YOMEDIA
ADSENSE
Những biến đổi thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện nay
627
lượt xem 59
download
lượt xem 59
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Những biến đổi thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện nay gồm có các nội dung chính: Những biến đổi phát triển về lực lượng sản xuất, những điều chỉnh thích nghi về quan hệ sản xuất, giới hạn của sự điều chỉnh thích nghi và những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày nay. Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu để hiểu rõ hơn về nội dung này.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Những biến đổi thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện nay
- NHỮNG BIẾN ĐỔI THÍCH NGHI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN NAY. I. NHỮNG BIẾN ĐỔI PHÁT TRIỂN VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT. 1. Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã làm thay đổi về chất những yêu tố của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cách mạng khoa học công nghệ là sự hoà nhập những biến đổi về chất của khoa học và kỹ thuật thành một thể thống nhất, làm thay đổi một cách căn bản mọi mặt đời sống xã hội của nhân loại. Sự ra đời và ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ là nhân tố đóng vai trò quyết định để chủ nghĩa tư bản tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật mới và chuyển từ trình độ công nghệ này sang trình độ công nghệ mới cao hơn. a. Những thay đổi mạnh mẽ về cơ sở vật chất và trình độ công nghệ của nền sản xuất dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ. Về cơ sở vật chất Những thay đổi về cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại biểu hiện trước hết là sự thay thế từng bước các tư liệu sản xuất truyền thống bằng các tư liệu sản xuất hiện đại, trên cơ sở ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, mà trước hết là công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới... Sự phát triển đó, trước hết được biểu hiện ở công cụ lao động và hệ thống dây chuyền sản xuất đã đạt tới trình độ tự động hoá rất cao. Nếu trước kia, máy móc bao gồm 3 bộ phận (máy phát lực, máy truyền lực, máy công tác) thì nay có thêm thiết bị vi sử lý để điều khiển từ xa hoặc lập trình sẵn cho các máy điện toán. Sự ra đời các thế hệ máy móc có trình độ tự động hoá cao đã tác động mạnh đến các khâu của quá trình sản xuất, làm tăng tính liên tục, tính chính xác, tính hiệu quả sản xuất kinh doanh. Những biến đổi của các tư liệu sản xuất, đóng góp đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của các nước tư bản phát triển. Chẳng hạn ở Nhật đóng góp đó tới 65% , ở Anh 73% và ở Pháp là 76% ... Do cách mạng khoa học công nghệ phát triển ở trình độ cao, nên các đối tượng lao động cũng xuất hiện theo hướng đa dạng phong phú và bộc lộ nhiều thuộc tính mới. Chẳng hạn trước kia dầu mỏ, than đá chỉ dùng để đốt cháy tạo nhiệt năng, thì ngày nay người ta có thể điều chế hàng trăm sản phẩm nhân tạo, như cao su nhân tạo, tơ nhân tạo, thậm chí cả nước hoa nhân tạo. Ngay cả khoảng không vũ trụ và các hành tinh trong hệ mặt trời như Mặt trăng, Sao hoả, Sao kim... không chỉ là đối tượng nghiên cứu của ngành thiên văn học, ngành hàng không vũ trụ, mà còn là đối tượng nghiên cứu khai thác của ngành du lịch, luyện kim, khai khoáng. Cũng do khoa họccông nghệ phát triển, nhiều nguồn nguyên liệu mới được khai thác, sử dụng theo ngày càng tối ưu. Sự thay đổi về chất của công cụ lao động và đối tượng lao động trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho quy trình công nghệ sản xuất ra của cải vật chất (bao gồm phương pháp, quy trình, kỹ năng sản xuất) thay đổi từ thủ công, sang bán tự động và tự động hoàn toàn.Việc ứng dụng có hiệu quả công nghệ mới vào sản xuất đã làm cho cách thức lao động sản xuất của người lao động cũng thay đổi. Chẳng hạn, việc sử dụng người máy thông minh trong các dây chuyền sản xuất nhằm thay thế các thao tác cơ bắp, hay một phần hoạt động tư duy của con người, đã làm cho lao động sống, lao
- động giản đơn, lao động trực tiếp giảm dần; lao động gián tiếp sử dụng công nghệ hiện đại theo hướng tự động hoá tăng lên. Nhờ đó mà chi phí sản xuất bình quân và cơ cấu giá trị của sản phẩm giảm xuống, khối lượng của cải vật chất, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao.Ví dụ những năm 1960, để tạo ra một sản phẩm người ta phải chi phí tới 60% nguyên liệu thì đến năm 2000 người ta chỉ chi phí 10% nguyên liệu cho một sản phẩm. Chỉ riêng trong 2 thập kỷ 6070 của thế kỷ XX loài người đã tạo ra khối lượng của cải vật chất công nghiệp gần bằng 270 năm trước đó gộp lại. Song cũng cần khẳng định rằng, sự phát triển vượt bậc về cơ sở vật chất và trình độ công nghệ trong hơn nửa thế kỷ qua một mặt phản ánh năng lực kỳ diệu cuả con người trong quá trình chinh phục tự nhiên. Nhưng trong khuôn khổ của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã lợi dụng triệt để những thành tựu đó để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô và nâng cao trình độ bóc lột lao động làm thuê. b. Sự phát triển về phân công lao động xã hội và trình độ chuyên môn ngành nghề của người lao động. Phân công lao động xã hội là sự phân chia lực lượng lao động thành những nghề chuyên môn nhất định. Sự phân công lao động càng cao thì trình độ chuyên môn hoá sản xuất trong các ngành nghề của người lao động càng sâu sắc. Lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản gắn liền với bóc lột ngày càng nhiều giá trị thặng dư. Thực hiện mục đích đó, trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, các nước tư bản đã nhanh chóng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, phát triển phân công lao động xã hội và trình độ chuyên môn ngành nghề của người lao động. Sự hiệp tác có phân công trong công trường thủ công làm cho người lao động chỉ biết tạo ra những chi tiết bộ phận của một sản phẩm hoàn chỉnh. Sự phân công trong công trường thủ công và sự ra đời của những công cụ lao động chuyên dụng, đã đào tạo ra người lao động lành nghề trong công xưởng. Công xưởng với máy móc ngày càng hiện đại là kết quả phát triển cao của hình thức hiệp tác lao động tư bản chủ nghĩa.Trong công xưởng, những công cụ thủ công được thay thế bằng những máy móc và hệ thống máy móc tinh sảo. Hệ quả sự phân công lao động mới trong công xưởng được hình thành dựa vào các chức năng của máy móc. Người lao động mất dần tính độc lập cá nhân và trở thành phụ thuộc vào máy móc. Cũng từ đó xuất hiện nhu cầu về một bộ phận lao động mới, những chuyên gia được đào tạo kỹ thuật để chế tạo và sử dụng các loại máy móc mới. Nhờ đó thành phần lao động trong các công xưởng được mở rộng, chức năng lao động cũng ngày càng phát triển, xuất hiện những ngành, lĩnh vực mới trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự ra đời các công ty cổ phần ở các nước tư bản phát triển làm cho mối quan hệ trực tiếp giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê được bổ sung thêm một tầng lớp trung gian những giám đốc quản lý, điều hành sản xuất dưới sự lãnh đạo của hội đồng quản trị. Đội ngũ giám đốc đó, có thể do những người lao động làm thuê có tài được nhà tư bản trọng dụng; hoặc họ có một lượng cổ phiếu lớn hơn nhiều so với những cổ đông khác trong các công ty vừa và nhỏ... Trong điều kiện đó, sự phân công lao động đối với giai cấp công nhân không đơn thuần chỉ là những người lao động công xưởng,
- “công nhân áo xanh” lao động trực tiếp mà trong số họ còn có cả những người lao động làm thuê có học vấn, “công nhân áo trắng”, đó là c lao động gián tiếp, trí óc. Khi ấy ranh giới giữa chủ tư bản công nhân làm thuê và tư bản quản lý chỉ còn mang tính tương đối. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm cho nền kinh tế tư bản xuất hiện những “rôbôt thông minh”, “nhà máy không người”. Nếu so sánh với giai đoạn đầu cuộc cách mạng công nghiệp(nửa đầu thế kỷ 19) của chủ nghĩa tư bản thì hiện tại phân công lao động đạt tới trình độ chuyên môn hoá rất cao, theo hướng lao động trực tiếp sản xuất giảm xuống, lao động dịch vụ cho sản xuất tăng lên. Hiện nay ở các nước tư bản phát triển, lao động dịch vụ thường tập trung tới 7075%, trong đó lao động có tay nghề cao đạt tới 77,6% và đang diễn ra xu hướng lao động khoa học kỹ thuật (lao động trí tuệ nói chung) ngày càng tăng, lao động giản đơn, lao động thấp giảm nhanh. Ví dụ ở Mỹ số lao động có kỹ thuật tăng từ 11% năm 1960 lên 17% năm 1997, số thợ đứng máy trực tiếp giảm tương ứng từ 18% xuống 12%. Như vậy, xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, sự phân công lao động và trình độ chuyên môn hoá ngành nghề của người lao động trong xã hội tư bản hiện đại biểu hiện gồm: Những người trực tiếp đứng máy điều hành sản xuất Những kỹ thu ật viên bảo hành, sửa chữa để bảo đả m sự vận hành củ a dây chuyền sản xu ất. Những người quản lý kiểm tra lập trình ở các trung tâm điều khiển. Các nhà khoa học và công nghệ, các kỹ thuật viên ở các viện nghiên cứu ứng dụng và triển khai sản xuất. Các chuyên viên và người lao động của các hãng làm công tác dịch vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hoá. c. Tính hiệu quả ngày càng cao trong từng chủ thể, cũng như toàn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do tác động của cách mạng khoa học công nghệ, cùng những mâu thuẫn nội tại của nó, chủ nghĩa tư bản đã nhiều lần tổ chức lại nền sản xuất, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế. Chẳng hạn sự điều chỉnh nền sản xuất lần thứ nhất, diễn ra từ 1950 đến những năm đầu 1970 mà đặc trưng chủ yếu là tự điều chỉnh, tự thích nghi để khai thác tối đa mức sản xuất, dựa trên cơ sở kỹ thuật công nghệ cơ khí. Biểu hiện đó là nền sản xuất hàng loạt quy mô lớn, sử dụng rộng rãi lao động trình độ tương thấp được tổ chức theo kiểu Fort và Taylor, với sản phẩm làm ra có hàm lượng năng lượng và vật tư cao. Nghĩa là, nền kinh tế phát triển theo chiều rộng với năng lực sản xuất chủ yếu dựa vào quy mô máy móc thiết bị và quy mô sản xuất chiếm ưu thế. Đến cuối những năm 1970, sự điều chỉnh này vấp phải những giới hạn, như tốc độ tăng năng xuất có xu hướng giảm, thị trường bão hoà, tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, khủng hoảng mau nổ ra. Giai đoạn tự điều chỉnh, tự thích ứng lần hai diễn ra từ đầu những năm 1970 đến nay, trong giai đoạn này các nước tư bản phát triển, thực hiện đẩy mạnh mô hình phát triển sản xuất, tiết kiệm các nguồn lực, dựa trên cơ sở vận dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, nhằm tạo ra khả năng vượt bậc về sản xuất hoặc làm dịu bớt những tác động mang tính bùng nổ từ các mâu thuẫn nội tại nền kinh tế. Do vậy việc tổ chức lại nền sản xuất dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật mới với đặc trưng chủ yếu là tiết kiệm đến mức
- tối đa các nguồn lực (tài nguyên thiên nhiên, môi trường, sức lực con người, trí tuệ), đề cao chất lượng hiệu quả, khai thác khả năng sáng tạo của con người kết hợp với điều tiết tích cực của các quan hệ thị trường. Sự điều chỉnh cơ cấu tổ chức sản xuất trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ, đã tạo cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có sức cạnh tranh mới, cạnh tranh bằng việc đổi mới công nghệ. Nhiều nhà máy có máy móc hiện đại sử dụng ít lao động xuất hiện. Sự theo đuổi lợi nhuận siêu ngạch bằng đổi mới công nghệ, đã làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng. Chẳng hạn, nếu mức tăng năng suất lao động hàng năm ở các nước tư bản nói chung năm 19901991 là 2% thì năm 1995 là 5,0% và năm 1997 là 5,1%. Với các nước G7 tương ứng là 2% năm 19901991 và 5,4% năm 1997. Người ta tính rằng, trong tăng trưởng kinh tế của các nước tư bản phát triển, có tới 3/5 là do tăng năng xuất lao động, mà chủ yếu là nhờ vào sự đóng góp quan trọng của khoa học công nghệ mới, ví dụ sự đóng góp đó ở Nhật Bản là 63%, ở Mỹ là 52%, ở Hàn Quốc là 14%. Với sự đóng góp nói trên, đã đưa nền kinh tế Mỹ trong 10 năm cuối thế kỷ XX liên tục tăng trưởng, đặc biệt năm 2000 tăng trưởng kinh tế Mỹ đạt mức kỷ lục 5,2%, nền kinh tế Tây âu tăng từ 2,93,1% và nền kinh tế Nhật tiếp tục phục hồi ở mức tăng trưởng 1,4%. Ngày nay dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ , nền kinh tế các nước tư bản phát triển diễn ra theo hai xu hướng dường như đối lập nhau, nhưng thực ra thống nhất với nhau, đó là kiểu tổ chức sản xuất nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Một là xu hướng tập trung hoá, hình thành những công ty khổng lồ bành trướng sự hoạt động ra ngoài biên giới quốc gia và trở thành những công ty độc quyền xuyên quốc gia có chi nhánh hoạt động ở nhiều quốc gia, kinh doanh đa ngành với doanh số đạt hàng trăm tỷ đô la/năm. Ví dụ công ty GMC của Mỹ năm 1992 có doanh số 132 tỷ đô la, với 136 chi nhánh hoạt động ở hơn 100 nước, sử dụng 876 ngàn người, chuyên sản xuất ô tô, đồ điện, tuabin khí và đầu máy dieden. Hai là xu hướng phi tập trung hoá, biểu hiện sự phát triển nhanh các công ty vừa và nhỏ ở các nước tư bản phát triển. Ví dụ ở Mỹ trong những năm 80, số doanh nghiêp vừa và nhỏ tăng từ 500.000 700.000/năm. Ở Nhật doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 99,43% tổng số doanh nghiệp, sản xuất ra trên 58% mặt hàng, chiếm quá 1/2 hàng hoá xuất khẩu. Ơ Đức vào giữa những năm 1990, có 2,1 triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 99% tổng số doanh nghiệp cả nước, tạo ra 1/2 tổng số sản phẩm quốc dân. Sở dĩ có hiện tượng này là vì, xí nghiệp nhỏ dễ nhạy cảm trong sản xuất và thị trường, dễ đáp ứng được cá biệt hoá nhu cầu, dễ đổi mới công nghệ và dễ kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại trong sản xuất kinh doanh. Cùng với quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất là sự xuất hiện và ứng dụng có hiệu quả các dạng công nghệ mới vào sản xuất và đời sống. Đó là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, năng lượng sạch... Chính nhờ có các tư liệu lao động hiện đại cùng công nghệ tiên tiến mà cách thức sản xuất và cơ cấu giá trị của một đơn vị sản phẩm hàng hoá đã có những thay đổi căn bản. Chẳng hạn chi phí nguyên liệu những năm 1960 còn chiếm 60% giá thành sản phẩm thì đến năm 2000 chi phí này chỉ còn dưới 10%. 2. Lực lượng sản xuất phát triển làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
- a. Những thay đổi về cơ cấu ngành kinh tế. Bước chuyển từ nền kinh tế công nghiệp với cơ sở vật chất kỹ thuật truyền thống sang cơ sở vật chất mới dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra sự chuyển dịch lớn về cơ cấu kinh tế. Trước hết là cơ cấu ngành, từ chỗ trước kia cơ cấu kinh tế là nông nghiệpcông nghiệp dịch vụ, nay được thay thế bằng cơ cấu dịch vụ công nghiệp nông nghiệp theo hướng tỷ trọng các ngành nông nghiệp, công nghiệp giảm dần, tỷ trọng các ngành dịch vụ tăng lên tương ứng. Ví dụ các nước tư bản phát triển như Mỹ, Bắc Âu, tỷ trọng các ngành nông nghiệp trong GDP giảm từ 6,4% năm 1960 xuống còn 2,7% năm 1990, các ngàng công nghiệp sự giảm tương ứng là 30,4% và 23,1% và các nghành dịch vụ tăng lên từ 52,2% lên 65%. Ngay trong bản thân các ngành công nghiệp cũng có sự thay đổi căn bản như, công nghiệp truyền thống (công nghiệp khai thác nguyên, nhiên, vật liệu, công nghiệp sơ chế) giảm dần, từ 2,7% năm 1960 xuống còn 1% năm 1990, các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao, ngày càng chiếm ưu thế như: quang học, điện tử vi mạch, hàng không vũ trụ, khai thác năng lượng nguyên tử vào mục đích hoà bình...Trong lĩnh vực dịch vụ thì hoạt động tài chính ngày càng trở thành nghành kinh tế trụ cột trong nền kinh tế quốc dân. Ví dụ ở Nhật những năm 1960 phát triển ngành luyện kim đóng tàu thì những năm 1980 trở lại đây chủ yếu phát triển ngành điện tử và ngân hàng; vì thế trong số 10 ngân hàng lớn nhất thế giới, Nhật bản từ chỗ trước kia chưa có tên tuổi, nay vươn lên đứng hàng thứ 8 vào năm 2000. Xu hướng chung là phát triển những ngành sử dụng ít nguyên liệu, ít năng lượng, ít lao động sống, phát triển những ngành có hàm lượng chất xám cao. Cùng với thay đổi cơ cấu nghành, cơ cấu sản phẩm cũng có sự thay đổi tương ứng. Những sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao ngày càng chiếm vị trí quan trọng trên thị trường sản phẩm với giá cả ổn định hoặc tăng lên. b.Những thay đổi về cơ cấu vùng kinh tế. Do bước chuyển từ cơ sở vật chất cũ sang cơ sở vật chất kỹ thuật mới về chất, đã tác động đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội và tạo ra những khả năng mới để điều chỉnh cơ cấu ngành, vùng của nền kinh tế. Ngày nay các nước phát triển, tuy có vị trí địa lý và điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, song sự khác nhau đó chỉ quy định đến tính đặc thù của sự điều chỉnh ở mỗi nước. Chẳng hạn khác nhau về mức độ và phương pháp điều chỉnh, chứ không một quốc gia nào lại không thực hiện điều chỉnh. Mục đích của sự điều chỉnh cơ cấu ngành, vùng ở các nền kinh tế phát triển là nhằm thiết lập một cơ cấu kinh tế thích ứng cho phát triển và giải quyết những mâu thuẫn trước mắt của nền kinh tế. Kết quả tạo nên sự xích lại gần nhau về khoảng cách giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn cả về điều kiện làm việc và mức hưởng thụ cuộc sống, theo đó mà thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. c.Những thay đổi về cơ cấu thị trường. Cách mạng khoa học công nghệ thúc đẩy phân công lao động xã hội vượt ra ngoài biên giới quốc gia, cùng với biến đổi cơ cấu ngành, vùng ở các nước công nghiệp phát triển, đã tạo nên sự dịch chuyển ngành, từ nước này sang nước khác, từ khu vực này sang khu vực khác, hình thành thị trường không biên giới. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, cơ cấu thị trường thế giới có sự thay đổi như sau.
- Một là, hình thành đồng bộ nhiều loại thị trường như: Theo đối tượng giao dịch mua bán, có thị trường hàng hoá và dịch vụ như lúa gạo, thị trường ngoại tệ, thị trường chứng khoán. Theo ý nghĩa vai trò đối tượng mua bán, có thị trường tư liệu sản xuất, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ. Theo tính chất và cơ chế vận hành, có thị trường tự do, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, thị trường độc quyền cạnh tranh, thị trường tự do có điều tiết của chính phủ. Theo quy mô và phạm vi các quan hệ kinh tế, có thị trường địa phương khu vực, thị trường trong nước thị trường quốc gia quốc tế. Hai là, tự do hoá thị trường trở thành một xu hướng cơ bản, nhất là trong những thập kỷ gần đây.Ví dụ thị trường chung châu Âu có 15 nước thành viên tham gia trong đó có 11 quốc gia tham gia liên minh tiền tệ. Ba là, thị trường quốc tế phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu cùng với xuất hiện nhiều loại thị trường mới như thị trường phần mềm tin học, thị tr ường công nghệ sinh học, thị trường sản phẩm có hàm lượng chất xám cao Bốn là, thị trường có sự ưu đãi ở mức độ khác nhau đối với các bạn hàng liên kết và phân biệt đối sử với các bạn hàng khác. II. NHỮNG ĐIỀU CHỈNH THÍCH NGHI VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT. Sự phát triển lực lượng sản xuất dưới tác động cách mạng khoa học công nghệ đã thay đổi tính chất, trình độ phân công lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế. Với kết quả của quá trình đó mang lại là điều kiện để giai cấp tư sản và nhà nước tư bản thực hiện điều chỉnh từng mặt quan hệ sản xuất để thích nghi tồn tại và phát triển trong điều kiện mới. Song mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư, lợi nhuận, do đó giai cấp tư sản và nhà tư bản luôn tìm mọi biện pháp phương tiện để nâng cao năng xuất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện đại, chẳng qua chỉ là quá trình xã hội hoá quan hệ sản xuất theo lối tư bản chủ nghĩa nhằm xoa dịu phần nào mâu thuẫn vốn có của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. 1. Sự điều chỉnh về quan hệ sở hữu. Mục đích những điều chỉnh thích nghi về quan hệ sở hữu trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện nay là tiếp tục duy trì củng cố quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất, làm cho nó phù hợp phần nào với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, xoa dịu mâu thuẫn giữa tư bản với lao động làm thuê. Sự điều chỉnh này được biểu hiện thông qua những nội dung sau. Thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Đẩy mạnh cổ phần hoá tư bản chủ nghĩa bằng cách chuyển công ty tư nhân thành các công ty cổ phần với sự góp vốn của các nhà tư bản lớn, nhỏ và người lao động dưới hình thức mua cổ phiếu. Chẳng hạn ở Thuỵ điển có tới 21% dân cư có cổ phần trong các doanh nghiệp, ở Pháp có 6 triệu người, ở Anh có 8 triệu người, ở Mỹ có khoảng 35 40 triệu người là cổ đông. Khi đó người lao động mua cổ phiếu trở thành cổ đông để sở hữu một phần tài sản của công ty và hưởng lợi tức cổ phần, nhà tư bản – các tổ chức độc quyền, huy động các nguồn vốn để phát triển sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu. Thông qua chế độ tham dự mới theo mô hình 1 công ty mẹ khống chế
- nhiều công ty con, 1 công ty con khống chế nhiều công ty cháu... nhờ đó mà quyền lực kinh tế chính trị xã hội của nhà tư bản, các tổ chức độc quyền tăng lên. Hình thức sở hữu tư nhân chuyển dần thành hình thức sở hữu hỗn hợp.Vì trong qua trình hoạt động sản xuất kinh doanh các nhà tư bản lớn đã từng bước thôn tính các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lôi cuốn chúng vào quỹ đạo hoạt động của mình dưới những hình thức khác nhau, các doanh nghiệp nhỏ này trở thành vệ tinh nhận thầu và thầu lại cho các doanh nghiệp lớn. Ví dụ công ty General Electric của Mỹ đã tập trung xung quanh mình 3200 xí nghiệp thành viên với mức độ liên kết khác nhau, thực hiện những chức năng khác nhau. Hình thức sở hữu cũng ngày càng đa dang phong phú bao gồm; sở hữu tư liệu sản xuất, sở hữu về mặt giá trị dưới hình thức vốn tự có, vốn cổ phần,vốn cho vay; sở hữu trí tuệ; sở hữu công trình khoa học, bằng phát minh sáng chế .... Thực hiện đa dạng hoá hình thức sở hữu độc quyền. Về hình thức sở hữu độc quyền xuyên quốc gia. Do đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất dưới tác động của quy luật cạnh tranh và quy luật kinh tế cơ bản cùng những điều kiện quốc tế hoá về sản xuất tư bản và thông tin. Các tổ chức độc quyền đã vượt biên giới quốc gia thực hiện kinh doanh quốc tế dưới nhiều hình thức và trở thành công ty xuyên quốc gia. Khi ra ngoài biên giới quốc gia, các công ty này thực hiện liên kết để ngày càng thâu tóm nhiều tư liệu sản xuất, vốn trí tuệ quốc tế, tạo ra nhiều hình thức sở hữu hỗn hợp mang tính quốc tế. Ví dụ xí nghiệp liên doanh sản xuất thép P.T Kracatau ở Inđônêxia có sự góp vốn của Tây ban nha 10%, Pháp 10%, tư bản tư nhân Inđônêxia 40% và nhà nước Inđô nêxia 40%. Về hình thức sở hữu độc quyền nhà nước hay sở hữu hỗn hợp của tập thể tư bản, về bản chất là một. Ăng ghen chỉ rõ: Nhà nước tư sản là nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó, thì nó lại biến thành nhà tư bản tập thể, thực sự bấy nhiêu. Sở hữu động quyền nhà nước được hình thành thông qua con đường quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản tư nhân, xây dựng mới bằng cách chi ngân sách nhà nước, góp vốn cổ phần và mua lại một phần xí nghiệp tư bản tư nhân. Khi đó tính hỗn hợp biểu hiện rõ trong trường hợp mua một phần hoặc bán cổ phần xí nghiệp nhà nước cho tư nhân trong và ngoài nước. Việc hình thành sở hữu nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một mặt biến nhà nước tư sản thành nhà tư bản khổng lồ, vừa là chủ sở hữu vừa là người sử dụng, vừa là người sản xuất vừa là người tiêu dùng, vừa là chủ nợ vừa là con nợ. Mặt khác biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ đắc lực nhất cho lợi ích các tổ chức độc quyền và cho toàn bộ giai cấp tư sản. Về hình thức sở hữu của tư bản tài chính. Sự xuất hiện tư bản tài chính đã lôi cuốn hầu như toàn bộ tư bản ở các nghành sản xuất, lưu thông vào cơ cấu tổ chức của mình, hình thành nên một cơ cấu mang tính hỗn hợp về sở hữu. Bao gồm sở hữu về tài chính, sở hữu về nguồn tài nguyên quý hiếm trong nước và quốc tế. Sức mạnh kinh tế của các tổ chức độc quyền không chỉ do quy mô tư bản, khối lương, chất lượng các tư liệu sản xuất quyết định. Nó phụ thuộc vào cả những nguồn lực phi vật thể khác như thương hiệu, tư cách pháp nhân, quyền sở hữu trí tuệ... Những hình thức thích nghi về quan hệ sở hữu, hoàn toàn không làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay đổi. Bản chất của nó vẫn là chế độ chiếm hữu tư nhân
- tư bản chủ nghĩa. Sở hữu của các tổ chức độc quyền vẫn giữ vai trò thống trị. Quyền lực kinh tế chính trị xã hội của các tổ chức độ quyền tăng lên. Tính chất độc quyền tư bản chủ nghĩa phát triển lên một trình độ mới cao hơn nhiều so với thời kỳ đầu thế kỷ XX khi nó mới ra đời. 2. Sự điều chỉnh thích nghi về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất . Mục đích của những điều chỉnh này nhằm khai thác tối đa nguồn lực con người phục vụ cho khát vọng làm giàu của các nhà tư bản và toàn bộ giai cấp tư sản. Tạo nên sự ảo tưởng về vai trò, địa vị giữa tư bản và công nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh, từ đó xoa dịu mâu thuẫn giai cấp trong xã hội. Tạo ra mối quan hệ “Tự doBình đẳngBắc ái” hơn cho giai cấp vô sản, nhà tư bản thông qua việc giai cấp tư sản lợi dụng triệt để những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội như (điều khiển học, tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học...) vào phục vụ cho công tác quản lý. Về quản lý vĩ mô, nhà nước tư sản tăng cường vai trò kinh tế và trở thành trung tâm điêù chỉnh nền kinh tế bằng luật pháp, bằng chương trình hoá và bằng các công cụ, chính sách kinh tế khác.Ví dụ điều chỉnh bằng chương trình hoá như; chi ngân sách được thực hiện theo các chương trình kinh tế xã hội trung, dài hạn bao gồm chương trình phục hồi kinh tế, chương trình phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, chương trình cải biến cơ cấu kinh tế; điều chỉnh cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị trường thông qua hợp đồng, đồng thời hỗ trợ những nghành truyền thống cần được tiếp tục duy trì và những nghành mũi nhọn công nghệ cao; điều tiết tiến bộ khoa học công nghệ bằng tăng chi ngân sách cho nghiên cứu và phát triển, tăng tài trợ cho nghiên cứu ứng dụng của các công ty tư nhân hoặc mua công nghệ nước ngoài v.v. Nhà nước vận dụng thành tựu khoa học công nghệ vào quản lý, điều chỉnh bằng công cụ quản lý mềm dẻo uyển chuyển. Ví dụ các nước phát triển đưa ra bảng cân đối kinh tế liên nghành. Sự can thiệp trực tiếp ngày càng sâu của nhà nước tư sản vào các quá trình kinh tế, làm cho một số lĩnh vực trong những thời điểm nhất định giảm được tỷ lệ lạm phát , kinh tế tăng trưởng cao. Điều này dễ làm cho một số người lầm tưởng rằng nhà nước tư sản đang thực sự là một “cơ quan công quyền”, là người “đại biểu quyền lợi” cho cả giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Về quản lý vi mô, tuỳ theo điều kiện cụ thể mà tổ chức quy mô sản xuất là xí nghiệp, công ty hay tập đoàn kinh tế cho phù hợp với nền kinh tế thị trường. Nhà tư bản mở rộng hình thức tự quản để khai thác tối đa nguồn lực con người, khi ấy người công nhân có thể tự lựa chọn thời gian thích hợp để đến công ty làm việc. Trong số những công nhân làm thuê, ai có tài trong quản lý thì được nhà tư bản tin dùng giao cho chức vụ quản lý (giám đốc điều hành sản xuất, giám đốc kỹ thuật, giám đốc maketting ). Việc mini hoá xí nghiệp, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh dễ dàng (chuyển đổi công nghệ, chuyển đổi sản phẩm và xâm nhập thị trường) trong điều kiện cạnh tranh gay gắt. Mặt khác, nhằm tạo ra một không khí chan hoà “thân thương” giữa người quản lý với người trực tiếp lao động, tạo vẻ nhà tư bản đã quan tâm tới công ăn việc làm của công nhân và làm cho khoảng cách giữa ông chủ và người làm thuê bị xoá nhoà...
- Kết quả của sự điều chỉnh thích nghi này là tạo ra được sự thích ứng nhất định để thúc đẩy xã hội hoá lực lượng sản xuất, xoa dịu phần nào mâu thuẫn giữa tư bản với công nhân lao động làm thuê trong quá trình sản xuất kinh doanh. 3. Sự điều chỉnh về quan hệ phân phối Mục đích của sự điều chỉnh thích nghi về quan hệ phân phối là nhằm bảo đảm cả lợi ích trước mắt, lẫn lợi ích lâu dài cho nhà tư bản, đồng thời làm tăng sự lệ thuộc của công nhân làm thuê vào nhà tư bản. Thực hiện mục đích đó, nhà tư bản dùng một phần lợi nhuận để phân phối lại cho người lao động làm thuê dưới hình thức như tăng lương, thưởng, trả lợi tức cổ phiếu. Nhà nước tư sản dùng thêm ngân sách để giải quyết các vấn đề xã hội như giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường. Những việc làm này đã cải thiện được một phần đời sống vật chất, tinh thần của người công nhân làm thuê, nhưng xét cho cùng thì các khoản “ban phát” đó đều có cùng nguồn gốc từ giá trị thặng dư và đều có mục đích vì giá trị thăng dư cho nhà tư bản. Những điều chỉnh về quan hệ phân phối này đã làm cho một số người lầm tưởng rằng chủ nghĩa tư bản đã thay đổi về bản chất, nó không còn là xã hội áp bức bóc lột và bất công. Trong nền kinh tế tư bản hiện nay “toàn dân là tư sản”, từ đó dễ dàng thủ tiêu phong trào đấu tranh của công nhân. Tóm lại: Quá trình điều chỉnh thích nghi về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản hiện đại đã tạo ra bước phát triển mới của lực lương sản xuất, tạo ra những cơ sở về kinh tế và xã hội để kéo dài sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhưng về bản chất, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn không hề thay đổi. Tính chất bóc lột tư bản ngày càng tinh vi và tàn bạo hơn. Quyền lực kinh tế, chính trị, xã hội của các tổ chức độc quyền ngày càng tăng lên. Người công nhân làm thuê và giai cấp vô sản ngày càng lệ thuộc nhiều hơn vào nhà tư bản và giai cấp tư sản.Chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn nằm trong giai đoạn độc quyền, trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chứ hoàn toàn không phải là một chế độ xã hội mới như các học giả của giai cấp tư sản vẫn tuyên truyền. III. GIỚI HẠN CỦA SỰ ĐIỀU CHỈNH THÍCH NGHI VÀ NHỮNG MÂU THUẪN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY. Dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại chủ nghĩa tư bản đã thực hiện điều chỉnh thích nghi được một số mặt của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Điều đó đã và đang tạo ra những điều kiện mới để chủ nghĩa tư bản tiếp tục tồn tại và phát triển. Song quá trình đó không phải chủ nghĩa tư bản điều chỉnh thích nghi được tất cả các mặt, mà có những mặt chúng không thể điều chỉnh thích nghi được, đó chính là giới hạn của sự điều chỉnh. 1. Giới hạn của sự điều chỉnh thích nghi. Xét về lý luận, giới hạn chung về sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện đại chính là quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Vì mục đích của điều chỉnh thích nghi là phải phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản và các tổ chức độc quyền, là củng cố vững chắc hơn sự thống trị của các tổ chức độc quyền trên tất cả các lĩnh vực trong nước và quốc tế. Nếu điều chỉnh mà làm phương hại đến lợi ích của giai cấp tư sản và các tổ chức độc quyền thì chúng không bao giờ thực hiện. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhận xét của C Mác về chủ nghĩa tư bản “Không kể đến những động cơ cao xa hơn, lợi ích bức thiết nhất của
- bản thân giai cấp thống trị hiện thời cũng buộc họ phải dẹp bỏ hết thảy mọi trở ngại có thể kiểm soát được bằng pháp luật đang kìm hãm mọi sự phát triển của giai cấp công nhân” Sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản chỉ được tiến hành khi những mâu thuẫn nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển gay gắt và trở thành đối kháng, đe doạ trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ tư bản chủ nghĩa. Vì vậy nó chỉ có thể xoa dịu mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn xã hội chứ không xoá bỏ được những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản. Ví dụ cuộc khủng hoảng tài chính 1997 có thể làm cho hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa sẽ lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, khi đó quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và ngân hàng thế giới (WB) đã không ngần ngại mở hầu bao cho Hàn Quốc vay 18 tỷ USD, Thái lan vay 12 tỷ USD để sớm khắc phục những hậu quả do cuộc khủng hoảng đó gây ra. Trong khi đó Liên bang Nga, một cường quốc kinh tế, khoa học, quân sự và là một đối tác quan trọng của Mỹ, Tây âu, Nhật bản cũng chỉ được vay 600 triệu USD kèm theo những điều kiện phi lý khác như đẩy nhanh tư nhân hoá nền kinh tế, cải tổ bộ máy nhà nước các cấp... Những giới hạn điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện đại biểu hiện ở chỗ tốc độ tăng trưởng kinh tế không ổn định, còn nhiều tiềm ẩn của sự suy thoái và khủng hoảng. Ví dụ theo đánh giá của quỹ tiền tệ quốc tế IMF tốc độ tăng trưởng kinh tế của thế giới trong thập kỷ 90 cho thấy: năm 1991 là 1,8%, năm 1994 là 4%, năm 1997 là 4,2% và năm 2000 là 4,7%; trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ một siêu cường kinh tế, năm 1991 là 0,9%, năm 1994 là3,5%, năm 1995 là 2,3% và năm 1999 là 3,3%. Lạm phát gia tăng, cụ thể giai đoạn 19601965 lạm phát trung bình là 1,3% và giai đoạn 19811990 trung bình là 4,5%. Ngân sách thâm hụt ngày càng lớn, ví dụ giai đoạn 19641965 là 1,6 tỷ USD, giai đoạn 19791980 là 1,5 tỷ, năm 1989 là 151,1 tỷ USD và năm 1990 trung bình trên 140 tỷ USD, cùng với 15% dân số Mỹ mù chữ và 37,5 triệu người đang sống dưới mức nghèo khổ. Ở các nước tư bản phát triển cùng với những vấn đề nan giải về kinh tế (khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, trì trệ..) là khủng hoảng lòng tin, bạo loạn và tội phạm lan tràn. Nước Mỹ được coi là “biểu tượng”của tự do, nhân quyền với số dân 280 triệu người nhưng có tới hơn 210 triệu khẩu súng các loại được bán cho dân chúng để “tự vệ”. Nước đứng đầu thế giới về kinh tế, khoa học, kỹ thuật quân sự nhưng cũng đứng đầu thế giới về khủng bố, tội phạm và ma tuý.Ví dụ sự kiện khủng bố ngày 1192001 xảy ra tại Mỹ đã làm trên 5000 người bị chết, điều này cũng không có gì xa lạ khi Brêdinki cố vấn an ninh của tổng thống Mỹ Ri Gân đã cảnh báo rằng bước vào thế kỷ 21 các nước tư bản phải đương đầu với 20 vấn đề nan giải đó là bạo lực, khủng hoảng lòng tin, tội phạm, khủng bố, ma tuý, xung đột vũ trang, dịch bệnh, đói nghèo... 2. Mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản hiện nay Mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản xét dưới góc độ kinh tế chính trị đó là do mâu thuẫn ngày càng sâu sắc cả về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu đang dữ địa vị thống trị trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Biểu hiện lực lượng sản xuất đã phát triển đạt đến trình độ xã hội hoá cao, trong khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời, lạc hậu. Đây là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại, mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành những mâu thuẫn chủ yếu sau:
- Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê. Mâu thuẫn này trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh biểu hiện giữa một bên tư bản thì ngày càng giàu có, với một bên người lao động ngày càng bần cùng. Ngày nay dưới chủ nghĩa tư bản hiện đại, người lao động tuy có trình độ chuyên môn ngày càng cao, trong số đó có người là giám đốc, tổng giám đốc. Nhưng vì họ không có tư liệu sản xuất, nên họ vẫn phải bán sức lao động cho nhà tư bản và ở địa vị làm thuê cho nhà tư bản. Tiền lương vẫn là nguồn thu nhập chủ yếu và cũng chỉ đủ sống một cuộc sống đói khổ, họ vẫn bị bần cùng hoá tương đối và tuyệt đối. Trong khi đó các tổ chức độc quyền ngày càng giầu có, ngày càng thu được lượng lợi nhuân kếch xù. Theo tạp chí Povhes tính đến năm 1998 có 225 người giầu nhất thế giới có tổng số vốn 1000 tỷ USD. Điều đó chứng tỏ chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn là xã hội áp bức bóc lột và bất công. Ngày nay mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trên phạm vi quốc tế, mâu thuẫn giữa chế độ tư bản chủ nghĩa với công bằng tiến bộ xã hội và nền văn minh mà loài người đang hướng tới; mâu thuẫn giữa lợi ích các tổ chức độc quyền với những lợi chung có tính chất sống còn của nhân loại. Thứ hai, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển. Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ nghĩa thực dân kiểu mới, các nước tư bản phát triển vẫn không từ bỏ ý đồ lôi kéo các nước đang phát triển đi theo con đường tư bản chủ nghĩa như áp đặt quan hệ kinh tế xã hội không bình đẳng, áp đặt chíng trị tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn cầu. Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, chủ nghĩa tư bản áp dụng chính sách thực dân kinh tế, thực dân công nghệ, thực dân thông tin đối với các nước đang phát triển. Thông qua chính sách kinh tế bất bình đẳng nói trên, các nước tư bản phát triển đã thu được những lợi nhuận kếch xù, những nguồn tài nguyên phong phú và nguồn lao động dồi dào rẻ mạt, còn các nước đang phát triển lại trở thành nơi tiếp nhận nhưng thiết bị công nghệ lạc hậu của các nước tư bản phát triển, nơi hứa hẹn tiếp tục sản sinh ra nhiều giá trị thặng dư, lợi nhuận cho giai cấp tư sản và tư bản độc quyền. Kết quả là khoảng cách giàu nghèo trên thế giới hiện nay có xu hướng ngày càng tăng lên nhanh chóng, biểu hiện sự chênh lệch về thu nhập ( GDP/người/ năm) giữa các nước giàu nhất với các nước nghèo nhất năm 1950 là 44/1 thì đến năm 1999 là 401/1.Bước sang thế kỷ 21 theo số liệu thống kê cho thấy, 3 người giàu nhất thế giới có giá trị tài sản bằng GDP của 48 nước nghèo nhất thế giới cộng lại; tổng thu nhập của 200 người giàu nhất thế giới bằng tổng thu nhập của 41%số dân nghèo nhất. Từ bất bình đẳng về kinh tế dẫn đến những bất bình đẳng về chính trị văn hoá xã hội, nhiều cuộc chiến khủng bố nhằm vào các nước tư bản phát triển nổ ra. Thực tế đó nhiều nước tư bản phát triển sử dụng con bài “nhân quyền” “tự do” chống khủng bố.Ví dụ Mỹ đã lôi kéo nhiêù nước đồng minh tiến hành chiến tranh xâm lược các nước khác, như Apganistan, Irắc; cấm vận Cuba, Iran, Triều tiên. Như vậy chính chủ nghĩa cường quyền về kinh tế và chính sách hiếu chiến phản động về chính trị của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ đã làm cho mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển nhất với các nước đang phát triển ngày càng trở nên gay gắt hơn. Thứ ba, mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền tư bản, giữa các công ty xuyên quốc gia, giữa các trung tâm kinh tế lớn tư bản chủ nghĩa với nhau.
- Đây là mâu thuẫn nội bộ của chủ nghĩa tư bản, nó đã từng tồn tại trong suốt cả thế kỷ XX và vẫn tiếp diễn ở thế kỷ XXI. Chính mâu thuẫn này đã đẩy nhân loại vào 2 cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc nhất trong lịch sử nhân loại (chiến tranh thế giới 1939 1945 đã làm cho 60 triệu người bị chết, 60 triệu người bị tàn phế và thiệt hại về vật chất khoảng 1000 tỷ USD) . Hiện nay mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực kinh tế MỹTây ÂuNhật bản biểu hiện thành các cuộc chiến tranh thương mại, như chiến tranh cá thu, chiến tranh ô tô, chiến tranh sắt thép, các cuộc cạnh tranh giữa các công ty xuyên quốc gia dưới nhiều hình thức trên thị trường chứng khoán. Trong cuộc chiến đó đã có nhiều công ty khổng lồ bị thôn tính và nhiều nước tư bản đã vượt ra khỏi sự khống chế của Mỹ. Thứ tư, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với các nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi Liên xô và Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, có người cho rằng chủ nghĩa xã hội không còn nữa và như vậy mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội cũng không còn nữa.Trên thực tế chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại ở một số quốc gia, vẫn là một thực thể kinh tế chính trị xã hội đối lập với chủ nghĩa tư bản và vẫn là một trào lưu chính trị tư tưởng tiến bộ ở các nước tư bản, các nước đang phát triển và ở cả những nước mà chế độ xã hội chủ nghĩa vừa mới bị tan dã cách đây không lâu. Trong vài thập kỷ gần đây, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó mà thực hiện những điều chỉnh thích nghi về quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội khác, song bản chất kinh tế, bản chất chính trị của chúng vẫn không thay đổi. Về kinh tế đó là sự thống trị của các tổ chức độc quyền trên tất cả các lĩnh vực trong nước và quốc tế, về chính trị là hiếu chiến, xâm lược, phản động và toàn diện. Trước mắt chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn còn tồn tại và tiếp tục điều chỉnh thích nghi nhằm xoa dịu phần nào mâu thuẫn, nên còn có khả năng phát triển. Nhưng xét lâu dài, trên bình diện cả về kinh tế chính trị xã hội, cùng những mâu thuẫn nội tại của nó, chủ nghĩa tư bản ngày nay không phải là chế độ xã hội đóng vai trò tiến bộ trong lịch sử. Vì vậy nó nhất định sẽ bị thay thế bằng một xã hội mới công bằng văn minh và hạnh phúc hơn. Đó là xu hướng lịch sử tất yếu của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
ADSENSE
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn