intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những biến đổi thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện nay

Chia sẻ: Pham Quang Hai | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:12

627
lượt xem
59
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những biến đổi thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện nay gồm có các nội dung chính: Những biến đổi phát triển về lực lượng sản xuất, những điều chỉnh thích nghi về quan hệ sản xuất, giới hạn của sự điều chỉnh thích nghi và những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày nay. Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu để hiểu rõ hơn về nội dung này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những biến đổi thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện nay

  1. NHỮNG BIẾN ĐỔI THÍCH NGHI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN NAY. I. NHỮNG BIẾN ĐỔI PHÁT TRIỂN VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.  1. Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã làm thay đổi về chất những   yêu tố của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.  Cách mạng khoa học­ công nghệ  là sự  hoà nhập những biến đổi về  chất của  khoa học và kỹ  thuật thành một thể  thống nhất, làm thay đổi một cách căn bản mọi  mặt đời sống xã hội của nhân loại. Sự ra đời và ứng dụng những tiến bộ của khoa học­  công nghệ là nhân tố đóng vai trò quyết định để chủ nghĩa tư bản tạo ra cơ sở vật chất   kỹ  thuật mới và chuyển từ  trình độ  công nghệ  này sang trình độ  công nghệ  mới cao  hơn.  a. Những thay đổi mạnh mẽ  về  cơ  sở  vật chất và trình độ  công nghệ  của nền   sản xuất dưới tác động của cách mạng khoa học­ công nghệ.  ­ Về cơ sở vật chất Những thay đổi về cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện  cách mạng khoa học­ công nghệ hiện đại biểu hiện trước hết là sự thay thế từng bước   các tư liệu sản xuất truyền thống  bằng các tư liệu sản xuất hiện đại, trên cơ  sở  ứng   dụng những thành tựu của cách mạng khoa học­ công nghệ, mà trước hết là công nghệ  thông tin, sinh học, vật liệu mới...  Sự phát triển đó, trước hết được biểu hiện ở công cụ lao động và hệ thống dây   chuyền sản xuất đã đạt tới trình độ  tự  động hoá rất cao. Nếu trước kia, máy móc bao  gồm 3 bộ phận (máy phát lực, máy truyền lực, máy công tác) thì nay có thêm thiết bị vi   sử  lý để điều khiển từ xa hoặc lập trình sẵn cho các máy điện toán. Sự  ra đời các thế  hệ máy móc có trình độ  tự  động hoá cao đã tác động mạnh đến các khâu của quá trình  sản xuất, làm tăng tính liên tục, tính chính xác, tính hiệu quả  sản xuất kinh doanh.  Những biến đổi của các tư  liệu sản xuất, đóng góp đáng kể  đến tăng trưởng kinh tế  của các nước tư bản phát triển. Chẳng hạn  ở Nhật đóng góp đó tới 65% , ở Anh 73%   và ở Pháp là 76% ... Do cách mạng khoa học­ công nghệ phát triển ở trình độ cao, nên các đối tượng lao   động cũng xuất hiện theo hướng đa dạng phong phú và bộc lộ  nhiều thuộc tính mới.   Chẳng hạn trước kia dầu mỏ, than đá chỉ dùng để đốt cháy tạo nhiệt năng, thì ngày nay  người ta có thể điều chế hàng trăm sản phẩm nhân tạo, như cao su nhân tạo, tơ nhân tạo,   thậm chí cả nước hoa nhân tạo. Ngay cả khoảng không vũ trụ và các hành tinh trong hệ  mặt trời như Mặt trăng, Sao hoả, Sao kim... không chỉ là đối tượng nghiên cứu của ngành  thiên văn học, ngành hàng không vũ trụ, mà còn là đối tượng nghiên cứu khai thác của   ngành du lịch, luyện kim, khai khoáng. Cũng do khoa học­công nghệ  phát triển, nhiều   nguồn nguyên liệu mới được khai thác, sử dụng theo ngày càng tối ưu. Sự thay đổi về  chất của công cụ  lao động và đối tượng lao động trong nền sản   xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho quy trình công nghệ sản xuất ra của cải vật chất (bao   gồm phương pháp, quy trình, kỹ năng sản xuất) thay đổi từ thủ công, sang bán tự động   và tự động hoàn toàn.Việc ứng dụng có hiệu quả  công nghệ  mới vào sản xuất đã làm   cho cách thức lao động sản xuất của người lao động cũng thay đổi. Chẳng hạn, việc sử  dụng người máy thông minh trong các dây chuyền sản xuất nhằm thay thế các thao tác   cơ bắp, hay một phần hoạt động tư  duy của con người, đã làm cho lao động sống, lao  
  2. động giản đơn, lao động trực tiếp giảm dần; lao động gián tiếp sử  dụng công nghệ  hiện đại theo hướng tự động hoá tăng lên. Nhờ đó mà chi phí sản xuất bình quân và cơ  cấu giá trị của sản phẩm giảm xuống, khối lượng của cải vật chất, năng suất lao động   và hiệu quả sản xuất  kinh doanh được nâng cao.Ví dụ những năm 1960, để tạo ra một   sản phẩm người ta phải chi phí tới 60% nguyên liệu thì đến năm 2000 người ta chỉ chi  phí 10% nguyên liệu cho một sản phẩm. Chỉ riêng trong 2 thập kỷ 60­70 của thế kỷ XX   loài người đã tạo ra khối lượng của cải vật chất công nghiệp gần bằng 270 năm trước   đó gộp lại.  Song cũng cần khẳng định rằng, sự  phát triển vượt bậc về  cơ  sở  vật chất và  trình độ công nghệ trong hơn nửa thế kỷ qua một mặt phản ánh năng lực kỳ  diệu cuả  con người trong quá trình chinh phục tự  nhiên. Nhưng trong khuôn khổ  của nền sản  xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã lợi dụng triệt để những thành tựu đó để thực   hiện tái sản xuất mở rộng. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô và nâng  cao trình độ bóc lột lao động làm thuê.  b. Sự  phát triển về  phân công lao động xã hội và trình độ  chuyên môn ngành   nghề của người lao động. Phân công lao động xã hội là sự phân chia lực lượng lao động thành những nghề  chuyên môn nhất định. Sự phân công lao động càng cao thì trình độ chuyên môn hoá sản  xuất trong các ngành nghề của người lao động càng sâu sắc.  Lịch sử  ra đời, tồn tại và phát triển của chủ  nghĩa tư  bản gắn liền với bóc lột  ngày càng nhiều giá trị  thặng dư. Thực hiện mục đích đó, trong điều kiện cách mạng   khoa học­ công nghệ  hiện đại, các nước tư  bản đã nhanh chóng  ứng dụng thành tựu   khoa học­ công nghệ  vào sản xuất, phát triển phân công lao động xã hội và trình độ  chuyên môn ngành nghề của người lao động.  Sự hiệp tác có phân công trong công trường thủ công làm cho người lao động chỉ  biết tạo ra những chi tiết bộ phận của một sản phẩm hoàn chỉnh. Sự  phân công trong   công trường thủ công và sự ra đời của những công cụ lao động chuyên dụng, đã đào tạo   ra người lao động lành nghề  trong công xưởng. Công xưởng với máy móc ngày càng   hiện   đại   là   kết   quả   phát   triển   cao   của   hình   thức   hiệp   tác   lao   động   tư   bản   chủ  nghĩa.Trong công xưởng, những công cụ thủ công được thay thế bằng những máy móc  và hệ  thống máy móc tinh sảo. Hệ  quả  sự  phân công lao động mới trong công xưởng   được hình thành dựa vào các chức năng của máy móc. Người lao động mất dần tính  độc lập cá nhân và trở thành phụ thuộc vào máy móc. Cũng từ đó xuất hiện nhu cầu về  một bộ phận lao động mới, những chuyên gia được đào tạo kỹ thuật để chế  tạo và sử  dụng các loại máy móc mới. Nhờ  đó thành phần lao động trong các công xưởng được   mở  rộng, chức năng lao động cũng ngày càng phát triển, xuất hiện những ngành, lĩnh   vực mới trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.  Sự ra đời các công ty cổ phần ở các nước tư bản phát triển làm cho mối quan hệ  trực tiếp giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê được bổ sung thêm một tầng lớp trung  gian­ những giám đốc quản lý, điều hành sản xuất dưới sự    lãnh đạo của hội đồng   quản trị. Đội ngũ giám đốc đó, có thể  do những người lao động làm thuê có tài được   nhà tư bản trọng dụng; hoặc họ có một lượng cổ phiếu lớn hơn nhiều so với những cổ  đông khác trong các công ty vừa và nhỏ... Trong điều kiện đó, sự  phân công lao động  đối với giai cấp công nhân không đơn thuần chỉ là những người lao động công xưởng,  
  3. “công nhân áo xanh” lao động trực tiếp mà trong số họ còn có cả những người lao động  làm thuê có học vấn, “công nhân áo trắng”, đó là c lao động gián tiếp, trí óc. Khi ấy ranh   giới giữa chủ  tư  bản công nhân làm thuê và tư  bản quản lý chỉ  còn mang tính tương   đối. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ  đã làm cho nền kinh  tế  tư  bản xuất hiện những “rô­bôt thông minh”, “nhà máy không người”. Nếu so sánh   với giai đoạn đầu cuộc cách mạng công nghiệp(nửa đầu thế  kỷ  19) của chủ  nghĩa tư  bản thì hiện tại phân công lao động đạt tới trình độ  chuyên môn hoá rất cao, theo  hướng lao động trực tiếp sản xuất giảm xuống, lao động dịch vụ cho sản xuất tăng lên.   Hiện nay ở các nước tư bản phát triển, lao động dịch vụ thường tập trung tới 70­75%,   trong đó lao động có tay nghề  cao đạt tới 77,6% và đang diễn ra xu hướng lao động   khoa học kỹ  thuật (lao động trí tuệ  nói chung) ngày càng tăng, lao động giản đơn, lao   động  thấp giảm nhanh. Ví dụ ở Mỹ số lao động có kỹ thuật tăng từ 11% năm 1960 lên   17% năm 1997, số  thợ  đứng máy trực tiếp giảm tương  ứng từ  18% xuống 12%. Như  vậy, xét trong phạm vi toàn bộ  nền kinh tế, sự phân công lao động và trình độ  chuyên   môn hoá ngành nghề của người lao động trong xã hội tư bản hiện đại biểu hiện gồm: ­ Những người trực tiếp đứng máy điều hành sản xuất  ­ Những kỹ  thu ật viên bảo hành, sửa chữa để  bảo đả m sự  vận hành củ a dây   chuyền sản xu ất. ­ Những người quản lý kiểm tra lập trình ở các trung tâm điều khiển.   ­ Các nhà khoa học và công nghệ, các kỹ  thuật viên  ở  các viện nghiên cứu  ứng   dụng và triển khai sản xuất. ­ Các chuyên viên và người lao động của các hãng làm công tác dịch vụ cho sản  xuất và lưu thông hàng hoá. c. Tính hiệu quả ngày càng cao trong từng chủ thể, cũng như toàn bộ nền kinh tế   tư bản chủ nghĩa. Do tác động của cách mạng khoa học­ công nghệ, cùng những mâu thuẫn nội tại  của nó, chủ nghĩa tư  bản đã nhiều lần tổ  chức lại nền sản xuất, nhằm nâng cao hiệu  quả sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế. Chẳng hạn sự điều chỉnh nền sản   xuất lần thứ nhất, diễn ra từ 1950 đến những năm đầu 1970 mà đặc trưng chủ  yếu là   tự điều chỉnh, tự thích nghi để khai thác tối đa mức sản xuất, dựa trên cơ  sở kỹ thuật­  công nghệ cơ khí. Biểu hiện đó là nền sản xuất hàng loạt quy mô lớn, sử dụng rộng rãi   lao động trình độ tương thấp được tổ chức theo kiểu Fort và Taylor, với sản phẩm làm   ra có hàm lượng năng lượng và vật tư cao. Nghĩa là, nền kinh tế  phát triển theo chiều   rộng với năng lực sản xuất chủ yếu dựa vào quy mô máy móc thiết bị  và quy mô sản   xuất chiếm ưu thế. Đến cuối những năm 1970, sự điều chỉnh này vấp phải những giới   hạn, như tốc độ tăng năng xuất có xu hướng giảm, thị trường bão hoà, tài nguyên thiên   nhiên bị cạn kiệt, khủng hoảng mau nổ ra. Giai đoạn tự điều chỉnh, tự thích ứng lần hai  diễn ra từ  đầu những năm 1970 đến nay, trong giai đoạn này các nước tư  bản phát  triển, thực hiện đẩy mạnh mô hình phát triển sản xuất, tiết kiệm các nguồn lực, dựa  trên cơ sở vận dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học­ công nghệ  hiện đại,  nhằm tạo ra khả  năng vượt bậc về  sản xuất  hoặc làm dịu bớt những tác động mang   tính bùng nổ  từ  các mâu thuẫn nội tại nền kinh tế. Do vậy việc tổ chức lại nền sản   xuất dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật mới với đặc trưng chủ yếu là tiết kiệm đến mức  
  4. tối đa các nguồn lực (tài nguyên thiên nhiên, môi trường, sức lực con người, trí tuệ), đề  cao chất lượng hiệu quả, khai thác khả năng sáng tạo của con người kết hợp với điều  tiết tích cực của các quan hệ thị trường.  Sự điều chỉnh cơ cấu tổ chức sản xuất trong điều kiện cách mạng khoa học công  nghệ, đã tạo cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có sức cạnh tranh mới, cạnh tranh bằng   việc đổi mới công nghệ. Nhiều nhà máy có máy móc hiện đại sử dụng  ít lao động xuất   hiện. Sự theo đuổi lợi nhuận siêu ngạch bằng đổi mới công nghệ, đã làm cho năng suất   lao động tăng lên nhanh chóng. Chẳng hạn, nếu mức tăng năng suất lao động hàng năm  ở các nước tư bản nói chung năm 1990­1991 là 2% thì năm 1995 là 5,0% và năm 1997 là  5,1%. Với các nước G7 tương  ứng là 2% năm 1990­1991 và 5,4% năm 1997. Người ta   tính rằng, trong tăng trưởng kinh tế của các nước tư bản phát triển, có tới 3/5 là do tăng  năng xuất lao động, mà chủ yếu là nhờ vào sự đóng góp quan trọng  của khoa học­ công  nghệ mới, ví dụ sự đóng góp đó ở Nhật Bản là 63%, ở Mỹ là 52%, ở Hàn Quốc là 14%.  Với sự đóng góp nói trên, đã đưa nền kinh tế Mỹ trong 10 năm cuối thế kỷ XX liên tục   tăng trưởng, đặc biệt năm 2000 tăng trưởng kinh tế Mỹ đạt mức kỷ lục 5,2%, nền kinh   tế  Tây âu tăng từ  2,9­3,1% và nền kinh tế  Nhật tiếp tục phục hồi  ở mức tăng trưởng   1,4%. Ngày nay dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ  , nền kinh tế  các nước tư bản phát triển diễn ra theo hai xu hướng dường như đối lập nhau, nhưng   thực ra thống nhất với nhau, đó là kiểu tổ  chức sản xuất nhằm đạt hiệu quả  kinh tế  cao. Một là xu hướng tập trung hoá, hình thành những công ty khổng lồ bành trướng sự  hoạt động ra ngoài biên giới quốc gia và trở thành những công ty độc quyền xuyên quốc   gia có chi nhánh hoạt động  ở  nhiều quốc gia, kinh doanh đa ngành với doanh số  đạt   hàng trăm tỷ đô la/năm. Ví dụ công ty GMC của Mỹ năm 1992 có doanh số 132 tỷ đô la,  với 136 chi nhánh hoạt động  ở  hơn 100 nước, sử  dụng 876 ngàn người, chuyên sản  xuất ô tô, đồ  điện, tua­bin khí và đầu máy dieden. Hai là xu hướng phi tập trung hoá,   biểu hiện sự phát triển nhanh các công ty vừa và nhỏ ở các nước tư bản phát triển. Ví  dụ   ở   Mỹ   trong   những   năm   80,   số   doanh   nghiêp   vừa   và   nhỏ   tăng   từ   500.000­ 700.000/năm.   Ở   Nhật   doanh   nghiệp   vừa   và   nhỏ   chiếm   tới   99,43%   tổng   số   doanh   nghiệp, sản xuất ra trên 58% mặt hàng, chiếm quá 1/2 hàng hoá xuất khẩu. Ơ Đức vào  giữa những năm 1990, có 2,1 triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 99% tổng số doanh   nghiệp cả nước, tạo ra 1/2 tổng số sản phẩm quốc dân. Sở dĩ có hiện tượng này là vì,  xí nghiệp nhỏ dễ nhạy cảm trong sản xuất và thị trường, dễ đáp ứng được cá biệt hoá  nhu cầu, dễ đổi mới công nghệ và dễ  kết hợp công nghệ  truyền thống với công nghệ  hiện đại trong sản xuất kinh doanh.  Cùng với quá trình điều chỉnh cơ  cấu sản xuất là sự  xuất hiện và  ứng dụng có  hiệu quả các dạng công nghệ mới vào sản xuất và đời sống. Đó là công nghệ thông tin,  công nghệ  sinh học, công nghệ  vật liệu mới, năng lượng sạch... Chính nhờ  có các tư  liệu lao động hiện đại cùng công nghệ tiên tiến mà cách thức sản xuất và cơ cấu giá trị  của một đơn vị  sản phẩm hàng hoá đã có những thay đổi căn bản. Chẳng hạn chi phí  nguyên liệu những năm 1960 còn chiếm 60% giá thành sản phẩm thì đến năm 2000 chi  phí này chỉ còn dưới 10%.   2. Lực lượng sản xuất phát triển làm thay đổi mạnh mẽ  cơ  cấu nền kinh   tế tư bản chủ nghĩa.
  5. a. Những thay đổi về cơ cấu ngành kinh tế. Bước chuyển từ  nền kinh tế  công nghiệp với cơ  sở  vật chất kỹ  thuật truyền   thống sang cơ sở  vật chất mới dưới tác động của cách mạng khoa học­ công nghệ  đã   tạo ra sự  chuyển dịch lớn về cơ cấu kinh tế. Trước hết là cơ cấu ngành, từ chỗ trước kia cơ cấu kinh tế là nông nghiệp­công  nghiệp­ dịch vụ, nay được thay thế  bằng cơ  cấu dịch vụ­ công nghiệp­ nông nghiệp   theo hướng tỷ trọng các ngành nông nghiệp, công nghiệp giảm dần, tỷ trọng các ngành   dịch vụ  tăng lên tương  ứng. Ví dụ  các nước tư  bản phát triển như  Mỹ, Bắc Âu, tỷ  trọng các ngành nông nghiệp trong GDP giảm từ 6,4% năm 1960 xuống còn 2,7% năm   1990, các ngàng công nghiệp sự giảm tương ứng là 30,4% và 23,1% và các nghành dịch  vụ tăng lên từ  52,2% lên 65%. Ngay trong bản thân các ngành công nghiệp cũng có sự  thay đổi căn bản như, công nghiệp truyền thống (công nghiệp khai thác nguyên, nhiên,  vật liệu, công nghiệp sơ  chế) giảm dần, từ  2,7% năm 1960 xuống còn 1% năm 1990,   các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao, ngày càng chiếm ưu thế  như: quang học, điện tử  vi mạch, hàng không vũ trụ, khai thác năng lượng nguyên tử  vào mục đích hoà bình...Trong lĩnh vực dịch vụ  thì hoạt động tài chính ngày càng trở  thành nghành kinh tế trụ cột trong nền kinh tế quốc dân. Ví dụ ở Nhật những năm 1960   phát triển ngành luyện kim đóng tàu thì những năm 1980 trở lại đây chủ yếu phát triển  ngành điện tử và ngân hàng; vì thế trong số 10 ngân hàng lớn nhất thế giới,  Nhật bản   từ  chỗ  trước kia chưa có tên tuổi, nay vươn lên đứng hàng thứ  8 vào năm 2000. Xu   hướng chung là phát triển những ngành sử  dụng ít nguyên liệu, ít năng lượng, ít lao   động sống, phát triển những ngành có hàm lượng chất xám cao. Cùng với thay đổi cơ  cấu nghành, cơ cấu sản phẩm cũng có sự thay đổi tương ứng. Những sản phẩm có hàm  lượng khoa học công nghệ  cao ngày càng chiếm vị  trí quan trọng trên thị  trường sản  phẩm với giá cả ổn định hoặc tăng lên.   b.Những thay đổi về cơ cấu vùng kinh tế. Do bước chuyển từ cơ sở vật chất cũ sang cơ sở vật chất kỹ thuật mới về chất,  đã tác động đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội và tạo ra những khả năng mới để điều   chỉnh cơ  cấu ngành, vùng của nền kinh tế. Ngày nay các nước phát triển, tuy có vị  trí  địa lý và điều kiện kinh tế  ­ xã hội khác nhau, song sự  khác nhau đó chỉ  quy định đến  tính đặc thù của sự  điều chỉnh  ở  mỗi nước.  Chẳng hạn khác nhau về  mức độ  và  phương pháp điều chỉnh, chứ không một quốc gia nào lại không thực hiện điều chỉnh.   Mục đích của sự  điều chỉnh cơ  cấu ngành, vùng  ở  các nền kinh tế  phát triển là nhằm   thiết lập một cơ  cấu kinh tế  thích  ứng cho phát triển và giải quyết những mâu thuẫn  trước mắt của nền kinh tế. Kết quả tạo nên sự xích lại gần nhau về khoảng cách  giữa  công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị  và nông thôn cả  về  điều kiện làm việc và  mức hưởng thụ cuộc sống, theo đó mà thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và  khu vực. c.Những thay đổi về cơ cấu thị trường.  Cách mạng khoa học­ công nghệ  thúc đẩy phân công lao động xã hội vượt ra  ngoài biên giới quốc gia, cùng với biến đổi cơ cấu ngành, vùng ở các nước công nghiệp   phát triển, đã tạo nên sự  dịch chuyển ngành, từ  nước này sang nước khác, từ  khu vực   này sang khu vực khác, hình thành thị  trường không biên giới. Từ  sau chiến tranh thế  giới thứ hai đến nay, cơ cấu thị trường thế giới có sự thay đổi như sau. 
  6. Một là, hình thành đồng bộ nhiều loại thị trường như: Theo đối tượng giao dịch mua bán, có thị trường hàng hoá và dịch vụ như lúa gạo,   thị trường ngoại tệ, thị trường chứng khoán. Theo ý nghĩa vai trò đối tượng mua bán, có thị trường tư liệu sản xuất, thị trường   lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học ­ công nghệ. Theo tính chất và cơ  chế  vận hành, có thị  trường tự  do, thị  trường cạnh tranh   hoàn hảo, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, thị  trường độc quyền cạnh tranh, thị  trường tự do có điều tiết của chính phủ.  Theo quy mô và phạm vi các quan hệ kinh tế, có thị trường địa phương khu vực,   thị trường trong nước thị trường quốc gia quốc tế.   Hai là, tự do hoá thị trường trở thành một xu hướng cơ bản, nhất là trong những   thập kỷ gần đây.Ví dụ  thị trường chung châu Âu có 15 nước thành viên tham gia trong   đó có 11 quốc gia tham gia liên minh tiền tệ. Ba là,  thị  trường quốc tế  phát triển cả  bề  rộng lẫn bề  sâu cùng với xuất hiện  nhiều loại thị trường mới như thị trường phần mềm tin học, thị tr ường công nghệ  sinh  học, thị trường sản phẩm có hàm lượng chất xám cao Bốn là, thị trường có sự ưu đãi ở mức độ khác nhau đối với các bạn hàng liên kết   và phân biệt đối sử với các bạn hàng khác. II. NHỮNG ĐIỀU CHỈNH THÍCH NGHI VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT.  Sự phát triển lực lượng sản xuất dưới tác động cách mạng khoa học­ công nghệ  đã thay đổi tính chất, trình độ  phân công lao động xã hội và hiệu quả  sản xuất kinh  doanh trong toàn bộ nền kinh tế. Với kết quả của quá trình đó mang lại là điều kiện để  giai cấp tư sản và nhà nước tư bản thực hiện điều chỉnh từng mặt quan hệ sản xuất để  thích nghi tồn tại và phát triển trong điều kiện mới. Song mục đích của nền sản xuất tư  bản chủ nghĩa là giá trị  thặng dư, lợi nhuận, do đó giai cấp tư  sản và nhà tư  bản luôn  tìm mọi biện pháp phương tiện để  nâng cao năng xuất lao động và hiệu quả  sản xuất  kinh doanh. Vì vậy sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện đại, chẳng qua  chỉ  là quá trình xã hội hoá quan hệ  sản xuất theo lối tư  bản chủ  nghĩa nhằm xoa dịu   phần nào mâu thuẫn vốn có của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.  1. Sự điều chỉnh về quan hệ sở hữu. Mục đích những điều chỉnh thích nghi về  quan hệ  sở  hữu trong nền kinh tế  tư  bản chủ nghĩa hiện nay là tiếp tục duy trì củng cố quan hệ chiếm hữu tư nhân tư  bản   về tư liệu sản xuất, làm cho nó phù hợp phần nào với trình độ phát triển của lực lượng   sản xuất, xoa dịu mâu thuẫn giữa tư  bản với lao động làm thuê. Sự  điều chỉnh này  được biểu hiện thông qua những nội dung sau. ­ Thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Đẩy mạnh cổ  phần hoá tư  bản chủ  nghĩa bằng cách chuyển công ty tư  nhân  thành các công ty cổ  phần với sự  góp vốn của các nhà tư  bản lớn, nhỏ  và người lao   động dưới hình thức mua cổ phiếu. Chẳng hạn  ở Thuỵ điển có tới 21% dân cư  có cổ  phần trong các doanh nghiệp, ở Pháp có 6 triệu người, ở Anh có 8 triệu người, ở Mỹ có   khoảng 35­ 40 triệu người là cổ  đông. Khi đó người lao động mua cổ  phiếu trở  thành  cổ đông để sở hữu một phần tài sản của công ty và hưởng lợi tức cổ phần, nhà tư bản  – các tổ chức độc quyền, huy động các nguồn vốn để phát triển sản xuất cả chiều rộng   và chiều sâu. Thông qua chế  độ  tham dự  mới theo mô hình 1 công ty mẹ  khống chế 
  7. nhiều công ty con, 1 công ty con khống chế nhiều công ty cháu... nhờ đó mà quyền lực   kinh tế chính trị xã hội của nhà tư bản, các tổ chức độc quyền tăng lên. Hình thức sở hữu tư nhân chuyển dần thành hình thức sở  hữu hỗn hợp.Vì trong  qua trình hoạt động sản xuất kinh doanh các nhà tư bản lớn đã từng bước thôn tính các  doanh nghiệp vừa và nhỏ, lôi cuốn chúng vào quỹ đạo hoạt động của mình dưới những   hình thức khác nhau, các doanh nghiệp nhỏ này trở thành vệ tinh nhận thầu và thầu lại  cho các doanh nghiệp lớn. Ví dụ  công ty General Electric của Mỹ  đã tập trung xung  quanh mình 3200 xí nghiệp thành viên với mức độ liên kết khác nhau, thực hiện những   chức năng khác nhau. Hình thức sở hữu cũng ngày càng đa dang phong phú bao gồm; sở hữu tư liệu sản  xuất, sở hữu về mặt giá trị dưới hình thức vốn tự có, vốn cổ phần,vốn cho vay; sở hữu  trí tuệ; sở hữu công trình khoa học, bằng phát minh sáng chế .... ­Thực hiện đa dạng hoá hình thức sở hữu độc quyền. Về  hình thức sở  hữu độc quyền xuyên quốc gia. Do đẩy mạnh quá trình tích tụ  và tập trung sản xuất dưới tác động của quy luật cạnh tranh và quy luật kinh tế cơ bản   cùng những điều kiện quốc tế  hoá về  sản xuất tư  bản và thông tin. Các tổ  chức độc   quyền đã vượt biên giới quốc gia thực hiện kinh doanh quốc tế dưới nhiều hình thức và  trở  thành công ty xuyên quốc gia. Khi ra ngoài biên giới quốc gia, các công ty này thực  hiện liên kết để ngày càng thâu tóm nhiều tư liệu sản xuất, vốn trí tuệ  quốc tế, tạo ra   nhiều hình thức sở  hữu hỗn hợp mang tính quốc tế. Ví dụ  xí nghiệp liên doanh sản  xuất thép P.T Kracatau ở Inđônêxia có sự  góp vốn của Tây ban nha 10%, Pháp 10%, tư  bản tư nhân Inđônêxia 40% và nhà nước Inđô nêxia 40%. Về  hình thức sở  hữu độc quyền nhà nước hay sở  hữu hỗn hợp của tập thể  tư  bản, về bản chất là một. Ăng ghen chỉ rõ: Nhà nước tư sản là nhà nước của các nhà tư  bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản   xuất thành tài sản của nó, thì nó lại biến thành nhà tư bản tập thể, thực sự bấy nhiêu.   Sở hữu động quyền nhà nước được hình thành thông qua con đường quốc hữu hoá các  xí nghiệp tư bản tư nhân, xây dựng mới bằng cách chi ngân sách nhà nước, góp vốn cổ  phần và mua lại một phần xí nghiệp tư bản tư nhân. Khi đó tính hỗn hợp biểu hiện rõ  trong trường hợp mua một phần hoặc bán cổ  phần xí nghiệp nhà nước cho tư  nhân  trong và ngoài nước. Việc hình thành sở  hữu nhà nước trong nền kinh tế  tư  bản chủ  nghĩa, một mặt biến nhà nước tư  sản thành nhà tư  bản khổng lồ, vừa là chủ  sở  hữu  vừa là người sử dụng, vừa là người sản xuất vừa là người tiêu dùng, vừa là chủ nợ vừa   là con nợ. Mặt khác biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ đắc lực nhất cho lợi  ích các tổ chức độc quyền và cho toàn bộ giai cấp tư sản. Về  hình thức sở  hữu của tư  bản tài chính. Sự  xuất hiện tư  bản tài chính đã lôi   cuốn hầu như toàn bộ tư bản ở các nghành sản xuất, lưu thông vào cơ cấu tổ chức của   mình, hình thành nên một cơ cấu mang tính hỗn hợp về sở hữu. Bao gồm sở hữu về tài  chính, sở hữu về nguồn tài nguyên quý hiếm trong nước và quốc tế. Sức mạnh kinh tế  của các tổ chức độc quyền không chỉ do quy mô tư bản, khối lương, chất lượng các tư  liệu sản xuất quyết định. Nó phụ thuộc vào cả những nguồn lực phi vật thể khác như  thương hiệu, tư cách pháp nhân, quyền sở hữu trí tuệ...  Những hình thức thích nghi về quan hệ sở hữu, hoàn toàn không làm cho quan hệ  sản xuất tư bản chủ nghĩa thay đổi. Bản chất của nó vẫn là chế độ chiếm hữu tư nhân 
  8. tư bản chủ nghĩa. Sở hữu của các tổ chức độc quyền vẫn giữ vai trò thống trị. Quyền  lực kinh tế chính trị xã hội của các tổ chức độ quyền tăng lên. Tính chất độc quyền tư  bản chủ nghĩa phát triển lên một trình độ mới cao hơn nhiều so với thời kỳ đầu thế kỷ  XX khi nó mới ra đời.  2. Sự điều chỉnh thích nghi về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất .   Mục đích của những điều chỉnh này nhằm khai thác tối đa nguồn lực con người   phục vụ cho khát vọng làm giàu của các nhà tư bản và toàn bộ giai cấp tư sản. Tạo nên  sự   ảo tưởng về  vai trò, địa vị  giữa tư  bản và công nhân trong quá trình sản xuất kinh  doanh, từ đó xoa dịu mâu thuẫn giai cấp trong xã hội. Tạo ra mối quan hệ “Tự do­Bình   đẳng­Bắc ái” hơn cho giai cấp vô sản, nhà tư  bản thông qua việc giai cấp tư  sản lợi   dụng triệt để những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học   xã hội như (điều khiển học, tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học...) vào phục vụ cho  công tác quản lý. Về quản lý vĩ mô, nhà nước tư sản tăng cường vai trò kinh tế và trở thành  trung  tâm điêù chỉnh nền kinh tế bằng luật pháp, bằng chương trình hoá và bằng các công cụ,  chính sách kinh tế  khác.Ví dụ  điều chỉnh bằng chương trình hoá như; chi ngân sách  được thực hiện theo các chương trình kinh tế  xã hội trung, dài hạn bao gồm chương   trình phục hồi kinh tế, chương trình phát triển và  ứng dụng tiến bộ  khoa học và công  nghệ, chương trình cải biến cơ cấu kinh tế; điều chỉnh cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị  trường thông qua hợp đồng, đồng thời hỗ  trợ  những nghành truyền thống cần được   tiếp tục duy trì và những nghành mũi nhọn công nghệ  cao; điều tiết tiến bộ  khoa học   công nghệ bằng tăng chi ngân sách cho nghiên cứu và phát triển, tăng tài trợ cho nghiên   cứu ứng dụng của các công ty tư nhân hoặc mua công nghệ  nước ngoài v.v. Nhà nước  vận dụng thành tựu khoa học công nghệ vào quản lý, điều chỉnh bằng công cụ quản lý   mềm dẻo uyển chuyển. Ví dụ  các nước phát triển đưa ra bảng cân đối kinh tế  liên  nghành. Sự can thiệp trực tiếp ngày càng sâu của nhà nước tư sản vào các quá trình kinh  tế, làm cho một số  lĩnh vực trong những thời điểm nhất định giảm được tỷ  lệ  lạm  phát , kinh tế tăng trưởng cao. Điều này dễ làm cho một số người lầm tưởng rằng nhà   nước tư sản đang thực sự là một “cơ quan công quyền”, là người “đại biểu quyền lợi”   cho cả giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Về  quản lý vi mô, tuỳ  theo điều kiện cụ  thể  mà tổ  chức quy mô sản xuất là xí  nghiệp, công ty hay tập đoàn kinh tế  cho phù hợp với nền kinh tế  thị  trường. Nhà tư  bản mở rộng hình thức tự quản để khai thác tối đa nguồn lực con người, khi ấy người   công nhân có thể  tự  lựa chọn thời gian thích hợp để  đến công ty làm việc. Trong số  những công nhân làm thuê, ai có tài trong quản lý thì được nhà tư bản tin dùng giao cho   chức   vụ   quản   lý   (giám   đốc   điều   hành   sản   xuất,   giám   đốc   kỹ   thuật,   giám   đốc   maketting ). Việc mini hoá xí nghiệp, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh   doanh dễ dàng (chuyển đổi công nghệ, chuyển đổi sản phẩm và xâm nhập thị trường)   trong điều kiện cạnh tranh gay gắt. Mặt khác, nhằm tạo ra một không khí chan hoà   “thân thương” giữa người quản lý với người trực tiếp lao động, tạo vẻ  nhà tư  bản đã   quan tâm tới công ăn việc làm của công nhân và làm cho khoảng cách giữa ông chủ  và  người làm thuê bị xoá nhoà...
  9. Kết quả của sự  điều chỉnh thích nghi này là tạo ra được sự  thích ứng nhất định  để  thúc đẩy xã hội hoá lực lượng sản xuất, xoa dịu phần nào mâu thuẫn giữa tư  bản  với công nhân lao động làm thuê trong quá trình sản xuất kinh doanh. 3. Sự điều chỉnh về quan hệ phân phối   Mục đích của sự  điều chỉnh thích nghi về  quan hệ  phân phối là nhằm bảo đảm   cả lợi ích trước mắt, lẫn lợi ích lâu dài cho nhà tư bản, đồng thời làm tăng sự lệ thuộc   của công nhân làm thuê vào nhà tư bản. Thực  hiện mục đích đó, nhà tư bản dùng một   phần lợi nhuận để phân phối lại cho người lao động làm thuê dưới hình thức như tăng   lương, thưởng, trả  lợi tức cổ  phiếu. Nhà nước tư  sản dùng thêm ngân sách để  giải  quyết các vấn đề xã hội như giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường. Những việc làm này đã   cải thiện được một phần đời sống vật chất, tinh thần của người công nhân làm thuê,   nhưng xét cho cùng thì các khoản “ban phát” đó đều có cùng nguồn gốc từ giá trị thặng   dư và đều có mục đích vì giá trị thăng dư cho nhà tư bản. Những điều chỉnh về quan hệ phân phối này đã làm cho một số người lầm tưởng  rằng chủ nghĩa tư  bản đã thay đổi về  bản chất, nó không còn là xã hội áp bức bóc lột   và bất công. Trong nền kinh tế tư bản hiện nay “toàn dân là tư sản”, từ đó dễ dàng thủ  tiêu phong trào đấu tranh của công nhân.  Tóm lại: Quá trình điều chỉnh thích nghi về  quan hệ  sản xuất của chủ  nghĩa tư  bản hiện đại đã tạo ra bước phát triển mới của lực lương sản xuất, tạo ra những cơ sở  về kinh tế và xã hội để kéo dài sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhưng về  bản chất, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn không hề thay đổi. Tính chất bóc lột   tư bản ngày càng tinh vi và tàn bạo hơn. Quyền lực kinh tế, chính trị, xã hội của các tổ  chức độc quyền ngày càng tăng lên. Người công nhân làm thuê và giai cấp vô sản ngày  càng lệ thuộc nhiều hơn vào nhà tư bản và giai cấp tư sản.Chủ nghĩa tư  bản hiện đại  vẫn nằm trong giai đoạn độc quyền, trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chứ  hoàn toàn không phải là một chế  độ  xã hội mới như  các học giả  của giai cấp tư  sản   vẫn tuyên truyền. III.   GIỚI   HẠN   CỦA   SỰ   ĐIỀU   CHỈNH   THÍCH   NGHI   VÀ   NHỮNG   MÂU  THUẪN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY. Dưới tác động của cách mạng khoa học­ công nghệ hiện đại chủ nghĩa tư bản đã   thực hiện điều chỉnh thích nghi được một số  mặt của lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất. Điều đó đã và đang tạo ra những điều kiện mới để chủ nghĩa tư bản tiếp tục   tồn tại và phát triển. Song quá trình đó không phải chủ  nghĩa tư  bản  điều chỉnh thích  nghi được tất cả  các mặt, mà có những mặt chúng không thể  điều chỉnh thích nghi  được, đó chính là giới hạn của sự điều chỉnh. 1. Giới hạn của sự điều chỉnh thích nghi.  Xét về lý luận, giới hạn chung về sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản   hiện đại chính là quan hệ  sản xuất dựa trên chế  độ  chiếm hữu tư  nhân tư  bản chủ  nghĩa về  tư  liệu sản xuất. Vì mục đích của điều chỉnh thích nghi là phải phục vụ  lợi   ích  của giai cấp tư sản và các tổ chức độc quyền, là củng cố vững chắc hơn sự thống   trị của các tổ chức độc quyền trên tất cả các lĩnh vực trong nước và quốc tế. Nếu điều   chỉnh mà làm phương hại đến lợi ích của giai cấp tư sản và các tổ chức độc quyền thì  chúng không bao giờ thực hiện. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhận xét của C Mác về  chủ nghĩa tư bản “Không kể đến những động cơ cao xa hơn, lợi ích bức thiết nhất của 
  10. bản thân giai cấp thống trị hiện thời cũng buộc họ phải dẹp bỏ hết thảy mọi trở ngại   có thể  kiểm soát được bằng pháp luật đang kìm hãm mọi sự  phát triển của giai cấp  công nhân” Sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản chỉ được tiến hành khi những mâu  thuẫn nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển gay gắt và trở  thành đối kháng, đe doạ trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ tư bản chủ nghĩa. Vì vậy   nó chỉ  có thể  xoa dịu mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn xã hội chứ  không xoá bỏ  được   những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản. Ví dụ cuộc khủng hoảng tài chính 1997  có thể làm cho hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa sẽ lâm vào cuộc khủng hoảng kinh  tế  trầm trọng, khi đó quỹ  tiền tệ  quốc tế (IMF) và ngân hàng thế  giới (WB) đã không   ngần ngại mở hầu bao cho Hàn Quốc vay 18 tỷ USD, Thái lan vay 12 tỷ USD để  sớm  khắc phục những hậu quả do cuộc khủng hoảng đó gây ra. Trong khi đó Liên bang Nga,  một cường quốc kinh tế, khoa học, quân sự  và là một đối tác quan trọng của Mỹ, Tây  âu, Nhật bản cũng chỉ được vay 600 triệu USD kèm theo những điều kiện phi lý khác  như đẩy nhanh tư nhân hoá nền kinh tế, cải tổ bộ máy nhà nước các cấp... Những giới hạn điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản hiện đại biểu hiện ở  chỗ  tốc độ  tăng trưởng kinh tế  không  ổn định, còn nhiều tiềm  ẩn của sự  suy thoái và   khủng hoảng. Ví dụ theo đánh giá của quỹ tiền tệ quốc tế IMF tốc độ tăng trưởng kinh  tế  của thế  giới trong thập kỷ  90 cho thấy: năm 1991 là 1,8%, năm 1994 là 4%, năm   1997 là 4,2% và năm 2000 là 4,7%; trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ­ một   siêu cường kinh tế, năm 1991 là 0,9%, năm 1994 là3,5%, năm 1995 là 2,3% và năm 1999   là 3,3%. Lạm phát gia tăng, cụ thể giai đoạn 1960­1965 lạm phát trung bình là 1,3% và   giai đoạn 1981­1990 trung bình là 4,5%. Ngân sách thâm hụt ngày càng lớn, ví dụ  giai  đoạn 1964­1965 là 1,6 tỷ USD, giai đoạn 1979­1980 là 1,5 tỷ, năm 1989 là 151,1 tỷ USD   và năm 1990 trung bình trên 140 tỷ USD, cùng với 15% dân số Mỹ mù chữ và 37,5 triệu   người đang sống dưới mức nghèo khổ. Ở các nước tư bản phát triển cùng với những vấn đề nan giải về kinh tế (khủng  hoảng, thất nghiệp, lạm phát, trì trệ..) là khủng hoảng lòng tin, bạo loạn và tội phạm   lan tràn. Nước Mỹ được coi là “biểu tượng”của tự do, nhân quyền với số dân 280 triệu  người nhưng có tới hơn 210 triệu khẩu súng các loại được bán cho dân chúng để  “tự  vệ”. Nước đứng đầu thế giới về kinh tế, khoa học, kỹ thuật quân sự nhưng cũng đứng  đầu thế giới về khủng bố, tội phạm và ma tuý.Ví dụ sự kiện khủng bố ngày 11­9­2001  xảy ra tại Mỹ  đã làm trên 5000 người bị  chết, điều này cũng không có gì xa lạ  khi  Brêdinki cố vấn an ninh của tổng thống Mỹ Ri Gân đã cảnh báo rằng bước vào thế kỷ  21 các nước tư  bản phải đương đầu với 20 vấn đề  nan giải đó là bạo lực, khủng  hoảng lòng tin, tội phạm, khủng bố, ma tuý, xung đột vũ trang, dịch bệnh, đói nghèo... 2. Mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản hiện nay     Mâu thuẫn của chủ nghĩa tư  bản xét dưới góc độ  kinh tế  chính trị  đó là do mâu   thuẫn ngày càng sâu sắc cả  về  tính chất và trình độ  của lực lượng sản xuất với quan   hệ  sản xuất dựa trên chế  độ  chiếm hữu tư  nhân về  tư  liệu đang dữ  địa vị  thống trị  trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Biểu hiện lực lượng sản xuất đã phát triển đạt đến  trình độ  xã hội hoá cao, trong khi quan hệ  sản xuất tư  bản chủ nghĩa đã lỗi thời, lạc   hậu. Đây là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại, mâu thuẫn này biểu hiện   về mặt xã hội thành những mâu thuẫn chủ yếu sau:
  11. Thứ nhất,  mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê. Mâu thuẫn này trong thời   kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh biểu hiện giữa một bên tư bản thì ngày càng giàu  có, với một bên người lao động ngày càng bần cùng. Ngày nay dưới chủ nghĩa tư bản  hiện đại, người lao động tuy có   trình độ  chuyên môn ngày càng cao, trong số  đó có  người là giám đốc, tổng giám đốc. Nhưng vì họ không có tư liệu sản xuất, nên họ vẫn   phải bán sức lao động cho nhà tư bản và ở địa vị làm thuê cho nhà tư  bản. Tiền lương  vẫn là nguồn thu nhập chủ yếu và cũng chỉ đủ sống một cuộc sống đói khổ, họ vẫn bị  bần cùng hoá tương đối và tuyệt đối. Trong khi đó các tổ  chức độc quyền ngày càng   giầu có, ngày càng thu được lượng lợi nhuân kếch xù. Theo tạp chí Povhes tính đến  năm 1998 có 225 người giầu nhất thế giới có tổng số vốn 1000 tỷ USD. Điều đó chứng  tỏ  chủ nghĩa tư  bản ngày nay vẫn là xã hội áp bức bóc lột và bất công. Ngày nay mâu   thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa giai cấp   tư  sản và giai cấp vô sản trên phạm vi quốc tế, mâu thuẫn giữa chế  độ  tư  bản chủ  nghĩa với công bằng tiến bộ  xã hội và nền văn minh mà loài người đang hướng tới;   mâu thuẫn giữa lợi ích các tổ  chức độc quyền với những lợi chung có tính chất sống   còn của nhân loại. Thứ hai, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển. Sau sự  sụp đổ  của chủ  nghĩa thực dân kiểu cũ và chủ  nghĩa thực dân kiểu mới,   các nước tư  bản phát triển vẫn không từ  bỏ  ý đồ  lôi kéo các nước đang phát triển đi  theo con đường tư bản chủ nghĩa như  áp đặt quan hệ  kinh tế  xã hội không bình đẳng,  áp đặt chíng trị tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn cầu. Từ những năm 80 của thế  kỷ XX đến nay, chủ  nghĩa tư  bản áp dụng chính sách  thực dân kinh tế, thực dân công nghệ, thực dân thông tin đối với các nước đang phát  triển. Thông qua chính sách kinh tế  bất bình đẳng nói trên, các nước tư  bản phát triển   đã thu được những lợi nhuận kếch xù, những nguồn tài nguyên phong phú và nguồn lao  động dồi dào rẻ  mạt, còn các nước đang phát triển lại trở  thành nơi tiếp nhận nhưng   thiết bị  công nghệ  lạc hậu của các nước tư  bản phát triển, nơi hứa hẹn tiếp tục sản   sinh ra nhiều giá trị thặng dư, lợi nhuận cho giai cấp tư sản và tư bản độc quyền. Kết  quả  là khoảng cách giàu nghèo trên thế  giới hiện nay có xu hướng ngày càng tăng lên   nhanh chóng, biểu hiện sự  chênh lệch về  thu nhập ( GDP/người/ năm) giữa các nước   giàu nhất với các nước nghèo nhất năm 1950 là 44/1 thì đến năm 1999 là 401/1.Bước   sang thế kỷ 21 theo số liệu thống kê cho thấy, 3 người giàu nhất thế  giới có giá trị  tài   sản bằng GDP của 48 nước nghèo nhất thế giới cộng lại; tổng thu nhập của 200 người   giàu nhất thế giới bằng tổng thu nhập của 41%số dân nghèo nhất. Từ bất bình đẳng về  kinh tế  dẫn đến những bất bình đẳng về  chính trị­ văn hoá­ xã hội, nhiều cuộc chiến  khủng bố  nhằm vào các nước tư  bản phát triển nổ  ra. Thực tế  đó nhiều nước tư  bản   phát triển sử dụng con bài “nhân quyền” “tự do” chống khủng bố.Ví dụ Mỹ  đã lôi kéo  nhiêù nước đồng minh tiến hành chiến tranh xâm lược các nước khác, như Apganistan,  Irắc; cấm vận Cuba, Iran, Triều tiên. Như vậy chính chủ nghĩa cường quyền về kinh tế  và chính sách hiếu chiến phản động về  chính trị  của chủ  nghĩa đế  quốc, đứng đầu là  đế quốc Mỹ đã làm cho mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển nhất với các nước   đang phát triển ngày càng trở nên gay gắt hơn.  Thứ  ba, mâu thuẫn giữa các tổ  chức độc quyền tư  bản, giữa các công ty xuyên   quốc gia, giữa các trung tâm kinh tế lớn tư bản chủ nghĩa với nhau.
  12. Đây là mâu thuẫn nội bộ của chủ nghĩa tư bản, nó đã từng tồn tại trong suốt cả  thế kỷ XX và vẫn tiếp diễn ở thế kỷ XXI. Chính mâu thuẫn này đã đẩy nhân loại vào 2  cuộc chiến tranh thế  giới tàn khốc nhất trong lịch sử  nhân loại (chiến tranh thế  giới   1939­ 1945 đã làm cho 60 triệu người bị chết, 60 triệu người bị tàn phế và thiệt hại về  vật chất khoảng 1000 tỷ USD) . Hiện nay mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực kinh  tế Mỹ­Tây Âu­Nhật bản biểu hiện thành các cuộc chiến tranh thương mại, như chiến  tranh cá thu, chiến tranh ô tô, chiến tranh sắt thép, các cuộc cạnh tranh giữa các công ty   xuyên quốc gia dưới nhiều hình thức trên thị trường chứng khoán. Trong cuộc chiến đó  đã có nhiều công ty khổng lồ  bị  thôn tính và nhiều nước tư  bản đã vượt ra khỏi sự  khống chế của Mỹ. Thứ  tư,   mâu thuẫn giữa chủ  nghĩa tư  bản với các nước phát triển theo con  đường xã hội chủ nghĩa.  Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi Liên xô và Đông Âu sụp đổ khiến cho   chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, có người cho rằng chủ nghĩa xã hội không còn nữa   và như  vậy mâu thuẫn giữa chủ  nghĩa tư  bản với chủ  nghĩa xã hội cũng không còn   nữa.Trên thực tế chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại  ở một số quốc gia, vẫn là một thực thể  kinh tế chính trị xã hội đối lập với chủ nghĩa tư bản và vẫn là một trào lưu chính trị tư  tưởng tiến bộ ở các nước tư bản, các nước đang phát triển và ở cả những nước mà chế  độ xã hội chủ nghĩa vừa mới bị tan dã cách đây không lâu. Trong vài thập kỷ gần đây, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những bước phát triển mới  về lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó mà thực hiện những điều chỉnh thích nghi về quan  hệ sản xuất và các quan hệ  xã hội khác, song bản chất kinh tế, bản chất chính trị  của  chúng vẫn không thay đổi. Về kinh tế đó là sự thống trị của các tổ chức độc quyền trên   tất cả  các lĩnh vực trong nước và quốc tế, về  chính trị  là hiếu chiến, xâm lược, phản   động và toàn diện. Trước mắt chủ  nghĩa tư  bản hiện đại vẫn còn tồn tại và tiếp tục   điều chỉnh thích nghi nhằm xoa dịu phần nào mâu thuẫn, nên còn có khả  năng phát  triển. Nhưng xét lâu dài, trên bình diện cả về kinh tế­ chính trị­ xã hội, cùng những mâu   thuẫn nội tại của nó, chủ nghĩa tư bản ngày nay không phải là chế  độ  xã hội đóng vai   trò tiến bộ trong lịch sử. Vì vậy nó nhất định sẽ bị thay thế bằng một xã hội mới công   bằng văn minh và hạnh phúc hơn. Đó là xu hướng lịch sử tất yếu của chủ nghĩa tư bản   hiện đại.          
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2