Xích Qu- Việt - Sở, những nghi vấn nguồn gốc
1
THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN CA TRUYỀN THUYẾT
Tác giả: Nguyên Nguyên
Như những bài đầu đã phân tích, truyền thuyết 'Âu Cơ' thoạt nhìn vnhư rất
giản đơn, không gì th gây thắc mắc, nhưng thật sự nếu quan sát kỹ,
giống như các quyển võ công kíp trong c truyện kiếm hiệp của Kim Dung.
Tràn đầy những lối nói ẩn dụ, lối 'fast forward' (quây băng video nhanh), các ý
niệm rất sâu sắc trong đó ý niệm giống như 'nhảy vọt quantum' của Max
Planck, những thông điệp ẩn tàng kkbí. ghi lại hết nguồn gốc dân tộc
Việt Nam, cũng như những vấn đề khó khăn ở thời buổi ban đầu.
Cái gút lớn và phức tạp nhất của truyền thuyết kì này nm trọn chỗ 'phải xác
định cho thật đúng thời gian và không gian ca diễn biến câu chuyện'.
Thời điểm xảy ra câu chuyện chính là thời Xuân Thu Chiến Quốc ở bên Tàu (770-
221 TCN), chốn không gian của truyền ch ban đầu được dựng nên tại nước
Sở, hoặc địa bàn sinh hoạt của hai chủng Thái-cvà Vit-cổ, cả hai đều thuộc vào
một khối thường được người Hoa gọi nôm na: khối Bách Việt (Bai Yue).
Qua hai bài trước (2 bài trước của tác giả viết về Hùng Vương: bc chú), chúng ta
đã thấy:
1. một khế ước bất thành văn thảo tại nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc,
kêu gọi sự hợp chủng giữa Âu và Lạc, cùng toàn thcác chủng thuộc khối Bách
Việt khác, để cùng chống lại chủng Hoa. Chủng Âu (Thái), đại diện bằng Âu Cơ,
snắm vai trò lãnh đạo. Tương ứng với truyền thuyết, các chủng 'rợ' thuở đó còn
theo mẫu hệ.
2. 'Minh chủ' của khối Bách Việt chính ớc Sở, một nước do nhà Châu thành
lập với đông đảo dân chúng thuộc khối rợ Yueh (Việt), nhưng 'chính quyền' của
nước S do đa số người thuộc chủng Hoa lãnh đạo. Một vài đời vua S lai
chủng Yueh [1] [2]. Chính sách của nước Sở cũng khá phức tạp. Một mặt làm
'phên dậu' cho nhà Châu, đàn áp tiêu diệt các bộ tộc rợ Yueh trong nước và
chung quanh để bành trướng lãnh thổ. Mặt khác, dựa vào lực lượng dân quân phần
lớn là rYueh, ra sức cạnh tranh với các nước khác thuộc chủng Hoa, nhất là Tần,
và dòm ngó 9 cái đỉnh của nhà Châu [3] [4].
3. Thành phần chủ lực của nước Sở thời mới dựng nước chính là chủng Thái (Âu).
Vài trăm m sau, nước Thục, một nước lớn cũng thuộc chủng Thái phía Tây b
nhà Tần tiêu diệt. Người chủng Âu tức Thái tThục di về Sở, và xuống phía
Nam hội nhập với dân Tây Âu. Lẫn lộn trong c đoàn người di tản đó, hoặc từ
chốn khác đổ xuống, cũng có một số thuộc tộc Lạc Việt, tiểu chi Đông Di, thường
gọi nm Bộc Việt hay Bách Bộc. Nhóm Bách Bộc này chính nhóm chủng Lạc
có mặt lâu đời tại miền Hoa Bắc (phía Bắc sông Dương Tử).
4. Nước S về sau trở nên hùng mạnh, nới rộng lãnh th đến tận bờ biển phía
Đông - bao gồm 2 nước Việt (của Câu Tiễn) và Ngô (của Hạp / Phù Sai). Phần
đất ban đầu của Sở gọi là đất Kinh (tức Kinh Việt hay Kinh Man). Và phần đất
phía Đông, tức vùng đất của hai nước N Việt hồi trước, bao gồm phần lớn
chủng Lạc có tên đất Dương. Từ đó truyền thuyết dựng nên nhân vật Kinh Dương
Vương dùng để chỉ người xứ Kinh và Dương hợp lại với nhau.
5. Hai chủng Thái - Việt này nm tay nhau chạy giặc đàn áp khủng bố gây nên
bởi chủng Hoa, bởi chính quyền nước Sở, bởi chiến tranh khắp nơi,... xuống tuốt
đến đồng bằng sông Hồng rồi định cư tại đó. Diễn biến từ lúc khế ước hợp
chủng đoàn kết cho đến c tới bình nguyên sông Hồng xảy ra trên dưới 1000
năm, trước Công Nguyên. Đúng vào thời điểm nhà Châu thay thế nhà Ân (Thang),
kéo dài qua thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-221TCN), cho đến lúc nước Nam
Việt bao gm 2 chủng nói trên bị nhà Hán dứt điểm vào năm 111 TCN.
6. Cao điểm của cuộc chiến tranh chống m lược và đồng hoá của chủng Hoa
chính là cuộc chiến 'anh dũng' của quân dân chủng Thái tại xứ Tây Âu, với địa bàn
tỉnh Quảng Tây ngày nay các vùng lân cận. Cuộc chiến này đã được ghi đầy đủ
trong sách scổ của Tàu, nhất là quyển Hoài Nam Tcủa Lưu An, cháu của Hán
Cao Tu Bang.
7. Hợp đồng hợp chủng đoàn kết giữa hai chủng Thái và Việt cuối cùng b
bỏ. Đó chính lúc Âu ly hôn với Lạc Long Quân dẫn 50 người con về miền
núi và Lạc Long Quân dẫn 50 người con kia xuôi về miền đồng bằng gần sông gn
biển. Trên chiều hướng dùng nhân vật nh động nhân vật để thay, hoặc biểu
tượng cho sự kiện, ta thể thấy việc cãi giữa Lạc Long Quân Âu Cơ, rồi
dẫn đến chia ly, cũng giống như việc gia đình phải phân n khi phải di tản hay
chạy giặc. Âu đại diện cho khuynh hướng bảo thủ đem con trở về quê hương
của mình, tức địa bàn rừng núi của chủng Thái-cổ. Lạc Long Quân dẫn đám con
kia xuống vùng đồng bằng để 'dựng nước', chạy theo trào lưu 'phụ hệ' của Hoa
chủng, và truyền 'chính quyền' theo lối thế tập.
8. Cũng thể giải mã schia tay giữa bà Âu ông Lạc theo dạng: Thế lực đô
hBắc phương sau khi đã bình định được xứ sở của hai chủng Âu và Lạc, đã chia
cắt nước Nam Việt ra làm hai. Phía Bắc bao gồm chủng Âu chủ lực, gọi Quảng
Châu. Phía Nam mang n Giao Châu, gm đa số dân chủng Lạc. Riêng tại Giao
Châu, việc chia ly cũng được thể hiện bằng chuyện rất đông một số người, với
chủng Âu (Thái cổ) chủ lực, kéo lên miền núi rừng sinh sống, rồi lâu năm hp với
các chủng địa phương như Negrito (dân lùn tóc quắn) Melanesian (dân đảo da
đen), trở thành người Mường. Phần còn lại vùng đồng bằng trở thành người
Kinh.
9. Chai bản của truyện tích Mường và Việt đều ghi rõ hai chủng Thái và Việt c
đều theo mẫu hệ. Điều này rt hợp lý, bởi khi di tản xuôi Nam, cả hai chủng đều đi
một lượt với nhau. Chủng Âu, tức Thái cổ, còn theo mẫu hệ, với chứng tích c
con trai đều không theo họ cha lẫn họ mẹ, như Sùng Lãm con của Lộc Tục (xem
bài s2). Hai bộ tộc, một Âu một Lạc cùng di tản với nhau thì không cách ch
bÂu còn gimẫu hệ mà thôi. Chđoạn cuối của bản Việt, các tác giả đã
ợng ép thay đổi một số chi tiết để ám chỉ chủng Việt đổi ngay sang phụ hệ, vào
lúc chia tay. Bằng cách cho con trường, mang hai giòng máu Thái-Việt, lên ngôi
vua xưng Hùng Vương truyền lại 18 đời theo lối thế tập của phụ hệ. lẽ
dưới sức ép phải minh chứng với người nghe kể chuyện là đám con theo Cha cũng
tiến lên phụ hệ một lượt với các thầy Bắc phương, từ thời nhà Hạ bên Tàu.
10. Để tránh lộn xộn, xin m lược vài 'đẳng thức bản' của loạt bài này, như
sau:
* Bách Vit = Nhiều chủng tộc các ngôn ngữ gần giống nhau, nhưng khác
Hoa ng
* Việt (Nam) = Thái (cổ) + Việt (cổ) + Một số các chủng sẵn bản địa (như
Negrito,
Melanesian, Môn, Khmer, v.v.), từ đây gọi tắt 'các chủng khác', CCK.
* Việt (Nam) = Thái-cổ + Việt-c+ CCK = Âu + Lạc + CCK
* Thái (cổ) = Nhiều chi chủng Thái (Âu) khác nhau (> 7)
* Việt (cổ) = Nhiều chi chủng Lạc (Việt cổ) khác nhau (> 5)
* Người Việt Nam thời khai = Mẹ Thái + Cha Việt
* Người Thái Lan, xưa và nay = Mẹ Thái + Cha Thái
* Hmong (Miêu) tộc = hậu duệ của đám Cửu Lê (Jiu Li), với lãnh t Xy u
(Vưu) - từng
đại bại trước phe Hoa chủng của Hiên Viên 'Hoàng Đế', trong thời huyền sử.
Ngày trước, chủng Hmong thường được gộp chung với khối Bách Việt. y giờ
hđược tách ra khỏi khối này bởi nhiều khác biệt về ngôn ngữ, phong tục, tập
quán, chỉ số sọ và có lẽ DNA.
Chúng ta ththấy rõ, một khi giải mã được truyền thuyết như một câu chuyện
đời xưa liên hđến cuộc di tản hằng khối của 2 tộc Âu và Lạc, kết thúc bằng chia
ly, tất cả những vấn đề liên hđều thể nhanh chóng được sắp xếp trở lại, 'đâu
vào đó' rất êm xuôi.