
Hanoi Center for Financial and Industrial Mathematics
Trung Tâm Toán Tài Chính và Công Nghiệp Hà Nội
NHẬP MÔN
TOÁN TÀI CHÍNH
QUYỂN 1
GS. Đỗ Đức Thái
GS. Nguyễn Tiến Dũng
Hà Nội – Toulouse, 2011

ii
Bản thảo này: Ngày 25 tháng 1 năm 2011
c
Hanoi Center for Financial and Industrial Mathematics

Chương 1
Tiền tệ
1.1 Một số tính chất đặc trưng của tiền
Như chúng ta biết, trên thế giới có nhiều loại tiền khác nhau, trong đó có tiềng Đồng
Việt Nam (ký hiệu: VND), tiền Dollar Mỹ (ký hiệu: USD, hay $), tiền Euro của Châu Âu
(ký hiệu: EUR), tiền Nhân Dân Tệ của Trung Quốc (ký hiệu: RMB), vân vân. Các đồng
tiền khác nhau đó có chung 3 chức năng sau:
-Đơn vị đo lường giá trị. Muốn đánh giá và so sánh giá trị của các tài sản khác
nhau với nhau, người ta có thể qui đổi chúng ra thành tiền. Chẳng hạn một cái nhà nào
đó được tính giá trị là 10 tỷ VND, còn một cái ô tô được tính giá trị là 500 triệu VND,
thì cái nhà sẽ được coi là có giá trị bằng 20 lần cái ô tô. Khi người ta nói một tỷ phú nào
đó có 30 tỷ USD, thì có nghĩa là toàn bộ tài sản của người đó nếu qui đổi ra tiền thì được
tổng cộng 30 tỷ USD.
-Trao đổi hàng hóa. Từ hàng hóa ở đây được dùng theo nghĩa rộng, để chỉ mọi thứ
tài sản, sản phẩm và dịch vụ có thể được đem trao đổi. Chẳng hạn một người nông dân
muốn đổi thóc lấy gạch để xây nhà, thì không cần thiết phải mang thóc đến đổi trực tiếp
cho người làm gạch, mà có thể bán thóc đi lấy tiền rồi đem tiền đi mua gạch, như vậy
tiện lợi hơn, vì người làm gạch có thể đang cần thứ khác chứ không cần thóc. Người làm
gạch sẽ dùng tiền bán gạch để mua thứ mình cần.
-Tích trữ tài sản. Vì có thể dễ dàng đổi tiền lấy các hàng hóa cần thiết vào thời
điểm cần thiết, nên giữ tiền là một hình thức tích trữ tài sản để dùng trong tương lai.
Nói theo ngôn ngữ tài chính, những thứ tài sản có được cả ba chức năng trên thì được
gọi là tiền. Tất nhiên, 3 chức năng trên gắn liền với nhau. Để đảm nhiệm được tốt 3 chức
1

2CHƯƠNG 1. TIỀN TỆ
năng đó, tiền cần có một số tính chất như:
-Dễ bảo quản, dễ vận chuyển, dễ chia nhỏ, để tiện lợi cho việc tích trữ tài sản và trao
đổi hàng hóa. Đơn vị tiền nhỏ nhất phải đủ nhỏ so với các đơn vị hàng hóa có giá trị nhỏ
nhất để đo lường giá trị được chính xác.
-Tính thống nhất. Dù là tiền bằng chất liệu gì, phát hành vào thời điểm nào, nhưng
nếu có cùng tổng mệnh giá như nhau theo cùng một đơn vị tiền nào đó (ví dụ như cùng
là 1 triệu VND) thì có giá trị bằng nhau.
-Được tin tưởng và chấp nhận. Tức là mọi người chấp nhận là tiền có giá trị, sẵn sàng
đổi hàng hóa của mình lấy tiền. Để được tin tưởng và chấp nhận, tiền phải có được giá
trị ổn định, lượng cung hạn chế, và khó làm giả.
Tuy nhiên, các tính chất này không phải lúc nào cũng được thỏa mãn. Chẳng hạn,
hầu như nước nào cũng từng trải qua những giai đoạn siêu lạm phát, tức là giai đoạn mà
đồng tiền của nước đó mất giá rất nhanh. Ví dụ, vào tháng 7 năm 1946, giá cả ở Hungary
trung bình cứ 13,5 tiếng đồng hồ thì tăng gấp đôi, chỉ trong một tháng lạm phát lên đến
con số khổng lồ là 4.19 ×1016 phần trăm, và người ta phải in tờ tiền mệnh giá đến 100
000 000 000 000 000 000 (tức là 10 mũ 20) pengo(1). Ở Việt Nam, lạm phát của năm 1986
cũng lên đến xấp xỉ 800%, tức là 9 Đồng vào cuối năm 1986 chỉ có sức mua bằng 1 Đồng
vào đầu năm.
Các loại tiền như VND, USD, EUR, v.v. là tiền pháp định, tức là các chính phủ
đứng ra đảm bảo giá trị của các đồng tiền đó, và sự chấp nhận chúng được qui định bởi
luật pháp của các nước. Tiền pháp định thường có ở dạng tiền giấy, tiền xu, và đặc biệt
phổ biến ngày nay là dạng tiền điện tử (tức là tiền ở dạng con số trong nhà băng, và
thanh toán mua bán bằng cách chuyển khoản ngân hàng thông qua mạng máy tính), bởi
vì tiền điện tử đáp ứng được tốt hơn các tính chất phía trên (dễ bảo quản, dễ vận chuyển,
dễ chia nhỏ, khó làm giả, v.v.) so với các loại tiền khác.
Trong lịch sử thế giới, từ thời cổ đại, một số loại tài sản chia nhỏ như thóc gạo, rồi đến
các đồ quí hiếm như vàng, bạc, kim cương, v.v., đặc biệt là vàng, đã được dùng làm tiền
để tích trữ và trao đổi của cải. (Xem chẳng hạn [?] hay là tra trang web của Glyn Davies
về lịch sử các loại tiền tệ từ thời cổ đại). Cho đến nay, vàng vẫn được coi là thứ công cụ
đặc biệt quan trọng cho việc dự trữ tài sản. Vào thời điểm 06/2009, Quĩ Tiền Tệ Quốc
Tế (International Money Fund – viết tắt là IMF) có dự trữ vàng là 3217 tấn (khoảng 103
triệu lượng vàng). Vàng vẫn đang được sử dụng như là tiền để mua bán các thứ khác ở
(1)Xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Hyperinflation

1.2. NGUYÊN TẮC TỔNG TIỀN BẰNG 0 3
một số nơi trên thế giới. Tuy nhiên, chức năng làm công cụ giao dịch của vàng đã giảm
đi nhiều, và hầu hết các giao dịch thương mại trên thế giới là dùng tiền pháp định, trong
đó có hai đồng tiền quan trọng nhất vào năm 2010 là USD (khoảng 60% các giao dịch
ngoại thương được thanh toán bằng USD) và EUR (chiếm khoảng 30% các thanh toán
ngoại thương).
Theo Hiệp ước Bretton Wood(2) vào năm 1944, nước Mỹ đảm bảo giá trị của USD
bằng cách cố định tỷ giá giữa USD là 35USD = 1 lượng vàng. Nhưng đến năm 1971 Mỹ
đã phải đơn phương tuyên bố từ bỏ tỷ giá cố định đó, sau một thời gian dài dự trữ vàng
của Mỹ đi xuống, do các nước khác, đặc biệt là Đức và Nhật, siêu xuất khẩu sang Mỹ đã
đổi nhiều tiền USD mà họ có được sang thành vàng. Ngày nay, vẫn có những người muốn
cố định tỷ giá giữa tiền pháp định và vàng, như một hình thức chống lạm phát và đảm
bảo giá trị của tiền. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, vàng cũng chỉ là một thứ hàng
hóa trong số nhiều hàng hóa thông dụng. Vàng chỉ chiếm một phần nhỏ (dưới 1%) tổng
giá trị các tài sản hữu hình trên thế giới, ngoài vàng ra còn có nhiều thứ quan trọng khác
như gạo, dầu hỏa, sắt thép, v.v., và không có vàng thì người ta vẫn sống được. Nếu chỉ
“độc tôn” vàng, mà không tính đến các tài sản quan trọng khác, thì sẽ tạo một sự thiên
lệch làm kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
1.2 Nguyên tắc tổng tiền bằng 0
Mọi khoản tiền dương mà một tổ chức hay cá nhân nào đó đang có đều ứng với các
khoản nợ mà những tổ chức và cá nhân khác khác nợ người này, và ngược lại mọi khoản
tiền âm của ai đó đều ứng với các khoản tiền dương mà những người khác cho người đó
vay. Ví dụ, nếu một người X có dương 3000$ gửi ở một nhà băng A, thì tức là X cho
A vay 3000$, và A có một khoản -3000$ trong bảng cân đối tài chính vì là đang vay X
khoản đó. Ngược lại, khi A đem khoản tiền vay của X cho những đối tác khác vay, thì
các khoản cho vay đó hiện lên trong bảng cân đối kế toán của A như là các con số dương,
còn những người vay A thì lại có các khoản âm tương ứng trong tài sản của mình vì là
đang nợ A. Kể cả tiền dư của ngân hàng A mà không đem cho ai vay cả, thì cũng có thể
hiểu là đang cho ngân hàng trung ương vay, vì để dự trữ ở ngân hàng trung ương. Tính
tổng cộng tất cả các khoản tiền dương (cho vay) và tiền âm (vay) của mọi bên vào với
nhau, ta được con số 0. Điều này có thể được gọi là nguyên tắc tổng tiền bằng 0.
Đối với tiền giấy cũng vậy: khi một người giữ tiền giấy, thì có thể hiểu là người đó
(2)Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Bretton_Woods_system