LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này là do tôi thực hiện và không vi
phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Hà nội, ngày tháng năm 2018
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thị Nga
Xác nhận của người hướng dẫn
GS.TS. NGUYỄN VĂN CÔNG
LỜI CẢM ƠN
Sau bốn năm học tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
được tiếp cận với những kiến thức mới và được trang bị những công cụ, phương
pháp khoa học chuyên sau, tôi đã hoàn thành luận án tiến sĩ chuyên ngành kế toán,
kiểm toán và phân tích.
Để đạt được kết quả như ngày hôm nay là nhờ vào sự động viên, giúp đỡ cả
về vật chất và tình thần từ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp cùng các thầy cô giáo, đặc
biệt là thầy giáo hướng dẫn GS.TS. Nguyễn Văn Công.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, đồng nghiêp, bạn bè và thầy giáo
hướng dẫn, những người đã luôn giúp đỡ, hỗ trợ tôi trong cuộc sống cũng như trên
con đường nghiên cứu khoa học.
Tôi xin chân thành cảm ơn Công ty Vietstock, Ủy ban chứng khoán nhà
nước, Tổng cục Thống kê đã cung cấp cho tôi bộ dữ liệu quan trọng để hoàn thành
mảng phân tích dữ liệu. Tôi xin cảm ơn các thầy cô, các anh chị, các bạn đồng
nghiệp đã hỗ trợ tôi những kiến thức quý báu về kinh tế lượng, thống kê và những
kiến thức chuyên ngành chuyên sâu để tôi hoàn thiện được luận án của mình.
Hà nội, ngày tháng 1 năm 2018
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Nga
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do lựa chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Mục tiêu của nghiên cứu ....................................................................................... 4
3. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................ 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 6
6. Thiết kế nghiên cứu ............................................................................................... 6
7. Những đóng góp của luận án................................................................................. 7
8. Kết cấu của luận án .............................................................................................. 8
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................ 9
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHÂN TÍCH RỦI RO
PHÁ SẢN TRONG DOANH NGHIỆP ..................................................................... 9
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu ngoài nước ............................................ 9
1.1.1. Các nghiên cứu về phân tích rủi ro phá sản dựa vào sổ sách kế toán ................. 10
1.1.2. Các nghiên cứu về rủi ro phá sản dựa theo yếu tố thị trường ............................. 21
1.1.3. Các nghiên cứu về rủi ro phá sản dựa trên trí tuệ nhân tạo ................................ 23
1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước .......................................... 25
1.3. Kết luận về tổng quan nghiên cứu và xác lập vấn đề nghiên cứu ................... 29
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ......................................................................................... 32
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO PHÁ SẢN VÀ PHÂN TÍCH RỦI
RO PHÁ SẢN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP ................................................... 33
2.1. Rủi ro phá sản ................................................................................................... 33
2.1.1. Rủi ro phá sản ................................................................................................... 33
2.1.2. Ảnh hưởng của rủi ro phá sản đến nền kinh tế................................................... 38
2.2. Phân tích rủi ro phá sản ................................................................................... 44
2.2.1. Bản chất và vai trò của phân tích rủi ro phá sản ................................................ 44
2.2.2. Nội dung của phân tích rủi ro phá sản ............................................................... 48
2.2.3. Công cụ và kỹ thuật phân tích rủi ro phá sản ..................................................... 56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ......................................................................................... 61
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................ 63
3.1. Mô hình nghiên cứu .......................................................................................... 63
3.1.1.Thiết lập mô hình nghiên cứu ............................................................................ 63
3.1.2. Các biến trong mô hình nghiên cứu ................................................................... 68
3.1.3. Các giả thuyết khoa học trong mô hình nghiên cứu ........................................... 70
3.2. Phương pháp nghiên cứu và xử lý dữ liệu ....................................................... 72
3.2.1. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 72
3.2.2. Nguồn dữ liệu nghiên cứu ................................................................................. 73
3.2.3. Quy trình xử lý dữ liệu ...................................................................................... 76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ......................................................................................... 78
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ PHÂN TÍCH RỦI RO PHÁ SẢN
TRONG CÁC CÔNG TY BẤT ĐỘNG SẢN NIÊM YẾT TRÊN THỊTRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ................................................................................ 79
4.1. Tổng quan về các công ty bất động sản Việt Nam ........................................... 79
4.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ........................................................................ 79
4.1.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý và phân cấp tài chính .................................. 83
4.1.3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của các công ty bất động sản ......................... 85
4.2. Thực trạng kết quả nghiên cứu về phân tích rủi ro phá sản trong các công
ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam......................... 89
4.2.1. Thống kê đặc điểm mẫu nghiên cứu .................................................................. 89
4.2.2. Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu .......................................... 90
4.2.3. Phân tích ma trận tương quan giữa các biến độc lập ........................................ 100
4.2.4. Kết quả hồi quy ............................................................................................. 100
4.2.5. Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình ....................................................... 103
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ....................................................................................... 111
CHƯƠNG 5: KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NGĂN NGỪA VÀ
HẠN CHẾ RỦI RO PHÁ SẢN TRONG CÁC CÔNG TY BẤT ĐỘNG SẢN
NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM .................... 113
5.1. Giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro phá sản trong các công ty bất động
sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam .......................................... 113
5.1.1. Sử dụng hợp lý đòn bẩy tài chính .................................................................... 113
5.1.2. Nâng cao khả năng sinh lợi của doanh nghiệp ................................................. 118
5.1.3. Cần chú trọng đến quản lý tốt dòng tiền hoạt động của doanh nghiệp ............. 122
5.1.4. Điều tiết tốt vốn hoạt động thuần của doanh nghiệp một cách hợp lý .............. 127
5.1.5. Tăng cường hoạt động phân tích ..................................................................... 131
5.2. Kiến nghị về việc vận dụng các giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro phá
sản trong các công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam………………………………………………………………………………133
5.2.1. Kiến nghị đối với nhà nước ............................................................................. 133
5.2.2. Kiến nghị đối với hiệp hội bất động sản và các công ty bất động sản .............. 139
5.2.3. Kiến nghị đối với các tổ chức tín dụng và tiền tệ ............................................. 143
KẾT LUẬN CHƯƠNG 5 ....................................................................................... 146
KẾT LUẬN CHUNG.............................................................................................. 147
HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN ................................................................................... 148
KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO ..................................... 150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ............................ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 152
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 160
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1. 1: Quy trình nghiên cứu ................................................................................. 6
Sơ đồ 4. 1: Tổ chức bộ máy quản lý và phân cấp tài chính của công ty cổ phần BĐS
điện lực dầu khí Việt Nam ......................................................................................... 85
BẢNG BIỂU
Bảng 3. 1: Cấu trúc dữ liệu các biến trong mô hình Logit .......................................... 66
Bảng 3. 2: Mô tả cách tính, kí hiệu các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu ......... 68
Bảng 3. 3: Tổng hợp mẫu nghiên cứu ........................................................................ 75
Bảng 3. 4: Tỷ lệ các quan sát với các điều kiện nhận diện rủi ro phá sản .................. 75
Bảng 4.1: Số doanh nghiệp BĐS phân theo quy mô lao động giai đoạn 2013-2014 ... 79
Bảng 4. 2: Số doanh nghiệp BĐS phân theo quy mô vốn giai đoạn 2010-2014 .......... 80
Bảng 4. 3: Số doanh nghiệp BĐS có lãi hoặc lỗ giai đoạn 2010 -2014 ....................... 81
Bảng 4. 4: Thống kê mô tả đặc điểm mẫu nghiên cứu ................................................ 89
Bảng 4. 5: Thống kê mô tả các biến độc lập của toàn bộ mẫu nghiên cứu .................. 94
Bảng 4. 6: Thống kê mô tả các biến của các công ty không có rủi ro phá sản............. 95
Bảng 4. 7: Thống kê mô tả các biến của các công ty có rủi ro phá sản ....................... 96
Bảng 4. 8: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình ............................. 99
Bảng 4. 9: Kết quả hồi quy logit .............................................................................. 101
Bảng 4. 10: Omnibus Tests of Model Coefficients ................................................... 103
Bảng 4. 11: Kiểm định độ phù hợp của mô hình ...................................................... 104
Bảng 4. 12: Kiểm định khả năng dự báo của mô hình .............................................. 104
Bảng 4. 13: Phân loại khả năng dự báo rủi ro phá sản .............................................. 106
Bảng 4. 14: Bảng tính xác suất có rủi ro phá sản của một số công ty BĐS ................ 108
Bảng 5.1: Hệ số nợ của một số công ty bất động sản giai đoạn 2011- 2015 ............. 116
Bảng 5.2: Giá trị ROA một số công ty bất động sản giai đoạn 2011- 2015 .............. 119
Bảng 5.3: Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của một số công ty BĐS ......... 124
Bảng 5.4: Giá trị vốn lưu động, hàng tồn kho, khoản nợ phải thu của một số công ty
BĐS năm 2014 -2015 .............................................................................................. 128
DANH MỤC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
Hình 1. 1: Ba tỷ số tài chính xác định khủng hoảng tài chính theo Beaver (1966) ...... 10
Hình 2. 1: Các mức độ của rủi ro phá sản .................................................................. 44
Hình 3. 1: mô hình nghiên cứu .................................................................................. 65
Hình 4.1:Tình hình doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong 10 tháng đầu năm
2016 xét theo lĩnh vực hoạt động. .............................................................................. 82
Hình 4. 2: So sánh giá trị trung bình của đòn bẩy giữa các công ty có rủi ro phá sản
và không có rủi ro phá sản ......................................................................................... 97
Hình 4. 3: So sánh giá trị trung bình của khả năng thanh toán giữa các công ty có rủi
ro phá sản và không có rủi ro phá sản ........................................................................ 97
Hình 4. 4: So sánh giá trị trung bình của khả năng sinh lợi giữa các công ty .............. 98
Hình 4. 5: So sánh giá trị trung bình của năng lực hoạt động giữa các công ty có rủi
ro phá sản và không có rủi ro phá sản ........................................................................ 98
Hình 4. 6: So sánh giá trị trung bình của kỳ vọng thị trường giữa các công ty có rủi
ro phá sản và không có rủi ro phá sản ........................................................................ 99
Hình 4. 7: So sánh giá trị trung bình quy mô giữa các công ty có rủi ro phá sản và
không có rủi ro phá sản .............................................................................................. 99
Hình 4. 8: Đường cong ROC theo mô hình logit ...................................................... 108
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu Diễn giải
Bất động sản BĐS
Ban giám đốc BGĐ
Ban kiểm soát BKS
Công ty cổ phần CTCP
Doanh nghiệp DN
ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay EBIT
Hội đồng quản trị HĐQT
Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh HOSE
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
TTCKVN Thị trường chứng khoán Việt Nam
Thu nhập doanh nghiệp TNDN
Rủi ro phá sản RRPS
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Rủi ro phá sản (RRPS) hay nguy cơ phá sản là tình trạng tiêu cực và không
mong muốn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Khi RRPS xảy ra sẽ kéo theo hàng
loạt các sự kiện xấu như cổ tức giảm sút, đóng cửa các nhà máy, thua lỗ, sa thải
công nhân viên, giá cổ phiếu sụt giảm từ đó sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích
kinh tế của các chủ nợ, các nhà đầu tư, người lao động và các bên liên quan. Điều
này càng được thể hiện rõ đối với các ngành đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân như ngành bất động sản (BĐS) ở Việt Nam.
Trong thời gian qua, do sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế đã làm
cho thị trường BĐS có nhiều biến động phức tạp, tính thanh khoản rất thấp với
nhiều khó khăn to lớn, nợ xấu tăng đột biến, lãi suất ngân hàng có lúc tăng cao ngất
ngưởng, gần như tất cả các dự án bất động sản đều đóng băng. Các giao dịch trở nên
nhỏ giọt, hàng hóa không bán được, đẩy các công ty bất động sản vào tình trạng kiệt
quệ tài chính, và việc lặp đi lặp lại những đợt sóng này đã khiến không ít doanh
nghiệp rơi vào tình trạng “sống dở chết dở”. Đặc biệt là khi Chính phủ ban hành
chính sách thắt chặt tiền tệ năm 2011, đã hạn chế dòng tiền vào bất động sản khiến
nhiều dự án bị ngưng trệ, nhà đầu tư cũng rất khó vay tiền để mua nhà, nhiều doanh
nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản. Theo số liệu tại cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng
ký doanh nghiệp cho thấy trong năm 2012 có 680 doanh nghiệp với ngành nghề
kinh doanh chính là bất động sản đăng ký giải thể, ngừng hoạt động, tăng 19,9% so
với năm 2011. Năm 2013 có thêm 10.635 doanh nghiệp thành lập mới, đồng thời
10.077 doanh nghiệp phá sản. Năm 2014 có 7.833 công ty bất động sản thì có tới
4.517 công ty kinh doanh thua lỗ với tổng số lỗ lên tới -14.753 tỷ đồng.
Nguyên nhân thì có nhiều, ngoài các yếu tố mang tính khách quan thì hiện
nay các công ty bất động sản đang tồn tại một cơ cấu sản phẩm bất hợp lý khi không
đáp ứng được nhu cầu thực của xã hội, lệch pha cung cầu dẫn đến lượng hàng tồn
kho cao, phụ thuộc quá nhiều vào nợ vay. Theo số liệu báo cáo ngành bất động sản
1
của FPT cho thấy các công ty có hệ số nợ ở mức cao và có sự tăng dần qua các năm
(năm 2015 có hệ số nợ bình quân là 63% tăng so với năm 2014 là 60%). Tổng nợ
phải trả của các công ty BĐS tại thời điểm 31/12/2015 đạt gần 179 nghìn tỷ đồng,
tăng 38% so với cuối năm 2014. Có thể kể đến một số công ty như: Công ty cổ phần
cơ điện và xây dựng Việt Nam (mã MCG) nợ phải trả các năm 2013, 2014, 2015 lần
lượt là 2.251,6 tỷ đồng, 1.684 tỷ đồng, 1.486 tỷ đồng, hệ số nợ của MCG luôn duy
trì ở mức cao lần lượt là 80,9% năm 2013, 74,56% năm 2014 và 71,3% năm 2015.
Công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam (mã PVX) với hệ số nợ trên tổng tài sản
có những năm lên đến trên 80% (năm 2014 là 81,38%, năm 2015 là 80,7%). Công
ty cổ phần đầu tư phát triển đô thị và KCN Sông Đà (mã SJS) có hệ số nợ trên tổng
tài sản năm 2015 là 81,24% tăng hơn 20% so với năm 2014. Mặc dù sử dụng hệ số
nợ cao như vậy nhưng lợi nhuận thu được lại không đáp ứng được kì vọng của các
doanh nghiệp. Các công ty liên tục báo lỗ ví dụ: Becamex IJC (IJC) có lãi thấp nhất
trong 6 năm qua, với doanh thu năm 2015 giảm hơn 33% còn 689 tỷ đồng do hụt
thu ở mảng bất động sản và lãi sau thuế giảm từ 230 tỷ năm 2014 xuống còn 127 tỷ
đồng, mức thấp nhất kể từ năm 2010. Mã SDH lỗ nặng nhất với hơn 23 tỷ đồng do
công ty thiếu công ăn việc làm trong khi chi phí tiền lương vẫn phải trả bình
thường. Công tác thu hồi vốn của SDH chậm nên chi phí tài chính cao và phải trích
lập dự phòng gần 15 tỷ đồng. Riêng PXL lỗ hơn 10 tỷ đồng năm 2015, ghi nhận
năm thứ ba liên tiếp thua lỗ. Kèm theo đó là các số liệu về khả năng sinh lợi của
công ty cũng sụt giảm đáng kể. Ví dụ ROA của các công ty như: PV2 (năm 2015 là
-0,1%, năm 2014 là -9,94%), công ty VPH (năm 2015 là -2,76%, năm -0,4%), DTA
(năm 2015 là 0.05%, năm 2014 là 0,27%, năm 2013 là -2,66%). Số lượng về các
công ty đang làm ăn thua lỗ liên tục là dấu hiệu cho thấy sự khủng hoảng của công
ty bất động sản. Thêm vào đó một số công ty hoạt động với mức vốn hoạt động
thuần âm cũng là một điều đáng suy ngẫm. Ví dụ công ty cổ phần đầu tư căn nhà
mơ ước (mã DRH) có vốn hoạt động thuần âm liên tục trong các năm từ 2011 đến
năm 2015, ghi nhận cụ thể âm 64,6 tỷ đồng năm 2015 tăng gấp 3 lần so với năm
2014, gấp 30 lần so với năm 2011. Khi vốn hoạt động thuần âm đồng nghĩa với
2
công ty đang mất cân bằng tài chính, khả năng thanh toán thấp. Kể cả với những
doanh nghiệp có vốn hoạt động thuần cao ngất ngưỡng nhưng thực chất vốn hoạt
động thuần đó lại tồn tại chủ yếu ở hàng tồn kho và các khoản phải thu. Tỷ trọng
hàng tồn kho năm 2015 so với tổng tài sản rất cao có thể kể đến như: PDR (89%),
VPH (87%), SJS (79%), NBB (77%), NTL (77%)… trong khi tỷ trọng này của toàn
ngành trung bình chỉ là 36%. Ngoài ra, một số các công ty bất động sản tuy có mức
lợi nhuận sau thuế ghi nhận không hề nhỏ nhưng dòng tiền thuần từ hoạt động kinh
doanh bị âm đến cả trăm tỷ đồng trong nhiều quý, nhiều năm liên tục. Có thể kể đến
như: Công ty cổ phần công nghiệp Tân Tạo (mã ITA) có mức lợi nhuận sau thuế là
136 tỷ đồng năm 2015, 145 tỷ đồng năm 2014, tuy nhiên dòng tiền thuần từ hoạt
động kinh doanh lại âm liên tục với mức tăng năm sau cao hơn năm trước cụ thể là -
857,5 tỷ đồng năm 2014 và đặc biệt âm nặng vào năm 2015 là – 1.057 tỷ đồng. Việc
thiếu tiền dẫn doanh nghiệp có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp, bởi vì dòng tiền là “dòng máu” duy trì tất cả các hoạt động sản
xuất - kinh doanh, là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Không có tiền trả nợ khi
đến hạn, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp có thể bị chủ nợ yêu cầu làm thủ tục phá
sản.
Như vậy, với khoản nợ phải trả nhiều kèm theo đó là chi phí tài chính đang
là gánh nặng lớn đè lên vai nhiều công ty bất động sản, hàng làm ra không bán
được, mà tiền lại là đi vay, lãi chồng lãi, các công ty bất động sản sẽ chết dần trong
các khoản nợ và đi đến phá sản. Vậy thì để có thể giúp các doanh nghiệp không
phải đi đến mức cuối cùng là phá sản thì một câu hỏi cần thiết được đặt ra cho
những nhà quản lý là “Làm cách nào để hạn chế và ngăn ngừa rủi ro phá sản của
các công ty bất động sản niêm yết ở Việt Nam, từ đó phát triển bền vững”.
Trên thế giới đã có nhiều các công trình nghiên cứu trước đây về rủi ro phá
sản nhưng phần lớn được tập trung nghiên cứu ở các nước có nền kinh tế phát triển.
Trong những năm gần đây, các học giả có xu hướng mở rộng nghiên cứu sang các
nước đang phát triển như: Thái Lan, Trung Quốc,.v.v. Ví dụ: Xu, M., &Zhang, C.
(2009), Pongsatat và cộng sự (2004),…Tuy nhiên, kết quả của các nghiên cứu vẫn
3
chưa có sự đồng nhất.
Ở Việt Nam, trong thời gian qua, mặc dù đã có một số tác giả đi vào nghiên
cứu về nguy cơ phá sản của doanh nghiệp, trong đó điển hình có thể kể đến các tác
giả: Nguyễn Trọng Hòa, Đào Thị Thanh Bình, Khổng Thanh Hòa, Hoàng Tùng.
Tuy nhiên các nghiên cứu này không tập trung vào nhóm doanh nghiệp hoặc ngành
nghề cụ thể nào đặc biệt là trong lĩnh vực bất động sản. Đồng thời, chưa có tổ chức
nào thực hiện xếp hạng tín nhiệm và cảnh báo nguy cơ phá sản cho doanh nghiệp
BĐS Việt Nam, cũng như chỉ rõ những yếu tố có tác động tới tình trạng này, mức
độ tác động ra sao và trong đó yếu tố nào là có ảnh hưởng mạnh nhất. Và mặc dù đã
có nhiều biện pháp tích cực từ phía nhà nước để làm tan băng thị trường BĐS
nhưng kết quả đạt được còn rất khiêm tốn (ví dụ gói cứu trợ 30.000 tỷ đồng Nghị
quyết 02 của Chính phủ). Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thực
trạng này là việc phân tích RRPS tại mỗi đơn vị kinh doanh BĐS vẫn chưa được
chú trọng và quan tâm đúng mức để phát huy được tầm quan trọng vốn có.
Do đó, mặc dù là vấn đề bức thiết trong thực tế nhưng cho đến nay việc hạn
chế và ngăn ngừa rủi ro phá sản của các công ty bất động sản niêm yết trên thị
trường chứng khoán ở Việt Nam chưa được nghiên cứu chi tiết và thực hiện dựa
trên các luận cứ khoa học chặt chẽ. Do vậy, để bổ sung thêm bằng chứng về phân
tích RRPS nhằm giải quyết những tồn tại nêu trên, NCS thực hiện đề tài: “Phân
tích rủi ro phá sản trong các công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam”. NCS cho rằng đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Từ đó góp phần giúp các nhà quản lý có thể đưa ra cách phòng ngừa và hạn chế
RRPS và có chiến lược phát triển kinh doanh hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh,
góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế.
2. Mục tiêu của nghiên cứu
Mục tiêu cơ bản của luận án là đưa ra giải pháp nhằm ngăn ngừa và hạn chế
RRPS của các công ty BĐS niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
(TTCKVN). Từ mục tiêu cơ bản như trên, các mục tiêu cụ thể của luận án như sau:
- Xác định các nhân tố tác động, mức độ và chiều ảnh hưởng của các nhân tố
4
đến RRPS của công ty bất động sản niêm yết.
- Đề xuất các giải pháp thích hợp nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro phá sản
của các công ty BĐS niêm yết trên TTCKVN.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận án hướng tới việc tập trung
nghiên cứu và giải đáp câu hỏi nghiên cứu tổng quát và câu hỏi cụ thể đặt ra trong
quá trình nghiên cứu như sau:
Câu hỏi nghiên cứu tổng quát:
Cần có những giải pháp phù hợp nào nhằm ngăn ngừa và hạn chế RRPS
trong các công ty BĐS niêm yết trên TTCKVN?
Câu hỏi nghiên cứu cụ thể:
+ Những nhân tố nào ảnh hưởng đến RRPS, mức độ và chiều ảnh hưởng của
các nhân tố đến rủi ro phá sản của công ty BĐS như thế nào?
+ Những giải pháp và đề xuất nào thích hợp để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro
phá sản trong các doanh nghiệp BĐS niêm yết trên TTCKVN?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu và giải quyết được câu hỏi nghiên
- Đối tượng nghiên cứu:
cứu đặt ra, luận án xác định đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu như sau:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “rủi ro phá sản trong các công ty BĐS
- Phạm vi nghiên cứu:
niêm yết trên TTCKVN”.
+ Về nội dung nghiên cứu: luận án đi vào nghiên cứu những vấn đề liên quan
đến RRPS của các công ty BĐS niêm yết trên TTCKVN trên các nội dung cụ thể
như sau: (1) đánh giá, luận giải các kết quả nghiên cứu trước đây; (2) tổng hợp, hệ
thống hóa các vấn đề lý luận về RRPS và phân tích RRPS; (3) đưa ra các giả thuyết
nghiên cứu, định hướng về mô hình và phương pháp nghiên cứu; (4) kiểm định giả
thuyết nghiên cứu trên khung cảnh nghiên cứu là các công ty BĐS niêm yết trên
TTCKVN; (5) đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm ngăn ngừa và hạn chế RRPS
5
trong các công ty BĐS Việt Nam
+ Về không gian: giới hạn nghiên cứu của luận án là các công ty BĐS niêm
yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở giao dịch chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE).
+ Về thời gian: luận án tập trung đi vào phân tích RRPS trong các công ty
BĐS niêm yết trên TTCKVN giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các vấn đề đặt ra, luận án tiến hành chọn mẫu, sau đó thu thập
dữ liệu từ các báo cáo tài chính (BCTC) và sử dụng phương pháp nghiên cứu định
lượng để chạy mô hình hồi quy logit. Thực hiện kiểm chứng với biến phụ thuộc là
RRPS và biến độc lập bao gồm 5 nhóm biến đại diện cho khả năng thanh toán, khả
năng sinh lợi, đòn bẩy tài chính, năng lực hoạt động và sự vững chắc của công ty
dưới sự hỗ trợ của phần mềm SPSS.
6. Thiết kế nghiên cứu
Tổng quan nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu
Kết luận và đề xuất các giải pháp
Khung lý thuyết
Thảo luận kết quả nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Thu thập và phân tích dữ liệu
Quy trình nghiên cứu của luận án bao gồm các bước sau:
6
Sơ đồ 1. 1: Quy trình nghiên cứu (Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Trong đó, việc thiết kế nghiên cứu, thu thập và phương pháp phân tich dữ
liệu được thực hiện các bước như sau:
- Xác định các biến số và thước đo cho các biến số: các biến trong mô hình
bao gồm biến phụ thuộc (rủi ro phá sản) và 14 biến độc lập được chia thành 5 nhóm
gồm khả năng thanh toán, khả năng sinh lợi, đòn bẩy tài chính, năng lực hoạt động
và sự vững chắc của công ty.
- Thiết lập mô hình nghiên cứu và mối quan hệ giữa các biến trong mô hình
nghiên cứu: mô hình nghiên cứu được thiết lập với biến phụ thuộc và các biến độc
lập, được thể hiện dưới dạng tổng quát: xác suất (rủi ro phá sản)= f (đòn bẩy tài
chính, khả năng sinh lợi, khả năng thanh toán, năng lực hoạt động và sự vững chắc
của công ty). Mô hình logit được lựa chọn để phân tích RRPS của các công ty BĐS.
- Xác định nguồn dữ liệu nghiên cứu và phương pháp thu thập dữ liệu: nguồn
dữ liệu là nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các BCTC của 45 công ty BĐS
niêm yết trên TTCKVN. Thời gian nghiên cứu là 8 năm (2008 -2015). Phương pháp
thu thập dữ liệu là phương pháp tổng hợp các khoản mục có liên quan đến các biến,
tính toán các chỉ tiêu trên Excel, mã hóa các biến, kiểm tra dữ liệu, xử lý và làm
sạch dữ liệu, sau đó, chuyển toàn bộ dữ liệu vào phần mềm chuyên dụng SPSS.
- Xác định phương pháp phân tích thông tin: luận án sử dụng phương pháp
phân tích thống kê mô tả, hồi quy tương quan với sự trợ giúp của phần mềm SPSS
để phân tích dữ liệu nghiên cứu. Sử dụng kết hợp với các phương pháp tổng hợp, so
sánh,...
7. Những đóng góp của luận án
Luận án dự kiến có những đóng góp sau:
- Về mặt lý luận: Các công trình nghiên cứu trước đây về RRPS phần lớn
được tập trung nghiên cứu ở các nước có nền kinh tế phát triển. Trong những năm
gần đây, các học giả có xu hướng mở rộng nghiên cứu sang các nước đang phát
triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan.v.v. hoặc các nước chuyển đổi ở Trung và
Đông Âu. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu vẫn chưa có sự đồng nhất. Ở Việt Nam,
7
hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về nguy cơ phá sản nhưng con số này
còn rất hạn chế, các nghiên cứu chỉ đưa ra các kết quả ứng dụng chung cho các
doanh nghiệp hoặc cho một số lĩnh vực như: tín dụng, thủy sản.v.v. mà chưa có
nghiên cứu nào tập trung cho ngành bất động sản. Đồng thời, chưa có tổ chức nào
thực hiện xếp hạng tín nhiệm và cảnh báo nguy cơ phá sản cho doanh nghiệp BĐS
Việt Nam, cũng như chỉ rõ những yếu tố có tác động tới tình trạng này, mức độ
cũng như chiều tác động ra sao và trong đó yếu tố nào là có ảnh hưởng mạnh nhất.
Luận án kỳ vọng sẽ cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về phân tích RRPS
trong các công ty bất động sản, đóng góp vào hệ thống các công trình nghiên cứu có
giá trị liên quan đến nguy cơ phá sản trong các doanh nghiệp.
- Về mặt thực tiễn: luận án chỉ ra được các yếu tố có tác động đến rủi ro phá
sản, mức độ và chiều tác động của từng yếu tố trong đó chỉ rõ yếu tố nào có tác
động mạnh nhất đến rủi ro phá sản của các công ty bất động sản niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam. Trên cơ sở các yếu tố tác động tác giả đề xuất một
số giải pháp nhằm ngăn ngừa và hạn chế RRPS cho các công ty BĐS niêm yết trên
thị trường chứng khoán Việt Nam. Từ đó giúp cho các doanh nghiệp BĐS có những
chính sách và quyết định phù hợp nhằm ngăn ngừa và hạn chế RRPS của doanh
nghiệp.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình công bố của tác giả, danh
mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận án bao gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về phân tích rủi ro phá sản trong doanh
nghiệp.
Chương 2: Cơ sở lý luận về rủi ro phá sản và phân tích rủi ro phá sản trong
các doanh nghiệp.
Chương 3: Mô hình và phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu về phân tích rủi ro phá sản trong các công ty
bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
8
Chương 5: Kiến nghị một số giải pháp nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro phá
sản trong các công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHÂN TÍCH
RỦI RO PHÁ SẢN TRONG DOANH NGHIỆP
Nền kinh tế thế giới biến động mạnh mẽ mang đến cho các doanh nghiệp
(DN) nhiều cơ hội nhưng cũng gặp không ít khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Chính sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường khiến cho nhiều doanh
nghiệp phải điêu đứng, thua lỗ liên tục và có nguy cơ rơi vào phá sản. Có thể nói,
phá sản được xem như dấu chấm hết đối với một DN. Khi DN rơi vào phá sản sẽ
kéo theo sự ảnh hưởng lan tỏa đến nhiều DN, nhiều đối tượng khác có liên quan.
Chính bởi sự ảnh hưởng mạnh mẽ như vậy nên RRPS là một đề tài thu hút được
nhiều nhà nghiên cứu với những công trình thực nghiệm ở nhiều quốc gia khác
nhau.
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu ngoài nước
Rủi ro phá sản hay nguy cơ phá sản là một trong những vấn đề nhận được
quan tâm rất lớn từ những năm 60 của thế kỷ trước. Có rất nhiều các nhà nghiên cứu
đã dành nhiều nỗ lực để kiểm chứng việc phân tích RRPS nhiều quốc gia khác nhau
trên thế giới với những phương pháp tiếp cận khác nhau. Ví dụ, Canada (Altman và
Lavelle, 1981), Hàn Quốc (Altman, 1995), Nhật Bản (Xu và Zhang, 2008), Sudan
(Eljelly at al 2001), Turkey (Ugurlu và Aksoy, 2006),.... Trong đó Beaver (1966) và
Altman (1968) được coi là người tiên phong trong việc sử dụng các tỷ số tài chính
để dự báo phá sản trong các bài nghiên cứu thực nghiệm.
Qua việc tổng quan những công trình ở nước ngoài cho thấy các nghiên cứu
về phá sản doanh nghiệp tập trung vào các phương pháp gồm:
- Phân tích rủi ro phá sản dựa vào sổ sách kế toán;
- Phân tích rủi ro phá sản dựa vào nhân tố thị trường;
- Phân tích rủi ro phá sản dựa vào trí tuệ nhân tạo.
Ba phương pháp trên được thường xuyên áp dụng bởi lượng lớn các bài
9
nghiên cứu về sự phá sản DN.
1.1.1. Các nghiên cứu về phân tích rủi ro phá sản dựa vào sổ sách kế toán
Trong nghiên cứu về phá sản, Beaver (1966) với bài nghiên cứu “Financial
ratios as predictors of failure” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Kế toán số 5 cho rằng,
một công ty bị lâm vào tình trạng vỡ nợ nếu xảy ra bất kì sự kiện nào như: phá sản,
không thanh toán trái phiếu công ty khi đến hạn (Bond Default), có tài khoản ngân
hàng bị thấu chi (Overdrawn Bank Account) hoặc không chi trả được cổ tức cho các
cổ phiếu ưu đãi (Nonpayment of a preferred stock dividend). Beaver phân tích 30 tỷ
số tài chính giữa công ty phá sản và không phá sản được chia thành 6 nhóm chỉ tiêu:
dòng tiền/tổng nợ, thu nhập ròng/tổng tài sản, tổng nợ/tổng tài sản, vốn hoạt động
thuần/tổng tài sản, khả năng thanh toán giữa các công ty thất bại và không thất bại.
Qua phân tích, Beaver chỉ ra ba tỷ số tài chính là tổng nợ/ tổng tài sản, thu nhập
ròng/ tổng tài sản và dòng tiền/ tổng nợ là các chỉ tiêu quan trọng trong việc xác
định khủng hoảng tài chính tại một công ty (hình 1.1).
Hình 1. 1: Ba tỷ số tài chính xác định khủng hoảng tài chính theo Beaver (1966)
(Nguồn: Atrill (2002), Financial Management for Non – specialist, tr 80 -85)
Trong một bài nghiên cứu tiếp theo vào năm 1968, Beaver nhận thấy thị
10
trường chứng khoán cũng có khả năng dự báo khủng hoảng tài chính của các công
ty. Beaver đã chứng minh rằng giá chứng khoán sẽ giảm đáng kể trước khi công ty
lâm vào tình trạng khủng hoảng. Ông tiến hành nghiên cứu xem liệu có phải thị
trường chứng khoán sẽ dự báo phá sản trước các tỷ số tài chính hay không và tìm
thấy rằng thị trường chứng khoán đã phản ứng trước các tỷ số tài chính ở một biên
độ nhỏ. Nghiên cứu này cho thấy, các mô hình dự báo phá sản đã bắt đầu quan tâm
đến các dữ liệu thị trường.
Với công trình thực nghiệm mà Beaver đưa ra bằng cách sử dụng phương
pháp phân tích các tỷ số tài chính đơn lẻ khá đơn giản, tiết kiệm được thời gian và
dễ áp dụng, tuy nhiên Altman (1968) cho rằng phương pháp này thì quá đơn giản để
ghi nhận sự phức tạp của phá sản bởi vì không thể phân loại một công ty chỉ dựa
vào một tỷ số tài chính đơn lẻ ở một thời điểm. Hơn nữa, phương pháp này dễ đưa
đến các kết luận mâu thuẫn và nhầm lẫn bởi vì các kết quả phân loại theo tỷ số khác
nhau đối với cùng một công ty. Chẳng hạn như một công ty với khả năng sinh lợi
nghèo nàn những vẫn có thể trả được nợ có thể sẽ bị phân loại là phá sản tiềm năng.
Xuất phát từ đó, trong bài nghiên cứu ‘Financial ratios, discriminant analysis and
the prediction of corporate bankruptcy’ Altman (1968) đã dùng phân tích đa biệt số
(MDA – Multiple Discriminant Analysis) dựa trên sự kết hợp nhiều tỷ số để đưa ra
một mô hình dự báo tốt hơn. Kỹ thuật MDA được dùng để phân loại một quan sát
vào một nhóm cho trước dựa vào các đặc trưng riêng biệt của quan sát đó, MDA tạo
ra một kết hợp tuyến tính hoặc bậc hai của các biến – các đặc trưng sao cho phân
biệt tốt nhất giữa các nhóm. Trong bài nghiên cứu của mình, Altman kết hợp cả dữ
liệu tài chính và dữ liệu thị trường cho mẫu nghiên cứu gồm 66 công ty sản xuất (33
công ty phá sản và 33 công ty không phá sản). Nhóm (1) bao gồm các công ty đệ
đơn phá sản trong giai đoạn từ năm 1946 – 1965. Nhóm (2) bao gồm các công ty
hoạt động bình thường đến năm 1966, và được chọn tương ứng theo cặp với các
công ty trong nhóm (1) về quy mô và ngành hoạt động. Sau đó ông tiến hành thử lại
trên 25 DN khác với xác suất đúng 96%. Hàm phân biệt của Altman được đưa ra
như sau:
Z = 0,012 X1 + 0,014 X2 + 0,033 X3+ 0,006 X4 + 0,999 X5
11
Trong đó: X1 – tỷ lệ vốn hoạt động thuần trên tổng tài sản; X2 – tỷ lệ lợi
nhuận giữ lại trên tổng tài sản; X3 – tỷ lệ lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên tổng
tài sản; X4 – tỷ lệ giá thị trường của vốn chủ sở hữu trên giá trị sổ sách của tổng nợ;
X5 – tỷ số doanh thu trên tổng tài sản; Z – chỉ số tổng quát.
Bài nghiên cứu đưa ra 3 ngưỡng dự báo quan trọng : nếu chỉ số Z > 2,99 thì
được xếp loại “không phá sản”, còn nếu công ty có chỉ số Z < 1,81 thì được xếp vào
là “phá sản”. Mô hình của Altman có thể dự báo chính xác đến hai năm trước khi
phá sản xảy ra với độ chính xác là 83%. Mặc dù độ chính xác giảm dần sau năm thứ
hai do khoảng thời gian tăng lên. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu này đã cung cấp
thêm bằng chứng thực nghiệm chứng minh sự mạnh mẽ cho các kết quả nghiên cứu
trước đó về tính hữu dụng của các dữ liệu tài chính và dữ liệu thị trường trong việc
dự báo phá sản. Tiếp theo đó, trong bài nghiên cứu ‘Zeta analysis: new model to
identify brankruptcy of corporation’ Altman (1977) đã tiếp tục nghiên cứu và phát
triển một mô hình dự báo phá sản mới gọi là mô hình điểm Z. Mô hình này đã khắc
phục những nhược điểm của mô hình cũ (1968), với khả năng dự báo chính xác lên
đến 5 năm trước khi phá sản của một mẫu các công ty lớn hơn 111 công ty gồm cả
lĩnh vực sản xuất và bán lẻ trong giai đoạn 1969 – 1975. Hơn nữa, tỷ lệ dự báo
chính xác của mô hình điểm Z trong khoảng 2 – 5 năm trước khi phá sản là gần
bằng tỷ lệ của 1 năm trước khi phá sản, trong khi đó, so với mô hình cũ năm 1968
thì tỷ lệ này giảm dần và không còn đáng tin cậy.
Trong một nghiên cứu khác, Altman (2000) dựa trên đặc điểm của các nhân
tố X1, X2, X3, X4 và X5 ở mỗi loại hình công ty khác nhau sẽ ảnh hưởng đến kết
quả dự báo. Qua thời gian, ông và các cộng sự đã phát triển từ mô hình dự báo năm
1968 thành ba mô hình dự báo khác nhau như sau:
* Mô hình chỉ số Z:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Theo mô hình này, Altman đưa ra các mức đánh giá như sau:
− Nếu Z < 1,81: công ty ở trong vùng có nguy cơ phá sản rất cao (distress).
− Nếu 1,81 < Z < 2,99: công ty ở trong vùng cảnh báo (gray).
12
− Nếu Z > 2,99: công ty nằm ở vùng an toàn (safe).
* Mô hình điều chỉnh Z’ (Private Firm Model):
Z’ = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4* + 1,0X5.
Trong đó các biến X1, X2, X3, X5 được xác định giống như mô hình chỉ số
Z. Riêng X4* được xác định là tỷ lệ giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu chia cho tổng nợ
(Book value equity/Book value of total liabilities). Với mô hình chỉ số Z’, Altman
có các mức đánh giá nguy cơ phá sản như sau:
− Nếu Z’ < 1,23: công ty ở trong vùng có nguy cơ phá sản rất cao (distress).
− Nếu 1,23 < Z’ < 2,90: công ty ở trong vùng cảnh báo (gray).
− Nếu Z’ > 2,90: công ty nằm ở vùng an toàn (safe).
* Mô hình Z” (non-manufacturers):
Z” = 6,56X1 + 3,26X2 + 6,72X3 + 1,05X4.
Trong đó các biến X1, X2, X3 và X4* được xác định giống như mô hình chỉ
số Z’. Mô hình chỉ số Z” đưa ra các mức đánh giá nguy cơ phá sản như sau:
− Nếu Z” < 1,10: công ty ở trong vùng có nguy cơ phá sản rất cao (distress).
− Nếu 1,10 < Z” < 2,67: công ty ở trong vùng cảnh báo (gray).
− Nếu Z” > 2,67: công ty nằm ở vùng an toàn (safe).
Ngoài các nghiên cứu ở Mỹ, Altman và cộng sự (2007) thực hiện nghiên cứu
về chẩn đoán tình trạng lâm nguy tài chính của các công ty trên thị trường chứng
khoán Trung Quốc. Với quan điểm các công ty gặp lâm nguy tài chính là các công
ty bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt khi xảy các các tình trạng: thu nhập tích lũy bị
âm hơn 2 năm liên tục hoặc giá trị tài sản ròng trên cổ phiếu thấp hơn giá trị sổ
sách, công ty có thu nhập âm trong 1 năm đồng thời có vốn cổ phần trong năm đó
thấp hơn vốn điều lệ, hay công ty nhận được cảnh báo liên tiếp của các kiểm toán
viên. Nghiên cứu đã khảo sát 15 biến (tỷ số tài chính) liên quan đến các vấn đề như:
lợi nhuận, tính thanh khoản, khả năng thanh toán, hiệu quả của quản lý tài sản, tăng
trưởng bền vững và cơ cấu vốn. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra mô hình để dự báo
nguy cơ phá sản của của các công ty Trung Quốc chỉ bao gồm 4 biến như sau:
Z = 0,517 – 0,460 X6 + 9,320X7 + 0,388 X8 + 1,158X9
13
Trong đó: X6 – tổng nợ/tổng tài sản (total liabilities/total assets); X7 – lợi
nhuận ròng/tổng tài sản (rate of return on total assets); X8 – vốn hoạt động
thuần/tổng tài sản (working capital/total assets); X9 - lợi nhuận giữ lại/tổng tài sản
(retained earnings/total assets). Mô hình đưa ra một số nhận định:
- Những công ty có Z < 0,5: thuộc nhóm có nguy cơ phá sản cao.
- Những công ty có 0,5 < Z < 0,9: thuộc nhóm có nguy cơ và cần theo dõi,
giám sát.
- Những công ty có Z > 0,9: thuộc nhóm những công ty có tài chính vững
mạnh, an toàn.
Theo sau các công trình nghiên cứu của Beaver (1966) và Altman (1968) đã
có nhiều người thừa kế nhằm ứng dụng và phát mô hình để dự đoán nguy cơ phá
sản ở các nước khác nhau.
N.VenkataRamana, S.Md.Azash & K.Ramakrishnaiah (2012), đã sử dụng
chỉ số Z-Score của Altman để dự đoán nguy cơ phá sản của các công ty xi măng Ấn
Độ với dữ liệu được thu thập từ các BCTC trong giai đoạn 2001 - 2010. Bài nghiên
cứu cho thấy tính thanh khoản, tỷ số quay vòng vốn và tỷ lệ khả năng thanh toán
của các công ty là những chỉ số dự đoán tốt nhất khả năng thất bại của công ty.
Fulmer (1984) sử dụng từng bước nhiều phân biệt đối xử phân tích để đánh
giá 40 chỉ tiêu tài chính áp dụng cho một mẫu của 60 công ty tại Mỹ được chia
thành 2 nhóm gồm 30 công ty thất bại và 30 công ty thành công. Kích thước tài sản
trung bình của các DN này là mô hình $ 455.000. Mô hình được Fulmer Model đưa
ra như sau:
H = 5,528 (V1) + 0,212 (V2) + 0,073 (V3) + 1,270 (V4) – 0,120 (V5) +
2,335 (V6) + 0,575 (V7) + 1,083 (V8) + 0,894 (V9) – 6,075.
Trong đó, V1 = lợi nhuận giữ lại/tổng tài sản; V2: doanh thu /tổng tài sản;
V3: lợi nhuận trước thuế và lãi vay/vốn chủ sở hữu; V4: dòng tiền/tổng số nợ; V5:
nợ/tổng tài sản; V6: nợ ngắn hạn/tổng tài sản; V7: log [tổng tài sản hữu hình]; V8:
vốn hoạt động thuần/tổng số nợ; V9: log EBIT/lãi.
Kết quả đưa ra điểm phân biệt: Nếu H < 0 thì công ty được phân loại là "thất
bại". Fulmer báo cáo một tỷ lệ chính xác 98% trong việc phân loại các công ty kiểm
14
tra một năm trước khi thất bại và một tỷ lệ chính xác 81% so với một năm trước khi
phá sản.
Gu (2002) đã phát triển mô hình MDA để phân tích trường hợp phá sản của
những công ty nhà hàng Mỹ và đạt đến độ chính xác 92% khi phân loại. Mô hình
đưa ra rằng những công ty có khoản nợ phải trả cao và EBIT (lợi nhận trước thuế và
lãi vay) thấp thì ít có cơ hội tồn tại và ngược lại. Để giảm rủi ro phá sản, các nhà
quản lý nhà hàng cần phải theo chiến lược tăng trưởng khôn ngoan đi kèm với tài
trợ ít nợ hơn và kiểm soát chi phí chặt hơn.
McClure (2004) đã khẳng định mô hình điểm Z thông qua nghiên cứu của
mình. Ông kết luận rằng để giữ khoản lợi trên các khoản đầu tư của họ, các nhà đầu
tư nên xem xét kiểm tra Z-score của công ty họ một cách thường xuyên và nếu Z-
score xấu đi có thể là dấu hiệu rắc rối được báo trước và cung cấp một kết luận đơn
giản hơn so với khối lượng của tỷ lệ. Do thiếu sót của nó, Z là có lẽ tốt hơn được sử
dụng như một thước đo về sức khỏe tài chính tương đối chứ không phải là một yếu
tố dự báo. Có thể cho rằng, tốt nhất là sử dụng các mô hình như là một kiểm tra
nhanh chóng của tình hình tài chính, nhưng nếu điểm số chỉ ra một vấn đề, đó là
một ý tưởng tốt để tiến hành một phân tích chi tiết hơn.
Vào năm 1980, Ohlson trong bài nghiên cứu “Financial ratios and the
probabilistic prediction of bankruptcy” đã tiến hành áp dụng mô hình Logit cho các
tỷ số tài chính. Đây là mô hình mà biến phụ thuộc được giả định tuân theo hàm
phân phối xác suất tích lũy logistic (logistic cumulative distribution function). Với
nghiên cứu này Ohlson đã tiến hành nghiên cứu với mẫu là 2.163 công ty gồm 105
công ty phá sản và 2.058 công ty không phá sản trong giai đoạn 1970 – 1976. Với
bài nghiên cứu của mình, Ohlson đã thành công trong việc phát triển O-score khi sử
dụng 9 biến kế toán tiêu biểu cho 4 nhân tố có ý nghĩa quan trọng trong việc dự báo
RRPS: (i) quy mô (SIZE), (ii) cấu trúc tài chính được thể hiện bằng thước đo đòn
bẩy (TLTA), (iii) thước đo lợi nhuận (NITA) và/hoặc FUTL), (iv) thước đo cho tính
thanh khoản hiện hành (WCTA hoặc WCTA và CLCA). Biến bao gồm: SIZE =
Log (tổng tài sản/chỉ số giá GNP); TLTA = Tổng nợ trên tổng tài sản; WCTA =
Vốn hoạt động thuần/tổng tài sản; CLCA = Nợ ngắn hạn trên tài sản ngắn hạn;
15
OENEG = 1 nếu tổng nợ phải trả lớn hơn tổng tài sản, và = 0 nếu ngược lại; NITA
= Lợi nhuận thuần /tổng tài sản; FUTL = Quỹ hoạt động trên tổng nợ phải trả;
INTWO =1 nếu thu nhập ròng âm trong 2 năm cuối, = 0 nếu ngược lại; CHIN (=
(NIt – NIt-1)/ (|NIt|– |NIt-1).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, bốn yếu tố cơ bản có ý nghĩa thống kê ảnh
hưởng đến xác suất phá sản trong một năm là: quy mô, cấu trúc tài chính đo lường
bởi tỷ số đòn bẩy tài chính là tổng nợ trên tổng tài sản, thành quả hoạt động đo
lường bởi tỷ số thu nhập ròng trên tổng tài sản và tỷ số dòng tiền từ hoạt động trên
tổng nợ, thanh khoản hiện hành đo lường bởi tỷ số vốn hoạt động thuần trên tổng tài
sản và tỷ số nợ ngắn hạn trên tài sản ngắn hạn. Tính chính xác trong các mô hình
của Ohlson lần lượt là 96,12%, 95,55% và 92,84% tương ứng với các mô hình dự
báo 1 năm, 2 năm, và 1 hoặc 2 năm. Và đồng thời, qua nghiên cứu của mình Ohlson
đề xuất chỉ số O trong việc phân biệt giữa những công ty phá sản và không phá sản.
Công ty có chỉ số O > 0,038 thì được xếp là phá sản với các nhân tố khác không
đổi.
Jame Kolari (2002) đã sử dụng mô hình Logit để xác định yếu tố gây ra sự
sụp đổ của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ giai đoạn 1980 -1990. Các tác giả tiến hành
thu thập và phân tích mẫu của 55 ngân hàng phá sản lớn và khoảng 1.000 ngân hàng
không thất bại lớn trong giai đoạn 1989 -1992. Nghiên cứu cho thấy: lợi nhuận
thuần/ tổng tài sản, lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản, tổng vốn chủ sở hữu/tổng tài sản
và lãi vay/tổng tài sản thuần có ý nghĩa thống kê trong việc xác định sự vỡ nợ của
các ngân hàng Mỹ.
Bandyopadhyay (2006) sử dụng cách tiếp cận logistic và chỉ số z phát triển
một mô hình với khả năng phân loại cao đến 91% để dự báo vỡ nợ cho những công
ty Ấn Độ:
Z = -2,337 + 0,736 (WK_TA) + 6,95 (CASHPROF_TA) + 0,864 (SOLVR) +
7,554 (OPPROF_TA) + 1,544 (SALES_TA).
Trong đó: WK_TA: vốn hoạt động thuần trên tổng tài sản; CASHPROF_TA:
lợi nhuận tiền mặt trên tổng tài sản; SOLVR: hệ số khả năng thanh toán được tính
bằng cách chia tổng tài sản của công ty cho tổng khoản vay cộng nợ ngắn hạn và
16
khoản dự phòng trừ thanh toán trước thuế; OPPROF_TA: lợi nhuận hoạt động trên
tổng tài sản là một thước đo năng suất thực sự về tài sản của công ty. Nó đo lường
khả năng thu nhập của công ty và tỷ lệ này cao hơn thì tốt hơn cho công ty;
SALES_TA: vòng quay vốn được biểu hiện cụ thể qua tỷ lệ tổng doanh thu trên
tổng tài sản là một tỷ lệ tài chính tiêu chuẩn (cũng được sử dụng bởi Altman trong
mô hình 1968) minh họa khả năng tạo ra doanh thu từ tài sản công ty. Trong phân
tích logit, tác giả cũng sử dụng nhiều biến tài chính khác: MVE_BVL – giá trị thị
trường của vốn chủ sở hữu trên giá trị sổ sách của nợ - đại diện cho giá trị tài sản
của công ty. Thước đo này cũng đo lường sự vững chắc của công ty. Trong việc
tính toán giá trị sổ sách của tổng nợ phải trả, tổng giá trị ròng của công ty được trừ
đi từ tổng nợ phải trả của công ty. Do đó, BVL cho giá trị sổ sách của tổng nợ trừ ra
khỏi tổng nợ phải trả của công ty. Tất cả sáu tỷ lệ đại diện cho giá trị và thu nhập
của các công ty thể hiện mối quan hệ với tổng tài sản. Kết quả cho thấy công ty có
chỉ số Z > 0 thì không phá sản. Công ty có chỉ số Z < 0 thì sẽ phá sản trong vòng
một năm.
Theo Pongsatat et al. (2004), chỉ số Z của Altman và Ohlson (1980) là những
công cụ vô cùng giá trị đối với giám đốc tài chính khi kiểm soát RRPS. Bài nghiên
cứu đã kiểm chứng mô hình của Altman và Ohlson về phá sản lên những công ty
lớn nhỏ ở Thái Lan với mẫu bao gồm 60 công ty phá sản và 60 công ty không phá
sản được kiểm định từ năm 1988 đến 2003 và đưa đến kết luận rằng đối với những
công ty phá sản, mô hình của Altman cho thấy độ chính xác dự báo cao hơn là so
với mô hình của Ohlson. Tuy nhiên, nhìn chung là không có sự khác biệt đáng kể
lắm về rủi ro dự báo ở công ty lớn và nhỏ của Thái Lan.
Ugurlu và Aksoy (2006) nghiên cứu theo sau phương pháp kĩ thuật thống kê
của Altman (1968) và Ohlson (1980), dựa theo 27 công ty phá sản và 27 công ty
không phá sản trên sản chứng khoán trong thời kỳ 1996-2003, đã phát triển một mô
hình dự báo phá sản cho những công ty Thổ Nhĩ Kỳ. Bài nghiên cứu đã cho rằng
mô hình hồi quy logit dự báo chính xác hơn phương pháp biệt số và tính bất định
của môi trường kinh tế có vẻ như làm tăng thêm rủi ro ảnh hưởng xấu của những sai
sót trong ban quản trị lên những quyết định tài chính.
17
Jouzbarkand et al. (2013) sử dụng hai mô hình để dự báo phá sản, liên quan
với tình hình kinh tế Iran. Họ đã nghiên cứu các mô hình Ohlson và Shirata, bằng
cách sử dụng phương pháp hồi quy logistic, kiểm tra và so sánh các khả năng của
các mô hình này. Để phân loại, xếp hạng các công ty, họ đã sử dụng pháp luật kinh
doanh nhằm xác định các công ty bị phá sản và một chỉ số đơn giản Q-Tobin để xác
định các công ty hoạt động bình thường. Kết quả cho thấy các mô hình tạo ra có thể
dự đoán sự phá sản.
Alkhatib và Bzour (2011) thực hiện một nghiên cứu để xác định hiệu quả của
các tỷ số tài chính trong dự báo phá sản trong công ty Jordan bằng mô hình của
Altman và Kida. Họ sử dụng mẫu bao gồm các công ty hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ phi tài chính và công nghiệp trong giai đoạn từ năm 1990 - 2006. Các kết
quả của hai mô hình được so sánh để nhận ra cái nào thuận lợi nhất để cung cấp cho
một cảnh báo sớm về khả năng phá sản cho từng năm đó. Kết quả cho thấy trong
hai mô hình thì mô hình của Altman có một lợi thế trong dự báo phá sản công ty,
với một khả năng dự đoán trung bình 93,8% trong năm năm trước khi vụ việc thanh
lý, trong khi mức trung bình của mô hình Kida là chỉ 69%.
Xu và Zhang (2009) đã tiến hành nghiên cứu các công ty của Nhật dựa vào
các mô hình Z-score của Altman, O-score Ohlson, để tìm ra những mô hình hữu
dụng cho thị trường Nhật Bản với dữ liệu 1992-2005. Các tác giả cho thấy việc kết
hợp giữa các mô hình cho kết quả tốt hơn.
Brédart (2014) đã phát triển một mô hình dự báo kinh tế lượng, và ông thấy
rằng khi sử dụng ba mô hình và một vài chỉ số tài chính tương quan cho thấy một
độ chính xác dự đoán hơn 80%. Dakovic et al. (2010), phát triển mô hình thống kê
dự báo phá sản của các doanh nghiệp Na Uy trong giới hạn khu vực trách nhiệm, sử
dụng các thông tin bảng cân đối hàng năm. Dựa trên thông tin về các khu vực công
nghiệp, họ đã mô hình hóa không đồng nhất không quan sát được giữa các ngành
khác nhau thông qua một yếu tố ngẫu nhiên ngành công nghiệp cụ thể trong các mô
hình hỗn hợp tuyến tính tổng quát. Các mô hình phát triển được thể hiện tốt hơn các
mô hình với các biến số của Altman.
18
Kahl (2002) tiến hành một nghiên cứu dựa trên một nhóm các công ty được
gần ngưỡng mặc định của công ty. Ông kết luận rằng chỉ có một phần ba các công
ty quản lý để tồn tại một cách độc lập, trong khi các công ty khác, hoặc được thực
hiện hoặc biến mất.
Romania cũng bày tỏ sự quan tâm trong việc có được một công cụ tổng hợp
để dự báo nguy cơ phá sản đối với cả ngân hàng và công ty.Về vấn đề này, có thể
đề cập đến điểm B Function (1998) được phát triển bởi Băileşteanu từ Đại học
Timişoara. Model I (1998) được xây dựng bởi Ivoniciu (một phát triển tương tự của
các chức năng Điểm B), Model A (2002) kết quả Ion Anghel về nền kinh tế
Rumani, một chỉ số tổng hợp của hiệu suất tài chính cho các DN ngành xây dựng
thiết kế bởi Bărbuţă-Misu (2009), các mô hình của Conan &Holder điều chỉnh đến
tính đặc thù của các DN Rumani (Bărbuţă-misu, Stroe, 2010).
Nhóm các viện sĩ Rumani đã cố gắng để phát triển trong năm 2012, một số
chức năng tương tự như của Altman, bằng cách sử dụng một mẫu 60 công ty
Rumani niêm yết trên sàn chứng khoán Bucharest. Trong các chỉ số tài chính, bảy
chỉ số tài chính được đưa vào sử dụng, những chỉ số được coi là có tính đại diện
nhất cho các hoạt động của công ty bao gồm: tổng tài sản, doanh thu, lợi nhuận
trước thuế, dòng tiền, thu nhập ròng, tổng số nợ, và giá trị trung bình thị trường. Để
tránh sự trùng lặp của các thông tin mà họ sử dụng để phân tích - các phương pháp
thành phần chính, nghiên cứu này cũng bao gồm kiểm tra thông qua phương pháp
phân tích biệt.
Một nghiên cứu thực hiện bởi Vintilă và Moscalu (2012) đã cố gắng để
chứng tỏ khả năng các chỉ tiêu tài chính để cung cấp những dấu hiệu cảnh báo về
sức khỏe của công ty, cũng như bất kỳ tiềm năng rủi ro có thể dẫn đến phá sản nếu
không được quản lý đúng cách. Các tác giả sử dụng một mẫu của 63 công ty, được
phân loại như sau: tổng số 43 công ty trong đó ghi lại lợi nhuận ròng tích cực vào
cuối năm 2010 được đánh giá sẽ được thực hiện, và phần còn lại, những công ty có
chỉ số tiêu cực này cho thời gian cùng tham khảo được xem không lành mạnh. Chỉ
số tài chính được lựa chọn từ nhiều loại, chẳng hạn như quy mô công ty, tỷ suất lợi
19
nhuận, tỷ lệ thanh khoản, lãi suất cho thấy tình hình tài chính của công ty, các biện
pháp dòng tiền, lợi nhuận và tỷ lệ nợ và cũng đã được đưa vào xem xét tỷ lệ sử
dụng Altman (1968). Để đạt được mục tiêu này, các thử nghiệm T đã được sử dụng,
mà không xác định sự khác biệt giữa các hai nhóm các công ty, ngay cả với hai năm
trước, nhưng chỉ về mặt lợi nhuận, đòn bẩy, cơ cấu nguồn vốn và tình hình tài
chính.
Monica Violeta Achim et al. (2012), đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm
nhằm phát triển một mô hình thống kê dự báo phá sản cho các công ty ngành công
nghiệp sản xuất của Rumani. Với mẫu nghiên cứu bao gồm 53 công ty hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất của Rumani niêm yết trên sàn chứng khoán
Bucharest và được chia thành hai nhóm 35 công ty có tình hình tài chính tốt và 18
công ty có khó khăn về mặt tài chính, dữ liệu được thu thập từ các BCTC của các
công ty trong giai đoạn từ 2000 -2011. Trong nghiên cứu này, các tác giả đã sử
dụng các biến tài chính đại diện cho tình hình tài chính của các công ty gồm các
nhóm: tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ đòn bẩy, tỷ lệ hoạt động, tỷ lệ thanh khoản và khả
năng thanh toán. Đồng thời, các tác giả đã sử dụng các phương pháp phân tích biệt.
Kết quả cho thấy bốn nhóm biến giải thích được nhiều hơn 85%. Nicoleta Bawbuta
(2014) tiến hành phân tích và dự báo RRPS của các công ty xây dựng Rumani bằng
các sử dụng hai mô hình nổi tiếng Conan & Holder và Altman, dựa trên mẫu của 5
công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng Rumani, số liệu tài chính lấy trong các
BCTC hàng năm có sẵn trên thị trường chứng khoán Bucharest trong giai đoạn
2008 - 2012. Các tác giả tiến hành so sánh nguy cơ phá sản khi sử dụng hai mô
hình, kết quả cho thấy cùng một công ty có thể được phân loại khác nhau bởi hai
mô hình này, và họ cho rằng mô hình Conan & Holder thì phù hợp hơn trong phân
tích và dự báo RRPS cho các công ty xây dựng hơn là mô hình của Altman.
Eljelly et al. (2001) phát triển một mô hình ba biến để dự báo sự phá sản của
những công ty tư nhân ở Sudan. Bài nghiên cứu đã cố gắng áp dụng các phương
pháp khác nhau để dự đoán phá sản, so sánh ba mô hình về khả năng phân loại
thành công tổng thể, xác định công ty phá sản và phân loại chính xác công ty không
20
phá sản. Kết quả cho thấy rằng mô hình được phát triển trong nghiên cứu này tốt
hơn hẳn so với mô hình Altman và mô hình Z trong việc phân loại công ty một và
hai năm trước khi phá sản, trong khi mô hình Altman thì tốt nhất trong ba và bốn
năm trước khi phá sản. Mô hình mới của Sudan:
Z** = 0,015 + 0,203X1 + 0,639X2 + 0,561X3
Trong đó: X1 – Tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn hạn; X2 – Lợi nhuận hoạt
động/Tổng tài sản; X3 – Dòng tiền/ Tổng nợ phải trả.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các kỹ thuật và mô hình đơn giản trong một
môi trường kinh tế đơn giản có thể làm tốt hơn so với các mô hình phức tạp có
nguồn gốc từ các nền kinh tế phát triển. Hơn nữa, kết hợp ba tỷ lệ trong mô hình đa
nhân tố cuối cùng là tỷ suất sinh lợi, tỷ lệ thanh khoản và tỷ lệ dòng tiền trên tổng
số nợ, có một sức hấp dẫn quan trọng trong một nền kinh tế kém phát triển như
Sudan. Nghiên cứu cho thấy khả năng sinh lợi và tính thanh khoản là những thành
phần tạo nên các DN thành công.
Qua các công trình nghiên cứu về RRPS theo phương pháp dựa trên sổ sách
có thể nhận thấy rằng nhìn chung kết quả đạt được của các nghiên cứu ở trên đó là
rút ra những biến tài chính phân biệt được giữa những công ty phá sản và những
công ty khoẻ mạnh khi phân tích RRPS doanh nghiệp.
1.1.2. Các nghiên cứu về rủi ro phá sản dựa theo yếu tố thị trường
Phương pháp phân tích rủi ro phá sản dựa trên yếu tố thị trường bằng cách
kết hợp cấu trúc đòn bẩy của công ty và giá trị thị trường của tài sản. Theo
Hillegeist và cộng sự (2004), phương pháp sử dụng dữ liệu thị trường Black-
Scholes và Merton (BSM-PB) có tính đại diện hữu hiệu hơn cho xác xuất phá sản so
với chỉ số Z hay chỉ số O. Bài nghiên cứu chứng minh rằng BSM- PB cung cấp
nhiều thông tin quan trọng hơn hai phương pháp dựa theo sổ sách kế toán, kể cả ưu
điểm vượt trội khi kết hợp chỉ số Z và chỉ số O và đưa ra hướng cho các nhà nghiên
cứu trong việc làm tăng rủi ro kiểm tra bằng việc sử dụng BSM-PB thay vì phương
pháp dựa theo sổ sách kế toán truyền thống.
Trong bài nghiên cứu ‘In search of distress risk’ (2008) của Campbell,
21
Hilscher, và Szilagyi, đã tiến hành xem xét các yếu tố quyết định phá sản cũng như
định giá cổ phần với xác suất phá sản cao thông qua mô hình logit bao gồm các biến
tỷ số tài chính và biến thị trường. Ngoài tập hợp hai nhóm biến tỷ số tài chính thì
nhiều biến thị trường được kiểm tra như logarit của tỷ suất sinh lợi thặng dư hàng
tháng của cổ phần mỗi công ty tương quan với chỉ số S&P 500, độ lệch chuẩn của
tỷ suất sinh lợi hàng ngày của công ty qua 3 tháng, quy mô của mỗi công ty được đo
lường bằng logarit của trị vốn hóa thị trường của mội công ty tương quan với chỉ số
chứng khoán S&P 5000 và logagit của giá mỗi cổ phần của mỗi công ty bị chặn ở
mức trên 15$. Các ước lượng của nghiên cứu này được tính toán với dữ liệu tại Mỹ
của các công ty đại chúng.
Christidis và Gregory (2010) với bài nghiên cứu “Some new model for
financial distress trediction in the UK” đã kiểm tra một tập hợp các biến số tài chính
và ba biến thị trường trong mô hình dự báo khủng hoảng tài chính cho các công ty
niêm yết tại Anh. Đối với các biến thị trường, họ thay thế biến giá trị sổ sách bằng
biến giá trị thị trường và kiểm tra xem liệu logarit của tỷ suất thu nhập vượt trội nửa
năm trên chỉ số tất cả cổ phần FTSE và độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi chứng
khoán công ty được tính theo mỗi giai đoạn 6 tháng có làm tăng khả năng dự báo
của mô hình hay không. Kết quả của họ cho thấy rằng, các biến giá trị thị trường có
khả năng làm tăng tính chính xác của mô hình dự báo phá sản.
Như đã đề cập ở trên, Hillegeist và cộng sự (2004) kết luận rằng phương
pháp dựa vào yếu tố thị trường thì cung cấp thông tin nhiều hơn đáng kể về khả
năng phá sản của công ty hơn là phương pháp dựa vào yếu tố kế toán. Ngược lại với
Hillegeist, một nghiên cứu của Reisz và Perlich (2007) kiểm chứng khả năng phá
sản của 5.784 doanh nghiệp bằng cả hai phương pháp dựa vào sổ sách kế toán và
yếu tố thị trường. Nghiên cứu này kết luận rằng thước đo dựa vào sổ sách kế toán
thì kết quả tốt hơn thước đo Black – Sholes – Merton. Tác giả cũng cho rằng
phương pháp dựa vào sổ sách kế toán như Altman Z và chỉ số Z’’ thể hiện vượt trội
khi dự báo một năm trước khi phá sản, tuy nhiên yếu dần khi thời gian dự báo dài
hơn.
22
Nguyên nhân là do phân tích RRPS dựa vào nhân tố thị trường thì phụ thuộc
vào giả thuyết thị trường hiệu quả. Giả định này là nhược điểm chính của phương
pháp dựa vào nhân tố thị trường. Thực tế, thị trường thì không phản ánh tất cả thông
tin về tình hình tài chính của một công ty, vì thế điều này dẫn đến độ lệch trong việc
tính toán giá trị thị trường tương lai của tài sản và tính dễ biến động của tỷ suất sinh
lợi trên tài sản.
Nhược điểm khác của phương pháp dựa vào các yếu tố thị trường là chúng
chỉ xem xét các công ty được niêm yết, chứ không xem xét những công ty tư nhân
(Berg, 2007). Vì thế phương pháp này cũng có một số giới hạn.
1.1.3. Các nghiên cứu về rủi ro phá sản dựa trên trí tuệ nhân tạo
Cùng với sự phát triển không ngừng của công nghệ máy tính và kỹ thuật trí
tuệ nhân tạo, các nghiên cứu về phá sản dựa trên trí tuệ nhân tạo (Artificial Neural
Networks –ANN) bắt đầu áp dụng từ những đầu thập niên 1990. Theo phương pháp
này sẽ cung cấp cho những nhà nghiên cứu cách tiếp cận nguồn dữ liệu máy tính để
ước lượng mô hình dự báo phá sản (Charitou et at., 2004).
Trong bài nghiên cứu “Neural network models and the prediction of bank
bankruptcy”, Tam (1991) áp dụng mô hình trí tuệ nhân tạo để dự báo phá sản cho
các ngân hàng ở Texas trong giai đoạn 1985 – 1987. Theo Tam (1991), một mô
hình trí tuệ nhân tạo bao gồm một số đơn vị xử lý giống nhau được kết nối theo một
mạng lưới. Mỗi đơn vị là một thiết bị tính toán đơn giản mà cách xử lý dữ liệu được
mô tả theo những hàm toán học đơn giản. Mỗi đơn vị nhận được các tín hiệu đầu
vào từ một đơn vị khác, tổng hợp những tín hiệu này dựa trên một hàm số đầu vào
và tạo tín hiệu đàu ra dựa trên hàm số đầu ra. Sau đó, tín hiệu đầu ra được truyền
trực tiếp đến những đơn vị khác theo cấu trúc liên kết của mạng lưới. Kết quả
nghiên cứu của Tam cho thấy mô hình trí tuệ nhân tạo dự báo chính xác hơn mô
hình MDA và Logit với cùng một mẫu dữ liệu về các ngân hàng ở Texas.
Odom và Sharda (1990) đã phát triển một mô hình trí tuệ nhân tạo để dự báo
phá sản và so sánh kết quả với phân tích biệt số MDA về độ chính xác phân loại. Họ
xác nhận mô hình trí tuệ nhân tạo có thể được sử dụng trong lĩnh vực dự báo phá
23
sản.
Coats và Font (1993) đã sử dụng mô hình trí tuệ nhân tạo để ước tính sức
khỏe tài chính của công ty. Trí tuệ nhân tạo được sử dụng để ước tính mẫu dữ liệu
có thể phân biệt công ty khỏe mạnh từ những công ty phá sản. Kết quả họ đưa ra là
Atiya (2001), đã tiến hành nghiên cứu về rủi ro phá sản của các ngân hàng
tín dụng trong việc sử dụng trí tuệ nhân tạo. Đây là nghiên cứu quan trọng và có
phương pháp trí tuệ nhân tạo hiệu quả hơn phương pháp biệt số MDA.
thể đưa ra ứng dụng rộng rãi vì nó có thể áp dụng mà không ảnh hưởng đến quyết
định cho vay của ngân hàng và ảnh hưởng đến lợi nhuận. Công trình nghiên cứu
đưa ra hai đóng góp. Đầu tiên, nghiên cứu xem lại chủ đề rủi ro phá sản, với sự
nhấn mạnh vào mô hình trí tuệ nhân tạo. Thứ hai, nghiên cứu phát triển một mô
hình dự báo phá sản trí tuệ nhân tạo. Dựa trên việc kế thừa một trong những mô
hình rủi ro tín dụng truyền thống đã được phát triển của Merton, tác giả đã đề xuất
các giải pháp mới cho hệ thống trí tuệ nhân tạo. Tác giả cho thấy việc sử dụng các
chỉ số này ngoài các phương pháp truyền thống là các chỉ số tỷ lệ tài chính thì
phương pháp trí tuệ nhân tạo cung cấp một sự cải thiện đáng kể trong dự đoán độ
chính xác (ngoài mẫu) từ 81,46% đến 85,5 với dự báo ba năm trước.
Etemadi và cộng sự (2008) đã sử dụng cả hai chương trình di truyền học GP
và MDA để dự báo RRPS cho những công ty Iran. Chương trình di truyền học GP
đã được áp dụng để phân loại 144 công ty Iran bị phá sản và không bị phá sản niêm
yết tại thị trường chứng khoán Tehran (TSE). Sau khi phân tích đa biệt thức (MDA)
và chạy mô hình GP. Mô hình di truyền học GP đạt được tỷ lệ chính xác 94% và
90% trong các mẫu nghiên cứu, trong khi mô hình MDA chỉ đạt được 77% và tỷ lệ
chính xác 73% trong các mẫu nghiên cứu tương ứng.
Min và Jeong (2008) đề xuất một phương pháp kĩ thuật phân loại nhị phân
mới để dự báo RRPS của công ty bằng xác nhận rủi ro dự báo của nó qua việc phân
tích theo kinh nghiệm. Một số phương pháp nghiên cứu về rủi ro phá sản dựa trên
trí tuệ nhân tạo có thể kể đến như:
- Cây quyết định (Frydman, Altman & Kao 1985; Marais, Patel & Wolfson 1984).
- Lý thuyết hỗn đỗn (Zimmermann 1996).
24
- Thuật toán di truyền học (Shin & Lee 2002, Varetto 1998).
- Máy vectơ hỗ trợ (Min & Lee 2005).
- Phân tích phát triển dữ liệu ( Cielen & Vanhoof 2004).
- Lập luận dựa trên tình huống (Bryant 1997, Jo, Han & Lee 1997, Park & Han
2002).
- Thuyết tập thô (Dimitras, Slowinski, Susmaga & Zopounidis 1999, McKee 2000,
2003).
- PNN (Mạng lưới neutral theo xác suất) ) (Yang, Platt, & Platt, 1999).
- SOM (Kaski, Sinkkonen, & Peltonen, 2001; Lee, Booth, & Alam, 2005).
- Cascor (Hệ thống neutral tương quan tầng) (Lacher, Coats, Sharma, & Fantc,
1995).
- BPNN (Hệ thống neutral đào tạo nhân rộng trở lại) (Atiya 2001, Bell 1997, Lam
2004, Leshno & Spector, 1996; Salchenberger, Mine, & Lash, 1992; Swicegood &
Clark, 2001; Tam, 1991; Wilson & Sharda,1994).
- Và nhiều loại khác cho thấy tiềm năng là những nguồn thay thế cho phương pháp
hiện nay.
Như vậy, qua tổng quan các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có thể cho
thấy có nhiều phương pháp được đề xuất bởi các nhà nghiên cứu khác nhau với
những xuất sắc và hạn chế nhất định. Mỗi công trình nghiên cứu đưa ra những luận
điểm và phương pháp khác nhau. Chính vì thế, cho đến nay lý thuyết phá sản vẫn
chưa được tiêu chuẩn hóa đã dẫn đến sự xuất hiện nhiều bài nghiên cứu với nhiều
phương pháp kĩ thuật khác nhau dựa theo cấu trúc môi trường DN ở mỗi quốc gia
(Etemadi và cộng sự, 2008).
1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước
Việt Nam trong những năm gần đây, đề tài về phá sản cũng đã nhận được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, mỗi nghiên cứu đề cập đến những
đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác nhau. Một số nghiên cứu điển hình có thể kể
đến bao gồm:
Lâm Minh Chánh (2007), ‘Chỉ số Z – công cụ phát hiện nguy cơ phá sản và
25
xếp hạng định mức tín dụng’ và ‘Dùng chỉ số Z để ước tính hệ số tín nhiệm’, Báo
nhịp cầu đầu tư, số 41 và 42. Trong cả hai bài nghiên cứu tác giả chỉ đưa ra các khái
niệm cũng như cách tính toán các biến và chỉ số Z cho từng loại hình của công ty
dựa trên các mô hình của Altman (2000). Tác giả chưa đưa ra các đánh giá, kiểm
định xem mô hình có thích hợp để sử dụng ở thị trường Việt Nam hay không.
Lê Long Hậu (2010), ‘Vận dụng lý thuyết định giá quyền chọn vào dự báo
RRPS của DN – Mô hình KMV’, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, số 49, tháng
4/2010. Bài nghiên cứu đã mô tả về mối quan hệ giữa một khoản vay và người đi
vay và thể hiện mô hình dự báo phá sản kỳ vọng của KMV và chỉ ra ưu nhược điểm
của mô hình trong thực tế.
Huỳnh Cát Tường (2008), đã ứng dụng mô hình Z-Score trong dự báo khánh
kiệt tài chính liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, tài chính, luật
pháp,... cả ở phạm vi trong và ngoài nước. Tuy nhiên, luận án chỉ tập trung vào các
vấn đề chính về dự báo, giải quyết tình trạng khánh kiệt tài chính cho DN kèm theo
những giải pháp ở tầm vĩ mô mà chưa đi vào cụ thể đối với từng loại hình DN.
Nguyễn Trọng Hòa (2009) đã sử dụng mô hình phân tích phân biệt và mô
hình logit để phân tích xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng đối với các DN Việt
Nam trong nền kinh tế chuyển đổi. Với quan điểm DN có nguy cơ phá sản khi xảy
ra một trong các tình huống: Không có khả năng thực hiện nghĩa vụ tín dụng với
bên đối tác; Vốn hoạt động thuần thường xuyên nhỏ hơn không; Giá trị thị trường
của DN nhỏ hơn tổng nợ phải trả. Nghiên cứu đã tiến hành phân tích 37 chỉ tiêu tài
chính được lấy từ các BCTC của 286 công ty trên cả hai sàn giao dịch TP.Hồ Chí
Minh (HOSE) và Hà Nội (HASTC) tại ngày 31/12/2007. Tác giả đã chia mẫu ban
đầu thành 5 mẫu thành phần để ước lượng hàm phân biệt và hàm phân bố logistic
với các điều kiện nguy cơ phá sản khác nhau để xây dựng mô hình. Kết quả cả 5
nhóm thành phần đều xây dựng được các hàm ước lượng khác nhau phù hợp cho
từng nhóm với các đặc điểm riêng. Và với 37 biến ban đầu thì chỉ có các biến được
chọn như sau: tiền mặt trên tổng tài sản, vốn hoạt động thuần trên nợ ngắn hạn, vốn
chủ sở hữu trên tổng tài sản, giá vốn hàng bán trên doanh thu thuần, chi phí quản lí
26
DN trên doanh thu thuần, hàng tồn kho trên doanh thu thuần, các khoản phải thu
(doanh thu thuần/ 365), lợi nhuận sau thuế trên doanh thu thuần, lợi nhuận sau thuế
trên vốn chủ sở hữu. Từ đó kết hợp xếp hạng các công ty thành 9 hạng từ loại rất tốt
(AAA) đến loại rất yếu kém (C). Trong báo cáo về xếp hạng tín nhiệm các DN đã
lên sàn chứng khoán. Tác giả Nguyễn Trọng Hòa (2009) dựa trên kết quả thực
Z = - 0,52 – 3,118X4 + 2,763 X8 – 0,55X22 – 0,163X24 + 6,543X29 + 0,12X53
nghiệm đã đưa ra được mô hình theo hàm phân biệt như sau:
Trong đó: X4 – tổng vốn vay trên tổng tài sản; X8 – vốn hoạt động thuần trên
tổng tài sản; X22 – các khoản phải thu trên doanh thu thuần; X24 – các khoản phải thu
trên nợ phải trả; X29 – lợi nhuận trước lãi vay và thuế trên tổng tài sản; X53 – lợi
nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu. Với việc kết hợp các tỷ số, tác giả cho rằng chỉ
số Z càng lớn thì càng chứng tỏ DN có khả năng tài chính tốt, kinh doanh hiệu quả.
Từ đó đưa ra các điểm cắt để phân lớp xếp hạng DN.
Trong nghiên cứu về phân tích rủi ro tín dụng DN bằng mô hình logit, tác giả
Hoàng Tùng (2011) dựa trên bảy chỉ tiêu với mẫu 463 DN niêm yết và đưa ra mô
hình dự báo như sau:
Z = -0,749 + 0,074Hs + 2,458Ts_TSNH – 5,985Ts_No – 2,060DBN +
0,992Ts_LNDT + 145,363ROA + 26,151ROE
Trong đó: Hs – số vòng quay tài sản (doanh thu trên tổng tài sản); Ts_TSNH
– tỷ suất tài sản ngắn hạn (tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản); Ts_No – tỷ suất nợ
(nợ phải trả trên tổng tài sản); DBN – đòn bẩy nợ (nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu);
Ts_LNDT – tỷ suất lợi nhuận doanh thu (lợi nhuận trên doanh thu); ROA – tỷ suất
sinh lời tài sản (lợi nhuận trên tổng tài sản); ROE – tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
(lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu). Nghiên cứu đã đưa ra kết quả dự báo về rủi ro trả
nợ của các công ty như sau: Nếu Z < 0,5 thì công ty không có khả năng trả nợ (có
rủi ro), ngược lại nếu Z > 0,5 công ty có khả năng trả nợ (không rủi ro).
Nguyễn Thành Cường, Phạm Thế Anh (2010) đã sử dụng mô hình điểm Z
của Altman để đánh giá và đã đưa ra được một số giải pháp góp phần giảm thiểu
RRPS của các DN chế biến thủy sản đang niêm yết trên TTCKVN, đồng thời hỗ trợ
27
cho các ngân hàng nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng. Tuy nhiên nghiên cứu cũng chưa đưa ra được kết luận hay đánh giá xem mô
hình có thể áp dụng được ở thị trường Việt Nam hay không. Mô hình chỉ đưa ra các
đánh giá dựa trên các tiêu chí của Altman đối với từng công ty, đề xuất lấy kết quả
làm căn cứ để các ngân hàng xếp hạng tín dụng cho công ty khi tiến hành xét cấp tín
dụng.
Khổng Thanh Hòa (2008) đã ứng dụng mô hình chỉ số Z trong phân tích tài
chính công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Công trình dựa trên
số liệu năm 2007 của 230 công ty cổ phần niêm yết trên HOSE và HNX. Tác giả
đưa ra phương trình điểm Z, với giá trị phân biệt là 1,0689:
ZVietnam = 0,204X1 +1,386X2 + 2,211X3+ 0,009 X4 + 0,488 X5
Độ phù hợp của mô hình là 70%, tuy nhiên do thị trường nợ và thị trường trái
phiếu của Việt Nam chưa phát triển nên ngay từ đầu tác giả đã không phân loại
được chính xác các công ty phá sản và không phá sản như cách làm của Altman.
Bên cạnh đó việc lựa chọn kỳ nghiên cứu là năm 2007 có phần khiên cưỡng (để đủ
số lượng các công ty có tình trạng tài chín thuộc nhóm phá sản) cũng ảnh hưởng
đến tính đại diện của mẫu nghiên cứu.
Khi nghiên cứu về các yếu tố tác động đến phá sản DN trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai, tác giả Nguyễn Bảo Khang (2012) đưa ra dự báo phá sản của các DN
thời điểm trước khi phá sản một năm, hai năm và ba năm đều chịu ảnh hưởng các
yếu tố: tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản, lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu, lợi
nhuận sau thuế trên doanh thu và tài sản ngắn hạn trên doanh thu. Bên cạnh đó tùy
thuộc vào việc dự báo trước khi phá sản một, hai hay ba năm mà có thể có thêm các
biến như: doanh thu trên tổng tài sản, giá vốn hàng bán trên doanh thu, DN có 100%
vốn nhà nước.
Đào Thị Thanh Bình (2013) đã sử dụng phương pháp luận tiếp cận của
Altman để tiến hành xây dựng mô hình định mức tín dụng cho các công ty sản xuất
ở Việt Nam. Số liệu tài chính được lấy từ các công ty sản xuất được niêm yết ở Việt
28
Nam, khi dùng mức lợi nhuận thuần trong bốn quý để xác định trạng thái của doanh
nghiệp là điểm khác biệt trong bài báo này, đã được sử dụng để xây dựng mẫu. Một
hàm Z-score mới với tám tham số tài chính được tìm ra từ các cơ sở mẫu dữ liệu
của Việt Nam. Độ chính xác là 86%, thu được phương trình:
ZVietnam = 1,268X1 – 1,179 X2 – 0,56 X3+ 0,023 X4 + 0,185 X5 -0,009 X6 +
0,411 X7 + 6,641 X8 – 1,888
Giá trị phân biệt được xác định là 0,575 và 0,975. Sau khi tính chỉ số Z, dựa
vào Standard & Poor về xác suất vỡ nợ của thị trường châu Á, đưa ra mối quan hệ
giữa các chỉ số Z với xác suất vỡ nợ và từ đó suy luận về xếp hạng tín nhiệm cho
các công ty sản xuất của Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu có giá trị tham khảo tốt
cho các công trình tiếp theo, tuy vậy, khả năng ứng dụng thấp do quy mô mẫu nhỏ
và căn cứ phân biệt doanh nghiệp không hợp lý, ảnh hưởng tới tính phù hợp của kết
quả.
Như vậy qua tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước cho thấy đã có
một số tác giả đi vào nghiên cứu phá sản trong các DN Việt Nam. Đa số các công
trình nghiên cứu tập trung vào việc vận dụng mô hình phá sản Z- score của Altman.
Bên cạnh cũng có một số công trình nghiên cứu theo hướng phát triển mô hình
riêng như tác giả: Nguyễn Bảo Khang (2012), Hoàng Tùng (2011), Nguyễn Trọng
Hòa (2009), Đào Thị Thanh Bình (2013). Tuy nhiên các mô hình hoặc chỉ dùng
chung cho tất cả các DN hoặc cho lĩnh vực tín dụng mà chưa có công trình nghiên
cứu nào đi vào nghiên cứu riêng cho công ty BĐS niêm yết trên TTCKVN. Chưa có
tổ chức nào thực hiện xếp hạng tín nhiệm và cảnh báo nguy cơ phá sản cho doanh
nghiệp BĐS Việt Nam, cũng như chỉ rõ những nguyên nhân (yếu tố) nào dẫn tới
tình trạng này, trong đó nguyên nhân nào là có ảnh hưởng mạnh nhất. Thêm nữa,
thời gian nghiên cứu chưa dài. Chính vì vậy, từ các vấn đề nêu trên đã mở ra cho
NCS hướng nghiên cứu trong việc phân tích RRPS của các công ty bất động sản
niêm yết từ đó đề xuất các giải pháp nhằm ngăn ngừa RRPS là một trong những
hướng đi có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
1.3. Kết luận về tổng quan nghiên cứu và xác lập vấn đề nghiên cứu
29
Tổng quan nghiên cứu giúp cho chúng ta có cái nhìn tổng quát nhất về các
công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài. Từ đó rút ra được những
khoảng trống và câu hỏi nghiên cứu.
Qua việc tổng quan các nghiên cứu được trình bày ở trên, tác giả nhận ra một
số “khoảng trống” của các nghiên cứu trước đây như sau:
Thứ nhất, các nghiên cứu về phá sản là một đề tài đã được thực hiện ở các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Đức,… Tuy nhiên, Ở
Việt Nam nghiên cứu về RRPS chỉ mới được quan tâm trong những năm gần đây
với số lượng nghiên cứu còn hạn chế, thời gian nghiên cứu chưa dài. Kết quả
nghiên cứu của các công trình này chủ yếu áp dụng chung cho doanh nghiệp Việt
Nam, mà ít đi vào nghiên cứu các nhóm doanh nghiệp hoặc ngành nghề cụ thể nào,
đặc biệt là lĩnh vực bất động sản. Thêm nữa, cũng chưa có tổ chức nào thực hiện
xếp hạng tín nhiệm và cảnh báo nguy cơ phá sản cho doanh nghiệp BĐS Việt Nam,
cũng như chỉ rõ những nguyên nhân (yếu tố) nào dẫn tới tình trạng này. Do đó, cần
có thêm nghiên cứu về RRPS nói chung và RRPS trong các công ty BĐS nói riêng
nhằm bổ sung bằng chứng thực nghiệm về phân tích RRPS trong DN.
Thứ hai, các nghiên cứu về RRPS đã thực hiện hầu như đều bị giới hạn phạm
vi về thời gian nghiên cứu như: nghiên cứu của Beaver (1966), Altman (1968), Xu
và Zhang (2009), Hoàng Tùng (2011), Khổng Minh Hòa (2009)… Trong thời gian
gần đây, dưới tác động của nền kinh tế nói chung và thị trường bất động sản nói
riêng đã làm cho nguồn dữ liệu cung cấp cho nghiên cứu có sự thay đổi, dẫn đến kết
quả nghiên cứu có thể có sự khác biệt so với trước đây. Vì vậy, cần có các nghiên
cứu sử dụng dữ liệu gần với hiện tại, với thời gian đủ dài nhằm đưa ra cảnh báo
chính xác hơn về RRPS.
Xuất phát từ những vấn đề còn khuyết thiếu như đã nêu, NCS đi vào nghiên
cứu đề tài: “Phân tích rủi ro phá sản trong các công ty bất động sản niêm yết trên
thị trường chứng khoản Việt Nam” với mục tiêu góp phần lấp đầy khoảng trống
30
còn tồn tại. Tác giả cho rằng đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tế, đặc biệt
31
với ngành BĐS vốn có ảnh hưởng sâu rộng và nhiều biến động trong thời gian qua.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nội dung của Chương 1 tập trung làm rõ lý thuyết tổng quan về quan điểm
của các nhà nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam về phân tích RRPS thông qua
các công trình đã công bố bao gồm các bài báo khoa học, sách chuyên khảo, luận
án,... Trong mỗi phần tác giả đều tập hợp trình bày tổng quan về những điểm chung
của các nghiên cứu và phân tích, đánh giá những ưu điểm, nhược điểm của các
nghiên cứu để chỉ ra khoảng trống nghiên cứu còn cần phải hoàn thiện khi nghiên
cứu về phân tích RRPS trong các công ty BĐS. Trên cơ sở khoảng trống tác giả đã
lựa chọn tên đề tài nhằm bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm liên quan đến rủi ro
32
phá sản.
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO PHÁ SẢN VÀ PHÂN TÍCH
RỦI RO PHÁ SẢN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
2.1. Rủi ro phá sản
2.1.1. Rủi ro phá sản
Rủi ro có thể xuất hiện trong hầu hết các hoạt động của con người. Khi có rủi
ro người ta không thể dự đoán được chính xác kết quả mà nó gây ra bởi sự hiện diện
của rủi ro luôn gây nên sự bất định. Xét trong phạm vi các doanh nghiệp, rủi ro là
khả năng xảy ra sự kiện không mong đợi, tác động ngược với thu nhập và vốn đầu
tư. Rủi ro có thể biểu hiện từ lúc DN mới bắt đầu đi vào hoạt động kinh doanh và
nó vẫn tiếp tục trong suốt quá trình phát triển của DN. Vì vậy, việc lựa chọn sai
mục tiêu, lấy quyết định quản lý sai hoặc thiếu sự tương quan của đầu ra với nhu
cầu trên thị trường tương ứng, dẫn đến nguy cơ gây thiệt hại cho DN. Trong hoạt
động kinh doanh, khi có rủi ro thường dẫn đến sự thiệt hại về tài chính ở mức độ
khác nhau đối với DN, có thể kể đến một số rủi ro cơ bản sau:
- Rủi ro kinh doanh: là sự rủi ro của các hoạt động kinh doanh của DN chưa
xem xét ảnh hưởng của các khoản nợ vay và được đo lường bởi lợi nhuận trước
thuế và lãi vay.
- Rủi ro tài chính: là rủi ro mà các chủ sở hữu phải gánh chịu thêm do DN sử
dụng các khoản nợ, là rủi ro phát sinh từ độ nhạy cảm của các nhân tố giá cả thị
trường như lãi suất, giá cả hàng hóa, tỷ giá, đòn bẩy tài chính.
- Rủi ro phá sản: được coi là toàn bộ những tác động ngoài mong muốn ảnh
hưởng đến sự tồn tại, làm mất khả năng chi trả, hoạt động bình thường của nhà kinh
doanh. Nói cách khác rủi ro phá sản mô tả khả năng một công ty sẽ bị vỡ nợ vì
không có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ của mình. Rủi ro phá sản và rủi ro tài
chính thường có mối liên hệ với nhau, nhất là trong điều kiện sự vay nợ kéo theo
33
việc trả một khoản chi phí và như vậy sẽ làm tăng RRPS.
Hầu hết phá sản là rủi ro vì nó là điều không mong đợi của bất kỳ DN nào.
Phá sản được coi là biện pháp cuối cùng để giải thoát trách nhiệm cho người chủ
DN.
Ở mỗi quốc gia với đặc điểm nền kinh tế có các đặc trưng khác nhau nên các
qui định về phá sản công ty sẽ có những điểm khác nhau. Ví dụ, ở Mỹ, có hai
chương luật về những công ty được xác định là phá sản đó là thanh lý trong chương
7 và tái tổ chức trong chương 11. Tương tự, ở Nhật, có ba luật cơ bản xếp những
công ty lớn phá sản: Luật phục hồi công dân, Luật tái tổ chức DN và Luật đóng cửa
DN (Xu và Zhang, 2008). Theo điều 4, Luật phá sản Việt Nam năm 2014: “Phá sản
là tình trạng của DN, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra
quyết định tuyên bố phá sản”. Khi DN được coi là mất khả năng thanh toán thường
dựa trên tiêu chí không thanh toán nợ đến hạn (dòng tiền) hoặc tổng nợ vượt quá tài
sản có.
Bên cạnh đó, qua phần tổng quan cho thấy các quan điểm về phá sản đưa ra
thường khác nhau mà không có một định nghĩa tổng quát hoá. Ví dụ như: Beaver
(1966) đưa ra tiêu chuẩn xác định các công ty có nguy cơ phá sản là những công ty
không trả được nợ, các công ty thấu chi trên tài khoản ngân hàng và những công ty
bỏ qua việc thanh toán cổ tức ưu đãi. Altman (1968) khi thực hiện nghiên cứu tại thị
trường Mỹ cho rằng công ty phá sản khi công ty nộp đơn xin phá sản. Zhang (2007)
khi nghiên cứu thị trường chứng khoán Trung Quốc thì có quan điểm rằng công ty
bị đưa vào diện kiểm soát khi thu nhập tích lũy âm hai năm liên tục hoặc giá trị tài
sản ròng trên cổ phiếu thấp hơn giá trị sổ sách. Khi nghiên cứu tại thị trường
Malaysia năm 2004, Sori và Karbhari qui định các công ty bị khủng hoảng tài chính
nếu: hoặc theo qui định của Luật DN Malaysia năm 1965 hoặc các công ty được các
cấp thẩm quyền phê duyệt cho tái cơ cấu để khôi phục các điều kiện tài chính. Theo
Pongsatat et al. (2004), phá sản được xác định là việc công ty không có khả năng
tiếp tục việc kinh doanh hiện tại do có nghĩa vụ nợ cao. Phá sản điển hình xảy ra khi
hoặc dòng tiền hoạt động của công ty không đủ để thực hiện nghĩa vụ hiện tại, tức
34
là không có khả năng chi trả các khoản nợ hoặc là khi giá trị ròng của công ty là âm,
tức là giá trị của tài sản thì ít hơn giá trị của khoản phải trả (Knox et al., 2008).
Gonenli (1988) cho rằng phá sản của một công ty hay trở nên phá sản có thể xác
định như sự mất khả năng của công ty khi trả các khoản nợ, rõ ràng trở nên phá sản
thì tồi tệ hơn nhiều so với mất tính thanh toán. Mặc dù, phá sản đi cùng với một sự
giảm đều đặn giá trị tài sản dưới tổng nợ phải trả, quyết định đánh dấu chấm hết cho
sự tồn tại của DN thì đúng đắn hơn là cố gắng tồn tại (Wheelen, 2000). Gu (2002)
cho rằng những công ty có khoản nợ phải trả cao và EBIT (lợi nhận trước thuế và
lãi vay) thấp thì ít có cơ hội tồn tại và ngược lại. Altman, Heine, Zhang và Yen
(2007) đưa ra quan điểm các công ty gặp lâm nguy tài chính là các công ty bị đưa
vào diện kiểm soát đặc biệt khi xảy các các tình trạng: thu nhập tích lũy bị âm hơn 2
năm liên tục hoặc giá trị tài sản ròng trên cổ phiếu thấp hơn giá trị sổ sách, công ty
có thu nhập âm trong một năm đồng thời có vốn cổ phần trong năm đó thấp hơn vốn
điều lệ, hay công ty nhận được cảnh báo liên tiếp của các kiểm toán viên.
Nguyễn Trọng Hòa (2009) đưa ra quan điểm DN có nguy cơ phá sản khi xảy
ra một trong các tình huống:
- Không có khả năng thực hiện nghĩa vụ tín dụng với bên đối tác;
- Vốn hoạt động thuần thường xuyên nhỏ hơn không;
- Giá trị thị trường của DN nhỏ hơn tổng nợ phải trả.
Như vậy không có một định nghĩa chính xác về phá sản, tuy nhiên có thể
khẳng định rằng nguyên nhân chủ yếu của phá sản là do sự suy yếu về khả năng
thanh toán, tức là DN không có đủ tiền để trả cho các khoản nợ phải trả nhà cung
cấp hay lãi tiền vay ngân hàng và phải vi phạm các hợp đồng.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, NCS đưa ra các tiêu chí để nhận diện
công ty có rủi ro phá sản như sau:
- Các công ty bị sở giao dịch chứng khoán công bố bị hủy niêm yết, bị cảnh
báo ngừng giao dịch hay những công ty có cổ phiếu bị đưa vào diện phải kiểm soát
thì đều thuộc dạng các công ty có rủi ro phá sản (ở đây nghiên cứu chỉ xét các công
ty bị cảnh báo do liên quan đến vấn đề hiệu quả hoạt động, không xét các trường
35
hợp khác chẳng hạn do vi pham qui tắc công bố thông tin, thời hạn nộp các báo cáo
tài chính…).
- Các công ty có ROA âm và giá trị vốn hóa thị trường nhỏ hơn tổng nợ phải
trả.
- Các công ty có vốn hoạt động thuần âm và giá trị vốn hóa thị trường nhỏ
hơn tổng nợ phải trả.
NCS chọn so sánh giá trị vốn hóa thị trường với tổng nợ làm yếu tố tác động
bởi vì giá trị vốn hóa thị trường đại diện cho khả năng huy động vốn của công ty
trên thị trường chứng khoán, còn giá trị tổng nợ đại diện cho các khoản công ty cần
phải chi trả. Chỉ tiêu này cũng góp phần chứng tỏ mức độ tự chủ tài chính của công
ty. Giá trị vốn hóa thị trường là yếu tố quan trọng phản ánh giá trị của các tài sản cơ
sở của DN, được tính bằng giá đóng cửa của cổ phiếu tại ngày 31/12 nhân với tổng
số cổ phiếu hiện hành của DN. Giả sử rằng ở đây ta chỉ xét dưới góc độ các nhà đầu
tư quyết định đầu tư vào cổ phiếu là do hiệu quả hoạt động chứ không phải là đầu tư
theo dạng lướt sóng để kiểm lợi nhuận. Do đó, khi một cổ phiếu của một công ty
được nhà đầu tư kỳ vọng đánh giá cao, cổ phiếu đó sẽ tăng và thường kéo theo tính
thanh khoản của cổ phiếu đó cũng tăng. Vì vậy, khi công ty cần nguồn vốn để có
thể thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như nguồn vốn để đầu tư vào các dự án
thì việc huy động sẽ gặp thuận lợi hơn. Ngược lại nếu nhà đầu tư không kỳ vọng
vào cổ phiếu của công ty thì thường giá của công ty cũng sẽ giảm và tính thanh
khoản cũng giảm làm cho việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn có thể làm ảnh
hưởng đến hoạt động của công ty. Khi giá trị vốn hóa của doanh nghiệp thấp hơn
các khoản nợ phải trả, điều đó dẫn đến doanh nghiệp có rủi ro rơi vào phá sản. bởi
vì theo lý thuyết hành vi và lý thuyết trò chơi đã chỉ rõ, khi thực hiện bất cứ một
hành vi nào, mỗi cá nhân luôn xét xem họ được gì và mất gì. Nếu hành vi luôn
mang lại lơi ích mà không bị tổn thất gì thì họ sẽ thực hiện, ngược lại nếu hành vi
luôn tạo ra tổn thất mà không có lợi ích gì thì họ sẽ không thực hiện. Đối với loại
còn lại, hành vi được thực hiện khi lợi ích lớn hơn chi phí và ngược lại hành vi sẽ
không thực hiện. Tác dụng của tài sản đảm bảo nằm ở điểm này. (Tiêu chí này cũng
36
được tác giả Nguyễn Trọng Hòa (2009) sử dụng làm tiêu chuẩn phân biệt giữa công
ty có nguy cơ phá sản và không phá sản)
Vốn hoạt động thuần là chỉ tiêu phản ánh mức độ chênh lệch giữa tổng tài
sản ngắn hạn và tổng nợ ngắn hạn, phản ánh số vốn tối thiểu của DN được sử dụng
để duy trì những hoạt động diễn ra thường xuyên tại DN. Một DN muốn hoạt động
liên tục cần phải duy trì mức vốn hoạt động phù hợp nhằm đáp ứng cho nhu cầu dự
trữ hàng tồn kho và thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Vốn hoạt động thuần của
DN càng cao, cho thấy sức khỏe tài chính tốt và khả năng thanh toán các khoản nợ
sẽ càng cao. Ngược lại, nếu vốn hoạt động thuần thường xuyên giảm sẽ làm cho khả
năng thanh toán cũng giảm theo. Trường hợp vốn hoạt động thuần âm tức là một số
bộ phận quan trọng của tài sản dài hạn của DN được hình thành bằng nguồn vốn
ngắn hạn, từ đó dẫn đến cán cân thanh toán mất cân bằng, DN phải dùng tài sản dài
hạn để tiến hành thanh toán nợ đến hạn và điều này dĩ nhiên dẫn đến việc DN sẽ đối
mặt với rủi ro rơi vào phá sản.
ROA là chỉ tiêu quan trọng đo lường khả năng sinh lợi của công ty. Bởi vì
chỉ tiêu này được dùng để đánh giá hiệu quả trong việc sử dụng tài sản của DN. Trị
số của chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả sử dụng tài sản càng cao; nghĩa là DN đang
thu được nhiều lợi nhuận hơn trên giá trị đầu tư ít hơn. Do đó, khi ROA âm tức là
doanh thu không đủ bù đắp chi phí, DN đang làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ và chắc
chắn sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và khi đó nguy cơ phá sản sẽ tăng lên.
Ngoài ra để hiểu rõ hơn về phá sản, cần phân biệt giữa giữa phá sản và vỡ nợ
tài chính, giữa phá sản và giải thể công ty.
Vỡ nợ (insolvency) là tình trạng tài chính mà một người hay một thực thể
kinh doanh gặp phải khi tài sản của họ không còn đủ để đáp ứng các nghĩa vụ phải
trả hoặc không có khả năng trả các khoản nợ đến hạn. Ở Mỹ, một doanh nghiệp
được coi là trong tình trạng không trả được nợ khi doanh nghiệp đó ngừng trả nợ
trong kỳ kinh doanh bình thường, hoặc không có khả năng trả nợ khi đến hạn, hoặc
không trả được nợ theo Luật phá sản.
Thuật ngữ vỡ nợ tài chính đôi khi bị nhầm lẫn với phá sản (Bankruptcy) và
37
thường được sử dụng không chính xác như một từ đồng nghĩa với phá sản.
Tình trạng mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến phá sản nhưng điều kiện
này cũng có thể là tạm thời và chắc chắn mà không có sự bảo vệ hợp pháp từ các
chủ nợ. Việc mất khả năng thanh toán không nhất thiết dẫn đến phá sản, nhưng tất
cả các trường hợp nợ phá sản đều bị coi là mất khả năng thanh toán.
Mặc dù cả vỡ nợ tài chính và phá sản đều thể hiện việc khoản nợ vượt quá tài
sản của doanh nghiệp, việc vỡ nợ tài chính chỉ là một trạng thái tài chính còn phá
sản thể hiện một khái niệm pháp lý riêng biệt theo luật định. Tình trạng vỡ nợ
thường dẫn đến kết quả là phá sản hợp pháp. Tuy nhiên, việc buộc một doanh
nghiệp hay cá nhân phải phá sản đòi hỏi một khoản chi phí cho Toà án, vì vậy một
doanh nghiệp vỡ nợ có thể sẽ không phá sản một cách hợp pháp do họ không trả chi
phí cho Toà để được làm thủ tục phá sản hợp pháp.
Phá sản hay giải thể về hiện tượng đều dẫn đến chấm dứt sự tồn tại của công
ty. Tuy nhiên, xét về bản chất thì phá sản và giải thể lại có những điểm khác nhau
rất cơ bản. Sau đây là hai trong số những điểm khác nhau đó:
- Lý do dẫn đến phá sản hẹp hơn rất nhiều so với giải thể. Trong khi một
công ty có thể bị giải thể vì hết thời hạn hoạt động mà không được gia hạn, vì
không đủ số thành viên tối thiểu trong thời hạn sáu tháng liên tục, vì bị thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh hay đơn giản là do quyết định của chủ công ty thì
phá sản chỉ do một nguyên nhân duy nhất là công ty mất khả năng thanh toán.
- Giải thể bao giờ cũng dẫn đến chấm dứt vĩnh viễn sự tồn tại của công ty,
trong khi một công ty bị tuyên bố phá sản thì vẫn có thể được mua lại (tức là đổi
chủ sở hữu) và nó vẫn tiếp tục hoạt động.
2.1.2. Ảnh hưởng của rủi ro phá sản đến nền kinh tế
Khi DN rơi vào phá sản không chỉ ảnh hưởng đến bản thân DN mà còn ảnh
hưởng đáng kể đến nền kinh tế trên tất cả các mặt về kinh tế, chính trị và xã hội. Tỷ
lệ thất nghiệp, một trong những vấn đề vĩ mô quan trọng nhất sẽ tăng do bị thôi việc
bởi những công ty phá sản. Trong khi đó, hàng hoá và dịch vụ, được sản xuất trước
đó, thì không được sản xuất nữa, do đó tổn thất thu nhập sẽ xảy ra đối với các công
38
ty và cũng đồng nghĩa với việc sử dụng năng lực sản xuất sẽ giảm. Tương tự, những
nhà đầu tư vào công ty phá sản, sẽ miễn cưỡng chuyển tiền tiết kiệm qua thị trường
vốn vào công ty kinh doanh cần vốn để mở rộng. Mức độ tác động của thông báo
phá sản của một công ty địch thủ lên công ty khác hoạt động trong cùng ngành được
thể hiện lần lượt đó là ảnh hưởng cạnh tranh và ảnh hưởng lan truyền (Lang và
Stulz, 1992).
- Ảnh hưởng cạnh tranh: phá sản của công ty địch thủ có thể được xem như
một sự kiện tốt đối với những công ty là đối thủ cạnh tranh. Theo ảnh hưởng cạnh
tranh, khi công ty cùng ngành phá sản, những đối thủ cạnh tranh được tác động một
cách tích cực và thị phần của họ tăng lên, giá cổ phiếu được đánh giá cao trong thị
trường (Ferris và cộng sự, 1997). Iqbal (2002) trong nghiên cứu thời kì 1991-1996 ở
Mỹ cho thấy những đối thủ cạnh tranh thì được ảnh hưởng tích cực lên tỷ suất sinh
lợi của vốn chủ sở hữu bởi sự phá sản của một công ty cùng ngành.
- Ảnh hưởng lan truyền: tin tức về công ty đối thủ phá sản có thể chỉ ra một
số vấn đề phổ biến với những công ty khác trong cùng ngành (Caton và cộng sự,
2008). Theo ảnh hưởng lan truyền, những đối thủ cạnh tranh bị ảnh hưởng xấu bởi
việc hình thành lối suy nghĩ bi quan về ngành công nghiệp bị gây ra thông báo phá
sản của công ty đối thủ. Trong khi việc phá sản công ty làm giảm sút niềm tin vào
công ty đó, nó cũng làm giảm sự tín nhiệm vào các công ty khác cùng ngành (Ferris
và cộng sự, 1997). Ferris và cộng sự (1997) cho thấy tỷ suất sinh lợi từ cổ phiếu của
những công ty đối thủ của công ty kiệt quệ tài chính bị sụt giảm giá trị xuống
khoảng 4,68% trong ba ngày đầu tiên. Khám phá này là chứng cứ của sự lan truyền
thông tin xấu về ngành công nghiệp. Kanas (2004) kiểm tra sự ảnh hưởng của nhóm
những ngân hàng đa quốc gia BCCI phá sản lên ngành ngân hàng ở Mỹ, Anh, Tây
Ban Nha và Thụy Sĩ. Kanas thấy rằng sự phá sản của nhóm ngân hàng này có ảnh
hưởng lan truyền lên ngành ngân hàng Tây Ban Nha và Anh. Nghĩa là, theo bài
nghiên cứu, những ngân hàng khác trong mảng ngân hàng quốc gia bị ảnh hưởng
tiêu cực.
Khi một công ty rơi vào tình trạng phá sản thì có rất nhiều nguyên nhân.
39
Theo Holland (1998) cho rằng có hai loại cơ bản của thất bại kinh doanh: thất bại
thảm khốc và thất bại do thiếu thành công. Theo đó, thất bại thảm khốc được hiểu là
những công ty bị ảnh hưởng do một cú sốc đột ngột trong phương thức hoạt động
như là: mất hoàn toàn vốn hoạt động thuần, cái chết của một chủ duy nhất/ đối tác
nói chung, không thể khắc phục thiệt hại cho một cơ sở .v.v. còn thất bại do thiếu
thành công chủ yếu được đặc trưng bởi lợi nhuận không đáp ứng được kì vọng của
chủ sở hữu, từ đó dẫn đến cuối cùng công ty bị bán, đóng cửa ngừng hoạt động.
Về mặt cơ bản sự thành bại của bất kì công ty nào cũng đều là kết quả tác
động qua lại của hai bộ nhân tố chính đó là nguyên nhân bên trong và nguyên nhân
bên ngoài.
- Nguyên nhân bên trong: những nhân tố bên trong, có thể kể đến bao gồm:
quản lý yếu kém, sự không hoà hợp trong sự phát triển môi trường, truyền đạt thông
tin không hiệu quả, tăng trưởng thất thường, thất bại trong các dự án quan trọng.
+ Chất lượng quản lý: kiểm chứng cho thấy các nhà DN kinh nghiệm và có
đủ tố chất sẽ quyết định đến tồn tại và phát triển của DN và ngược lại (Chandler và
Hanks, 1998). Trong một nghiên cứu của Buccino& Associates (1991), cho thấy
88% sự thiếu sót trong chất lượng quản lý xác định sự khác biệt cơ bản giữa thành
công và thất bại của một DN. Theo những nguyên cứu trước đó của D& B (1980),
hơn 44% phá sản là do sự thiếu kinh nghiệm và hiểu biết, hoặc chỉ là sự thiếu trình
độ rõ ràng (Altman, 1993). Hơn thế nữa, Gitman (1992) ủng hộ ý kiến này của
D&B khi cho rằng 50% vụ phá sản đều liên quan đến sự thiếu khả năng của các nhà
quản trị. Sự kém cỏi của nhà quản trị có thể gây ra phá sản trong những giai đoạn
hoạt động và đầu tư.
Argent (1976) nghiên cứu toàn diện vào sự sụp đổ DN phát hiện nhiều
nguyên nhân và dấu hiệu của phá sản DN. Những nguyên nhân được phát hiện bởi
tác giả bao gồm: ban quản lí yếu kém, thông tin kế toán không đầy đủ, kinh doanh
quá khả năng vốn, nợ cao, sự thay đổi về kinh tế - công nghệ - chính trị và xã hội.
Hơn thế nữa, tác giả còn đưa ra những dấu hiệu của phá sản bao gồm đạo đức thấp
của công nhân, chất lượng và dịch vụ ngày càng yếu kém, chính sách tín dụng siết
40
chặt, sụt giảm trong vốn hoá thị trường, tăng nhanh mức độ phàn nàn của khách
hàng, thất bại trong việc hoàn thành mục tiêu và thấu chi.
Hall (1992) đã phân tích những nhân tố dẫn đến sự phá sản của những DN
Anh và biện luận rằng việc marketing không hiệu quả dứt khoát là nguyên nhân cơ
bản của phá sản. Tương tự, sự tiếp cận phù hợp đến những nguồn tài chính đóng vai
trò quan trọng để thực hiện các dự án kinh doanh mới. Quả thực, nguồn tài chính
không thích hợp thường xuyên được viện dẫn là nguyên nhân chủ yếu đưa đến sự
phá sản của những DN mới nổi (Cooper, 1994). Amit (2003) phân tích số liệu của
339 DN Canada phá sản để xác định những nguyên nhân phá sản giữa những công
ty trẻ và già. Tác giả thấy rằng việc thiếu hiểu biết của ban quản trị và thiếu khả
năng quản lí tài chính là nguyên nhân chính làm cho các công ty non trẻ bị phá sản,
trong khi đó việc thiếu khả năng thích ứng với sự thay đổi của môi trường dẫn đến
sự phá sản của những công ty Canada già hơn. Dun & Bradstreet biên soạn một
thống kê thú vị về tuổi của những công ty phá sản chấp nhận mối quan hệ giữa
những nhà quản lý thiếu kinh nghiệm và phá sản. Rõ ràng là khả năng phá sản của
những công ty thiếu kinh nghiệm, trẻ và thiếu vốn thì lớn hơn những công ty già
hơn. Phân tích cho thấy hơn 50% các vụ phá sản diễn ra trong 5 năm đầu tiên của
DN. Sau năm thứ năm, tỷ lệ phá sản giảm xuống khi công ty trở nên vững vàng, ổn
định, kinh nghiệm hơn và có thể tiếp cận dễ dàng hơn nguồn vốn (Altman, 1993).
+ Chu kì kinh doanh: là một khía cạnh khác bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những
yếu tố bên trong và bên ngoài, lưu ý một mặt khác của phá sản DN. Những công ty
thường được nghĩ là hoạt động theo bên ngoài, nhưng thực tế điều này không vững
chắc. Việc kinh doanh có thể được xem như những cá thể sống khi chúng được sinh
ra với việc đầu tư được hoàn thành và chết đi khi chúng trở nên già và mất đi sức
mạnh.
+ Tình hình tài chính khó khăn: Beaver (1966) cho rằng một trong những dấu
hiệu để nhận biết công ty phá sản là công ty không thanh toán được trái phiếu công
ty khi đến hạn, không chi trả được cổ tức cho các cổ phiếu ưu đãi. Theo nghiên cứu,
việc so sánh các tỷ số tài chính có thể dự báo được nguy cơ phá sản của công ty.
41
Luật phá sản 2014 của Việt Nam quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có
khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là
lâm vào tình trạng phá sản”.
Hiện nay hầu như chưa có một nghiên cứu nào đưa ra được các con số cụ thể
mức vốn cần thiết cho một công ty. Mỗi công ty tùy vào từng thời điểm và tình hình
hoạt động sẽ có nhu cầu về tài chính khác nhau. Nếu việc quản lí tài chính không
tốt, không nhận ra được các chi phí ẩn phát sinh trong quá trình hoạt động. Hay việc
chi tiêu vượt quá khả năng của ngân sách sẽ khiến công ty dễ lâm vào cảnh nợ nần
và tiềm ẩn nhiều rủi ro tài chính. Việc không cân đối được các khoản chi tiêu, có
nhiều khoản chi không cần thiết có thể là những nguyên nhân gây ra thất bại trong
kinh doanh. Như vậy, tình hình tài chính là một trong những yếu tố đảm bảo sự
sống còn của DN.
- Nguyên nhân bên ngoài: mỗi công ty là một cá thể của nền kinh tế và
chúng bị ảnh hưởng, tác động bởi môi trường mà chúng hoạt động. Do đó, một số
nhân tố môi trường gây ra sự phá sản vượt ngoài khả năng điều hành hoạt động của
công ty. Mặc dù khó để ngăn chặn những nhân tố này, nhưng công ty có thể áp
dụng một số phương pháp nhằm giảm thiểu ảnh hưởng bất lợi. Những nhân tố môi
trường khiến những DN thất bại được liệt kê sau đây:
+ Môi trường xã hội: một trong những nguyên nhân bên ngoài khiến DN thất
bại là môi trường bên ngoài mà DN hoạt động. Sự kết hợp các điều kiện kinh tế và
kiểu hành vi của người dân hình thành và điều chỉnh những hoạt động của công ty.
Tránh chế độ độc quyền, tôn trọng quyền khách hàng và ý thức môi trường là một
số yêu cầu của môi trường xã hội (Turko, 1999). Những cuộc nổi dậy, mối quan hệ
quốc tế căng thẳng, những thay đổi trong tình hình chính trị và xã hội là những rủi
ro chính trị và xã hội ảnh hưởng đến những công ty và quyết định của họ.
+ Môi trường ngành: những con sóng lên và xuống trong ngành có thể ảnh
hưởng đến nhiều công ty, do đó, những công ty sẽ gặp kiệt quệ tài chính, việc lặp đi
lặp lại của những đợt sóng này sẽ khiến những công ty bị phá sản. Theo Charitou,
A, Neophytou, E., & Charalambous, C. (2004), những nhân tố dẫn đến công ty phá
42
sản thì rất nhiều. Nhiều nhà kinh tế học quy hiện tượng cho lãi suất cao, lợi nhuận
thu hẹp và đóng băng, gánh nặng nợ lớn. Hơn thế nữa, đặc trưng của các ngành
công nghiệp, như chính sách nhà nước và đặc điểm của hoạt động kinh doanh, có
thể dẫn đến rủi ro của công ty. Những nghiên cứu về những vụ phá sản kinh doanh
ở Mỹ, Anh, Canada và Úc cho thấy những công ty mới, tư nhân và nhỏ với thủ tục
kiểm soát kém hiệu quả và hoạch định dòng tiền kém thì dễ dẫn đến kiệt quệ tài
chính hơn là những công ty công lớn lâu đời.
+ Môi trường kinh tế: kinh doanh thương mại là một phần của hệ thống kinh
tế và chịu ảnh hưởng bởi những điều kiện kinh tế ở trong nước. Trong hầu hết
trường hợp, chính phủ xác định vai trò trong nền kinh tế. Với các chính sách về xuất
nhập khẩu, lãi suất, chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, chính phủ đã tác động đến
những hoạt động kinh doanh.
+ Môi trường tự nhiên: sự phát triển và tiến hoá của môi trường tự nhiên tạo
những cơ hội đưa đến sự thành công nhưng cũng có thể đưa đến sự phá sản của
công ty. Việc làm cạn kiệt các tài nguyên và ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh (Turko, 1999). Bên cạnh đó còn có những nhân tố tự nhiên
điển hình ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh như: động đất, lũ lụt, hoả hoạn, dịch
bệnh.v.v. Đáng tiếc, việc ước lượng và tính toán phương pháp chống đỡ thiên tai
thường rất khó.
+ Môi trường khoa học kỹ thuật: sự sụt giảm giá trị của máy móc và những
thiết bị sản xuất khác có thể xem như một ví dụ của nguyên nhân kĩ thuật với phá
sản. Đặc biệt, những thay đổi nhanh chóng trong công nghệ và thiết bị sản xuất làm
tăng cường độ cạnh tranh và sự không chắc chắn của hướng đi của nền kinh tế. Do
đó, đầu tư vào công nghệ sai có thể đạp đổ hoàn toàn công ty và dễ dàng đẩy những
công ty đi vào phá sản.
Loại hình khác của rủi ro phát sinh từ công nghệ là những tai nạn bị gây ra
bởi máy móc và phương pháp sản xuất, thiệt hại sản xuất gây ra bởi sự hao mòn và
hỏng hóc của các thiết bị máy móc, những hậu quả đáng tiếc không mong đợi ví dụ
như ô nhiễm, hoá chất, sự bức xạ của công nghệ được sử dụng ảnh hưởng đến môi
43
trường và sức khoẻ con người.
+ Môi trường chính trị, pháp luật: các nhà kinh doanh phải tuân thủ một số
điều luật (Luật thuế, Luật phá sản, Luật thương mại, ...). Việc kinh doanh vi phạm
những điều luật này là đối tượng của nhiều hình thức phạt khác nhau và mất đi danh
tiếng, do đó những sự kiện tiêu cực này có thể là nguyên nhân của phá sản (Turko,
1999).
2.2. Phân tích rủi ro phá sản
2.2.1. Bản chất và vai trò của phân tích rủi ro phá sản
Rủi ro phá sản có thể hiện hữu ở tất cả các giai đoạn trong quá trình tồn tại
và phát triển của công ty. Sự xuất hiện của rủi ro phá sản là tất yếu khi hoạt động tài
chính yếu kém, nguồn lực của doanh nghiệp bị suy giảm và trong môi trường kinh
doanh mà DN không kiểm soát được. Một khi DN rơi vào RRPS sẽ làm cho giá trị
của DN giảm sút nghiêm trọng và mức độ rủi ro của DN sẽ vô cùng cao. Do vậy,
việc phân tích RRPS sẽ giúp chúng ta chủ động trong các quyết định kinh doanh, dù
đứng dưới góc độ là nhà quản lý DN, nhà đầu tư hay các tổ chức tín dụng.
Theo Tatsiana N.Rybak (2006) cho rằng có các mức sau đây về rủi ro phá
sản:
- Mức độ rủi ro chính: rủi ro này chưa đủ cao và có giá trị bởi vì các nhà
quản lý chưa sẵn sàng để đối mặt với sự kiện rủi ro.
- Mức độ rủi ro ước tính: rủi ro này được phân tích và giảm xuống thấp hơn
do các nhà quản lý đã có sự chuẩn bị cho việc xuất hiện sự kiện rủi ro;
- Mức rủi ro cuối cùng (chấp nhận được): Các biện pháp để giảm mức rủi ro
chính là xây dựng và thực hiện.
Mức rủi ro Phân tích và Mức rủi ro Rủi ro - các Mức rủi ro
I đánh giá rủi II biện pháp III
ro
Mức rủi Ước tính Mức rủi ro
ro cuối rủi ro chính
44
Hình 2. 1: Các mức độ của rủi ro phá sản
(Tatsiana N.Rybak (2006), ‘Analysis and estimate of the enterprises
bankruptcy risk’, State Economic university, Republic of Belarus, pp. 315-320)
Mục tiêu của phân tích RRPS nhằm đánh giá nguy cơ, mức độ xuất hiện, khả
năng nguy hại của các yếu tố dẫn đến RRPS của DN. Trong phân tích RRPS các
yếu tố rất quan trọng là những thông tin, dữ liệu đầu vào, bao gồm dữ liệu và kinh
nghiệm quá khứ cùng với dự báo xu hướng cho giai đoạn trước mắt và tương lai xa
hơn. Tuy vậy, quan trọng nhất vẫn là nhận thức của nhà quản lý về tính chất nguy
hại của những rủi ro đang tiềm ẩn có thể làm cho hoạt động của DN bị ảnh hưởng
nghiêm trọng thậm chí là rơi vào phá sản.
Phân tích RRPS được coi là công cụ quản lý hữu hiệu đối với các DN. Việc
đánh giá chính xác RRPS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp cho nhà quản lý nhận
diện, đo lường, đánh giá tình hình rủi ro của DN. Kết quả phân tích RRPS là căn cứ
để có các quyết định quản lý, ngăn ngừa phá sản cho DN một cách kịp thời. Do vậy
các nhà quản lý phải thường xuyên phân tích RRPS để ngăn ngừa và giảm thiểu tình
trạng này. Vậy làm thế nào để có thể nhận diện được những yếu tố gây nên RRPS,
từ đó tìm được nguyên nhân và có những biện pháp xử lý kịp thời, chỉ có thể thông
qua hoạt động phân tích RRPS mới có thể giúp DN trả lời được những câu hỏi như
vậy. Để tiến hành những phân tích này thì cần thiết phải sử dụng những công cụ, kỹ
thuật và phương pháp thích hợp từ đó mới xác định được tình trạng DN có khả năng
xảy ra phá sản hay không để tìm biện pháp ngăn ngừa và hạn chế tốt nhất.
Chính vì thế, có thể hiểu rằng bản chất của phân tích RRPS là việc sử dụng
các công cụ và kỹ thuật thích hợp để phân tích nhằm làm rõ tình trạng DN có rơi
vào RRPS hay không.
Khi RRPS xảy ra sẽ kéo theo hàng loạt các sự kiện xấu như cổ tức giảm sút,
đóng cửa các nhà máy, thua lỗ, sa thải công nhân viên, giá cổ phiếu sụt giảm từ đó
sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các chủ nợ, các nhà đầu tư, người
lao động và các bên liên quan khác. Xuất phát từ những hệ lụy đó thì việc đi vào
phân tích RRPS có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
45
Thứ nhất, phân tích RRPS sẽ giúp các nhà quản lý có thể nhận ra tình hình
sức khỏe tài chính và RRPS trong thời kì sớm hơn, từ đó thực hiện các phương án
cải thiện, sửa chữa chống lại những ảnh hưởng bất lợi của phá sản. Đồng thời, giúp
các nhà quản lý có đủ thời gian để tìm nguồn quỹ cần thiết, thiết lập những cộng tác
mới, tìm kiếm các cơ hội chuyển nhượng mà không làm mất giá trị thị trường.
Thứ hai, phân tích RRPS và kết quả phân tích có thể được các cổ đông sử
dụng trong việc lựa chọn giữa những cơ hội đầu tư vào công ty, sát nhập hoặc thu
mua những công ty khác. Nếu kết quả không tốt đẹp, cổ đông có thể chọn bán công
ty ở mức giá cao hơn giá trị thực bởi vì công ty vẫn còn có khả năng thoả thuận để
được bán cao hơn giá trị thực. Nếu các cổ đông chờ trong hi vọng công ty có thể
khoẻ trở lại, họ thực chất có thể đối diện với giá trị thị trường thấp. Hơn thế nữa,
xác định những công ty yếu để thu mua thì rẻ và dễ dàng hơn nhiều nhờ những
nghiên cứu dự báo.
Tương tự như thế, các công ty mẹ cũng có thể sử dụng kết quả từ sự phân
tích rủi ro và ngưỡng phá sản để đưa ra những quyết định phù hợp. Bởi vì, sự phá
sản của một công ty con có thể huỷ hoại danh tiếng của một tập đoàn và sẽ ảnh
hưởng đến quyết định đầu tư và quyết định tín dụng. Do đó, những công ty mẹ có
thể giám sát những việc đang diễn ra qua những công cụ ước lượng.
Thứ ba, phân tích RRPS giúp cho các đối tác quyết định các điều khoản trả
chậm và quản lý nợ phải thu.
Mối quan hệ của một nhà cung ứng và một công ty, họ làm việc cùng nhau
và làm tăng chất lượng. Họ tin tưởng lẫn nhau, do đó họ cộng tác kinh doanh với
nhau. Rõ ràng là một vấn đề nảy sinh ở người này có thể ảnh hưởng đến người khác
và ngược lại. Do đó, nhà cung ứng và công ty nên cùng quan tâm đến vấn đề RRPS
để kiểm soát lẫn nhau nhằm đề phòng nguy hiểm. Một vấn đề tài chính bên nhà
cung ứng có thể ảnh hưởng đến quyết định kinh doanh, chất lượng sản phẩm và số
lượng sản xuất. Chất lượng kém hơn và số lượng ít hơn sẽ ảnh hưởng không tốt đến
việc sản xuất và doanh thu dẫn đến kết quả là sụt giảm và mất đi danh tiếng trong
suy nghĩ của khách hàng. Ngược lại, vấn đề bên công ty thu mua cũng ảnh hưởng
46
xấu đến công ty cung ứng, công ty rơi vào tình trạng phá sản sẽ được thể hiện trong
số tiền phải trả cho người cung ứng, vì thế người cung ứng cũng có thể rơi vào phá
sản bị gây ra bởi công ty thu mua.
Thứ tư, đối với các nhà đầu tư, dù đứng dưới góc độ là tổ chức hay cá nhân,
các nhà đầu tư có thể sử dụng kết quả phân tích RRPS trong quá trình ra quyết định.
Qua đó, họ có thể xác định những cổ phiếu kém trong danh mục đầu tư và đưa ra
quyết định bán chúng trước khi giá trị của những cổ phiếu đó biến mất. Hơn nữa,
những nhà đầu tư có thể xác định những cổ phiếu có giá trị mới để đưa chúng vào
danh mục đầu tư. Thông qua phân tích RRPS sẽ giúp cung cấp những thuận lợi
đáng kể tới các nhà đầu tư tìm kiếm tỷ suất sinh lợi cao hơn. Một nhà đầu tư có thể
điều chỉnh lại danh mục đầu tư của mình bằng công cụ dự báo, tức là công ty đang
có nguy cơ rơi vào tình trạng phá sản được trông đợi khắc phục những vấn đề của
mình, do đó đầu tư vào những cổ phiếu giá thấp của công ty này có thể đem đến lợi
nhuận cao sau này, khi những khó khăn đã được công ty xử lý và giải quyết.
Thông qua các chỉ tiêu và mức độ ảnh hưởng đến RRPS không chỉ đưa ra
thời điểm cần thiết mà còn giải quyết việc thiếu kinh nghiệm của nhà đầu tư. Do đó,
họ đạt được mục đích bằng việc đầu tư vào những nơi đúng đắn và vào những công
ty có cơ hội khoẻ mạnh nhờ sự hỗ trợ vừa phải của nguồn quỹ. Việc giải quyết khó
khăn nguồn vốn dẫn đến cơ hội cho những đầu tư mới và giúp cho việc kinh doanh
phát triển và đạt được những thuận lợi cạnh tranh.
Thứ năm, phân tích RRPS giúp cho các tổ chức tín dụng trong các quyết định
cho vay và quản lý các khoản vay. RRPS được xem xét trong mỗi thỏa thuận với
nhà tín dụng để bảo vệ họ khỏi khả năng phá sản mà họ sẽ chạm trán nếu người mắc
nợ không trả hoặc trả nợ thiếu. Đó là nguyên nhân tại sao quản lý tín dụng rất quan
trọng đối với những tổ chức, công ty tín dụng, ngân hàng và những định chế tài
chính khác. Với sự hỗ trợ của việc phân tích RRPS, các định chế tài chính được lợi
từ việc chọn được công ty thích hợp để cho vay. Đánh giá và phân tích hồ sơ vay nợ
nhờ các nhân tố làm ảnh hưởng tới phá sản cho kết quả nhanh và chính xác hơn. Từ
47
chối hồ sơ vay nợ của một công ty được dự báo là có nguy cơ phá sản, tiết kiệm
được thời gian và tăng tính hiệu quả của việc đánh giá tín dụng của các chuyên gia.
Do đó, nguồn quỹ sẽ được cho vay đúng nơi, trong trường hợp này, nền kinh tế của
một đất nước và những tổ chức tín dụng có thể đạt được lợi ích cao.
Thứ sáu, thông qua kết quả phân tích RRPS công đoàn có thể sử dụng để thu
thập thông tin về tình hình sức khoẻ tài chính của công ty, từ đó, công đoàn có thể
xác định tăng lương cũng như tăng những quyền công dân khác. Mặt khác, những
người công nhân của một công ty cảnh báo có khả năng rơi vào RRPS thì có thể nỗ
lực làm việc hơn để hỗ trợ phục hồi công ty hoặc tìm kiếm cho họ một công việc
48
khác.
2.2.2. Nội dung của phân tích rủi ro phá sản
Phân tích rủi ro phá sản thường được tiến hành phân tích dựa trên các mặt
biểu biện như: mức độ thanh khoản, đòn bẩy tài chính, năng lực hoạt động, tốc độ
tăng trưởng, chênh lệch dòng tiền thông qua các chỉ tiêu tài chính. Qua các nghiên
cứu trước đây đều cho thấy việc sử dụng các chỉ tiêu tài chính luôn đóng vai trò to
lớn trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động và năng lực tài chính của bất kỳ ngành
nghề nào. Tầm quan trọng của các chỉ tiêu tài chính để phân tích RRPS đã được biết
đến từ hơn một thế kỷ. Trong số các nhà nghiên cứu đầu tiên áp dụng chỉ tiêu tài
chính để nghiên cứu phá sản có thể kể đến như: Ramsey & Foster (1931),
Fitzpatrick (1932), Winakor và Smith (1935). Tuy nhiên, nó chỉ được biết đến khi
các ấn phẩm của Beaver (1966) và Altman (1968) được xuất bản. Trong các nghiên
cứu về dự báo phá sản của Altman và cộng sự (1977, 2000, 2007) đều cho thấy
rằng trong mô hình dự báo phá sản luôn tồn tại các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài
chính. Phân tích dựa trên các mặt biểu hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính không
chỉ so sánh các con số khác nhau từ bảng cân đối, báo cáo kết quả kinh doanh, và
báo cáo lưu chuyển tiền tệ mà còn so sánh với những năm trước đây, các công ty
khác, các ngành khác, hoặc ngay cả với nền kinh tế.
- Mức độ thanh khoản:
Rủi ro phá sản là rủi ro gắn liền với khả năng thanh toán của DN, là khả năng
DN sử dụng tài sản của mình để đáp ứng nhu cầu thanh toán. DN có khả năng thanh
toán cao sẽ là điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh doanh của DN được ổn định và
phát triển. Ngược lại, khả năng thanh toán thấp, kéo dài, DN rất dễ lâm vào tình
trạng phá sản.
Để đo lường mức độ thanh khoản ta có thể sử dụng các chỉ tiêu như: khả
năng thanh toán tổng quát, khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán ngắn
hạn, vốn hoạt động thuần ngắn hạn, vốn hoạt động thuần trên tổng tài sản,… Trong
nghiên cứu của Alman (1968) chỉ ra chỉ tiêu vốn hoạt động thuần trên tổng tài sản
được chứng minh là có giá trị nhất. Chỉ tiêu này cũng phù hợp với nghiên cứu của
49
Merton (1974) khi ông đánh giá đây là chỉ số tốt nhất cho khả năng phá sản. Tuy
nhiên, nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy, không phải tất cả các chỉ tiêu về thanh
khoản đều chỉ ra được mối quan hệ rõ ràng với xác suất DN có rủi ro phá sản.
Công thức tính một số chỉ tiêu về mức độ thanh khoản như sau:
Tổng giá trị thuần tài sản ngắn hạn Hệ số khả năng thanh = (2.2) toán nợ ngắn hạn Tổng nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết với tổng giá trị thuần của tài sản ngắn hạn hiện có,
doanh nghiệp có đảm bảo được khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không.
Chỉ tiêu này càng cao khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng tốt
và ngược lại.
Tiền và các khoản tương đương tiền Hệ số khả năng thanh (2.3) = toán nhanh Tổng nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp đối với
các khoản công nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ khả năng thanh toán của
DN dồi dào, tuy nhiên chỉ tiêu này cao quá kéo dài có thể dẫn tới vốn bằng tiền của
DN nhàn rỗi, ứ đọng, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp. Chỉ tiêu này quá thấp
chứng tỏ DN không có đủ khả năng thanh toán các khoản công nợ.
Tổng số nợ (2.4) Tổng giá trị thuần Vốn hoạt động - = ngắn hạn của tài sản ngắn hạn thuần ngắn hạn
Vốn hoạt động thuần ngắn hạn càng lớn thì khả năng thanh toán của DN
càng cao. Tuy nhiên, nếu vốn hoạt động thuần quá cao có thể sẽ dẫn đến hiệu quả
sử dụng vốn thấp. Khi phân tích chỉ tiêu này cần so sánh kỳ này với kỳ trước cả về
số tuyệt đối và tương đối để thấy được quy mô và tốc độ tăng giảm, sự ảnh hưởng
đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
- Đòn bẩy tài chính:
Đòn bẩy tài chính đề cập tới việc doanh nghiệp sử dụng nguồn tài trợ từ các
khoản vay thay cho vốn cổ phần. Các phép đo đòn bẩy tài chính là công cụ để xác
định xác suất doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các hợp đồng nợ. Doanh
nghiệp càng nợ nhiều thì càng có nguy cơ cao mất khả năng hoàn thành nghĩa vụ trả
50
nợ. Nói cách khác, nợ quá nhiều sẽ dẫn tới xác suất phá sản và kiệt quệ tài chính
cao. Theo Bongini và cộng sự (1998), những công ty châu Á dẫn đến phá sản bởi vì
mức đòn bẩy cao và việc đầu tư nhiều trong lĩnh vực BĐS và nhà máy. Thông qua
việc phân tích các chỉ tiêu về đòn bẩy tài chính sẽ cho thấy khả năng thanh toán các
khoản nợ trong dài hạn và được sử dụng phổ biến trong hầu hết các loại hình xác
định rủi ro của doanh nghiệp.
Công thức tính một số chỉ tiêu đòn bẩy như sau:
+ Hệ số nợ so với tổng nguồn vốn:
Nợ phải trả Hệ số nợ so với = (2.5) tổng nguồn vốn Tổng số nguồn vốn
Chỉ tiêu này cho biết, trong một đồng vốn tài trợ tài sản của DN thì có mấy
đồng nợ phải trả. Chỉ tiêu này càng thấp, càng chứng tỏ tính chủ động trong hoạt
động kinh doanh càng cao và ngược lại.
+ Hệ số nợ so với tổng vốn chủ sở hữu:
Tổng nợ phải trả Hệ số nợ so với tổng (2.6) = vốn chủ sở hữu Tổng vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này cho biết, cơ cấu nguồn tài trợ tài sản của DN, cứ một đồng tài
sản tài trợ bằng vốn chủ sở hữu thì tương ứng với mấy đồng tài trợ bằng nợ phải trả.
Chỉ tiêu này càng thấp, chứng tỏ các tài sản của DN hầu như đầu tư từ vốn chủ sở
hữu, tính chủ động càng cao trong các quyết định kinh doanh.
- Khả năng sinh lợi:
Tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu lớn nhất mà bất kỳ DN nào cũng đều mong
muốn đạt được. Do vậy, khi phân tích RRPS, chỉ tiêu về khả năng sinh lợi luôn
được các nhà phân tích đặc biệt quan tâm. Khả năng sinh lợi của một DN cho biết
mức lợi nhuận mà DN thu được trên một đơn vị chi phí hay yếu tố đầu vào hay trên
một đơn vị đầu ra phản ánh kết quả sản xuất. Các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi được
dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong việc tạo ra lợi nhuận. Có
nghĩa là, khi DN thu được giá trị hay lợi nhuận càng lớn thì sẽ có nhiều khả năng
thanh toán các khoản nợ và do đó sẽ làm giảm thiểu khả năng có RRPS của DN.
51
Công thức chung để xác định khả năng sinh lợi của từng nguồn lực như sau:
Đầu ra phản ánh lợi nhuận Hệ số khả năng sinh lợi = (2.7) Nguồn lực đầu vào, chi phí đầu vào hay của từng nguồn lực đầu ra phản ánh kết quả sản xuất
Tùy thuộc vào mục đích và tài liệu phân tích, lợi nhuận sử dụng để xác định
khả năng sinh lợi có thể là lợi nhuận sau thuế, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận trước
thuế và lãi vay, v.v. Trong đó, lợi nhuận sau thuế là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến.
Lợi nhuận sau thuế là phần thu nhập còn lại sau khi DN đã bù đắp chi phí và hoàn
tất nghĩa vụ đóng góp với nhà nước. Mức lợi nhuận thu được trong một niên độ kế
toán tính trên một đơn vị chi phí hay yếu tố đầu vào càng cao thì khả năng sinh lợi
càng cao, dẫn đến DN đạt được hiệu quả hoạt động kinh doanh cao và ngược lại; lợi
nhuận sau thuế thu nhập DN trong một niên độ kế toán tính trên một đơn vị càng
nhỏ, khả năng sinh lợi thấp, DN kinh doanh đạt hiệu quả thấp.
Khi vận dụng chỉ tiêu này để phân tích trong ngành BĐS thì có thể tính toán
khả năng sinh lợi cho từng yếu tố nguồn lực cụ thể như: doanh thu, tổng tài sản bình
quân,v.v.
- Năng lực hoạt động:
Năng lực hoạt động của DN, là một mặt quan trọng trong việc đánh giá hiệu
quả tài chính của DN. Thông qua việc phân tích năng lực hoạt động nhằm đánh giá
hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu vào của DN để tạo ra kết quả kinh doanh trong
quá trình hoạt động. Do vậy, việc phân tích năng lực hoạt động được coi là cơ sở
quan trọng để đánh giá trình độ của các nhà quản lý, một trong những yếu tố chính
tạo nên sự thành bại của một DN. Năng lực hoạt động không tốt có thể đưa DN rơi
vào khó khăn thậm chí là có nguy cơ rơi vào phá sản.
Công thức chung để xác định năng lực hoạt động được tính như sau:
Đầu ra phản ánh kết quả Hiệu suất hoạt động (số vòng = (2.8) quay) của các nguồn lực Nguồn lực đầu vào sử dụng
Chỉ tiêu này cho biết để thu được một đơn vị đầu ra phải tiêu tốn bao nhiêu
đơn vị nguồn lực đầu vào, hay nói cách khác, trong một kỳ hoạt động, nguồn lực
52
đầu vào sử dụng luân chuyển được bao nhiêu lần. Chỉ số này càng lớn, phản ánh số
vòng chu chuyển các nguồn lực đầu vào càng cao, hiệu suất hoạt động càng cao và
ngược lại.
Thông thường, các chỉ tiêu hoạt động được tính toán dựa trên yếu tố doanh
thu nhằm xác định tốc độ vòng quay của một số đại lượng từ đó giúp cung cấp
những thông tin cần thiết cho công tác quản trị tài chính của DN. Bên cạnh đó, với
kết quả đánh giá về hiệu quả sử dụng tài sản thì đây cũng là những chỉ tiêu cho biết
mức độ rủi ro tài chính của DN. Các chỉ tiêu thường được sử dụng bao gồm: doanh
thu trên tổng tài sản, tài sản ngắn hạn trên doanh thu, hàng tồn kho trên doanh
thu.v.v.
- Tốc độ tăng trưởng:
Theo Altman (1968) cho rằng yếu tố tăng trưởng là một trong những biến tác
động đến nguy cơ phá sản công ty. Một công ty có tốc độ tăng trưởng dương thì
chắc chắn xác suất xảy ra RRPS thấp. Ngược lại nếu một công ty mà có tốc độ tăng
trưởng âm thì RRPS sẽ lớn hơn. Tuy nhiên, khi xem xét và phân tích mối quan hệ
giữa tốc độ tăng trưởng với RRPS sẽ thấy có sự phức tạp hơn khi so sánh giữa các
chỉ tiêu khác với RRPS. Điều này dễ dàng nhận thấy trong môi trường kinh doanh
thực tế. Đó là các DN tăng trưởng nhanh thường khó có thể đối mặt với những
thách thức về mặt quản lý, đặc biệt là với các DN có quy mô nhỏ. Không những thế
một khi DN tăng trưởng quá nhanh sẽ khiến cho DN không thể khắc phục được các
nguồn tài trợ từ lợi nhuận, từ đó sẽ dẫn đến khả năng trả nợ và các rủi ro liên quan
của DN sẽ tăng theo.
Trong phạm vi là các DN, khi nói đến tăng trưởng đơn giản là nói đến việc
tăng quy mô, thể hiện bởi những tiêu chí khác nhau: tăng trưởng bền vững, tăng lợi
nhuận, tăng doanh thu, mở rộng thị phần, tăng quy mô lao động…
+ Tốc độ tăng trưởng bền vững: là việc tăng giá trị bằng cách áp dụng các
hoạt động sản xuất, kinh doanh hiệu quả và chú trọng đến trách nhiệm xã hội và
môi trường. Chủ DN dù lớn hay nhỏ đều phải tính tỷ lệ tăng trưởng bền vững, và sử
dụng chúng để quyết định liệu họ có đủ vốn đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài hay
53
không.
+ Tốc độ tăng trưởng doanh thu: DN có tốc độ tăng trưởng doanh thu cao
thường là các DN đang trong giai đoạn phát triển mạnh, thị phần tăng hoặc đang mở
rộng kinh doanh sang các thị trường hoặc lĩnh vực mới. Đối với những DN có mức
tăng trưởng doanh thu ổn định ở mức cao luôn được các nhà đầu tư đặc biệt quan
tâm. Tùy vào xu hướng của tốc độ tăng trưởng doanh thu mà mức tăng trưởng được
đánh giá là bền vững, không ổn định, phi mã hay tuột dốc.
+ Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận: DN có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao
thường đang kinh doanh rất tốt, và có khả năng quản lý chi phí hiệu quả. Cần lưu ý
là nếu chỉ xét trong một giai đoạn ngắn, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận có thể tăng
hoặc giảm đột biến vì nhiều lý do, chẳng hạn DN bán thanh lý tài sản hay trích quỹ
dự phòng. Do đó khi phân tích tài chính DN, cần xem xét tốc độ tăng trưởng trong
một giai đoạn đủ dài, đồng thời cần quan tâm đến việc tăng trưởng lợi nhuận của
DN có bền vững hay không.
- Chất lượng dòng tiền: nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy dòng tiền được
coi là chỉ số đo lường chính xác về tình trạng sức khỏe tài chính của DN. Trên thực
tế có nhiều DN mặc dù có doanh số cao, lợi nhuận tăng trưởng đều nhưng luồng
tiền lại bị cạn kiệt thì nguy cơ dẫn đến phá sản là vô cùng lớn.
Chất lượng dòng tiền được thiết lập dựa trên các tỷ số giữa dòng tiền thu
được trong kỳ với các khoản chi tiêu cho mục đích trả nợ hay đầu tư của DN. Nếu
như các chỉ tiêu phản ánh mức độ thanh khoản được dùng để đánh giá về khả năng
thanh toán nợ ngắn hạn tại thời điểm hiện tại và quá khứ thì các chỉ tiêu về dòng
tiền được dùng để phản ánh khả năng thanh toán nợ dài hạn khi đáo hạn và trong
tương lai. Một số chỉ tiêu thường được sử dụng như: dòng tiền trên tổng nợ, dòng
tiền trên lợi nhuận, dòng tiền trên doanh thu, dòng tiền trên tổng tài sản,… Trong đó
tỷ số dòng tiền trên tổng nợ của DN được sử dụng nhiều hơn cả. Kết quả trong
nghiên cứu của Beaver (1966) cũng đã chỉ ra tỷ số dòng tiền trên tổng nợ được xem
là quan trọng trong việc xác định khủng hoảng tài chính tại một công ty.
Bên cạnh việc phân tích RRPS dựa trên các mặt biểu hiện về mức độ thanh
54
khoản, khả năng sinh lợi, đòn bẩy tài chính, tốc độ tăng trưởng, chất lượng dòng
tiền, năng lực hoạt động thì RRPS còn được tiến hành phân tích dựa trên các yếu tố
thị trường.
Phân tích RRPS dựa theo yếu tố thị trường được thực hiện bằng cách kết hợp
cấu trúc đòn bẩy của công ty và giá trị thị trường của tài sản. Theo đó việc phân tích
sẽ sử dụng những thông tin lấy được từ thị trường ví dụ như giá thị trường. Bởi vì
những thông tin này thì vốn đã có tính dự báo giúp cho việc phân tích được tốt hơn,
(Xu và Zhang, 2008). Có nhiều lý do cho việc đưa vào các dữ liệu thị trường. Thứ
nhất, giá thị trường phản ánh những thông tin chưa có trong các báo tài chính cộng
với thông tin không chứa trong các BCTC, tạo nên một tập hợp thông tin toàn diện
hữu ích cho việc phân tích tình trạng không thực hiện nghĩa vụ. Thứ hai, các biến
thị trường có thể làm tăng lên đáng kể khả năng cảnh báo kịp thời, đúng lúc về
RRPS do giá thị trường thì có sẵn ở cấp độ hàng ngày, khi dữ liệu từ các BCTC có
sẵn, tốt nhất cũng chỉ ở cấp độ hàng quý. Thứ ba, giá thị trường có thể thích hợp
hơn để phân tích RRPS, bởi vì chúng phản ánh dòng tiền mong đợi trong tương lai,
trái lại, các BCTC phản ánh kết quả trong quá khứ của công ty. Và thứ tư, giá trị thị
trường có thể cung cấp một sự đánh giá ngay lập tức các biến động – một số đo dự
báo RRPS mạnh mẽ mà không có trong các BCTC. Theo thuyết định giá quyền
chọn của Black và Sholes (1973) cho thấy khả năng phá sản phụ thuộc vào tính
không ổn định giữa giá trị thị trường của tài sản và giá thực hiện (giá trị của nghĩa
vụ nợ). Thời điểm then chốt khi công ty vỡ nợ là khi giá trị tài sản của công ty đi
xuống dưới một mức nào đó (nghĩa là dưới mức nghĩa vụ nợ). Khi phân tích RRPS
dựa vào nhân tố thị trường thì phụ thuộc vào giả thuyết thị trường hiệu quả. Tuy
nhiên, thực tế, thị trường thì không phản ánh tất cả thông tin về tình hình tài chính
của một công ty, vì thế điều này dẫn đến độ lệch trong việc tính toán giá trị thị
trường tương lai của tài sản và tính dễ biến động của tỷ suất sinh lợi trên tài sản.
Gần đây đã có nhiều nghiên cứu cho thấy có sử dụng các biến dựa vào yếu tố thị
trường để tiến hành nghiên cứu phá sản của một công ty có thể kể đến như:
Vassalou và Xing (2004), Reisz va Perlich (2007)…
55
Ngoài việc phân tích RRPS dựa trên các mặt biểu hiện như trên và các yếu tố
thị trường thì RRPS còn được phân tích bằng cách kết hợp giữa các mặt biểu hiện
và yếu tố thị trường hoặc giữa các mặt biểu hiện, các yếu tố thị trường và yếu tố vĩ
mô của nền kinh tế.
Việc kết hợp các dữ liệu thời gian biến đổi trong việc phân tích RRPS để
nắm bắt những thay đổi trong môi trường kinh tế vĩ mô là quan trọng bởi vì có thêm
các yếu tố trong việc phân tích RRPS sẽ có tác dụng điều chỉnh khả năng rủi ro –
khả năng không thể trả được nợ trong mối quan hệ với sự thay đổi các điều kiện
kinh tế vĩ mô. Một trong những nghiên cứu nổi bật khi áp dụng cách tiếp cận này là
của 2 tác giả Tinoco và Wilson (2013) bằng cách sử dụng một mẫu gồm 23.218
quan sát của các công ty niêm yết ở UK trong suốt giai đoạn 1990 - 2011. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, các biến tỷ số tài chính có đóng góp lớn nhất trong dự báo phá
sản, biến số kinh tế vĩ mô có đóng góp tích cực vào khả năng dự báo phá sản nhưng
mức độ không cao.
2.2.3. Công cụ và kỹ thuật phân tích rủi ro phá sản
Để phân tích rủi ro phá sản người ta thường sử dụng nhiều công cụ và kỹ
thuật phân tích khác nhau như: công cụ so sánh, chỉ số truyền thống, chỉ số z- score,
kỹ thuật thống kê, … Với từng giai đoạn khác nhau và tác giả khác nhau thì cách
tiếp cận cũng hoàn toàn khác nhau. Lúc đầu, kỹ thuật được áp dụng rộng rãi là kỹ
thuật thống kê (Balcaen & Ooghe, 2006) như: mô hình đơn biến thống kê, phân tích
sâu số nhân, mô hình xác suất tuyến tính, hồi quy Logit, và phân tích Probit
(Ohlson, 1980). Tuy nhiên, gần đây nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng phương
pháp tiếp cận thông minh dựa trên phân tích dữ liệu thuật toán để xây dựng mô hình
ra quyết định có thể được sử dụng như là phương pháp thay thế cho các vấn đề phân
loại (Atiya, 2001).
Như vậy về mặt lý thuyết có nhiều công cụ và kỹ thuật phân tích rủi ro phá
sản của DN. Việc lựa chọn công cụ và kỹ thuật nào phụ thuộc vào ý kiến chủ quan
của người phân tích. Ở đây, luận án chỉ giới thiệu những công cụ và kỹ thuật cơ bản
được vận dụng trong phân tích RRPS của DN, bao gồm:
56
- Công cụ so sánh:
Đây là một trong những công cụ rất quan trọng và được sử dụng khá phổ
biến trong phân tích tài chính nói chung và phân tích RRPS nói riêng. So sánh là
một phương pháp nhằm nghiên cứu sự biến động và xác định mức độ biến động của
chỉ tiêu phân tích.
Để vận dụng công cụ so sánh, trước hết các DN phải xác định được số liệu
gốc để so sánh. Việc xác định số liệu gốc để so sánh tùy thuộc vào mục đích của
phân tích. Gốc để so sánh được chọn là gốc về mặt thời gian và không gian. Kỳ
phân tích được chọn là kỳ thực hiện hoặc kỳ kế hoạch, hoặc là kỳ kinh doanh trước.
Giá trị so sánh có thể là số tuyệt đối, số tương đối hoặc có thể là số bình quân.
Quá trình phân tích theo công cụ so sánh có thể được thực hiện bằng các
hình thức như: so sánh theo chiều ngang, so sánh theo chiều dọc, so sánh xác định
xu hướng và tính chất liên hệ giữa các chỉ tiêu.
Vận dụng công cụ so sánh trong phân tích RRPS cho phép quản trị DN đánh
giá rủi ro của DN giữa các thời kỳ hoặc giữa các phương án nghiên cứu khác nhau
hoặc xu hướng rủi ro. Trên cơ sở đó xem xét các nhân tố, nguyên nhân ảnh hưởng
và có phương hướng khắc phục cũng như các biện pháp cụ thể nhằm ngăn ngừa và
hạn chế RRPS trong DN.
- Chỉ số tài chính:
Thông qua việc phân tích các chỉ số tài chính có thể nhận biết được hoạt
động và những khó khăn về tài chính của các DN. Một tác phẩm kinh điển trong
lĩnh vực phân tích chỉ số và xếp hạng phá sản được thực hiện bởi Beaver (1968).
Beaver cho thấy rằng các DN rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chính là các DN có
ít tiền mặt, ít hàng tồn kho nhưng có nhiều nợ phải thu. Dựa trên kết quả nghiên cứu
thực nghiệm của Beaver, khi muốn phát hiện về khủng hoảng của một DN, chúng ta
sẽ so sánh các chỉ số tài chính của DN với mức trung bình mà Beaver đưa ra để kết
luận. Phương pháp này khá đơn giản và hữu ích, với độ tin cậy cao. Tuy nhiên vẫn
có nhược điểm là khi áp dụng cho một DN cụ thể, có thể xảy ra trường hợp các chỉ
số mâu thuẫn với nhau (chỉ số này bộc lộ nguy cơ khủng hoảng, chỉ khác lại thể
57
hiện sự phát triển ổn định của DN), khi đó khó có thể kết luận được.
Các chỉ số tài chính sử dụng để phân tích RRPS có thể được tiến hành dựa
trên các nhóm chỉ tiêu phân tích như: đòn bẩy tài chính, khả năng thanh toán, khả
năng sinh lợi,.v.v. Thứ tự tầm quan trọng của các nhóm chỉ tiêu là không rõ ràng do
hầu hết mỗi nghiên cứu đều sử dụng các chỉ số khác nhau để phân tích những vấn
đề bất ổn của DN.
- Chỉ số Z-scoze:
Chỉ số Z-scoze, được phát minh bởi Giáo Sư Altman vào năm 1968, dựa vào
việc nghiên cứu công phu về các công ty tại Mỹ. Chỉ số này là công cụ dùng để
đánh giá RRPS của DN mà được cả hai giới học thuật và thực hành công nhận và sử
dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Để sử dụng công cụ này, người sử tính toán dựa
trên mô hình phù hợp và so sánh với ngưỡng cảnh báo mà Altman đưa ra để có
quyết định phù hợp cho DN. Bởi sự đơn giản, dễ làm nên mặc dù được phát minh
tại Mỹ nhưng hầu hết các nuớc, vẫn có thể sử dụng với độ tin cậy tương đối cao.
Chỉ số Z bao gồm 5 tỷ số: X1, X2, X3, X4, X5. Trong đó: X1: tỷ số vốn hoạt động
thuần trên tổng tài sản, X2: tỷ số lợi nhuận giữ lại trên tổng tài sản, X3: tỷ số lợi
nhuận trước thuế và lãi vay trên tổng tài sản, X4: giá trị thị trường của vốn chủ sở
hữu trên giá trị sổ sách của tổng nợ, X5: tỷ số doanh thu trên tổng tài sản. Với chỉ số
Z ban đầu, Altman đã phát triển ra chỉ số Z’ và chỉ số Z’’ nhằm áp dụng cho từng
loại hình và ngành khác nhau của DN.
- Kỹ thuật thống kê:
Thống kê là một trong những kỹ thuật nghiên cứu chính xác. Nó giúp phát
hiện ra những quy luật của hiện thực khách quan, từ một sự vật, hiện tượng. Kỹ
thuật thống kê là một quá trình, bao gồm điều tra thống kê, khái quát hóa thông tin
(còn gọi là tổng hợp thống kê), phân tích và dự báo. Đây chính là quá trình mô hình
hóa toán học các vấn đề cần phân tích theo mục đích của nghiên cứu. Bằng cách
này ta mới có khả năng ứng dụng rộng rãi các kỹ thuật phân tích thống kê, lý thuyết
điều khiển, lý thuyết dự báo… cũng như tin học và máy tính trong quá trình nghiên
cứu.
58
Trong việc phân tích RRPS có sử dụng thủ tục thống kê đòi hỏi việc đưa ra
các giả thuyết liên quan đến tiêu chuẩn RRPS tiềm năng. Những giả thuyết này xem
xét đến RRPS của DN là cao, thấp hơn RRPS trung bình của những DN có RRPS so
với DN không có RRPS. Những thông tin về RRPS của mỗi DN đều được thể hiện
qua bộ số liệu thực nghiệm, những giả thuyết này có thể bị bác bỏ hoặc chấp nhận
một cách phù hợp.
Trong thực tế, tùy thuộc vào kỹ thuật thống kê được sử dụng trong phân tích
RRPS có thể tiếp cận theo các mô hình thống kê sau đây như mô hình phân tích biệt
(MDA), Logit, Probit, hồi quy tuyến tính, trí tuệ nhân tạo.
+ Mô hình phân tích biệt số bội (MDA): là một phương pháp được sử dụng
để phân loại một quan sát nào đó vào một hay nhiều nhóm độc lập dựa vào những
đặc thù riêng biệt của những quan sát. Nó được sử dụng trước hết là để phân loại
và/hoặc dự báo những vấn đề mà biến độc lập xuất hiện ở dạng định tính như đàn
ông hay đàn bà, phá sản hay không phá sản. Do đó bước đầu tiên là phải xây dựng
việc phân loại nhóm rõ ràng. Số lượng của các nhóm nguyên thuỷ có thể là hai hoặc
nhiều hơn. Các nhóm sau khi đã được thiết lập sẽ tiến hành thu thập phục vụ cho
chạy mô hình. Trên cơ sở dữ liệu MDA sẽ lọc ra kết hợp tuyến của những đặc trưng
này để phân biệt tốt nhất giữa các nhóm. Phương pháp MDA có thuận lợi là xem
xét toàn bộ tiểu sử của những đặc trưng phổ biến của những công ty thích hợp, cũng
như sự ảnh hưởng qua lại, tuy nhiên cũng có những hạn chế nhất định đó là không
có tính năng để điều chỉnh biến đại diện cho các sự kiện phi tài chính và người sử
dụng nên làm quen với việc mô hình Z-score không nắm bắt tất cả các sự kiện có
thể gây ra phá sản (Grice và Ingram, 2001). Ngoài ra, mô hình ước lượng dựa trên
3, 4,5,… n năm làm khó khăn để quyết định biến thể/tỷ lệ phá sản trong năm cụ thể
(Eisenbeis, 1977). Hơn nữa, phương pháp tiếp cận MDA giả định các mẫu phù
hợp/kết hợp đều có khả năng (Balcaen và Ooghe, 2004).
+ Mô hình Logit và Probit: nghiên cứu sự phụ thuộc của một biến nhị phân
vào các biến độc lập khác. Mục tiêu của các mô hình này là sử dụng những nhân tố
ảnh hưởng đến một DN (biến độc lập) để xác định khả năng những DN này sẽ có
59
RRPS (biến phụ thuộc) là bao nhiêu. Nghĩa là, mô hình Logit và Probit có thể ước
lượng xác suất mặc định một DN có RRPS là bao nhiêu trực tiếp từ mẫu.
Trong quá trình sử dụng mô hình này không đòi hỏi các giả thuyết về những
nhân tố liên quan đến biến độc lập, có nghĩa là các nhân tố liên quan tới RRPS dù là
định tính hay định lượng đều có thể xử lý mà không gặp bất cứ một vấn đề nào. Tuy
nhiên, trong quá trình xử lý số liệu, đòi hỏi phải có một số lượng dữ liệu đủ lớn cho
mỗi phạm trù trong số liệu thống kê, đặc biệt là số liệu về các DN có RRPS.
+ Mô hình xác suất tuyến tính: Đây là mô hình ước lượng đa biến sử dụng
phương pháp bình phương tối thiểu OLS. Tuy nhiên, mô hình này có nhiều hạn chế
đó là sai số hồi quy không phân phối chuẩn, phương sai thay đổi không thõa mãn
điều kiện cơ bản của xác suất trong khoảng (0,1) và mô hình cho kết quả tác động
biên không đổi, ngược với bản chất vốn có của mô hình xác suất đó là tác động biên
sẽ thay đổi theo từng giá trị của biến độc lập.
+ Mô hình trí tuệ nhân tạo: mô hình này bao gồm số lượng lớn các mối gắn
kết cấp cao để xử lý các yếu tố làm việc trong mối liên hệ giải quyết vấn đề rõ ràng.
Mô hình mày có thể nhận thức được các dữ liệu với một số lượng biến lớn hoặc với
dữ liệu đầu vào không đầy đủ. Ưu điểm của mô hình này là có khả năng dự báo mà
không cần có công thức toán học nào để miêu tả mối quan hệ giữa các biến đầu vào
và đầu ra. Thêm vào đó nó rất hữu dụng khi mục đích của cần đạt được mang tính
dự báo quan trọng hơn mục đích giải thích. Một trong những thuận lợi của mô hình
là nó có thể giải quyết mối quan hệ phi tuyến tính. Mặc dù mô hình này được nhiều
nghiên cứu cho rằng có khả năng dự báo tốt hơn so với mô hình Logit và Probit,
tiếp đó mới đến mô hình MDA và mô hình LPM. Nhưng do mô hình trí tuệ nhân
tạo đòi hỏi dữ liệu đầu vào lớn, và việc vận dụng cũng phức tạp và chưa phổ biến ở
nước ta.
- Phỏng vấn chuyên gia:
Kỹ thuật này dựa trên cơ sở đánh giá tổng kết kinh nghiệm, khả năng phản
ánh tương lai một cách tự nhiên của các chuyên gia giỏi và xử lý thống kê các câu
hỏi một cách khoa học. Qua đó, có thể tìm ra bản chất của mối quan hệ giữa RRPS
60
và các nhân tố ảnh hưởng đến RRPS.
Có nhiều mô hình được sử dụng trong phỏng vấn chuyên gia như: bảng câu
hỏi đánh giá cổ điển, hệ thống định tính, hệ thống chuyên gia.
+ Bảng câu hỏi đánh giá cổ điển: được thiết kế trên cơ sở kinh nghiệm của
các chuyên gia. Đối tượng được sử dụng trong phân tích sẽ trả lời những câu hỏi đã
được xác định rõ ràng, câu hỏi bao gồm những nhân tố liên quan tới RRPS và được
gán những điểm số cố định. Hơn nữa, các nhân tố và các điểm số tương ứng đều
không qua kiểm định thống kê mà chúng phản ánh sự đánh giá chủ quan của các
chuyên gia.
Nhân tố thành công mang tính quyết định trong một bảng câu hỏi xếp hạng
cổ điển là sử dụng các nhân tố có ảnh hưởng đến RRPS của DN, mà người sử dụng
có thể đưa ra những câu trả lời rõ ràng và dễ hiểu. Điều đó, giúp cho việc gia tăng
sự công nhận và khách quan của mô hình.
Bằng kinh nghiệm của các chuyên gia, những câu trả lời nào cho thấy RRPS
cao phải được gán số điểm lớn hơn so với những câu trả lời với RRPS thấp.
+ Hệ thống định tính: trong hệ thống định tính, những thuộc tính thông tin
tương quan chặt chẽ với RRPS cũng được xác định dựa trên ý kiến của các chuyên
gia tài chính. Các thuộc tính này được gán cho những trọng số tương ứng trên cơ sở
kinh nghiệm chủ quan của người đánh giá. Để đảm bảo tất cả những người sử dụng
có sự lý giải như nhau trong việc đánh giá của họ, một hệ thống định tính phải được
đi kèm cùng một bản hướng dẫn trả lời. Những bản hướng dẫn như vậy, chứa đựng
những miêu tả bằng lời, đối với mỗi phạm trù thông tin có tương quan chặt chẽ giữa
RRPS và các thuộc tính.
So với kỹ thuật thống kê thì hệ thống định tính tồn tại những hạn chế nhiều
về tính khách quan và khả năng công nhận.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Nội dung Chương 2 tập trung vào trình bày các lý luận cơ bản về RRPS và
phân tích RRPS trong các DN. Cụ thể, luận án đã đi vào trình bày những quan điểm
61
về RRPS; ảnh hưởng của phá sản đến nền kinh tế quốc dân; nguyên nhân của phá
sản; bản chất và vai trò của phân tích RRPS đối với các đối tượng khác nhau như
nhà đầu tư, nhà cung cấp, các tổ chức tín dụng. Đồng thời, luận án cũng đưa ra các
62
nội dung và các công cụ, kỹ thuật trong phân tích RRPS.
CHƯƠNG 3
MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu
3.1.1.Thiết lập mô hình nghiên cứu
Theo bài nghiên cứu của Theodossiou (1991), sự lựa chọn các biến cho việc
phân tích rủi ro phá sản là việc khó khăn nhất của tất cả các nghiên cứu liên quan
đến vấn đề này vì các học thuyết tài chính vốn dĩ không cho thấy rằng biến nào nên
được sử dụng trong mô hình của nó. Ngoài ra, đã có rất nhiều nghiên cứu thực
nghiệm đã được thực hiện về việc dự đoán sự thất bại của một DN cho thấy rằng
không có một danh mục rõ ràng các tỷ số biểu hiện cho các công thức có khả năng
dự đoán chuyên biệt và có khả năng dự đoán việc phá sản có thể áp dụng chung cho
toàn bộ các nghiên cứu (Edmister, 1972).
Do vậy, nhằm mục đích giảm thiểu khả năng các biến có khả năng giải thích
liên quan đến khả năng kinh tế và có tính chất thống kê không được đưa vào mô
hình, bài nghiên cứu này, trước hết, sử dụng các biến từ rất nhiều các biến đã được
chứng minh có liên quan đến các nghiên cứu trước đây về việc nghiên cứu sự thất
bại trong kinh doanh của các DN. Từ kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm, các
biến tác động đến RRPS được ưu tiên lựa chọn. Nguyên tắc cơ bản là giữ nguyên
bản chất của biến, giữ nguyên công thức tính toán.
Về cơ bản, việc lựa chọn biến độc lập thường được tiến hành theo hai cách.
Cách tiếp cận đầu tiên là dựa trên cơ sở lý thuyết và những nghiên cứu từ trước.
Cách thứ hai là trực giác dựa trên cơ sở kiến thức của các chuyên gia và trực giác
lựa chọn những biến chưa có những nghiên cứu trước và cơ sở lý thuyết hợp lý.
Trong cả hai cách thì những biến độc lập được lựa chọn là những biến có ảnh hưởng
đến khả năng phân biệt giữa các nhóm của biến phụ thuộc.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận án tập trung vào phân tích các
biến tài chính kết hợp với biến dữ liệu thị trường của công ty để xác định mức độ
tác động của các biến đến RRPS của các công ty. Sở dĩ tác giả đưa thêm dữ liệu thị
63
trường vào trong nghiên cứu vì như đã trình bày ở phần tổng quan nghiên cứu cho
thấy, các dữ liệu về thị trường chứng khoán có thể cung cấp các thông tin hữu ích
cho việc phân tích RRPS. Rõ ràng là các BCTC thì không bao gồm tất cả các thông
tin liên quan đến dự báo phá sản và các biến thị trường thì rất thích hợp để bổ sung
vào chỗ thiếu sót này. Có nhiều lý do cho việc đưa vào các dữ liệu thị trường. Thứ
nhất, giá thị trường phản ánh những thông tin chứa trong các BCTC cộng với thông
tin không chứa trong các BCTC, tạo nên một tập hợp thông tin toàn diện hữu ích
cho việc dự đoán tình trạng không thực hiện nghĩa vụ. Thứ hai, giá thị trường có thể
làm tăng lên đáng kể khả năng cảnh báo kịp thời - đúng lúc của kết quả nghiên cứu
do giá thị trường thì có sẵn ở cấp độ hàng ngày, trong khi dữ liệu từ các BCTC có
sẵn, tốt nhất cũng chỉ có ở cấp độ hàng quý. Thứ ba, giá thị trường có thể thích hợp
hơn để phân tích phá sản, bởi vì chúng phản ánh dòng tiền mong đợi trong tương
lai, trái lại, các BCTC phản ánh kết quả trong quá khứ của công ty. Và thứ tư, các
biến dựa trên thị trường có thể cung cấp một sự đánh giá ngay lập tức các biến động
- một số đo dự báo RRPS mạnh mẽ mà không có trong các BCTC.
Có thể kể đến các nghiên cứu về bằng chứng thực nghiệm chứng minh sự
mạnh mẽ về tính hữu dụng của các dữ liệu tài chính và dữ liệu thị trường trong việc
dự báo phá sản như: công trình nghiên cứu “In search of distress risk” (2008) của
Campbell, Hilscher, và Szilagyi. Nghiên cứu xem xét các yếu tố quyết định phá sản
cũng như định giá cổ phần kiệt quệ tài chính với xác suất phá sản cao thông qua mô
hình Logit bao gồm các biến tỷ số tài chính và biến thị trường. Christidis và
Gregory (2010) trong bài nghiên cứu “Some New Models For Financial Distress
Prediction in the UK” đã kiểm tra một tập hợp các biến tỷ số tài chính và ba biến thị
trường trong mô hình dự báo kiệt quệ cho các công ty niêm yết tại Anh. Kết quả của
họ cho thấy rằng các biến giá trị thị trường có khả năng làm tăng tính chính xác của
khả năng xảy ra phá sản.
Trên cơ sở lựa chọn các biến như trên, luận án tập trung tiến hành phân tích
14 biến thuộc năm nhóm: đòn bẩy tài chính, khả năng sinh lợi, khả năng thanh toán,
năng lực hoạt động và sự vững chắc của công ty. Từ đó, sẽ tiến hành thiết lập mô
hình hồi quy với biến phụ thuộc và các biến độc lập.
64
Mô hình tổng quát của đề tài được viết như sau:
Xác suất (rủi ro phá sản) = ƒ (Đòn bẩy tài chính, khả năng thanh toán, khả
năng sinh lợi, năng lực hoạt động và sự vững chắc của công ty).
Mô hình nghiên cứu của đề tài được tóm tắt trong hình 3.1:
Đòn bẩy tài chính H1
Khả năng thanh toán H2
H3 Khả năng sinh lợi
RỦI RO PHÁ SẢN
H5
Năng lực hoạt động H4
Sự vững chắc của công
ty
Hình 3. 1: Mô hình nghiên cứu
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)
Do biến phụ thuộc trong đề tài là công ty có hay không có rủi ro phá sản
(biến nhị phân chỉ nhận giá trị 0 hoặc 1) nên đề tài có thể sử dụng một số mô hình
cơ bản để phân tích như: mô hình phân tích đa nhân tố (MDA), mô hình Probit, mô
hình Logit,… Trong đó, mô hình MDA được sử dụng rộng rãi trước những năm
1980, có thể kể đến các nghiên cứu của Beaver (1966), Altman (1968),… Nhược
điểm của mô hình này là các biến độc lập phải tuân theo các giả định: có phân phối
chuẩn, có hệ số tương quan thấp hoặc không tương quan và có ma trận hiệp phương
sai của các nhóm là như nhau,... Tuy nhiên trong thực tế các biến độc lập đôi khi
rất khó để thỏa mãn được các yêu cầu này.
Từ các hạn chế đó, sau những năm 1980 thì mô hình Logit và mô hình Probit
được sử dụng rộng rãi hơn và mang lại hiệu quả cao hơn trong khả năng phân tích.
Giữa mô hình Logit và mô hình Probit có rất nhiều điểm tương đồng như không có
sự ràng buộc về phân phối của các biến độc lập, không cần giả định hiệp phương sai
đồng nhất, phương pháp không quá phức tạp, và nhìn chung không đặt nhiều yêu
65
cầu phức tạp. Chỉ có điểm khác biệt giữa hai mô hình này đó là nếu như mô hình
Logit giả định hạng nhiễu là phân phối chuẩn logit thì mô hình Probit lại giả định
hạng nhiễu là phân phối chuẩn thông thường. Press và Wilson (1978) khi chọn lựa
giữa Logit và phân tích biệt thì cho rằng mô hình Logit cho kết quả tốt hơn phân
tích biệt.
Dựa trên các phân tích trên, để tăng hiệu quả phân tích, đề tài sử dụng mô
hình Logit để phân tích mối quan hệ giữa rủi ro phá sản của công ty (biến phụ
Cấu trúc dữ liệu các biến trong mô hình Logit như sau:
thuộc) và các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản công ty (biến độc lập).
Bảng 3. 1: Cấu trúc dữ liệu các biến trong mô hình Logit
Biến Ký hiệu Loại
Phụ thuộc Y Nhị phân
Độc lập Liên tục hoặc rời rạc Xi
(Nguồn: Maddala, 1983)
Mô hình Logit (Maddala, 1983) là mô hình định lượng trong đó biến phụ
thuộc là biến nhị phân, chỉ nhận 2 giá trị là 0 hoặc 1.
Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), phương trình hồi
quy có dạng sau (trong trường hợp đơn giản nhất là chỉ có 1 biến độc lập X):
(cid:12)(cid:6)(cid:13)(cid:14)(cid:13)(cid:15)(cid:16)(cid:11) (cid:17)(cid:18)(cid:12)(cid:6)(cid:13)(cid:14)(cid:13)(cid:15)(cid:16)(cid:11) (3.1)
(cid:2)(cid:3) = (cid:5)(cid:6)(cid:7) = 1/(cid:10)(cid:11) =
Trong công thức này Pi = E(Y=1/X) = P(Y=1) gọi là xác suất để sự kiện xảy
ra (Y=1) khi biến độc lập có giá trị cụ thể là Xi. Kí hiệu biểu thức (b + b1X) là z, ta
viết lại mô hình hàm hồi quy Logit như sau:
(cid:12)(cid:19) (cid:17)(cid:18)(cid:12)(cid:19) (3.2)
(cid:2)(cid:6)(cid:7) = 1(cid:11) =
Vậy thì xác suất không xảy ra sự kiện là:
(cid:12)(cid:19) (cid:17)(cid:18)(cid:12)(cid:19) (3.3)
(cid:2)(cid:6)(cid:7) = 0(cid:11) = 1 − (cid:2)(cid:6)(cid:7) = 1(cid:11) = 1 −
Thực hiện phép so sánh giữa xác suất một sự kiện xảy ra với xác suất sự kiện
66
đó không xảy ra, tỷ lệ chênh lệch này thể hiện trong công thức:
(cid:22)(cid:6)(cid:23)(cid:24)(cid:17)(cid:11)
=
(3.4)
(cid:22)(cid:6)(cid:23)(cid:24)(cid:25)(cid:11)
(cid:17)(cid:27)
(cid:26)(cid:19) (cid:15)(cid:14)(cid:26)(cid:19) (cid:26)(cid:19) (cid:15)(cid:14)(cid:26)(cid:19)
Lấy log cơ số e hai vế của phương trình trên rồi thực hiện biến đổi vế phải ta
(cid:22)(cid:6)(cid:23)(cid:24)(cid:17)(cid:11)
Log[
] = log ! (3.5)
(cid:22)(cid:6)(cid:23)(cid:24)(cid:25)(cid:11)
được kết quả là:
(cid:22)(cid:6)(cid:23)(cid:24)(cid:17)(cid:11)
vì Log ! = " nên kết quả cuối cùng là:
(cid:22)(cid:6)(cid:23)(cid:24)(cid:25)(cid:11)
log[ ] = $ + $1x. Đây được gọi là dạng hàm mô hình hồi quy Binary
logit và ta có thể mở rộng mô hình hồi quy Binary logit cho nhiều biến độc lập Xi
)*
như sau:
(cid:2)(cid:6)(cid:7)(cid:3) = 1(cid:11) = &(cid:3) =
)*
(cid:12)'( (cid:17)(cid:18)(cid:12)'(
(3.6)
+ Trong đó: (cid:10)(cid:3) + = (cid:6)(cid:10)(cid:17), (cid:10)-, … , (cid:10)/(cid:11)′,
là vector tập hợp các biến độc lập/giải thích
(cid:10)(cid:3)
1 là hệ số cần ước lượng của biến giải thích.
+1 (3.7)
log(cid:6)2334(cid:3)(cid:11) = (cid:10)(cid:3)
.
(cid:2)(cid:6)(cid:7)(cid:3) = 1(cid:11) là xác suất xảy ra sự kiện. Phương trình (3.6) được tiếp tục biến đổi như sau:
5( (cid:17)(cid:27)5(
Với (cid:2)(cid:6)(cid:7)(cid:3) = 1(cid:11) = &(cid:3), and 2334(cid:3) =
Nếu ta gọi “c” là giá trị điểm cắt thì một công ty có (cid:2)(cid:6)(cid:7)(cid:3) = 1(cid:11)> c tức là công ty đó có rủi ro phá sản, trường hợp khác được gọi là công ty không có rủi ro phá
sản. Ở đây chúng ta cần lưu ý điểm cắt “c” có thể có giá trị khác nhau tùy vào sự
phân tích chủ quan của người nghiên cứu đối với vấn đề cần nghiên cứu. Như trong
đề tài là sự phân tích, đánh giá nền kinh tế Việt Nam, mức độ tin cậy của các thông
tin có được, mức độ đánh giá cũng như chấp nhận rủi ro của người nghiên cứu mà
có thể chọn điểm cắt là 0,5 hoặc có thể cao, thấp hơn. Đối với luận án này, các công
67
ty với giá trị (cid:2)(cid:6)(cid:7)(cid:3) = 1(cid:11) lớn hơn hoặc bằng 0.5 sẽ thuộc các công ty có rủi ro phá sản
và các công ty còn lại có (cid:2)(cid:6)(cid:7)(cid:3) = 1(cid:11) thấp hơn 0.5 được xếp vào những công ty không có rủi ro phá sản (những công ty khỏe mạnh)
Trong luận án, mẫu quan sát được phân loại thành: các công ty có RRPS và
các công ty không có RRPS. Kết quả là các biến phụ thuộc nhị phân nhận giá trị 1
cho những quan sát (công ty – năm) có RRPS và giá trị 0 cho những quan sát (công
ty – năm) không có RRPS. Mô hình Logit lúc này được sử dụng để giải quyết vấn
đề biến phụ thuộc nhị phân chỉ mang giá trị “0” và “1”.
3.1.2. Các biến trong mô hình nghiên cứu
* Biến phụ thuộc: là biến rủi ro phá sản và được xác định dựa vào tiêu chí
lựa chọn đã được tác giả trình bày trong chương hai.
* Biến độc lập: bao gồm 14 biến được phân thành năm nhóm (khả năng
thanh toán, khả năng sinh lợi, đòn bẩy tài chính, năng lực hoạt động và sự vững
chắc của công ty).
- Khả năng sinh lợi: các chỉ tiêu đại diện phản ánh khả năng sinh lợi của
công ty, bao gồm:
+ Lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản bình quân1: chỉ tiêu này đưa ra một
dấu hiệu cho thấy một công ty được sử dụng tài sản của mình hiệu quả như thế nào.
Chỉ tiêu này cao hơn thì tốt hơn cho công ty.
+ Lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân5: chỉ tiêu này cho biết
một đơn vị vốn chủ sở hữu bình quân đưa vào kinh doanh đem lại mấy đơn vị lợi
nhuận sau thuế. Trị số của chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả kinh doanh càng cao và
ngược lại.
+ Lợi nhuận sau thuế trên tài sản cố định bình quân1: chỉ tiêu này cho biết
sức sinh lợi của việc sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp.
- Đòn bẩy tài chính: các chỉ tiêu phản ánh đòn bẩy tài chính bao gồm: + Nợ ngắn hạn trên tổng tài sản3: chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu tài sản của
doanh nghiệp được hình thành từ khoản nợ ngắn hạn.
+ Tổng nợ phải trả trên tổng tài sản2: chỉ tiêu này phản ánh mức độ sử dụng
nợ của công ty. Nếu công ty sử dụng tốt yếu tố này thì có thể tận dụng lá chắn thuế.
68
Nhưng mặt khác các chủ nợ thường lại muốn tỷ lệ này thấp vì như thế công ty có
khả năng trả nợ cao hơn.
+ Vốn chủ sở hữu trên nợ dài hạn4: chỉ tiêu này cho biết khả năng đảm bảo
nghĩa vụ thanh toán khoản nợ dài hạn từ vốn chủ sở hữu.
- Khả năng thanh toán: Kế thừa nghiên cứu của Beaver (1966) và Atlman
(1968), tác giả sử dụng bốn chỉ tiêu làm đại diện để đo lường khả năng thanh toán
của một công ty, bao gồm:
+ Tài sản ngắn hạn trên nợ ngắn hạn2 (hệ số thanh toán nợ ngắn hạn): hệ số
này cho biết mỗi đồng nợ ngắn hạn phải trả của công ty có bao nhiêu đồng tài sản
ngắn hạn có thể sử dụng để thanh toán. Nếu hệ số này quá thấp cho thấy rằng khả
năng thanh toán của công ty không tốt. Điều này có thể dẫn đến khi công ty cần
thêm vốn để hoạt động thì sẽ gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn
vay của các tổ chức tín dụng, làm ảnh hưởng đến hoạt động của công ty. Hoặc nếu
công ty không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu thì có thể
ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh công ty, tình trạng xấu nhất có thể xảy ra là chủ nợ có thể nộp đơn đòi giải quyết phá sản theo qui định của pháp luật.
+ Vốn hoạt động thuần trên tổng tài sản1: vốn hoạt động thuần được định
nghĩa là sự chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn. Thông thường, một
công ty trải qua các khoản lỗ hoạt động phù hợp sẽ thu hẹp lại tài sản ngắn hạn
trong mối quan hệ với tổng tài sản. Theo nghiên cứu Merton (1974), ông đánh giá tỷ
số vốn hoạt động thuần trên tổng tài sản là chỉ tiêu tốt nhất phân tích khả năng phá
sản.
+ Dòng tiền trên tổng nợ phải trả bình quân2: đại diện cho khả năng đảm bảo
các nghĩa vụ tài chính của công ty dựa trên dòng tiền hoạt động kinh doanh. Chỉ
tiêu này phản ánh tính cân đối giữa khả năng tạo ra tiền của doanh nghiệp với với số
nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán và trong nghiên cứu của Beaver (1968) cũng
sử dụng chỉ tiêu này và đưa ra kết luận rằng đây là chỉ tiêu thể hiện rõ ràng nhất khả
năng thanh toán của doanh nghiệp.
- Năng lực hoạt động3: luận án sử dụng ba chỉ tiêu như là một đại diện để đo
lường năng lực hoạt động của một công ty, bao gồm:
69
+ Chi phí trên doanh thu3: chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp tạo ra một đồng
doanh thu thì phải mất bao nhiêu đồng chi phí.
+ Doanh thu trên tổng tài sản bình quân1 (vòng quay tổng tài sản): chỉ tiêu
này sẽ cho biết hiệu quả trong việc sử dụng tài sản của công ty. Nó cho biết được
mỗi đồng tổng tài sản bình quân sẽ tạo được mấy đồng doanh thu. Đây được coi là
một trong những chỉ tiêu tài chính chuẩn quan trọng thể hiện khả năng tạo ra doanh
thu từ các tài sản của công ty. Nó là một trong những thước đo năng lực quản lý
trong việc đối phó với các điều kiện cạnh tranh.
+ EBIT trên doanh thu3: chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu có
bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
- Sự vững chắc của công ty: + Giá thị trường của vốn chủ sở hữu trên giá trị sổ sách của nợ1: vốn chủ sở
hữu được đo bằng cách kết hợp giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu ưu đãi và
phổ thông, trong khi nợ bao gồm cả ngắn hạn và dài hạn. Thước đo này cho thấy
bao nhiêu tài sản của công ty có thể giảm giá trị (tính theo giá trị thị trường của vốn
chủ sở hữu cộng với nợ) trước khi các khoản nợ vượt quá tài sản và công ty trở nên
mất khả năng thanh toán. Đây là chỉ tiêu phản ánh giá trị thị trường đã được Altman
(1968) chứng minh là có ý nghĩa thống kê trong việc dự báo nguy cơ phá sản của
doanh nghiệp.
+ Quy mô công ty: Titman và Wessels (1998) giải thích rằng các công ty lớn
thường có khả năng đa dạng hóa tốt hơn, nhờ vậy có thể giúp họ giảm nguy cơ
RRPS. Hơn nữa, những công ty lớn thường có tính minh bạch cao, nhờ vậy, có thể
giảm thiểu chi phí phát hành khi họ cần phát hành các công cụ nợ (Byoun, 2008).
Các thông tin cần thiết để xây dựng biến số này bao gồm: Giá trị vốn hóa thị
trường của công ty và giá trị vốn hóa thị trường của toàn bộ các công ty BĐS. Biến
quy mô được tính cụ thể như sau: quy mô = MCit/MCmt. Trong đó: MCit: giá trị
vốn hóa thị trường của công ty i tại năm t; MCmt: tổng giá trị vốn hóa của toàn bộ
các công ty BĐS tại năm t.
Trong đó: (1): từ nghiên cứu của Altman (1968).
(2): từ nghiên cứu của Beaver (1966).
70
(3): từ nghiên cứu của Elijelly et al. (2001).
(4): từ nghiên cứu của Gu (2002).
(5): từ nghiên cứu của Nguyễn Trọng Hòa (2009).
Bảng 3.2 sẽ mô tả kí hiệu, cách tính, nguồn số liệu để lựa chọn các biến
71
trong mô hình nghiên cứu.
74
Bảng 3. 2: Mô tả cách tính, kí hiệu các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu
Cách tính Biến Các nghiên cứu trước
ST T Biến thuộc yếu tố tác động Giả thuyết Nhóm Biến
Nợ ngắn hạn/ tổng tài sản Eljelly et.al (2001), Fulmer Model (1984) Đòn bẩy tài chính (+)
NNH/TTS 1
Tổng tổng nợ phải trả/ Beaver (1966), Deakin 1972, Fulmer Model (1984), Altman (2007), Ohlson (1980), Zmijewski (1984), Zavgren et Dugan (1989); Wang & Campbell (2010), Hoàng Tùng Đòn bẩy tài chính (+) 2 tổng tài sản TNPT/TTS Mohamed (2004),
(2011), Altman, Heine, Zhang và Yen (2007), Sori và Y. (2001), Anghel Karbhari (2002), Abdullah (2008). Đòn bẩy tài chính Gu (2002) Đòn bẩy tài chính (-) VCSH/NDH 3 Vốn chủ sở hữu/ nợ dài hạn
Tài sản ngắn hạn/ nợ ngắn (-) 4 TSNH/NNH hạn Beaver (1966), Gu (2002), Deakin (1972), Edminster (1972), Altman, Haldeman, và Narayanan (1977) Khả năng thanh toán
(-) Khả năng thanh toán
Khả năng thanh Vốn hoạt động thuần/ tổng tài sản Beaver (1966), Altman (1968), Wang&Campbell (2010), Deakin (1972), Ohlson (1980), Lykke et. al. (2004), Lenno (1999), Altman, Heine, Zhang và Yen (2007), Puagwatana VHDT/TTS 5
68
toán và Gunawardana (2005), Shumway (2001), Bandyopadhyay (2006),
Dòng tiền/ tổng nợ phải Beaver (1966), Eljelly et.al (2001), Ohlson (1980), Deakin Khả năng thanh toán (-) DTi/TNPT 6 trả bình quân (1972), Fulmer Model ( 1984)
Khả năng sinh lợi (-) 7 ROA Altman (1968, 1977), Zang (2007), Hoàng Tùng (2011), Puagwatana & Gunawardana (2005)
Nguyễn Trọng Hòa (2009) Khả năng sinh lợi (-) ROE 8 Lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản bình quân Lợi nhuận sau thuế / vốn chủ sở hữu bình quân
Khả năng sinh lợi Eljelly et.al (2001) Khả năng sinh lợi (-) ROFA 9
Eljelly et.al (2001) Năng lực hoạt động (+) CP/DT 10
Năng lực hoạt động (-) Lợi nhuận sau thuế/ tài sản cố định bình quân Chi phí/ doanh thu EBIT/ doanh thu EBIT/DT 11 Eljelly et.al (2001), Nguyễn Trọng Hòa (2009), Hoàng Tùng (2011)
(-)
Năng lực hoạt động Doanh thu/ tổng tài sản bình quân DT/TTS 12 Năng lực hoạt động
Ramser và Foster (1931), Springate (Canada-1978), Altman (1968), Fulmer Model (1984), Puagwatana & Gunawardana (2005), Rashid & Abbas (2011), Bandyopadhyay (2006), Rashid và Abbas (2011), Hoàng Tùng (2011).
Altman (1968), Altman, Haldeman, và Narayanan (1977) (-)
Sự vững chắc của công ty 13 KVTT
Sự vững chắc của (-) Giá thị trường của vốn chủ sở hữu/ giá trị sổ sách của nợ Giá trị vốn hóa của cty
công ty QMCT 14
năm i/ giá trị vốn hóa của toàn thị trường năm i Sự vững chắc của công ty
69
(Nguồn: Tổng hợp từ tác giả)
3.1.3. Các giả thuyết khoa học trong mô hình nghiên cứu
Các giả thuyết cho mô hình nghiên cứu xây dựng dựa trên việc đánh giá các
yếu tố tác động đến RRPS của các doanh nghiệp. Trong mô hình nghiên cứu này,
luận án sử dụng 14 chỉ tiêu tài chính như là các biến độc lập, các chỉ tiêu tài chính
này đã được phân loại thành 5 nhóm lớn bao gồm: đòn bẩy tài chính, khả năng
thanh toán, khả năng sinh lợi, năng lực hoạt động và sự vũng chắc của công ty.
Các giả thuyết trong mô hình nghiên cứu được đề xuất như sau:
- Giả thuyết H1: nhóm đòn bẩy tài chính có biến nợ ngắn hạn/ tổng tài sản
và tổng nợ phải trả/ tổng tài sản có quan hệ thuận chiều với rủi ro phá sản, biến
vốn chủ sở hữu/ nợ dài hạn có quan hệ ngược chiều với rủi ro phá sản.
Đối với hai chỉ tiêu tổng nợ trên tổng tài sản và nợ ngắn hạn trên tài sản, nếu
công ty sử dụng tốt yếu tố này thì có thể tận dụng lá chắn thuế. Nhưng mặt khác các
chủ nợ thường lại muốn tỉ lệ này thấp vì như thế công ty có khả năng trả nợ cao
hơn. Nghiên cứu của Argent (1976) lập luận rằng trái phiếu nhiều là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến một công ty phá sản. Baxter (1976) giới thiệu
đòn bẩy tài chính trong việc nghiên cứu nguy cơ phá sản, và giải thích lý do tại sao
các hãng đã không chọn để sử dụng nợ độc quyền khi huy động vốn. Ông tin rằng
trong điều kiện nguy cơ phá sản, doanh nghiệp có thể không liên tục gia tăng đòn
bẩy tài chính của họ. Khi tỷ lệ nợ tăng, nguy cơ phá sản của một công ty sẽ tăng lên,
do đó làm tăng chi phí phá sản dự kiến của nó và bù đắp lợi ích của tiết kiệm thuế
suất nợ. Theo kịch bản này, chi phí của một công ty vốn không phải luôn luôn giảm
khi nợ tăng lên, nhưng sẽ tăng ở mức nợ cao hơn. Kraus và Litzenberger (1973) đã
nghiên cứu mức độ đòn bẩy tài chính tối ưu và chỉ ra rằng giá trị của một công ty
với nợ bằng với giá trị của một công ty mà không có nợ cộng với giá trị các khoản
nợ và thuế suất thuế thu nhập, và trừ đi giá trị sau thuế của chi phí phá sản dự kiến
của nó. Theo Jensen (1986) kết luận rằng theo cơ chế phá sản, nợ vay thường sẽ tạo
ra một hiệu ứng quản trị công ty. Điều này là do thực tế rằng việc vay nợ sẽ làm
tăng nguy cơ phá sản, do đó làm tăng nguy cơ mất mát của một người quản lý của
70
quyền lực kiểm soát. Biến vốn chủ sở hữu trên nợ dài hạn cho biết mức độ độc lập
tài chính của doanh nghiệp. Trị số của biến này càng lớn cho thấy, mức độ tự chủ về
tài chính của doanh nghiệp càng cao dẫn đến ít có nguy cơ rơi vào rủi ro phá sản và
ngược lại khi trị số này càng nhỏ, mức độ tự chủ về tài chính của doanh nghiệp càng
thấp từ đó có thể làm tăng nguy cơ rơi vào rủi ro phá sản.
- Giả thuyết H2: khả năng thanh toán có quan hệ ngược chiều với rủi ro phá sản.
Muốn ngăn ngừa RRPS, một trong nhóm chỉ tiêu quan trọng cần quan tâm
đó là khả năng thanh toán. Doanh nghiệp một khi rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh toán, cũng tương tự một người bệnh khá nặng, cơ hội sống sót và phục hồi
phụ thuộc rất nhiều vào thời điểm bắt đầu điều trị, càng sớm càng tốt. Thực tế cho
thấy những “người khổng lồ” vẫn có thể “gục ngã” hầu hết là vì xem nhẹ rủi ro
thanh toán. Khi các khoản nợ đến hạn phải trả mà không kịp thanh toán, có thể bị
chủ nợ yêu cầu lập thủ tục phá sản dù doanh nghiệp đang kinh doanh có lời. Chính
vì thế khả năng thanh toán có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc ngăn ngừa và
hạn chế RRPS của DN.
Nghiên cứu của Beaver (1966) lập rằng, công ty với tài sản thanh khoản thấp
hơn thì dễ bị phá sản và ngược lại. Bên cạnh đó, theo nghiên cứu của
Bandyopadhyay (2006) hệ số khả năng thanh toán cao hơn thì càng có khả năng
công ty đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ đúng hạn và xác suất vỡ nợ thấp hơn.
- Giả thuyết H3: khả năng sinh lợi có quan hệ ngược chiều với rủi ro phá sản.
Khả năng sinh lợi là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro phá
sản công ty (Altman (1968), Gu (2002), Hoàng Tùng (2011)). Khả năng sinh lợi đo
lường hiệu quả hoạt động của công ty trong việc sử dụng có hiệu quả tài sản và
quản lý chi phí của nó để tạo ra thu nhập đầy đủ cho các cổ đông. Altman (1968)
cho rằng, khả năng sinh lợi cao hơn thì tốt hơn cho công ty, còn trong nghiên cứu
của Gu (2002) đã lập luận rằng công ty thua lỗ, thiệt hại liên tục là có nguy cơ dẫn
đến phá sản.
- Giả thuyết H4: Trong nhóm năng lực hoạt động biến doanh thu/ tổng tài sản bình
quân và biến EBIT/ doanh thu có quan hệ ngược chiều với rủi ro phá sản, biến chi
71
phí/ doanh thu có quan hệ thuận chiều với rủi ro phả sản.
Theo nghiên cứu của Elijelly et al. (2001), hiệu quả/hiệu suất cao hơn khi sử
dụng các nguồn lực có thể dẫn đến công ty có lợi nhuận và do đó giảm nguy cơ phá
sản. Vòng quay tổng tài sản sẽ cho biết hiệu quả trong việc sử dụng tài sản của công
ty. Nó cho biết được mỗi đồng tổng tài sản sẽ tạo được mấy đồng doanh thu. Biến
này cũng góp phần giải thích thêm yếu tố ngành cho mô hình nghiên cứu. Vì mỗi
ngành khác nhau sẽ có vòng quay tổng tài sản khác nhau. Kết hợp với tỷ số EBIT
trên doanh thu thuần giúp đánh giá thêm tính hiệu quả của hoạt động đối với sự tồn
tại của công ty hay nguy cơ phá sản công ty. Đối với biến chi phí trên doanh thu cho
biết cứ 1 đồng doanh thu thì cần bao nhiêu đồng chi phí, chỉ tiêu này càng thấp thì
hiệu quả kinh doanh càng cao, dẫn đến rủi ro phá sản càng thấp và ngược lại.
- Giả thuyết H5: Sự vững chắc của công ty có quan hệ ngược chiều với rủi ro phả
sản.
Đối với những công ty có quy mô lớn thì mặc nhiên các nguồn lực về tài
chính, tài sản, con người lớn và có nhiều trong kinh nghiệm quản lý. Chính bởi
những lợi thế như vậy, với năng lực tài chính càng mạnh, khả năng quản lý tài
chính, khả năng quản trị cao thì khả năng thích ứng với sự thay đổi của môi trường
càng tốt dẫn đến rủi ro phá sản của những công ty có quy mô lớn sẽ càng thấp. Vì
vậy, một giá trị cao của biến quy mô sẽ dẫn đến một xác suất phá sản thấp. Bên
cạnh đó, biến giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu chia tổng nợ cho thấy rằng mỗi
đồng nợ có thể huy động được bao nhiêu đồng từ thị trường để có thể thanh toán
cho đồng nợ đó. Do vậy khi giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu/nợ phải trả càng
cao thì càng làm giảm nguy cơ phá sản của doanh nghiệp.
3.2. Phương pháp nghiên cứu và xử lý dữ liệu
3.2.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa vào phương pháp nghiên cứu định lượng để xác
định mối quan hệ giữa rủi ro phá sản và 14 biến thuộc năm nhóm lớn đại diện cho
tình trạng thanh toán, khả năng sinh lợi, đòn bẩy tài chính, năng lực hoạt động và sự
vững chắc của công ty.
72
Phương pháp nghiên cứu định lượng: là nghiên cứu sử dụng các phương
pháp thống kê để lượng hóa, đo lường, phản ánh và diễn giải mối quan hệ giữa các
nhân tố (các biến) với nhau. Do chủ yếu sử dụng con số và tính khách quan cao nên
phương pháp định lượng có độ trung thực cao. Chính vì thế, dựa vào kết quả đó sẽ
giúp cho các nhà quản trị có thể đưa ra được những quyết định quản lý một cách
phù hợp, sát với thực tế nhất.
Để sử dụng phương pháp này, luận án tiến hành chạy mô hình hồi quy logit
với sự trợ giúp của phần mềm chuyên dụng SPSS.
Các bước thực hiện theo phương pháp định lượng trong luận án gồm các
bước như sau:
- Xác định các biến và thang đo các biến.
- Thiết lập mô hình nghiên cứu và mối quan hệ giữa các biến trong mô hình.
- Xác định mẫu nghiên cứu: bao gồm 45 công ty trong tổng số 55 công ty bất
động sản niêm yết trên TTCKVN.
- Thu thập dữ liệu nghiên cứu: dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu
thứ cấp được thu thập từ các BCTC của 45 công ty BĐS niêm yết trên TTCKVN.
- Xử lý dữ liệu thu thập: sau khi tính toán các chỉ tiêu trên Excel, tác giả tiến
hành mã hóa các biến, kiểm tra dữ liệu, sau đó, chuyển sang phần mềm chuyên
dụng SPSS để phân tích và chạy các kiểm định cần thiết. Các kết quả thu được từ
chạy mô hình sẽ là cơ sở để các doanh nghiệp đưa ra các giải pháp phù hợp.
3.2.2. Nguồn dữ liệu nghiên cứu
- Nguồn dữ liệu nghiên cứu:
Nguồn dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu là nguồn dữ liệu thứ cấp, được lấy
từ các mục khác nhau trên BCTC của các công ty BĐS niêm yết trên TTCKVN.
Để tiến hành thu thập dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu, tác giả tiến hành lựa
chọn mẫu nghiên cứu là các công ty được phân loại là công ty BĐS niêm yết trên
TTCKVN dựa vào tiêu chuẩn phân ngành trên các sở giao dịch chứng khoán. Cụ
thể: tại sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay đang áp dụng
tiêu chuẩn phân ngành GICS (Global Industry Classification Standard). Đây là tiêu
chuẩn phân ngành dựa trên doanh thu của doanh nghiệp với tỷ trọng doanh thu hoạt
73
động bất động sản chiếm trên 60% tổng doanh thu. Theo tiêu chuẩn này, hiện nay
có 39 công ty BĐS niêm yết trên HOSE. Đối với sở giao dịch chứng khoán Hà Nội,
hiện nay đang áp dụng tiêu thức phân ngành VSIC 2007, theo đó, hiện có 16 công
ty BĐS niêm yết trên HNX. Tổng số lượng các công ty BĐS niêm yết trên HOSE
và HNX là 55 công ty).
Việc thu thập dữ liệu từ các BCTC của các công ty BĐS trên TTCKVN tuy
có nhiều thuận lợi nhưng cũng có những nhược điểm đáng kể, có thể kể đến đó là:
- Số lượng công ty được niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán còn rất
nhỏ so với số lượng công ty đang tồn tại, do đó số lượng công ty có RRPS trong
mẫu được xem xét cũng không đầy đủ, không phản ánh hết được hết số lượng công
ty có RRPS đang ngày càng gia tăng trong tình hình hiện nay.
- Việt Nam hiện nay vẫn chưa có một kênh thông tin chính thức lưu trữ và
đăng tải chính xác những thông tin tài chính của các công ty. Số liệu tài chính hiện
nay chủ yếu được thu thập dựa trên các BCTC được công bố rộng rãi trên trang
website của các công ty chứng khoán, và một số thông tin trong đó được đưa ra
không chính xác. Ngoài ra, một số thông tin tài chính quá khứ của công ty hiện nay
không được công bố rộng rãi, gây khó khăn trong việc lấy dữ liệu nghiên cứu.
- Lựa chọn mẫu nghiên cứu:
Với phạm vi nghiên cứu dữ liệu là 8 năm (từ năm 2008 -2015), tác giả lựa
chọn được 45 công ty trong tổng số 55 công ty BĐS niêm yết (sau khi đi đã loại trừ
các công ty không đủ dữ liệu trong phạm vi thời gian nghiên cứu, các công ty
khuyết thiếu nhiều dữ liệu, các công ty vừa mới đi vào hoạt động). Bộ dữ liệu lấy từ
Ủy ban Chứng khoán Việt Nam có tính minh bạch cao, và được sắp xếp thành năm
nhóm để đánh giá khả năng thanh toán, khả năng sinh lợi, năng lực hoạt động, đòn
bẩy tài chính và sự vững chắc của công ty. Do đặc điểm hiện nay số lượng công ty
BĐS niêm yết trên HOSE và HNX còn khá khiêm tốn chỉ có 55 công ty. Tác giả đã
tiến hành nghiên cứu được quan sát của 45 công ty trên tổng số 55 công ty của tổng
thể chiếm 81,82 % là một tỷ lệ khá lớn.
Sau khi chọn mẫu, tác giả tiến hành tổng hợp các dữ liệu từ các mục khác
74
nhau của Bảng cân đối kế toán, Thuyết minh BCTC, Báo cáo kết quả kinh doanh,
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được công bố công khai bởi các công ty bất động sản
niêm yết trên HOSE và HNX, với dữ liệu 8 năm từ 2008- 2015.
Bảng 3. 3: Tổng hợp mẫu nghiên cứu STT Đối tượng nghiên cứu Chỉ tiêu Tổng
39 Số lượng công ty niêm yết trên sàn HOSE (1) 1
16 Số lượng công ty niêm yết trên sàn HNX (2) 2
55 Số lượng công ty cần nghiên cứu (3) = (1) + (2) 3
45 Số lượng công ty nghiên cứu được (4) 4
Tỷ lệ mẫu trên tổng thể (5) =[(4)/(3) x 100%] 81,82% 5
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
Với giả thiết về điều kiện phân loại công ty có rủi ro phá sản đã được trình
bày ở chương 2 có các trường hợp để xác định là: một là, công ty có vốn hoạt động
thuần âm và giá trị vốn hóa thị trường nhỏ hơn nợ phải trả. Hai là, công ty có ROA
âm và giá trị vốn hóa thị trường nhỏ hơn nợ phải trả. Bảng 3.4 sẽ trình bày số quan
sát tương ứng với từng trường hợp xác định rủi ro phá sản khác nhau của các công
ty.
Bảng 3. 4: Tỷ lệ các quan sát với các điều kiện nhận diện rủi ro phá sản
Quan sát
Dấu hiệu có rủi ro phá sản
Có rủi ro
Không có rủi
Tổng
phá sản
ro phá sản
Vốn hoạt động thuần âm và giá trị vốn hóa thị trường nhỏ
52
308
360
hơn nợ phải trả
65
295
360
ROA âm và giá trị vốn hóa thị trường nhỏ hơn nợ phải trả
Đông thời cả vốn hoạt động thuần âm, ROA âm và giá trị
14
346
360
vốn hóa thị trường nhỏ hơn nợ phải trả
75
Vốn hoạt động thuần âm và giá trị vốn hóa thị trường nhỏ
hơn nợ phải trả hoặc ROA âm và giá trị vốn hóa thị trường
103
257
360
nhỏ hơn nợ phải trả
(Nguồn: Tính toán của tác giả)
Do số lượng các quan sát có nguy cơ phá sản tương đối thấp vì vậy để đảm
bảo có được kết quả ước lượng tốt nhất khi chạy mô hình hồi quy tác giả sẽ lựa
chọn điều kiện để xác định công ty có rủi ro phá sản là khi vốn hoạt động thuần âm
và giá trị vốn hóa thị trường nhỏ hơn nợ phải trả hoặc ROA âm và giá trị thị trường
nhỏ hơn nợ phải trả với số lượng quan sát đối với các công ty có rủi ro phá sản là
103 quan sát, không có rủi ro phá sản là 257 quan sát.
3.2.3. Quy trình xử lý dữ liệu
Quy trình xử lý dữ liệu được tiến hành bao gồm ba bước sau:
Bước 1: tiến hành thu thập và tổng hợp các dữ liệu từ các khoản mục khác
nhau trên Bảng cân đối kế toán, Thuyết minh BCTC, Báo cáo kết quả kinh doanh và
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ của các công ty bất động sản niêm yết trên HOSE và
HNX, được công bố công khai bởi các công ty BĐS niêm yết trong giai đoạn từ
năm 2008 đến năm 2015.
Bước 2: Dựa trên các số liệu tổng hợp được, tác giả tiến hành tính toán các
chỉ tiêu tài chính đã được lựa chọn bao gồm 14 biến tài chính được chia thành năm
nhóm bao gồm: khả năng sinh lợi, năng lực hoạt động, đòn bẩy tài chính, khả năng
thanh toán và sự vững chắc của công ty.
Bước 3: Từ dữ liệu đã tính toán được, tiến hành kiểm tra và làm sạch dữ liệu
sau đó sẽ chuyển các dữ liệu vào phần mềm chuyên dụng SPSS để phân tích và
chạy các kiểm định cần thiết từ đó chỉ ra được các biến có tác động đến RRPS. Ở
đây, tác giả sử dụng kỹ thuật winsorise để xử lý các giá trị dị biệt (outliers). Với các
biến: dòng tiền trên tổng nợ phải trả bình quân, vốn chủ sở hữu trên nợ dài hạn, lợi
nhuận sau thuế trên tài sản cố định bình quân tác giả winsorise 5% của mẫu quan
sát. Với biến: tài sản ngắn hạn trên nợ ngắn hạn, EBIT trên doanh thu và chi phí
76
trên doanh thu tác giả winsorise 1% của mẫu quan sát. Do mức độ outliers ở các
biến quan sát là khác nhau nên việc áp dụng tỷ lệ % khác nhau cho kỹ thuật
77
winsorise là cần thiết để loại bỏ ảnh hưởng của các outliers một cách hiệu quả.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Dựa vào lý luận và các nghiên cứu trước đã trình bày trong Chương 2. Trong
Chương 3 chủ yếu trình bày mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu chính
sử dụng trong luận án, cách xây dựng mô hình hồi quy. Qua đó xác định các biến
độc lập, biến phụ thuộc có trong mô hình. Giải thích lý do chọn biến, nêu lên các
giả thuyết nghiên cứu. Trình bày cách xác định phương pháp nghiên cứu, nguồn dữ
liệu nghiên cứu, phần mềm sẽ sử dụng trong quá trình nghiên cứu và các bước xử lý
78
dữ liệu của luận án.
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ PHÂN TÍCH RỦI RO PHÁ SẢN
TRONG CÁC CÔNG TY BẤT ĐỘNG SẢN NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
4.1. Tổng quan về các công ty bất động sản Việt Nam
4.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Lịch sử hình thành và phát triển của các công ty BĐS gắn liền với lịch sử
hình thành và phát triển của thị trường BĐS Việt Nam. Trong giai đoạn của nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, thị trường BĐS chưa có điều kiện phát
triển. Từ năm 1986, khi chuyển sang thực hiện nền kinh tế thị trường, thị trường
BĐS ở nước ta từng bước hình thành và phát triển với tốc độ nhanh kéo theo sự ra
đời của hàng loạt các công ty BĐS, đã đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế
đất nước. Có thể kể đến một số công ty lớn hoạt động trong lĩnh vực BĐS được
hình thành đầu tiên ở Việt Nam như: CTCP tập đoàn Hà Đô (tiền thân là công ty
xây dựng Hà Đô), tập đoàn Nova (tiền thân là CTCP khu công nghiệp Tân Tạo
(ITACO), CTCP phát triển nhà Bà Rịa Vũng Tàu (tiền thân là doanh nghiệp nhà
nước – công ty phát triển nhà),… Tính đến nay số công ty BĐS đã không ngừng
tăng lên về quy mô vốn, quy mô lao động và số tăng của năm sau cao hơn năm
trước.
Bảng 4. 1: Số doanh nghiệp BĐS phân theo quy mô lao động giai đoạn 2013-
2015
Chia theo quy mô lao động
Năm
10
50
Tổng số doanh nghiệp
Dưới 5 người
Từ 5 đến 9
Từ đến 49
Từ đến 199
Từ 200 đến 299
Từ 300 đến 499
Từ 500 đến 999
5.400
2010
2.380
1.675
1.078
219
22
12
12
6.855
2011
3.373
1.667
1.426
323
34
20
10
6.980
2012
3.689
1.495
1.418
316
32
21
8
7.271
2013
3.974
1.444
1.451
338
26
28
8
79
7.833
2014
4.354
1.496
1.544
366
33
22
15
2015 8. 979
5.072
1.677
1.700
449
33
26
18 (Nguồn: Niên giám của Tổng cục thống kê 2016)
Bảng 4. 2: Số doanh nghiệp BĐS phân theo quy mô vốn giai đoạn 2010-2015
Chia theo quy mô nguồn vốn
Tổng
Từ 1
Từ 5
Từ 10
Từ 50
Từ 200
Từ
số
Từ 0,5
Năm
tỷ đến
tỷ đến
tỷ đến
tỷ đến
tỷ đến
500 tỷ
dưới
doanh
tỷ đến
0,5 tỷ
dưới
dưới
dưới
dưới
dưới
đồng
nghiệp
dưới 1 tỷ
đồng
5 tỷ
10 tỷ
50 tỷ
200 tỷ
500 tỷ
trở
đồng
lên
đồng
đồng
đồng
đồng
đồng
5.400
292
2010
145
68
430
487
2.025
1.482
471
6.855
427
2011
849
535
1.239
1.152
1.308
927
418
6.980
397
2012
178
140
473
454
2.236
2.505
597
7.271
571
2013
190
124
388
316
2.516
2.338
828
7.833
622
2014
153
113
487
431
2.772
2.382
873
8.979
589
2015
151
145
423
415
3.238
2.624
1.394
(Nguồn: Niên gám thống kê 2016)
Bảng 4.1 và 4.2 cho thấy số các doanh nghiệp phân chia theo quy mô nguồn
vốn và quy mô lao động của các doanh nghiệp BĐS giai đoạn 2010 -2014.
Với sự biến động của nền kinh tế, từ những năm 1990 đến nay, thị trường
BĐS đã trải qua nhiều lần đóng băng và những cơn sốt đan xen nhau. Theo con
sóng của thị trường BĐS các công ty bất động sản cũng rơi vào những bước thăng
trầm trong hoạt động kinh doanh. Các công ty BĐS liên tục rơi vào khủng hoảng và
thua lỗ trầm trọng thậm chí rơi vào phá sản.
Sau thời kì hoàng kim, kể từ năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
ập tới khiến cho thị trường BĐS Việt Nam rơi vào tình trạng khốn đốn, nhiều DN
phải đứng trên bờ vực phá sản. Tuy nhiên, trong đó cũng có một số doanh nghiệp ăn
nên làm ra và vượt cạn một cách an toàn như: Vingroup, Sao Mai Group, Hoà
80
Phát,... Đặc biệt trong năm 2011, trước nguy cơ lạm phát tăng cao cùng sự leo dốc
mạnh mẽ của giá vàng và USD đã buộc Chính phủ ban hành chính sách về tiền tệ
nhằm ổn định thị trường và kiềm chế lạm phát. Chính sách này của chính phủ đã tác
động mạnh mẽ đến thị trường và làm cho thị trường BĐS trở nên ảm đạm, sua tan
kỳ vọng thị trường phục hồi của các nhà kinh doanh BĐS, thậm chí con số các
doanh nghiệp phá sản đã tăng chóng mặt. Những công ty yếu về năng lực tài chính
buộc phải rao bán dự án với giá lỗ.
Bảng 4. 3: Số doanh nghiệp BĐS có lãi hoặc lỗ giai đoạn 2010 -2014
So với tổng số DN
Doanh nghiệp có lãi Doanh nghiệp lỗ
Tổng
(%)
số
Số
Tổng
Số
Tổng
Số
doanh
Năm
doanh
lãi
doanh
DN
mức
mức lỗ
Số DN lỗ
nghiệp
lãi
nghiệp
(tỷ đồng)
nghiệp
(tỷ đồng)
5.400
6.855
2010 2.403 21.837 1.379 -6.661 44,5 25,5
6.980
2011 2.440 21.731 4.129 -8.759 35,6 60,2
7.271
2012 1.569 20.580 2.182 -7.581 22,5 31,3
7.833
2013 2.422 35.523 4.358 -12.661 33,3 59,9
2014 2.706 38.284 4.517 -14.753 34,6 57,7
(Nguồn: Niên giám thống kê 2016)
Theo số liệu tại cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp cho thấy
trong năm 2012 có 680 doanh nghiệp với ngành nghề kinh doanh chính là bất động
sản đăng ký giải thể, ngừng hoạt động, tăng 19,9% so với năm 2011. Năm 2013 có
thêm 10.635 doanh nghiệp thành lập mới, đồng thời 10.077 doanh nghiệp phá sản.
Tuy nhiên sau một thời gian khá dài rơi vào khủng hoảng, đóng băng, tính
đến thời điểm hiện nay số lượng các doanh nghiệp thành lập mới tăng lên được xem
là tín hiệu tốt không chỉ cho lĩnh vực xây dựng, bất động sản mà còn cho cả nền
81
kinh tế.
Số liệu mới nhất của Cục đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho
thấy, tính đến tháng 10/2016, có hơn 2.160 doanh nghiệp BĐS thành lập mới, tăng
99,1% so với cùng kỳ năm 2015, đồng thời số vốn đăng ký cũng tăng 242,5% so
với cùng kỳ. Như vậy, mỗi ngày bình quân có 8 doanh nghiệp BĐS được thành lập
mới.
Hình 4.1:Tình hình doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong 10 tháng
đầu năm 2016 xét theo lĩnh vực hoạt động.
(Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư )
Ngoài ra, từ khi thị trường chứng khoán được hình thành đến nay đã tạo ra
kênh huy động vốn lớn cho các DN nói chung và DN kinh doanh BĐS nói riêng.
Tính đến thời điểm hiện nay, trên sàn HOSE và HNX có 55 công ty BĐS niêm yết.
Đây là con số còn khá khiêm tốn trong tổng số gần 8.000 doanh nghiệp có hoạt
động kinh doanh bất động sản. Một số ông lớn có thể kể đến đó là: Vingroup, FLC,
Novaland, Sungruop,…
Tính đến đầu năm 2016, các công ty BĐS niêm yết trên HOSE và HNX chủ
yếu là các công ty có thời gian hoạt động 5 đến 10 năm gồm 48 công ty trong tổng
số 55 công ty BĐS niêm yết, chiếm 87,3 %. Các công ty có thời gian hoạt động trên
82
10 năm khá khiêm tốn chỉ có 4/55 công ty, chiếm 7,3%. Còn lại là các công ty có
thời gian hoạt động dưới 5 năm là 3 công ty. Điều đó cho thấy các công ty bất động
sản niêm yết còn rất non trẻ, vì thế rất dễ gặp phải khó khăn trong thời kỳ kinh tế
vốn nhiều biến động như hiện nay.
Cùng với sự nỗ lực không ngừng của các công ty bất động sản, sự vào cuộc
tích cực tháo gỡ kịp thời những vấn đề khủng hoảng kinh tế của Chính phủ và các
cơ quan quản lý Nhà nước, của Hiệp hội bất động sản Việt Nam nên thị trường bất
động sản đã có chút khởi sắc và tạm vượt qua giai đoạn khó khăn. Thế nhưng, để
hồi phục phát triển nhanh và bền vững vẫn còn đang bỏ ngỏ cho nhiều động thái
nhanh nhạy của nhà nước. Nhìn tổng thể cho thấy, thời kỳ hậu khủng hoảng doanh
nghiệp BĐS vẫn còn nhiều khó khăn trong việc đưa sản phẩm đến tay người tiêu
dùng và dường như sân chơi lớn đang dồn sức cho một số nhà đầu tư mang tính
chuyên nghiệp như: Vingroup, Hoà Phát, Sao Mai Group,…
4.1.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý và phân cấp tài chính
Hiện nay trên hai sàn HOSE và HNX có 55 công ty BĐS niêm yết và đều là
các công ty cổ phần (CTCP). Do đó có một số đặc điểm về tổ chức quản lý bộ máy
và phân cấp tài chính theo mô hình CTCP như sau:
- Về tổ chức quản lý, cơ cấu tổ chức quản lý CTCP gồm có: Đại hội đồng cổ
đông (ĐHĐCĐ), Hội đồng quản trị (HĐQT) và giám đốc (tổng giám đốc). Riêng với
CTCP có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số
cổ phần của công ty thì yêu cầu phải có Ban kiểm soát (BKS).
+ Đại hội đồng cổ đông: là tổ chức có thẩm quyền quyết định cao nhất của
công ty. ĐHĐCĐ có quyền xem xét và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của
CTCP như: loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán, bầu, bãi nhiệm,
miễn nhiệm thành viên HĐQT, thành viên BKS (nếu có), quyết định tổ chức lại, giải
thể công ty, quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty.
+ Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý công ty, có không ít hơn 3 thành viên
và không quá 11 thành viên nếu điều lệ công ty không có quy định khác. HĐQT có
toàn quyền nhân danh công ty để quyết định thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
83
công ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ.
+ Giám đốc (Tổng giám đốc): là người điều hành công việc kinh doanh hàng
ngày của công ty, chịu sự giám sát của HĐQT và chịu trách nhiệm trước HĐQT và
trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
+ Ban kiểm soát: BKS gồm từ 3 đến 5 thành viên nếu điều lệ công ty không có
quy định khác. BKS thực hiện giám sát HĐQT, giám đốc hoặc tổng giám đốc trong
việc quản lý và điều hành công ty; chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ trong thực hiện
các nhiệm vụ được giao.
- Về phân cấp quản lý tài chính: BGĐ được các cổ đông bầu ra và sẽ thay
mặt các cổ đông quản lý công ty cổ phần. Việc quản lý được tập trung hóa cao vào
ban giám đốc mà không dàn trải đều việc quản lý cho các thành viên khác. Ban
giám đốc quản lý công ty, có thể là người đại diện theo pháp luật của công ty cổ
phần, là người điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty và có thể
không phải là cổ đông của công ty. Bên cạnh đó, khả năng huy động vốn của CTCP
rất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Dưới đây luận án đưa ra sơ đồ về tổ chức bộ máy quản lý và phân cấp tài
chính của công ty BĐS điện lực dầu khí Việt Nam làm ví dụ điển hình cho mô hình
tổ chức quản lý và phân cấp tài chính ở các CTCP (sơ đồ 4.1).
Chức năng nhiệm vụ của các bộ phận:
- Đại hội đồng cổ đông: là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của công ty, bao
gồm các quyền sau: quyết định số lượng thành viên của HĐQT, có quyền bầu hoặc
bãi nhiệm, miễn nhiệm thành viên HĐQT và BKS và các quyền khác được quy định
ở điều lệ.
- Hội đồng quản trị: số thành viên HĐQT của công ty gồm 05 thành viên.
HĐQT có các quyền sau: quyết định cơ cấu tổ chức bộ máy, chiến lược đầu tư, phát
triển của công ty, các quyền khác được quy định tại điều lệ.
- Ban kiểm soát: do ĐHĐCĐ bầu ra gồm 03 thành viên nhằm thực hiện
giám sát HĐQT, giám đốc công ty trong việc quản lý và điều hành công ty. BKS
84
có các quyền sau: kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, quyết định của HĐQT,
kiểm tra sổ sách kế toán, BCTC, kiểm tra tính hợp lý hợp pháp của các hoạt động
công ty và các quyền khác được quy định tại điều lệ.
- Ban tổng giám đốc: điều hành và quản lý các hoạt động của công ty và
chịu trách nhiệm trước HĐQT và ĐHĐCĐ về các nhiệm vụ được giao.
- Các phòng ban chức năng của công ty: nhiệm vụ của các bộ phận này là
trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh doanh của công ty.
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
BAN KIỂM SOÁT
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÒNG TÀI CHÍNH
PHÒNG ĐẦU TƯ & QUẢN LÝ XÂY
PHÒNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH
KẾ TOÁN
PHÒNG TẾ
KẾ
KINH
CÁC BAN QUẢN LÝ
CÁC CTY CỔ PHẦN
TRUNG TÂM KINH
CÁC CHI NHÁNH
DỰ ÁN
XN DỊCH VỤ
DOANH
VĂN PHÒNG ĐẠI
CÁC PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
Sơ đồ 4. 1: Tổ chức bộ máy quản lý và phân cấp tài chính của công ty cổ
phần BĐS điện lực dầu khí Việt Nam
(Nguồn: Công ty cổ phần BĐS điện lực dầu khí Việt Nam)
4.1.3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của các công ty bất động sản
85
Các công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản có các đặc
điểm cơ bản sau đây:
- Thời gian kinh doanh kéo dài:
Hoạt động kinh BĐS ngoài các đặc điểm như vốn đầu tư lớn, lượng hàng tồn
kho nhiều thì thời gian hoạt động kinh doanh thường kéo dài. Thực tế cho thấy để
đưa sản phẩm BĐS đến ngưởi tiêu dùng cũng không phải dễ dàng bởi còn phụ
thuộc vào nhu cầu thực tế của khách hàng, chính sách của nhà nước, chính sách của
công ty. Vì vậy, các công ty BĐS cần phải chú ý đến chất lượng của các công trình
từ khâu lựa chọn nguyên vật liệu, cân đối khoản mục thi công công trình và phải có
những dự đoán các biến động có thể xảy ra. Đồng thời, cần phải có những chính
sách marketing, chính sách chào bán phù hợp để tránh kéo dài thời gian tồn đọng
của BĐS.
- Vốn đầu tư lớn:
Do bất động sản là tài sản có giá trị lớn cho nên khi hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực này đòi hỏi các công ty BĐS phải có một lượng vốn tương đối lớn.
Đặc biệt là những công ty thực hiện thi công các dự án BĐS thì lượng vốn sẽ là rất
lớn, do chi phí về giá đất, giải phóng mặt bằng, chi phí đền bù, chi phí thi công cao.
Đồng thời, thời gian hoàn thành thường kéo dài và khi hoàn thành xong không phải
là có thể bán được ngay. Những công ty BĐS nếu có lợi thế về vốn thì khả năng
cạnh tranh cao, nhất là trong bối cảnh lãi suất ngân hàng và tín dụng thắt chặt đối
với cho vay BĐS. Vì vậy các công ty BĐS cần phải có chính sách sử dụng vốn hợp
lý để thu được lợi nhuận cao.
- Hàng tồn kho lớn:
Dù có phát triển hưng thịnh ra sao, thì bất động sản cũng luôn có một lượng
hàng tồn kho nhất định. Điều này là tất yếu bởi lẽ bản thân các công ty thường xác
định chưa đúng nhóm khách hàng, cung cầu chưa thực sự gặp nhau, các thủ tục
86
mang tính “hành là chính”, trong khi mua BĐS muốn được cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu đất đai mất rất nhiều công sức, thời gian, có khi kéo dài đến cả chục
năm trời. Bên cạnh đó sức mua kém do nền kinh tế chậm phát triển, hỗ trợ nguồn
vay từ ngân hàng cho cả nhà thầu và người mua còn hạn chế và các chính sách
thanh toán của chủ đầu tư chưa phù hợp. Do sức mua của thị trường sẽ tác động rất
lớn đối với giá trị của bất động sản nên dự án có “hót” đến đâu, vị trí có đắc địa đến
mấy mà giá trị quá cao so với mặt bằng thu nhập chung, cũng sẽ đi vào vòng luẩn
quẩn “hàng tồn” tiếp tục vào “kho”.
Người ta vẫn thường nói, đầu tư vào thị trường BĐS mang tính may rủi, đỏ
đen cao. Bởi lẽ, thị trường này nhiều biến cố khó định đoán trước được. Có lẽ vì thế
mà bất động sản Việt Nam, dù dự án nào cũng không tránh được một lượng hàng
tồn nhất định.
- Hoạt động kinh doanh BĐS chịu sự ảnh hưởng của các chính sách của nhà
nước, kinh tế vĩ mô và kinh tế ngành:
Kinh doanh BĐS là hoạt động nhạy cảm, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của pháp
luật và chính sách cũng như của kinh tế vĩ mô và kinh tế ngành.
+ Chính sách của nhà nước:
Các chính sách có tác động trực tiếp đến kinh doanh bất động sản như: Luật
thuế, Luật đầu tư,... đều có tác động mạnh mẽ đến việc hoạt động kinh doanh BĐS.
Nó có thể trở thành “cú hích” đưa thị trường đi lên nhưng ngược lại nó cũng có
khi đánh gục các doanh nghiệp và nhà đầu tư cá nhân nếu chẳng may vướng mắc
chỉ vài chi tiết nhỏ.
+ Kinh tế vĩ mô và kinh tế ngành:
Thực tế cho thấy từ cuộc khủng hoảng kinh tế trong nước và thế giới vừa qua
đã kéo theo sự đóng băng của ngành BĐS, theo đó hàng loạt các công ty BĐS phải
tuyên bố giải thể và phá sản. Chính vì vậy, các công ty BĐS phải chọn thời điểm
đầu tư hợp lý dựa trên tình hình của nền kinh tế vĩ mô và kinh tế ngành mới có thể
87
tồn tại và phát triển. Thông thường, các chủ đầu tư bao giờ cũng tính toán thời điểm
hoàn thành dự án đúng điểm rơi nền kinh tế đang phục hồi trở lại. Nếu như tính sai
thời điểm thì hậu quả là rất khó lường. Tuy vậy, cho đến nay chu kỳ tăng trưởng và
suy thoái của ngành BĐS tại Việt Nam vẫn còn là bài toán hóc búa đối với giới đầu
tư.
- Cung về BĐS phản ứng chậm hơn so với biến động về cầu và giá cả:
Đối với hàng hoá thông thường, quan hệ cung cầu và giá cả thường diễn ra
theo quy luật đó là khi cầu tăng đẩy giá lên cao sẽ kích thích cung cân bằng với cầu
và kéo theo giá quay trở về mức cân bằng. Nhưng đối với BĐS thì cầu tăng, cung
khó phản ứng nhanh như với các loại hàng hoá khác. Đó là do đặc điểm của BĐS
cần có thời gian để hoàn thành như: xin phép xây dựng, thiết kế, giải phóng mặt
bằng, thi công,…
- Mang tính khu vực:
Mỗi một vị trí của BĐS khác nhau, sẽ mang lại thu nhập cho chủ sở hữu và
nhà kinh doanh những lợi ích khác nhau. Những hoạt động kinh doanh ở những địa
bàn, khu vực khác nhau cũng khác nhau, không thể áp đặt mô hình kinh doanh của
nơi này cho nơi khác.
- Hoạt động kinh doanh BĐS vừa là hoạt động kinh doanh đa ngành, vừa là
hoạt động kinh doanh đặc thù:
Tính đặc thù của hoạt động này là do có sự khác nhau về vị trí lô đất, khác
nhau về kết cấu và kiến trúc, khác nhau về hướng, khác nhau về cảnh quan và các
vật ngoại cảnh, khác nhau về cả hình thức kinh doanh BĐS (tạo lập, mua, nhận
chuyển nhượng, thuê, cho mua lại…). Do vậy, trong quá trình khai thác cần chú ý
đến đặc điểm tính riêng của mỗi dự án để làm tăng khả năng sinh lợi cho doanh
nghiệp.
Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh BĐS cần phải phù hợp với kế hoạch và
quy hoạch phát triển của Nhà nước và địa phương về hạ tầng cơ sở, sự đồng bộ
88
trong kiến trúc và đảm bảo về chất lượng công trình. Ngoài ra, hoạt động kinh
doanh BĐS còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết và khí hậu, yếu tố xã hội, tâm
lý, tập quán của người dân.
4.2. Thực trạng kết quả nghiên cứu về phân tích rủi ro phá sản trong các
công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
4.2.1. Thống kê đặc điểm mẫu nghiên cứu
Trong mẫu nghiên cứu gồm 45 công ty bất động sản niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam với dữ liệu thu thập trong giai đoạn từ năm 2008 – 2015, tác
giả tiến hành phân tách thành 2 nhóm. Nhóm 1 là nhóm công ty có rủi ro phá sản và
nhóm 0 là nhóm công ty không có rủi ro phá sản. Theo đó, căn cứ vào tình hình
hoạt động kinh doanh từng năm của công ty, và dựa vào tiêu chuẩn phân loại thì có
những công ty trong năm này bị xếp vào nhóm có rủi ro phá sản, năm khác lại
không có rủi ro phá sản. Tổng số quan sát trong nhóm 1 là 257 quan sát, nhóm 0
gồm 103 quan sát. Số lượng các công ty có rủi ro phá sản trong từng năm được thể
hiện trên bảng 4.4. Kết quả trên bảng 4.4 cho thấy số lượng các công ty bất động
sản được xếp vào nhóm có rủi ro phá sản có sự khác nhau giữa các năm. Trong đó
giai đoạn từ năm 2011 đến 2013 là thời điểm mà số lượng các công ty có nguy cơ
phá sản cao nhất. Kết quả thu được cũng phản ánh đúng với tình hình khó khăn của
thị trường bất động sản trong giai đoạn này khi năm 2011 Chính phủ ban hành
chính sách tiền tệ, hạn chế dòng tiền chảy vào lĩnh vực bất động sản. Do đó đã tác
động mạnh mẽ đến thị trường và làm cho thị trường BĐS trở nên ảm đạm. Đặc biệt
là trong năm 2012 cũng là năm cạnh tranh khốc liệt, thậm chí là cuộc chiến sống
còn của doanh nghiệp BĐS, khiến cho con số các doanh nghiệp phá sản tăng một
cách chóng mặt.
Bảng 4. 4: Thống kê mô tả đặc điểm mẫu nghiên cứu
Năm
Rủi ro phá sản 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng quan sát
31 38 43 24 25 37 32 257 27
89
14 7 2 21 20 8 13 103 18 Nếu không có rủi ro phá sản Nếu có rủi ro phá sản
Tổng 45 45 45 45 45 45 45 45
360 (Nguồn: Tính toán của tác giả)
4.2.2. Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu
Để có đánh giá sơ bộ về các biến độc lập đưa vào mô hình nghiên cứu, tác
giả tiến hành chạy thống kê mô tả về các biến đưa vào mô hình. Kết quả trên bảng
4.5 (thống kê mô tả toàn bộ mẫu nghiên cứu), bảng 4.6 (thống kê mô tả các biến của
các công ty không có rủi ro phá sản) và bảng 4.7 (thống kê mô tả các biến của công
ty có rủi ro phá sản) sẽ trình bày tóm tắt các thống kê về giá trị trung bình, độ lệch
chuẩn, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất của các biến độc lập trong mô hình nghiên
cứu.
Thêm vào đó bên cạnh thống kê mô tả ở trên, tác giả tiến hành phân tích sự
khác biệt về giá trị trung bình giữa các biến thông qua kiểm định Independent
Samples T- test (phụ lục số 7) và cho thấy các biến đưa vào mô hình có sự khác biệt
có ý nghĩa về giá trị trung bình giữa 2 nhóm rủi ro phá sản và không có rủi ro phá
sản.
Dựa vào kết quả thể hiện trên bảng 4.5, 4.6, 4.7 cho thấy nhìn chung các
công ty đang sử dụng hệ số nợ cao (bình quân là 56,62%). Trong đó các công ty có
rủi ro phá sản hệ số nợ bình quân là 74,65%, của các công ty không có rủi ro phá
sản là 49,39%. Đồng thời khả năng sinh lợi không cao, năng lực hoạt động thấp,
dòng tiền thu được chưa cao. Điều này phản ánh đúng với thực tế của các công ty
bất động sản hiện nay. Cụ thể: trong nhóm khả năng thanh toán biến dòng tiền/ tổng
nợ phải trả bình quân có giá trị nhỏ nhất là – 0,2650, giá trị lớn nhất là 0,5215, giá
trị trung bình là 0,0859, độ lệch chuẩn là 0,2019, điều đó chứng tỏ có sự khác biệt
về chỉ tiêu dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân giữa các công ty với nhau. Giá trị
trung bình của biến dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân ở các công ty có rủi ro phá
sản là âm (-0,0458) cho thấy có một số các công ty thuộc nhóm có rủi ro phá sản
đang gặp vấn đề trong việc tạo ra tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra tình
90
trạng mất cân đối về dòng tiền và do vậy sẽ tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến rủi ro tài chính
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi đó các doanh nghiệp sẽ không
đủ tiền để có thể thanh toán tiền mua vật tư, hàng hóa, trả công cho người lao
động... Nếu tình trạng này kéo dài, nhiều khả năng doanh nghiệp sẽ ngừng hoạt
động, có thể dẫn đến giải thể hoặc phá sản. Với biến tài sản ngắn hạn/ nợ ngắn hạn
có giá trị trung bình 2,6329 trong đó giá trị thấp nhất là 0,4058, giá trị lớn nhất là
28,798, độ lệch chuẩn là 3,162, chứng tỏ có sự khác biệt về khả năng thanh toán
ngắn hạn giữa các công ty bất động sản với nhau. Chỉ tiêu vốn hoạt động thuần/
tổng tài sản có giá trị trung bình của toàn bộ mẫu là 0,2954, độ lệch chuẩn là 0,2054
cho thấy không có nhiều khác biệt về chỉ tiêu này giữa các công ty bất động sản.
Trong nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lợi, ROA bình quân của các công ty bất động
sản khá thấp chỉ là 4,4%, ROE là 11,2%, và lợi nhuận sau thuế/ tài sản cố định là
120,5%. Với riêng các công ty có rủi ro phá sản thì giá trị trung bình ROA là -
0,08%, ROE cũng không khả quan khi tỷ suất bình quân chỉ là 1,28%. Khả năng
sinh lợi có quan hệ chặt chẽ với hiệu quả kinh doanh. Vì thế khả năng sinh lợi của
nhóm công ty có rủi ro phá sản rõ ràng là khá thấp. Điều này cho thấy hiệu quả kinh
doanh của các công ty có rủi ro phá sản là không cao, tình hình kinh doanh đang
thực sự gặp khó khăn. Trong nhóm chỉ tiêu đòn bẩy tài chính: chỉ tiêu nợ ngắn hạn/
tổng tài sản có giá trị trung bình toàn bộ mẫu là 0,3795, độ lệch chuẩn là 0,2011 cho
thấy giữa các công ty không có quá nhiều sự khác biệt. Giá trị trung bình của nhóm
công ty không có rủi ro phá sản là 0,3152 thấp hơn so với giá trị trung bình của
nhóm công ty có rủi ro phá sản. Biến vốn chủ sở hữu/ nợ dài hạn có giá trị trung
bình là 13,990, độ lệch chuẩn 33,675, cho thấy có sự khác biệt khá lớn giữa các
công ty bất động sản trong biến số này. Sự khác biệt lớn này chủ yếu do có những
công ty có tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn thấp, trong khi đó một số công ty
tỷ lệ cao vượt trội (lý do là ở các công ty này có mức vốn chủ sở hữu cao hơn rất
nhiều so với nợ dài hạn). Ví dụ công ty KHA năm 2009 có vốn chủ sở hữu là 281 tỷ
đồng trong khi nợ dài hạn chỉ duy trì ở mức 3,4 tỷ đồng, hoặc như công ty SZL năm
91
2009 vốn chủ sở hữu là 469 tỷ đồng, nợ dài hạn chỉ là 6,7 tỷ đồng,.v.v. Chỉ tiêu tổng
nợ phải trả/ tổng tài sản có giá trị bình quân toàn bộ mẫu là 56,62%, độ lệch chuẩn
là 0,2095 thấp hơn so với giá trị trung bình cho thấy việc sử dụng đòn bẩy tài chính
giữa các công ty bất động sản không có nhiều khác biệt. Hệ số nợ bình quân của các
công ty không có rủi ro phá sản là 49,39% thấp hơn so với các công ty có rủi ro phá
sản (74,65%). Như vậy có thể thấy các công ty có rủi ro phá sản đang sử dụng đòn
bẩy cao hơn, tức là đang sử dụng nợ phải trả nhiều hơn trong việc tài trợ tài sản của
công ty, mức độc lập về tài chính sẽ thấp hơn, an ninh tài chính sẽ bị gặp nguy hiểm
nhiều hơn so với các công ty không có rủi ro phá sản.
Đối với nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động đại diện bởi chi phí/ doanh thu
và doanh thu/ tổng tài sản bình quân. Giá trị trung bình toàn bộ mẫu của biến doanh
thu/ tổng tài sản bình quân là 0,2902 cho thấy vòng quay tài sản của các công ty bất
động sản không cao. Điều này cũng phù hợp với thực tế khi mà thị trường bất động
sản trong giai đoạn ảm đạm, trầm lắng, lượng tồn kho cao ngất ngưỡng, các giao
dịch kém sôi động. Đồng thời, độ lệch chuẩn là 0,2279, tức là giữa các công ty
không có sự khác biệt nhiều về vòng quay tài sản, điều này cũng phản ánh thực
trạng chung của toàn thị trường khi mà gần như đa phần các công ty bất động sản
đều không tiêu thụ được sản phẩm dẫn đến có lượng tồn kho ngày một tăng cao, khi
tồn kho tăng đồng nghĩa với việc không bán được hàng và không có doanh thu. Chỉ
tiêu chi phí/ doanh thu có giá trị trung bình của toàn bộ mẫu là 0,87419 khá lớn, giá
trị trung bình của các công ty có rủi ro phá sản là 1,282 cao hơn so với giá trị trung
bình của các công ty không có rủi ro phá sản. Việc cao hơn như vậy có thể là do các
công ty có rủi ro phá sản có chi phí lãi vay chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi phí,
trong khi đó hàng tồn kho nhiều, giao dịch ít, doanh thu thấp. Trong nhóm sự vững
chắc của công ty, biến giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu/ giá trị sổ sách của nợ
của các công ty không rủi ro phá sản cao hơn so với các công ty không có rủi ro phá
sản.
Bên cạnh đó, để có thể thấy rõ hơn sự khác nhau về giá trị trung bình của các
nhóm biến, tác giả so sánh giá trị trung bình theo nhóm biến giữa các công ty có rủi
92
ro phá sản và không có rủi ro phá sản (được thể hiện trên đồ thị 4.2 – 4.7). Trong
nhóm đòn bẩy tài chính của các công ty có rủi ro phá sản, giá trị trung bình của các
biến: nợ ngắn hạn/ tổng tài sản và nợ phải trả trên/ tổng tài sản cao hơn giá trị trung
bình của các công ty không có rủi ro phá sản, giá trị trung bình của biến vốn chủ sở
hữu/ nợ dài hạn của các công ty có rủi ro phá sản thấp hơn so với giá trị trung bình
của các công ty không có rủi ro phá sản (có thể nhìn rõ ở đồ thị hình 4.2). Hình 4.3
cho thấy giá trị trung bình của các biến thuộc nhóm khả năng thanh toán của các
công ty có rủi ro phá sản thấp hơn các công ty không có rủi ro phá sản; Giá trị trung
bình của các biến thuộc nhóm khả năng sinh lợi của các công ty có RRPS thấp hơn
giá trị trung bình của các biến của các công ty không có RRPS, (thể hiện trên đồ thị
hình 4.4); Giá trị trung bình của các biến về năng lực hoạt động của các công ty có
RRPS có chỉ tiêu chi phí/ doanh thu cao hơn các công ty không có RRPS và chỉ tiêu
doanh thu/ tổng tài sản bình quân thấp hơn các công ty không có RRPS (thể hiện
trên đồ thị hình 4.5); nhóm sự vững chắc của công ty thì giá trị trung bình của các
công ty có rủi ro phá sản thấp hơn so với các công ty không có rủi ro phá sản ( hình
4.6 , 4.7). Như vậy, với kết quả thống kê mô tả cho thấy các giả thuyết tác giả đưa
93
ra có tính thuyết phục cao.
Bảng 4. 5: Thống kê mô tả các biến độc lập của toàn bộ mẫu nghiên cứu
STT
Cách tính
Biến
Giá trị nhỏ nhất
Giá trị lớn nhất
Độ lệch chuẩn
Giá trị trung bình 0.0859
DTi/TNPT
Dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân
-0.2650
0.5215
0.2019
Số quan sát 321
1
NNH/TTS
Nợ ngắn hạn/ tổng tài sản
0.0206 0.8911
0.3795
0.2012
360
2
VCSH/NDH
Vốn chủ sở hữu/ nợ dài hạn
0.2014 148.280
13.991
33.674
339
3
KVTT
285
0.0792 8.0013
1.0290
1.0392
4
ROFA
-0.5825
7.0874
1.2052
1.9019
360
5
TNPT/TTS
Giá thị trường của vốn chủ sở hữu/ giá trị sổ sách của nợ Lợi nhuận sau thuế/ tài sản cố định bình quân Tổng nợ phải trả/ tổng tài sản
0.0230 0.9100
0.5662
0.2095
360
6
TSNH/NNH
Tài sản ngắn hạn/ nợ ngắn hạn
0.4058 28.798
2.6329
3.1626
360
7
VLD/TTS
Vốn hoạt động thuần/ tổng tài sản
-0.5400
0.9088
0.2954
0.2432
353
8
EBIT/DT
-0.1397
0.8485
0.2515
0.2052
360
9
ROA
-0.3697
0.4963
0.0437
0.0688
360
10
ROE
-0.6802
1.3056
0.1120
0.1788
360
11
CP/DT
EBIT/ doanh thu Lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản bình quân Lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu bình quân Chi phí/ doanh thu
0.4613 9.7927
0.9319
0.8742
360
12
DT/TS
Doanh thu/ tổng tài sản bình quân
0.0006 1.3066
0.2902
0.2279
360
13
QMCT
285
0.00003 0.0864
0.0037
0.0119
14
Giá trị vốn hóa của cty năm i/ giá trị vốn hóa của toàn thị trường năm i
(Nguồn: Tính toán của tác giả)
94
Bảng 4. 6: Thống kê mô tả các biến của các công ty không có rủi ro phá sản
STT
Cách tính
Biến
Giá trị trung bình
Giá trị nhỏ nhất
Giá trị lớn nhất
Độ lệch chuẩn
DTi/TNPT
Số quan sát Dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân 224
-0.2650
0.5215
0.1429 0.1982
1
NNH/TTS
Nợ ngắn hạn/ tổng tài sản
0.0206
0.7499
0.3152 0.1661
257
2
VCSH/NDH
245
0.2244
148.279
17.098
37.489
3
KVTT
0.0850
8.0013
1.3131 1.0975
205
4
ROFA
-0.3513
7.0874
1.5695 2.0787
257
5
TNPT/TTS
Vốn chủ sở hữu/ nợ dài hạn Giá thị trường của vốn chủ sở hữu/ giá trị sổ sách của nợ Lợi nhuận sau thuế/ tài sản cố định bình quân Tổng nợ phải trả/ tổng tài sản
0.0378
0.8673
0.4939 0.1806
257
6
28.790
3.0536 3.4185
TSNH/NNH
Tài sản ngắn hạn/ nợ ngắn hạn
0.4225
257
7
VLD/TTS
Vốn hoạt động thuần/ tổng tài sản
-0.2122
0.9088
0.3607 0.2040
257
8
0.8485
0.3002 0.1888
EBIT/DT
-0.0954
257
9
0.4963
0.0615 0.0650
ROA
-0.0994
257
10
ROE
-0.1132
1.3056
0.1517 0.1687
257
11
7.8678
0.7916 0.4718
CP/DT
EBIT/ doanh thu Lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản bình quân Lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu bình quân Chi phí/ doanh thu
0.4613
257
12
DT/TS
0.0067
1.3066
0.3208 0.2236
257
13
0.0864
0.0048 0.0138
QMCT
205
0.00005
14
Doanh thu/ tổng tài sản bình quân Giá trị vốn hóa của cty năm i/ giá trị vốn hóa của toàn thị trường năm i
(Nguồn: Tác giả tự tính toán)
95
Bảng 4. 7: Thống kê mô tả các biến của các công ty có rủi ro phá sản
STT
Cách tính
Biến
Số quan sát
Giá trị trung bình
Giá trị nhỏ nhất
Giá trị lớn nhất
Độ lệch chuẩn
DTi/TNPT Dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân
-0.2643
0.4214
-0.0458
0.1398
97
1
NNH/TTS Nợ ngắn hạn/ tổng tài sản
0.0230
0.8911
0.5398
0.1921
103
2
3 VCSH/NDH Vốn chủ sở hữu/ nợ dài hạn
0.2014
115.326
5.8905
18.4941
94
KVTT
0.0792
0.9528
0.3009
0.1588
80
4
ROFA
-0.5825
4.0232
0.2964
0.8475
103
5
Giá thị trường của vốn chủ sở hữu/ giá trị sổ sách của nợ Lợi nhuận sau thuế/ tài sản cố định bình quân
TNPT/TTS Tổng nợ phải trả/ tổng tài sản
0.0230
0.9100
0.7465
0.1634
103
6
TSNH/NNH Tài sản ngắn hạn/ nợ ngắn hạn
0.4058
19.547
1.5836
2.0778
103
7
VLD/TTS Vốn hoạt động thuần/ tổng tài sản
-0.5400
0.8955
0.1204
0.2539
96
8
EBIT/DT
EBIT/ doanh thu
-0.1397
0.6799
0.1299
0.1946
103
9
ROA
Lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản bình quân
-0.3697
0.1024
-0.0008
0.0570
103
10
ROE
-0.6802
0.4999
0.0128
0.1650
103
11
Lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu bình quân
CP/DT
Chi phí/ doanh thu
0.4616
9.7927
1.2822
1.3992
103
12
DT/TS
0.0006
1.2368
0.2138
0.2217
103
13
QMCT
0.0003
0.0050
0.0008
0.0010
80
14
Doanh thu/ tổng tài sản bình quân Giá trị vốn hóa của cty năm i/ giá trị vốn hóa của toàn thị trường năm i
(Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên số liệu thu thập)
96
SO SÁNH ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH
Có rủi ro phá sản
Không có rủi ro phá sản
100%
0.3152
80%
0.4939
17.0987
60%
40%
0.5398
0.7465
20%
5.8905
0%
NNH/TTS
VCSH/NDH
TNPT/TTS
Hình 4. 2: So sánh giá trị trung bình của đòn bẩy giữa các công ty có rủi ro
phá sản và không có rủi ro phá sản
(Nguồn: Phân tích của tác giả)
SO SÁNH KHẢ NĂNG THANH TOÁN
Có rủi ro phá sản
Không có rủi ro phá sản
3.5000
không rrps
3.0000
2.5000
2.0000
có rrps
1.5000
1.0000
không rrps
0.5000
không rrps
có rrps
0.0000
DTi/TNPT
TSNH/NNH
VHDT/TTS
-0.5000
[CATEGORY NAME]rrrr
Hình 4. 3: So sánh giá trị trung bình của khả năng thanh toán giữa các công
ty có rủi ro phá sản và không có rủi ro phá sản
(Nguồn: Phân tích của tác giả)
97
SO SÁNH KHẢ NĂNG SINH LỢI
Có rủi ro phá sản
Không có rủi ro phá sản
1.8000
1.6000
1.4000
1.2000
1.0000
0.8000
0.6000
0.4000
0.2000
0.0000
R O A
R O E
R O F A
-0.2000
Hình 4. 4: So sánh giá trị trung bình của khả năng sinh lợi giữa các công ty
có rủi ro phá sản và không có rủi ro phá sản
(Nguồn: Phân tích của tác giả)
SO SÁNH NĂNG LỰC HOẠT ĐỘNG
Có rủi ro phá sản
Không có rủi ro phá sản
2 2 8 2
.
1
6 1 9 7
.
0
8 0 2 3
.
0 0 0 3
.
0
0
8 3 1 2
.
0
9 9 2 1
.
0
E B I T / D T
C P / D T
D T / T T S
Hình 4. 5: So sánh giá trị trung bình của năng lực hoạt động giữa các công ty
có rủi ro phá sản và không có rủi ro phá sản
(Nguồn: Phân tích của tác giả)
98
So sánh biến GTTTVCSH/NPT
Có rủi ro phá sản 19%
Không có rủi ro phá sản 81%
Có rủi ro phá sản
Không có rủi ro phá sản
Hình 4. 6: So sánh giá trị trung bình của kỳ vọng thị trường giữa các công ty có rủi ro phá sản và không có rủi ro phá sản
(Nguồn: Phân tích của tác giả)
So sánh biến QMCT
15%
Có rủi ro phá sản
Không có rủi ro phá sản
85%
Hình 4. 7: So sánh giá trị trung bình quy mô giữa các công ty có rủi ro phá
sản và không có rủi ro phá sản
(Nguồn: Phân tích của tác giả)
99
4.2.3. Phân tích ma trận tương quan giữa các biến độc lập
Để kiểm tra sự đa cộng tuyến giữa các biến độc lập sử dụng trong mô hình, luận
án tiến hành kiểm tra thông qua ma trận hệ số tương quan giữa các biến độc lập và
quan tâm đến các hệ số tương quan lớn hơn 0,6 (tương quan tương đối chặt chẽ).
Khi các biến giải thích (biến độc lập) trong mô hình có mối quan hệ cộng tuyến
hoàn hảo thì các ước lượng cho mô hình sẽ không thể tính toán một cách đầy đủ. Điều
quan tâm đầu tiên về đa cộng tuyến đó là mức độ đa cộng tuyến tăng lên thì các ước
lượng của các hệ số trong mô hình hồi quy sẽ không còn ổn định và sai số chuẩn của
các hệ số sẽ bị phóng đại. Vì lẽ đó đa cộng tuyến làm gia tăng khả năng mắc sai lầm
loại II (chấp nhận giả thuyết khi nó sai) và gây khó khăn trong việc phát hiện một tác
động nếu có (đa cộng tuyến) tồn tại.
Nhìn vào bảng 4.8 ta thấy có ba trường hợp có hệ số tương quan lớn hơn 0,6 đó
là: cặp biến KVTT (giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu/ giá trị sổ sách của nợ) và
TNPT/TTS (tổng nợ phải trả/ tổng tài sản) có hệ số tương quan là 0,623. Thứ hai là cặp
TNPT/TTS (tổng nợ phải trả/ tổng tài sản) và NNH/TTS (nợ ngắn hạn/ tổng tài sản) có
hệ số tương quan là 0,676. Thứ ba là cặp ROA (lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản bình
quân) và ROE (lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu bình quân) có hệ số tương quan là
0,883. Từ đó dễ dẫn đến hiện tượng đa cộng tuyến cao. Do vậy tác giả sẽ sử dụng
phương pháp forward conditional trong SPSS để lựa chọn được mô hình tốt nhất. Đây
là phương pháp đưa dần các biến vào dần theo điều kiện. Nó kiểm tra việc loại biến căn
cứ trên xác suất của số thống kê likehood – ratio dựa trên những ước lượng thông số có
điều kiện. Phương pháp này giúp loại bỏ bớt các biến có hiện tượng đa cộng tuyến là
hoàn toàn khách quan. (Hoàng Trọng và Chu Mộng Ngọc, 2008).
100
Bảng 4. 8: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình
DTiTNPT NNH/TTS
KVTT
ROFA
EBIT/DT
ROA
ROE
CP/DT DT/TTS QMCT
VCSH/ NDH
TNPT/TT S
TSNH/N NH
VHDT/ TTS
.000
.000
.011
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.010
Sig. (2- tailed)
Biến
Rủi ro phá sản
DTi/TNPT
1
NNH/TTS
Pearson Correlation Pearson Correlation
-.282**
1
VCSH/NDH
.178**
.083
1
KVTT
1
.420**
-.380**
.319**
Pearson Correlation Pearson Correlation
ROFA
.184**
-.087
.137*
.295**
1
Pearson Correlation
TNPT/TTS
-.351**
.676**
-.271**
-.623**
-.273**
1
Pearson Correlation
TSNH/NNH
.090
-.511**
-.031
.165**
.247**
-.381**
1
Pearson Correlation
VHDT/TTS
.097
-.587**
-.088
.137*
.306**
-.431**
.566**
1
Pearson Correlation
EBIT/DT
.190**
-.303**
.036
.353**
.359**
-.252**
.313**
.212**
1
ROA
.313**
-.132*
.202**
.474**
.475**
-.225**
.173**
.564**
1
.084
ROE
.236**
-.035
.139*
.327**
.412**
.107*
.537**
.883**
1
.066
-.017
CP/DT
.071
-.100
.081
-.072
-.079
-.180**
-.092
-.144**
-.407**
-.515**
-.399**
1
DT/TTS
.238**
.088
.255**
.332**
.250**
-.075
-.096
.007
-.018
.591**
.538**
1
Pearson Correlation Pearson Correlation Pearson Correlation Pearson Correlation Pearson Correlation
- .189**
QMCT
.027
-.042
-.081
.185**
-.039
.089
-.076
-.142*
.278**
.100
.195**
-.077
-.018
1
Pearson Correlation
99
(Nguồn: Tính toán của tác giả)
4.2.4. Kết quả hồi quy
Do biến phụ thuộc là biến nhị phân chỉ nhận hai giá trị là 0 và 1 (1= có rủi ro
phá sản, 0= không có rủi ro phá sản) nên tác giả sử dụng mô hình hồi quy logit để
tiến hành chạy hồi quy bằng cách sử dụng phần mềm SPSS và thu được kết quả có
5 mô hình như sau:
Mô hình 1: Rủi ro phá sản chịu ảnh hưởng của biến TNPT/TTS (tổng nợ phải
trả/ tổng tài sản), tỷ lệ dự đoán đúng là 83,3%, hệ số -2log likehood là 191,132, mức
ý nghĩa của kiểm định wald nhỏ hơn 0,05, phản ánh hệ số hồi quy trong mô hình 1
có ý nghĩa thống kê (phụ lục số 6).
Mô hình 2: Rủi ro phá sản chịu ảnh hưởng của TNPT/TTS và ROA. Tỷ lệ dự
đoán đúng là 88,2%, hệ số -2log likehood là 130,543, mức ý nghĩa của kiểm định
wald nhỏ hơn 0,05, phản ánh các hệ số hồi quy trong mô hình 2 có ý nghĩa thống kê
(phụ lục số 6).
Mô hình 3: Rủi ro phá sản chịu ảnh hưởng của TNPT/TTS, VHDT/TTS,
ROA tỷ lệ dự đoán đúng là 89,4%, hệ số -2log likehood là 108,877, mức ý nghĩa
của kiểm định wald nhỏ hơn 0,05, phản ánh các hệ số hồi quy trong mô hình 3 đều
có ý nghĩa thống kê (phụ lục số 6).
Mô hình 4: Rủi ro phá sản chịu ảnh hưởng của DTi/TNPT, TNPT/TTS,
VHDT/TTS, ROA tỷ lệ dự đoán đúng là 90,2%, hệ số -2loglike hood là 89,302.
Mức ý nghĩa của kiểm định wald nhỏ hơn 0,05, phản ánh các hệ số hồi quy trong
mô hình 4 đều có ý nghĩa thống kê (phụ lục số 6).
Mô hình 5: Nhận thấy mô hình có mức ý nghĩa sig.= 0,588 > 0,05 nên mô
hình này không có ý nghĩa thống kê. (phụ lục số 6).
Như vậy trong 5 mô hình vừa nêu, có 4 mô hình có thể lựa chọn nhưng mô
hình 4 được lựa chọn vì đây là mô hình tối ưu nhất do có – 2 Loglikehood (89,302)
nhỏ nhất và tỷ lệ dự đoán tổng thể (90,2%) là lớn nhất.
100
Kết quả hồi quy mô hình 4 như sau:
Bảng 4. 9: Kết quả hồi quy logit
Hệ số
Biến
Thuộc nhóm
Công thức tính
S.E. Wald
df
Sig. Exp(B)
hồi quy
chỉ tiêu
Dòng tiền/ tổng nợ
-7.645
1.983
14.869
1
.000
.000
DTi/TNPT Khả năng
thanh toán
phải trả bình quân
Tổng nợ phải trả/
9.030
1.934
21.886
1
.000
8350.5
TNPT/TTS Đòn bẩy
tài chính
tổng tài sản
VHDT/TTS Khả năng
Vốn hoạt động
-7.072
1.585
19.910
1
.000
.001
thanh toán
thuần/ tổng tài sản
-55.714
Khả năng
Lợi nhuận sau thuế/
11.909
21.798
1
.000
.000
ROA
sinh lợi
tổng tài sản bình
quân
Constant
-3.778
1.279
8.731
1
.003
.023
(Nguồn: Tính toán của tác giả)
Bảng 4.9, kiểm định Wald về ý nghĩa của các hệ số hồi quy tổng thể cho thấy
các biến DTi/TNPT (dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân), TNPT/TTS (tổng nợ
phải trả/ tổng tài sản), VHDT/TTS (vốn hoạt động thuần/ tổng tài sản), ROA (lợi
nhuận sau thuế/ tổng tài sản bình quân) đều có mức ý nghĩa sig. nhỏ hơn 0.05 nên ta
hoàn toàn bác bỏ giả thuyết H0: βi=0. Như vậy các hệ số hồi quy tìm được có ý
nghĩa và mô hình được sử dụng tốt.
Xác suất để đánh giá rủi ro phá sản của một công ty được tính bằng công
thức:
5
(cid:2)(cid:6)(cid:7)(cid:3) = 1(cid:11) = &(cid:3) = ! 1 + !
+1
(cid:11)= (cid:10)(cid:3)
(cid:17)(cid:27)5
Hoặc Z = = ln (cid:6)
5
Từ kết quả thu được trên bảng 4.9 ta có phương trình hồi qui có dạng như sau:
Z = ln (cid:6)
(cid:11)= - 3,778 – 7,645 DTi/TNPT + 9,030 TNPT/TTS – 7,072 VHDT/TTS – 55,714 ROA
(cid:17)(cid:27)5
Hay
101
P = exp (- 3,778 – 7,645 DTi/TNPT + 9,030 TNPT/TTS – 7,072 VHDT/TTS – 55,714 ROA )
1+ exp (- 3,778 – 7,645 DTi/TNPT + 9,030 TNPT/TTS – 7,072 VHDT/TTS – 55,714 ROA )
Diễn giải ý nghĩa của các hệ số hồi quy trong phương trình như sau:
DTi/TNPT – Dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân: Kết quả hồi quy cho
thấy hệ số hồi quy của biến DTi/TNPT là - 7,645, có nghĩa là dòng tiền/ tổng nợ
phải trả bình quân có quan hệ ngược chiều với rủi ro phá sản, hay nói cách khác khi
trị số của DTi/TNPT tăng lên thì rủi ro phá sản giảm xuống và ngược lại. Kết quả
này đúng với kỳ vọng ban đầu của tác giả và cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu
của Beaver (1966) và Eljelly et al (2001), Ohlson (1980). Trong đó Beaver (1966)
cho rằng chỉ tiêu dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân có tác động rõ nhất trong
việc phân biệt giữa công ty có rủi ro phá sản và không có rủi ro phá sản.
TNPT/TTS - Tổng nợ phải trả/ tổng tài sản: trong nhóm chỉ tiêu về đòn bẩy
tài chính thì chỉ có chỉ tiêu này có tác động đến rủi ro phá sản của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tham gia tài trợ tài sản của doanh nghiệp. Nếu trị số
của chỉ tiêu này quá thấp cho thấy công ty chưa khai thác hết được lợi ích của đòn
bẩy tài chính, chưa biết cách huy động vốn bằng hình thức đi vay. Ngược lại, nếu trị
số của chỉ tiêu này càng lớn, mức độ tài trợ tài sản của công ty bằng nợ phải trả
càng cao và do vậy, khả năng thanh toán nói chung và khả năng thanh toán dài hạn
nói riêng của công ty càng giảm. Kết quả kiểm kê cho thấy hệ số hồi quy của biến
TNPT/TTS là dương 9,030, tức là biến này có tác động cùng chiều với rủi ro phá
sản, nghĩa là khi trị số của TNPT/TTS càng lớn thì rủi ro phá sản càng cao và ngược
lại. Kết quả này cũng đúng với kỳ vọng của giả thuyết ban đầu và cũng phù hợp với
kết quả nghiên cứu của Beaver (1966), Ohlson (1980) và Hoàng Tùng (2011).
Ngoài ra theo kết quả hồi quy cho thấy hệ số tổng nợ phải trả/ tổng tài sản có tác
động mạnh nhất đến rủi ro phá sản của các công ty bất động sản.
VHDT/TTS – Vốn hoạt động thuần/ tổng tài sản: trong nhóm chỉ tiêu phản
ánh khả năng thanh toán, ngoải chỉ tiêu về dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân thì
chỉ tiêu về vốn hoạt động thuần/ tổng tài sản cũng có ảnh hưởng đến rủi ro phá sản
của các công ty bất động sản. Biến này cũng được các nhà nghiên cứu trước đây sử
102
dụng nhiều trong các mô hình dự báo phá sản như: Beaver (1966), Altman (1968),
Nguyễn Trọng Hòa (2009).... Kết quả hồi quy cho thấy biến này có hệ số hồi quy là
– 7,072. Hay nói cách khác biến VHDT/TTS có quan hệ ngược chiều với rủi ro phá
sản, nghĩa là khi trị số của vốn hoat động thuần/ tổng tài sản càng lớn thì rủi ro phá
sản càng thấp và ngược lại. Kết quả này đúng với kỳ vọng giả thuyết ban đầu của
tác giả và cũng phù hợp với nghiên cứu của Altman (1968), Bandyopadhyay (2006),
Ohlson (1980) hay trong nghiên cứu của Nguyễn Trọng hòa (2009).
ROA - Lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản bình quân: khả năng sinh lợi của tài
sản (ROA) là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động của công ty. Chỉ tiêu này được
coi là một công cụ quan trọng để đánh giá hiệu quả của việc sử dụng tài sản. Vì nó
cho biết được khi đầu tư vào một đồng tài sản thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi
nhuận. Theo kết quả hồi quy biến ROA có hệ số hồi quy trong mô hình tổng thể là –
55,714 chứng tỏ biến này có ảnh hưởng ngược chiều với RRPS, tức là nếu trị số của
ROA càng cao thì xác suất xảy ra rủi ro phá sản sẽ càng thấp và ngược lại. Điều này
phản ánh đúng với kỳ vọng giả thuyết và cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của
các tác giả như Beaver (1966), Hoàng Tùng (2011), Ohlson (1980).
4.2.5. Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình
Để đánh giá mức độ phù hợp của mô hình ngoài việc kiểm tra sự đa cộng
tuyến của các biến độc lập thông qua ma trận hệ số tương quan, tác giả sẽ tiến hành
4.2.5.1. Kiểm định độ phù hợp tổng quát của mô hình
kiểm tra thêm các kiểm định sau đây để đánh giá mức độ phù hợp của mô hình.
Bảng 4. 10: Omnibus Tests of Model Coefficients
Step Step Chi-square 19.575 df 1 Sig. .000
Block Model 198.171 198.171 4 4 .000 .000
(Nguồn: Tính toán của tác giả)
103
Bảng này cho ta kết quả của kiểm định độ phù hợp tổng quát của mô hình với giả thiết H0: βk = 0 và đối thiết H1: có ít nhất một hệ số khác không. Kiểm định này xem xét khả năng giải thích biến phụ thuộc của tổ hợp biến độc lập.
Kết quả ở bảng này cho thấy độ phù hợp tổng quát có mức ý nghĩa quan sát
sig. = 0,000 nên ta bác bỏ H0. Nghĩa là tổ hợp liên hệ tuyến tính của toàn bộ các hệ
4.2.5.2. Kiểm định độ phù hợp của mô hình
số trong mô hình có ý nghĩa trong việc giải thích cho biến phụ thuộc.
Bảng 4. 11: Kiểm định độ phù hợp của mô hình
Step -2 Log likelihood Cox & Snell R Nagelkerke R
Square Square
4 89.302c .555 .803
(Nguồn: Tính toán của tác giả)
Bảng 4.11 thể hiện kết quả độ phù hợp của mô hình. Khác với hồi quy tuyến tính thông thường hệ số R2 càng lớn thì càng phù hợp, hồi quy logit sử dụng chỉ tiêu
-2LL (-2log likehood) để đánh giá độ phù hợp của mô hình. -2LL càng nhỏ càng thể
hiện độ phù hợp cao. Giá trị -2LL nhỏ nhất là 0 (tức là không có sai số) khi đó mô
hình có độ phù hợp hoàn hảo.
Bảng này cho thấy -2LL = 89,302 không cao lắm, như vậy nó thể hiện được
4.2.5.3. Kiểm định khả năng dự báo của mô hình
một độ phù hợp khá tốt của mô hình tổng thể.
Kiểm định khả năng dự báo của mô hình nhằm đo lường sự chính xác trong
dự đoán rủi ro phá sản của các công ty đối với mô hình được ước lượng.
Để kiểm tra khả năng dự báo của mô hình, luận án tiến hành kiểm tra kết quả
- Kiểm định khả năng dự báo của mô hình:
dự báo của mô hình và đường cong ROC.
Bảng 4. 12: Kiểm định khả năng dự báo của mô hình
Dự báo (điểm cắt là 0.5)
Rủi ro phá sản Tổng Nếu không có rủi ro phá sản Nếu có rủi ro phá sản tỷ lệ dự báo đúng (%)
Nếu không có rủi ro phá sản Nếu có rủi ro phá sản Tổng 167 13 180 93.8 80.6 90.2 178 67 245
104
11 54 65 (Nguồn: tính toán của tác giả)
Bảng 4.12 trình bày kết quả phân loại so sánh kết quả thực tế và dự đoán của
mô hình. Bảng kết quả cho thấy trong 178 trường hợp được dự đoán là không có rủi
ro phá sản, mô hình đã dự đoán đúng 167 trường hợp, tỷ lệ đúng là 93,8%. Còn đối
với 67 trường hợp có rủi ro phá sản, mô hình dự đoán sai 13 trường hợp (tức là cho
rằng không có rủi ro phá sản) tỷ lệ đúng là 80,6%. Do vậy, số công ty không có rủi
ro phá sản thì được dự đoán chính xác hơn một chút (93,8%) so với có rủi phá sản
(80,6%). Từ đó ta có tỷ lệ dự đoán đúng của toàn bộ mô hình là 90,2%. Tỷ lệ chính
xác vượt trội đạt được này ngụ ý rằng nó có tiềm năng ứng dụng thực tế trong phân
tích rủi ro phá sản của các công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng
- Phân tích đường cong ROC (đồ thị của độ nhạy):
khoán Việt Nam.
Để đánh giá sức mạnh tiên đoán của mô hình ngoài việc thống kê kết quả dự
báo chính xác, luận án tiến hành phân tích thêm đường cong ROC. Đường cong
ROC (đồ thị của độ nhạy) là đường cong bắt đầu từ điểm (0;0) tương ứng với điểm
cắt c = 1 và kết thúc tại điểm (1;1) tương ứng với c = 0. Một mô hình không có sức mạnh tiên đoán thì đường cong ROC sẽ là một đường thẳng có góc 450. Diện tích
phía dưới đường cong là tập hợp các dự báo chính xác. Vì thế nó thường được sử
dụng xem như một tiêu chí để đánh giá sức mạnh tiên đoán của mô hình. Một mô
hình không có sức mạnh tiên đoán khi diện tích = 0,5; Một mô hình có sức mạnh
tiên đoán hoàn hảo khi có diện tích = 1. Đây là một phương pháp đo lường thích
hợp và trực tiếp cho độ chính xác của mô hình được phát triển bằng phương pháp
Logit. Altman và các cộng sự (2010) đã cho rằng “vùng dưới đường cong ROC
(AUC) là một công cụ đo lường mức độ chính xác trong dự báo của mô hình, với
giá trị bằng 1 đại diện cho một mô hình hoàn hảo”. Nói cách khác, nếu đường
ROC càng gần điểm (0,1) ở góc trái của đồ thị thì khả năng dự báo của mô hình
càng tốt.
Trước khi xem xét chi tiết kết quả, tác giả cần làm rõ một số thuật ngữ sẽ
được trình bày ở phần đồ thị ROC của mô hình.
105
Số quan sát đúng loại +
Sensitivity = (4.1) Tổng số quan sát thực sự có rủi ro phá sản
Số quan sát đúng loại -
Specificity = ( Tổng số quan sát thực sự không rủi ro phá sản
4.2)
Vấn đề quan trọng là việc xác định thế nào là một công ty “đúng loại +”, thế
nào là một công ty “đúng loại – “. Điều này tùy thuộc vào mức xác suất “cut – off”
mà một nhà nghiên cứu có thể chấp nhận.
Giả sử tại mức xác suất “cut – off” là 0,5 thì một quan sát (công ty – năm)
được phân loại là “đúng loại +” khi đáp ứng cả hai điều kiện sau:
+ Trên thực tế quan sát (công ty – năm) này thực sự rơi vào rủi ro phá sản,
tức giá trị biến phụ thuộc (rủi ro phá sản) là 1;
+ Từ các dữ kiện thực tế của quan sát, ta tính ngược lại xác suất để quan sát
này nhận giá trị biến phụ thuộc là 1, và xác suất này ≥ 0,5.
Hay nói cách khác nếu quan sát được xem xét có xác suất (rủi ro phá sản =
1) ≥ 0,5 và trên thực tế quan sát này thực sự rơi vào rủi ro phá sản thì quan sát này
được cho là “đúng loại +”. Ngược lại, nếu quan sát này có xác suất (FD = 1) ≥ 0,5
và trên thực tế quan sát này không rơi vào rủi ro phá sản thì quan sát này được cho
là “sai loại +”.
Bảng 4. 13: Phân loại khả năng dự báo rủi ro phá sản
Dự báo không có rủi ro phá sản Quan sát
Dự báo có rủi ro phá sản (được dự báo là +) (được dự báo là -)
Thực sự có rủi ro phá sản Sai loại -, mô hình tính được xác suất (rủi ro phá sản = 0)< 0,5 Đúng loại +, mô hình tính đựợc xác suất (rủi ro phá sản = 1) ≥ 0,5
Thực sự không có rủi ro phá sản Đúng loại +, mô hình tính được xác suất (rủi ro phá sản = 0)< 0,5 Sai loại +, mô hình tính được xác suất (rủi ro phá sản = 1) ≥ 0,5
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
Từ kết quả thu được ở bảng 4.12, ta thấy thấy rằng tại mức xác suất “cut –
106
off” là 0,5 thì:
+ Có 54 quan sát (công ty – năm) được dự báo là có RRPS (xác suất (rủi ro
phá sản = 1) ≥ 0,5) và trên thực tế thực sự những quan sát này rơi vào tình trạng có
RRPS;
+ Có 13 quan sát (công ty – năm) được dự báo là có rủi ro phá sản (xác suất
(rủi ro phá sản = 1) ≥ 0,5) nhưng trên thực tế thực sự những quan sát này không rơi
vào tình trạng RRPS.
+ Có 167 quan sát (công ty – năm) được dự báo là không có RRPS (xác suất
(rủi ro phá sản = 0) < 0,5) và trên thực tế thực sự những quan sát này là không có
rủi ro phá sản;
+ Về tổng thể, tại mức xác suất “cut – off” là 0,5 thì mô hình có thể phân
loại một cách chính xác 90,2% các giá trị của biến phụ thuộc trên thực tế.
Sensitivity là tỷ lệ các công ty được phân loại là RRPS và thực sự rơi vào
RRPS chia cho tổng số quan sát thực tế có RRPS. Nói cách khác, sensitivity = 54/65
= 83,07%
Specificity là tỷ lệ các công ty được phân loại là không có RRPS và thực sự
không có RRPS chia cho tổng số quan sát thực tế không có RRPS. Nói cách khác,
specificity = 167/180 = 92,7%.
Hình 4.8 sẽ cho ta đồ thị phân tích ROC của mô hình. Với kết quả tính toán
diện tích phía dưới đường cong ROC của mô hình là 0,96 khá gần 1, điều đó cho
107
thấy sức mạnh dự báo của mô hình là rất tốt.
4.2.5.4. Phân tích một số trường hợp cụ thể
Hình 4. 8: Đường cong ROC theo mô hình logit (Nguồn: Phân tích của tác giả)
Trong phần này, tác giả tiến hành phân tích cụ thể hai công ty (Công ty cổ
phần đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà (mã SJS), và Công ty
cổ phần đầu tư và kinh doanh nhà Intresco (mã ITC) nhằm kiểm tra về khả năng
dự báo RRPS của mô hình hồi quy. Bảng 4.14 đưa ra số liệu tính xác suất xảy ra rủi
ro phá sản của một số công ty bất động sản từ năm 2008-2015.
Dự đoán rủi ro phá sản
Bảng 4. 14: Bảng tính xác suất có rủi ro phá sản của một số công ty BĐS
Biến
Năm
Công ty
DTi/TTS
TNPT/TTS VHDT/TTS
ROA
Xác suất
Thực tế Dự báo
0.0237
2015
0.6529
0.1146
0.0405
0.2440
không
không
0.1877
2014
0.6742
0.2855
0.0251
0.0729
không
không
0.0349
2013
0.7095
0.2848
0.0128
0.4099
không
không
SJS
-0.0579
2012
0.7171
0.4401
-0.0577
0.9625
Có
Có
-0.0178
2011
0.6268
-0.1112
-0.0167
0.9767
Có
Có
0.4270
2010
0.5106
-0.2122
0.1226
0.0004
không
không
2009
0.3232
0.4115
0.0862
0.3073
0.0000
không
không
108
2008
-0.6548
0.2800
-0.0604
0.7457
0.5070
không
Có
2015
-0.2003
0.3530
0.6109
0.0033
0.0276
không
không
2014
0.2711
0.3134
0.5994
0.0033
0.0006
không
không
ITC
2013
0.9284
-0.0239
0.3616
0.5326
-0.1195
Có
Có
2012
-0.0802
0.3324
0.5830
0.0027 0.0117
không
không
2011
-0.1353
0.3467
0.5221
-0.0494
0.3657
Có
Không
2010
-0.1112
0.2948
0.5723
0.0708
0.0003
không
không
2009
0.2229
0.5521
0.3088
0.0358
0.0092
không
không
2008
-0.1102
0.6115 0.3699
0.0245
0.1992
không
không
(Nguồn: tính toán của tác giả)
Dựa vào kết quả cho thấy Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đô thị và
Khu công nghiệp Sông Đà được dự đoán là có rủi ro phá sản trong năm 2008,
2011, 2012 (Z2011 = 0,9767 > 0,5 và Z2012 =0,9625 > 0,5, Z2008 =0,5070 > 0,5) và kết
quả cho thấy thực tế 2 năm là này công ty có nguy cơ phá sản, và năm 2008 không
có rủi ro phá sản, tỷ lệ đúng là 66,7%. Dự đoán 6 năm không có rủi ro phá sản thì
có 6 năm công ty không có rủi ro phá sản , tỷ lệ dự đoán đúng là 100%. Tỷ lệ dự
đoán đúng tổng thể là 87,5%. Kết quả này cũng phù hợp với tình hình hoạt động
thực tế của công ty SJS. Cụ thể, vào ngày 20/01/2014, mã cổ phiếu SJS bị Sở giao
dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh duy trì diện bị kiểm soát do kết quả kinh doanh
bị thua lỗ 2 năm liên tiếp căn cứ BCTC hợp nhất năm 2011 và 2012 đã được kiểm
toán. Bởi lẽ, công ty SJS đã trải qua sự sụt giảm, trong khi sử dụng mức đòn bẩy
cao. Đồng thời, giá cổ phiếu của công ty SJS cũng sụt giảm từ năm 2011 làm cho
chi phí sử dụng vốn gia tăng trong trường hợp phát hành cổ phiếu. Điều này cũng
dễ dàng nhìn thấy dựa trên số liệu tính toán ban đầu khi giá trị của các biến
DTi/TNPT (dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân) trong năm 2011 và 2012 đều âm,
dòng tiền thuần thu được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị âm cho thấy
khó khăn của công ty trong việc tạo ra tiền để có thể trang trải các khoản nợ đến
hạn. Đồng thời, mặc dù công ty sử dụng đòn bẩy cao lần lượt năm 2011 và 2012 là
109
0,626 và 0,717 nhưng lợi nhuận thu được lại không cao thậm chí bị âm, điều này
cho thấy công ty đang sử dụng không hiệu quả đòn bẩy tài chính. Do vậy nguy cơ
xảy ra rủi ro phá sản là điều có thể hiểu được.
Công ty cổ phần đầu tư và kinh doanh nhà Intresco (mã ITC): được dự
đoán là có rủi ro phá sản trong năm 2013 (P2013 = 0,9287 > 0,5). và kết quả cho thấy
thực tế trong này công ty có nguy cơ phá sản, tỷ lệ dự đoán đúng là 100%. Dự đoán
7 năm không có rủi ro phá sản thì đúng 6 năm công ty không có rủi ro phá sản và 1
năm có rủi ro phá sản, tỷ lệ dự đoán đúng là 85,71%. Tỷ lệ dự đoán đúng đối với
công ty 87,5%.
Như vậy, qua phân tích các trường hợp cụ thể nói trên, tác giả cho rằng mô
hình hồi quy có khả năng ứng dụng trong dự báo RRPS của các công ty bất động
sản. Với mức độ dự báo tương đối cao, cho thấy mô hình hồi quy có sức mạnh dự
báo tốt và có thể đưa vào sử dụng trong thực tế. Trên cơ sở các kết quả dự báo, các
nhà quản trị có được quyết định, chiến lược phù hợp từ đó giúp nhanh chóng ngăn
110
ngừa và hạn chế RRPS của doanh nghiệp.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Trong chương 4 tác giả đi vào trình bày những nội dung chính sau đây: Trình
bày khái quát quá trình hình thành và phát triển của các công ty BĐS Việt Nam;
Khái quát đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý hoạt động và phân cấp quản lý tài chính
tại các công ty BĐS niêm yết trên thị trường chứng khoán; Làm rõ đặc điểm hoạt
động kinh doanh của các công ty BĐS; Trình bày thực trạng kết quả nghiên cứu và
đưa ra những kết luận về các yếu tố tác động đến RRPS trong các công ty BĐS Việt
Nam.
Dựa trên dữ liệu thu thập được của 45 công ty BĐS niêm yết trên sàn chứng
khoán HOSE và HNX nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2015, tác giả
tiến hành thực hiện thống kê đặc điểm mẫu nghiên cứu, thống kê mô tả các biến đưa
vào mô hình, phân tích tương quan và phân tích hồi qui nhằm trả lời câu hỏi nghiên
cứu cụ thể đó là: rủi ro nguy cơ phá sản của công ty BĐS chịu ảnh hưởng bởi các
nhân tố nào? Và chiều hướng tác động của các nhân tố này đến RRPS ra sao? Nhân
tố nào có tác động mạnh nhất đến rủi ro phá sản của các công ty bất động sản niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam?
Dựa trên quá trình nghiên cứu và tìm hiểu các đề tài nghiên cứu trước đây
NCS đã lựa chọn ra 14 biến độc lập mà tác giả cho là có ảnh hưởng đến RRPS của
các công ty bất động sản. Trên cơ sở đó, tiến hành thu thập dữ liệu dựa trên các tiêu
chí phân loại giữa công ty có RRPS và không có RRPS để tiến hành phân tích hồi
quy logit. Dựa vào kết qủa hồi quy, NCS đã xác định được các biến số có tác động
đến RRPS của các công ty BĐS và có chiều hướng và mức độ ảnh hưởng như sau:
Thứ nhất, trong nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán có 2 chỉ tiêu đó
là dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân (DTi/TNPT) và vốn hoạt động thuần/ tổng
tài sản (VHDT/TTS) có ảnh hưởng đến rủi ro phá sản. Theo kết quả hồi quy cho
thấy 2 biến này đều có ảnh hưởng ngược chiều đến rủi ro phá sản. Có nghĩa là khi
trị số của các biến này tăng lên thì xác suất xảy ra rủi ro phá sản sẽ giảm và khi trị
số của các biến này giảm xuống sẽ làm cho xác suất xảy ra rủi ro phá sản tăng lên.
111
Thứ hai, chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi của tài sản là ROA (lợi nhuận
sau thuế trên tổng tài sản bình quân) có ảnh hưởng đến RRPS của các công ty bất
động sản. Kết quả hồi qui cho thấy hệ số này có tác động ngược chiều với rủi ro xảy
ra phá sản. Tức là nếu trị số của hệ số này càng cao thì xác suất xảy ra rủi ro phá sản
của công ty càng giảm và ngược lại nếu trị số của của biến này càng thấp thì xác
suất xảy ra rủi ro phá sản càng cao. Kết quả này phản ánh đúng với kì vọng giả
thuyết ban đầu của tác giả.
Thứ ba, chỉ tiêu đại diện cho nhóm đòn bẩy tài chính là biến TNPT/TTS
(tổng nợ phải trả/ tổng tài sản) có ảnh hưởng đến rủi ro phá sản. Theo kết quả hồi
quy biến này có ảnh hưởng cùng chiều với rủi ro phá sản, nghĩa là khi trị số của
tổng nợ phải trả/ tổng tài sản tăng lên thì xác suất xảy ra rủi ro phá sản cũng tăng
lên, và ngược lại khi trị số của biến này giảm xuống thì xác suất xảy ra rủi ro phá
sản cũng sẽ giảm xuống. Đồng thời theo kết quả hồi quy cũng chỉ ra đây là chỉ tiêu
có tác động mạnh nhất đến rủi ro phá sản của các công ty bất động sản niêm yết trên
TTCKVN.
Như vậy, theo kết quả hồi quy cho thấy có bốn biến có tác động đến rủi ro
phá sản đó là: dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân, vốn hoạt động thuần/ tổng tài
sản, lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản bình quân và tổng nợ phải trả/ tổng tài sản.
Trong đó hệ số tổng nợ phải trả/ tổng tài sản có tác động mạnh nhất đến rủi ro phá
sản, đứng thứ hai là hệ số khả năng sinh lợi của tài sản (lợi nhuận sau thuế/ tổng tài
sản bình quân), đứng thứ ba là hệ số vốn hoạt động thuần/ tổng tài sản và chỉ tiêu có
tác động ít nhất là dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân.
Bên cạnh các biến có ý nghĩa thống kê tồn tại trong mô hình thì với kết quả
thu được cho thấy các biến thuộc nhóm chỉ tiêu năng lực hoạt động (chi phí/ doanh
thu, doanh thu/ tổng tài sản bình quân, EBIT/ doanh thu), chỉ tiêu về khả năng thanh
toán ngắn hạn (tài sản ngắn hạn/ nợ ngắn hạn), ROE (lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở
hữu bình quân) mà một số các nghiên cứu khác cho là có ý nghĩa thống kê thì lại
không ảnh hưởng đến RRPS của công ty bất động sản. Ngoài ra, cũng theo kết quả
thống kê các biến về sử dụng dữ liệu thị trường gồm biến giá trị thị trường của vốn
112
chủ sở hữu/ giá trị sổ sách của nợ và quy mô công ty cũng không có ý nghĩa thống
kê. Vì vậy, để có đánh giá đầy đủ hơn đòi hỏi cần các nghiên cứu chuyên sâu về
phân tích, dữ liệu rộng hơn về mẫu cũng như giai đoạn dài hơn.
CHƯƠNG 5
KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NGĂN NGỪA VÀ HẠN CHẾ
RỦI RO PHÁ SẢN TRONG CÁC CÔNG TY BẤT ĐỘNG SẢN NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
5.1. Giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro phá sản trong các công ty bất
động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
“Phòng hơn chống” luôn là câu nói có giá trị trong mọi hoàn cảnh, mọi đối
tượng và trong mọi lĩnh vực. Riêng đối với các công ty bất động sản vốn đang bị
vây bủa bởi hàng loạt những khó khăn khi các giao dịch trầm lắng, hàng tồn kho
vẫn không ngừng tăng cao làm cho không ít các doanh nghiệp rơi vào tình trạng
khủng hoảng tài chính và có nguy cơ phá sản. Chính vì vậy, để không bị đẩy vào
trạng thái “mất bò mới lo làm chuồng” thì cần thiết các công ty BĐS cần tập trung
vào các giải pháp quan trọng có tính định hướng nhằm giúp cho công ty vượt qua
giai đoạn khủng khoảng, sớm đi vào ổn định và phát triển bền vững.
Dựa vào kết quả hồi quy cho thấy rủi ro phá sản của các công ty bất động sản
chịu tác động của các chỉ tiêu liên quan đến đòn bẩy tài chính (tổng nợ phải trả trên
tổng tài sản), chỉ tiêu về khả năng thanh toán (dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân,
vốn hoạt động thuần/ tổng tài sản), về khả năng sinh lợi (lợi nhuận sau thuế/ tổng tài
sản bình quân). Trên cơ sở các yếu tố tác động này, luận án đề xuất một số các giải
pháp nhằm ngăn ngừa và hạn chế RRPS trong trong các công ty BĐS như sau:
5.1.1. Sử dụng hợp lý đòn bẩy tài chính
Theo kết quả hồi quy cho thấy hệ số tổng nợ phải trả/ tổng tài sản là chỉ tiêu
đại diện cho nhóm đòn bẩy tài chính và chỉ tiêu này có quan hệ cùng chiều với rủi
ro phá sản, nghĩa là khi hệ số này tăng lên thì rủi ro phá sản cũng sẽ tăng lên và
ngược lại. Đồng thời, đây cũng là chỉ tiêu có tác động mạnh nhất đến rủi ro phá sản.
Do vậy, điều quan tâm đầu tiên trong bộ giải pháp nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi
113
ro phá sản đó là quan tâm đến việc sử dụng sao cho hợp lý đòn bẩy tài chính nhằm
giúp cho các công ty BĐS hạn chế nguy cơ phá sản, ổn định và tăng trưởng tốt hơn.
Đòn bẩy tài chính như liều thuốc kích thích và các doanh nghiệp thường sử
dụng khi họ kỳ vọng rằng tỷ suất sinh lợi trên tài sản cao hơn lãi suất vay nợ và nếu
thành công, lợi nhuận đem lại sẽ rất cao. Tuy nhiên, dùng đòn bẩy tài chính như
“dao hai lưỡi”, lợi nhuận cao thường đi kèm với rủi ro lớn. Công ty càng nợ nhiều
thì càng có nguy cơ cao mất khả năng thanh toán các khoản nợ, nợ quá nhiều sẽ dẫn
tới RRPS càng cao. Về phía tích cực, nợ là một dạng tài trợ tài chính quan trọng và
tạo lợi thế lá chắn thuế cho doanh nghiệp do lãi suất tiền vay được tính như một
khoản chi phí hợp lệ và miễn thuế.
Dẫu rằng, đòn bẩy tài chính là một công cụ “lợi hại” giúp các doanh nghiệp
phát triển nhanh. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường bất động sản hiện nay, việc
dùng đòn bẩy tài chính quá mức và không kiểm soát được rủi ro đã trở thành một
gánh nặng thật sự đối với các doanh nghiệp. Chi phí lãi vay, áp lực trả nợ cùng với
việc thiếu tiền giải ngân cho các dự án khiến nhiều doanh nghiệp đứng trên bờ vực
có nguy cơ phá sản.
Qua phân tích thực trạng của các công ty BĐS niêm yết trên TTCKVN giai
đoạn 2008- 2015 cho thấy các công ty hầu hết đều đang đối mặt với vô vàn khó
khăn khi thị trường BĐS trầm lắng, thậm chí không ít công ty đang đứng trước
nguy cơ phá sản. Một trong những nguyên nhân chủ yếu làm nên tình trạng này là
các công ty BĐS bị “sập bẩy” do việc sử dụng đòn bẩy tài chính quá mức. Điều này
có thể được lý giải do trước đây, khi thị trường BĐS đang “ăn nên làm ra” thì chỉ
cần các chủ đầu tư có được dự án là có thể thu được lợi nhuận rất lớn. Chính điều
đó, việc đầu tư vào BĐS như có ma lực lôi kéo khiến cho thị trường trở nên sôi
động, đi đâu cũng nghe đến BĐS và dù cho nhiều nhà đầu tư mặc dù không có kinh
nghiệm vẫn lao vào lĩnh vực này như con thiêu thân. Theo số liệu của Vietnam
Report (2015) trong khi ROE và ROA của các công ty BĐS chỉ bằng một nửa so
với bình quân chung của 500 DN tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam thì tỷ lệ đòn bẩy
114
họ lại sử dụng cao gấp đôi so với mức bình quân.
Với đặc thù của hoạt động kinh doanh BĐS đòi hỏi các dự án đầu tư thường
cần một số vốn rất lớn. Tuy nhiên đa phần các công ty hiện nay lại không thể có đủ
vốn tự có để đầu tư cho các dự án. Chính vì vậy, các công ty phải đi vay và huy
động vốn từ các nguồn khác nhau để thực hiện dự án là điều không thể tránh khỏi.
Một số các công ty như công ty cổ phần Quốc Cường Gia Lai, CTCP Bất
động sản Sài Gòn Thương Tín, CTCP Vạn Phát Hưng, CTCP Tập đoàn Đại
Dương,… là những thương hiệu bất động sản có tiếng trên sàn chứng khoán phía
Nam, chỉ xếp sau một vài "đại gia" siêu hạng như CTCP Vincom (VIC) hay CTCP
Hoàng Anh Gia Lai (HAG). Nhưng những doanh nghiệp này hiện đang phải đối
mặt với hoạt động kinh doanh thua lỗ, hoặc các khoản nợ vay nặng nề, dẫn tới
những rủi ro tài chính không hề nhỏ. Xem các báo cáo tài chính của các doanh
nghiệp bất động sản đang niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán HNX và HOSE
ta có thể thấy có hai điểm thuyết minh khá giống nhau: phần lớn đang sở hữu những
lượng hàng tồn kho trị giá lớn; đồng thời sở hữu luôn việc phải trả những khoản nợ
vay khổng lồ.
Theo số liệu thực tế khoản nợ phải trả luôn chiếm hơn 50% tổng tài sản của
doanh nghiệp và có sự tăng dần qua các năm (năm 2015 có hệ số nợ bình quân là
63% tăng so với năm 2014 là 60%). Tổng nợ phải trả của các công ty BĐS tại thời
điểm 31/12/2015 đạt gần 179 nghìn tỷ đồng, tăng 38% so với cuối năm 2014. Có
thể kể đến một số công ty như: Công ty cổ phần cơ điện và xây dựng Việt Nam (mã
MCG) nợ phải trả các năm 2013, 2014, 2015 lần lượt là 2.251,6 tỷ đồng, 1.684 tỷ
đồng, 1.486 tỷ đồng tương ứng với tổng tài sản các năm là 2.607 tỷ đồng năm 2013,
2.783 tỷ đồng năm 2014, 2.084 tỷ đồng năm 2015. Và như vậy hệ số nợ của MCG
luôn duy trì ở mức cao lần lượt là 80,9% năm 2013, 74,56% năm 2014 và 71,3%
năm 2015. Công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam (mã PVX) với hệ số nợ trên
tổng tài sản đều trên 80% (năm 2014 là 81,38%, năm 2015 là 80,7%). Công ty cổ
phần đầu tư phát triển đô thị và KCN Sông Đà (mã SJS) có hệ số nợ trên tổng tài
sản năm 2015 là 81,24% tăng hơn 20% so với năm 2014. Ngay cả đại gia trong lĩnh
115
vực bất động sản như Tập đoàn Vingroup cũng có hệ số nợ cao ngất ngưởng là
74,17% năm 2015, năm 2014 là 69,85%, năm 2012 lên tới 80,52% đặc biệt trong
năm 2015 nợ ngắn hạn chiếm đến 60% tổng nợ phải trả của doanh nghiệp. Ngoài ra
có thể kể đến các công ty khác có hệ số nợ cao như: Công ty VPH năm 2015 là
64,36%, HAG là 66,69%, PDR năm 2014 là 75,74%, năm 2015 là 69,86%…
Những con số này cho thấy các doanh nghiệp bất động sản này đang quá phụ thuộc
vào các khoản nợ, chứng tỏ mức độ độc lập về tài chính là thấp. Đồng thời các
doanh nghiệp liên tục duy trì hệ số này cao sẽ gặp khó khăn trong việc huy động
thêm các nguồn vốn từ bên ngoài từ đó càng có nguy cơ rơi vào mất khả năng thanh
toán.
Bảng 5. 1: hệ số nợ của một số công ty bất động sản giai đoạn 2011- 2015
STT Năm 2015 Năm 2014 Năm 2013 Năm 2012 Năm 2011
0.766 0.565 0.713 0.788 0.812 0.699 0.666 0.742 0.644 0.647 0.794 0.553 0.746 0.761 0.615 0.757 0.627 0.698 0.715 0.603 0.841 0.546 0.809 0.775 0.566 0.748 0.588 0.754 0.695 0.624 0.839 0.499 0.728 0.800 0.594 0.725 0.527 0.805 0.702 0.452 0.814 0.536 0.686 0.736 0.724 0.693 0.523 0.768 0.692 0.422 Công ty IDV 1 2 DTA 3 MCG SGT 4 SJC 5 PDR 6 SZL 7 VIC 8 VPH 9 PVL 10 (Nguồn: Tính toán của tác giả)
Và mặc dù hiện nay các công ty bất động sản đang sử dụng đòn bẩy tài chính
cao như vậy, tuy nhiên hiệu quả mang lại từ công cụ này lại không như mong đợi,
minh chứng là trong năm 2015, có 15 doanh nghiệp giảm lãi và 4 doanh nghiệp thua
lỗ (bằng với số lượng năm 2014), trong đó một doanh nghiệp đối mặt với án hủy
niêm yết do thua lỗ ba năm liên tiếp. Ví dụ Becamex IJC (IJC) có lãi thấp nhất trong
6 năm qua, với doanh thu năm 2015 giảm hơn 33% còn 689 tỷ đồng do hụt thu ở
mảng bất động sản và lãi sau thuế giảm từ 230 tỷ năm 2014 xuống còn 127 tỷ đồng,
mức thấp nhất kể từ năm 2010. Mã SDH lỗ nặng nhất với hơn 23 tỷ đồng do công
ty thiếu công ăn việc làm trong khi chi phí tiền lương vẫn phải trả bình thường.
116
Công tác thu hồi vốn của SDH chậm nên chi phí tài chính cao và phải trích lập gần
15 tỷ đồng. Riêng PXL lỗ hơn 10 tỷ đồng năm 2015, ghi nhận năm thứ ba liên tiếp
thua lỗ. Số lượng về các công ty đang làm ăn thua lỗ liên tục là dấu hiệu cho thấy sự
khủng hoảng của công ty bất động sản.
Như vậy, với khoản nợ phải trả nhiều kèm theo đó là chi phí tài chính đang
là gánh nặng lớn đè lên vai nhiều công ty bất động sản, hàng làm ra không bán
được, mà tiền lại là đi vay, lãi chồng lãi, các công ty bất động sản sẽ chết dần trong
các khoản nợ và đi đến phá sản. Doanh nghiệp càng to, lượng hàng càng nhiều, nợ
càng lớn, chi phí tài chính càng tăng cao thì việc trượt dốc của doanh nghiệp càng
diễn ra mau chóng khi lãi suất và sức mua bất động sản tỷ lệ nghịch với nhau.
Rõ ràng không thể phủ nhận vai trò tích cực của đòn bẩy tài chính trong một
lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi nguồn vốn lớn và chậm thu hồi như ngành bất động
sản, đặc biệt là ở đất nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên cũng xuất phát
từ đặc thù của ngành BĐS lượng hàng tồn kho và các khoản phải thu quá nhiều, đặt
các doanh nghiệp vào tình thế vừa là chủ nợ, vừa là con nợ. Chính vì lẽ đó, song
hành cùng với sự phát triển của ngành bất động sản Việt Nam luôn tiềm ẩn mất khả
năng thanh toán. Do đó để duy trì sự phát triển bền vững trong thời gian tới, cần áp
dụng đồng bộ các giải pháp.
Với riêng bản thân các doanh nghiệp cần phải xác định rõ việc sử dụng đòn
bẩy tài chính sao cho hợp lý.Cần thiết phải giảm tỷ lệ nợ trong tổng nguồn vốn của
doanh nghiệp, tìm cách đầu tư các khoản đi vay có hiệu quả bằng cách cần tìm hiểu
nhu cầu thực sự của thị trường từ đó giúp đầu tư vào những dự án có tính khả thi và
có khả năng thanh toán cao, giúp nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của
doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, để giảm thiểu rủi ro phá sản từ việc vay nợ quá nhiều điều cần
thiết là các công ty BĐS cần phải theo dõi và quản lí tốt tổng nợ của mình tránh
việc quá lạm dụng đòn bẩy tài chính. Mặt khác, khi có những dấu hiệu cảnh báo về
tình hình sức khỏe của công ty thì việc quản lý, theo dõi chặt chẽ các khoản nợ có
thể giúp cho người quản lý có những quyết định phù hợp để cải thiện tình hình.
117
Ngoài việc quản lí chặt chẽ các khoản nợ, công ty cũng cần phải chú ý trong
việc sử dụng các loại nợ trong việc tài trợ, đầu tư vào tài sản. Hạn chế việc sử dụng
nợ ngắn hạn để đầu tư vào các loại tài sản dài hạn. Việc tăng tổng tài sản công ty
nên ưu tiên từ nguồn vốn chủ sỡ hữu vì sẽ làm giảm rủi ro về mặt tài chính.
Ngoài ra, các công ty BĐS cần thực hiện tốt việc công bố thông tin, đảm bảo
các thông tin tích cực đến được với các nhà đầu tư một cách chính xác, tránh và xử
lí các thông tin nhiễu không tốt về doanh nghiệp. Bởi vì, khi được nhà đầu tư đánh
giá tốt (phản ánh qua giá cổ phiếu cao) thì doanh nghiệp có thể huy động vốn từ thị
trường dễ dàng hơn khi gặp khó khăn về tài chính, giúp cải thiện tình hình sức khỏe
cho doanh nghiệp.
Đối với các bên có liên quan, để "cứu" những cú rơi có thể diễn ra theo chiều
hướng domino, trong dài hạn, không thể không khơi thông đầu ra cho hàng hóa của
các công ty bất động sản. Một cơ chế lãi suất dành cho bất động sản giúp giảm tải
lãi vay và bắc nhịp cầu liên thông giữa cung và cầu sẽ là tối ưu cho cả doanh nghiệp
lẫn thị trường. Quan sát cách điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
trong thời gian qua, có thể nhìn thấy trước rằng, điều này là khó khả thi, ít nhất là
trong thời gian trước mắt. Lý do đơn giản là: nền kinh tế vẫn còn phải cố gắng
"cách ly" với virus lạm phát khứ hồi.
Ngoài ra cần thiết triển khai mạnh mẽ Nghị quyết về xử lý nợ xấu của Quốc
Hội từ đó sẽ giúp tác động mạnh lên nền kinh tế nói chung, giúp giảm chi phí xã hội
và hỗ trợ giảm lãi suất ngân hàng. Do đó, cả doanh nghiệp, người đi vay và ngân
hàng sẽ cùng được lợi. Với thị trường bất động sản, nó sẽ tạo ra sản phẩm nhiều hơn
và qua đó giảm bớt nguồn cung dư thừa, giải quyết tình trạng “giở sống giở chết”
của các công trình, giảm đi hình ảnh các tòa nhà đắp chiếu và sự lãng phí của cải
toàn xã hội sẽ được giải phóng.
5.1.2. Nâng cao khả năng sinh lợi của doanh nghiệp
Theo kết quả hồi quy cho thấy chỉ tiêu đại diện cho khả năng sinh lợi của
doanh nghiệp là ROA (lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản bình quân) có ảnh hưởng
ngược chiều đến rủi ro phá sản, có nghĩa là trị số của ROA càng cao thì rủi ro phá
118
sản càng thấp, ngược lại khi trị số của ROA càng thấp thì rủi ro phá sản sẽ càng cao.
Chính vì vậy, để giảm thiểu được RRPS điều cần thiết là các công ty BĐS phải tìm
các biện pháp làm gia tăng khả năng sinh lợi từ tài sản của doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy hiện nay mặc dù các công ty bất động sản sử dụng đòn bẩy
tài chính cao nhưng khả năng sinh lợi không cao, thậm chí một số công ty ROA âm
liên tục trong nhiều năm. Bảng 5.1 đưa ra giá trị ROA của một số các công ty bất
động sản từ năm 2011- 2015.
Bảng 5. 2: Giá trị ROA một số công ty bất động sản giai đoạn 2011- 2015
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 PV2 VIC QCG NBB DTA PTL PVL KDH ITC VPH Năm 2015 Năm 2014 Năm 2013 Năm 2012 Năm 2011 -36.97% 10.87% -0.21% 0.82% -2.66% -5.86% -20.48% -7.11% -11.95% 0.76% 0.12% 4.04% -0.17% 6.24% 0.34% -0.10% -2.78% -2.52% 0.27% 0.33% 5.17% 3.48% -0.83% 2.81% 0.77% 4.91% -0.02% 0.09% -4.94% 0.24% -0.10% 1.27% 0.29% 1.18% 0.05% 0.27% -2.70% 4.72% 0.33% -2.76% -9.94% 4.54% 0.49% 1.16% 0.27% 0.11% 0.47% 2.58% 0.33% -0.40% (Nguồn: Tính toán của tác giả)
Nhìn vào bảng 5.1 có thể thấy đa số các công ty bất động sản có sức sinh lợi
trên tổng tài sản thấp. Ví dụ các công ty như: PV2, PVL, VPH, QCG có ROA âm
trong những năm liên tiếp. Đặc biệt PV2 năm 2013 ghi nhận mức sụt giảm ROA
thấp kỷ lục là -36,97%, đây cũng là giá trị thấp nhất trong toàn bộ các công ty bất
động sản niêm yết giai đoạn từ 2008 -2015. Hoặc như công ty PVL cũng có mức sụt
giảm ROA rất thấp -20,48% năm 2013, đồng thời ROA của các năm còn lại của
PVL cũng rất đáng lo ngại. Nhìn chung qua bảng trên ta thấy khoảng thời gian từ
2011- 2013, trị số ROA trở nên thấp hơn hẳn thể hiện giai đoạn làm ăn kém hiệu
quả của các công ty bất động sản, và đây cũng là tình hình chung của toàn bộ các
công ty bất động sản trong giai đoạn khủng hoảng này.
Rõ ràng rằng, hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp chỉ có thể đạt được
khi doanh nghiệp có khả năng sinh lợi cao. Vì thế, để có thể thu được khả năng sinh
lợi cao, doanh nghiệp nhất định phải áp dụng đồng bộ các biện pháp thích hợp để
119
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, vật lực trong kinh doanh, nâng cao được
hiệu suất, hiệu năng hoạt động. Nâng cao hiệu suất công việc, hiệu năng hoạt động
là những điều kiện tiên quyết để nâng cao khả năng sinh lợi của công ty.
Với đặc thù ngành BĐS hiện nay để nâng cao khả năng sinh lợi trên tài sản
các doanh nghiệp cần chú trọng để có thể giảm lượng hàng bất động sản tồn kho,
đẩy nhanh vòng quay của tài sản, tăng doanh thu, cắt giảm những chi phí không cần
thiết. Trong đó việc gia tăng doanh thu về mặt lý thuyết có thể được tăng bằng cách
làm tăng giá bán tuy nhiên tình hình thị trường bất động sản căng thẳng, cạnh tranh
đang khốc liệt như hiện nay thì công ty khó có thể thực hiện cách thức này và biện
pháp chính là phải làm tăng những nhu cầu, tạo ra những sản phẩm mới, thực hiện
chính sách bán hàng có hiệu quả. Các biện pháp cụ thể có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, xem xét cơ cấu lại sản phẩm, linh động trong phương thức thanh
toán của khách hàng.
Kinh doanh, để thành công, bắt buộc phải biết sự kì vọng của xã hội và tiếp
tục những hoạt động kinh doanh phù hợp với những nhu cầu đó (Turko, 1999). Một
thực tế trên thị trường hiện nay, đó là sự lệch pha cung cầu, thiếu căn hộ nhỏ nhưng
thừa căn hộ lớn, căn hộ cao cấp. Vì thế các doanh nghiệp có thể thay đổi chiến lược
của mình sang chia nhỏ các căn hộ, đầu tư vào các loại căn hộ có diện tích nhỏ với
mức giá hợp lý để thu hút đối tượng khác hàng là người có thu nhập thấp nhưng có
nhu cầu thực sự từ đó có thể giúp nâng cao tính thanh khoản của dự án.
Bên cạnh đó cần linh hoạt trong phương thức thanh toán. Thay vì phương
thức thanh toán truyền thống trước đây, doanh nghiệp có thể cho khách hàng thanh
toán theo phương thức linh động hơn như trả góp, trả trước một phần rồi trả số còn
lại trong vòng bao nhiêu năm với mức lãi suất hợp lý. Hoặc với những căn hộ cao
cấp, các công ty có thể đưa ra chính sách hưởng lãi suất sinh lời hàng năm là 10%,
12%... trong vòng 10 năm, 15 năm trên giá trị mua nhà, đồng thời ưu đãi chiết khấu
tỷ lệ cao đối với những người trả tiền ngay, trả tiền 90%, 95% giá trị căn hộ.
Thứ hai, linh hoạt trong các chiến lược kinh doanh.
Trong bối cảnh thị trường BĐS đang trầm lắng, các công ty BĐS cần phải
120
nhanh nhạy trong hoạt động kinh doanh. Lúc này rất cần sự kỹ càng trong việc lựa
chọn các dự án có tính khả thi, gắn với nhu cầu thực tế của người dân, tránh việc
đầu tư dàn trải, đầu tư không bám sát thực tế, từ đó sẽ làm cho doanh nghiệp càng
lún sâu vào khó khăn, thậm chí nguy cơ rơi vào phá sản. Trên thị trường BĐS có
nhiều phân khúc, thừa là thừa phân khúc cao cấp và đang thiếu phân khúc nhà ở phổ
cập. Chính vì vậy, các công ty bất động sản nên chú trọng vào các phân khúc này
nhằm tăng tính thanh khoản cho BĐS, làm giảm bớt gánh nặng về nợ cho công ty.
Thứ ba, tìm mọi biện pháp để giảm giá thành, tiến tới hạ giá bán sản phẩm.
Trên thực tế, nhu cầu tiêu thụ nhà ở của người dân còn rất nhiều, tuy nhiên
thị trường BĐS vẫn rơi vào tình trạng trầm lắng do cung cầu chưa gặp nhau, giá
nhà, đất vẫn còn khá cao so với thu nhập của phần đông người dân. Chính vì vậy, để
thị trường BĐS có thể sôi động, nhộn nhịp, tăng khả năng thanh toán thì các công ty
phải hạ giá thành sản phẩm, từ đó giảm giá bán để phù hợp với thu nhập của người
dân. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần quan tâm đến các vấn đề cơ bản sau:
- Về mặt kỹ thuật, doanh nghiệp cần nghiên cứu ứng dụng vật liệu mới, công
nghệ mới trong xây dựng để rút ngắn thời gian thi công, để tiết kiệm chi phí sản
xuất và hạ giá thành sản phẩm. Hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của
nền khoa học công nghệ, doanh nghiệp có thể ứng dụng các công nghệ tiên tiến đem
lại nhiều ưu điểm vượt trội so với công nghệ xây dựng truyền thống. Doanh nghiệp
có thể tham khảo công nghệ đúc nhà bê tông xốp không tháo cốt pha, hay các công
nghệ của nước ngoài như công nghệ sàn rỗng Bubbledeck cải tiến loại C,... So với
các công nghệ truyền thống, sử dụng các công nghệ mới này mang đến nhiều ưu
việt như tiết kiệm chi phí cũng như giảm bớt nhân lực và đảm bảo tiến độ, chất
luợng công trình trong xây dựng.
- Trong quá trình triển khai dự án, các nhà quản trị doanh nghiệp cần có kế
hoạch theo dõi, kiểm tra sát sao để tránh thất thoát, phát sinh các chi phí không cần
thiết nhằm sử dụng hiệu quả nhất nguồn vốn đầu tư vào dự án, đồng thời, đảm bảo
rằng sử dụng các biện pháp giảm giá thành nhưng không ảnh hưởng đến chất lượng
của sản phẩm.
121
Thứ tư, cần chú trọng đến xây dựng cơ sở dữ liệu về dự án bất động sản:
Nhiều doanh nghiệp chưa xây dựng được hệ thống dữ liệu đầy đủ về các dự
án bất động sản, đồng thời còn ngại cung cấp thông tin rõ ràng về những sản phẩm
mình sẽ triển khai và đưa ra thị trường. Cũng vì thông tin không đầy đủ nên việc
phân tích nhu cầu khách hàng chưa chính xác, dẫn đến đầu tư quá nhiều vào phân
khúc cao cấp, trong khi thị trường có đến 80% cần ở phân khúc giá rẻ, trung bình.
Vì thế, thị trường BĐS tại Việt Nam trong mấy năm qua bị tồn kho một lượng lớn
là điều dễ hiểu. Chính vì vậy các công ty BĐS cần chú ý khâu xây dựng dữ liệu
thông tin về các dự án BĐS để tránh dẫn đến lệch pha trong đầu tư và đưa ra thị
trường nhiều sản phẩm mà khách hàng không đủ khả năng mua.
5.1.3. Cần chú trọng đến quản lý tốt dòng tiền hoạt động của doanh nghiệp
Doanh nghiệp cũng như một cá nhân, một gia đình, bất cứ hoạt động nào như
mua sắm tài sản, hàng hóa, máy móc, trả lương cho cán bộ, nhân viên… đều liên
quan đến “tiền”. Dòng tiền là “dòng máu” duy trì tất cả các hoạt động sản xuất -
kinh doanh, là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Không có tiền trả nợ khi đến hạn,
đồng nghĩa với việc doanh nghiệp có thể bị chủ nợ yêu cầu làm thủ tục phá sản.
Việc thiếu tiền dẫn doanh nghiệp có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và
phát triển của mình. Một thực tế không phải chứng minh đó là tiền đóng vai trò tối
thượng trong sự sống còn của bất kể doanh nghiệp lớn nhỏ nào. Và trong thời kỳ
khủng hoảng như hiện nay người ta còn nói rằng doanh nghiệp nào có tiền thì DN
đó là vua, điều này quả không sai vì nhìn vào thực tế có không ít DN từ đỉnh cao rơi
xuống bờ vực vì thiếu tiền ví như các doanh nghiệp đang xây dựng dự án dở dang
nhưng vì thiếu tiền nên đành phải dừng thi công và như thế việc này còn khiến DN
nợ tiền của đối tác, nợ lương, nợ thưởng của người lao động. Mọi hoạt động của DN
gần như bị tê liệt, các đối tác liên tục tạo sức ép để đòi nợ, người lao động hoang
mang lo lắng là hậu quả mà DN phải gánh chịu khi rơi vào tình cảnh này. Chính vì,
các DN cần có những giải pháp thích hợp để từng bước vượt mọi thách thức. Điều
quan trọng nhất là doanh nghiệp cần có biện pháp để quản trị dòng tiền một cách
122
chủ động bài bản không chỉ giúp dòng tiền của DN hoạt động một cách trơn tru, cân
đối, hiệu quả mà còn đáp ứng được sự phát triển của DN trong mọi hoàn cảnh,
ngược lại DN luôn phải chạy theo dòng tiền, sản xuất và kinh doanh luôn phải trong
tình trạng thấp thỏm lo âu vì tiền có thể hết bất kỳ lúc nào. Và đó cũng là nguyên
nhân khiến cho DN luôn đi sau, luôn bị thua thiệt và trong bối cảnh khủng hoảng
luôn nằm trong nhóm DN có nguy cơ bị loại khỏi thị trường đầu tiên và đây có lẽ là
không một DN nào muốn xảy đến với mình.
Với doanh nghiệp, mục tiêu kinh doanh có lợi nhuận luôn là một trong
những ưu tiên được đặt lên hàng đầu. Doanh thu, lợi nhuận tăng trưởng, hoàn thành
vượt kế hoạch luôn mang tính tích cực và tạo tâm lý lạc quan cho nhà đầu tư. Tuy
nhiên, điều đó chưa đủ để đánh giá sức khỏe tài chính doanh nghiệp nếu bỏ qua yếu
tố dòng tiền - một tiêu chí ít được doanh nghiệp đề cập ngay cả khi lập kế hoạch sản
xuất - kinh doanh.
Không ít các công ty bất động sản có dòng tiền thuần từ hoạt động kinh
doanh bị âm đến cả trăm tỷ đồng trong nhiều quý, nhiều năm liên tục mặc dù lợi
nhuận sau thuế của các năm tương ứng ghi nhận mức lãi không hề nhỏ. Có thể kể
đến như: Công ty cổ phần công nghiệp Tân Tạo (mã ITA) có mức lợi nhuận sau
thuế là 136 tỷ đồng năm 2015, năm 2014 là 145 tỷ đồng, năm 2013 là 90 tỷ đồng và
33 tỷ đồng năm 2012. Tuy nhiên dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh lại âm
liên tục với mức tăng năm sau cao hơn năm trước cụ thể là -213,3 tỷ đồng năm
2012, - 266,9 tỷ đồng năm 2013, - 857,5 tỷ đồng năm 2014 và đặc biệt âm nặng vào
năm 2015 là – 1.057 tỷ đồng. Có thể do biến động hàng tồn kho và các khoản phải
trả cũng là nguyên nhân chính khiến dòng tiền hoạt động kinh doanh của ITA âm
nhiều như vậy và gần như toàn bộ sự thiếu hụt trong dòng tiền hoạt động kinh
doanh của ITA được tài trợ bằng nguồn tiền từ hoạt động tài chính (thu tạm ứng,
nhận chi viện), trên dưới 1.000 tỷ đồng/năm. Hoặc như công ty cổ phần thương mại
dịch vụ bất động sản Hoàng Quân (mã HQC) năm 2015 có lợi nhuận sau thuế gia
tăng một cách ngoạn mục là 641 tỷ đồng tăng hơn 20 lần so với năm 2014 là 30 tỷ
đồng, và gần 30 lần so với năm 2013 là 23 tỷ đồng. Và mặc dù báo lãi “khủng”
123
song điều bất thường trong hoạt động kinh doanh của công ty này là dòng tiền thuần
từ hoạt động kinh doanh thu lại đáng suy ngẫm cụ thể năm 2015 là -808,3 tỷ đồng,
năm 2014 là – 754,6 tỷ đồng, năm 2013 là – 81,3 tỷ đồng, nguyên nhân là do hàng
tồn kho năm 2015 là 917 tỷ đồng tăng 128 tỷ đồng so với 789 tỷ đồng năm 2014,
tăng 316 tỷ đồng so với năm 2013, đồng thời gia tăng khoản phải thu ngắn hạn từ
1.668 tỷ đồng năm 2014 lên 3.300 tỷ đồng năm 2015. Ngoài những doanh nghiệp
trên, các doanh nghiệp khác mặc dù ghi nhận lãi ròng khá cao nhưng trong báo cáo
lưu chuyển tiền tệ cho thấy khả năng tạo ra tiền từ ngành nghề chính gặp khá nhiều
vấn đề bởi dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh bị âm, có thể kể đến như: VPH,
SJC, SGT, QCG, NBB, DTA, DIG,... Như vậy, lợi nhuận nhiều không đồng nghĩa
với việc có thêm nhiều tiền từ hoạt động kinh doanh hơn.
Như vậy một câu hỏi đặt ra là tại sao công ty làm ăn có lãi mà trong năm lại
thường xuyên bị thiếu tiền, dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh có chiều hướng
sụt giảm mạnh và thậm chí là âm liên tục trong nhiều năm. Nếu dòng tiền từ HĐKD
âm nhiều năm liên tục có thể thấy tình hình kinh doanh của công ty đang gặp nhiều
vấn đề, liên quan đến những yếu tố dài hạn và sống còn của một doanh nghiệp.
Nguy cơ lớn nữa đối với DN có dòng tiền kinh doanh âm liên tục là ngân hàng sẽ
siết chặt nợ hơn các khoản vay, thậm chí không cho vay đối với những doanh
nghiệp rơi vào tình trạng này. Nếu doanh nghiệp được nuôi sống mãi bằng hai dòng
tiền từ hoạt đông đầu tư và hoạt động tài chính mà dòng tiền từ nghề kinh doanh
chính lại mất hút (bị âm) thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán lãi vay,
các khoản nợ vay ngắn hạn hay nợ dài hạn đến hạn trong kỳ, thậm chí việc thiếu
tiền cũng sẽ khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc chủ động đầu tư mở rộng
sản xuất, ít nhiều ảnh hưởng đến khả năng phát triển bên vững, lâu dài của chính
doanh nghiệp.
Bảng 5. 3: Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của một số công ty BĐS 2011 – 2015 (đơn vị tính: triệu đồng)
STT Năm 2015 Năm 2014 Năm 2013 Năm 2012 Năm 2011
124
-164.892 -198.447 -41.445 -89.046 -53.612 33.037 -17.968 -228.229 -8.886 -756.924 -351.621 -5.934 -24.400 -276.487 -7.734 Công ty QCG NBB HAR 1 2 3
-11.350 -46.795 -255.146 -34.904 -149.602 -1.057.042 -39.159 -75.684 61.426 -24.728 205.588 -857.568 17.898 -47.585 -1.007 25.801 -20.570 -266.891 13.680 -11.752 -310.648 40.622 -73.832 -213.267 5.190 404.302 -793.240 -73.079 -120.170 394.086 4 5 6 7 8 9 DTA SGT PDR LGL ITC ITA
-808.325 -754.605 -81.297 -105.538 296.484 10 HQC
(Nguồn: Vietstock.vn)
Nhìn vào bảng 5.2 cho thấy dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của một
số công ty âm liên tục trong nhiều năm. Đối với những doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực bất động sản, việc dòng tiền từ hoạt động kinh doanh âm liên tục thì
hẳn nhiên, áp lực về tiền mặt sẽ đặt toàn bộ lên hoạt động tài chính – nghĩa là
“mạch máu” của công ty sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn vốn từ bên ngoài. Nếu
nguồn vốn đó đến từ việc tăng vốn thì các doanh nghiệp sẽ chịu ít rủi ro hơn.
Nhưng nếu nguồn vốn đó lại phụ thuộc vào việc đi vay nợ, thì một khi các ngân
hàng thắt chặt hoạt động cho vay thì ngay lập tức tiền mặt của công ty sẽ cạn kiệt –
đồng nghĩa với việc “mạch máu” của công ty sẽ bị tắc nghẽn. Điều này là rất rủi ro
và có thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp phải ngừng hoạt động trước khi được
hưởng thành quả từ hoạt động đầu tư và kinh doanh của mình.
Tất nhiên, không phải mọi doanh nghiệp có dòng tiền hoạt động kinh doanh
âm đều đáng báo động. Với những doanh nghiệp mới thành lập, đang trong quá
trình mở rộng, phải nhập thêm hàng hóa, tăng tồn kho, tăng phải thu, phải trả…, thì
tình trạng dòng tiền âm là bình thường, công ty có thể sử dụng vốn vay hoặc huy
động từ cổ đông để bổ sung lượng thiếu hụt. Nhưng về dài hạn, dòng tiền hoạt động
kinh doanh phải dương để bù đắp cho các hoạt động đầu tư, trả nợ vay và cổ tức cho
cổ đông, nếu không thì doanh nghiệp có thể sẽ chìm vào gánh nặng nợ nần, thiếu
trước hụt sau, kèm với đó là kết quả kinh doanh bết bát.
Để có thể tự cứu mình, các doanh nghiệp có thể có nhiều cách xử lý khác
nhau như: bán cắt lỗ các dự án để thu tiền về, vay nợ, huy động thêm vốn từ cổ
đông, bán bớt tài sản.v.v. Ví dụ khi sóng gió ập đến, để giải quyết bài toán dòng tiền
125
trong bối cảnh không thể vay thêm các khoản vay mới, Quốc Cường Gia Lai đã
phải đẩy mạnh bán hàng, thậm chí bán lỗ bất động sản để có dòng tiền trả nợ, tập
trung cho các dự án trọng điểm. Hàng loạt dự án như Khu dân cư Quốc Cường 2,
Giai Việt, Lương Định Của… được chia nhỏ để bán, nhằm nhanh chóng thu tiền về.
Đó là cách để Quốc Cường Gia Lai tự cứu mình. Cũng như Quốc Cường Gia Lai,
không ít doanh nghiệp Việt Nam khác cũng đã phải lựa chọn hướng bán bớt tài sản,
bán dự án để có tiền trang trải nợ nần. Ngay cả “đại gia” Mai Linh cũng gặp khó
khăn đến nỗi phải bán cả bất động sản và xe…Và dù chọn phương án nào là khả dĩ
nhất khi mà tất cả đều hiểu rằng, dòng tiền chính là mạch máu chảy trong doanh
nghiệp. Mạch máu ngừng chảy, doanh nghiệp có nguy cơ chết yểu. Nhưng dễ dàng
bán mình, dù chỉ trong một vài tháng đi chăng nữa, doanh nghiệp cũng có nguy cơ
mất tất cả. Do vậy điều quan trọng nhất đó là các doanh nghiệp nên tập trung giữ
vững hoạt động kinh doanh hiện tại, cơ cấu lại sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu
thực, thực hiện các phương án kinh doanh tối ưu để đẩy nhanh việc bán hàng. Các
giải pháp cần quan tâm đến là mang tính chiến lược và mang tính tài chính. Không
nhất thiết doanh nghiệp phải “bán mình” mà cần có sự lựa chọn tỉnh táo hơn nữa.
Một số giải pháp các công ty BĐS cần quan tâm lúc này có thể kể đến như:
- Cơ cấu lại sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường.
- Đưa ra chiến lược nhằm bán được hàng, đẩy nhanh tiêu thụ lượng hàng tồn
kho, đó là các chính sách có sự khác biệt hóa với các công ty cùng ngành trên thị
trường, chẳng hạn như kèm các dịch vụ hậu mãi, hỗ trợ khách hàng trang trí, thay
đổi nội thất, .v.v.
- Tích cực thu hồi các khoản phải thu thông qua các chính sách về chiết khấu
thanh toán chẳng hạn.
- Bán bớt một số những tài sản không cần thiết.
- Tận dụng chính sách liên kết với các tổ chức tín dụng để có thể vay được
nguồn vốn ổn định với mức lãi suất và thời gian vay hợp lý. Hiện nay nhiều ngân
hàng thương mại đã thực hiện chính sách tín dụng liên kết giữa các khách hàng của
mình là nhà đầu tư – nhà thầu – nhà cung cấp vật liệu xây dựng. Điều này giúp cho
126
doanh nghiệp có vốn để tiếp tục hoạt động và giảm bớt sự khó khăn cho các công ty
bất động sản.
- Đàm phán với các chủ nợ để có thể kéo dãn thêm thời gian trả các khoản nợ
đến hạn như ngân hàng.
5.1.4. Điều tiết tốt vốn hoạt động thuần của doanh nghiệp một cách hợp lý
Dựa vào kết quả hồi quy cho thấy chỉ tiêu vốn hoạt động thuần/ tổng tài sản
có quan hệ ngược chiều với rủi ro phá sản của các công ty bất động sản, nghĩa là khi
trị số của vốn hoạt động thuần/ tổng tài sản tăng lên sẽ làm cho rủi ro phá sản giảm
xuống và ngược lại khi trị số của chỉ tiêu này giảm xuống sẽ làm cho rủi ro phá sản
tăng lên. Do vậy, để giảm thiểu rủi ro phá sản cần tìm cách gia tăng trị số của chỉ
tiêu này.
Rõ ràng rằng, một doanh nghiệp muốn hoạt động không bị gián đoạn cần
thiết phải duy trì một mức vốn hoạt động thuần để thỏa mãn việc thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn và dự trữ hàng tồn kho. Vốn hoạt động thuần của doanh nghiệp
càng lớn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao. Ngược lại khi vốn hoạt
động thuần giảm sút, doanh nghiệp sẽ mất dần khả năng thanh toán, mất dần tính
linh hoạt và sự tín nhiệm với các tổ chức tài chính, nhà cung cấp và khách hàng. Từ
đó dẫn đến mất dần tiềm lực của công ty để có thể khai thác những cơ hội kinh
doanh mới.
Chính vì thế, bản thân các công ty bất động sản phải luôn có những giải pháp
bảo toàn và phát triển vốn hoạt động thuần. Cũng như vốn cố định, bảo toàn được
vốn hoạt động thuần có nghĩa là bảo toàn được giá trị thực của vốn hay nói cách
khác là bảo toàn được sức mua của đồng vốn không bị giảm sút so với ban đầu.
Điều này thể hiện qua khả năng mua sắm tài sản lưu động và khả năng thanh toán
của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Xét về mặt cơ bản các công ty cần xác định (ước lượng) số vốn hoạt động
thuần cần thiết, tối thiểu trong kỳ kinh doanh. Như vậy sẽ đảm bảo đủ vốn hoạt
động thuần cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường
127
xuyên, liên tục, tránh ứ đọng vốn (phải trả lãi vay), thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn
dẫn đến nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Bên cạnh đó, các công ty cũng cần tổ chức
khai thác tốt nguồn tài trợ vốn hoạt động thuần cho doanh nghiệp. Về trình tự, cần
khai thác triệt để các nguồn vốn nội bộ và các khoản vốn có thể chiếm dụng một
cách hợp pháp, thường xuyên. Nếu số vốn hoạt động thuần còn thiếu, doanh nghiệp
tiếp tục khai thác đến nguồn bên ngoài doanh nghiệp như: vốn liên doanh, vốn vay
của ngân hàng, hoặc các công ty tài chính, vốn phát hành cổ phiếu, trái phiếu… Khi
khai thác các nguồn vốn bên ngoài, điều đáng lưu ý nhất là phải cân nhắc yếu tố lãi
suất tiền vay.
Trong bối cảnh của thị trường bất động sản hiện nay, đặc biệt có những công
ty có các khoản nợ ngắn hạn vượt quá tài sản ngắn hạn của công ty dẫn đến lượng
vốn hoạt động thuần âm, điều đó cho thấy nguồn tài trợ thường xuyên của doanh
nghiệp không đủ để tài trợ cho tài sản dài hạn nên phần thiếu hụt này công ty phải
sử dụng một phần nợ ngắn hạn để bù đắp, tính ổn định của nguồn tài trợ tài sản hết
sức thấp, công ty phải đối mặt với việc khó khăn trong thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn và nguy cơ xảy ra phá sản luôn rình rập. Ví dụ công ty cổ phần đầu tư căn
nhà mơ ước (mã DRH) có vốn lưu động âm liên tục trong các năm từ 2011 đến năm
2015, ghi nhận cụ thể âm 64,6 tỷ đồng năm 2015 tăng gấp 3 lần so với năm 2014,
gấp 30 lần so với năm 2011, các tài sản của công ty chủ yếu nằm ở tài sản dài hạn
(các khoản đầu tư vào các công ty liên doanh liên kết, vào tài sản cố định), trong khi
đó các khoản nợ ngắn hạn là các khoản nợ từ vay và nợ tài chính ngắn hạn. Điều
này cho thấy, công ty DRH đang đi vay nợ ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn,
cân bằng tài chính lúc này đang ở trong tình trạng cân bằng xấu. Do vậy, để gia tăng
vốn hoạt động thì những công ty này có thể bán bớt những tài sản dài hạn không cần
thiết chẳng hạn. .
Bảng 5. 4: Giá trị vốn lưu động, hàng tồn kho, khoản nợ phải thu của một số công ty BĐS năm 2014 -2015
Vốn hoạt động thuần
Hàng tồn kho
Nợ phải thu
Công ty
STT 1
Năm 2015 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2014 1.055.570
4.509.951
5.442.162
4.120.109
3.475.646
505.434
QCG
2.436.694
2.114.386
676.227
927.947
2
DIG
2.215.234
2.494.869
128
3
9.058.360
7.346.083
8.364.448
7.616.350
3.361.579
2.830.014
KBC
1.122.029
499.214
925.131
288.128
DXG
1.470.044
713.508
4 5
917.164
788.927
3.300.690
1.668.057
HQC
2.469.859 567.501
1.347.115 2.048.476
974.980
2.416.420
397.196
283.421
NBB
6 7
2.215.234
2.494.869
6.034.609
5.413.250
665.869
280.267
PDR
6.611.796
2.343.941
5.865.283
2.074.964
653.811
279.488
KDH
8 9
1.410.490
1.297.806
1.614.676
1.599.110
280.247
156.636
ITC
3.631.340
4.303.915
1.889.094
ITA
10
3.665.832
4.247.598
2.372.589 (Nguồn: Tác giả tổng hợp)
Bên cạnh đó, một số các công ty mặc dù có vốn hoạt động cao (tài sản ngắn
hạn lớn hơn nhiều so với nợ ngắn hạn) tuy nhiên cơ cấu tài sản trong tài sản ngắn
hạn lại không hợp lý. Đó là tài sản ngắn hạn tồn tại chủ yếu ở lượng hàng tồn kho
cao ngất ngưỡng cũng như các khoản phải thu chưa thu được đều rất lớn dẫn đến
việc thanh toán các khoản nợ đến hạn thực sự gặp khó khăn. Ví dụ công ty cổ phần
Quốc Cường Gia Lai có vốn lưu động năm 2015 là 3.475 tỷ đồng, năm 2014 là
4.510 tỷ đồng tăng hơn 1.800 tỷ đồng so với năm 2013, tuy nhiên vốn hoạt động
thuần này tăng mạnh lại do lượng hàng tồn kho tăng cao, trong khi thực tế dòng tiền
trong các năm lại ghi nhận âm liên tiếp lần lượt năm 2015 là -24 tỷ đồng, năm 2014
là -165 tỷ đồng, năm 2013 là 89 tỷ đồng, và công ty vẫn quay trong mớ bòng bong
thiếu tiền để trả nợ
Số liệu trên bảng 5.4 cho thấy hiện nay nhiều doanh nghiệp đang có lượng
hàng tồn kho cao ngất ngưỡng như: PDR, QCG, KDH, ITC,... Lượng tồn kho nhiều
như vậy cũng cho thấy cơ cấu sản phẩm của các doanh nghiệp bất hợp lý (nhiều
công ty đầu tư dàn trải vào rất nhiều dự án không khả thi, thiếu cung sản phẩm có
nhu cầu thực tế như nhà có diện tích nhỏ, nhà dành cho người thu nhập thấp. Trong
khi đó lượng cung lại dồi dào đối với căn hộ cao cấp). Chính điều này dẫn đến mặc
dù vốn hoạt động thuần cao ngất ngưởng nhưng các công ty bất động sản vẫn không
thể thanh toán được các khoản nợ đến hạn. Cơ cấu tài sản ngắn hạn lúc này đang
thiếu cân đối. Và đây cũng chính là một phần nguyên nhân khiến cho dòng tiền của
một số các công ty bất động sản đang bị thiếu trầm trọng.
129
Do vậy, đối với công ty bất động sản hiện nay muốn gia tăng hệ số về vốn
hoạt động thuần trên tổng tài sản cần thiết phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Trong đó có thể chú trọng vào các giải pháp trọng điểm như sau:
- Tiến hành thực hiện các biện pháp để đảm bảo cơ cấu lại tài sản ngắn hạn
cho hợp lý gồm: tăng lượng tiền và tương đương tiền, giảm lượng hàng tồn kho,
giảm các khoản phải thu. Biện pháp này sẽ hữu ích đối với những công ty có lượng
tồn kho cao, các khoản phải thu chưa thu được tiền nhiều.
Đây là những giải pháp có tính chất quan trọng. Bản thân các công ty phải
vận dụng linh hoạt các biện pháp như cơ cấu lại sản phẩm, thực hiện linh hoạt chính
sách thanh toán đối với khách hàng, chính sách bán hàng hiệu quả,…Để làm được
điều đó trước mắt các công ty phải đẩy nhanh vòng quay tài sản, giải phóng hàng
tồn kho với chính sách giá cả và ưu đãi phù hợp. Việc bán các sản phẩm tồn kho
không đồng nghĩa với việc bán bằng mọi giá mà phải dựa trên cân đối với khả năng
sinh lợi, không thể nào bán với giá quá thấp được (tất nhiên trong một vài tình
huống cụ thể việc cắt lỗ một số dự án để quay vòng hàng tồn kho là điều có thể chấp
nhận, đặc biệt là vào những thời điểm công ty cần tiền để thanh toán các khoản nợ
đến hạn).
- Khai thác tốt các nguồn tài trợ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
- Bán bớt một số tài sản dài hạn không cần thiết. Biện pháp này có thể áp
dụng đối với những doanh nghiệp đang có vốn hoạt động thuần âm ví dụ như ở
công DRH nói trên.
- Các doanh nghiệp có thể xem xét việc giãn tiến độ thanh toán cho khách
hàng, việc làm này giúp cho doanh nghiệp giải quyết được phần nào áp lực lượng
hàng tồn kho tuy nhiên dòng tiền thu được cũng sẽ trở nên chậm chạp, tỷ suất sinh
lời không cao hơn so với chi phí lãi vay và cũng có thể đưa đến cho doanh nghiệp
những khó khăn nhất định khi phải thanh toán các khoản nợ đến hạn. Vì vậy, tuy
nhiên buộc doanh nghiệp phải chấp nhận thực tế là tiền khách hàng thanh toán đôi
khi không đủ để xây dựng công trình theo đúng tiến độ. Do đó, đây là sân chơi chỉ
dành cho những ông lớn có tiềm lực mạnh về tài chính hoặc sự hậu thuẫn lớn về tín
130
dụng.
5.1.5. Tăng cường hoạt động phân tích
Qua kết quả thống kê thu được về các yếu tố tác động đến RRPS đã trình bày
ở Chương 4 cho thấy có những chỉ tiêu có ảnh hưởng rõ nét đến RRPS của các công
ty bất động sản. Chính vì vậy, trong quá trình tiến hành phân tích RRPS, các công
ty bất động sản cần tăng cường chú ý đến các chỉ tiêu có ý nghĩa thống kê, bao gồm:
tổng nợ phải trả/ tổng tài sản, dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân, vốn hoạt động
thuần/ tổng tài sản và lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản bình quân, nhằm tăng khả
năng nhận diện và đánh giá RRPS của doanh nghiệp một cách tốt hơn.
- Hệ số nợ trên tài sản:
Tổng nợ phải trả Hệ số nợ so với (5.1) = tài sản Tổng tài sản
Hệ số này cho biết chính sách sử dụng nợ phải trả để tài trợ tài sản. Nói cách
khác, một đồng tổng tài sản của doanh nghiệp được tài trợ từ mấy đồng nợ phải trả
hay mức độ huy động nợ để đầu tư cho toàn bộ khối lượng tài sản mà doanh nghiệp
đang sử dụng.
Khi chỉ tiêu này càng nhỏ hơn một (<1) chứng tỏ doanh nghiệp đã dùng
nhiều vốn chủ sở hữu để mua sắm tài sản hoạt động khiến cho doanh nghiệp tự chủ
hơn về tài chính và chủ động trong hoạt động kinh doanh vì không lệ thuộc nhiều
vào nguồn vốn vay. Nhưng nếu chỉ tiêu này càng có trị số càng cao gần bằng một
(=1), chứng tỏ doanh nghiệp càng huy động nhiều nợ để mua sắm tài sản. Điều này,
khiến cho tình trạng rủi ro tài chính của doanh nghiệp càng lớn. Do đó nếu doanh
nghiệp nào duy trì hệ số này ở mức cao sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc huy
động thêm nguồn vốn từ bên ngoài. Nếu hệ số này lớn hơn một (>1), nợ phải trả
không chỉ sử dụng để tài trợ toàn bộ tài sản hoạt động của doanh nghiệp mà còn sử
dụng để bù lỗ từ hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nằm trong tình trạng mất khả
năng thanh toán.
- Hệ số dòng tiền/ tổng nợ phải trả bình quân:
Đây là chỉ tiêu mà Beaver (1966) cho rằng có ảnh hưởng lớn nhất trong việc
131
phân biệt công ty có nguy cơ rơi vào phá sản hay không. Và kết quả hồi quy trong
các doanh nghiệp BĐS Việt Nam cũng cho thấy đây là cũng là chỉ tiêu có ảnh
hưởng đến rủi ro phá sản. Do vậy, trong hoạt động phân tích liên quan đến rủi ro
phá sản cần lưu tâm đến hệ số này.
Hệ số dòng tiền trên nợ phải trả được tính như sau:
Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh Hệ số dòng tiền trên = (5.2) nợ phải trả Tổng nợ phải trả bình quân
Dòng tiền thuần hoạt động kinh doanh được tính bằng dòng tiền vào từ hoạt
động kinh doanh trừ dòng tiền ra từ hoạt động kinh doanh.
Hệ số này cho biết với dòng tiền lưu chuyển thuần từ hoạt động kinh doanh
trong kỳ, doanh nghiệp có đủ trang trải được các khoản nợ phải trả hay không.
Hệ số này là căn cứ để nhà đầu tư và các đối tượng sử dụng nhằm phân tích rủi
ro về dòng tiền, khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp từ dòng tiền thuần từ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh lấy từ chỉ tiêu có mã số 20
trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
- Hệ số vốn hoạt động thuần/ tổng tài sản: chỉ tiêu vốn lưu động trên tổng tài
sản thường được tìm thấy trong các nghiên cứu về các vấn đề của công ty, là một
thước đo khả năng thanh toán ròng của các tài sản của công ty so với tổng vốn. Hệ
số này đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu có ảnh hưởng đến rủi ro phá sản
như trong nghiên cứu của Atlman (1968).
Hệ số vốn hoạt động thuần trên tài sản được tính như sau:
Vốn hoạt động thuần Hệ số vốn hoạt động = (5.3) thuần trên tài sản Tổng tài sản
Thông thường, một công ty trải qua các khoản lỗ hoạt động kéo dài sẽ có tài
sản hoạt động thuần bị co lại so với tổng tài sản.
- Sức sinh lợi của tài sản:
132
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Lợi nhuận sau thuế Sức sinh lợi của = (5.4) tài sản Tổng tài sản bình quân
Chỉ tiêu này đo lường khả năng sinh lợi của tài sản mà không quan tâm đến
tới cấu trúc tài chính, cho biết một đồng tài sản tạo ra mấy đồng lợi nhuận sau thuế.
Trị số chỉ tiêu này càng lớn, khả năng sinh lợi của tài sản càng cao, thể hiện cơ cấu
đầu tư, trang bị, quản lý sử dụng và sử dụng tài sản hợp lý, hiệu quả và ngược lại.
Đây cũng là chỉ tiêu được nhiều nhà nghiên cứu chứng minh là những chỉ tiêu quan
trọng trong việc phát hiện dấu hiệu khủng hoảng và phá sản, như trong nghiên cứu
của Beaver (1968).
5.2. Kiến nghị về việc vận dụng các giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi
ro phá sản trong các công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam
Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, thị trường BĐS đã bắt đầu rơi vào
khó khăn và đóng băng kể từ năm 2008. Cho đến nay, mặc dù thị trường BĐS đã có
sự chuyển dịch cơ bản, giá trị tồn kho BĐS đã giảm và lượng giao dịch có tăng, tuy
nhiên, nhìn chung thị trường BĐS vẫn còn khá trầm lắng. Có thể kể đến một số
nguyên nhân gây ra sự đóng băng của thị trường trong suốt thời gian qua, đó là ảnh
hưởng của suy giảm kinh tế, cung quá nhiều và không phù hợp với cầu thực, tác
động từ thị trường tài chính, tiền tệ, cơ chế chính sách chưa hoàn thiện, vốn chủ
động của các chủ đầu tư vẫn hạn chế, tính minh bạch của thị trường chưa cao, giá
nhà, đất vẫn quá cao so với mặt bằng thu nhập của người dân. Vì vậy, để vượt qua
giai đoạn khó khăn thì không thể chỉ bản thân các doanh nghiệp mà cần có sự hỗ
trợ, hợp tác từ nhiều bên có liên quan để giúp cho các công ty BĐS sớm vực dậy
khỏi khó khăn, như vậy mới có thể làm cho nền kinh tế trở nên ổn định và bền vững
hơn.
5.2.1. Kiến nghị đối với nhà nước
Thị trường BĐS đang rơi vào giai đoạn khó khăn và đang rất cần được kích
133
cầu để phá băng. Chính vì thế, muốn vực dậy thị trường BĐS và các doanh nghiệp
đang có nguy cơ phá sản, nhà nước cũng cần có những chính sách hỗ trợ và thay đổi
cho phù hợp, để tạo điều kiện giúp họ vượt qua khó khăn, góp phần vào sự phát
triển kinh tế của đất nước. Một số kiến nghị có thể kể đến như sau:
- Cần tạo ra sự minh bạch trong thị trường bất động sản:
Để làm được điều này đòi hỏi cơ quan nhà nước cùng các doanh nghiệp thực
hiện các dự án phải cung cấp rõ ràng, đầy đủ các thông tin về dự án bất động sản đã
quy hoạch, triển khai. Trong đó, các cơ quan nhà nước phụ trách lĩnh vực này phải
thông báo đầy đủ năng lực của chủ đầu tư, nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp với nhà
nước, tiến độ dự án, tổng vốn đầu tư. Phía doanh nghiệp công bố chi tiết dự án, từng
giai đoạn thực hiện. Minh bạch những thông tin trên sẽ giúp các cơ quan quản lý
biết, có giải pháp hỗ trợ, xử lý khi dự án xảy ra các vướng mắc. Còn phía người dân
cũng có đầy đủ thông tin để lựa chọn sản phẩm phù hợp.
- Hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp với những tiêu chí nhất định:
Hiện nay thị trường bất động sản đang có những phân khúc nhà vẫn chưa
thực sự được quan tâm đặc biệt là phân khúc nhà cho những người có thu nhập
thấp. Chính vì vậy, để thúc đẩy phân khúc này, nhà nước cần có những biện pháp
hỗ trợ, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư đẩy nhanh dự án, sớm có sản phẩm để đáp
ứng nhu cầu của người dân ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, các biện pháp hỗ trợ
cũng cần phải có những tiêu chí phù hợp có thể kể đến như các dự án xây nhà ở cho
công nhân ở các khu công nghiệp đang thi công nhưng lại thiếu vốn hoặc đối với
các dự án nhà ở cho người có thu nhập thấp ở các thành phố lớn chẳng hạn,… Thêm
vào đó, việc điều chỉnh một số chính sách liên quan đến tín dụng cũng góp phần
làm tăng khả năng tiêu thụ cho các dự án như: giảm lãi suất đối với người mua nhà,
hoặc có thể giãn, giảm thuế cho các doanh nghiệp khi triển khai các loại dự án này
nhằm hạ bớt giá thành của sản phẩm bán ra.
- Phát triển các kênh tài chính bất động sản:
Do đặc điểm của hoạt động kinh doanh BĐS cần lượng vốn đầu tư lớn, thời
gian đầu dài, vì vậy các công ty BĐS cần có nhiều kênh huy động vốn khác nhau
134
nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh được diễn ra một cách liên tục. Xuất phát
từ nhu cầu đó, nhà nước cần xem xét hình thành các kênh tài chính sau đây:
+ Kênh tài chính thế chấp: Đây là một kênh luân chuyển vốn cho hệ thống
ngân hàng đồng thời góp phần làm tăng nguồn tín dụng của hệ thống ngân hàng cho
thị trường bất động sản. Về nguyên tắc, khi các công ty BĐS vay tiền từ hệ thống
tín dụng đều phải thế chấp. Trong số các tài sản thế chấp thì phần lớn đều là bất
động sản. Khi hệ thống thế chấp thứ cấp được khơi thông nguồn tiền sẽ làm kích
hoạt nguồn vốn cho thị trường BĐS. Chính vì thế để kênh tài chính này phát triển
nhà nước cần ban hành các văn bản pháp quy về mua bán nợ của thị trường BĐS.
Tuy nhiên, điều này rất khó hiện thực trong ngắn hạn mà chỉ có thể thực hiện được
trong trung hạn.
+ Trái phiếu bất động sản: đây là loại hình đa dạng, dễ thực hiện nhất và có
tiềm năng rất lớn. Xét về bản chất, loại trái phiếu này là trái phiếu có thể chuyển
sang hình thức góp vốn. Thực tế cho thấy việc áp dụng loại trái phiếu này mang lại
hiệu quả rất lớn. Ví dụ Sacomreal đã phát hành trái phiếu cho dự án căn hộ Phú Mỹ
Hưng và đã được bán hết chỉ trong 4 ngày, mang lại cho Sacomreal khoản thu 750
tỷ đồng.
+ Các hiệp hội vay và tiết kiệm, ngân hàng tiết kiệm: loại hình này được một
số nước trên thế giới hoạt động rất hiệu quả có thể kể đến như Đức, Pháp,... Hệ
thống này được hình thành dựa trên sự đồng thuận giữa các nhà đầu tư, từ ngân
hàng và người có nhu cầu sử dụng BĐS. Tuy nhiên, mặc dù đây được coi là giải
pháp mang lại hiệu quả cao nhưng là giải pháp trong trung và dài hạn.
+ Cần tích cực huy động các công ty bảo hiểm nhân thọ tham gia vào thị
trường BĐS: bởi lẽ, giữa công ty bảo hiểm nhân thọ và BĐS đều có chung đặc điểm
là hoạt động trong thời gian dài hạn. Vì vậy khi kết hợp giữa hai bên sẽ giúp cho thị
trường bất động sản có được nguồn tài chính ổn định và không phải chịu áp lực do
đáo hạn và áp lực về lãi suất.
+ Tạo điều kiện phát triển các công ty tài chính: trong thời gian vừa qua
hàng loạt các công ty tài chính đã được cấp phép và đi vào hoạt động như: công ty
tài chính Toyota, công ty tài chính PPF, công ty tài chính FPT,… Vì đây là kênh
135
huy động vốn dài hạn khá ổn định cho hoạt động đầu tư BĐS.
+ Huy động từ các quỹ đầu tư: đây là kênh tài chính có tính khả thi bởi
nguồn vốn này là không hạn chế, không có sức ép đáo nợ.
- Hoàn thiện thể chế và chính sách cho thị trường bất động sản:
+ Cần nhanh chóng ban hành các quy định về căn hộ nhỏ đáp ứng nhu cầu
của những người có thu nhập thấp. Nhiều người dân muốn ổn định chỗ ở nhưng
hiện tại giá căn hộ quá cao trong khi đó với mức thu nhập hạn chế và nhu cầu không
quá cao về tiện ích đang làm cho thị trường BĐS bỏ rơi phân khúc này. Do vậy để
nâng cao tính thanh khoản cho thị trường BĐS, tranh thủ nguồn vốn nhàn rỗi của
người dân, nhà nước cần sớm có những chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy các dự
án. Mặc dù nhu cầu bất động sản giá rẻ, trung bình chiếm đa số, song các doanh
nghiệp trong lĩnh vực này lại ít đầu tư vào. Một số doanh nghiệp có sự điều chỉnh,
cải thiện sản phẩm cao cấp nhỏ lại, giá giảm nên tiêu thụ không còn quá khó khăn.
Đầu tư vào một dự án bất động sản cao cấp cùng một thủ tục như vậy, nhưng lợi
nhuận cao hơn, thương hiệu lại được nâng lên. Vì thế, các công ty BĐS thường tập
trung vào dự án cao cấp, trong khi đầu tư các dự án nhà ở xã hội, nhà ở cho người
thu nhập thấp hoặc trung bình thì lợi nhuận thấp hơn, thương hiệu lại không tốt
bằng phân khúc cao cấp. Do đó, nếu không có sự định hướng, chung tay của nhà
nước trong việc sử dụng các chính sách làm công cụ hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào
các dự án bất động sản giá rẻ, trung bình thì rất khó kéo doanh nghiệp đầu tư vào
hai phân khúc này.
+ Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và thực thi các chính sách hỗ trợ linh
hoạt, bám sát và phù hợp nhu cầu thực tiễn của thị trường BĐS. Cho đến nay, các
văn bản pháp luật về bất động sản còn có sự chồng chéo, phức tạp, thủ tục hành
chính nhiêu khê, kéo dài, ẩn chứa tiêu cực, nhũng nhiễu trong quá trình phê duyệt,
thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất. Điển hình là khâu thẩm định thiết kế cơ sở,
thiết kế kỹ thuật thi công các công trình cấp 1, từ trên 20 tầng. Vì vậy, đề nghị nhà
nước giao cho cấp tỉnh việc thẩm định phê duyệt thiết kế xây dựng công trình cấp 1
(trên 20 tầng) và được quyết định chủ trương đầu tư dự án xây dựng nhà ở có tổng
136
mức đầu tư dưới 5.000 tỷ đồng. Đồng thời miễn thủ tục xin cấp giấy phép xây dựng
công trình trong dự án đã có quy hoạch chi tiết 1/500, hoặc quy hoạch tổng mặt
bằng đã được duyệt.
+ Hiện nay công tác giải phóng mặt bằng cực kỳ khó khăn dẫn đến dự án
không thể triển khai, chậm tiến độ, chôn vốn của doanh nghiệp trong một thời gian
dài. Thống kê cho thấy, riêng tại TP.HCM có tới 500 dự án ngừng triển khai, trong
đó đa số do vướng khâu giải phóng mặt bằng. Chính vì vậy, nhà nước nên cho phép
Ủy ban Nhân dân tỉnh được thực hiện cơ chế nhà nước thu hồi đất để sớm triển khai
thực hiện dự án, tránh tình trạng người có đất lợi dụng sự thiếu chặt chẽ của hệ
thống pháp luật để khiếu kiện kéo dài như hiện nay. Đồng thời giao cho "Tổ chức
phát triển quỹ đất" của các tỉnh, thành phố thực hiện thu hồi đất, giải phóng mặt
bằng, sau đó tiến hành đấu giá đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất để lựa chọn
nhà đầu tư để đảm bảo minh bạch, công bằng, hạn chế tình trạng khiếu kiện như
hiện nay, và tăng nguồn thu ngân sách nhà nước.
+ Nhà nước cần nâng cao chất lượng quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch
đầu tư phát triển BĐS.
+ Nhà nước cần thực hiện tốt chính sách lãi suất, vì đây là nút thắt khơi
thông dòng tiền đối với thị trường BĐS. Thực tế cho thấy, với chính sách tín dụng
chưa phù hợp như hiện nay nên chưa tạo được nguồn vốn trung hạn, dài hạn cho thị
trường bất động sản, trong lúc tính chất hoạt động của thị trường này là trung hạn,
dài hạn; lãi suất cho vay vẫn còn cao; thiếu nguồn vốn tín dụng cho nhà ở xã hội. Vì
vậy, kiến nghị chính phủ nhanh chóng có cơ chế tiếp nối để hỗ trợ tín dụng cho đối
tượng chính sách mua nhà ở xã hội và người thu nhập thấp mua nhà ở thương mại
giá rẻ. Trong bối cảnh chưa có cơ chế tạo lập nguồn vốn tín dụng trung hạn, dài hạn
để cung cấp cho thị trường bất động sản, đề nghị ngân hàng nhà nước có cơ chế để
tính lãi suất cho vay hàng năm trong thời hạn khoảng 15-20 năm cho người mua căn
nhà đầu tiên thuộc loại căn hộ vừa túi tiền. Ngoài ra, xúc tiến việc phát triển các quỹ
tín thác bất động sản để cân đối nguồn cung vốn cho thị trường.
+ Cần tiếp tục đổi mới chính sách tài chính đất đai, nhằm hạn chế việc đầu
137
cơ bất động sản. Muốn vậy, nhà nước cần có sự chủ động trong việc điều tiết giá đất
trên thị trường thông qua quan hệ cung cầu, từ đó giúp đẩy nhanh tiến độ xây dựng
lại hệ thống thuế có liên quan đến đất đai, bảo đảm đồng bộ với quá trình đổi mới
chính sách đất đai.
+ Các chính sách chuyển nhượng dự án bất động sản hiện nay chưa được
thông thoáng nên chưa giải quyết được tình trạng có nhiều dự án bị ngưng trệ như
hiện nay, và đây cũng là phần chìm của "tảng băng" hàng tồn kho. Vì vậy, cần cho
phép doanh nghiệp được quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án kể từ
thời điểm sau khi đã hoàn thành giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch của dự án;
coi chuyển nhượng dự án, chuyển nhượng một phần dự án là hoạt động bình thường
trong quá trình đầu tư kinh doanh bất động sản theo nhu cầu của các doanh nghiệp.
+ Thiết kế và phát triển cơ sở dữ liệu thống kê cho thị trường BĐS phục vụ
nhu cầu của công tác quản lý, điều tiết thị trường và nghiên cứu, đánh giá, dự báo
tác động chính sách liên quan tới bất động sản.
+ Sớm hoàn thiện hệ thống đăng ký bất động sản, cấp giấy chứng nhận về
bất động sản.
+ Hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan tới đăng ký, thế chấp bất động sản.
Hiện nay, việc nhiều tổ chức tín dụng cho vay bằng cách thế chấp BĐS, tuy nhiên
lại chưa có những quy định để đảm bảo cho các tổ chức này. Bên cạnh đó, nhiều
người dân có nhu cầu về nhà ở nhưng do khó tiếp cận với các khoản vay vì thủ tục
khó khăn. Do vậy, cần sớm ban hành các quy định phù hợp nhằm huy động được tối
đa các nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội.
+ Cần sớm hoàn thiện về các tổ chức phục vụ cho thị trường bất động sản
như sàn giao dịch BĐS, tổ chức bảo hiểm BĐS, tổ chức định giá BĐS.
+ Có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư
vào thị trường bất động sản, vì khi đó sẽ có được nguồn vốn lớn, kinh nghiệm quản
lý tốt, ứng dụng các vật liệu xây dựng mới, giảm giá thành của sản phẩm bất động
sản.
- Hoàn thiện luật phá sản và các văn bản hướng dẫn có liên quan cả về mặt
138
pháp lý và khả năng thực hiện:
Để thực hiện giải pháp này nhà nước cần tăng cường tính thực thi của Luật
phá sản, quy định rõ ràng về quyền hạn và nghĩa vụ, cũng như các biện pháp chế tài
đối với giám đốc doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước, tránh tình trạng
đã làm ăn thua lỗ lại còn được hưởng ưu đãi. Bên cạnh đó, thủ tục phá sản kéo dài,
tốn kém, giá trị thu hồi thấp chính vì thế tạo tâm lý ngại làm thủ tục phá sản. Do
vậy, để Luật phá sản có tính khả thi thì cần phải đơn giản các thủ tục và rút ngắn
thời gian xử lý một vụ phá sản, đồng thời nâng cao được giá trị thu hồi khi thanh lý
tài sản.
5.2.2. Kiến nghị đối với hiệp hội bất động sản và các công ty bất động sản
Để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần nghiên cứu kĩ các
nguyên nhân sau đó tìm ra các giải pháp nhằm kích cầu và giải quyết tình trạng thị
trường trầm lắng như hiện nay. Nếu các công ty bất động sản vẫn thụ động trông
chờ vào chính sách "bao bọc" từ nhà nước, sẽ sớm phá sản. Trong khi chờ các chính
sách giải cứu từ phía nhà nước, hiệp hội bất động sản nói chung và bản thân các
doanh nghiệp bất động sản nói riêng hãy tự mình lựa chọn cách thức và chiến lược
phù hợp để có thể đứng vững trong thời kỳ khó khăn như hiện nay.
- Đối với các nhà quản lý công ty:
Để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định cũng như tránh rơi vào
RRPS, các nhà quản lý cần thường xuyên tiến hành phân tích, rà soát các chỉ số tài
chính của công ty ở mức độ tổng thể cũng như chi tiết nhằm tìm ra những bất
thường trong tình hình tài chính của công ty và tiến hành những biện pháp điều
chỉnh thích hợp. Ngoài ra, các nhà quản lý cũng cần chú ý tìm kiếm những cơ hội
giúp công ty tăng trưởng và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi các nhà
đầu tư sẽ tiến hành phân tích và dự báo cơ hội tăng trưởng của công ty khi tiến hành
tìm kiếm cơ hội đầu tư. Đặc biệt, các nhà quản lý cần duy trì việc công bố thông tin
định kỳ cho thị trường cũng như liên tục phân tích và dự báo phản ứng của thị
trường đối với những thông tin mà công ty công bố nhằm duy trì khả năng hoạt
động ổn định của công ty và có phương án ứng phó kịp thời. Đối với những công ty
139
đang rơi vào kiệt quệ tài chính, nhằm cải thiện tình hình một cách hiệu quả hơn, các
nhà quản lý không nên dùng các thủ thuật kế toán để điều chỉnh BCTC mà cần tiến
hành những biện pháp tái cấu trúc lại công ty như cơ cấu lại nợ, bán tài sản, tìm
kiếm những nguồn vốn mới từ bên ngoài, tác cấu trúc nhân sự công ty, cắt giảm
những dự án đầu tư kém.
+ Rà soát lại chiến lược kinh doanh: chiến lược kinh doanh có vai trò định
hướng cho các doanh nghiệp quá trình hoạt động, việc rà soát lại chiến lược nhằm
điều chỉnh, bổ sung chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cho phù hợp với thực
tiễn. Các doanh nghiệp sẽ hoạch định chiến lược kinh doanh ngay từ đầu để xác
định hướng phát triển cũng như các mục tiêu cần đạt được trong tương lai. Tuy
nhiên, tùy thuộc vào từng thời kì, doanh nghiệp sẽ điều chỉnh, sửa đổi chiến lược
phù hợp hơn với tình hình thực tế. Trong bối cảnh thị trường BĐS đang trầm lắng,
các doanh nghiệp cũng cần phải thực hiện một chính sách linh hoạt hơn trong chiến
lược đầu tư kinh doanh, đồng thời tăng đầu tư vào các phân khúc thị trường có nhu
cầu cao, không nên dàn trải đầu tư tràn lan mà cần phải tập trung nguồn lực chuyển
hướng vào các dự án trọng điểm đáp ứng được nhu cầu hiện tại của thị trường.
Để phù hợp với tình hình hiện tại và kích cầu, trong chiến lược kinh doanh
của mình, doanh nghiệp có thể thay đổi xem xét cơ cấu lại sản phẩm, cũng như linh
động trong phương thức thanh toán của khách hàng. Một thực tế trên thị trường hiện
nay, đó là sự lệch pha cung cầu, thiếu căn hộ nhỏ nhưng thừa căn hộ lớn. Vì thế
doanh nghiệp có thể thay đổi chiến lược của mình sang chia nhỏ các căn hộ để nâng
cao tính thanh khoản của dự án. Thay vì phương thức thanh toán truyền thống trước
đây, doanh nghiệp có thể cho khách hàng thanh toán theo phương thức linh động
hơn như trả góp, trả trước một phần rồi trả số còn lại trong vòng bao nhiêu năm với
mức lãi suất hợp lý,… Ngoài ra, doanh nghiệp có thể đưa ra chiến lược khác biệt
hóa với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, chẳng hạn như kèm các dịch vụ hậu
mãi, hỗ trợ khách hàng trang trí, thay đổi nội thất…
+ Nghiên cứu thị trường, phân khúc thị trường, để chọn phân khúc thị trường
phù hợp hầu hết các doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay chưa đề cao công tác
140
nghiên cứu, khảo sát thị trường. Do đó, nhiều công ty không nắm được các thông
tin về nhu cầu của người tiêu dùng để cung ứng sản phẩm phù hợp. Đối với thị
trường BĐS cũng vậy, các công ty cần khảo sát thị trường để tìm phân khúc thị
trường tiềm năng và phù hợp với hướng phát triển của công ty. Trong giai đoạn
khủng hoảng nếu các công ty BĐS đầu tư dàn trải sẽ không mang lại hiệu quả cao,
thay vào đó doanh nghiệp chỉ nên tập trung vào một hoặc một số phân khúc thị
trường có tiềm năng.
Theo nhận định của Bộ trưởng Bộ Xây dựng: “nhu cầu cho nhà ở xã hội hiện
nay còn rất lớn; khoảng 80% người dân cần các sản phẩm loại hình này. Ở các khu
vực đô thị trên toàn quốc, sẽ có khoảng 3.455 nghìn người có khó khăn về nhà ở
hoặc có nhu cầu ổn định về chỗ ở. Để đáp ứng nhu cầu này, sẽ cần khoảng 700.000
căn hộ”. Tuy nhiên, nguồn cung cho phân khúc này trên thị trường hiện nay còn
đang hạn chế. Bên cạnh đó, khi Luật nhà ở được thông qua, nhu cầu về dòng sản
phẩm nhà ở cao cấp có thể sẽ tăng. Đây được coi là một nguồn cầu mới cho thị
trường BĐS Việt Nam. Do đó, các công ty BĐS cần nghiên cứu các biện pháp tiết
kiệm chi phí, giảm giá thành, hạ giá bán để khai thác triệt để khúc thị trường này.
+ Linh hoạt trong việc cơ cấu lại sản phẩm, tái cấu trúc doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường vì mục tiêu chính là lợi nhuận,
do đó khi kinh doanh không hiệu quả, thì rất cần phải nhanh nhạy trong vệc thích
nghi với điều kiện kinh tế, gắn với nhu cầu thực tế bằng cách thay đổi cơ cấu sản
phẩm, hướng vào phân khúc có nhiều tiềm năng, đặc biệt là phân khúc thị trường
bình dân nhằm tạo ra tính thanh khoản cao cho bất động sản đầu ra. Thị trường BĐS
có nhiều phân khúc, thừa là thừa phân khúc cao cấp và đang thiếu phân khúc nhà ở
phổ cập. Chúng ta đang thiếu những loại nhà ở có giá dưới 15 triệu đồng/m2 hoặc
dưới 1 tỷ đồng/căn, phân khúc cho những đối tượng có thu nhập trung bình. Chính
vì vậy, việc quan tâm điều chuyển hướng kinh doanh vào phân khúc này cũng cần
thật sự được quan tâm.
+ Quan tâm nhiều đến vấn đề về huy động vốn, liên doanh liên kết:
Ở Việt Nam hiện nay, các công ty bất động sản đều huy động vốn từ kênh
tài chính chủ yếu từ các tổ chức tín dụng với tỷ lệ vốn vay ngân hàng chiếm hơn
141
60%-80% tổng số vốn đầu tư. Tuy nhiên, cho đến nay việc tiếp cận nguồn vốn từ
các tổ chức tín dụng vẫn rất khó khăn vì lãi suất vẫn còn khá cao và khó vay thêm
khi chưa trả được nợ cũ.
Trên thực tế, có nhiều dự án đang xây dựng dở dang đang phải dừng hoàn
thiện vì người mua nhà không nộp tiền tiếp. Do đó rất cần có chính sách huy động
phù hợp như sử dụng vốn vay ngắn hạn để cho vay trong thời gian trung và dài hạn.
Thêm vào đó, cần thiết phải lập kênh thông tin về BĐS để cho các tổ chức tín dụng
làm cơ sở nhận, đánh giá dự án để cho vay phù hợp, tăng cường hơn nữa sự liên kết
giữa các tổ chức có năng lực về tài chính tham gia vào việc đầu tư, đồng thời linh
hoạt hơn trong chính sách huy động vốn. Có thể kể đến đó là trường hợp của
Sacomreal, phát hành 100 tỷ đồng trái phiếu. Mỗi trái phiếu có mệnh giá 500 triệu
đồng kèm quyền ưu tiên mua căn hộ với giá ưu đãi giảm 5%/căn và lãi suất được
hưởng là 8,8%/năm. Hoặc công ty Sông Đà - Thăng Long cũng phát hành trái
phiếu và coi đây là kênh huy động vốn hiệu quả để đầu tư các dự án BĐS. Tuy
nhiên, hiện nay chưa có các văn bản pháp luật quy định và hướng dẫn cụ thể về việc
huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu BĐS, do đó các doanh nghiệp cần
nghiên cứu và có sự tư vấn trước khi tiến hành biện pháp huy động vốn này.
Ngoài ra, các công ty BĐS có thể tính đến việc chào bán sản phẩm hoặc thu
hút nguồn vốn của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường BĐS Việt Nam. Để làm
được điều đó các công ty BĐS có thể kiến nghị lên các cơ quan có thẩm quyền để
ban hành các chính sách ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các
dự án của công ty.
- Đối với Hiệp hội bất động sản:
+ Hiệp hội BĐS nên có những kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước,
nghiên cứu đề xuất hành lang pháp lý tạo điều kiện cho sự hình thành các định chế
tài chính, tín dụng phi ngân hàng như: tổ chức tái cho vay thế chấp nhà ở, trái phiếu
dự án, quỹ tiết kiệm nhà ở, quỹ đầu tư BĐS. Đồng thời, kiến nghị nhà nước dỡ bỏ
các rào cản đang hạn chế hoạt động của các DN kinh doanh BĐS và ngân hàng
thương mại.
+ Hiệp hội nên chủ động đề xuất các chính sách, đơn giản thủ tục hành chính
142
để thị trường bất động sản rộng mở hoạt động hiệu quả hơn.
+ Hiệp hội bất động sản Việt Nam nên có kiến nghị chính phủ có những
chính sách ưu đãi hơn nữa cho những DN đầu tư vào bất động sản giá rẻ, trung bình
để tạo sự cân bằng cho thị trường.
5.2.3. Kiến nghị đối với các tổ chức tín dụng và tiền tệ
Theo Turko (1999), những nhân tố kinh tế có thể gây ra phá sản có thể kể
đến gồm: giảm hoặc tăng đột ngột lãi suất, sự thay đổi không mong đợi trong tỷ lệ
lạm phát, sự thay đổi bất thường trong tỷ giá hối đoái, sự thay đổi trong chế độ xuất
và nhập khẩu và chính sách tiền tệ. Chính vì vậy đề hạn chế rủi ro phá sản cần có sự
phối hợp giữa các tổ chức tín dụng, tiền tệ với các công ty bất động sản.
- Về phía ngân hàng và các tổ chức tín dụng:
Do thị trường BĐS phụ thuộc nhiều vào tín dụng ngân hàng nên rủi ro chéo
giữa hai khu vực này rất lớn. Thời gian qua, với sự trầm lắng của thị trường BĐS,
làm cho các công ty BĐS đang phải đối mặt với lượng hàng tồn kho khổng lồ, trong
khi đó đa phần nguồn vốn cấu thành nên các dự án BĐS là từ khoản vay các tổ chức
tín dụng. Và để vay vốn, các công ty BĐS thường cầm cố bằng chính BĐS của
mình, do vậy khi hàng tồn kho không được tiêu thụ đồng nghĩa với việc các công ty
BĐS không thu được tiền và như thế sẽ không thanh toán được các khoản nợ vay
đến hạn trả. Còn ngân hàng và các tổ chức tín dụng mặc dù nắm giữ BĐS nhưng
cũng không dễ dàng để phát mãi nên nợ xấu khó mà xử lý được. Bên cạnh đó, khi
các công ty BĐS gặp khó khăn cũng sẽ làm liên lụy đến các ngành liên quan như là
vật liệu, xây dựng,.. điều này càng làm cho khoản nợ xấu của ngân hàng càng ngày
càng gia tăng. Do vậy, chỉ khi giải quyết được hàng tồn kho BĐS mới giải quyết
được vấn đề nợ xấu.
Một trong những giải pháp mà ngân hàng và tổ chức tín dụng có thể xem xét
đó là cho các công ty BĐS cơ cấu lại các khoản nợ vay cũ đang chịu lãi suất rất cao
để chuyển sang mức lãi suất theo chính sách hiện nay. Ngoài ra ngân hàng và các tổ
chức tín dụng cũng cần bắt tay và cùng phối hợp với các công ty BĐS để giải quyết
một số vấn đề như:
- Cần xem xét cho vay đối với các dự án đầu tư phát triển BĐS thiết yếu đáp
143
ứng nhu cầu của người dân và phát triển kinh tế. Ngân hàng và các tổ chức tín dụng
chỉ nên hạn chế cho vay đối với những đối tượng mua đi bán lại BĐS kiếm lời làm
méo mó thị trường, còn những người có nhu cầu thực sự vẫn cần cho vay để cải
thiện nhà ở.
- Đối với những dự án đang thực hiện dở dang nhưng thiếu vốn mà có khả
năng tiêu thụ cao thì nên tạo điều kiện cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp.
- Có chính sách cho vay thích hợp đối với các dự án xây dựng nhà ở xã hội
cho sinh viên, nhà ở cho người có thu nhập thấp, nhà ở cho công nhân khu công
nghiệp.
- Ưu tiên cho vay với các dự án phát triển bất động sản có tính khả thi, mức
độ sinh lời của dự án, tiềm lực tài chính, kế hoạch bán hàng tốt.
- Nên nới rộng cho vay đối với các đối tượng mua nhà chung cư bình dân và
nhà ở xã hội.
- Hạn chế cho vay bồi thường, giải phóng mặt bằng, các dự án xây dựng
chung cư cao cấp, các dự án mới, BĐS du lịch nghỉ dưỡng.
Ngoài ra, cơ chế cho vay tín dụng ưu đãi đối với người nghèo, người có thu
nhập thấp cũng cần được điều chỉnh lại nhằm giúp người nghèo cơ hội cải tạo nhà
đang ở bằng chính hoàn cảnh sống của họ, không áp dụng cơ chế "xin - cho" như ta
vẫn hay làm trong thời gian qua.
- Với thị trường tiền tệ - tín dụng:
Những thăng trầm của thị trường bất động sản luôn gắn liền với những quyết
sách về tài chính, tiền tệ. Thị trường BĐS là đầu ra lớn nhất, vì vậy những biến
động của thị trường BĐS tác động trực tiếp ngay với thị trường tiền tệ - tín dụng và
ngược lại, đối với thị trường BĐS, thị trường tiền tệ - tín dụng là nguồn cung vốn
chủ yếu cho hoạt động đầu tư tạo lập BĐS, cho nên những biến động của thị trường
tiền tệ - tín dụng, lập tức tác động mạnh tới thị trường BĐS.
Thực tế cho thấy, lạm phát đã và đang tác động tới thị trường BĐS do thu
nhập của người dân giảm dẫn đến lượng cầu BĐS giảm rõ rệt. Bên cạnh đó, việc
hạn chế cho vay BĐS đã làm cho nguồn vốn huy động của các công ty BĐS trở nên
khó khăn. Cộng thêm, giá đầu vào của các vật liệu cơ bản phục vụ cho thi công các
144
dự án BĐS như gạch ngói, xi măng,.. tăng cao đã làm cho chi phí dự án tăng theo.
Việc thiếu vốn cùng với chi phí dự án gia tăng khiến cho tiến độ của nhiều dự án bị
kéo dài, trì hoãn, thậm chí là dừng thi công. Từ đó dẫn đến ảnh hưởng không chỉ
với công ty BĐS mà còn với người có nhu cầu mua BĐS cũng gặp khó khăn. Như
vậy, các công ty kinh doanh BĐS không chỉ bị sức ép từ cả hai phía vốn đầu vào và
tiêu thụ hàng hóa đầu ra mà còn chịu thêm áp lực về thời hạn giải chấp các khoản
vay đến hạn. Từ những phân tích trên cho thấy việc ổn định chính sách tiền tệ để
hạn chế lạm phát là một trong những giải pháp thiết thực nhằm góp phần vực dậy
thị trường BĐS vốn nhiều bất ổn như hiện nay.
Tóm lại, thị trường BĐS Việt Nam hiện nay đang ở vào thời điểm khó khăn
kéo theo đó là hàng loạt các công ty BĐS có nguy cơ phá sản. Việc tìm ra các giải
pháp định hướng cho thị trường phát triển, giúp cho các công ty BĐS vượt qua
được giai đoạn khó khăn này là việc làm của tất cả các bên hữu quan. Các giải pháp
cần được triển khai đồng bộ. Các nguồn lực phải được khơi dậy đặc biệt, luồng tiền
cần được lưu chuyển qua thị trường BĐS. Chỉ khi những điều đó đồng loạt xảy ra,
thị trường BĐS mới có xung lực mới, các công ty BĐS mới có cơ hội phục hồi và
phát triền. Tuy vậy, bất cứ giải pháp nào cũng sẽ dẫn đến tình trạng khó khăn,
doanh nghiệp phải “thắt lưng buộc bụng” trong một thời gian. Vì thế phòng bệnh
bao giờ cũng tốt hơn chữa bệnh. Các doanh nghiệp hãy luôn quan tâm đến những
bất thường của doanh nghiệp mình để có những quyết định đúng đắn kịp thời tránh
145
rơi vào tình trạng RRPS.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 5
Thị trường BĐS là một trong những thị trường quan trọng của nền kinh tế,
khi thị trường BĐS khó khăn khiến cho nhiều công ty BĐS có nguy cơ rơi vào phá
sản, từ đó sẽ kéo theo những hệ lụy vô cùng to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Do
vậy việc đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế RRPS của các công ty BĐS là vấn
đề cần được đặc biệt quan tâm. Trong nội dung Chương 5, tác giả đề xuất các giải
pháp dựa trên kết quả nghiên cứu thực tế tại các công ty BĐS; đồng thời đưa ra kiến
nghị đối với các bên có liên quan như nhà nước, các tổ chức tín dụng – tiền tệ, hiệp
hội BĐS và các công ty BĐS nhằm thực hiện được các giải pháp ngăn ngừa và hạn
146
chế RRPS một cách có hiệu quả nhất.
KẾT LUẬN CHUNG
Ngành BĐS là một trong những ngành có vị trí vô cùng quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. Sự khó khăn của ngành BĐS sẽ làm ảnh hưởng to lớn đến các
ngành khác có liên quan. Việc phân tích RRPS của các công ty BĐS nhằm từ đó
đưa ra được những giải pháp để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro xảy ra phá sản của các
công ty BĐS là mối quan tâm của không chỉ bản thân các doanh nghiệp BĐS mà
còn của nhà nước, nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng và nhà cung cấp. Chính vì vậy
việc đi vào phân tích RRPS của các công ty BĐS là một đề tài có ý nghĩa cả về mặt
lý luận và thực tiễn. Trong phạm vi của luận án, tác giả đã đi vào giải quyết các vấn
đề chính như sau:
- Thứ nhất, trình bày được bức tranh toàn cảnh về các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước về phân tích RRPS.
- Thứ hai, hệ thống hóa và làm rõ lý luận chung về RRPS và phân tích RRPS
trong các công ty BĐS.
- Đưa ra tiêu chuẩn lựa chọn mẫu nghiên cứu, các chỉ tiêu quan trọng đến
vấn đề nghiên cứu, thu thập dữ liệu có liên quan để tiến hành phân tích bằng cách
sử dụng phương pháp định lượng có sự trợ giúp của phần mềm chuyên dụng SPSS,
từ đó đưa ra được kết quả nghiên cứu về các yếu tố có tác động đến RRPS và
phương trình hồi quy logit để dự báo RRPS của các công ty BĐS Việt Nam. Các kết
quả cho thấy các chỉ tiêu về dòng tiền trên tổng nợ phải trả, vốn hoạt động thuần
trên tổng tài sản, khả năng sinh lợi của tài sản và hệ số nợ có ảnh hưởng quan trọng
đến rủi ro phá sản của các công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam. Ở đây tác giả cũng xin nhấn mạnh rằng, luận án này tiến hành
phân tích rủi ro phá sản của các công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng mô hình dự báo rủi ro phá sản logit là
một công cụ hữu ích. Tuy nhiên, kết quả của nó chỉ chính xác như tính đầy đủ của
dữ liệu trong mô hình, và cũng lưu ý rằng dự báo về rủi ro phá sản không phải là
một giải pháp đo lường rủi ro hoàn chỉnh. Nó chỉ là một trong nhiều công cụ mà các
nhà phân tích nên xem xét trong đánh giá hiệu quả quản lý và các nguy cơ liên quan
147
đến một cơ hội đầu tư.
- Trên cơ sở kết quả thu được từ Chương 4, tác giả đề xuất các giải pháp và
kiến nghị nhằm ngăn ngừa và hạn chế RRPS đối với các công ty BĐS Việt Nam.
HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN
Đề tài liên quan đến rủi ro phá sản đã được thực hiện nhiều ở các nước trên
thế giới. Ở Việt Nam số lượng các công trình nghiên cứu về vấn đề này chưa có
nhiều. Do đó việc gặp khó khăn trong nghiên cứu, cũng như các hạn chế của nghiên
cứu là điều không thể tránh khỏi.
Thứ nhất, về việc xác định biến phụ thuộc của nghiên cứu là RRPS của công
ty BĐS: hiện nay chưa có tiêu chuẩn phân loại nào nhất quán để xác định khi nào
công ty có RRPS. Chính vì thế việc phân loại công ty rơi vào diện có rủi ro và
không có RRPS mà luận án đưa ra trên cơ sở nghiên cứu các công trình trước đây,
cụ thể tiêu chuẩn phân loại mà luận án đưa ra là: công ty có RRPS là công ty rơi vào
ít nhất 1 trong 2 trường hợp. Hoặc công ty có ROA âm và giá trị vốn hóa thị trường
nhỏ hơn tổng nợ hoặc công ty có vốn hoạt động thuần âm và giá trị vốn hóa thị
trường nhỏ hơn tổng nợ. Ngoài ra các trường hợp còn lại thì xếp công ty vào diện
không có RRPS. Trên thực tế thì có thể có công ty dựa vào các nhận định trên bị
xếp vào diện có RRPS nhưng thực tế lại không phá sản. Ngược lại, có những công
ty được xếp vào diện không có rủi ro phá sản nhưng thực tế lại có RRPS rất cao. Do
đó, các nhận định trên chỉ mang tính tương đối.
Thứ hai, về các biến độc lập được đưa vào nghiên cứu: do có sự khó khăn
trong việc thu thập số liệu, mẫu mà luận án chưa xét đến các biến phi tài chính.
Trong phạm vi của luận án, tác giả chỉ tập trung vào phân tích ảnh hưởng của các tỷ
số tài chính và biến dựa trên dữ liệu thị trường. Vì thế việc bỏ qua một số biến phi
tài chính có thể đưa ra những nhận định chưa hoàn toàn chính xác nhất về mối liên
hệ, tác động của các biến như là biến về vĩ mô kinh tế. Do đó, luận án có thể chưa
phản ánh hết được các nhân tố tác động đến RRPS một cách toàn diện.
Thứ ba, về mẫu nghiên cứu: do số lượng công ty được niêm yết trên HOSE
và HNX còn rất nhỏ so với số lượng công ty đang tồn tại, vì vậy số lượng công ty
148
có RRPS trong mẫu được xem xét cũng không đầy đủ, không phản ánh hết được số
lượng công ty có nguy cơ phá sản đang ngày càng gia tăng trong tình hình hiện nay.
Hiện nay có 55 công ty BĐS niêm yết trên thị trường chứng khoán, tuy nhiên có
những công ty chỉ vừa mới niêm yết từ năm 2010 và 2015, có những công ty khuyết
thiếu nhiều dữ liệu, vì thế không đủ dữ liệu với ý định của tác giả là 8 năm từ năm
2008 – 2015. Chính vì vậy, tác giả tiến hành thu thập dữ liệu trên mẫu của 45 công
ty BĐS niêm yết trên TTCKVN. Do đó có thể chưa thấy được tác động ảnh hưởng
của các biến trong dài hạn, chưa xét đến tính trễ của các biến nếu có. Ngoài ra,
nghiên cứu cũng chỉ tập trung các công ty trên 2 sàn là HOSE và HNX mà chưa
khảo sát các công ty chưa tham gia niêm yết, các công ty giao dịch trên sàn
UPCOM… Trong khi đây là giai đoạn cực kì khó khăn đối với các công ty vừa và
nhỏ. Vì vậy việc phân tích RRPS có thể chưa phản ánh chính xác hoàn toàn được
tình hình thực tế.
Thứ tư, về kênh cung cấp thông tin nghiên cứu: hiện nay ở Việt Nam vẫn
chưa có một kênh thông tin chính thức lưu trữ và đăng tải chính xác những thông tin
tài chính của các công ty. Số liệu tài chính hiện nay chủ yếu được thu thập từ BCTC
được công bố rộng rãi trên trang website của các công ty chứng khoán, và một số
thông tin trong đó được đưa ra không chính xác. Ngoài ra, một số thông tin tài
chính quá khứ của công ty hiện nay không được công bố rộng rãi, gây khó khăn
trong việc lấy dữ liệu nghiên cứu. Do đó, trong một chừng mực nào đó thì việc tự
149
thu thập số liệu có ảnh hưởng đến kết luận của nghiên cứu.
KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Với các hạn chế của luận án, tác giả đưa ra một số đề xuất cho những nghiên
cứu tiếp theo về vấn đề RRPS có thể mở rộng ở các khía cạnh sau:
1. Xây dựng lại các chỉ tiêu để nhận diện công ty có RRPS sao cho đầy đủ
hơn và phản ánh đúng với tình hình thực tế hơn.
2. Đưa thêm các biến độc lập để tăng khả năng giải thích của mô hình như
các biến phi tài chính, biến kinh tế vĩ mô. Tăng thời gian khảo sát của nghiên cứu để
có đánh tổng thể trong dài hạn.
3. Mở rộng đối tượng nghiên cứu ra ngoài phạm vi sàn HOSE và HXN như
sàn UPCOM, các công ty chưa tham gia niêm yết để tăng số lượng quan sát có
RRPS nhiều hơn.
4. Tiếp tục nghiên cứu về RRPS theo phương pháp tiếp cận mới phù hợp với
150
thông tin bất đối xứng trong các quan hệ kinh tế hiện nay.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Thị Nga (2013a), Trao đổi về kế toán bán hàng trong điều kiện ứng dụng
thương mại điện tử, Tạp chí nghiên cứu khoa học kiểm toán, số 15.
2. Nguyễn Thị Nga (2013b), Kế toán bán hàng tại các doanh nghiệp Tổng công ty
thương mại Hà nội Hapro, Tạp chí nghiên cứu Tài chính kế toán, Số 02 (115).
3. Nguyễn Thị Nga (2014a), ‘Đánh giá và dự báo nguy cơ phá sản của các công ty
bất động sản niêm yết trên HOSE’, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 15, tr.47-50.
4. Nguyễn Thị Nga (2014b), ‘Đo lường nguy cơ phá sản của các công ty bất động
sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam’, Kỷ yếu hội thảo khoa học
Khoa, Trường Đại học Lao động Xã hội, Hà nội, tr.237-244.
5. Nguyễn Thị Nga (2016a), ‘Vận dụng phương pháp thống kê trong phân tích rủi
ro phá sản tại doanh nghiệp’, Tạp chí tài chính, số 639, tr.26-28.
6. Nguyễn Thị Nga (2016b), ‘Sử dụng hợp lý đòn bẩy tài chính nhằm hạn chế rủi ro
phá sản của các công ty bất động sản khi gia nhập TTP’, Hội thảo khoa học quốc
gia: Kế toán, Kiểm toán trong bối cảnh Việt Nam gia nhập TTP và AEC, Trường
151
Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà nội, tr.497-507.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agarwal, V. and R. Taffler (2008), ‘Does Financial Distress Risk Drive the Momentum
Anomaly?', Financial Management, Vol. 37, No.3, pp. 461 - 484.
2. Alexander S. Reisz and Claudia Perlich (2007), 'A market-based Framework for
Bankruptcy Prediction', Journal of Financial Stability, vol. 3, issue 2, pp. 85-131.
3. Alkhatib, K., Al Bzour, A.E. (2011), 'Predicting corporate bankruptcy of Jordanian
listed companies: Using Altman and Kida Models', International Journal of Business and
Management, Vol. 6, issue.3, pp. 208-215.
4. Altman, E.I. (1968), ‘Fiancial ratios, discriminant analysis and the prediction of
corporate bankrup’, The Journal of Finance, vol 23, pp. 589-609.
5. Altman, E.I. (2000), Predicting Financial Distress of Companies: Revisiting the Z-
score and Zeta model, Stern School of Business, New York University, New York, USA.
6. Altman, E.I.,Zhang, L. and Yen, J. (2007), Corporate Financial Distress Dianosgis in
China, New York University Salomon Center Working paper, New York.
7. Altman, E.I. (1977a), ‘Predicting Financial Distress of Companies: Revisiting the Z-
Score and ZETA® Models’, The Journal of Finance, pp.12-28.
8. Altman, E.I. (1977b), ‘The Z-Score Bankruptcy Model: Past, Present, and Future’, The
Journal of Finance, pp.8-10.
9. Altman, E.I. (1977c), 'Zeta analysis: a New Model to Identify Brankruptcy Risk of
Corporation', Journal of Banking and Finance, vol 1, pp.29-54.
10. Altman, E.I. (1993), Corporate Financial Distress and Bankruptcy, Wiley Finance
Editon, John Wiley & Sons, New Jersey, USA.
11. Anghel, I. (2002), Falimentul. Radiografi şi predicţie, Economica: Bucharest,
Rumania.
12. Argent, J. (1976), Corporate Collapse: The Causes and Symptoms, McGraw Hill.
13. Atiya A. F. (2001), 'Bankruptcy Prediction for Credit Risk Using Neural', IEEE
transactions on neural networks, vol.12, No.4.
14. Atrill, P. (2002), Financial Management for Non – specialist, Prentice Hall.
152
15. Băileşteanu, D. (1998), 'Diagnostic, risc şi efiienţă în afaceri, Mirton: Timişoara'.
16. Balcaen & Ooghe (2004), Alternative methodologies in studies on business failure do
they produce better results than the classical statistical methods?, Universiteit Gent,
Faculteit Economie En Bedrijfskunde, Belgium, Working Paper.
17. Bandyopadhyay, A. (2006), ‘Predicting probability of default of Indian corporate
bonds: logistic and Z-Score model approaches’, Journal of Risk Finance, p.255-272.
18. Baxter (1976), 'The sandilands report', Journal of Business Finance and Accounting,
Vol. 3, Issue 1, pp. 115–123.
19. Beaver, W.H. (1966), ‘Financial ratios as predictors of failure’, Journal of Accounting
Research, vol.4, pp.71-111.
20. Berg, Bruce L. (2007), Qualitative Research Methods for the Social Science, 6th
Edition. San Francisco: Pearson Education, Inc.
21. Black, F., & Scholes, M. (1973), 'The pricing of options and corporate liabilities’, The
journal of political economy, vol.81(3), pp.637-654.
22. Bộ Tài chính (2013), Thông tư số 73/2013/TT-BTC, hướng dẫn chi tiết một số điều về
niêm yết chứng khoán tại Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, ban hành ngày
29 tháng 5 năm 2013.
23. Bongini, P. Ferri, G., & Hahm, H . (2000), ’Corporate Bankruptcy in Korea: Only the
Strong Survive?’, The Financial Review, vol.34, no.4, pp. 31-50.
24. Byoun (2008), 'How and when do firms adjust their capital structures toward targets?',
The journal of finance, vol. 63, Issue 6, pp.3069–3096.
25. Brédart, X. (2014), 'Bankruptcy prediction model: The case of the United States',
International Journal of Economics and Finance, Vol 6, issue 3, pp 1–7.
26. Campbell JY, Hilscher J, Szilagyi J. (2008), 'In Search of Distress Risk', Journal of
Finance, vol. 13 (6), pp.2899-2939.
27. Caton, GL. and J. Goh (2003), 'Are all rivals affected equally by bond rating
downgrades?', Review of Quantitative Finance and Accounting, Vol. 20, pp. 49-62.
28. Charitou, A., Neophytou, E., & Charalambous, C. (2004), 'Predicting corporate failure:
153
empirical evidence for the UK', European Accounting Review, Vol.13(3), pp.465-497.
29. Christidis, A. C-Y and A. Gregory (2010), `Some New Models for Financial Distress',
Xfi - Centre for Finance and Investment Discussion Paper, No.10.
30. Coats, PK & Fant, LF (1993), 'Recognizing financial distress patterns using a neural
network tool', Financial Management , Vol.22(3), pp.142-155.
31. Cooper, AC, F. J. Gimeno-Gascon, CY W. (1994), Initial human and financial capital
as predictors of new venture performance, J. Bus., vol 9, pp. 371–395.
32. Cục quản lý đăng ký kinh doanh (2016). Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2016 từ
https://dangkykinhdoanh.gov.vn/NewsandUpdates/tabid/91/CategoryID/25/language/vi-
VN/Default.aspx.
33. Dakovic, R., Czado, C., Berg, D. (2010), 'Bankruptcy prediction in Norway: a
comparison study', Applied Economics Letters, Vol. 17, issue 16/18, pp. 1739–1746.
34. Đào Thị Thanh Bình (2013), 'Mô hình xếp hạng tín dụng cho các công ty sản xuất ở
Việt Nam', Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 188, tr 39-49.
35. Đơn vị thành viên của công ty dầu khí (2016). Công ty cổ phần điện lực dầu khí PVL.
Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2016 từ
http://pvc.vn/donvithanhvien/chitietdonvithanhvien/tabid/207/id/303/.aspx.
36. Edmister (1972), 'An empirical test of finacial ratio analysis for small business failure
prediction', The Journal of Financial and Quantitative Analysis, Vol. 7, No. 2, pp. 1477-
1493.
37. Eisenbeis, R. (1977), ’Pitfalls in the application of discriminant analysis in business,
finance, and economics’, The Journal of finance, vol 32(3), pp. 875-900.
38. Eljelly, A., & Mansour, I. (2001), ’Predicting private companies failure in the Sudan’,
Journal of African Business, vol 2(2), pp. 23-43.
39. Etemadi, H., Anvary Rostamy, A., & Dehkordi, H. (2009), 'A genetic programming
model for bankruptcy prediction: empirical evidence from Iran', Expert Systems with
Applications, vol 36(2), pp. 3199-3207.
40. Ferris, SP, N. Jayaraman, and AK Makhija (1997), 'The response of competitors to
announcements of bankruptcy: An empirical examination of contaion and competitive
154
effects', Journal of Corporate Finance, Vol. 3, pp.367-395.
41. Fitzpatrick, P. (1932), 'A comparison of ratios of successful industrial enterprises with
those of failed firms', Certified Public Accountant, Vol. 2, 598-605.
42. Fulmer (1984), A Bankruptcy Classification Model for Small Firms, truy cập ngày 15
tháng 3 năm 2014 từ https://ycharts.com/glossary/terms/fulmer_h_score.
43. Gaylen N. Chandler and Steven H. Hanks (1994), 'Market attractiveness, resource-
based capabilities, venture strategies, and venture performance', Journal of Business
Venturing , vol 9, issue 4, pp.331-349.
44. Gregory, C. (2010), 'Some new model for financial distress trediction in the UK' Xfi -
Centre for Finance and Investment Discussion Paper No. 10
45. Gu, Z. (2002), ‘Analyzing bankruptcy in the restaurant industry: a multiple
discriminant model’, International Journal of Hospitality Management, pp.25-42.
46. Gupa (1983), 'Journal of Geophycical Reserch', số 88, pp. 2075-2082.
47. Hall, G. (1992), 'Reasons for Insolvency Amongst Small Firms - A Review and Fresh
Evidence', Small Business Economics, Vol.4, No.3, pp. 237-250.
48. Hillegeist, S., Keating, E., Cram, D., & Lundstedt, K. (2004), ’Assessing the
probability of bankruptcy’, Review of Accounting Studies, vol 9(1), pp.5-34.
49. Hoàng Tùng. (2011), 'Phân tích rủi ro tín dụng doanh nghiệp bằng mô hình logistic',
Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng số 2.
50. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với
SPPS, Trường Đại học Kinh Tế TP.HCM. Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 2-3
51. Holland, R. (1998), Planning Against A Business Failure, Agricultural Development
Center, University of Tennessee.
52. Huỳnh Cát Tường (2008), Khánh kiệt tài chính và ứng dụng mô Hình Z-Score trong
dự báo khánh kiệt tài chính, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
53. Ivoniciu, P (1998), 'Bankruptcy risk analysis by method scores', Journal of Finance,
Banks, Insurance, vol.4, pp. 17-19
54. Jensen, M., 'Agency costs of free cash flow, coporate finance, and Takeovers', The
155
American economic review, Vol. 76, No.2, pp. 323 - 329.
55. Jame Kolari (2002), 'Predicting large US bank failures', The Journal of Economics and
Business, Vol.54(4), pp. 361-387.
56. Jouzbarkand, M., Keivani, F.S., Khodadadi, M., Fahim (2013), 'Bankruptcy prediction
model by Ohlson and Shirata model and Tehran Stock Exchange', World Applied Sciences
Journal, Vol. 21, pp. 152-156.
57. Reisz A.S. and Perlich C (2007), 'A market-based Framework for Bankruptcy
Prediction', Journal of Financial Stability , vol. 3, No, 2, pp.85-131
58. Kahl, M. (2002), 'Economic distress, fiancial distress, and dynamic liquidation',
Journal of Finance, Vol. 57, issue 1, p. 135–168.
59. Khổng Minh Hòa, Ứng dụng mô hình điểm Z trong phân tích tài chính công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân.
60. Kraus, A. and Litzenberger, R. (1973), 'A state-preference model of optimal financial
leverage', Journal of Finance , vol. 28, issue 4, pp. 11-22.
61. Knox, K., Blankmeyer, E., Trinidad, J., & Stutzman, J. (2009), 'Predicting bankruptcy
in the Texas nursing facility industry’, The Quarterly Review of Economics and Finance,
volume 49(3), 1047-1064.
62. Lang, L., and R. Stulz, 1992, 'Contagion and competitive intra-industry effects of
bankruptcy announcements', Journal of Financial Economics, Vol. 32, pp.45-60.
63. Lâm Minh Chánh (2007b), ‘Dùng chỉ số Z để ước tính hệ số tín nhiệm’, Báo nhịp cầu
đầu tư, số 42.
64. Lâm Minh Chánh (2007a), ‘Chỉ số Z – công cụ phát hiện nguy cơ phá sản và xếp hạng
định mức tín dụng’, Báo nhịp cầu đầu tư, số 41.
65. Lawrence J. Gitman (1992), Basic Managerial Finance, Harper Collins.
66. Lê Long Hậu (2010), ‘Vận dụng lý thuyết định giá quyền chọn vào dự báo rủi ro phá
sản của doanh nghiệp – Mô Hình KMV’, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, số 49.
67. Maddala (1983), Limited-dependent and qualitative variables in econometrics,
156
Cambridge University Press.
68. Marcus D. Odom & Ramesh Sharda (1990), 'A Neural Network Model for Bankruptcy
Prediction', International Joint Conference on, Volume 2, p. 163 - 168.
69. McClure (2004), Z marks the end. Được truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2014 từ
www.investopedia.com/articles/fundamental/.
70. Merton, R. (1974), 'On the pricing of corporate debt: the risk structure of interest
rates’, Journal of finance, Vol.29(2), pp.449-470.
71. Min, J., & Jeong, C. (2009), A binary classification method for bankruptcy prediction,
Expert Systems with Applications, pp. 5256-5263.
72. Monica Violeta Achim, Codruta Mare, Sorin Nicolae Borlea (2012), 'Emerging
Markets Queries in Finance and Business A statistical model of financial risk bankruptcy
applied for Romanian manufacturing industry', Procedia Economics and Finance, Vol.3,
pp. 132 – 137
73. Nguyễn Bảo Khang (2012), 'Các yếu tố tác động đến phá sản trong các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai', Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
74. Nguyễn Thành Cường, Phạm Thế Anh (2010), ‘Đánh giá rủi ro phá sản của các doanh
nghiệp chế biến thủy sản đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Tạp chí
Khoa học Công nghệ Thủy sản, số 2/2010, tr.27-33.
75. Nguyễn Trọng Hòa (2009), 'Xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng đối với các DN Việt
Nam trong nền kinh tế chuyển đổi', Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
76. Odom, MD & Sharda, R. (1990), A neural network model for bankruptcy
prediction', Proceeding of the International Joint Conference on Neural Networks, San
Diego, Volume II. IEEEE Neural Networks Council, Ann Arbor, pp.163-171.
77. Ohlson, J.(1980), ‘Financial ratios and the probabilistic prediction of bankruptcy’,
Journal of Accounting Research, pp.109-131.
78. Pongsatat, S., Ramage, J., & Lawrence, H. (2004), 'Bankruptcy prediction for arge and
small firms in Asia: a comparison of Ohlson and Altma’, Journal of Accounting and
Croporate Governance’, vol.1(2), p.1-13. .
79. Quốc hội nước CHXHCN VN (2014), Luật Phá sản số 51/2014/QH13, ban hành ngày
157
ngày 19 tháng 06 năm 2014.
80. Ramser, J. & Foster, L. (1931), A Demonstration of Ratio Analysis, Bulletin 40,
Bureau of Business Research, University of Illinois, Urbana.IL.
81. Cooper (1994), 'Third-Generation New Product Processes', Journal of Product
Innovation Management, volume 11, pp. 3-14.
82. Shumway, T. (2001), 'Forecasting bankruptcy more accurately: a simple hazard model',
Journal of Business, Vol.74(1), pp.101-124. .
83. Sori, Z. M. and Karbhari, Y. (2004), Bankruptcy prediction during the IMF crisis:
evidence from Malaysian listed industrial companies. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2015
từ http://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=596183.
84. Tatsiana N.Rybak (2006), Analysis and estimate of the enterprises bankruptcy risk,
State Economic university, Republic of Belarus.
85. Tavlin, E., Moncarz, E., & Dumont, D. (1989), 'Financial failure in the hospitality
industry', FIU Review, Vol.7(1), pp.55–75.
86. Theodossiou, P. (1991), 'Alternative models for assessing the financial condition of
business in greece', Journal of Business Finance & Accounting, Volume 18, Issue 5, pp.
697–720.
87. Thủ tướng Chính phủ (2012), Nghị định số 58/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Chứng khoán, ban hành ngày 20 tháng 7 năm 2012.
88. Thủ tướng Chính phủ (2009), Nghị định số: 56/2009/NĐ –CP về trợ giúp phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa,ban hành ngày 30 tháng 06 năm 2009.
89. Titman, S., Wessels, R., 'The determinants of capital structure choice', The Journal of
Finance, Vol. 43, No. 1, pp. 1-19.
90. Tinoco M. H. and Wilson N. (2013), 'Financial distress and bankruptcy prediction
among listed companies using accounting, market and macroeconomic variables',
International Review of Financial Analysis , vol. 30, issue C, pp. 394-419.
91. Tổng cục Thống kê (2016). Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam
158
giai đoạn 2010 -2015. Nhà xuất bản Thống kê.
92. Ugurlu, M., & Aksoy, H. (2006), ‘Prediction of corporate financial distress in an
emerging market: the case of Turkey', Cross Cultural management: An International
Journal, Vol 3 (4), pp. 277- 295.
93. Van Prederikslust R.A.I (1978), Predictability of corporate failure: Models for
prediction of corporate failure and for evalutions of debt capacity, Martinus nijhoff social
sciences division Leiden.
94. Vintilă, G., Toroapă, G.M. (2012). Forecasting the bankruptcy risk on the example of
Romanian. Romanian Statistical Review Supplement, Vol. 60, issue 2, p. 377–388.
95. Wheelen & Hunger (2000), Strategic Management and Business Policy, New York:
Addison-Wesley Publishing, New York.
96. VenkataRamana, S.Md.Azash & K.Ramakrishnaiah (2012), 'Financial performance
and predicting the risk of bankruptcy: a case of selected cement companies in India',
International journal of public administration and management research, Vol. 1, No.1,
october 2012, pp. 40 -56.
97. Xu, M., &Zhang, C. (2009), ‘Bankruptcy prediction: the case of Japanese listed
companies’, Review of Accounting Stydies, Vol.14, pp. 534-558.
98. Zhang, G., Hu, M., Patuwo, BE & Indro, DC (1999), ‘Artificial neural networks in
bankruptcy prediction: General framework and cross-validation analysis’, European
Journal of Operations Research, Vol. 116(1), pp. 16–32.
99. Winakor, A. & Smith, R. (1935), Changes in the financial structure of unsuccessful
industrial corporations, Bulletin 51, Bureau of Business Research, University of Illinois,
159
Urbana.IL
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: DANH SÁCH CÁC CÔNG TY NGHIÊN CỨU
Mã Sàn
STT CK Tên Công ty Ngành GD Vốn điều lệ
CTCP Đầu Tư Xây 1 BCI Bất động sản HoSE 86,720,144 Dựng Bình Chánh
CTCP Đầu Tư & Phát
2 CCL Triển Đô Thị Dầu Khí Bất động sản HoSE 26,249,885
Cửu Long
TCT Cổ Phần Đầu Tư 231,694,819 3 DIG Bất động sản HoSE Phát triển Xây Dựng
4 DTA CTCP Đệ Tam Bất động sản HoSE 10,000,000
CTCP DV & XD Địa Ốc 253,049,068 5 Bất động sản HoSE DXG Đất Xanh
CTCP Ngoại Thương & 6 FDC Bất động sản HoSE 27,609,988 PT ĐT Tp.HCM
CTCP PT Nhà Bà Rịa - 7 HDC Bất động sản HoSE 41,113,199 Vũng Tàu
8 HDG CTCP Tập Đoàn Hà Đô Bất động sản HoSE 75,968,080
CTCP TV - TM - DV 426,600,000 9 HQC Bất động sản HoSE Địa Ốc Hoàng Quân
CTCP Phát Triển Hạ 274,194,525 10 IJC Bất động sản HoSE Tầng Kỹ Thuật
CTCP Đầu Tư và Công 838,424,849 11 ITA Bất động sản HoSE Nghiệp Tân Tạo
CTCP Đầu Tư & KD 12 ITC Bất động sản HoSE 69,086,688 Nhà Intresco
160
13 KAC CTCP Đầu Tư Địa Ốc Bất động sản HoSE 23,999,999
Khang An
TCT PT Đô Thị Kinh 475,711,167 14 KBC Bất động sản HoSE Bắc - CTCP
233,999,892 CTCP Đầu Tư & KD 15 KDH Bất động sản HoSE Nhà Khang Điền
CTCP Đầu Tư và Dịch 16 KHA Bất động sản HoSE 14,120,309 Vụ Khánh Hội
CTCP ĐT & PT Đô Thị 17 LGL Bất động sản HoSE 19,999,275 Long Giang
18 LHG CTCP Long Hậu Bất động sản HoSE 26,082,627
CTCP Cơ Điện & XD 19 MCG Bất động sản HoSE 57,510,000 Việt Nam (MECO)
CTCP Đầu Tư Năm Bảy Bất động sản HoSE 58,321,200 20 NBB Bảy
CTCP Đầu Tư Nam 142,114,510 21 NLG Bất động sản HoSE Long
CTCP Phát Triển Đô 22 NTL Bất động sản HoSE 63,600,000 Thị Từ Liêm
201,809,971 CTCP Phát triển Bất 23 PDR Bất động sản HoSE động sản Phát Đạt
100,000,000 CTCP ĐT Hạ Tầng & 24 PTL Bất động sản HoSE Đô Thị Dầu Khí
CTCP Quốc Cường Gia 275,129,310 25 QCG Bất động sản HoSE Lai
CTCP Địa Ốc Sài Gòn 217,069,134 26 SCR Bất động sản HoSE Thương Tín
161
CTCP Công Nghệ Viễn 27 SGT Bất động sản HoSE 74,001,914 Thông Sài Gòn
100,000,000 CTCP ĐT PT Đô Thị & Bất động sản HoSE 28 SJS KCN Sông Đà
CTCP Sonadezi Long Bất động sản HoSE 20,000,000 29 SZL Thành
CTCP Phát Triển Nhà Bất động sản HoSE 70,988,381 30 TDH Thủ Đức
CTCP Phát Triển KCN Bất động sản HoSE 26,003,143 31 TIP Tín Nghĩa
CTCP SXKD XNK DV 32 TIX Bất động sản HoSE 24,000,000 & ĐT Tân Bình
Tập đoàn VINGROUP - 2,637,707,95 33 VIC Bất động sản HoSE CTCP 4
34 VPH CTCP Vạn Phát Hưng Bất động sản HoSE 52,983,084
CTCP Xây Lắp & Địa 35 VRC Bất động sản HoSE 14,504,762 Ốc Vũng Tàu
CTCP Xây Dựng Sông 36 ICG Bất động sản HNX 20,000,000 Hồng
CTCP Phát Triển Hạ 37 IDV Bất động sản HNX 11,565,225 Tầng Vĩnh Phúc
38 PV2 CTCP Đầu Tư PV2 Bất động sản HNX 37,350,000
39 PVL CTCP Địa Ốc Dầu Khí Bất động sản HNX 50,000,000
CTCP Đầu Tư &
40 PXA Thương Mại Dầu Khí Bất động sản HNX 15,000,000
Nghệ An
41 RCL CTCP Địa Ốc Chợ Lớn Bất động sản HNX 7,559,358
162
42 SDA CTCP Simco Sông Đà Bất động sản HNX 26,206,158
43 SJC CTCP Sông Đà 1.01 Bất động sản HNX 7,226,082
CTCP Tập Đoàn Đầu Tư 44 TIG Bất động sản HNX 73,565,000 Thăng Long
45 VC3 CTCP Xây Dựng Số 3 Bất động sản HNX 21,999,742
Năm
2008 31
2009 38
2010 43
2011 27
2012 24
2013 25
2014 37
2015 32
Total 257
Rủi ro phá sản
14
7
2
18
21
20
8
13
103
Nếu không có rủi ro phá sản Nếu có rủi ro phá sản
Phụ lục 2: Thống kê mô tả đặc điểm mẫu nghiên cứu
45
45
45
45
45
45
360
Total 45 45 Phụ lục 3: Thống kê mô tả các biến trong mô hình
Descriptive Statistics
N
Minimum
Maximum
-.26496
.52148
Mean .0859083
Std. Deviation .20190109
DTi/TNPT
321
NNH/TTS
360
.02062
.89113
.3794702
.20119230
VCSH/NDH KVTT
339 285
.20137 .07919
148.27974 8.00127
13.9908515 1.0290018
33.67450938 1.03915826
ROFA
360
-.58247
7.08740
1.2052137
1.90193539
TNPT/TTS
360
.02297
.91002
.5662012
.20954166
TSNH/NNH
360
.40584
28.79802
2.6329951
3.16269549
VLD/TTS
353
-.53997
.90885
.2953587
.24318900
EBIT/DT
360
-.13972
.84848
.2514646
.20520249
ROA
360
-.36975
.49631
.0437069
.06880211
ROE
360
-.68020
1.30559
.1119648
.17879659
CP/DT
360
.46135
9.79271
.9319479
.87418960
DT/TS
360
.00056
1.30660
.2901675
.22793252
QMCT
285
.0000320
.0863770
.003716660
.0118839580
Valid N (listwise)
245
163
Phụ lục 4: Thống kê mô tả các biến thuộc các công ty có rủi ro phá sản và không có rủi ro phá sản
Descriptive Statisticsa
Rủi ro phá sản
N
Minimum Maximum
Mean
Std. Deviation
DTi/TNPT
-.26496
.52148
.1429309
.19817201
224
NNH/TTS
.02062
.74992
.3152212
.16607804
257
VCSH/NDH
.22441
148.27974 17.0987408
37.48986154
245
GTTVCSH/NPT
.08499
8.00127
1.3131271
1.09752259
205
ROFA
-.35135
7.08740
1.5694578
2.07872077
257
TNPT/TTS
.03777
.86733
.4939342
.18056815
257
Nếu
TSNH/NNH
.42249
28.79802
3.0535611
3.41852419
257
VLD/TTS
-.21221
.90885
.3607308
.20401814
257
EBIT/DT
-.09543
.84848
.3002036
.18876910
257
không có rủi ro phá sản
ROA
-.09941
.49631
.0615429
.06503594
257
ROE
-.11325
1.30559
.1516898
.16867017
257
CP/DT
.46135
7.86783
.7915932
.47176714
257
DT/TS
.00675
1.30660
.3207652
.22358129
257
QMCT
.0000540
.0863770
.004842390
.0138449881
205
Valid N (listwise)
178
DTi/TNPT
-.26428
.42148
-.0457727
.13980964
97
NNH/TTS
.02297
.89113
.5397810
.19206874
103
VCSH/NDH
.20137
115.32797
5.8905017
18.49409077
94
80
GTTVCSH/NPT
.07919
.95280
.3009310
.15879037
ROFA
-.58247
4.02321
.2963716
.84749098
103
TNPT/TTS
.02297
.91002
.7465179
.16344580
103
TSNH/NNH
.40584
19.54730
1.5836216
2.07783560
103
VLD/TTS
-.53997
.89552
.1203522
.25388544
96
Nếu có rủi ro phá sản
EBIT/DT
-.13972
.67992
.1298537
.19455225
103
ROA
-.36975
.10244
-.0007964
.05695363
103
ROE
-.68020
.49995
.0128449
.16497091
103
CP/DT
.46156
9.79271
1.2821534
1.39915576
103
DT/TS
.00056
1.23683
.2138217
.22169507
103
QMCT
.0000320
.0050120
.000831975
.0010057132
80
67
Valid N (listwise)
a. No statistics are computed for one or more split files because there are no valid cases.
164
165
PHỤ LỤC 5: MA TRẬN TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC BIẾN CỦA MÔ HÌNH
rrps
DTi/TNPT -.426**
1
NNH/T TS .505**
VCSH/N DH -.137*
KVTT -.438**
ROFA -.303**
TNPT/ TTS .546**
TSNH/N NH -.187**
VLD/TT S -.440**
EBIT/DT -.375**
ROA -.410**
ROE -.351**
CP/DT .237**
DT/TS -.212**
QMCT -.152*
Rủi ro phá sản Pearson Correlation
.000
.011
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.010
Sig. (2-tailed)
321
360
353
360
285
N
1
360 -.282**
339 .178**
360 -.426**
.090
360 -.351**
.097
285 .420**
360 .184**
360 .190**
360 .313**
360 .236**
-.100
360 .238**
.027
Pearson Correlation
DTi/TNPT
Sig. (2-tailed)
.000
.000
.109
.000
.087
.002
.000
.001
.001
.000
.000
.072
.000
.669
321
300
321
321
321
321
262
N
Pearson Correlation
321 .505**
1
321 -.282**
321 -.511**
314 -.587**
321 .676**
.083
262 -.380**
-.087
321 -.303**
321 -.132*
-.035
.081
.088
-.042
NNH/TTS
.000
.000
.000
.000
.000
.125
.000
.100
.000
.012
.514
.124
.097
.481
Sig. (2-tailed)
360
360
353
339
360
360
285
N
360 -.137*
.083
321 .178**
-.031
360 -.271**
-.088
1
285 .319**
360 .137*
.036
360 .202**
360 .139*
-.072
360 .255**
-.081
Pearson Correlation
VCSH/NDH
.002
.125
.011
.570
.000
.109
.000
.012
.505
.000
.011
.186
.000
.185
Sig. (2-tailed)
271
339
N
Pearson Correlation
339 -.438**
339 -.380**
300 .420**
339 .165**
339 -.623**
332 .137*
339 .319**
1
339 .295**
339 .353**
339 .474**
339 .327**
-.079
339 .332**
271 .185**
KVTT
.000
.000
.000
.022
.000
.005
.000
.000
.000
.000
.000
.184
.000
.002
Sig. (2-tailed)
285
285
285
N
285 -.303**
-.087
262 .184**
285 -.273**
285 .247**
282 .306**
271 .137*
285 .295**
1
285 .359**
285 .475**
285 .412**
285 -.180**
285 .250**
-.039
Pearson Correlation
ROFA
.000
.000
.012
.000
.000
.000
.001
.000
.512
.001
.100
.000
.000
.000
Sig. (2-tailed)
360
360
360
360
285
N
360 .546**
360 .676**
321 -.351**
1
360 -.381**
353 -.431**
339 -.271**
285 -.623**
360 -.273**
-.017
.071
-.075
.089
360 -.252**
360 -.225**
Pearson Correlation
TNPT/TTS
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.754
.181
.155
.133
Sig. (2-tailed)
321
360
339
360
360
360
360
285
N
360 -.187**
360 -.511**
.090
1
360 -.381**
353 .566**
-.031
285 .165**
360 .247**
360 .313**
.084
.066
-.092
-.096
-.076
Pearson Correlation
TSNH/NNH
.000
.000
.109
.000
.000
.570
.005
.000
.000
.111
.211
.081
.068
.203
Sig. (2-tailed)
N
321
353
339
360
360 -.440**
360 -.587**
.097
360 -.431**
360 .566**
1
-.088
285 .137*
360 .306**
360 .212**
360 .173**
360 .107*
360 -.144**
.007
285 -.142*
Pearson Correlation
VLD/TTS
163
.087
.000
.109
.022
.000
.000
.000
.000
.001
.045
.007
.891
.017
.000
Sig. (2-tailed)
332
353
353
N
314 .190**
353 -.303**
.036
282 .353**
353 .359**
353 -.252**
353 .313**
353 .212**
1
353 .564**
353 .537**
353 -.407**
-.018
282 .278**
353 -.375**
Pearson Correlation
EBIT/DT
.001
.000
.505
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.738
.000
.000
Sig. (2-tailed)
360
360
285
N
321 .313**
360 -.132*
339 .202**
285 .474**
360 .475**
360 -.225**
1
360 .564**
360 .883**
.084
353 .173**
360 -.515**
360 .591**
.100
360 -.410**
Pearson Correlation
ROA
.000
.012
.000
.000
.000
.000
.000
.111
.001
.000
.000
.000
.093
.000
Sig. (2-tailed)
360
360
360
360
N
321 .236**
-.035
339 .139*
360 .883**
360 .537**
1
.066
353 .107*
-.017
360 -.399**
360 .538**
285 .195**
360 -.351**
285 .327**
360 .412**
Pearson Correlation
ROE
.000
.514
.011
.000
.000
.211
.045
.754
.000
.000
.001
.000
.000
.000
Sig. (2-tailed)
321
360
339
360
360
360
285
285
N
-.100
.081
-.072
360 -.515**
360 -.407**
360 -.399**
-.092
353 -.144**
.071
1
360 -.189**
-.077
360 .237**
-.079
360 -.180**
Pearson Correlation
CP/DT
.072
.124
.186
.000
.000
.081
.007
.181
.000
.000
.195
.000
.184
.001
Sig. (2-tailed)
321 .238**
360 .088
339 .255**
360 .591**
360 -.018
360 .538**
360 -.096
353 .007
360 -.075
285 -.018
360 -.189**
360 1
360 -.212**
285 .332**
360 .250**
N Pearson Correlation
DT/TS
.000
.097
.000
.000
.738
.000
.068
.891
.155
.757
.000
.000
.000
.000
Sig. (2-tailed)
321
360
339
360
360
360
285
360
360
360
N
.027
.100
360 .278**
360 .195**
-.076
353 -.142*
.089
1
-.077
-.018
360 -.152*
-.042
-.081
285 .185**
-.039
Pearson Correlation
QMCT
.669
.481
.185
.093
.000
.001
.203
.017
.133
.195
.757
.010
.002
.512
Sig. (2-tailed)
262
285
271
285
285
285
285
282
285
285
285
285
285
285
285
N
164
PHỤ LỤC 6: KẾT QUẢ HỒI QUY LOGIT
Phụ lục 6a. Omnibus Tests of Model Coefficients
Chi-square df Sig.
Step 1
Step 2
Step 3
Step 4
Step 5
96.341 96.341 96.341 60.589 156.930 156.930 21.666 178.596 178.596 19.575 198.171 198.171 9.485 207.656 207.656 1 1 1 1 2 2 1 3 3 1 4 4 1 5 5 .000 .000 .000 .000 .000 .000 .000 .000 .000 .000 .000 .000 .002 .000 .000 Step Block Model Step Block Model Step Block Model Step Block Model Step Block Model
Step
Phụ lục 6b. Model Summary -2 Log likelihood Cox & Snell R Square Nagelkerke R Square
.471 .685 .749 .803 .828 .325 .473 .518 .555 .572 191.132a 130.543b 108.877c 89.302c 79.817d
165
1 2 3 4 5 a. Estimation terminated at iteration number 6 because parameter estimates changed by less than .001. b. Estimation terminated at iteration number 7 because parameter estimates changed by less than .001. c. Estimation terminated at iteration number 8 because parameter estimates changed by less than .001. d. Estimation terminated at iteration number 9 because parameter estimates changed by less than .001.
Phụ lục 6c.
Classification Tablea
Observed Predicted
Rủi ro phá sản
Percentage Correct
Nếu có rủi ro phá sản
Nếu không có rủi ro phá sản
162 16 91.0
Rủi ro phá sản Step 1 25 42 62.7 Nếu không có rủi ro phá sản Nếu có rủi ro phá sản
83.3 Overall Percentage
166 12 93.3
Rủi ro phá sản Step 2 17 50 74.6 Nếu không có rủi ro phá sản Nếu có rủi ro phá sản
88.2 Overall Percentage
168 10 94.4
Rủi ro phá sản Step 3 16 51 76.1 Nếu không có rủi ro phá sản Nếu có rủi ro phá sản
89.4 Overall Percentage
167 11 93.8
Rủi ro phá sản Step 4 13 54 80.6 Nếu không có rủi ro phá sản Nếu có rủi ro phá sản
90.2 Overall Percentage
169 9 94.9
Rủi ro phá sản Step 5 9 58 86.6 Nếu không có rủi ro phá sản Nếu có rủi ro phá sản
92.7 Overall Percentage
166
a. The cut value is .500
Phụ lục 6d.
Variables in the Equation
B S.E. Wald df Sig. Exp(B)
1 TNPT/TTS 9.991 1.328 56.626 .000 21822.263 Step 1a 1 Constant -7.394 .928 63.472 .000 .001
1 TNPT/TTS 11.084 1.697 42.661 .000 65089.518
.000 1 .000 ROA -46.691 8.787 28.232 Step 2b
.001 1 .000 Constant -7.104 1.132 39.416
1 TNPT/TTS 9.463 1.733 29.802 .000 12876.183
.004 1 .000 VHDT/TTS -5.600 1.389 16.241 Step 3c
.000 1 .000 ROA -52.523 10.087 27.113
.012 1 .000 Constant -4.429 1.203 13.553
.000 1 .000 DTi/TNPT -7.645 1.983 14.869
1 .000 TNPT/TTS 9.030 1.934 21.886 8350.565
.001 1 .000 VHDT/TTS -7.072 1.585 19.910 Step 4d
.000 1 .000 ROA -55.714 11.909 21.798
.023 1 .003 Constant -3.778 1.279 8.731
.000 1 .000 DTi/TNPT -7.773 2.124 13.387
.031 1 .011 KVTT -3.484 1.365 6.515
1 .002 TNPT/TTS 6.806 2.206 9.514 903.203 Step 5e .001 1 .000 VHDT/TTS -7.072 1.743 16.473
.000 1 .000 ROA -45.561 12.130 14.108
.393 1 .588 Constant -.933 1.722 .294
a. Variable(s) entered on step 1: TNPT/TTS.
b. Variable(s) entered on step 2: ROA.
c. Variable(s) entered on step 3: VHDT/TTS.
d. Variable(s) entered on step 4: DTi/TNPT.
167
e. Variable(s) entered on step 5: KVTT.
Phụ lục số 7
Phụ lục số 7a: Group Statistics
N
Mean
Std. Deviation Std. Error Mean
Rủi ro phá sản
97
-.0457727
.13980964
.01419552
Nếu có rủi ro phá sản
DTi/TNPT
.1429309
.19817201
.01324092
Nếu không có rủi ro phá sản
224
.5397810
.19206874
.01892510
Nếu có rủi ro phá sản
103
NNH/TTS
.3152212
.16607804
.01035966
Nếu không có rủi ro phá sản
257
94
5.8905017
18.49409077
1.90751982
Nếu có rủi ro phá sản
VCSH/NDH
Nếu không có rủi ro phá sản
245
17.0987408
37.48986154
2.39513940
.3009310
.15879037
.01775330
Nếu có rủi ro phá sản
80
GTTVCSH/NPT
1.3131271
1.09752259
.07665430
Nếu không có rủi ro phá sản
205
.2963716
.84749098
.08350577
Nếu có rủi ro phá sản
103
ROFA
1.5694578
2.07872077
.12966704
Nếu không có rủi ro phá sản
257
.7465179
.16344580
.01610479
Nếu có rủi ro phá sản
103
TNPT/TTS
.4939342
.18056815
.01126353
Nếu không có rủi ro phá sản
257
1.5836216
2.07783560
.20473522
Nếu có rủi ro phá sản
103
TSNH/NNH
3.0535611
3.41852419
.21324168
Nếu không có rủi ro phá sản
257
.1203522
.25388544
.02591207
Nếu có rủi ro phá sản
96
VLD/TTS
.3607308
.20401814
.01272630
Nếu không có rủi ro phá sản
257
.1298537
.19455225
.01916980
Nếu có rủi ro phá sản
103
EBIT/DT
.3002036
.18876910
.01177509
Nếu không có rủi ro phá sản
257
-.0007964
.05695363
.00561181
Nếu có rủi ro phá sản
103
ROA
.0615429
.06503594
.00405683
Nếu không có rủi ro phá sản
257
.0128449
.16497091
.01625507
Nếu có rủi ro phá sản
103
ROE
.1516898
.16867017
.01052136
Nếu không có rủi ro phá sản
257
1.2821534
1.39915576
.13786291
Nếu có rủi ro phá sản
103
CP/DT
.7915932
.47176714
.02942803
Nếu không có rủi ro phá sản
257
.2138217
.22169507
.02184426
Nếu có rủi ro phá sản
103
DT/TS
.3207652
.22358129
.01394662
Nếu không có rủi ro phá sản
257
Nếu có rủi ro phá sản
80
.000831975
.0010057132
.0001124422
QMCT
Nếu không có rủi ro phá sản
205
.004842390
.0138449881
.0009669759
168
Phụ lục số 7b. Independent Samples Test
Levene's Test for
t-test for Equality of Means
Equality of Variances
F
Sig.
t
df
Sig. (2-
Mean
Std. Error
95% Confidence Interval of the
tailed)
Difference
Difference
Difference
Lower
Upper
Equal variances assumed
21.772
.000
-8.503
319
.000
-.18870356
.02219214
-.23236501
-.14504211
DTi/TNPT
Equal variances not assumed
-9.721 253.204
.000
-.18870356
.01941223
-.22693357
-.15047355
Equal variances assumed
2.621
.106
11.074
358
.000
.22455978
.02027749
.18468181
.26443775
NNH/TTS
Equal variances not assumed
10.408 166.337
.000
.22455978
.02157503
.18196359
.26715597
Equal variances assumed
21.124
.000
-2.770
337
.006 -11.20823912
4.04583186 -19.16650482
-3.24997342
VCSH/NDH
Equal variances not assumed
-3.661 317.045
.000 -11.20823912
3.06191518 -17.23247943
-5.18399881
Equal variances assumed
49.948
.000
-8.207
283
.000
-1.01219611
.12333575
-1.25496797
-.76942424
GTTVCSH/
NPT
Equal variances not assumed
-12.864 224.802
.000
-1.01219611
.07868330
-1.16724728
-.85714494
Equal variances assumed
53.965
.000
-6.014
358
.000
-1.27308620
.21167308
-1.68936513
-.85680726
ROFA
Equal variances not assumed
-8.254 357.881
.000
-1.27308620
.15422955
-1.57639630
-.96977609
Equal variances assumed
4.121
.043
12.316
358
.000
.25258373
.02050842
.21225161
.29291585
TNPT/TTS
Equal variances not assumed
12.852 206.504
.000
.25258373
.01965277
.21383793
.29132953
Equal variances assumed
6.585
.011
-4.071
358
.000
-1.46993954
.36107931
-2.18004264
-.75983644
TSNH/NNH
Equal variances not assumed
-4.972 301.819
.000
-1.46993954
.29561550
-2.05166798
-.88821110
VLD/TTS
Equal variances assumed
4.389
.037
-9.191
351
.000
-.24037858
.02615265
-.29181419
-.18894297
169
Equal variances not assumed
-8.327 143.265
.000
-.24037858
.02886857
-.29744196
-.18331520
Equal variances assumed
.022
.883
-7.671
358
.000
-.17034988
.02220814
-.21402469
-.12667508
EBIT/DT
Equal variances not assumed
-7.572 183.105
.000
-.17034988
.02249743
-.21473740
-.12596236
Equal variances assumed
5.628
.018
-8.507
358
.000
-.06233930
.00732818
-.07675100
-.04792760
ROA
Equal variances not assumed
-9.003 213.261
.000
-.06233930
.00692461
-.07598875
-.04868985
Equal variances assumed
1.671
.197
-7.103
358
.000
-.13884493
.01954806
-.17728838
-.10040147
ROE
Equal variances not assumed
-7.171 191.946
.000
-.13884493
.01936301
-.17703652
-.10065333
Equal variances assumed
29.314
.000
4.968
358
.000
.49056020
.09874151
.29637391
.68474649
CP/DT
Equal variances not assumed
3.480 111.415
.001
.49056020
.14096876
.21123265
.76988775
Equal variances assumed
2.327
.128
-4.111
358
.000
-.10694351
.02601115
-.15809736
-.05578966
DT/TS
Equal variances not assumed
-4.126 189.555
.000
-.10694351
.02591679
-.15806588
-.05582114
Equal variances assumed
16.477
.000
-2.585
283
.010 -.0040104152
.0015511658 -.0070637020
-.0009571284
QMCT
Equal variances not assumed
-4.120 209.455
.000 -.0040104152
.0009734915 -.0059295121
-.0020913184
170