TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL<br />
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY<br />
Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019)<br />
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn<br />
<br />
<br />
NHỮNG NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI TRONG CÔNG TÁC<br />
GIÁO DƯỠNG Ở CÁC TRƯỜNG HỌC SINH MIỀN NAM<br />
TRÊN HẬU PHƯƠNG MIỀN BẮC THỜI KỲ 1955 – 1975<br />
Decisive factors in educational success in the schools for Southern students on<br />
the rear of North Vietnam period 1955 – 1975<br />
<br />
TS. Phan Thị Xuân Yến<br />
Trường Đại học Sài Gòn<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Công tác giáo dưỡng ở các trường học sinh miền Nam trên hậu phương miền Bắc được đặt ra ngay khi<br />
hoàn thành việc chuyển quân tập kết theo Hiệp định Giơnevơ. Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, Chính<br />
phủ và sự chăm sóc đặc biệt của Bác Hồ là nhân tố quyết định thắng lợi trong công tác giáo dưỡng của<br />
hệ thống trường đặc biệt này. Để chuyển các nhân tố quyết định ấy thành động lực của hoạt động giáo<br />
dưỡng, cùng với việc tổ chức thành công những mô hình giáo dưỡng, còn cần đến những nỗ lực chỉ đạo<br />
thực tiễn của ngành giáo dục và đội ngũ những người thầy tận tâm vì học sinh – con em thân yêu. Đó<br />
cũng là bài học thiết thực cho công tác giáo dục hiện nay.<br />
Từ khóa: giáo dưỡng, hậu phương miền Bắc, mô hình giáo dục, trường học sinh miền Nam<br />
Abstract<br />
The education work in the schools for southern students on the rear of North Vietnam was set up right<br />
after the completion of the transfer of troops under the Geneva Agreement. The concerns of the Party<br />
and Government leaders and the special cares of Uncle Ho were the decisive factors in the educational<br />
success of this special school system. In order to turn these decisive factors into the driving force of<br />
educational activities, together with the successful organization of educational models, there were<br />
practical guidance efforts of the education sector and the teachers devoted to students and children. It is<br />
also a practical lesson for the current educational work.<br />
Keywords: education, rear of Northern Vietnam, educational model, schools for Southern students<br />
<br />
<br />
1. Đặt vấn đề với miền Nam trong hoàn cảnh đất nước bị<br />
Trường học sinh miền Nam là loại chia cắt, mà còn thể hiện một quyết tâm<br />
trường nội trú đặc biệt, loại hình nhà đầu tư cho giáo dục ở một bộ phận đặc biệt<br />
trường mà trong đó học sinh được chăm – học sinh miền Nam. Trong điều kiện khó<br />
sóc nuôi dưỡng, giáo dục tập trung tại khăn, thiếu thốn, cả nước tập trung cho<br />
trường, hoàn toàn bằng sự đầu tư của nhà chiến tranh, vẫn có thể dành cho học sinh<br />
nước và đóng góp của nhân dân. Việc “bao sự chăm sóc nuôi dưỡng theo hình thức nội<br />
cấp” như thế không chỉ do chính sách đối trú; Trung ương Đảng, Chính phủ, Bác Hồ<br />
Email: xuanyenphan64@gmail.com<br />
<br />
62<br />
PHAN THỊ XUÂN YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
và lãnh đạo các cấp các ngành vẫn có thể số này có một số học sinh được tổ chức ăn<br />
quan tâm chăm sóc đến việc chăm lo đào ở tại ký túc xá, số còn lại là ở nhờ nhà đồng<br />
tạo thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng. bào địa phương. (Bộ giáo dục, 1958, p.3)<br />
2. Nội dung Ngay từ khi triển khai công việc tập<br />
2.1. Chủ trương và sự quan tâm chỉ kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở<br />
đạo trực tiếp của Đảng, Bác Hồ về giáo phải dẫn các cháu ra Bắc học tập, vì chỉ có<br />
dục học sinh miền Namsau chuyển quân ở miền Bắc mới có điều kiện cho các cháu<br />
tập kết học hành nên người. Bác dặn đồng chí<br />
Cuộc chuyển quân tập kết theo Hiệp Hoàng Quốc Việt: “nhắc nhở các cấp, các<br />
định Giơ-ne-vơ được tiến hành từ tháng ngành quân, dân, chính ở miền Nam thực<br />
9/1954, cho đến ngày 16/5/1955, toàn bộ hiện nghiêm túc và chuẩn bị chu đáo việc<br />
lực lượng cách mạng miền Nam tập kết ra đưa thiếu nhi, học sinh miền Nam tập kết<br />
miền Bắc là 182.046 người, gồm quân đội theo đúng tiêu chuẩn, chính sách, khẩn<br />
(kể cả tình nguyện quân ở Miên và Lào) là trương và đảm bảo an toàn” (Nhiều tác<br />
82.519 người; cán bộ dân chính, đồng bào, giả, 2000, tr.15). Người chỉ đạo đồng chí<br />
học sinh là 99.527 người. Số học sinh miền Nguyễn Văn Tạo (Bộ trưởng Bộ Lao<br />
Nam tập kết là 12.089 em, trong đó có Động, Trưởng ban Đón tiếp lực lượng tập<br />
7.000 học sinh liên khu V, gần 5.000 học kết tại Sầm Sơn (Thanh Hóa): “Chú là<br />
sinh ở Nam bộ và 300 học sinh ở Bình Trị người miền Nam, chú hiểu tâm tư tình cảm<br />
Thiên. Ngoài số học sinh tập kết còn có cũng như sự cần thiết trong sinh hoạt, đời<br />
421 em ở Liên khu V tự túc ra Bắc; 216 em sống của các cô, các chú trong đó ra, cả cụ<br />
ở Nam bộ vượt giới tuyến ra Bắc. (Bộ Giáo lớn tuổi cũng như các cháu thiếu nhi. Vậy<br />
dục, 1995, tr.2) chú phải thay mặt Đảng, Chính phủ tiếp<br />
Thành phần học sinh miền Nam đa số đón thế nào để tỏ được sự yêu thương, lo<br />
là con em cán bộ, chiến sỹ, con em gia lắng, thắm tình của Đảng và Nhà nước đối<br />
đình có công với đất nước, bộ đội miền với đồng bào miền Nam ruột thịt như chú<br />
Nam, một số theo cha mẹ đi tập kết, một số biết, ở miền Nam không có cái rét cắt thịt<br />
xin ra Bắc học tập theo tiêu chuẩn tự túc như ở miền Bắc đâu, phải có đầy đủ quần<br />
(Liên khu V). Bên cạnh đó còn có một số áo ấm và chăn bông cho tất cả, có khăn<br />
tự động ra Bắc không bằng đường tập kết quàng cổ cho cụ già, xà phòng và chăn<br />
(vượt tuyến), một số không có tiêu chuẩn bông cho các cô có con mọn”. (Ban Thống<br />
nhưng theo các đồng chí bộ đội ra, một số nhất Trung ương, 1956, p.13)<br />
là con em đồng bào hồi hương xin ra Bắc... Bác đề nghị Trung ương, Chính phủ và<br />
Trong năm học 1955-1956 và 1956-1957, các địa phương “cần phải đào tạo và bồi<br />
có thêm 1.623 học sinh miền Nam và trên dưỡng thế hệ cán bộ kế cận phục vụ cách<br />
850 học sinh đang gửi học rải rác ở các mạng miền Nam nói riêng và cho cách<br />
tỉnh. (Bộ Giáo dục, 1957, tr.2) mạng Việt Nam nói chung. Đào tạo học<br />
Học sinh miền Nam học ở các trường sinh miền Nam không những do yêu cầu<br />
Nam Định, Thái Nguyên, Hà Nội là 4.077 trước mắt của cách mạng miền Nam mà<br />
em, trong đó có 134 em học vỡ lòng, 3.192 còn là lợi ích lâu dài cho Tổ quốc, của dân<br />
em học cấp I, II; 670 em học cấp III. Trong tộc Việt Nam” (Hồ Chí Minh, 1976, tr.20).<br />
<br />
<br />
63<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)<br />
<br />
<br />
Theo đó các trường học sinh miền Nam đồng bào Hoa; trường cho học sinh vượt<br />
thực hiện chiến lược “hạt giống đỏ” với tuyến; trường Dân tộc Trung ương cho học<br />
nhiệm vụ nuôi và dạy học sinh theo mục sinh người dân tộc.v.v.<br />
tiêu: “Trong việc giáo dục và học tập phải Bộ Giáo dục lo phần chuyên môn<br />
chú trọng các mặt: đạo đức cách mạng, nghiệp vụ, các trường học sinh miền Nam<br />
giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ đóng ở đâu thì chính quyền ở đó, từ cấp<br />
thuật, lao động và sản xuất… đào tạo tỉnh đến địa phương đều có trách nhiệm<br />
thành những người thừa kế xây dựng xã chăm lo hoạt động của nhà trường theo<br />
hội chủ nghĩa vừa hồng, vừa chuyên…, học thẩm quyền và khả năng của mình, với tinh<br />
phải đi đôi với hành, giáo dục phải gắn thần Bắc – Nam một nhà, thương yêu như<br />
liền với xã hội” (Hồ Chí Minh, 2000, ruột thịt. Các Bộ, ngành có liên quan như:<br />
tr.10). Ngày 31/8/1960, trong thư gửi cán Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ Lương thực, Bộ<br />
bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường Nội thương… đều thành lập bộ phận<br />
và các lớp bổ túc văn hóa, Bác nhắc nhở: chuyên trách lo công tác phục vụ cho miền<br />
“Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị Nam, trước hết là phục vụ các trường học<br />
của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản sinh miền Nam đóng tại các địa phương<br />
xuất và đời sống của nhân dân, phải phối trên miền Bắc.<br />
hợp nhà trường - xã hội - gia đình”. (Hồ Ngày 17/9/1956 Thủ tướng Chính phủ<br />
Chí Minh, 1972, tr.561) ra thông tư số 4116-A7 về tiêu chuẩn thu<br />
2.2. Chỉ đạo thực tiễn của ngành giáo nhận con cán bộ, công nhân viên vào<br />
dục đối với học sinh miền Nam trường học sinh miền Nam nội trú:<br />
Hệ thống trường học sinh miền Nam - Con cán bộ công nhân viên miền<br />
trên đất Bắc được ra đời bao gồm ba cấp Nam thuộc các ngành quân, dân, chính<br />
học I, II, III và đã trở thành một bộ phận đảng, không kể cấp bậc nào, cha hoặc mẹ<br />
đặc biệt trong hệ thống giáo dục quốc dân, có tiêu chuẩn tập kết thì được thu nhận.<br />
đặt dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của - Cán bộ miền Nam được điều động ra<br />
Bộ Giáo dục và sự phối hợp của nhiều bộ, công tác miền Bắc trong thời kỳ kháng<br />
ngành TW và các địa phương. Hệ thống chiến, gia đình vợ con vẫn ở trong Nam,<br />
trường học sinh miền Nam được hình lúc hòa bình lập lại vợ con mới ra miền<br />
thành và phát triển trên miền Bắc hậu Bắc thì con cũng được thu nhận.<br />
phương, trong hơn 20 năm kháng chiến - Cán bộ có con ở lại miền Bắc nhưng<br />
chống Mỹ cứu nước (1954-1975), gồm hoạt động ở miền Nam trong thời kỳ kháng<br />
nhiều quy mô và loại hình thích hợp với chiến hoặc đã hy sinh về nhiệm vụ ở miền<br />
từng đối tượng, từng giai đoạn, có những Nam hoặc công tác ở xa thì con cũng được<br />
yêu cầu và nhiệm vụ, chức năng cụ thể thu nhận.<br />
khác nhau, có những hoạt động và hiệu quả - Đối với cán bộ có 3, 4 cháu thì chỉ<br />
phong phú. Ngoài ra, còn xây dựng một số nhận 1, 2 cháu vì trường còn chật chội, số<br />
trường đặc thù cho các đối tượng đặc biệt, còn lại sẽ được chiếu cố bằng học bổng rồi<br />
ở đó có nhiều con em miền Nam theo học, qua năm sau sẽ thu nhận.<br />
như: trường Bổ túc công nông cho người Chế độ chính sách đối với con em<br />
lớn tuổi hoặc quá tuổi; trường cho con em miền Nam là một trong những biểu hiện<br />
<br />
<br />
64<br />
PHAN THỊ XUÂN YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
sinh động của sự quan tâm sâu sắc của Trong thư gửi các cháu và các cán bộ<br />
Đảng và Nhà nước đối với cách mạng miền các trường miền Nam ngày 1/6/1955, Bác<br />
Nam, cần thiết và chính đáng, không chỉ có căn dặn thầy, cô giáo và cán bộ công nhân<br />
ý nghĩa chính trị, mà còn thể hiện tình cảm viên “Nên yên tâm công tác. Phải hiểu<br />
và trách nhiệm của nhân dân miền Bắc đã rằng không có công tác gì vẻ vang bằng<br />
được hòa bình tự do, đối với đồng bào việc chăm nom bồi dưỡng cho các cháu là<br />
miền Nam đang phải chịu ách áp bức của những người chủ tương lai của nước nhà.<br />
chế độ Mỹ-Diệm. Bộ Giáo dục chỉ đạo cho Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang ấy, các cô,<br />
các trường xây dựng bộ máy trực tiếp quản các chú phải thật thà đoàn kết, nâng cao<br />
lý và tổ chức nuôi dạy học sinh với các tinh thần trách nhiệm, không nên “đứng<br />
chức năng rạch ròi và cụ thể. Bộ Giáo dục núi này trông núi nọ”, muốn thay đổi công<br />
cùng các cơ quan ban ngành có liên quan, tác, kèn cựa, địa vị. Phải thương yêu các<br />
khẩn trương chuẩn bị những cơ sở, trường cháu như con em ruột thịt của mình, không<br />
lớp cho các em, đồng thời nghiên cứu nắm nên phân biệt bỉ thử các cháu vùng này hay<br />
cụ thể từng đối tượng, từng khu, từng vùng khác. Cháu nào cũng là con em đại<br />
miền, kịp thời tổ chức phân loại, quản lý gia đình ta, cũng là do Đảng và Chính phủ<br />
các trường để tổ chức nuôi dạy và học tập giao cho các cô, các chú phụ trách nuôi<br />
cho học sinh miền Nam. dạy. Trong công tác, trong học tập, các cô,<br />
2.3. Những người thầy – cô tận tâm các chú nên cố gắng thi đua, trao đổi kinh<br />
vì học sinh – con em thân yêu nghiệm, để cùng nhau tiến bộ không<br />
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngừng. Trong thời gian ở đây, gần Đảng,<br />
là “không có thầy giáo thì không có giáo gần Chính phủ, gần Bác, các cháu và các<br />
dục…, phải xây dựng đội ngũ những người cô, các chú nên hăng hái học tập và công<br />
thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là tác: sao cho đến ngày nước nhà thống<br />
“giáo”, phải thật thà yêu quý nghề mình…, nhất, trở lại quê hương, các cháu và các<br />
phải có chí khí cao thượng, phải tiên ưu cô, các chú đều là những người gương mẫu<br />
hậu lạc phải yên tâm công tác, thật thà, về tư tưởng, đạo đức, cũng như về mọi mặt<br />
đoàn kết, phải yêu thương các cháu như khác” (Nhiều tác giả, 2004, tr.90-91).<br />
con em ruột thịt của mình, phải luôn ra sức Việc chăm nuôi trong trường học sinh<br />
thi đua công tác và học tập, thật thà, phê miền Nam rất đặc biệt và rất thành công.<br />
bình và tự phê bình để cùng nhau tiến bộ Đó là quá trình lấy tình thương và trách<br />
mãi” (Hồ Chí Minh, 1976, p.19). Người nhiệm để chăm sóc, nuôi dưỡng và truyền<br />
chỉ rõ: “Các thầy cô giáo có nhiệm vụ rất dạy cho học sinh tình thương và trách<br />
nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho nhiệm trong quá trình rèn luyện, học tập,<br />
dân tộc. Vậy giáo dục còn nhằm mục đích lao động để trưởng thành. Nhà trường đồng<br />
phụng sự nhân dân… Trường học của thời là gia đình, thầy, cô giáo là người<br />
chúng ta là trường học của chế độ nhân chăm nuôi, dạy dỗ học sinh như con em<br />
dân, nhằm mục đích đào tạo những công ruột thịt của mình.<br />
dân và cán bộ tốt, những người chủ tương Việc chăm sóc nuôi dưỡng học sinh<br />
lai tốt của nước nhà”. (Hồ Chí Minh, 2000, miền Nam, nhất là các cháu bé còn ít tuổi<br />
tr.561-562) có nhiều khó khăn vất vả, nhưng các<br />
<br />
<br />
65<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)<br />
<br />
<br />
trường đã tìm mọi cách để thực hiện nhiệm lẫn nhau. Các thầy cô giáo bộ môn và mọi<br />
vụ “ươm mầm” cho tốt. Một giáo viên cán bộ khác, kể cả các chị tiếp liệu, các cô<br />
trường học sinh miền Nam số 18 (Thái cấp dưỡng đều là những chị ruột thịt đáng<br />
Bình) kể lại: “Trường đóng ở nhà dân, rải để các em tin cậy và yên tâm gửi gắm vui<br />
rác khắp các xóm làng thuộc xã Trực Nội. buồn của mình. Tất cả đều gắn bó với nhau<br />
Tất cả thầy, cô, chú cùng các cháu sống ở trong tình thương và trách nhiệm. Các em<br />
nhà dân. Ở thôn Ký Con thuộc xã này có 3 tự thực hiện mọi nề nếp sinh hoạt, từ việc<br />
xóm, mỗi xóm một lớp học, lớp nào cũng gấp gọn chăn màn, quét dọn sạch sẽ nhà ở,<br />
có đủ một phụ trách thiếu niên, một giáo lớp học. Ngòai giờ học các em còn tự đào<br />
viên và một bảo mẫu. Cả 3 lớp ăn chung ao, đắp đường sá, trồng trọt, chăm sóc cây<br />
một bếp do các cô cấp dưỡng người địa cối, tô điểm bồn hoa, cây cảnh với niềm<br />
phương nấu. Công việc hàng ngày của khao khát làm cho trường mình, mái ấm<br />
chúng tôi là buổi sáng giao cho các cô của mình ngày càng khang trang, sạch đẹp<br />
giáo dạy các cháu học vần, buổi chiều sinh hơn”(Nhiều tác giả, 2000, tr.169).<br />
hoạt tập thể. Công việc tắm giặt cho các Nhà trường là một mái nhà chung tràn<br />
cháu hàng ngày do các chị bảo mẫu lo… ngập tình thương. Học sinh ăn, ở, học tại<br />
Cuối ngày, tất cả giáo viên, phụ trách thiếu trường, kể cả những ngày lễ, tết, ngày hè.<br />
niên cả 3 xóm họp nhau lại trao đổi kinh Thầy, cô giáo nuôi dạy làm việc suốt ngày,<br />
nghiệm. Tất cả các cháu đều còn quá nhỏ, suốt năm; ngày lễ, tết càng bận rộn hơn.<br />
lần đầu xa cha mẹ,lại sống tập thể, chúng Một thầy giáo kể lại: “Hàng ngày bất kể<br />
tôi phải uốn nắn từng ly từng tý, từ cách ăn nắng mưa, lạnh, nắng, các anh chị tiếp<br />
cách ở, cách giữ trật tự vệ sinh, đến việc liệu, với chiếc xe đạp cọc cạch, đỡ 2 chiếc<br />
làm quen với chữ. Có cháu lúc ngủ chỉ sọt to, từ sáng tinh mơ có mặt ở các chợ<br />
giành chỗ ngủ bên cô giáo, hoặc lúc đi ăn trên, chợ dưới tìm mua rau, quả thực<br />
nếu không phải cái chén, đôi đũa của cháu phẩm. Những lúc thực phẩm khan hiếm,<br />
thì nhất định không ăn; hoặc lúc bị ghẻ lở, các anh chị len lỏi vào tận các thôn xóm,<br />
nhất định không cho các cô bảo mẫu tắm… mua cho được con gà, quả bí… trưa về mồ<br />
Cứ thế ngày này qua ngày khác, chúng tôi hơi, mồ kê ướt đẫm cả áo. Ngày hè, gặp<br />
đưa dần các cháu vào nề nếp” (Nhiều tác cơn mưa rào, áo quần ướt sũng. Mùa đông,<br />
giả, 2000, tr.77). gặp cơn gió chướng, lạnh thấu xương, xe<br />
Hình ảnh trường học sinh miền Nam đạp không chạy, phải xuống đẩy, mồ hơi<br />
số 28 là một điển hình về nhà trường – gia cũng thốt ra như tắm. Những năm giặc Mỹ<br />
đình -mỗi nhà ở, lớp học là một gia đình. cho máy bay bắn phá ác liệt các đầu mối<br />
“Bốn mươi, năm mươi em sống trong một giao thông, thì các anh chị đã phải ra đi từ<br />
dãy nhà là 40, 50 anh em ruột thịt. Thầy lúc gà mới bắt đầu gáy và cho đến tối xẩm<br />
chủ nhiệm thường ở một phòng nhỏ đầu mới về đến trường. Dọc đường lắm lúc gặp<br />
dãy nhà, vừa là thầy giáo, vừa là cha, là máy bay giặc Mỹ gầm rú trên đầu, với đạn,<br />
chị. Cả trường có nhiều gia đình mà các bom trước mặt, sau lưng, cái sống, cái chết<br />
bạn gia đình khác là anh em cùng quê gần kề nhau trong gang tấc… cũng không<br />
hương, cùng hòan cảnh. Lớp lớn thương làm chùn bước chân các anh chị, chỉ vì một<br />
lớp bé, sẵn sàng nhường nhịn, chăm sóc cái lẽ nghe ra thật đơn giản, nhưng có khi<br />
<br />
<br />
66<br />
PHAN THỊ XUÂN YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
phải trả bằng nước mắt và cả bằng máu: sứ mạng lịch sử, thì mái tóc đã lốm đốm<br />
Tất cả vì học sinh thân yêu, tất cả vì miền bạc màu, tuổi xuân đã lặng lẽ trôi qua”<br />
Nam ruột thịt (Nhiều tác giả, 2000, tr.170). (Nhiều tác giả, 2000, tr.257).<br />
Hồi ký của thầy, trò trường học sinh Với cách chăm sóc nuôi dạy như thế<br />
miền Nam còn ghi rõ những hình ảnh cảm và những người nuôi dạy như thế, chắc<br />
động về cách chăm nuôi: “Ðể đảm bảo ba chắn sẽ tác động đến tâm tư tình cảm của<br />
bữa ăn cho học sinh các cô, các chị phải học trò, hình thành nên những nếp nghĩ<br />
quần quật suốt ngày. Muốn có bữa ăn sáng mới không thể vô cảm, không thiếu tình<br />
thì sáng tinh mơ, khi gà mới bắt đầu gáy, người và đạo đức nhân văn. Người học<br />
các cô, các chị đã phải dậy nhóm lửa, đun sinh luôn coi trường lớp là nhà, thầy cô<br />
nước, nấu nướng cho kịp các cháu ăn, kịp giáo và các cán bộ nhân viên chăm nuôi là<br />
vào lớp học. Mùa đông, gió bấc, mưa người cha, mẹ, cô, chú… trong gia đình<br />
phùn, học sinh còn đang cuộn mình trong thân thương. Trên cơ sở đó thầy, cô giáo<br />
chăn ấm thì các cô, các chị đã thức giấc vô rèn luyện cho các em đạo đức cách mạng,<br />
bếp thổi xôi, hoặc rửa khoai sắn, tay chân lòng yêu quê hương đất nước, truyền thụ<br />
lạnh cóng; bữa sáng xong lại chuẩn bị cho kiến thức văn hóa, khoa học, hướng cho<br />
bữa trưa và bữa chiều. Hàng ngày các chị các em lao động phục vụ xã hội, phục vụ<br />
phải làm việc liên tục từ 4, 5 giờ sáng đến cách mạng.<br />
7,8 giờ tối” (Nhiều tác giả, 2000, tr.171). Mỗi nhà trường học sinh miền Nam<br />
Lại có ngày học sinh tham quan dã đều phải phấn đấu làm tốt 3 mặt công tác<br />
ngoại, “các chị, các cô phải thức dậy từ 2- chủ yếu: nuôi – dạy – tổ chứccác hoạt<br />
3 giờ sáng, nấu xôi, nấu cơm phục vụ cho động ngoài giờ lên lớp, đó là 3 mặt công<br />
bữa ăn sáng, lại còn nắm từng nắm một tác thiết yếu, phải cân đối và đồng bộ,<br />
cho học sinh mang theo ăn trưa. Có khi bộ không thể nặng mặt này, nhẹ mặt kia.<br />
phận nuôi phải tay xách, nách mang, vai Nhiệm vụ quản lý và giáo dục học sinh<br />
gánh lỉnh kỉnh nào nồi, soong, bát đĩa để phải là nhiệm vụ của tòan thể nhà trường.<br />
đến nơi tổ chức nấu ăn. Khi đến nơi tham Tuy nhiên, hệ thống giáo dục và chất lượng<br />
quan thì thầy trò vui chơi, ngắm cảnh, còn giáo dục vận hành phụ thuộc vào đội ngũ<br />
bộ phận nuôi thì đầu tắt mặt tối với cơm cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ cán bộ<br />
canh, nước nôi” (Nhiều tác giả, 2000, giảng dạy.<br />
tr.172). Để được toàn tâm toàn ý phục vụ Giáo viên giảng dạy ở các trường học<br />
học sinh, các chị, các cô đã gần như gác lại sinh miền Nam bao gồm các thầy, cô giáo<br />
một bên cuộc sống riêng tư của mình. “Có đã dạy trong các vùng giải phóng, các thầy,<br />
chị biết không thể chăm lo, chăm sóc được cô được đào tạo từ nước ngoài về, các thầy<br />
con cái của mình nên đã gửi con cái đi sơ cô tập kết từ miền Nam ra và các thầy, cô<br />
tán với chồng. Có những chị chồng ốm, được đào tạo tại miền Bắc để phục vụ các<br />
con đau cũng không về được để chăm sóc. trường học sinh miền Nam. Dù các thầy, cô<br />
Có những chị bước vào trường học sinh quê ở miền Nam hay miền Bắc, ngoài phần<br />
miền Nam ngay từ khi trường mới thành chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp giảng<br />
lập, tóc còn xanh mướt, phục vụ liên tục 20 dạy, còn nhiệt tình, tâm huyết với nghề,<br />
năm, cho đến khi nhà trường hòan thành yêu thương, gắn bó, có trách nhiệm với học<br />
<br />
<br />
67<br />
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)<br />
<br />
<br />
trò của mình cũng như khả năng thích ứng đi sâu vào kỹ thuật giảng dạy, phấn đấu<br />
với điều kiện nuôi dạy học sinh miền Nam. dạy hay, dạy tốt chứ không dừng lại ở yêu<br />
Ngoài việc dạy chữ, dạy văn hóa, các thầy, cầu dạy đúng, dạy đủ. Mặc dù thương học<br />
cô còn cùng với cán bộ nhân viên khác của sinh, nhưng luôn nghiêm túc, học sinh<br />
trường nuôi dạy học sinh như con em ruột chưa hiểu thì học lại, thầy, cô dạy cho khi<br />
thịt của mình. Hãy nhìn những tấm gương nào học sinh hiểu thì mới thôi.<br />
người thầy ngày ấy: “Trường sơ tán trên 6 3. Kết luận<br />
làng phải qua 6 đồi, đồi xa nhất trên 10 Bí quyết thành công của nhiều giáo<br />
km. Thầy cô vẫn phục vụ với tinh thần “tất viên trường học sinh miền Nam là tiến hành<br />
cả vì học sinh miền Nam thân yêu”, gánh công tác giáo dục bằng tình thương yêu học<br />
vác dụng cụ nhà trường, nhà bếp đến từng sinh đi đôi với tinh thần trách nghiệm,<br />
khu để lo cho chúng tôi từng bữa ăn, giấc lương tâm nghề nghiệp. Giáo viên đóng vai<br />
ngủ. Cháu nào đau ốm không đủ sức khỏe trò rất quan trọng không chỉ trong lĩnh vực<br />
thì được khám chữa bệnh và chăm sóc tận giáo dục mà còn là cán bộ chính trị, cán bộ<br />
tình, chu đáo… Thầy cô giáo phải vượt khoa học kỹ thuật, cán bộ dân vận... Việc<br />
đường đồi, đường làng, đường ruộng khấp xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản<br />
khểnh, bất chấp cái nắng chang chang đến lý giáo dục là một bộ phận quan trọng, nhất<br />
cháy da, cái rét đến tê buốt, cả những cơn là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo<br />
mưa lớn, nhiều khi lũ lớn phải vác xe đạp dục “vừa hồng, vừa chuyên”.<br />
lội qua suối, lại còn vượt bom đạn để đến Ngày nay, khi khoa học công nghệ<br />
với học sinh đúng giờ giảng. Ngồi giờ dạy, phát triển mạnh mẽ, quá trình đổi mới<br />
vào giờ tự học buổi tối của học sinh, thầy phương pháp giáo dục đang diễn ra trên<br />
cô giáo đến từng lớp để đôn đốc, nhắc nhở, quy mô toàn cầu, mục tiêu, nôi dung,<br />
giảng giải tận tình những khúc mắc, giúp chương trình đào tạo và phương pháp giáo<br />
cho chúng tôi nắm vững chương trình học, dục luôn được cải tiến cho phù hợp với xu<br />
có đủ khả năng giải bài tập khó. Giờ ngoại thế phát triển của xã hội. Việc xây dựng<br />
khóa, thầy trò cùng hoạt động nhiều môn đội ngũ giáo viên và đội ngũ quản lý giáo<br />
thể thao, điền kinh. Trên sân trường luôn dục có đủ trình độ, tâm huyết gắn bó với<br />
tràn ngập tiếng cười, tiếng nói” (Nhiều tác nghề cần phải đặt ra cho ngang tầm với<br />
giả, 2000, tr.173). nhiệm vụ mới. Hệ thống trường học sinh<br />
Cách dạy của nhiều giáo viên trường miền Nam trên đất Bắc đã để lại cho chúng<br />
học sinh miền Nam là vừa nghiêm túc, vừa ta nhiều bài học quý về việc hệ trọng này.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
Ban Thống nhất Trung ương (1954-1956). Tài liệu của Trung ương, Phủ Thủ tướng, ban<br />
và các Bộ về chính sách đối với cán bộ, đồng bào, học sinh miền Nam tập kết. Hà<br />
Nội: Cục lưu trữ TW Đảng.<br />
Ban liên lạc học sinh miền Nam (2004). Kỷ yếu hội thảo 50 năm thành lập các trường học<br />
sinh miền Nam trên đất Bắc.<br />
Bộ Giáo dục (1957). Chỉ thị về việc tổng kết năm học 1956 – 1957. Hà Nội: Trung tâm lưu<br />
trữ Quốc gia III.<br />
<br />
68<br />
PHAN THỊ XUÂN YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br />
<br />
<br />
Bộ Giáo dục (1958). Quy định một số vấn đề về tổ chức đội với thanh Thiếu niên Hoa kiều<br />
ở miền Bắc Việt Nam. Hà Nội: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III.<br />
Bộ Giáo Dục (1955). Tổng kết công tác đón tiếp học sinh miền Nam. Hà Nội: Trung tâm<br />
lưu trữ Quốc gia III.<br />
Hồ Chí Minh (1976). Về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hà<br />
Nội: Nxb Sự thật, 3-19.<br />
Hồ Chí Minh (1972). Bàn về công tác giáo dục. Hà Nội: Nxb Giáo dục, 561.<br />
Hồ Chí Minh (2000). Toàn tập. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, (6,7).<br />
Nguyễn Văn Huyên (1995). Những bài nói và viết về giáo dục. Hà Nội: Nxb Giáo dục.<br />
Nhiều tác giả (1999). Trường học sinh miền Nam trên đất Bắc. Hà Nội: Nxb Chính trị<br />
Quốc gia.<br />
Nhiều tác giả (2000). Học sinh miền Nam, ngày ấy, hôm nay. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc<br />
gia, 10-180.<br />
Nhiều tác giả (2004). Nửa thế kỷ trường HSMN trên đất Bắc. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc<br />
gia, 9-100.<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 11/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
69<br />