo NL, bồi
dưỡng nhân tài, bồi dưỡng nhiều người giỏi về khoa học, công nghệ, kinh
doanh, quản lý kinh tế, xã hội...” [42]. Đảng luôn coi trọng nhân tố con
người trong quá trình phát triển, coi đây là một trong những nhân tố quan
trọng hàng đầu, nhất quán từ trước tới nay. Trên cơ sở quan điểm trên, với
mỗi ngành, lĩnh vực, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn NL luôn được
82
coi trọng, với những mục tiêu cụ thể. Nhân lực ngành CN NDS là một bộ
phận trong tổng thể NL ngành CNTT, do đó, các chủ trương của Đảng về
phát triển NLCNTT cũng là những chủ trương đối với ngành CN NDS.
Chỉ thị số 58-CT/TW, ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị (khóa VIII)
về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH,
khẳng định: Phát triển nguồn NL cho CNTT là yếu tố then chốt có ý nghĩa
quyết định đối với việc ứng dụng và phát triển CNTT, phục vụ CNH, HĐH
đất nước. Bộ Chính trị đã đưa ra chủ trương, đường lối phát triển NL
CNTT với các nội dung:
Phát triển quy mô và tăng cường chất lượng đào tạo nguồn NL về CNT
Tin, chú trọng phát triển nhanh lực lượng cán bộ chuyên sâu, đặc biệt là đội
ngũ chuyên gia phần mềm, đáp ứng kịp thời và thường xuyên nhu cầu trong
nước và một phần thị trường nước ngoài. Đến năm 2005, ít nhất phải đào tạo
thêm được 50.000 chuyên gia về CNTT ở các trình độ khác nhau, đạt chỉ tiêu
về số lượng (tính trên 10.000 dân) và chất lượng chuyên gia trong lĩnh vực
CNTT ngang với mức bình quân của các nước trong khu vực [5].
Bằng những hình thức thích hợp, tổ chức thực hiện việc đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức về CNTT cho những người đã tốt nghiệp các trường đại
học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp thuộc các chuyên ngành khác.
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác giáo dục và đào tạo ở các
cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ
cho nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc biệt tập trung phát triển mạng
máy tính phục vụ cho giáo dục và đào tạo, kết nối Internet tới tất cả các cơ
sở giáo dục và đào tạo.
Đầu tư thoả đáng cho công tác đào tạo, nghiên cứu về CNTT; gắn
chặt giữa đào tạo, nghiên cứu và sản xuất, kinh doanh. Xã hội hoá mạnh
mẽ việc đào tạo về CNTT. Khuyến khích và thu hút các tổ chức, các cá
83
nhân trong và ngoài nước tham gia đào tạo, sử dụng nguồn NLvề CNTT
của Việt Nam.
Xây dựng và thực hiện chương trình cử giáo viên đi đào tạo, bồi
dưỡng ở trong và ngoài nước để nâng cao trình độ giảng dạy; tạo điều kiện
cho học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh đi học, thực tập và nghiên cứu về
CNTT ở nước ngoài; áp dụng chính sách đặc biệt cho việc đào tạo, bồi
dưỡng chuyên gia giỏi, nhân tài trong lĩnh vực CNTT; có chế độ tạm ứng
học phí đối với người nghèo hoặc có hoàn cảnh khó khăn muốn tham gia
các chương trình đào tạo nghề trong lĩnh vực CNTTđể lập nghiệp.
Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 1/7/2014 của Bộ Chính trị cũng xác định
việc ứng dụng và phát triển CNTTphải gắn với phát triển nguồn NL chất
lượng cao và đặt mục tiêu “Phát triển nguồn NL CNTT đạt chuẩn quốc tế,
đảm bảo đáp ứng nhu cầu trong nước về số lượng và chất lượng, có khả
năng cung cấp nguồn NLCNTTchất lượng cao cho khu vực và thế giới” [6].
Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị được các chuyên
gia CNTT đánh giá là một bước tiến dài so với Chỉ thị 58-CT/TW (năm
2000). Văn bản này được kỳ vọng sẽ mở ra vận hội mới cho CNTT Việt
Nam, để Việt Nam sớm thành quốc gia mạnh về CNTT và bằng CNTT.
3.2.1.2. Chính sách của Nhà nước về nhân lực để phát triển ngành
công nghiệp nội dung số
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển NL trong
giao đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các
Bộ, Ban, Ngành liên quan đã ban hành nhiều quyết định trong đó đưa ra
các giải pháp, chính sách để thực hiện các mục tiêu về phát triển NL NDS.
Trên cơ sở Luật CNTT, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 246/2005/QĐ-TTg ngày về phê duyệt Chiến lược phát triển
CNTT&TT đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 và Quyết định số
84
56/2007/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển CN NDS Việt Nam đến
năm 2010 với những nội dung chủ yếu sau đây:
- Công nghiệp NDS là một ngành kinh tế mới, có nhiều tiềm năng
phát triển, đem lại giá trị gia tăng cao, thúc đẩy sự phát triển của xã hội
thông tin và kinh tế tri thức, góp phần quan trọng vào sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Nhà nước đặc biệt khuyến khích, ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
phát triển ngành công nghiệp này thành một ngành kinh tế trọng điểm.
- Nhà nước dành một phần ngân sách đầu tư đào tạo nguồn NL CN
NDS, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thông tin, truyền thông hiện đại, hoàn
thiện môi trường pháp lý, tạo môi trường thuận lợi cho các DN sản xuất
kinh doanh nội dung thông tin số phát triển.
- Nhà nước có chính sách đặc biệt ưu đãi đối với một số sản phẩm
nội dung thông tin số trọng điểm. Khuyến khích phát triển thị trường trong
nước để tạo đà cho ngành CN NDS Việt Nam tiến tới xuất khẩu và phân
phối sản phẩm trong giai đoạn tới.
Theo đó, cần phát triển CN NDS thành một ngành kinh tế trọng
điểm, đóng góp ngày càng nhiều cho tăng trưởng của nền kinh tế (GDP),
tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận các sản phẩm NDS, thúc đẩy
mạnh mẽ sự hình thành và phát triển xã hội thông tin và kinh tế tri thức.
Mục tiêu cụ thể được xác định như sau:
- Đến năm 2010, ngành CN NDS đạt tốc độ tăng trưởng trung bình từ
35 - 40%/năm. Tổng doanh thu từ CN NDS đạt 400 triệu USD/năm;
- Xây dựng được một đội ngũ 10 - 20 DN NDS mạnh, có trên 500 lao
động chuyên nghiệp;
- Làm chủ các công nghệ nền tảng trong CN NDS, sản xuất được một
số sản phẩm trọng điểm có khả năng cạnh tranh cao; hình thành hệ thống
thư viện số trực tuyến; xây dựng được một số cơ sở dữ liệu chuyên ngành;
cung cấp hiệu quả các dịch vụ tư vấn khám, chữa bệnh và đào tạo từ xa.
85
Theo đó, ngày 01/6/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 698/QĐ-TTg về Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn NL CNTT đến năm
2015 và định hướng đến năm 2020. Trong đó, yêu cầu đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp, quy trình đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo NL CNTT: Các trường đại học, cao đẳng tuyển chọn, tiếp thu có
chọn lọc và triển khai đào tạo theo các chương trình CNTT tiên tiến của thế
giới một cách thiết thực; Đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung và
phương pháp đào tạo giáo viên CNTT tại các trường sư phạm; tăng cường
giảng dạy về ứng dụng CNTT trong dạy và học, áp dụng các công nghệ
giáo dục tiên tiến; Xây dựng chương trình giảng dạy về CNTT theo mô đun
kiến thức, cập nhật theo công nghệ mới và triển khai đào tạo, đáp ứng nhu
cầu của người học; Tăng cường dạy tiếng Anh và dạy CNTT bằng tiếng
Anh và các ngoại ngữ khác.
Mở rộng quy mô, hình thức đào tạo CNTT theo hướng đẩy mạnh đào
tạo theo đặt hàng của các DN và theo nhu cầu của xã hội. Khuyến khích và
tạo điều kiện thuận lợi cho sự liên kết đào tạo giữa các cơ sở sử dụng và
các cơ sở đào tạo NL CNTT. Phát triển các mô hình, hình thức phối hợp,
hợp tác và hỗ trợ đào tạo, đáp ứng theo nhu cầu của các DN, của xã hội;
Tăng cường đầu tư cho phát triển nguồn NL CNTT theo hướng Nhà
nước ưu tiên đầu tư ngân sách cho đào tạo NL CNTT, điện tử và viễn thông
thông qua các chương trình, dự án của Kế hoạch tổng thể này và thông qua
các kế hoạch, đề án đào tạo khác; Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong
và ngoài nước thành lập cơ sở đào tạo đầu tư vào đào tạo NL CNTT theo
hướng dịch vụ CNTT. Có chính sách cho cơ sở đào tạo được hưởng ưu đãi
trong hoạt động đào tạo CNTT tương đương với các DN sản xuất phần
mềm; Sử dụng nguồn vốn ODA đầu tư cho đào tạo NL CNTT, xây dựng
mạng giáo dục và một số cơ sở đào tạo CNTT chất lượng cao.
86
Dự kiến kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước dành cho việc triển
khai Kế hoạch tổng thể giai đoạn 2009 - 2015 là khoảng 900 tỷ đồng.
Trên cơ sở các quy định của Luật Công nghệ cao ngày 13 tháng 11
năm 2008; Luật Viễn thông ngày 23 tháng 11 năm 2009; Luật Tần số vô
tuyến điện ngày 23 tháng 11 năm 2009; Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17
tháng 10 năm 2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển
CNTT phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH và Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg
ngày 06 tháng 10 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến
lược phát triển CNTT&TT Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020. Quyết định số 1755/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ, ngày 22
tháng 9 năm 2010: Phê duyệt Đề án "Đưa Việt Nam sớm trở thành nước
mạnh về CNTT&TT". Đảng và Nhà nước xác định, phát triển NL CNTT
đạt tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng CN CNTT, đặc biệt là CN phần mềm
NDS và dịch vụ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng
vào tăng trưởng GDP và xuất khẩu; thiết lập hạ tầng viễn thông băng rộng
trên phạm vi cả nước; ứng dụng hiệu quả CNTT trong mọi lĩnh vực kinh tế
- xã hội, quốc phòng, an ninh.
Công nghệ TT&TT là động lực quan trọng góp phần bảo đảm sự tăng
trưởng và phát triển bền vững của đất nước, nâng cao tính minh bạch trong
các hoạt động của cơ quan nhà nước, tiết kiệm thời gian, kinh phí cho các
cơ quan, tổ chức, DN và người dân.
Tốc độ tăng trưởng doanh thu hằng năm đạt từ 2 - 3 lần tốc độ tăng
trưởng GDP trở lên. Đến năm 2020, tỷ trọng CNTT&TT đóng góp vào
GDP đạt từ 8 - 10%.
Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu cụ thể đối với
nguồn NL của ngành như sau:
Đến năm 2015: 30% số lượng sinh viên CNTT, điện tử, viễn thông
sau khi tốt nghiệp ở các trường đại học có đủ khả năng chuyên môn và
87
ngoại ngữ để có thể tham gia thị trường lao động quốc tế. Tỷ lệ người dân
sử dụng Internet đạt trên 50% [73].
Đến năm 2020: 80% sinh viên CNTT&TT tốt nghiệp ở các trường
đại học đủ khả năng chuyên môn và ngoại ngữ để tham gia thị trường lao
động quốc tế. Tổng số NL tham gia hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp
CNTT đạt 1 triệu người, trong đó bao gồm NL hoạt động trong nước và NL
tham gia xuất khẩu. Tỷ lệ người dân sử dụng Internet đạt trên 70% [73].
Trên cơ sở Nghị định số 187/2007/NĐ-CP ngày 25/12/ 2007 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ TT&TT và Nghị định số 50/2011/NĐ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2011
của Chính phủ sửa đổi Nghị định số 187/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ TT&TT;
Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ Phê duyệt Quy hoạch phát triển NL Việt Nam giai đoạn 2011-
2020. Bộ TT&TT đã ban hành Quyết định số 896/QĐ-BTTT, ngày 28
tháng 05 năm 2012, Phê duyệt Quy hoạch phát triển NL ngành TT&TT giai
đoạn 2011 - 2020 với những nội dung sau:
- Phát triển nguồn NL là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định đối
với việc thực hiện các mục tiêu phát triển ngành TT&TT, bao gồm phát
triển nguồn NL của các lĩnh vực và NL quản lý nhà nước của ngành nhằm
đảm bảo đủ về số lượng, đạt về chất lượng, hướng tới đạt chất lượng tương
đương của các nước trong khu vực ở một số lĩnh vực.
- Phát triển NL ngành TT&TT là nhiệm vụ chiến lược mang tính dài
hạn, cần có bước đi thích hợp cho từng giai đoạn, đảm bảo phát triển hạ
tầng thông tin, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của đất nước 13].
88
- Đẩy mạnh xã hội hóa và hợp tác quốc tế, phát huy mọi nguồn lực
trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển NL các lĩnh vực Bưu
chính, Viễn thông, Công nghệ thông tin.
- Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý việc đào tạo và phát triển NL các
lĩnh vực Báo chí, Xuất bản, đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu tuyên
truyền, chỉ đạo, định hướng về tư tưởng của Đảng và Nhà nước, xây dựng
văn hóa, lối sống lành mạnh, hướng thiện cho toàn xã hội.
- Đổi mới công tác đào tạo NL ngành TT&TT theo hướng hội nhập
và đạt trình độ khu vực và quốc tế, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng
yêu cầu phát triển của ngành và của đất nước.
Theo đó, Quy hoạch phát triển NL ngành TT&TT giai đoạn 2011 -
2020 hướng đến mục tiêu: Phát triển NL ngành TT&TT đến năm 2020
nhằm đảm bảo về số lượng và chất lượng để hoàn thành các nhiệm vụ đã
đặt ra [13].
Quyết định số 392/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 27-3-
2015: Phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển ngành công nghiệp CNTT
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 với các mục tiêu cụ thể như sau:
Mục tiêu dài hạn đến năm 2025: Công nghiệp CNTT trở thành ngành
kinh tế có tốc độ phát triển nhanh, bền vững, doanh thu cao, có giá trị xuất
khẩu lớn; Việt Nam đủ khả năng phát triển, sản xuất các sản phẩm, dịch vụ
CNTT đáp ứng tốt nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, tạo nền tảng để
phát triển kinh tế tri thức, góp phần làm chủ các hệ thống thông tin, bảo
đảm an toàn thông tin và chủ quyền số quốc gia [75].
Mục tiêu ngắn hạn đến năm 2020:
- Tăng trưởng tối thiểu 15%/năm đối với lĩnh vực phần mềm, NDS
và dịch vụ CNTT; thu hút nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
89
vào các lĩnh vực trọng điểm, trong đó lĩnh vực phần cứng điện tử thu hút 5
tỷ USD đầu tư FDI trong giai đoạn 2015 - 2020 [75].
- Nâng cao sức cạnh tranh, duy trì vị trí là một trong 10 nước đứng
đầu trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ gia công phần mềm và NDS. Thành
phố Hồ Chí Minh và Hà Nội duy trì vị trí thuộc nhóm 10 thành phố hấp
dẫn về gia công phần mềm toàn cầu.
- Phát triển nhiều sản phẩm thương hiệu Việt Nam trong lĩnh vực
phần cứng - điện tử, phần mềm, NDS và dịch vụ CNTT, bảo đảm đáp ứng
tốt hơn nhu cầu và phấn đấu tăng dần tỷ trọng mua sắm các sản phẩm
thương hiệu Việt Nam trong tổng kinh phí mua sắm đầu tư hàng năm của
các cơ quan nhà nước, DN và xã hội.
- Phát triển các loại hình cung cấp dịch vụ CNTT chuyên nghiệp đáp
ứng nhu cầu các cơ quan nhà nước; tăng dần tỷ trọng kinh phí thuê dịch vụ
CNTT trên tổng chi phí mua sắm CNTT của các Bộ, ngành, địa phương.
- Hỗ trợ xây dựng tối thiểu 7 Khu CNTT tập trung.
Để hiện thực hóa mục tiêu nêu trên, Quyết định cũng xác định rõ
nhiệm vụ phát triển NL CNTT như sau:
- Tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng đào tạo CNTT cho
các cơ sở đào tạo về CNTT, ưu tiên các cơ sở đào tạo trọng điểm như: Đại
học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học
Bách khoa Hà Nội, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, Đại học Đà
Nẵng, Đại học Huế, Đại học Vinh, Đại học Cần Thơ, Đại học Thái Nguyên.
Hỗ trợ nâng cao trình độ giảng viên, chuẩn hóa chương trình đào tạo, giáo
trình, tài liệu giảng dạy, bài giảng điện tử; nhập khẩu, chuyển giao các
chương trình, giáo trình đào tạo CNTT tiên tiến của nước ngoài. Hỗ trợ đầu
tư xây dựng, nâng cấp, bổ sung trang thiết bị, hạ tầng cho phòng thí
nghiệm, thực hành phục vụ đào tạo và nghiên cứu về CNTT.
90
Bảng 3.3: Một số dự án thuộc chƣơng trình giai đoạn 2015 - 2020
1
Nâng cao năng lực
Bộ Giáo dục
Bộ Thông
Quy định tại
2015
đào tạo về CNTT
và Đào tạo; 8
tin và
Điểm a Khoản 5
-
cho các cơ sở đào
cơ sở đào tạo
Truyền
Mục II Điều 1
2020
tạo trọng điểm
trọng điểm
thông
Quyết định này
2 Xây dựng hệ thống
Bộ Thông tin
Quy định tại
Khoản 5 Mục II
đánh giá, sát hạch
và Truyền
2015
Điều 1 Quyết
đạt chuẩn và nâng
thông
-
định này; nhằm
cao kỹ năng chuyên
2020
đáp ứng yêu cầu
môn, nghiệp vụ cho
hội nhập ASEAN
nhân lực CNTT
do ngân sách Trung ƣơng đảm bảo
Nguồn: [75].
- Gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo với tổ chức, DN; hỗ trợ tổ chức
đưa sinh viên, người mới tốt nghiệp chuyên ngành CNTT, điện tử viễn
thông đi đào tạo thực tế tại các tổ chức, DN CNTT.
- Hỗ trợ tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn nâng cao kỹ năng quản
lý, kiến thức, kỹ năng chuyên môn, kỹ năng mềm cho NL CNTT phù hợp
yêu cầu thực tế; đào tạo ngoại ngữ cho người làm CNTT và đào tạo kỹ
năng CNTT cho người giỏi ngoại ngữ muốn làm CNTT; hỗ trợ tổ chức các
khóa đào tạo về kỹ năng sử dụng CNTT, bồi dưỡng kỹ năng khai thác tài
nguyên mạng, tài nguyên CNTT, kỹ năng sử dụng các dịch vụ trực tuyến
cho DN, cộng đồng, người dân.
- Xây dựng và triển khai áp dụng chuẩn kỹ năng NL CNTT; triển
khai dự án xây dựng, vận hành hệ thống sát hạch chuẩn kỹ năng NL CNTT
và phát triển các trung tâm sát hạch, cấp chứng chỉ kỹ năng NL CNTT; hỗ
trợ đào tạo và tham gia sát hạch, thi lấy chứng chỉ kỹ năng NL CNTT; thực
hiện việc đánh giá, xếp hạng các cơ sở đào tạo CNTT thông qua việc tổ
chức cho sinh viên tham gia sát hạch theo chuẩn kỹ năng NL CNTT.
91
- Bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức các cấp về kỹ năng sử
dụng CNTT; bổ sung nội dung phần mềm nguồn mở vào các chương trình
bồi dưỡng và thi tuyển, nâng ngạch cho cán bộ, công chức, viên chức.
3.2.2. Thực trạng về số lƣợng, chất lƣợng và cơ cấu nhân lực
ngành công nghiệp nội dung số của Việt Nam giai đoạn 2008 - 2018
3.2.2.1. Thực trạng số lượng nhân lực
Đến nay, ngành CN NDS của Việt Nam đã có mặt ở nhiều lĩnh vực
như: Tra cứu thông tin, dữ liệu số, nội dung giáo dục trực tuyến, phát triển nội
dung cho mạng di động, giải trí số, thương mại điện tử…, với khoảng 4.500
DN và hơn 57.000 lao động. Các đơn vị đặt “viên gạch” nền móng cho ngành
CN này là Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện (VTC), Công ty cổ
phần VNG, Công ty cổ phần Truyền thông Việt Nam (VCCorp)... [16].
Quy mô NL của ngành CN NDS giai đoạn 2008-2018 được thể hiện
trên bảng 3.4. Cho thấy, số lượng NL biến đổi qua các năm theo chiếu
hướng tăng dần từ 2008-2013. Đỉnh điểm cao nhất năm 2013 số lao động
trong toàn ngành là 67.680 người, kể từ thời điểm đó do việc tăng cường
quản lý trò chơi trực tuyến và siết chặt các quy định về quản lý nội dung
trên Internet đã dẫn tới tình trạng nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa, kéo
theo đó số lao động trong lĩnh vực này cũng giảm, đến năm 2015 nhân sự
giảm còn 44.320 người, năm 2016 tăng nhẹ ở mức 44.647 người tăng
5,25% so với năm 2015. Có thể thấy sự phát triển của ngành CN NDS
không ổn định, năm 2017 số lao động này tăng lên đáng kể ở mức 55.908
người tốc độ tăng trưởng 19,8% so với năm 2016. Năm 2018 số lượng NL
ngành CN NDS là 57.000 người, tăng 2,0% so với năm 2017. Tình chung,
mức tăng trưởng NL trung bình giai đoạn 2008-2018 là 6,6%/năm. Về cơ
bản, số NL làm việc trong ngành CN NDS trong toàn giai đoạn đã được
tăng lên [16].
92
Bảng 3.4: Số lƣợng nhân lực ngành công nghiệp nội dung số của Việt
Nam: tổng số và phân theo lĩnh vực hoạt động giai đoạn 2008 - 2018
Đơn vị tính: Người
Năm
Nội dung
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
8.217
10.209 12.681 14.990 15.772 16.852 13.482 11.036 11.615 13.921 14.332
Lĩnh vực IT
2.409
2.993
3.718
4.395
4.624
4.941
3.953
3.235
3.406
4.081
4.165
Thiết kế, đồ họa
4.752
5.904
7.334
8.669
9.121
9.746
3.519
6.382
6.717
8.051
8.139
Biên tập viên
2.145
2.665
3.310
3.913
4.117
4.399
8.122
2.880
3.032
3.634
3.673
Quản trị NDS
4.950
6.150
7.639
9.030
9.501
10.152
6.876
6.648
6.997
8.386
8.450
Sáng tạo/ phát triển NDS
4.191
5.207
6.468
7.645
8.045
8.595
7.767
5.629
5.924
7.100
7.293
Sale
2.706
3.362
4.176
4.936
5.194
5.550
4.440
3.634
3.825
4.585
4.665
Marketing
2.970
3.690
4.583
5.418
5.701
6.091
4.872
3.989
4.198
5.032
5.044
Hỗ trợ KD, DV khách hàng
660
820
1.019
1.204
1.267
1.354
1.083
887
933
1.118
1.239
Bản quyền
33.000 40.600 50.928 60.200 63.342 67.680 54.144 44.320 46.647 55.908 57.000
Tổng
Nguồn: Tổng hợp từ sách trắng CNTT các năm [16]
Bên cạnh những sự biến đổi về tổng số NL trong toàn ngành CN
NDS, giai đoạn 2008-2018 đã có sự dịch chuyển NL giữa các lĩnh vực,
chức danh công việc chuyên môn khác nhau. Số lượng nhân sự làm việc
trong lĩnh vực lập trình, quản trị mạng, hệ thống, thiết kế... (IT) là đông
nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất với 25,1% trong tổng số NL của toàn ngành năm
2018; còn nhân sự làm về bản quyền (âm nhạc, game, phim ảnh...) chiếm tỷ
lệ thấp nhất, chỉ chiếm gần 2,2% năm 2018. Số nhân sự làm việc ở lĩnh vực
IT đến năm 2018 là 14.332 người nhiều gấp hơn 1,7 lần so với năm 2008,
tức là sau 11 năm đã tăng 74,4%, nhanh hơn mức trung bình của toàn
ngành là 5,0%. Số NL làm việc trong lĩnh vực bản quyền từ 660 người năm
2008 tăng lên đạt 1.239 người năm 2018, tuy số lượng ít nhưng cũng đã đạt
mức tăng trưởng 87,7%. Còn số NL làm việc trong các lĩnh vực khác có
mức độ tăng trưởng thấp hơn. Số NL làm các công việc như biên tập viên,
93
quản trị NDS có sự tăng khá mạnh trong các năm 2008-2013, nhưng lại có
sự giảm đột ngột vào năm 2014, rối tiếp tục tăng lên (Hình 3.1).
Bên cạnh những sự biến đổi về tổng số NL trong toàn ngành CN
NDS, giai đoạn 2008-2018 đã có sự dịch chuyển NL giữa các công việc
chuyên môn khác nhau. Hình 3.1 mô tả thực trạng sự chuyển dịch đó.
Hình 3.1: Diễn biến về nhân lực CN NDS Việt Nam theo ngành, lĩnh vực
hoạt động giai đoạn 2008-2018
Nguồn: Tổng hợp từ sách trắng CNTT các năm [16] và tổng hợp của tác giả
Nhân lực làm việc trong ngành CNTT của Việt Nam hiện nay được
phân chia thành bốn lĩnh vực, gồm NL làm việc trong CN NDS, trong CN
phần cứng, trong CN phần mềm và trong dịch vụ CNTT (trừ buôn bán,
phân phối). Năm 2008, tổng số NL làm việc trong 3 lĩnh vực CN NDS, CN
phần cứng và CN phần mềm của cả nước là 200.000 người, năm 2018 tăng
lên đạt mức 868.247 người, gấp hơn 4,3 lần so với năm 2008; trong khi đó
mức tăng NL của ngành CN NDS mới chỉ gấp 1,7 lần, tức là chậm hơn so
với mức tăng trưởng NL chung của toàn ngành. Quy mô NL của ngành CN
NDS chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng số NL làm việc trong ngành CNTT, ví
dụ năm 2018 chỉ chiếm gần 6,6%; và cũng nhỏ hơn so với quy mô của các
ngành CN phần cứng và CN phần mềm của cả nước, ví dụ, năm 2018 chỉ
bằng 7,0% (hình 3.2).
94
Hình 3.2: Quy mô nhân lực ngành công nghệ thông tin của Việt Nam
phân chia theo lĩnh vực hoạt động giai đoạn 2008 - 2018
Nguồn: Tổng hợp từ sách trắng CNTT các năm [16]
3.2.2.2. Thực trạng chất lượng nhân lực
- Tình trạng sức khỏe của người lao động
Trong giai đoạn 2008-2018, độ tuổi của người lao động trong ngành
CN NDS tương đối ổn định mặc dù số lượng NL có biến động, từ năm
2011-2013 tăng nhanh nhưng lại giảm xuống vào năm 2014-2015 rồi tăng
trở lại ở mức độ thấp, nhưng nhìn chung cơ cấu độ tuổi bình quân của NL
ít biến động. Độ tuổi bình quân của người lao động trong ngành CN NDS
vẫn nằm trong thang độ 2 ở cả hai khoảng thời gian 2008 và 2018.
Sức khỏe của người lao động được tuyển dụng vào làm việc trong
các cơ sở thuộc ngành CN NDS Việt Nam trong thời gian qua dựa vào
Quyết định 1613/BYT-QĐ, ngày 15/8/1997, trong đó quy định về tiêu chí
phân loại sức khỏe về chiều cao, cân nặng, sự dẻo dai, bền bỉ v.v... Do việc
điều tra về sức khỏe của người lao động đang làm việc trong ngành phải
dựa vào chuyển môn sâu do ngành y tế đảm trách, mà đến nay lại thiếu
những tài liệu này, nên tác giả dựa vào thực tế của bản thân đã có nhiều
năm làm việc trong Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện (VTC) có
95
nhận xét chung rằng, phần đông số lao động làm việc trong ngành CN NDS
là lực lượng trẻ, ở độ tuổi 22 - 45 và thuộc loại 1 và loại 2 theo tiêu chí của
Bộ Y tế. Thời gian nghỉ việc do ốm đau, đi bệnh viện của người lao động
trong Tổng công ty cũng tương đối thấp. Hình 3.5 dưới đây là ví dụ về tình
hình NL tuổi nghề của người lao động làm việc trong Tổng công ty Truyền
thông đa phương tiện (VTC) điều tra năm 2018 của tác giả, trong đó có tới
hơn 50% số người làm việc dưới 5 năm; số lao động có thâm niên trên 10
năm chỉ chiếm gần 20%. Điều này cho thấy số lao động đang làm việc
trong VTC chủ yếu là người trẻ tuổi, do mới ra trường và có tay nghề thì
mới được tuyển dụng (Hình 3.3).
Hình 3.3: Số năm làm việc của người lao động trong Tổng công ty
Truyền thông đa phương tiện (VTC) năm 2018
Nguồn: Điều tra của tác giả
Về giới tính, lao động làm việc trong ngành CN NDS chủ yếu là nam
giới, số lao động nữ chiếm tỷ lệ thấp. Ví dụ, trong danh sách NL của VTC
năm 2018, số nam giới chiếm 69,2% tổng số lao động của DN.
- Chất lượng về yếu tố trí lực
Trình độ học vấn của người lao động trong ngành CN NDS trong giai
đoạn 2008-2018 đã có chiều hướng tăng lên rõ rệt. Nếu năm 2008, toàn
ngành có 24.750 người có bằng tốt nghiệp đại học thì năm 2018 số này đã
96
tăng lên ở mức 48.122 người, gấp gần 2 lần sau 11 năm. Trong thời gian
đó, số người ở trình độ phổ thông trung học lại giảm từ 990 người xuống
còn 241 người, tức là giảm xuống hơn 4 lần; số người có trình độ trên đại
học từ 4.950 người đã tăng lên 7.984 người, tăng 61,3% (hình 3.4).
Hình 3.4: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động trong
ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam giai đoạn 2008-2018
Nguồn: Tổng hợp từ sách trắng CNTT các năm [16]
Dưới đây là ví dụ thực tế về trình độ văn hóa của người lao động
ngành CN NDS của các năm 2008, 2010, 2015 và 2018 được lấy từ bảng
trong hình 3.5. Nó cho thấy, chất lượng NL trong ngành CN NDS là rất
cao, trong đó chủ yếu là người đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng, số người
đã tốt nghiệp sau đại học nhiều thứ hai. Rất ít người ở trình độ thấp, như
trình độ phổ thông trung học chỉ chiếm 0,4% trong tổng số lao động của
ngành năm 2018, trình độ trung cấp và công nhân kỹ thuật cũng chỉ ở mức
1,1% tại năm này. Trong khi đó, số lao động có trình độ đại học và cao
đẳng chiếm 84,4%, trên đại học chiếm 14,0% trong tống số lao động của
ngành (Hình 3.5).
97
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động trong toàn ngành
trong giai đoạn 2008-2018 không chỉ đã đạt được ở mức rất cao mà còn có
chiều hướng ngày càng tăng lên. Cụ thể là, năm 2008 trong tổng số 33.000
lao động của ngành CN NDS thì có tới 97,0% là số người có trình độ chuyên
môn kỹ thuật tử công nhân kỹ thuật, trung cấp đến cao đẳng, đại học và trên
đại học, chỉ có 3,0% số người là lao động phổ thông. Năm 2018, trong tổng
số 57 ngàn lao động, các con số tương tự đạt được là 99,6% và 0,4%. Tức là,
số lao động có chuyên môn kỹ thuật của ngành CN NDS Việt Nam từ 97,0%
năm 2008 đã tăng lên đạt mức 99,6% năm 2018; còn số lao động phổ thông
từ 3,0% đã giảm xuống còn 0,4% (xem bảng 3.5).
Hình 3.5: Phát triển nhân lực ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam
theo trình độ học vấn ở một số năm
Điều này chứng tỏ ngành CN NDS là một ngành kinh tế kỹ thuật coi
trọng NL trình độ cao. Thực tế còn cho thấy, đây còn là ngành có sự biến
đổi rất nhanh về công nghệ, có vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn và phạm
vi ảnh hưởng, lan tỏa ngày càng rộng hơn. Việc thu hút và sử dụng NL
không chỉ đòi hỏi có trình độ cao mà còn phải là những người có những
phẩm chất như năng động, sáng tạo, luôn sẵn sàng tìm kiếm và tiếp nhận
cái mới, công nghệ và phương pháp sản xuất kinh doanh mới, dám chấp
nhận và vươn lên trọng cơ chế cạnh tranh (hình 3.5).
98
Trình độ ngoại ngữ, tin học của người lao động: Do đặc điểm của
ngành CN NDS có tính liên thông về công nghệ và các quan hệ giao dịch
ở mọi lĩnh vực cả sản xuất và phân phối sản phẩm hàng hóa, dịch vụ giữa
các quốc gia và dựa trên công nghệ số, nên năng lực ngoại ngữ và tin học
là đòi hỏi bắt buộc ngay từ khi tuyển dụng NL vào làm việc. Ngoại ngữ
tiếng Anh là một kỹ năng buộc phải có đối với người lao động làm việc
trong ngành CN NDS, bởi vì đa số tài liệu, văn bản hướng dẫn kỹ thuật,
công nghệ cũng như nội dung của các phần mềm và CNTT &TT và các
công việc thực tế phải sử dụng tiếng Anh. Thêm vào đó, do ngành CN
NDS chủ yếu phát triển từ Mỹ và các nước phương Tây, nên để có thể làm
việc và phát triển trong ngành này, bắt buộc người lao động phải có ngoại
ngữ tiếng Anh. Ngoại ngữ còn là công cụ phổ biến dùng để thực hiện các
giao dịch với khách hàng, đối tác quốc tế trong toàn bộ quá trình hoạt
động của ngành CN NDS.
Tin học là công cụ để thực hiện các tương tác giữa con người và
thông tin bên cạnh việc xây dựng giao diện, tổ chức, công nghệ và hệ thống
kết nối tri thức. Do là nhân tố vô cùng cần thiết, nên hầu hết mọi người lao
động làm việc trong mọi lĩnh vực của ngành CN NDS đều có kiến thức cơ
bản và chuyên sâu về sử dụng máy tính, phần mềm, sử dụng thành thạo
Internet. Chính vì do yêu cầu đặc thù của ngành mà đa số nhân sự làm
trong ngành CN NDS đều có chứng chỉ ngoại ngữ và tin học. Một số ít
không qua trường lớp, nhưng bằng kinh nghiệm thực tế công việc đòi hỏi
nên họ đã tự học và có thể đạt trình độ chứng chỉ trở lên.
Bảng 3.5 dưới đây là hệ thống số liệu phản ánh thực tế năng lực,
trình độ ngoại ngữ và tin học của người lao động ngành CN NDS Việt Nam
giai đoạn 2008-2018. Nhìn chung, NL trong ngành đã biết ngoại ngữ ở
99
trình độ cao. Trong các năm, số lượng chứng chỉ ngoại ngữ cả tiếng Anh và
tiếng nước khác là 33.204 người, trong khi tổng số NL toàn ngành là
33.000 người, tức là có một số người sở hữu 2 chứng chỉ ngoại ngữ. Năm
2010, tổng số chứng chỉ ngoại ngữ của người lao động trong toàn ngành là
51.305/50.928 người; năm 2015 con số tương tự là 46.943/44.320 người;
và năm 2018 là 60.365/57.000 người, số chứng chỉ ngoại ngữ nhiều hơn số
lao động đang làm việc trong toàn ngành là 3.365 hay 5,9%. Số người có
trình độ cao đẳng ngoại ngữ trở lên được tăng qua các năm: năm 2008 có
17.428 người (trong đó có 15.114 người ngoại ngữ tiếng Anh và 2.314
người tiếng khác); năm 2010 có 31.427 người; năm 2015 có 27.490 người;
và năm 2018 có 37.486 người, chiếm 65,8% trong tống lực lượng lao động
của toàn ngành CN NDS [16].
Tình hình năng lực trình độ về tin học của người lao động trong
ngành CN NDS cũng rất ấn tượng. Trong suốt giai đoạn 2008-2018 toàn
ngành đều có 100% số lao động đạt được về tin học ở các trình độ chứng
chỉ, bằng trung cấp, cao đẳng và đại học. Số người có chứng chỉ và bằng
tin học đã tăng lên theo thời gian. Chiều hướng này rõ nhất là ở các bằng
từ trung cấp trở lên. Năm 2008, toàn ngành có 15.378 người có bằng trung
cấp tin học trở lên, năm 2018 có 34.937 người, tăng gần 2,3 lần sau 11
năm (so với năm 2008). Số người có bằng trung cấp tin học trở lên năm
2008 chiếm 46,6% tổng lực lượng lao động của ngành; năm 2010 và năm
2015 đều chiếm 54,3%. Năm 2018, trong tổng số 57.000 người làm việc
tại ngành thì có 34.937 người đạt trình độ trung cấp tin học trở lên, chiếm
61,3%. Điều này tức là, người lao động làm việc trong ngành CN NDS
Việt Nam ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc nâng cao năng lực trình
độ tin học để có điều kiện tốt hơn trong thực hiện công việc được giao
(bảng 3.5).
100
Bảng 3.5: Trình độ tin học và ngoại ngữ của ngƣời lao động trong
ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam giai đoạn 2008-2018
Đơn vị: người
Tin học
Ngoại ngữ
Tiếng Anh
Tiếng khác
Năm
Trung cấp
Chứng
Cao đẳng
Chứng
Cao đẳng
Chứng
trở lên
chỉ
trở lên
chỉ
trở lên
chỉ
15.378
17.622
15.114
10.131
2.314
5.645
2008
21.320
19.680
19.598
12.587
2.870
5.945
2009
27.654
23.274
27.908
15.965
3.565
3.867
2010
31.967
28.233
31.665
18.482
4.214
5.839
2011
32.938
30.404
33.318
19.446
4.434
6.144
2012
35.193
34.487
41.149
20.778
4.738
1.015
2013
28.155
25.989
28.751
16.622
3.790
4.981
2014
24.066
20.254
24.288
16.129
3.202
3.324
2015
28.454
18.193
24.396
14.321
3.265
4.665
2016
34.104
21.804
33.992
17.164
3.265
838
2017
34.937
22.063
34.221
21.743
3.265
1136
2018
Nguồn: Tổng hợp từ sách trắng CNTT các năm [16].
- Chất lượng về yếu tố tâm lực
Ngành CN NDS là một trong những ngành còn khá mới mẻ ở Việt
Nam. Tuy lợi ích mà ngành CN NDS mang lại như mức thu nhập hấp dẫn,
nhưng để hoàn thành công việc, có quá nhiều thách thức, khó khăn. Bên
cạnh việc quán triệt và chấp hành nghiêm túc đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, ban lãnh đạo ngành CN NDS đã
chú ý giáo dục ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật và giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho người lao động. Nhiều người đã nhận thức rõ tính kỷ luật, tính
trách nhiệm, đạo đức và những phẩm chất cần có của một nhân viên ngành
101
CN NDS. Coi đó là phẩm chất của một nhân viên ngành CN NDS để đưa ra
quyết định lựa chọn công việc đúng đắn nhất.
Những phẩm chất đã được xác định trong lực lượng lao động của
ngành là tính kỷ luật, kỹ năng giải quyết vấn đề tốt, giỏi giao tiếp và đam
mê công nghệ. Do bản chất của công việc, các sự cố, lỗi kỹ thuật có thể xảy
ra bất cứ thời điểm nào, đòi hỏi người làm trong ngành CN NDS phải có sự
linh hoạt, tính kỷ luật cao, có thể đáp ứng yêu cầu và giải quyết công việc
mọi lúc mọi nơi mà không ngại khó khăn trong thời gian sớm nhất có thể.
Phẩm chất này đã được thử thách ngay từ khi tuyển dụng NL.
Phần lớn người lao động đã nhận thức được tính đặc thù của ngành
CN NDS là hỗ trợ, khắc phục và giải quyết các vấn đề phát sinh, đảm bảo
mọi thứ đều hoạt động trong đúng khuôn khổ. Bởi vậy, nhiều người đã chú
trọng rèn luyện kỹ năng phân tích và giải quyết các vấn đề một cách sắc
bén. Phải chú ý quan sát, giải quyết đến từng chi tiết dù là nhỏ nhất để
tránh các vấn đề, sự cố liên quan đến CN NDS mà mình đảm nhiệm và ảnh
hưởng đến hệ thống các hoạt động công nghệ khác của ngành.
Giỏi giao tiếp là một phẩm chất được người lao động trong ngành
CN NDS rất coi trọng. Nhiều người đã nhận thức được trách nhiệm quản
lý, báo cáo và giải quyết các vấn đề cho cấp trên của mình, giao tiếp và
chia sẻ kiến thức cho đồng nghiệp hoặc nhân viên mới. Coi giao tiếp giỏi là
một kỹ năng mềm không thể thiếu đối với người làm trong ngành CN NDS.
Phẩm chất này đã giúp cho quá trình làm việc, trao đổi công việc được hiệu
quả và dễ dàng hơn. Không ít người còn có những kỹ năng lắng nghe để
giải mã và tìm cách khắc phục vấn đề phát sinh trong công việc.
Đặc biệt, phẩm chất đam mê công nghệ đã được thể hiện rất rõ trong
công việc hàng ngày của những người làm việc trong ngành CN NDS Việt
Nam. Tính nhạy bén, khả năng tìm kiếm để bắt kịp các xu thế mới, không
bị lạc hậu, khả năng giải quyết các vấn đề, sự cố liên quan đến các thiết bị
102
và các phần mềm mới nhất đã được nhiều người coi trọng. Vì vậy, đã duy
trì được không khí không ngừng học hỏi và tìm tòi những cái mới, coi công
nghệ là món ăn tinh thần quan trọng để mỗi người theo đuổi nghề nghiệp.
3.2.2.3. Thực trạng cơ cấu nhân lực của ngành
Cơ cấu NL theo ngành: Ngành CN NDS là ngành mới và có tính đa
dạng về công nghệ sản xuất, đa dạng về sản phẩm và dịch vụ như: tài liệu
học tập, dịch vụ giáo dục trực tuyến; các trò chơi điện tử, trò chơi tương tác
qua truyền hình, trò chơi trực tuyến; dịch vụ phát triển nội dung mạng di
động, thư viện số, kho dữ liệu số; các dịch vụ phát triển nội dung cho
Internet... Cơ cấu NL theo ngành, lĩnh vực mà người lao động đảm nhiệm,
nếu so sánh giữa năm 2018 với năm 2008 thì về cơ bản là không có sự
chuyển dịch và tương đối định giữa các lĩnh vực hoạt động trong ngành. Ví
dụ, tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực IT tại năm 2008 và năm 2018 đều
là 25,0% trong tổng số NL trong ngành CN NDS; trong lĩnh vực sáng tạo,
phát triển NDS, marketing và hỗ trợ kinh doanh, dịch vụ khách hàng cũng
đều có một tỉ lệ tương đối ổn định trong suốt thời gian từ năm 2008 đến
năm 2018 (Hình 3.6).
Hình 3.6: Tỷ trọng nhân lực làm việc trong các lĩnh vực thuộc
ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam năm 2008 và năm 2018
Nguồn: Tổng hợp từ sách trắng CNTT các năm [16]
103
Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của NL: Trong giai đoạn
2008-2018, cơ cấu NL theo trình độ chuyên môn kỹ thuật đã có sự chuyển
dịch theo hướng tích cực. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo đã ngày càng tăng
từ 97% trong tổng lực lượng lao động toàn ngành năm 2008 lên 99,6%
vào năm 2018. Theo đó, tỉ lệ lao động phổ thông được giảm từ 3,0% ở
năm 2008 xuống còn 0,4% vào năm 2016. Trong giai đoạn này, tỉ lệ lao
động được đào tạo ở trình công nhân kỹ thuật và trung cấp nghề từ 7,0%
tổng lực lượng lao động của ngành năm 2008 đã giảm xuống bằng mức
1,1% vào năm 2018; số người có trình độ cao đẳng và đại học từ 75,0%
trong năm 2008 tăng lên 84,4% vào năm 2018[16]. Số người có trình độ
thạc sĩ và tiến sĩ trong ngành tuy không thấy tăng hay giảm rõ rệt, nhưng
thực tế đã có thêm nhiều người làm việc trong ngành thi và trúng tuyển
các hệ đào tạo cao học và nghiên cứu sinh tại các cơ sở đào tạo trong và
ngoài nước và đã đạt được các bậc học rồi trở về làm việc. Do có sự di
chuyển lao động, nên một bộ phận NL có trình độ cao đã đứng ra thành
lập DN ở các ngành CN có liên quan (như CN phần cứng, công nghiệp
phần mềm, dịch vụ công nghệ thông tin...) hoặc tìm việc làm ở các DN
khác hấp dẫn và có mức thu nhập cao hơn. Hình 3.3 mô tả quy mô NL
ngành công nghệ thông tin của Việt Nam phân chia theo lĩnh vực hoạt
động giai đoạn 2008 - 2018 đã cho thấy tỉ trọng NL của ngành công
nghiệp nội dung số được duy trì tương đối ổn định, trong khi của ngành
CN phần cứng lại có mức tăng trưởng rất cao. Hình 3.7 cho thấy sự biến
đổi cơ cấu NL theo trình độ chuyên môn kỹ thuật của ngành trong giai
đoạn 11 năm qua [16].
104
Hình 3.7: Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của nhân lực tại ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam năm 2008 và năm 2018 Nguồn: Tổng hợp từ sách trắng CNTT các năm [16]
Cơ cấu về độ tuổi của người lao động: Do là ngành CN mới, nên độ tuổi của người lao động chủ yếu là tương đối trẻ. Tỷ lệ lực lượng lao động trong ngành CN NDS có ở độ tuổi từ 22 đến dưới 30 trong năm 2008 và năm 2018 đều là 27,0% trong tổng số lao động của ngành; số lao động có độ tuổi 31-39 trong năm 2008 là 34,0%, năm 2018 là 35,0%; số lao động có độ tuổi 40-49 trong năm 2008 là 19,0%, thì năm 2018 cũng khoảng trên 19,0% một ít. Số lao động trong độ tuổi dưới 40 chiếm tới 62-63% tổng lực lượng lao động của toàn ngành. Như vậy, lao động làm việc trong ngành CN NDS chủ yếu là những người trẻ tuổi, có nhiều ưu điểm của tuổi trẻ như năng động, thích khám phá và sẵn sàng làm việc hết mình (Hình 3.8).
Hình 3.8: Cơ cấu độ tuổi của người lao động trong ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam năm 2008 và năm 2018 Nguồn: Tổng hợp của tác giả
105
3.2.3. Thực trạng về phát triển nhân lực ngành công nghiệp nội
dung số Việt Nam giai đoạn 2008 - 2018
Để phát triển ngành CN NDS Việt Nam thời gian qua, Đảng, Nhà
nước và ngành CNTT&TT đã rất coi trọng việc ban hành và thực thi các
giải pháp ở cả tầm vĩ mô và tầm vi mô.
3.2.3.1. Phát triển nhân lực ngành công nghiệp nội dung số ở tầm
vĩ mô
Đảng và Nhà nước đã ban hành các chủ trương, chính sách nhằm
phát triển nguồn NL NDS, trong đó có Quyết định số 56/2007/QĐ-TTg
ngày 3/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt chương trình phát triển
CN NDS Việt Nam đến năm 2010. Những giải pháp về NL tập trung vào
xây dựng và ban hành quy hoạch, kế hoạch đào tạo nguồn NL NDS gắn với
yêu cầu phát triển của ngành và mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Đưa vào chương trình đào tạo chính quy của các trường
đại học, cao đẳng các khoá học, môn học chuyên ngành về nội dung thông
tin số. Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy các môn, ngành
liên quan trực tiếp đến NDS đạt trình độ các nước tiên tiến trong khu vực.
Khuyến khích mô hình liên kết giữa doanh nghiệp, trường đại học,
viện nghiên cứu trong và ngoài nước để phát triển nguồn NL cho CN NDS.
Đẩy mạnh các khoá đào tạo nâng cao kiến thức về CNTT cho cán bộ, sinh
viên các ngành khoa học xã hội, văn hoá, nghệ thuật.
Khuyến khích các tổ chức, DN gửi cán bộ ra nước ngoài đào tạo về
chuyên ngành nội dung thông tin số. Ưu tiên dành thêm các suất học bổng
đào tạo đại học, sau đại học ở nước ngoài trong các chương trình học bổng
hỗ trợ phát triển, học bổng từ ngân sách nhà nước (theo đề án 322 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, từ năm 2010 chuyển sang thực hiện Đề án 911, tức là
theo Quyết định 911/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
106
17/6/2010) cho các ứng viên theo học về chuyên ngành truyền thông đa
phương tiện, nội dung thông tin số.
Tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn nâng cao, chuyên sâu về các kỹ
năng, công nghệ cho ngành CN NDS.
Mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế để đưa lao động trong công
nghiệp nội dung số ra nước ngoài học tập, làm việc.
Việc đào tạo NL cho ngành CN NDS đã được thực thi ở nhiều trường
đại học và trường nghề. Ví dụ, năm 2017, cả nước đã có 235 trường đại
học, 412 trường cao đẳng nghề và 663 trường trung cấp nghề có tiến hành
đào tạo nguồn NL về CNTT với hơn 2,3 triệu người theo học, trong đó có
hơn 1,7 triệu sinh viên đại học, 607,7 ngàn sinh viên hệ đào tạo cao đẳng
và trung cấp nghề về CNTT. Đến năm 2017, số sinh viên về CNTT đã tốt
nghiệp ra trường của cả nước ở hệ đào tạo đại học là 320.578 người, hệ đào
tạo cao đẳng và trung cấp nghề là 405.300 người [16]. Trong số những
người đã tốt nghiệp ra trường, đã có khoảng 7,0% được thu hút vào làm
việc ở ngành CN NDS của Việt Nam.
Để khuyến khích thu hút NL thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng
CNTT tại Việt Nam trong đó có liên quan đến CN NDS, ngày 26/05/2016
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 41/NQ-CP, trong đó áp dụng chính sách
ưu đãi thuế như giảm 50% số thuế thu nhập cá nhân phải nộp đối với thu
nhập từ tiền lương, tiền công của các cá nhân NL công nghệ cao làm việc
trong lĩnh vực CNTT. Tuy nội dung này không trực tiếp liên quan đến CN
NDS nhưng áp dụng khả thi vì hiện nay nhiều công nghệ cao được sử dụng
trong sản xuất ND. Trường hợp dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực CNTT cần
đặc biệt khuyến khích đầu tư, có sử dụng thường xuyên trên 1.000 lao động,
kể cả trường hợp dự án đã hết thời gian 15 năm hưởng thuế suất 10%, được
kéo dài thêm thời gian áp dụng mức thuế suất 10% trong 15 năm [16].
107
3.2.3.2. Phát triển nhân lực ngành công nghiệp nội dung số ở tầm
vi mô
Ở tầm vi mô, các chính sách và biện pháp được sử dụng cho nhiệm
vụ phát triển NL ngành CN NDS bao gồm thu hút, sử dụng NL, kết hợp
đào tạo với sử dụng NL và tạo động cơ chế và động lực để người lao động
yên tâm làm việc, gắn bó lâu dài với sự tồn tại và phát triển của ngành.
Thu hút nhân lực: Trên quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước và chính sách phát triển của ngành CNTT&TT,
trên cơ sở nhu cầu NL cho ngành CN NDS đã được xác định, trong giai
đoạn 2008-2018, ngành CN NDS đã nghiên cứu, ban hành các chế độ,
chính sách nhằm khuyến khích việc thu hút NL vào làm việc trong ngành.
Những chính sách và biện pháp chủ yếu là: xây dựng để tiêu chuẩn hóa các
chức danh công việc và chức danh quản lý, thực hiện ưu đãi về thu nhập và
điều kiện làm việc cho người lao động, tạo điều kiện học tập, nâng cao
trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ và trình độ quản lý ở trong và
ngoài nước,tạo điều kiện cho người lao động được đào tạo về kỹ năng và
cập nhật ứng dụng CNTT trong lĩnh vực công việc được giao.
Tổ chức tuyển dụng NL theo đúng quy chế tuyển dụng của ngành đã
được ban hành, đúng người, đúng việc. Lập trang web VietnamWorks.com
để tuyển dụng trực tuyến NL cho ngành CNTT ở Việt Nam. Trang web này
thuộc tập đoàn Navigos Group còn có nhiệm vụ thông tin về thị trường NL
ngành CNTT để các nhà quản trị và người lao động có thể lựa chọn tuyển
dụng và làm việc ở một DN thích hợp. Đến nay, trang VietnamWorks.com
là trang tuyển dụng trực tuyến có mặt sớm nhất và hàng đầu tại Việt Nam.
Trong suốt hơn 17 năm hoạt động, mỗi năm có hơn 5.5 triệu hồ sơ ứng
tuyển cho hơn 126 ngàn vị trí được gửi đến nhà tuyển dụng thông qua trang
web này. Nguồn dữ liệu khổng lồ hồ sơ ứng viên có kinh nghiệm và nhà
108
tuyển dụng đáng tin cậy của VietnamWorks là một tài sản giá trị trong thị
trường tuyển dụng cạnh tranh ở Việt Nam.
Sử dụng nhân lực: Trong giai đoạn 2008-2018, ngành CN NDS đã
tiến hành rà soát và đổi mới việc sử dụng NL, công tác nhân sự, công tác
cán bộ, đặc biệt chú trọng xây dựng và phát triển đội ngũ chuyên gia thuộc
các lĩnh vực cốt lõi của ngành, xây dựng và thực thi giải pháp chính sách
nhằm giữ chân người tài. Các hoạt động kiểm tra việc sử dụng NL trong
từng lĩnh vực được tiến hành thường xuyên nhằm kịp thời giải quyết khó
khăn, vướng mắc. Xây dựng và đưa vào hoạt động hệ thống quản trị DN và
công tác nhân sự tiên tiến đạt chuẩn quốc tế của ngành CNTT. Áp dụng
quản trị nhân sự theo năng lực nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của
người lao động, bố trí và sử dụng nhân sự đúng vị trí, chức danh, tránh lãng
phí. Một số DN trong ngành đã áp dụng tiêu chuẩn nhân sự với các chức
danh công việc phục vụ cho việc sử dụng NL. Thông qua các tiêu chuẩn,
người lao động biết mình đang ở đâu và cần phải làm gì, điều chỉnh hành vi
gì để hoàn thành công việc được giao và để phù hợp với môi trường văn
hóa xung quanh. Họ cần phải biết tự hào với những sản phẩm, với doanh
nghiệp mình đang gắn bó và biết yêu công việc mình đang làm để từ đó có
cố gắng, có nỗ lực, chủ động trong công việc và chủ động học tập để phát
triển bản thân.
Kết hợp giữa sử dụng với đào tạo và bồi dưỡng nhân lực: Bên cạnh
các hệ đào tạo chính quy của các trường đại học, cao đẳng và trung cấp của
nhà nước, các trường dân lập và tư thục, ngành CN NDS và các DN cũng
đưa ra các kế hoạch và biện pháp đào tạo và phát triển nguồn NL ngay
trong nội bộ ngành và DN. Phương thức thực hiện là kết hợp giữa sử dụng
và đào tạo, đào tạo và sử dụng. Thông thường, các DN muốn có sẵn NL tốt
để đưa vào sử dụng ngay. Nhưng ngành CN NDS lại rất “khát” NL mặc dù
số người được đào tạo bên ngoài xã hội ra trường khá nhiều, nên việc kết
109
hợp vừa sử dụng vừa đào tạo đã tỏ ra hợp lý và cần thiết đã được ngành lựa
chọn. Một số DN NDS cũng tham gia đào tạo NL cho DN mình và cho các
DN bên ngoài như VTC và FPT và coi đây là một việc làm cần thiết để
phát triển DN. Bên cạnh đó, ngành CN NDS còn tiến hành liên kết và tăng
cường hợp tác giữa DN và các trường đại học, cao đẳng trong việc đào tạo
nhằm phát triển NL CN NDS theo hướng tăng cường năng lực thực hành.
Hình thức phát triển NL trong DN thường được thực hiện với các khóa đào
tạo ngắn hạn, đào tạo chuyên đề, đào tạo theo dự án, đào tạo theo đề tài
nghiên cứu nhằm phổ biến kiến thức ở các mức trình độ khác nhau. Bên
cạnh đó, ngành còn mời các lớp bồi dưỡng NL để người lao động cập nhật
kiến thức, kỹ năng nghề và mở rộng tầm nhìn, nâng cao năng lực sáng tạo
trong công việc và thích nghi với môi trường cạnh tranh ngày càng quyết
liệt trong ngành CN NDS trong hội nhập quốc tế.
Quan điểm thiết thực và có hiệu quả trong đào tạo phát triển NL của
ngành CN NDS được coi trọng. Đào tạo phải được gắn liền với chiến lược
phát triển kinh doanh của ngành. Việc đào tạo NL trong nội bộ ngành và
DN được chú trọng vào đối tượng là nhân viên mới với mục tiêu để họ sớm
hòa nhập vào môi trường làm việc có tốc độ nhanh và thích ứng được với
văn hoá, định hướng, mục tiêu, sứ mệnh, tầm nhìn của DN và của ngành.
Hình thức đào tạo nhân viên mới chủ yếu là hướng dẫn trực tiếp trong công
việc nhằm giúp DN sớm giải quyết được tình trạng thiếu NL. Cùng với
thực hiện các chương trình đào tạo nội bộ, đào tạo kèm cặp tại chỗ, đào tạo
trong công việc, các cơ sở DN và ngành còn coi trọng đánh giá kết quả đào
tạo, bồi dưỡng. Hình thức của hoạt động này là phiếu đánh giá kết quả sau
khóa học và sự thay đổi công việc của người lao động ở các vị trí cao hơn,
có thu nhập tốt hơn. Nhìn chung, việc kết hợp sử dụng với đào tạo, bồi
dưỡng được tiến hành thường xuyên và có kết quả tích cực đóng góp vào
sự phát triển của ngành.
110
Cùng với phát triển các hình thức đào tạo và bồi dưỡng NL, ngành
CN NDS còn rất chú trọng công tác nghiên cứu khoa học. Công tác này đã
được đẩy mạnh hơn kể từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2011, Phê duyệt Chiến lược khoa học và công
nghệ giai đoạn 2011-2020. Ví dụ, năm 2019, ngành TT&TT đã phê duyệt
nhiệm vụ nghiên cứu cho 64 đề tài khoa học cấp bộ, trong đó có nhiều đề
tại thuộc lĩnh vực CN NDS; các cơ quan, DN thuộc ngành cũng thường
xuyên có kế hoạch và triển khai các đề tài khoa học, công nghệ thuộc lĩnh
vực chuyên môn của mình. Thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học
mà chất lượng NL trong ngành đã được nâng lên.
Coi trọng yếu tố động lực để kích thích người lao động: Những yếu
tố có tác động đến kích thích động lực động lực của người lao động được
ngành áp dụng trong giai đoạn 2008-2018 là tạo môi trường làm việc thuận
lợi, sự hấp dẫn của công việc, coi trọng các lĩnh vực hoạt động trong
ngành, uy tín DN, mức thu nhập, khả năng thăng tiến, được học hỏi và phát
triển khả năng bản thân, được tôn vinh khi có thành tích đóng góp cho DN
và cho ngành, chế độ phúc lợi và các chế độ khen thưởng. Môi trường làm
việc đã được xác định là quan trọng nhất đối với người lao động khi cân
nhắc lựa chọn một công việc trong các DN của ngành. Trong đó, đã chú ý
xây dựng văn hóa DN với những nội dung hấp dẫn hấp dẫn, nổi bật là các
mô hình văn hóa của FPT, VTC, VDC, Vincom, Vegasoft, Peacesoft… với
nhiều hoạt động tập thể, hoạt động gắn kết với các quy chế nhằm tạo dựng
một môi trường làm việc sang tạo, linh hoạt.
Đi đôi với tạo động lực về tinh thần, ngành đã đặc biệt coi trọng các
biện pháp tạo động lực về vật chất kinh tế để phát triển NL. Mức thu nhập
hấp dẫn, tiền thưởng và chế độ phúc lợi là những phương thức chủ yếu mà
ngành thường quan tâm, trong đó quan trọng nhất là chế độ tiền lương, tiền
công. Mức thu nhập của người lao động trong suốt giai đoạn 2008-2018 đã
111
liên tục được tăng lên. Nếu năm 2008 mức thu nhập bình quân của người lao
động làm việc tại các đơn vị DN và cơ quan quản lý, phục vụ trong ngành
CN NDS là 2.820 USD, thì năm 2018 là 7.200 USD, tính theo tiền đồng Việt
Nam (tỷ giá 12/2019) là 65,4 triệu đồng và 167,0 triệu đồng, tăng gần 2,6
lần trong thời gian 11 năm và luôn đạt ở mức cao hơn so với thu nhập bình
quân chung của tất cả các ngành công nghiệp cả nước. Năm 2019, mức thu
nhập này còn cao hơn nữa: Theo “Báo cáo Thị trường NL ngành CNTT năm
2019” vừa được công bố trên trang www.vietnamworks.com thì, NL có
chuyên môn Blockchain và Trí tuệ nhân tạo (AI) đang nhận được mức thu
nhập cao hơn so với các nhóm chuyên môn khác. Trong đó, nhóm kỹ sư
phát triển phần mềm liên quan đến Blockchain nhận mức lương cao nhất,
trung bình mỗi tháng là 2.241 USD, nhóm phát triển phần mềm liên quan
đến AI có mức lương 1.844 USD, đứng vị trí thứ 3 là Full Stack với mức
lương 1.642 USD. Trong nhóm làm việc, Kiến trúc sư giải pháp là vị trí có
mức lương cao nhất. Xét theo vai trò công việc, top 3 các vị trí có mức
lương cao nhất lần lượt là: Kiến trúc sư giải pháp với mức lương 1.753
USD; Kỹ sư Agile/Scrum với mức lương 1.500 USD; Quản lý dự án với
mức lương 1.372 USD tương đương với 31,77 triệu đồng/tháng (cao gấp 4,7
lần so với mức thu nhập trung bình chung của người lao động cả nước và
cao gấp 2,9 lần so với mức thu nhập trung bình của nhóm “lãnh đạo trong
các ngành, cấp và đơn vị” (11,2 triệu đồng/tháng) trong cùng thời gian) [16].
3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN
NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ Ở VIỆT NAM
3.3.1. Kết quả đạt đƣợc
- Qua thực trạng cho thấy bước đầu đã thực hiện được một số mục
tiêu cơ bản về NL đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành CN NDS. Mục
tiêu của ngành được xác định trong các chương trình và nhất là trong Quy
112
hoạch phát triển NL của ngành đến năm 2020 là đảm bảo về số lượng và
chất lượng để hoàn thành nhiệm vụ xây dựng công nghiệp CNTT đặc biệt
là CN NDS trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Từ khi ra đời năm 2008, tính đến năm 2018 số lượng NL ngành CN
NDS đã liên tục được gia tăng (từ 33.000 người năm 2008 lên 57.000 năm
2018), với tốc độ tăng trưởng trung bình là 6,6%/năm (bảng 3.4).
Chất lượng NL năm 2018 đã có sự tiến bộ hơn hẳn so với năm 2008,
nhất là yếu tố trí lực của người lao động với số người có trình độ học vấn
đại học, cao đẳng và trên đại học năm sau nhiều hơn năm trước. Trong đó,
số có trình độ đại học đã từ 24.750 người năm 2008, tăng lên đạt mức
48.122 người năm 2018, tốc độ tăng trưởng trung bình là 8,6%/năm; tốc độ
tăng trưởng NL có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ là 5,6% (bảng 3.5). Trình độ
chuyên môn kỹ thuật của người lao động ngày càng được nâng lên. Năm
2018, số người có chuyên môn kỹ thuật từ trình độ công nhân kỹ thuật đến
đại học và sau đại học của toàn ngành là 56.759 người, chiếm 99,6% tổng
lực lượng lao động toàn ngành, chỉ còn 0,3% số người là lao động phổ
thông (hình 3.6). Trình độ ngoại ngữ, nhất là trình độ tiếng Anh và trình độ
tin học của người lao động đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu công việc.
Nhìn chung, NL trong ngành CN NDS ngày càng hoạt động có kỹ năng và
có tính chuyên nghiệp hơn, mức độ liên thông trong giao tiếp với các đối
tác nước ngoài tốt hơn (bảng 3.6).
Cơ cấu NL đã được phân bố tương đối hợp lý và đã có sự dịch
chuyển theo hướng ngày càng tiến bộ cả về trình độ chuyên môn kỹ thuật,
ngành lĩnh vực công việc, tỉ lệ NL làm việc trong các lĩnh vực CN sáng tạo
và giải pháp phần mềm đã có chiều hướng tăng lên (hình 3.7).
- Đã đạt được những kết quả quan trọng trong phát triển NL. Bên
cạnh những kết quả về đảm bảo mục tiêu NL của ngành về số lượng, chất
113
lượng và cơ cấu, những thành quả đạt được trong phát triển NL của ngành
ở cả tầm vĩ mô và vi mô trong giai đoạn 2008-2018 cũng đáng được ghi
nhận. Đã có nhiều chính sách, giải pháp và mô hình tổ chức thực hiện
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển NL của ngành CN NDS được quan tâm.
Nổi bật là các giải pháp nâng cao năng lực, trình độ người lao động thông
qua các hình thức kết hợp giữa sử dụng và đào tạo NL, kích thích lợi ích
vật chất, tinh thần và thăng tiến tạo động lực để người lao động yên tâm,
gắn bó và làm việc hết mình vì sự phát triển của ngành.
- Đóng góp của NL vào sự phát triển của ngành CN NDS đáng được
ghi nhận. Những kết quả đạt được về NL đã đóng góp rất quan trọng vào
giá trị sản lượng, thúc đẩy xuất khẩu và thúc đẩy tăng trưởng, phát triển
của ngành trong giai đoạn 2008-2018. Theo số liệu của Bộ TT&TT, năm
2008, doanh thu NDS đạt 440 triệu USD và doanh thu từ xuất khẩu NDS
đạt 263 triệu USD; năm 2018, các số liệu tương tự là 895 triệu USD và 775
triệu USD. Tăng trưởng doanh thu bình quân đạt 9,4% năm và tăng trưởng
xuất khẩu đạt 17,7% năm và mức tăng trưởng trung bình về NL trong giai
đoạn này là 6,6%/năm. Với các điều kiện khác không đổi, thì tăng trưởng
NL là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế của ngành trong giai đoạn 2008-
2018. Nhiều đánh giá của ngành cũng đã xác định kết quả như vậy. Đội
ngũ NL ngành CN NDS ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan trong,
là đội quân tiên phong trong việc đáp ứng yêu cầu của Đảng và Nhà nước
về mục tiêu số hoá mọi ngành, mọi lĩnh vực là yếu tố quan trọng nhất để
tăng năng suất lao động, tốc độ tăng trưởng, khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế, hướng tới mục tiêu chuyển đổi số với ba chủ thể là chính phủ số,
kinh tế số và công dân số và sáu trụ cột là hạ tầng kết nối, dữ liệu, công
nghiệp CNTT, điện tử - viễn thông, thương mại điện tử, nguồn NL và an
toàn an ninh thông tin đã được Đảng và Nhà nước xác định trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 [16].
114
3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
3.3.2.1. Hạn chế
Mặc dù đã đạt được những kết quả trên và đến hết năm 2019 tuy đã
có một đội ngũ trên 60 nghìn người tham gia vào lĩnh vực CN NDS, nhưng
nhu cầu NL của các DN NDS rất lớn và cấp bách do xu hướng phát triển
nhanh của ngành CN này. Trong giai đoạn 2008-2018, việc đáp ứng NL
NDS vẫn còn không ít hạn chế, bất cập. Nhìn chung, ngành CN NDS Việt
Nam vẫn trong tình trạng thiếu hụt lớn NL cả về số lượng và chất lượng ở
tất cả các lĩnh vực từ tra cứu thông tin, dữ liệu số, NDS giáo dục trực
tuyến, phát triển NDS cho mạng di động, giải trí số, thương mại điện tử…
Về số lượng, ở Việt Nam hiện có hai nhánh NL trong ngành CN NDS
bao gồm NL chuyên trách về lĩnh vực NDS và NL sản xuất NDS. Cả hai
nhánh này đều trong tình trạng thiếu hụt NL. Nhân lực chuyên trách về lĩnh
vực NDS còn thiếu về số lượng, và yếu kém về trình độ. Số người hiện tại
đều lấy từ bên CNTT sang, phần lớn còn thiếu kinh nghiệm, kỹ năng
chuyên sâu và trình độ tiếng Anh. So với Hàn Quốc và Trung quốc, số
lượng NL làm trò chơi điện tử của Việt Nam có tỷ lệ thấp. Nhu cầu đầu tư
hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn NL NDS, đặc biệt là NL tinh nhuệ, chất
lượng cao hiện vẫn đang đặt ra.
Nhân lực sản xuất NDS còn mỏng và chưa chuyên sâu. Theo khảo
sát của VietnamWorks về ngành CNTT ở Việt Nam, trong 3 năm (2011-
2014), số lượng công việc trong ngành này đã tăng trung bình 47% mỗi
năm. Tuy nhiên, số lượng nhân sự ngành này lại chỉ tăng ở mức trung bình
8%. Nếu tiếp tục tăng trưởng NL ở mức 8%, thì từ đây đến năm 2020, Việt
Nam sẽ thiếu hụt khoảng 78.000 NL ngành CNTT mỗi năm, và đến năm
2020 sẽ thiếu hơn 500,000 NL CNTT, chiếm hơn 78% tổng số NL CNTT
thị trường cần. Với mức tăng trưởng NL NDS trung bình giai đoạn 2008-
115
2018 là 6,6%/năm, thấp hơn so với tăng trưởng NL trong ngành CNTT thì
sự thiếu hụt NL còn lớn hơn nữa [57].
Về chất lượng, phần lớn NL trong ngành CN NDS còn yếu về trình
độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ và các kỹ năng mềm. Theo báo cáo của
Viện Chiến lược TT&TT (Bộ TT&TT), chỉ có 28% sinh viên ngành CNTT
ra trường làm việc được ngay, có việc làm đúng nghề, còn 72% sinh viên
phải đào tạo bổ sung ít nhất 3 tháng do không có kinh nghiệm thực hành,
thiếu hiểu biết về lĩnh vực hành nghề, thiếu kỹ năng làm việc nhóm
Ngoại ngữ đối với NL ngành CN NDS là một kỹ năng bắt buộc phải
có, bởi đa số các tài liệu, văn bản hướng dẫn kỹ thuật, phần mềm ứng dụng
đều bằng tiếng Anh. Hơn nữa, Việt Nam hiện nay là một đối tác đầu tư
chiến lược lớn của nhiều quốc gia, đã hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN
và Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
- một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, được kì vọng sẽ đem
lại một thị trường khách hàng lớn hơn để CN NDS Việt Nam có thể tiếp
cận. Người lao động phải có kỹ năng giao tiếp bằng ngoại ngữ trong lĩnh
vực CN NDS là rất cần thiết. Thế nhưng, đây đang là vấn đề đáng phải
quan tâm. Tuy không ít NL làm việc trong ngành đã có chứng chỉ ngoại
ngữ tiếng Anh ở các mức độ khác nhau, nhưng số người đọc thông, viết
thạo, giao tiếp được thì không nhiều.
Kỹ năng mềm luôn là điểm yếu của NL Việt Nam nói chung nhưng
đặc biệt cần nhấn mạnh đối với ngành CN NDS. Những vị trí cao trong bậc
thang sự nghiệp trong ngành này đều đòi hỏi nhiều hơn những kiến thức về
kỹ thuật. Ví dụ, vị trí Project Manager (Quản lý Dự án) đòi hỏi các kĩ năng
giao tiếp, thuyết trình, trình bày ý tưởng, thuyết phục đối tác, quản lý thời
gian và tiến độ, v.v… Điều này không phải người làm ngành CN NDS nào
ở Việt Nam cũng đáp ứng được.
116
Về cơ cấu, sự ra đời và phát triển nhanh chóng của những ngành CN
sáng tạo được thúc đẩy bởi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm
xuất hiện nhu cầu mới về NL, đòi hỏi thay đổi cơ cấu NL. Những ngành
CN này được dựa trên nền tảng của nhiều công nghệ mới mà cốt lõi là công
nghệ số như trí tuệ nhân tạo, học máy sâu, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện
toán đám mây, Internet vạn vật…, chuyển đổi số đang tạo ra không gian
phát triển mới - kinh tế số, xã hội số, Chính phủ điện tử. Tuy nhiên, từ năm
2008 đến nay, về cơ bản cơ cấu NL theo lĩnh vực hoạt động trong ngành
CN NDS vẫn chưa có sự chuyển dịch đáng kể (ví dụ trên hình 3.7). Đây là
những lực cản đối với yêu cầu phát triển ngành CNTT nói chung, CN NDS
nói riêng ở Việt Nam.
3.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Các hạn chế nêu trên do tác động của nhiều nguyên nhân cả bên
trong và bên ngoài ngành CN NDS. Các nguyên nhân bên ngoài như môi
trường kinh tế và xã hội bao gồm các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế,
mức độ ổn định của chính sách kinh tế, của tiền tệ và giá cả, mức độ đạt
được của trật tự, an toàn xã hội, văn hoá, quy mô dân số và thị trường lao
động... của nước ta trong thời gian qua đã có những tác động nhất định tới
những hạn chế về NL ngành CN NDS. Trong đó, tác động trực tiếp nhất
đến những hạn chế nêu trên là năng lực cung ứng NL của các cơ sở đào tạo
trong nước và tính chất cạnh tranh ngày càng gay gắt do những cơn khát
NL của các DN NDS trên thế giới. Các nguyên nhân bên trong có tác động
mạnh mẽ nhất gây ra những hạn chế nêu trên. Dưới đây là tổng hợp những
nguyên nhân chủ yếu.
Thứ nhất, năng lực hoạch định, chính sách thu hút, sử dụng và phát
triển NL NDS của ngành còn thiếu và yếu. Tuy ngành CN NDS đã bắt đầu
hình thành vào những năm 2004 - 2005 khi có sự xuất hiện và bùng nổ của
các NDS cho điện thoại di động như nhạc chuông, nhạc chờ, tin nhắn hình
117
ảnh và sự xuất hiện các trò chơi trực tuyến trên mạng Internet và đã được
Đảng và Nhà nước coi đó là một ngành kinh tế mới, có nhiều tiềm năng
phát triển, đem lại giá trị gia tăng cao, nhưng đến nay vẫn chưa có chiến
lược và kế hoạch toàn diện để phát triển ngành CN này. Các giải pháp
chính sách thu hút, sử dụng và phát triển NL để phát triển ngành CN NDS
vẫn dựa trên các giải pháp chung trong các chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của quốc gia và hai chiến lược của ngành gồm “Chiến lược phát
triển CNTT&TT Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”
ban hành năm 2005 và “Định hướng Chiến lược phát triển CNTT&TT Việt
Nam giai đoạn 2011 - 2020” ban hành năm 2007. Do thiếu dự báo và quy
hoạch, nên ngành CN NDS chưa chủ động trong sản xuất các sản phẩm có
tính cạnh tranh. Theo đó, nhu cầu về NL vẫn chưa được xác định. Vẫn
đang thiếu quy hoạch tổng thể và giải pháp chiến lược để có tầm nhìn dài
hạn và kế hoạch ngắn hạn nhằm chủ động thu hút, sử dụng và phát triển NL
cho ngành kinh tế mới và có rất nhiều triển vọng này.
Thứ hai, hành lang pháp lý về ngành CN NDS chưa rõ ràng. Mặc dù
khái niệm về NDS và ngành CN NDS đã được quy định tại Luật công nghệ
thông tin năm 2006 cũng như một số văn bản hướng dẫn luật, nhưng những
khái niệm cơ bản của lĩnh vực này vẫn không được bổ sung để theo kịp sự
phát triển nhanh chóng của ngành trong dài hạn. Việc thiếu những khái
niệm cơ bản đã làm ảnh hưởng đến quản lý, hỗ trợ cho các hoạt động sản
xuất và phân phối các sản phẩm NDS. Ví dụ, trong khoản 2, Điều 10 Nghị
định số 71/2007/NĐ-CP có quy định thế nào là sản phẩm NDS, thế nhưng
mới chỉ là các quy định chỉ mang tính chất khung, thể hiện nhóm sản phẩm
chính chưa được phân loại cụ thể. Do ngành CN NDS phát triển rất nhanh,
nên thị trường sản phẩm NDS đã có nhiều thay đổi kể từ năm 2007 với sự
xuất hiện nhiều sản phẩm mới trên thị trường không thuộc phạm trù đã
được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Bởi
118
vậy, một số doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm loại này đã không thể tiếp
cận được những ưu đãi mà Nhà nước hỗ trợ. Đến nay vẫn chưa có khái
niệm chính xác về hạ tầng CN NDS, các tiêu chí chi tiết cho dịch vụ hạ
tầng chưa được ban hành, nên chưa có sở cứ đánh giá việc đảm bảo chất
lượng sản phẩm và dịch vụ NDS cung ra trên thị trường, nên cũng không
có phương hướng đúng đắn trong việc thu hút và sử dụng NL để sản xuất.
Do môi trường pháp lý chưa rõ ràng, dấu ấn của các nhà đầu tư nước
ngoài trong ngành CN NDS vẫn còn rất mờ nhạt. Trong những năm gần
đây, không có một dự án FDI NDS lớn nào được công bố. Đây cũng là
nguyên nhân gây hạn chế đến việc tuyển dụng và nâng cao chất lượng NL
của ngành.
Các quy định về đầu tư tài chính cho CN NDS chưa phù hợp, chưa
có khung pháp lý cụ thể cho việc đầu tư mạo hiểm, chưa có hướng dẫn cụ
thể hay định mức cho hình thức thuê dịch vụ, lập dự toán cho dịch vụ,
không có quy định rõ ràng về việc thành lập sàn giao dịch điện tử hay công
ty cung cấp dịch vụ online. Một số DN gặp khó khăn trong việc định giá tài
sản sở hữu trí tuệ sử dụng trong việc huy động vốn. Còn có quá nhiều giấy
phép gây khó khăn cho các DN khởi nghiệp, bởi vậy họ phải ra nước ngoài
để đăng ký và định giá sản phẩm phần mềm, sau đó quay trở lại Việt Nam
hoạt động. Chiến lược hỗ trợ ngành CN NDS không có hoặc lạc hậu... Đây
là những nguyên nhân gây cản trở sự phát triển của các DN và toàn ngành
CN NDS, do vậy cũng gây trở ngại cho việc thu hút, sử dụng và phát triển
NL của ngành.
Thứ ba, năng lực đào tạo và bồi dưỡng NL cho ngành CN NDS còn
nhiều bất cập. Tuy đến nay, cả nước đã có 235 trường đại học, 412 trường
cao đẳng nghề và 663 trường trung cấp nghề có đào tạo NL cho ngành CNTT
với hơn 2,3 triệu người theo học, nhưng chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu
cầu phát triển CN NDS chưa đáp ứng [16]. Ví dụ, năm 2013, cả nước chỉ có
119
1.000 người làm được game online trong đó hầu hết mới chỉ do đam mê,
nhưng không có trường nào đào tạo nghề này. Trong khi đó, lực lượng làm
game của Hàn Quốc có tới 100.000 người, Trung Quốc là 300.000 người...
[16]. Các chương trình đào tạo NL chú ý phát triển chiều rộng hơn là chiều
sâu, tức là có rất nhiều môn học cho một hệ đào tạo nhưng thời lượng dành
cho môn chuyên ngành chưa nhiều. Đa số NL CNS được tuyển chọn từ những
người được đào tạo ngành CNTT. Thế nhưng, đa số sinh viên ngành CNTT
thực hành trên “giấy” chứ không phải trên “máy”. Nếu học về máy tính và
công nghệ ở nước ngoài, thì có ba ngành để lựa chọn: kỹ thuật máy tính (học
về phần cứng), khoa học máy tính (học về phần mềm) và công nghệ thông tin
(học về cách truyền đạt, kết nối và xử lý thông tin), nhưng ở Việt Nam, sinh
viên phải học hết kiến thức của ba ngành này với rất ít giờ thực hành. Đào tạo
NL cho ngành CN NDS vẫn nặng về tính “hàn lâm” hơn là bám sát thực tế.
Ngời tốt nghiệp ra trường họ khó có thể nhớ hết được lượng kiến thức khổng
lồ mang tính “hàn lâm” đó và không nắm rõ về nghề tương lai của mình và
thiếu kinh nghiệm làm việc.
Trong các DN NDS, do bị cuốn hút vào áp lực công việc sản xuất và
phân phối sản phẩm ra thị trường vì thu nhập, nên cũng chưa thật sự quan
tâm đến đào tạo và bồi dưỡng NL mặc dù ngành đã có chủ trương kết hợp
sử dụng với đào tạo ngay trong từng đơn vị của ngành. Tuy có khuyến
khích mô hình liên kết giữa DN, trường đại học, viện nghiên cứu trong và
ngoài nước để phát triển NL cho CN NDS, nhưng thực tế vẫn chưa được
như mong đợi.
Thứ tư, căng thẳng về nguồn vốn đầu tư cho phát triển ngành CN
NDS. Tuy đã xác định Nhà nước đặc biệt khuyến khích, ưu đãi đầu tư và hỗ
trợ phát triển ngành CN NDS thành một ngành kinh tế trọng điểm và đã có
định hướng xây dựng và đưa vào vận hành một số dự án trọng điểm. Tuy
nhiên, vẫn căng thẳng nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước. Ví dụ, năm 2007,
120
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 56/2007/QĐ-TTg phê duyệt
Chương trình phát triển Công nghiệp NDS với 9 dự án và tổng kinh phí đầu
tư của Nhà nước lên tới 1.280 tỷ đồng nhưng không có dự án nào được
triển khai. Năm 2009, theo Quyết định 50/2009/QĐ-TTg ngày phê duyệt
Quy chế triển khai Chương trình CN phần mềm và NDS, trong đó ngân
sách nhà nước bố trí 980 tỷ đồng cho một số dự án hỗ trợ phát triển DN
phần mềm và NDS, tuy nhiên chỉ có một số dự án được triển khai và chủ
yếu là hỗ trợ các DN sản xuất phần mềm. Do thiếu vốn, nên hạ tầng kỹ
thuật chưa đáp ứng yêu cầu của ngành NDS. Việc triển khai các cơ sở dữ
liệu quốc gia quan trọng cung cấp các thông tin cơ bản còn chậm, dịch vụ
thông tin có thể cung cấp cho xã hội và cộng đồng DN còn chưa rõ ràng,
thuận lợi, nên đã làm giảm vai trò hỗ trợ của hạ tầng này đối với các hoạt
động sản xuất sản phẩm NDS.
Thêm vào đó, tuy đặc thù để phát triển CN NDS là cần phải đầu tư
dài hạn, nhưng do quá trình thực hiện gặp nhiều hạn chế và bất cập về
chính sách nên các DN NDS Việt Nam có xu hướng chuyển sang đầu tư
khai thác dịch vụ mang tính ngắn hạn. Đối với DN khởi nghiệp, vẫn đang
nổi lên hai vấn đề chưa được giải quyết, đó là (1) Khả năng tiếp cận vốn
ngân hàng (vì chưa có tài sản đảm bảo), trong khi đó vốn nhà nước rất khó
để có thể hỗ trợ theo hình thức đầu tư mạo hiểm; và (2) Mặc dù Chính phủ
đã bãi bỏ rất nhiều điều kiện kinh doanh, nhưng hiện vẫn có rất nhiều quy
định khiến các DN khởi nghiệp gặp rắc rối về mặt chính sách.
Do thiếu vốn đầu tư, nên thiếu nguồn lực về cơ sở vật chất kỹ thuật
để phát triển ngành CN còn non trẻ này ở Việt Nam. Theo nguyên tắc hợp
lý và tính hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực đầu vào của sản xuất kinh
doanh, việc đầu tư để thu hút, sử dụng và phát triển NL cho phát triển của
ngành CN NDS cũng chưa được đặt ra như một giải pháp cấp bách.
121
Thứ năm, thiếu tầm nhìn trong quản trị nhân sự. Nhiều DN NDS thiếu
chủ động trong sản xuất các sản phẩm bởi phần lớn là nhập khẩu, phụ thuộc
nhiều vào giá đầu vào, công nghệ sản xuất không cao, phân phối phụ thuộc
vào hạ tầng của đối tác. Trong điều kiện đó, các DN NDS Việt Nam đã lúng
túng khi đối tác nước ngoài điều chỉnh các chính sách kinh doanh. Trong khi
đó, tuy các tiềm năng về văn hóa, lịch sử của đất nước để tạo ra các sản phẩm,
dịch vụ NDS tuy có nhiều nhưng lại không được quan tâm sản xuất. Tâm lý
đầu tư ngắn hạn, “chụp giật” của nhiều DN NDS là một nguyên nhân khiến
cho các DN NDS chỉ hướng vào cạnh tranh thu hút NL đẻ phát triển thị
trường, kinh doanh buôn bán mà chưa thật chú ý đến nhu cầu NL để phát triển
các hoạt động sáng tạo tự sản xuất các sản phẩm NDS mang tính đặc trưng
của Việt Nam để đáp ứng thị trường trong nước và xuất khẩu.
Bên cạnh đó, cơ chế tạo động lực cho người lao động làm việc trong
các DN NDS vẫn chưa tương xứng với mục tiêu cần được ưu tiên phát triển
của ngành. Trong Báo cáo điều tra thị trường NL ngành CNTT năm 2019
của VietnamWorks cho thấy, đa số NL trong ngành có cái nhìn tích cực với
mức thu nhập hiện tại của mình. Tuy nhiên, mức thu nhập mong đợi vẫn cao
hơn đến 30%-50% so với mức thu nhập trung bình thực tế trên thị trường.
Hơn 60% NL ngành CNTT có ý định chuyển việc trong 6 tháng tới. Nguyên
nhân chủ yếu là do nhân viên mong muốn tăng lương (47.5%), mong muốn
thăng tiến (15.7%) và làm mới môi trường làm việc (10%) [28].
Ngoài các nguyên nhân trên, còn phải kể đến nhận thức và dư luận
xã hội về một số dịch vụ NDS chưa đồng thuận. Vẫn tồn tại nhìn nhận
thiếu tích cực của xã hội về một số dịch vụ NDS mà chủ yếu là game
online và nhất là khi có sự gia tăng tệ nạn tội phạm sử dụng công nghệ cao
những năm gần đây đã làm giảm quy mô đầu tư vào ngành CN này và do
vậy cũng giảm mức độ thu hút, sử dụng và phát triển NL của ngành.
122
Chƣơng 4
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN
NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ CỦA VIỆT NAM
4.1. DỰ BÁO VÀ PHƢƠNG HƢỚNG VỀ NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN
NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỘI DUNG SỐ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030
4.1.1. Bối cảnh mới và nhu cầu về nhân lực của ngành công
nghiệp nội dung số Việt Nam
4.1.1.1. Dự báo bối cảnh mới của ngành công nghiệp nội dung số
Việt Nam đến năm 2030
Qua các nghiên cứu cho thấy, trong thập niên đầu thế kỷ 21, ngành
CN NDS trên thế giới đã có bước phát triển mạnh mẽ và đạt được doanh
thu lớn nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ và kỹ thuật
tiến bộ của thời đại, nhất là trong lĩnh vực CNTT. Dự báo trong những năm
tới khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được mở rộng trên phạm vi
toàn cầu, ngành CN NDS sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ dựa trên các
điều kiện tiền đề sau:
Một là, nền tảng CNTT thế hệ thứ 3 (3rd Platform). Nếu như ở Nền tảng công nghệ thứ nhất (1st Platform) vào những
năm 1950 - 1970, dữ liệu, thông tin được lưu trữ trên những chiếc máy tính
mainframe khổng lồ với số lượng người dùng cực kỳ hạn chế, chủ yếu là
các tập đoàn lớn trên thế giới, thì đến giai đoạn Nền tảng thứ 2 (2nd
Platform), máy tính cá nhân đã xuất hiện với sự tham gia của hàng triệu
người dùng cùng kết nối và chia sẻ dữ liệu thông qua Internet. Sang giai
đoạn Nền tảng thứ 3 (3rd Platform) với sự hỗ trợ của cuộc cách mạng CN
4.0, hàng tỷ người trên thế giới có thể cùng sử dụng, kết nối và chia sẻ dữ
liệu tức thì nhờ sự ra đời của công nghệ lập trình trên thiết bị di động, kết
nối mạng xã hội, lưu trữ dữ liệu và điện toán đám mây.
123
Theo thống kê cho thấy, mặc dù doanh số tiêu thụ điện thoại thông
minh (Smartphone) toàn cầu năm 2019 giảm 0,3% so với năm 2018 nhưng
vẫn đạt mức 1,456 tỷ thiết bị bán ra [79]. Sự tăng trưởng sản xuất và tiêu thụ
điện thoại thông minh đã làm gia tăng nhu cầu hình thành và phát triển ứng
dụng trên thiết bị di động. Tất cả các DN sản xuất ứng dụng phải giải quyết
bài toán lập trình nên các ứng dụng vừa đẹp, vừa tiện dụng, phù hợp với thị
hiếu và nhu cầu của người dùng. Bên cạnh đó, công nghệ điện toán đám
mây, lưu trữ dữ liệu lớn và sự kết nối không giới hạn của mạng xã hội tạo
nên một môi trường vô cùng hấp dẫn cho sự phát triển của các ứng dụng trên
điện thoại di động. Theo Báo cáo “Bối cảnh dữ liệu toàn cầu” năm 2014,
35% dân số thế giới sử dụng Internet, 26% dân số dùng mạng xã hội
Facebook và 93% dân số thế giới sử dụng thuê bao di động. Sự bùng nổ sử
dụng điện thoại thông minh và mạng xã hội đã mang lại cơ hội phát triển to
lớn cho CN NDS, nhất là các dịch vụ NDS cho thiết bị di động [29].
Tóm lại, sự phát triển của nền tảng CNTT thế hệ thứ 3 (3rd Platform)
đang tạo ra tiền đề to lớn cho ngành CN NDS phát triển mạnh mẽ nhờ khả
năng lưu giữ và chia sẻ dữ liệu không giới hạn trên phạm vi toàn cầu.
Hai là, sự kết hợp giữa công nghệ truyền thông không dây thế hệ thứ
4 (4G), và trong tương lai gần là thế hệ thứ 5 (5G - đang được triển khai
thực nghiệm) cùng với Internet kết nối vạn vật (IoT) đã tạo ra không gian
phát triển to lớn cho ngành CN NDS.
Sự ra đời của công nghệ truyền thông không dây thế hệ 4, thế hệ thứ
5 hay còn gọi là công nghệ 4G, 5G được coi là một trong những tiền đề
quan trọng cho sự phát triển của ngành CN NDS, nhất là trên các thiết bị di
động. Với khả năng truyền dẫn dữ liệu với tốc độ ổn định, tốc độ lý tưởng
có thể đạt từ 1- 1,5Gbit/s. Để truyền tải một file video dung lượng 1Gb,
trước đây, người dùng phải chờ khoảng 45 phút với 3G thường, 22 phút với
3G tốc độ cao thì giờ đây chỉ mất khoảng 10 phút với 4G và thực nghiệm
124
công nghệ 5G chỉ mất 30 giây. Như vậy, công nghệ 4G, 5G trên thực tế đã
tăng tốc độ truyền tải dữ liệu gấp hàng trăm lần so với công nghệ 3G. Với
cơ sở vật chất hiện đại thì tốc độ mạng 4G, 5G được dự báo sẽ còn vượt xa
hơn nữa. Bên cạnh đó, nhờ đường truyền băng thông rộng, công nghệ 4G,
5G có khả năng truyền tải dữ liệu âm thanh chất lượng cao, hình ảnh sắc nét theo chuẩn HD, HD+, cho phép phát sóng trực tuyến dựa trên tốc độ
đăng tải dữ liệu lớn. Chi phí cho mỗi dung lượng sử dụng của 4G và trong
tương lai gần là 5G thấp hơn nhiều so với 3G, cho phép người dùng có
được dịch vụ tốt nhất với mức giá hợp lý. Hiện nay, thế giới đang có
khoảng 1,6 tỷ thuê bao 4G và dự kiến đến năm 2021, con số này sẽ tăng lên
4,3 tỷ thuê bao. Ước tính đến năm 2019, video di động sẽ chiếm 80% tổng
lưu lượng trên Internet. Dự kiến trong 5 năm tới, video di động và mạng xã
hội sẽ có mức tăng trưởng hàng năm lần lượt đạt khoảng 55% và 41% hàng
năm. Trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2021, số lượng các thiết bị kết nối
Internet có mức tăng trưởng hàng năm là 23%, trong đó kết nối Internet
qua mạng di động có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất [67].
Bên cạnh đó, với Internet kết nối vạn vật thì 4G sẽ thúc đẩy ứng
dụng CNTT - viễn thông lan tỏa tới mọi ngóc ngách của đời sống xã hội,
tạo ra thị trường thiết bị lớn nhất trên thế giới mà ước tính, đến năm 2019
thị trường này sẽ gấp đôi quy mô thị trường smartphone, máy tính cá nhân,
máy tính bảng, xe hơi kết nối cộng lại... năm 2019, Internet kết nối vạn vật
đã mang lại khoảng 1,7 nghìn tỷ USD giá trị gia tăng cho nền kinh tế toàn
cầu, bao gồm phần cứng, phần mềm, chi phí lắp đặt, dịch vụ quản lý; doanh
số thiết bị sẽ đạt 6,7 tỷ USD với tỷ lệ tăng trưởng 61% hàng năm [65].
Tóm lại, sự gia tăng không ngừng thuê bao 4G trên thế giới với các
ứng dụng video và mạng xã hội, cũng như lợi thế của kết nối 4G với các
thiết bị IoT cho thấy xu hướng bùng nổ phát triển dịch vụ NDS trên toàn
cầu với những sản phẩm công nghệ siêu việt như avatar ảo, trí thông minh
125
nhân tạo, dữ liệu đám mây, bệnh viện ảo trong vài năm tới. Do vậy, việc
đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp NDS để thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội của Việt Nam là hoàn toàn phù hợp quy luật phát triển chung của
thời đại.
Ba là, Việt Nam vừa là một thị trường tiềm năng, vừa là môi trường
đem đến cơ hội khởi nghiệp cao của ngành CN NDS
Ở Việt Nam, CN NDS tuy xuất hiện muộn hơn nhưng đã phát triển
mạnh mẽ từ cuối những năm 2000 với các loại hình dịch vụ như giáo dục
trực tuyến, trò chơi trực tuyến, trò chơi tương tác trên truyền hình và trên
điện thoại di động… Theo Sách trắng CNTT&TT của Bộ TT&TT, trong giai
đoạn 2008-2014, doanh thu ngành CN NDS tăng từ 480 triệu USD lên 1,4 tỷ
USD, đạt tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 20%/năm, thu hút hơn 4.500 DN tham
gia đầu tư và tạo việc làm cho hơn 70.000 lao động với năng suất lao động
20.000 USD/người/năm và mức lương trung bình 5.200 USD/người/năm.
Cùng với sự phát triển của ngành, đã có một lực lượng đông đảo các DN
Việt Nam tích lũy được kinh nghiệm trong quá trình triển khai dịch vụ
NDS trên nền tảng 3G. Các nhà mạng Việt Nam cũng đã triển khai dịch vụ
4G với 3,5 triệu khách hàng. So với các nước trong khu vực, dịch vụ 4G ở
Việt Nam bước đầu được đánh giá là rẻ và dễ tiếp cận [16].
Trên thực tế, triển vọng phát triển ngành CN NDS ở Việt Nam là rất
lớn trong bối cảnh Việt Nam đang trở thành thị trường khởi nghiệp tiềm
năng trong lĩnh vực này với các lợi thế lớn như: nguồn NL trẻ, dồi dào, chi
phí nhân công cạnh tranh, hạ tầng Internet và hạ tầng di động băng rộng
phát triển rộng khắp. Việt Nam hiện còn là thị trường trò chơi trực tuyến
(game onine) lớn nhất khu vực Đông Nam Á và là một trong mười thị
trường game online có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Thị trường
xuất khẩu nội dung game online chủ đạo của Việt Nam là Nhật Bản, Trung
Quốc, các nước Mỹ La tinh và một số nước châu Âu. Theo Hiệp hội Phần
126
mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (VINASA), Việt Nam hiện có trên 47
triệu người sử dụng Internet (là quốc gia lớn thứ 5 về số người sử dụng
Internet trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, chỉ sau Trung Quốc, Ấn
Độ, Nhật Bản và Indonesia), trong đó khoảng 40 triệu người sử dụng điện
thoại thông minh hoạt động trên các nền tảng di động iOS, Android hay
Windows Phone. Những điều kiện này tạo ra cơ hội phát triển to lớn cho
ngành CN NDS ở Việt Nam, bởi lẽ khi công nghệ Internet kết nối vạn vật
(IoT) phát triển cùng với sự ra đời của mạng 4G, các sản phẩm nổi bật của
ngành CN NDS như mạng xã hội, truyền hình số, đào tạo trực tuyến, thành
phố thông minh, thương mại điện tử... sẽ có những bước phát triển vượt
bậc, tạo ra việc làm mới, nguồn thu mới cho xã hội.
Trong những năm tiếp theo, ngành CN NDS ở Việt Nam được định
hướng phát triển tập trung vào một số nhóm nội dung, bao gồm: Phát triển
NDS cho Internet (báo điện tử, dịch vụ email, dịch vụ tìm kiếm trên
Internet…); phát triển NDS cho mạng điện thoại di động; giáo dục trực
tuyến E-learning; y tế điện tử (các dịch vụ tư vấn sức khoẻ, khám chữa
bệnh qua mạng); thương mại điện tử (thiết kế, quảng cáo, tiếp thị, mua bán
trên mạng...); trò chơi điện tử trực tuyến, tương tác cho máy tính và thiết bị
di động; cơ sở dữ liệu (thư viện số, kho dữ liệu số, ngân hàng dữ liệu…);
NDS phục vụ giải trí như phim số, truyền hình kỹ thuật số, sản phẩm đa
phương tiện số và các dịch vụ/sản phẩm liên quan.
Sau hiện tượng game online “Flappy Bird” của tác giả Nguyễn Hà
Đông, làn sóng phát triển các dự án NDS theo mô hình khởi nghiệp bắt đầu
phát triển mạnh mẽ. Từ năm 2012 đến tháng 10 năm 2014, Việt Nam có
hơn 50 DN khởi nghiệp trong các ngành: Phát triển ứng dụng di động
(mobile application), phát triển trò chơi (game development), thương mại
điện tử (E-commerce) và đặt dịch vụ trực tuyến (online booking). Các DN
này đón nhận làn sóng đầu tư hơn 150 triệu USD từ các quỹ đầu tư đến từ
127
Mỹ, Nhật và Hàn Quốc như: IDG Venture Vietnam, CyberAgent Venture,
DFJ Vina Capital, Mekong Capital... Tốc độ phát triển và sự lớn mạnh của
các DN khởi nghiệp kéo theo nhu cầu lớn về nguồn NL, đặc biệt là nguồn
NL chất lượng cao [30].
Thực tế đó đặt ra yêu cầu Việt Nam cần tiếp tục đào tạo NL chất
lượng cao cho ngành CN NDS, đảm bảo có đủ năng lực phục vụ nhu cầu
ứng dụng và phát triển CN NDS, xây dựng nền kinh tế tri thức và xã hội
thông tin, có khả năng tạo ra những sản phẩm mang tính đột phá, đủ sức
cạnh tranh với thị trường thế giới, đáp ứng yêu cầu của của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước.
4.1.1.2. Mục tiêu phát triển ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam
đến năm 2030 và nhu cầu về nhân lực
Trong Đề án “Sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về Công nghệ
TT&TT”, mục tiêu phát triển ngành CN NDS được Thủ tướng chính phủ
nêu rõ: “Phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam nằm trong top 10 nước dẫn đầu
về cung cấp dịch vụ gia công phần mềm và NDS” [73], để thực hiện được
mục tiêu này, Thủ tướng chỉ rõ:
Đến năm 2030, Việt Nam cần ít nhất 100.000 doanh nghiệp công
nghệ số để phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh, chính
quyền điện tử, ứng dụng thành tựu công nghệ số rộng khắp các lĩnh
vực kinh tế - xã hội và thực hiện chuyển đổi số quốc gia [73].
Từ mục tiêu phát triển ngành công nghiệp NDS của Việt Nam, luận
án đưa ra các mục tiêu cụ thể như sau:
Mục tiêu tổng quát: Đào tạo NL cho ngành CN NDS đảm bảo cả về
số lượng, chất lượng, và cơ cấu để vừa đáp ứng yêu cầu phát triển ngành
công nghiệp NDS, vừa đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đưa Việt Nam trở thành quốc
gia có tiềm lực mạnh trong lĩnh vực CNTT nói chung và NDS nói riêng
trong khu vực và trên thế giới.
128
Mục tiêu cụ thể: Đào tạo NL đáp ứng nhu cầu của ngành CN NDS về
số lượng: theo dự báo cần tới 148.000 người; về cơ cấu lao động: tỷ lệ lao
động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên là 60%, trình độ trung học, sơ
cấp, công nhân kỹ thuật là 40%. Bên cạnh đó cần nâng cao chất lượng nhân
lực cho ngành công nghiệp NDS trên các khía cạnh như: ý thức chấp hành
pháp luật và kỷ luật lao động, đạo đức, lối sống, trình độ ngoại ngữ, kỹ
năng làm việc nhóm … để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế [73].
4.1.2. Phƣơng hƣớng thu hút, sử dụng và phát triển nhân lực để
phát triển ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam đến năm 2030
Để đảm bảo NL cho ngành CN NDS theo kịp sự phát triển của khoa
học công nghệ trên thế giới, luận án đưa ra các phương hướng sau:
Về số lượng: Phát triển NL cho ngành công nghiệp NDS phải đảm
bảo đủ số lượng lao động hoạt động trong ngành, đáp ứng được nhu cầu về
NL trong quá trình phát triển của các DN thuộc lĩnh vực CN NDS. Bên
cạnh đó, không chỉ đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước, phát triển
NL ngành CN NDS trong những năm tiếp theo còn phải hướng đến mục
tiêu lâu dài là tham gia đóng góp NL chất lượng cao cho thị trường quốc tế,
qua đó dần vươn lên tạo dựng và khẳng định vị thế “cường quốc” về khoa
học và công nghệ trong khu vực và thế giới.
Về chất lượng: Phát triển NL cho ngành CN NDS phải đảm bảo chất
lượng và đồng bộ; nghĩa là nguồn NL ngành CN NDS phải có đủ phẩm
chất và năng lực làm chủ công nghệ, kỹ thuật hiện đại; đáp ứng kịp thời
nhu cầu xây dựng, phát triển xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Bên cạnh
việc trau dồi kiến thức chuyên môn vững vàng thì trang bị kỹ năng mềm
và năng lực sử dụng tiếng Anh - ngôn ngữ quốc tế. Ngoài ra, NL ngành CN
NDS cần không ngừng học hỏi những công cụ mới trong nghề thiết kế, mở
rộng tri thức sang các lĩnh vực liên quan như thị hiếu khách hàng, chiến
lược tiếp thị, xu hướng phát triển ngành game, CNTT, rèn luyện kỹ năng
129
mềm để sáng tạo những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu khách hàng và xu thế
thời đại. Nói cách khác, phát triển nguồn NL ngành CN NDS với chất
lượng đạt chuẩn quốc tế là mục tiêu, vừa là phương hướng phát triển lâu
dài nguồn NL ngành CN NDS về chất lượng.
Về cơ cấu, phát triển NL ngành CN NDS cần đảm bảo chuyển dịch
nhanh theo hướng tăng nhanh tỷ lệ nhân lực có trình độ cao, tăng cường
năng lực CNTT quốc gia. Bên cạnh đó, từ thực tế nhu cầu NL của các DN
trong lĩnh vực CN phần mềm và NDS hiện nay cho thấy cần hình
thành nguồn NL với nhiều cấp bậc khác nhau, bao gồm: công nhân lành
nghề, kỹ thuật viên, chuyên viên, kỹ sư trình độ trung cấp, cao đẳng, đại
học và sau đại học nhằm tạo ra mạng lưới dày đặc nhân sự từ trung đến cao
cấp, đáp ứng nhiều vị trí công việc với các cấp độ khác nhau; qua đó đảm
bảo tận dụng triệt để được nguồn NL cho sự phát triển ngành CN NDS.
4.2. GIẢI PHÁP VỀ NHÂN LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG
NGHIỆP NỘI DUNG SỐ VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
Xuất phát từ những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế về NL cho
ngành CN NDS đã được luận án chỉ ra, trong những năm tới, để CN NDS
phát triển ổn định, bền vững góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luận án
đưa ra các nhóm giải pháp cụ thể sau:
4.2.1. Xây dựng chiến lƣợc và quy hoạch về nhân lực để phát
triển ngành công nghiệp nội dung số
Phát triển NL ngành CN NDS là một trong những mục tiêu, đồng
thời là nhiệm vụ cấp bách của đất nước trong tiến trình CN hóa, hiện đại
hóa, hội nhập quốc tế. Trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư
đang phát triển mạnh mẽ và có tác động trực tiếp tới sự phát triển của mọi
quốc gia hiện nay thì việc nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện chiến lược,
quy hoạch phát triển NL ngành CN NDS là yêu cầu cấp bách và cần nhận
130
được sự quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Trong những năm đầu thế
kỷ 21, nắm bắt được xu hướng của cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 55/2007/QĐ-TTg phê duyệt
Danh mục các ngành CN ưu tiên, ngành CN mũi nhọn giai đoạn 2007 - 2010,
tầm nhìn đến năm 2020; Quyết định số 896/QĐ-BTTTT của Thủ tướng Chính
phủ ngày 28 tháng 5 năm 2012. Tuy nhiên việc xây dựng chiến lược phát triển
NL cho ngành CN NDS còn thiếu và chưa được cụ thể hóa bằng những kế
hoạch mang tính dài hạn. Do vậy, việc Chính phủ cần xây dựng Chiến lược
phát triển NL ngành CN NDS giai đoạn 2020 - 2030, tầm nhìn 2050 để đáp
ứng yêu cầu phát triển ngành. Đây là nội dung mang tính cấp bách để thúc
đẩy phát triển ngành NC NDS.
Về mục tiêu, chiến lược phát triển NL ngành CN NDS giai đoạn 2020
- 2030, tầm nhìn 2050 cần có những đánh giá đúng thực trạng NL cho
ngành CN NDS hiện nay, đồng thời đưa ra các dự báo về nhu cầu NL cho
ngành CN NDS trong tương lai để đưa ra các mục tiêu cụ thể về số lượng,
chất lượng, cơ cấu của NL. Trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo mới, đào tạo
lại và bồi dưỡng cho lực lượng lao động hiện đang tham gia hoạt động
trong ngành CN NDS để đảm bảo chuẩn hóa về trình độ nhằm đáp ứng yêu
cầu thực tế của ngành trong những năm tới.
Về chủ thể thực hiện và cách thức tổ chức thực hiện, Chính phủ là cơ
quan giữ vai trò chỉ đạo chung trong việc xây dựng chiến lược, quy hoạch
phát triển NL cho ngành CN NDS; Bộ TT&TT, Bộ KHCN, Bộ GD&DT là
các cơ quan quản lý nhà nước trên các lĩnh vực chuyên ngành trên cơ sở
chức năng nhiệm vụ của mình phối hợp với các cơ quan hữu quan, các
doanh nghiệp hoạt động trong ngành CN NDS các viện nghiên cứu thực
hiện điều tra khảo sát thực tế để có cơ sở khoa học xây dựng chiến lược
phát triển NL. Trên cơ sở các thông tin đã được điều tra khảo sát từ thực
tiễn kết hợp với dự báo xu hướng phát triển của thế giới, Chính phủ và các
131
bộ xây dựng chiến lược phát triển NL cho ngành CN NDS đảm bảo sát với
yêu cầu thực tế về số lượng, chất lượng và cơ cấu cho ngành trong giai
đoạn 2020-2030 và tầm nhìn 2050.
Trên cơ sở chiến lược phát triển NL cho ngành CN NDS đã được phê
duyệt, Chính phủ giao cho Bộ GD&ĐT phân bổ chỉ tiêu cho các cơ sở giáo
dục đào tạo, viện nghiên cứu kết hợp với các DN trong ngành NDS phối hợp
xây dựng khung chương trình đào tạo, số lượng, cơ cấu phù hợp để đảm bảo
NL sau khi đào tạo đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Ngoài các cơ sở đào tạo
trong nước, cần huy động các cơ sở đào tạo có khả năng liên kết đào tạo với
các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu thế giới về lĩnh vực CN NDS để
thực hiện đào tạo các chuyên gia đầu ngành phục vụ cho chiến lược dài hạn
tới năm 2050.
Về nguồn lực thực hiện, thực hiện xã hội hóa đào tạo mới, phối hợp
với các DN kinh doanh trong ngành CN NDS đào tạo lại lực lượng lao
động hiện có theo chuẩn đã được xây dựng. Chính phủ trên cớ sở cân đối
ngân sách hỗ trợ cho các cơ sở đào tạo theo từng nội dung trong điểm
nhằm nâng cao hiệu quả của chiến lược.
4.2.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách tạo động lực để thu hút, sử
dụng và đào tạo nhân lực ngành công nghiệp nội dung số
Cơ chế chính sách giữ vai trò khung pháp lý hỗ trợ cho các cơ sở đào
tạo, DN thực hiện phát triển NL cho ngành CN NDS. Do vậy, nhà nước cần
hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách tạo động lực để thu hút, sử dụng và
phát triển NL ngành CN NDS thông qua các nội dung cụ thể sau:
4.2.2.1. Hoàn thiện chính sách giáo dục và đào tạo
Về mục tiêu, hoàn thiện chính sách giáo dục và đào tạo hiện hành, bổ
sung những chính sách còn thiếu để đưa ngành CN NDS vào giới thiệu
trong các trường trung học phổ thông nhằm giúp học sinh hiểu đúng vị trí,
vai trò của ngành CN NDS trong tương lai. Từ đó góp phần định hướng
132
nghề nghiệp cho học sinh khi lựa chọn ngành nghề sau khi tốt nghiệp bậc
trung học phổ thông.
Về chủ thể và cách thức tổ chức thực hiện, Bộ Giáo dục và Đào tạo là
cơ quan chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng dự thảo các
văn bản pháp quy trình Chính phủ, Quốc hội ban hành. Đối với các chương
trình đào tạo Bộ GD&ĐT cần tham khảo ý kiến các chuyên gia giáo dục để
đảm bảo các văn bản được ban hành không phá vỡ kết cấu đào tạo cấp bậc
phổ thông trung học hiện hành.
Ngoài ra, Chính phủ cần giao cho các Bộ phối hợp với nhau để xây
dựng Khung tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp cho ngành nghề khác nhau
trong xã hội, trong đó có ngành CN NDS. Khung tiêu chuẩn bao gồm
những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, năng lực, thái độ cần thiết đối với
từng nhóm công việc ở hiện tại cũng như định hướng trong tương lai. Dựa
trên Khung tiêu chuẩn này, các trường học sẽ soạn thảo được các giáo trình
đào tạo phù hợp, đồng thời định hướng cho nguồn NL mong muốn tham
gia vào lĩnh vực CN NDS chuẩn bị những điều kiện cần, đủ để chủ động
học hỏi, gia nhập và phát triển được trong ngành. Đó là kinh nghiệm của
hầu hết các nước có ngành CN NDS phát triển như Mỹ, châu Âu, Hàn
Quốc, Nhật Bản mà Việt Nam cần nghiên cứu học hỏi.
Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các trường đại học tăng cường
đổi mới nội dung chương trình đào tạo, mở rộng quy mô và nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn NL CN NDS theo hướng: xây dựng và cập nhật thường
xuyên chương trình đào tạo thuộc các lĩnh vực của ngành, đảm bảo sự liên
thông của các trình độ đào tạo, tăng cường tính ứng dụng của chương trình
nhằm thu hẹp khoảng cách giữa kiến thức đào tạo trong nhà trường và yêu
cầu thực tiễn trong các cơ quan, tổ chức và các DN; đẩy mạnh việc ứng dụng
các chương trình đào tạo, các giáo trình tiên tiến, hiện đại về CN NDS trên
thế giới vào chương trình đào tạo của các trường trong nước.
133
Ngành CN NDS phát triển rất nhanh chóng và thay đổi không ngừng
nhu cầu NL cả về số lượng và chất lượng, đòi hỏi sự thích nghi nhanh nhạy
của NL ngành CN NDS với những kiến thức mới, kỹ năng mới. Do đó,
phương pháp đào tạo cần tập trung vào hình thức đào tạo qua công việc và
đào tạo nâng cao tại nước ngoài, đào tạo bằng tiếng Anh và những ngôn ngữ
phù hợp với nhu cầu quốc tế của các sản phẩm NDS như tiếng Trung, Hàn,
Nhật, tăng cường giảng dạy theo tình huống, buộc sinh viên phải suy nghĩ
tìm ra phương án để giải quyết các tình huống cụ thể.
Chính phủ tăng cường đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển
(R&D) tại các trường đại học hàng đầu trong cả nước đào tạo về CNTT và
NDS; cấp học bổng cho sinh viên Việt Nam có thành tích học tập xuất sắc
đi đào tạo về CNTT và dịch vụ NDS tại nước ngoài; khuyến khích các
trường đại học lớn trong nước đào tạo về chuyên ngành NDS mời các Giáo
sư nổi tiếng trên thế giới hợp tác giảng dạy và làm việc; khuyến khích các
trường đại học tận dụng tối đa các nguồn tài trợ quốc tế để đầu tư xây dựng
các cơ sở, trung tâm nghiên cứu và các phòng thí nghiệm về công nghệ, tổ
chức các trại sáng tác kịch bản, nội dung cho phim hoạt hình, chương trình
cho truyền hình số.
Phối hợp giữa Nhà nước – DN NDS tổ chức rộng khắp các lớp đào
tạo và đào tạo lại NL cho các DN thông qua các khóa đào tạo và huấn
luyện ngắn hạn và trung hạn nhằm nâng cao kỹ năng sản xuất sản phẩm
NDS, bổ sung kiến thức mỹ thuật, hội họa, thiết kế giao diện, văn hóa xã
hội cho NL làm việc trong lĩnh vực CN NDS.
Bộ TT&TT phối hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan và bản
thân các DNNDS tổ chức các khóa học về về phương pháp quản lý hiện đại
nhằm nâng cao năng lực quản lý cho những người mới thành lập DNNDS.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần quy định cơ quan chịu trách nhiệm tư vấn và
hỗ trợ cho các DN thuộc ngành CN NDS hệ thống thông tin trong nước và
134
quốc tế trong bối cảnh chưa có đơn vị nhà nước nào cung cấp cho các
doanh nghiệp thuộc ngành CN NDS một hệ thống thông tin hoàn chỉnh và
thiết thực làm nền tảng cho việc ra các quyết định đầu tư, phát triển hoặc
vươn ra thị trường quốc tế.
Tăng cường đào tạo kiến thức mỹ thuật, hội họa, thiết kế giao diện,
văn hóa xã hội tại các Khoa CNTT của các trường Đại học có đào tạo về
CNTT. Tăng cường và cải tiến công tác kiểm tra, thanh tra đào tạo, tổ chức
các hoạt động kiểm định chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy
tại các cơ sở đào tạo về lĩnh vực NDS.
4.2.2.2. Hoàn thiện chính sách về đầu tư
Về mục tiêu, thông qua việc hoàn thiện chính sách đầu tư để tạo môi
trường pháp lý thuận lợi thu hút các DN trong và ngoài nước tham gia đào
tạo nguồn nhân lực cho ngành CN NDS. Trong đó ưu tiên thu hút nguồn
lực của các doanh nghiệp trong nước để phát triển lâu dài, bền vững. Đồng
thời coi trọng thu hút nguồn đầu tư nước ngoài để nhanh chóng đảm bảo
nguồn tài chính, khoa học, cơ sở vật chất kỹ thuật cho đào tạo nhân lực
trước mắt cho ngành CN NDS.
Về chủ thể và cách thức tổ chức thực hiện, Chính phủ là cơ quan
quản lý nhà nước giữ vai trò chỉ đạo và giám sát, giao cho Bộ Công thương
chủ trì thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư vào ngành CN NDS. Trên
cơ sở phát huy các nguồn lực trong nước từ các DN, các ngân hàng thương
mại của Việt Nam, các quỹ đầu tư tài chính để huy động vốn cho các dự án
đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo NL NDS. Đồng thời, Chính phủ cần chú
trọng huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, cả từ ngân sách nhà
nước, DN và xã hội, vốn ODA, đẩy mạnh thu hút đầu tư của kiều bào ở
nước ngoài vào đầu tư mở mới hoặc phát triển các DN thuộc ngành CN
NDS trong nước.
135
Ngoài ra, Chính phủ chú trọng đầu tư vào các chương trình đào tạo
tại các trường đại học và hệ thống các phòng học thực hành. Đầu tư cấp
nhiều học bổng cho đào tạo tại nước ngoài, kết hợp mời các chuyên gia có
trình độ chuyên môn cao của nước ngoài hợp tác giảng dạy và làm việc cho
chuyên ngành CN NDS. Đầu tư cho các trường đại học làm R&D về công
nghệ, tận dụng tối đa các nguồn tài trợ từ nước ngoài, đầu tư xây dựng các
cơ sở nghiên cứu và phát triển và các phòng thí nghiệm về công nghệ để
các DN có thể dùng chung, lập các trại sáng tác kịch bản, nội dung cho
phim hoạt hình, chương trình cho truyền hình số.
4.2.2.3. Hoàn thiện chính sách ưu đãi về thuế, thu nhập và các
điều kiện khác
Về mục tiêu, xây dựng hệ thống các chính sách ưu tiên cho ngành CN
NDS nói chung và phát triển NL cho ngành CN NDS nói riêng bao gồm:
các ưu đãi về thuế, thu nhập và điều kiện làm việc cho đội ngũ chuyên gia
nhằm thu hút các nhà khoa học đầu ngành trong và ngoài nước trong lĩnh
vực CN NDS tham gia công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học ở các
trường cao đẳng, đại học đào tạo NL về lĩnh vực NDS.
Về chủ thể và cách thức tổ chức thực hiện, Mới đây, vào ngày
26/5/2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ký Nghị quyết 41 của Chính
phủ về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc ứng dụng và phát triển CNTT ở
Việt Nam. Nghị quyết 41 nêu rõ, để nâng cao sức cạnh tranh của DN CNTT,
đẩy mạnh thu hút đầu tư phục vụ cho phát triển CNTT. Theo đó, thu nhập từ
các dự án sản xuất nội dung thông tin số, dịch vụ phần mền... sẽ được áp
dụng mức thuế đang áp dụng đối với dự án sản xuất sản phẩm phần mền
theo quy định của luật thuế thu nhập DN (10% trong 15 năm đối với DN
mới thành lập) [27]. Chính phủ giảm 50% số thuế thu nhập cá nhân phải nộp
đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của các cá nhân NL công nghệ cao
136
làm việc trong lĩnh vực CNTT, là đội ngũ những người có trình độ và kỹ
năng đáp ứng được yêu cầu của hoạt động nghiên cứu, phát triển, ứng dụng
công nghệ cao trong lĩnh vực CNTT; dịch vụ công nghệ cao trong lĩnh vực
CNTT, quản lý hoạt động công nghệ cao trong lĩnh vực CNTT; vận hành các
thiết bị, dây chuyền sản xuất sản phẩm công nghệ cao trong lĩnh vực CNTT;
quản lý an toàn hệ thống thông tin. Nghị quyết 41 quy định các hoạt động
CNTT cần đặc biệt khuyến khích là: sản xuất và dịch vụ phần mềm; dịch vụ
thiết kế, tư vấn CNTT; dịch vụ tích hợp hệ thống; dịch vụ quản lý, duy trì hệ
thống CNTT (ứng dụng, mạng, thiết bị); dịch vụ thuê ngoài hệ thống CNTT;
dịch vụ bảo mật hệ thống thông tin không sử dụng mật mã dân sự; dịch vụ
xử lý, khai thác dữ liệu cơ sở dữ liệu; dịch vụ tìm kiếm thông tin trên mạng;
dịch vụ trung tâm dữ liệu Data center; dịch vụ thuê ngoài BPO, KPO cho
xuất khẩu; dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử. Quy định này của Chính phủ
chính là một động lực thu hút và thúc đẩy thêm nhiều nhân lực chất lượng
cao ngành CNTT nói chung, CN NDS nói riêng. Cũng theo nghị quyết 41
trong tháng 10/2016. Bộ tài chính có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện thuế
thu nhập DN đối với các hoạt động CNT [27]. Nhưng đến thời điểm hiện tại
nghị quyết 41 của Chính phủ vẫn chỉ nằm trên giấy, chưa được triển khai
vào thực tiễn để nâng cao sức cạnh tranh của DN, thu hút NL, thu hút đầu tư
phát triển ngành.Tổng Cục thuế, và các cơ quan hữu quan triển khai thực
hiện có hiệu quả các nội dung của Nghị quyết 41 đồng thời cụ thể hóa các
nội dung trong đó ưu tiên cho phát triển nguồn nhân lực cho ngành CN
NDS. Ngoài ra, Chính phủ cần ban hành các văn bản pháp quy để tạo khung
khổ pháp lý về chế độ ưu đãi đối với nhân lực làm việc trong ngành CN
NDS, trên cơ sở đó các doanh nghiệp tổ chức thực hiện các chính sách ưu
đãi từ đó thu hút NL chất lượng cao cho ngành.
137
4.2.3. Mở rộng và nâng cao chất lƣợng đào tạo nhân lực để phát
triển ngành công nghiệp nội dung số
Việt Nam đang thiếu một nguồn lực chất lượng cao, có trình độ
chuyên môn, sẵn sàng đón nhận và bắt kịp với những biến chuyển không
ngừng của ngành công nghệ số trên thế giới, chưa xây dựng được nguồn
NL có khả năng tạo ra những sản phẩm mang tính đột phá, đủ sức cạnh
tranh với thị trường thế giới trong lĩnh vực NDS. Trong báo cáo của
Measuring the Information Society 2014 (Đo lường xã hội thông tin) của
Liên đoàn Viễn thông quốc tế (ITU), chỉ số kỹ năng CNTT-TT của VN
năm 2011 đứng ở vị trí 108/152 (giữ nguyên so với năm 2008), năm 2012
nâng lên vị trí thứ 99 nhưng đến năm 2013 lại tụt xuống vị trí 101 đứng sau
rất nhiều nước trong khu vực Châu Á như Thái Lan (81), Trung Quốc (86),
Malaysia (71). Do đó, trong những năm tới cần đẩy mạnh việc mở rộng và
nâng cao chất lượng đào tạo NL cho ngành CN NDS, cụ thể như sau:
Về mục tiêu, nhanh chóng mở rộng quy mô đào tạo để đáp ứng nhu
cầu NL cho ngành CN NDS trong những thập kỷ tới, gắn với mở rộng quy
mô là tiêu chuẩn hóa chất lượng đạo tạo thông qua hệ thống chứng chỉ
chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế nhằm mục tiêu xây dựng NL đủ về số
lượng, có chất lượng cao và cơ cấu phù hợp.
Về chủ thể và cách thức tổ chức thực hiện:
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục và đào
tạo, Bộ GD&ĐT là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ngành
nghề, trên cơ sở chiến lược phát triển NL cho ngành CN NDS được chính
phủ ban hành tổ chức thực hiện các nội dung như: chỉ đạo các cơ sở đào tạo
phối hợp với DN xây dựng khung chương trình đào tạo phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế; giao chỉ tiêu đào tạo cho các trường đại học có đội ngũ cán
bộ giảng viên đáp ứng được yêu cầu đào tạo NL cho ngành CN NDS; thực
hiện kiểm tra, giám sát quá trình đào tạo để đảm bảo chất lượng và kịp thời
138
điều chỉnh nội dung đào tạo cho phù hợp với xu hướng phát triển của cách
mạng khoa học và công nghệ trên thế giới.
Nguyên tắc đào tạo NL ngành CN NDS là dựa theo nhu cầu xã hội,
tăng tính ứng dụng và thực hành, giảm thiểu tính hàn lâm trong chương
trình đào tạo thì quá trình đào tạo cần chú trọng những khía cạnh sau: số
lượng, cơ cấu trình độ, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, vị trí làm việc, phù
hợp với công nghệ sản xuất, kinh doanh của DN trên cơ sở các cơ chế,
chính sách và định hướng của Nhà nước.Để nâng cao hiệu quả đào tạo NL
ngành CN NDS, gắn với nhu cầu thực tiễn của xã hội cần phát huy được
vai trò của cả các cơ sở giáo dục đào tạo và DN.
Đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo, các cơ sở đào tạo về CNTT
nói chung và CN NDS nói riêng có thể ký kết, thực hiện các hợp đồng đào
tạo theo “đơn đặt hàng” của các công ty, các nhà tuyển dụng. Muốn vậy,
cần tạo ra sự gắn kết giữa cơ sở giáo dục, đào tạo với các DN. Các cơ sở
giáo dục, đào tạo cần duy trì mối quan hệ mật thiết với các DN trong lĩnh
vực CN NDS để tạo điều kiện cho sinh viên thực tập nghề, tham gia những
hoạt động vừa sức tại các DN. Đặc biệt, các cơ sở giáo dục, đào tạo có thể
mời các chuyên gia tại các DN cùng tham gia xây dựng chương trình đào
tạo, đánh giá kết quả đào tạo và phản biện đồ án, công trình của sinh viên.
Thực tế phát triển của các DN trong lĩnh vực CN NDS hiện nay cho
thấy cần phải có NL có chất lượng với nhiều cấp, bậc khác nhau, từ công
nhân lành nghề, kỹ thuật viên, chuyên viên đến kỹ sư với trình độ trung
cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học. Các cơ sở giáo dục và đào tạo cần
cung cấp các khoá đào tạo phù hợp để cung cấp NL ngành CN NDS, đáp
ứng nhiều vị trí công việc với các cấp độ khác nhau, chương trình đào tạo
cần được thiết kế vừa sức, phù hợp đối tượng người học, coi trọng việc
cung cấp kiến thức cơ bản nền tảng và kỹ năng nghề nghiệp. Ngoài các
trình độ đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học thì cần phát triển
139
các loại hình đào tạo kỹ thuật viên, chuyên viên CNTT. Các chương trình
đào tạo cần định hướng nghề nghiệp và có tính liên thông. Công tác đào tạo
cũng cần được tổ chức linh hoạt, nhịp nhàng, có thể theo cách hợp đồng
đào tạo trọn gói, đào tạo theo ê kíp làm việc trong dây chuyền công nghệ,
đào tạo xen kẽ kết hợp đào tạo ở trường và ở DN hoặc tổ chức thành các
lớp gửi vào cơ sở đào tạo, đào tạo bán thời gian (đào tạo theo địa chỉ).
Thêm vào đó, đặc thù của ngành CN NDS đòi hỏi khả năng sáng tạo không
giới hạn của NL, do đó, khuyến khích giới trẻ sáng tạo, đặc biệt là các bạn
trẻ hoạt động trong lĩnh vực CN NDS là việc nên làm nhằm đưa đến sự ra
đời của nhiều hơn nữa những “triệu phú công nghệ” như Nguyễn Hà Đông
- tác giả ứng dụng game Flappy Bird nổi tiếng toàn cầu trong thời gian qua.
Về cơ bản, các cơ sở giáo dục - đào tạo trong quá trình đào tạo NL ngành
CN NDS cần hướng đến xây dựng cho NL hội đủ các phẩm chất như: Tính
sáng tạo, Tính hợp tác, khả năng làm việc theo dự án; Tính hợp nhất - sự
am hiểu trong các lĩnh vực...
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành CN NDS, các DN
cần làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo để hợp tác với các cơ sở đào tạo
trong sử dụng chương trình và giáo trình chuyên môn mà các tập đoàn lớn
cung cấp để đưa vào giảng dạy cho sinh viên theo yêu cầu của DN; tăng
cường trao đổi thông tin về cung - cầu lao động thông qua thúc đẩy có hiệu
quả hoạt động giao dịch việc làm tại các sàn giao dịch việc làm; phản ánh
thường xuyên về chất lượng NL được cung ứng qua các hợp đồng đào tạo
kí kết với cơ sở đào tạo.
Doanh nghiệp phối hợp với các cơ sở đào tạo trong nước tổ chức các
khóa đào tạo ngắn hạn nâng cao, chuyên sâu về các kỹ năng, công nghệ cho
NL ngành CN NDS trong DN mình; tăng cường hợp tác với các DN đối tác
chiến lược để đưa lao động ra nước ngoài học tập và làm việc. DN chú
trọng sử dụng linh hoạt rất nhiều hình thức đào tạo chi phí ít như đào tạo
140
nội bộ với nguồn giảng viên là những nhà quản lý có kinh nghiệm và
những nhân lực làm việc hiệu quả. Đào tạo trực tuyến cũng có thể giúp DN
tiết kiệm thời gian, chi phí đào tạo mà vẫn đảm bảo hiệu quả công việc của
nhân viên. Ngành CN NDS có đặc điểm là gần như toàn bộ nguồn NL làm
việc thông qua hệ thống máy tính và nối mạng, vì vậy đây là một lợi thế
cho đào tạo trực tuyến.
Bên cạnh đó, các DN cần chi trả kinh phí học bổng, đào tạo nâng
cao, đào tạo lại NL cho các cơ sở đào tạo trên nguyên tắc nhà trường và
DN cùng quan tâm đến lợi ích của nhau và lợi ích của người học. Điều này
vừa thể hiện trách nhiệm, vừa thể hiện tính nhân văn của các DN và cần
phải được “luật hoá” thành những quy định cụ thể.
Ngoài ra, vấn đề tăng cường các đề tài nghiên cứu khoa học nhằm
giải quyết những vấn đề thực tế của ngành CN NDS cũng là một giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên, thu hút sinh viên giỏi
tham gia nghiên cứu khoa học. Các DN NDS chính là nơi đặt ra các bài
toán, các đề tài cho các nhà khoa học ở các cơ sở giáo dục; quá trình đào
tạo được tiến hành thông qua thực hiện các dự án, các đề tài nghiên cứu.
Giải pháp này đã được thực hiện tốt tại các nước châu Á như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan.
Tóm lại, việc mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo NL phục vụ sự
phát triển ngành CN NDS cần được thực hiện thông qua các nội dung sau:
Một là, Đảng và Nhà nước xây dựng và ban hành quy hoạch, kế
hoạch đào tạo nguồn NL ngành CN NDS; đưa vào chương trình đào tạo
chính quy của các trường đại học, cao đẳng các khóa học, môn học chuyên
ngành về CN NDS.
Hai là, các cơ sở đào tạo có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
tham gia giảng dạy các môn, ngành liên quan trực tiếp đến ngành CN NDS
141
thông qua các chương trình liên kết, trao đổi, giao lưu đào tạo với các tổ
chức nghiên cứu, đào tạo hàng đầu tại các nước tiên tiến trong khu vực và
trên thế giới.
Ba là, Nhà nước khuyến khích mô hình đào tạo liên kết giữa DN với
trường đại học và các viện nghiên cứu trong và ngoài nước để phát triển NL
cho ngành CN NDS. Các cơ sở giáo dục, đào tạo cần duy trì mối quan hệ mật
thiết với các DN trong lĩnh vực CN NDS để làm nơi cho sinh viên thực tập
nghề, tham gia những hoạt động vừa sức tại các DN. Đặc biệt, các cơ sở giáo
dục, đào tạo có thể mời các chuyên gia tại các DN cùng tham gia xây dựng
chương trình đào tạo, đánh giá kết quả đào tạo và phản biện các đồ án, công
trình của sinh viên. Trên thực tế, mô hình này đã được áp dụng thành công ở
nhiều nước phát triển trong cộng đồng EU như Đức, Hà Lan…
Bốn là, trong bối cảnh NL về ngành CN NDS còn rất khan hiếm như
hiện nay, Chính phủ khuyến khích các DN NDS đầu tư cho quá trình đào
tạo, tự chuẩn bị nguồn NL phục vụ cho sự phát triển của mình. Việc DN
CN NDS đầu tư cho giáo dục đào tạo không chỉ giúp chuẩn bị NL cho
chính mình mà còn sẵn sàng cung cấp NL chất lượng cao cho cả xã hội.
Mỗi DN CN NDS cần phải đặc biệt quan tâm tới vấn đề phát triển NL, coi
đó là mục tiêu hàng đầu của DN, là điều kiện quyết định để các DN có thể
đứng vững và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Năm là, Nhà nước cũng cần ưu tiên dành thêm các suất học bổng đào
tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài trong các chương trình học bổng
hỗ trợ phát triển, học bổng từ ngân sách nhà nước cho các ứng viên theo
học về chuyên ngành truyền thông đa phương tiện, nội dung thông tin số.
Sáu là, cần có sự phối hợp giữa các Bộ ban ngành có liên quan để tạo
ra cơ chế phối hợp tổng hợp cho quá trình hình thành và phát triển NL
ngành CN NDS.
142
4.2.4. Nâng cao nhận thức xã hội về tầm quan trọng của nhân lực
trong phát triển ngành công nghiệp nội dung số
Công nghiệp NDS tuy xuất hiện phổ biến trong mọi hoạt động kinh
tế - xã hội hiện đại ngày nay nhưng số đông dân cư chưa thực sự hiểu bản
chất, ý nghĩa và các hoạt động thuộc phạm vi của lĩnh vực này.
Ở khía cạnh xã hội, dịch vụ NDS cũng như mọi sản phẩm, dịch vụ khác
đều có mặt tích cực và tiêu cực. Một số dịch vụ NDS nhạy cảm như mạng xã
hội, trò chơi trực tuyến… thường nhận được cái nhìn thiếu thiện cảm, thậm
chí là các phản ứng chỉ trích, lên án, tẩy chay từ một bộ phận dân cư do các
tác động tiêu cực mà nó có thể gây ra như lan truyền và gia tăng bạo lực, có
khả năng gây nghiện và tạo ra sự mất tập trung trong giới trẻ... Tuy thế, các
dịch vụ NDS cũng mang lại rất nhiều tác dụng tích cực như tăng cường tính
giải trí, phát triển và gắn kết cộng đồng, tăng cường trí tưởng tượng, khả năng
sáng tạo, khả năng tính toán, thúc đẩy sự phát triển của não bộ cũng như tăng
cường khả năng tiếp cận nguồn tri thức vô biên của nhân loại một cách nhanh
nhất, là công cụ làm quen với máy tính và phổ cập tin học.
Ở khía cạnh kinh tế, CN NDS là ngành không hạn chế khả năng sáng
tạo, có thể mang lại cơ hội việc làm rất lớn và thu nhập cao cho người lao
động, thúc đẩy các hoạt động giao dịch của nền kinh tế, đem lại giá trị gia
tăng lớn cho nền kinh tế. Chỉ riêng năm 2016, doanh thu CN phần mềm và
NDS của Việt Nam đạt gần 3000 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu phần mềm đạt
58 triệu USD, tăng 20% so với năm 2015 [16]. Để nâng cao nhận thức về
tầm quan trọng của nhân lực cho phát triển ngành CN NDS cần thực hiện
tốt các nội dung sau:
Về mục tiêu, tuyên truyền cho đội ngũ cán bộ quản lý các lĩnh vực có
liên quan trực tiếp tới ngành CN NDS; đội ngũ doanh nhân quản lý các
doanh nghiệp; cộng đồng dân cư, đặc biệt là bộ phận học sinh, sinh viên
143
đang trong quá trình tham gia đào tạo nghề hiểu đúng vị trí, vai trò, tiềm
năng phát triển của ngành CN NDS trong tương lai để từ đó định hướng
cho xây dựng nhân lực cho ngành CN NDS.
Về chủ thể và cách thức tổ chức thực hiện:
Chính phủ cần thông qua các tổ chức độc lập tiến hành các cuộc
khảo sát và đánh giá bài bản nhằm hình thành trong dư luận xã hội cái nhìn
chính xác, công bằng hơn về lĩnh vực CN NDS, qua đó định hướng dư luận
và góp phần hình thành chiến lược phát triển ngành một cách có hiệu quả,
giảm thiểu các tác động tiêu cực có thể gây ra. Thông qua các biện pháp và
hình thức tuyên truyền, giáo dục khác nhau, Đảng và Nhà nước cần làm cho
toàn xã hội nhận thức được rằng: CN NDS là một ngành kinh tế mới, có hàm
lượng tri thức cao; do đó có nhiều tiềm năng phát triển trong cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngành CN NDS đem lại giá trị gia tăng cao
cho nền kinh tế, ít hao tốn tài nguyên, góp phần thúc đẩy sự hình thành và
phát triển xã hội thông tin và kinh tế tri thức, đóng góp quan trọng vào sự
nghiệp CN hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân
dân cần đặc biệt khuyến khích, ưu đãi đầu tư và hỗ trợ phát triển ngành CN
này thành một ngành kinh tế trọng điểm, nhất là trong công tác chuẩn bị đội
ngũ NL chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển ngành.
Bên cạnh đó, mặc dù hiện nay, Internet không còn quá xa lạ với
người dân, đặc biệt là giới trẻ nhưng các Bộ ban ngành cần phối hợp để
định hướng văn hóa sử dụng Internet cho các tầng lớp nhân dân, tuyên
truyền nhận thức của người dân về lợi ích của Internet và các sản phẩm,
dịch vụ NDS; đẩy mạnh các chương trình đào tạo, hỗ trợ người dân, học
sinh, sinh viên khai thác, sử dụng dịch vụ Internet và các dịch vụ NDS một
cách hiệu quả và hợp lý.
Chính phủ cần xây dựng chiến lược, kế hoạch đẩy mạnh ứng dụng
Internet và các dịch vụ NDS ở các lĩnh vực khác nhau như giáo dục, giao
144
thông, y tế khám chữa bệnh, thư viện trực tuyến, ngân hàng... để thông qua
đó, người dân thấy được những tiện ích mà loại hình dịch vụ này có thể
mang lại cho đời sống xã hội, từ đó dần thay đổi nhận thức đối với các loại
hình dịch vụ của ngành CN NDS. Cụ thể, khuyến khích, hỗ trợ các trường
học khai thác tài nguyên Internet vào việc dạy và học, đồng thời tăng cường
áp dụng các thí nghiệm ảo về vật lý - hóa học - sinh học, giáo án điện tử, các
học liệu điện tử vào trong các môn học, chương trình đào tạo; đầu tư cho
Thư viện quốc gia và một số thư viện lớn ở các thành phố trực thuộc Trung
ương và các trường đại học xây dựng giải pháp thư viện số trực tuyến, số
hóa sách, tài liệu để hình thành hệ thống thư viện số Việt Nam; tăng cường
phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng điện tử (E-banking), bao gồm
thanh toán điện tử, chuyển tiền qua mạng; mở hoặc đóng tài khoản, kiểm tra
thông tin tài khoản qua mạng; tư vấn trực tuyến về các dịch vụ ngân hàng;
đẩy mạnh phát triển dịch vụ tư vấn sức khỏe, khám chữa bệnh qua mạng,
trước hết là tại các bệnh viện công ở các thành phố lớn.
Các trường đại học đào tạo chuyên ngành CNTT nói chung, CN NDS
nói riêng cần tăng cường các hình thức giới thiệu, tuyên truyền về chương
trình đào tạo, cơ hội việc làm trong lĩnh vực CN NDS tới học sinh, sinh
viên trong cả nước, tạo cơ hội trải nghiệm tại các trung tâm nghiên cứu
NDS để từ đó lôi cuốn thế hệ trẻ tham gia vào ngành CN NDS, góp phần
chuẩn bị NL cho sự phát triển ngành trong tương lai.
Trên thực tế, lợi ích mang lại của ngành CN NDS là vô cùng to lớn,
do đó cần phải được nhìn nhận lại một cách khách quan, xứng đáng. Hiện
nay, các dịch vụ NDS chưa thực sự được dư luận xã hội đón nhận và quan
tâm đúng mức. Chính cái nhìn thiếu khách quan, tâm lý e ngại và sự thiếu
hiểu biết về ngành của không ít dân cư đã ít nhiều ảnh hưởng đến quá trình
chuẩn bị NL cho ngành CN NDS, dẫn đến tình trạng NL ngành CN NDS ở
Việt Nam vừa “thiếu”, lại vừa yếu, “mỏng” về số lượng và “yếu” về chất
145
lượng. Trong bối cảnh như vậy, điều quan trọng trước tiên là phải làm cho
các cấp quản lý và người dân, nhất là học sinh, sinh viên hiểu được thực
chất ngành CN NDS bao gồm những công việc gì, cơ hội nghề nghiệp và
giá trị kinh tế tiềm năng mà ngành có thể mang lại cho nền kinh tế và cho
chính đời sống dân cư ra sao. Từ đó, ngành CN NDS dần được dư luận xã
hội hiểu và đón nhận rộng khắp, ngày càng nhiều người sẵn sàng tham gia
bổ sung NL cho sự phát triển ngành.
4.2.5. Hoàn thiện công tác quản trị nhân sự trong các doanh
nghiệp nội dung số
Về mục tiêu, xây dựng đội ngũ cán bộ quản trị nhân sự trong các DN
kinh doanh trong ngành CN NDS để từ đó tạo tiền đề hoàn thiện công tác
quản trị nhân sự theo hướng tạo môi trường mở nhằm phát huy tính năng
động, sáng tạo của nhân lực làm việc trong ngành CN NDS.
Về chủ thể và cách thức tổ chức thực hiện, doanh nghiệp hoạt động
trong ngành CN NDS mà đứng đầu là chủ tịch hội đồng quản trị của các
DN hoặc giám đốc điều hành là các chủ thể trực tiếp thực hiện việc hoàn
thiện công tác quản trị nhân sự. Trên cơ sở nhu cầu thực tế của DN về nhân
sự, các DN cần chủ động thực hiện chiến lược đào tạo và phát triển NL
thông qua liên kết đào tạo với các trường đại học, viện nghiên cứu có uy tín
về lĩnh vực công nghệ số trong và ngoài nước để xây dựng NL cho DN của
mình. Việc thực hiện liên kết đào tạo sẽ góp phần đảm bảo về cơ cấu lao
động phù hợp. Chất lượng lao động được giám sát chặt chẽ bởi chính DN
và tránh được lãng phí trong đào tạo nhân lực cho ngành CN NDS.
Việc quản trị nhân sự trong ngành CN NDS cần dựa trên các mô hình
quản lý tiến bộ của thế giới để phát huy tối đa tính sáng tạo của lực lượng
lao động. Ngoài ra, nâng cao chất lượng quản trị NL còn cho phép sử dụng
đúng người, đúng việc để từ đó phát huy tố chất của từng cá nhân trong
công việc nhằm nâng cao hiệu quả.
146
4.2.6. Mở rộng hợp tác quốc tế trong sử dụng và đào tạo nhân lực
ngành công nghiệp nội dung số
Hợp tác quốc tế với các cường quốc công nghệ, các tổ chức nghiên
cứu, cơ sở đào tạo hàng đầu trên thế giới về khoa học và công nghệ nói
chung, CN NDS nói riêng sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng bắt kịp với sự
phát triển không ngừng nghỉ của lĩnh vực này, thu hẹp khoảng cách với các
quốc gia trên thế giới, cải thiện nhanh chóng năng lực và trình độ NL
ngành CN NDS. Mục tiêu của quá trình hợp tác quốc tế là tranh thủ thu hút
nguồn lực ngoài nước để đào tạo NL CN NDS ở Việt Nam, đặc biệt là NL
chất lượng cao. Muốn vậy Chính phủ cần:
Tích cực mở rộng, đa dạng hóa quan hệ song phương và đa phương
để tạo cơ sở pháp lý nhằm thúc đẩy và mở rộng hợp tác quốc tế trong phát
triển NL CN NDS; chủ động đưa nội dung hợp tác quốc tế về đào tạo phát
triển NL CN NDS trong các hiệp định quốc tế song phương và đa phương
để thu hút nguồn lực hỗ trợ chuyên môn, nghiệp vụ và khoa học - công
nghệ cho phát triển NL, đồng thời nắm bắt cơ hội đưa lao động Việt Nam
trong lĩnh vực CN NDS ra nước ngoài học tập và làm việc.
Xây dựng và thường xuyên cập nhật hệ thống pháp luật về phát triển
NL Việt Nam nói chung, NL ngành CN NDS nói riêng cho phù hợp với
trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lệ và luật pháp
quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam tham gia, ký kết, cam kết thực hiện.
Xây dựng chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư thành lập cơ sở đào tạo NLCNTT - truyền thông nói chung,
CN NDS nói riêng phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Thu hút
và tạo điều kiện thuận lợi để các trường đại học quốc tế mở cơ sở đào tạo
lĩnh vực CNTT và CN NDS ở Việt Nam với ưu đãi tương đương DN sản
xuất phần mềm.
Quá trình hợp tác quốc tế trong đào tạo NL CN NDS được thực hiện
theo hướng hội nhập hệ thống chương trình đào tạo của Việt Nam với
147
chương trình đào tạo hiện đại của thế giới. Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên
cứu thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới; xây
dựng nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo theo định hướng phù
hợp chuẩn quốc tế và đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên thông
chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo của Việt
Nam và quốc tế; thực hiện công nhận lẫn nhau chương trình đào tạo giữa
các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của thế giới; thỏa thuận về
việc công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với các nước;
tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo về lĩnh vực CN NDS.
Mở rộng các hình thức liên kết đào tạo quốc tế tại Việt Nam, để vừa
giảm chi phí, vừa đạt được hiệu quả trong điều kiện thực tế; đồng thời, tổ
chức các lớp chuyên đề, mời các chuyên gia nước ngoài tới giảng bài cũng
như giới thiệu các công nghệ mới cho các nhà khoa học Việt Nam; tạo mối
quan hệ hợp tác hữu hiệu với các trường đại học, viện nghiên cứu của các
nước có nền khoa học mạnh để từ đó có thể phát triển khoa học, đẩy mạnh
hội nhập quốc tế theo từng hướng trọng điểm mà đất nước đang cần.
Thực hiện các chính sách thu hút chất xám thông qua kêu gọi các nhà
khoa học Việt Nam ở nước ngoài về xây dựng đất nước hoặc có những
đóng góp về khoa học cho đất nước. Họ sẽ là đầu mối liên hệ giữa các nhà
khoa học trong nước với các nhà khoa học quốc tế, giúp chúng ta có thể
nắm bắt được các trào lưu khoa học mới, bắt kịp trình độ quốc tế. Đây là
NL đáng kể, cần có chính sách thoả đáng để thu hút nhằm phục vụ đắc lực
cho công cuộc hội nhập trong lĩnh vực khoa học và công nghệ nói chung và
NDS nói riêng.
Cuối cùng, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà
giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt
Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình đào tạo NL đại học và nghiên
cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam.
148
KẾT LUẬN
Hiện nay, CN NDS là một trong những ngành kinh tế có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất; trong giai đoạn hơn 10 năm (2008-2018), tốc độ tăng
trưởng trung bình của ngành đạt 20 - 25%/năm [16]. Tiềm năng phát triển
của ngành CN NDS ở Việt Nam rất lớn với 30 triệu người dùng Internet và
khoảng 50 triệu người dùng thiết bị di động. Để xây dựng một ngành CN
NDS phát triển đủ mạnh ở Việt Nam thì rất cần sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng
(đặc biệt là nền tảng Internet và di động) và nguồn NL, trong đó yếu tố
nguồn NL đóng vai trò quyết định, nhất là NL chất lượng cao. Tuy nhiên,
thực trạng nguồn NL ngành CN NDS ở Việt Nam hiện nay vừa “thiếu” về
số lượng, lại “yếu” về chất lượng. Vì vậy, trên cơ sở tổng quan các công
trình nghiên cứu về NL để phát triển ngành CN NDS trong và ngoài nước
đã được công bố, dưới góc độ nghiên cứu chuyên ngành kinh tế chính trị
luận án đã làm rõ được khái niệm, yêu cầu, tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh
hưởng đến NL để phát triển ngành CN NDS nói chung, ở Việt Nam nói
riêng. Ngoài ra, từ nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về NL để phát triển
ngành CN NDS của một số quốc gia như Ấn Độ, Hàn Quốc, Trung Quốc,
luận án đã rút ra được 7 bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào bảo đảm
NL để phát triển ngành CN NDS của Việt Nam: (1) thúc đẩy sự hợp tác
giữa chính phủ và các tổ chức giáo dục nhằm tăng cường năng lực cho các
cơ sở đào tạo và thu nhỏ khoảng cách về cung cầu NL cho ngành CN NDS;
(2) cung cấp dịch vụ đào tạo và tư vấn; (3) cung cấp các dịch vụ tư vấn,
hướng dẫn cả về kỹ thuật và kinh doanh; (4) tài trợ chi phí nghiên cứu và
phát triển cho các DN thuộc ngành CN NDS; (5) nâng cao năng lực tiếp
cận thị trường cho các DN thuộc ngành CN NDS; (6) nâng cao nhận thức
xã hội về học tập suốt đời; (7) phát triển các Bộ tiêu chuẩn năng lực.
Luận án đã phân tích thực trạng NL để phát triển ngành CN NDS của
Việt Nam từ năm 2008 đến nay, chỉ rõ những thành công, hạn chế và
149
nguyên nhân của thành công, hạn chế về NL để phát triển ngành CN NDS
của Việt Nam. Nhìn chung, từ năm 2008 đến nay, ngành CN NDS Việt
Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, kết quả đó có sự đóng góp
quan trọng của sự cải thiện đáng kể trong thu hút, sử dụng và đào tạo NL
để phát triển ngành. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, toàn diện theo
hướng phát triển bền vững thì NL để phát triển ngành CN NDS Việt Nam
vẫn còn nhiều hạn chế như: thu hút NL chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển của ngành; sử dụng NL cho ngành CN NDS chưa thực sự hiệu quả và
chưa tạo động lực, hấp dẫn NL có chất lượng cho ngành; nội dung đào tạo
NL NDS chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Để khắc phục được những hạn chế nêu trên và đạt được mục tiêu
chung về bảo đảm NL để phát triển ngành CN NDS cho Việt Nam đến năm
2030, trên cơ sở dự báo bối cảnh mới của ngành CN NDS Việt nam và
phương hướng về NL để thúc đẩy phát triển ngành kinh tế này luận án đã
đề xuất giải pháp chủ yếu là: (i) Nâng cao nhận thức của các cấp quản lý và
người dân về vị trí, vai trò của ngành CN NDS trong nền kinh tế và tầm
quan trọng của NL để phát triển ngành kinh tế này; (ii) Xây dựng chiến
lược và quy hoạch về NL để phát triển ngành CN NDS; (iii) Mở rộng và
nâng cao chất lượng đào tạo NL để phát triển ngành CN NDS; (iv) Hoàn
thiện cơ chế chính sách tạo động lực để thu hút, sử dụng và đào tạo NL
ngành CN NDS; (v) Mở rộng hợp tác quốc tế trong sử dụng và đào tạo NL
ngành CN NDS; (vi) Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước đối với việc bảo
đảm NL để phát triển ngành CN NDS.
Như vậy, nếu thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên về NL để phát
triển ngành CN NDS thì Việt Nam sẽ có được đội ngũ NL có thể lực tốt, có
trình độ chuyên môn cao, kiến thức, kỹ năng tốt, thái độ tích cực. Đó chính là
yếu tố đảm bảo yêu cầu về NL để phát triển ngành CN NDS không đơn thuần
là giỏi CNTT mà còn cần sự am hiểu tâm lý xã hội, sự sáng tạo đột phá./.
150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Cúc (2016), "Chất lượng quản trị nguồn nhân lực trong doanh
nghiệp nhỏ và vừa hiện nay", Tạp chí Tài chính, kỳ 2 tháng 6 (635),
tr.109-110.
2. Nguyễn Thị Cúc (2018), "Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với phát triển
nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương, (509+510), tr.19-21.
3. Nguyễn Thị Cúc (2018), "Đào tạo nhân lực cho ngành Công nghiệp Nội dung
số ở Việt Nam hiện nay" Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương,
(511), tr.17-20.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Duy An (2010), Miếng bánh nội dung số 20.000 tỷ đồng, tại trang
http://vietbao.vn/Cong-nghe/Mieng-banh-noi-dungso20000-ty-dong/,
[truy cập ngày 16/8/2019].
2. Chu Ngọc Anh (2017), Phát triển nhân lực khoa học và công nghệ đáp ứng
yêu cầu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn/, [truy cập
ngày 20/9/2018].
3. Nguyễn Vân Thùy Anh (2014), Đào tạo và phát triển công nhân kỹ thuật trong
các DN Dệt May Hà Nội, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
4. Nguyễn Đình Bắc (2018), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
nước ta trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn/, [truy cập ngày
22/5/2018].
5. Bộ Chính trị (2000), Chỉ thị số 58-CT/TW, ngày 17/10/2000 của về đẩy
mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01 tháng 7 năm 2014
về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, Hà Nội.
7. Bộ Công nghệ thông tin và truyền thông (2013), Hiện trạng và định hướng
chính sách công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam 2013, Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và Truyền thông (2008), Hội thảo
quốc gia Đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin và truyền
thông theo yêu cầu xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông, Thành phố
Đà Nẵng.
152
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ (2009), Hội thảo
quốc gia Đào tạo nhân lực công nghệ cao theo nhu cầu xã hội, Bình
Dương.
10. Bộ Thông tin và Truyền thông (2008), Quyết định số 30/2008/QĐ-BTTTT
ngày 06 tháng 5 năm 2008 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Viện Công nghiệp phần mềm và nội dung số
Việt Nam, Hà Nội.
11. Bộ Thông tin và Truyền Thông (2008), Sơ đồ cơ cấu tổ chức Bộ Thông
tin và Truyền thông, Hà Nội.
12. Bộ Thông tin và Truyền Thông (2009), Nhân lực công nghệ thông tin
trong phát triển, sản xuất sản phẩm công nghệ thông tin thương
hiệu Việt, tại trang http://ictnews.vn/cntt/nhan-luc-cntt-trong-phat-
trien-san-xuat-san-pham-cntt-thuong-hieu-viet-162268.ict, [truy cập
ngày 26/8/2019].
13. Bộ Thông tin và Truyền thông (2012), Quyết định số 896/QĐ-BTTT,
ngày 28/05/2012, Phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực ngành
Thông tin và Truyền thông giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội.
14. Bộ Thông tin và Truyền thông (2013), Hiện trạng và định hướng chính
sách công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam 2013, Nxb Thông tin
và Truyền thông, Hà Nội.
15. Bộ Thông tin và Truyền thông (2017), Quyết định số 1756/QĐ-BTTTT
ngày 13 /10/2017 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của trung tâm internet Việt Nam, Hà Nội.
16. Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam (2017), Sách trắng Công nghệ
thông tin và Truyền thông Việt Nam các năm 2008, 2009, 2010, 2011,
2012, 2013, 2014, 2017, 2018, 2019, Nxb Thông tin và Truyền thông,
Hà Nội.
153
17. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013), Hàn quốc và Cơ quan nội dung
số Hàn quốc (KCCA), Sách trắng từ năm 1990 đến năm 2013,
Hà Nội.
18. Bộ Y tế (2013), Quyết định số 1613/BYT-QĐ về việc ban hành “Tiêu
chuẩn phân loại sức khoẻ để khám tuyển, khám định kỳ” cho nhân
lực, Hà Nội.
19. Nguyễn Trọng Cảnh (2009), Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyên
môn kỹ thuật trong lĩnh vực dò tìm xử lý bom mìn vật nồ sau chiến
tranh ở Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
20. Trần Xuân Cầu (2014), Giáo Trình Kinh Tế Nguồn Nhân Lực, Nxb Đại
học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
21. Mai Quốc Chánh, Trần Xuân Cầu (2003), Giáo trình Kinh tế lao động,
Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
22. Phan Thủy Chi (2008), Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các
trường đại học khối kinh tế của Việt Nam thông qua các chương trình
hợp tác đào tạo quốc tế, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân, Hà Nội.
23. Chính phủ (2006), Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm
2006 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật
đầu tư, Hà Nội.
24. Chính phủ (2007), Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 03/05/2007 Quy
định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của luật công nghệ
thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin, Hà Nội.
25. Chính phủ (2007), Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 Quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ
quan ngang bộ, Hà Nội.
26. Chính phủ (2007), Nghị định số 187/2007/NĐ-CP ngày 25/12/2007 Quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thông
tin và Truyền thông, Hà Nội.
154
27. Chính phủ (2016), Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 26/5/2016 về chính
sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ
thông tin tại Việt Nam, Hà Nội.
28. Cổng thông tin điện tử (2019), VietnamWorks ra mắt Báo cáo thị trường
nhân lực ngành công nghệ thông tin 2019, tại trang
http://hrinsider.vietnamworks.com/, 20/05/2019, [truy cập ngày
28/10/2019].
29. Dân trí (2014), Tham khảo thông tin ngành lập trình ứng dụng di động, tại
trang http://academy.vtc.vn/khoa-hoc/chuyen-nganh-lap-trinh/8/lap-
trinh-phat-trien-ung-dung-di-dong.aspx, [truy cập ngày 13/5/2019].
30. Dân trí (2014), Khởi nghiệp từ nội dung số, tại trang https://dantri.com.
vn/dao-tao/khoi-nghiep-tu-noi-dung-so-1416184826.htm, [truy cập
ngày 10/12/2019].
31. Bùi Thị Thanh Diệu (2015), “Cơ hội và thách thức để phát triển ngành
công nghiệp nội dung số ở Việt Nam”, Tạp chí Thư viện Việt Nam,
(1), tr.17-22.
32. Trần Kim Dung (2011), Quản Trị Nguồn Nhân Lực, Nxb Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.
33. Đinh Thị Hồng Duyên (2011), "Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong
các DN nội dung so cho mạng dì động", Tạp chí Công nghệ thông tin
và Truyền thông, (404), tr. 12-15.
34. Đinh Thị Hồng Duyên (2014), "Đào tạo nguồn nhân lực Công nghiệp nội
dung số: Từ kinh nghiệm quốc tế đến thực trạng Việt Nam", Tạp chí
Công nghệ thông tin và Truyền thông, (473), tr. 22-24.
35. Đinh Thị Hồng Duyên (2014), "Vai trò của công tác đào tạo nguồn nhân
lực trong các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nội dung số tại
Việt Nam", Tạp chí Giáo dục và Xã hội, (40), tr.17-20.
155
36. Đinh Thị Hồng Duyên (2014), "Quá trình hình thành và phát triển ngành
công nghiệp nội dung số ở Việt Nam", Tạp chí Công nghệ thông tin
và Truyền thông, (475), tr. 9-12.
37. Đinh Thị Hồng Duyên (2014), "Thu hút người tài để phát triển tại các DN
nội dung sổ nổi tiếng thế giới", Tạp chí Giáo dục và Xã hội, (42), tr. 6-8.
38. Đinh Thị Hồng Duyên (2015), Human Resources Training Effectiveness of
Enterprises in the Digital content industry in Vietnam, Hiệu quả đào tạo
nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nội
dung số ở Việt nam, Atlas-AFMI 2015 Conference in Hanoi, (5), tr.13-16.
39. Đinh Thị Hồng Duyên (2015), "Tác động của nhân tố cá nhân tớỉ hiệu
quả đào tạo nguồn nhân lực trong doanh nghỉêp", Tạp chí Giáo dục và
Xã hội, (52), tr. 6-9.
40. Đinh Thị Hồng Duyên (2015), Đào tạo nguồn nhân lực trong các doanh
nghiệp thuộc ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam, Luận án tiến
sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
41. Đinh Thị Hồng Duyên (2015), "Đào tạo nguồn nhân lực trong các doanh
nghiệp thuộc ngành công nghiệp nội dung số trong giai đoạn khó
khăn", Tạp chí Lao động và xã hội, (501), tr. 9-11.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hổi đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ VII, Hà Nội.
43. Trần Thọ Đạt, Đỗ Tuyết Nhung (2008), Tác động của vốn con người đối
với tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố Việt Nam, Nxb Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
44. Phạm Văn Đức (2013), Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, tại trang
http://www.luanvan.co/...trong-qua-trinh-cong-nghiep-hoa-va-hien-
dai-hoa-o-viet-nam-hie... [Truy cập ngày 02/6/2020].
45. Nguyễn Công Hào (2013), Đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin
phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của khu vực miền Trung-Tây
156
Nguyên, Hội thảo Hợp tác Phát triển công nghệ thông tin và truyền
thông Việt Nam lần thứ 17, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
46. Nguyễn Phan Thu Hằng (2017), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đến năm 2025, Luận án tiến sĩ
Kinh tế, Đại học Kinh tế - Luật, Thành phố Hồ Chí Minh.
47. Bùi Biên Hòa (2002), Những thách thức của sự phát triển trong xã hội
thông tin, Thông tin khoa học xã hội - chuyên đề, Viện Thông tin khoa
học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
48. Cảnh Sĩ Hoàng, Trần Vĩnh Hoàng (2013), "Đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực ở một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp
chí Phát triển và Hội nhập, (12), tr.78-82.
49. Đồng Đức Hùng (2014), “Ngành công nghiệp thông tin trong quá khứ,
hiện tại và tương lai”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Thông tin khoa học và
công nghệ ngày nay, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội,
Hà Nội.
50. Indu Bhushan, Erik Bloom, Nguyễn Minh Thắng, Nguyễn Hải Hữu
(2001), Vốn nhân lực của người nghèo ở Việt Nam, tình hình và các
lựa chọn về chính sách, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
51. Nguyễn Quốc Khánh (2011), Quản trị nhân lực: thấu hiểu từng người
trong tổ chức, Nxb Tài chính, Hà Nội.
52. Nguyễn Tuấn Khoa (2018), “Vai trò của thông tin và công nghiệp nội
dung trong xã hội thông tin”, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Xã hội thông
tin, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
53. Minh Khôi (2016), Công nghệ nội dung số - tiềm năng và triển vọng. tại
trang http://www.vusta.vn/vi/news/Thong-tin-Su-kien-Thanh-tuu-KH-
CN/Cong-nghe-noi-dung-so-tiem-nang-va-trien-vong-59454.html,
[truy cập ngày 18/12/2017].
54. Anh Lê (2015), Áp lực từ nhiều phía với các DN nội dung số Việt Nam.
tại trang https://viettimes.vn/ap-luc-tu-nhieu-phia-voi-cac-doanh-
157
nghiep-noi-dung-so-viet-nam-131550.html, [truy cập ngày
16/5/2019].
55. Lê Thị Mỹ Linh (2007), “Các phương pháp phổ biến đánh giá nhu cầu đào
tạo trong doanh nghiệp”, Tạp chí kinh tế và phát triển, (2), tr. 46-49.
56. Châu Long (2008), “Phát triển công nghiệp nội dung số: Nguy nan tứ
phía”, Tạp chí Tin học và đời sống, (10), tr.20-22.
57. Thu Loan (2018), Đến năm 2020: Thiếu hơn 500.000 nhân lực ngành
CNTT, tại trang http://vieclam3.laodong.com.vn/...viec-lam/den-nam-
2020-thieu-hon-500000-nhan-luc-nganh... [Truy cập ngày 02/6/2020]
58. C.Mác, Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
59. C.Mác, Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
60. Trần Minh (2011), “Sự gắn kết giữa thương mại điện tử và công nghệ
thông tin trong chương trình phát triển công nghiệp phần mềm và
chương trình phát triển công nghiệp nội dung số của Việt Nam”, Kỷ
yếu hội thảo quốc tế Thương mại điện tử và Phát triển nguồn nhân
lực, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
61. Phạm Văn Nam (2013), Sự tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực của
người sử dụng lao động: kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt
Nam, Kỷ yếu Hội thảo, Viện Khoa học Giáo dục, Hà Nội.
62. Nguyễn Đình Phan, Nguyễn Kế Tuấn (2007), Giáo trình Kinh tế và quản
lý công nghiệp, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
63. Nguyễn Ngọc Quân, Nguyễn Vân Điềm (2012), Giáo trình Quản trị nhân
lực. Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
64. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Công
nghệ thông tin, Hà Nội.
65. Smarthome (2019), Sam sung đưa Iot vào không gian, tại trang
https://www.smarthomehcm.com/samsung-dua-iot-vao-khong-gian-
song/, [truy cập ngày 22/12/2019].
158
66. Nguyễn Văn Sơn (2007), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh tế
tri thức", Tạp chí Triết học, (9).
67. Yến Thanh, Theo Trí Thức Trẻ (2016), Báo cáo mới nhất từ Ericsson
Mobility Report về ngành viễn thông di động trong Q1/2016, tại trang
https://genk.vn/cu-10-mau-di-dong-ban-ra-8-trong-do-la-smartphone-
2-con-lai-la-cuc-gach-20160608173545361.chn, [truy cập ngày
28/10/2019].
68. Vũ Bá Thế (2005), Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Nxb Lao
động - Xã hội, Hà Nội.
69. Thủ trướng Chính phủ (2005), Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg ngày 06
/10/2005 phê duyệt Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và
truyền thông đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
70. Thủ trướng Chính phủ (2007), Quyết định số 56/2007/QĐ-TTg, ngày
3/5/2007 phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp nội dung số
Việt Nam đến năm 2010, Hà Nội.
71. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 901/QĐ-TTg ngày 19/7/2007
về việc thành lập Viện Công nghiệp phần mềm và Nội dung số Việt
Nam thuộc Bộ Bưu chính, Viễn thông, Hà Nội.
72. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6/2009
Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến
năm 2015 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
73. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 1755/QĐ-TTg, ngày
22/9/2010 Phê duyệt đề an đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về
công nghệ thông tin và truyền thông, Hà Nội.
74. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22 tháng
7 năm 2011 Phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai
đoạn 2011-2020.
159
75. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 392/QĐ-TTg ngày
27/3/2015 Phê duyệt chương trình mục tiêu phát triển ngành công
nghiệp công nghệ thông tin đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025,
Hà Nội.
76. Võ Xuân Tiến (2010), “Một số vấn đề về đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ đại học Đà Nẵng, (6),
tr. 9-14.
77. Phạm Đức Tiến (2016), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
quá trình Việt Nam hội nhập quốc tế, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành
Chính trị học, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
78. Nguyễn Tiệp (2008), Giáo trình nguồn nhân lực, Nxb Lao động - Xã hội,
Hà Nội.
79. Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện VTC (2017), Khai thác và
phát triển nền công nghiệp nội dung số, tại trang
http://doanhnghieptrunguong.vn/nghien-cuu-trao-doi/201705/khai-
thac-va-phat-trien-nen-cong-nghiep-noi-dung-so-5533586/, [truy cập
ngày 9/6/2019]
80. Trung tâm Thông tin khoa học và Công nghệ quốc gia (2007), “Những
nét mới trong đào tạo và thu hút nhân lực công nghệ cao của Ấn Độ”,
Tri thức và Phát triển, (8), tr. 25-27.
81. Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (2016), Các chủ
trương, chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển
công nghệ thông tin, tại trang http://www2.chinhphu.vn/
portal/page/portal/chinhphu/noidungchienluockhoahoccongnghe?cate
goryId=845&, [truy cập ngày 12/5/2019].
82. Trang điện tử báo mới.com, Doanh số smartphone toàn cầu năm 2019;
https://baomoi.com/du-bao-am-dam-tren-thi-truong-smartphone-toan-
cau-nam-2019/r/29358769.epi [Truy cập ngày 02/6/2020]
83. Nguyễn Văn Vẹn (2015), Quan hệ giữa năng lực cạnh tranh ngành
công nghiệp và hỗ trợ phát triển Cluster (cụm ngành): nghiên cứu
160
Cluster công nghiệp nội dung số ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Quản trị
Kinh doanh, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
84. Viện Công nghệ thông tin - Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Công nghệ
xử lý ngôn ngữ & Phát triển thị trường nội dung số Việt Nam ra thế
giới, Hội thảo khoa học ngày 05/01/2012, Hà Nội.
85. Hồng Vinh (2013, Công nghiệp nội dung số: Khó khăn và hướng đi, tại
trang http://www.pcworld.com.vn/articles/kinh-doanh/giai-
phap/2008/10/ 1206018/ cong-nghiep-noi-dung-so-kho-khan-va-
huong-di/, [truy cập ngày 17/5/2019].
* Tài liệu tiếng Anh
86. Accmoglu, D., & Pischke, J. S. (1999), “Beyond Becker: training in
imperfect labour markets”,The Economic Journal, 109 (453), 112-142.
87. Afaq, F. U., Yusoff, R. B. M., Khan, A., Azam, K., Sc Thukiman, K.
(2011), “Employees‟ Training and Performance Relationship in
Hospitality Sector A Case of Pearl Continental Hotel, Karachi,
Pakistan”, International Review of Business Research Papers, 7(3),
149-158.
88. Alexandros G., Sahinidix and Bouris, J. (2008), "Employee Perceived
Training Effectiveness Relationship to Employee Attitudes",Journal of
European Industrial Training, 32(1), pp, 63-76.
89. Allen Consulting Groups (2003), Digital content: Creativity plus
connectivity, driving value, jobs and competitiveness in business,
government and the community throughout NSW, Australia: Author.
90. Alligcr, M. G., Sc Janak, A. E. (1989), “Kirkpatrick's Levels of Training
Criteria: Thirty Years Later”, Personnel Psychology, 42(2), 331-342.
91. Alligcr, M. G., Tannenbaum, I, S., Bennett, W„ Traver, H., & Shotland,
A. (1997), “A MetaAnalysis of the Relations Among Training
Criteria”, Personnel Psychology, 50(2), 341-358.
161
92. Alvarez, K., Salas, E., Sc Garofano, C. M. (2004), “An integrated model
of training evaluation and effectiveness”, Human Resource
Development Review, 3(4), 385-416.
93. Amin Akhavan Tabassi and Abu Hassan Abu Bakar (2012), “Effects of
Training and Motivation Practices on Teamwork Improvement and
Task Efficiency: The Case of Construction Firms”, International
Journal of Project Management, Vol.30 pp. 213-224 (IS! Index,
Elsevier).
94. Aurora Teixeira (2002), On the link between Human Capital and Firm
performance, Porto University.
95. Baldwin, T.T., & Ford, J.K. (1988), „Transfer of training: A review
and directions for future research”, Personnel Psychology, 41(1),
63-105.
96. Bartel, A. P. (1994), “Productivity gains from the implementation of
employee training programs.”, Industrial relations: a journal of
economy and society, 33 (4), 411-425.
97. Becker G.S. (1962), “Investment in human capital: A theoretical
analysis”, Journal of Political Economy, 70(1), 9-49.
98. Becker GS. (1978), The Economic Approach to HumanBehavior.
University of Chicago Press: Chicago, IL.
99. Becker, Gary (1994). Human Capital: A theoretical and empirical
analysis with special reference to Education. The University of
Chicago Press
100. Bumpass, S. (1990), “Measuring Participant Performance - An
Alternative”, Australian Journal of Educational Technology, 6(2), pp.
99-107.
101. Burke, L. A., Sc Baldwin, T. T. (1999). Workforce training transfer: A
study of the effect of relapse prevention training and transfer, Human
162
Resource Management, 38(3), 227-243.
102. Carin Holroyd, Kenneth Coates (2012), Digital Media in East Asia:
National Innovation and the Transformation of a Region, Cambria Press.
103. Catherine M. Sleezer, Tim L. Wentling, Roger L. Cude (2002), Human
Resource Development for Information Technology, Making Global
Connections.
104. Chhabi Lal Gajurel, Rajib Subba (2000), Information & Communication
Technology Policy and Strategy: Nepal, Publisher: National Planning
Commission-Nepal and ICIMOD.
105. Clarke, N. (2002), “Job/work environment factors influencing training
effectiveness within a human service agency: Some indicative support
for Baldwin and Fords‟ transfer climate construct”, International
Journal of Training and Development, 6(3), 146-162,
106. Clotilde Fonseca (2010), "The Digital Divide and the Cognitive Divide:
eflections on the Challenge of Human Development in the Digital
Age", Annenberg School for Communication & Journalism, Volume
6, SE, Special Edition 2010, 25-30, San José, Costa Rica.
107. Colquitt, J. A., & Simmering, M. J. (1998), "Conscientiousness, goal
orientation and motivation to learn during the training process: A
longitudinal study”, Journal of Applied Psychology, 83, 654-665.
108. Computing Research Association (1999), The Supply of Information
Technology Workers in the United States, http://archive.cra.org/
reports/wits/cra.wits.html. [truy cập ngày 5/6/2019].
109. Dale S. Beach (1980), “Personnel: The Management of People at
Work”, Macmillan Publishing Company, New York, p. 244.
110. Dale S.Beach (1982), “The Management of People at Work”, New
York: Macmillan Publishing Company.
111. David A. DeCenzo and Stephen P. Robins (1989), “Personnel/Human
Resource Management”, Prentice-Hall of India, New Delhi p. 240.
163
112. Department of Investment Services, M.o.E.A.-T.s.g., (2007), Digital
Content Industry: Analysis & Investment Opportunities 2007, New
York: John Wiley and Sons.
113. Devanna, M.A., Fombrun, C. & Tichy, N. (1984), “A framework for
strategic human resource management”, In CJ. Fombum, N.M. Tichy,
& MA. Devanna, (Eds.), Strategic Human Resource Management: 33-
51. New York: John Wiley and Sons.
114. Digital Content Promotion and Development Office (DCPDO) (2005),
Taiwan Digital Content Industries, Working paper, MOEA.
115. Dirk Buyens, Nguyen Ngoc Thang (2008), “Training, Organizational
Strategy, and Firm Performance”, The Business Review, 11.2, 176-83.
116. Driskell, James E. (2011), “Effectiveness of Deception Detection
Training: A MetaAnalysis”, Psychology, Crime &Law, 10 (2011) pp.
1-19.
117. Dubashi P.R. (1983), “Strengthening of training facilities, Souvenir of
Cooperative Training College”, Bangalore, Cooperative Training
College, Bangalore p. 1.
118. Edwin B. Flippo (1960), “Personnel Management”, training operative
personnel principles McGraw. Hill, 240.
119. Edwin B. Filippo (2008), “Principles of Personnel Management”, New
Delhi: McGraw- Hill Book Company,
120. Elangovan, A. R., & Karakowsky, L. (1999), “The role of trainee and
environmental factors in transfer of training: An exploratory
framework”, Leadership & Organization Development Journal,
20(5), 268.
121. Enefiok E. Ibok, Ph.D & Sunday E. Ibanga, Ph.D, The impact of Human
capital development and Economic Empowerment on the Socio-
Economic Development of Akwa Ibom State, Nigeria, Global Journal
164
of Human Resource Management, Vol.2,No.3,pp.37-44, September
2014, Published By European Centre for Research Training and
Development UK (www.eajournaks.org).
122. EU Development Office (2015), 6 Technological Trends that Redefine
Human Resource Management, tại trang https://financesonline.com,
[truy cập ngày 2/5/2019].
123. Felix Librero, Patricia B. Arinto (eds) (2008), Digital Review of Asia
Pacific 2007-2008, Saga, Orbicom, IDRC, https://idl-bnc-
idrc.dspacedirect.org/bitstream/handle/10625/34958/IDL-34958.pdf.
124. Finance and Social Sciences (AAR17New York Conference) ISBN: 978-1-
943579-13-6, New York-USA. 28-30, April 2017. Paper ID: N752.
125. Fischer and Ronald (2011), “Cross-Cultural Training Effects on Cultural
Essentialism Beliefs and Cultural Intelligence”, International Journal
of Intercultural Relations, 35(6), p, 767-775.
126. Ford, J.K. and Weissbein, D.A. (1997), „Transfer of training: an updated
review and analysis”, Performance Improvement Quarterly, Vol. 10
No. 2, pp. 22-41.
127. Forfas (2011), A Strategy for the Digital Content Industry in Ireland, tại
trang http://www.skillsireland.ie/media/forfas021101c_digital content
strategy.pdf, [truy cập ngày 12/7/2019].
128. Fuping Gao (2008), A Legal Framework for the Development of the
Content Industry in the People 'S Republic of China, in Copyright
Law, Digital Content and the Internet in the Asia-Pacific, Sydney
University Press.
129. Gaertner, K. N. & Nollen, S. D. (1989), “Career experiences,
perceptions of employment practices, and psychological commitment
to the organization”, Human Relations, (11), 975-991.
130. GAO, F. (2008), A legal framework for the devebpment of the content
165
industry in the people's republic of China, in Copyright law, digital
content and the Internet in the Asia-Pacifb, Sydney University Press.
131. Greg G. Wang and Judy Y. Sun (2009), “Perspectives on Theory
Clarifying the Boundaries of Human Resource Development”,
Human Resource Development International, Volume 12, Number 1,
pp. 93-103.
132. H. John Bernardin (2009), Human Resource Management, McGraw-Hill
College, 5th edition, USA.
133. Hanushek, Eric; Woessmann, Ludger (2008), "The Role of Cognitive
Skills in Economic Development", Journal of Economic Literature. 46
(3): 607- 668, tại trang www CiteSeerX 10.1.1.507.5325. doi:10.1257
/jel.46.3.607, [truy cập ngày 2/4/2019].
134. Haq, Mahbub ul (1996), Reflection on Human Development, Delhi:
Oxford University Press.
135. Hsin-Hann Tsai, Hong-Yuh Lee, Hsiao-Cheng Yu (2008), “Developing
the Digital Content Industry in Taiwan”, Review of Policy Research,
Vol. 25, No. 2, pp.169-188.
136. Human capital theory (2017), Assessing the evidence for the value and
importance of people to organisational success, Technical report,
Chartered Institute of Personnel and Development 151 The Broadway
London SW19 1JQ United Kingdom.
137. Joan McNaboe (2005), “Skills Requirements of the Digital Content
Industry in Ireland: Phase 1”, A study by FÁS in conjunction with
STeM Research Centre, DCU, for the Expert Group on Future Skills
Needs, February.
138. Kaufman, Bruce E (2001), Human resources and industrial relations:
Commonalities and differences, Chartered Institute of Personnel and
Development 151 The Broadway London.
166
139. Mankiw NG. (2009), Principles of Economics (5th edn).Cengage
Learning. Florence, KY.
140. McKinsey & Conpany, McKinsey Global Institute, Jobs lost (2017),
Jobs gained: Workforce transitions in a time of automation,
December.
141. Mincer, Jacob (1993), Studies in Human Capital. 1. "Investment in
Human Capital and Personal Income Distribution". Edward Elgar
Publishing.
142. Ministry of Information and Communication (2015), National
Information and Communication Technology Policy, Government of
Nepal, tại trang http://www.youthmetro.org/uploads/4/7/6/5/
47654969/ ict.pdf, [truy cập ngày 10/5/2019].
143. Nyone B. Clifford, Rosemaria C. Obaro (2006), Human Capital
Development on Employee Performance (A Case Study of Ignatius
Ajuru University of Education and University of Port-Harcourt
Choba, River State), Proceedings of the Second American Academic
Research Conference on Global Business, Economics,
144. OECD (2008), OECD Policy Guidance for Digital Content, tại trang
https://www.oecd.org/sti/ieconomy/40895797.pdf, [truy cập ngày
15/11/2018].
145. P.V.C. Okoye, Raymond A. Ezejiofor, The Effect of Human Resources
Development on Organizational Productivity, International Journal of
Academic Research in Business and Social Sciences October 2013,
Vol. 3, No. 10, ISSN: 2222-6990.
146. Rae Earnshaw and John Vince (Eds) (2001), Digital Content Creation,
Springer, ISBN-13: 978-1852333799, June 15.
147. Raymond Torres (2003), Investing in Human Capital: Experiences from
OECD countries and Policy lessons, OECD.
148. Rindermann, Heiner (2008), "Relevance of education and intelligence at
167
the national level for the economic welfare of people". Intelligence. 36
(2): 127-142.
149. Shahid Yusuf, Kaoru Nabeshima (2005), “Creative industries in East
Asia”, Cities, Vol. 22, No. 2, pp.109-122.
150. Smith, Adam (2008), An Inquiry into the Nature And Causes of the
Wealth of Nations Book 2 - Of the Nature, Accumulation, and
Employment of Stock. Published.
151. Terrence A. Maxwell (1998), Information Technology Workforce Crisis:
Planning for the Next Environment, New York State Forum on
Information Resource Management.
152. Thomas O. Davenport (1999), Human Capital - What is it and Why
people invest it, JosseyBass Publisher, San Francisco.
153. United Nations (2001), Human Resource Development for Information
Technology, tại trang www.unescap.org/tid/projects/hrd_it_f1.pdf,
[truy cập 20/01/2018].
154. US Department of Commerce (2003), Education and Training for the
Information Technology Workforce, USA, tại trang
https://babel.hathitrust.org/, [truy cập ngày 9/6/2018].
155. Vicki C. H. Chiu and Trisha T. C. Lin (2012), “National Competitive
Advantage and Cultural Proximity: Comparison Study of Digital
Content Industries in China and Taiwan”, Journal of Media and
Communication Studies, Vol. 4(1), pp. 1-10.
156. W. Arthur Lewis (1954), Economic Development with Unlimited
Supplies of Labour. Permanent dead link.
157. Wayback Machine (2013), Composite indices - HDI and beyond, tại
trang http://hdr.undp.org/en/statistics/indices/ Archived 2013-11-14 at
the, [truy cập ngày 13/5/2019].
158. YOUNG-A IM (2004), New Growth Engine Digital Contents Industry
Promotion Polcy, Ministry of Information and Communication, Korea.