intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phân tích karyotype của loài vi tảo Schizochytrium mangrovei PQ6 sử dụng kỹ thuật nhuộm DAPI và điện di xung điện trường

Chia sẻ: Ni Ni | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

49
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày những kết quả ban đầu về việc xác định karyotype của chủng PQ6 dựa trên việc quan sát tiêu bản nhiễm sắc thể ở metaphase và kỹ thuật PFGE được sử dụng để xác định số lượng nhiễm sắc thể. Các kết quả thu được có thể sẽ giúp ích cho việc sắp xếp và chú giải hệ gen của loài vi tảo này trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phân tích karyotype của loài vi tảo Schizochytrium mangrovei PQ6 sử dụng kỹ thuật nhuộm DAPI và điện di xung điện trường

TAP CHI<br /> HOC 2015,<br /> 37(1):<br /> 60-68<br /> PhânSINH<br /> tích karyotype<br /> của<br /> loài vi<br /> tảo<br /> DOI: 10.15625/0866-7160/v37n1.6140<br /> <br /> PHÂN TÍCH KARYOTYPE CỦA LOÀI VI TẢO Schizochytrium mangrovei<br /> PQ6 SỬ DỤNG KỸ THUẬT NHUỘM DAPI (4’, 6-DIAMIDINO-2-PHENYLIDOLE)<br /> VÀ ĐIỆN DI XUNG ĐIỆN TRƯỜNG (PFGE)<br /> Hoàng Thị Lan Anh1, Ngô Thị Hoài Thu1, Trần Huy Hoàng2, ZhiGang Zhou3,<br /> Trần Quế4, Chu Hoàng Hà1, Trương Nam Hải1, Đặng Diễm Hồng1*<br /> 1<br /> <br /> Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam, *ddhong60vn@yahoo.com<br /> 2<br /> Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương<br /> 3<br /> Trường Cao đẳng Khoa học và Công nghệ Thủy sản, Đại học Hải dương Thượng Hải, Trung Quốc<br /> 4<br /> Viện nghiên cứu Hạt nhân, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam<br /> TÓM TẮT: Schizochytrium mangrovei PQ6 là loài vi tảo biển dị dưỡng của Việt Nam, có nhiều<br /> đặc điểm quý, bao gồm khả năng đáp ứng với sự thay đổi của điều kiện môi trường nuôi, năng suất<br /> sinh khối cao (30-40 g sinh khối khô/L), hàm lượng lipid lớn (đến 70% sinh khối khô), và giàu các<br /> acid béo không bão hòa đa nối đôi (như acid docosahexaenoic - DHA, C22:6 n-3; eicosapentaenoic<br /> - EPA, C20:5 n-3; docosapentaenoic - DPA, C22:5 n-6). Sinh khối của loài tảo này đã được nghiên<br /> cứu để sử dụng trong nuôi trồng thủy sản, thực phẩm chức năng, sản xuất biodiesel và một số các<br /> hợp chất có hoạt tính sinh học (acid béo không bão hòa đa nối đôi, squalene...). Tuy nhiên, cho đến<br /> nay, chưa có bất cứ một công bố nào đề cập tới việc phân tích karyotype của loài vi tảo này cũng<br /> như các loài khác thuộc chi Schizochytrium. Trong bài báo này, chúng tôi đã sử dụng colchicine để<br /> ngừng chu kì tế bào tảo ở metaphase. Sau đó, tế bào tảo được xử lý bằng các enzyme làm mềm<br /> thành tế bào, nhiễm sắc thể được nhuộm với DAPI (4’, 6-diamidino-2-phenylindole) và quan sát<br /> dưới kính hiển vi huỳnh quang. Các kết quả thu được cho thấy, chủng PQ6 có 3 nhiễm sắc thể. Mặt<br /> khác, 4 băng tương ứng với 4 nhiễm sắc thể đã được phân tách bởi điện di xung điện trường. Sự<br /> khác biệt về số lượng nhiễm sắc thể này được chúng tôi giả thiết rằng có thể loài vi tảo này có tồn<br /> tại plasmid. Vì vậy, trong thời gian tới, các nghiên cứu khác cần được tiến hành nhằm khẳng định<br /> các kết quả đã thu được. Mặc dù vậy, nghiên cứu này đã cung cấp những bằng chứng đầu tiên về<br /> karyotype và cung cấp cơ sở đầu tiên cho việc sắp xếp, chú giải hệ gen của loài vi tảo này.<br /> Từ khóa: Schizochytrium mangrovei PQ6, DAPI, karyotype, metaphase, PFGE<br /> MỞ ĐẦU<br /> <br /> Phân tích nhiễm sắc thể là một trong những<br /> yêu cầu tiên quyết của các nghiên cứu về di<br /> truyền và chọn giống. Trong một thời gian dài,<br /> việc phân tích tế bào học của tảo bị giới hạn<br /> một phần do nhiễm sắc thể tảo có kích thước<br /> nhỏ, đồng dạng và số lượng nhiều. Trong các<br /> nghiên cứu trước đây, aceto-iron-haematoxylin,<br /> aceto-iron- carbol fuchsin, haematoxylin-chloral<br /> hydrate, iron alum aceto-carmine và<br /> haemotoxylin là các loại thuốc nhuộm và xử lý<br /> thành tế bào tảo bằng acid thường được sử dụng<br /> trong quy trình xử lý tiêu bản để phân tích<br /> nhiễm sắc thể ở chi tảo lớn như Porphyra,<br /> Laminaria, Undaria [3, 7, 13, 21, 23, 24]. Tuy<br /> nhiên, nhược điểm khi sử dụng các phương<br /> pháp này là sự bắt màu với thuốc nhuộm yếu,<br /> mức độ tương phản giữa nhân và tế bào chất<br /> thấp, quy trình phức tạp.<br /> 60<br /> <br /> Khác với các loại thuốc nhuộm nói trên, sự<br /> tương tác của 4’, 6-diamidino-2-phenylindole<br /> (DAPI) với DNA và polydeoxynucleotide đã<br /> được nghiên cứu ngay khi chất này được Dann<br /> et al. (1971) [5] tổng hợp nhân tạo. Hiện nay,<br /> DAPI được coi là chất gắn đặc hiệu DNA ở<br /> vùng giàu A-T, tạo thành phức hợp huỳnh<br /> quang. Khi phức hợp này được kích thích bằng<br /> ánh sáng UV có bước sóng 365 nm, phức hợp<br /> DNA-DAPI phát huỳnh quang ánh sáng xanh ở<br /> bước sóng 390 nm hoặc lớn hơn. Còn các phần<br /> không liên kết với DAPI hoặc liên kết yếu có<br /> thể phát ánh sáng màu vàng yếu. Vì vậy, DAPI<br /> được sử dụng như một đầu dò hóa học để xác<br /> định hàm lượng DNA ở tảo [2, 14]. Bên cạnh<br /> đó, cũng có một số công bố đã sử dụng chất này<br /> để quan sát nhiễm sắc thể của tảo [15, 18, 22].<br /> Điện di xung điện trường (Pulsed- field gel<br /> electrophoresis-PFGE) được xem là phương<br /> <br /> Hoang Thi Lan Anh et al.<br /> <br /> pháp hiệu quả trong việc phân tách nhiễm sắc<br /> thể và xác định kích thước hệ gen. Nó cũng<br /> được coi là công cụ quan trọng trong các nghiên<br /> cứu về di truyền và phân tử, đặc biệt ở những<br /> sinh vật nhân chuẩn bậc thấp [4]. Trên tảo, kĩ<br /> thuật PFGE đã được áp dụng thành công để<br /> phân tách nhiễm sắc thể ở các chi<br /> Thraustochytrium [1], Pavlova, Diacronema<br /> (Haptophyta) [17]. Các gen mã hóa cho các<br /> enzyme chính của quá trình tổng hợp axít béo<br /> có thể được nhận dạng từ các nhiễm sắc thể<br /> được phân tách bằng phương pháp PFGE.<br /> Các chi vi tảo được phân tích karyotype cho<br /> đến nay hầu hết thuộc về nhóm tảo lớn<br /> (macroalgae/seaweed). Mặc dù các nghiên cứu<br /> trên nhóm vi tảo lại rất hạn chế, phải kể đến<br /> công bố của Dzhambazov et al. (2003) [6] và<br /> Muravenko et al. (2001) [16] ở một số loài<br /> thuộc chi Scenedesmus, Cyanidium và<br /> Galdieria.<br /> Chi Schizochytrium được xếp vào giới<br /> Chromista,<br /> ngành<br /> Labyrinthulomycota<br /> (Heterokontophyta), lớp Labyrinthulea, bộ<br /> Labyrinthulida, họ Thraustochytridae. Các loài<br /> thuộc chi này là những sinh vật có kiểu sống dị<br /> dưỡng và được phân lập từ nhiều vùng sinh thái<br /> khác nhau: vùng cửa sông, đáy biển sâu hoặc<br /> những nơi nước đọng [20]. Hàm lượng lipid (có<br /> thể chiếm trên 77% sinh khối khô- SKK) và<br /> hàm lượng acid béo không bão hòa đa nối đôi<br /> (polyunsaturated fatty acids-PUFA) đặc biệt là<br /> DHA (acid docosahexaenoic; C22:6 ω-3) cao<br /> (chiếm trên 50% so với acid béo tổng số) nên<br /> đây là một trong những nguồn sản xuất DHA<br /> đầy triển vọng. Cho đến nay, sinh khối vi tảo<br /> này đã được sử dụng làm thức ăn cho động vật,<br /> thực phẩm chức năng cho người và làm nguyên<br /> liệu sản xuất nhiều chất có hoạt tính sinh học có<br /> giá trị (-3 PUFA, squalene, polysaccharide và<br /> các enzyme ngoại bào) [8, 19].<br /> Schizochytrium mangrovei PQ6 được phân<br /> lập ở huyện đảo Phú Quốc, Kiên Giang từ 20062008. Chủng tảo này có khả năng sinh trưởng<br /> và phát triển trong một biên độ rộng về nhiệt độ,<br /> độ mặn và pH. Dưới điều kiện nuôi cấy tối ưu,<br /> chủng này có khả năng sản xuất 40 g sinh khối<br /> khô/L, hàm lượng lipid tổng số chiếm trên 70%<br /> khối lượng khô và DHA chiếm đến 40% so với<br /> <br /> tổng số acid béo. Ở Việt Nam, sinh khối tảo này<br /> đã được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản, sản<br /> xuất thực phẩm chức năng và biodiesel [10, 11,<br /> 12]. Hiện nay, chủng PQ6 đang được giải mã<br /> toàn bộ hệ gen. Mặc dù vậy, cũng như nhiều<br /> loài vi tảo biển khác thuộc chi Schizochytrium,<br /> cho đến nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam<br /> vẫn chưa có bất kỳ một công bố nào đề cập đến<br /> việc phân tích karyotype của loài S. mangrovei.<br /> Trong bài báo này chúng tôi đưa ra những kết<br /> quả ban đầu về việc xác định karyotype của<br /> chủng PQ6 dựa trên việc quan sát tiêu bản<br /> nhiễm sắc thể ở metaphase và kỹ thuật PFGE<br /> được sử dụng để xác định số lượng nhiễm sắc<br /> thể. Các kết quả thu được có thể sẽ giúp ích cho<br /> việc sắp xếp và chú giải hệ gen của loài vi tảo<br /> này trong thời gian tới.<br /> VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> <br /> Chủng tảo và điều kiện nuôi cấy<br /> Chủng S. mangrovei PQ6 được phân lập<br /> thành công từ huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên<br /> Giang từ 2006-2008 do phòng Công nghệ Tảo<br /> (Viện Công nghệ sinh học) cung cấp. Tảo được<br /> giữ trên đĩa môi trường GPY theo công bố của<br /> Hong et al. (2011) [11]. Một khuẩn lạc sạch trên<br /> đĩa môi trường GPY được lấy ra và cấy vào<br /> bình tam giác 250 mL chứa 150 mL môi trường<br /> M1 gồm 3% glucose, 1% cao nấm men và 17,5<br /> g/L muối biển nhân tạo (có hàm lượng NaCl là<br /> 1,5%). Bình nuôi tảo được lắc ở nhiệt độ 28C,<br /> tốc độ 200 vòng/phút (v/p).<br /> Chuẩn bị tiêu bản nhiễm sắc thể<br /> Quy trình chuẩn bị nhiễm sắc thể của chủng<br /> PQ6 được tiến hành theo mô tả của Liu et al.<br /> (2012) [15] có một số cải tiến cho phù hợp với<br /> điều kiện phòng thí nghiệm Việt Nam. Hút 0,5<br /> mL dịch nuôi tảo cho vào ống eppendoft 1,5<br /> mL. Ly tâm thu sinh khối ở 12.000 v/p trong 30<br /> giây và rửa nước cất 2 lần. Hòa tan tế bào trong<br /> 400 mL dung dịch colchicine 0,1%, để yên ở<br /> 16oC trong 1 giờ. Sau đó, ly tâm ở 12.000 v/p<br /> trong 2 phút và loại dịch trên, thu cặn tế bào và<br /> rửa lại bằng nước cất. Bổ sung 1 mL dung dịch<br /> Cannoy (100% ethanol: acid acetic, 3:1, v/v),<br /> mix đều mẫu và giữ ở 4oC trong 48 h. Ly tâm<br /> thu cặn ở 12.000 v/p trong 1 phút, cặn được rửa<br /> lại bằng nước cất 2 lần. Cặn tế bào được bổ<br /> 61<br /> <br /> Phân tích karyotype của loài vi tảo<br /> <br /> sung hỗn hợp enzyme gồm cellulase:<br /> macerozyme R-10 và pectinase (2:1:2, v/v/v) và<br /> ủ mẫu ở 37oC trong 24 giờ. Bổ sung thêm 70%<br /> ethanol lên 1,5 mL, mix đều và ly tâm ở 12.000<br /> v/p trong 2 phút. Lặp lại bước rửa bằng 70%<br /> ethanol thêm 2 lần. Loại bỏ hết ethanol, bổ sung<br /> 50 µL acid acetic 100% và mix đều mẫu. Dùng<br /> pipet hút khoảng 20 µL mẫu nhỏ lên lam kính<br /> sạch từ độ cao khoảng 30 cm nhằm cho mẫu<br /> dàn chải đều thành một lớp mỏng trên lam kính,<br /> đợi cho đến khi tiêu bản khô. Nhỏ 1 giọt thuốc<br /> nhuộm DAPI lên bề mặt mẫu, ủ tối khoảng 2-5<br /> phút, đặt lamen lên trên và quan sát dưới kính<br /> hiển vi huỳnh quang Leica DM4000 B Led<br /> (Đức) với bước sóng kích thích 360 nm sử dụng<br /> vật kính 100 X. Chiều dài của nhiễm sắc thể<br /> được tính toán dựa vào phần mềm Adole<br /> Photoshop CS6 Extended.<br /> Tách chiết DNA nhiễm sắc thể toàn vẹn<br /> DNA nhiễm sắc thể toàn vẹn được thực hiện<br /> theo mô tả của Anbu et al. (2007) [1] với một số<br /> thay đổi để phù hợp với điều kiện phòng thí<br /> nghiệm Việt Nam. Sau khi nuôi cấy, các tế bào<br /> được ly tâm thu sinh khối ở 12.000 v/p trong 2<br /> phút. Sinh khối tảo sau đó được rửa 2 lần với<br /> 500 L EDTA 0,05M và ly tâm ở 12.000 v/p<br /> trong 2 phút để thu tế bào. Lượng sinh khối tảo<br /> được sử dụng với khối lượng khác nhau từ 0,5;<br /> 1,0; 2,0; 3,0; 4,0; 5,0; 6,0 và 7,0 mg. Đối với<br /> mỗi ống eppendorf chứa lượng sinh khối tảo<br /> khác nhau được bổ sung thêm 100 L dung dịch<br /> SLB (3 mg/L lyticase; 5% β-mercaptoethanol;<br /> 1M sorbitol; 0,1 M sodium citrate; 0,05 M<br /> EDTA-pH 8,0) và 200 L EDTA 0,05M. Hỗn<br /> hợp này sau đó được trộn đều với một lượng thể<br /> tích tương đương 1% SeaKem Gold Agarose<br /> (dùng cho PFGE, Mỹ) pha trong đệm TE ở<br /> 55oC và nhỏ vào các plug. Các plug được để<br /> yên ở nhiệt độ phòng trong 30 phút. Sau khi<br /> đông hoàn toàn, các plug được chuyển vào các<br /> ống eppendorf 2,0 mL. Các ống này được bổ<br /> sung thêm 1 mL dung dịch phủ trên (0,45 M<br /> Tris buffer pH 8,0; 0,05M EDTA; 5% βmercaptoethanol) và ủ ở 37oC trong 1 giờ. Sau<br /> khi ủ, nhẹ nhàng đổ lớp dịch phía trên và rửa<br /> plug bằng 1 mL đệm TE 1X ở nhiệt độ phòng.<br /> Tiếp tục bổ sung 1 mL dung dịch PR (0,4M<br /> EDTA; 1% sarkosyl; 1 mg/mL proteinase K;<br /> 62<br /> <br /> 1 mg/mL RNase A), ủ ở 37oC trong 15 phút.<br /> Sau đó loại bỏ dung dịch PR. Lặp lại bước rửa ở<br /> trên thêm 2 lần nữa. Cuối cùng, bổ sung 1 mL<br /> đệm TE vào ống chứa plug và bảo quản ở 4oC.<br /> Điều kiện chạy điện di PFGE<br /> Khuôn điện di được chuẩn bị với 1%<br /> SeaKem Gold Agarose pha trong đệm TBE<br /> 0,25X. Sau khi bản gel đông hoàn toàn, các<br /> plug được cắt với chiều rộng khoảng 2 mm, đặt<br /> vào các giếng của bản gel. Quá trình điện di<br /> được thực hiện trên hệ thống máy của Biorad<br /> (Hoa Kỳ) với điều kiện chạy như sau: thời gian<br /> ban đầu (initial time)- 2,2s; thời gian cuối cùng<br /> (final time)-54,2 giây; 6 V; góc 120o sử dụng<br /> đệm TBE 0,25 X trong 22, 27 và 31 giờ. Sau<br /> quá trình điện di, bản gel được nhuộm với<br /> ethidium bromide trong 30 phút và rửa bằng<br /> nước cất sau khi nhuộm trong 20 phút.<br /> Bản gel sau đó được chụp ảnh bằng máy<br /> chụp ảnh gel U: Genius (Anh). Kích thước của<br /> một số nhiễm sắc thể nhỏ được tính toán dựa<br /> trên kích thước nhiễm sắc thể của chủng nấm<br /> men Saccharomyces cerevisiae (chủng YPH80,<br /> Yeast chromosome PFG Marker, Biorad,<br /> Hoa Kỳ).<br /> Hình ảnh điện di chạy PFGE thu được sẽ<br /> được phân tích mật độ quang (densitometry) sử<br /> dụng phần mềm GelAnalyzer 2010a nhằm khẳng<br /> định số băng điện di thu được dựa trên các đỉnh<br /> pick xuất hiện; kiểm tra khả năng chồng pick<br /> theo phân bố của mật độ hay tương ứng với các<br /> băng điện di có sự chồng lên nhau của các nhiễm<br /> sắc thể tương đồng hay không. Kết quả thu được<br /> sẽ cho biết có hay không sự trùng lặp (hay tương<br /> đồng) các băng nhiễm sắc thể.<br /> KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> <br /> Phân tích karyotype của chủng PQ6 dựa trên<br /> tiêu bản nhiễm sắc thể<br /> Kết quả quan sát và phân tích tiêu bản<br /> nhiễm sắc thể dưới kính hiển vi huỳnh quang đã<br /> cho thấy, số lượng nhiễm sắc thể của S.<br /> mangrovei PQ6 là n=3 với tần xuất bắt gặp trên<br /> 85% so với tổng số các tiêu bản nhiễm sắc thể<br /> đã chuẩn bị. Các nhiễm sắc thể của chủng PQ6<br /> dạng chấm (dot-like) có kích thước dao động từ<br /> 1,05 đến 1,50 m, do đó có thể coi là các nhiễm<br /> sắc thể có kích thước nhỏ (hình 1).<br /> <br /> Hoang Thi Lan Anh et al.<br /> <br /> Hình 1. Nhiễm sắc thể của S. mangrovei PQ6 ở metaphase khi được nhuộm với DAPI<br /> Bảng 1. Kích thước các nhiễm sắc thể ở loài vi tảo Schizochytrium mangrovei PQ6<br /> Nhiễm sắc thể<br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> <br /> Tuyệt đối (m)<br /> (Absolute length)<br /> 1,50±0,06<br /> 1,18±0,14<br /> 1,05±0,18<br /> <br /> Chiều dài nhiễm sắc thể<br /> Tương đối (% chiều dài tổng số nhiễm sắc<br /> thể (Relative length)<br /> 40,21<br /> 31,64<br /> 28,15<br /> <br /> Sự khác biệt về chiều dài tuyệt đối (absolute<br /> length) giữa các nhiễm sắc thể không đáng kể,<br /> trong khi đó, chiều dài tương đối lại rất khác<br /> biệt nên có thể xếp chúng trong cùng một nhóm<br /> (bảng 1). Ở đây, chúng tôi không quan sát thấy<br /> vị trí tâm động của nhiễm sắc thể. Điều này<br /> cũng xảy ra tương tự khi Muravenko et al.<br /> (2010) [16] quan sát nhiễm sắc thể của một số<br /> loài vi tảo thuộc chi Galdieria.<br /> Hình ảnh nhiễm sắc thể của chủng PQ6 thu<br /> được rõ ràng, không bị nhiễu đã khẳng định quy<br /> trình chuẩn bị tiêu bản nhiễm sắc thể và quá<br /> trình nhuộm với DAPI hoàn toàn phù hợp cho<br /> việc phân tích karyotype của loài vi tảo này.<br /> Việc sử dụng hỗn hợp enzyme cellulase:<br /> macerozyme R-10 và pectinase (2:1:2, v/v/v) có<br /> tác dụng phá thành tế bào, giúp thuốc nhuộm<br /> thấm tốt, vì vậy, việc quan sát và thu nhận hình<br /> ảnh sẽ được cải thiện.<br /> Phân tách nhiễm sắc thể của chủng PQ6<br /> bằng PFGE<br /> <br /> DNA nhiễm sắc thể toàn vẹn được tách<br /> chiết từ lượng sinh khối chủng PQ6 khác nhau<br /> và được phân tách bằng PFGE. Để tìm được<br /> điều kiện phân tách băng tốt nhất, chúng tôi đã<br /> thay đổi thời gian chạy điện di và lượng sinh<br /> khối tảo dùng để tách chiết DNA nhiễm sắc thể.<br /> Sự phân tách nhiễm sắc thể tốt đã thu được khi<br /> sinh khối tế bào tảo tăng ở loài S. mamgrovei<br /> PQ6. Kết quả được chỉ ra trên hình 2A cũng cho<br /> thấy, phân tách tốt nhất khi lượng sinh khối tảo<br /> sử dụng để tách DNA nhiễm sắc thể trong<br /> khoảng từ 4,0-7,0 mg. Khi lượng sinh khối tảo<br /> sử dụng dưới 4 mg, băng nhiễm sắc thể nhỏ<br /> nhất (có kích thước khoảng 345 kb) không xuất<br /> hiện hoặc xuất hiện rất mờ.<br /> Khi tối ưu về thời gian điện di, chúng tôi<br /> nhận thấy với 31 giờ (hình 2D) chạy điện di đã<br /> cho việc phân tách băng tốt nhất. Với thời gian<br /> điện di dưới 22 giờ (hình 2B) và 27 giờ (hình<br /> 2C) chỉ tách được 3/4 băng.<br /> Kết quả nghiên cứu về điều kiện thích hợp<br /> 63<br /> <br /> Phân tích karyotype của loài vi tảo<br /> <br /> nhất cho chạy PFGE ở chủng PQ6 đã cho thấy<br /> các nhiễm sắc thể được phân tách tốt nhất ở<br /> điều kiện chạy điện di với thời gian ban đầu<br /> (initial time): 2,2s; thời gian cuối cùng 54,2<br /> giây; 6 V; góc 120o, sử dụng 1% SeaKem Gold<br /> <br /> Agarose với đệm TBE 0,25 X trong 31 giờ.<br /> Tổng số 4 băng gồm các băng nhiễm sắc thể lớn<br /> và nhỏ đều được tách dưới điều kiện này<br /> (hình 2D).<br /> <br /> Hình 2. Ảnh điện di đồ phân tách nhiễm<br /> sắc thể của S. mangrovei PQ6<br /> <br /> A<br /> 1600 kb<br /> <br /> A: Sau 22 giờ chạy điện di PFGE: Giếng M:<br /> Yeast chromosome PFG Marker; Giếng 1-8:<br /> lượng sinh khối tảo sử dụng để tách DNA<br /> nhiễm sắc thể tương ứng là 0,5; 1,0; 2,0; 3,0;<br /> 4,0; 5,0; 6,0; 7,0 mg.<br /> <br /> 345 kb<br /> <br /> M 1 2 3 4 M<br /> <br /> B, C, D: Sau 22 giờ, 27 giờ và 31 giờ chạy<br /> điện di PFGE, tương ứng: Giếng M: Yeast<br /> chromosome PFG Marker; Giếng 1-3: lượng<br /> sinh khối tảo sử dụng để tách DNA nhiễm sắc<br /> thể tương ứng là 5,0; 6,0; 7,0 mg.<br /> <br /> 5 6 7 8<br /> <br /> Ch p l n 2<br /> <br /> C<br /> <br /> B<br /> <br /> D<br /> <br /> 1600 kb<br /> <br /> 1600 kb<br /> <br /> 345 kb<br /> <br /> 345 kb<br /> <br /> M<br /> <br /> 1 2<br /> <br /> 3<br /> <br /> 1<br /> <br /> 2<br /> <br /> 3 M<br /> <br /> Bảng 2. Kích thước phân tử DNA nhiễm sắc thể của chủng PQ6<br /> Nhiễm sắc thể<br /> Kích thước<br /> Số I<br /> Số II<br /> (kb)<br /> -<br /> <br /> 1600 kb<br /> <br /> 345 kb<br /> <br /> 1<br /> <br /> Số III<br /> 1600<br /> <br /> 2<br /> <br /> 3<br /> <br /> M<br /> <br /> Số IV<br /> 345<br /> <br /> (-). chưa xác định.<br /> <br /> Về nguyên tắc, kích thước của nhiễm sắc<br /> thể được ước tính trên bản điện di PFGE với<br /> khoảng cách các băng nhiễm sắc thể chạy tỷ lệ<br /> thuận với logarit của khối lượng phân tử của các<br /> kích thước chuẩn. Trong điều kiện thí nghiệm<br /> của chúng tôi, kích thước các nhiễm sắc thể<br /> được xác định dựa trên thang kích thước nhiễm<br /> sắc thể chuẩn của Saccharomyces cerevisiae<br /> (bảng 2, hình 2A, B, C và D). Trong số 4 băng<br /> 64<br /> <br /> phân tách được, chúng tôi mới chỉ xác định<br /> được kích thước của 2 băng khoảng 345 và<br /> 1600 kb. Hai băng còn lại nằm ngoài kích thước<br /> băng cao nhất của marker.<br /> Ngoài ra, theo kết quả giải trình tự hệ gen<br /> và tính toán kích thước hệ gen của chủng PQ6<br /> bằng phương pháp flow cytometry (kết quả chi<br /> tiết không chỉ ra ở đây) cũng đã khẳng định<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2