BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Ngô Thị Bích Thuận PHÂN TÍCH KINH TẾ TRANG TRẠI TỈNH ĐỒNG NAI TỪ GÓC ĐỘ ĐỊA LÍ KINH TẾ-XÃ HỘI
Chuyên ngành: Địa Lí Học ( Trừ địa lí tự nhiên ) Mã số: 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS ĐẶNG VĂN PHAN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CÁM ƠN Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin chân thành gởi lời cám ơn đến Ban
Giám Hiệu, phòng KHCN và SĐH, các Thầy, Cô giáo trường ĐHSP TPHCM đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tác giả xin chân thành cám ơn PGS.TS Đặng Văn Phan, người đã tận tình hướng dẫn tác
giả trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Qua đây, tác giả cũng trân trọng gởi lời cám ơn đến các cơ quan: Sở nông nghiệp và phát
triển nông thôn Đồng Nai; Sở tài nguyên môi trường Tỉnh Đồng Nai; Ủy ban nhân dân Tỉnh
Đồng Nai; Cục thống kê Tỉnh Đồng Nai; Phòng thống kê huyện Trảng Bom, huyện Định Quán,
huyện Xuân Lộc và các thư viện ĐHSP TPHCM, thư viện khoa học tổng hợp TPHCM, thư viện
ĐH KHXH và NV đã giúp đỡ tác giả trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu và thông tin có liên
quan đến nội dung nghiên cứu.
Cuối cùng, tác giả cũng xin gởi lời cám ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã giúp
đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài.
TPHCM, ngày tháng năm
Ngô Thị Bích Thuận
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
KT-XH : kinh tế xã hội
ĐDSH : đa dạng sinh học
TCLTNN : tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
KHKT : khoa học kĩ thuật
HTX : hợp tác xã
GDP : Gross dometic products (Tổng sản phẩm quốc nội)
ĐBSCL : đồng bằng sông cửu long
SXKD : sản xuất kinh doanh
GTGT : giá trị gia tăng
CNH-HĐH : công nghiệp hóa- hiện đại hóa
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong sự phát triển của nền nông nghiệp thế giới hiện đại, kinh tế trang trại có vị trí vô cùng
quan trọng ở nhiều nước phát triển, khi mà hầu hết các sản phẩm nông nghiệp ở các nước này đều
được sản xuất từ các trang trại.
Ở Việt Nam, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra và tác động toàn diện đến
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Đặc biệt, chúng ta đang chứng kiến sự thay đổi lớn trong
nông nghiệp- nền nông nghiệp đang dần được công nghiệp hóa. Trong đó, trang trại là một biểu
hiện rõ nét nhất của sự thay đổi theo hướng tích cực, với sự áp dụng ngày càng nhiều máy móc kĩ
thuật và các thành tựu của công nghệ sinh học… dẫn đến năng xuất lao động và hiệu quả sản xuất
ngày càng tăng, góp phần to lớn vào việc làm thay đổi bộ mặt nông thôn nói chung và mức sống của
người nông dân nói riêng. Chính vì thế, kinh tế trang trại, dù chỉ mới xuất hiện trong những năm 90
của thế kỉ XX ở nước ta, nhưng lại phát triển với tốc độ nhanh ngay từ khi mới ra đời, đặc biệt là
trong thời gian gần đây. Đồng Nai là một tỉnh nằm trong khu vực Đông Nam bộ, với diện tích 5.903,9 Km2, dân số
2008 là 2.321487 người. Là Tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp với nhiều
Tỉnh, thành phố và khu vực năng động. Cũng như nhiều Tỉnh khác trong khu vực Đông Nam bộ,
hình thức trang trại đã xuất hiện ở Đồng Nai từ lâu dưới dạng các đồn điền trồng cây công nghiệp
dài ngày, hoặc các vườn chuyên trồng cây ăn quả có quy mô lớn. Tại các huyện Long Khánh, Tân
Phú , Xuân Lộc…đã từng nổi tiếng về các loại cây ăn quả. Với lợi thế về điều kiện khí hậu, đất đai,
thị trường tiêu thụ…kinh tế trang trại đã và đang được chú trọng phát triển ở Đồng Nai. Sự phát
triển của kinh tế trang trại nơi đây đã góp phần khai thác thêm nguồn vốn trong dân; mở mang diện
tích đất trồng qua việc tận dụng diện tích đất trống, đồi trọc, đất hoang hóa; tạo thêm việc làm cho
lao động nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo…
Tuy nhiên, vấn đề khó khăn trong việc phát triển loại hình này ở Tỉnh Đồng Nai hiện nay là
vấn đề vay vốn để đầu tư cho trang trại, vấn đề sở hữu đất đai, việc ứng dụng KHKT, trình độ quản
lí của những chủ trang trại…Nhìn chung, các trang trại ở nơi đây chủ yếu là của tư nhân với quy mô
nhỏ, chưa ứng dụng nhiều KHKT vào sản xuất nên năng xuất chưa cao, việc tiêu thụ nông sản khó
khăn và thường bị thương lái ép giá do chưa nắm được nhu cầu của thị trường…
Trước vai trò to lớn của kinh tế trang trại trong việc góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn
và nâng cao mức sống cho người dân ở Tỉnh nhà, vì thế tôi muốn đề cập đến vấn đề “ Phân tích kinh
tế trang trại ở Tỉnh Đồng Nai từ góc độ địa lý kinh tế- xã hội” để mong tìm hiểu một lần nữa thực
trạng phát triển của kinh tế trang trại tại Đồng Nai cũng như chú trọng đến tìm hiểu hiệu quả sản
xuất của các trang trại từ đó tìm ra các giải pháp giúp kinh tế trang trại phát triển nhanh, hiện đại và
thực sự trở thành con đường thoát nghèo cho người lao động nơi đây.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Tìm hiểu, nghiên cứu hiện trạng phát triển kinh tế trang trại ở Tỉnh Đồng Nai
Phân tích hiệu quả sản xuất của trang trại thông qua việc phân tích một số loại hình trang trại
từ đó đề xuất những giải pháp nhằm làm tăng thêm nữa hiệu quả sản xuất của các trang trại tại địa
phương này.
Đề tài sẽ là nguồn tư liệu cho các sinh viên khi tìm hiểu về vấn đề kinh tế trang trại; là tài liệu
tham khảo cho các giáo viên phổ thông khi tìm hiểu về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp trong chương
trình địa lí 12, hoặc tìm hiểu về
địa lí địa phương.
Nhiệm vụ
Tìm hiểu các vấn đề cơ sở lý luận về kinh tế trang trại. Sự phát triển kinh tế trang trại ở Việt
Nam từ kinh tế hộ gia đình chuyển sang sản xuất hàng hóa
quy mô lớn.
Phân tích thực trạng phát triển và phân bố kinh tế trang trại ở tỉnh Đồng Nai (tiến hành thu
thập số liệu, thực địa, điều tra mẫu một số trang trại…)
Sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính bội để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của
một số loại hình trang trại ở Tỉnh Đồng Nai
(dựa trên kết quả của điều tra mẫu )
Các kết quả phân tích được sẽ là cơ sở để đưa ra các giải pháp nhằm phát triển cũng như nâng
cao hơn nữa hiệu quả sản xuất của kinh tế trang trại tại địa phương này.
3. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài chủ yếu nghiên cứu về hiện trạng phát triển kinh tế trang trại và hiệu quả sản xuất của
một số loại hình trang trại
Trong đề tài, cũng sử dụng mô hình kinh tế lượng (mô hình toán hồi quy tuyến tính bội) để
đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của một số loại hình trang trại trên địa bàn
Tỉnh Đồng Nai.
Từ thực trạng phát triển; kết quả của việc đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản
xuất của trang trại từ đó đưa ra những giải pháp và định hướng phát triển kinh tế trang trại trong
tương lai.Cụ thể:
- Về không gian: trong phạm vi Tỉnh Đồng Nai (chi tiết đến cấp huyện).
- Về thời gian: chủ yếu từ 2002 đến 2009
- Về tư liệu : dựa chủ yếu vào số liệu tự điều tra các trang trại trên 11 huyện của Tỉnh Đồng
Nai (tác giả đã tiến hành thu thập thông tin cần thiết tại 301 trang trại trên tổng số 3183 trang trại
của tỉnh Đồng Nai, trong đó gồm 111 trang trại chăn nuôi, 105 trang trại trồng cây lâu năm, 85 trang
trại trồng cây hàng năm ); Số liệu tổng hợp về trang trại của Cục thống kê Tỉnh Đồng Nai; Sở nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Đồng Nai.
Đề tài chỉ phân tích kinh tế trang trại dưới góc độ của địa lí kinh tế, xã hội nên không đi sâu
vào phần kinh tế (khía cạnh hiệu quả sản xuất không tập trung nhiều)
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp luận
Quan điểm tổng hợp lãnh thổ:
Đối tượng nghiên cứu là các trang trại phân bố trên một không gian nhất định và có đặc trưng
lãnh thổ riêng. Áp dụng quan điểm tổng hợp lãnh thổ cho phép xem xét các yếu tố trong mối quan
hệ tác động qua lại lẫn nhau, phát hiện ra quy luận phát triển, các nhân tố trội tác động đến sự phát
triển của trang trại.
Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Những tác động của sự phát triển kinh tế, xã hội đến sự hình thành và phát triển của trang trại
là quá trình lâu dài. Hiện trạng phát triển và xu hướng phát triển là cơ sở để đề xuất các giải pháp
quản lí và phát triển các trang trại trong tương lai.
Quan điểm hệ thống:
Dựa vào quan điểm này, chúng ta phải xem xét sự phát triển kinh tế trang trại trong mối quan
hệ với các loại hình tổ chức sản xuất KT-XH khác.Vì kinh tế trang trại chỉ là một bộ phận của hệ
thống các ngành kinh tế quốc dân.
Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững:
Sự phát triển của bất cứ lĩnh vực gì cũng cần hướng tới sự phát triển bền vững, nghĩa là sự phát
triển đòi hỏi sự cân bằng cả về ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Chính vì thế, kinh tế trang
trại- một trong những hình thức tổ chức sản xuất của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, không chỉ chú ý
đến khía cạnh kinh tế mà cũng cần phải chú ý đến yếu tố môi trường để đảm bảo sự ổn định, lâu dài
và bền vững.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp tổng hợp thống kê, phân tích, so sánh
Việc thu thập, tổng hợp số liệu sẽ là những dẫn chứng, minh họa cho vấn đề nghiên cứu. Vì
vây tổng hợp thống kê và phân tích, so sánh số liệu thống kê để làm rõ thực trạng phát triển kinh tế
trang trại trên một lãnh thổ, làm cơ sở để đưa ra những giải pháp phát triển sau này.
Phương pháp toán học- dự báo:
Cho phép tổng hợp hóa, đơn giản hóa các thông số hoạt động, các mối liên hệ đa dạng phức tạp
của các đối tượng nghiên cứu địa lý kinh tế xã hội trong thực tiễn, làm nổi bật các đặc trưng cơ bản,
quy luật vận động của đối tượng
Sử dụng toán học ( mô hình hàm hồi quy tuyến tính đơn, hàm hồi quy tuyến tính bội…) để hỗ
trợ cho việc đánh giá vấn đề một cách chính xác, khoa học. Từ đó giúp định hướng chiến lược, xác
định các mục tiêu phát triển trước mắt và lâu dài của kinh tế trang trại ở Đồng Nai một cách khách
quan, có cơ sở khoa học, phù hợp với hiện thực và xu thế phát triển của hiện thực.
Phương pháp bản đồ- biểu đồ:
Bản đồ- biểu đồ là một kênh thông tin quan trọng đặc biệt đối với ngành địa lý. Các nghiên cứu
địa lý kinh tế xã hội được khởi đầu bằng bản đồ và kết thúc cũng bằng bản đồ, bản đồ là “ngôn ngữ”
tổng hợp, ngắn gọn, súc tích, trực quan của đối tượng nghiên cứu. Không những có giá trị thẩm mỹ
cao mà còn cung cấp một lượng thông tin lớn góp phần minh họa, làm rõ hơn vấn đề.
Phương pháp thực địa:
Là phương pháp cần thiết để có thể lấy được thông tin chính xác và cập nhật, cũng là phương
pháp quan trọng đặc biệt trong ngành địa lý. Sử dụng phương pháp này giúp tránh được những kết
luận chủ quan, vội vàng, thiếu cơ sở thực tiễn. Giúp đánh giá xác định lại một cách đầy đủ, chính
xác tài liệu đã có, đồng thời bổ sung kịp thời những nội dung mới được phát hiện trong quá trình
khảo sát
Phương pháp chuyên gia:
Qua việc tổng hợp các ý kiến của các chủ trang trại từ các phiếu điều tra trang trại trong tỉnh
Đồng Nai và thông qua phỏng vấn trực tiếp các chủ trang trại trong quá trình thực địa, từ đó đưa ra
các định hướng, giải pháp cũng như các kiến nghị nhằm phát triển hơn nữa kinh tế trang trại nơi
đây.
5. Lịch sử nghiên cứu
Kinh tế trang trại, dù mới xuất hiện và phát triển trong những năm 90 của thế kỷ XX nhưng đã
nhận được sự quan tâm của nhiều tác giả,với rất nhiều các đề tài, bài báo viết về kinh tế trang trại ở
cấp độ cả nước, vùng, tỉnh. Nghiên cứu cả về lý luận lẫn đánh giá thực tiễn của trang trại từ những
năm 90 đến nay. Tuy nhiên, những đề tài viết về Trang Trại ở Tỉnh Đồng Nai không nhiều, phần lớn
chỉ tìm hiểu về thực trạng và những khó khăn chung của việc phát triển kinh tế trang trại mà chưa đi
vào đánh giá hiệu quả sản xuất của từng loại hình trang trại.
Đề tài “Phân tích kinh tế trang trại Tỉnh Đồng Nai từ góc độ địa lí kinh tế-xã hội” không những
chú trọng đến phân tích thực trạng phát triển kinh tế trang trại mà điểm khác của đề tài là đã sử dụng
phương pháp định lượng (mô hình hồi quy tuyến tính bội ) để đánh giá các nhân tố tác động đến
hiệu quả sản xuất của một số loại hình Trang Trại chủ yếu tại Tỉnh Đồng Nai, từ đó giúp xác định
các chính sách ưu tiên để phát triển kinh tế trang trại nơi đây.
Dưới đây là một số đề tài, bài viết, tài liệu đã là nguồn tư liệu quý giá cho Tác giả trong quá
trình nghiên cứu đề tài:
- Nguyễn Viết Thịnh (chủ nhiệm đề tài), 2009, Kinh tế trang trại ở Việt Nam phân tích từ góc
độ địa lý kinh tế và sinh thái
- Nguyễn Khắc Ngân (chủ nhiệm đề tài), 2000, Phát triển kinh tế trang trại ở nông thôn thành
phố Hồ Chí Minh
- Hoàng Đắc Bằng, 2004, Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở Đồng Nai,
khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP.TPHCM
- Nguyễn Võ Hoàng ( luận văn thạc sĩ kinh tế), 2007, Kinh tế trang trại Tỉnh Bình Phước- Thực
trạng và giải pháp phát triển
- Nguyễn Yên Tri (chủ biên), 2001, Địa chí Đồng Nai- tập II, địa lí, NXB tổng hợp Đồng Nai
- Thái Doãn Mười (chủ biên), 2001, Địa chí Đồng Nai- tập IV,Kinh tế, NXB tổng hợp Đồng
Nai.
- Vũ Tuyên Hoàng, 2003, Xây dựng mô hình nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, tham
luận tại hội nghị toàn thể ISG thường niên
- Đề án phát triển kinh tế trang trại tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2010-2015, 2009, Ủy ban nhân
dân tỉnh Đồng Nai
Ngoài ra, còn một số bài báo viết về sự phát triển của các trang trại trồng cây ăn quả, trang trại
chăn nuôi…của một số huyện ở Tỉnh Đồng Nai:
- Đồng Nai- kinh tế trang trại đang khởi sắc, Trung tâm tin học bộ NN và PTNT, báo KHKT
nông nghiệp, 2/2008
- Tác giả Nguyễn Thương, Vấn đề tích tụ đất làm trang trại, theo báo Đồng Nai, 2008
- Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, số 112 năm 2008
6. Bố cục của đềtài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài còn có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ sở lý luận về trang trại
Chương 2: Phân tích kinh tế trang trại Tỉnh Đồng Nai
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại Tỉnh Đồng Nai.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TRANG TRẠI
1. Một số nhận thức về kinh tế trang trại
1.1. Khái niệm về kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại đã hình thành, tồn tại và phát triển trong lịch sử lâu dài của nền nông nghiệp
thế giới. Từ thời phong kiến, dù nền nông nghiệp năng xuất thấp, tính chất hàng hóa chưa thể hiện
rõ, thì ở Châu âu, các hình thức ban đầu của trang trại đã xuất hiện.
Một số quan niệm về kinh tế trang trại trên thế giới:
K.Marx khẳng định, điểm cơ bản của kinh tế trang trại là sản xuất hàng hóa, khác với kinh
tế tiểu nông là sản xuất tự cấp tự túc. Nhưng cũng có điểm giống nhau là lấy kinh tế gia đình làm cơ
sở nòng cốt
Ở một số nước phát triển như Mỹ, Anh và một số nước ở Châu Á như Đài Loan, Hàn
Quốc…thì cho rằng: “Trang trại là loại hình sản xuất Nông-Lâm- Ngư nghiệp của hộ gia đình nông
dân sau khi phá vỡ vỏ bọc sản xuất tự cấp, tự túc khép kín của hộ tiểu nông, vươn lên sản xuất nông
sản hàng hóa, tiếp cận với thị trường, từng bước thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh.”
Ở nước ta, trong quá trình hình thành và phát triển, mô hình kinh tế trang trại đã được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đã có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế trang trại và khái niệm
của mô hình sản xuất này vẫn chưa được thống nhất hoàn toàn.
Trên cơ sở Nghị quyết 06 của Bộ Chính Trị, Chính Phủ có Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày
2-2-2000, Nghị quyết xác định quan điểm về kinh tế trang trại như sau:
“Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn, chủ
yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng
trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông lâm thủy
sản.”
1.2. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại
Là một trong những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp chứ không phải là một
thành phần kinh tế riêng biệt nào khác ngoài kinh tế hộ.
Căn bản dựa trên nền tảng kinh tế hộ, mang bản chất kinh tế hộ, được thể hiện trên ba khía
cạnh:
+ Người quản lí chính là chủ hộ, hoặc là một thành viên có năng lực được sự tín nhiệm của
hộ.
+ Trang trại có thể sử dụng lao động làm thuê nhưng lao động của gia đình vẫn là yếu tố trụ
cột.
+ Có thể tích tụ, tập trung thêm đất nhưng không vượt quá khả năng sử dụng có hiệu quả của
trang trại.
Con đường hình thành và phát triển cơ bản của trang trại là tái sản xuất mở rộng không phải
chủ yếu bằng phát triển chiều rộng mà chủ yếu phát triển chiều sâu- bởi yếu tố đầu tư vốn, khoa học
kĩ thuật công nghệ, bởi năng lực quản trị sản xuất kinh doanh được tăng cường
Sản xuất hàng hóa lớn (cả tổng giá trị sản phẩm hàng hóa và tỉ suất hàng hóa ) gắn với thị
trường và chấp nhận cạnh tranh để phát triển.
Trong Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 của Bộ Nông Nghiệp
và phát triển Nông thôn và Tổng cục Thống kê hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại có
xác định rõ các đặc trưng chủ yếu của kinh tế trang trại như sau:
- Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thủy sản hàng hóa với qui mô lớn.
- Mức độ tập trung hóa và chuyên môn hóa các điều kiện và yếu tố sản xuất cao hơn hẳn so
với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở qui mô sản xuất như: đất đai, số lượng gia súc, lao
động, giá trị nông lâm thủy sản hàng hóa.
- Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản xuất, biết áp dụng tiến
bộ khoa học kĩ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất; sử dụng lao
động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so
với kinh tế hộ.
Ngoài ra, thông tư này cũng đưa ra những tiêu chí định lượng để xác định kinh tế trang trại:
- Giá trị sản xuất hàng hóa và dịch vụ bình quân một năm:
+ Đối với các Tỉnh phía Bắc và Duyên hải Miền Trung từ 40 triệu đồng
trở lên .
+ Đối với các Tỉnh phía Nam và Tây nguyên từ 50 triệu đồng trở lên
- Qui mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ tương ứng với từng
ngành sản xuất và vùng kinh tế
Đối với trang trại trồng trọt:
* Trang trại trồng cây hàng năm:
+ Từ 2 ha trở lên đối với các Tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền trung
+ Từ 3 ha trở lên đối với các Tỉnh miền Nam và Tây Nguyên
* Trang trại trồng cây lâu năm:
+ Từ 3 ha trở lên đối với các Tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền trung
+ Từ 5 ha trở lên đối với các Tỉnh miền Nam và Tây Nguyên
+ Trang trại trồng hồ tiêu từ 0,5 ha trở lên
* Trang trại lâm nghiệp:
+ Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước
Đối với trang trại chăn nuôi:
* Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò…
+ Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên
+ Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên
* Chăn nuôi gia súc: lợn, dê…
+ Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn 20 con trở lên, đối với dê, cừu từ 100 con
trở lên
+ Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên, dê thịt từ 200 con trở lên
* Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan ngỗng…có thường xuyên từ 2000 con trở lên (không tính số
con dưới 7 ngày tuổi).
Trang trại nuôi trồng thủy sản:
Diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm thịt theo
kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên)
Đối với các loại sản phẩm nông,lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản có tính chất đặc thù: trồng
hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thủy sản và thủy đặc sản, thì tiêu chí xác định là giá trị
sản lượng hàng hóa.
Tại thông tư số 74/2003/TT-BNN ngày 4/7/2003 của Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn,
đã sửa đổi một số chổ về tiêu chí định lượng để xác định là kinh tế trang trại:
- Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản được xác định là kinh tế
trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hóa, dịch vụ bình quân một năm,
hoặc về quy mô sản xuất của trang trại được qui định ở Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-
TCTK.
- Đối với hộ sản xuất, kinh doanh tổng hợp có nhiều loại sản phẩm hàng hóa của các ngành
nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản thì tiêu chí để xác định trang trại là giá trị sản lượng hàng hóa,
dịch vụ bình quân một năm.
Như vậy: Thực chất kinh tế trang trại là dạng kinh tế hộ gia đình sản xuất hàng hóa với quy mô lớn-
là kinh tế nông hộ phát triển cao trên con đường thoát ra khỏi nghèo khó, vươn lên làm giàu cho
mình và cho xã hội.
1.3. Một số tiêu chí cơ bản phân biệt sự khác nhau giữa kinh tế trang trại và kinh tế nông hộ
Kinh tế nông hộ: “Là đơn vị sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế nông thôn. Kinh tế nông hộ
dựa chủ yếu vào lao động gia đình để khai thác đất và các yếu tố sản xuất khác nhằm đem về thu
nhập thuần cao nhất. Kinh tế nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, căn bản dựa vào sự tích lũy, tự đầu tư
để sản xuất kinh doanh nhằm thoát khỏi cảnh nghèo đói và vươn lên giàu có, từ tự cấp tự túc rồi lên
sản xuất hàng hóa và gắn với thị trường.”
Đặc trưng chủ yếu của kinh tế nông hộ:
- Là đơn vị kinh tế cơ sở- vừa là đơn vị sản xuất, vừa là đơn vị tiêu dùng
- Là đơn vị kinh tế ở nông thôn, hoạt động sản xuất nông, lâm, thủy sản gắn với đất đai, điều
kiện thủy văn, thời tiết khí hậu và sinh vật
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao về sản xuất và tiêu dùng, căn bản dựa trên sự cân bằng
giữa nguồn lực sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của gia đình.
- Với lao động gia đình, với đất đai được sử dụng nối tiếp qua nhiều thế hệ gia đình, với tài
sản và vốn sản xuất chủ yếu của gia đình, của quan hệ gia tộc, quan hệ huyết thống, nên kể cả khi
kinh tế nông hộ gắn với khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại, gắn với thị trường, mà vẫn không
thay đổi bản chất, không bị biến dạng.
Kinh tế trang trại phát triển trên nền tảng kinh tế nông hộ, nhưng giữa hai loại hình này cũng
có nhiều điểm khác nhau, một số tiêu chí để phân biệt hai loại hình này:
- Về mục đích sản xuất: kinh tế nông hộ chủ yếu sản xuất để tiêu dùng (vẫn mang tính tự
cung tự cấp); kinh tế trang trại sản xuất chủ yếu để bán
(mang tính chất hàng hóa rất cao)
- Về qui mô sản xuất: qui mô sản xuất của kinh tế nông hộ nhỏ, trong khi đó kinh tế trang trại
lớn hơn, thậm chí gấp nhiều lần kinh tế nông hộ.
- Trình độ sản xuất: Trình độ sản xuất của kinh tế trang trại cao hơn kinh tế nông hộ, thể hiện
qua việc cơ giới hóa trong sản xuất (phần lớn có sử dụng máy móc, kĩ thuật)
- Mức độ quan hệ với thị trường: Mục đích sản xuất của kinh tế trang trại chủ yếu để bán nên
mức độ quan hệ với thị trường rất nhiều; Trong khi đó, tính tự cấp tự túc trong sản xuất làm giảm
khả năng mở rộng quan hệ với thị trường bên ngoài của kinh tế nông hộ.
- Khả năng tích lũy tái sản xuất: Với qui mô nhỏ hơn và lợi nhuận ít hơn, khả năng tích lũy tái
sản xuất của kinh tế hộ không nhiều. Ngược lại, với lợi thế hơn hẳn về diện tích và thu nhập thì khả
năng tích lũy tái sản xuất của trang trại cao hơn rất nhiều.
1.4 Tầm quan trọng của sự hình thành kinh tế trang trại
1.4.1 Tính tất yếu của sự hình thành kinh tế trang trại
Tích tụ và tập trung sản xuất là quy luật của quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
Khi mà tư liệu sản xuất, vốn, sức lao động được tập trung trên một quy mô nhất định thì mới có điều
kiện phát triển phân công lao động cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Nhờ đó những ưu thế của phân công
lao động mới được tập trung triệt để, sản xuất hàng hóa do vậy phát triển.
Xuất phát từ yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Khi tiềm lực cơ sở vật chất kĩ thuật cho nông nghiệp, lao động có
trình độ phát triển, hộ gia đình có năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh giỏi cũng dần xuất hiện.
Những điều này đòi hỏi quan hệ và quy mô sở hữu, cách thức, công cụ và biện pháp quản lí sản xuất
cũng phải thay đổi.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất công nghiệp.
Xuất phát từ nội dung vận hành cơ chế thị trường (trong cơ chế thị trường, ai cung cấp được
nhiều hàng hóa với chất lượng cao, giá cả thấp, sẽ chiếm lĩnh thị trường và tăng khả năng cạnh
tranh. Trang trại, với ưu thế về quy mô hợp lí, vừa có điều kiện tăng năng xuất lao động, tăng năng
xuất cây trồng, khai thác hiệu quả lợi thế so sánh của từng vùng lãnh thổ để sản xuất ra sản phẩm
hàng loạt với chi phí thấp).
Tóm lại: Kinh tế trang trại là mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh mà sự xuất hiện, vận hành của
nó nảy sinh từ những yêu cầu khách quan của quá trình phát triển cơ chế thị trường trong nông
nghiệp nông thôn.
1.4.2 Tầm quan trọng của kinh tế trại
Cung cấp nhiều sản phẩm hàng hóa với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, góp phần làm
chủ thị trường trong nước và xuất khẩu.
Quản lí và sử dụng một phần quỹ đất hiệu quả hơn (kể cả đất hoang và đất chưa được sử dụng
trước đó). Do đó việc có tích tụ tập trung ở mức độ nhất định từ những hộ nông dân khác không có
năng lực sử dụng được trang trại sử dụng tốt hơn, cũng phù hợp với quan điểm hiệu quả của sự phát
triển.
Tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo cho một bộ phận dân nghèo ở nông
thôn.
Huy động nguồn thu nhập, nguồn vốn trong dân vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Điều này có lợi cho kinh tế và cũng làm lành mạnh các vấn đề xã hội ở nông thôn.
Góp phần chuyển dịch cơ cấu hàng hóa theo hướng chuyên môn hóa kết hợp với phát triển
tổng hợp một cách hợp lí (trang trại trồng cao su kết hợp với sơ chế, trang trại vườn cây ăn trái kết
hợp với chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản …)
Chủ trang trại là những người năng động, có nhu cầu và khả năng tiếp nhận KHKT tiên tiến do
đó góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Tạo yêu cầu và khả năng đích thực cho sự hình thành và phát triển các hình thức hợp tác mới
của trang trại và nông hộ : tạo sự liên doanh liên kết trong sản xuất kinh doanh giữa trang trại với
các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân.
Nhìn chung, kinh tế trang trại có ý nghĩa quan trọng cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường:
Về mặt kinh tế: Phát triển kinh tế trang trại sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hóa cao, khắc phục dần tình trạng phân tán, tạo nên
những vùng chuyên môn hóa cao. Mặt khác, việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trang trại sẽ
góp phần phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến và dịch vụ sản xuất ở nông thôn.
Bên cạnh đó, phát triển kinh tế trang trại còn giúp khai thác và sử dụng một cách đầy đủ, hiệu quả
các tiềm năng của mỗi vùng lãnh thổ, đẩy mạnh sự phát triển của kinh tế nông nghiệp và kinh tế
nông thôn.
Về mặt xã hội: Phát triển kinh tế trang trại sẽ góp phần phát triển hộ giàu ở Nông thôn, tạo
việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Điều này rất có ý nghĩa trong việc giải quyết vấn đề
lao động và việc làm, một trong những vấn đề bức xúc của nông nghiệp nông thôn. Mặt khác, phát
triển kinh tế trang trại sẽ góp phần phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn và tạo tấm gương cho hộ
nông dân về cách tổ chức quản lí sản xuất kinh doanh, góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn
đề xã hội và đổi mới bộ mặt nông thôn nước ta.
Về mặt môi trường: Do sản xuất kinh doanh tự chủ và vì lợi ích thiết thực lâu dài của mình
mà các chủ trang trại luôn có ý thức khai thác hợp lí và quan tâm bảo vệ các yếu tố môi trường,
trước hết là trong không gian sinh thái trang trại và sau nữa là trong phạm vi từng vùng.
Những tác dụng tích cực đó rất phù hợp với các chủ trương của nhà nước:
“ Chuyển nền nông nghiệp nước ta còn mang tính tự cấp, tự túc ở nhiều vùng sang sản xuất
hàng hóa” (Nghị quyết 10 Bộ Chính trị, khóa VI ngày 5-4-1988)
“ Khai thác đồi núi trọc, bãi bồi ven biển, nuôi trồng thủy sản, đánh bắt ngoài khơi, xây dựng
các nông – lâm – ngư trại với quy mô thích hợp” (Nghị quyết Hội Nghị Trung ương lần thứ 5 khóa
VIII)
“ Phát triển những mô hình trang trại nông nghiệp, phổ biến là trang trại gia đình, thực chất là
các hộ sản xuất hàng hóa với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn của gia đình là chủ yếu để
sản xuất kinh doanh có hiệu quả”
( Nghị quyết Bộ Chính Trị số 6, khóa VIII ngày 10-11-1998)
Như vậy, nếu trong những năm qua, kinh tế nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ ra đời và hoạt
động trong đổi mới và đã góp phần khẳng định sự thành công của đổi mới, thì từ nay những hộ nông
dân sản xuất giỏi nói chung và trang trại nói riêng sẽ đi tiên phong trong tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và sản xuất hàng hóa lớn trong công nghiệp, nông thôn nước ta.
1.5 Điều kiện để hình thành và phát triển kinh tế trang trại
Điều kiện cần:
- Có nền kinh tế đã hoặc đang thực hiện công nghiệp hóa
- Có nền kinh tế thị trường đã hoàn chỉnh hoặc đang hình thành, trong đó có thị trường hàng
hóa nông nghiệp. Đồng thời, kinh tế nông nghiệp là một hợp phần của nền kinh tế quốc dân
- Được nhà nước công nhận và khuyến khích phát triển kinh tế trang trại
Điều kiện đủ:
- Có một bộ phận dân cư có nguyện vọng và tâm huyết với hoạt động sản xuất nông sản hàng
hóa, hoạt động kinh doanh trang trại.
- Có trình độ kiến thức quản lí kinh tế trang trại
- Có tiềm năng về tư liệu sản xuất kinh doanh (vốn, đất đai, thiết bị, khoa học công nghệ và kĩ
thuật…)
- Có cơ chế, chính sách và những định hướng nhằm khuyến khích và đầu tư phát triển kinh tế
trang trại.
2. Quá trình phát triển kinh tế trang trại trên thế giới và Việt Nam
2.1 Quá trình phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
Trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới, mỗi khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
phát triển lên một bước, loài người lại chủ động sáng tạo nên một hình thức tổ chức kinh tế phù hợp.
Thời công xã nguyên thủy: Với tính chất công xã và trình độ nguyên thủy của sản xuất vật
chất, loài người đã sáng tạo ra hình thức tổ chức kinh tế cộng đồng của từng bộ lạc và sự phân chia
ranh giới giữa các bộ lạc để săn bắt và hái lượm.
Thời kì chiếm hữu nô lệ: Chế độ tư hữu bắt đầu nảy sinh phá vỡ tổ chức kinh tế cộng đồng
nguyên thủy. Gia đình và nhà nước bắt đầu xuất hiện, tính chất tư hữu và trình độ tổ chức sản xuất
bắt đầu phát triển. Hình thức tổ chức kinh tế thời kì này chủ yếu là chủ nô, quí tộc tước đoạt sức lao
động cơ bắp của nô lệ và nông nô trong những vùng đất chiếm được từ những cuộc chiến tranh đẫm
máu.
Thời kì phong kiến: Tính chất tư hữu về tư liệu sản xuất phát triển với trình độ khá cao, hình
thức tổ chức kinh tế phong kiến với những đặc trưng cơ bản là phát canh, thu tô ra đời thay thế cho
hình thức tổ chức bóc lột lao động trực tiếp, phương thức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp
nông thôn vẫn theo kiểu khép kín, việc trao đổi sản phẩm đã bắt đầu xuất hiện, nhưng cũng chỉ đối
với những sản phẩm được tạo ra vượt quá nhu cầu tiêu dùng trực tiếp, chứ chưa phát triển kinh tế
hàng hóa.
Thời kì tư bản: Với đặc trưng là kinh tế hàng hóa phát triển đã phá vỡ các quan hệ kinh tế
hiện vật là chủ yếu thời phong kiến, tính chất dân chủ trong kinh tế và trình độ công cụ sản xuất
phát triển như vũ bão qua hai cuộc cách mạng kĩ thuật, hình thức tổ chức kinh tế thời kì này rất đa
dạng, xoay quanh trục chính là kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường và chịu sự tác động
của qui luật giá trị. Trong nông nghiệp, xuất hiện kinh tế trang trại và đồn điền tư bản với hai đặc
trưng cơ bản là:
- Về mục đích sản xuất được chuyển thẳng sang sản xuất hàng hóa thay cho sản xuất
khép kín trước đây. Nếu trước đây sản xuất chủ yếu cho nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của nhà sản
xuất, thì nay cơ chế thị trường và qui luật giá trị đã buộc các nhà sản xuất nông sản hàng hóa muốn
tồn tại và phát triển thì phải sản xuất theo yêu cầu thị trường, được thị trường chấp nhận mới có thu
nhập và tăng lợi nhuận, có tích lũy.
- Về sở hữu tư liệu sản xuất trước đây chủ yếu thuộc về nhà Vua, đến chủ nghĩa tư bản
chủ yếu thuộc tư nhân được nhà nước tư bản công nhận.
Thời kì Xã Hội Chủ Nghĩa: Cũng với đặc trưng cơ bản là sản xuất hàng hóa phát triển ngày
càng cao cùng những tiến bộ vượt bậc về khoa học, công nghệ. Loài người càng cần đến sự phát
triển kinh tế trang trại như hình thức chủ yếu trong phát triển nông nghiệp.
Có thể tóm tắt lịch sử và điều kiện ra đời của loại hình kinh tế trang trại trên thế giới như sau:
Lịch sử và điều kiện ra đời của loại hình kinh tế trang trại ở các
nước tư bản phát triển Châu âu và Bắc Mĩ:
Khi kinh tế hàng hóa bắt đầu xuất hiện và phát triển ở Châu Âu thông qua
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và các cuộc cách mạng tư sản diễn ra lần lượt ở các nước.
Điển hình nhất, là cuộc Cách Mạng Tư Sản Pháp năm 1789 đã kéo theo sự xuất hiện của hình thức
kinh tế trang trại đầu tiên trên thế giới thay thế cho kiểu sản xuất nhỏ của tầng lớp tiểu nông và hình
thức điền trang, thái ấp của các thế lực phong kiến quí tộc đương thời.
Ngay từ buổi ra đời đầu tiên của loại hình kinh tế mới mẻ này trong nông nghiệp của nước
Anh đã hình thành hai hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu là những trang trại tư bản tư nhân và
những trang trại gia đình:
- Trang trại tư bản tư nhân là những xí nghiệp nông nghiệp qui mô lớn được quản lí tập
trung và mọi điều hành hoạt động đều giống như một xí nghiệp công nghiệp. Tất cả các khâu từ
quản lí sản xuất đến trực tiếp lao động đều được nhà tư bản thuê mướn lao động.
- Trang trại gia đình là những trang trại được hình thành và phát triển từ những hộ gia đình
biết làm ăn ở qui mô nhỏ, trên cơ sở sở hữu một diện tích đất nhỏ hơn và dùng lao động gia đình là
chính để sản xuất ra nông sản hàng hóa cung cấp cho xã hội. Loại trang trại gia đình tỏ ra thích hợp
và hiệu quả hơn những đồn điền tư bản trong nền sản xuất hàng hóa vì chủ động tận dụng được
nguồn lao động gia đình, có thuê mướn nhân công trong những công việc cần thiết, có khả năng
quản lí điều hành trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh và nông sản hàng hóa do trang trại tạo ra
có giá trị thấp hơn giá trị nông sản hàng hóa cùng loại do đồn điền tư bản và các nông dân tự do
khác tạo ra.
Hình thức kinh tế trang trại ra đời vào cuối chế độ phong kiến, đầu chế độ tư bản chứa đựng
những yếu tố tích cực hơn hẳn hình thức kinh tế điền trang, thái ấp thời phong kiến. Sự tiến bộ này
thể hiện ở số lượng nông sản hàng hóa được tạo ra nhiều hơn, chất lượng nông sản tốt hơn, được xã
hội chấp nhận và do đó nhanh chóng được nhà nước tư bản đương thời khuyến khích phát triển.
Dần dần các nước Đức, Ý,…sau khi làm cánh mạng tư sản cũng phát hiện ra những tiến bộ
của kinh tế trang trại trong Nông- Lâm- Ngư nghiệp và nhanh chóng ban hành một số chính sách tạo
thuận lợi cho kinh tế trang trại lúc đó phát triển. Ở Pháp, năm 1892 có 5.672.000 trang trại,qui mô
bình quân 5,9 ha, đến năm 1928 số trang trại là 5.736.000 trang trại, qui mô bình quân là 5,8 ha. Ở
Đức, năm 1882
cũng có 5.276.000 trang trại, qui mô bình quân 6 ha .
Ở Châu Mỹ, đặc biệt là Bắc Mỹ, kinh tế trang trại phát triển có chậm hơn so với Châu Âu
nhưng đến cuối thế kỉ XIX thì gia tăng mạnh mẽ. Đặc biệt là từ cuối thế kỉ XIX đến những năm 40
của thế kỉ XX, số lượng các trang trại phát triển rất mạnh ,vd: 1935, Mỹ có 6.814.000 trang trại và
số lượng sản phẩm nông sản mà kinh tế trang trại của nước Mỹ làm ra chiếm tới 41% dự trữ lúa mì
và 87 % dự trữ ngô trên thế giới.
Loại hình kinh tế trang trại theo thời gian đã nhanh chóng lan sang các nước tư bản và các
nước thuộc địa khác, và dần trở thành một hình thức kinh
tế tiến bộ trên thế giới.
Chính K.Mark ở tác phẩm cuối cùng ông đã viết : “Ngay ở nước Anh với nền công nghiệp phát
triển, hình thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp qui mô
lớn mà là các trang trại gia đình.”
Lịch sử và điều kiện ra đời của loại hình kinh tế trang trại ở các
nước Châu Á
Ở các nước Châu á, nơi mà dường như không diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp hay cách
mạng tư sản lớn nào, mà hầu hết chịu tác động từ những thành quả phát triển kinh tế, xã hội của các
nước phương Tây. Chủ nghĩa phong kiến mà điển hình là phong kiến Trung Quốc đã khống chế gần
như toàn bộ phương thức sản xuất châu á, vào những năm mà châu Âu dồn dập nổ ra những cuộc
cách mạng công nghiệp và cách mạng tư sản, mở đường cho sức sản xuất phát triển. Cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây đã bành trướng thế lực của mình vào Châu Á
bằng nhiều con đường, làm thay đổi dần phương thức sản xuất, nảy sinh mầm mống kinh tế hàng
hóa ở Châu á.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1939-1945), nhiều nước Châu á đã tiến hành cải cách ruộng
đất. Chính điều này đã tác động trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển các trang trại gia
đình theo hướng sản xuất hàng hóa. Nhưng điều kiện thực tế ở Châu Á đất hẹp, người đông, bình
quân đất canh tác chỉ có 0,15 ha/ người, nên các trang trại ở Châu Á chủ yếu là trang trại gia đình
với qui mô đất đai bình quân trên dưới 1 ha. Bên cạnh đó vẫn tồn tại hình thức đồn điền của tư bản
nước ngoài hoặc các quý tộc trong nước có quy mô lớn hàng trăm ha.
Khi xã hội chủ nghĩa ra đời, một số nước như: Liên xô, Tiệp khắc, Ba lan, Trung Quốc, Việt
Nam…tổ chức thêm nông trang, nông lâm trường quốc doanh, sản xuất và giao nộp sản phẩm theo
kế hoạch của nhà nước.
Trải qua hàng ngàn thế kỉ đến nay, kinh tế trang trại tiếp tục phát triển từ những nước tư bản
công nghiệp lâu đời, đến các nước đang phát triển, các nước công nghiệp mới và các nước xã hội
chủ nghĩa với cơ cấu và qui mô sản xuất khác nhau.
Các trang trại gia đình được hình thành từ cơ sở các hộ tiểu nông sau khi phá vỡ cái vỏ bọc
sản xuất tự cấp tự túc khép kín, vươn lên sản xuất nhiều nông sản hàng hóa và tiếp cận với thị
trường, từng bước thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh. Kinh tế trang trại là một nền kinh tế nông
nghiệp sản xuất hàng hóa khác với nền kinh tế tiểu nông tự cấp, tự túc. K.Mark đã phân biệt người
chủ trang trại với người tiểu nông: “Người chủ trang trại bán ra thị trường hầu hết sản phẩm làm ra,
còn người tiểu nông thì tiêu dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và hạn chế mua bán.”
Có thể nói lịch sử ra đời của hình thức kinh tế trang trại trong nông nghiệp ở tất cả các nước
trên thế giới từ Châu Âu, Châu Mỹ, đến Châu á và các Châu lục khác là lịch sử phát triển tất yếu đi
từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa theo quy luật của nền kinh tế thị trường.
2.2. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam
Trong sự phát triển của kinh tế trang trại thế giới, có những vấn đề được đặt ra cả về mặt kinh
tế, xã hội và môi trường. Những vấn đề này đã một thời gian dài được gán cho đặc thù của chủ
nghĩa tư bản (những vấn đề liên quan đến sở hữu ruộng đất, vấn đề thuê nhân công và bóc lột nhân
công, sự cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm…). Chính vì thế, trong thời kì bao cấp và
ngay trong những năm đầu đổi mới, trên thực tiễn kinh tế trang trại không được ủng hộ phát triển ở
nước ta. Dưới đây là một vài nguyên nhân chính:
- Vấn đề quan hệ ruộng đất: Đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản, nên quan hệ ruộng đất luôn
là vấn đề quan trọng trong nông nghiệp của một nước. Nhiều cuộc cách mạng đã diễn ra trên thế
giới và cả ở Việt Nam để “người cày có ruộng” cũng cho thấy tầm quan trọng của ruộng đất trong
nông nghiệp.Với kinh tế trang trại, người làm kinh doanh nông nghiệp có quyền mua, thuê dài hạn
thêm đất, như vậy tạo ra sự tích tụ ruộng đất ở nông thôn. Họ có quyền nhượng lại trang trại cho các
chủ thể khác để quản lí và kinh doanh. Các trang trại có qui mô đủ lớn thì có quyền đa dạng hóa sản
xuất, tạo ra khối lượng hàng hóa lớn để cạnh tranh trên thị trường, do vậy sức cạnh tranh cũng lớn
hơn. Vì thế, trong quá trình phát triển kinh tế trang trại, nhất là ở giai đoạn đầu, sự tích tụ ruộng đất
ở nông thôn là không tránh khỏi. Điều này sẽ làm tăng thêm sự phân tầng xã hội ở nông thôn, tạo ra
một tầng lớp đông đảo nông dân không có ruộng đất. Chính vì vậy, có người đã đặt ra vấn đề: Nếu
phát triển kinh tế trang trại, mà dẫn đến tình trạng nông dân bán ruộng, cầm cố ruộng thì sẽ không
hoàn thành được mục tiêu cao cả “người cày có ruộng” mà cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đã đặt
ra.
- Vấn đề sử dụng lao động trong trang trại: Nếu như kinh tế tiểu nông dựa trên lao động
chủ yếu của gia đình, thì các trang trại chủ yếu phải dựa trên lao động thuê (chừng nào mà trang trại
chủ yếu dựa vào lao động của gia đình, thì khó có thể nói đến một qui mô sản xuất lớn và tính chất
hàng hóa cao). Như vậy là trong phần lớn các trang trại, một phần là lao động thường xuyên, một
phần là lao động mùa vụ (trong thời gian thu hoạch, lao động thời vụ nhiều hơn hẳn lao động
thường xuyên của trang trại). Chính vì vậy, nhiều người e ngại rằng sẽ xuất hiện tình trạng bóc lột
sức lao động của người làm thuê, và có thể sẽ càng làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo.
- Vấn đề sở hữu: Chủ trang trại khác với chủ một nông hộ, họ có thể là một nhà đầu tư
vào nông nghiệp; trong nguồn gốc gia đình, họ có thể không trưởng thành từ một gia đình nông dân.
Nhưng họ đã mua, thuê lại trang trại để kinh doanh. Trên thế giới, có nhiều trường hợp chủ trang
trại sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất (đất đai, máy móc, chuồng trại, kho bãi…); Có trường hợp chủ
trang trại chỉ sở hữu một phần tư liệu sản xuất và một phần phải đi thuê của người khác; Cũng có
trường hợp chủ trang trại phải đi thuê toàn bộ tư liệu sản xuất (kể cả đất đai, diện tích mặt nước) của
một trang trại hoặc của nhà nước để sản xuất kinh doanh. Sự thay đổi các quan hệ sở hữu là cơ sở
dẫn đến sự thay đổi quan hệ sản xuất ở nông thôn. Đây là vấn đề nhạy cảm, đã từng gây tranh cãi ở
nước ta.
Dù đã từng không được khuyến khích phát triển, nhưng không thể phủ nhận những lợi ích mà
loại hình kinh tế này mang lại cho nền nông nghiệp nói chung và người nông dân nói riêng. Bên
cạnh đó, trang trại còn là loại hình rất phù hợp với nền kinh tế hàng hóa mà chúng ta đang hướng
tới. Chính vì thế, dù chậm nhưng kinh tế trang trại vẫn phát triển, đặc biệt là sau đổi mới khi có
nhiều chính sách hỗ trợ của nhà nước.
2.2.1 Cơ sở pháp lý để phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam
Những chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng đã tạo tiền đề, cơ sỏ pháp lí quan trọng
cho việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại:
Chỉ thị 100 CT-TW ngày 13/01/1981 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( khóa IV) chủ
trương khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động, thì kinh tế hộ mới dần dần được
khẳng định là đơn vị kinh tế tự chủ. Đây là điều kiện cơ bản cho kinh tế trang trại ở Việt Nam ra đời
và phát triển. Sau đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV và V còn ra một loạt các chỉ thị
quan trọng khác liên quan đến khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa trong lĩnh vực Nông, lâm
ngư nghiệp. Từ đó nông dân gắn bó hơn với đồng ruộng, làm giàu chính đáng bằng sức lao động
của mình. Kinh tế hộ nông dân bắt đầu phát triển sản xuất nông sản hàng hóa. Từ đó, kinh tế trang
trại đã manh nha xuất hiện.
Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính Trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI ( tháng
1/1998) về đổi mới quản lí kinh tế nông nghiệp. Nghị quyết này đã có tác dụng trực tiếp và sâu sắc,
tạo ra những chuyển biến căn bản và sâu rộng trong quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn
nước ta.
Những nghiên cứu tổng kết về đổi mới trong nông nghiệp, nông thôn nước ta cho thấy rằng
đến tháng 10/1998, tức là cho đến trước thời điểm có Nghị quyết 6 của Bộ Chính trị, cả nước có hơn
115.000 nông trại- trang trại gia đình với nhiều loại hình và quy mô sản xuất khác nhau, nhưng hầu
hết các trang trại gia đình này đều được thành lập từ năm 1992-1993 trở về sau, tức là khi Nghị
Quyết của Đại Hội VI của Đảng (1986) đã đi vào cuộc sống. Trong thực tiễn, các trang trại ở nước
ta được hình thành trên nền tảng của kinh tế nông dân sau khi họ được thực hiện đầy đủ quyền tự
chủ về kinh tế, mạnh dạn đầu tư vốn, lao động và trình độ công nghệ, sản xuất hàng hóa có năng
xuất và hiệu quả cao, có sức cạnh tranh trên thị trường.
Tháng 11/1998, Bộ Chính Trị ra Nghị quyết 06 về một số vấn đề nông nghiệp, kinh tế nông
thôn, và trong Nghị quyết này, lần đấu tiên vấn đề kinh tế trang trại được thừa nhận trong Nghị
quyết của Đảng, tạo điều kiện cho các nghành, các địa phương và các chủ trang trại yên tâm đầu tư
phát triển sản xuất hàng hóa, làm giàu chính đáng.
Trên cơ sở Nghị quyết 06 của Bộ Chính Trị, Chính Phủ có Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày
2-2-2000, Nghị quyết xác định quan điểm vê kinh tế trang trại:
Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn,
chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực
trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông
lâm thủy sản.
Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn kĩ thuật, kinh
nghiệm quản lí góp phần phát triển nông nghiệp bền vững; phân bố lại lao động, dân cư, tạo việc
làm, tăng thu nhập; khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất, hình thành các trang trại gắn liền với quá trình
phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm các
ngành phi nông nghiệp, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa trong nông nghiệp và nông thôn.
Nghị quyết đã tạo cơ sở pháp lí quan trọng để phát triển kinh tế trang trại trong nông thôn Việt
nam và từ đó các bộ ngành có những chính sách bước đầu về khuyến khích kinh tế trang trại, đặc
biệt là các chính sách cụ thể về đất đai, ưu đãi về thuế, về đầu tư tín dụng, về sử dụng lao động, về
tiêu thụ sản phẩm, về bảo hộ các tài sản đã đầu tư của trang trại. Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển
Nông Thôn đã có thông tư số 61/2000/TT/BNN-KH (6/6/2000) hướng dẫn lập quy hoạch phát triển
kinh tế trang trại.
Đứng ở góc độ địa lí, thì các văn bản hướng dẫn quy hoạch sản xuất có ý nghĩa quan trọng, vì
nhờ có qui hoạch mà kinh tế trang trại sẽ thực sự là một bộ phận của kinh tế nông thôn, phát triển
bền vững, tránh tự phát; Nhờ có qui hoạch mới có thể hình thành các vùng chuyên canh qui mô lớn,
tận dụng được các lợi thế so sánh của các địa phương về tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện
kinh tế xã hội, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến và dịch vụ; Có qui hoạch thì các vấn đề về
bảo vệ môi trường sẽ có điều kiện giải quyết tốt và có hệ thống.
Một số chính sách lâu dài của Nhà nước đối với kinh tế trang trại:
Nhà nước khuyến khích phát triển và bảo hộ kinh tế trang trại. Các hộ gia đình, cá nhân đầu
tư phát triển kinh tế trang trại được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ổn định, lâu dài theo pháp luật để sản xuất kinh doanh.
Nhà nước đặc biệt khuyến khích việc đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu quả đất trống, đồi
núi trọc ở trung du, miền núi, biên giới, hải đảo, tận dụng khai thác các loại đất còn hoang hoá, ao,
hồ, đầm, bãi bồi ven sông, ven biển, mặt nước eo vịnh, đầm phá để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
theo hướng chuyên canh với tỷ suất hàng hoá cao. Đối với vùng đất hẹp, người đông, khuyến khích
phát triển kinh tế trang trại sử dụng ít đất, nhiều lao động, thâm canh cao gắn với chế biến và
thương mại, dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị kinh tế lớn. Ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với
những hộ nông dân có vốn, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, có yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất
nông nghiệp hàng hoá và những hộ không có đất sản xuất nông nghiệp mà có nguyện vọng tạo dựng
cơ nghiệp lâu dài trong nông nghiệp.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ nông dân, phát triển
kinh tế trang trại đi đôi với chuyển đổi hợp tác xã cũ, mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết
sản xuất - kinh doanh giữa các hộ nông dân, các trang trại, các nông, lâm trường quốc doanh, doanh
nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để tạo động lực và sức mạnh
tổng hợp cho nông nghiệp, nông thôn phát triển.
Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học-công nghệ, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kết cấu hạ
tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại
phát triển bền vững.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước để các trang trại phát triển lành mạnh, có hiệu quả.
* Chính sách đất đai
Hộ gia đình có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để phát triển trang trại được Nhà nước giao đất
hoặc cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thẩm quyền giao đất, cho thuê
đất được áp dụng theo quy định tại Nghị định số 85/1999/NĐ-CP, ngày 28 tháng 8 năm 1999 của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định lâu dài và Nghị định số 163/1999/NĐ-CP, ngày 16 tháng 11 năm 1999 của
Chính phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn
định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
Hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản sống tại địa phương
có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để mở rộng sản xuất thì ngoài phần đất đã được giao trong hạn
mức của địa phương còn được ủy ban nhân dân xã xét cho thuê đất để phát triển trang trại.
Hộ gia đình phi nông nghiệp có nguyện vọng và khả năng tạo dựng cơ nghiệp lâu dài từ sản
xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản được
ủy ban nhân dân xã cho thuê đất để làm kinh tế trang trại.
Hộ gia đình, cá nhân ở địa phương khác nếu có nguyện vọng lập nghiệp lâu dài, có vốn đầu tư
để phát triển trang trại, được ủy ban nhân dân xã sở tại cho thuê đất.
Diện tích đất được giao, được thuê phụ thuộc vào quỹ đất của địa phương và
khả năng sản xuất kinh doanh của chủ trang trại.
Hộ gia đình, cá nhân được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thuê hoặc thuê lại quyền
sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác để phát triển trang trại theo quy định của
pháp luật. Người nhận chuyển nhượng hoặc thuê quyền sử dụng đất hợp pháp có các quyền và nghĩa
vụ theo quy định của pháp luật về đất đai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hộ gia đình, cá nhân đã được giao hoặc nhận chuyển nhượng, quyền sử dụng đất vượt quá hạn
mức sử dụng đất trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 để phát triển trang trại, thì được tiếp tục sử dụng
và chuyển sang thuê phần diện tích đất vượt hạn mức, theo quy định của pháp luật về đất đai và
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nhưng chưa được giao, chưa được thuê, hoặc đã nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận trước ngày ban hành Nghị quyết
này, nếu không có tranh chấp, sử dụng đất đúng mục đích, thì được xem xét để giao hoặc cho thuê
đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ủy ban nhân dân các Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan
địa chính khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để các chủ trang trại yên tâm đầu tư
phát triển sản xuất.
* Chính sách thuế
Để khuyến khích và tạo điều kiện hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại, nhất
là ở những vùng đất trống đồi núi trọc, bãi bồi, đầm phá ven biển, thực hiện miễn thuế thu nhập cho
trang trại với thời gian tối đa theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP, ngày 8 tháng 7 năm 1999 của
Chính phủ về việc Quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số
03/1998/QH10.
Theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì hộ gia đình và cá nhân nông dân sản
xuất hàng hóa lớn có thu nhập cao thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Giao Bộ Tài
chính nghiên cứu trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13 tháng 5
năm 1998 của Chính phủ về Quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng
quy định đối tượng nộp thuế là những hộ làm kinh tế trang trại đã sản xuất kinh doanh ổn định, có
giá trị hàng hóa và lãi lớn, giảm thấp nhất mức thuế suất, nhằm khuyến khích phát triển kinh tế
trang trại, được nhân dân đồng tình và có khả năng thực hiện.
Các trang trại được miễn giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai khi thuê
đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng
sản xuất, trồng cây lâu năm và khi thuê diện tích ở các vùng nước tự nhiên
chưa có đầu tư cải tạo vào mục đích sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
* Chính sách đầu tư, tín dụng
Căn cứ vào quy hoạch phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp trên các địa bàn có điều kiện
kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, Nhà nước có chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng về giao thông, thuỷ lợi, điện, nước sinh hoạt, thông tin, cơ sở chế biến để khuyến khích
các hộ gia đình, cá nhân phát triển trang trại sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Trang trại phát triển sản xuất, kinh doanh trong những lĩnh vực thuộc đối tượng quy định tại
Điều 8 mục I Chương II của Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1999 của Chính
phủ được vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước và việc vay vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước thực hiện theo các quy định của Nghị định này.
Trang trại phát triển sản xuất, kinh doanh được vay vốn tín dụng thương mại của các ngân
hàng thương mại quốc doanh. Việc vay vốn được thực hiện theo quy định tại Quyết định số
67/1999/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ về "Một số chính sách tín
dụng ngân hàng phát triển nông nghiệp và nông thôn", chủ trang trại được dùng tài sản hình thành
từ vốn vay để bảo đảm tiền vay theo quy định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP, ngày 29 tháng 12
năm 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
* Chính sách lao động
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ để các chủ trang trại mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh, tạo được nhiều việc làm cho lao động nông thôn, ưu tiên sử dụng lao động của hộ
nông dân không đất, thiếu đất sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo thiếu việc làm. Chủ trang trại được
thuê lao động không hạn chế về số lượng, trả công lao động trên cơ sở thoả thuận với người lao
động theo quy định của pháp luật về lao động. Chủ trang trại phải trang bị đồ dùng bảo hộ lao động
theo từng loại nghề cho người lao động và có trách nhiệm với người lao động khi gặp rủi ro, tai nạn,
ốm đau trong thời gian làm việc theo hợp đồng lao động.
Đối với địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, chủ trang trại được ưu tiên vay
vốn thuộc chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo để tạo việc làm cho lao động tại
chỗ; Thu hút lao động ở các vùng đông dân cư đến phát triển sản xuất.
Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp cho lao động làm trong trang trại bằng
nhiều hình thức tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn.
* Chính sách khoa học, công nghệ, môi trường.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với các địa phương có quy hoạch, kế hoạch xây
dựng các công trình thuỷ lợi để tạo nguồn nước cho phát triển sản xuất. Chủ trang trại tự bỏ vốn
hoặc vay từ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để xây dựng hệ thống dẫn nước
phục vụ sản xuất và sinh hoạt trong trang trại. Các chủ trang trại xây dựng các công trình thuỷ lợi,
sử dụng nước mặt, nước ngầm trong phạm vi trang trại theo quy hoạch không phải nộp thuế tài nguyên
nước.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
quy hoạch đầu tư phát triển các vườn ươm giống cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp và các cơ sở sản
xuất con giống (chăn nuôi, thuỷ sản) hoặc hỗ trợ một số trang trại có điều kiện sản xuất giống để
bảo đảm đủ giống tốt, giống có chất lượng cao cung cấp cho các trang trại và cho hộ nông dân trong
vùng.
Khuyến khích chủ trang trại góp vốn vào Quỹ hỗ trợ phát triển khoa học, liên kết với cơ sở
khoa học, đào tạo, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật áp dụng vào trang trại và làm dịch vụ kỹ
thuật cho nông dân trong vùng.
* Chính sách thị trường.
Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các Tỉnh, Thành
phố trực thuộc Trung ương tổ chức tốt việc cung cấp thông tin thị trường, khuyến cáo khoa học kỹ
thuật, giúp trang trại định hướng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường trong và
ngoài nước.
Nhà nước hỗ trợ việc đầu tư nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các cơ sở công nghiệp chế
biến ở các vùng tập trung, chuyên canh; hướng dẫn việc ký kết hợp đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ
nông sản. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp chế biến nông sản
và tiêu thụ nông sản hàng hoá của trang trại và nông dân trên địa bàn.
Nhà nước khuyến khích phát triển chợ nông thôn, các trung tâm giao dịch mua bán nông sản
và vật tư nông nghiệp. Tạo điều kiện cho các chủ trang trại được tiếp cận và tham gia các chương
trình, dự án hợp tác, hội chợ triển lãm trong và ngoài nuớc.
Đẩy mạnh sự liên kết giữa các cơ sở sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản thuộc các thành
phần kinh tế, đặc biệt là giữa các doanh nghiệp Nhà nước với hợp tác xã, chủ trang trại, hộ nông
dân.
Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích chủ trang trại xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình
và sản phẩm mua gom của trang trại khác, của các hộ nông dân và nhập khẩu vật tư nông nghiệp.
* Chính sách bảo hộ tài sản đã đầu tư của trang trại.
Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của trang trại không bị quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng
biện pháp hành chính. Trong trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh, vì lợi ích quốc gia, Nhà nước
cần thu hồi đất được giao, được thuê của trang trại thì chủ trang trại được thanh toán hoặc bồi
thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố quyết định thu hồi.
Tóm lại: Có thể nói, với các Nghị quyết của Chính phủ bằng các Thông tư hướng dẫn cụ thể thì các
rào cản đối với kinh tế trang trại từng bước được gỡ bỏ, trước hết là đối với các yếu tố đầu vào ( đất
đai, vốn, lao động) của sản xuất Nông, Lâm ngư. Nhiều chính sách mở khác về tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp, thủy sản, về khuyến nông, khuyến ngư, chuyển giao công nghệ cũng được triển khai.
Với việc thừa nhận vai trò của kinh tế trang trại và có các chính sách khuyến khích kinh tế trang trại
phát triển, Nhà nước đã chủ động tác động vào việc thay đổi quan hệ sản xuất ở nông thôn. Dù
những tác động đó có gây ra một số vấn đề về mặt xã hội, nhưng đã được quan tâm giải quyết từng
bước, chủ yếu ở phạm vi các địa phương.
2.2.2 Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam
Là quá trình tương đối phức tạp và trải qua nhiều thời kì
2.2.2.1. Thời kì phong kiến
Nông nghiệp nước ta tồn tại một số hình thức tổ chức sản xuất là điền trang và thái ấp. Đất
đai do các cuộc chiến tranh phong kiến dành được đều là của Vua. Khi đất nước thanh bình,Vua ban
sắc phong quan lại kèm theo việc ban thưởng bổng lộc bằng đất đai. Lối sản xuất của điền trang,
thái ấp là khép kín, phát canh thu tô, kinh tế nông nghiệp chưa phát triển nên kinh tế trang trại thời
kì này chưa có.
Đến thời nhà Nguyễn và thời thực dân Pháp thống trị, do có kinh nghiệm tổ chức sản xuất
nông nghiệp theo kiểu trang trại ở chính quốc, thực dân Pháp tổ chức ra hình thức trang trại tư bản
tư nhân (đồn điền) để bóc lột công nhân rẻ mạt ở nước ta. Nếu xem xét ở góc độ kinh tế thì kinh tế
trang trại tư bản tư nhân kiểu đồn điền của thực dân pháp cũng đã góp phần thúc đẩy nền nông
nghiệp hàng hóa và thị trường nông sản Việt Nam phát triển. Tuy nhiên, sản phẩm hàng hóa do các
đồn điền này tạo ra đã được đưa ra thị trường thế giới và đưa về Pháp, đem lại lợi nhuận kếch xù
cho giới tư bản Pháp đương thời.
2.2.2.2 Thời kì xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước
- Miền Bắc: Nền nông nghiệp mang nặng tính tự cấp, tự túc. Sau cải cách ruộng đất, nông dân
đã gia nhập HTX ở nông thôn. Nhà nước lập ra một số Nông, Lâm trường quốc doanh nhưng hoạt
động theo chế độ kế hoạch hóa tập trung chứ không phải sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường.
Vì thế kinh tế trang trại ở miền Bắc trong thời kì này chưa phát triển.
- Miền Nam: Vẫn tồn tại các trang trại tư bản tư nhân của Pháp dưới dạng đồn điền. Một số
tướng tá ngụy cũng lập ra một số trang trại tư bản tư nhân, kinh tế nông hộ sản xuất hàng hóa đã
xuất hiện và phát triển dần lên thành kinh tế trang trại gia đình.
2.2.2.3 Thời kì cả nước đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội ( 1975- 1986 )
Đặc điểm nông nghiệp thời kì này là kinh tế hợp tác, kinh tế quốc doanh phát triển nhanh
chóng, kinh tế tiểu chủ, kinh tế hộ gia đình giảm bớt. Một số ít hộ gia đình cá thể hoạt động và phát
triển dần thành những hộ trang trại nhỏ, sau này có điều kiện mở rộng ra.
2.2.2.4 Thời kì đổi mới từ 1986 đến nay
Sau đổi mới 1986, hàng loạt các chính sách hỗ trợ nông nghiệp của nhà nước, vì vậy nông
nghiệp nông thôn có nhiều thay đổi. Vai trò của kinh tế hộ nông dân được thừa nhận, các hộ gia
đình hoạt động theo cơ chế thị trường, tự hạch toán, tự trang trải, lấy thu bù chi và làm ăn có
lãi…đây chính là động lực cho các hộ gia đình hoạt động theo phương thức sản xuất hàng hóa để trở
thành “các trang trại gia đình”.
Trong những năm gần đây, số lượng các trang trại gia tăng đáng kể. Đặc biệt là từ khi có Nghị
quyết 03/2000/NQ-CP của Chính phủ về kinh tế trang trại, tính đến ngày 1/10/2001 theo kết quả
điều tra, trên cả nước có 60.758 trang trại, tăng 4.906 trang trại so với năm 2000. Trang trại đã phát
triển nhanh, đặc biệt là ở Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông cửu long, Tây Nguyên, ba vùng này đã
chiếm hơn 80% số trang trại của cả nước. Một số tỉnh có mô hình kinh tế trang trại phát triển mạnh
như: Yên Bái có 9.226 trang trại, Nghệ An có 4.700 trang trại, Bình Phước có 4.644 trang trại, Đồng
Nai có 2.875 trang trại, Tây Ninh có 2.700 trang trại, Long An 3000 trang trại, An Giang có 625
trang trại.
Năm 2001, các trang trại đã tạo ra một khối lượng sản phẩm đạt giá trị 5.361 tỉ đồng (chiếm
gần 4% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp cả nước). Bình quân mỗi trang trại có giá trị sản xuất đạt
hơn 88 triệu đồng, giá trị sản phẩm hàng hóa đạt gần 82 triệu đồng. Mặc dù khối lượng sản xuất
chưa nhiều nhưng các trang trại đã thể hiện được tầm quan trọng của mô hình kinh tế này trong sản
xuất nông, lâm nghiệp. Đặc biệt, tỉ suất hàng hóa của các trang trại đã ngày càng được nâng cao.
1.3. Kinh tế trang trại- một hình thức của Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
1.3.1. Quan niệm về Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Tổ chức lãnh thổ là sự sắp xếp và phối hợp các đối tượng trong mối liên hệ đa ngành, lĩnh
vực và đa ngành lãnh thổ trong một vùng cụ thể nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự
nhiên, lao động, vị trí địa lí kinh tế - xã hội và cơ sở vật chất kĩ thuật đã và sẽ tạo dựng để đem lại
hiệu quả kinh tế - xã hội cao và nâng cao mức sống dân cư của vùng đó.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp (TCLTNN) với tư cách là việc tổ chức ngành sản xuất vật
chất, ngành kinh tế then chốt đã và đang được sự quan tâm nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh
tế của nền sản xuất xã hội.
Vấn đề TCLTNN đã thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà khoa học, nhiều công
trình nghiên cứu đã ra đời trong đó phải kể đến sự cống hiến to lớn của các chuyên gia địa lí Xô
Viết như giáo sư tiến sĩ K.I.Ivanov, V.G.Kriuchkov, A.N.Rakinikov với các công trình liên quan
đến việc TCLTNN là hình thức tổ chức hiện đại trên lãnh thổ
Theo K.I.Ivanov (1974), Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là hệ thống liên kết không
gian của các ngành, các xí nghiệp nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên các cơ sở qui trình kĩ thuật
mới nhất, chuyên môn hóa, tập trung hóa, liên hợp hóa và hợp tác hóa sản xuất, cho phép sử dụng
hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh thổ về điều kiện tự nhiên, kinh tế, lao động và đảm bảo năng
xuất lao động xã hội cao nhất.
Nghiên cứu cơ chế hình thành các hệ thống tổ chức lãnh thổ sản xuất nông nghiệp
(TCLTSXNN) ở các trình độ khác nhau cần phải dựa vào sự nghiên cứu, phân tích sự khác biệt về
địa lí dẫn đến sự khác biệt những nhân tố cơ bản và cấu trúc lãnh thổ. Chúng ảnh hưởng đến hiệu
quả sản xuất các sản phẩm nông nghiệp hàng hóa, do đó việc nghiên cứu TCLTSXNN có thể chia
thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Nghiên cứu phân tích các nhân tố cơ bản của TCLTSXNN
- Cần tìm hiểu sự khác biệt của lãnh thổ trong việc sử dụng đất, các phương pháp quản lí và
các dạng tổ chức lãnh thổ.
- Làm rõ qui luật phân bố của các ngành trồng trọt và chăn nuôi trong sự ảnh hưởng của các
điều kiện tự nhiên và kinh tế
- So sánh hiệu quả sản xuất của sản phẩm nông nghiệp chủ yếu ở các môi trường tự nhiên
khác nhau với những phương pháp quản lí kinh tế hợp lí. Đây là khâu quan trọng làm tiền đề cho
việc sử dụng hợp lí nhất tiềm năng thiên nhiên của lãnh thổ cho việc sản xuất nông nghiệp.
Giai đoạn 2: Nghiên cứu qui luật hình thành và xác định các hệ thống TCLTSXNN.
- Làm rõ các chức năng kinh tế của các hệ thống. Cần chú ý rằng vấn đề này chịu sự tác động
của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và những thành tựu khoa học kĩ thuật mới nhất của thế giới.
- Phân loại các hệ thống sản xuất khác nhau, ảnh hưởng qua lại giữa chúng và sự phụ thuộc ở
các mức độ khác nhau.
Để phân tích sâu sắc vấn đề TCLTNN cần có sự nghiên cứu riêng, liên quan đến việc phân vùng
nông nghiệp.
Xuất phát từ quan điểm về TCLTNN của K.I.Ivanov, có thể thấy một số đặc điểm cơ bản của
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp:
- Phân công lao động theo lãnh thổ cùng với việc kết hợp giữa tự nhiên, kinh tế, lao động là
cơ sở để hình thành các mối liên hệ qua lại theo không gian ( lãnh thổ)
- Khía cạnh ngành và khía cạnh lãnh thổ đan xen với nhau trong quá trình Tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp
- Các đặc điểm không gian của sản xuất phần lớn bắt nguồn từ tính chất của việc khai thác
và sử dụng các điều kiện sản xuất hiện có
- Hiệu quả (kinh tế, xã hội…) là tiêu chuẩn hàng đầu trong việc Tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp.
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Trong điều kiện hiện nay, nhiều hình thức TCLTNN đã và đang xuất hiện cùng với sự phát
triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ mang lại hiệu quả cao về các mặt kinh tế, xã
hội và môi trường. Do đó việc nghiên cứu TCLTNN có ý nghĩa KT-XH rất lớn:
- Việc nghiên cứu TCLTNN nói chung và các hình thức tổ chức của nó theo lãnh thổ tạo ra
những tiền đề cần thiết nhằm sử dụng hợp lí các nguồn lực về tự nhiên, KT-XH của cả nước cũng
như của từng vùng, từng địa phương.
- TCLTNN tạo ra những điều kiện để đẩy mạnh và chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp.
Khi chuyên môn hóa phát triển đến mức độ nhất định tất yếu sẽ dẫn đến quá trình hợp tác hóa, liên
hợp hóa trong phạm vi vùng, quốc gia và quốc tế.
- Việc hoàn thiện các hình thức TCLTNN tạo điều kiện nâng cao năng xuất lao động xã hội.
- Nghiên cứu các hình thức TCLTNN góp phần vào công tác qui hoạch theo lãnh thổ nền
kinh tế quốc dân.
1.3.2. Trang trại- một trong những hình thức của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Các hình thức tổ chức nông nghiệp trên thế giới hiện nay rất đa dạng và phong phú. Phụ thuộc
vào điều kiện cụ thể của mỗi nước lại có những hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp khác nhau.
Hiện nay, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc áp dụng các thành tựu khoa học mới
vào sản xuất nông nghiệp làm cho các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ngày càng trở nên đa
dạng và phong phú, với những nhiều thay đổi về cách thức sản xuất. Nhìn về đại thể, hiện nay có 4
hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp chính là: xí nghiệp nông nghiệp, thể tổng hợp nông nghiệp,
băng truyền địa lý trong nông nghiệp và vùng nông nghiệp
Ở Việt Nam, về cơ bản nước ta có đầy đủ các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong đó có ba hình thức quan trọng là: xí nghiệp nông nghiệp
(hợp tác xã nông nghiệp, hộ gia đình, trang trại, nông trường quốc doanh), thể tổng hợp nông nghiệp
và vùng nông nghiệp.
Các nông hộ, trang trại, hợp tác xã, nông trường quốc doanh, đồn điền… được xem là xí
nghiệp nông nghiệp
Như vậy: Dưới góc độ của địa lí kinh tế- xã hội, kinh tế trang trại là một hình thức của Tổ chức lãnh
thổ nông nghiệp, vì vậy khi nghiên cứu kinh tế trang trại cần đặt nó trong phạm vi một vùng, địa
phương cụ thể. Nghiên cứu kinh tế trang trại trong giới hạn một vùng, lãnh thổ để hiểu rõ hơn ý
nghĩa của việc phát triển kinh tế trang trại đối với việc khai thác và sử dụng những tiềm năng về tự
nhiên và kinh tế xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội (đặc biệt là vấn đề việc làm)...của vùng
hay lãnh thổ đó.
Chương 2
PHÂN TÍCH KINH TẾ TRANG TRẠI TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Khái quát tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai là tỉnh thuộc Miền Đông Nam Bộ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có diện tích 5.903,9 km2, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên
của vùng Đông Nam Bộ. Dân số toàn tỉnh theo số liệu thống kê năm 2009 là 2.483.211 người, mật độ dân số 393 người/km2, trong đó:
+ Phân theo khu vực thành thị - nông thôn là: Thành thị là: 825.335 người; Nông thôn là:
1.657.876 người.
+ Phân theo giới tính: Nam: 1.232.182 người; Nữ: 1.251.029 người.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của toàn tỉnh năm 2008 là 1,1%. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc
gồm: Thành phố Biên Hòa - là trung tâm chính trị kinh tế văn hóa của tỉnh; Thị xã Long Khánh và 9
huyện: Long Thành; Nhơn Trạch; Trảng Bom; Thống Nhất; Cẩm Mỹ; Vĩnh Cửu; Xuân Lộc; Định
Quán; Tân Phú.
Sau ngày giải phóng, Đồng Nai vẫn là một Tỉnh nông nghiệp với tỉ trọng nông nghiệp chiếm
trên 65% GDP. Đến nay, Đồng Nai từng bước trở thành một tỉnh Công nghiệp trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, là một trong những địa phương tạo được sự thu hút lớn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài, có tốc độ tăng trưởng kinh tế hằng năm trên 13%, cao hơn tốc độ trung bình của cả
nước.
Là một Tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam Đồng Nai tiếp giáp với
các vùng sau: đông giáp tỉnh Bình Thuận, đông bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, tây bắc giáp Tỉnh Bình
Dương và Tỉnh Bình Phước, nam giáp Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh.
Vì vậy Đồng Nai đã tận dụng được những lợi thế so sánh của vùng và của Tỉnh trong công
cuộc đổi mới. Trong năm 2006, kinh tế Đồng Nai tiếp tục tăng trưởng ổn định, công nghiệp và dịch vụ
tăng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2006 đạt 14,3%
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2006 tăng 21,04% so với năm 2005, chiếm 57,4% trong cơ
cấu GDP toàn tỉnh
Ngành Nông nghiệp 2006 tăng trưởng 5,5 % so với 2005, chiếm 13,7% trong cơ cấu GDP
toàn tỉnh
Ngành dịch vụ năm 2006 tăng trưởng 22,4% so với 2005, chiếm 28,9% cơ cấu GDP toàn tỉnh
GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành năm 2005 đạt 16 triệu đồng/năm (tương đương
1.100 USD)
Chỉ số HDI ngày càng tăng, năm 2005 đạt 0,774.
Chênh lệch giàu nghèo và tỉ lệ dân số dưới ngưỡng nghèo ngày càng giảm. Năm 2000, nhóm
20% giàu nhất và 20% nghèo nhất chênh lệch nhau 9,5 lần; năm 2003 còn 5,4 lần; đến năm
2005 còn 5,1 lần.
Số hộ đã có điện sử dụng trên địa bàn Tỉnh năm 2006 đạt 96% ;số hộ sử dụng nước sạch
chiếm 90%.
So với các Tỉnh trong khu vực và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thì Đồng Nai đứng
thứ hai về diện tích (sau Bình Phước) và đứng thứ hai về dân số và thu hút đầu tư từ nguồn vốn FDI
(sau TP.Hồ Chí Minh). Năm 2006, Đồng Nai đứng thứ ba về quy mô GDP, giá trị sản xuất ngành
công nghiệp và thu ngân sách (sau TP.HCM và Bà Rịa- Vũng Tàu) và đứng thứ tư về GDP bình
quân đầu người (sau TP.HCM, Bà Rịa- Vũng Tàu và Bình Dương). Về giáo dục- đào tạo, Tỉnh
Đồng Nai đứng thứ ba (sau TP.HCM và Bình Dương) về tỷ lệ đào tạo sinh viên cao đẳng và đại học
so với dân số đạt 6,6 sinh viên/100 dân và đứng thứ hai về tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt
93,6% (sau TP.HCM). Về mật độ thuê bao điện thoại trên 100 dân đứng thứ ba (sau TP.HCM và
Bình Dương).
Bảng 2.1: Diện tích, dân số theo đơn vị hành chính năm 2008
Dân số
Diện tích (km2) ( người ) Mật độ dân số (người/km2)
Thành phố Biên Hòa 155,08 569.852 3.674,568
Thị xã Long Khánh 191,87 145.904 760,432
Huyện Vĩnh Cửu 1.092,55 112.179 102,676
Huyện Long Thành 540,60 222.134 410,903
Huyện Nhơn Trạch 411,32 137.745 334,885
Huyện Trảng Bom 323,69 200.552 619,580
Huyện Thống Nhất 247,21 160.466 649,108
Huyện Định Quán 971,23 223.068 229,676
Huyện Tân Phú 775,67 170.183 219,401
Huyện Xuân Lộc 726,36 221.913 305,514
Huyện Cẩm Mỹ 468,36 157.491 336,261
( Nguồn: Niên giám thống kê- cục thống kê Đồng Nai, 2008)
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế trang trại ở Đồng Nai
Là Tỉnh thành có số lượng Trang trại nhiều thứ hai trong khu vực Đông Nam Bộ, với 3387
trang trại năm 2008 (chỉ sau Tỉnh Bình Phước 4468 trang trại ). Một trong những nguyên nhân chủ
yếu của sự phát triển các Trang trại tại Tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua xuất phát từ sự thuận lợi
của điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội tại địa phương này
2.2.1. Vị trí địa lí Đồng Nai có tọa độ địa lí là 10o30’B – 11o34’B; 106o45’Đ – 107o35’Đ, phía đông giáp Tỉnh
Bình Thuận, đông bắc giáp Lâm Đồng, tây bắc giáp Bình Phước, phía tây giáp Bình Dương, tây
nam giáp TPHCM và phía Nam giáp Bà Rịa-Vũng Tàu. Với vị trí như vậy, Đồng Nai vừa là cửa
ngõ phía Bắc của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, vừa là cầu nối giữa vùng Nam Trung Bộ,
Nam Tây Nguyên với toàn bộ vùng Đông Nam Bộ.
Có thể nói, Đồng Nai có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế vùng Đông Nam Bộ nói
riêng và cả nước nói chung. Bên cạnh đó, việc tiếp giáp với các Tỉnh và Thành Phố năng động, hiện
đại như Bình Dương, TPHCM, Bà Rịa – Vũng Tàu cũng là thuận lợi rất lớn cho việc tiêu thụ sản
phẩm của các trang trại, khi mà đầu ra của sản phẩm được đảm bảo sẽ là động lực cho loại hình kinh
tế này phát triển mạnh hơn nữa. Ngoài ra, Đồng Nai còn có thuận lợi lớn trong việc nhận chuyển
giao công nghệ mới và có cơ hội để tăng cường trao đổi học hỏi kinh nghiệm với các Tỉnh và Thành
phố lân cận.
2.2.2. Các nhân tố tự nhiên
Địa hình
Đồng Nai là Tỉnh có địa hình trung chuyển từ cao nguyên Nam Trung Bộ xuống đồng bằng Nam Bộ, có độ cao tương đối thấp- trên dưới 100m so với mực nước biển, độ dốc phổ biến dưới 8o,
hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam. Nhìn chung Đồng Nai có địa hình tương đối bằng phẳng, 90% có độ dốc nhỏ hơn 15o, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Địa hình gồm 4 dạng chủ yếu:
- Địa hình núi thấp: tạo thành những lưng sóng rộng rãi, nhô cao lên là những chóp núi lửa đã
tắt từ lâu còn được bảo tồn tương đối tốt và những đỉnh núi granit. Miền núi thấp này phân bố chủ
yếu ở huyện Tân Phú và một ít ở huyện Định Quán, Xuân Lộc với những đỉnh núi tiêu biểu là Chứa
chan, Mây Tàu, Gia Kiệm
- Địa hình bậc thềm: được cấu tạo từ phù sa cổ, cao từ 10-45m. Đây là dãi đất cao chạy từ Tây
Ninh qua Bình Dương, Đồng Nai đến Bà Rịa Vũng Tàu.
- Địa hình Đồng Bằng: Đồng Nai có một số đồng bằng hẹp do các con sông bồi đắp, tương đối
màu mỡ, phì nhiêu. Đất phù sa đồng bằng nhìn chung là tốt, nhiều mùn, hơi chua.
Phía Bắc của các dãy núi granit và núi lửa thuộc vùng Bà Rịa-vũng tàu và ở phía đông của
Xuân lộc là một vùng có cấu tạo địa chất tương đối phức tạp, bao gồm địa hình núi thấp, bậc thềm,
đồng bằng…đan xen. Trong đó dạng địa hình bậc thềm rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
Nhìn chung, Đồng Nai có cấu trúc địa chất không quá phức tạp với thành phần trầm tích trẻ
hoặc cổ, nhất là các phún trào bazan là tiền đề để hình thành nhiều nhóm đất với các đặc thù khác
khau thuận lợi cho việc đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp; Ngoài ra, địa hình Đồng Nai tương đối
bằng phẳng, độ dốc không lớn lằm, tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ giới
hóa trong nông nghiệp. Là cơ sở rất tốt để phát triển nền nông nghiệp hàng hóa .
Đất đai:
Là Tỉnh có quỹ đất khá phong phú, có nhiều tiềm năng về nông nghiệp hơn hẳn các Tỉnh thành
lân cận. Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, Đồng Nai có một số nhóm đất chính sau:
Đất xám, chiếm 40,5% diện tích đất tự nhiên toàn Tỉnh, thuận lợi cho phát triển cả nông nghiệp
lẫn công nghiệp. Đất đen, chiếm 22,44% diện tích đất tự nhiên thích hợp trồng các loại cây hàng
năm. Đất đỏ bazan chiếm 19,27% diện tích đất tự nhiên, thích hợp phát triển các cây công nghiệp
lâu năm, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, Đồng Nai cũng có nhiều loại đất khác nhưng
chiếm tỉ lệ không cao như đất gley hóa ( chiếm 9,32% ), đất tầng mỏng ( 0,54%), đất đá bọt (
0,41%), đất cát ( 0,1%)…
Có thể gộp thành 3 nhóm đất chính:
- Các loại đất hình thành trên đá bazan, diện tích khoảng 22,4 nghìn ha là các loại đất đá bọt,
đất đen, đất đỏ, đất có độ phì cao, phân bố chủ yếu ở phía Bắc và Đông Bắc của Tỉnh. Đất có tầng
phong hóa dày, màu mỡ, phát triển trên địa hình bằng phẳng thích hợp cho việc trồng các loại cây
công nghiệp hàng năm và lâu năm như cao su, cà phê, tiêu, cây ăn quả…
- Các loại đất hình thành trên phù sa cổ và đá phiến sét như đất xám, đất nâu xám…Tổng diện
tích là 246,38 nghìn ha, phân bố chủ yếu ở phía Nam, Đông Nam của Tỉnh thuộc địa bàn các Huyện
Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Long Thành, Nhơn Trạch. Nhóm này có độ phì kém, thích hợp với các loại
cây như Ngô, đậu tương, xoài…
- Nhóm đất phù sa, đất dày, đất cát, đất tầng mỏng, có diện tích khoảng 58,4 nghìn ha tập trung
chủ yếu ở ven sông Đồng Nai, La Ngà…thuộc các Huyện Nhơn Trạch, Long Thành, Vĩnh Cửu và
Thành phố Biên Hòa. Nhìn chung đất phù sa tương đối giàu mùn, đạm, kali nhưng lại nghèo lân.
Với đất phù sa không phèn, có thể sử dụng để trồng lúa 2-3 vụ, hoặc trồng các cây hoa màu, rau và
cây ăn quả.
Trong cơ cấu sử dụng đất của Tỉnh, dù có nhiều thay đổi theo thời gian nhưng diện tích đất
nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng lớn:
+ Diện tích đất nông nghiệp: 302.845 ha (chiếm 51,4% trong tổng diện tích đất tự nhiên của
Tỉnh)
+ Diện tích đất lâm nghiệp: 179.807 ha (chiếm 30,5%)
+ Diện tích đất chuyên dùng: 68.018 ha (chiếm 11,5%)
+ Diện tích đất ở: 10.546 ha (chiếm 1,8%)
+ Diện tích đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá: 28.255 ha (chiếm 4,8%)
Nhìn chung, tình hình sử dụng đất của Tỉnh có biến động ít nhiều theo thời gian, nhưng đến
nay, Đồng Nai vẫn là Tỉnh có quy mô đất nông nghiệp lớn nhất Đông Nam Bộ, tạo điều kiện để đa
dạng hóa cây trồng, hình thành các vùng chuyên canh quy mô lớn. Bên cạnh đó, đất ở Đồng Nai có
chất lượng tốt (không có nhiều đất cát, đất xói mòn trơ xỏi đá…như ở các Tỉnh lân cận: Bình
Dương, Tây Ninh, Bà Rịa-vũng tàu) với một lượng lớn đất phù sa, là điều kiện tốt để nâng cao hiệu
quả sản xuất trong nông nghiệp.
Khí hậu:
Thời tiết khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất nông nghiệp, ở nơi còn đang
trong thời kì chuyển tiếp từ nền nông nghiệp thủ công sang nền nông nghiệp hiện đại như nước ta
thì khí hậu lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Khí hậu ở Đồng Nai mang tính chất gió mùa cận xích đạo, với tổng lượng bức xạ cao và ổn định, nhiệt độ trung bình từ 24-26oC, tổng nhiệt hoạt động trong năm 9.400-9.500oC, số giờ nắng
cao từ 2000-2500 giờ/năm, ít xảy ra bão và sương muối, thích hợp cho phát triển cây trồng nhiệt
đới, đặc biệt là cây công nghiệp.
Bảng 2.2: Nhiệt độ trung bình và lượng mưa các tháng trong năm 2008
Tháng 1
2
3
5
6
7
8
9
11
12
10
4
Nhiệt
25 25 26
26,2
26,4
26,4
25,7
25,7
25,2 24,7
26
28
độ (oC)
Lượng
8,1 8,4 12,5 72,9 382,3 162,1 336,9 266,7 433,8 211 160
25,4
mưa
(mm)
Đơn vị: oC,mm
( Nguồn: Niên giám thống kê- cục thống kê Đồng Nai, 2008 )
Khí hậu có 2 mùa tương phản: mùa khô và mùa mưa. Lượng mưa thuộc loại cao nhất ở vùng
Đông Nam Bộ, trung bình từ 1500-2700mm phân bố theo vùng. Chính điều đó đã mang đến sự
thuận lợi về nguồn nước trong hoạt động nông nghiệp
Với khí hậu như trên, Đồng Nai có điều kiện thuận lợi để phát triển và phân bố các loại cây
trồng, vật nuôi. Nguồn bức xạ lớn đảm bảo cho việc phát triển các loại cây, con của cùng nhiệt đới.
Lượng mưa nhiều thuận lợi cho việc tưới tiêu các loại cây công nghiệp, cây ăn quả-thế mạnh của
Tỉnh. Các biến động lớn về thời tiết như bão lụt, sương muối hầu như không có nên cây trồng có
điều kiện thuận lợi để sinh trưởng và phát triển. Điều kiện khí hậu ổn định làm cơ sở cho việc duy
trì và phát triển nền nông nghiệp hàng hóa.
Thủy văn:
Là Tỉnh có nguồn nước khá phong phú bao gồm cả nguồn nước trên mặt và nước ngầm, thuận
lợi cho sản xuất, sinh hoạt và đặc biệt có ý nghĩa về thủy điện.
Đồng Nai có mạng lưới sông ngòi khá chằng chịt, với trên 60 sông suối lớn nhỏ, mật độ sông suối khoảng 0,5 km/km2, phần lớn tập trung ở phía Bắc và dọc theo sông Đồng Nai về hướng tây
nam. Sông Đồng Nai là sông lớn và có ý nghĩa quan trọng, đoạn chảy qua Tỉnh dài 294 km, diện tích lưu vực 40 nghìn km2, lưu lượng nước bình quân 982m3/s. Các phụ lưu lớn của sông Đồng Nai
có sông La Ngà, sông bé… Là nguồn cung cấp nước tưới dồi dào cho hoạt động nông nghiệp, ngoài
ra các sông ngòi ở đây còn mở ra khả năng phát triển hoạt động nuôi trồng thủy hải sản.
Sông La Ngà là phụ lưu lớn nhất bên tả ngạn sông Đồng Nai, hợp lưu với Sông Đồng Nai cách Trị an 38 km về phía thượng lưu, có diện tích lưu vực 4,1 nghìn km2, độ dốc
lòng sông nhỏ.
Ngoài ra Đồng Nai còn có nhiều sông suối khác như sông Lá Buông, sông Thị Vải, sông Đồng
Tranh…nhưng lưu lượng nước tương đối nhỏ:
+ Sông Lá Buông: Bắt nguồn từ phía Tây cao nguyên Xuân Lộc, chảy theo hướng từ Đông
sang Tây, độ dốc lưu vực đạt 0.0035. Độ dài sông tính theo nhánh dài nhất khoảng 40 km, sông có lượng nước dồi dào so với các sông nhỏ trong Tỉnh với mô đun dòng chảy năm 27,61s/km2.
+ Sông Ray: Lưu vực sông chiếm gần 1/3 diện tích phía Nam của tỉnh. Sông bắt nguồn từ
phía Nam, Đông Nam cao nguyên Xuân Lộc, đổ thẳng ra biển, chảy theo hướng Bắc Nam, trong
mùa khô thường cạn kiệt nước. Tổng lượng nước sông tương đối lớn, mùa mưa chiếm 79%. Sông
Ray nếu được sử dụng hợp lý có thể giải quyết vấn đề khô cạn cho vùng Đông Nam của Tỉnh.
+ Sông Xoài và sông Thị Vải: Đây là 2 sông thuộc vùng phía Tây Nam của Tỉnh, bắt nguồn
từ cao nguyên Xuân Lộc và đổ thẳng ra biển. Sông Thị Vải ở phía thượng lưu gồm các suối nhỏ và
dốc, phần hạ lưu (phía duới quốc lộ 51 đi Vũng Tàu) là sông nước mặn, lòng sông mở rộng. Khả
năng phát triển nuôi trồng thủy hải sản trên sông này là rất lớn.
Ngoài nước trên mặt, Đồng Nai còn có một lượng nước ngầm lớn, với tổng trữ lượng nước dưới đất của Tỉnh Đồng Nai là khoảng 5.505.226 m3/ngày. Tuy trữ lượng nước dưới đất tỉnh Đồng
Nai phong phú, nhưng phân bố không đều, các tháng mùa khô không có mưa, nhu cầu khai thác lại
lớn, vì vậy khai thác nước dưới đất phải theo qui hoạch, khai thác hợp lý.
Đồng Nai cũng là Tỉnh có nhiều hồ nhân tạo. Hiện có 23 hồ chứa nước, trong đó lớn nhất là hồ Trị an với diện tích 323 km2, dung tích trên 2,6 tỉ m3 nước. Với hệ thống sông, suối, hồ kể trên, tổng lượng nước mặt của Tỉnh khoảng 20 tỉ m3 . Là nguồn
nước tưới quan trọng cho nông nghiệp và cũng là cơ sở cho việc đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản.
Như vậy: Với ưu thế về vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên (địa hình, đất đai, khí hậu và cả thủy văn)
đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp hơn hẳn các Tỉnh, Thành lân cận, đã giúp Đồng Nai phát
triển một nền nông nghiệp đa dạng với hình thức tổ chức sản xuất tiến bộ là các trang trại. Loại hình
kinh tế này có xu hướng phát triển nhanh tại Đồng Nai trong thời gian gần đây, một mặt giúp khai
thác tốt hơn những thuận lợi về tự nhiên của Tỉnh, mặt khác giúp giải quyết nhiều vấn đề về mặt xã
hội ở địa phương này.
2.2.3 Nhân tố kinh tế – xã hội
Dân cư và lao động:
Dân số của Tỉnh năm 2009 là 2.483.211 người ( chiếm 16% dân số cả nước), đứng thứ hai
trong khu vực Đông Nam Bộ sau TPHCM, trong đó Nam là 1.232182 người, chiếm tỉ lệ 49,6%; Nữ
là 1.251029 người, chiếm 50,4% dân số của tỉnh.
Tốc độ gia tăng dân số tự nhiên có xu hướng giảm từ 3,45% (1990) xuống còn 1,27% (2005) và
1,1% (2008). Tuy nhiên, tốc độ gia tăng cơ học ở đây rất cao do sức hút đối với dòng nhập cư từ các
tỉnh khác đến, nhờ có tiềm năng to lớn và tốc độ tăng trưởng cao cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của các khu công nghiệp, nên thu hút rất đông lao động từ các địa phương khác trong cả nước (chỉ
riêng trong 5 năm từ 1993-1999, số người đến Đồng Nai là 103.300 người, chiếm khoảng 5% dân
số của Tỉnh). Mật độ dân số trung bình khoảng 393 người /km2 (2008), cao hơn so với Bình Phước (109 người/km2), Tây Ninh (240 người/km2). Dân số phân bố không đều, cao nhất ở Biên Hòa có mật độ 3.674 người /km2, thấp nhất là Huyện Vĩnh Cửu chỉ có 102 người/km2.
Dân số Đồng Nai nhìn chung thuộc loại trẻ. Số người trong độ tuổi lao động rất lớn (chiếm
65,8% dân số). Ngoài ra, tốc độ tăng nguồn lao động là 3,5% /năm. Trong giai đoạn 1999-2003,
trung bình mỗi năm dân số tăng thêm 13.000 người, hiện nay số người trong độ tuổi lao động của
Đồng Nai là 1,2 triệu người. Đây chính là nguồn lao động phong phú phục vụ cho phát triển kinh tế
của Tỉnh.
Về cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế, lao động trong các ngành Nông lâm ngư nghiệp
chiếm 44,2%, lao động công nghiệp chiếm 28,8% và lao động dịch vụ chiếm 27%. Điều đó cho thấy
dân số hoạt động Nông nghiệp khá cao, lực lượng lao động đồi dào, người nông dân gắn bó với
ruộng vườn. Là điều kiện thuận lợi để đa dạng hóa các hình thức sản xuất nông nghiệp.
Dân số đông, tốc độ gia tăng dân số nhanh (chủ yếu là gia tăng cơ giới) không những tạo ra
nguồn lao động dồi dào cho xã hội, mà còn là cơ sở bổ xung nguồn lao động, tăng khả năng tiêu thụ
sản phẩm, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, trong đó có ngành nông nghiệp.
Kết cấu hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng của Đồng Nai khá tốt do có vị trí thuận lợi hơn so với nhiều địa phương khác
trong cả nước. Chỉ cách TPHCM khoảng 25 km, một cửa ngỏ giao lưu, đồng thời là một trung tâm
kinh tế và thị trường tiêu thụ lớn của quốc gia, nên từ lâu Đồng nai đã được xem là Tỉnh có nhiều
lợi thế để phát triển.
Trong nhiều năm qua, Đồng Nai đã thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào
lĩnh vực nông nghiệp, nhất là lĩnh vực chế biến nông sản, góp phần vào việc thúc đẩy nhanh tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết 5 của Trung
ương ( khóa VII ) và nghị quyết 25 của Tỉnh ủy Đồng Nai.
- Tốc độ cơ giới hóa, điện khí hóa đang tăng nhanh. Hiện nay, ngoài các đơn vị quốc doanh
Trung ương và địa phương, tại Đồng Nai cũng có hàng trăm cơ sở chế tạo thiết bị cơ khí của các
doanh nghiệp tư nhân trên khắp các huyện, thị trong Tỉnh, các cơ sở này đã sản xuất và cung ứng
cho nông nghiệp nhiều sản phẩm: máy xới, máy xay xát, máy bơm nước, các thiết bị sấy- sơ chế-
chế biến nông sản…đáp ứng nhu cầu cơ giới hóa nông nghiệp trong nước và xuất khẩu, nâng cao
khả năng cạnh tranh trên thị trường. Theo Sở Nông nghiệp Đồng Nai, hơn 10 năm trở lại đây, mức
độ trang bị cơ giới hóa đã tăng gấp 3 lần (năm 1995 mới đạt 61,3 mã lực / 100 ha đất trồng cây hàng
năm, đến 2005 đã đạt đến 180 mã lực). Số lượng máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp (máy kéo,
máy bơm nước, máy gặt đập, tuốt lúa…) bán ra trên địa bàn tỉnh đã đạt tới 13.260 cái (từ 2001-
2004), giá trị lên đến khoảng 74 triệu đồng.
Các Huyện trong Tỉnh đã chú trọng đầu tư phát triển mạng lưới điện nông thôn, góp phần đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và dần hiện đại hóa trong nông nghiệp. Nếu năm 2000, số hộ
sử dụng điện lưới quốc gia mới chỉ đạt 74,5% thì đến năm 2005 đạt 95%, đến cuối năm 2006 đã có
hơn 96% số hộ có điện. Điện khí hóa nông thôn ở Đồng Nai không chỉ làm thay đổi bộ mặt đời
sống, sản xuất ở nông thôn, mà còn góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho người dân nơi
đây. - Khả năng cấp nước: trước kia đạt 290.000m3/ngày, và năm 2010 đạt 485.000m3/ngày, đủ
cung cấp nước cho dân cư đô thị, các hoạt động kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Với nguồn nước phong phú từ các sông, suối, hồ… đảm bảo phục vụ đầy đủ cho phát triển nông
nghiệp.
- Giao thông: vì nằm trên đầu mối giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy quốc gia nên
dễ dàng liên hệ với các địa phương khác trong cả nước. Có hệ thống đường quốc lộ dài 244,5 km,
đang được nâng cấp mở rộng thành đường tiêu chuẩn cấp I, II (quốc lộ 1, quốc lộ 51). Ngoài ra, hệ
thống đường do phường xã quản lí, đường trong các khu công nghiệp…đã tạo thành một mạng lưới
liên hoàn đến các cơ sở, 100% xã, phường có đường ô tô đến trung tâm. Là điều kiện thuận lợi cho
việc đẩy mạnh hiện đại hóa nông nghiệp.
- Hệ thống thông tin liên lạc: đang được đầu tư và có sự phát triển mạnh. Năm 2005, toàn tỉnh
có 95 tổng đài điện thoại điện tử, tập trung nhiều ở các trung tâm công nghiệp, 100% phường, xã,
thị trấn có điện thoại. Nhiều xã mắc điện thoại đến các hộ gia đình. Tỉ lệ điện thoại tăng từ mức 1
máy/100 dân (1995), lên 15 máy/ 100 dân (2005). Ngoài ra, mạng thông tin internet cung cấp khối
lượng kiến thức phong phú về mọi vấn đề, đặc biệt là kĩ thuật trồng trọt và chăn nuôi trong nông
nghiệp cũng có thể tìm thấy ở đây; giao lưu; giới thiệu nông sản ra thị trường thế giới. Tạo cơ hội để
người nông dân nâng cao trình độ sản xuất, nắm bắt thông tin thị trường một cách nhanh nhất, phục
vụ cho phát triển các ngành kinh tế trong đó có ngành nông nghiệp.
Tiến bộ khoa học kĩ thuật:
Đồng Nai đang đẩy nhanh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ vào sản
xuất. Hàng năm, Tỉnh đã đầu tư hàng trăm tỉ đồng cho ngành nông nghiệp để thực hiện các đề tài
nghiên cứu khoa học ở các lĩnh vực chăn nuôi và trồng trọt, một số đề tài như: nghiên cứu tình hình
dịch lở mồm long móng trên heo và trâu bò của Chi cục thú y; Xây dựng mô hình sản xuất bưởi
bằng phương pháp nhân giống vô tính do Công ty giống cây trồng thực hiện…
Để người nông dân thấy được lợi ích của việc ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, ngành
nông nghiệp đã tổ chức gần 3000 điểm trình diễn, hàng trăm lớp tập huấn và chuyển giao công
nghệ. Qua đó đã có nhiều tiến bộ công nghệ được nông dân ứng dụng như mô hình tưới nước tiết
kiệm, nhà lưới, cơ giới hóa nông nghiệp…góp phần tăng hiệu quả trong sản xuất.
Chính sách phát triển nông nghiệp của Tỉnh:
Từ năm 1987 – 1988, Đồng Nai đã ban hành Nghị Quyết về 3 chương trình kinh tế giai doạn
1986 – 1990 do nhà nước đề ra (chương trình sản xuất lương thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng;
sản xuất hàng hóa xuất khẩu) nhằm đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân, phát
triển toàn diện, chú trọng đặc biệt một số sản phẩm xuất khẩu chủ lực có lợi thế so sánh ở Đồng Nai.
Đồng thời, Tỉnh ủy đã ban hành Nghi Quyết 07/TU về việc thực hiện cơ chế khoán mới, xác
định hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự chủ, hộ gia đình, xã viên là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã.
Bên cạnh đó, thực hiện chính sách thu mua nông sản của nông dân theo giá thỏa thuận và hợp đồng
hai chiều.
Chính vì thế, sản xuất nông nghiệp của Tỉnh phát triển và hình thành các vùng trồng các loại
cây có giá trị kinh tế cao như: cao su, cà phê, tiêu, điều, mía…mở ra khả năng sản xuất nông sản
hàng hóa gắn với cơ chế thị trường. Chính sách giao đất cho người dân trồng rừng đã được thực
hiện và bắt đầu phủ xanh đất trống đồi trọc.
Trong giai đoạn tiếp theo (từ 1991 -1995), là giai đoạn thực hiện chính sách mở của Đảng, mở
rộng quan hệ hợp tác kinh tế trong và ngoài nước, phát triển mạnh mẽ kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần. Về nông nghiệp, Tỉnh đã ban hành nghị quyết số 25/TU ngày 10-7-1993 về cải tạo cơ cấu cây
trồng, vật nuôi. Là cơ sở để có thể khai thác tốt hơn những lợi thế của từng vùng, tiến đến hình
thành các vùng sản xuất chuyên môn hóa nông nghiệp.
Các chương trình cơ giới hóa nông nghiệp, điện khí hóa nông thôn, thủy lợi hóa. Chương trình
135, chương trình xóa đói giảm nghèo…đã đưa nông nghiệp từ tự túc, tự cấp chuyển sang sản xuất
hàng hóa toàn diện và ổn định trong cả hai lĩnh vực: trồng trọt và chăn nuôi, từ đó tạo cơ sở cho
ngành công nghiệp chế biến phát triển mạnh, tạo động lực thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển như:
bưu chính-viễn thông, tài chính, ngân hàng, giao thông, điện lực, cấp nước..
Tóm lại: Cùng với những thuận lợi về mặt tự nhiên, những đóng góp của các nhân tố kinh tế xã hội
( như dân cư, sự tiến bộ khoa học kĩ thuật, sự phát triển của kết cấu hạ tầng, chính sách phát triển
nông nghiệp…) vào phát triển nông nghiệp là rất đáng kể, đặc biệt là đối với loại hình kinh tế trang
trại. Nhiều vấn đề cơ bản trong sản xuất nông nghiệp đã được giải quyết như: hệ thống thủy lợi,
phân bón, vật tư nông nghiệp, vấn đề phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi được triển khai,
nhiều giống mới cho năng xuất cao đang dần thay thế các giống cũ; các chính sách nông nghiệp cởi
mở đang thu hút nhiều tầng lớp trong xã hội đầu tư vào nông nghiệp… Nền nông nghiệp đang dần
được hiện đại hóa, đáp ứng kịp thời cho sự phát triển của một nền nông nghiệp hàng hóa.
2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển kinh tế trang trại ở Đồng Nai
2.3.1 Thuận lợi
- Đồng Nai là Tỉnh tập trung nhiều khu công nghiệp, với hàng trăm xí nghiệp, cơ sở chế biến
nông sản và một thị trường tiêu thụ nội địa, giúp người nông dân có điều kiện “ làm tận gốc, bán tận
ngọn”
- Nằm trong vùng tam giác tăng trưởng, gắn liền với sự phát triển của các thành phố lớn và các
khu công nghiệp, với một thị trường tiêu thụ rộng lớn kế cận là thuận lợi để phát triển một nền kinh
tế nông nghiệp hàng hóa. Đồng thời là điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại phát triển.
- Các trang trại dễ dàng tiếp cận với KHCN tiến bộ nhất: là công nghệ phục vụ sản xuất, chế biến,
bảo quản sản phẩm nông sản
- Tiềm năng đất đai của Đồng Nai khá dồi dào, điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu thích hợp cho việc
phát triển nhiều loại cây công nghiệp như cao su, chè, cà phê…và chăn nuôi.
- Vị trí thuận lợi cho việc trao đổi, tiêu thụ sản phẩm và nguồn nguyên liệu với các vùng xung
quanh
- Chính sách phát triển nông nghiệp của Tỉnh cũng tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho ngành nông
nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng.
2.3.2 Khó khăn
- Các trang trại thiếu vốn để phát triển sản xuất, việc vay vốn ngân hàng gặp nhiều khó khăn
- Thiếu thông tin kinh tế, các sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng được nhu cầu thị trường nên
khó tiêu thụ
- Nhà nước chưa có chính sách xử lí đất vượt hạn điền, làm cho các chủ trang trại không mạnh
dạn đầu tư thâm canh hoặc mở rộng diện tích
- Tốc độ đô thị hóa nhanh, đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp (TP Biên Hòa, huyện Long
thành, Nhơn Trạch…), khó giữ được thế ổn định lâu dài.
- Ở Đồng Nai, hơn 92% chủ trang trại là nông dân, sản xuất chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm là chính, trình độ KHKT, trình độ tổ chức quản lí có hạn. Nhiều trang trại ở vùng
sâu vùng xa thiếu sự giúp đỡ về KHKT, do đó nhiều trang trại chưa phát huy được lợi thế đất đai để
tổ chức sản xuất kinh doanh tổng hợp.
- Các chính sách bảo hộ nông nghiệp và bảo hiểm một số sản phẩm nông nghiệp quan trọng chưa
được thực hiện đã và đang làm cho người nông dân không yên tâm đầu tư vào quá trình sản xuất.
2.4. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Đồng Nai
Mô hình kinh tế trang trại đã xuất hiện ở Đồng Nai từ lâu dưới dạng các đồn điền trồng cây
công nghiệp dài ngày, các vườn chuyên trồng cây ăn quả với quy mô lớn…Tuy nhiên, tất cả các đồn
điền và vườn cây đều thuộc sở hữu của các tầng lớp giàu có, người nghèo vẫn là những người lao
động làm thuê.
Trong khoảng thời gian từ 1976-1985, thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
nông nghiệp, phần lớn đồn điền đã được quốc hữu hóa. Nhà nước thành lập những nông trường
quốc doanh, công ty liên doanh để tiếp quản và khai thác mở rộng sản xuất. Ở nông thôn Đồng Nai,
phong trào hợp tác xã và tập đoàn sản xuất cũng phát triển mạnh, kinh tế hộ gia đình được thay thế
bằng kinh tế tập thể, theo đó mô hình kinh tế trang trại cũng dần mất đi.
Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới theo tinh thần nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của đảng. Đồng Nai là một trong những Tỉnh chuyển nhanh qua nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Các loại hình trang trại chỉ phát triển nhanh chóng từ sau năm 1990, đặc biệt từ
1993 khi luật đất đai được quốc hội ban hành. Đến năm 1995, Đồng Nai đã có 889 trang trại được
thành lập. Đến năm 2000, số trang trại trên toàn Tỉnh đã là 2.875 trang trại và năm 2006 là 3240
trang trại, năm 2008 là 3387 trang trại, năm 2009 là 3183 trang trại.
2.5. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở Đồng Nai
2.5.1 Số lượng và thời gian thành lập các trang trại ở Đồng Nai
Là Tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi về tự nhiên cũng như kinh tế xã hội cho phát triển sản
xuất nông nghiệp với những vùng chuyên canh lớn, mang tính hàng hóa cao. Theo số liệu thống kê,
năm 1999 số trang trại trên toàn tỉnh là 1.937; từ năm 2000 đến 2008 số trang trại vẫn tiếp tục tăng,
trong đó năm 2000 là năm có số trang trại được thành lập nhiều nhất với 496 trang trại chiếm
15,04% số trang trại cuả toàn Tỉnh, năm 2008 Đồng nai có 3387 trang trại (chiếm 2,8% số trang trại
cả nước và chiếm 24,5% số trang trại của khu vực Đông Nam Bộ), năm 2009 số trang trại (3183
trang trại) có giảm nhưng không đáng kể. So với các Tỉnh khác trong khu vực Đông Nam Bộ vào
năm 2008 thì Đồng Nai là Tỉnh phát triển khá mạnh mô hình kinh tế trang trại, chỉ đứng sau Tỉnh
Bình Phước (4.468 trang trại). Số trang trại gấp 1,9 lần Bình Dương (1.747 trang trại), gấp 1,6 lần
Tây Ninh (2086 trang trại), 2,3 lần TP Hồ Chí Minh (1413 trang trại). So với một số Tỉnh khác
ngoài khu vực Đông Nam Bộ, số lượng trang trại của Đồng Nai cũng vượt trội thể hiện ưu thế hơn
hẳn trong phát triển loại hình kinh tế này (gấp gần 1,2 số trang trại của Tỉnh Thanh Hóa- 2882 trang
trại; gấp 4 lần số trang trại của Tỉnh Nghệ an- 853 trang trại…).
Bảng 2.3: Số lượng trang trại thành lập qua các năm
Thời gian thành lập Số lượng
Từ năm 1996 đến 1999 1048
Năm 2000 469
Năm 2001 313
Năm 2002 305
Năm 2003 93
Năm 2006 123
Năm 2008 147
Biểu đồ 2.1: Số lượng trang trại phân theo năm thành lập
Trang trại
1200
1048
1000
Năm
800
trang trại
600
469
400
313
305
147
123
200
93
0
Năm
2000 2001 2002 2003
2006
2008
Từ 1996 đến 1999
( Nguồn: Niên giám thống kê- Cục thống kê Đồng Nai, 2008 )
2.5.2 Sự phân bố các trang trại theo đơn vị hành chính
Trong tổng số 3183 trang trại của toàn Tỉnh (2009), thì số lượng trang trại tập trung nhiều ở
huyện Xuân Lộc (809 trang trại chiếm 25,41 % số trang trại toàn Tỉnh), huyện Trảng Bom (336
trang trại, chiếm 10,55 % số trang trại toàn Tỉnh), huyện Thống Nhất (382 trang trại, chiếm 12 %),
huyện Cẩm Mỹ (276 trang trại, chiếm 8,7 %), huyện Tân Phú (259 trang trại, chiếm 8,13 %), huyện
Định Quán (339 trang trại, chiếm 10,65 %). Chỉ tính riêng 6 huyện này đã chiếm 75,44 % số trang
trại của toàn Tỉnh. Đây đều là những huyện có nhiều thuận lợi về đất đai, vốn đầu tư, nguồn lao
động có kinh nghiệm, lại được sự quan tâm của chính quyền địa phương, nên các mô hình trang trại
tại các nơi này có điều kiện để phát triển và đạt hiệu quả cao. Còn ở các địa phương khác thì số
lượng trang trại ít hơn, như TP.Biên Hòa, Long Thành, Nhơn Trạch…do đây là những nơi có sự
phát triển công nghiệp nhanh dẫn đến tốc độ đô thị hóa nhanh và tập trung đông dân cư, đất nông
nghiệp có xu hướng chuyển sang đất chuyên dùng và đất thổ cư.
Bảng 2.4: Số lượng trang trại phân theo đơn vị hành chính
Đơn vị hành chính Tỉ trọng (%) Số lượng
(trang trại)
TP.Biên Hòa 147 4,61
H. Tân Phú 259 8,13
H. Định Quán 339 10,65
H.Vĩnh Cửu 176 5,52
H. Thống nhất 382 12,00
H. Trảng Bom 336 10,55
TX.Long Khánh 190 5,96
H. Xuân Lộc 809 25,41
H. Cẩm Mỹ 276 8,7
H. Long Thành 161 5,05
H. Nhơn Trạch 108 3,4
Tổng Số 3183 100
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu trang trại phân theo đơn vị hành chính
TP.Biên Hòa
4,6%
H.Tân Phú H.Định Quán
5,1% 3,4%
8,1%
8,7%
10,7%
H.Vĩnh Cửu H.Thống Nhất
5,5%
H.Trảng Bom TX.Long Khánh
25,4%
12,0%
6,0%
10,6%
H.Xuân Lộc H.Cẩm Mỹ H.Long Thành
H.Nhơn Trạch
( Nguồn: Niên giám thống kê-Cục thống kê Đồng Nai, 2009)
2.5.3 Các loại hình trang trại ở Đồng Nai
Bảng 2.5: Số trang trại phân theo loại hình và địa bàn
Đơn vị tính: trang trại
Cây Cây Chăn Lâm Nuôi SXKD
hàng lâu nuôi nghiệp trồng tổng hợp
năm năm thủy sản
TP. Biên Hòa 0 0 141 0 6 0
H. Tân Phú 38 155 34 0 20 12
H. Định Quán 27 209 54 0 6 43
H. Vĩnh Cửu 7 29 117 0 8 15
H.Thống Nhất 0 0 379 0 0 3
H. Trảng Bom 12 110 198 0 2 14
TX.Long Khánh 4 14 118 0 2 52
H.Xuân Lộc 55 504 214 7 1 28
H.Cẩm Mỹ 1 129 140 0 3 3
H.Long Thành 4 23 123 0 10 1
H.Nhơn Trạch 2 2 39 0 65 0
7 123 171 Tổng số 150 1175 1557
Biểu đồ 2.3: Số lượng trang trại phân theo loại hình, 2009
Trang trại
1800
1557
1600
1175
1400 1200
1000
800 600
400
171
150
123
7
200 0
Loại Loại hình hình
Cây hàng năm Cây lâu năm Chăn nuôi
Lâm nghiệp Sản xuất KD
Nuôi trồng thủy sản
tổng hợp
Trang trại
( Nguồn: Niên giám thống kê- cục thống kê Đồng Nai, 2009 )
Biểu đồ 2.3 cho thấy, trang trại ở Đồng Nai không những nhiều về số lượng mà còn đa dạng
về loại hình: trang trại trồng cây lâu năm, trang trại trồng cây hàng năm, trang trại chăn nuôi, trang
trại nuôi trồng thủy sản và trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp. Trong đó, trang trại chăn nuôi có
số lượng nhiều nhất (1557 trang trại), kế đến là trang trại trồng cây lâu năm (1175 trang trại); trang
trại lâm nghiệp có số lượng ít nhất (7 trang trại). Các loại hình trang trại cũng phân bố không đều ở
địa phương. Do có những điều kiện thuận lợi khác nhau về đất đai, lao động, diện tích mặt nước…
và khả năng để phát triển mỗi loại hình trang trại ở các địa phương của Tỉnh Đồng Nai không giống
nhau; ngoài ra còn do nhu cầu của thị trường về các sản phẩm nông nghiệp có sự thay đổi theo thời
gian, vì thế có nhiều trang trại từ loại hình này chuyển đổi sang loại hình khác.
Bảng 2.6: Cơ cấu trang trại phân theo loại hình và địa bàn
( Đơn vị tính: % )
Chia theo loại hình trang trại
Trồng Trồng Chăn Lâm Nuôi SXKD Địa bàn Cơ cấu
cây cây CN nuôi nghiệp trồng tổng phân
hàng lâu thủy hợp theo
năm năm sản Huyện
TP.Biên Hòa 100 95,9 4,1
H.Tân Phú 100 14,7 60 13 7,7 4,6
H.Định Quán 100 7,96 61,6 15,9 1,76 12,7
H.Vĩnh Cửu 100 4,0 16,4 66,5 4,6 8,5
H.Thống
Nhất 100 99,2 0,8
H.Trảng Bom 100 3,6 32,7 58,9 0,6 4,2
TX.Long
Khánh 100 2,1 7,4 62 1,1 27,3
H.Xuân Lộc 100 6,8 62,3 26,5 0,86 0,1 3,5
H.Cẩm Mỹ 100 0,36 46,7 50,7 1,1 1,1
H.Long
Thành 100 2,5 14,2 76,4 6,2 0,6
H.Nhơn
Trạch 100 1,85 1,85 36,1 60,1
Tổng số 100 4,7 36,9 48,9 0,2 3,9 5,4
( Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Đồng Nai, 2009)
Bảng 2.6 cho thấy trong các loại hình trang trại thì trang trại chăn nuôi là loại hình có số lượng
nhiều nhất, chiếm 48,9% trong tổng các trang trại tại Đồng Nai; Loại hình trang trại phát triển thứ
hai là cây lâu năm, chiếm 36,9%; Loại hình có số lượng ít nhất là trang trại lâm nghiệp, chỉ chiếm
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu trang trại phân theo loại hình, 2009
5,4%
0,2%
4,7%
Cây hàng năm
3,9%
36,9%
Cây lâu năm Chăn nuôi
Nuôi trồng thủy sản
48,9%
Lâm nghiệp Sản xuất KD tổng hợp
0,2%.
2.5.3.1 Trang trại trồng cây hàng năm
Bảng 2.7 : Số lượng các trang trại cây hàng năm phân
theo huyện từ 2003-2009
2003 2005 2006 2007 2008 2009
T.P.Biên Hòa 0 0 0 0 0 0
H.Vĩnh Cửu 3 3 6 6 6 7
H. Tân Phú 25 28 64 68 56 38
H. Định Quán 56 56 20 42 42 27
H. Xuân Lộc 36 39 59 59 59 55
T.X. Long Khánh 26 26 2 26 2 4
H. Trảng Bom 11 11 20 21 18 12
H. Cẩm Mỹ 3 3 1 2 36 1
H. Thống Nhất 4 4 1 1 1 0
H. Long Thành 6 6 0 0 0 4
2 2 2 2 H. Nhơn Trạch 12 12
Tổng số 182 188 175 227 222 150
( Nguồn: Niên giám thống kê- Cục thống kê Đồng Nai, 2009 )
Theo số liệu tại bảng 2.7 của Cục thống kê Đồng Nai, số lượng trang trại trồng cây hàng năm
từ năm 2003 đến năm 2009 giảm 32 trang trại, chiếm 4,7 % trong tổng số các loại trang trại của
Tỉnh, đứng vị trí thứ 4 về số lượng sau trang trại trồng cây lâu năm (1175 trang trại, chiếm 36,9 %);
trang trại chăn nuôi ( 1557 trang trại, chiếm 48,9 % ) và trang trại nuôi trồng thủy sản (171 trang
trại, chiếm 5,3 % ). Tuy nhiên, loại hình này phân bố không đều giữa các địa phương : huyện có số
lượng trang trại cây hàng năm lớn nhất là Xuân lộc với 55 trang trại (chiếm 36,6 %), huyện Tân Phú
với 38 trang trại (chiếm 25,3 %), huyện Định Quán 27 trang trại (chiếm 18 %). Do đây là loại hình
trang trại có thời gian thu hồi vốn nhanh, nhu cầu của thị trường lại lớn, việc đầu tư sản xuất lại
không yêu cầu quá nhiều về vốn…nên phát triển khá nhanh trong khoảng thời gian từ 2008 trở về
trước, hơn nữa đây lại là những địa phương có điều kiện thuận lợi về diện tích, đất đai, khí hậu cũng
như kinh nghiệm của người dân địa phương cho phát triển loại hình trang trại này. Trong khi đó, ở
TP.Biên hòa, huyện Thống Nhất và huyện Long Thành loại hình trang trại cây hàng năm gần như
không phát triển, nguyên nhân chủ yếu là điều kiện tự nhiên không được thuận lợi và hiệu quả kinh
tế của loại hình trang trại cây hàng năm tại các địa phương này không bằng so với loại hình trang
trại chăn nuôi. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa nhanh, diện tích đất nông nghiệp giảm cũng là
nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển loại hình trang trại cây hàng năm tại các địa phương này.
Số lượng trang trại cây hàng năm có xu hướng giảm ở Đồng Nai từ năm 2007 đến nay. Nguyên
nhân chủ yếu là do tốn nhiều công chăm sóc, lợi nhuận không cao bằng so với các loại hình trang
trại khác (chăn nuôi, trồng cây lâu năm), ngoài ra còn phụ thuộc quá nhiều vào thị trường. Tuy
nhiên, nếu so với các Tỉnh thành khác trong khu vực Đông Nam Bộ và ĐBSCL, thì vẫn thấy ưu thế
của Đồng Nai trong phát triển trang trại cây hàng năm
Bảng 2.8: Số trang trại trồng cây hàng năm của Đồng Nai so với cả
Nước, một số Tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long, DHMT và Đông Nam bộ
trại Các Khu vực và Tỉnh Các Khu vực và Tỉnh
Số trang trại cây hàng năm ( trang trại)
Số trang cây hàng năm ( trang trại) 34361 T.Bình Phước 23 Cả nước
25982 T.Bà rịa-Vtàu 23 K.vực ĐBSCL
Tỉnh Long An 2762 T.Bình Dương 23
T. Vĩnh Long 150 T. Đồng Nai 222
T. An Giang 5624 5291 DHMT
1429 T.Thanh Hóa 1296
K.vực Đông Nam Bộ TP.HCM 86 T.Quảng Bình 37
86 T.Tây Ninh 1069 T.Quảng Nam
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu trang trại cây hàng năm phân theo một số Tỉnh thành năm 2008 4,9%
0,5%
1,9%
0,8%
28,6%
3,3%
Đồng Nai Bình Dương TP.HCM Vĩnh Long Long An Thanh Hóa Quảng Bình
60,8%
(Nguồn: Niên giám thống kê- Tổng cục thống kê, 2008)
Qua bảng 2.9 của Tổng cục thống kê, số trang trại trồng cây hàng năm của Đồng Nai (222
trang trại) chiếm 0,64% số trang trại cây hàng năm của cả nước (34361 trang trại), chiếm 15,5% số
trang trại trồng cây hàng năm của khu vực Đông Nam Bộ(1429 trang trại). Ngoài ra, nếu so với một
số Tỉnh thành khác ở khu vực Đông Nam Bộ, DHMT và ĐBSCL thì Đồng Nai cũng là Tỉnh có loại
hình trang trại cây hàng năm khá phát triển: gấp 37 lần Bình Dương, 9,6 lần Bình Phước và Bà rịa
vũng Tàu, 2,5 lần TP.HCM, gấp 1,5 lần Vĩnh Long; Chỉ kém Tỉnh Tây Ninh trong khu vực Đông
Nam Bộ (1069 trang trại), Tỉnh Long An (2762 trang trại), Tỉnh An Giang (5624 trang trại) ở
ĐBSCL và Tỉnh Thanh Hóa (1296 trang trại) ở DHMT.
Bảng 2.9: Một số chỉ tiêu của trang trại trồng cây hàng năm
phân theo các huyện
Vốn sản xuất KD ( Triệu đồng) Diện tích đất trồng (ha) Tổng thu SXKD (triệu đồng) Số lao động thường xuyên (người )
TP.Biên Hòa
14.772 11.293 H.Tân Phú 237 347,4
H.Định Quán 258 214,22 7.007 6.259
H.Vĩnh Cửu 17 43,20 4.410 1.320
H.Thống Nhất 7 3 90 250
H.Trảng Bom 60 159,30 3.964 4.049
T.X.Long Khánh 28 5,70 4.000 665
H.Xuân Lộc 189 235,10 15.734 7.201
H.Cẩm Mỹ 6 7 480 121
H.Long Thành
H.Nhơn Trạch 10 35,70 2.759 1.261
Tổng sồ 812 1050,62 53.216 32.419
( Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Đồng Nai, 2006)
Qua bảng 2.9 của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Đồng Nai năm 2006 ta thấy, dù đây
không phải là loại hình trang trại phát triển mạnh nhất ở Đồng Nai, nhưng hiệu quả sản xuất khá cao
với tổng thu sản xuất kinh doanh đạt 32.419 triệu đồng và trung bình tổng thu của một trang trại là
185,25 triệu đồng, trong đó có một số huyện có mức thu bình quân trên một trang trại cao là Long
Khánh (332,5 triệu/trang trại); Nhơn trạch (420 triệu/trang trại).Vốn sản xuất kinh doanh lớn
(53.216 triệu đồng) do tính cả chi phí cho xây dựng cơ bản (máy móc, làm đất…).Với tổng diện tích
đất trồng của các trang trại cây hàng năm là 1050,62 ha, diện tích trung bình của một trang trại là
5,3 ha, đa số các trang trại có diện tích từ 3-5 ha. Số lao động thường xuyên của một trang trại là 4
người/trang trại, đa số là người thân trong gia đình hoặc bà con họ hàng của chủ trang trại, lao động
thời vụ được thuê chủ yếu vào mùa thu hoạch ở những trang trại có diện tích lớn.
Tóm lại: Trang trại trồng cây hàng năm là loại hình phát triển ở Đồng Nai trước kia (trước 2007),
do chi phí đầu tư không cao, một năm có thể trồng được từ 2 đến 3 vụ, nhanh lấy lại vốn, không yêu
cầu quá cao về kĩ thuật…phù hợp với điều kiện kinh tế của những nông dân nghèo. Nhưng từ năm
2007 đến 2009, loại hình này có xu hướng giảm nhẹ trước những biến động của thị trường về giá cả,
nhu cầu; Sự tăng giá các loại phân bón, thuốc trừ sâu, các loại sâu bệnh…làm cho thu nhập của
người nông dân giảm xuống, nhiều khi mất trắng. Vì thế, họ dần chuyển sang các loại hình khác,
hoặc kinh doanh các dịch vụ phi nông nghiệp. Nhưng với nhiều người nông dân, họ vẫn kiên trì với
loại hình này vì những kinh nghiệm cha truyền con nối, vì niềm tin năm sau sẽ tốt hơn năm trước.
2.5.3.2 Trang trại trồng cây lâu năm
Trang trại cây lâu năm là loại hình có thế mạnh ở Đồng Nai, do những thuận lợi về mặt tự
nhiên và kinh tế xã hội. số lượng trang trại cây lâu năm từ 2003 đến 2009 có xu hướng tăng , từ
1.168 trang trại lên 1.175 trang trại (tăng 7 trang trại so với 2003), chiếm 36,9 % trong tổng số các
trang trại của Tỉnh.
Bảng 2.10: Số lượng các trang trại cây lâu năm phân theo
huyện từ 2003 - 2009
2003 2005 2006 2007 2008 2009
TP. Biên Hòa 0 0 0 0 0 0
H. Vĩnh Cửu 37 39 35 13 13 29
H. Tân Phú 127 135 230 241 223 155
H. Định Quán 228 240 204 196 205 209
H. Xuân Lộc 204 212 660 659 659 504
TX. Long Khánh 115 121 8 15 9 14
H. Trảng Bom 219 229 67 66 145 110
H. Cẩm Mỹ 191 198 183 129 298 225
H. Thống Nhất 19 21 5 5 5 0
H. Long Thành 22 23 6 6 6 23
H. Nhơn Trạch 6 7 1 1 1 2
Tổng số 1.168 1.225 1.514 1.427 1.449 1175
( Nguồn: Niên giám thống kê- Cục thống kê Đồng Nai, 2009 )
Theo bảng sô liệu 2.11, số lượng trang trại cây lâu năm từ 2003 đến 2009 tăng nhưng không
đều, tăng 7 trang trại so với 2003, chiếm 36,9 % trong tổng số các trang trại của Tỉnh, là loại hình
trang trại có số lượng nhiều thứ 2 ở Tỉnh Đồng Nai (sau trang trại chăn nuôi). Trong số 1.175 trang
trại, thì những huyện có số lượng trang trại cây lâu năm nhiều là Xuân Lộc (504 trang trại, chiếm
42,9 % trang trại cây lâu năm của toàn Tỉnh); Tân Phú (155 trang trại, chiếm 13,2 %); Định Quán
(209 trang trại, chiếm 17,8 %). Do đây là những địa phương có nhiều thuận lợi như diện tích đất
bazan màu mỡ, địa hình bán bình nguyên thuận lợi cho phát triển các trang trại trồng cây lâu năm
với quy mô lớn. Thành phố Biên Hòa và huyện Thống Nhất là 2 địa phương trong Tỉnh không có
trang trại trồng cây lâu năm hoặc số lượng rất ít, ngoài ra huyện Nhơn Trạch, TX. Long Khánh cũng
là những địa phương không có nhiều trang trại này. Do điều kiện đất đai ở những nơi này chật hẹp,
dân số lại đông, có nhiều khu công nghiệp nên diện tích đất ở và đất chuyên dùng lớn, đất đai dành
cho trồng trọt không nhiều.
Đã có khoảng thời gian loại hình này tăng khá nhanh ở Đồng Nai (từ 2003- 2008, tăng 281
trang trai), tuy nhiên đến 2009 lại giảm xuống. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu vốn để tiếp tục duy
trì, việc vay vốn gặp nhiều khó khăn, trong khi các cây lâu năm phải mất từ 4 đến 5 năm mới bắt
đầu thu hoạch. Vì thế, nhiều nông dân đã chuyển sang loại hình khác hoặc kết hợp thêm loại hình
cây ngắn ngày và chăn nuôi để lấy ngắn nuôi dài.
Bảng 2.11: Số trang trại cây lâu năm của Đồng Nai so với cả nước,
một số Tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long, DHMT và Đông Nam Bộ
Các khu vực và Tỉnh Các khu vực và Tỉnh Số trang trại cây lâu năm (trang trại) Số trang trại cây lâu năm (trang trại )
Cả nước 24215 T.Bình Phước 4340
K.vực ĐBSCL 2720 T.Bà rịa-Vtàu 306
Tỉnh Long An 5 T. Bình Dương 1447
T. Vĩnh Long 83 T.Đồng Nai 1449
T. An Giang 13 DHMT 3593
Đông 8452 T. Thanh Hóa 202
K.vực Nam Bộ TPHCM 31 T.Quảng Bình 497
T.Tây Ninh 879 T.Quảng Nam 40
(Nguồn: Niên giám thống kê- Tổng cục thống kê, 2008)
Bảng 2.11 cho thấy, Đồng Nai là Tỉnh phát triển mạnh loại hình trang trại cây lâu năm. Loại
hình trang trại này của Đồng Nai chiếm 5,98 % trong tổng số trang trại cây lâu năm của cả nước,
chiếm 17,1% trong tổng số trang trại cây lâu năm của khu vực Đông Nam Bộ. So với một số Tỉnh
thành ở khu vực ĐBSCL, DHMT và Đông Nam Bộ thì số lượng trang trại này ở Đồng Nai cũng
chiếm ưu thế hơn: gấp hơn 17 lần Tỉnh Vĩnh Long (83 trang trại), gấp 46 lần TPHCM (31 trang
trại), 1,6 lần Tây Ninh (879 trang trại), gấp 7,2 lần Thanh Hóa, 2,9 lần Quảng Bình; Số trang trại
cây lâu năm tương đương với Bình Dương (1447 trang trại) và chỉ thua Tỉnh Bình Phước (4340
trang trại). Điều này cho thấy được ưu thế phát triển trang trại cây lâu năm ở Đồng Nai, đặc biệt là
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu trang trại cây lâu năm phân theo một số Tỉnh thành năm 2008
5,5%
0,1%
13,4%
2,3%
39,0%
0,8%
Đồng Nai Bình Dương TP.HCM Vĩnh Long
Long An
Thanh Hóa
Quảng Bình
38,9%
so với các tỉnh thành khác trong khu vực Đông Nam Bộ.
Biểu đồ 2.6 cũng cho thấy ưu thế của Đồng Nai trong phát triển trang trại cây lâu năm hơn
hẳn nhiều Tỉnh Thành khác trong cả nước. Do Đồng nai có nhiều điều kiện thuận lợi, không những
thuận lợi về vị trí mà còn các điều kiện tự nhiên như đất đai, khí hậu, nguồn nước…Mặt khác, Đồng
Nai nói riêng và Khu vực Đông Nam Bộ nói chung đều là những nơi có sự phát triển nhanh về công
nghiệp (đặc biệt là công nghiệp chế biến) nên nhu cầu về các sản phẩm cây lâu năm rất lớn. Vì thế
các sản phẩm cây công nghiệp của Đồng Nai có thị trường tiêu thụ rộng lớn, gồm cả khu vực Đông
Nam Bộ.
Bảng 2.12: Một số chỉ tiêu của trang trại cây lâu năm
phân theo các huyện
tích
T.Biên Hòa Số lao động thường xuyên (người) Diện đất trồng (ha) Vốn sản xuất KD (triệu đồng) Tổng thu sản xuất KD (triệu đồng)
H.Tân Phú 650 532,4 55.048 15.491
H.Định Quán 331 507,16 29.555 10.910
H.Vĩnh Cửu 51 112,5 9.641 2.268
H.Thống Nhất 21 23,7 4.855 401
H.Trảng Bom 242 182,00 7.797 7.922
T.X.Long Khánh 45 63,40 2.870 931
H.Xuân Lộc 2.147 2428,5 225.222 65.860
H.Cẫm Mỹ 810 659,56 76.318 22.038
H.Long Thành 4 8,00 150 200
H.Nhơn Trạch 2 7 700 93
Tổng số 8.305 4524,22 412.587 126.114
( Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Đồng Nai, 2006)
Qua bảng 2.13 cho thấy, đây là loại hình trang trại rất phát triển ở Đồng Nai, với tổng diện
tích lên tới 4524,22 ha, trung bình một trang trại có diện tích là 3,4 ha, đa số quy mô các trang trại
dao động từ 2,5 – 5 ha. Các trang trại cây lâu năm ở Tỉnh Đồng Nai chủ yếu trồng cây công nghiệp
lâu năm (cao su, cà phê, điều, tiêu…) và cây ăn quả. Với tổng thu năm 2006 lên tới 126.114 triệu
đồng, trung bình một trang trại thu 94,89 triệu đồng, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao mức
sống cho người dân. Vốn sản xuất kinh doanh của loại hình này cao là do phần lớn các trang trại cây
lâu năm ở Đồng Nai đang trong thời gian xây dựng cơ bản, chưa thu hoạch được (dưới 4 năm).
Cũng như trang trại trồng cây hàng năm, loại hình trang trại cây lâu năm sử dụng chủ yếu lao động
trong gia đình, chỉ thuê mướn thêm vào thời gian thu hoạch. Số lao động thường xuyên sử dụng
trong loại hình trang trại này khá cao, 8.305 người, trung bình một trang trại sử dụng khoảng 5 lao
động thường xuyên. Đối với trang trại cây lâu năm, trong khoảng thời gian đầu ( từ 1 đến 3 năm),
các chủ trang trại vẫn phải đầu tư nhưng chưa khai thác được, việc mở rộng diện tích và đầu tư theo
chiều sâu trong các trang trại cây lâu năm gặp nhiều khó khăn, do các chủ trang trại không có đủ
vốn. Nhiều chủ trang trại chọn giải pháp giảm điện tích đất trồng, hay trồng xen cây hàng năm (cao
xu xen đu đủ) để lấy ngắn nuôi dài. Tuy nhiên, khi đã bắt đầu khai thác được (từ 4 năm trở đi), thì
vốn sản xuất phải bỏ ra hàng năm không nhiều và có thể khai thác được trên 20 năm.
Như vậy: Có thể nói, loại hình trang traị cây lâu năm dù phát triển không ổn định nhưng vẫn là loại
hình có ưu thế phát triển và còn góp phần vào việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tận dụng
triệt để những tiềm năng (đặc biệt là về tự nhiên) của mỗi địa phương. Khó khăn của các trang trại
về nguồn vốn nếu được giải quyết sẽ giúp các trang trại có điều kiện để đầu tư phát triển theo chiều
sâu nhằm làm tăng hơn nữa hiệu quả sản xuất.
2.5.3.3 Trang trại chăn nuôi
Bảng 2.13: Số lượng các trang trại chăn nuôi phân theo huyện từ 2003 - 2009
2003 2005 2006 2007 2008 2009
TP. Biên Hòa 348 331 260 200 158 141
H. Vĩnh Cửu 59 59 57 61 61 117
H. Tân Phú 20 20 19 19 23 34
H. Định Quán 93 83 39 45 60 54
H. Xuân Lộc 67 62 117 118 118 214
TX. Long Khánh 46 46 69 46 72 118
H. Trảng Bom 155 143 173 231 215 198
H. Cẩm Mỹ 40 36 66 54 58 140
H. Thống Nhất 316 291 376 374 376 379
H. Long Thành 121 110 85 85 85 123
H. Nhơn Trạch 25 25 49 49 49 39
Tổng Số 1290 1206 1310 1282 1275 1557
( Nguồn: Niên giám thống kê- Cục thống kê Đồng Nai, 2009 )
Qua bảng số liệu trên ta thấy số lượng các trang trại chăn nuôi của Tỉnh từ 2003 đến 2009 có
xu hướng tăng nhanh (tăng 267 trang trại), tăng nhanh nhất trong các loại hình trang trại ở Đồng Nai
.Với 1557 trang trại (2009) chiếm 48,9 % trong tổng số trang trại của Tỉnh Đồng Nai, và là loại hình
có số lượng nhiều nhất trong các loại hình trang trại ở Đồng Nai. Dù có những thời điểm số lượng
trang trại có giảm (vào năm 2005, 2007, 2008), là do ảnh hưởng của đợt dịch bệnh trong thời gian
vừa qua trên phạm vi cả nước, trong đó Tỉnh Đồng Nai cũng bị ảnh hưởng rất nhiều (dịch cúm gà,
lở mồm long móng, dịch heo tai xanh) và giá thức ăn gia súc tăng. Những địa phương có số lượng
loại hình trang trại chăn nuôi nhiều là huyện Thống Nhất (379 trang trại, chiếm 24,3 % trang trại
chăn nuôi của toàn Tỉnh); huyện Trảng Bom (198 trang trại, chiếm 12,7 %); TP Biên Hòa (141
trang trại, chiếm 9,05 %); huyện Xuân Lộc (214 trang trại, chiếm 13,7 %); chỉ riêng 4 huyện này đã
chiếm 59,8 % trong tổng số trang trại chăn nuôi của toàn Tỉnh. Nguyên nhân phát triển của loại hình
này là do hiệu quả kinh tế cao, khả năng quay vòng vốn nhanh lại không phụ thuộc quá nhiều vào
điều kiện tự nhiên, hơn nữa đây là những địa phương không có nhiều thuận lợi về đất đai nhưng lại
có vị trí thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm và có khả năng ứng dụng công nghệ vào sản xuất.
Ngoài ra, việc tiêu thụ các sản sản phẩm chăn nuôi ít gặp khó khăn do nhu cầu của thị trường rất
lớn.Tuy nhiên, không phải địa phương nào cũng phát triển mạnh loại hình trang trại này, cũng có
những địa phương có số lượng trang trại chăn nuôi không nhiều như huyện Tân Phú (23 trang trại);
huyện Long Thành (49 trang trại); huyện Vĩnh Cửu (61 trang trại).
Bảng 2.14: Số trang trại chăn nuôi của Đồng Nai so với Cả nước,
một số tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long , DHMT và Đông Nam Bộ
trại Các khu vực và Tỉnh Số trang trại chăn nuôi (trang trai) Các khu vực và Tỉnh
Số trang chăn nuôi ( trang trại)
17.635 T.Tây Ninh 104 Cả nước
2530 T. Bà rịa- Vtàu 201 K.vực ĐBSCL
T. Long An 487 T.Bình Dương 235
T.Vĩnh Long 85 T. Đồng Nai 1275
T.An giang 69 2629 DHMT
2673 T.Thanh Hóa 862
K.vực Đông Nam Bộ TP.HCM 813 T.Quảng Bình 69
T.Bình Phước 45 T.Quảng Nam 177
Biểu đồ 2.7: Cơ cấu trang trại chăn nuôi phân theo một số Tỉnh thành năm 2008
Đồng Nai
1,8%
22,6%
Bình Dương
33,3%
TP.HCM
Vĩnh Long
Long An
12,7%
Thanh Hóa
6,1%
2,2%
21,3%
Quảng Bình
( Nguồn: Niên giám thống kê- Tổng cục thống kê, 2008)
Qua bảng 2.15 cho thấy, số trang trại chăn nuôi của Đồng nai chiếm 7,2 % trong tổng số trang
trại chăn nuôi của cả nước (2008); chiếm 47,7 % trong tổng số trang trại chăn nuôi của khu vực
Đông Nam Bộ. So với một số Tỉnh thuộc ĐBSCL, DHMT và Đông Nam Bộ, số lượng cũng nhiều
hơn: gấp 2,6 lần số trang trại chăn nuôi của Tỉnh Long An, gấp 15 lần Tỉnh Vĩnh Long ( ĐBSCL);
gấp 1,5 lần Thanh hóa, 7,2 lần Quảng Nam (DHMT);gấp 1,5 lần số trang trại chăn nuôi của
TPHCM; 5,4 lần Tỉnh Bình Dương; 12 lần Tỉnh Tây Ninh và gấp 28 lần Tỉnh Bình Phước. Những
con số cho thấy thế mạnh của Đồng Nai về phát triển các trang trại chăn nuôi so với một số Tỉnh
khác trong cả nước
Bảng 2.15: Một số chỉ tiêu của trang trại chăn nuôi phân theo huyện
Số lao động Diện tích đất Vốn sản xuất Tổng thu
thường xuyên trồng kinh doanh SXKD
(người) (ha) (triệu đồng) (triệu
đồng)
135.875 218.463 TP.Biên Hòa 691 382,2
H. Tân Phú 73 29,4 17.743 8.275
H.Định Quán 154 70,56 16.305 19.289
H.Vĩnh Cửu 311 89,67 77.886 99.571
H.Thống Nhất 1002 159.261 190.035 552,72
H.Trảng Bom 540 258,72 95.629 139.599
T.X.Long Khánh 246 102,43 47.231 50.850
H.Xuân Lộc 573 176,4 90.174 75.032
H.Cẩm Mỹ 205 95,55 40.592 71.410
H.Long Thành 412 124,95 71.848 44.861
H.Nhơn Trạch 130 72,03 28.250 19.650
Tổng số 4337 1899,63 780.794 937.035
(Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Đồng Nai, 2006)
Bảng 2.15 cho thấy, đây là loại hình trang trại rất được chú trọng đầu tư, không những thể hiện
qua số lượng nhiều nhất trong các loại hình trang trại, mà còn qua số vốn đầu tư và tổng thu từ loại
hình này.Với tổng diện tích là 1899,63 ha (trung bình một trang trại có diện tích khoảng 1,4 ha); số
lao động thường xuyên là 4337 người (trung bình 3 người một trang trại). Các trang trại chăn nuôi
được đầu tư khá tốt với tổng số vốn là 780.794 triệu đồng ( trung bình một trang trại khoảng 587,50
triệu), hầu hết các trang trại chăn nuôi đều sử dụng giống mới, chuồng lồng nuôi heo, một số trang
trại đã sử dụng hệ thống làm mát chuồng trại, chủ động chế biến thức ăn chăn nuôi. Vì thế, tổng thu
của phần lớn chủ trang trại chăn nuôi đều cao, tổng thu 2006 là 937.035 triệu đồng (trung bình một
trang trại là 705,06 triệu ), trong đó các trang trại chăn nuôi ở TP.Biên Hòa đạt tổng thu rất cao,
trung bình một trang trại đạt 840,24 triệu đồng, ở Trảng Bom là 793,17 triệu. So với một số Tỉnh
DHMT, các trang trại chăn nuôi ở Đồng Nai vượt trội về chỉ số qui mô vốn đầu tư và tổng thu: gấp
5,2 lần vốn đầu tư (112 triệu), gấp 6,7 lần tổng thu bình quân một trang trại (105,3 triệu) của Tỉnh
Thanh Hóa; gấp 3,7 lần vốn đầu tư (157 triệu), gấp 2,1 lần tổng thu bình quân một trang trại (322,5
triệu) của Tỉnh Quảng Nam. Dù nhiều trang trại chăn nuôi làm ăn thua lỗ hay bị phá sản do ảnh
hưởng bởi sự phát triển của nhiều loại dịch bệnh (dịch heo tai xanh, cúm h5n1 ở gà) trong thời gian
2007, 2008; Nhưng nhờ được sự quan tâm của lãnh đạo Tỉnh, địa phương về công tác phòng chống
nên dịch bệnh không lan rộng, nhiều chủ trang trại chủ động được trong công tác phòng chống, sau
khi dịch bệnh tạm lắng xuống thì hoạt động chăn nuôi có xu hướng được hồi phục (đặc biệt trong
2009) và phát triển.
2.5.3.4 Trang trại nuôi trồng thủy sản
Theo số liệu của tổng cục thống kê Đồng Nai, số lượng các trang trại nuôi trồng thủy sản từ
2003 đến 2009 có xu hướng giảm từ 245 trang trại năm 2003 còn 158 trang trại năm 2009 (giảm
122 trang trại).
Bảng 2.16: Số lượng các trang trại nuôi trồng thủy sản phân
theo huyện từ 2003-2009
2003 2005 2006 2007 2008 2009
TP. Biên Hòa 14 9 11 10 10 6
H. Vĩnh Cửu 5 3 6 6 6 8
H. Tân Phú 29 25 21 29 57 20
H. Định Quán 25 15 8 23 26 6
H. Xuân Lộc 0 0 2 2 2 1
TX. Long Khánh 0 0 1 0 1 2
H. Trảng Bom 6 6 0 0 0 2
H. Cẩm Mỹ 7 6 3 5 4 3
H. Thống Nhất 1 1 0 0 0 0
H. Long Thành 2 2 0 0 0 10
H. Nhơn Trạch 156 151 52 52 52 65
Tổng số 245 218 104 127 158 123
( Nguồn: Niên giám thống kê- Cục thống kê Đồng Nai, 2009 )
Bảng 2.16 cho thấy, loại hình trang trại này chỉ chiếm 4,7% trong tổng số trang trại ở Tỉnh
Đồng Nai. Do đặc thù của loại hình trang trại nuôi trồng thủy sản chỉ phát triển trong điều kiện sông
nước, nên chỉ những huyện gần sông hồ hoặc có điều kiện để đào ao, hồ mới phát triển loại hình này
như huyện Nhơn Trạch (sông Đồng Nai, sông Thị Vải): với 65 trang trại (2009), chiếm 52,8 % số
trang trại nuôi trồng thủy sản của toàn Tỉnh; huyện Tân Phú (sông Đồng Nai): với 20 trang trại
(2009), chiếm 16,2 % số trang trại toàn Tỉnh, huyện Long Thành 10 trang trại, chiếm 8,1% số trang
trại toàn Tỉnh. Trong năm 2009, nhiều sông, hồ trong Tỉnh và trong khu vực Đông Nam Bộ bị ô
nhiễm do nước thải công nghiệp và sinh hoạt (ô nhiễm sông Thị Vải do nước thải từ công ty Vedan;
ô nhiễm hồ Trị an…) làm ảnh hưởng đến hoạt động nuôi trồng thủy sản của nhiều nông dân của
Đồng Nai, TPHCM, Bà rịa Vũng Tàu.
Bảng 2.17: Số trang trại nuôi trồng thủy sản của Đồng Nai so với Cả
nước, một số Tỉnh ĐBSCL, DHMT và Đông Nam Bộ
Các trang trại và Tỉnh Các khu vực và Tỉnh Số trang trại nuôi trồng thủy sản ( trang trại )
Số trại trang nuôi trồng thủy sản ( trang trại) 16 Cả nước 34.989 T.Tây Ninh
Khu vực ĐBSCL 25.311 T.Bà rịa- Vtàu 135
T. Long An 36 T.Bình Dương 11
T. Vĩnh Long 86 T. Đồng Nai 158
T. An giang 1455 DHMT 4029
vực Đông 783 T. Thanh Hóa 562
Khu Nam Bộ TP.HCM 459 T.Quảng Bình 137
T.Bình Phước 4 T.Quảng Nam 249
Biểu đồ 2.8: Cơ cấu trang trại nuôi trồng thủy sản phân theo một số Tỉnh thành năm 2008
10,9%
Đồng Nai
9,4%
Bình Dương
0,8%
TP.HCM
Vĩnh Long
Long An
31,7%
38,8%
Thanh Hóa
5,9%
2,5%
Quảng Bình
( Nguồn: Niên giám thống kê- Tổng cục thống kê, 2008 )
Dù không phát triển mạnh loại hình trang trại này, nhưng Đồng Nai cũng chiếm 0,45 % trong
tổng số trang trại nuôi trồng thủy sản của cả nước (2008); chiếm 20,2 % trong tổng số trang trại nuôi
trồng thủy sản của khu vực Đông nam Bộ. So với một số Tỉnh trong khu vực Đông Nam Bộ, số
lượng loại hình trang trại này của Đồng Nai gấp 1,2 lần Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (135 trang trại); 39
lần Tây Ninh (4 trang trại); 14 lần Bình Dương (11 trang trại); chỉ kém TPHCM ( 459 trang trại).
Bảng 2.18: Một số chỉ tiêu của trang trại nuôi trồng thủy sản
phân theo huyện
Số lao động Diện tích Vốn sản xuất Tổng thu
mặt nước thường xuyên kinh doanh SXKD
(người) nuôi trồng (triệu đồng) (triệu
(ha) đồng)
T.P.Biên Hòa 47 19,3 8,345 5,668
H.Tân Phú 70 131,69 5,710 3,506
H.Định Quán 61 0,19 1,789 2,680
H.Vĩnh Cửu 15 10,40 3,495 1,186
H.Thống Nhất 0 0 0 0
H.Trảng Bom 0 0 0 0
T.X.Long Khánh 3 0,05 300 60
H.Xuân Lộc 15 20,00 2,992 628
H.Cẩm Mỹ 10 6,9 825 511
H.Long Thành 0 0 0 0
H.Nhơn Trạch 174 391,16 32,910 29,613
Tổng số 395 579,69 56,366 43,852
(Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Đồng Nai,2006)
Đây là loại hình trang trại chiếm số lượng không nhiều ở Tỉnh Đồng Nai, do yêu cầu để phát
triển có điểm khác với các loại hình trang trại khác (nuôi trồng trên sông, hồ, ao, đầm). Vì vậy chỉ
những nơi có điều kiện thuận lợi mới chú ý phát triển loại hình này, như ở Huyện Nhơn Trạch,
Huyện Định Quán, Huyện Vĩnh Cửu.
Ở Đồng Nai, tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản là 579,16 ha ( trung bình là 0,20 ha
một trang trại), với tổng số lao động làm việc thường xuyên là 395 (trung bình một trang trại có 3
lao động thường xuyên). Tổng số vốn đầu tư cho loại hình này chiếm đến 56.336 triệu đồng (trung
bình vốn cho một trang trại là 481,76 triệu đồng), do phải đầu tư cho việc đào ao hồ, mua giống,
thức ăn, thuốc men và công chăm sóc bảo vệ…Tuy nhiên, tổng thu được của các chủ trang trại là
không nhỏ, tổng thu của các trang trại nuôi trồng thủy sản là 43.852 triệu đồng (trung bình một
trang trại thu 376,80 triệu đồng), trong đó các trang trại ở Huyện Nhơn Trạch đạt 580,64 triệu đồng,
TP.Biên Hòa đạt 515,27 triệu đồng.
2.5.3.5 Trang trại lâm nghiệp
Là loại hình trang trại có số lượng ít nhất ở Đồng Nai, 6 trang trại phân bố ở 3 huyện: Vĩnh
Cửu (2 trang trại), Trảng Bom (1 trang trại), Xuân Lộc
( 3 trang trại ). Chỉ chiếm 0,18% trong tổng số trang trại của Tỉnh Đồng Nai.
Bảng 2.19: Một số chỉ tiêu của trang trại lâm nghiệp
phân theo các huyện
Số lao động thường xuyên (người) Diện tích đất trồng (ha) Vốn sản xuất kinh doanh (triệu đồng) Tổng thu sản xuất KD (triệu đồng)
H. Vĩnh Cửu 9 20,09 2.750 492
H. Trảng Bom 27 18,00 200 450
H. Xuân Lộc 14 112,00 6.700 911
Tổng Số 50 150,9 9.650 1.853
(Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Đồng Nai, 2006)
Các trang trại lâm nghiệp chủ yếu là trồng rừng nguyên liệu ( gỗ nguyên liệu giấy), và để
nâng cao hiệu quả kinh tế, phần lớn là phát triển mô hình nông lâm kết hợp. Qua bảng 2.20 ta thấy,
tổng diện tích của các trang trại lâm nghiệp khá lớn 150,9 ha (trung bình là 25,15 ha một trang trại);
Vốn đầu tư là 9.659 triệu đồng (bình quân là 1608,3 triệu đồng một trang trại ) với tổng thu đạt
1.853 (trung bình một trang trại thu 308,8 triệu đồng), do đặc thù của các cây lâu năm là hầu hết
phải mất từ 4 đến 5 năm mới khai thác được, nên những trang trại lâm nghiệp mới thành lập từ 1
đến 3 ở Đồng Nai phần lớn đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản chưa khai thác nên tổng thu từ
sản xuất kinh doanh không cao. Loại hình này đang có xu hướng giảm (năm 2004 có 11 trang trại,
năm 2006 chỉ còn 6 trang trại, đến năm 2009 là 7 trang trại) do thời gian thu hồi vốn lâu, khả năng
mở rộng qui mô của loại hình này rất khó.
2.5.3.6 Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp
Với 80 trang trại vào 2006, đây là loại hình trang trại có số lượng ít thứ 2 sau trang trại lâm
nghiệp. Tuy nhiên, đến năm 2009 loại hình này đã tăng rất nhanh (171 trang trại, tăng 91 trang trại
so với 2006), giữ vị trí thứ 3 về số lượng (trên cả trang trại cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản và
lâm nghiệp). Điều này cho thấy xu hướng phát triển của các trang trại trong Tỉnh Đồng Nai là các
trang trại tổng hợp (kết hợp cả trồng trọt và chăn nuôi hoặc cây lâu năm kết hợp với cây ngắn ngày;
kết hợp giữa chăn nuôi, trồng trọt với sơ chế sản phẩm…). Loại hình này có xu hướng tăng chủ yếu
là do lợi ích kinh tế của việc trồng, nuôi kết hợp trong điều kiện hầu hết các chủ trang trại đều thiếu
vốn để đầu tư mở rộng trang trại (việc trồng, nuôi kết hợp hoặc kết hợp giữa cây lâu năm và cây
ngắn ngày… giúp các chủ trang trại có thể lấy ngắn nuôi dài và đảm bảo có được thu nhập ổn định).
Trang trại tổng hợp phát triển mạnh ở Huyện Xuân Lộc, với 28 trang trại, chiếm 16,4 % tổng số
trang trại tổng hợp của Tỉnh; Huyện Định Quán với 43 trang trại, chiếm 25,1 %; TX Long Khánh
với 52 trang trại, chiếm 30,4%. Những địa phương có loại hình trang trại này phát triển là do có cơ
sở kinh tế nông nghiệp chiếm tỉ lệ lớn và công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến chưa phát
triển mạnh. Do vậy các trang trại có xu hướng kinh doanh tổng hợp (bao gồm cả sản xuất và sơ chế
sản phẩm) nhằm nâng cao giá trị sản phẩm, đem lại hiệu quả kinh tế cao. TP Biên Hòa, Huyện
Nhơn Trạch, là những nơi không phát triển loại hình trang trại này.
Sự phát triển của các trang trại tổng hợp không những giúp cho các chủ trang trại có khả năng
đa dạng hóa sản phẩm, mà còn có khả năng tận dụng triệt để các điều kiện thuận lợi về đất đai, kĩ
thuật…Bên cạnh đó, còn đảm bảo duy trì sản xuất lâu dài (qua việc lấy ngắn nuôi dài) đối với
những trang trại thiếu vốn.
2.5.4 Trình độ quản lý của các chủ trang trại
2.5.4.1 Đặc điểm của chủ trang trại
Bảng 2.20: Đặc điểm của chủ trang trại
Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Đặc điểm
1.Giới tính
- Nam 2.763 88,64
- Nữ 354 11,36
2. Dân tộc
- Kinh 2.827 90,70
- Dân tộc ít người 290 9,30
3. Thành phần chủ trang trại
3,17 99 - Công nhân viên chức đương chức
4,2 131 - Cán bộ, bộ đội, CNVC nghỉ hưu
81,23 2.532 - Nông dân
1,98 62 - Cán bộ xã
4,94 154 - Thành phần khác
(Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Đồng Nai, 2005)
Theo số liệu thống kê của sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Tỉnh Đồng Nai, các trang trại
của Tỉnh năm 2005 được quản lí bởi 3117 chủ trang trại thì:
Về giới tính: Có 2.763 chủ trang trại là Nam ( chiếm 88,64%) và 290 chủ trang trại là nữ (
chiếm 11,36%). Do đặc điểm thể chất tốt, năng động, có năng lực quản lí trang trại tốt hơn nữ. Hơn
nữa họ lại là những trụ cột trong gia đình.
Về dân tộc: Chủ trang trại phần lớn là dân tộc kinh, chiếm 2.827 người (90,7%), còn chủ
trang trại là dân tộc ít người chỉ có 290 người ( chiếm 9,30%). Do dân tộc kinh có trình độ văn hóa,
trình độ khoa học kĩ thuật và tư duy kinh tế cao hơn so với các dân tộc khác.
Về hoàn cảnh xuất thân: Phần lớn chủ trang trại xuất thân thừ thành phần nông dân 2.532
người ( chiếm 81,23%), tỉ lệ này cao hơn so với Bình Dương (60,3%) và cả nước (62%). Do kinh tế
trang trại là loại hình sản xuất đi lên từ kinh tế hộ gia đình nông dân, vì thế những người chủ trang
trại hiện tại phần lớn xuất thân từ nông dân. Chủ trang trại là công nhân viên chức đương chức chỉ
có 99 người ( chiếm 3,17%). Chủ trang trạ là công nhân viên chức nghỉ hưu có 131 người ( chiếm
4,2%). Còn chủ trang trại là cán bộ xã chỉ có 62 người ( chiếm 1,98%) và thuộc các thành phần khác
Biểu đồ 2.9: Đặc điểm các chủ trang trại ở Đồng Nai
Người
2827
2763
3000
2532
2500
2000
1500
1000
290
500
154
131
99
62
27,4
0
Nam
Nữ
Dtoc kinh
Dtộc ít người
Nông dân
Cán bộ xã
CNV đương chức
Bộ đội, CNV nghỉ hưu
Thành phần khác
Số lượng người
là 154 người (chiếm 4,94%).
2.5.4.2 Trình độ chuyên môn của chủ trang trại
Đa số chủ trang trại có trình độ văn hóa không cao (trình độ văn hóa cấp III có 1.006 người,
chiếm 32,27%; trình độ văn hóa cấp II có 1.386 người, chiếm 44,16%, số lượng chủ trang trại mới
hết cấp I và mù chữ va64nn còn khá lớn). Bên cạnh đó, các chủ trang trại ở Đồng Nai đều chưa qua
trường lớp đào tạo về chuyên môn, không có bằng cấp. Đây là hạn chế rất lớn đối với chủ trang trại
trong quản lí, tính toán đầu tư để phát triển kinh tế trang trại đạt hiệu quả cao.
Bảng 2.21: Trình độ và cơ cấu trình độ chuyên môn của chủ trang trại, 2006 Đơn vị: người (%)
Chủ trang trại Tổng số Đơn vị Không có Có trình độ hành chính Người Người % Người % %
TP.Biên Hòa 100 271 241 88,93 30 11,07
H.Tân Phú 100 341 322 94,43 19 5,57
H.Định Quán 100 336 287 85,42 49 14,58
H.Vĩnh Cửu 100 136 88 64,71 48 35,29
H.Thống Nhất 100 386 346 89,64 40 10,36
H.Trảng Bom 100 268 231 86,19 37 13,81
T.X.Long Khánh 81 100 71 87,65 10 12,35
H.Xuân Lộc 857 100 807 94,17 50 5,83
H.Cẩm Mỹ 367 100 347 94,55 20 5,45
H.Long Thành 93 100 69 74,19 24 25,81
H.Nhơn Trạch 104 100 78 75 26 25
100 Tổng số 3240 2887 89,10 113 10,9
(Nguồn: Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Đồng Nai,2006)
Qua bảng sồ liệu ta thấy, số lượng chủ trang trại không có trình độ là 2887 người, chiếm
89,10% tổng số chủ trang trại của toàn tỉnh. Trong đó, ở những huyện khó khăn, cùng sâu vùng xa
như Huyện Định Quán, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ có đến trên 90% số chủ trang trại không có trình độ
chuyên môn. Do đây là những huyện nghèo, không có nhiều điều kiện học tập để nâng cao trình độ
văn hóa và trình độ chuyên môn. Đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả sản
xuất của các trang trại.
2.5.5 Máy móc, thiết bị chủ yếu của trang trại
Các máy móc thiết bị hiện đại là một trong những yếu tố tác động quan trọng đến năng xuất
lao động của sản xuất nông nghiệp nói chung và của các trang trại nói riêng. Từ đó giảm chi phí sản
xuất, tăng khả năng cạnh tranh và quyết định đến hiệu quả sản xuất của các trang trại. Chính vì vậy
mà các chủ trang trại đều chú ý đến việc trang bị các máy móc thiết bị vào quá trình sản xuất
Bảng 2.22:Các máy móc, thiết bị chủ yếu của trang trại ở Đồng Nai, 2006
Máy
Máy
Động
Bình
Máy
Động cơ
Máy
Máy
bơm
chế
phun
Đơn
vị
kéo
cơ điện
chạy
phát
chế
nước
biến
thuốc
hành chính
nhỏ(từ
bằng
điện
biến
thức
sâu có
12cv trở
diegien
lương
ăn
đ.cơ
xuống)
thực
g.súc
TP.Biên
1
3
96
14
6
448
106
Hòa
H.Tân Phú
30
3
12
16
6
209
527
5
H.Định
37
4
6
19
21
149
455
10
Quán
H.Vĩnh Cửu
6
14
61
43
8
23
212
38
H.Thông
60
88
84
73
16
156
391
62
Nhất
H.Trảng
22
23
41
50
18
49
304
35
Đơn vị: cái
Bom
TX.Long
14
13
8
11
3
21
84
5
Khánh
H.Xuân Lộc
69
94
121
49
27
183
907
41
H.Cẩm Mỹ
26
24
139
23
442
10
90
7
H.Long
4
74
23
51
85
12
23
1
Thành
H.Nhơn
10
5
9
29
1
218
2
2
Trạch
Toàn Tỉnh
279
342
507
460
123
955
4073
326
( Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Đồng Nai, 2006)
Việc sử dụng máy móc hiện đại để phục vụ sản xuất trong các trang trại ở Đồng nai rất được
chú trọng, thể hiện qua việc hầu hết các trang trại đều sử dụng máy móc trong sản xuất: máy
kéo,động cơ điện, động cơ chạy xăng dầu diegien, máy phát điện, máy chế biến lương thực, bình
phun thuốc sâu có động cơ, máy chế biến thức ăn gia súc…
Theo số liệu điều tra, đến 2006, các trang trại ở Đồng Nai có tổng cộng hơn 61.000 máy móc
các loại. Trong đó, máy kéo các loại có 689 cái,chiếm 10% tổng số máy kéo của Tỉnh, bình quân cứ
13,6 ha đất sử dụng một máy kéo.Bên cạnh đó, các trang trại cũng đã trang bị 4073 máy bơm nước,
chiếm 13% số lượng máy bơm nước Toàn tỉnh. Ngoài ra, nhiều loại máy móc hiện đại khác đang
được sử dụng ở các trang trại, điều này sẽ có tác động tích cực, hỗ trợ cho kinh tế trang trại phát
triển thuận lợi, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các chủ trang trại. Đây cũng là nét khác biệt giữa
các trang trại và các hộ nông dân bình thường.
2.5.6 Vấn đề môi trường trong phát triển kinh tế trang trại ở Đồng Nai
Trong phát triển các ngành kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng, các vấn đề về môi
trường nếu không được chú ý sẽ tác động lớn đến môi trường sinh thái và ảnh hưởng đến sức khỏe
của con người.
Trong phát triển nông nghiệp, một ngành kinh tế vốn phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên (đất đai,
khí hậu, nguồn nước…), thậm chí ở nhiều nơi, năng xuất nông nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào sự
thuận lợi hay khó khăn của các yếu tố tự nhiên này. Sự phát triển của nhiều loại hình kinh tế trang
trại với năng xuất cao, đã mở ra nhiều cơ hội đổi đời cho người nông dân. Nhưng nhiều trang trại,
với lối suy nghĩ và cách làm cũ (những chất thải của trang trại được thải trực tiếp ra môi trường,
việc phun thuốc trừ sâu, phân bón không đúng qui trình…) đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường sinh thái và gián tiếp ảnh hưởng đến chính cuộc sống của những người nông dân.
2.5.6.1 Tác động của hoạt động Kinh tế trang trại lên môi trường sinh thái và sức khỏe của
con người.
Tác động của kinh tế trang trại lên môi trường sinh thái
- Đối với mô hình nuôi thủy sản quảng canh: Với hình thức nuôi này, sử dụng thức ăn chủ yếu
lấy từ tự nhiên. Các thành phần thức ăn này đi vào ao thông qua việc thay nước hay trong quá trình
thu thập con giống ngoài tự nhiên. Xét về mặt môi trường sinh thái, hệ thống này thiên về tự nhiên
với sự đa dạng cao nên tương đối ổn định.
- Đối với mô hình nuôi thủy sản bán thâm canh: Trong mô hình này, con người vẫn chưa chủ
động điều hòa được các yếu tố môi trường trong ao nuôi, chất lượng và số lượng nước còn phụ
thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.Việc cung cấp nhiều thức ăn nhân tạo, mật độ vật nuôi cao khiến
cho môi trường dễ nhiễm bẩn, làm thay đổi thành phần loài sinh vật, các loài tảo lam, tảo mắt phát
triển.
- Đối với mô hình nuôi thủy sản thâm canh: Trong mô hình này, con người có thể điều hòa các
điều kiện môi trường ao nuôi, có các biện pháp phòng trừ bệnh và ngăn ngừa các yếu tố gây hại cho
vật nuôi. Việc dư thừa thức ăn nhân tạo trong quá trình nuôi, làm thay đổi chuỗi thức ăn tự nhiên
của môi trường; ngoài ra một số nhóm động vật đáy có thể bị chết do thiếu oxygen trong tầng đáy
của ao nuôi, dẫn đến ô nhiễm môi trường nước. Bên cạnh đó, các chất bài tiết, chất thải của vật nuôi
cùng với các chất dinh dưỡng trong quá trình phân hủy thức ăn dư thừa đã làm cho hàm lượng các
chất dinh dưỡng trong nước cao hơn mức bình thường có thể gây ra hiện tượng nở hoa của các loài
tảo.
Đất bị suy thoái theo hướng bạc màu hóa do bị canh tác mùa vụ cao, bón phân hóa học chưa
cân đối hợp lí, đất đai bị chai sạn dần do ít sử dụng phân hữu cơ và bị ô nhiễm do sử dụng phân bón
và thuốc trừ sâu các loại
Tác động của trang trại lên sức khỏe con người:
Do môi trường đặc thù của việc nuôi trồng thủy sản, hóa chất được sử dụng để phòng và trị
bệnh thường dư thừa với số lượng lớn và phần dư lượng hóa chất này đi vào môi trường xung quanh
cùng với thức ăn thừa, phân của thủy sinh vật gây ô nhiễm môi trường nước, đe dọa nguồn nước cấp
cho cộng đồng dân cư, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng ( một số bệnh thường gặp là: bệnh đau
mắt đỏ, bệnh viêm da). Ngoài ra, dư lượng thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản cũng dẫn đến
vấn đề về an toàn vệ sinh thực phẩm (tôm, cá…).
Đối với các trang trại trong lĩnh vực trồng cây hàng năm và cây lâu năm. Do việc sử dụng
nhiều các hóa chất bảo vệ thực vật không đúng tiêu chuẩn qui trình kĩ thuật… làm nảy sinh vấn đề
về an toàn vệ sinh thực phẩm và có thể gây ra các loại bệnh về ngộ độc đường hô hấp, tiêu hóa.
Đối với các trang trại trong lĩnh vực chăn nuôi gia súc, gia cầm. Do công tác xử lí chất thải và
vệ sinh chuồng trại chưa đạt yêu cầu, có thể gây nên dịch bệnh trên qui mô rộng hoặc các hiện
tượng ô nhiễm mùi hôi không khí, nước mặt và nước ngầm ở qui mô cục bộ ảnh hưởng đến sức
khỏe cộng đồng.
2.5.6.2 Vấn đề môi trường trong phát triển kinh tế trang trại ở Đồng Nai.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp có tưới, với việc sử dụng ngày càng
nhiều phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật cũng góp phần làm hạn chế lượng nước ngọt có ở
dưới hạ lưu, đồng thời cũng góp phần làm gia tăng mức độ ô nhiễm nguồn nước. Cách thức mà
người nông dân ở thượng nguồn khai thác đất đai và nguồn nước để canh tác sẽ có ảnh hưởng quyết
định đến số lượng và chất lượng nước cho những đối tượng dùng nước ở hạ lưu. Việc khai thác
nước ngầm với qui mô lớn để phục vụ cho nông nghiệp (ví dụ để tưới cho các vùng chuyên canh cà
phê) sẽ dẫn đến việc tụt giảm mực nước ngầm, và như vậy sẽ ảnh hưởng đến những đối tượng khác
cùng sử dụng nguồn nước ngầm đó. Các hoạt động chăn nuôi, kể cả nuôi thủy sản trong môi trường
nước ngọt, nước lợ và nước mặn cũng tác động đến nguồn nước cả về số lượng và chất lượng
Trồng trọt:
Đồng Nai hiện có khoảng 1,8 triệu ha đất nông nghiệp gần lưu vực các sông (chiếm 48,7%
diện tích toàn lưu vực). Hoạt động canh tác trên lưu vực sông đã gây ảnh hưởng xấu đến môi trường
nước do việc sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật không đúng quy cách. Ngoài ra, việc bón
phân hóa học chưa hợp lí làm cho đất bị chai sạn và bạc màu
Chăn nuôi:
Đồng Nai là một trong những địa phương có hoạt động chăn nuôi phát triển rất mạnh.
Tổng lượng nước thải từ hoạt động chăn nuôi ra môi trường, đặc biệt là các sông, hồ là khoảng 147.300 m3/ngày. Hầu hết lượng nước thải này đều được đổ xuống các nguồn nước mặt, gây ô
nhiễm môi trường. Ngoài ra, chất thải của hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm từ các trang trại còn
được thải trực tiếp ra môi trường (không có hố chôn, lấp và che đậy), gây ô nhiễm môi trường
không khí.
Nuôi trồng thủy sản:
Hiện nay nghề nuôi trồng thủy sản nước ngọt phát triển rộng trên toàn lưu vực (nuôi cá bè,
nuôi trong ao hồ, hồ chứa nước…). Tổng diện tích nước mặt nuôi trồng thủy sản của các địa phương
trên lưu vực sông Đồng Nai khoảng 71.800 ha, sản lượng nuôi đạt xấp xỉ 500.000 tấn/năm.
Nước thải và chất thải từ hoạt động nuôi trồng thủy sản thường không được kiểm soát, không
qua xử lý mà thải trực tiếp vào môi trường nước, gây tác động đáng kể đến chất lượng nước mặt.
Thêm vào đó, các sự cố do tôm, cá nuôi chết hàng loạt không được xử lý kịp thời cũng là nguồn gây
ô nhiễm môi trường nước mặt nghiêm trọng. Thông thường, chất lượng nước tại các khu vực trang
trại có tính quyết định đến mức độ ô nhiễm không khí. Hiện tượng tôm, cá chết hàng loạt; hoạt động
cào xới vét bùn đáy cải tạo ao sau nuôi…không những gây ô nhiễm môi trường nước mà còn ô
nhiễm môi trường không khí.
Hồ Trị An nằm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, có diện tích 32.000 ha, là hồ lớn nhất khu vực phía
Nam. Ngoài chức năng cung cấp nguồn nước sinh hoạt, nước phục vụ cho nông nghiệp, hồ Trị An
còn là nơi điều tiết nước nhằm đẩy mặn, rửa chua phèn và phục vụ cho thủy điện. Hiện trong lòng
hồ có khoảng 19.000 hộ dân đang sinh sống và hưởng lợi từ việc nuôi, đánh bắt thủy sản. Tuy
nhiên, việc thải nước trực tiếp từ các trang trại nuôi trồng thủy sản ra Hồ Trị An, đang làm cho nước
Hồ bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi các khí độc hại NH3, SO2, CO…
2.6. Phân tích hiệu quả sản xuất của một số loại hình trang trại Tỉnh Đồng Nai
2.6.1 Áp dụng mô hình hồi quy tuyến tính bội để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu
nhập của một số loại hình trang trại Tỉnh Đồng Nai.
Các thuộc tính của một mô hình tốt:
Các tiêu chuẩn của một mô hình tốt được A.C Harvy đưa ra như sau:
- Tiết kiệm: Mô hình không thể phản ánh một cách chi tiết, toàn bộ thực tế, việc trừu tượng hóa
và đơn giản hóa là sự cần thiết bởi vì mô hình là sự biểu diễn đơn giản nhưng hoàn chỉnh của thực
tại khách quan. Tính tiết kiệm cho rằng mô hình càng đơn giản càng tốt.
- Tính đồng nhất: Với một tập hợp dữ liệu đã cho, các tham số ước lượng được phải duy nhất.
- Tính thích hợp: Mục đích của phân tích hồi qui là giải thích sự biến động của biến phụ thuộc
theo các biến độc lập. Mô hình càng thích hợp thì việc phân tích mô hình càng chính xác. Một mô hình có R2 càng gần 1 thì được coi là càng thích hợp.
- Tính bền vững về mặt lí thuyết: Trong việc xây dựng mô hình phải có một cơ sở lí thuyết nào
đó, nếu không sẽ dễ dẫn đến kết quả sai.
- Có khả năng dự báo tốt: Nghĩa là mô hình được chọn sao cho khi dùng nó để dự báo sẽ cho
những kết quả sát với thực tế.
2.6.1.1 Mô hình hồi quy tuyến tính bội- trường hợp thu nhập đối với trang trại trồng cây hàng
năm
Trong phần này, tác giả thử áp dụng mô hình hồi qui tuyến tính bội để đánh giá các nhân tố
ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của trang trại.
Đối với trang trại trồng cây hàng năm, tác giả đã đưa ra một số chỉ tiêu sau để khảo sát 85
trang trai trồng cây hàng năm tại Đồng Nai (trang trại trồng mía, ngô, chuối…):
- Diện tích đất trồng cây hàng năm bình quân 1 trang trại (ha)
- Lao động thời vụ bình quân một trang trại cây hàng năm (người)
- Lao động thường xuyên bình quân một trang trại cây hàng năm (người)
- Vốn sản xuất kinh doanh bình quân một trang trại cây hàng năm (triệu đồng).
- Tổng thu sản xuất kinh doanh bình quân một trang trại cây hàng năm (triệu đồng)
Các chỉ tiêu này được đưa vào cơ sở dữ liệu SPSS. Có thể thấy qua tóm tắt tên và nhãn của
các biến trong cơ sở dữ liệu này như sau
Name Label
DTBQ_1 Diện tích trang trại bình quân
LĐTVBQ_1 Lao động thời vụ bình quân
LĐTXBQ_1 Lao động thường xuyên bình quân
VSXKDBQ_1 Vốn sản xuất kinh doanh bình quân
TTSXKDBQ_1 Tổng thu từ sản xuất kinh doanh bình quân
Hàm hồi qui tuyến tính bội có dạng tổng quát như sau:
Y = βo + β1X1 + β2X2 +…+ βnXn
Trong đó:
Y : là biến phụ thuộc (biến được giải thích)
X1, X2, Xn : là các biến độc lập (biến giải thích)
β0 : hệ số tự do
β1, β2, βn : là các hệ số hồi qui riêng
Ta dùng mô hình hồi qui tuyến tính bội để kiểm tra mức độ ảnh hưởng của các nhân tố (các
biến độc lập) tới tổng thu sản xuất kinh doanh (biến phụ thuộc) của trang trại cây hàng năm.
Trong các biến đưa vào mô hình thì:
- Biến phụ thuộc là Tổng thu sản xuất kinh doanh bình quân một trang trại (triệu đồng).
- Biến độc lập gồm:
+ Diện tích bình quân một trang trại (ha)
+ Lao động thời vụ bình quân một trang trại (người)
+ Lao động thường xuyên bình quân một trang trại (người)
+ Vốn sản xuất kinh doanh bình quân một trang trại (triệu đồng)
Các biến loại ra Phương pháp
Giải thích các kết quả: Các biến nhập vào/ biến loại ra Mô hình Các biến nhập vào 1
. Enter
Vốn sản xuất kinh doanh bình quân, Lao động thường xuyên bình quân, Diện tích trang trại bình quân, Lao động
thời vụ bình quân
Phương pháp Enter : là phương pháp đưa các biến vào một lượt Các biến được đưa vào là: vốn sản xuất kinh doanh bình quân, lao động thời vụ bình quân, lao
động thường xuyên bình quân, diện tích trang trại bình quân (biến độc lập) và tổng thu từ sản xuất
kinh doanh (biến phụ thuộc).
Các tham số thống kê hồi qui của phương trình (Model Summary)
thay thay R2 điều chỉnh R2 Sai số chuẩn của ước lượng Các thống kê thay đổi R2 đổi df 1 df2 F đổi Sig. F thay đổi Mô hình R
1 .838 49.29191 .846 109.945 4 80 .000 .920a .846
R, R2,R2 điều chỉnh, sai số chuẩn của ước lượng: các thống kê đánh giá sự phù hợp
của mô hình
Bảng Model Summary cho thấy hệ số tương quan bội R rất lớn, hệ số R2 (R Square) chỉ ra
rằng trong mô hình thì 84,6 % sự biến thiên của tổng thu sản xuất kinh doanh bình quân một trang
trại được giải thích bằng 4 biến độc lập. Hệ số R2 điều chỉnh (Adjusted R Square) không chênh lệch lắm so với R2. Sai số chuẩn của
ước lượng (Std.Error of the Estimate) trong mô hình (49.29191) gần bằng căn bậc hai của phương
sai phần dư (Residual Mean Square trong bảng ANOVA) (2429.693), do đó có thể sử dụng đường hồi
qui để ước lượng biến phụ thuộc.
Bảng phân tích ANOVA cho biết là thống kê F khá lớn, có thể khẳng định là có quan hệ
tuyến tính giữa sự gia tăng tổng thu sản xuất kinh doanh của trang trại với ít nhất là một hoặc tất cả
các biến độc lập.
Bảng phân tích phương sao (ANOVA)
Mô hình Tổng độ lệch bình phương df Độ lệch bình phương quân F Sig.
1 Hồi qui 267133.099 109.945 .000a 1068532.395 4
Phần dư 194375.417 80 2429.693
1262907.812 84 Tổng cộng
Df : bậc tự do tương ứng
F: đại lượng ngẫu nhiên
Các hệ số
Các thống kê hiện tượng cộng tuyến Cac hệ số chưa chuẩn hóa Các hệ số chuẩn hóa
Sai số tiêu chuẩn Beta B Độ chấp nhận t Sig. VIF
Mô hình 1 .715 .477 23.947 33.496
3.394 3.340 .046 1.016 .313 .924 1.082 Diện tích trang trại bình quân
-6.769 2.164 -.164 -3.127 .002 .696 1.438 Lao động thời vụ bình quân
động thường 8.833 5.579 .071 1.583 .117 .953 1.050 Lao xuyên bình quân
sản xuất kih 1.244 .068 .973 18.222 .000 .674 1.483 Vốn doanh bình quân
B: hệ số hồi qui
Beta : hệ số Beta chuẩn hóa
T : giá trị thống kê ứng với B
VIF: hệ số phóng đại phương sai
Bảng Coefficients (các hệ số) cho ta xác định các hệ số của phương trình hồi qui.
Phương trình hồi qui có dạng:
Tổng thu SXKD = 23,947 – 6,769 l.động thời vụ + 1,244 vốn SXKD
Các hệ số chuẩn hó Beta chính là các hệ số hồi qui khi các số liệu được chuyển sang dạng
chuẩn hóa z-score ( có trung bình bằng 0 và độ lệch chuẩn bằng 1). Và khi ở dạng chuẩn hóa, ta có
thể ước lượng sự đóng góp riêng biệt của từng biến một. Khi đó, phương trình hồi qui có dạng:
Tổng thu SXKD = - 0,164 l.động thời vụ + 0,973 vốn SXKD
Theo qui tắc chỉ dẫn về xác định các biến hữu ích trong phép hồi qui, hãy tìm kiếm các trị số t
nằm ngoài ± 2. Trong trường hợp này, t của vốn sản xuất kinh doanh là 18,222 và t của lao động
thời vụ là - 3,127. Như vậy, vốn sản xuất kinh doanh có tầm quan trọng rất lớn đối với tổng thu
SXKD của một trang trại. Mô hình hồi qui chuẩn cho thấy, nếu vốn SXKD tăng 1% thì tổng thu
SXKD tăng 0,9 % , trong khi đó nếu lao động thời vụ tăng 1% thì tổng thu SXKD giảm 0,1%. Còn
các biến còn lại là diện tích bình quân và lao động thường xuyên bình quân có ảnh hưởng không
đáng kể đến tổng thu SXKD của trang trại.
Cột cuối của bảng Các hệ số (Coefficients) nói về hiện tượng đa cộng tuyến. Thống kê VIF nhỏ
(trong phạm vi từ 1 đến 3), như vậy hiện tượng đa cộng tuyến bị loại trừ.
2.6.1.2 Mô hình hồi qui tuyến tính bội- trường hợp thu nhập đối với trang trại chăn nuôi
Trong phần này, tác giả khảo sát các chỉ tiêu thống kê sau (như đối với trang trại cây hàng
năm) tại 111 trang trại chăn nuôi (chăn nuôi heo, gà, cá…)
- Biến phụ thuộc: Tổng thu từ sản xuất kinh doanh bình quân một trang trại chăn nuôi (triệu
đồng)
- Biến độc lập gồm : Diện tích bình quân một trang trại chăn nuôi (ha); Lao động thời vụ
bình quân một trang trại (người); Lao động thường xuyên bình quân một trang trại (người); Vốn sản
xuất kinh doanh bình quân một trang trại ( triệu đồng).
Các biến nhập vào/ biến loại ra
Mô hình Các biến nhập vào Các biến loại ra Phương pháp
1
. Entera
Vốn sản xuất kinh doanh bình quân, Lao động thường xuyên bình quân, Lao động thời vụ bình quân, Diện tích bình quân
a. phuong phap Enter: là phương pháp đưa các biến vào một lượt
Các tham số thống kê hồi qui của phương trình (Model Summary)
thay thay
Mô hình R R2 điều chỉnh Sai số chuẩn của ước lượng Các thống kê thay đổi R2 đổi df 1 df2 F đổi Sig. F thay đổi R2
1 .935 .873 .869 178.26363 .873 182.646 4 106 .000
R, R2, R2 điều chỉnh, sai số chuẩn : Các thống kê đánh giá sự phù hợp của mô hình
Df : bậc tự do tương ứng
Trong bảng Model Summary, hệ số R2 cho thấy trong mô hình thì 87,3% sự biến thiên của
Tổng thu từ sản xuất kinh doanh bình quân một trang trại được giải thích bởi 4 biến độc lập (diện
tích bình quân, lao động thời vụ bình quân, lao động thường xuyên bình quân, vốn sản xuất kinh doanh bình quân). Hệ số R2 điều chỉnh (Adjusted R square) không chênh lệch nhiều so với R2, do
vậy có thể sử dụng đường hồi qui để ước lượng biến phụ thuộc.
Bảng phân tích phương sai (ANOVA)
Mô hình Tổng độ lệch bình phương Df Độ lệch bình phương quân F
1 Hồi qui 2.322E7 4 5804097.997 182.646
31777.922 Sig. .000a Phần dư Tổng cộng 2.658E7 3368459.761 106 110
df : bậc tự do tương ứng
F : đại lượng ngẫu nhiên
Bảng phân tích ANOVA cho biết thống kê F khá lớn, vì vậy có thế nói là có quan hệ tuyến tính
giữa sự tăng giá trị Tổng thu từ sản xuất kinh doanh của trang trại với ít nhất là một hoặc tất cả các
biến độc lập. Mối quan hệ tuyến tính là rất có nghĩa, với sig < 0,005
Các hệ số
Các hệ số chưa chuẩn hóa Các hệ số chuẩn hóa Các thống kê hiện tượng cộng tuyến
Độ chấp nhận VIF Mô hình B Sai số tiêu chuẩn Beta t Sig.
-68.489 74.018 -.925 .357 1
36.523 -.194 -2.989 .003 .285 3.511 - 109.175
49.805 17.528 .136 2.841 .005 .525 1.904
-8.332 17.621 -.017 -.473 .637 .949 1.054
1.535 .101 .997 15.239 .000 .279 3.583 Diện tích trang trại chăn nuôi bình quân Lao động thời vụ bình quân Lao động thường xuyên bình quân Vốn sản xuất kinh doanh bình quân
B : hệ số hồi qui
Beta : hệ số Beta chuẩn hóa
T : giá trị thống kê ứng với B
VIF (variance – inflation factor): hệ số phóng đại phương sai
Bảng Các hệ số (Coefficients) cho ta xác định hệ số của mô hình hồi qui
Phương trình hồi qui có dạng:
Tổng thu SXKD = -68,489 – 109,175 diện tích trang trại + 49,805 lao động
thời vụ + 1,535 vốn SXKD
Khi ở dạng chuẩn hóa, ta có thể lượng hóa sự đóng góp riêng biệt của từng biến một. Khi đó
phương trình hồi qui có dạng:
Tổng thu SXKD= - 0,194 diện tích + 0,136 l.động thời vụ + 0,997 vốn SXKD
Trong bảng Các hệ số (Coefficients), kiểm định t của vốn SXKD là 15,239 trong khi t của diện
tích là – 2,989 và t của lao động thời vụ là 2,841, điều này cho thấy vốn SXKD có ảnh hưởng lớn
hơn rất nhiều đến tổng thu SXKD so với diện tích và lao động thời vụ. Mô hình chuẩn cũng cho
thấy, nếu vốn sản xuất tăng 1% thì tổng thu SXKD tăng 0,99% , lao động thời vụ tăng 1% thì tổng
thu SXKD tăng 0,1%, ngược lại nếu diện tích tăng 1% thì tổng thu SXKD sẽ giảm 0,13%.
2.6.1.3 Mô hình hồi qui tuyến tính bội- trường hợp thu nhập đối với trang trại trồng cây lâu năm
Đối với loại hình trang trại trồng cây lâu năm, tác giả khảo sát các chỉ tiêu thống kê sau (như
đối với trang trại cây hàng năm) tại 105 trang trại (cao su, điều, cây ăn quả…)
- Biến phụ thuộc: Tổng thu từ sản xuất kinh doanh bình quân một trang trại cây lâu năm
(triệu đồng)
- Biến độc lập gồm : Diện tích bình quân một trang trại cây lâu năm (ha); Lao động thời vụ
bình quân một trang trại (người); Lao động thường xuyên bình quân một trang trại (người); Vốn sản
xuất kinh doanh bình quân một trang trại ( triệu đồng )
Các biến này được đưa vào mô hình, sử dụng phương pháp Enter ( tất cả các biến cùng một
nhóm được đưa vào phương trình cùng lúc).
Biến nhập vào/ biến loại ra
Các biến nhập vào Phương pháp Các biến loại ra Mô hình
1
Entera
Vốn sản xuất kinh doanh bình quân (triệu đồng), Lao động thời vụ bình quân ( người),Lao động thường xuyên bình quân (người), Diện tích bình quân (ha)
a. Phuong phap Enter: la phương pháp đưa các biến vào một lượt
Bảng các tham số thống kê hồi qui của phương trình
thay thay
Sai số chuẩn của ước lượng Các thống kê thay đổi R2 đổi df1 df2 F đổi Sig. F thay đổi R2 điều chỉnh Mô hình R R2
1 .968a .938 .935 42.148 .938 375.204 4 100 .000
thay thay
Sai số chuẩn của ước lượng Các thống kê thay đổi R2 đổi df1 df2 F đổi Sig. F thay đổi R2 điều chỉnh Mô hình R R2
1 .968a .938 .935 42.148 .938 375.204 4 100 .000
F : đại lượng ngẫu nhiên
df : bậc tự do tương ứng R, R2, R2 điều chỉnh, sai số chuẩn của ước lượng: các thống kê đánh giá sự phù hợp
của mô hình.
Trong bảng Model Summary, R2 = 0,938 nói lên rằng 93,5% sự biến thiên của biến phụ thuộc (Tổng thu SXKD) được giải thích bằng sự biến thiên của 4 biến độc lập ( diện tích, lao động
thời vụ, lao động thường xuyên, vốn SXKS ).
Bảng phân tích phương sai ( ANOVA)
df (bậc tự do tương ứng) Mô hình Tổng độ lệch bình phương Độ lệch bình phương quân F
1 Hồi qui 2666118.911 4 666529.728 375.204
177644.518
1776.445 Sig. .000a Phần dư 100 Tổng cộng 2843763.429 104
df : bậc tự do tương ứng
F : đại lượng ngẫu nhiên
Các hệ số
Các hệ số chưa chuẩn hóa Các hệ số chuẩn hóa Các thống kê hiện tượng cộng tuyến
số
Sai tiêu chuẩn Beta B t Độ chấp nhận Mô hình
VIF 1 7.038 19.101 .368 Sig. .713
tích bình 19.812 6.323 .212 3.133 .002 .136 7.330 Diện quân (ha)
3.748 2.294 .047 1.634 .105 .747 1.338 Lao động thời vụ bình quân (người)
6.328 -.063 -2.108 .038 .704 1.421
Lao động thường - xuyên bình quân 13.342 (người)
1.031 .087 .779 11.855 .000 .145 6.904
Vốn sản xuất kinh doanh bình quân (triệu đồng) B: hệ số hồi qui
Beta: hệ số Beta chuẩn hóa
t : giá trị thống kê ứng với B (kiểm định giả thuyết)
VIF (variance- inflation factor): hệ số phóng đại phương
sai
Bảng Coefficients (các hệ số) cho ta xác định các hệ số của phương trình hồi qui
Phương trình hồi qui có dạng ( ở dạng chưa chuẩn hóa )
Tổng thu SXKD = 7,038 + 19,812 diện tich BQ – 13,342 l.động thường xuyên
+ 1,031 vốn SXKD BQ
Khi ở dạng chuẩn hóa, ta có thể ước lượng hóa sự đóng góp riêng biệt của từng biến một. Khi
đó, phương trình hồi qui có dạng :
Tổng thu SXKD = 0,212 diện tich BQ – 0,063 l.động thường xuyên+ 0,779 vốn
SXKD BQ
Trong bảng Các hệ số (Coefficients), ta thấy kiểm định t của vốn SXKD là 11,855 và t của
diện tích là 3,113. Như vậy vốn SXKD bình quân một trang trại có tầm quan trọng hơn rất nhiều so
với qui mô diện tích bình quân một trang trại chăn nuôi. Mô hình cho thấy, nếu tăng 1% vốn SXKD
thì tổng thu SXKD sẽ tăng 0,77% còn qui mô diện tích tăng 1% thì tổng thu SXKD tăng 0,21 %.
Trong khi đó, nếu tăng 1% lao động thường xuyên thì tổng thu SXKD giảm 0,06%.
Các cột cuối bảng Các hệ số nói về hiện tượng đa cộng tuyến. Thuật ngữ đa cộng tuyến do
Ragnar Frisch đề nghị: “Có nghĩa là sự tồn tại mối quan hệ tuyến tính hoàn hảo hoặc chính xác giữa
một số hoặc tất cả các biến trong một mô hình hồi qui. Đa cộng tuyến nói đến sự tồn tại của nhiều
hơn một mối quan hệ tuyến tính chính xác”.
Có nhiều cách để xác định hiện tượng đa cộng tuyến, thường thì người ta dùng VIF như một
dấu hiệu xác định đa cộng tuyến, giá trị VIF càng lớn thì biến X càng cộng tuyến cao.Theo nguyên tắc thì nếu VIF của một biến vượt quá 10 ( đều này xảy ra nếu R2 > 0,9 ) thì biến này được coi là có
cộng tuyến cao. Như vậy, VIF trong bảng Coefficients (các hệ số) dao động từ 1 đến 7, cho thấy
không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến.
Tóm lại: Qua mô hình của một số loại hình trang trại tại Đồng Nai (trang trại cây lâu năm, trang trại
cây hàng năm, trang trại chăn nuôi) có thể thấy rằng: Trong các biến nhập vào (diện tích, lao động
thời vụ, lao động thường xuyên, vốn sản xuất kinh doanh, tổng thu từ sản xuất kinh doanh), thì biến
vốn sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng quyết định nhất đến tổng thu nhập của cả ba loại hình trang
trại. Chính vì thế, nếu giải quyết được vấn đề hỗ trợ vốn cho các chủ trang trại thì hiệu quả sản xuất
của các trang trại tại Đồng Nai sẽ tăng lên rất nhiều.
2.6.2 Phân tích hiệu quả kinh tế một số sản phẩm chủ yếu của một số loại hình trang trại
trong Tỉnh Đồng Nai
2.6.2.1 Hiệu quả trồng cây ăn quả
Đồng Nai là Tỉnh nổi tiếng trong khu vực Đông Nam Bộ về cây ăn quả
(đặc biệt là chôm chôm, chuối, xoài, nhãn, sầu riêng, cam, quýt… ).
Với số lượng 181 trang trại trồng cây ăn quả (2006), chiếm 5,6% trong tổng số các trang trại của
Tỉnh Đồng Nai.
Theo kết quả điều tra Nông Thôn, nông nghiệp và thủy sản 2006 tại Tỉnh Đồng Nai, trồng cây
ăn quả cho hiệu quả kinh tế khá.
Bảng 2.23: Hiệu quả sản xuất một số loại cây ăn quả ở Đồng Nai
Năm 2006 Năm 2008
Các loại cây Diện Năng Sản Diện Năng Sản
ăn quả xuất lượng xuất lượng tích tích
(tạ/ha) (tấn) (tạ/ha) (Tấn) (ha) (ha)
Cam, quýt 4.870 100,34 30.522 4.966 151,94 58.264
7.031 115,88 77.823 7.213 126,64 85.796 Chuối
7.222 74,28 34.126 8.134 95,39 56.635 Xoài
1.642 113,59 10.791 1.585 118,94 15.534 Bưởi
Chôm chôm 12.228 120,02 115.508 11.319 134,4 140.474
Sầu riêng 4.289 62,96 19.139 4.218 71,3 25.983
3.523 46,27 12.974 959 47,79 4.421 Nhãn
40.805 660,07 300.883 38.394 776,4 382.686 Tổng số
(Nguồn: Niên giám thống kê- Cục thống kê Đồng Nai,2008)
Bảng thống kê 2.23 cho thấy, tổng diện tích trồng các loại cây ăn quả khá lớn, năm 2006 là
40.805 ha (chiếm 24,2% trong tổng diện tích trồng cây lâu năm ), đến năm 2008 dù có giảm về diện
tích nhưng không đáng kể 38.394 ha (vẫn chiếm đến 22,5% trong tổng diện tích trồng cây lâu năm).
Trong đó chôm chôm (11.319 ha, chiếm 29,5% trong tổng diện tích trồng cây ăn quả), xoài ( 8.134
ha, chiếm 21,2%), chuối (7.213 ha, chiếm 18,8%) là ba loại cây có diện tích trồng lớn nhất cả trong
năm 2006 và 2008. Dù diện tích trồng cây ăn quả từ 2006 đến 2008 có giảm nhẹ ( giảm 2.411 ha),
nhưng cũng không ảnh hưởng đến năng xuất và sản lượng cây trồng, do người người nông dân đã
bắt đầu ứng dụng công nghệ vào sản xuất (chọn giống, sử dụng nhiều hơn các loại máy móc trong
sản xuất…). Năng xuất cây ăn quả đạt 660,07 tạ/ha (2006) đã tăng lên 776,4 tạ/ha (2008); sản lượng
cây ăn quả cũng tăng từ 300.883 tấn (2006) lên 382.686 tấn (2008) tăng 81.803 tấn. Trong đó, chôm
chôm, chuối, bưởi đạt năng xuất và sản lượng rất cao. Điều đó cho thấy các trang trại trồng cây ăn
quả tại Đồng Nai đang được đầu tư theo chiều sâu (không chú trọng đến mở rộng diện tích mà tập
Biểu đồ 2.10: Sản lượng một số loại cây ăn quả ở Đồng Nai năm 2006 và 2008
Tấn
160.000
140.474
140.000
115.508
120.000
100.000
85.796
77.823
Năm 2006
80.000
Năm 2008
58.264
56.635
60.000
34.126
40.000
30.522
25.983
19.139
12.974
20.000
10.79115.534
4.421
0
Cam,quýt
Chuối
Xoài
Bưởi
Chôm chôm Sầu riêng
Nhãn
trung đầu tư cho giống, phân bón, máy móc kĩ thuật…)
Bảng 2.24: Hiệu quả trồng cây ăn quả ở Đồng Nai phân theo huyện, 2006
Chi phí sản xuất (triệu đồng) Thu nhập trước thuế (triệu đồng)
Giá trị sản phẩm bán ra (triệu đồng)
6.882 22.080 3.535 584 11.281 1.140 1.261 4.091 14.061 2.863 326 5.972 885 1063 2.791 8.027 672 258 5.309 255 198
46.763 29.261 17.510
TP.Biên Hòa H. Tân Phú H. Định Quán H. Vĩnh Cửu H.Thống Nhất H. Trảng Bom TX.Long Khánh H. Xuân Lộc H. Cẩm Mỹ H.Long Thành H. Nhơn Trạch Tổng số (Nguồn: Sở Nông Nghiệp và phát triển nông thôn Đồng Nai, 2006)
Bảng số liệu trên cho thấy, giá trị sản phẩm bán ra (giá trị các cây ăn quả) năm 2006 đạt đến
46.763 triệu đồng, trung bình một trang trại trồng cây ăn quả đạt 258,3 triệu đồng. Chi phí sản xuất
là 29.261 triệu đồng, trung bình một trang trại là 161,6 triệu đồng, phần lớn chi cho việc mua phân
bón, thuốc trừ sâu, thuê lao động. Tuy nhiên, chi phí cho các trang trại trồng cây ăn quả ở các địa
phương trong Tỉnh không giống nhau, Định Quán (14.061 triệu đồng) và Xuân lộc (5.972 triệu
đồng) là hai huyện có tổng chi phí cao nhất nhưng chi phí bình quân một trang trại tại hai huyện này
lại không cao (Định Quán là 146,5 triệu đồng/trang trại và Xuân lộc là 143,5 triệu đồng/trang trại),
do đây là hai huyện có số lượng trang trại cây ăn quả nhiều, nhưng quy mô không lớn, chưa áp dụng
nhiều máy móc hiện đại vào sản xuất; Ngược lại chí phí tại các trang trại ở huyện Tân Phú lên tới
372 triệu đồng/trang trại, vì có vị trí xa các trung tâm lớn nên chi phí cho việc vận chuyển cao,
ngoài ra còn do qui mô các trang trại ở đây khá lớn. Dù vậy nhưng thu nhập của các trang trại sau
khi đã trừ đi chi phí vẫn đạt 96,7 triệu đồng/trang trại một năm. Trong đó các trang trại ở Xuân Lộc
đạt tới 143 triệu đồng/trang trại. Điều đó cho thấy các sản phẩm cây ăn quả là thế mạnh của Tỉnh,
nếu các sản phẩm cây ăn quả xây dựng được thương hiệu riêng thì khả năng mở rộng thị trường
tiêu thụ (cả thị trường ngoài nước) là rất lớn.
Lược đồ hiệu quả sản xuất của trang trại cây ăn quả theo địa bàn
2.6.2.2 Hiệu quả trồng cao su
Cây Cao su đã xuất hiện từ rất lâu ở nước ta trong các đồn điền thời pháp thuộc, ngày nay loại
cây này phát triển rất nhanh ở nhiều địa phương bởi những công dụng của cao su trong sản xuất và
đời sống khó có thể tìm ra sản phẩm thay thế. Hiện nay, Cao su cũng là một trong những sản phẩm
xuất khẩu quan trọng của nước ta. Ở Đồng Nai, Cao su đã xuất hiện từ lâu do những thuận lợi về
mặt tự nhiên (đất đỏ bazan, khí hậu và nguồn nước) hơn hẳn nhiều vùng khác. Trong thời gian gần
đây (từ năm 2008 đến nay) do nhu cầu về sản phẩm cao su của thị trường thế giới và trong nước
tăng vọt, nên nhiều nông dân đã chuyển hướng sang cây cao su.
Bảng 2.25: Hiệu quả trồng cao su ở Đồng Nai phân theo huyện
Năm 2006 Năm 2008
Đơn vị hành chính
Diện tích (ha) Năng xuất (tạ/ha) Diện tích (ha) Năng xuất (tạ/ha) Sản lượng mủ cao su (tấn) Sản lượng mủ cao su (tấn)
14 TP. Biên Hòa 36 3,9
H. Tân Phú 29 8,6 15
H. Định Quán 2.505 12,4 3.120 2.683 14,6 3.844
H. Vĩnh Cửu 229 147 513 5,6 290 6,4
H. Thống Nhất 5.061 7.593 4.834 14,6 7.076 15,0
H. Trảng Bom 2.022 2.564 2.361 9,6 2.275 12,7
TX. Long Khánh 3.651 5.138 3.308 14,3 4.724 14,1
H. Xuân Lộc 1.601 1.816 2.590 7,5 1.949 11,3
H. Cẩm Mỹ 13.693 17.781 13.849 11,3 15.717 13,0
H. Long Thành 12.002 19.030 12.088 14,7 17.686 15,8
H. Nhơn Trạch 550 648 550 14 770 11,8
Tổng số 41.350 57.851 42.805 12,7 54.346 14,0
(Nguồn: Niên giám thống kê- Cục thống kê Đồng Nai,2008)
Bảng 2.25 cho thấy diện tích trồng cao su có xu hướng tăng, năm 2006 là 41.350 ha (chiếm
34,5%) trong tổng diện tích trồng cây lâu năm, đến năm 2008 là 42.805 ha (chiếm 34,8%) tăng
1.455 ha (0,8%). Nếu so với diện tích trồng cà phê (25.296 ha) thì gấp 2,1 lần, gấp 5,1 lần diện tích
trồng tiêu (10.694 ha). Diện tích tăng là do trong thời gian gần đây, nhu cầu của thị trường về sản
phẩm cao su cao, giá cả sản phẩm này tăng rất nhiều, vì thế nhiều trang trại chuyển từ tiêu, điều, cà
phê sang trồng Cao Su. Cây cao su ở Đồng Nai cho sản lượng mủ 54.346 tấn (2008),với năng xuất
trung bình 12,7 tạ/ha. Loại cây này có thể thu hoạch được trên 25 năm, và cũng không tốn nhiều
công chăm sóc như các loại cây trồng khác (chỉ tốn nhiều công sức và vốn trong thời gian đầu, từ 1
đến 4 năm)
Bảng 2.26: Hiệu quả sản xuất cây cao su từ khi khai thác được
(từ 5 năm trở lên)
Chỉ tiêu Đơn vị tính Tổng số
-Doanh thu trên 1ha cho sản Triệu đồng 75,77
phẩm/ năm ( mủ)
-Thu nhập 1kg mủ nước Nghìn đồng 16.000
-Chi phí sản xuất (chi phí Triệu đồng 53,3
lao động, phân bón, thuốc
trừ sâu )/ 1 ha
- Lợi nhuận Triệu đồng 22,47
- Tỉ số lợi nhuận/ chi phí sản % 42
xuất
- Tỉ số lợi nhuận/ doanh thu % 30
( Nguồn: số liệu điều tra thực địa, 2009 )
Bảng 2.26 cho thấy, cây cao su (mủ) từ khi bắt đầu khai thác được cho hiệu quả kinh tế cao (cả
về doanh thu và tỉ lệ lợi nhuận) . Với giá thị trường hiện nay, 1kg mủ nước là 16.000 đồng, cứ 1 ha
trồng cao su (khoảng 500 gốc cao su) cho thu hoạch 75,77 triệu đồng, nếu trừ đi chi phí sản xuất thì
1ha trồng cao su cho lợi nhuận là 22,47 triệu đồng (cao su từ năm thứ 5 trở đi, mỗi năm có thể khai
thác 7 tháng, từ tháng 5 đến tháng 11).
2.6.2.3 Hiệu quả chăn nuôi Gà
Chăn nuôi là loại hình trang trại có số lượng nhiều nhất ở Tỉnh Đồng Nai, 1557 trang trại trên
tổng số trang trại của Tỉnh năm 2009 là 3183 trang trại. Trong đó các trang trại nuôi Heo, Gà chiếm
ưu thế gần như tuyệt đối. Với nhu cầu rất cao về các sản phẩm thịt (Heo,Gà) trên thị trường, vì thế
các sản phẩm này đem lại nhiều lợi nhuận cho người nông dân. Trong năm 2009 và đầu năm 2010,
bùng phát dịch heo tai xanh tại Đồng nai (tại huyện Vĩnh cửu sau đó lan ra nhiều huyện khác trong
Tỉnh) vì thế các trang trại nuôi heo gặp nhiều khó khăn (do nhu cầu của thị trường giảm nên giá một
kg heo hơi giảm trong khi giá thức ăn, thuốc men…lại tăng). Ngược lại, các trang trại gà lại làm ăn
có hiệu quả, do thị trường chuyển hướng sang thịt gà, trong thời gian này giá 1 thịt gà mua tại trang
trại (gà tam hoàng) lên tới 50.000 đồng/kg.
Bảng 2.27: Hiệu quả chăn nuôi Gà
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Số lượng (nghìn con) 4.310,688 4.619,608 5.549,372
Sản lượng thịt (tấn) 10.670 11.864 15.792
Sản lượng trứng (nghìn quả ) 84.150 88.709 108.804
( Nguồn: Niên giám thống kê- Cục thống kê Đồng Nai,2008 )
Qua bảng số liệu trên cho thấy, số lượng Gà tăng khá nhanh, từ 4.310,688 con (2006) lên
5.549,372 con (2008) tăng 1.230,8 con; Sản lượng thịt gà tăng 5122 tấn, sản lượng trứng tăng 24654
quả. Do loại hình chăn nuôi này không tốn nhiều chi phí bằng chăn nuôi các con khác, dễ nuôi (chi
phí về giống không nhiều do các trang trại đã lựa chọn những con giống tốt của đợt nuôi trước cho
đợt nuôi sau, các trang trại gà cũng không sử dụng nhiều diện tích đất; chi phí khác như xây dựng
chuồng trại, phòng trừ dịch bệnh, trang bị một số máy móc…cũng không tốn kém nhiều và có thể
sử dụng trong nhiều năm). Bên cạnh đó, nhu cầu của thị trường về thịt gà khá ổn định (bao gồm
trong Tỉnh và một số Tỉnh, TP lân cận như TP.HCM, Bình Dương để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng
hàng ngày của người dân và là nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến)…những thuận lợi
trên là cơ cở để các trang trại tiếp tục đầu tư phát triển loại hình này.
Bảng 2.28: Kết quả sản xuất kinh doanh đối với gà, 2009
Số thứ Một số chỉ tiêu Bình quân một trang trại gà tự
1 Tổng thu bình quân 1 trang trại 76,86
(triệu đồng)
54,50 2 Tổng chi bình quân một trang trại
(triệu đồng)
98 - Chi phí vật chất (%)
28 + Giống (%)
68 + Thức ăn (%)
4 + Chi phí khác (phòng trừ dịch
bệnh, nhiên liệu…) (%)
2 - Chi phí lao động (%)
3 Thu nhập bình quân 1 trang trại 22,36
(triệu đồng)
4 Một số tỉ xuất để đánh giá hiệu quả
kinh tế (%)
41 - Tỉ suất thu nhập/ chi phí (%)
29 - Tỉ suất thu nhập/ tổng thu (%)
( Nguồn : số liệu điều tra thực địa )
Bảng 2.28 cho thấy chăn nuôi gà cho hiệu quả kinh tế cao (thịt gà). Với một kg thịt gà mua tại
trại là 50.000 kg thì tổng thu của một trang trại gà là 76,86 triệu đồng, lợi nhuận bình quân một
trang trại gà đạt được là 22,36 triệu đồng. Trong một năm, một trang trại gà có thể xuất được 4 lần
(gà nuôi công nghiệp hơn 2 tháng là đạt trọng lượng trên 2 kg). Tỉ suất thu nhập/chi phí lên tới 41%,
cho thấy một đồng vốn bỏ ra thu được 41% lợi nhuận. Dù lợi nhuận trong chăn nuôi gà phụ thuộc
nhiều vào nhu cầu của thị trường, nhưng nhìn chung người chăn nuôi vẫn có lãi và nguồn thu nhập
khá ổn định. Chính vì thế số người lập các trang trại gà ngày càng tăng, vì loại hình chăn nuôi này
phù hợp với khả năng của nhiều nông dân (không tốn nhiều chi phí ban đầu, thu nhập ổn định, kĩ thuật
chăn nuôi không quá phức tạp).
2.7. Nhận xét chung về tình hình phát triển kinh tế trang trại ở Tỉnh Đồng Nai
2.7.1 Kết quả đạt được
Số lượng trang trại tăng 66 trang trại so với năm 2003, trong đó số lượng trang trại chăn nuôi
tăng nhiều nhất 267 trang trại.
Số lượng lao động thuê mướn thời vụ của trang trại tăng đáng kể - 4.981 lao động - cho thấy
các chủ trang trại biết tận dụng công lao động nhàn rỗi tại địa phương cho sản xuất kinh doanh của
trang trại đạt hiệu quả cao nhất.
Tổng diện tích đất của các trang trại năm 2009 giảm 1.507 ha, trong đó giảm nhiều nhất là
diện tích đất trang trại tổng hợp (733,5 ha), tuy nhiên diện tích đất của trang trại chăn nuôi tăng
552,86 ha. Điều này cho thấy đã có sự chuyển dịch về loại hình trang trại, trang trại chăn nuôi ngày
càng tăng về số lượng, quy mô do hiệu quả cao từ loại hình này mang lại.
Tổng đàn heo của các trang trại đến năm 2009 tăng 155.630 con, chiếm tỷ lệ 173% so với
năm 2003; tổng đàn gia cầm tăng 1.263.000 con, chiếm tỷ lệ 143% so với năm 2003 cho thấy hai
loại hình chăn nuôi này phát triển mạnh trên địa bàn tỉnh.
Tổng vốn sản xuất kinh doanh của trang trại tăng 1.010.565 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 203% so
với năm 2003, trong đó trang trại chăn nuôi tăng nhiều nhất với 610.436 triệu đồng, trang trại cây
lâu năm tăng 234.170 triệu đồng. Đặc biệt các trang trại thuỷ sản tuy giảm về số lượng nhưng vốn
sản xuất kinh doanh tăng 41.150 triệu đồng cho thấy loại hình trang trại này được đầu tư theo hướng
sản xuất công nghiệp, áp dụng kỹ thuật tiên tiến trong nuôi trồng thủy sản.
Tổng giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ của trang trại tăng 1.070.365 triệu đồng, chiếm tỷ
lệ 214% so với năm 2003, trong đó trang trại chăn nuôi tăng nhiều nhất với 857.868 triệu đồng, kế
đến là trang trại cây lâu năm tăng 122.132 triệu đồng. Như vậy, đã có sự chuyển dịch theo hướng
tăng dần về cơ cấu chăn nuôi, giá trị sản phẩm chăn nuôi và cây lâu năm.
Tổng thu nhập của trang trại tăng 155.320 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 168% so với năm 2003,
trong đó trang trại chăn nuôi tăng nhiều nhất với 114.533 triệu đồng, kế đến là trang trại cây lâu
năm tăng 35.262 triệu đồng.
Qua so sánh một số chỉ số về số lượng, vốn sản xuất, tổng thu, diện tích, lao động giữa một số
loại hình trang trại của Đồng Nai với một số Tỉnh của ĐBSCL, DHMT và Đông Nam Bộ thấy được
ưu thế của Đồng Nai trong phát triển kinh tế trang trại, đặc biệt là trang trại trồng cây lâu năm và
chăn nuôi. Với những thuận lợi rất lớn về điều kiện tự nhiên (đất đỏ bazan, khí hậu, nguồn nước…),
vị trí gần trung tâm của vùng Đông Nam Bộ, nằm gần các Tỉnh và TP phát triển năng động(
TP.HCM, Bình Dương, Bà rịa-vũng tàu), đây vừa là nơi cung cấp các loại máy móc, kĩ thuật cho
các trang trại tại Đồng Nai, vừa là thị trường tiêu thụ các sản phẩm của các trang trại (nhu cầu về
các sản phẩm nông nghiệp tại các Tỉnh và Thành Phố này rất lớn, không những để phục vụ cho nhu
cầu tiêu dùng hàng ngày của con người mà còn cung ứng nguyên liệu cho các ngành công nghiệp
chế biến).
2.7.2 Những thuận lợi
Trên cơ sở thực hiện nghị quyết 14/NQ-TW về “tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến
khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân” trên địa bàn, được sự quan tâm của Tỉnh uỷ,
UBND tỉnh đã chỉ đạo cho các cơ quan chuyên môn thực hiện các chính sách hỗ trợ như đầu tư sửa
chữa các công trình thuỷ lợi: Mở rộng, nâng cấp hệ thống kênh mương, khoan giếng phục vụ tưới
tiêu, đầu tư kết cấu hạ tầng (xây dựng sửa chữa đường, điện…)
Trong thời gian qua, kinh tế trang trại được hỗ trợ thông qua các chương trình lồng ghép như:
- Xây dựng các mô hình trình diễn theo Nghị định 56/2005/NĐ-CP ngày 26/4/2005 của
Chính phủ về khuyến nông, khuyến ngư; Chương trình phát triển các loại cây trồng, vật nuôi chủ
lực trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006-2010.
- Chương trình tập huấn, nâng cao năng lực quản lý trang trại thực hiện theo Nghị quyết
03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại.
- Chương trình đăng ký thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa theo văn bản số 8395/CTr-HTQT
ngày 26/12/2005 của Ban hợp tác kinh tế quốc tế tỉnh Đồng Nai về việc hỗ trợ các doanh nghiệp
bảo hộ tài sản trí tuệ trong quá trình hội nhập giai đoạn 2006 – 2010 trên địa bàn Tỉnh
- Chương trình xúc tiến thương mại, hỗ trợ các chủ trang trại tham dự các hội chợ triễn lãm
trong và ngoài Tỉnh.
- Được cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại
2.7.3 Những hạn chế, khó khăn
Một trong những khó khăn lớn hiện nay của các hộ nông nghiệp nói chung và trang trại nói
riêng là vấn đề tiêu thụ sản phẩm. Quy mô sản xuất của các trang trại tương đối lớn, sản phẩm mang
tính hàng hóa nhưng chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Do đó, đầu ra của
sản phẩm không ổn định và thường bị tư thương lái ép giá. Mặt khác, trong những năm qua dịch
bệnh trên cây trồng, vật nuôi xảy ra khá phức tạp, giá vật tư phục vụ nông nghiệp ngày càng tăng
cao làm ảnh hưởng đến việc đầu tư sản xuất của các trang trại.
Phần lớn các chủ trang trại đều thiếu vốn để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Ngoài nguồn
vốn tự có của mình, các chủ trang trại rất cần các nguồn vốn vay khác, mặc dù Nhà nước có nhiều
chính sách hỗ trợ vốn vay tuy nhiên thủ tục cho vay còn nhiếu khó khăn trở ngại.
Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất của các trang trại còn hạn chế, trình độ
chuyên môn chưa cao, thiếu thông tin về thị trường, thường lúng túng và chịu thua thiệt khi giá
nông sản và vật nuôi xuống thấp. Nhận thức về mô hình kinh tế trang trại chưa cao, một số trang trại
chưa chú trọng trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất cụ thể. Công nghệ chế biến sau thu hoạch
cũng chưa được các chủ trang trại quan tâm đầu tư thoả đáng nhằm tăng giá trị sản phẩm. Chính vì
vậy hoạt động kinh tế trang trại chưa thực sự vững mạnh và bền vững, chưa là động lực giúp kinh tế
hộ phát triển.
Phần lớn các trang trại chưa linh hoạt, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Sự liên kết giữa
các trang trại với nhau và liên kết giao dịch với các tổ chức kinh tế khác còn ở mức thấp nên rất dễ
bị thiệt thòi trong việc bán các sản phẩm do trang trại sản xuất.
Sự hình thành và phát triển của một số loại hình tự phát thiếu sự quy hoạch đã gây ảnh hưởng
ô nhiễm môi sinh, môi trường và quy hoạch chung như: Chăn nuôi heo gây ô nhiễm môi trường,
nuôi cá bè quá nhiều làm ô nhiễm nguồn nước sông Đồng Nai… Do đó, cần phải tăng cường quản
lý và quy hoạch đối với các loại hình trang trại này trong thời gian tới.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI TỈNH ĐỒNG NAI
3.1. Quan điểm và định hướng phát triển
3.1.1 Quan điểm phát triển kinh tế xã hội Tỉnh Đồng Nai thời kì 2006 -2010
3. 1.1.1 Quan điểm phát triển bền vững, kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội,bảo vệ và tái tạo môi trường sinh thái
Để giải quyết các mục tiêu về kinh tế xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân.Tỉnh chủ trương đẩy mạnh quá trình đô thị hóa, nâng cao tỉ lệ dân thành thị, nhưng đồng thời
tiếp tục phát triển nông nghiệp và nông thôn, giảm đáng kể sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị.
Đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực, phát triển mạnh những dịch vụ
xã hội cơ bản như giáo dục, bảo vệ sức khỏe, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, giảm đáng
kể số lao động nghèo. Phát triển kinh tế nhanh phải đi kèm với bảo vệ môi trường sinh thái, không
để xảy ra các sự cố môi trường. Tăng cường quản lí, bảo vệ rừng đầu nguồn, các nguồn nước phục
vụ sản xuất và sinh hoạt của dân cư.
3.1.1.2 Quan điểm phát huy tối đa và hài hòa các nguồn nội lực và ngoại lực, tranh thủ tận dụng
các cơ hội, vượt qua thách thức
Trong thời kì nước ta đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nên cơ hội thuận lợi rất nhiều,
đặc biệt là việc huy động các nguồn vốn và ngoại tệ bên ngoài. Nhưng khả năng cạnh tranh thấp của
lao động và hàng hóa sản xuất trong nước…là những thách thức không nhỏ. Do vậy cần phát huy tối
đa các nguồn nội lực và lợi thế so sánh của Tỉnh trong mối liên hệ chặt chẽ với các Tỉnh khác trong
vùng và cả nước.
Các nguồn nội lực, gồm cả đất đai, lao động, nhất là lao động có kĩ thuật cao…trong đó đường
lối đổi mới của Đảng có ý nghĩa quyết định nhất. Việc phát huy tối đa sức mạnh của Tỉnh và sự liên
kết với các Tỉnh khác trong vùng và trong nước có ý nghĩa quan trọng, làm nâng cao nội lực của
Tỉnh. Chỉ có nguồn nội lực mạnh mẽ mới có điều kiện tiếp thu các nguồn vốn, kĩ thuật, công nghệ
và kinh nghiệm quản lí từ bên ngoài và từng bước chuyển hóa thành nguồn nội lực mới, cũng cố vị
thế kinh tế của Tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam và cả nước.
3.1.1.3 Quan điểm xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí, thúc đẩy sự phát triển với hiệu quả cao nhất
Phát huy sức mạnh tổng hợp của Tỉnh và sức mạnh liên kết với cả vùng, thực hiện chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng: đẩy mạnh phát triển công nghiệp; đa dạng hóa các loại hình dịch vụ; tiếp
tục phát triển nông nghiệp bền vững gắn với công nghiệp.
Phát triển hài hòa thành thị và nông thôn, giảm áp lực gia tăng dân số trong toàn tỉnh, đặc biệt là
ở đô thị. Quan tâm đến nâng cao chất lượng cuộc sống ở nông thôn.
3.1.1.4 Quan điểm lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn lựa chọn các phương án phát triển
Những kế hoạch phát triển phải được phân tích kĩ về hiệu quả theo các phương án khác nhau,
tận dụng tối đa các lợi thế so sánh. Với mỗi phương án phát triển của từng ngành, từng địa phương
cần đưa ra các bước đi thích hợp để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả.
3.1.2 Định hướng phát triển
3.1.2.1 Định hướng phát triển chung của Tỉnh Đồng Nai đến 2020
Định hướng phát triển kinh tế, xã hội của Tỉnh được xác định trong Hồ sơ quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh Đồng Nai đến năm 2020 như sau:
- Đóng vai trò là một cực tăng trưởng kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Đồng Nai
cần phát huy điều kiện xuất phát điểm đã có, kết hợp nội lực với các nguồn lực bên ngoài, chủ động
nắm bắt thời cơ hội nhập để phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao hơn nữa vai trò động lực và đóng
góp của Tỉnh vào phát triển kinh tế, xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, nâng cao năng xuất lao động
(GDP/ lao động), hiệu quả sử dụng đất (GDP công nghiệp, nông nghiệp/ha đất) và hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư để tạo ra GDP (GDP/tổng vốn đầu tư phát triển ).Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
kết hợp với xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển đô thị và nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Chuyển đổi nhanh cơ cấu sản phẩm theo hướng gia tăng hàm lượng công nghệ, lao động kĩ
thuật và đi trước đón đầu để nâng cao sức cạnh tranh của công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp trong
điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Phát triển nhanh một số ngành công nghiệp,
dịch vụ mũi nhọn có thế mạnh trở thành ngành kinh tế chủ lực để thúc đẩy và tiếp tục duy trì tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao trong các giai đoạn sau 2010, đồng thời phát huy vai trò lan tỏa về công
nghiệp, dịch vụ của Tỉnh với vai trò là một trong những đầu tàu lôi kéo phát triển kinh tế của vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam.
- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và
bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với nâng
cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo công bằng và dân chủ xã hội,
sử dụng hợp lí tài nguyên và môi trường.
- Phát triển kinh tế xã hội phối hợp với quá trình phát triển chung của vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam và của cả nước, hợp tác chặt chẽ với các Tỉnh, Thành Phố trong vùng để phát triển kết cấu
hạ tầng, thu hút đầu tư, bảo vệ môi trường.
* Mục tiêu tổng quát là phải phát triển nhanh, toàn diện và bền vững các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, xã hội và bảo đãm vững chắc quốc phòng, an ninh; xây dựng Đồng Nai trở thành trung tâm
công nghiệp, dịch vụ lớn và hiện đại của khu vực phía Nam; phấn đấu đến năm 2015 trở thành Tỉnh
cơ bản công nghiệp hóa, hiện đại hóa và năm 2020 trở thành Tỉnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hướng ưu tiên phát triển từ nay đến 2020:
Giai đoạn sau 2010, qui mô GDP của nền kinh tế tăng lên gấp đôi so với hiện nay, kết cấu hạ
tầng được nâng cấp và xây dựng như các tuyến trục quốc lộ, tuyến cầu đường từ Quận 9 (TP.HCM)
sang Nhơn Trạch, tuyến cao tốc TP. HCM- Long Thành- Dầu Giây được hoàn thành cộng với các
khu, cụm cảng biển, công nghiệp, dịch vụ, du lịch và đô thị mới được xây dựng là những nhân tố tác
động rất quan trọng đến bước phát triển tiếp theo của tỉnh. Trên cơ sở đó, hướng ưu tiên phát triển
trong giai đoạn này được xác định như sau:
- Thứ nhất, phát triển khu kinh tế và các thành phố, khu đô thị mới hiện đại để tạo chuyển biến
bứt phá về phát triển kinh tế- xã hội. Tập trung phát triển khu kinh tế mở gắn với cảng sông, sân
bay, đường cao tốc, khu đô thị, dịch vụ và KCN; xây dựng thành phố Nhơn Trạch, Long Thành,
hiện đại hoá kết cấu hạ tầng và các khu chức năng của thành phố Biên Hoà.
- Thứ hai, tiếp tục ưu tiên đầu tư xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, tập
trung xây dựng các công trình trọng điểm giao thông, cấp nước, cấp điện và viễn thông phục vụ phát
triển các tiểu vùng kinh tế nhất là các khu kinh tế động lực trong tỉnh và kết nối tỉnh với bên ngoài.
- Thứ ba, phối hợp triển khai xây dựng và nhanh chóng đưa vào hoạt động theo từng giai đoạn
sân bay quốc tế Long Thành để tạo cửa mở hàng không giao lưu với bên ngoài và đột phá thúc đẩy
phát triển dịch vụ.
- Thứ tư, hoàn thành xây dựng, nâng cấp hệ thống cảng sông, tập trung cho các cảng nước sâu,
cảng biển đầu mối trên sông Thị Vải, sông Lòng Tàu như Phước An, Phú Hữu.
- Thứ năm, đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ mũi nhọn như vận chuyển- kho bãi và
đường không, dịch vụ viễn thông- công nghệ thông tin, dịch vụ tài chính- ngân hàng trở thành các
ngành kinh tế chủ lực đóng góp lớn vào qui mô và tốc độ gia tăng GDP của nền kinh tế.
- Thứ sáu, đẩy nhanh tốc độ CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng các mô hình nông
thôn mới hiện đại về phát triển kinh tế và xã hội, nhân rộng các mô hình sản xuất khu nông nghiệp,
trang trại nông nghiệp công nghệ cao.
- Thứ bảy, phát triển các khu công nghiệp sản xuất liên hợp các sản phẩm cơ khí, điện tử, hoá
phẩm có trình độ kỹ thuật cao, đồng thời mở rộng phát triển các khu, cụm công nghiệp tổng hợp ở
khu vực nông thôn.
3.1.2.2 Định hướng phát triển nông nghiệp của Tỉnh Đồng Nai đến 2020
Định hướng phát triển nông nghiệp :
Theo phương án tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế, dự kiến quá trình chuyển
đổi cơ cấu lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp ở mức độ nhanh, dân số phụ thuộc chủ yếu
vào nông nghiệp trong tỉnh vẫn còn 680- 690 nghìn người, 510- 520 nghìn người và 350- 360 nghìn
người vào 2010, 2015 và 2020. Cân đối giữa mức thu nhập (từ nông nghiệp) bình quân đầu người
trong khu vực dân cư nông nghiệp và GTGT/ha đất nông nghiệp ở tỉnh, để thu nhập bình quân đầu
người/tháng (giá hiện hành) đạt 500- 600 nghìn đồng/tháng (gấp khoảng hơn 2 lần so với tiêu chí
mới về thoát nghèo ở nông thôn, đạt từ 250.000 đồng/người tháng trở lên).
Trong điều kiện diện tích đất nông nghiệp dần thu hẹp lại để chuyển sang mục đích sử dụng
phi nông nghiệp, để bảo đảm nuôi sống và tiếp tục nâng cao đời sống các hộ nông nghiệp, phát triển
sản xuất nông nghiệp cần tạo được đột phá theo hướng nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi, nâng
cao nhanh GTGT nông nghiệp/ ha đất.
Về thị trường tiêu thụ: Với nhịp độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân đầu người, thị
trường tiêu thụ lương thực thực phẩm (kể cả tự cung tự cấp) trong tỉnh đến 2015 và 2020 ước tính
có giá trị khoảng 12 nghìn tỷ đồng, 17 nghìn tỷ và 24 nghìn tỷ. Nhu cầu tiêu thụ LTTP chủ yếu bao
gồm:
- Gạo: 361 nghìn tấn, 365 nghìn tấn, 367 nghìn tấn vào 2010, 2015, 2020.
- Thịt: 43 nghìn tấn, 52 nghìn tấn, 62 nghìn tấn vào 2010, 2015 và 2020.
- Trứng: 290 nghìn quả, 365 nghìn quả và 424 nghìn quả.
- Sữa cần 16 nghìn tấn; 21 nghìn tấn và 33 nghìn tấn.
- Rau đậu: 250 nghìn tấn, 300 nghìn tấn và 340 nghìn tấn
- Trái cây: 77 nghìn tấn, 99 nghìn tấn và 118 nghìn tấn
- Đường: 14 nghìn tấn; 18 nghìn tấn và 22 nghìn tấn.
Tiếp tục phát huy tiềm năng, lợi thế về điều kiện đất đai, sinh thái kết hợp với nâng cấp, hiện
đại hoá có trọng điểm hệ thống thuỷ lợi, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến và đổi mới mô
hình sản xuất để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hoá, xây dựng các vùng cây trồng, vật nuôi
tập trung có qui mô sản xuất lớn, sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường tiêu
thụ trong nước và chế biến xuất khẩu.
Chuyển đổi mạnh sản xuất nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp ứng dụng công nghệ,
tiến bộ kỹ thuật cao và hiện đại đồng thời chuyển dịch nhanh cơ cấu sản xuất nông nghiệp từ trồng
trọt sang chăn nuôi để nâng cao GTGT nông nghiệp/ha đất. Tạo đột phá bằng xây dựng và phát triển
các mô hình kinh doanh sản xuất nông nghiệp, các khu nông nghiệp công nghệ cao và các mô hình
kinh tế trang trại, HTX chăn nuôi, trồng trọt có mức độ chuyên môn hoá và thâm canh cao.
Phát triển nông lâm nghiệp gắn liền với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá và hợp tác hoá.
Phát triển hài hoà kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình, kinh tế HTX và các thành phần kinh tế khác
phù hợp với quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp và tốc độ chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng phi nông nghiệp để bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống của các hộ nông
dân nhất là các hộ nông dân nghèo và bảo vệ môi trường sinh thái trong tỉnh.
Tăng cường phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản để đáp ứng yêu cầu mở rộng sản
xuất nông nghiệp hàng hoá và nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản qua chế biến. Theo tính toán
khả năng phát triển sản xuất, sau khi đã tiêu thụ làm lương thực, thực phẩm tại chỗ trong tỉnh, ước
tính yêu cầu cần chế biến và tiêu thụ nông sản ra thị trường bên ngoài tỉnh đến 2015 và 2020 của
một số nông sản hàng hóa chủ yếu như sau:
Rau đậu: 70- 80 nghìn tấn, 180- 200 nghìn tấn và 250- 300 nghìn tấn.
Trái cây: 250- 280 nghìn tấn, 340- 370 nghìn tấn và 430- 460 nghìn tấn.
Thịt gia súc, gia cầm: 40- 50 nghìn tấn, 70- 80 nghìn tấn, 90- 100 nghìn tấn.
Sữa tươi cần chế biến: 8- 10 nghìn tấn, 20- 22 nghìn tấn, 28- 30 nghìn tấn.
Chế biến điều và tiêu cần nâng công suất chế biến lên gấp đôi mức hiện nay đến 2020.
Định hướng phát triển kinh tế trang trại của Tỉnh Đồng Nai:
Định hướng trước mắt:
Căn cứ vào những thuận lợi, khó khăn và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội Đồng
Nai đến năm 2020; Định hướng phát triển nông nghiệp của Tỉnh, có thể đưa ra một vài định hướng
phát triển kinh tế trang trại tại Tỉnh cho hiện tại và cho thời gian tới:
- Khuyến khích các cá nhân, hộ gia đình trong Tỉnh phát triển kinh tế trang trại nếu có điều
kiện thuận lợi về đất đai, vốn…Từ đó nhằm khai thác tốt những tiềm năng hiện có vào phát triển
kinh tế trang trại để vừa tạo việc làm vừa tăng thu nhập cho người nông dân.
- Phát triển các loại hình trang trại theo đúng quy hoạch, góp phần hình thành các vùng sản
xuất tập trung, vùng chuyên canh, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp. Từ đó thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Đồng Nai.
- Thực hiện tốt vai trò quản lí của Nhà nước đối với kinh tế trang trại, có những chính sách
và giải pháp đồng bộ vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội. Đồng thời khuyến khích chủ
trang trại làm giàu chính đáng.
- Xây dựng các cơ sở nghiên cứu giống cây trồng và vật nuôi có chất lượng cao, thích nghi
với với điều kiện sinh thái của Tỉnh. Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, tăng cường công
tác thú y…tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển.
- Những vùng có điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản, như khu vực rừng ngập mặn
Long Phước, Phước Thái thuộc huyện Long Thành, sẽ phát triển các trang trại nuôi trồng thủy sản
nhằm tận dụng diện tích mặt nước sông, hồ. Việc phát triển các trang trại nuôi trồng thủy sản phải
dựa trên cơ sở quy hoạch tổng thể của cả khu vực và đảm bảo môi trường sinh thái không bị suy
thoái.
- Thực hiện việc kết nối sản xuất với thị trường tiêu thụ và công nghiệp chế biến, nhằm nâng cao
giá trị sản phẩm và tìm đầu ra ổn định cho sản phẩm nông nghiệp.
Định hướng phát triển lâu dài:
- Những vùng, huyện có quỹ đất lớn ( Huyện Đinh Quán, Tân Phú, Vĩnh Cửu), các loại đất trống
đồi trọc, đất hoang hóa dồi dào thì sẽ phát triển theo hướng quãng canh.
- Khuyến khích xây dựng thêm nhiều trang trại mới và mở rộng, hoàn thiện các trang trại hiện có
- Những khu vực quỹ đất không lớn hay không còn nhiều đất hoang hóa thì tập trung cũng cố các
trang trại đã có và phát triển theo hướng thâm canh, tăng năng suất cây trồng vật nuôi bằng cách sử
dụng tích cực hơn những thành tựu, tiến bộ KHKT và công nghệ sinh học hiện đại.
- Phát triển theo hướng hợp tác (liên doanh liên kết nhiều hơn dưới mọi hình thức ).
- Phát triển theo chiều sâu ( đi vào thâm canh, chuyên môn hóa )
- Sử dụng đa dạng sinh học trong quy hoạch và phát triển kinh tế trang trại:
Việc phát triển trang trại dù ở quy mô nào cũng đều phải có quy hoạch, dựa trên cơ sở Hệ Sinh
Thái, đồng thời tuân thủ các nguyên tắc cơ bản về quy luật kinh tế trong phát triển bền vững.
Việc hình thành, phát triển kinh tế trang trại dù ở quy mô nào hay bất kỳ trên địa bàn nào cũng
đều phải có cách nhìn tổng hợp trên cơ sở tiếp cận sinh thái hệ thống (Systems ecology). Bởi lẽ, mỗi
một vùng hay một tiểu vùng trên địa bàn dự định phát triển trang trại phải coi như là một hệ thống
bao gồm các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội, có sự tác động qua lại lẫn nhau bởi chu trình vật chất
và năng luợng mà trong đó vai trò của đa dạng sinh học, cụ thể là các nguồn gen thực vật, động vật,
vi sinh vật dù là hoang dại hay các cây trồng, vật nuôi truyền thống đều có vị trí then chốt. Thử đi
ngược lại dòng lịch sử nước ta thuở xa xưa vào thời Lý và Trần ở thế kỷ XI và XIV, cuộc sống của
cộng đồng dựa trên nền nông nghiệp thô sơ, cho đến thời kỳ nông nghiệp phát triển ngày càng tiến
bộ, hiện đại như ngày nay cũng đều có sự tham gia tích cực của kinh tế trang trại. Vì vậy, việc tiếp
cận kinh tế - sinh thái là phải chú ý tới tính thích nghi sinh thái của các nguồn gen thực vật, động
vật, vi sinh vật. Nhờ sự đa dạng các Hệ sinh thái, sự phong phú các nguồn gen, sự đa dạng về loài
cũng như sự giàu có về các kinh nghiệm truyền thống trong việc khai thác sử dụng các nguồn tài
nguyên sinh học của các cộng đồng sống trên lãnh thổ Việt Nam; đồng thời kết hợp một cách hài
hòa, thông minh các kỹ thuật hiện đại như công nghệ sinh học đã và sẽ góp phần to lớn trong công
tác chọn lựa các phương án qui hoạch, thiết kế xây dựng kinh tế trang trại với phương châm sử dụng
hợp lý, lâu dài các tiềm năng sẵn có trong thiên nhiên. Đó là một quan điểm đúng đắn, một cách
nhìn tổng hợp để phát triển sản xuất trên những vùng đất trống, đồi trọc, những dải cát ven biển,
những vùng đất ngập nước ở nước ta nói chung và ở Đồng Nai nói riêng
Thực tiễn đã chứng minh giá trị to lớn của đa dạng sinh học trong việc phát triển Kinh tế trang
trại ở nước ta, góp phần làm tăng các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản, lâm sản ngoài gỗ, dược liệu;
bảo vệ và làm giàu các lớp thổ nhưỡng, bảo vệ nguồn sinh thủy phục vụ phát triển kinh tế - xã hội,
cải thiện đời sống, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, cũng trong thời gian qua không ít chủ trang trại đã
bị phá sản hoặc không mang lại hiệu quả mong muốn. Nguyên nhân chính là do sự nhận thức chưa
đầy đủ về mối quan hệ gắn bó giữa đặc điểm đa dạng sinh học với các yếu tố môi trường xung
quanh, chưa thấy hết được giá trị tiềm ẩn của nguồn tài nguyên này trên mảnh đất mình đang làm
chủ. Vì vậy, đã xảy ra không ít các trường hợp làm suy thoái đất, làm mất đi các nguồn gen bản địa
đã từng thích nghi trên diện tích mình đang kinh doanh, gây ô nhiễm môi trường trong các trang trại
nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc.
Những người chủ trang trại phải nhìn nhận một cách khách quan khi tiến hành xây dựng kinh
tế trang trại với qui mô nào cũng phải nhìn nhận, đánh giá một cách tổng thể điều kiện tự nhiên và
các nguồn tài nguyên đa dạng sinh học đang tích lũy trong hệ sinh thái. Muốn vậy, trước tiên phải
coi trọng đúng mức công tác qui hoạch thiết kế. Và khi tiến hành qui hoạch phát triển trang trại cần
tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, gắn chặt mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phục vụ
lợi ích cộng đồng (gia đình và xã hội) một cách lâu dài và ổn định.
Hai là, đảm bảo cân bằng vật chất, cân bằng năng lượng và cân bằng sinh thái trong trang trại,
nhằm giữ thế ổn định của chu trình sinh - địa - hóa, không làm vượt quá khả năng, chức năng đáp
ứng và tiêu thụ của một hệ sinh thái .
Ba là, phải đạt mức độ phù hợp coi trọng việc khai thác hợp lý tiềm năng đất đai, vi khí hậu,
nguồn nước, tài nguyên sinh vật trên nền tảng sinh thái cá thể, sinh thái quần thể và bảo vệ cải thiện
cảnh quan.
Bốn là, đảm bảo đáp ứng sự phát triển nhưng không mâu thuẫn với điều kiện phát triển vĩ mô
và hoạt động bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học ở địa phương.
Năm là, không làm cản trở sự phát triển các hệ sinh thái khác, không gây tác động xấu đến các
hệ sinh thái lân cận cũng như sự ảnh hưởng đối với sức khỏe cộng đồng xung quanh.
Sáu là, phải tuân thủ thực hiện nghiêm túc Luật bảo vệ môi trường, các qui chế, qui định, các
chính sách của Nhà nước và địa phương.
Bảy là, phải xây dựng, phát triển tiềm lực về vốn cùng với học hỏi kế thừa các kiến thức bản
địa, kinh nghiệm truyền thống của các lão nông, lão ngư... cũng như áp dụng thích hợp các kỹ thuật
tiến bộ vào sản xuất.
Tám là, đánh giá yếu tố thuận lợi (sử dụng), dự báo những khó khăn và những diễn biến về môi
trường cảnh quan ảnh hưởng đến sản xuất và dự kiến các giải pháp đề phòng, khắc phục.
Chín là, sử dụng, bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kỹ thuật và lao động có tay nghề,
giữ mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng.
Trên cơ sở các nguyên tắc nêu trên để qui hoạch phát triển trang trại bền vững, cần phải tiến
hành theo 5 bước: Điều tra khảo sát, xác định chức năng kinh tế - xã hội - văn hóa của trang trại,
xem xét tác động môi trường, lựa chọn phương án ưu tiên phát triển trang trại, xây dựng chuẩn mực
về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và môi trường.
3.2. Một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở Đồng Nai
Sự phát triển của kinh tế trang diễn ra một mặt là do hoạt động của các chủ trang trại, mặt khác
do sự tác động tích cực của nhà nước với tư cách là chủ thể quản lí. Nhằm thúc đẩy kinh tế trang tại
phát triển theo định hướng đã định, phù hợp với thực trạng của Tỉnh cần tập trung thực hiện một số
giải pháp chủ yếu.
3.2.1 Đổi mới nhận thức, khai thông tư tưởng đối với kinh tế trang trại.
Một trong những nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển kinh tế trang trại là sự nhận thức
chưa sâu sắc, chưa đúng về bản chất, đặc trưng, vai trò, vị trí của kinh tế trang trại trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những hạn chế của kinh tế trang trại thường được đánh giá quá lớn, trong
khi đó những mặt ưu điểm chưa được đánh giá đúng mức.Vấn đề tích tụ ruộng đất, thuê mướn lao
động, phân hóa giàu nghèo, hủy hoại môi trường…luôn được đề cao khi bàn về kinh tế trang trại.
Để đổi mới nhận thức, khai thông tư tưởng đối với kinh tế trang trại, Tỉnh cần có kế hoạch và
tổ chức thực hiện nghị quyết 03/2000/NQ-CP về kinh tế trang trại của chính phủ một cách sâu rộng,
trong mọi tầng lớp nhân dân với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, kéo dài trong một giai đoạn
nhất định. Thông qua đó để nâng cao nhận thức cho mọi ngành, mọi cấp về kinh tế trang trại một
cách có hệ thống, làm cho nông dân nắm rõ những chủ trương, phương hướng phát triển kinh tế
trang trại của Tỉnh, qua đó tạo môi trường xã hội tốt, kích thích mọi người tích cực xây dựng trang
trại và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho trang trại phát triển.
3.2.2 Giải pháp về đất đai
Đất đai vốn là tư liệu sản xuất cơ bản của nông nghiệp, là yếu tố quan trọng bậc nhất của kinh
tế trang trại, nên việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ sở hữu, sử dụng đất đai hợp qui luật, hợp
pháp, hợp lòng người sẽ góp phần tích cực vào giải quyết những vấn đề kinh tế -xã hội đối với nông
nghiệp và nông thôn nói chung và tạo động lực cho sự chuyển mình của trang trại.
Đất đai là mối quan tâm hàng đầu đối với các trang trại. Trên thực tế những năm qua Đảng và
Nhà Nước ta đã có nhiều đổi mới về chủ trương, chính sách ruộng đất, tạo điều kiện cho người nông
dân tự chủ hoàn toàn về sử dụng ruộng đất và cũng tạo điều kiện cho quá trình tập trung ruộng đất
diễn ra thuận lợi. Tuy nhiên, quá trình tập trung đất đai phát triển kinh tế trang trại diễn ra còn
chậm. Ở Đồng Nai, quy mô bình quân của trang trại chỉ 3,8 ha, 16,6% đất của trang trại chưa được
giao quyền sử dụng lâu dài, phần lớn ở dạng đất chuyển nhượng, đất nhận khoán của chủ dự án, đất
nhận thầu của nông lâm trường. Nhiều hộ sử dụng đất ở nông thôn chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thực trạng trên đã hạn chế phần nào mức độ đầu tư để khai thác triệt để đất đai
và phát triển trang trại. Để thúc đẩy kinh tế trang trại nhanh hơn nữa, về mặt thực hiện quy định của
nhà nước trên lĩnh vực đất đai, Đồng Nai cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch sản xuất nông nghiệp để giúp các
trang trại bố trí sản xuất hợp lí theo hướng phân công chuyên môn hóa, kết hợp với phát triển tổng
hợp và khai thác có hiệu quả nhất đất đai, giữ vững môi trường sinh thái, phát huy lợi thế của từng
trang trại.
- Có chính sách hạn điền linh hoạt, phù hợp với những điều kiện thực tiễn cụ thể. Có qui định
mức hạn điền là do có tích tụ và tập trung đất đai, đây là một quá trình tất yếu trong nền kinh tế thị
trường, là kết quả chủ yếu của quá trình chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Hiện nay ở Đồng Nai
còn nhiều đất trống đồi trọc, đất hoang hóa mà đầu tư vào rất tốn kém (ở Tân Phú, Định Quán, Xuân
Lộc, Cẩm Mỹ), vì vậy cần có chính sách hạn điền linh hoạt với việc thừa nhận việc tích tụ và tập
trung đất đai bằng cách cho chủ trang trại nào có khả năng mở rộng khai hoang sản xuất tới đâu
chứng nhận quyền sử dụng đất tới đó mà không qui định mức hạn điền. Dù vấn đề này có thể sẽ dẫn
đến những hậu quả tiêu cực là một số bộ phận nông dân cần đất nhưng không có đất, ngược lại một
bộ phận khác chuyên đầu cơ kinh doanh đất đai qui mô lớn. Một số giải pháp cụ thể về vấn đề hạn
điền:
+ Đất đai đang thuộc quản lí sử dụng của các trang trai:
Những nơi đã đi vào sản xuất ổn định hay đã có quy hoạch về các loại cây trồng, vật nuôi
thì hạn điền gắn với đặc điểm của loại cây trồng, vật nuôi đó. Vì mọi loại cây trồng, vật nuôi chỉ có
thể tham gia kinh tế hàng hóa khi nó đạt được quy mô nhất định.
Đối với các trang trại hiện đang quản lí số ruộng đất quá mức hạn điền, nếu làm ăn có hiệu
quả cần tiếp tục cho sử dụng (thuê hay giao). Tiền thuê đất vượt hạn điền cần cụ thể cho từng vùng,
từng loại đất. Đối với diện tích đất hoang hóa, đất trống đồi trọc mà chủ trang trại khai phá được
chính quyền cho phép, đề nghị không nên đánh thuế phụ thu ít nhất là 10 năm kể cả phần đất vượt
hạn điền. Những trang trại hoạt động theo hình thức dự án do các cấp có thẩm quyền duyệt với quy
mô diện tích lớn hàng trăm ha, đề nghị cho chuyển sang hoạt động công ty theo luật công ty. Các dự
án đầu tư khai thác trồng mới cây lâu năm: cao su, cà phê, điều…rồi giao khoán lại cho các hộ thuộc
địa phương chăm sóc, phân phối theo sản phẩm, cần cho họ thuê đất nông lâm nghiệp ổn định theo
luật đất đai. Còn nếu chủ dự án nhận đất không làm gì mà chỉ cho thuê lại, thì cần thu hồi đất để
giao trực tiếp cho người sản xuất tại địa phương nếu họ có nguyện vọng lập nghiệp lâu dài, có vốn
để đầu tư phát triển trang trại.
+ Đất đai khi lập trang trại mới:
Đối với đất trống đồi trọc, hoang hóa ở xa các trục đường giao thông, các trung tâm dân cư,
thường là đất xấu ít người muốn nhận. Nên khuyến khích những người có điều kiện đầu tư để lập
trang trại mới, có thể đưa ra những chính sách ưu đãi như: cấp diện tích đất lớn hơn mức hạn điện,
không thu hay có giá ưu đãi về thuế…
Đối với những trang trại có phần đất tạm giao, đấu thầu vượt hạn điền lớn, khi hết thời hạn
nếu không có ý định sản xuất trang trại tiếp, thì nên thu hồi lại để giao cho những người muốn làm
trang trại.
Thời hạn giao đất : thực hiện theo luật đất đai đã được quốc hội sửa đổi, bổ xung và ban
hành năm 1999, thời hạn giao đất thống nhất với cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản là 20 năm, đối
với cây lâu năm là 50 năm. Nếu người sử dụng đúng luật và sản xuất có hiệu quả thì được nhà nước
giao đất đó để tiếp tục sử dụng.
Thủ tục giao đất: tiếp tục hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận sử dụng đất cho các trang trại
có đủ điều kiện theo quy luật hiện hành, để chủ trang trại yên tâm xây dựng kế hoạch đầu tư và phát
triển kinh tế.
Việc giao đất, cho thuê đất phải có hợp đồng chặt chẽ, nhất là những quy định về nghĩa vụ
khai thác, sử dụng đất trong trang trại (như: thuế, bảo vệ độ phì của đất, tài nguyên khoáng sản sẵn
có, bảo vệ môi trường sinh thái…). Nếu nhà nước cần thu hồi để làm việc khác, hay phát hiện của
quý dưới lòng đất cần thu hồi thì chủ trang trại phải giao lại và được đền bù thỏa đáng. Tất cả các
chi tiết đó đều được quy định rõ trong hợp đồng giao đất.
Việc làm nhà trên diện tích đất sản xuất trang trại: để tạo điều kiện cho chủ trang trại có nơi
trông coi, bảo vệ, sinh hoạt, nghỉ ngơi…Những vùng đã được quy hoạch tổng thể và chi tiết cho
phép chủ trang trại được xây dựng nhà kiên cố với một diện tích thổ cư nhất định; những nơi chưa
có quy hoạch chỉ cho phép làm nhà tạm trên diện ích đất sản xuất.
Vấn đề tích tụ và tập trung đất đai:
Hiện nay, vẫn còn nhiều trang trại chưa được hợp thức hóa quyền sử dụng đất. Việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đa số chưa đúng qui định của nhà nước ghi trong điều 31 và 75 Luật đất
đai, mà chỉ là thỏa thuận giữa đôi bên, phần lớn là do giao nhận. Nên rất khó khăn để được cấp sổ
đỏ.
Để việc tích tụ và tập trung đất đai đúng hướng khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, cần
có những giải pháp cụ thể phù hợp với từng loại đất:
- Tiến hành qui hoạch phát triển kinh tế nông nghiệp ở các địa phương, qui hoạch vùng sản
xuất hàng hóa, vùng cung cấ nguyên liệu.
- Cấp giây chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài đối với toàn bộ quĩ đất của trang trại hiện có
(được hình thành hợp pháp), kể cả phần đất vượt hạn điền mà các trang trại đang sản xuất.
- Giải quyết đất đai cho người làm trang trại có đất sản xuất, nhưng đồng thời cũng tạo điều
kiện để những người được giao đất nhưng không trực tiếp sản xuất trên đất được giao đó được
chuyển nhượng cho những người có nhu cầu sản xuất.
3.2.3. Giải pháp về vốn
Vốn của các trang trại bao gồm vốn cố định và vốn lưu động, vốn tự tạo và vốn huy động từ
các nguồn ngoài trang trại. Trong sản xuất ngoài vốn tự tạo, các trang trại còn sử dụng vốn vay ngân
hàng nhà nước và tư nhân, tiền mua hàng chịu các loại vật tư kĩ thuật của các cửa hàng và công ti
dịch vụ. Khác với sản xuất tự cấp tự túc của nền kinh tế tiểu nông, chủ yếu dùng vốn tự tạo, sản xuất
hàng hóa của kinh tế trang trại sử dụng ngày càng nhiều các nguồn vốn vay ngoài trang trại.
Bất cứ một thay đổi nào về quy mô hay công nghệ sản xuất của trang trại đều đòi hỏi phải có
vốn. Do vậy, để phát triển với hiệu quả kinh tế cao thì phải có chính sách hỗ trợ thỏa đáng về vốn
cho các chủ trang trại. Vì vậy cần chú ý:
Dành mức tín dụng lớn cho kinh tế trang trại, cho nông dân vay vốn với
lãi xuất ưu đãi. Có thể trích một phần ngân sách để lập quỹ phát triển hàng hóa, giao cho ngân hàng
làm dịch vụ cho vay và hưởng hoa hồng của nhà nước ( ngân hàng không dùng vốn này để kinh
doanh tiền tệ ). Đơn giản hóa các thủ tục cho vay, người dân nếu không có điều kiện để thế chấp
bằng bất động sản, thì nên mở rộng thế chấp bằng quyền sử dụng đất, mở rộng tín chấp , trên cơ sở
lấy uy tín của cộng đồng bảo lãnh. Đồng thời cũng có thể cho thế chấp bằng sản phẩm sẽ thu hoạch
trong các mùa sau.
Đa dạng hóa các hình thức cho vay, đặc biệt cần chú ý đến hình thức cho vay vốn bằng hình
thức tín chấp đối với những trang trại có những đề án sản xuất kinh doanh tốt, có hiệu quả. Năng lực
và uy tín của những chủ trang trại này là cơ sở bảo đảm an toàn vốn. Để tạo thuận lợi trong việc cho
vay, có thê lập quỹ bảo hiểm nông nghiệp cho ngân hàng, nếu ngân hàng cho vay mà trang trại làm
ăn thua lỗ thì quỹ này sẽ bù lỗ.
Mở rộng các tổ chức tín dụng đối với kinh tế trang trại và xây dựng cơ sở pháp lí thuận lợi cho
trang trại vay vốn.
Thực hiện chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất trong thời gian đầu thay đổi cơ cấu cây trồng,
tùy loại cây mà định thời gian khác nhau. Đối với cây ngắn ngày thì miễn giảm từ lúc trồng đến khi
thu hoạch vài vụ. Miễn giảm thuế chế biến, lưu thông, xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi và cây
công nghiệp, cây thực phẩm.
Ban hành những điều luật bảo vệ quyền lợi lâu dài cho những người đầu tư vốn vào sản xuất
nông nghiệp, khuyến khích những người ở thành phố đầu tư vào nông thôn.
Đồng Nai cần tập trung và có một kế hoạch cụ thể để hoàn thiện và phát triển những chính sách
ưu đãi về vốn cho các chủ trang trại:
- Trang trại phát triển sản xuất, kinh doanh trong những lĩnh vực thuộc đối tượng quy định tại
Điều 8 mục I Chương II của Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1999 của Chính
phủ được vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước và việc vay vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước thực hiện theo các quy định của Nghị định này.
- Chủ trang trại được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền
thuê đất, tiền thuê mặt nước theo quy định tại Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của
Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư; Nghị định số
142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về thu tiền thuế đất, thuế mặt nước khi thực hiện
các dự án đầu tư thuộc danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư ban hành kèm theo Nghị định số
108/2006/NĐ-CP;
- Chủ trang trại được vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội các cấp theo Quyết định số
71/2005/QĐ-TTg về cơ chế quản lý, điều hành vốn vay cho Quỹ quốc gia về việc làm; Thông tư
liên tịch số 34/2005/TTLT-BLĐTBXH-BTC-BKHĐT ngày 09/12/2005 về hướng dẫn một số điều
của Quyết định số 71/2005/QĐ-TTg ngày 05/04/2005của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý,
điều hành vốn cho vay của quỹ quốc gia về việc làm;
- Chủ trang trại đầu tư sản xuất rau, quả, chè an toàn được ưu tiên hỗ trợ theo Quyết định số
107/2008/QĐ-TTg ngày 30/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ phát triển
sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau, quả, chè an toàn đến năm 2015;
- Chủ trang trại được vay vốn từ Quỹ đầu tư phát triển và Quỹ trợ vốn phát triển Hợp tác xã
tỉnh Đồng Nai theo quy định.
3.2.4. Giải pháp về áp dụng khoa học kĩ thuật và công nghệ
Việc áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật và công nghệ mới vào sản xuất kinh tế trang trại là
giải pháp rất quan trọng để tăng năng xuất và hiệu quả của cây trồng vật nuôi. Áp dụng các thành
tựu khoa học tiên tiến của công nghệ sinh học, nhất là giống mới …cần được quan tâm hàng đầu.
Kinh tế trang trại chỉ sản xuất thực sự đạt hiệu quả, thực sự là một mô hình sản xuất nông
nghiệp mang tính hàng hóa cao nếu gắn với thành tựu của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là giống và
công nghệ chế biến:
* Về giống:
Đây có thể được xem là khâu then chốt mang lại năng xuất và sản lượng cao cho kinh tế
trang trại. Vì vậy cần đưa các loại giống có hiệu quả kinh tế cao, lai tạo các giống thích nghi với
điều kiện địa phương, chú trọng các giống bắp, đậu, bông vải…Bên cạnh đó cần quan tâm đến kĩ
thuật lai, chiết, ghép các cây ăn quả có giá trị như: xoài, sầu riêng, mãng cầu…nhằm tăng hiệu quả
sản xuất của các trang trại.
* Về khoa học công nghệ:
Chú trọng đẩy mạnh công nghiệp chế biến để vừa tiêu thụ được sản phẩm của nông nghiệp của
các trang trại vừa nâng cao giá trị các sản phẩm nông nghiệp. Góp phần giải quyết việc làm và tăng
thu nhập cho người nông dân. Trong đó đặc biệt chú ý đến ngành công nghiệp chế biến thức ăn gia
súc, chế biến hạt điều, chuối, các loại nước uống, đồ hộp, rau quả,…Cần quy hoạch xây dựng công
nghiệp chế biến: xây dựng mới các cơ sở chế biến hạt điều ở Long Khánh, phát triển các cơ sở chế
biến gỗ ở Huyện Vĩnh Cửu, Trảng Bom, Thống Nhất,…nhằm khai thác có hiệu quả các trang trại
lâm nghiệp.
Phát triển kinh tế trang trại là phát triển kinh tế hàng hóa, do đó phải được gắn liền với việc qui
hoạch phát triển các vùng chuyên canh tập trung, hình thành những vùng nguyên liệu để phát triển
công nghiệp bảo quản, công nghiệp chế biến và vận chuyển. Để hình thành và phát triển những
ngành công nghệ sau thu hoạch này, cần phải có sự kết hợp giữa chủ trang trại và các nhà lãnh đạo
cấp địa phương, tỉnh, nhà nước.
3.2.4. Giải pháp về thị trường tiêu thụ sản phẩm
Trong nền kinh tế hàng hóa sản phẩm sản xuất ra là để bán. Vì vậy, sản xuất cái gì, bao nhiêu,
sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều do thị trường chi phối.
Để tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển, phải hình thành được một hệ thống thị trường
mang tính chất quốc gia, đảm bao tính ổn định của thị trường, với những giải pháp sau:
- Hình thành từng bước các thị tứ, thị trấn ở nông thôn, biến các nơi này thành trung tâm thương
mại và dịch vụ. Đây sẽ là cầu nối của thị trường tại chỗ với thị trường bên ngoài. Bên cạnh đó, cũng
chú ý đến việc hình thành các tuyến đường, trục lộ, tạo ra các tụ điểm giao lưu và trao đổi hàng hóa.
- Chú trọng đến công tác dự báo thị trường, bao gồm cả thị trường trong và ngoài nước. Mở
rộng và tăng cường hệ thống thông tin kinh tế, đặc biệt là thông tin về thị trường, giá cả. Tạo điều
kiện tăng thêm khả năng tiếp thị của các hộ kinh doanh, bảo đảm cho các hộ có cơ hội để lựa chọn
mặt hàng hoặc dịch vụ thích hợp cung cấp cho thị trường, bảo đảm cả về hiệu quả lẫn về tài chính
và kinh tế. Nắm và điều tiết có hiệu quả đầu vào của các trang trại. Dự báo những nhu cầu nhập
khẩu vật tư, phân bón của trang trại bằng cách thông qua hệ thống tín dụng, ngân hàng, các doanh
nghiệp nhà nước có chức năng xuất khẩu, nhằm chống sự lũng đoạn thị trường, đầu cơ, buôn lậu, ép
giá làm thiệt hại cho kinh tế trang trại.
- Tổ chức hệ thống các kênh lưu thông nông sản của quốc doanh, bên cạnh tư thương để có thể
chủ động điều tiết sự lưu thông mua bán điều hòa nông phẩm. Khi có khó khăn về tiêu thụ nông sản
có thể can thiệp bằng các biện pháp kinh tế như trợ giá, giúp vốn…
- Khuyến khích sự liên kết, hợp tác thành lập các xí nghiệp vừa và nhỏ, bảo quản và chế biến
nông sản của các trang trại và của các doanh nghiệp khác. Đa dạng hóa các mặt hàng như sấy khô,
ép nước, đóng hộp…Tăng giá trị sản phẩm, kéo dài thời gian tiêu thụ.
- Các trang trại cần được hỗ trợ cung cấp thông tin thương mại, thị trường, kỹ thuật, các
chương trình xúc tiến thương mại; nên được ưu tiên mời tham dự các hội thảo về thương mại, dự
báo thị trường, dịch vụ khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất trồng trọt, lâm nghiệp, chăn nuôi,
thủy sản, dịch vụ tổng hợp trong nông nghiệp.
- Đối với các trang trại sản xuất hàng hóa, cần được hỗ trợ 100% kinh phí đăng ký nhãn hiệu
hàng hóa, xây dựng website, tư vấn cho việc lập hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại Sở
Khoa học và Công nghệ.
- Trường hợp chủ trang trại có nhu cầu tham gia hội chợ triển lãm hàng xuất khẩu trong và
ngoài nước nên được xem xét hỗ trợ cụ thể.
Ngoài ra, cũng nên chú trọng đến một số việc: nâng cao sức mua của dân bằng cách hướng dẫn
giúp đỡ nông dân đầu tư và đẩy mạnh sản xuất, tăng thu nhập; phát triển công nghiệp chế biến để có
những sản phẩm thích hợp, tiện ích cho tiêu dùng của dân; quan tâm đến mở rộng và phát triển thị
trường xuất khẩu các hàng hóa và dịch vụ nông thôn, trong đó chú ý đến việc duy trì quan hệ
thương mại với thị trường truyền thống, dễ tính, phù hợp với trình độ sản xuất của nước ta hiện nay,
đồng thời cũng tranh thủ cơ hội tìm kiếm thị trường mới.
3.2.5 Giải pháp về sử dụng lao động
Tuy cho đến nay kinh tế trang trại vẫn còn phát triển một cách tự phát và hoạt động của kinh tế
trang trại chưa theo một quy chế chung, song sự có mặt của nhiều trang trại lớn nhỏ trong nhiều
năm qua đã góp phần đáng kể vào việc giải quyết việc làm ở nhiều địa phương trong Tỉnh.
Với tư cách là chủ thể trực tiếp tác động lên đất đai để tạo ra của cải vật chất, sức lao động của
nông dân không những được coi là hàng hóa mà phải là hàng hóa đặc biệt. Về vấn đề lao động trang
trại, cần có những văn bản chính thức quy định về hình thức hợp đồng lao động, quyền hạn và trách
nhiệm của người thuê và người làm thuê. Có thể phát triển nhiều hơn nữa các trung tâm giới thiệu
việc làm ở các địa phương để điều tiết cung cầu.
Lao động trong các trang trại ở Tỉnh Đồng Nai phần lớn là dân địa phương và một phần nhỏ là
dân từ các Tỉnh khác đến. Giải quyết vấn đề di dân tự do như thế nào không phải là điều đơn giản,
nhưng cần hướng tới việc đơn giản hóa thủ tục cư trú không phân biệt đối xử để thu hút lao động có
tay nghề, kinh nghiệm đến lập nghiệp ở nơi đây.
Những trang trại có quy mô nhỏ, lao động chủ yếu là người thân của chủ trang trại ( vợ, con,
cháu, anh, em… ). Trang trại có quy mô lớn hơn thường phải thuê mướn lao động thường xuyên
hay theo thời vụ, việc thuê mướn được diễn ra trên cơ sở thỏa thuận bằng miệng, chưa có một cam
kết hay hợp đồng văn bản giữa chủ trang trại và người lao động. Dù chưa xảy ra tình trạng bóc lột
người lao động, nhưng vấn đề bảo vệ người lao động và đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người lao
động trong các trang trại, tạo cho họ có mức sống ngày càng cao, đồng thời tạo ra sự an tâm cho
người chủ trang trại vẫn cần được quan tâm hơn nữa. Trên cơ sở Bộ Luật Lao động đã ban hành,
cần nghiên cứu ban hành các quy chế sử dụng lao động đối với các trang trại. Trước mắt cần hướng
dẫn các chủ trang trại xây dựng các hợp đồng lao động ( thời vụ hoặc thường xuyên ), hai bên kí kết
với nhau để chủ trang trại và người lao động có cơ sở giám sát, bảo vệ quyền lợi lẫn nhau.
Ngoài ra, việc đào tạo, bồi dưỡng người lao động ( chủ trang trại và lao động sử dụng trong
trang trại ) là điều cần thiết để hoạt động sản xuất của trang trại đạt hiệu quả cao nhất
- Nội dung đào tạo đối với chủ trang trại: những vấn đề chung của kinh tế trang trại như vai trò,
vị trí, xu hướng phát triển, các chủ trương đường lối, chính sách về phát triển kinh tế trang trại đã
được ban hành; những kiến thức về quản trị kinh doanh như: Xác định phương hướng kinh doanh,
tổ chức sử dụng các yếu tố sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm; hạch toán kế toán; các kiến thức
về khoa học kĩ thuật…
- Với lao động trong trang trại:
+ Đối với lao động trong gia đình: là lực lượng được chủ trang tại tin tưởng và kế thừa nên
không những phải có trình độ về quản lí, khoa học kĩ thuật, kế toán tài chính mà còn phải tiếp cận
được thông tin thị trường. Về lâu dài họ có thể theo học các lớp chính qui, các trường đại học sau đó
về lập nghiệp tại các trang trại.
+ Đối với lao động làm thuê: cần đa dạng hóa các hình thức đào tạo, ngoài các hệ trường lớp
dạy nghề tập trung, cần khuyến khích các trang trại tự mở lớp đào tạo công nhân cho đơn vị mình
hoặc kết hợp với với các đoàn thể, các hội ngành, hội khuyến nông…đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn
thường xuyên
cho lao động.
3.2.6 Giải pháp về xây dựng các mô hình liên kết trang trại
Để có được khối lượng nguyên liệu nông sản hàng hóa tập trung, có chất lượng cao; giải quyết
khâu công nghệ sau thu hoạch và mở rộng khả năng tiêu thụ sản phẩm; tránh được sự ép giá của các
thương lái khi thu hoạch và chủ động hơn trước những diễn biến thất thường của thị trường; trao đổi
học hỏi kinh nghiệm giữa các trang trại… Các chủ trang trại phải chủ động và nỗ lực tiến hành liên
kết trong nhiều lĩnh vực hoạt động từ khâu sản xuất, chế biến, vận chuyển đến tiêu thụ sản
phẩm:
- Lập các hợp tác xã vận chuyển có trang thiết bị hiện đại ( hệ thống đông lạnh…) để chuyên
chở đưa đến nơi bảo quản, chế biến hoặc tiêu thụ cho các xã viên là các chủ trang trại hay các nông
hộ xung quanh.
- Lập các chợ bán sĩ các nông sản phẩm tại các cụm trang trại hoặc lập ra các hợp tác xã chuyên
sản xuất cây giống, chuyên một loại cây trồng như sầu riêng, nhãn, xoài, hoặc chân nuôi gia súc (bò,
heo ) và gia cầm.
- Lập các hội làm vườn, các câu lạc bộ theo địa phương ( ví dụ như mô hình các hội làm vườn ở
huyện Xuân Lộc, Cẩm Mỹ ). Thường xuyên trao đổi, thảo luận để chia sẽ kinh nghiệm kinh doanh
và hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau hoặc giới thiêu những gương điển hình trong sản xuất để học tập lẫn
nhau.
- Cùng nhau bỏ vốn hoặc vau vốn xây dựng cơ sở hạ tầng ( đường xá, hệ thống thủy lợi, kênh
mương…) trong từng cụm trang trại.
KẾT LUẬN
Trang trại với các tên gọi khác nhau: Nông trại, Lâm trại, Ngư trại nói lên rằng các loại hình
này phát triển đúng hướng, phù hợp với quy luật khách quan. Mỗi tên gọi của nó chứa đựng đặc thù
riêng của một ngành kinh tế độc lập, nhưng có quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau để
phát triển. Kinh tế trang trại ở các nước trên thế giới, ở Việt Nam và đặc biệt ở Đồng Nai đã và đang
trở thành xu thế phát triển với đẩy đủ ý nghĩa và nội dung của nó. Mỗi bước đi lên của kinh tế trang
trại nói chung là biểu hiện của sự tiến bộ về khoa học, công nghệ và quản lí của cả nước, sự phát
triển kinh tế xã hội với kết quả ngày một cao hơn, với hiệu quả nhiều mặt được thể hiện theo hướng
lâu bền, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn Việt Nam nói chung và
Đồng Nai nói riêng.
Mô hình kinh tế trang trại đã làm thay đổi bộ mặt của một nền nông nghiệp lạc hậu và mang
nặng tính thuần nông trước đây ở Việt Nam. Đấy là một mô hình sản xuất có hiệu quả cao, có thể
phát huy được những tiềm năng về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của một vùng, một lãnh thổ.
Đồng Nai, với những ưu thế của mình, là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại.
Hiện tại số lượng và qui mô các trang trại ở Đồng Nai còn hạn chế do tác động của những yếu
tố khách quan và chủ quan (chưa có thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định, kinh nghiệm kinh doanh
còn thiếu, kĩ thuật công nghệ chưa được ứng dụng rộng rãi…), nhưng qua hiện trạng phát triển, đặc
biệt là hiệu quả sản xuất của một một số sản phẩm, cho thấy mô hình kinh tế trang trại sẽ phát triển
mạnh ở tương lai không xa và sẽ góp phần không nhỏ vào tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nền nông nghiệp của Đồng Nai.
Đề tài đã làm rõ được thực trạng phát triển của mô hình kinh tế trang trại tại Đồng nai (các loại
hình trang trại trồng cây hàng năm, trang trại trồng cây lâu năm trang trại chăn nuôi, trang trại nuôi
trồng thủy sản, trang trại lâm nghiệp và trang trại tổng hợp) và cũng giới thiệu được những sản
phẩm chủ lực của các trang trại Tỉnh Đồng Nai. Đề tài sẽ là nguồn tư liệu cho các giáo viên THPT
(chương trình địa lí lớp 10, lớp 12) và các sinh viên khi nghiên cứu khoa học.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỦA CHỦ TRANG TRẠI
Tổng hợp các ý kiến của chủ trang trại
Các tiêu chí Tỉ lệ % Số lượng ý kiến của chủ trang trại
1021 2096 1167 789 140 32,76 67,24 55,68 37,64 6,68 I.Vốn 1.Vốn sản xuât của trang trại - Đủ vốn - Thiếu vốn 2.Cách khắc phục thiếu vốn - Vay ngân hàng - Vay tín dụng - Vay khác
13,03 86,97 58,71 41,29 74,04 1,53 9,51 14,92
406 2711 1830 1287 1355 28 174 273 1260 186
II. Đất đai 1. Nhu cầu về đất sản xuất - Đủ đất - Thiếu đất 2. Dự định mở rộng SXKD - Có - Không 3. Ngành nghề phát triển thêm - Nông nghiệp - Lâm nghiệp - Thủy sản - Các ngành nghề khác 4. Áp dụng các biện pháp kĩ thuật - Giống mới cho năng xuất cao - Giàn tưới phun, nhỏ giọt III. Nguyện vọng của chủ trang trại về các chính sách của nhà nước 1. Được cấp thêm đất 2. Được vay vốn 3. Được hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm 4. Hỗ trợ giống cây con, kĩ thuật 5. Đào tạo nâng cao trình độ - Đào tạo quản lí - Đào tạo kĩ thuật - Đào tạo ngành nghề khác 15,00 75,79 9,21
344 2245 1397 933 1433 215 1086 132 ( Nguồn: Số liệu điều tra thực địa, 2009)
Qua bảng tổng hợp các ý kiến của chủ trang trại, phần lớn các chủ trang trại trong tỉnh Đồng
Nai đều mong muốn:
1. Cần có quan điểm, chủ trương, chính sách rõ ràng, nhất quán đối với kinh tế trang trại, trên cơ
sở đó tạo môi trường tâm lí và pháp lí thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của kinh tế trang
trại. Điều này rất cần thiết để có cách nghĩ, cách làm đúng không chỉ đối với chủ trang trại mà còn
với các tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức kinh tế xã hội có liên quan đến sự hình thành và
phát triển của kinh tế trang trại.
2. Phân đất vượt hạn điền trang trại đang sử dụng, có thể là đất được giao theo chế độ giao đất,
giao rừng, đất cho thuê, cho mướn hoặc do sang nhượng từ các hộ khác, cũng nên hợp thức hóa cơ
sở pháp lí quyền sử dụng đất để có thể làm vật thế chấp và sử lí khi có tranh chấp.
3. Hỗ trợ về vốn; chuyển giao khoa học kĩ thuật và công nghệ tăng cường cơ sở hạ tầng; khuyến
nông; đào tạo bồi dưỡng về kĩ thuật; quản lí sản xuất kinh doanh và tiếp cận thị trường cho chủ
trang trại.
4. Hỗ trợ chủ trang trại trong việc xác lập quan hệ với các tổ chức tiêu thụ sản phẩm, có tính đến
việc bao tiêu và trợ giá trước những bất ổn của thị trường.
5. Kinh tế trang trại phát triển trên nền tảng kinh tế hộ và cơ bản mang bản chất của kinh tế hộ.
Do đó nên khuyến khích và tạo điều kiện cho sự phát triển của nó như khuyến khích và tạo điều
kiện với kinh tế nông hộ. Xử lí vấn đề đất ( cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ), tín dụng,
thuế, trợ giá…cũng nên giải quyết trên tinh thần đó. Vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách đề nghị nhà
nước giải quyết là: trợ giá để cải thiện quan hệ giữa tỉ giá giữa nông sản và hàng công nghiệp; bỏ
thuế thu nhập đối với hộ nông dân; tiến dần tới bỏ thuế sử dụng đất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Thị Minh Sâm (chủ biên), 2002, Kinh tế trang trại ở khu vực nam bộ thực trạng và giải
pháp, NXB khoa học xã hội.
2. Đặng Văn Phan, 2008, Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam, NXB giáo dục
3. Nguyễn Thị Song An (chủ biên), 2001, Quản trị nông trại, NXB đại học quốc gia TPHCM
4. Trần Trác (chủ biên), Tư liệu về kinh tế trang trại, NXB TPHCM
5. Đặng Văn Phan (chủ biên), Nguyễn Kim Hồng, 2006, Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam thời kì
hội nhập, NXB giáo dục
6. Nguyễn Yên Tri (chủ biên), 2001, Địa chí Đồng Nai- tập II, địa lí, NXB
tổng hợp Đồng Nai
7. Thái Doãn Mười (chủ biên), 2001, Địa chí Đồng Nai- tập IV,Kinh tế, NXB tổng hợp Đồng Nai
8. Nguyễn Điền, Trần Đức, Trần Huy năng, 1993, kinh tế trang trại gia đình
trên thế giới và châu á, NXB Thống kê
9. Lâm Quang Huyên, 2002, Nông nghiệp nông thôn Nam Bộ hướng tới
thế kỉ 21, NXB khoa học
10. Vũ Trong Khải, Hai mô hình kinh tế và sự đổi mới kinh tế qua
thực tiễn phát triển nông nghiệp ở Việt Nam, NXB chính trị quốc gia
11. Giáo trình kinh tế lượng, khoa toán thống kê, Trường ĐHKT TPHCM, 2006.
12. Nguyễn Viết Thịnh (chủ biên), kinh tế trang trại ở Việt Nam Phân tích từ
góc độ địa lý kinh tế và sinh thái, đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội 2009
13. Đinh Phi Hổ, 2008, Kinh tế học nông nghiệp bền vững, NXB Phương Đông
14. Đỗ Văn Thắng-Phan Thành Huấn, Giáo trình SPSS, NXB Đại Học Quốc
gia TPHCM
15. Nguyễn Quang Đông, 2003, Kinh tế Lượng, NXB Thống Kê
16. Đặng Văn Phan, 2001, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam- hiện trạng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và phân bố dân cư, lao động, NXB giáo dục,TPHCM
17. UBND Tỉnh Đồng Nai ,2008, Hồ sơ quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội Tỉnh Đồng
Nai đến năm 2020, Đồng Nai
18. Lê Thông, 2006, Địa lí ba vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam, NXB giáo dục, TPHCM
19. Lê Thông, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ ,2004, Địa lí kinh tế xã hội Việt Nam, NXB
Đại học sư phạm
20. Nguyễn Đức Tuấn ,2001, Địa lí kinh tế học, NXB thống kê TPHCM
21. Đặng Kim Sơn ,2001, Công nghiệp hóa từ nông nghiệp- lí luận, thực tiễn
và triển vọng áp dụng ở Việt Nam, NXB nông nghiệp, Hà Nội.
22. Lê Bá Thảo ,2000, Việt Nam –lãnh thổ các vùng địa lí, NXB thế giới
23. Lê Huy Bá, Đại cương quản trị Môi trường, NXB Đại học quốc gia
TPHCM, năm 2003
24. Đinh Ngọc Sơn ,2003, Thực trạng và định hướng phát triển kinh tế trang
trại ở Tỉnh Bình Phước, khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP.TPHCM
25. Trương Thị Minh Sâm, 2000, kinh tế trang trại ở các tỉnh phía Nam, một số
vấn đề đặt ra, NXB khoa học xã hội
26. Nguyễn Sinh Cúc, 2003, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kì đổi mới,
NXB Thống kê
27. Hoàng Trọng, 2002, Xử lí dữ liệu nghiên cứu với SPSS for windows, NXB
Thống kê.
PHẦN PHỤ LỤC
BẢNG CÂU HỎI
Kính chào Ông/ bà, chúng tôi là nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại học Sư phạm TPHCM.
Hiện nay, chúng tôi đang thực hiện nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu về trang trại tại tỉnh
Đồng Nai. Xin Ông/ bà lưu ý rằng thông tin của Ông/ bà chỉ dùng để nghiên cứu và sẽ được giữ
kín, các câu trả lời của Ông/ bà đều có giá trị nghiên cứu đối với chúng tôi.
Phỏng vấn lúc___giờ, ngày__/__/____
Phỏng vấn bởi……………………………..
Tên chủ trang trại:………………………………... Điện thoại …………………...
Địa chỉ trang trại: ……………………………………………………………………
Loại hình trang trại:………………………………………………………………….
Hãy khoanh tròn vào câu trả lời mà Ông (Bà ) lựa chọn
1. Xin vui lòng cho biết Trang trại của Ông (Bà) đã thành lập được bao nhiêu năm?
1. Dưới 1 năm 3. Từ 5- 10 năm
2. Từ 1- 5 năm 4. Trên 10 năm
2. Xin vui lòng cho biết Diện tích trang trại của Ông (Bà )?.............................ha
3. Xin vui lòng cho biết Ông (Bà ) trả công cho lao động dưới hình thức nào?
1. Trả công theo ngày 3. Lương tháng
2. Theo sản phẩm 4. Các hình thức khác
4. Xin vui lòng cho biết mức độ cơ giới hóa của trang trại?
1. Hoàn toàn thủ công
2.Thủ công có kết hợp máy móc
3. Hoàn toàn sử dụng máy móc
5. Xin vui lòng cho biết Ông /bà thường tiếp nhận các nguồn thông tin liên quan đến trang trại
từ?
1.Cán bộ kĩ thuật 3. Tài liệu
2. Tập huấn 4. Các nguồn khác
6. Xin Ông /bà vui lòng cho biết Việc sử dụng nước trong trang trại chủ yếu được cung cấp từ?
1. Nước máy công nghiệp 3. Công trình thủy lợi
2. Nước riêng 4. Từ các nguồn khác
7. Xin vui lòng cho biết các tài sản kiến trúc trong trang trại của Ông /bà gồm?
1. Nhà xưởng 3. Cửa hàng
2. Chuồng trại 4. Các cơ sở khác
8. Xin vui lòng cho biết hình thức quản lí trang trại của ông /bà ?
1. Trực tiếp quản lí 3. Người thân trong gia đình quản lí
2. Thuê người quản lí 4. Các hình thức khác
9. Xin vui lòng cho biết việc thuê, mướn lao động trong trang trại của Ông /bà?
1. Lao động thường xuyên 3. Không thuê, mướn lao động
2. Lao động thời vụ 4. Các hình thức khác
10. Xin vui lòng cho biết số lao động thường xuyên tại trang tại của Ông /bà?
...............................người
11. Xin vui lòng cho biết số lao động thời vụ tại trang tại của Ông /bà?
…………….......... người
12. Xin vui lòng cho biết lao động sử dụng trong trang trại có quan hệ như thế nào với Ông /bà?
1. Vợ ( chồng ) 3. Bà con họ hàng
2. Con 4. Quan hệ khác
13. Xin vui lòng cho biết sản phẩm bán ra thị trường của trang trại sau khi thu hoạch thường là?
1. Sản phẩm thô
2. Đã qua sơ chế
3. Sản phẩm tinh chế.
14. Xin vui lòng cho biết hình thức bán sản phẩm của trang trại thường là?
1. Tự tiêu thụ 3. Có hợp đồng
2. Qua thương lái 4. Các hình thức khác
15. Xin vui lòng cho biết Nguồn vốn đầu tư của trang trại là từ?
1. Vốn tự có 3. Vay các tổ chức xã hội
2. Vay ngân hàng 4. Vay trong dân
16. Xin vui lòng cho biết chi phí (vốn đầu tư) cho trang trại của Ông (Bà) trong một năm là
?..........................................đồng
17. Xin vui lòng cho biết tổng doanh thu của trang trại trong một năm đạt được:
………………………………đồng
18. Xin vui lòng cho biết Ông (Bà) đã từng tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn về trang trại ở
địa phương?
1. Chưa từng tham gia 2. Thỉnh thoảng 3. Thường xuyên tham gia
19. Xin vui lòng cho biết mức độ học vấn của Ông (Bà)?
1. THCS 3. Cao đẳng
2. THPT 4. Đại học
5. Trên đại học
20. Xin vui lòng cho biết Độ tuổi của Ông (Bà)?
1. Từ 20 - 30 tuổi 3. Từ 41 – 50 tuổi
2. Từ 31 - 40 tuổi 4. Trên 51 tuổi
21. Theo Ông (Bà), nhà nước hoặc chính quyền địa phương cần có những chính sách hỗ trợ gì
để trang trại phát triển?
1.Các chính sách về vay vốn 3. Chính sách về thuế
2.Các chính sách về đất đai 4. Các chính sách khác
Xin cám ơn sự hợp tác quý giá của Ông / bà.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TRANG TRẠI TẠI ĐỒNG NAI
Trang trai cao su- đu đủ (Định Quán)
Trang trại bưởi- Định Quán
Trang trại heo ( Trảng Bom)
Trang trại trồng mía
Trang trại tiêu
Trang trại trồng bắp
Trang trại gà