BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HUỲNH CÔNG THANH

GIÁ TRỊ CỦA THỬ NGHIỆM PHÁT HIỆN KHÁNG NGUYÊN NS1 VÀ CÁC YẾU TỐ DỊCH TỄ, LÂM SÀNG, HUYẾT HỌC VÀ SINH HÓA TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ TIÊN LƯỢNG SỚM SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE NẶNG Ở TRẺ EM

Ngành: Nhi khoa

Mã số: 62720135

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019

Công trình được hoàn thành tại:

Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS. TS. Tạ Văn Trầm 2. PGS. TS. Đỗ Văn Dũng

Phản biện 1: ................................................................................

Phản biện 2: ................................................................................

Phản biện 3: ................................................................................

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án cấp Trường tại…………………………………………………………….. Vào lúc ……..giờ……….ngày…….tháng……..năm 2019.

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh - Thư viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

1

GIỚI THIỆU LUẬN ÁN

1. Đặt vấn đề

Vấn đề hay gặp trên lâm sàng đối với bệnh sốt xuất huyết dengue

(SXHD) là khó khăn trong việc chẩn đoán và tiên lượng sớm trong

vòng 72 giờ đầu của bệnh. Đề tài “Giá trị của thử nghiệm phát hiện

kháng nguyên NS1 và các yếu tố dịch tễ, lâm sàng, huyết học và sinh

hóa trong chẩn đoán và tiên lượng sớm sốt xuất huyết dengue nặng ở

trẻ em” được thực hiện với 04 mục tiêu:

- Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, huyết học và sinh hóa trong 72

giờ đầu của SXHD.

- Xác định độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và giá trị

tiên đoán âm của thử nghiệm phát hiện nhanh NS1 vi rút dengue

(Dengue NS1Ag Strip) trong chẩn đoán SXHD trong 72 giờ đầu.

- Xác định mối liên quan giữa các yếu tố dịch tễ, lâm sàng, huyết học

và sinh hóa trong 72 giờ đầu với SXHD và xây dựng mô hình chẩn

đoán sớm SXHD trong 72 giờ đầu.

- Xác định các yếu tố tiên lượng sớm trong 72 giờ đầu SXHD nặng.

2. Tính cấp thiết của đề tài luận án

SXHD là một trong những bệnh thường gặp và có thể gây tử

vong ở trẻ em tại Việt Nam. Trong 72 giờ đầu của bệnh, việc chẩn

đoán gặp nhiều khó khăn do biểu hiện lâm sàng không đặc hiệu,

tương tự những bệnh dịch gây sốt khác. Từ đó đưa đến việc sử dụng

kháng sinh không cần thiết, tăng nhập viện không cần thiết cũng như

tăng chi phí y tế. Việc xác định chẩn đoán sớm SXHD sẽ giúp theo

dõi và cho nhập viện những trường hợp có dấu hiệu cảnh báo hoặc

nặng. Tuy nhiên, những xét nghiệm chẩn đoán xác định và sớm thì

lại đắt tiền và khó thực hiện rộng rãi ở tuyến y tế cơ sở. Xét nghiệm

phát hiện kháng nguyên NS1 của DENV có thể giúp chẩn đoán sớm

2

SXHD ngay từ ngày đầu. Tuy nhiên, giá trị chẩn đoán của xét

nghiệm này thay đổi qua nhiều nghiên cứu thực hiện tại nhiều nơi,

chúng tôi muốn đánh giá lại giá trị của xét nghiệm nhanh NS1 trên

dân số trẻ em Tiền Giang. Đồng thời đối với dân số không tiếp cận

được với xét nghiệm nhanh NS1 cũng như những phương tiện xét

nghiệm đắt tiền khác cần có mô hình chẩn đoán sớm với những chỉ

tố lâm sàng và/hoặc cận lâm sàng đơn giản.

Song song đó, SXHD là một bệnh biểu hiện lâm sàng phức tạp,

có thể diễn tiến nặng dẫn đến tử vong. Tuy nhiên, những dấu hiệu

cảnh báo hay nặng thường xuất hiện sau 72 giờ. Do đó, việc nhận

diện nhóm bệnh nhân nguy cơ bị SXHD nặng trong giai đoạn sớm

trước 72 giờ sẽ giúp các bác sĩ cho nhập viện và theo dõi sát phát

hiện sớm biến chứng nặng để điều trị kịp thời.

Do đó, việc thực hiện đề tài nghiên cứu giá trị của thử nghiệm

phát hiện kháng nguyên NS1 và các yếu tố dịch tễ, lâm sàng, huyết

học và sinh hóa trong chẩn đoán và tiên lượng sớm SXHD nặng ở trẻ

em là hết sức cần thiết. Nghiên cứu này là một nhánh của nghiên cứu

đa trung tâm của Đơn vị nghiên cứu lâm sàng Đại học Oxford- Việt

Nam (OUCRU-VN) hợp tác thực hiện tại 5 tỉnh thành phía Nam,

trong đó có Tiền Giang. Nghiên cứu có sự ký kết hợp tác với

OUCRU-VN bằng văn bản và các dữ liệu nghiên cứu sử dụng trong

luận án có sự đồng thuận của các nghiên cứu viên chính.

3. Những đóng góp của luận án

Nghiên cứu của chúng tôi có những đóng góp mới: (1) mô tả đặc

điểm SXHD trong vòng 72 giờ đầu cũng như sự thay đổi týp vi rút

qua các năm từ 2011-2013 tại Tiền Giang (2) giá trị chẩn đoán của

xét nghiệm NS1 Strip trên trẻ em Tiền Giang trong vòng 72 giờ đầu;

3

(3) mô hình chẩn đoán sớm SXHD trong vòng 72 giờ đầu; (4) 5 yếu

tố tiên lượng sớm SXHD nặng trong 72 giờ đầu.

4. Bố cục luận án

Luận án có 105 trang, được bố cục: mở đầu 4 trang, tổng quan

tài liệu 32 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 18 trang, kết

quả nghiên cứu 21 trang, bàn luận 27 trang, kết luận và kiến nghị 3

trang. Luận án có 18 bảng, 1 sơ đồ, 10 hình, 10 biểu đồ và 180 tài

liệu tham khảo, trong đó 22 tài liệu tiếng Việt, 158 tài liệu tiếng Anh

và 32 tài liệu mới trong 5 năm chiếm 17,8 %.

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Những ghi chép về căn bệnh có lâm sàng tương đồng với sốt

dengue được tìm thấy đầu tiên trong bộ sách bách khoa về triệu

chứng bệnh và điều trị bằng tiếng Trung Hoa phát hành lần đầu trong

khoảng thời nhà Tần (năm 265- 420), sau đó được mô tả trong những

bản viết tại Tây Ấn vào những năm 1600. Bản mô tả đầu tiên về hội

chứng lâm sàng đặc trưng của SXHD được Benjamin Rush viết.Đến

năm 1906, Bancroft chứng minh sự truyền bệnh do muỗi Aedes

aegypti. Kimura and Hotta là những người đầu tiên phân lập được

DENV tại Nagasaki, Nhật Bản năm 1943. Năm 1966, Cohen và

Halstead đã công bố bản mô tả kinh điển đầy đủ về hội chứng sốc

dengue, bao gồm sinh lý bệnh do thất thoát dịch và protein qua

những mao mạch bị tổn thương, từ đó đưa ra những nguyên tắc hồi

sức hợp lý.

Tỉ lệ mắc SXHD đã tăng rất nhanh trên thế giới trong những thập

niên gần đây. Không những thế, bệnh SXHD còn lây lan ra nhiều

4

khu vực mà trước đây chưa từng xảy ra và bùng phát thành nhiều vụ

dịch lớn.

Tại Việt Nam, Gaide đã có báo cáo đầu tiên về bệnh giống như

dengue tại miền Bắc và miền Trung vào năm 1913. Sau đó, bệnh

được báo cáo rải rác các nơi trong cả nước. SXHD tăng dần và lan

rộng từ các thành phố lớn đông dân về các vùng nông thôn, cứ vài

năm lại xảy ra một trận dịch SXHD. Tiền Giang là một trong những

nơi thường xảy ra dịch SXHD ở miền Nam. Tuy nhiên, theo số liệu

Hội nghị giao ban Công tác điều trị SXHD khu vực phía Nam, trong

năm 2017 Tiền Giang không còn nằm trong 10 tỉnh có số trường hợp

mắc SXHD cao nhất cả nước nhưng lại là một trong 12 tỉnh có số tử

vong cao nhất (2 trường hợp).

1.2. XÉT NGHIỆM CHẨN ĐOÁN SXHD

Chẩn đoán SXHD nhanh và chính xác vô cùng quan trọng trong

khảo sát dịch tễ, điều trị lâm sàng, nghiên cứu và thử nghiệm vắc xin.

Các phương pháp chẩn đoán cận lâm sàng để xác định nhiễm dengue

có liên quan đến phát hiện vi rút, acid nucleic của vi rút, kháng

nguyên hoặc kháng thể hoặc là sự kết hợp các kỹ thuật này với nhau.

Sau khởi phát bệnh, vi rút có thể được phát hiện trong huyết

thanh, huyết tương, các tế bào máu tuần hoàn hay các mô khác trong

4-5 ngày đầu. Trong giai đoạn sớm của bệnh, người ta dùng các

phương pháp như phân lập vi rút, phát hiện acid nucleic hoặc kháng

nguyên. Ở cuối giai đoạn cấp, xét nghiệm miễn dịch học là một

phương pháp lựa chọn để chẩn đoán.

Chẩn đoán xác định nhiễm dengue bởi các xét nghiệm: phát hiện

vi rút, bộ gien vi rút hay kháng nguyên NS1, hoặc chuyển dương

huyết thanh của IgM hoặc IgG trong mẫu huyết thanh kép (IgM/IgG

chuyển từ âm sang dương tính hoặc tăng gấp 4 lần hiệu giá kháng thể

5

chuyên biệt). Tiêu chuẩn chẩn đoán một trường hợp có thể nhiễm

dengue là huyết thanh học IgM dương tính hoặc hiệu giá kháng thể

xét nghiệm ức chế ngưng kết hồng cầu có giá trị từ 1/1280 trở lên.

Xét nghiệm phát hiện kháng nguyên NS1

NS1 flavivirut là một glycoprotein trọng lượng phân tử là 46-50

kilodalton chứa 353-354 acid amin, biểu hiện ở cả hai dạng liên kết

màng và bài tiết và có cả hai định tố đặc hiệu nhóm và đặc hiệu týp.

Protein này không tạo thành một phần của cấu trúc hạt vi rút (virion)

nhưng lại được biểu hiện trên bề mặt tế bào nhiễm cũng như được

bài tiết ra ngoài tế bào. NS1 được sản sinh ở tất cả các flavivirut và

đóng vai trò then chốt cho sự nhân lên và sống còn của vi rút. Protein

NS1 chỉ được bài tiết trong tế bào động vật có vú, nhưng không có

trong tế bào côn trùng. Mức NS1 DENV huyết tương hoặc huyết

thanh có liên quan đến nồng độ vi rút máu và độ nặng của bệnh.

Alcon đã báo cáo kháng nguyên NS1 được tìm thấy trong máu tuần

hoàn từ ngày đầu đến ngày thứ 9 của bệnh. Do đó việc xác định

kháng nguyên NS1 trong bệnh nhân SXHD là một xét nghiệm hứa

hẹn trong chẩn đoán sớm bệnh nhân SXHD và mở ra cửa sổ cơ hội

lớn hơn cho chẩn đoán SXHD nếu so với phân lập vi rut, RT-PCR

hay NASBA. Các kit phát hiện dựa trên thu bắt NS1 có độ nhạy thay

đổi từ 54,2% đến 93,4% và cho thấy có thể xác định nhiễm dengue ở

những mẫu huyết thanh có RT-PCR âm tính và tái nhiễm.

1.3. CHẨN ĐOÁN SỚM NHIỄM DENV

Trong giai đoạn sớm, bệnh SXHD có biểu hiện tương tự các

bệnh sốt cấp khác. Hậu quả là chẩn đoán SXHD thường bị trì hoãn

hoặc nhầm lẫn với các bệnh khác. Do đó, muốn chẩn đoán xác định

SXHD sớm, cần thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán. Những xét

nghiệm này phải phù hợp sử dụng trong giai đoạn sớm của bệnh, có

6

thể kể như là RT-PCR, phân lập vi rút và phát hiện NS1. Tuy nhiên,

RT-PCR là một xét nghiệm đắt tiền và đòi hỏi trang thiết bị và kỹ

thuật mà không phải nơi nào cũng có sẵn, trong khi đó phân lập vi

rút cho kết quả muộn không đáp ứng mục đích chẩn đoán sớm cho

thực hành lâm sàng. Gần đây, xét nghiệm phát hiện NS1 cho kết quả

nhanh, độ nhạy và độ đặc hiệu khá tốt và giá thành cũng không quá

đắt, do đó có thể được áp dụng rộng rãi hơn trên các cơ sở y tế nhằm

giúp chẩn đoán xác định sớm SXHD.

Tuy nhiên, đối với những nơi có cơ sở hạ tầng và trang thiết bị

còn hạn chế, chẩn đoán thường dựa vào lâm sàng và công thức máu.

Phân loại SXHD được TCYTTG đưa ra vào năm 2009 dựa trên

những triệu chứng và dấu hiệu lại thường xuất hiện sau 72 giờ đầu

của bệnh. Do đó, một mô hình có giá trị dựa trên lâm sàng và xét

nghiệm thường quy sẽ hữu ích để giúp nhận biết sớm SXHD, đặc

biệt ở những cơ sở y tế ban đầu.

1.4. TIÊN LƯỢNG SỚM SXHD NẶNG

Mặc dù có những tiến bộ trong điều trị và hồi sức, SXHD với

biến chứng nặng vẫn còn là nguyên nhân tử vong ở nhiều quốc gia

Châu Á và Mỹ Latinh. Tỉ lệ tử vong SXHD đã giảm trong hơn 2 thập

kỷ qua. Một trong những cái giá để đạt được tỉ lệ tử vong thấp chính

là gánh nặng đối với hệ thống y tế ở một lượng lớn trường hợp

SXHD nhập viện và theo dõi sát. Những triệu chứng và dấu hiệu

điển hình của biến chứng nói chung chỉ xuất hiện trong giai đoạn

nguy hiểm từ ngày 4 đến ngày 6 của bệnh. Những nghiên cứu trước

đây đã phát triển những tiếp cận khác nhau để nhận diện những yếu

tố tiên lượng sớm SXHD nặng bằng cách sử dụng hồi quy logistic

hoặc cây phân loại và hồi quy. Tuy nhiên, kết quả từ những nghiên

cứu trước đây nói chung không hữu dụng ở những cơ sở có nguồn

7

lực hạn chế như là những nơi không có sẵn kỹ thuật RT-PCR và

huyết thanh học thường quy. Thêm vào đó, hầu hết những nghiên

cứu tiên lượng sớm có giới hạn đáng kể không đưa ra giá trị tiên

đoán dương và âm của công cụ tiên lượng hoặc công cụ tiên lượng

dựa trên dữ liệu bệnh nhân đã nhập viện

1.5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

1.5.1. Nghiên cứu thử nghiệm phát hiện kháng nguyên NS1

DENV và các mô hình chẩn đoán sớm

- Tricou V. (2010) nghiên cứu trên 292 trường hợp sốt trong vòng 7

ngày nghi SXHD tại TP. HCM cho thấy xét nghiệm NS1 Strip (Bio-

rad) có độ nhạy 61,6% và độ đặc hiệu 100%.

- Ramirez A.H (2009) nghiên cứu trên 123 bệnh nhân tại Venezuela

cho kết quả NS1 Strip có độ nhạy 67,8% và độ đặc hiệu 94,4%.

- Dussart P (2008) nghiên cứu trên 272 bệnh nhân tại Guyanacho kết

quả NS1 Strip có độ nhạy 81,5% và độ đặc hiệu 100%.

- Hà Văn Phúc (2010) nghiên cứu 244 bệnh nhân tại bệnh viện Đa

khoa Vĩnh Thuận và Viện Pasteur TP.HCM cho kết quả xét nghiệm

ELISA NS1 trong 7 ngày đầu của bệnh có độ nhạy trung bình

88,64% và độ đặc hiệu là 100%.

- Jame A. Potts và cs (2010) xây dựng mô hình chẩn đoán sớm

SXHD trước 72 giờ ở trẻ từ 6 tháng đến 15 tuổi dựa trên các biến số

tuổi, số lượng bạch cầu, tiểu cầu, hematocrit, neutrophil, AST và dấu

dây thắt cho độ nhạy 89,2% và độ đặc hiệu 88,4%.

- Nguyễn Minh Tuấn (2015) nghiên cứu đa trung tâm tại 5 tỉnh

thành phía Nam trên 5729 trẻ sốt trong vòng 72 giờ nghi SXHD. Tác

giả đã xây dựng mô hình chẩn đoán SXHD sớm sử dụng tuổi bệnh

nhân, số lượng bạch cầu và tiểu cầu với độ nhạy 74,8% và độ đặc

hiệu 76,3%. Năm 2017, tác giả cũng đã công bố mô hình tiên lượng

8

sớm SXHD nặng bao gồm biến số bệnh sử ói, số lượng tiểu cầu, định

lượng AST và test nhanh NS1. Mô hình có độ nhạy 87%, độ đặc hiệu

88%, giá trị tiên đoán dương 10% và giá trị tiên đoán âm 99%.

- Nghiên cứu tiến cứu của Potts và cs (2010) trên 1.384 trẻ em Thái

bị sốt sử dụng phân tích cây hồi qui và phân loại xuất phát từ thuật

toán gồm các biến số xét nghiệm thu thập ở thời thời điểm vào

nghiên cứu (số lượng tiểu cầu, bạch cầu, phần trăm monocyte và

hematocrit). Thuật toán tốt nhất có độ nhạy 97% và độ đặc hiệu 48%

để nhận diện những bệnh nhân tiến triển thành sốc SXHD.

CHƯƠNG 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

2.1.1. Dân số chọn mẫu

Bệnh nhân có sốt trong vòng 72 giờ đến khám tại phòng khám

Nhi của Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang từ ngày 1/6/2011 đến ngày 31/12/2013.

2.1.2. Tiêu chuẩn chọn vào

- Sốt trong vòng 72 giờ đầu của bệnh.

- Có biểu hiện lâm sàng nghi SXHD*

* Nghi SXHD: theo TCYTTG 2009 : Sống/ du lịch đến vùng dịch

- Tuổi từ 1 đến 15.

SXHD, có sốt và 2 trong số các tiêu chuẩn sau: buồn nôn, nôn; ban,

đau, nhức; thử nghiệm dấu dây thắt (+), giảm bạch cầu hoặc bất kỳ

DHCB nào.

2.1.3. Tiêu chuẩn loại ra

Tiền sử có một trong các bệnh lí: viêm gan, suy gan, suy thận, di

chứng não, bại não, chấn thương cơ xương.

9

2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: đoàn hệ tiến cứu.

2.2.2. Cỡ mẫu: Chúng tôi tính cỡ mẫu cho mục tiêu quan trọng

nhất của nghiên cứu là xác định giá trị chẩn đoán của xét nghiệm

Dengue NS1 Ag Strip. Nhiều nghiên cứu trước đây ở nhiều nơi đã

cho thấy xét nghiệm này có độ đặc hiệu cao, gần 100%. Do đó, trong

nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tính cỡ mẫu dựa trên công thức để ước

tính độ nhạy xét nghiệm như sau:

TN: số dương tính thật, FN: số âm tính giả. α= 0,05 thì Zα= 1,96; Pse

= 72% , w = 0,05; Pdis = 30,3%. Thay vào công thức, tính được: nse=

1022,3 hay nse = 1023 BN.

2.2.3. Kỹ thuật chọn mẫu: không xác suất, lấy mẫu trọn.

2.2.4. Phương pháp thu thập số liệu

Tại thời điểm vào nghiên cứu, các bệnh nhân sẽ được thu thập

thông tin về tuổi, giới tính, triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng. Tất cả

bệnh nhân sẽ được lấy 5ml mẫu máu tại thời điểm thu nhận, trong đó

2ml để làm các xét nghiệm: công thức máu, AST, ALT, CK,

albumin; 3ml máu còn lại sẽ được làm dengue PCR, NS1 Strip đồng

thời lưu trữ để làm NS1 ELISA nếu kết quả dengue PCR âm tính và

để làm IgM/IgG ở tất cả bệnh nhân nhập viện và 10% tổng số bệnh

nhân tham gia được chọn ngẫu nhiên. Những bệnh nhân đã được lấy

mẫu máu làm IgM/IgG lúc vào nghiên cứu (mẫu máu cấp) sẽ được

10

lấy tiếp 2ml mẫu máu hồi phục vào ngày thứ 6-14 hoặc lúc xuất viện.

Tiêu chuẩn vàng để xác định SXHD là: PCR dương tính hoặc NS1

ELISA dương tính hoặc có sự chuyển dương IgM/IgG. Các bệnh

nhân sẽ được tái khám mỗi 1-2 ngày, theo dõi qua điện thoại trong

vòng 6 ngày liên tiếp hay cho đến khi trẻ khỏe.

2.2.5. Xử lý số liệu: nhập liệu bằng phần mềm Excel, phân tích

số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS 12.0 và R phiên bản v3.1.1.

CHƯƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. ĐẶC ĐIỂM DỊCH LỄ, LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG

TRONG 72 GIỜ ĐẦU CỦA SXHD

Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2011 đến tháng 12/2013,

chúng tôi thu thập được 1039 trường hợp bệnh nhân sốt nghi ngờ

SXHD có đủ tiêu chuẩn chọn mẫu đưa vào nghiên cứu.

Bảng 3.1. Đặc điểm của dân số nghiên cứu Biến số (n) Trung bình/ tần số (tỉ lệ %)

Tuổi (năm) (n=1039) 6,4 ± 3,2

Giới nam 590 (56,8%)

RT-PCR (+) (n=1039) 262 (25,2%)

NS1 ELISA (+) (n=777) 19 (2,4%)

Chuyển dương IgM/IgG (n=299) 150 (50,2%)

Xác định SXHD 283 (27,2%)

SXHD 243 (82,7%)

SXHD có dấu hiệu cảnh báo 36 (12,7%)

SXHD nặng 13 (4,6%)

11

Bảng 3.2 (gộp từ 2 bảng 3.2 và 3.4 trong luận án). Đặc điểm

dịch tễ và lâm sàng của SXHD và SXHD nặng trong 72 giờ đầu Trung bình/ tần số (tỉ lệ %) Biến số

SXHD(N=283) SXHD nặng (N=13)

Đặc điểm dân số học

Tuổi (năm) 8,2±3,2 8 ± 2,6

Giới nam 162 (57,2%) 9 (69,2%)

Lâm sàng

Ói 121 (42,8%) 5 (38,5%)

Đau bụng 77 (27,2%) 4 (30,8%)

Xuất huyết da 6 (2,1%) 0 (0%)

Xuất huyết niêm mạc 5 (1,8%) 0 (0%)

70

63

57

60

51

50

DENV-1

40

30

DENV-2

25

30

16

DENV-3

20

6

5

DENV-4

4

10

2

2

1

0

Năm 2012 Năm 2013

7 tháng cuối năm 2011

Gan to 0 (0%) 0 (0%)

12

Bảng 3.3. Đặc điểm cận lâm sàng trong 72 giờ đầu của những

trường hợp SXHD.

Trung bình hoặc trung vị Biến số (N=283)

(khoảng tứ vị)/ tần số (tỉ lệ %)

Bạch cầu (103/mm3) 4,91 ± 2,30

Bạch cầu đa nhân trung tính 3,30± 1,84

(103/mm3)

Bạch cầu lympho (103/mm3) 1,17±0,67

Bạch cầu đơn nhân (103/mm3) 0,45±0,36

Tiểu cầu (103/mm3) 188,5 ± 63,3

Tiểu cầu ≤ 105/mm3 18 (6,4%)

Hct (%) 38,59 ± 3,74

ALB (g/L) 44,19 ± 3,29

AST (U/L) 53 (43-72)

ALT (U/L) 23 (16-33)

CK (U/L) 107 (78-153)

Týp huyết thanh (N=262)

77 (29,4%) 1

61 (23,3%) 2

8 (3,1%) 3

4 116 (44,3%)

Đáp ứng miễn dịch (N=153)

Sơ nhiễm 45 (29,4%)

Tái nhiễm 108 (70,6%)

13

Bảng 3.5. Đặc điểm cận lâm sàng của những trường hợp SXHD

nặng.

Biến số (N=13) Trung bình hoặc trung vị (khoảng

tứ vị)/ tần số (tỉ lệ %)

4,73 ± 2,14

3 (23,1%)

40,492 ± 2,653 Bạch cầu (103/mm3) Tiểu cầu ≤ 105/mm3 Hct (%)

4 (30,8%) ALB ≤ 40 g/L

8 (61,5%) AST ≥ 80 U/L

8 (61,5%) ALT ≥ 40 U/L

107(66-165) CK (U/L)

9 (69,2%) NS1 Strip (+)

Týp huyết thanh

3 (23,1%) 1

8 (61,5%) 2

0 (0%) 3

2 (15,4%) 4

Đáp ứng miễn dịch

2 (15,4%) Sơ nhiễm

11 (84,6%) Tái nhiễm

3.2. GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN CỦA XÉT NGHIỆM NHANH

PHÁT HIỆN NS1 VI RÚT DENGUE TRONG CHẨN ĐOÁN

SXHD Ở DÂN SỐ NGHIÊN CỨU

3.2.1. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và giá trị

tiên đoán âm của xét nghiệm NS1 Ag Strip

14

Bảng 3.7. Giá trị của thử nghiệm NS1 Strip

Giá trị Khoảng tin cậy 95%

Độ nhạy 67,84% 62,06% - 73,25%

Độ đặc hiệu 99,34 % 98,46% - 99,78%

Giá trị tiên đoán dương 97,46% 94,11% - 98,93%

Giá trị tiên đoán âm 89,19 % 87,45% - 90,72%

3.2.2. Độ nhạy của xét nghiệm NS1 Strip theo độ tuổi, ngày

bệnh, týp huyết thanh và phản ứng huyết thanh

Dùng phép kiểm Chi bình phương so sánh độ nhạy của xét

nghiệm NS1 Strip theo độ tuổi, ngày bệnh, týp huyết thanh và phản

ứng huyết thanh, chúng tôi có kết quả như sau:

- Độ nhạy của NS1 Strip ở 2 nhóm 1-5 tuổi và nhóm trên 5 đến

15 tuổi không khác biệt với P =0,63.

- Độ nhạy NS1 Strip giữa các ngày bệnh 1, 2 và 3 khác biệt có ý

nghĩa thống kê, với P = 0,024. NS1 kém nhạy ở ngày 3 hơn so với

ngày 1 và ngày 2.

- Độ nhạy NS1 Strip giữa các týp huyết thanh khác khác biệt có

ý nghĩa thống kê với P < 0,001. NS1 Strip kém nhạy ở nhóm nhiễm

DENV-2 hơn các týp khác.

- Độ nhạy NS1 Strip ở nhóm sơ nhiễm cao hơn nhóm tái nhiễm,

sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P < 0,001.

3.3. MỐI LIÊN QUAN GIỮA CÁC YẾU TỐ DỊCH TỄ, LÂM

SÀNG, HUYẾT HỌC VÀ SINH HÓA TRONG 72 GIỜ ĐẦU

VỚI SXHD, MÔ HÌNH CHẨN ĐOÁN SỚM SXHD

3.3.1. Mối liên quan giữa các yếu tố dịch tễ, lâm sàng, huyết

học và sinh hóa trong 72 giờ đầu với SXHD

Bảng 3.9: Mối liên quan giữa các yếu tố cận lâm sàng trong 72

giờ đầu với SXHD

15

SXHD

OR (KTC

95%)

Có (N=283)

Không

Yếu tố

P

Trung bình/n

(N=756)

Trung bình/n

Tuổi (năm)

8,2±3,2

5,7±2,9

<0,001

Ngày của bệnh

0,004

1

18 (6,4%)

42 (5,6%)

2

124 (43,8%)

419 (55,4%)

3

141 (49,8%)

295 (39,0%)

Xuất huyết da

6 (2,1%)

1 (0,1%)

< 0,001*

16,35 (1,96- 136,45)

Bạch cầu (103/mm3)

4,91 ± 2,30

9,49 ± 4,70

< 0,001

Bạch cầu đa nhân

3,30 ±1,84

6,13 ±3,66

< 0,001

trung tính (103/mm3)

Bạch cầu lympho

1,17 ±0,67

2,46±1,31

< 0,001

(103/mm3)

Bạch cầu đơn nhân

0,45±0,36

0,9±0,58

< 0,001

(103/mm3)

Hct (%)

38,59 ± 3,74

37,14 ± 3,65

< 0,001

Tiểu cầu (103/mm3)

188,5 ± 63,3

257,1 ± 75,7

< 0,001

AST (U/L)

63,4 ± 39,2

44,8 ± 23,1

< 0,001

ALT (U/L)

31,8 ± 35

19,8 ± 18,6

< 0,001

CK (U/L)

176,7 ± 257,4 128,3 ± 157,6

0,003

3.3.2. Mô hình chẩn đoán sớm SXHD

16

Mô hình chẩn đoán SXHD được xây dựng dựa trên phương pháp

Bayesian Model Average trên phần mềm R. Mô hình gồm các biến

số lượng tiểu cầu, bạch cầu đa nhân trung tính (BCĐNTT) và

lympho. Phương trình hồi qui logistic như sau: Logit (SXHD) = 4,054 - 0,007 x TC (103/mm3) - 0,256 x BCĐNTT (103/mm3) -1,486 x LYMPHO (103/mm3). Chọn ngưỡng xác suất ≥

0,5; nếu giá trị thu được > 0 thì có chẩn đoán SXHD.

Chúng tôi tính được AUC của mô hình là 0,881. Độ nhạy của mô

hình 0,787 và độ đặc hiệu là 0,820. Trên dân số mẫu nghiên cứu với

tỉ lệ bệnh lưu hành là 27,2%, chúng tôi tính được giá trị tiên đoán

dương là 0,620 và giá trị tiên đoán âm là 0,916.

3.4. MỐI LIÊN QUAN GIỮA CÁC YẾU TỐ DỊCH TỄ, LÂM

SÀNG, HUYẾT HỌC VÀ SINH HÓA TRONG 72 GIỜ ĐẦU

VỚI SXHD NẶNG

Bảng 3.11: Kết quả phân tích mối liên quan giữa các yếu tố cận

lâm sàng trong 72 giờ đầu với SXHD nặng.

SXHD nặng

Yếu tố

OR (KTC 95%)

P

Có (N=13)

Không (N=270)

n(%)

n (%)

Tiểu cầu ≤

3 (23,1%)

15 (5,6%)

5,1(1,27-20,50)

0,011*

105/mm3

ALB ≤ 40 g/L 4 (30,8%)

25 (9,3%)

4,36 (1,25-15,17) 0,012*

AST≥ 80 U/L 8 (61,5%)

45 (16,7%)

8 (2,5-25,58)

<0,001

ALT≥ 40 U/L 8 (61,5%)

50 (18,5%)

7,04 (2,21-22,43) <0,001

DENV-2

8 (61,5%)

53 (19,6%)

6,55 (2,06-20,84) <0,001*

*Sử dụng phép kiểm Fisher chính xác

17

CHƯƠNG 4

BÀN LUẬN

4.1. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG

TRONG 72 GIỜ ĐẦU CỦA SXHD

Đây là nghiên cứu dựa trên bệnh nhân ngoại trú, tiến cứu với cỡ

mẫu khá lớn về SXHD thực hiện tại Tiền Giang. Nghiên cứu đã cung

cấp số liệu sơ lược về lâm sàng và cận lâm sàng của gánh nặng

SXHD ngay từ trong giai đoạn sớm (trong vòng 72 giờ đầu của

bệnh) cũng như lịch sử tự nhiên và kết cuộc lâm sàng. Nghiên cứu

được thực hiện qua 31 tháng từ 6/2011 đến tháng 12/2013 đã cung

cấp hình ảnh về sự thay đổi tần suất mắc SXHD qua các năm cũng

như sự chuyển đổi týp huyết thanh lưu hành qua các năm 2011-2013.

Tỉ lệ SXHD 27,2% thấp hơn nghiên cứu của Kalayanarooj

S.(35%) và Potts (50%) nhưng cao hơn kết quả nghiên cứu của

Biswas (9%). Điều này có thể do sự khác nhau về mô hình bệnh tật,

xét nghiệm xác định SXHD sử dụng trong nghiên cứu cũng như kinh

nghiệm chẩn đoán lâm sàng của các thầy thuốc giữa các nơi.

Trong gần 3 năm nghiên cứu từ 2011 đến 2013, chúng tôi nhận

thấy số trường hợp SXHD năm 2011 cao nhất (159 trường hợp trong

7 tháng cuối năm 2011), đến năm 2012 số trường hợp SXHD giảm

xuống còn 110, đến năm 2013 có sự giảm rõ rệt, chỉ còn 14 trường

hợp SXHD. Tình trạng này cũng phù hợp với số liệu điều tra của Bộ

Y tế cho thấy năm 2013, số mắc SXHD (33.390 trường hợp) trên

toàn khu vực phía Nam đạt thấp nhất kể từ năm 2003.

Về phân loại SXHD, trong số 283 trường hợp SXHD trong

nghiên cứu, chỉ có 4,6% là SXHD nặng và 12,7% là SXHD có

DHCB. Điều này có nghĩa là tỉ lệ cần thiết nhập viện để truyền dịch

18

hay điều trị các biến chứng nặng là 17,3%. Tuy nhiên trong thực tế, tỉ

lệ nhập viện của SXHD trong nghiên cứu là 50,9%. Điều này cho

thấy có khoảng 33,6% trường hợp SXHD trong nghiên cứu nhập

viện không cần thiết.

Chúng tôi nhận thấy các triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng trong

72 giờ đầu không đặc hiệu cho SXHD, điều này phù hợp với y văn.

Về cận lâm sàng, các trường hợp SXHD có hiện tượng giảm số

lượng bạch cầu cũng như bạch cầu đa nhân trung tính, bạch cầu

lympho và bạch cầu đơn nhân. Điều này cũng phù hợp với y văn

rằng sự giảm số lượng bạch cầu tiến triển là biểu hiện bất thường

sớm nhất trong công thức máu.

Về týp huyết thanh, trong thời gian nghiên cứu DENV-4 chiếm tỉ

lệ cao nhất 44,3%. DENV-4 không phải là týp hay gặp trong những

mùa dịch các năm trước tại miền Nam. Chương trình giám sát SXHD

của Bộ Y tế cho thấy rằng DENV-1 và DENV-2 là týp huyết thanh

nổi trội ở Miền Nam từ năm 2003 đến 2011. Tuy nhiên, trong những

trường hợp SXHD nặng, DENV-2 chiếm tỉ lệ cao nhất (8/13 trường

hợp).

4.2. GIÁ TRỊ CỦA XÉT NGHIỆM NHANH PHÁT HIỆN NS1

VI RÚT DENGUE TRONG CHẨN ĐOÁN SỚM SXHD

So với một số nghiên cứu trước đây về NS1 Strip tại các nơi

khác, nghiên cứu chúng tôi có độ nhạy 67,8% tương đương ở

Venezuela 67,8%, cao hơn tại thành phố Hồ Chí Minh 61,6% và thấp

hơn một số nơi khác như Đài Loan 77,3%, Singapore 78,9%, Guyana

81,5% hay Brazil 89,6%. So với các thử nghiệm NS1 ELISA, nói

chung NS1 Strip thường có độ nhạy thấp hơn. Về độ đặc hiệu, NS1

Ag Strip trong nghiên cứu chúng tôi cho thấy độ đặc hiệu cao

99,34% phù hợp với rất nhiều nghiên cứu trước đây.

19

4.3. MỐI LIÊN QUAN GIỮA CÁC YẾU TỐ DỊCH TỄ, LÂM

SÀNG, HUYẾT HỌC VÀ SINH HÓA TRONG 72 GIỜ ĐẦU

VỚI SXHD, MÔ HÌNH CHẨN ĐOÁN SỚM SXHD:

- Tuổi: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với các tác giả

Kalayanarooj S, Biswas hay Potts, tuổi trung bình ở nhóm bệnh nhân SXHD cao hơn sốt do nguyên nhân khác (SDNNK). - Xuất huyết da: Mặc dù triệu chứng xuất huyết da ít gặp trong 72

giờ đầu, chỉ có 6 trường hợp chiếm tỉ lệ 2,1% nhưng khi xuất hiện

xuất huyết da, nguy cơ bị SXHD tăng 16,35 lần. Kết quả của chúng

tôi tương đồng với nghiên cứu của tác giả Biswas.

- Số lượng tiểu cầu: Số lượng tiểu cầu trung bình trong 72 giờ đầu

của trẻ SXHD thấp hơn trẻ SDNNK, p<0,001. Kết quả của chúng tôi

tương tự của tác giả Kalayanarooj. Trong nghiên cứu của Greogory

và cs ở trẻ em, tiểu cầu giảm và không có triệu chứng ho cho thấy có

liên quan đến SXHD.

- Số lượng BCĐNTT và lympho: James A. Potts and Alan L.

Rothma khi xem xét lại 15 nghiên cứu so sánh SXHD với các bệnh

sốt khác từ 1990 đến 2007 đã nhận thấy số lượng BCĐNTT và

lympho ở những bệnh nhân SXHD thấp hơn có ý nghĩa so với các

bệnh sốt khác.

- AST và ALT: Nồng độ AST và ALT trung bình trong 72 giờ đầu

của trẻ SXHD cao hơn trẻ bị SDNNK, p<0,001. Điều này cho thấy

trong SXHD, tình trạng tổn thương gan đã diễn ra từ ngay giai đoạn

sốt. Kết quả của chúng tôi tương tự của tác giả Kalayanarooj S là

người đầu tiên báo cáo rằng trong giai đoạn sốt cấp, tình trạng tăng 2

men này hay gặp trong SXHD hơn các bệnh SDNNK.

- CK: cũng là một dấu ấn sinh học của SXHD được nghiên cứu trong

thời gian gần đây. CK trung bình trong 72 giờ đầu của trẻ SXHD cao

20

hơn trẻ bị SDNNK, P = 0,003. Trong một nghiên cứu đoàn hệ nhỏ

(n=39) trên bệnh nhân SXHD người lớn, tác giả Misra cho thấy CK

tăng, trung vị 837 U/L (194-3.832 U/L).

- Mô hình chẩn đoán sớm SXHD: Những tiếp cận gần đây sử dụng

mô hình hồi quy tuyến tính hoặc logistic đa biến cho thấy xuất huyết dưới da, giảm tiểu cầu (số lượng tiểu cầu ≤ 100.000/mm3), nghiệm

pháp dấu dây thắt dương tính, phát ban và những dấu hiệu và triệu

chứng khác có thể giúp phân biệt SXHD với bệnh sốt khác. Tuy

nhiên, kết quả không đồng nhất giữa các nghiên cứu. Đa số những

nghiên cứu này dựa trên bệnh nhân nhập viện. Nghiên cứu chúng tôi

thực hiện trên bệnh nhân ở phòng khám và mô hình xây dựng được

gồm 3 biến số: số lượng tiểu cầu, BCĐNTT và lympho. Mô hình này

có AUC= 0,881, do đó có thể áp dụng mô hình trên lâm sàng. Chỉ

với công thức máu đơn giản trong 72 giờ đầu, mô hình này có thể áp

dụng được ở nhiều nơi bởi vì công thức máu là xét nghiệm thường

qui có sẵn tại gần như tất cả cơ sở. Trước chúng tôi, tác giả Nguyễn

Minh Tuấn xây dựng mô hình chẩn đoán sớm trẻ SXHD trong vòng

72 giờ đầu dựa trên 3 biến số: tuổi, số lượng bạch cầu và tiểu cầu với

độ nhạy 74,8% và độ đặc hiệu 76,3% trong chẩn đoán SXHD.

4.4. CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG SXHD NẶNG:

- Tiểu cầu: Trong SXHD, số lượng tiểu cầu thường có xu hướng

giảm trong giai đoạn sốt, sau đó giảm xuống thấp nhất trong giai

đoạn nguy hiểm. Các nghiên cứu trước đây thường sử dụng số lượng tiểu cầu < 50.000/mm3 trong giai đoạn nguy hiểm như là một dấu ấn

của SXHD nặng. Nghiên cứu chúng tôi giúp nhận diện sớm trong

vòng 72 giờ đầu nhóm bệnh nhân có số lượng tiểu cầu nhỏ hơn hoặc bằng 100.000/mm3 có nguy cơ diễn tiến thành SXHD nặng,

OR=5,10; p=0,011. Nghiên cứu của tác giả Ampaiwan Chuansumrit

21

cho kết quả: số lượng tiểu cầu giảm dưới 40.000/mm3 có thể là yếu

tố tiên lượng sốc SXHD trong giai đoạn sốt, với nguy cơ tương quan

là 7,7 (KTC 95% 2,2-26,5).

- Albumin: Kết quả của chúng tôi cho thấy albumin máu ≤ 40 g/l

trong vòng 72 giờ đầu có thể sử dụng như là một yếu tố tiên lượng

sớm SXHD nặng (OR =4,36; p=0,012). Kết quả này củng cố một

điều trong giai đoạn sốt cấp, ở những trường hợp SXHD nặng, quá

trình thất thoát huyết tương vẫn diễn ra và nhiều hơn so với nhóm

SXHD không nặng. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu

của Luis Ángel Villar-Centeno, tác giả cho thấy nồng độ albumin <

4g/dl (OR=3,46; p<0,001) có liên quan với độ nặng của bệnh.

- AST và ALT: Kết quả cho thấy AST ≥ 80 U/L và ALT ≥ 40 U/L có

thể là yếu tố tiên lượng sớm SXHD nặng trong 72 giờ đầu với OR

lần lượt 8,00 và 7,04; p<0,001. Y văn ghi nhận mối liên quan giữa

tăng men gan với độ nặng bệnh không đồng nhất. Một nhóm nghiên

cứu ở Thái Lan cho thấy AST liên quan với SXHD, còn ALT thì

không. Trong khi đó một nhóm khác cho thấy cả AST và ALT có

liên quan ý nghĩa với những trường hợp nặng (AST p < 0,001, ALT

p = 0,003).

- Týp huyết thanh: Watts và cộng sự thấy rằng tái nhiễm với chuỗi

gien châu Á của DENV-2 thì liên quan đến SXHD và hội chứng sốc

SXHD ở Đông Nam Á và châu Mỹ. Nhiều tài liệu trước đây cũng

báo cáo rằng DENV-2 có liên quan đến SXHD nặng. Kết quả nghiên

cứu chúng tôi cũng phù hợp khi thấy rằng mặc dù DENV-4 chiếm tỉ

lệ lưu hành cao nhất (44,3%) nhưng trong những trường hợp SXHD

nặng, DENV-2 chiếm tỉ lệ cao nhất 61,5% (8/13 trường hợp) và

nhiễm DENV-2 làm tăng nguy cơ SXHD nặng, OR= 6,55; p <0,001.

22

KẾT LUẬN

Sau khi tiến hành nghiên cứu trên 1039 bệnh nhi sốt trong vòng

72 giờ nghi sốt xuất huyết dengue tại bệnh viện Đa khoa Trung tâm

Tiền Giang trong thời gian từ tháng 6/2011 đến tháng 12/2013,

chúng tôi có các kết luận như sau:

1. Đặc điểm của sốt xuất huyết dengue trong 72 giờ đầu

Có 283 trường hợp sốt xuất huyết dengue được chẩn đoán xác

định chiếm tỉ lệ 27,2%, trong đó có 262 trường hợp chẩn đoán bằng

RT-PCR, chiếm tỉ lệ 92,6%, còn lại 21 trường hợp chẩn đoán bằng

NS1 ELISA dương tính hoặc sự chuyển dương IgM/ IgG.

Phân loại sốt xuất huyết dengue: sốt xuất huyết dengue 82,7%;

sốt xuất huyết dengue có dấu hiệu cảnh báo 12,7%; sốt xuất huyết

dengue nặng 4,6%.

Tuổi trung bình sốt xuất huyết dengue 8,2 ± 3,2 tuổi. Giới nam

57,2%

Phân bố týp huyết thanh: DENV-1 chiếm 29,4%; DENV-2

chiếm 23,3%; DENV-3 chiếm 3,1% và DENV-4 chiếm 44,3%.

Trong sốt xuất huyết dengue nặng, týp huyết thanh DENV-2 chiếm

đa số: 61,5%

Tỉ lệ tái nhiễm trong sốt xuất huyết dengue nặng: 84,6%

2. Giá trị chẩn đoán của xét nghiệm nhanh phát hiện NS1

(Dengue NS1 Ag Strip) trong 72 giờ đầu

Độ nhạy: 67,84% (KTC 95%: 62,06% - 73,25%)

Độ đặc hiệu: 99,34 % (KTC 95%: 98,46% - 99,78%)

Giá trị tiên đoán dương: 97,46% (KTC 95%: 94,11% - 98,93%)

Giá trị tiên đoán âm: 89,19 % (KTC 95%: 87,45% - 90,72%)

NS1 Strip nhạy hơn ở nhóm sơ nhiễm và kém nhạy ở nhóm

nhiễm DENV-2 và ngày 3 hơn so với ngày 1 và ngày 2.

23

3. Mối liên quan giữa các yếu tố dịch tễ, lâm sàng và cận lâm

sàng trong 72 giờ đầu với sốt xuất huyết dengue, mô hình chẩn

đoán sớm sốt xuất huyết dengue

3 yếu tố trong 72 giờ đầu có liên quan với sốt xuất huyết dengue

sau phân tích đa biến bao gồm:

- Số lượng tiểu cầu (104/mm3), OR=0,93; p < 0,001. - Số lượng bạch cầu đa nhân trung tính (103/mm3), OR=0,77;

p < 0,001.

- Số lượng bạch cầu lympho (103/mm3), OR=0,23; p < 0,001.

Mô hình chẩn đoán sớm sốt xuất huyết dengue theo phương

trình:

Logit (SXHD) = 4,054 - 0,007 x Số lượng tiểu cầu (103/mm3) - 0,256 x Số lượng bạch cầu đa nhân trung tính (103/mm3) -1,486 x số lượng bạch cầu lympho (103/mm3). Nếu giá trị thu được > 0 thì có chẩn đoán sốt xuất huyết dengue.

4. Các yếu tố tiên lượng sốt xuất huyết dengue nặng

Có 5 yếu tố có thể tiên lượng sốt xuất huyết dengue nặng gồm: - Tiểu cầu ≤ 105/mm3: OR 5,1 (KTC 95% 1,27-20,50), p =

0,011

- Albumin ≤ 40 g/L: OR 4,36 (1,25-15,17), p = 0,012

- AST ≥ 80 U/L: OR 8 (2,5-25,58), p < 0,001

- ALT ≥ 40 U/L: OR 7,04 (2,21-22,43), p < 0,001

- Nhiễm DENV-2: OR 6,55 (2,06-20,84), p < 0,001

24

KIẾN NGHỊ

Dựa vào kết quả thu được, chúng tôi có những kiến nghị sau:

- Sử dụng xét nghiệm nhanh NS1 để giúp chẩn đoán sớm sốt xuất

huyết dengue trong vòng 72 giờ đầu.

- Với những nơi không có điều kiện thực hiện xét nghiệm NS1, có

thể sử dụng mô hình chẩn đoán xây dựng trong nghiên cứu của

chúng tôi để hỗ trợ chẩn đoán sớm sốt xuất huyết dengue.

- Trong vòng 72 giờ đầu, với những trẻ đã xác định sốt xuất huyết

dengue nên lưu ý làm thêm các xét nghiệm sinh hóa như albumin

máu, AST, ALT và nếu có điều kiện, định danh týp huyết thanh

DENV để có thể giúp tiên lượng sớm sốt xuất huyết dengue nặng.

- Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn và với cỡ mẫu lớn hơn về các yếu tố

tiên lượng sớm sốt xuất huyết dengue nặng, từ đó xây dựng mô hình

tiên lượng sớm sốt xuất huyết dengue nặng.

Mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng chúng tôi hy vọng

nghiên cứu này sẽ cung cấp những số liệu cần thiết cho các nghiên

cứu tiếp theo và giúp ích cho quí đồng nghiệp trong chẩn đoán và

tiên lượng sớm trẻ sốt xuất huyết dengue.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ

1. Huỳnh Công Thanh, Tạ Văn Trầm, Đỗ Văn Dũng (2018). “Giá trị

của xét nghiệm nhanh phát hiện kháng nguyên NS1 trong 72 giờ đầu

trên bệnh nhi theo dõi sốt xuất huyết dengue tại Tiền Giang”, Tạp chí

Y học Việt Nam, tập 463, tháng 2 – số 2, tr. 152-156.

2. Huỳnh Công Thanh, Tạ Văn Trầm, Đỗ Văn Dũng (2018). “Một số

yếu tố tiên lượng sớm sốt xuất huyết dengue nặng ở trẻ em trong 72

giờ đầu”, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 463, tháng 2 – số 2, tr. 99-102