LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận án này.
Tác giả luận án
Phạm Thị Hải Dịu
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ sự tri ân sâu sắc tới thầy, cô hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Bình và
TS. Đỗ Thị Dung – những người đã đồng hành và tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành
luận án này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới các thành viên trong gia đình –
những người đã luôn ở bên động viên, khích lệ và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi có
thời gian nghiên cứu, hoàn thiện luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Ban lãnh đạo Khoa Đào tạo Đại học -
Học viện Tòa án đã tạo điều kiện để tôi có thể hoàn thành luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các đồng nghiệp, bạn bè đã luôn hỏi han,
quan tâm, động viên, chia sẻ kinh nghiệm để tôi hoàn thành luận án.
Tác giả luận án
Phạm Thị Hải Dịu
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
An sinh xã hội ASXH
Bảo hiểm xã hội BHXH
Bảo hiểm y tế BHYT
Dịch vụ xã hội DVXH
DVXHCB Dịch vụ xã hội cơ bản
ILO Tổ chức Lao động Quốc tế
LHQ Liên Hợp Quốc
Nghị định số Nghị định số 49/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1
49/2021/NĐ-CP tháng 4 năm 2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 100/2015/NĐ-CP
Nghị định số Nghị định số 60/2021/NĐ-CP của Chính Phủ ngày
60/2021/NĐ-CP 21 tháng 6 năm 2021 quy định cơ chế tự chủ tài chính
của đơn vị sự nghiệp công lập
Nghị quyết số Nghị quyết số 15/NQ-TW Hội nghị lần thứ năm Ban
15/NQ-TW chấp hành Trung ương Khoá XI của Đảng về “Một số
vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
NLĐ Người lao động
NSNN Ngân sách nhà nước
Nxb Nhà xuất bản
TCTT Tiếp cận thông tin
Thông tư số Thông tư số 39/2017/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 18
39/2017/TT-BYT tháng 10 năm 2017 quy định gói dịch vụ y tế cơ bản
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
UBND Uỷ ban nhân dân
UNDP Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
YTCB Y tế cơ bản
DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT Ký hiệu Tên bảng biểu Trang
1 2.1 Tỷ lệ sử dụng nước sạch một số địa phương 107
2 2.2 111 Số lượng công trình cấp nước tập trung nông thông tính đến năm 2019
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………… 1
1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………… 2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………..… 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………… 4
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu…………………… 5
5. Những đóng góp mới của luận án…………………………………… 6
6. Kết cấu của luận án………………………………………………… 7
PHẦN TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU…………………… 8
1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án…………….………… 8
1.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản và
pháp luật an sinh xã hội về dịch vụ xã hội cơ bản…………………… 8
1.1.1. Tình hình nghiên cứu một số vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản……. 8
1.1.2. Tình hình nghiên cứu pháp luật an sinh xã hội về dịch vụ xã hội cơ bản… 14
1.2. Tình hình nghiên cứu thực trạng pháp luật an sinh xã hội Việt Nam
về các dịch vụ xã hội cơ bản và thực tiễn thực hiện………………… 16
1.3. Tình hình nghiên cứu về kiến nghị hoàn thiện pháp luật an sinh xã
hội về dịch vụ xã hội cơ bản và nâng cao hiệu quả thực hiện……… 19
2. Nhận xét, đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu ……………………… 21
2.1. Nhận xét, đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án…… 21
2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu……………..…………… 21
3. Cơ sở lý thuyết của luận án, câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu 22
3.1. Cơ sở lý thuyết của luận án………………………………….……..… 22
3.2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu……………………… 25
KẾT LUẬN PHẦN TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU……… 28
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ
BẢN VÀ PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI VỀ DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ
BẢN………………………………………………………………………... 29
1.1. Một số vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an
sinh xã hội………………………………………………………….…. 29
1.1.1 Khái niệm an sinh xã hội và các bộ phận cấu thành an sinh xã hội…… 29
1.1.2 Khái niệm dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an sinh xã hội……… 33
1.1.3 Vai trò của dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an sinh xã hội………. 42
1.2 Pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản……………. 47
1.2.1 Khái niệm pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản………. 47
1.2.2 Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật an sinh xã hội về dịch vụ xã hội
cơ bản………………………………………………………………………… 51
1.2.3 Nội dung pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản…… 57
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1……………………………………………...… 67
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI VỀ
CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN……………………………………………………………… 68
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục và
thực tiễn thực hiện ……………………………………….…………….…… 69
2.1.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ
bản về giáo dục và thực tiễn thực hiện.................................................................. 68
2.1.2 Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về
giáo dục và thực tiễn thực hiện ………….……….……………………………… 71
2.1.3 Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ
bản về giáo dục và thực tiễn thực hiện............................................................ 72
2.1.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ
xã hội cơ bản về giáo dục và thực tiễn thực hiện………………………………… 74
2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về chăm sóc y tế
và thực tiễn thực hiện.......................................................................................... 77
2.2.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ
bản về chăm sóc y tế và thực tiễn thực hiện……………………….……….….. 77
2.2.2 Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về
phạm vi và mức hưởng dịch vụ y tế cơ bản…………………………………….… 81
2.2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ
bản về chăm sóc y tế và thực tiễn thực hiện………………………..…………… 84
2.2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ
xã hội cơ bản về chăm sóc y tế và thực tiễn thực hiện……………….………… 87
2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về nhà ở và
thực tiễn thực hiện………………………………………………………… 91
2.3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội
cơ bản về nhà ở và thực tiễn thực hiện………………………..………………… 91
2.3.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về
nhà ở và thực tiễn thực hiện…………………………………………..…………… 96
2.3.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ
bản về nhà ở và thực tiễn thực hiện…….……………………..………………… 97
2.3.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ
xã hội cơ bản về nhà ở và thực tiễn thực hiện……………………………….…… 99
2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về nước
sạch và thực tiễn thực hiện……………………………………………….… 102
2.4.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ
bản về nước sạch và thực tiễn thực hiện………………………………….…… 103
2.4.2 Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về
nước sạch và thực tiễn thực hiện…………………………………………….……. 104
2.4.3 Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ
bản về nước sạch và thực tiễn thực hiện………………………………………... 106
2.4.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ
xã hội cơ bản về nước sạch và thực tiễn thực hiện…………………..………… 108
2.5. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về tiếp cận
thông tin và thực tiễn thực hiện………………………………….………… 112
2.5.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội
cơ bản về thông tin và thực tiễn thực hiện........................................................ 112
2.5.2 Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về
tiếp cận thông tin và thực tiễn thực hiện………………………………….……… 116
2.5.3 Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ
bản về tiếp cận thông tin và thực tiễn thực hiện………………………….……… 119
2.5.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ
xã hội cơ bản về tiếp cận thông tin và thực tiễn thực hiện…………..…………. 121
2.6. Một số nhận xét, đánh giá…………………………….……….…… 124
2.6.1 Những kết quả đạt được…………………………………..…………..…… 123
2.6.2 Những hạn chế và nguyên nhân…………………..….……………… 126
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2…………………………………………..……… 130
CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI VỀ CÁC DỊCH VỤ XÃ
HỘI CƠ BẢN……………………………..…………. 131
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật an
sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản ……………………..…………. 131
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội Việt Nam về các dịch vụ xã
hội cơ bản…………………………………………………………………. 136
3.2.1. Kiến nghị chung……………………………….………..…………………….. 136
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục…... 141
3.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về chăm sóc y tế 143
3.2.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về nhà ở….…… 148
3.2.5. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về nước sạch….. 153
3.2.6. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về tiếp cận
thông tin……………............................................................................................... 155
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật an sinh xã hội về
các dịch vụ xã hội cơ bản………………………………………………… 157
3.3.1.Giải pháp chung…………………………………………..………………… 158
3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ
bản về giáo dục ………..………………………….................................................... 161
3.3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ
bản về chăm sóc y tế ………………………………………………………................. 164
3.3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ
bản về nhà ở ………………………………………………………….…………….… 169
3.3.5. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ
bản về nước sạch ……………………………………………………………….…..… 175
3.3.6. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ
bản về tiếp cận thông tin……………………………………………………………… 177
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3………………………………….……………… 182
KẾT LUẬN……………………………………………………..…………. 183
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, ASXH giữ vai trò vừa là động lực
của sự phát triển, vừa là mục tiêu xây dựng đất nước. Mục tiêu cơ bản của ASXH
là tạo một môi trường công bằng cho các tầng lớp dân cư, cho người nghèo, cho
NLĐ, cho các đối tượng gặp biến cố rủi ro tham gia. Vì vậy, ASXH phải thực sự
là công cụ phát triển tiến bộ xã hội.
Năm 2009, LHQ phát triển sáng kiến “Sàn an sinh xã hội” với mục đích đảm
bảo mọi người dân có mức thu nhập tối thiểu và tiếp cận được các dịch vụ xã hội
thiết yếu, nhằm bảo đảm các quyền cơ bản của con người được quốc tế và quốc
gia thừa nhận, vì mục tiêu giảm nghèo và đảm bảo ASXH. Các cấu phần chính
của “Sàn an sinh xã hội” bao gồm: (i) chăm sóc sức khỏe cơ bản; (ii) thu nhập tối
thiểu cho người trong tuổi lao động nhưng không có khả năng tạo thu nhập vĩnh
viễn (người khuyết tật), hoặc mất việc làm tạm thời (người bị thất nghiệp), hoặc
thu nhập thấp hơn mức đủ sống (người nghèo); (iii) thu nhập tối thiểu đối với
người trên tuổi lao động (người cao tuổi) và dưới tuổi lao động (trẻ em). Bên cạnh
đó, sàn ASXH cũng nhấn mạnh đến các dịch vụ xã hội thiết yếu cho con người,
bao gồm: (i) Chăm sóc y tế cơ bản; (ii) Nước sinh hoạt hợp vệ sinh; (iii) Nhà ở;
(iv) Giáo dục và (v) Các dịch vụ khác tùy theo ưu tiên của từng quốc gia.
Như vậy, ở phạm vi quốc tế, DVXHCB được quy định là một trong những
cấu phần, trụ cột chính của ASXH. DVXHCB là dịch vụ cung cấp cho các đối
tượng nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, do vậy, có vai trò
quan trọng và quyết định sự thành công của các chính sách ASXH.1
Ở Việt Nam, DVXHCB lần đầu tiên được đề cập trong Chương trình hành
động quốc gia vì trẻ em Việt Nam 2001-2010 và Chương trình mục tiêu quốc gia
1 Viện Khoa học lao động và xã hội (ILSSA) và GIZ, Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam, 2010.
giảm nghèo và việc làm 2001 - 2005, mục tiêu hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo và
2
xã nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội. Đặc biệt, Nghị quyết số 15/NQ-TW Hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Khoá XI của Đảng về “Một số vấn đề về
chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020” đã xác định mục tiêu đảm bảo các
DVXHCB cho người dân bao gồm giáo dục tối thiểu, y tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu,
nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin truyền thông. Có thể nói, quan niệm
toàn diện về ASXH quốc gia với bốn trụ cột, bao gồm cả DVXHCB đề cập trong
văn kiện này đã làm cơ sở quan trọng cho việc hoàn thiện pháp luật, thiết lập “sàn”
bảo vệ và tăng cường khả năng tiếp cận của nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội.
DVXHCB ở Việt Nam được thể chế hóa trong Luật Giáo dục năm 2019,
Luật BHYT năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014, Luật Nhà ở năm 2014, Luật
TCTT năm 2016 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Hệ thống văn bản
này quy định về đối tượng tiếp cận DVXHCB, chủ thể cung cấp DVXHCB, mức
hưởng, phạm vi hưởng DVXHCB, nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB... Thực
tiễn thực hiện pháp luật ASXH về DVXHCB đạt được những thành tựu nhất định
như tỷ lệ phổ cập giáo dục, tỷ lệ bao phủ BHYT, tỷ lệ người dân tiếp cận nước
sạch ngày càng tăng, các dự án xây dựng nhà ở được triển khai cung cấp một số
lượng lớn nhà ở mỗi năm. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về vấn đề này vẫn tồn tại
những hạn chế, bất cập, chưa thống nhất, thiếu tính hệ thống gây khó khăn, chưa
đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện. Chẳng hạn, quy định đối tượng tiếp cận
DVXHCB chưa bao quát hết các đối tượng, các quy định ưu đãi thu hút khu vực
tư nhân đầu tư cung cấp DVXHCB chưa rõ ràng, chưa hợp lý… Thực tiễn thực
hiện pháp luật về vấn đề này chưa đạt hiệu quả cao như chất lượng DVXHCB
chưa đảm bảo, việc tiếp cận DVXHCB còn chênh lệch giữa các vùng, miền, giữa
các nhóm đối tượng….
Với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội, mức sống và nhu cầu của con
người ngày càng cao thì DVXHCB đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm
các nhu cầu tối thiểu của con người. Trong khi đó, chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện pháp luật ASXH về DVXHCB.
3
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Pháp luật an sinh xã hội về
các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là nhằm nghiên cứu toàn diện, sâu sắc hệ thống một
số các vấn đề lý luận về DVXHCB trong hệ thống ASXH. Trên cơ sở quan điểm
về lý luận được nghiên cứu, luận án tập trung phân tích thực trạng pháp luật và
thực tiễn thực hiện pháp luật ASXH về DVXHCB. Từ đó, đề xuất một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ASXH về các
DVXHCB.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đặt ra, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Cụ
thể tiến hành hồi cứu, thu thập các tài liệu, công trình khoa học liên quan đến đề
tài luận án. Từ đó, khái quát các nội dung đã được nghiên cứu, nội dung chưa được
nghiên cứu trong các công trình đó để định hướng các vấn đề, nội dung sẽ được
giải quyết trong luận án. Nghiên cứu cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả
thuyết nghiên cứu để làm cơ sở nghiên cứu các nội dung của luận án và để nhận
diện rõ hơn xu thế điều chỉnh pháp luật ASXH về DVXHCB hiện nay.
- Thứ hai, nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về DVXHCB trong
ASXH và pháp luật ASXH về DVXHCB. Cụ thể, làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai
trò của DVXHCB trong hệ thống ASXH; Khái niệm, các nguyên tắc, nội dung
của pháp luật ASXH về DVXHCB.
- Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp
luật ASXH về DVXHCB ở Việt Nam đối với từng DVXHCB nhằm tìm ra điểm
bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật hiện hành và vướng mắc trong quá
trình thực hiện pháp luật vấn đề này. Tùy từng nội dung, luận án có nghiên cứu,
tham khảo kinh nghiệm các quốc gia về lĩnh vực này để vận dụng phù hợp với
4
điều kiện của Việt Nam.
- Thứ tư, luận giải về yêu cầu mang tính khách quan của việc hoàn thiện pháp
luật ASXH về DVXHCB. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ASXH về DVXHCB ở
Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các quy định của pháp luật ASXH Việt
Nam về các DVXHCB, cụ thể là các đạo luật liên quan và hệ thống văn bản hướng
dẫn. Để làm sâu sắc vấn đề nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của luận án còn là
các công ước, khuyến nghị của LHQ, các tổ chức quốc tế và pháp luật ASXH một
số quốc gia có liên quan tới đối tượng nghiên cứu của luận án.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu quy định pháp luật ASXH Việt Nam
về 05 DVXHCB bao gồm: DVXHCB về giáo dục, DVXHCB về chăm sóc y tế,
DVXHCB về nhà ở, DVXHCB về nước sạch và DVXHCB về TCTT. Do yêu cầu
về dung lượng cũng như mục đích nghiên cứu đặt ra, trong mỗi DVXHCB, luận
án chỉ tập tập trung nghiên cứu các vấn đề đối tượng tiếp cận DVXHCB, nội dung
DVXHCB, chủ thể cung cấp DVXHCB và nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB.
Luận án không nghiên cứu các nội dung: thủ tục thực hiện DVXHCB, khiếu
nại, tố cáo về DVXHCB; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về
DVXHCB; giải quyết tranh chấp về DVXHCB.
- Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu pháp luật ASXH về DVXHCB ở
Việt Nam, có so sánh với pháp luật quốc tế và một số quốc gia về vấn đề này.
- Phạm vi thời gian: Luận án được nghiên cứu có tính bao quát về thời gian
nhưng chú trọng hơn khoảng thời gian từ năm 2015 đến nay. Năm 2015 là thời
điểm Nghị quyết số 15/NQ-TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
Khoá XI của Đảng về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”
5
được ban hành và ghi nhận các DVXHCB thuộc hệ thống ASXH quốc gia.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của học thuyết Mac-
Lenin, bao gồm phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử. Đồng thời luận
án còn dựa trên cơ sở các quan điểm, chủ trương, định hướng trong các Nghị Quyết
của Đảng và Nhà nước về ASXH nói chung và ASXH về DVXHCB nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: phương pháp hồi
cứu tài liệu, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp chứng
minh, phương pháp tổng hợp… Cụ thể:
- Phương pháp hồi cứu tài liệu được sử dụng để tập hợp các tài liệu, công
trình đã nghiên cứu dựa trên các mốc thời gian, các nội dung liên quan nhằm lựa
chọn, tập hợp một cách đầy đủ nhất các tài liệu liên quan đến đề tài luận án.
Phương pháp này được sử dụng nhiều trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu
luận án. Ngoài ra, phương pháp này còn được sử dụng kết hợp với các phương
pháp khác trong quá trình nghiên cứu các nội dung khác của luận án.
- Phương pháp phân tích được áp dụng phổ biến trong việc phân tích quy
định pháp luật, phân tích số liệu liên quan đến từng nội dung trong luận án.
- Phương pháp so sánh được sử dụng ở hầu hết các nội dung của luận án
nhằm đối chiếu các quan điểm khác nhau giữa các nhà khoa học trong các công
trình nghiên cứu; giữa quy định của pháp luật ASXH hiện hành với quy định của
pháp luật ASXH các giai đoạn trước đây; giữa quy định của pháp luật ASXH Việt
Nam về DVXHCB với quy định của LHQ và một số quốc gia trên thế giới.
- Phương pháp chứng minh được sử dụng để đưa ra các dẫn chứng (các quy
định, số liệu, tài liệu…) nhằm làm rõ các luận điểm, luận cứ trong nội dung quy
định pháp luật ASXH về DVXHCB và thực tiễn thực hiện ở chương 3.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu trong việc rút ra những nhận
6
định, ý kiến đánh giá sau quá trình phân tích ở từng mục, từng chương, đặc biệt
được sử dụng để kết luận các chương và kết luận chung của luận án.
- Phương pháp dự báo khoa học được sử dụng nhằm đề xuất các kiến nghị
hoàn thiện quy định pháp luật ASXH về DVXHCB và kiến nghị nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật ASXH về DVXHCB trong chương 3 luận án.
Các phương pháp này có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với nhau
tuỳ thuộc vào từng nội dung, từng vấn đề nhằm đạt được mục đích nghiên cứu của
luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
Là một công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện pháp luật
an sinh xã hội về các các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam, luận án có những
đóng góp mới về mặt khoa học như sau:
- Luận án góp phần củng cố và làm giàu hệ thống lý luận ASXH về
DVXHCB thông qua việc xây dựng hệ thống các khái niệm DVXHCB trong
ASXH như khái niệm dịch vụ xã hội, khái niệm DVXHCB, đặc trưng của
DVXHCB, chỉ ra vai trò của DVXHCB với tư cách là một bộ phận cấu thành
ASXH.
- Luận án góp phần hoàn thiện lý luận về pháp luật ASXH về DVXHCB, cụ
thể: luận án đã xây dựng khái niệm pháp luật ASXH về DVXHCB, xác định các
nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật ASXH về DVXHCB và phân tích tương đối
toàn diện, có hệ thống nội dung điều chỉnh pháp luật ASXH về DVXHCB.
- Luận án là công trình đầu tiên phân tích, đánh giá một cách khá toàn diện
và chi tiết thực trạng pháp luật ASXH Việt Nam về DVXHCB và thực tiễn thực
hiện, chỉ ra những bất cập của hệ thống pháp luật ASXH hiện hành về DVXHCB.
- Luận án đề xuất được các kiến nghị cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật
ASXH về DVXHCB và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu qủa thực hiện pháp luật
ASXH về DVXHCB, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
7
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần tổng quan tình hình nghiên cứu, danh mục
từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản và pháp luật an sinh xã
hội về dịch vụ xã hội cơ bản.
Chương 2. Thực trạng pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt
Nam và thực tiễn thực hiện.
Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản.
8
PHẦN TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản và pháp
luật an sinh xã hội về dịch vụ xã hội cơ bản
1.1.1. Tình hình nghiên cứu một số vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản
Nghiên cứu về khái niệm an sinh xã hội và khái niệm dịch vụ xã hội cơ
bản trong hệ thống an sinh xã hội
Khái niệm ASXH được một số công trình nghiên cứu trong nước và nước
ngoài đề cập đến. Đó là:
Sách “Thuật ngữ ASXH” (2011) của Viện Khoa học và Lao động xã hội
(ILSSA) phối hợp với Dự án hỗ trợ giảm nghèo ở Việt Nam, do Cơ quan Hợp tác
Phát triển Quốc tế Cộng hòa Liên bang Đức (GIZ) thực hiện dưới sự ủy quyền của
Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Đức (BMZ). Cuốn sách đưa ra gần 200 thuật ngữ
về ASXH và khái quát về mối liên hệ giữa các trụ cột chính của hệ thống ASXH.
Trong đó, một số khái niệm liên quan tới DVXHCB trong ASXH như ASXH cơ
bản, sàn ASXH, dịch vụ xã hội, gói dịch vụ y tế cơ bản… Đây là nguồn tài liệu
hữu ích cho các nhà nghiên cứu về ASXH nói chung và luận án nói riêng.
Sách “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam”
(2009) của tác giả Mai Ngọc Cường, Nxb. Chính trị Quốc gia. Cuốn sách cung
cấp cái nhìn tổng quan về ASXH từ khái niệm, cấu trúc đến nội dung. Trong đó,
khái niệm ASXH được tiếp cận từ góc độ rộng đến hẹp khác nhau.
Nghiên cứu “Social Security – The way Forward” (An sinh xã hội – Con
đường phía trước) (2011) của tác giả R Ramakrishnan tại Hội nghị thượng đỉnh
SKOCH lần thứ 25 năm 2011 đã đưa ra khái niệm ASXH. Theo đó, ASXH hiện
nay thường được hiểu là sự bảo vệ do xã hội cung cấp cho các thành viên của mình
thông qua một loạt các biện pháp công chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và
xã hội gây ra bởi việc ngừng hoặc giảm thu nhập đáng kể do ốm đau, thai sản, việc
làm, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong.
9
Về cơ bản, khái niệm DVXHCB có được đề cập, phân tích trong một số
công trình nghiên cứu tuy nhiên chưa có nhiều công trình nghiên cứu, phân tích
sâu mà chủ yếu phân tích trên cơ sở khái niệm do LHQ xây dựng.
Nghiên cứu cấp Bộ (2011-2012) của Viện Khoa học Lao động và Xã hội,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ở đề tài nhánh 3 “Đánh giá thực trạng khả
năng và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội của nhóm người nghèo, đối tượng dễ bị tổn
thương, đặc biệt là tại các vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số” đã tiếp cận
khái niệm DVXHCB từ khái niệm DVXH. Theo tài liệu này,“Dịch vụ xã hội là
hoạt động cung cấp, đáp ứng nhu cầu cho các thành viên trong xã hội để nâng
cao năng lực có việc làm và khả năng hội nhập xã hội nhằm bảo đảm các giá trị
và chuẩn mực xã hội được thừa nhận”. Tuy nhiên, khái niệm DVXHCB đề cập
trong nghiên cứu là khái niệm được trích dẫn từ khái niệm do LHQ xây dựng.
Theo đó, DVXHCB là các hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối
tượng nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, bao gồm giáo dục
cơ bản; y tế cơ bản; dân số và kế hoạch hóa gia đình; các dịch vụ xã hội liên quan
đến cứu trợ thiên tai; nước sạch và vệ sinh. Như vậy, nghiên cứu này mới dừng
lại ở việc trích dẫn khái niệm DVXHCB của LHQ mà chưa đưa ra được quan điểm
riêng về DVXHCB cũng như lý giải cơ sở xác định phạm vi các dịch vụ xã hội cơ
bản.
Chương trình nghiên cứu cấp Bộ 2011-2012 “Nghiên cứu giải pháp mở
rộng ASXH đồng bộ với chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến 2020”, đề tài
nhánh 3 “Đánh giá thực trạng khả năng và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội của
nhóm người nghèo, đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là tại các vùng sâu vùng
xa, vùng dân tộc thiểu số” của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội chủ trì, do PGS.TS Nguyễn Bá Ngọc chủ nhiệm đề tài,
mã số: CT 2011-02-03. Trong công trình này, một trong các nội dung được nhóm
tác giả nghiên cứu là cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu khả năng tiếp cận
DVXHCB của người nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Trong
10
đó làm rõ khái niệm DVXH, DVXHCB và những đặc thù khác biệt của vùng dân
tộc thiểu số, vùng núi.
Nghiên cứu “Universal Basic Services: a theoretical and moral
framework” (Các dịch vụ cơ bản phổ cập: khung lý thuyết và đạo đức) năm 2019
của tác giả Lan Gough đã xây dựng khái niệm dịch vụ cơ bản phổ quát. Theo đó,
dịch vụ có nghĩa là tập hợp các hoạt động phục vụ lợi ích công cộng. Cơ bản nghĩa
là cần thiết và đủ chứ không phải tối thiểu, làm cho con người thịnh vượng và
tham gia vào xã hội. Phổ quát có nghĩa là mọi người đều được hưởng các dịch vụ
đáp ứng nhu cầu của họ, bất kể khả năng chi trả. Ngoài dịch vụ y tế và giáo dục
công, các dịch vụ khác được đề xuất thêm vào mô hình dịch vụ cơ bản phổ quát
như nơi cư trú, dinh dưỡng, giao thông và thông tin.
Báo cáo của Viện Thịnh Vượng Toàn cầu “Universal basic services: theory
and practice” (Các dịch vụ cơ bản phổ cập: lý thuyết và thực hành) năm 2019 do
Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy thực hiện đã nêu và phân tích
một số vai trò của dịch vụ công và dịch vụ cơ bản phổ quát. Theo các tác giả, dịch
vụ công giảm bớt sự bất bình đẳng về thu nhập bằng cách cung cấp "mức lương
xã hội" đáng giá cho những người thuộc nhóm thu nhập thấp nhất. Dịch vụ cơ bản
phổ quát còn có vai trò tăng cường sự đoàn kết bởi nó kêu gọi thực hành chính
sách tập thể bằng cách chia sẻ nguồn lực và cùng nhau hành động để đối phó với
rủi ro và vấn đề con người không thể đối phó một mình. Ngoài ra, nghiên cứu còn
chỉ ra vai trò của dịch vụ giáo dục cơ bản, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, các dịch vụ
giao thông công cộng, các tiện ích gia đình như điện, nước, điện thoại, nước thải,
năng lượng.
Sổ tay hướng dẫn “Social Protection Floor Initiative” (Sáng kiến sàn bảo
trợ xã hội) năm 2009 của nhóm các cơ quan hợp tác và đối tác phát triển, Văn
phòng Lao động Quốc tế và Tổ chức Y tế Thế giới là sáng kiến thứ sáu của CEB
(Trưởng ban điều hành hệ thống LHQ về điều phối) đã gián tiếp đưa ra định nghĩa
DVXHCB thông qua khái niệm về “Tầng bảo trợ xã hội” và “các dịch vụ thiết
11
yếu”. Theo đó, tầng bảo trợ xã hội là một khái niệm chính sách xã hội nhất quán
và toàn cầu nhằm thúc đẩy các chiến lược mỗi quốc gia với mục tiêu bảo vệ mức
độ tiếp cận tối thiểu các dịch vụ và chuyển giao thiết yếu, đảm bảo thu nhập cho
mọi người trong cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính hiện nay và hơn thế nữa.
Sàn bảo trợ xã hội quốc gia là một tập hợp các quyền cơ bản cho phép và trao
quyền cho các thành viên trong xã hội tiếp cận mức hàng hóa và dịch vụ tối thiểu
và được xã hội bảo vệ ở bất kỳ thời điểm nào. Dựa trên danh sách các dịch vụ và
chuyển giao của Tuyên bố chung của LHQ thì các dịch vụ thiết yếu được hiểu là
khả năng tiếp cận theo khu vực và tài chính đối với các dịch vụ thiết yếu (chẳng
hạn như nước và vệ sinh, dinh dưỡng đầy đủ, y tế và giáo dục, nhà ở, và các dịch
vụ bao gồm thông tin về cuộc sống và tiết kiệm tài sản).
Bài viết “The Right to Health and Basic Services" (Quyền được chăm sóc
sức khỏe và các dịch vụ cơ bản) năm 2010 của tác giả W. Courtland Robinson đã
đưa ra định nghĩa DVXHCB dựa trên Điều lệ nhân đạo của Dự án Sphere và Tiêu
chuẩn tối thiểu trong Ứng phó thiên tai là: “được tiếp cận với ít nhất các yêu cầu
tối thiểu (nước, vệ sinh, thực phẩm, dinh dưỡng, nơi ở và chăm sóc sức khỏe) để
đáp ứng quyền cơ bản được sống với phẩm giá”.
Nếu như các công trình trên nghiên cứu về DVXHCB nói chung thì một số
công trình dưới đây lại nghiên cứu về một DVXHCB cụ thể, như DVXHCB về
giáo dục cơ bản hoặc DVXHCB về nước sạch, DVXHCB về TCTT ….
Về dịch vụ giáo dục cơ bản, bài viết “Đừng nhầm lẫn “dịch vụ giáo dục” với
“giáo dục là dịch vụ” năm 2018 của Phạm Ngọc Duy đăng trên báo Vietnamnet ngày
03/06/2018. Bài viết được tác giả nghiên cứu trong bối cảnh luật Giáo dục đang được
dự thảo sửa đổi, trong đó tác giả trình bày một số kinh nghiệm quốc tế cũng như
những lưu ý khi sử dụng thuật ngữ “dịch vụ giáo dục” trong luật giáo dục. Theo tác
giả, “dịch vụ giáo dục được đề cập đến trong các văn bản pháp luật quốc tế để chỉ
các hoạt động giáo dục tương đối cụ thể và chính thức do các cơ sở giáo dục tổ chức
và người học thụ hưởng nhằm đạt được mục tiêu giáo dục toàn diện nêu trên”.
12
Liên quan đến quyền tiếp cận thông tin, sách tham khảo “Quyền tiếp cận
thông tin của công dân Việt Nam” (2015) của tác giả Thái Thị Tuyết Dung, Nxb.
Đại học Quốc gia, đã dành chương đầu tiên để lí giải một số vấn đề lý luận về
quyền tiếp cận thông tin của công dân. Trong đó làm rõ nhiều khái niệm liên quan.
Tác giả phân tích khái niệm “thông tin” trong quyền TCTT của công dân. Cùng
với đó, quyền TCTT được tác giả định nghĩa như sau: “quyền tiếp cận thông tin
là khả năng xử sự và lựa chọn xử sự của công dân trong những điều kiện cụ thể
được pháp luật quy định nhằm có được thông tin mà các cơ quan nhà nước đang
nắm giữ”.
Liên quan đến nước sạch, luận án “Bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở
nông thôn từ thực tiễn các tỉnh Đồng bằng Sông Hồng” (2020) của Trần Thị Xuân
chuyên ngành luật Hiến pháp và luật Hành chính định nghĩa “Quyền tiếp cận nước
sạch là một quyền quan trọng của con người; Theo đó mỗi người đều có quyền
tiếp cận nước bảo đảm tiêu chuẩn an toàn cho sức khỏe, đáp ứng được các tiêu
chí đầy đủ, dễ tiếp cận, chấp nhận được trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối
xử và có quyền tự quyết trong tiếp cận”.
Nghiên cứu vai trò của dịch vụ xã hội cơ bản
Một tài liệu rất đáng quan tâm là báo cáo của Viện Thịnh vượng Toàn cầu
“Social prosperity for the future: A proposal for Universal Basic Services” (Sự
thịnh vượng xã hội cho tương lai: Một đề xuất về các dịch vụ cơ bản phổ quát)
năm 2017. Báo cáo cho rằng tập trung vào DVXHCB chẳng hạn như chăm sóc
sức khoẻ, giáo dục, nhà ở, thực phẩm, thông tin liên lạc và vận tải hiệu quả hơn
nhiều trong việc giảm chi phí sinh hoạt so với việc chi cùng một khoản tiền cho
dịch vụ hiện có hoặc cho việc phân phối lại. Không những thế, DVXHCB thực sự
mang lại một mức sàn chung cho tiêu chuẩn sống của bất kỳ công dân nào.
Vai trò của DVXHCB còn được đề cập trong nghiên cứu “Assessment of
Basic Social Services Coverage on Life Quality for Ethnic Minorities in Vietnam”
(Đánh giá mức độ bao phủ của các dịch vụ xã hội cơ bản về chất lượng cuộc sống
13
của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam) của tập thể tác giả Ha Thi Hai Do, Nui Dang
Nguyen, Anh Ngoc Mai, Duc Minh Phung. Trong nghiên cứu này, các tác giả cho
rằng DVXHCB giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân và góp phần
phát triển kinh tế đất nước bền vững. Chất lượng cuộc sống có mối liên hệ với các
nhu cầu cơ bản như giáo dục, dinh dưỡng, sức khoẻ, nhà ở, nước sạch, giao thông.
Về vai trò của giáo dục cơ bản, bài viết “Legal policy of Basic Education
in National Education System” (Chính sách pháp luật về Giáo dục cơ bản trong
Hệ thống giáo dục quốc dân) (2017) của các tác giả Ichsan Yasin Limpo, Syamsul
Bachri, Aminuddin Ilmar, Farida Patittingi đã đánh giá bản chất của giáo dục như
một tiến trình có tính hệ thống để nâng cao phẩm giá của con người một cách tổng
thế. Giáo dục chính quy cần có chiến lược phát triển tiềm năng của người học.
Liên quan tới vai trò của chăm sóc sức khoẻ cơ bản và giáo dục, không thể
bỏ qua cuốn sách của Viện Ngân hàng phát triển châu Á “Public – Private
partnerships in the social sector, Issues and Country Experiences in Asia and the
Pacific” (Quan hệ đối tác công - tư trong lĩnh vực xã hội, Các vấn đề và Kinh
nghiệm Quốc gia ở Châu Á - Thái Bình Dương), Nxb. ADBI. Theo nghiên cứu
này, chăm sóc sức khỏe và giáo dục là cần thiết để đạt được chất lượng cuộc sống
cao. Những người khỏe mạnh, được giáo dục tốt có xu hướng có thu nhập cao hơn
và làm việc hiệu quả hơn về mặt kinh tế. Ở cấp độ quốc gia, một dân số khỏe
mạnh, có trình độ học vấn tốt sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế và giúp tạo ra một
nền kinh tế có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường quốc tế. Nghiên cứu
cũng khẳng định y tế, giáo dục và tăng trưởng kinh tế dường như đang tái tạo lẫn
nhau theo một số cách.
Đối với vai trò của nhà ở, tác giả Lisa T. Alexander trong bài viết “Bring
home the right to housing to advance urban sustainability” (Mang lại quyền về
nhà ở để thúc đẩy sự bền vững của đô thị) năm 2017, khẳng định đảm bảo quyền
có nhà ở góp phần xây dựng đô thị bền vững bên cạnh các yếu tố khác như đất,
không khí, nước và không gian mà con người chiếm giữ.
14
Với nước sạch, tác giả Keimer Raymond trong bài viết “Many poor
Americans are not getting access to clean drinking water, basic human right”
(Nhiều người Mỹ nghèo không được tiếp cận với nước uống sạch, quyền cơ bản
của con người) năm 2016 đã nghiên cứu tầm quan trọng của nước đối với con
người và sự ảnh hưởng của nước bị ô nhiễm đối với sức khỏe con người nói chung
và cộng đồng người nghèo ở Mỹ nói riêng.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu pháp luật an sinh xã hội về dịch vụ xã hội cơ bản
Về khái niệm pháp luật ASXH và nguyên tắc cơ bản của pháp luật ASXH
về dịch vụ xã hội, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu nào
đề cập vấn đề lý luận pháp luật ASXH về DVXHCB. Vì thế, khái niệm, nguyên
tắc pháp luật ASXH về DVXHCB chưa được nghiên cứu.
Nội dung pháp luật ASXH về DVXHCB được nghiên cứu ở mức độ rộng
hẹp khác nhau giữa các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài, xuất phát
từ sự khác nhau giữa hệ thống pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội mỗi quốc gia
và pháp luật quốc tế. Hầu hết công trình nghiên cứu trong nước đề cập đến nội
dung pháp luật ASXH về DVXHCB bao gồm 05 dịch vụ xã hội: giáo dục cơ bản,
y tế cơ bản, nhà ở, nước sạch và TCTT. Điều này có thể xuất phát từ chủ trương
thể hiện trong Nghị quyết 15-NQ/TW Hội nghị lần thứ Năm, Ban chấp hành Trung
ương khoá XI khi xác định mục tiêu đảm bảo các DVXHCB cho người dân bao
gồm 05 dịch vụ này. Vì vậy nghiên cứu sinh cũng đồng ý với cách tiếp cận của
các nghiên cứu trong nước về phạm vi của DVXHCB và luận án cũng tập trung
nghiên cứu 05 DVXHCB này.
Viện Khoa học Lao động và Xã hội phối hợp với Cơ quan Hợp tác Phát
triển Quốc tế Cộng hòa Liên bang Đức (GIZ) xuất bản cuốn “Phát triển hệ thống
ASXH ở Việt Nam đến năm 2020” (2013), trong đó đề cập đến vấn đề bảo đảm
mức tối thiểu các DVXHCB cho người dân. 05 chính sách về DVXHCB được
phân tích bao gồm: đảm bảo giáo dục tối thiểu, bảo đảm y tế tối thiểu, bảo đảm
mức tối thiểu về nhà ở, đảm bảo nước sạch cho người dân và đảm bảo thông tin
15
cho người nghèo, vùng nghèo. Ở mỗi chính sách, các tác giả đều xoay quanh các
nội dung như vai trò, mục tiêu, chính sách hiện hành và định hướng phát triển
chính sách trong tương lai.
Công trình nghiên cứu “Cơ sở khoa học của việc xây dựng sàn ASXH ở Việt
Nam giai đoạn 2011-2020” (2013) của Viện Khoa học và Lao động xã hội, Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội do TS. Doãn Mậu Diệp chủ nhiệm đề tài đã
nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng sàn ASXH ở Việt Nam.
Từ nghiên cứu này có thể thấy quan điểm của các tác giả về các bộ phận cấu thành
DVXHCB. Theo tác giả, mục tiêu của sàn ASXH là đảm bảo quyền con người về
thu nhập tối thiểu, y tế cơ bản, giáo dục cơ bản, nhà ở, nước sạch, nhà vệ sinh.
Tuy nhiên, một số tác giả lại nghiên cứu các bộ phận cấu thành DVXHCB
với phạm vi rộng hơn. Ngoài 05 dịch vụ trên, bộ phận cấu thành của DVXHCB
còn được nghiên cứu mở rộng ở các dịch vụ như dinh dưỡng, tiếp cận công lý,
giao thông, chương trình hỗ trợ và cơ sở hạ tầng…
Có thể chỉ ra bài viết “Basic service and social protection” (DVXHCB và
bảo trợ xã hội) (2004) của Rachel Marcus, Laure- Hèlène Piron và Tom Slaymaker
tập trung vào các DVXHCB như dịch vụ sức khỏe (bao gồm cả dinh dưỡng), giáo
dục, vệ sinh, an toàn, an ninh và tiếp cận công lý. Bài viết nhấn mạnh tầm quan
trọng của chất lượng dịch vụ trong việc giảm thiểu tổn thương, xem xét một cách
ngắn gọn về khả năng tiếp cận dịch vụ cơ bản. Trong đó nêu lên mối liên hệ giữa
không biệt đối xử trong tiếp cận DVXHCB với khả năng tiếp cận và sự liên hệ
giữa khả năng tiếp cận với quyền về thông tin.
Tác giả Nguyen Viet Cuong và Giang Thanh Long về “Access to basic
social services: an evaluation from the Viet Nam household living standard
surveys” (Tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản: một đánh giá từ cuộc khảo sát tiêu chuẩn
sống hộ gia đình Việt Nam) (2012) đã tập trung vào các dịch vụ xã hội cơ bản bao
gồm trường học; chăm sóc sức khỏe; hưu trí và trợ cấp, điều kiện nhà ở; nước sạch
và vệ sinh; điện, chương trình hỗ trợ và cơ sở hạ tầng. Sổ tay hướng dẫn “Social
16
Protection Floor Initiative” (2009) chỉ ra các dịch vụ xã hội thiết yếu theo Sáng
kiến Sàn bảo trợ xã hội bao gồm 05 dịch vụ: y tế, giáo dục, nhà ở, nước và vệ sinh,
dịch vụ về thông tin.
1.2. Tình hình nghiên cứu thực trạng pháp luật an sinh xã hội Việt Nam về
các dịch vụ xã hội cơ bản và thực tiễn thực hiện
Đề tài cấp nhà nước “nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả,
hiệu lực chi NSNN cho giáo dục ở Việt Nam”, mã số: KHGD/16 - 20.ĐT.023 do
PGS.TS Nguyễn Vũ Việt chủ biên đã nghiên cứu về thực trạng chính sách và chi
cho giáo dục ở Việt Nam. Trong đó, đề tài chỉ ra một số hạn chế liên quan đến chi
tiêu cho giáo dục như: chênh lệch giữa thực hiện và dự toán chi NSNN cho giáo
dục và đào tạo còn ở mức cao; chiến lược đầu tư cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo
chưa được đặt ra đồng thời với chiến lược phát triển hệ thống giáo dục quốc dân
nên điều kiện về nguồn lực để thực hiện giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu còn hạn chế; tốc độ chi NSNN cho giáo dục và đào tạo tăng nhưng chưa phù
hợp với biến động của số lượng học sinh và tính đến biến động giá cả thị trường...
Cuốn sách “Quyền an sinh xã hội và đảm bảo thực hiện trong pháp luật
Việt Nam” (2014) của tác giả Lê Thị Hoài Thu, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
có đề cập đến nội dung thực trạng đảm bảo quyền ASXH trong việc tiếp cận các
DVXHCB. Trong đó, phân tích đánh giá về thực trạng đảm bảo quyền ASXH
trong tiếp cận từng DVXHCB bao gồm: thực trạng đảm bảo quyền giáo dục cơ
bản, đảm bảo quyền chăm sóc y tế cơ bản, đảm bảo quyền có nơi cư trú, đảm bảo
quyền được cung cấp nước sạch, đảm bảo quyền TCTT. Đồng thời, tác giả cũng
chỉ ra nhiều hạn chế trong thực tiễn thực hiện pháp luật ASXH về các DVXHCB
như: đảm bảo giáo dục cơ bản còn tồn tại những hạn chế liên quan tới chất lượng
giáo dục. Đối với dịch vụ y tế, tình trạng bệnh biện quá tải, điều kiện cơ sở vật
chất ở bệnh viện còn hạn chế, khâu tổ chức, quản lý, thủ tục hành chính vẫn tồn
tại bất cập. Đối với quyền có nơi cư trú, tác giả nêu lên tình trạng nhiều người dân
không có tiền mua nhà, khó khăn trong thủ tục xác nhận hiện trạng nhà ở hay xác
17
nhận đối tượng có thu nhập thấp. Về quyền được cung cấp nước sạch, tỷ lệ người
dân được cung cấp nước sạch còn rất thấp cộng với chất lượng nước chưa đảm
bảo, giá nước sạch cao. Về đảm bảo quyền TCTT, hoạt động công khai thông tin
của cơ quan nhà nước chưa hiệu quả, các kênh thông tin chính thức của cơ quan
nhà nước chưa đáp ứng nhu cầu TCTT, nhận thức của người dân về quyền này
còn hạn chế. Như vậy có thể thấy, trong nghiên cứu này, tác giả đã nêu lên thực
tiễn thực hiện đảm bảo quyền tiếp cận các DVXHCB khá bao quát và đây thực sự
là những thực trạng đang tồn tại trên thực tế ở nước ta.
Liên quan tới dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, nghiên cứu “100 years of
social protection: the road to universal social protection systems and floors” (100
năm bảo trợ xã hội: con đường hướng tới hệ thống và sàn bảo trợ xã hội phổ quát)
(2019) của tập thể 63 tác giả, được biên tập bởi Ortiz, Isabel; Schmitt, Valérie và
De, Loveleen các tác giả đã đề cập đến một trong các mục tiêu quan trọng của
Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) trong chương trình Nghị sự 2030 là mục
tiêu bao phủ sức khỏe toàn dân (mục tiêu 3.8). Nghiên cứu cũng đưa ra một số
liệu đáng báo động liên quan tới thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản khi mà cứ
10 người thì có 4 người không được tiếp cận với các dịch vụ y tế thiết yếu và
khoảng cách lớn về bảo trợ xã hội này là không thể chấp nhận được từ góc độ nhân
quyền. Nghiên cứu này cũng đưa ra những lập luận để phản bác lại quan điểm cho
rằng một tầng bảo trợ xã hội bảo đảm cung cấp sự bảo trợ xã hội cơ bản cho tất cả
người dân là không đủ khả năng chi trả và khẳng định tầng bảo trợ xã hội phổ cập
là khả thi ở đa số các nước đang phát triển.
Báo cáo quốc gia về phát triển con người (2011 và 2015) của Văn phòng
báo cáo phát triển con người (HDRO) chỉ ra một thực trạng là mức độ hài lòng
của người dân đối với các dịch vụ y tế và giáo dục còn thấp thông qua những số
liệu có được qua các cuộc điều tra. Đồng thời đưa ra đánh giá những thành tựu đạt
được trong việc đảm bảo dịch vụ y tế và giáo dục đối với người dân. Báo cáo cũng
chỉ ra những thách thức mà nhiều người Việt Nam đang phải đối mặt; phân tích
18
khoảng cách trong tiếp cận các dịch vụ y tế và giáo dục ở cấp địa phương và giữa
các nhóm kinh tế xã hội cụ thể; thảo luận về việc cung cấp các DVXH.
Liên quan đến vấn đề tiếp cận dịch vụ nước sạch, bài viết “Quản lý nước
sạch và các vấn đề sức khỏe” năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị Thủy chỉ ra sự
khác biệt trong việc tiếp cận nước sạch giữa các nhóm người trong xã hội mà
nguyên nhân là do sự bất bình đẳng về địa lý, văn hóa xã hội và kinh tế. Sự bất
bình đẳng này không chỉ xảy ra giữa nông thôn và thành thị, mà còn ở ngay trong
thị trấn và thành phố. Đối với người dân có thu nhập thấp, các khu định cư không
chính thức hoặc bất hợp pháp thường ít được tiếp cận với nguồn nước sạch đã qua
xử lý. Tuy nhiên, những dữ liệu này bài viết tổng hợp từ nghiên cứu của WHO mà
chưa có sự nghiên cứu cụ thể từng trường hợp, do đó chưa thể khắc họa được tình
hình ở Việt Nam hiện nay. Cũng liên quan đến nội dung này, một số công trình
nghiên cứu nước ngoài đã đã nêu ra tình trạng thiếu tiếp cận vệ sinh mà hàng tỷ
người đang phải đối mặt, tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận vệ sinh như tác
giả Inga T. Winkler (2016) và tác giả Siyambonga Heleba (2019) chỉ ra.
Tác giả Thái Thị Tuyết Dung trong cuốn sách “Quyền tiếp cận thông tin
của công dân Việt Nam” (2015) đưa ra nhận xét quy định của pháp luật về quyền
TCTT ở Việt Nam như: quy định của pháp luật về vấn đề này chưa thực sự đầy
đủ, nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau và chưa đáp ứng yêu cầu thực
tế, chưa quy định giải thích thế nào là quyền tiếp cận thông tin, một số quy định
có thể gây nhầm lẫn trong quá trình thực hiện, chưa quy định biện pháp xử lý đối
với chủ thể có vi phạm quy định trong lĩnh vực này… Có thể thấy những đánh giá
về thực trạng của tác giả khá bao quát từ thực trạng quy định pháp luật đến thực
tiễn thực hiện. Tuy nhiên, công trình này được nghiên cứu khi Luật TCTT năm
2016 chưa được ban hành nên một số nhận xét, đánh giá quy định pháp luật về
TCTT của tác giả không còn phù hợp ở thời điểm hiện tại.
Báo cáo đánh giá việc thực thi Luật TCTT (lần thứ hai) tổ chức CARE tại
Việt Nam, tổ chức Oxfam tại Việt Nam, Liên minh Nước sạch, Liên minh Khoáng
19
sản và Liên minh đất rừng thực hiện năm 2020 nhằm tìm ra những yếu tố thúc đẩy
thực thi Luật TCTT, những kết quả và tồn tại trong việc ban hành các văn bản
pháp luật hướng dẫn và trong tổ chức thực hiện Luật TCTT. Báo cáo đã phân tích
và chỉ ra những tổn tại trong quy định về cơ chế theo dõi, kiểm tra, giám sát, khiếu
nại và tố cáo việc thực thi Luật TCTT khá cụ thể và chi tiết.
Đảm bảo DVXHCB đối với nhóm người dễ bị tổn thương, tác giả Tran Van
Kham và Pham Van Quyet trong bài báo “Access to social services: How poor
migrants experience their life in contemporary Vietnamese urban areas” (Tiếp
cận các dịch vụ xã hội: Người di cư nghèo trải nghiệm cuộc sống ở các đô thị Việt
Nam đương đại như thế nào) (2015) đăng trên tạp chí Social Sciences and
Humanities, tập 1, số 3 (2015) tr. 277-290 cũng giới hạn đối tượng nghiên cứu ở
nhóm người di cư nghèo ở Việt Nam. Bài viết phân tích thực trạng tiếp cận DVXH
của nhóm người di cư nghèo. Trong đó nghiên cứu tập trung vào khả năng tiếp
cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe của nhóm đối tượng này bên cạnh việc tiếp cận
một số dịch vụ khác như dịch vụ giáo dục, dịch vụ nước sạch, dịch vụ pháp lý…
Theo tác giả, thực tiễn thực hiện tiếp cận DVXHCB đối với người di cư nghèo
còn tồn tại nhiều bất cập, điển hình như người di cư tham gia dịch vụ y tế trong
thời kỳ di cư ở mức cao hơn so với giai đoạn trước di cư; người di cư ở Hà Nội
gặp khó khăn về tất cả các khía cạnh của các DVXH trong quá trình di cư của họ;
thiếu các DVXH cho người di cư và chính sách cải thiện điều kiện sống cho họ.
1.3. Tình hình nghiên cứu về kiến nghị hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội
về dịch vụ xã hội cơ bản và nâng cao hiệu quả thực hiện
Đề tài cấp quốc gia “Đảm bảo dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân vùng
dân tộc thiểu số trong thời kỳ đổi mới" Mã số đề tài CTDT.19.17/16-20 của
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân chủ trì, do PGS.TS. Đỗ Thị Hải Hà chủ biên.
Nghiên cứu này đưa ra các đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp, cơ chế,
chính sách nhằm đảm bảo DVXHCB cho người dân vùng dân tộc thiểu số đến
năm 2025, định hướng đến năm 2030 bên cạnh nhiều nội dung khác về DVXHCB
20
cho người vùng dân tộc thiểu số.
Công trình nghiên cứu cấp Bộ của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, do PGS.TS Nguyễn Bá Ngọc chủ nhiệm
đề tài (2011-2012) đã đánh giá thực trạng khả năng tiếp cận DVXHCB của người
nghèo tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi, bao gồm: khả năng tiếp cận chính
sách và dịch vụ việc làm; khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục cơ bản; khả năng
tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản; khả năng tiếp cận nước sạch và vệ sinh môi trường;
khả năng tiếp cận trợ giúp đột xuất.
Đáng chú ý có nghiên của tác giả Hoàng Triều Hòa (2011) “Chính
sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản” phân tích chính sách
hỗ trợ người nghèo tiếp cận chính sách y tế cơ bản, chính sách giáo dục cơ bản,
chính sách nhà ở - đất ở cho người nghèo. Theo tác giả, ngày nay giảm nghèo
được nhìn nhận không chỉ với ý nghĩa tăng thu nhập mà còn với nghĩa cải thiện
cơ hội tiếp cận các DVXH cho người nghèo. Đồng thời tác giả đưa ra một số giải
pháp cải thiện cơ hội tiếp cận các DVXH cho người nghèo. Đối với riêng vấn đề
nhà ở - đất ở, bài viết phân tích sự hỗ trợ dịch vụ của nhà nước cho đối tượng
người nghèo ở khu vực thuộc vùng dân tộc thiểu số và đô thị. Nhà nước đã đưa ra
các chính sách đề tạo điều kiện cho người nghèo có thể thuê nhà hoặc mua nhà
với mức giá thấp.
Nhằm đảm bảo giáo dục cơ bản cho đồng bào dân tộc thiểu số, bài viết
“Ensuring basic education for ethnic minority groups in Vietnam”(Đảm bảo giáo
dục cơ bản cho các nhóm dân tộc thiểu số ở Việt Nam) (2020) của tác giả Nui
Dang Nguyen đã đề xuất một số kiến nghị về chính sách hiện hành để bảo đảm
giáo dục cơ bản cho đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường công tác giám sát, kiểm
tra, rà soát, kiểm soát, đánh giá việc thực hiện các chính sách; cải cách thủ tục
hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và nâng cao chất lượng
các cơ sở giáo dục vùng dân tộc thiểu số.
2. Nhận xét, đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và
21
những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
2.1. Nhận xét, đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Qua tổng quan công trình nghiên trong nước cũng như quốc tế về các vấn
đề liên quan đến luận án, có thể thấy rằng, nhìn chung các nghiên cứu về
DVXHCB tập trung nghiên cứu về thực trạng đảm bảo tiếp cận DVXHCB. Các
đối tượng được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu là nhóm đối tượng yếu
thế như trẻ em, lao động di cư, người nghèo, người dân tộc thiểu số, vùng núi.
Trong khi đó, không có nhiều công trình nghiên cứu đối với người dân cộng đồng.
Mặc dù một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã đề cập đến
khái niệm DVXHCB nhưng hầu hết mới chỉ dừng lại ở mức độ khái lược hoặc
trình bày lại khái niệm dịch DVXHCB do LHQ xây dựng.
Một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài có đề cập đến vai
trò của DVXHCB và thể hiện sự đồng thuận cao trong nhận thức về vai trò, ý
nghĩa của DVXHCB đối với con người, sự phát triển con người và đối với xã hội.
Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu phân tích vai trò của DVXHCB ở vị trí độc
lập mà chưa đặt DVXHCB trong mối tương quan là một bộ phận của ASXH.
Về nghiên cứu quy định pháp luật về DVXHCB, chỉ một số ít công trình
nghiên cứu về vấn đề này và chưa có công trình nào nghiên cứu một cách khái
quát hệ thống pháp luật về DVXHCB. Một số công trình chỉ nghiên cứu về một
DVXHCB nhất định. Trong đó, quyền được giáo dục và chăm sóc sức khỏe được
các công trình nghiên cứu bàn luận nhiều nhất. Các DVXHCB khác như dịch vụ
xã hội về nơi cư trú, dịch vụ nước sạch hay TCTT mới được nghiên cứu chủ yếu
với nhóm đối tượng yếu thế. Có thể thấy, đây là một khoảng trống lớn trong các
công trình nghiên cứu đã có về pháp luật ASXH về DVXHCB.
Các công trình nghiên cứu phần lớn đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện đảm bảo các DVXHCB, trong khi giải pháp hoàn thiện pháp luật
ASXH về các DVXHCB thì chưa được đề xuất trong các công trình.
2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
22
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, các công
trình nghiên cứu chưa nghiên cứu nội dung pháp luật ASXH về DVXHCB, nguyên
tắc pháp luật ASXH về DVXHCB, thực trạng pháp luật ASXH Việt Nam về
DVXHCB. Do đó, để đạt được mục đích nghiên cứu của luận án, tác giả nhận thấy
cần làm sâu sắc hơn, có tính hệ thống và toàn diện hơn các nội dung sau:
- Luận án cần hệ thống hoá và làm sâu sắc hơn hệ thống lý luận ASXH về
DVXHCB như xây dựng khái niệm DVXHCB, chỉ ra đặc điểm đặc trưng của
DVXHCB với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống ASXH.
- Khắc phục sự thiếu hụt trong các công trình nghiên cứu, luận án nghiên
cứu, làm sâu sắc hơn vấn đề lý luận pháp luật ASXH về DVXHCB để xây dựng
khái niệm, các nguyên tắc cơ bản, nội dung pháp luật ASXH về DVXHCB.
- Luận án nghiên cứu đầy đủ và toàn diện thực trạng pháp luật và thực tiễn
thực hiện pháp luật ASXH về các DVXHCB ở Việt Nam với 05 DVXHCB, bao
gồm DVXHCB về giáo dục, DVXHCB về chăm sóc y tế, DVXHCB về nhà ở,
DVXHCB về nước sạch và DVXHCB về TCTT. Từ đó, đưa ra nhận xét, đánh giá
các quy định pháp luật DVXHCB về đối tượng tiếp cận, nội dung, chủ thể cung
cấp DVXHCB và nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB, làm cơ sở cho những đề
xuất, kiến nghị trong chương 3 luận án.
- Dựa trên cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật, thực tiễn thực hiện pháp luật
ASXH về DVXHCB ở Việt Nam, luận án đề xuất những giải pháp mang tính cấp
thiết nhằm bổ sung và hoàn thiện các quy định về DVXHCB trong hệ thống pháp
luật ASXH Việt Nam, phù hợp với quan điểm sàn ASXH theo pháp luật quốc tế.
Để các quy định pháp luật ASXH về DVXHCB đi vào đời sống, luận án cũng đưa
ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ASXH về DVXHCB ở Việt
Nam trong bối cảnh mới.
3. Cơ sở lý thuyết của luận án và câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý thuyết của luận án
- Lý thuyết về quyền con người
23
Mỗi con người tồn tại đều được đảm bảo nhân quyền, không phân biệt chủng
tộc, giới tính, quốc tịch, sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo hay bất kỳ địa vị nào khác. Nhân
quyền bao gồm quyền được sống và tự do, tự do quan điểm và biểu đạt, quyền giáo
dục, chăm sóc sức khoẻ, tự do đi lại, cư trú… Mọi người đều được hưởng những
quyền này, không bị phân biệt đối xử. Quyền con người của công dân được Nhà nước
tôn trọng, thực hiện và bảo vệ.
Cách tiếp cận dựa trên quyền không những đảm bảo sự đúng đắn về mặt đạo đức
hoặc pháp lý mà còn đảm bảo dẫn đến sự phát triển con người tốt hơn. Sự kết hợp cả
hai yếu tố này cũng là lý do giải thích cho sự đúng đắn khi sử dụng cách tiếp cận này.2
Tiếp cận dựa trên quyền lấy nền tảng cơ bản chính là hệ thống quyền con người
đã được pháp luật quốc tế thừa nhận và bảo vệ. Cách tiếp cận này trong nghiên
cứu pháp luật ASXH về DVXHCB hướng tới cải thiện điều kiện và chất lượng
sống của con người, tập trung vào các yếu tố đóng vai trò trọng yếu đối với sự
phát triển con người như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin…Ngoài ra,
cách tiếp cận dựa trên quyền con người còn xác định chủ thể có quyền và chủ thể
có nghĩa vụ. Các cá nhân và các nhóm xã hội tương ứngcó quyền cá nhân và quyền
của nhóm là chủ thể chính của quyền con người.3 Chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng,
bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là nhà nước, các tổ chức, cộng đồng xã hôi,
gia đình và cá nhân.4
Vận dụng lý thuyết về quyền con người, vai trò của DVXHCB trong hệ thống
ASXH càng được khẳng định chắc chắn và sự cần thiết phát triển hệ thống ASXH
đa tầng với “nhiều tấm lưới đỡ” để đảm bảo không bỏ lọt bất cứ thành viên nào
trong xã hội. Cách tiếp cận dựa trên quyền con người cũng đảm bảo sự phù hợp
2 Liên Hợp Quốc (2006), Frequently asked questions on human rights – based approach to development cooperation, New York and Geneva, tr.15 3 Nguyễn Đăne Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nôi, tr.65 4 Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc Gia Hà Nội, tr.75
trong quy định của pháp luật về đối tượng tiếp cận DVXHCB (chủ thể có quyền)
24
và trách nhiệm của Nhà nước (chủ thể có nghĩa vụ).
- Lý thuyết về nhu cầu con người
Con người ai cũng có những nhu cầu cơ bản phải được thoả mãn để tồn tại
và phát triển. Nhu cầu của con người không phải là một điều riêng biệt nhưng
mang tính phổ quát theo thời gian và không gian. Mặc dù chi tiết về cách thức đáp
ứng các nhu cầu rất khác nhau, nhưng một số chung nhất định không thay đổi.5
Những yếu tố này ban đầu được các nhà lý luận về nhu cầu liệt kê là nước, dinh
dưỡng, chỗ ở, công việc an toàn và không bị đe dọa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe,
an ninh thời thơ ấu, các mối quan hệ cơ bản quan trọng, an ninh kinh tế và thể chất
và một môi trường an toàn.6 Các quốc gia đồng thuận rằng trách nhiệm đối với
phúc lợi của người dân là một chức năng tập thể, được thực hiện bằng cách tập
hợp các nguồn lực và chia sẻ rủi ro thông qua các thể chế của chính phủ. 7
Vận dụng lý thuyết này, luận án có cơ sở vững chắc để nghiên cứu DVXHCB
với tư cách là một cấu phần của hệ thống ASXH. Lý thuyết về nhu cầu con người
cũng là cơ sở để đề xuất kiến nghị tăng cường trách nhiệm của Nhà nước, tăng
đầu tư từ NSNN đảm bảo cung cấp DVXHCB đầy đủ; kiến nghị mở rộng phạm
vi DVXHCB để đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tối thiểu khác của con người nhằm
phát triển toàn diện.
- Lý thuyết bình đẳng về cơ hội
Bình đẳng về cơ hội đề cập đến sự công bằng của các quy trình thông qua
đó, các cá nhân có nền nảng khác nhau hoặc từ các nhóm xã hội khác nhau đạt
được kết quả cụ thể, chẳng hạn như mục tiêu giáo dục. Bình đẳng về cơ hội thường
liên quan đến các nhóm nhân khẩu như chủng tộc, giới tính, tình trạng kinh tế, xã
5 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal Basic Services: theory and practice 6 Doyal, L. & Gough, I. (1991), A Theory of Human Need. Basingstoke: Palgrave Macmillan 7 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal Basic Services: theory and practice 8 Jomills Henry Braddock II, James M. McPartland, Equality Of Opportunity, https://www.encyclopedia.com/social-sciences/encyclopedias-almanacs-transcripts-and-maps/equality- opportunity
hội.8 Cơ hội bình đẳng sẽ cho phép sự khác biệt trong hoàn cảnh xã hội về tầng
25
lớp kinh tế, gia đình, nền văn hoá. Thực hiện cơ hội bình đẳng đòi hỏi phải chống
lại các tác động của sự khác biệt về giai cấp, chủng tộc, giới tính và các yếu tố
khác.9
Các dịch vụ công được tìm thấy để giảm bớt sự bất bình đẳng về thu nhập.
Trong trường hợp không cung cấp dịch vụ công, đối với những người có thu nhập
thấp, việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản có thể sẽ tiêu dùng phần lớn thu nhập của
họ. Nếu không, những nhu cầu cơ bản không được đáp ứng sẽ gây ra những tác
động tiêu cực đến cá nhân và xã hội.10
Dựa trên lý thuyết bình đẳng về cơ hội, DVXHCB cần được cung cấp một
cách công bằng, bình đẳng giữa các đối tượng trong xã hội, không phân biệt mức
thu nhập, khu vực sống hay bất kỳ yếu tố nào. Theo đó, tất cả mọi người đều có
cơ hội bình đẳng trong học tập, chăm sóc sức khoẻ, có cơ hội bình đẳng trong tiếp
cận nhà ở, sử dụng nước sạch hay TCTT. Tiếp cận bình đẳng DVXHCB không có
nghĩa là người dân được tiếp cận các dịch vụ này miễn phí nhưng Nhà nước có
trách nhiệm đảm bảo chi phí sử dụng dịch vụ cần nằm trong phạm vi khả năng chi
trả của chủ thể sử dụng dịch vụ. Để thực hiện được điều này, cần sự hỗ trợ, ưu đãi
từ NSNN trung ương và địa phương, trong đó có tính đến nhóm đối tượng yếu thế,
có khó khăn về thu nhập.
3.2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, luận án đặt ra các câu hỏi
nghiên cứu trọng tâm như sau:
Câu hỏi nghiên cứu 1: Khái niệm, đặc điểm của DVXHCB như thế nào?
DVXHCB có vai trò gì trong hệ thống ASXH?
Giả thuyết nghiên cứu: DVXHCB là hệ thống các hoạt động cung cấp dịch
9 Andy Mason, Equal opportunity political theory https://www.britannica.com/topic/meritocracy, truy cập ngày 25/1/2023 10 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal Basic Services: theory and practice
vụ nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của con người. Ngoài các đặc điểm
26
chung của ASXH, DVXHCB có một số đặc điểm đặc thù. DVXHCB có vai trò
đối với sự phát triển toàn diện của con người và sự phát triển bền vững của xã hội.
Câu hỏi nghiên cứu 2: Khái niệm pháp luật ASXH về các DVXHCB?
Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật ASXH về các DVXHCB? Nội dung điều chỉnh
pháp luật ASXH về các DVXHCB?
Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật ASXH đối với DVXHCB là tổng hợp các
quy định về việc đảm bảo tiếp cận các dịch vụ cơ bản, thiết yếu như giáo dục,
chăm sóc sức khoẻ, nhà ở, nước sạch, tiếp cận thông tin… một cách phổ quát, phù
hợp với từng thời kỳ phát triển đất nước. Pháp luật ASXH về DVXHCB ngoài
việc tuân theo các nguyên tắc chung của pháp luật ASXH còn phải tuân theo các
nguyên tắc riêng đảm bảo phù hợp với bản chất của DVXHCB. Nội dung pháp
luật ASXH được quy định rộng - hẹp khác nhau phụ thuộc quan điểm, trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Câu hỏi nghiên cứu 3: Thực trạng pháp luật ASXH Việt Nam về DVXHCB
và thực tiễn thực hiện như thế nào? Ưu điểm, hạn chế của các quy định đó?
Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật ASXH về DVXHCB được quy định khá
bao quát trong việc xác định đối tượng tiếp cận, nội dung, chủ thể cung cấp, nguồn
tài chính đầu tư cho DVXHCB đối với từng DVXHCB. Các quy định này nhìn
chung đã tạo hành lang pháp lý trong việc đảm bảo quyền tiếp cận DVXHCB cho
người dân. Tuy nhiên hệ thống pháp luật về vấn đề này vẫn tồn tại bất cập, mâu
thuẫn, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế như chưa bao quát hết đối tượng tiếp cận
DVXHCB, nội dung DVXHCB còn hẹp, các quy định về mức chi từ NSNN cho
DVXHCB chưa phù hợp, quy định về xã hội hoá, đầu tư theo hình thức đối tác
công tư tồn tại nhiều hạn chế. Do vậy, việc thực hiện pháp luật ASXH về
DVXHCB trên thực tế chưa đạt hiệu quả cao.
Câu hỏi nghiên cứu 4: Yêu cầu hoàn thiện và kiến nghị hoàn thiện pháp
luật ASXH về DVXHCB và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật như
thế nào?
27
Giả thuyết nghiên cứu: Việc hoàn thiện pháp luật ASXH về DVXHCB cần
đáp ứng các yêu cầu nhất định. Theo đó, các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực hiện được đề xuất nhằm khắc phục những bất cập trong
quy định của pháp luật và đạt hiệu quả cao hơn trong quá trình thực hiện, góp phần
đảm bảo quyền tiếp cận DVXHCB của người dân.
28
KẾT LUẬN PHẦN TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Mặc dù có nhiều công trình khác nhau nghiên cứu về DVXHCB nhưng
chưa có một công trình nào nghiên cứu về DVXHCB dưới góc độ pháp luật một
cách toàn diện. Các công trình đã nghiên cứu chủ yếu nghiên cứu riêng một hoặc
một số DVXHCB hoặc nghiên cứu về DVXHCB với một số nhóm đối tượng nhất
định. Các công trình nghiên cứu chưa làm rõ được lý luận về DVXHCB và pháp
luật về DVXHCB mà chủ yếu tập trung vào các nội dung về thực tiễn tiếp cận
DVXHCB và các giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp cận DVXHCB.
Luận án kế thừa các kết quả nghiên cứu trước và tiếp tục nghiên cứu ở phạm
vi sâu sắc và toàn diện hơn các vấn đề lý luận về DVXHCB trong mối tương quan
với hệ thống ASXH và pháp luật ASXH về DVXHCB. Đồng thời, luận án cũng
nghiên cứu sâu về pháp luật ASXH Việt Nam về DVXHCB một cách tương đối
toàn diện với 05 DVXHCB, bao gồm DVGDCB về giáo dục, DVGDCB về chăm
sóc y tế, DVGDCB về nhà ở, DVGDCB về nước sạch và DVGDCB về TCTT.
Trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng pháp luật về vấn đề này và đề xuất kiến nghị
hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện.
Việc nghiên cứu luận án được dựa trên các lý thuyết nghiên cứu như lý
thuyết về quyền con người, lý thuyết về nhu cầu và lý thuyết bình đẳng về cơ hội.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu
trọng tâm và đưa ra giả thuyết nghiên cứu.
29
PHẦN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN
VÀ PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI VỀ DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN
1.1. Một số vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an sinh xã
hội
1.1.1. Khái niệm an sinh xã hội và các bộ phận cấu thành an sinh xã hội
Trong cuộc sống, con người có thể gặp những rủi ro, khó khăn từ thiên tai,
từ điều kiện sống làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, đói nghèo…, gây khó khăn cho
việc duy trì cuộc sống. Khi rơi vào hoàn cảnh này, con người cần được xã hội và
cộng đồng giúp đỡ, chia sẻ để vượt qua khó khăn. Sự chia sẻ này với các thành
viên gặp khó khăn thông qua các chính sách, pháp luật chính là ASXH.
Trên thế giới, khái niệm ASXH ra đời từ thế kỷ XIX gắn liền với cuộc cách
mạng công nghiệp ở các nước phát triển phương Tây. Tuy nhiên, cho đến nay, do
tính chất phức tạp và đa dạng của ASXH nên vẫn còn nhiều nhận thức khác nhau
về vấn đề này. Khái niệm ASXH cũng khá khác biệt giữa các tổ chức, các quốc
gia mà thực chất là quan niệm về phạm vi của nó.
Theo ILO thì “ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình
thông qua một số biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh
tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già hoặc chết; đồng thời, đảm bảo sự chăm sóc
y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.”11
Theo Ngân hàng thế giới thì “ASXH là những biện pháp công cộng nhằm
giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được nguy
cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bếp bênh thu
truy cập
11 Mạc Văn Tiến, Bản chất và những chức năng cơ bản của ASXH, tạp chí BHXH Bộ Quốc Phòng. http://www.bhxhbqp.vn/bai-viet/ban-chat-va-nhung-chuc-nang-co-ban-cua-an-sinh-xa-hoi-2155, ngày 24/3/2021
nhập”. Định nghĩa này nhấn mạnh đến các giải pháp nhằm kiềm chế nguy cơ làm
30
giảm thu nhập của các cá nhân, gia đình và cộng đồng.12
Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) thì “ASXH là các chính sách,
chương trình giảm nghèo và sự giảm sự yếu thế bởi sự thúc đẩy có hiệu qủa thị
trường lao động, giảm thiểu rủi ro của người dân và nâng cao năng lực của họ để
đối phó với rủi ro và suy giảm hoặc mất thu nhập”. Định nghĩa này cho thấy, vai
trò của nhà nước được nhấn mạnh trong việc đảm bảo ASXH, giảm nhẹ những tác
động bất lợi đến người dân.
Có thể thấy, mặc dù có nhiều cách định nghĩa về ASXH nhưng tựu chung lại
thì ASXH có mục tiêu là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ
cho mọi thành viên trong cộng đồng khi gặp phải những rủi ro nhất định trong
cuộc sống với những đặc điểm chính sau:
- ASXH là sự đảm bảo an toàn thu nhập ở mức tối thiểu thông qua hệ thống
các chính sách nhằm quản lý rủi ro tốt hơn, bao gồm các rủi ro liên quan đến nhu
cầu cơ bản nhất của con người: rủi ro về sức khỏe, thiếu hoặc mất việc làm, tuổi
già, trẻ em, tàn tật… dẫn đến mất thu nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn so với mức tối
thiểu đủ sống.
- ASXH là các chính sách chủ yếu do nhà nước tổ chức thực hiện, sự tham gia
của các tổ chức xã hội, cộng đồng và thị trường trong việc tổ chức thực hiện và
cung cấp dịch vụ ASXH. Các chính sách này hướng đến mọi thành viên trong xã
hội, bảo đảm cho mọi thành viên được bình đẳng về tiếp cận và chất lượng dịch
vụ, tuy nhiên, nhấn mạnh đến nhóm đối tượng yếu thế.
- ASXH là lưới an toàn cho mọi thành viên trong xã hội. Do đó, phạm vi của
ASXH là bao phủ toàn dân và toàn diện (cơ bản đáp ứng được nhu cầu ASXH của
người dân một cách toàn diện).
Ở Việt Nam, thuật ngữ “ASXH” được bắt đầu nhắc đến trong một số cuốn
12 Học viện Chính trị- Hành chính khu vực III, Phát triển kinh tế và ASXH – Từ lý luận đến thực tiễn các tỉnh miền Trung”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Đà nẵng, 2012.
sách nghiên cứu về pháp luật của các học giả Sài Gòn vào những năm 1970. Tuy
31
nhiên, thời kỳ đó, các học giả chưa sử dụng nhất quán thuật ngữ “an sinh xã hội”
bởi nó được dịch từ cụm từ “Social Security”, có học giả dịch là “bảo đảm xã
hội", có người sử dụng “bảo trợ xã hội”, “an ninh xã hội” hay “an toàn xã hội”…
Theo cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam tập I thì ASXH được định nghĩa là “Sự
bảo vệ của xã hội đối với công dân thông qua các biện pháp công cộng nhằm giúp
họ khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội; đồng thời bảo đảm chăm sóc
y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con...".13
Năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội khẳng định:“Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng
cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập,
nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất...”. Đặc biệt lần đầu tiên, Cương lĩnh
xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (được
bổ sung, phát triển năm 2011) đã tuyên bố cần phải: “Hoàn thiện hệ thống ASXH”.
Cụm từ “ASXH” được chính thức sử dụng trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng năm 2001:“Khẩn trương mở rộng hệ thống BHXH và
ASXH”. Tiếp theo đó, vấn đề ASXH ở nước ta ngày càng được quan tâm và nâng
lên tầm chiến lược về phát triển hệ thống chính sách ASXH, được nhắc đến trong
các Nghị Quyết Đại hội X, XI.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 nhấn mạnh phát triển hệ
thống ASXH đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Nghị Quyết số 15-NQ/TW
của Ban chấp hành TW Đảng ngày 1/6/2012 đặt ra yêu cầu “Chính sách xã hội
phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát
triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng
thời kỳ ...”, đồng thời thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm mức sống tối
thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn cảnh khó khăn.
Hệ thống ASXH được xây dựng gồm nhiều cấu phần khác nhau. Tuỳ thuộc
13 Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, tập I. Nxb.Từ điển Bách khoa, 2005
vào điều kiện kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ mà nội dung của
32
ASXH rộng, hẹp khác nhau. Nhưng nhìn chung, các quốc gia thường có xu hướng
xây dựng ASXH theo tuần tự từ giải quyết lĩnh vực thương tật việc làm trước, sau
đó đến lương hưu cho người già, trợ cấp tàn tật và tiền tuất, tiếp theo đó mới đến
chính sách bảo hiểm ốm đau, sức khỏe và thai sản. Trợ cấp cho trẻ em và gia đình,
và trợ cấp thất nghiệp, thường đứng sau cùng.14 Hiện nay, hệ thống ASXH thường
bao gồm các cấu phần chủ yếu sau:
Bảo hiểm xã hội: là bảo đảm thay thế phần thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất
trong quá trình lao động hoặc sau quá trình lao động cho NLĐ khi họ gặp rủi ro
trong cuộc sống như ốm đau, tai nạn lao động, nghỉ hưu...
Bảo hiểm y tế: là hình thức bảo hiểm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
cho các thành viên trong xã hội.
Trợ giúp xã hội: là sự hỗ trợ từ Nhà nước và cộng đồng xã hội cho người có
hoàn cảnh khó khăn, rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát,
bao gồm chính sách trợ giúp thường xuyên và đột xuất.
Dịch vụ xã hội cơ bản: là hệ thống dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu tối thiểu,
cơ bản của con người, bao gồm dịch vụ giáo dục cơ bản, chăm sóc YTCB, nhà ở
tối thiểu, nước sạch và tiếp cận thông tin.
Năm 2009, Sáng kiến về Sàn ASXH của LHQ ghi nhận DVXHCB là một trong
những cấu phần thuộc hệ thống ASXH. Bên cạnh đó, xu hướng chung của ở các quốc
gia trong quan niệm về ASXH cũng từng bước thừa nhận DVXHCB là một bộ phận
cấu thành nên hệ thống ASXH. Chẳng hạn như ở Ấn Độ, khái niệm ASXH đã được
mở rộng hơn, bao gồm các điều khoản về nhà ở, nước uống an toàn, vệ sinh, y tế, cơ
sở giáo dục và văn hoá và cả mức lương tối thiểu đảm bảo NLĐ có cuộc sống tốt.15
1.1.2. Khái niệm dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an sinh xã hội
14 Ortiz, I., Schmitt, V. and De, L. (2018), 100 years of social protection: The road to universal social protection systems and floors,Volum 1: 50 country cases, Geneva: ILO, tr.8 15 Ministry of Labour and Employment and Rehabilitation, India (1969), Report of the Nation commission on labour, tr. 162;
1.1.2.1. Khái niệm dịch vụ xã hội
33
Từ điển tiếng Việt định nghĩa dịch vụ là các công việc phục vụ trực tiếp cho
những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công.16 Dịch vụ được
nghiên cứu ở nhiều ngành khác nhau như: kinh tế học, văn hóa học, luật học,
hành chính học đến khoa học quản lý. Do vậy mà dịch vụ có thể được hiểu theo
nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau.
Theo nghĩa rộng, dịch vụ chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của chúng
không tồn tại dưới hình dạng vật thể. Hoạt động dịch vụ bao trùm lên tất cả các
lĩnh vực với trình độ cao, chi phối rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, môi trường của từng quốc gia, khu vực nói riêng và toàn thế giới nói chung.
Với cách hiểu này thì dịch vụ có thể xuất hiện ở rất nhiều lĩnh vực, từ các lĩnh
vực truyền thống như: giao thông vận tải, du lịch, ngân hàng, thương mại, bao
hiểm, bưu chính viễn thông, văn hoá, hành hính, bảo vệ môi trường… Theo nghĩa
hẹp, dịch vụ là thực hiện một công việc nhằm đáp ứng một nhu cầu nào đó của
con người như: vận chuyển, sửa chữa và bảo dưỡng các thiết bị máy móc..
Theo các tác giả Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy thì dịch vụ
“là các hoạt động được tạo ra chung nhằm phục vụ lợi ích công cộng”.17 Kotler,
Bowen & Makens thì cho rằng “dịch vụ là bất kỳ hoạt động hoặc lợi ích nào mà
một bên cung cấp cho bên kia về cơ bản vô hình và không dẫn đến quyền sở hữu
bất cứ điều gì. Sản xuất có thể có hoặc không gắn với một sản phẩm vật lý”. Dịch
vụ là loại hàng hoá phi vật chất bởi những đặc trưng của nó như tính vô hình, tính
đồng nhất, tính không thể tách rời, tính biến đổi, tính không thể lưu giữ được.18
Như vậy, theo nghĩa chung nhất, dịch vụ được hiểu là những hoạt động
lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hoá tồn tại chủ yếu dưới
hình thái vô hình, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thoả mãn kịp
thời các nhu cầu sản xuất và đời sống của con người.
16 Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2004, tr.256 17 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal Basic Services: theory and practice 18 Philip Kotler, Gary Armstrong (1996), Principles of Marketing, Chương (2) 2, Nxb. Prentice Hall
Nếu như dịch vụ là một khái niệm đơn lẻ thì DVXH lại là một khái niệm
34
kép, bao gồm “dịch vụ” và “xã hội”. Thuật ngữ “xã hội” trong khái niệm này có
thể được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, nếu xét từ khía cạnh mục tiêu, nghĩa là
dịch vụ hướng tới phát triển xã hội. Thứ hai, nếu xét từ khía cạnh về chuẩn mực
hay tính xã hội thì DVXH cung cấp sự hỗ trợ cho các thành viên trong xã hội
nhằm: (i) chủ động phòng ngừa khả năng xảy ra rủi ro để bảo đảm giá trị và chuẩn
mực xã hội; (ii) khắc phục rủi ro và hòa nhập cộng đồng/xã hội trên cơ sở các giá
trị, chuẩn mực xã hội. Các DVXH là trọng tâm để tạo ra một xã hội quan tâm, hòa
nhập và hiệu quả. Mạng xã hội châu Âu (ESN) tin rằng điều này có nghĩa là coi
con người là trọng tâm của việc quản lý và cung cấp các DVXH19. DVXH theo
ILO bao gồm dịch vụ y tế, dự phòng y tế, dự phòng tai nạn, dịch vụ đặc biệt đối
với người tàn tật, người già yếu, bảo vệ trẻ em, kế hoạch gia đình20…
Như vậy, DVXH là những hoạt động đáp ứng các nhu cầu cộng đồng và cá
nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò đảm bảo phúc lợi và công bằng xã hội, đề
cao giá trị đạo lý, nhân văn, vì con người và là một trong những công cụ thực hiện
chính sách ASXH.
1.1.2.2. Khái niệm dịch vụ xã hội cơ bản
Dịch vụ xã hội rất rộng, bao trùm lên rất nhiều lĩnh vực của đời sống, vậy
những DVXH nào được coi là DVXHCB? DVXHCB (basic social services) được
xây dựng dựa trên nhu cầu cơ bản, thiết yếu của con người. Nhà tâm lý học người
Mỹ Abraham.Maslow chia nhu cầu thành 5 loại:
+ Nhu cầu vật chất (sinh lý) như: thức ăn, không khí, nước uống…
+ Nhu cầu an toàn (được bảo vệ) như: nhà ở, việc làm, sức khoẻ…
+ Nhu cầu giao tiếp xã hội: Tình thương yêu, được hoà nhập.
+ Nhu cầu được tôn trọng: Được chấp nhận có một vị trí trong một nhóm người…
+ Nhu cầu tự khẳng định mình: Nhu cầu hoàn thiện, được thể hiện khả năng và
19 https://www.esn-eu.org/about/what-are-types-social-services 20 Bộ Lao động thương binh và xã hội và ILO (1998), Cẩm nang ASXH, tập 1 và tài liệu phục vụ chương trình tập huấn phát triển chế độ BHXH.
tiềm lực của mình.
35
Có thể thấy, hai nhu cầu đầu tiên trong số năm nhu cầu trên được coi là nhu
cầu cơ bản, tối thiểu (nhu cầu cấp thấp) của mỗi con người, ba nhu cầu sau được
coi là nhu cầu cấp cao. Khi các nhu cầu tối thiểu này được đáp ứng thì sẽ xuất hiện
nhu cầu bậc cao. Nhu cầu của mỗi công dân, mỗi nhóm đối tượng khác nhau về
trình độ văn hoá, nhận thức, điều kiện, hoàn cảnh sống… cũng sẽ khác nhau.
Nghiên cứu chỉ ra rằng, tính phổ biến của nhu cầu phụ thuộc vào niềm tin rằng
nếu nhu cầu không được thỏa mãn thì sẽ dẫn đến tác hại nghiêm trọng do khách
quan mang lại. Các nhu cầu cơ bản là tiền đề chung để tham gia có hiệu quả vào
bất kỳ hình thức nào của đời sống xã hội. Chúng bao gồm các yếu tố vật chất-
nước, dinh dưỡng, nơi ở, giáo dục và chăm sóc sức khỏe; các yếu tố phi vật chất -
an toàn trong thời thơ ấu, các mối quan hệ chính yếu, an sinh về vật chất và kinh
tế; và bao trùm cả hai, một môi trường an toàn.21 Như vậy có thể thấy việc cung
cấp nhu cầu và nhu cầu của con người có mối liên hệ mật thiết và việc đáp ứng
nhu cầu cơ bản của con người mang ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống và sự phát
triển của con người.
Tương tự như sự phân tầng trong nhu cầu của con người, DVXH cũng được
phân tầng theo nhiều cấp khác nhau. Trong đó, DVXHCB là hệ thống cung cấp
dịch vụ nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của con người. Các DVXHCB
được UNDP, UNESCO, UNFPA, UNICEF và WHO giới thiệu tại Hội nghị
thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội ở Copenhagen vào tháng 5 năm 1995 "là
các hoạt động dịch vụ được cung cấp để đáp ứng nhu cầu tối thiểu của cuộc sống”.
DVXHCB được LHQ định nghĩa: là các hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu
cầu cho các đối tượng nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống22,
bao gồm:
- Giáo dục: mầm non, tiểu học, xoá mù chữ cho người lớn.
21 Gough, Ian (2019), Universal Basic Services: a theoretical and moral framework https://doi.org/10.1111/1467-923X.12706 22 UN – Africa Spending Less on Basic Social Services.
- Y tế: tất cả các hoạt động dịch vụ y tế - chăm sóc sức khoẻ ở tuyến cơ sở
36
gồm: (i) các trạm/ trung tâm y tế xã/phường; các phòng khám đa khoa khu vực;
các bệnh viện và trung tâm y tế quận/huyện; (ii) chăm sóc sức khoẻ ban đầu (tỉnh,
quận/huyện); (iii) y tế dự phòng: phòng dịch cho trẻ em, chăm sóc sau sinh con,
giáo dục y tế; (iv) các chương trình y tế công cộng: sức khoẻ bà mẹ và trẻ em,
bệnh sốt rét, bệnh lao, bệnh phong, thuốc và dược liệu cơ bản; vệ sinh phòng dịch.
- Chương trình quốc gia về dinh dưỡng
- Dân số và kế hoạch hoá gia đình
- Các dịch vụ xã hội: Cứu trợ thiên tai
- Nước sạch và vệ sinh môi trường: các dự án nước sạch nông thôn (bao gồm
cả những thị trấn có 30.000 dân trở xuống); Các dự án nước và vệ sinh ở các khu
vực ven đô.
Năm 2017, Viện Thịnh vượng Toàn cầu (Institute for Global Prosperity) đã
đưa ra những ý tưởng ban đầu về dịch vụ cơ bản phổ quát (Universal Basic
Services), theo đó đề xuất một loạt các dịch vụ công miễn phí cho phép mọi người
dân có một cuộc sống dài hơn bằng cách đảm bảo tiếp cận với các mức độ nhất
định về an sinh, cơ hội và sự tham gia. Theo nghiên cứu này, dịch vụ có nghĩa là
tập hợp các hoạt động phục vụ lợi ích công cộng. Cơ bản nghĩa là cần thiết và đủ
chứ không phải tối thiểu, làm cho con người thịnh vượng và tham gia vào xã hội.
Phổ quát có nghĩa là mọi người đều được hưởng các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của
họ, bất kể khả năng chi trả. Ngoài dịch vụ y tế và giáo dục công, các dịch vụ khác
được đề xuất thêm vào mô hình dịch vụ cơ bản phổ quát như nơi cư trú, dinh
dưỡng, giao thông và thông tin.23
Như vậy, chỉ một số DVXH được coi là DVXHCB. Nếu như DVXH rất
rộng, là hoạt động mang bản chất kinh tế - xã hội, do nhà nước, thị trường hoặc
xã hội dân sự cung ứng, bao gồm nhiều lĩnh vực như giáo dục – đào tạo, y tế, khoa
học – công nghệ, văn hoá – thông tin, thể dục - thể thao và các trợ giúp xã hội
23 Gough, Ian (2019), tlđd, tr. 9.
khác thì DVXHCB chỉ giới hạn ở những DVXH đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết
37
yếu nhất đối với sự phát triển, tồn tại của con người.
Quan niệm về nội dung của DVXHCB không giống nhau ở mỗi quốc gia,
tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, quan điểm khác nhau mà mỗi quốc gia quy
định khác nhau về các DVXH được coi là DVXHCB. Phạm vi, mức độ đáp ứng
DVXHCB ở mỗi quốc gia có thể thay đổi theo từng thời kỳ, từng giai đoạn phát
triển đất nước.
“Sàn an sinh xã hội” của LHQ nhấn mạnh đến các DVXH thiết yếu cho con
người, bao gồm: (i) Chăm sóc YTCB; (ii) Nước sinh hoạt hợp vệ sinh; (iii) nhà ở;
(iv) giáo dục; và (v) Các dịch vụ khác tùy theo ưu tiên của từng quốc gia. Quan
niệm về ASXH ở Ấn Độ đã được mở rộng hơn từ năm 2007 với các nội dung về
nhà ở, nước uống an toàn, vệ sinh, y tế, cơ sở giáo dục và văn hóa và cả mức lương
tối thiểu có thể đảm bảo cho NLĐ một cuộc sống tốt.24 Còn ở Nam Phi, DVXHCB
được quy định khá rộng với 08 loại dịch vụ, bao gồm: nhà ở, giáo dục, chăm sóc
sức khoẻ, phúc lợi xã hội, vận chuyển, điện và năng lượng, nước uống, vệ sinh và
rác thải, loại bỏ chất thải.25
Như vậy có thể thấy, DVXHCB được tiếp cận như quyền con người, mọi
người đều được đảm bảo tiếp cận một cách công bằng. Vì vậy, cần có một sự tập
trung đặc biệt để đảm bảo những người nghèo nhất, bị thiệt thòi hoặc những người
phải chịu nhiều hình thức phân biệt đối xử cũng được hưởng lợi từ các DVXHCB
và đều có thể tiếp cận dịch vụ thích hợp.26 Theo đó, các DVXHCB nên được quy
định nằm trong cấu phần của hệ thống ASXH quốc gia. Đây cũng là quan điểm
chung của Tổ chức Lao động quốc tế, LHQ và các quốc gia trên thế giới khi thừa
nhận DVXHCB là một trong những cấu phần, trụ cột chính của ASXH. Theo đó,
trụ cột này cung cấp cho các đối tượng trong xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu
24 Indian Government, Planning Commission Report of the Working Group on Social Security for the Eleventh Five Year Plan 2007-2012, tr.17 25 https://www.etu.org.za/toolbox/docs/government/basic.html#we, truy cập ngày 15/4/2022 26 Rachel Marcus, Laure-Hélène Piron, Tom Slaymaker (2004), Basic services and social protection
tối thiểu của cuộc sống, do vậy, có vai trò quan trọng và quyết định sự thành công
38
của các chính sách ASXH.27
Ở Việt Nam, DVXHCB lần đầu tiên được đề cập trong Chương trình hành
động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001-2010 và Chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo và việc làm 2001 - 2005, mục tiêu hỗ trợ người nghèo, hộ
nghèo và xã nghèo tiếp cận các DVXH. Từ đây, các chính sách công do Nhà nước
ban hành thường đặt ra mục tiêu bảo đảm khả năng tiếp cận các DVXHCB. Đồng
thời, việc tiếp cận DVXHCB cũng được coi là một trong các tiêu chí xác định tiêu
chuẩn nghèo đa chiều.28 Theo đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những
quốc gia đang phát triển đầu tư sớm vào các DVXH bên cạnh Trung Quốc, Cuba29.
DVXHCB được xác định là một bộ phận của hệ thống ASXH Việt Nam, là một
nhóm quyền con người được pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam ghi nhận,
đảm bảo thực hiện. DVXHCB ở Việt Nam bao gồm:
(i) DVXHCB về giáo dục: là các hoạt động giáo dục được thiết kế để mọi
người có được kiến thức và kỹ năng cần thiết để tồn tại, phát triển.30
(ii) DVXHCB về chăm sóc y tế: là các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản,
phòng bệnh, khám, chữa bệnh cơ bản;
(iii) DVXHCB về nhà ở: đảm bảo quyền cư trú, quyền tiếp cận nhà ở của người
dân;
(iv) DVXHCB về nước sạch: đảm bảo mọi người dân được quyền tiếp cận nước
sạch;
(v) DVXHCB về TCTT: đảm bảo mọi người dân được quyền tìm kiếm thông
tin, được cung cấp thông tin.
Như vậy, về cơ bản các nội dung DVXHCB ở Việt Nam được đánh giá là
27 Viện Khoa học lao động và xã hội (ILSSA) và GIZ, Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam, 2010. 28Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 19 tháng 11 năm 2015 về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020. 29 Santosh Mehrotra, Jan Vandemoortele and Enrique Delamonica (2002), Basic services for all? 30Tuyên bố thế giới về giáo dục cho tất cả mọi người được thông qua tại Hội nghị Thế giới về giáo dục cho tất cả mọi người (WCEFA) năm 1990
khá tương đồng với nội dung DVXHCB của các tổ chức quốc tế và Sáng kiến Sàn
39
ASXH của LHQ.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu DVXHCB là hệ thống các hoạt động
đảm bảo cá nhân, tổ chức được tiếp cận các dịch vụ thiết yếu như giáo dục, chăm
sóc sức khoẻ, nhà ở, nước sạch, tiếp cận thông tin… nhằm đảm bảo nhu cầu tối
thiểu, cơ bản nhất của người dân trong từng thời kỳ phát triển đất nước.
1.1.2.3. Đặc điểm của dịch vụ xã hội cơ bản
Với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống ASXH, DVXHCB vừa
chứa đựng các đặc điểm chung của ASXH vừa mang các đặc điểm riêng biệt, đặc
trưng như:
- DVXHCB chủ yếu do nhà nước cung cấp hoặc cho phép cung cấp
Để đảm bảo sự phân phối công bằng và đảm bảo chất lượng dịch vụ,
DVXHCB phải được đảm bảo từ nhà nước. Hơn nữa, điều này cũng xuất phát từ
vai trò nòng cốt của chính phủ trong việc cung cấp “hàng hóa công”. Trong các
DVXHCB, y tế và giáo dục thường được coi là hàng hóa công, đặc biệt ở cấp độ
cơ bản vì chúng mang lại lợi ích cho tăng trưởng kinh tế và xã hội của một quốc
gia nói chung.31 Tương tự, quyền có nhà ở thích đáng (nơi cư trú)32, quyền về
nước33, đều là quyền con người được quy định trong Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội, văn hoá. Vì vậy, dịch vụ về nước, dịch vụ về nhà ở cũng
cần được nhà nước đảm bảo bằng cách nhà nước cung cấp hoặc hợp tác với tư
nhân để cung cấp. Thông qua việc cung cấp các dịch vụ, nhà nước đảm nhận trách
nhiệm chính trong việc bảo vệ lợi ích công nhằm cải thiện cuộc sống của người
dân cũng như phát triển kinh tế, xã hội.
Việc cung cấp DVXHCB của nhà nước thể hiện qua hoạt động phân bổ
ngân sách để đầu tư cho DVXHCB hoặc đẩy mạnh xã hội hoá huy động nguồn
31 Asian Development Bank Institute (2000), Public-Private Partnerships in the Social Sector: Issues and Country Experiences in Asia and the Pacific, Nxb. ADBI, tr.3 32 Bình luận chung số 4 của Uỷ ban các quyền về kinh tế, xã hội, văn hoá được thông qua tại phiên họp thứ 6 năm 1991 33 Bình luận chung số 15 của Uỷ ban các quyền về kinh tế, xã hội, văn hoá được thông qua tại phiên họp thứ 29 năm 2002
40
lực xã hội. Những DVXHCB nhà nước không trực tiếp cung cấp thì nhà nước có
nhiệm vụ quản lý và đảm bảo người dân được tiếp cận công bằng, bình đẳng, đảm
bảo chất lượng bằng cách uỷ quyền cho các doanh nghiệp cung cấp và không đặt
mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Như vậy, các DVXH do tư nhân cung cấp trên
cơ sở thỏa thuận dân sự và vì mục tiêu lợi nhuận không thuộc nội dung ASXH.
Theo nghiên cứu của Viện Thịnh vượng toàn cầu trong nghiên cứu “Sự thịnh
vượng xã hội trong tương lai: Một đề xuất cho việc phổ cập dịch vụ cơ bản” thì
hai tiêu chí đầu tiên của DVXHCB là tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã
hội duy trì sự an toàn về vật chất và có cơ hội đóng góp cho xã hội bằng sự nỗ lực
của chính bản thân các thành viên đó. Nghiên cứu này chỉ ra một tiêu chí thứ ba
của DVXHCB là có sự tham gia của hệ thống chính trị dân chủ khi cần thiết.34 Kết
luận này của nghiên cứu chứng minh rõ hơn lập luận DVXHCB là “luới an sinh”
ở tầng thấp đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người. Tuy nhiên, điều đó không
có nghĩa nhà nước phải có nghĩa vụ cung cấp tất cả các dịch vụ này cho người
dân, mà trong những trường hợp nhất định, nhà nước chỉ có nghĩa vụ đảm bảo
người dân được tiếp cận thông qua hoạt động ban hành chính sách, pháp luật, quản
lý, giám sát chất lượng dịch vụ. Chẳng hạn đối với quyền về nhà ở, Chính phủ
không bắt buộc phải cung cấp đủ nhà ở để hỗ trợ người dân, mà tập trung vào việc
ngăn chặn tình trạng vô gia cư, trục xuất và phân biệt đối xử và duy trì an ninh
cho quyền sở hữu.35 Còn về phía người dân, họ cũng có nghĩa vụ “đóng góp cho
xã hội bằng sự nỗ lực của bản thân” để tiếp cận DVXHCB.36
- DVXHCB có đối tượng phục vụ rộng rãi, bình đẳng.
Điều này xuất phát từ quyền tiếp cận DVXHCB là quyền con người mà đã
34 Institute for global prosperity (2017), Xã hội thịnh vượng trong tương lai: Một đề xuất cho các dịch vụ xã hội cơ bản, tr.11 35 Maria Massimo, Housing as a Right in the United States: Mitigating the Affordable Housing Crisis Using an International Human Rights Law Approach, tr.284 (2021) 36 Viện Thịnh vượng toàn cầu UCL (Institute for Global Prosperity) trong nghiên cứu “Sự thịnh vượng xã hội trong tương lai: Một đề xuất cho việc phổ cập dịch vụ cơ bản
là quyền con người thì mọi người dân đều được đảm bảo thụ hưởng. Hội nghị Lao
41
động quốc tế nhấn mạnh, ASXH là quyền cơ bản của con người và là phương tiện
cơ bản để tạo dựng vị thế xã hội, giúp đảm bảo hoà bình xã hội và hoà nhập xã hội.
Đối tượng phục vụ của DVXHCB là mọi người dân trên lãnh thổ không
phụ thuộc giới tính, tôn giáo, dân tộc, giàu nghèo…. Và mỗi người dân cần được
đảm bảo quyền tiếp cận DVXHCB một cách công bằng, không có sự phân biệt
đối xử với mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội. Nếu các nội dung khác của ASXH
như BHXH, BHYT hay trợ giúp xã hội chỉ đảm bảo quyền thụ hưởng giới hạn ở
một số nhóm đối tượng nhất định thì DVXHCB đảm bảo quyền thụ hưởng cho
mọi người dân. Chẳng hạn các dịch vụ khác như BHXH, BHYT của ASXH đảm
bảo quyền lợi cho người tham gia đóng phí bảo hiểm khi đáp ứng các điều kiện
nhất định, hay trợ giúp xã hội đảm bảo hỗ trợ cho nhóm người có hoàn cảnh khó
khăn. Ngược lại DVXHCB mang tính phổ quát, được cung cấp cho mọi người
dân, không có sự phân biệt, không đặt ra tiêu chí loại trừ đối tượng. Ý tưởng về
dịch vụ cơ bản phổ quát của Viện Thịnh vượng Toàn cầu vào năm 2017 kêu gọi
sự chia sẻ nguồn lực và cùng nhau hành động để đối phó với những rủi ro và các
vấn đề mà con người không thể đối phó một mình. Điều này cũng được phản ánh
trong mục tiêu lâu dài của liên minh Châu Âu về “gắn kết” kinh tế và xã hội: kết
hợp nền kinh tế thị trường tự do với cam kết về các giá trị đoàn kết nội tại và hỗ
trợ lẫn nhau, đảm bảo quyền tiếp cận cởi mở cho tất cả các thành viên trong xã
hội.37
- Dịch vụ xã hội cơ bản tác động đến sự phát triển con người
Đặc điểm này xuất phát từ vai trò của DVXHCB đối với tất cả các giai đoạn
phát triển trong vòng đời của con người. DVXHCB đáp ứng bậc nhu cầu tối thiểu
trong các bậc nhu cầu từ thấp đến cao của con người. Các nhu cầu tối thiểu, cơ
bản nhất được cung cấp sẽ đảm bảo con người được phát triển toàn diện về thể
37 Gough, Ian (2019), Dịch vụ cơ bản phổ quát: khung lý thuyết và đạo đức https://doi.org/10.1111/1467- 923X.12706
chất lẫn tinh thần. Thật vậy, DVXHCB về giáo dục cung cấp cho con người kiến
42
thức cơ bản để có thể làm việc, phát triển bản thân. Người dân được tiếp cận
DVXHCB về giáo dục đầy đủ sẽ là chìa khóa để giải quyết vấn đề việc làm. Hay
nói cách khác, đảm bảo DVXHCB cũng gián tiếp đảm bảo dịch vụ việc làm. Chăm
sóc YTCB giúp con người được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khoẻ từ khi còn
trong bụng mẹ đến giai đoạn tuổi già. DVXHCB về nước sạch, nhà ở tác động đến
điều kiện sống của con người, giúp con người có môi trường sống an toàn để
phòng ngừa bệnh tật và phát triển toàn diện, còn DVXHCB về TCTT sẽ đảm bảo
con người có được thông tin cần thiết để tiếp cận tốt hơn các DVXHCB khác. Hay
nói cách khác, mỗi DVXHCB đều có ý nghĩa và có tác động mạnh mẽ đến quá
trình phát triển và hoàn thiện của mỗi con người.
Số lượng, chất lượng DVXHCB được thể hiện ở quy mô, phạm vi bao phủ
và mức độ đáp ứng nhu cầu đối tượng thụ hưởng, hiệu quả tác động đến sự phát
triển của cá nhân và xã hội trong quá trình lâu dài. DVXHCB tác động đến sự phát
triển con người, nó đáp ứng nhu cầu thụ hưởng của con người trong suốt các giai
đoạn của cuộc đời. Vì vậy, quy mô, phạm vi và mức độ đáp ứng của DVXHCB
càng cao càng thể hiện quy mô và chất lượng của hệ thống ASXH. Số lượng, phạm
vi DVXHCB ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia
đó theo từng giai đoạn phát triển. Điều đó có nghĩa, số lượng DVXHCB càng mở
rộng, chất lượng càng cao sẽ thể hiện sự phồn thịnh của quốc gia, của xã hội.
Đây cũng là một trong những đặc trưng của DVXHCB, phân biệt
DVXHCB với các DVXH khác và với các cấu phần khác của ASXH. Chẳng hạn
BHXH có ý nghĩa trong việc bảo vệ thu nhập cho NLĐ trong những trường hợp
nhất định hay BHYT có ý nghĩa trong việc giảm bớt gánh nặng chi phí khám, chữa
bệnh, điều trị cho đối tượng tham gia. BHXH và BHYT được thực hiện dựa trên
nguyên tắc đóng - hưởng và người tham gia được hưởng chế độ BHXH, được hỗ
trợ chi phí khám, chữa bệnh khi đáp ứng điều kiện nhất định. Hoặc trợ giúp xã hội
chỉ trợ giúp cho một số nhóm đối tượng nhất định. Trong khi đó, DVXHCB đáp
ứng nhu cầu tối thiểu cho mọi người dân từ giai đoạn đầu của sự phát triển đến
43
khi trưởng thành và tuổi già.
1.1.3. Vai trò của dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an sinh xã hội
Dịch vụ xã hội cơ bản có vai trò rất quan trọng trong hệ thống các DVXH
nói chung cũng như hệ thống an sinh xã hội bởi các hoạt động giúp người dân tiếp
cận hệ thống DVXHCB là những hoạt động đầu tiên, thiết yếu và cơ bản nhất. Vai
trò của DVXHCB được thể hiện rõ nét không chỉ đối với sự phát triển con người
mà còn đóng góp cho sự phát triển công bằng, tiến bộ của xã hội, của hệ thống
ASXH mỗi quốc gia.
- DVXHCB giúp cải thiện tình trạng nghèo đói
DVXHCB đóng vai trò trong việc giải quyết tất cả các hình thức nghèo đói
và có vai trò quan trọng ở các giai đoạn vòng đời dễ bị tổn thương như giai đoạn
thời thơ ấu (bao gồm cả giai đoạn thai kỳ), thời kỳ thiếu niên và tuổi già.38 Điều
này được minh chứng ở mỗi DVXHCB, cụ thể:
Giáo dục trong những năm đầu đời có vai trò to lớn đối với sự phát triển
của một đứa trẻ và đối với cả một thế hệ tương lai của xã hội, nó mở ra con đường
cho những cơ hội cũng như sự tiến bộ, cải thiện bản thân. Giáo dục cơ bản làm gia
tăng cơ hội tìm kiếm việc làm, nhất là trong thời kỳ phát triển kỹ thuật công nghệ
mạnh mẽ như hiện nay. Giáo dục cơ bản sẽ giúp người học có kiến thức và biết
cách thức sử dụng Internet, phần mềm và công nghệ khác phục vụ cho công việc,
từ đó giúp giảm tình trạng nghèo đói triền miên giữa các thế hệ.
Tương tự, YTCB, nước hợp vệ sinh, nhà ở có vai trò quan trọng trong suốt
các giai đoạn của đời người. Nó có thể chống lại những tổn thương về thể chất và
dinh dưỡng của trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai thông qua các dịch vụ như tiêm chủng,
bổ sung vi chất dinh dưỡng, chăm sóc chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế… hay sự bảo
vệ khi sức khoẻ của con người suy yếu vì tuổi già. YTCB cũng giúp giảm tình
trạng đói nghèo, thực tế cho thấy, những cú sốc về sức khoẻ như ốm đau nghiêm
38 Rachel Marcus, Laure-Hélène Piron, Tom Slaymaker (2014), Các dịch vụ xã hội và bảo trợ xã hội, tr.3
trọng, thương tật sẽ tốn kém chi phí điều trị cũng như ảnh hưởng đến khả năng
44
tham gia vào các hoạt động sinh kế của người đó và là một trong những nguyên
nhân chính của đói nghèo. Kể từ khi ILO được thành lập vào năm 1919, tổ chức
này đã nhấn mạnh vai trò của bảo vệ sức khỏe xã hội trong việc giảm nghèo, tạo
thu nhập và gia tăng sự giàu có.39 Do đó, tiếp cận hiệu quả YTCB có thể ngăn
chặn sự nghèo nàn. Nước sạch không những đảm bảo sức khoẻ cho người dân mà
còn được coi là một loại tài sản sản xuất khi kết hợp với các tài sản khác để sản
xuất ra thực phẩm và phi thực phẩm phục vụ cho con người40 và tạo ra thu nhập.
DVXHCB giúp người nghèo thoát nghèo nếu được đáp ứng đầy đủ. Lý do
là DVXHCB giúp người nghèo làm việc hiệu quả hơn và mang lại cho họ những
cơ hội mới để tạo ra thu nhập thiết yếu, từ đó họ có thể thoát nghèo và sống một
cuộc sống đầy đủ.41 Chính sách dịch vụ cơ bản phổ quát (universal basic services-
UBS) hiện đang được nghiên cứu, đề xuất thay thế cho chính sách thu nhập cơ bản
phổ quát (universal basic income - UBI) vì hiệu quả của nó trong việc giúp người
dân thoát khỏi cảnh nghèo túng. Thu nhập cơ bản phổ quát còn được gọi là thu
nhập của công dân, thu nhập tối thiểu được đảm bảo hay thu nhập cơ bản. Nó là
khoản thu nhập mà chính phủ cung cấp cho người dân nhằm trang trải chi phí sinh
hoạt cơ bản và đảm bảo tài chính cho họ.42 Chính sách thu nhập cơ bản phổ quát
được xây dựng với mục đích làm giảm hoặc tránh tình trạng nghèo đói của người
dân và mang đến một xã hội phát triển bền vững. Tuy nhiên, thực tế chính sách
này không thực sự mang lại hiệu quả. Bởi nó chỉ giúp giảm nghèo nếu nó được
xác lập ở mức cao nhưng nếu nó cao: công việc sẽ giảm, sự phục tùng sẽ giảm
và/hoặc giá cả của dịch vụ tăng. Trong khi đó, dịch vụ cơ bản thực sự mang lại
một sự hứa hẹn về một mức sàn chung cho tiêu chuẩn sống của bất kỳ công dân
39 ILO, Bảo vệ sức khoẻ xã hội, một chiến lược của ILO về tiếp cận phổ quát chăm sóc sức khoẻ (Social Health Protection. An ILO strategy towards universal access to health care), 2008. 40 Rachel Marcus, Laure-Hélène Piron, Tom Slaymaker, tlđd, 10, 5, 8 41 McGuire, J. (2010), Phân cấp để đáp ứng nhu cầu cơ bản: Hướng dẫn kinh tế cho các nhà hoạch định chính sách (tái bản lần 2), Nxb. Information Age. 42 Kimberly Amadeo, Thu nhập cơ bản phổ quát là gì? Ưu, nhược điểm của đảm bảo thu nhập, ngày 11 tháng 5 năm 2021, https://www.thebalance.com/universal-basic-income-4160668
nào, thay thế chi phí sinh hoạt cho những người sử dụng dịch vụ và làm gia tăng
45
khoản tiền tích luỹ.43 Như vậy, DVXHCB còn được đánh giá trong vai trò khắc
phục những lỗ hổng mà chính sách thu nhập cơ bản phổ quát mang lại. Một nền
tảng dịch vụ cơ bản làm hiện thực hoá sự hứa hẹn về một mức lương cơ bản nguỵ
tạo.44
- DVXHCB nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân và góp phần phát
triển kinh tế đất nước bền vững
Chất lượng cuộc sống có mối liên hệ với các nhu cầu cơ bản như giáo dục,
dinh dưỡng, sức khoẻ, nhà ở, nước sạch, giao thông.45 Do đó, đảm bảo các nhu
cầu cơ bản là nền tảng đảm bảo chất lượng cuộc sống, phạm vi DVXHCB được
đáp ứng càng rộng và ở mức độ càng cao thì chất lượng cuộc sống càng được cải
thiện. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng cuộc sống, DVXHCB còn góp phần phát
triển kinh tế bền vững. Thật vậy, những người khoẻ mạnh, được giáo dục tốt có
xu hướng làm việc hiệu quả hơn và thu nhập cao hơn. Từ đó, họ sẽ chi nhiều hơn
(trực tiếp hoặc thông qua thuế) cho giáo dục cũng như các dịch vụ thiết yếu khác
như nước sạch, nhà ở, thông tin truyền thông và như vậy chất lượng cuộc sống của
họ được đảm bảo và nâng cao. Ở cấp độ quốc gia, một dân số khỏe mạnh, có trình
độ học vấn tốt, quốc gia đó sẽ tăng trưởng kinh tế tốt và tạo nên một nền kinh tế
có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.46
- DVXHCB tạo ra công bằng xã hội, tăng cường sự gắn kết của toàn xã hội
Việc tiếp cận DVXHCB một cách phổ quát tạo ra một mức sàn chung cho
xã hội bằng cách bảo đảm tiêu chuẩn sống tối thiểu. Mô hình dịch vụ nâng cao
cũng có khả năng tăng cường sự gắn kết xã hội, cho phép chấp nhận các giới hạn
43 Institute for global prosperity (2017), tlđd, 17, 13 44 Institute for global prosperity (2017), tlđd 17, 10 45 Ha Thi Hai Do, Nui Dang Nguyen, Anh Ngoc Mai, Duc Minh Phung (2020), Assessment of basic social services coverage on life quality for ethnic minorities in Vietnam, International magazine of innovation, Vol.13. No.10 46 Asian Development Bank Institute (2000), Đối tác công – tư trong khu vực xã hội – Các vấn đề và kinh nghiệm các quốc gia Châu Á, Thái Bình Dương, Nxb. ADBI, tr.16
đặt ra trước những thách thức về tài chính, già hóa, năng suất và suy thoái môi
46
trường.47 Mục tiêu của chính sách phổ quát dịch vụ cơ bản là kêu gọi thực hành
và chính sách tập thể, theo hướng chia sẻ nguồn lực và cùng nhau hành động để
đối phó với những rủi ro và vấn đề mà mọi người không thể đối phó một mình.
Tinh thần đoàn kết mà DVXHCB tạo ra là một quá trình toàn diện bởi nó không
chỉ là sự tương hỗ lẫn nhau giữa các nhóm người thân quen mà quan trọng hơn là
giữa những người xa lạ.48
- DVXHCB làm giảm sự bất bình đẳng về thu nhập của người dân
DVXHCB góp phần làm giảm chi phí sinh hoạt49 và giảm bớt sự bất bình
đẳng về thu nhập bằng cách cung cấp “lương xã hội” (social wage).50 Giá trị của
các dịch vụ công miễn phí và dễ tiếp cận đối với cá nhân người nhận thường được
gọi là "lương xã hội" vì nó thay thế các chi phí mà cá nhân đó sẽ phải trả từ thu
nhập cá nhân nếu các dịch vụ công không miễn phí. Những người có thu nhập
thấp sẽ phải tiêu dùng phần lớn thu nhập của họ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản
nếu các dịch vụ công không được cung cấp. Một nghiên cứu ở các nước OECD
cho thấy người nghèo sẽ phải dùng ¾ thu nhập nếu chi trả trực tiếp cho các dịch
vụ thiết yếu.51 Do đó, khoản chi tiêu của nhà nước cho DVXHCB mang lại lợi ích
cho người dân được coi như cung cấp cho người dân một khoản “lương xã hội”.
- DVXHCB góp phần giúp nâng cao năng lực của con người
Thật vậy, các DVXHCB có mối quan hệ tương hỗ, bổ trợ lẫn nhau. Giáo
dục cơ bản nâng cao năng lực của con người và khuyến khích sự tham gia tích cực
hoặc sẵn sàng vào các hoạt động phát triển.52 Hoặc, đảm bảo quyền TCTT có thể
thúc đẩy cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền phản ứng và hành động một
47 Institute for global prosperity (2017),tlđd, 10, 10 48 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Dịch vụ cơ bản phổ quát: lý thuyết and thực tiễn, Báo cáo của Viện Thịnh vượng Toàn cầu 49 Institute for global prosperity (2017),tlđd, 10, 6 50 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), tlđd, 20 51 G. Verbist, M. F. Förster & M. Vaalavuo (2012), Tác động của các dịch vụ được cung cấp công khai về phân phối tài nguyên, OECD social, employment and migration working paper no.130 52 Viện Hợp tác quốc tế -Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Phương pháp tiếp cận để lập kế hoạch có hệ thống cho các dự án phát triển (Approaches for Systematic Planning of Development Projects), Tr. 27, 2002
cách nhanh chóng hơn với các vấn đề đang tồn tại trong xã hội mà có ảnh hưởng
47
đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Việc TCTT cũng có thể giúp
cho người dân tiếp cận các thông tin về chính sách của nhà nước, địa phương trong
lĩnh vực giáo dục, y tế, nhà ở… để nắm bắt quyền và nghĩa vụ, cơ hội tiếp cận với
các DVXHCB khác. Ngược lại, việc tiếp cận DVGDCB một cách hiệu quả cũng
giúp người dân có khả năng tìm kiếm được công việc với mức thu nhập tốt. Từ
đó, họ có khả năng tiếp cận các DVXHCB khác tốt hơn như chăm sóc YTCB, có
khả năng chi trả chi phí sử dụng nước sạch, có khả năng TCTT tốt hơn.
1.2. Pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản
1.2.1. Khái niệm pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản
ASXH luôn là nội dung quan trọng được hệ thống pháp luật của các quốc
gia ghi nhận và điều chỉnh. Tuy nhiên, tùy thuộc vào quan điểm chính trị, trình độ
phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi giai đoạn mà pháp luật các nước quy định khác
nhau về ASXH cũng như nội hàm của ASXH. Ở Anh, những manh nha về ASXH
đã xuất hiện thông qua việc Chính phủ Anh công bố “Luật cứu tế mới” năm 1834.
Luật này công nhận cứu trợ xã hội như một lưới đỡ thấp nhất trong hệ thống ASXH
và lần đầu tiên trên thế giới hệ thống ASXH đã được thực hiện dựa trên luật pháp,
được điều tiết bởi luật pháp. Đến năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã
thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị
giảm thu nhập vì bệnh tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu
hình thức này chỉ áp dụng đối với giới thợ nhưng sau đó được mở rộng ra cho các
trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Sau đó, vào những năm 80 của
thế kỷ 19, ASXH (lúc này là BHXH) đã mở ra hướng mới, các hình thức bảo hiểm
lúc này mang tính bắt buộc và không chỉ mỗi NLĐ đóng góp mà có sự tham gia
của ba bên (giới chủ, giới thợ và nhà nước). Sau đó, mô hình này của Đức đã lan
dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào
53 Hồ Diệu Mai, Vai trò của Nhà nước trong chính sách an sinh xã hội, kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/vai-tro-cua-nha-nuoc-trong-chinh-sach-an-sinh-xa-hoi-kinh- nghiem-va-bai-hoc-cho-viet-nam-48427.htm, truy cập ngày 5/8/2020
những năm 30 của thế kỷ XX.53 Ngoài BHXH, các hình thức truyền thống về
48
tương tế, cứu trợ xã hội cũng tiếp tục phát triển để giúp đỡ những người có hoàn
cảnh khó khăn, như những người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người
goá bụa và những người không may gặp rủi ro vì thiên tai, hoả hoạn... Các DVXH
như dịch vụ y tế, dự phòng tai nạn, dự phòng y tế tái thích ứng; dịch vụ đặc biệt
cho người tàn tật, người già, bảo vệ trẻ em... được từng bước mở rộng ở các nước
theo những điều kiện tổ chức, chính trị, kinh tế - xã hội, tài chính và quản lý khác
nhau. Hệ thống ASXH được hình thành và phát triển rất đa dạng dưới nhiều hình
thức khác nhau ở từng quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử.
Năm 1935, Mỹ đã đưa ra đạo luật về ASXH, đạo luật này quy định thực
hiện chế độ bảo vệ tuổi già, chế độ tử tuất, tàn tật và trợ cấp thất nghiệp. Thuật
ngữ ASXH được chính thức sử dụng. Đến năm 1941, ASXH lại xuất hiện trong
Hiến chương Đại Tây Dương. Sau đó ILO đã chính thức sử dụng cụm từ này cho
đến nay trong các công ước của mình. Đặc biệt, năm 1952 Hội nghị quốc tế về lao
động đã thông qua Công ước số 152 - Công ước quy định các quy phạm tối thiếu
về ASXH. ILO cũng đã thừa nhận ASXH là một trong những nguyện vọng sâu
sắc nhất, phổ biến nhất của mọi dân tộc trên thế giới và được ghi nhận trong Tuyên
ngôn của Đại hội đồng LHQ về quyền con người. ASXH đã được tất cả các nước
thừa nhận là quyền con người. Nội dung của ASXH đã được ghi nhận trong Tuyên
ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948.
Trong bản Tuyên ngôn có viết: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã
hội có quyền hưởng ASXH. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về
kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người...”.
Ngày 25/6/1952, Hội nghị toàn thể của ILO đã thông qua Công ước số 102, được
gọi là Công ước về ASXH (tiêu chuẩn tối thiểu) trên cơ sở tập hợp các chế độ về
ASXH đã có trên toàn thế giới thành 09 bộ phận.
Cụ thể hơn, LHQ đã ban hành Khuyến Nghị R202 - Sàn ASXH. Theo ILO
thì sàn ASXH chính là hệ thống các chính sách nhằm giúp người dân được quyền
tiếp cận tới rổ hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và chuyển nhượng thu nhập cơ bản theo
49
chuẩn quốc gia đảm bảo người dân được cung cấp đầy đủ lương thực thực phẩm,
được chăm sóc y tế, được giáo dục, được dùng nước sạch và có nhà ở. Hội nghị
Lao động quốc tế nhấn mạnh, ASXH là quyền cơ bản của con người và là phương
tiện cơ bản để tạo dựng vị thế xã hội, qua đó giúp đảm bảo hòa bình và hòa nhập
xã hội. Nó là một phần không thể thiếu trong chính sách xã hội của chính phủ và
là một công cụ quan trọng để ngăn ngừa và xóa đói giảm nghèo. Do đó khái niệm
ASXH với tư cách là quyền con người bắt nguồn từ Tuyên ngôn thế giới về quyền
con người.54 Các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền ASXH.
Theo đó, pháp luật ASXH về DVXHCB của quốc gia cần được xây dựng theo
hướng đảm bảo đầy đủ ba nghĩa vụ trên. Nghĩa vụ tôn trọng yêu cầu quốc gia
không được từ chối hay hạn chế người nào tiếp cận DVXHCB. Mở rộng khả năng
tiếp cận phổ cập các dịch vụ cơ bản cũng là cách hiệu quả nhất để tăng cường hàng
hóa công, cái mà cả xã hội và nền kinh tế đều phụ thuộc vào. Những lợi ích mang
lại từ việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng xã hội lớn hơn nhiều so với những lợi ích nhắm
vào cá nhân.55 Nghĩa vụ bảo vệ đòi hỏi các quốc gia đảm bảo sự bình đẳng trong
tiếp cận DVXHCB cho dù các dịch vụ này do nhà nước hay tư nhân cung cấp.
Nghĩa vụ thực hiện yêu cầu pháp luật các quốc gia công nhận quyền tiếp cận
DVXHCB và thực hiện các biện pháp đảm bảo thực hiện quyền này trên thực tế.
Các biện pháp tiền mặt hoặc hiện vật, cho phép các cá nhân và gia đình được chăm
sóc sức khỏe thiết yếu, nơi cư trú cơ bản và nhà ở, nước và vệ sinh, thực phẩm và
giáo dục tối thiểu.
Bên cạnh đó, khi xây dựng pháp luật ASXH về DVXHCB cần thể hiện rõ
quy định thể hiện tính sẵn có của các DVXHCB, đồng thời khẳng định nhà nước
đảm bảo người dân được tiếp cận DVXHCB như một quyền con người cơ bản.
54 Kanak Kanthi Bagchi and Nirupam Gobi, Social Security for Unorganised Workers in India (Gurgaon: Madhav Books) 2012 Edition tr.1. 55 Institute for global prosperity (2017), Social prosperity for the future:A proposal for Universal Basic Services, tr.6
Trong đó có những quy định riêng đảm bảo tiếp cận DVXHCB của nhóm dễ bị
50
tổn thương (trẻ em, người khuyết tật, người nghèo…). Tính sẵn có của DVXHCB
liên quan mật thiết đến vấn đề tài chính đảm bảo cho DVXHCB. Sách Trắng năm
1998 về Chính quyền địa phương56 của Nam Phi nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc đảm bảo các dịch vụ cơ bản có giá cả phải chăng để đạt được mục tiêu tiếp
cận toàn dân. Sách Trắng cũng nhấn mạnh thêm, mỗi đô thị có trách nhiệm đảm
bảo thuế quan được đặt ở mức giá cả phải chăng “Khả năng tiếp cận được liên kết
chặt chẽ với khả năng chi trả. Ngay cả khi cơ sở hạ tầng dịch vụ đã có, các dịch
vụ vẫn có thể nằm ngoài tầm với của nhiều người trừ khi các dịch vụ này có khả
năng chi trả về mặt tài chính”. Như vậy, có thể thấy, vấn đề tài chính có vai trò
quan trọng quyết định trong việc đảm bảo tiếp cận DVXHCB của người dân. Điều
này một lần nữa được ILO khẳng định khi xây dựng Sàn bảo trợ xã hội đã xác
định các yếu tố chính là: (1) các dịch vụ thiết yếu: tức là khả năng tiếp cận về địa
lý và tài chính đối với các dịch vụ thiết yếu (như nước và vệ sinh, dinh dưỡng đầy
đủ, y tế và giáo dục, nhà ở, và các dịch vụ khác bao gồm thông tin về cuộc sống
và tiết kiệm tài sản); và (2) chuyển giao xã hội thiết yếu: tức là chuyển giao xã
hội, bằng tiền và hiện vật, được trả cho người nghèo và dễ bị tổn thương để mang
lại thu nhập tối thiểu và đảm bảo an toàn sức khỏe.57
Phù hợp với quan điểm của LHQ, các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên
thế giới, Việt Nam cũng xác định tiếp cận DVXHCB là quyền con người được
đảm bảo. Nhất quán với nguyên tắc tất cả vì tự do và hạnh phúc nhân dân, Ðảng
và Nhà nước ta vừa không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo tiền đề pháp
lý bảo đảm quyền con người, vừa luôn xây dựng các chính sách cụ thể để từng
bước cải thiện, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Có thể nói, cơ sở nền
tảng của việc xây dựng hệ thống pháp luật ASXH nói chung và pháp luật ASXH
về DVXHCB nói riêng ở Việt Nam được tiếp cận từ hệ thống pháp luật về quyền
56 https://www.cogta.gov.za/cgta_2016/wp-content/uploads/2016/06/whitepaper-on-loca-gov.pdf 57 ILO (2009), Social Protection Floor Initiative
con người thể hiện sự phù hợp về nhận thức và phù hợp với chuẩn mực quốc tế
51
cũng như xu hướng của các nước trên thế giới.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu pháp luật ASXH về DVXHCB là tổng
hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh quan hệ xã hội hình
thành trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản, thiết yếu như giáo dục cơ bản, chăm
sóc y tế cơ bản, nhà ở, nước sạch, tiếp cận thông tin… nhằm đảm bảo nhu cầu tối
thiểu, cơ bản của người dân trong từng thời kỳ phát triển đất nước.
Pháp luật ASXH về DVXHCB là sự thể hiện rõ rệt thái độ tích cực của nhà
nước và tạo hành lang pháp lý đảm bảo các nhu cầu tối thiểu và thiết yếu cho
người dân. Đảm bảo tiếp cận DVXHCB chặt chẽ và công bằng góp phần thu hẹp
khoảng cách, sự chênh lệch mức sống giữa các thành viên trong xã hội. Pháp luật
ASXH về DVXHCB là chế định quan trọng, tạo cơ sở pháp lý để nhà nước, với
chức năng quản lý của mình, thông qua hệ thống các cơ quan, tổ chức hiện thực
hoá quy định pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật ASXH về DVXHCB
thể hiện sự tương đồng, theo kịp xu hướng quốc tế khi mà điều kiện sống và các
giá trị, phẩm giá, sự bình đẳng của con người ngày càng được đề cao.
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật an sinh xã hội về dịch vụ xã hội cơ
bản
Pháp luật ASXH về DVXHCB với tư cách là một bộ phận cấu thành hệ
thống pháp luật ASXH đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
1.2.2.1. Nguyên tắc mọi người dân đều có quyền tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất xã hội của ASXH và từ đặc trưng của
DVXHCB là cung cấp nhu cầu tối thiểu và cơ bản cho sự tổn tại, phát triển của
con người. Quyền hưởng ASXH nói chung và quyền tiếp cận DVXHCB nói riêng
không loại trừ bất kỳ thành viên nào trong xã hội. Theo ILO, ASXH là nhu cầu cơ
bản của tất cả mọi người không phụ thuộc vào công việc mà họ đang làm việc và
58 Meenakshi Gupta, Labour Welfare and Social Security in Unorganized Sector (New Delhi: Deep & Deep Publications) Bản 2007, tr. 90.
sinh sống. Nó nên được bắt đầu từ khi sinh ra và sẽ tiếp tục cho đến khi chết.58
52
Pháp luật quốc tế cũng thừa nhận quyền hưởng ASXH của con người như một
quyền con người cơ bản. Tuyên bố thế giới về nhân quyền năm 1948 của LHQ tại
Điều 25 cũng ghi nhận: “Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù
hợp với sức khoẻ và sự no ấm cho bản thân và gia đình bao gồm: thực phẩm, quần
áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết…”. Ở góc độ quốc gia, quyền hưởng
ASXH được ghi nhận trong Hiến pháp tại Điều 34 quy định: “Công dân có quyền
được đảm bảo an sinh xã hội”. Cùng với đó, quyền tiếp cận DVXHCB được khẳng
định trong một loạt các quy định của Hiến pháp năm 2013 như: Điều 22, 23 (quyền
có nơi cư trú), Điều 25 (quyền tiếp cận thông tin), Điều 38 (quyền được chăm sóc
sức khoẻ), Điều 39 (quyền được học tập).
Nguyên tắc này thể hiện trước hết thông qua việc DVXHCB có tính phổ
quát. Là một cấu phần của hệ thống ASXH, DVXHCB có đối tượng phục vụ rộng
rãi, bình đẳng, mọi người dân đều được quyền tiếp cận DVXHCB không có sự
phân biệt dựa trên bất kỳ yếu tố nào. Tiếp cận phổ quát các DVXH cũng là một
nguyên tắc chính về quyền con người và là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát
triển con người một cách công bằng.59 Theo đó, bất kể thành viên nào trong xã hội
cũng được tiếp cận DVXHCB. Điều này không có nghĩa tất cả DVXHCB đều do
nhà nước cung cấp và miễn phí cho công dân của mình mà có nghĩa là mọi công
dân đều được nhà nước tạo điều kiện tiếp cận DVXHCB thông qua các phương
thức khác nhau tuỳ thuộc mỗi quốc gia ở mỗi giai đoạn lịch sử. Mức độ hỗ trợ của
nhà nước cũng được thực hiện khác nhau tuỳ thuộc vào mỗi loại DVXHCB nhưng
nhìn chung nhà nước đảm bảo các điều kiện về tính sẵn có để người dân có thể
tiếp cận DVXHCB một cách thuận lợi. Ngoài ra, mỗi quốc gia sẽ có quy định khác
nhau về đối tượng được tiếp cận DVXHCB dựa trên những điều kiện nhất định.
Những điều kiện này có thể là điều kiện về quốc tịch, nơi cư trú.
Nguyên tắc mọi người dân đều có quyền tiếp cận DVXHCB còn thể hiện
59 UNDP, Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người, Báo cáo Quốc gia về Phát triển Con người năm 2011
thông qua việc DVXHCB phải được tiếp cận công bằng. DVXHCB dù được cung
53
cấp bởi nhà nước hay chủ thể khác ngoài nhà nước thì người dân đều phải được
tiếp cận nó một cách bình đẳng và không phân biệt đối xử. Tiếp cận bình đẳng có
nghĩa là xoá bỏ các rào cản về hành chính, địa lý, chính trị và tài chính, với sự
đảm bảo tất cả các cộng đồng không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái chính
trị đều được cung cấp và đảm bảo quyền tiếp cận.60 Chẳng hạn, công bằng về nhà
ở được hiểu là trong xã hội hiện đại, mọi người phải được đối xử bình đẳng và
sống có phẩm giá, không phân biệt lợi ích cá nhân, chức năng thể chất và tinh
thần, giới tính, tuổi tác, đặc điểm gia đình và văn hóa dân tộc. Hay nói cách khác,
không để tình trạng có người không có nơi ở, hoặc sống trong những ngôi nhà tồi
tệ hơn những tiêu chuẩn dân cư thấp nhất.61 Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, đối với
một số nhóm đối tượng yếu thế như trẻ em, người nghèo, người khuyết tật… pháp
luật có những quy định riêng về ưu đãi, hỗ trợ nhằm đảm bảo nhóm đối tượng này
không bị bỏ sót trong việc tiếp cận DVXHCB. Những quy định này mặc dù hướng
đến một số nhóm đối tượng nhất định với những điều kiện nhất định nhưng không
phải là sự bất bình đẳng mà càng thể hiện rõ hơn nguyên tắc này khi xây dựng và
thực thi pháp luật.
1.2.2.2. Nguyên tắc kết hợp hài hoà giữa chính sách kinh tế và xã hội trong việc
quy định và thực hiện an sinh xã hội về dịch vụ xã hội cơ bản
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của DVXHCB là vừa mang bản chất
kinh tế vừa mang bản chất xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các lợi ích chung
mà dịch vụ công đem lại thể hiện dưới hình thức “hàng hoá công cộng”62 và việc
cung ứng các DVXHCB vẫn thuộc ngành kinh tế dịch vụ trong cơ cấu ngành của
quốc gia. Vì vậy, việc cung ứng dịch vụ từ việc lựa chọn sản phẩm dịch vụ đến
60https://www.usip.org/guiding-principles-stabilization-and-reconstruction-the-web-version/stable- governance/provision-esse, truy cập ngày 9/12/2021 61 China Association for Human Rights Studies (2015), Legal Defense of the Right to Housing: A Comparative Study of Mainland and Taiwan 62https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/2018/816018/xa-hoi-hoa-dich-vu- cong-o-viet-nam.aspx, truy cập ngày 01/04/2021
giá cả của dịch vụ (nếu có) đều phải tuân theo quy luật của thị trường, quy luật
54
cung cầu của nền kinh tế. Điều kiện kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn nhất định sẽ góp phần quan trọng trong việc quyết định các loại
DVXHCB được cung ứng và mức độ cung ứng các dịch vụ này. Vì vậy, có thể nói
DVXHCB cũng mang bản chất kinh tế. Tuy nhiên, mục tiêu lợi nhuận không phải
là điều kiện cần có của hoạt động DVXHCB. Dịch vụ công hướng tới lợi ích của
cộng đồng, của đất nước, vì vậy hình thức cung cấp, chất lượng và giá của
DVXHCB phải được xây dựng phù hợp để người dân có thể tiếp cận được và phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Ý tưởng về
dịch vụ cơ bản phổ quát của Viện Thịnh vượng Toàn cầu vào năm 2017 kêu gọi
sự chia sẻ nguồn lực và cùng nhau hành động để đối phó với những rủi ro và các
vấn đề mà con người không thể đối phó một mình. Điều này cũng được phản ánh
trong mục tiêu lâu dài của EU về “gắn kết” kinh tế và xã hội: kết hợp nền kinh tế
thị trường tự do với cam kết về các giá trị đoàn kết nội tại và hỗ trợ lẫn nhau, đảm
bảo quyền tiếp cận cởi mở cho tất cả các thành viên trong xã hội.63 Vì vậy, khi xây
dựng pháp luật ASXH về DVXHCB cần đảm bảo nguyên tắc kết hợp chính sách
kinh tế và xã hội để đảm bảo quy định pháp luật mang tính khả thi và phù hợp bản
chất của DVXHCB.
Nguyên tắc này thể hiện ở việc người sử dụng DVXHCB được nhà nước
đảm bảo việc cung ứng không vì mục tiêu lợi nhuận. Một số DVXHCB do nhà
nước cung cấp như giáo dục, y tế, thông tin… Một số dịch vụ sẽ do khu vực tư
nhân cung cấp như dịch vụ nước sạch, nhà ở… Tuy nhiên, giá dịch vụ do pháp
luật quy định theo những nguyên tắc nhất định để đảm bảo nằm trong khả năng
chi trả của người dân. Tuỳ từng dịch vụ mà người dân trả phí một phần hay toàn
bộ phí hoặc được miễn phí khi sử dụng dịch vụ. Dù vậy, các dịch vụ này sẽ luôn
được đảm bảo cung cấp cho người dân và nhà nước có trách nhiệm đến cùng trước
63Gough, Ian (2019), Universal Basic Services: a theoretical and moral framework https://doi.org/10.1111/1467-923X.12706
xã hội, trước công dân về số lượng và chất lượng cung cấp các dịch vụ này. Nhà
55
nước có chính sách hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cho các tổ chức, cá nhân trong
trường hợp họ bị hạn chế tiếp cận DVXHCB. Chẳng hạn, nhà nước có chính sách
hỗ trợ học phí, miễn học phí cho học sinh nghèo, chính sách hỗ trợ học sinh khuyết
tật để đảm bảo họ có thể tiếp cận DVGDCB. Hoặc trường hợp cấp thẻ BHYT miễn
phí, hỗ trợ đóng BHYT đối với một số đối tượng nhất định để họ có thể tiếp cận
chăm sóc YTCB. Hay như Chương trình mở rộng quy mô vệ sinh và nước sạch
nông thôn thông qua nguồn vốn hỗ trợ từ Ngân hàng thế giới với mục tiêu đảm
bảo tiếp cận nước sạch cho khu vực nông thôn và người nghèo hoặc chính sách
nhà ở xã hội….
1.2.2.3. Nguyên tắc đa dạng hóa, xã hội hoá hoạt động dịch vụ xã hội cơ bản
Trước đây, phần lớn chi tiêu của chính phủ dành cho cung cấp các dịch vụ
của chính phủ trong khi việc cung cấp các dịch vụ tư nhân được thực hiện phần
lớn từ chi tiêu từ tư nhân. Tuy nhiên, thực tế, chính phủ có thể tài trợ cho một số
hoạt động cung cấp dịch vụ của tư nhân và ngược lại, chẳng hạn nhà nước ký hợp
đồng với nhà cung cấp tư nhân (bệnh viện, trường học) để cung cấp dịch vụ thuộc
hệ thống công tổng thể. Trường hợp Chính phủ vừa là chủ thể cung cấp vừa trả
tiền cho các dịch vụ, sẽ có khả năng dẫn đến tình trạng thiếu kinh phí và chất
lượng dịch vụ kém.64 Ngược lại, nếu tư nhân cung cấp dịch vụ và người dùng trả
phí thì có thể dẫn tới khả năng người dùng không đủ khả năng chi trả chi phí sử
dụng dịch vụ. Chính vì vậy, xã hội hoá dịch vụ công có thể tháo gỡ “nút thắt” này.
Bởi khi xã hội hoá dịch vụ công nói chung và DVXHCB nói riêng thì bộ máy của
chính phủ có thể tinh giản hơn, chính phủ chỉ tập trung quản lý ở tầm vĩ mô. Trong
khi đó, khu vực tư nhân ngày càng tỏ ra năng động và phát triển mạnh, có thể đảm
đương nhiều lĩnh vực mà trước đây chỉ có nhà nước mới có thể thực hiện được.
Không những thế, xã hội hoá dịch vụ công còn làm giảm gánh nặng lên NSNN và
64 Asian Development Bank Institute (2000), Public-Private Partnerships in the Social Sector: Issues and Country
Experiences in Asia and the Pacific, Nxb. ADBI, tr.62
nâng cao chất lượng dịch vụ khi có sự cạnh tranh của khu vực tư nhân.
56
DVXHCB đáp ứng nhu cầu cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của con
người, nhưng khi xã hội càng phát triển, tiến bộ thì nhu cầu con người ngày càng
đòi hỏi ở mức độ cao hơn. Trong khi đó, NSNN khó có thể trang trải cho việc
cung cấp tất cả DVXHCB, đặc biệt là các nước kém phát triển và các nước đang
phát triển. Quan hệ đối tác công tư được coi là một giải pháp cho các vấn đề cả về
tài chính và khả năng cung cấp dịch vụ cơ bản, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, nước
và vệ sinh65. Khi các chính phủ phải đối mặt với những hạn chế ngày càng tăng
về tài khóa, họ đã chuyển sang đóng góp và cung cấp dịch vụ từ khu vực tư nhân.
Ở hầu hết các nước Châu Á và Thái Bình Dương, đóng góp của khu vực tư nhân
trong lĩnh vực y tế và giáo dục là rất đáng kể. Ở một số quốc gia, tỷ trọng từ khu
vực tư nhân thậm chí có thể lớn hơn so với các đối tác công của họ. Đồng thời,
khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ cùng với chính phủ.66 Ngoài ra, quan
hệ đối tác công - tư giúp tận dụng năng lực của các nhà cung cấp tư nhân trong
việc hướng dẫn và quản lý các hoạt động và cho phép sự rủi ro tài chính được
chuyển giao cho các nhà cung cấp.67
Tuy nhiên, nhà nước vẫn nên giữ vai trò tạo ra nền tảng hành chính và cơ
sở hạ tầng cần thiết để cung cấp các dịch vụ này một cách công bằng và hiệu quả.
Cùng với đó, nhà nước xây dựng hành lang pháp lý tạo điều kiện cho khu vực tư
nhân tham gia cung ứng dịch vụ, tạo môi trường bình đẳng giữa các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia cung ứng dịch vụ và đưa ra tiêu chuẩn đánh
giá chất lượng dịch vụ, mức giá dịch vụ. Việc xây dựng và thực hiện các chính
sách, quy định, ngân sách, hợp đồng, quan hệ đối tác công-tư và hệ thống dịch vụ
dân sự của chính phủ để cung cấp các dịch vụ thiết yếu cần đảm bảo tính minh
65 Rachel Marcus, Laure-Hélène Piron, Tom Slaymaker (2004), Basic services and social protection 66 Viện Ngân hàng Phát triển Châu Á (2000), Public – Private Partnerships in the Social Sector, Nxb. ADBI, tr.3 67 Roland Almqvist, Olle Högberg (2005), The Challenge of Public-Private Partnerships: learning from international experience, Nxb. Edvard Elgar Publishing Ltd, tr. 1 68 Brinkerhoff (2007), Governance in Post-Conflict Societies
bạch.68 Các tổ chức phi chính phủ hoặc khu vực tư nhân cung cấp các dịch vụ này
57
phải chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương và quốc gia bằng các hoạt
động kế toán, tuyển dụng và quản lý minh bạch, đồng thời phải tuân thủ luật và
công ước về nhân quyền.69
Trong số các DVXHCB, DVXHCB về giáo dục và chăm sóc y tế vẫn chủ
yếu do nhà nước cung cấp và chi phối, còn các DVXHCB khác thường có sự tham
gia của khu vực tư nhân, do tư nhân cung cấp. Bên cạnh sự hỗ trợ từ NSNN, thì
người sử dụng dịch vụ phải chi trả chi phí sử dụng dịch vụ. Tuỳ thuộc vào điều
kiện phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia trong từng giai đoạn mà chi phí sử dụng
DVXHCB được quy định khác nhau. Thông thường ở các quốc gia, NSNN thường
ưu tiên đầu tư cho DVGDCB và chăm sóc YTCB, các DVXHCB khác như nhà ở,
nước sạch, TCTT được nhà nước hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, ưu đãi về thuế…
1.2.3. Nội dung pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản
Với mục đích đảm bảo và đáp ứng các nhu cầu tối thiểu của con người,
pháp luật quốc tế, pháp luật các quốc gia trong đó có Việt Nam, thường bao gồm
các nội dung: (i) DVXHCB về giáo dục; (ii) DVXHCB về chăm sóc y tế; (iii)
DVXHCB về nhà ở; (iv) DVXHCB về nước sạch và (v) DVXHCB về TCTT.
Trong mỗi nội dung, pháp luật thông thường điều chỉnh về đối tượng tiếp cận
DVXHCB, nội dung DVXHCB, chủ thể cung cấp DVXHCB và nguồn tài chính
đầu tư cho DVXHCB.
1.2.3.1. Dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục
Giáo dục cơ bản được coi là một trong những quyền con người quan trọng
nhất bởi vai trò to lớn của nó không chỉ với mỗi cá nhân mà đối với cả sự phát
triển của cả một thế hệ người trẻ cũng như sự phát triển của đất nước, của xã hội.
Vì vậy, DVXHCB về giáo dục được coi là nội dung trọng tâm trong số các
DVXHCB. Hiện có nhiều cách tiếp cận khác nhau từ các góc độ khác nhau về nội
69https://www.usip.org/guiding-principles-stabilization-and-reconstruction-the-web-version/stable- governance/provisionesse#:~:text=Providing%20essential%20services%20is%20the,such%20as%20health %20and%20education, truy cập ngày 9/12/2021
dung này. Theo Tuyên bố thế giới về giáo dục cho tất cả mọi người, được thông
58
qua tại hội nghị Thế giới về Giáo dục cho mọi người (WCEFA) năm 1990 thì
DVGDCB được định nghĩa là “các hoạt động giáo dục được thiết kế để mọi người
có được kiến thức và kỹ năng cần thiết để tồn tại, phát triển đầy đủ năng lực, sống
và làm việc có phẩm giá, tham gia đầy đủ vào phát triển, cải thiện chất lượng
cuộc sống, đưa ra các quyết định sáng suốt và để tiếp tục học hỏi”. Một cách
chung nhất, DVGDCB được hiểu là toàn bộ các hoạt động giáo dục diễn ra trong
các môi trường khác nhau nhằm đáp ứng các nhu cầu học tập cơ bản.
Nội dung DVXHCB về giáo dục được quy định khác nhau tuỳ thuộc mỗi
quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển đất nước. Theo Phân loại Giáo dục Tiêu
chuẩn Quốc tế (ISCED 2011) thì DVXHCB về giáo dục bao gồm giáo dục tiểu
học và giáo dục trung học cơ sở. Còn Tuyên bố thế giới về giáo dục cho tất cả mọi
người lại khẳng định giáo dục cơ bản bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục tiểu
học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục không chính quy (bao gồm giáo dục tôn
giáo, giáo dục cộng đồng, giáo dục người lớn và giáo dục xóa mù chữ). Trong đó,
giáo dục tiểu học và trung học cơ sở là cốt lõi của giáo dục cơ bản vì giai đoạn
này xây dựng một tính cách cân bằng và tìm cách thống nhất chủ quyền của một
quốc gia bằng cách đóng góp ngôn ngữ, giá trị và hành vi chung.70 Giáo dục cơ
bản thường được thực hiện ở giai đoạn đầu, nhằm giúp mọi người đạt được một
mức độ hiểu biết nhất định để nhận ra tính đúng, sai của vấn đề, nên hoặc không
nên thực hiện nó, từ đó, giúp xây dựng hệ tư tưởng của một cá nhân. Giáo dục cơ
bản cung cấp việc đào tạo để giúp mọi người học cách đọc, viết, làm toán, và có
kỹ năng sống cơ bản.71
DVGDCB phổ quát được coi là ưu tiên của các nước đang phát triển và là
trọng tâm của phong trào giáo dục cho mọi người do UNESCO dẫn đầu. Đảm bảo
70 Viện Hợp tác quốc tế -Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) (2002), Approaches for Systematic Planning of Development Projects, Tr. 23 71 Ha Thi Hai Do, Nui Dang Nguyen, Anh Ngoc Mai, Duc Minh Phung, Nguyen Duy Vu, Hung Dinh Nguyen, Dung Manh Chan, Thuy Minh Thu Phung, Ensuring basic education for ethnic minority groups in Vietnam, Management Science Letters, tháng 4/2020. DOI: 10.5267/j.msl.2020.4.029
quyền được hưởng giáo dục cơ bản có thể thực hiện ở các mức độ khác nhau tùy
59
theo điều kiện và hoàn cảnh thực tế của mỗi quốc gia nhưng phải đáp ứng được
các yêu cầu về tính sẵn có (về chương trình và cơ sở giáo dục); tính có thể tiếp
cận (không có sự phân biệt về tiếp cận với chương trình và cơ sở giáo dục); tính
có thể chấp nhận được (nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp) và tính thích
ứng (đáp ứng linh hoạt với sự thay đổi nhu cầu người học và môi trường xã hội và
văn hoá đa dạng).72 Giáo dục cơ bản ở mỗi quốc gia được quy định khác nhau và
thường thể hiện thông qua quy định về số năm giáo dục bắt buộc và được cung
cấp bởi Nhà nước thông qua hệ thống trường công lập. Chẳng hạn, ở Trung Quốc
trẻ em phải đi học tối thiểu là 09 năm, từ khi trẻ 6 tuổi. Ở Mỹ, mỗi tiểu bang của
Mỹ có thể quy định khác nhau về giáo dục cơ bản, thường từ 5 hoặc 6 tuổi đến 16,
17 hoặc 18 tuổi tùy thuộc vào quy định ở mỗi bang.73
1.2.3.2. Dịch vụ xã hội cơ bản về chăm sóc y tế
Chăm sóc sức khoẻ là một quyền con người cơ bản không thể thiếu để thực
hiện các quyền khác. Quyền được chăm sóc sức khoẻ không chỉ được hiểu là
quyền được khoẻ mạnh mà bao gồm các quyền và tự do làm chủ sức khoẻ và thân
thể, kể cả về tình dục và sinh sản, tự do không bị can thiệp (không bị tra tấn, điều
trị hay thí nghiệm mà không được sự đồng ý) và quyền bình đẳng về cơ hội trong
chăm sóc sức khoẻ.74
Chăm sóc YTCB và chăm sóc sức khoẻ là hai khái niệm không đồng nhất.
Chăm sóc sức khoẻ có nội hàm rộng hơn chăm sóc YTCB. Chăm sóc sức khoẻ
như trên đã phân tích, được hiểu là bao gồm tất cả các cơ chế và hoạt động nhằm
mục đích bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ người dân ở các cấp độ khác nhau như
chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chăm sóc sức khoẻ chuyên sâu. Trong khi đó, chăm
sóc YTCB được hiểu là dịch vụ cung ứng hoạt động chăm sóc về y tế đầu tiên cho
72 Bình luận chung số 13 về Quyền được giáo dục của Uỷ ban kinh tế, xã hội, văn hoá được thông qua tại phiên họp 21 năm 1999. 73 Antonella Corsi-bunker, Guide to the education system in the United States https://isss.umn.edu/publications/USEducation/2.pdf 74 Bình luận chung số 14 của Uỷ ban về quyền kinh tế, xã hội, văn hoá giải thích về Điều 12 của ICESCR
người dân và ở tầng thấp, phổ quát nhất trong hệ thống ASXH quốc gia. Chăm
60
sóc YTCB được LHQ đưa ra bao gồm: chăm sóc sức khỏe ban đầu, y tế dự phòng
(phòng dịch cho trẻ, chăm sóc sau khi sinh đẻ, giáo dục y tế) và các chương trình
y tế công cộng (sức khỏe bà mẹ và trẻ em, bệnh sốt rét, bệnh lao, thuốc và dược
liệu cơ bản, vệ sinh) và chương trình quốc gia về dinh dưỡng.75
Ngoài ra, cần phân biệt chăm sóc YTCB với BHYT. BHYT theo quan niệm
của ILO là một bộ phận cấu thành của hệ thống ASXH quốc gia với mục đích
chung là bảo vệ cuộc sống của các thành viên trong xã hội. Còn cơ quan phát triển
quốc tế Vương Quốc Anh (Department for International Development – DFID)
đưa ra định nghĩa BHYT: “BHYT là một cách để chi trả một phần hoặc toàn bộ
chi phí y tế cho các cá nhân bởi chính phủ hoặc các tổ chức BHYT vì mục đích lợi
nhuận hay không vì mục đích lợi nhuận. Nó hỗ trợ những người tham gia bảo
hiểm chi trả chi phí khám chữa bệnh khi gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật và hỗ trợ chi
phí khám chữa bệnh thường xuyên để đảm bảo nhu cầu của người mua bảo
hiểm”76. Định nghĩa này thể hiện cả bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHYT,
đó là sự tương trợ lẫn nhau, giúp đỡ nhau về tài chính khi các thành viên gặp phải
rủi ro về sức khỏe.
Phạm vi của chăm sóc YTCB rộng hẹp tuỳ thuộc quan niệm của mỗi quốc
gia. ILO cho rằng các gói dịch vụ y tế cung cấp cho đối tượng được bảo hiểm nên
được xác định nhằm duy trì, phục hồi hoặc cải thiện sức khỏe, đảm bảo khả năng
làm việc và đáp ứng các nhu cầu chăm sóc sức khỏe cá nhân. Cũng theo tổ chức
này, tiếp cận hiệu quả bao gồm cả tiếp cận các dịch vụ y tế và bảo vệ tài chính.
Bảo vệ tài chính bao gồm việc tránh các khoản chi từ tiền túi làm giảm khả năng
chi trả cho các dịch vụ và lý tưởng hơn là có một số khoản bồi thường cho việc
75 Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2012), Đánh giá thực trạng khả năng và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội của nhóm người nghèo, đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là tại các vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, Hà Nội, tr. 3. 76 Catherine P Conn & Veronica Walford, An Introduction to Health Insurance for Low Income Countries”, DFID- Health Systems Resource Centre, 2008. 77 ILO (2008), Social Health Protection - an ILO strategy towards universal access to health care, tr. 17
mất năng suất do ốm đau.77 Không những thế, các tài liệu nghiên cứu và điều tra
61
tình hình thực hiện ASXH trên thế giới của ILO cho thấy chăm sóc y tế không chỉ
dừng lại ở chế độ bảo hiểm cho các thành viên xã hội mà còn bao gồm các hoạt
động y tế công cộng khác nhằm mục đích chăm lo và bảo vệ sức khoẻ toàn dân.78
Tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn
khác nhau mà nội dung của chăm sóc YTCB được quy định khác nhau. Chăm sóc
YTCB thường được cung cấp bởi Nhà nước với nguồn ngân sách lớn của Nhà
nước. Ở Ấn Độ, chăm sóc sức khoẻ cơ bản cung cấp dịch vụ chăm sóc toàn diện
cho các nhu cầu sức khỏe trong suốt cuộc đời, không chỉ cho một số bệnh cụ thể79.
Chăm sóc YTCB Việt Nam được thực hiện thông qua BHYT và các dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ cơ bản. Trong đó, BHYT được thực hiện theo nguyên tắc đóng-
hưởng với sự hỗ trợ một phần từ NSNN. Còn các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ
bản bao gồm: giáo dục sức khoẻ; kiểm soát dịch bệnh; tiêm phòng cho trẻ em và
bà mẹ; cung cấp thuốc thiết yếu; cung cấp lương thực, thực phẩm, cải thiện dinh
dưỡng bữa ăn; điều trị và phòng bệnh; quản lý sức khoẻ; kiện toàn mạng lưới y tế.
1.2.3.3. Dịch vụ xã hội cơ bản về nhà ở
Quyền có nhà ở là một trong các quyền con người nằm trong tập hợp quyền
được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng (Điều 11 ICESCR). Quyền có
nhà ở thích đáng được giải thích trong Bình luận chung số 4 về Điều 11 ICESCR
của Uỷ ban kinh tế, xã hội và văn hoá (thông qua tại phiên họp thứ 6 năm 1991).
Theo đó, quyền có nhà ở thích đáng được hiểu là theo nghĩa hẹp là quyền có một
mái che trên đầu để trú ngụ. Hoặc theo nghĩa rộng hơn, có thể hiểu là quyền được
sống ở một nơi an toàn, bình yên và thích đáng với phẩm giá con người. Quyền
này được áp dụng cho tất cả mọi người mà không có sự phân biệt về bất cứ yếu tố
nào. Nhà ở cần được đảm bảo “đầy đủ” cho người dân, đây cũng là vấn đề mà hệ
78 ILO (1992), Introduction Social Secutity, Giownevo 79https://www.who.int/india/health-topics/primary-health- care#:~:text=It%20provides%20whole%2Dperson%20care,feasible%20to%20people's%20everyday%20envi ronment
thống ASXH chất lượng và tiến bộ hướng tới. Nhà ở đầy đủ được hiểu là nơi có
62
thể ở được và cung cấp phương tiện cơ bản cần thiết để duy trì sức khỏe, bao gồm
nước uống an toàn và vệ sinh thích hợp.80 Ngoài ra, nhà ở đầy đủ phải có giá cả
phải chăng (chi phí của nó không gây gánh nặng hoặc đe doạ đến việc đáp ứng
các nhu cầu cơ bản khác), có tính đến nhu cầu đặc biệt của nhóm yếu thế .81 Như
vậy, quyền về nhà ở không có nghĩa là Nhà nước có nghĩa vụ cung cấp nhà ở cho
mọi người dân mà có nghĩa Nhà nước ghi nhận và đảm bảo các điều kiện cần thiết
để người dân có thể tiếp cận nhà ở.
Hiến pháp và nhiều văn bản luật của Philippines quy định trách nhiệm của
Chính phủ đảm bảo cung cấp nhà ở giá cả phải chăng cho mọi người dân
Philippines. Chẳng hạn, Đạo luật Nhà ở và Phát triển đô thị năm 1992 (UDHA)
của Philippines đề cập đến quyền có nhà ở của người vô gia cư và người dân
Philippines có hoàn cảnh khó khăn. Theo quy định của luật này, nhà ở xã hội cho
nhóm đối tượng yếu thế được cung cấp bằng cách giải quyết khả năng tiếp cận với
đất đai, nhà ở, tái định cư phá dỡ và thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân.
Luật cũng quy định việc xây dựng khung nhà ở và phát triển đô thị trong hoạch
định chính sách về xác định khu vực đô thị hoá. 82
Tương đồng với quan điểm của các quốc gia, ở Việt Nam, pháp luật
DVXHCB về nhà ở cũng quy định đối tượng phục vụ rộng rãi, không chỉ có công
dân trong nước mà cả người nước ngoài cũng được đảm bảo quyền này bởi quyền
tiếp cận nhà ở gắn liền với quyền cư trú, quyền tự do đi lại ở mỗi quốc gia. Ngoài
ra, nếu các DVXHCB khác như DVGDCB, chăm sóc YTCB được quy định chủ
yếu do nhà nước cung cấp, thì DVXHCB về nhà ở tối thiểu lại có sự tham gia
nhiều từ khu vực tư nhân. Nhà nước thường đóng vai trò hỗ trợ thông qua quy
80 Maria Massimo (2021), Housing as a Right in the United States: Mitigating the Affordable Housing Crisis Using an International Human Rights Law Approach, tr.284 81 Bình luận chung số 4: Quyền có nhà ở đầy đủ, Công ước Quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá 82 Masahiro Kobayashi (2016), The Housing Market and Housing Policies in Japan, ADBI Working Paper Series, No.558, tr.26
định pháp luật về ưu đãi, đầu tư vốn trong một số trường hợp để đảm bảo cho
63
nhóm đối tượng yếu thế, nhóm đối tượng có thu nhập thấp được tiếp cận nhà ở.
1.2.3.4. Dịch vụ xã hội cơ bản về nước sạch
Từ bình diện pháp luật quốc tế, Bình luận chung số 15 về Điều 11 ICESCR
của Uỷ ban kinh tế, xã hội và văn hoá (thông qua tại phiên họp thứ 29 năm 2002),
quyền về nước được giải thích rất chi tiết. Theo đó, đảm bảo nước sạch là một
trong những quyền con người quan trọng vì nước là điều kiện tiên quyết để đạt
được những quyền về sức khoẻ, quyền có mức sống thích đáng, quyền có nhà ở
và lương thực thích đáng (đoạn 1 và 3). Quyền này hàm ý mọi người có quyền
tiếp cận với nguồn nước một cách thích đáng, an toàn, có thể chấp nhận được, có
thể tiếp cận được và chi trả được với cá nhân mình và gia đình (đoạn 2). Đảm bảo
quyền về nước bao gồm việc đảm bảo cho mọi người khả năng tiếp cận các nguồn
nước thích đáng cho nông nghiệp và các nguồn nước sinh hoạt vệ sinh, không bị
nhiễm độc (đoạn 7, 8). Quyền về nước còn bao gồm việc tự do tiếp cận với các
nguồn cung cấp nước có sẵn, được bảo vệ không bị tuỳ tiện cắt hoặc làm ô nhiễm
nguồn nước, bình đẳng trong tiếp cận hệ thống cung cấp nước (đoạn 10). Những
yếu tố cơ bản của quyền về nước được áp dụng trong mọi trường hợp là (i) tính
sẵn có, tức là việc cung cấp nước phải liên tục và đủ cho những mục đích sử dụng
của cá nhân và gia đình như ăn uống, nước để vệ sinh cá nhân, giặt giũ, lau dọn
nhà cửa; (ii) chất lượng: thể hiện ở việc nước phải an toàn, không chứa hợp chất
hoá học nguy hiểm; (iii) Có thể tiếp cận, thể hiện ở việc tất cả mọi người, không
phân biệt bất cứ yếu tố nào đều có quyền tiếp cận với nước và các tiện ích, dịch
vụ về nước. Tháng 7/2010, Đại hội đồng LHQ đã thông qua một nghị quyết công
nhận quyền của con người được sử dụng nước sạch và hệ thống vệ sinh trong sinh
hoạt với đa số phiếu thuận. Mỗi nhà nước phải tạo điều kiện, quy tắc, dự án đầu
tư hoặc điều kiện đầu tư thích hợp để cải thiện tình trạng cung cấp nước sạch cho
người dân. Không những thế, quyền sử dụng nước sạch còn được hiểu là mỗi
người phải được tiếp cận nguồn nước vệ sinh, có thể tiếp nhận được, chi trả được
và nguồn nước đó phải được cung cấp đủ cho nhu cầu sinh hoạt cá nhân.
64
Từ bình diện pháp luật các quốc gia, việc thừa nhận quyền được tiếp cận
nước sạch được quy định khác nhau. Chẳng hạn, Hiến pháp Ấn Độ không công
nhận quyền cơ bản đối với nước một cách trực tiếp nhưng các phán quyết của tòa
án thì cho rằng quyền tiếp cận nước sạch thuộc quyền sống được quy định trong
Điều 21 Hiến Pháp. Quyền có nước được cho là ngụ ý trong việc công nhận quyền
có môi trường sống trong sạch.83 Pháp luật nước này cũng quy định việc cung cấp
nước sạch được nhà nước bảo đảm. Luật pháp Ấn Độ thừa nhận rằng do thiếu
nguồn lực, chính phủ không thể cung cấp các dịch vụ này cho tất cả mọi người
ngay lập tức. Tuy nhiên, chính phủ phải có kế hoạch rõ ràng với khung thời gian
và ngân sách để cung cấp các dịch vụ này và tăng khả năng tiếp cận.84
1.2.3.5. Dịch vụ xã hội cơ bản về tiếp cận thông tin
LHQ cho rằng đảm bảo quyền TCTT là tiêu chuẩn cho sự tự do của con
người. Quyền TCTT được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan
trọng trong các lĩnh vực cụ thể khác như Tuyên bố Rio về Môi trường và phát triển
năm 1992, Công ước UNECE về tiếp cận thông tin, tham gia của công chúng và
tiếp cận công lý đối với các vấn đề về môi trường năm 1998, Công ước của LHQ
về chống tham nhũng năm 2003... Tuy nhiên, tùy thuộc vào quan điểm chính trị,
trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi giai đoạn mà pháp luật các nước quy định
khác nhau về ASXH cũng như nội hàm của ASXH.
Quan điểm của nhiều quốc gia trên thế giới cũng cho rằng quyền TCTT là
quyền Hiến định và là một yếu tố điển hình của quyền tự do ngôn luận. Các quốc
gia cần quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước cung cấp thông tin cho dân
chúng. Theo quan điểm của LHQ, mọi thông tin tạo ra trong quá trình điều hành,
83 Philippe Cullet, Joyeeta Gupta (2009), The Evolution of the Law and Politics of Water, Springer Academic Publishers, tr.167 84 Philippe Cullet (2007), Water law in India – Overview of existing framework and proposed reforms, IELRC Working Paper, 2007-01 http://www.ielrc.org/content/w0701.pdf
quản lý nhà nước không phải là tài sản riêng của cơ quan công quyền mà nó là tài
65
sản công được tạo ra bởi rất nhiều thiết chế trong xã hội, cơ quan công quyền chỉ
là một bộ phận trong thiết chế này. Do vậy, cơ quan nhà nước nắm giữ thông tin
công phải có trách nhiệm cung cấp cho người dân không vì mục tiêu lợi nhuận.85
Nhiều quốc gia đã ban hành luật riêng về TCTT như Mỹ (năm 1966), Canada (năm
1983), Vương Quốc Anh (năm 2000), Hàn Quốc (năm 1998), Nhật Bản (năm
2004), Trung Quốc (năm 2007) và nhiều quốc gia khác. Đặc biệt, Luật TCTT hoặc
tự do thông tin ở một số quốc gia có vị trí pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp
luật quốc gia.86 Một số quốc gia quy định đối tượng TCTT là công dân của quốc
gia đó như Tây Ban Nha (khoản b Điều 105 Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1978)
Hoặc Ấn Độ (Điều 3 Luật về quyền được thông tin của Ấn Độ). Tuy nhiên, một
số quốc gia quy định chủ thể có quyền TCTT ở phạm vi rộng hơn, đó là cá nhân
hoặc tổ chức. Cá nhân có thể là công dân của quốc gia, người không có quốc tịch,
người nước ngoài không cần tính đến việc họ có các lợi ích pháp lý liên quan hay
không.87 Do đó, các văn bản này thường sử dụng các cụm từ như “mọi người”,
“bất kể người nào” hay “công chúng”88 để thể hiện tính phổ quát của quyền TCTT.
Phù hợp với quan điểm của LHQ và các quốc gia trên thế giới, Việt Nam
cũng xác định DVXHCB về TCTT là một trong những quyền con người cơ bản.
Nhất quán với nguyên tắc tất cả vì tự do và hạnh phúc nhân dân, Ðảng và Nhà
nước ta vừa không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo tiền đề pháp lý bảo
đảm quyền con người, vừa luôn xây dựng các chính sách cụ thể để từng bước cải
thiện, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
Dưới góc độ pháp lý, “quyền tiếp cận thông tin” là quyền căn bản mà mọi
85 Hội Luật gia Việt Nam (2009), Báo cáo nghiên cứu về Luật Tiếp cận thông tin của các nước Bắc Âu 86 Đặc san tuyên truyền pháp luật, Pháp luật về tiếp cận thông tin, Trang thông tin về Phổ biến giáo dục pháp luật-Bộ Tư Pháp, Số 07/2016, tr.50 87 Toby Mendel (2008), Freedom of information: A comparative legal survey, Second Edition, United Nations, UNESCO, Paris, tr. 144. 88 Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường (25/6/1998); Công ước của LHQ về Chống tham nhũng được Đại hội đồng LHQ; Công ước của Liên minh Châu Phi về phòng, chống tham nhũng; Luật tiếp cận thông tin của Canada năm 1985; Luật Tự do thông tin Thuỵ Điển năm 1949, sửa đổi năm 1976.
người ở tất cả các quốc gia đều có quyền được hưởng, đó là quyền được biết thông
66
tin của Nhà nước (thông qua cách thức trực tiếp hay gián tiếp) để thỏa mãn các
nhu cầu trong cuộc sống của mình cũng như để bảo vệ và thực hiện các quyền
năng khác đã được pháp luật ghi nhận89. Khi xây dựng pháp luật về quyền TCTT,
cần xác định quyền TCTT mang tính phổ quát và nghĩa cụ cung cấp thông tin của
cơ quan nhà nước. Thông thường, pháp luật về TCTT của các quốc gia đều giới
hạn nội dung TCTT đối với những thông tin không được tiếp cận và thông tin tiếp
cận có điều kiện. Vấn đề nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB về TCTT cũng cần
được quy định rõ ràng trong pháp luật về TCTT. Pháp luật ASXH về DVXHCB
trong việc TCTT tạo hành lang pháp lý cho việc đảm bảo, đáp ứng nhu cầu cơ bản
của con người về nhu cầu được biết thông tin cách bình đẳng và khả thi. Không
những thế, pháp luật về vấn đề này sẽ thúc đẩy công khai, minh bạch trong quản
lý nhà nước, tác động đến sự tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà nước, của tổ chức
89 Bộ Tư Pháp, Pháp luật về tiếp cận thông tin, Trang thông tin về Phổ biến giáo dục pháp luật, Đặc san tuyên truyền pháp luật Số 07/2016, tr.3-4
và người dân.
67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
ASXH là sự bảo vệ của nhà nước và xã hội với các thành viên của mình khi
gặp rủi ro trong cuộc sống thông qua nhằm ổn định và bền vững kinh tế xã hội.
DVXHCB với tư cách là một cấu phần thuộc hệ thống ASXH được hiểu là hệ
thống các hoạt động đảm bảo cá nhân, tổ chức được tiếp cận các dịch vụ cơ bản,
thiết yếu như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, nhà ở, nước sạch, tiếp cận thông tin…
nhằm đảm bảo nhu cầu tối thiểu, cơ bản nhất của người dân trong từng thời kỳ
phát triển đất nước. DVXHCB đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện tình
trạng nghèo đói, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân và góp phần phát
triển kinh tế đất nước bền vững. DVXHCB còn góp phần tạo ra công bằng xã hội,
tăng cường sự gắn kết của toàn xã hội. Không những thế, DVXHCB còn đóng vai
trò trong việc làm giảm sự bất bình đẳng về thu nhập của người dân và góp phần
giúp người dân bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp.
Để DVXHCB phát huy tối đa vai trò của mình thì pháp luật được coi là
công cụ hữu hiệu nhất. Theo đó, pháp luật ASXH về DVXHCB thường bao gồm
các nội dung như: Khẳng định và đảm bảo quyền tiếp cận DVXHCB là quyền cơ
bản của con người với nội dung cụ thể của mỗi DVXHCB; trách nhiệm của nhà
nước, chủ thể cung cấp DVXHCB cùng với việc xác định nguồn tài chính chi cho
DVXHCB… Về cơ bản pháp luật ASXH về DVXHCB cũng tuân thủ theo các
nguyên tắc của pháp luật ASXH nói chung nhưng do các đặc thù riêng của
DVXHCB so với các cấu phần khác của hệ thống ASXH mà còn bị chi phối bởi
một số nguyên tắc mang tính chất đặc thù. Tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia
mà pháp luật ASXH về DVXHCB được điều chỉnh khác nhau, nhưng nhìn chung
nội dung pháp luật về lĩnh vực này thường bao gồm các nội dung như: DVXHCB
về giáo dục ; DVXHCB về chăm sóc y tế; DVXHCB về nhà ở; DVXHCB vềnước
sạch và DVXHCB về TCTT.
68
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI VỀ CÁC DỊCH VỤ XÃ
HỘI CƠ BẢN Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục và
thực tiễn thực hiện
Pháp luật về DVXHCB trong tiếp cận giáo dục cơ bản hiện hành được quy
định chủ yếu trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp, Luật Giáo dục năm 2019,
Luật Trẻ em năm 2016 và hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành.
2.1.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản
về giáo dục và thực tiễn thực hiện
Tiếp cận DVGDCB là quyền con người cơ bản, quan trọng và là tiền đề để
tiếp cận các quyền con người khác. Vì vậy, đối tượng tiếp cận DVGDCB phải
mang tính phổ quát và bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử. Điều này được
ghi nhận từ pháp luật quốc tế đến pháp luật quốc gia. Trong 17 mục tiêu Phát triển
bền vững của thế giới cho giai đoạn 2015-2030, mục tiêu số 4 được hướng tới
“đảm bảo giáo dục chất lượng, rộng mở và công bằng và nâng cao cơ hội học tập
suốt đời cho tất cả mọi người”.
Ở phạm vi quốc gia, tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam đều ghi nhận
quyền tiếp cận giáo dục và đặt quyền này ở một vị trí đặc biệt. Hiến pháp năm
2013 tại Điều 61 khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu; Ưu tiên
phát triển giáo dục ở các vùng khó khăn… Đối tượng được tiếp cận giáo dục cơ
bản ở Việt Nam là toàn thể người dân, nhà nước mong muốn, tạo điều kiện và đảm
bảo tính bao phủ trong tiếp cận giáo dục.
Nghị định số 20/2014/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 24 tháng 3 năm 2014 về
phổ cập giáo dục, xoá mù chữ quy định đối tượng phổ cập giáo dục là trẻ em từ 5
tuổi đến 18 tuổi và đối tượng xóa mù chữ là những người trong độ tuổi từ 15 đến
60 chưa biết chữ. Những quy định này thể hiện rất rõ quan điểm của Việt Nam
trong việc chú trọng phát triển giáo dục và đảm bảo quyền học tập của mọi nguời
69
dân một cách bình đẳng. Tuy nhiên, quy định này chưa phát huy hiệu quả tối đa khi
tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi tiểu học ở một số dân tộc thiểu số như dân tộc Lô Lô
chỉ đạt 76,9%, Brâu đạt 77,6%, Rơ Măm đạt 78,7%, Khmer đạt 82,6%... Về tiếp
cận giáo dục cơ bản, tỷ lệ người dân tộc thiểu số biết đọc, biết viết chưa cao và có
sự chênh lệch lớn giữa các dân tộc. Thậm chí, có một số dân tộc tỷ lệ mù chữ chiếm
tới hơn 50% như dân tộc Cơ Lao, Brâu, Hà Nhì, La Hủ…90 Do đặc thù dân cư phân
tán, điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội khó khăn nên tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số
học mẫu giáo, mầm non, đặc biệt là nhóm trẻ 3 - 5 tuổi và mẫu giáo 5 tuổi còn thấp.
Bình quân chỉ có 67,5% trẻ em người dân tộc thiểu số từ 36-59 tháng tuổi đi học
mẫu giáo, trong khi bình quân chung cả nước đạt khoảng trên 80%.91
Về cơ bản, pháp luật về DVGDCB ở Việt Nam khá tương đồng với pháp
luật của các quốc gia trên thế giới khi quy định đối tượng tiếp cận DVGDCB mang
tính phổ quát. Pháp luật Mỹ cũng đặc biệt quan tâm tới vấn đề bình đẳng trong
giáo dục. Điều này thể hiện thông qua quy định của Đạo luật Cơ hội Giáo dục
Bình đẳng năm 1974, theo đó không một tiểu bang nào được từ chối cơ hội giáo
dục bình đẳng đối với một cá nhân nào trên cơ sở chủng tộc, màu da, giới tính
hoặc nguồn gốc quốc gia.92 Ở Trung Quốc, từ năm 1986, Luật Giáo dục Bắt buộc
9 năm được ban hành, quy định các yêu cầu để đạt được một nền giáo dục phổ cập
và đảm bảo quyền của mọi trẻ em trong độ tuổi đi học.
Nhìn chung, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2017. Tính đến năm học 2020-2021 toàn bộ 63/63 tỉnh,
truy
cập
90 Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tr.35 91 Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tr.81 92Antonella Corsi-bunker, Guide to the education system in the United States https://docplayer.net/20649730-Guide-to-the-education-system-in-the-united-states.html 93 Lê Thị Mai Hoa, Phát triển giáo dục mầm non trong tình hình mới, https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/phat-trien-giao-duc-mam-non-trong-tinh-hinh-moi.html, ngày 25/8/2022
thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi93 và cơ bản đã
70
đảm bảo tất cả trẻ em trai và trẻ em gái được đi học cấp tiểu học.94 Tuy nhiên, chất
lượng giáo dục chưa cao, không đồng đều giữa các khu vực, các địa phương và
giữa các nhóm đối tượng khác nhau. Hiện tượng học sinh đã tốt nghiệp trung học
cơ sở nhưng trình độ học vấn chỉ tương đương học sinh tiểu học khá phổ biến,
nhất là khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, thực trạng trường
mầm non công lập tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và những địa phương có
đông lao động di cư tự do chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng. Theo
thống kê năm 2017 cả nước có khoảng 260 khu công nghiệp, khu chế xuất đang
hoạt động với tổng số 2,8 triệu lao động. Thế nhưng cả nước mới chỉ có 112 trường
mầm non ở các khu công nghiệp, khu chế xuất95 trong khi các cơ sở mầm non
ngoài công lập còn tồn tại nhiều bất cập. Đây cũng là tình trạng tương tự diễn ra
ở Anh khi mà chỉ một nửa số chính quyền địa phương ở Anh và xứ Wales có đủ
dịch vụ chăm sóc trẻ em cho các bậc cha mẹ làm việc toàn thời gian. 33% chính
quyền địa phương ở Anh, 40% ở Wales và 14% ở Scotland, không có đủ giáo dục
sớm cho những đứa trẻ ba và bốn tuổi để hưởng các quyền miễn phí phổ cập.96
Bên cạnh các quy định thể hiện quyền bình đẳng và cơ hội tiếp cận giáo
dục cho mọi đối tượng, pháp luật Việt Nam còn xây dựng nhiều quy định riêng về
tiếp cận DVGDCB cho người khuyết tật. Các quy định này mặc dù thể hiện sự
quan tâm đặc biệt của Nhà nước tới nhóm đối tượng yếu thế, nhưng một số quy
định vẫn tồn tại bất cập gây khó khăn cho quá trình áp dụng. Cụ thể, Luật Người
khuyết tật năm 2010 quy định việc điều chỉnh chương trình giáo dục cho trẻ khuyết
tật sẽ do Trung tâm Hỗ trợ giáo dục hoà nhập đảm nhiệm. Tuy nhiên, thực tế hiện
nay cả nước mới chỉ có 14 Trung tâm được thành lập. Mặc dù các trung tâm này
hoạt động dưới sự quản lý của ngành giáo dục nhưng chưa đủ điều kiện pháp lý
truy
cập
94 Báo cáo quốc gia năm 2020, Tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, tr.50 95Giám đốc trung tâm hỗ trợ giáo dục và nâng cao năng lực cho phụ nữ, https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/con-em-lao-dong-di-cu-hoc-o-dau-ai-lo-post186480.gd, ngày22/2/2022 96 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal Basic Services: theory and practice
trở thành cơ sở giáo dục. Vì vậy việc quản lý, vận hành, hoạt động và phát triển
71
các trung tâm hỗ trợ gặp rất nhiều khó khăn làm ảnh hưởng đến quá trình thực
hiện nhiệm vụ, chức năng của mình. Một số quy định mang tính nhân văn và
hướng đến bảo vệ quyền được học tập của người khuyết tật nhưng lại chưa khả thi
như quy định các cơ sở giáo dục bắt buộc phải tiếp nhận học sinh khuyết tật và
tạo đủ điều kiện để học sinh khuyết tật tham gia học hòa nhập. Trong khi đó, cơ
sở vật chất cho giáo dục trẻ khuyết tật còn chưa đáp ứng yêu cầu. Theo thống kê,
cứ 100 trường học thì chỉ có 03 trường có thiết kế phù hợp với người khuyết tật,
có 08 trường có lối đi chung dành cho người khuyết tật; 10 trường có nà vệ sinh
phù hợp với người khuyết tật.97 Thực tế, trẻ khuyết tật, gia đình trẻ khuyết tật vẫn
phải đối mặt với thái độ kỳ thị khi người khuyết tật đến tuổi đi học98 hoặc gặp khó
khăn trong đi lại, giao tiếp, nảy sinh tâm lý chán nản và bỏ học. Theo kết quả điều
tra của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ trẻ khuyết tật đi đúng độ tuổi ở cấp tiểu học đạt
81,69%, so với tỷ lệ trẻ bình thường là 96,05%.99 Phần lớn trẻ khuyết tật đi học là
trẻ khuyết tật nhẹ do nhà trường thiếu trang thiết bị, dụng cụ tài liệu trợ giảng
chuyên biệt như phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi để đáp ứng được việc dạy
hòa nhập cho học viên là người điếc hoặc khiếm thính, người khiếm thị hoặc mù
hay người có chứng tự kỷ.100 Đây cũng là một trong những rào cản lớn ảnh hưởng
đến việc tiếp cận giáo dục cơ bản của trẻ khuyết tật nặng.
2.1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về giáo
dục và thực tiễn thực hiện
Tùy thuộc vào quan điểm mỗi quốc gia cũng như điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia theo từng giai đoạn mà nội dung DVXHCB về giáo
dục được quy định khác nhau. Thông thường, nội dung DVXHCB về giáo dục
97 Tổng cục Thống kê (2016), Điều tra Quốc gia người khuyết tật năm 2016 (VDS2016), Báo cáo cuối cùng, tr.19 98 Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam (2020), Báo cáo độc lập về tình hình thực thi công ước của LHQ về quyền của Người khuyết tật tại Việt Nam 99 Tổng cục Thống kê (2016), Điều tra Quốc gia người khuyết tật năm 2016 (VDS2016) – Báo cáo cuối cùng. 100 Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iSEE), “Xóa bỏ kỳ thị-quan điểm và đánh giá của người khuyết tật”, Nxb. Tri thức, 2017.
được quy định dựa trên số năm giáo dục bắt buộc, phổ cập giáo dục và xóa mù
72
chữ. Hiện nay, rất nhiều quốc gia khác quy định giáo dục bắt buộc 9 năm như:
Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Tây Ban Nha… Hoặc giáo dục bắt buộc 11 năm
như: Anh, Liên Bang Nga, Scotland…
Ở Việt Nam, DVXHCB về giáo dục bao gồm các nội dung về xoá mù chữ
cho người từ 15 đến 60 tuổi chưa biết chữ, giáo dục bắt buộc và phổ cập giáo dục.
Cụ thể, Luật Giáo dục năm 2009 và Luật Giáo dục 2019 đều quy định giáo dục
bắt buộc cấp tiểu học, phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi và cấp trung học cơ sở.
Có thể thấy, số năm giáo dục bắt buộc của Việt Nam khá thấp so với các quốc gia
trên thế giới, kể cả các nước trong khu vực Châu Á. Hay nói cách khác, nội dung
DVXHCB về giáo dục ở Việt Nam được quy định hẹp hơn so với nhiều quốc gia
trên thế giới. Điều này phần nào làm hạn chế cơ hội tiếp cận mức độ giáo dục cơ
bản của người dân nói chung và trẻ em nói riêng. Bởi vai trò, tính chất của giáo
dục bắt buộc và phổ cập giáo dục là khác nhau. Giáo dục bắt buộc có nghĩa là
pháp luật quy định mọi người dân trong độ tuổi bắt buộc phải đi học, bản thân gia
đình và người học nếu có điều kiện mà không đi học thì sẽ bị xử phạt vi phạm.
Trường hợp người học không có đủ điều kiện đi học thì sẽ được nhà nước hỗ trợ
một phần hoặc toàn bộ để hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc. Còn phổ
cập giáo dục chỉ dừng lại ở mức độ vận động, khuyến khích người học đi học,
không có chế tài xử phạt nếu người dân không hoàn thành phổ cập giáo dục.
2.1.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản
về giáo dục và thực tiễn thực hiện
Giáo dục là một dịch vụ công do nhà nước cung cấp cho người dân qua các
tổ chức nhà nước hay qua việc hỗ trợ tài chính cho các nhà cung cấp dịch vụ tư
nhân và giáo dục được coi là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia
trên con đường phát triển. Luật Giáo dục năm 2009 và Luật Giáo dục 2019 quy
định miễn học phí đối với học sinh tiểu học trường công lập; trẻ em mầm non 05
tuổi ở thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, ở địa bàn không đủ trường công lập. Học
73
sinh tiểu học trường tư thục được hỗ trợ tiền đóng học phí. Như vậy, ở Việt Nam,
chủ thể cung cấp DVGDCB là nhà nước thông qua hệ thống các trường công lập.
Theo đó, nếu trẻ theo học ở các trường công lập sẽ được miễn học phí trong những
năm giáo dục bắt buộc và được hỗ trợ học phí trong những năm phổ cập giáo dục.
Quy định về chủ thể cung cấp DVGDCB ở Việt Nam cũng tương đồng với quy
định của các quốc gia khác. Chẳng hạn, Ở Trung Quốc, Mỹ,… nhà nước cũng là
chủ thể cung cấp giáo dục bắt buộc thông qua hệ thống các trường công lập. Mỹ
quy định giáo dục bắt buộc cho trẻ em từ 5 hoặc 6 tuổi đến 16, 17 hoặc 18 tuổi tùy
thuộc vào quy định ở mỗi Bang và được miễn phí khi học ở các trường công lập.101
Theo Luật giáo dục bắt buộc 9 năm của Trung Quốc thì tất cả trẻ em trong độ tuổi
đi học có quốc tịch Trung Quốc đều có quyền được giáo dục bắt buộc tại các
trường công lập, phụ huynh có trách nhiệm ghi danh cho con em mình đi học và
đảm bảo chúng học xong 9 năm học bắt buộc.
Việc quy định Nhà nước là chủ thể cung cấp DVGDCB thông qua hệ thống
trường công lập cũng tạo ra sự rào cản nhất định đối với người di dân. Bởi theo
quy định hiện hành, điều kiện quan trọng nhất để trẻ nhập học ở các trường công
lập là có hộ khẩu thường trú hoặc sổ tạm trú dài hạn. Nếu không có hộ khẩu, trẻ
được xem ở diện trái tuyến và chỉ được nhận học nếu lớp học còn chỗ, đóng tiền
trái tuyến, hoặc phải đóng học phí cao hơn. Trong khi đó, Luật Cư trú năm 2020
không còn quy định về hộ khẩu nên gây ra mâu thuẫn, chưa có sự tương thích
trong hệ thống pháp luật. Theo ông Khưu Mạnh Hùng - trưởng phòng Giáo dục-
Đào tạo quận 12, TP. HCM thì năm 2021, có khoảng hơn 1000 trẻ trên địa bàn
quận không được nhận vào học tại trường công lập. Lý do là vì các trường công
lập ưu tiên trẻ có hộ khẩu thường trú trước, sau đó nếu còn chỉ tiêu thì mới xét đến
101 Antonella Corsi-bunker, Guide to the education system in the United States https://docplayer.net/20649730-Guide-to-the-education-system-in-the-united-states.html 102 Nguyễn Loan, Không có sổ hộ khẩu, tạm trú không đủ 1 năm có được vào lớp 1?” https://thanhnien.vn/khong-co-so-ho-khau-tam-tru-khong-du-1-nam-co-duoc-vao-lop-1-post1088409.html, truy cập ngày 1/10/2022
diện tạm trú dài hạn.102 Như vậy, nếu trẻ không có hộ khẩu thường trú thì trẻ có
74
thể không được nhận vào học trường công lập và phải chuyển về học tại nơi có hộ
khẩu hoặc học tại trường ngoài công lập. Điều này vô hình chung trở thành gánh
nặng tài chính cho cha mẹ của trẻ bởi học phí trường ngoài công lập thường cao
hơn trường công lập một hoặc gây khó khăn cho trẻ khi phải sống xa cha mẹ nếu
học ở nơi có hộ khẩu thường trú.
2.1.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ xã
hội cơ bản về giáo dục và thực tiễn thực hiện
Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục đào tạo là
đầu tư cho phát triển đất nước được hiện thực hoá từ rất sớm, xuyên suốt các văn
kiện của Đảng. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư kinh phí cho
giáo dục, thực hiện đa dạng các nguồn đầu tư giáo dục phù hợp với cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.103
Luật Giáo dục năm 2019 quy định nhà nước ưu tiên hàng đầu cho việc bố
trí ngân sách giáo dục, bảo đảm NSNN chi cho giáo dục, đào tạo tối thiểu là 20%
tổng chi NSNN (Điều 96). Cũng theo quy định của luật này, nguồn tài chính đầu
tư cho giáo dục bao gồm: (1) NSNN; (2) Nguồn vốn đầu tư hợp pháp; (3) Nguồn
thu liên quan tới dịch vụ giáo dục, đào tạo; (4) Kinh phí đặt hàng, giao nhiệm vụ
của Nhà nước; (5) Nguồn vốn vay; (6) Nguồn tài trợ, viện trợ, tặng cho.104 Nhìn
chung, mức chi cho giáo dục ở Việt Nam là một nỗ lực rất lớn từ phía nhà nước.
So với mức chi cho giáo dục tính trên GDP của một số quốc gia trong khu vực
như Thái Lan với 3,8%, Malaysia 5,1% thì mức chi của Việt Nam được đánh giá
là khá cao. Năm 2017 và 2018, Việt Nam đứng đầu về chi tiêu cho giáo dục trong
số các quốc gia ASEAN.105 Tuy nhiên, quy định về nguồn tài chính đầu tư cho
103 Nghị quyết 04-NQ/HNTW Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo; Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương, khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục 104 Điều 95 Luật Giáo dục năm 2019 105 Theo Đại biểu Quốc Hội Nguyễn Thị Mai Hoa https://baoquocte.vn/ngan-sach-cho-giao-duc-con-nhieu-bat-cap-81691.html
giáo dục vẫn tồn tại những hạn chế nhất định như:
75
Thứ nhất, quy định về cơ cấu chi chưa hợp lý dẫn đến hiệu quả chi chưa đạt
được kết quả mong đợi. Hiện nay, tỷ lệ chi thường xuyên chiếm khoảng 82% tổng
chi NSNN cho giáo dục, chi đầu tư xây dựng cơ bản rất thấp dẫn đến tình trạng cơ
sở vật chất các trường học của Việt Nam chưa đảm bảo như diện tích trường nhỏ,
thiếu phòng học, phòng thí nghiệm, phòng thể chất… Không những thế, quy định
về phân bổ ngân sách giáo dục đào tạo dựa trên dân số độ tuổi đi học căn cứ vào
hộ khẩu chưa hợp lý và không hiệu quả khi áp dụng. Bởi lẽ, xu hướng di cư từ
nông thôn ra thành thị ngày càng phổ biến. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê
về Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, thì tỷ lệ di cư ở Việt Nam chiếm 7,3%
dân số, trong đó độ tuổi di cư từ 20-39 chiếm tỷ lệ lớn. Như vậy nếu ngân sách
đầu tư cho giáo dục đào tạo được phân bổ theo cách này thì có thể dẫn tới tình
trạng nguồn tài chính đầu tư được phân bổ không bình đẳng và vô hình chung tạo
sức ép cho các thành phố lớn.
Thứ hai, quy định “bảo đảm NSNN chi cho giáo dục, đào tạo tối thiểu là
20% tổng chi NSNN” chưa có hướng dẫn cụ thể dẫn tới cách hiểu và vận dụng
khác nhau giữa các địa phương. Thực tế, có địa phương dành trên 20% ngân sách
địa phương chi cho giáo dục đào tạo nhưng có những địa phương có nguồn lực
lớn, là thành phố trực thuộc trung ương nhưng lại không thể chi hết 20% ngân
sách địa phương theo quy định.106
So sánh với pháp luật một số quốc gia cho thấy, pháp luật các nước quy
định nhiều ưu đãi hơn cho người học so với pháp luật Việt Nam. Luật giáo dục
bắt buộc 09 năm ở Trung Quốc cho phép tất cả học sinh trong chương trình giáo
dục bắt buộc được miễn học phí và các khoản phí khác. Sách giáo khoa chỉ có thể
được định giá ở mức lợi nhuận cận biên.107 Chi phí thực hiện giáo dục bắt buộc từ
NSNN và ngân sách cho các quỹ giáo dục được chính phủ quản lý. Quỹ này được
106 Nguyễn Vũ Việt (2020), Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực chi NSNN cho giáo dục ở Việt Nam, đề tài cấp nhà nước, Học viện Tài chính, mã số KHGD/16-20. ĐT. 023 107 OECD (2015), Education in China- a snapshot
phân bổ từ các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp do nhà nước quản lý, nguồn
76
thu giáo dục từ các doanh nghiệp tại trường và doanh thu dịch vụ xã hội của họ.108
Mỹ cũng dành khoản ngân sách lớn cho giáo dục bắt buộc, trong đó chính phủ liên
bang chỉ đóng góp gần 10% vào ngân sách giáo dục quốc gia, còn lại do chính
quyền tiểu bang và địa phương chịu trách nhiệm.109 Học sinh ở Mỹ không chỉ
được miễn học phí mà còn được NSNN hỗ trợ sách giáo khoa, dịch vụ đưa đón,
chi phí ăn trưa và các chi phí khác. Trong khi đó, Việt Nam hiện nay mới chỉ miễn
học phí cấp tiểu học. Mặc dù trong một vài năm trở lại đây, một số tỉnh, thành phố
đã thực hiện chính sách miễn giảm học phí cho học sinh nhưng chính sách này
hiện mới chỉ được thực hiện ở một số ít địa phương. Điển hình như thành phố Hải
Phòng đã bắt đầu hỗ trợ 100% học phí cho trẻ mầm non đang thực học tại các cơ
sở giáo dục mầm non được thành lập, cấp phép hoạt động (cả công lập và tư thục).
Đối với học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông và bổ túc, ngân sách thành
phố Hải Phòng dự kiến hỗ trợ miễn học phí với khoảng hơn 300 tỉ đồng/năm.
Tương tự như Hải Phòng, từ năm 2019, TP. HCM thực hiện chính sách giảm học
phí 40.000 - 55.000 đồng/tháng đối với học sinh trung học cơ sở và bổ túc trung
học cơ sở tại các trường công lập.110
Bên cạnh NSNN, các nguồn lực tài chính phục vụ cho cung cấp các dịch vụ
giáo dục bao gồm: (i) Nguồn tài chính huy động nguồn lực của các ngành, các
cấp, các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân; (ii) Học phí.111 Mặc dù nhà nước đã
có chủ trương xã hội hoá hoạt động giáo dục nhưng thực tế hoạt động đầu tư của
khu vực tư nhân vào lĩnh vực này chưa đạt hiệu quả cao. Một trong những nguyên
nhân là pháp luật chưa có quy định chính sách ưu đãi cần thiết cho nhà đầu tư như
ưu đãi về giao đất, cho thuê đất hoặc cho thuê cơ sở vật chất, các chính sách ưu
108 China’s education spending for 2019, Nguồn: www.moe.gov.cn, truy cập ngày 14/6/2020 109Antonella Corsi-bunker , Guide to the education system in the United States https://isss.umn.edu/publications/USEducation/2.pdf 110 Đặng Chung, Các tỉnh miễn giảm, Hà Nội lại liên tục tăng học phí https://laodong.vn/xa-hoi/cac-tinh-mien- giam-ha-noi-lai-lien-tuc-tang-hoc-phi-771045.ldo, truy cập ngày 10/12/2019 111 Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao
đãi về tín dụng. Do vậy, các nhà đầu tư phải tự bỏ khoản vốn lớn để thuê hoặc
77
mua cơ sở vật chất, trang thiết bị để vận hành và học phí chính là nguồn bù đắp
cho các khoản đầu tư này. Điều này kéo theo mức học phí các trường dân lập được
tính ở mức cao và vô hình chung làm cản trở việc tiếp cận giáo dục của một bộ
phận người dân không thể hoặc khó tiếp cận dịch vụ giáo dục công lập.
2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về chăm sóc y tế
và thực tiễn thực hiện
Tương tự DVXHCB về giáo dục, DVXHCB về chăm sóc y tế cũng được thể
hiện ở hai nội dung chính là đảm bảo tiếp cận dịch vụ y tế bình đẳng với mọi đối
tượng dân chúng và cung cấp các dịch vụ y tế theo mức cơ bản mà quốc gia xác
định theo từng giai đoạn cụ thể của sự phát triển. Hiện nay, pháp luật về chăm sóc
YTCB ở Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như
Hiến pháp, Luật BHYT năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014, Luật Khám bệnh,
chữa bệnh năm 2009 và hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn.
2.2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản
về chăm sóc y tế và thực tiễn thực hiện
Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 đã ghi nhận khá đầy đủ và chính thức
quyền được chăm sóc sức khỏe của công dân, thể hiện tính phổ quát trong đối
tượng tiếp cận dịch vụ chăm sóc YTCB. Theo đó, mọi người đều có quyền được
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế.112
Luật BHYT năm 2008, Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 ra đời tạo
hành lang pháp lý khá vững chắc và là một bước ngoặt lớn cho công tác chăm sóc
y tế đối với nhân dân. Pháp luật về đảm bảo quyền chăm sóc YTCB cũng chính là
pháp luật về khám chữa bệnh và BHYT, là những quy định cơ bản góp phần đảm
bảo ASXH. Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 tại Khoản 1 Điều 3 và Luật
Khám chữa bệnh năm 2023 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2024) ghi nhận sự
bình đẳng, công bằng và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người bệnh. Thông
112 Khoản 1 Điều 38 Hiến pháp 2013
tư số 39/2017/TT-BYT cũng ghi nhận một cách “gián tiếp” đối tượng được hưởng
78
gói dịch vụ y tế cơ bản là “mọi người dân” tại Điều 1 về phạm vi và đối tượng áp
dụng. Thêm vào đó, Luật sửa đổi, bổ sung Luật BHYT năm 2014 đã chính thức
xóa bỏ hình thức BHYT tự nguyện, chỉ ghi nhận hình thức BHYT bắt buộc và
hướng tới BHYT phổ quát. Luật BHYT sửa đổi năm 2014 và Nghị định số
146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật BHYT đã quy định đối tượng tham gia BHYT gồm 6 nhóm: (i)
Nhóm do NLĐ và người sử dụng lao động đóng; (ii) Nhóm do cơ quan BHXH
đóng; (iii) Nhóm do NSNN đóng chủ yếu là những đối tượng chính sách; (iv)
Nhóm do NSNN hỗ trợ mức đóng; (v) Nhóm tham gia BHYT theo hộ gia đình;
(vi) Nhóm do người sử dụng lao động đóng.113
Về cơ bản đối tượng tham gia BHYT hiện nay được quy định mang tính bao
phủ hầu hết các thành viên xã hội nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu BHYT toàn
dân. Thực tế đã chứng minh, ưu điểm lớn nhất khi tham gia BHYT đó chính là
gánh nặng tài chính trước rủi ro sức khỏe được san sẻ một cách đáng kể. Hơn thế,
đây có thể coi là tấm “lưới đỡ” an toàn để người tham gia BHYT có cơ hội được
tiếp cận chăm sóc YTCB. Tính đến năm 2022, số lượng người tham gia BHYT
chiếm 92,6% dân số.114
Tuy nhiên, quy định về đối tượng tiếp cận chăm sóc YTCB trong hệ thống
pháp luật còn tồn tại những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng đến quyền tiếp cận
chăm sóc YTCB của người dân và việc thực hiện chưa đạt hiệu quả cao như:
Một là, Luật Khám bệnh, chữa bệnh và Thông tư số 39/2017/TT-BYT chưa
có quy định trực tiếp và rõ ràng về đối tượng được tiếp cận chăm sóc YTCB. Đối
tượng tiếp cận chăm sóc YTCB thường được thể hiện trong các Chương trình mục
tiêu quốc gia cụ thể đối với từng loại dịch vụ. Chẳng hạn, Chương trình tiêm chủng
113 Xem thêm Điều 12 Văn bản hợp nhất Luật Bảo hiểm y tế số 28/VBHN-VPQH ngày 7 tháng 12 năm 2020 và Điều 1, 2, 3, 4, 5, 6 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP 114 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị trung ương 5 Khoá XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
mở rộng quốc gia ghi nhận đối tượng được tiếp cận là tất cả trẻ em từ 0-10 tuổi.
79
Hoặc Chương trình quốc gia về sức khỏe sinh sản, bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em
giai đoạn 2021-2025 có đối tượng tiếp cận là “bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ”…
Hai là, quy định nhóm tham gia BHYT do NLĐ và người sử dụng lao động
đóng chưa có sự phân biệt NLĐ là người nước ngoài và NLĐ trong nước. Trong
khi, lao động là người nước ngoài có thể thuộc nhiều diện khác nhau: người nước
ngoài hưởng lương ở nước ngoài và làm việc tại VN, người nước ngoài làm việc
ở VN có những cam kết về BHYT, chăm sóc sức khoẻ trong các Điều ước quốc
tế, cam kết thoả thuận quốc gia.... Bên cạnh đó, nhóm người nước ngoài đang sinh
sống tại Việt Nam kết hôn với người Việt Nam, trẻ em là người nước ngoài, có
quốc tịch nước ngoài ở Việt Nam cũng chưa có hướng dẫn cụ thể gây lúng túng
trong quá trình thực hiện.
Ba là, nhóm đối tượng nhiễm HIV/AIDS chưa được đề cập cụ thể trong quy
định về đối tượng tham gia BHYT trong khi hiện nay thuốc điều trị HIV/AIDS
được BHYT thanh toán thay vì do NSNN chi trả như trước đây.115
Bốn là, Luật BHYT còn “bỏ sót” nhóm người mắc các bệnh đặc biệt như
bệnh phong, bệnh lao hay người khuyết tật nhẹ. Những nhóm đối tượng này gặp
nhiều khó khăn trong điều trị, thường có điều kiện kinh tế khó khăn và rất cần
được hỗ trợ tiếp cận chăm sóc YTCB.
Năm là, nhóm NLĐ nhập cư, tái nhập cư, lao động là người Việt Nam quay
trở lại Việt Nam từ Lào, Camphuchia, Trung Quốc và sống ở vùng biên giới chưa
được quy định thuộc nhóm nào trong đối tượng tham gia BHYT. Nhóm đối tượng
này không có hộ khẩu ở Việt Nam nên chưa được tham gia BHYT theo hộ gia
đình.
Sáu là, quy định về nhóm đối tượng tham gia BHYT theo hộ gia đình chưa
tương thích với quy định của Luật Cư trú năm 2020. Nhóm tham gia BHYT theo
115 Thông tư số 27/2018/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 26 tháng 10 năm 2018 hướng dẫn thực hiện BHYT và khám chữa bệnh BHYT liên quan đến HIV/AIDS
hộ gia đình được xác định dựa trên sổ hộ khẩu, sổ tạm trú nhưng Luật Cư trú năm
80
2020 không còn quy định về sổ hộ khẩu, sổ tạm trú nên việc xác định đối tượng
tham gia BHYT theo nhóm này sẽ gặp những vướng mắc nhất định trên thực tế và
thể hiện sự không đồng nhất trong hệ thống pháp luật.
Bảy là, nhóm người cao tuổi. Điều 12 Luật BHYT sửa đổi bổ sung năm
2014 quy định người cao tuổi đủ điều kiện hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng được
nhà nước đóng BHYT. Người cao tuổi đang hưởng lương hưu, người cao tuổi từ
đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng chế độ tuất hàng tháng được tổ chức BHXH đóng
BHYT. Như vậy, nhóm người cao tuổi từ 60-79 tuổi không thuộc diện hưởng trợ
cấp xã hội hàng tháng, không có lương hưu, không hưởng chế độ tuất hàng tháng
phải tự tham gia BHYT. Quy định này vô hình chung đang “bỏ lọt” nhóm đối
tượng có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cao bởi theo thống kê trung bình một người
cao tuổi mắc 3 bệnh mãn tính và có 14 năm sống chung với bệnh tật.116 Hơn nữa,
nhóm người cao tuổi chưa có thẻ BHYT chủ yếu tập trung ở nhóm 60-79 nêu
trên.117
Thực tiễn thực hiện quy định đối tượng tiếp cận DVXHCB về chăm sóc y
tế cho người khuyết tật chưa đạt hiệu quả cao do chất lượng dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ, khám chữa bệnh còn hạn chế. Điều này xuất phát từ nguyên nhân số lượng
trạm y tế cấp xã thực hiện phục hồi chức năng cho người khuyết tật chỉ chiếm
57,3%, cả nước chỉ có 12,6% cán bộ, nhân viên trạm y tế cấp xã được đào tạo về
phục hồi chức năng cho người khuyết tật.118 Mặc dù đã có 10.000/11.000 xã trên
cả nước đã có phân công cán bộ y tế chuyên trách về phục hồi chức năng nhưng
chỉ có khoảng 50% trong số này được đào tạo và có kiến thức, kỹ năng về phục
116 Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội Khoá 13 (2015), Già hoá dân số và chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng ở Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, 2015, tr.13 117 Nỗ lực đảm bảo 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế https://soyte.hanoi.gov.vn/chuong-trinh-y-te/- /asset_publisher/4IVkx5Jltnbg/content/no-luc-am, truy cập ngày 15/7/2022 118 Tổng cục Thống kê (2018), Báo cáo quốc gia về người khuyết tật 2016, Nxb. Thống kê, tr.158, 160 119 Đỗ Thị Dung, Quyền bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của người khuyết tật trong Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật 2006 và việc nội luật hoá trong pháp luật Việt Nam, chuyên đề đề tài cấp khoa học cấp cơ sở “Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật (2006) và vấn đề nội luật hoá trong pháp luật Việt Nam, chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Hiền Phương, Đại học Luật Hà Nội, 2020.
hồi chức năng và phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng.119 Theo thống kê, số
81
trạm y tế có thiết kế phù hợp với người khuyết tật chỉ chiếm 16,9%. Trong số đó,
chỉ có 22,4% trạm y tế có công trình vệ sinh thiết kế phù hợp để người khuyết tật
có thể dễ dàng sử dụng.120
Không những thế, tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số dưới 01 tuổi tử vong còn
cao, tỷ lệ phụ nữ mang thai được thăm, khám trong thai kỳ chưa cao, tỷ lệ phụ nữ
sinh con tại nhà và tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dân tộc thiểu số còn chiếm tỷ lệ
cao. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là đội ngũ y bác sĩ, cán
bộ y tế ở Việt Nam chưa đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Bằng chứng là tỷ
lệ bác sĩ ở Việt Nam tính trên 01 vạn dân còn thấp, mới đạt 10 bác sĩ/1 vạn dân
tính đến năm 2022121, thiếu cán thiếu cán bộ y tế có chuyên môn sâu, cán bộ người
địa phương; cơ sở vật chất y tế ở những vùng nghèo, nhất là vùng dân tộc thiểu
số, miền núi còn thiếu, chưa đồng bộ (tính đến tháng 07/2018, mới có 9.821 trạm
y tế xã đủ điều kiện khám, chữa bệnh BHYT); tại 01 số tỉnh có tỷ lệ bác sĩ/trạm y
tế rất thấp như Lai Châu 15,9%, Lào Cai 28,6%, Điện Biên 33,9%, Khánh Hòa
23,5%...; trong tổng số 26.557 nhân viên y tế trạm y tế xã thì có 12,3% là bác sỹ,
số còn lại là y tá, điều dưỡng, nữ hộ sinh.
2.2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về chăm
sóc y tế và thực tiễn thực hiện
DVXHCB về chăm sóc y tế được cung cấp ở Việt Nam bao gồm gói dịch
vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khoẻ và gói dịch vụ y
tế cơ bản do quỹ bảo hiểm y tế chi trả được quy định tại Thông tư số 39/2017/TT-
BYT.
Thứ nhất, gói dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng và nâng cao
sức khỏe. Gói này được quy định bao gồm 17 dịch vụ, bao gồm: tư vấn, truyền
120 Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam (2020), Báo cáo độc lập về tình hình thực thi công ước của LHQ về quyền của Người khuyết tật tại Việt Nam 121 Bộ Y tế (2022), Báo cáo nâng cao công tác chăm sóc sức khoẻ Nhân dân; chủ động thích ứng linh hoạt, góp phần phục hồi nhanh, phát triển bền vững, Tài liệu Hội nghị ngày 21/8/2022
thông, giáo dục, nâng cao sức khỏe; tiêm chủng; khám, quản lý sức khỏe cá nhân;
82
giám sát và phòng chống các bệnh, dịch truyền nhiễm; chăm sóc sức khỏe bà mẹ
trẻ em và kế hoạch hóa gia đình; tư vấn, truyền thông dinh dưỡng và an toàn thực
phẩm; giáo dục, truyền thông và vận động nhân dân sử dụng nước sạch, bảo đảm
vệ sinh môi trường, sử dụng nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh...; giám sát và phòng
chống các bệnh không lây nhiễm; kiểm soát các yếu tố nguy cơ có hại cho sức
khỏe; bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng; y tế học đường; bảo đảm máu an toàn
và phòng, chống các bệnh về máu; Quản lý sức khỏe các đối tượng ưu tiên; phục
hồi chức năng cho người khuyết tật tại cộng đồng; chăm sóc sức khỏe tại nhà, bao
gồm phục hồi chức năng, vật lý trị liệu, phòng chống ung thư; khám sàng lọc, phát
hiện các bệnh tật cho nhóm nguy cơ cao cho cộng đồng; Cung cấp thuốc thiết yếu.
Khi người dân sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dự phòng và nâng cao sức
khoẻ tại cơ sở y tế địa phương được NSNN bảo đảm kinh phí.122
Nhìn chung, gói dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dự phòng và nâng cao
sức khỏe đã bao gồm khá nhiều dịch vụ mang tính thiết yếu, đáp ứng phần lớn nhu
cầu chăm sóc sức khoẻ cơ bản của người dân. Tuy nhiên, gói dịch vụ này vẫn thiếu
vắng một số dịch vụ cũng được cho là rất cần thiết, có vai trò quan trọng đối với
chất lượng dân số. Đó là dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tình dục, chăm sóc sức khoẻ
sinh sản cho đối tượng vị thành niên, thanh niên. Hiện nay, tỷ lệ dân số ở đội tuổi
vị thành niên, thanh niên chiếm tỷ lệ không nhỏ với khoảng 23,8% dân số của
nước, tương đương 22.898.886 người vào năm 2019.123 Vấn đề chăm sóc sức khoẻ
tình dục, chăm sóc sức khoẻ sinh sản sẽ giúp cho nhóm đối tượng này có những
kiến thức cơ bản về tình dục an toàn, về sức khoẻ sinh sản, từ đó đảm bảo vấn đề
sức khoẻ và nâng cao chất lượng dân số. Thứ hai, gói dịch vụ y tế cơ bản do quỹ
bảo hiểm y tế chi trả. Khi tham gia BHYT, người tham gia được hưởng một số chi
122 Điều 4, Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 39/2017/TT-BYT của Bộ Y tế 123 Nguyễn Tuấn Anh (2020), Dân số trong độ tuổi thanh niên ở Việt Nam – Những vấn đề đặt ra, https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/12/22/dan-so-trong-do-tuoi-thanh-nien-o-viet-nam-nhung-van-de-dat- ra/, truy cập ngày 10/9/2022
phí như: chi phí khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ,
83
sinh con (bao gồm các chi phí thuốc, hoá chất, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật y tế);
Chi phí vận chuyển người bệnh (vận chuyển người bệnh từ tuyến dưới lên tuyến
trên trong một số trường hợp). Người tham gia BHYT khi đi khám bệnh, chữa
bệnh sẽ được quỹ BHYT thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh ở mức 100%,
95%, 80% tùy từng đối tượng.124
Nhìn chung, gói dịch vụ y tế cơ bản do quỹ BHYT chi trả vẫn chưa bao
quát một số chi phí như: chi phí dự phòng y tế, quản lý sức khoẻ, khám sàng lọc
và chẩn đoán sớm một số bệnh, nhóm bệnh, chi phí cho một số sản phẩm đặc trị
điều trị suy dinh dưỡng, rối loạn chuyển hoá bẩm sinh cho trẻ em dưới 6 tuổi. Hơn
nữa, một số dịch vụ chưa nằm trong phạm vi thanh toán BHYT, tạo nên sự hạn
chế trong quy định của luật như:
Một là, dịch vụ khám, tư vấn dinh dưỡng, điều trị suy dinh dưỡng cấp tính
cho trẻ em dưới 6 tuổi và một số sản phẩm đặc hiệu không phải là thuốc để điều
trị trẻ em dưới 6 tuổi bị suy dinh dưỡng, rối loạn chuyển hoá bẩm sinh đòi hỏi phải
sử dụng. Đây là một dịch vụ y tế cơ bản và thiết yếu trong bối cảnh tỉ lệ trẻ em
dưới 6 tuổi bị suy dinh dưỡng ở Việt Nam vẫn còn khá cao và tốn kém chi phí chữa
trị, tập trung nhiều ở nhóm đối tượng có hoàn cảnh kinh tế khó khăn song suy dinh
dưỡng lại chưa được coi là một loại bệnh cần được quan tâm đúng mức và được
BHYT thanh toán. Theo GS.TS Nguyễn Gia Khánh, Chủ tịch Hội Nhi Khoa Việt
Nam cho biết năm 2016, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng là 24.3%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5
tuổi ở Việt Nam bị thấp còi là 30% (khoảng 2,5 triệu trẻ) là những con số đáng
báo động cần sự hỗ trợ khắc phục của BHYT vì tương lai phát triển quốc gia.
Hai là, chi phí xét nghiệm, chẩn đoán thai không nhằm mục đích điều trị.
Việc xét nghiệm, chẩn đoán thai như: dịch vụ xét nghiệm, chẩn đoán thai nhi để
khám sàng lọc trẻ sơ sinh, kiểm tra sức khỏe thai nhi, nếu phát hiện thai nhi bị dị
124 Điều 14 Nghị định 146/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17 tháng 10 năm 2018 quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật BHYT
tật bẩm sinh thì có thể kịp thời đưa ra các biện pháp chữa trị thích hợp. Dịch vụ
84
này góp phần quan trọng trong việc giảm chi phí y tế sau khi sinh, nâng cao chất
lượng dân số, giảm gánh nặng cho xã hội và gia đình trẻ;
Ba là, phạm vi hưởng BHYT còn giới hạn một số dụng cụ chỉnh hình cho
người khuyết tật như chân tay giả, máy trợ thính, phương tiện giúp vận động trong
khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng; các dịch vụ can thiệp tâm lý cho
người khuyết tật trí tuệ, thần kinh.
2.2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản
về chăm sóc y tế và thực tiễn thực hiện
Chủ thể cung cấp dịch vụ chăm sóc YTCB ở Việt Nam hiện nay là hệ thống
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thành lập theo quy định của pháp luật và thuộc
một trong các hình thức tổ chức như: Bệnh viện; bệnh xá thuộc lực lượng công an
nhân dân; phòng khám đa khoa; phòng khám chuyên khoa; cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh y học gia đình; Nhà hộ sinh; Cơ sở y tế....125.
Đối với gói dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng và nâng cao sức
khỏe, gói này do hệ thống trung tâm y tế quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(trung tâm y tế huyện) và các trạm y tế xã, phường, thị trấn cung cấp. Thực tế cho
thấy, hệ thống y tế tuyến cơ sở đã phát huy được vai trò, vị trí trong công tác quản
lý, chăm sóc sức khoẻ người dân ngay tại cộng đồng như: thực hiện khám chữa
một số bệnh thông thường, triển khai hoạt động y tế- dân số, tiêm chủng mở rộng,
phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, phòng chống một số bệnh truyền nhiễm…
Tuyến y tế cơ sở đã thực hiện được khoảng 50-60% các dịch vụ theo phân tuyến,
theo gói dịch vụ y tế cơ bản.126 Tỷ lệ tiêm phòng đầy đủ và tỷ lệ phụ nữ được cán
bộ y tế đỡ đẻ đạt trên 90%.127 Bên cạnh những kết quả tích cực, thực tiễn thực hiện
125 Khoản 3 Điều 11Nghị định 155/2018/NĐ-CP ngày 12/11/2018 sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế 126 Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020. 127 Ngân hàng thế giới, Tổ chức Y tế thế giới, UNICEF và JICA, Hướng tới bao phủ, chăm sóc sức khoẻ toàn dân Việt Nam
quy định về dịch vụ chăm sóc YTCB vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Tỷ lệ
85
trẻ em được tiêm chủng đầy đủ luôn duy trì mức trên 90% nhưng không đồng đều
giữa các vùng, chẳng hạn năm 2019, vùng Đông Nam Bộ tỷ lệ trẻ em tiêm chủng
đầy đủ là 89,6% trong khi vùng Đồng Bằng sông Hồng đạt tới 96,8%.128 Hệ quả
là những trẻ em này trở thành đối tượng nhạy cảm với dịch bệnh và cũng là nơi ổ
dịch tiếp tục duy trì nguồn bệnh và khi dịch bệnh bùng phát sẽ ảnh hưởng đến sức
khoẻ chính bản thân những trẻ đó và là nguồn lây nhiễm cho cộng đồng. Tỷ lệ
khám thai của phụ nữ dân tộc thiểu số còn quá thấp như dân tộc La Hủ khám thai
ít nhất 3 lần trong thai kỳ chỉ đạt 9,1%, Hà Nhì với 25,4%, Si La: 25,5%, La Ha:
31,9%, Mảng: 34,9%, Mông: 36,5%.129 Tỷ lệ sinh con tại cơ sở y tế của phụ nữ
dân tộc thiểu số chỉ chiếm 16%, quá thấp so với tỷ lệ 94% của cả nước. Tương tự,
tỷ lệ các ca đẻ có sự hỗ trợ của cán bộ y tế có trình độ chuyên môn của phụ nữ dân
tộc thiểu số chiếm 41% so với tỷ lệ chung trên cả nước là 94%. Nhiều phụ nữ dân
tộc thiểu số muốn sinh con tại nhà nhưng nhân viên y tế của các trạm y tế không
cung cấp dịch vụ hỗ trợ sinh đẻ tại nhà, trừ trường hợp có tai biến hoặc cấp cứu.130
Với việc hạn chế tiếp cận chăm sóc YTCB, tình trạng tử vong trẻ em dân tộc thiểu
số dưới 1 tuổi thực sự đáng báo động. Đặc biệt các dân tộc thiểu số như La Hủ,
Lự, Mảng, Si La, Rơ Măm, và Cơ Lao, tỷ lệ tử vong trẻ dưới 1 tuổi trên 40‰ và
trẻ dưới 5 tuổi trên 60‰ (cao gấp 2,5 lần mức bình quân của các dân tộc thiểu số
nói chung và gấp 3 lần mức bình quân chung trên cả nước).
Theo quy định của Luật BHYT, khi tham gia BHYT, người tham gia có thể
khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế có ký hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh với tổ
chức BHYT.131 Như vậy, chủ thể cung cấp gói dịch vụ y tế cơ bản do quỹ BHYT
chi trả không chỉ có hệ thống cơ sở y tế công lập, mà còn có các cơ sở y tế ngoài
128 Báo cáo quốc gia năm 2020, Tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, tr.46 129 Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tr.30 130 Trường Đại học Toronto, Canada, Viện Nghiên cứu Phát triển Mekong tại Hà Nội (2017), Những rào cản trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và kế hoạch hoá gia đình của đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam. 131 Điều 24 Luật BHYT sửa đổi, bổ sung năm 2014
công lập, miễn là các cơ sở y tế này có ký hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh với tổ
86
chức BHYT. Quy định này tạo điều kiện cho người tham gia BHYT dễ dàng tiếp
cận dịch vụ chăm sóc YTCB và giảm áp lực lên hệ thống cơ sở y tế công lập.
Ngoài ra, với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia BHYT
khám chữa bệnh, Luật BHYT quy định về thông tuyến khám chữa bệnh với bệnh
viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh từ ngày 1/1/2016132 và thông tuyến điều
trị nội trú đối với bệnh viện tuyến tỉnh trong phạm vi cả nước từ ngày 1/1/2021.133
Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa thực sự đạt được mục đích đặt ra. Điểm hạn
chế trong quy định này là thông tuyến khám chữa bệnh bệnh viện tuyến huyện
mới chỉ áp dụng trong phạm vi tỉnh và thông tuyến khám chữa bệnh bệnh viện
tuyến tỉnh chỉ áp dụng đối với người bệnh điều trị nội trú mà chưa áp dụng đối với
khám chữa bệnh ngoại trú. Do đó, NLĐ di cư vẫn gặp khó khăn trong khám chữa
bệnh bằng thẻ BHYT bởi nếu họ di cư tới một tỉnh, thành phố khác làm việc thì
vẫn phải quay về địa bàn tỉnh nơi họ cư trú khi khám, chữa bệnh BHYT. Điều này
làm hạn chế việc dùng thẻ BHYT trong khám, chữa bệnh và làm cho BHYT kém
hấp dẫn với người dân nói chung và NLĐ di cư nói riêng.
Trong thời gian qua, hệ thống mạng lưới bệnh viện tuyến tỉnh và huyện ở
Việt Nam đã được mở rộng và nâng cấp. Các trạm y tế xã bao phủ 99% các xã,
phường, thị trấn toàn quốc.134 Điều này góp phần tích cực trong việc làm giảm
đáng kể tỷ lệ mắc các bệnh truyền nhiễm có vắc-xin dự phòng, giúp trẻ có thể
phòng tránh một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và nâng cao chất lượng sống.
Hiệu quả tiếp cận y tế cơ bản của người dân một số địa phương rất khả quản như
TP.HCM, tính đến năm 2015, có 456 cơ sở y tế với 35.981 giường bệnh, trong đó
có 109 bệnh viện, 319 trạm y tế xã phường, số lượng cán bộ y tế lên tới hơn 45.000
người. Bình quân 9.981 người dân thì có 1 cơ sở y tế.135 Hệ thống cơ sở y tế ở
132 Điểm c, Khoản 2, Điều 22 Luật BHYT năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 133 Khoản 6 Điều 22 Luật BHYT năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 134 Ngân hàng thế giới, Tổ chức Y tế thế giới, UNICEF và JICA, Hướng tới bao phủ, chăm sóc sức khoẻ toàn dân Việt Nam 135 Cục thống kê TPHCM (2015), Niên giám thống kê TPHCM, NXB. Thanh niên
thành phố Hà Nội cũng ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng với 111
87
bệnh viện, trong đó có 41 bệnh viện công lập trực thuộc thành phố, 39 bệnh viện
ngoài công lập, 31 bệnh viện Trung ương, bộ, ngành. Hệ thống trung tâm y tế
quận, huyện bao gồm 30 trung tâm; 53 phòng khám đa khoa khu vực, 4 nhà hộ
sinh và 584 trạm y tế xã, phường. Trong đó 456 trạm y tế được đầu tư nâng cấp
cải tạo, sửa chữa, bảo đảm đủ các phòng chức năng theo đúng quy định để thực
hiện tốt các hoạt động chuyên môn, gọi là các trạm y tế điểm đạt (chiếm 95,19%
số lượng trạm y tế).136
2.2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ xã
hội cơ bản về chăm sóc y tế và thực tiễn thực hiện
Có thể nói, hoạt động chăm sóc sức khỏe cộng đồng ở Việt Nam có từ rất
sớm với các thành tựu về y học cổ truyền. Trải qua 2 cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, mô hình y tế khám, chữa bệnh của nước ta chủ yếu dưới
dạng các trung tâm y tế cộng đồng. Sau này, hệ thống y tế được tổ chức mở rộng
theo mô hình kim tự tháp áp dụng trên cả nước. Mỗi xã, phường đều có một trung
tâm/trạm y tế cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho người dân. Từ năm 1989, Chính
phủ quyết định bỏ chế độ chăm sóc y tế miễn phí, cho phép các bệnh viện được
thu viện phí theo ngày nằm viện và mức sử dụng dịch vụ.137
Đến nay, vấn đề đầu tư cho dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vẫn luôn được quan
tâm và ưu tiên ở nước ta. Luật Khám bệnh, chữa bệnh đã minh chứng điều này khi
quy định: (i) Ưu tiên bố trí ngân sách nhằm đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa
bệnh cơ bản của nhân dân, trong đó quan tâm dành ngân sách cho việc chăm sóc
sức khỏe của một số đối tượng đặc biệt; (ii) Tăng cường phát triển nguồn nhân lực
y tế, đặc biệt là ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn;
136 Hiếu Giang, Hà Nội phát triển hệ thống y tế cơ sở trong tình hình mới https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tap-doan-vingroup/-/2018/820737/ha-noi-phat-trien-he-thong- y-te-co-so-trong-tinh-hinh-moi.aspx, truy cập ngày 30/9/2022. 137 Quyết định số 45/ HĐBT ngày 24/4/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cho phép cơ sở khám chữa bệnh thu một phần viện phí y tế
(iii) Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh; khuyến khích tổ
88
chức, cá nhân đầu tư phát triển dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh...;138 Hoặc Luật
Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023 sắp có hiệu lực cũng thể hiện rõ tinh thần này
khi quy định ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho các hoạt động như: hoạt động
phát triển cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Khám bệnh chữa bệnh cho người có công
với cách mạng, nhóm đối tượng yếu thế (trẻ em, người khuyết tật…); Tăng cường
phát triển nguồn nhân lực y tế; Nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển
đổi số trong khám, chữa bệnh.139 Nhà nước dành một phần ngân sách cho dịch vụ
khám bệnh, chữa bệnh cơ bản của người dân, đồng thời người dân cũng có nghĩa
vụ tự chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh. Tuy nhiên, nếu người bệnh có tham
gia BHYT thì chi phí khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện theo nguyên tắc đóng
hưởng của BHYT, có nghĩa người tham gia BHYT đóng một khoản tiền vào quỹ
BHYT và khi họ có nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh thì quỹ BHYT hỗ trợ chi trả
một phần chi phí. Về cơ bản, quy định về nguồn tài chính đầu tư cho YTCB phù
hợp với xu thế chung của các quốc gia, một mặt thể hiện trách nhiệm của Nhà
nước trong đảm bảo ASXH cho người dân, một mặt huy động tài chính từ người
sử dụng dịch vụ và sự đầu tư của khu vực tư nhân.
Tuy nhiên, quy định trên vẫn tồn tại những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng
đến quyền tiếp cận dịch vụ chăm sóc YTCB của người dân, cụ thể:
Vấn đề tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập mặc dù được quy định tại
Nghị định số 60/2021/NĐ-CP nhưng Nghị định này được áp dụng chung cho đơn
vị sự nghiệp ở tất cả các lĩnh vực. Trong khi đó, vấn đề tài chính trong lĩnh vực y
tế có những đặc thù riêng và cần phải có quy định riêng. Đây là một trong những
nguyên nhân làm cho các cơ sở y tế còn lúng túng trong việc mua sắm trang thiết
bị, vật tư, thuốc phục vụ hoạt động khám, chữa bệnh dẫn đến tình trạng thiếu trang
thiết bị, vật tư, thuốc.
138 Điều 4 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 139 Điều 4 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023
Vấn đề đầu tư cho y tế cơ sở cũng chưa được quan tâm đúng mực. Luật
89
NSNN quy định ngân sách địa phương có trách nhiệm đầu tư cho y tế địa phương.
Theo đó, UBND cấp tỉnh trình HĐND cấp tỉnh ban hành định mức phân bổ ngân
sách địa phương cho y tế dự phòng, y tế cơ sở nhưng lại chưa có hướng dẫn cụ
thể. Do vậy, các địa phương còn lúng túng trong quá trình thực hiện hoặc chưa
phân bổ đủ ngân sách cho y tế dự phòng theo quy định. Theo nguyên Bộ trưởng
Nguyễn Thị Kim Tiến thì nhiều địa phương chưa đảm bảo được 30% ngân sách
cho y tế dự phòng, nhiều hoạt động dự phòng, nâng cao sức khỏe, chăm sóc sức
khỏe ban đầu chưa được phân bổ kinh phí để triển khai hoặc có nhưng rất thấp.”140
Hơn nữa, chưa có quy định hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho các địa phương có
khó khăn trong đầu tư cho y tế cơ sở. Với vai trò nòng cốt của y tế tuyến cơ sở -
nơi đầu tiên người dân có thể tiếp cận thuận tiện và dễ dàng khi ốm đau, bệnh tật
thì đầu tư cho y tế cơ sở rất cần được chú trọng.
Tương tự như các dịch vụ công khác, nhà nước từng bước thực hiện mục
tiêu xã hội hoá công tác khám bệnh, chữa bệnh. Trong đó, nhà nước giữ vai trò
chủ đạo trong phát triển hệ thống khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh của nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Để nâng cao chất lượng
dịch vụ chăm sóc YTCB nói riêng thì mô hình đối tác công tư được coi là một giải
pháp tích cực. Năm 2020, Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư theo phương thức
đối tác công tư nhằm khuyến khích và tạo hành lang pháp lý cho khu vực tư nhân
tham gia vào các dự án công, trong đó có lĩnh vực y tế. Tuy nhiên, các quy định
này vẫn bộc lộ những hạn chế, thể hiện “ưu thế” của nhà nước trong mối quan hệ
vốn phải bình đẳng này, làm giảm sự thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân. Chẳng
hạn, Luật chưa quy định cụ thể và rõ về trách nhiệm của nhà nước trong trường
hợp giải ngân chậm tiến độ, không tăng phí theo cam kết… trong khi nhà đầu tư
phải thực hiện nhiều cam kết và nếu vi phạm thì bị xử lý. Quy định thể hiện sự bất
140https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tin tuc/Lists/News&ItemID=36843, truy cập ngày 18/9/2022
bình đẳng trong quan hệ đối tác công tư như quy định chỉ có cơ quan nhà nước là
90
cơ quan ký kết hợp đồng dự án mới có quyền yêu cầu Kiểm toán Nhà nước thực
hiện kiểm toán. Hoặc một số quy định chưa phù hợp, chưa mang tính khả thi cao
như quy định về tổng mức đầu tư dự án thuộc lĩnh vực y tế, làm cơ sở để cơ quan
ký hợp đồng tiến hành kiểm tra và cấp xác nhận hoàn thành cho doanh nghiệp
là tối thiểu 100 tỷ đồng. Mức đầu tư này khó khả thi với doanh nghiệp. Không
những thế, hiện nay chưa có quy định về chính sách ưu đãi cho các dự án đối tác
công tư có mức lợi nhuận không cao nhưng có ý nghĩa thực hiện mục tiêu bao phủ
chăm sóc YTCB như các dự án dành cho nhóm đối tượng yếu thế (người khuyết
tật, trẻ em, người nghèo…). Theo kết quả công bố của Ngân hàng Thế giới, đến
năm 2019, Việt Nam có 58 dự án thuộc danh sách dự án đối tác công tư trong lĩnh
vực y tế được đề xuất nhưng chỉ có 26 dự án đang bắt đầu triển khai. Trong đó, 13
dự án đã thực hiện đến bước báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, 6 dự án đến giai
đoạn báo cáo nghiên cứu khả thi, 5 dự án mới đến giai đoạn đấu thầu, lựa chọn
nhà đầu tư và có 2 dự án đang ở giai đoạn ký kết hợp đồng.141
Một thực trạng khác đang tồn tại là nhiều cơ sở y tế công lập được đầu tư
đầy đủ theo hình thức xã hội hoá nhưng không phát huy được hiệu quả làm lãng
phí nguồn lực đầu tư của NSNN và khó khăn trong thu hồi vốn cho doanh nghiệp.
Điển hình là 129 trạm y tế xã, phường trên địa bàn tỉnh được đầu tư cơ sở vật chất,
trang thiết bị cơ sở vật chất, kỹ thuật với tổng mức đầu tư là 123,749 tỷ đồng trong
thời hạn 10 năm theo Quyết định số 3468/QĐ-UBND ngày 24-8-2020 của Chủ
tịch UBND tỉnh Thanh Hóa. Trong đó 95% là nguồn vốn đầu tư của công ty Nhật
Quang, 5% còn lại là nguồn vốn ngân sách tỉnh. Theo đó, mỗi trạm y tế được đầu
tư khá đầy đủ từ cơ sở vật chất (máy tính, điều hoà, máy lọc nước…) đến trang
thiết bị chuyên môn (máy siêu âm Doppler màu 4D, máy xét nghiệm huyết học tự
động…). Ngoài ra đề án còn dành kinh phí để đào tạo, cấp chứng chỉ chuyên môn,
141 https://dangcongsan.vn/phat-huy-thanh-tuu-y-te-trong-cham-soc-suc-khoe-nhan-dan/tin-tuc/thuc-day-hop- tac-cong-tu-thuc-day-phat-trien-ben-vung-nganh-y-te-610401.html, truy cập ngày 20/7/2022
hướng dẫn vận hành, chuyển giao kỹ thuật cho người sử dụng thiết bị. Mặc dù
91
được đầu tư như vậy nhưng kết quả mang lại không như mong đợi. Theo thống
kê, hơn 20% trạm y tế trong số các trạm y tế được đầu tư nêu trên chỉ thực hiện
dịch vụ kỹ thuật vài lần để thử máy, sau đó gần như không sử dụng, 50% số TYT
rất ít sử dụng; chỉ có 20% số trạm y tế thường xuyên sử dụng trang thiết bị.142
2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về nhà ở và thực
tiễn thực hiện
Vấn đề nhà ở được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như
Hiến pháp, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Nhà ở năm 2014, Luật Cư trú năm
2020 và các văn bản hướng dẫn thi thành.
2.3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản
về nhà ở và thực tiễn thực hiện
Quyền có nhà ở được ghi nhận và đảm bảo trong các bản Hiến pháp của
Nhà nước Việt Nam từ năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013. Do tình hình an ninh,
quốc phòng, tình hình kinh tế xã hội mỗi giai đoạn mà quy định về quyền có nhà
ở của công dân có sự khác nhau. Điều 22 Hiến pháp 2013 quy định: “công dân có
quyền có nơi ở hợp pháp, mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, không
ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được sự đồng ý”. Quyền này
được cụ thể hoá tại Điều 4 Luật Nhà ở năm 2014 với việc ghi nhận quyền có chỗ
ở của hộ gia đình, cá nhân thông qua nhiều hình thức như mua, thuê, nhận tặng,
cho, hưởng thừa kế...
Đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam không chỉ có tổ chức, cá nhân,
hộ gia đình trong nước mà còn có người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức,
cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án tại Việt Nam; doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước
142 Hà Bắc, Bất cập trong thực hiện đề án đầu tư xã hội hoá y tế tuyến xã, https://baothanhhoa.vn/y-te-suc-khoe/bat-cap-trong-thuc-hien-de-an-dau-tu-xa-hoi-hoa-y-te-tuyen- xa/170659.htm, truy cập ngày 1/11/2022
ngoài, quỹ đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động
92
tại Việt Nam; cá nhân nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam.143 Luật
Nhà ở năm 2014 cũng quy định cá nhân nước ngoài được mua và sở hữu nhà ở. Ở
Việt Nam, quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất144 và tỷ lệ phần
quyền sử dụng đất của người mua căn hộ chung cư được tính bằng tỷ lệ diện tích
căn hộ chia cho tổng diện tích sàn của các căn hộ trong nhà chung cư145. Trong
khi đó, Điều 5 Luật Đất đai năm 2013 liệt kê 07 nhóm đối tượng được nhà nước
giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng
đất lại không có “người nước ngoài”. Như vậy, quy định về sở hữu nhà ở của
người nước ngoài có sự mâu thuẫn, chưa tương thích với các quy định liên quan
dẫn đến tình trạng khó khăn khi áp dụng luật và phần nào ảnh hưởng đến quyền
tiếp cận nhà ở của người nước ngoài tại Việt Nam.
Để đảm bảo tiếp cận nhà ở mang tính phổ quát đến mọi đối tượng, hầu hết
các quốc gia đều quy định và chú trọng phát triển hình thức nhà ở xã hội. Hiện
nay, quan điểm về quy mô, phạm vi, dân số, mục tiêu cung cấp loại hình nhà ở
này mỗi quốc gia có thể khác nhau. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
thì nhà ở xã hội được định nghĩa là chỗ ở cho thuê để ở được cung cấp với giá
dưới thị trường được phân bổ theo các quy tắc cụ thể, chẳng hạn như nhu cầu được
xác định hoặc danh sách chờ.146 Ở Úc, Canada, Đức, Vương Quốc Anh cũng dùng
tên gọi là “nhà ở xã hội” hoặc Đan Mạch là “nhà ở trợ cấp”, ở Hoa Kỳ là “nhà ở
công cộng” hay “nhà ở chung”.147 Dù tên gọi khác nhau nhưng nhà ở xã hội đều
có mục tiêu tập trung phân bổ chủ yếu (hoặc riêng) cho các nhóm dân cư có thu
143 Điều 7, Khoản 1 Điều 159 Luật Nhà ở năm 2014 144 Khoản 1 Điều 19 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 145 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 5 năm 2014 quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Đất đai 146 Salvi del Pero, A. et al. (2016), “Policies to promote access to good-quality affordable housing in OECD countries”, OECD Social, Employment and Migration Working Papers, Số 176, Nxb. OECD, 147 OECD (2020), Social housing: A key part of past and future housing policy, Employment, Labour and Social Affairs Policy Briefs, Paris http://oe.cd/social-housing-2020 148 Scanlon, K., M. Fernández Arrigoitia and C. Whitehead (2015), Social housing in Europe. European Policy Analysis, Viện Nghiên cứu Chính sách Châu Âu của Thụy Điển http://eprints.lse.ac.uk/62938/1/Fernandez_Social%20housing%20in%20Europe_2015.pdf .
nhập thấp, dễ bị tổn thương và/hoặc những NLĐ chính.148
93
Tương đồng với quan điểm của các quốc gia, Việt Nam cũng quy định hình
thức nhà ở xã hội với nhiều chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư, phát triển.
Nhà ở xã hội ở Việt Nam được hiểu là nhà ở có sự hỗ trợ của Nhà nước cho các
đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở149.
Các nhóm đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở bao gồm 09 nhóm.
Đó là người thu nhập thấp, hộ gia đình nghèo và cận nghèo; hộ gia đình ở các
vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai; Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, hạ
sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân trong cơ quan,
đơn vị lực lượng vũ trang; Cán bộ, công chức, viên chức; Các đối tượng đã trả lại
nhà ở công vụ; Học sinh, sinh viên nói chung và học sinh trường dân tộc nội trú
công lập trong thời gian học tập; Hộ gia đình, cá nhân thuộc diện bị thu hồi đất và
phải giải toả, phá dỡ nhà ở mà chưa được nhà nước bồi thường bằng nhà ở, đất
ở150. Đây là nhóm đối tượng có thu nhập hạn hẹp, khó tiếp cận thuê, mua nhà ở
thương mại nên nhà ở xã hội là một giải pháp tích cực giúp họ có cơ hội được “an
cư”. Trong những năm qua, nhà ở xã hội, nhà ở cho người thu nhập thấp, người
nghèo được triển khai khá mạnh mẽ với những con số khá tích cực. Tính đến đầu
năm 2022, có 266 dự án nhà ở xã hội bao gồm cả nhà thu nhập thấp và nhà công
nhân với khoảng hơn 142.000 căn được hoàn thành.151 Về hỗ trợ nhà ở khu vực
nông thôn, đến đầu năm 2018, có trên 570.000 hộ nghèo khu vực nông thôn được
hỗ trợ về nhà ở, khu vực miền Trung có khoảng 14.000 hộ nghèo được hỗ trợ xây
dựng nhà ở phòng chống bão, lụt. Cũng tính đến thời điểm này, 190.841 hộ thuộc
982 dự án thuộc chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ
đồng bằng Sông Cửu Long hoàn thành. Nhà ở cho công nhân, sinh viên cũng được
nỗ lực thực hiện nhằm đảm bảo nhóm đối tượng này được tiếp cận nhà ở. Theo
149 Khoản 7, Điều 1 Luật Nhà ở năm 2014 150 Điều 39 Luật Nhà ở năm 2014 151 Theo Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị https://moc.gov.vn/vn/tin-tuc/1173/70357/tiep-tuc-hoan-thien-the- che-day-manh-phat-trien-nha-o-xa-hoi.aspx, truy cập ngày 1/12/2022
đó, 100 dự án nhà ở công nhân với 41.000 căn được hoàn thành và dự kiến thời
94
gian tới thực hiện tiếp 72 dự án với quy mô khoảng 88.000 căn, 220.000 sinh viên
được bố trí nhà ở.152
Bên cạnh những kết quả tích cực, việc tiếp cận nhà ở của một số nhóm đối
tượng yếu thế chưa được đảm bảo do chưa được quy định thuộc 09 nhóm đối
tượng được hỗ trợ nhà ở, bao gồm:
Thứ nhất là người khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật có hoàn cảnh khó
khăn, có nhu cầu về nhà ở. Do khó khăn trong lao động, học tập, sinh hoạt mà các
dạng tật đem lại, người khuyết tật cũng gặp khó khăn trong vấn đề tìm kiếm việc
làm và tạo ra thu nhập nên cơ hội được tiếp cận nhà ở thương mại đối với họ khá
xa vời. Trong khi đó, hiện nay quy định pháp luật mới chỉ dừng lại ở các quy định
về tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng công trình đảm bảo người
khuyết tật dễ tiếp cận.153 Thực tế tiếp cận nhà ở của nhóm đối tượng này cũng gặp
không ít khó khăn. Bằng chứng là các trường đào tạo kiến trúc sư hầu như vắng
bóng giáo trình giảng dạy thiết kế cho người khuyết tật. Nếu có cũng chỉ là những
lưu ý, thoáng qua.154 Thêm vào đó, ở nước ta hiện nay chưa có nhiều các công
trình riêng lẻ dành riêng để chăm sóc nhóm người khuyết tật, đặc biệt là người
khuyết tật ngồi xe lăn. Phần đông những người thuộc nhóm dân cư này vẫn sống
chung cùng gia đình tại chung cư hay nhà riêng thông thường, không có thiết kế
phù hợp với sinh hoạt thường nhật của nhóm dân cư đặc biệt này.
Thứ hai là lao động di cư, công nhân làm việc tại các khu công nghiệp. Các
nhóm đối tượng này chiếm một số lượng không nhỏ ở các thành phố lớn. Báo cáo
Tổng điều tra dân số và nhà ở toàn quốc năm 2019 cho thấy, hơn 13% dân số cả
nước là người di cư, là lực lượng đóng góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội quốc
gia. Vấn đề thiếu hụt trong tiếp cận nhà ở thể hiện rõ nét và đáng báo động khi đại
152 Nhóm công tác liên ngành 18 cơ quan, Báo cáo quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III, 2018, tr.21 153 Khoản 1 Điều 39 Luật Người khuyết tật năm 2010 154 Phạm Thanh Tùng, Kiến trúc nào cho người khuyết tật, https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen- muc/kien-truc-nao-cho-nguoi-khuyet-tat.html, truy cập ngày 25/02/2021
dịch Covid-19 xuất hiện. Theo Phó Thủ tướng Lê Văn Thành, TP. HCM có
95
700.000 căn nhà cho thuê, diện tích chỉ khoảng 9m2/căn hộ, nhưng có đến 3 triệu
công nhân, NLĐ sống.155 Trong Báo cáo kết quả kiểm toán năm 2020, đánh giá
về chương trình nhà ở xã hội tại Hà Nội và TP.HCM cũng cho thấy cả 2 địa phương
đều chưa thực hiện được mục tiêu đề ra. Trong đó, Hà Nội chỉ đạt 16% tổng diện
tích sàn, TP. HCM đạt 69% so với kế hoạch. Theo thống kê, hơn 39% hộ nghèo
thiếu hụt về nhà ở.156 Tình trạng này không chỉ diễn ra ở Hà Nội, TP.HCM mà
trên phạm vi cả nước. Tính đến năm 2021, cả nước mới hoàn thành 249 dự án với
5,21 triệu mét vuông sàn nhà ở xã hội, quy mô khoảng 104.200 căn hộ, chỉ đạt tỷ
lệ 41,7% so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 (mục tiêu đến năm 2020 hoàn thành 12,5 triệu mét
vuông sàn nhà ở xã hội).157 Thực tiễn này không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn
diễn ra ở các nước khác, chẳng hạn, ở Ấn Độ, trong thời kỳ đóng cửa toàn quốc
do đại dịch Covid cuộc di cư ồ ạt của NLĐ nhập cư ra khỏi các thành phố đô thị
ở Ấn Độ đã làm nổi bật sự bấp bênh về điều kiện sống của họ ở thành phố.158
Không những thế, quy định về đối tượng hưởng chính sách nhà ở xã hội
được xác định thông qua các yếu tố như tiền lương, thực trạng nhà đất dẫn tới hệ
quả là việc xác định đối tượng chưa thực sự chính xác trên thực tế. Tình trạng
người thực sự có nhu cầu thì không tiếp cận được nhà ở và ngược lại vẫn xảy ra.
Thực tế, tại 5 dự án được kiểm toán chi tiết ở TP. HCM có 85 trường hợp người
được mua, thuê nhà ở xã hội có dấu hiệu đã có nhà ở; 64 trường hợp người được
mua, thuê nhà ở xã hội có giao dịch ủy quyền về nhà ở xã hội. Còn ở Hà Nội, tại
2 dự án được kiểm toán chi tiết có 122 khách hàng được mua, 16 khách hàng được
155 Lê Quân, “Lộ” bất cập trong cơ chế tạo quỹ đất xây nhà ở xã hội tại Hà Nội, https://thanhnien.vn/lo-bat- cap-trong-co-che-tao-quy-dat-xay-nha-o-xa-hoi-tai-ha-noi-post1412920.html, truy cập ngày 1/11/2022 156 Đường Loan (2017), Để giảm nghèo từ 1,2-1,4% hộ gia đình, https://dttc.sggp.org.vn/de-giam-ngheo-tu- 12-14-ho-gia-dinh-post5491.html, truy cập ngày 3/9/2022 157 Dạ Khánh, Phát triển nhà ở giá rẻ: tìm giải pháp hiệu quả, https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Bat-dong- san/988002/phat-trien-nha-o-gia-re-tim-giai-phap-hieu-qua, truy cập ngày 3/9/2022 158 Dev Pa et al (2020), A Study on Migrant Workers’ Access to Housing and Land 159 Kiểm toán nhà nước (2020), Báo cáo kiểm toán năm 2020
thuê nhà ở xã hội sử dụng không đúng mục đích.159
96
Hơn nữa, cách tính giá bán, giá thuê nhà ở xã hội cũng chưa hợp lý, chưa
tương quan với mức thu nhập của đối tượng thuộc diện được mua, thuê. Theo quy
định, giá bán, giá thuê nhà ở xã hội do chủ đầu tư dự án xác định theo nguyên tắc
tính đủ chi phí thu hồi vốn (đối với giá mua), chi phí bảo trì nhà ở (đối với giá
thuê), lãi vay (nếu có) và lợi nhuận định mức. Có thể thấy, cách tính giá theo
nguyên tắc này mặc dù mục đích để đảm bảo nhà ở xã hội có giá cả phải chăng
hơn giá nhà ở trên thị trường nhưng vẫn chưa tính đế khả năng chi trả của đối
tượng thuê, mua. Vì vậy, nhà ở xã hội vẫn nằm ngoài tầm với của đối tượng có
thu nhập thấp hoặc rất thấp. Hơn nữa, nếu chi phí thu hồi vốn, chi phí bảo trì không
được kiểm soát tốt có thể dẫn đến tình trạng kém hiệu quả.160 Trên thế giới, cách
tính giá thuê nhà ở xã hội được xác định theo nhiều cách khác nhau như phương
pháp ấn định giá thuê, phương pháp xem xét mức tiền thuê, mua dựa trên thu nhập
để xác định mức tiền mà đối tượng hưởng chính sách hỗ trợ có khả năng chi trả.161
Mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm, vì vậy việc cân nhắc áp dụng phương
pháp tính giá thuê cần có sự nghiên cứu phù hợp với khung giá nhà đất mỗi thời
điểm và mức độ phát triển kinh tế xã hội qua từng giai đoạn.
2.3.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về nhà ở
và thực tiễn thực hiện
Theo quy định tại Điều 4 Luật Nhà ở năm 2014 thì hộ gia đình, cá nhân có
quyền có chỗ ở thông qua nhiều hình thức khác nhau (mua, thuê, thừa kế, tặng,
cho…). Quyền sở hữu hợp pháp về nhà ở được Nhà nước công nhận và bảo hộ.
Cùng với đó, hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhà ở bị nghiêm cấm. Ở Canada,
quyền có nhà ở được Chính phủ đảm bảo khả năng tiếp cận nhà ở an toàn và giá
160 Scanlon, K., M. Fernández Arrigoitia and C. Whitehead (2015), Social housing in Europe. European Policy Analysis, Swedish Institute for European Policy Studies, http://eprints.lse.ac.uk/62938/1/Fernandez_Social%20housing%20in%20Europe_2015.pdf 161 OECD (2020), Social housing: A key part of past and future housing policy, Employment, Labour and Social Affairs Policy Briefs, Paris, http://oe.cd/social-housing-2020
cả phải chăng. Chiến lược nhà ở quốc gia của Canada cũng tập trung vào việc cải
97
thiện kết quả nhà ở cho những người có nhu cầu lớn nhất.162 DVXHCB về nhà ở
thuộc hệ thống ASXH Việt Nam được pháp luật ghi nhận và bảo đảm quyền có
chỗ ở hợp pháp của mọi người dân. Nhà nước không có nghĩa vụ cung cấp hay
đảm bảo mọi người dân đều sở hữu nhà ở mà Nhà nước chỉ có trách nhiệm đảm
bảo mọi người dân có quyền có nơi ở hợp pháp, an toàn, bất khả xâm phạm. Trong
đó, nhóm đối tượng yếu thế được Nhà nước đảm bảo, ưu tiên, hỗ trợ tiếp cận nhà
ở bằng các hình thức khác nhau phù hợp từng nhóm đối tượng. Chẳng hạn, hình
thức hỗ trợ nhà ở được áp dụng cho 09 nhóm đối tượng được đề cập ở phần trên163,
theo đó Nhà nước trực tiếp đầu tư hoặc quy định chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho khu
vực tư nhân đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Hình thức hỗ trợ đất ở, xây dựng nhà
ở đảm bảo 3 cứng (nền cứng, khung-tường cứng, mái cứng), hỗ trợ xây dựng 01
căn nhà theo phong tục tập quán của địa phương được áp dụng đối với vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi khó khăn chưa có đất ở, nhà ở hoặc nhà ở dột
nát, nhà ở tạm. Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 đã nêu ra chỉ tiêu về
giải quyết vấn đề này. Nguồn vốn thực hiện Dự án này được huy động từ nhiều
nguồn khác nhau, trong đó, ngân sách trung ương chiếm phần lớn với 7.840,553
tỷ đồng (vốn đầu tư: 4.565,965 tỷ đồng, vốn sự nghiệp: 3.274,588 tỷ đồng); ngân
sách địa phương 640,321 tỷ đồng; vốn vay tín dụng chính sách: 9.291,096 tỷ đồng;
vốn huy động hợp pháp khác: 405,478 tỷ đồng. Tuy nhiên, thực tế, các hộ gia đình
dân tộc thiểu số vẫn sống trong các căn nhà có diện tích bình quân đầu người nhỏ
hơn 8m2 còn khá phổ biến như dân tộc La Hủ với 65,2% , dân tộc Bru Vân Kiều
với 47,8%, dân tộc Ba Na là 39,1%, dân tộc Co với 32,1%, Gia Rai 30,6%.164
2.3.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản
162 https://www.placetocallhome.ca/human-rights-based-approach-to- housing#:~:text=This%20right%20is%20recognized%20in,that%20is%20safe%20and%20affordable. 163 Xem thêm mục 2.3.1 164 Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tr.56
về nhà ở và thực tiễn thực hiện
98
Theo quy định tại Điều 13 Luật Nhà ở năm 2014 thì Nhà nước là chủ thể
thực hiện chính sách phát triển nhà ở. Trong đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các
chủ dự án xây dựng nhà ở thương mại phải dành diện tích đất để xây dựng nhà ở
xã hội. Điều 53 quy định các hình thức phát triển nhà ở xã hội, bao gồm nhà nước
đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân bỏ
vốn đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. DVXHCB về nhà ở được cung cấp bởi nhà
nước, các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân. Trong đó Nhà nước
quản lý về chất lượng, có chính sách hỗ trợ các chủ thể cung cấp nhà ở xã hội và
quy định việc xác định giá thuê, giá thuê mua, giá bán nhà ở xã hội nhằm đảm bảo
người dân có thể tiếp cận. Cụ thể, đối với công nhân lao động tại các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp và các cơ sở sản xuất, dịch vụ ngoài khu công nghiệp,
Nhà nước chủ động tham gia đầu tư phát triển nhà ở cho thuê; khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng nhà ở.165 Với sự hỗ trợ, khuyến khích
từ phía Nhà nước, thực tế, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện dự án xây dựng nhà ở
cho công nhân, cung cấp chỗ ở cho NLĐ của doanh nghiệp. Chẳng hạn, đầu năm
2022, tổng công ty Viglacera đã khởi công xây dựng khu nhà ở công nhân và chuyên
gia tại Khu công nghiệp Yên Phong (Bắc Ninh) với quy mô 2.000 căn hộ chung cư
và dự án nhà ở tại khu công nghiệp Đông Mai (Quảng Ninh) với quy mô 1000 căn
hộ cho công nhân và 72 căn hộ thấp tầng chuyên gia. Hoặc Tổng công ty Becamex
IDC cũng đang xây dựng hàng loạt dự án nhà ở xã hội ở những khu vực đông công
nhân lao động như thị xã Bến Cát, thị xã Tân Uyên, huyện Bàu Bàng với khoảng
20.000 căn nhà ở xã hội. Công ty CP Tập đoàn Tư vấn đầu tư xây dựng Kiên Giang
165 Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 20/4/2009 về một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị; Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê; Quyết định số 2127/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
(CIC Group) đã khởi công dự án nhà ở xã hội 7 hecta khu đô thị Tây Bắc, thành phố
99
Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang166….
Nghị định số 49/2021/NĐ-CP quy định các dự án nhà ở thương mại phải
dành 20% quỹ đất để phát triển nhà ở xã hội. Quy định này cho thấy, các doanh
nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở thương mại cũng là một trong những chủ thể có vai
trò quan trọng trong việc cung cấp nhà ở xã hội. Sự ra đời của Nghị định số
49/2021/NĐ-CP đã loại bỏ quy định cho phép chủ đầu tư chọn cách nộp tiền thay
thế để không phải dành diện tích xây dựng nhà ở xã hội như trước đây. Quy định
này ràng buộc trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc cung cấp nhà ở xã hội,
đảm bảo tiếp cận nhà ở của nhóm đối tượng thu nhập thấp. Tuy nhiên, quy định
này có điểm chưa rõ ràng, chưa hợp lý dẫn tới hệ quả chủ đầu tư không mặn mà
với việc đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Cụ thể:
Luật Nhà ở quy định dự án nhà ở xã hội thuộc diện được miễn tiền sử dụng.
Tuy nhiên đối với trường hợp quỹ đất xây dựng nhà ở xã hội là đất do doanh
nghiệp tạo lập và đã nộp tiền sử dụng đất thì pháp luật chưa quy định rõ liệu doanh
nghiệp có được hoàn trả lại tiền sử dụng đất hay không. Trường hợp được hoàn
trả lại thì thủ tục và mức hoàn trả như thế nào?
Các quy định về ưu đãi đối với chủ đầu tư chưa tính đến chi phí giải phóng
mặt bằng. Chi phí nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được tính đúng,
tính đủ vào giá thành dự án nhà ở xã hội. Trong khi các chi phí này không hề nhỏ,
từ đó làm giảm mức lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được sau khi đầu tư.
Nghị định số 100/2015/NĐ-CP quy định "lợi nhuận định mức của toàn bộ
dự án không vượt quá 10% tổng chi phí đầu tư" trong khi Luật Nhà ở cho phép
chủ đầu tư dự án 100% nhà ở xã hội được quyền bán 20% quỹ nhà theo giá thương
mại để giảm giá thành nhà ở xã hội. Điều này cho thấy hai quy định này có sự mâu
thuẫn dẫn đến thực tế là lợi nhuận của chủ đầu tư khi bán 20% quỹ nhà ở thương
166 Bảo Ngọc, Vốn đầu tư dồn dập vào dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, https://nhadat.tuoitre.vn/von-tu- nhan-don-dap-vao-du-an-nha-o-xa-hoi-nha-o-cong-nhan-20220415090637594.htm, truy cập ngày 15/4/2022
mại này vô hình chung cũng không được vượt quá 10% tổng chi phí đầu tư. Không
100
những thế, với mức lợi nhuận tối đa 10% tổng chi phí đầu tư, chủ đầu tư cũng khó
có thể ứng dụng công nghệ, kỹ thuật, quản lý, gia tăng các tiện ích, dịch vụ.
2.3.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ xã
hội cơ bản về nhà ở và thực tiễn thực hiện
Đối với nhà ở xã hội, nhà nước đầu tư ngân sách hoặc có chính sách ưu đãi
đối với tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Điều 53 Luật Nhà ở quy
định nhà ở xã hội có thể do Nhà nước đầu tư hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã bỏ
vốn đầu tư xây dựng cho NLĐ trong đơn vị mình thuê hoặc hộ gia đình, cá nhân
bỏ vốn đầu tư xây dựng. Về cơ bản, nguồn tài chính đầu tư cho nhà ở xã hội theo
quy định của pháp luật Việt Nam khá tương đồng với quy định của các quốc gia
khác. Ở các quốc gia, ba nguồn tài chính đầu tư cho nhà ở xã hội là (i) thu nhập
cho thuê từ người thuê; (ii) vay của nhà cung cấp nhà ở xã hội; và (iii) các khoản
thanh toán và/hoặc trợ cấp từ các chủ thể khác, bao gồm cả chính phủ. Trong đó,
Chính phủ đóng vai trò quan trọng và hỗ trợ cung cấp nhà ở xã hội thông qua việc
cung cấp trực tiếp hoặc hỗ trợ thông qua hình thức tài trợ, cho vay, bảo lãnh khoản
vay cho chủ thể cung cấp nhà ở xã hội; chính quyền địa phương cung cấp đất với
giá chiết khấu để phát triền nhà ở xã hội.167 Ở Bỉ, nhà ở xã hội được cung cấp cho
cá nhân hay gia đình có thu nhập thấp từ các thành phố, các công ty đại chúng,
hợp tác xã hoặc các tổ chức phi lợi nhuận. Chính sách Nhà ở xã hội ở Bỉ được
thực hiện trong một khoảng thời gian dài (40 năm). Tương tự, quy định về nhà ở
xã hội và giá cả phải chăng của Chile bao gồm trợ cấp cho các gia đình có thu
nhập trung bình và thấp, chương trình thuê để mua và trợ cấp thuê. Còn ở Hà Lan,
nhà ở xã hội được cung cấp cho người dân với sự trợ cấp từ chính phủ. Người dân
phải trả tối đa là 710,68€/tháng, phần còn lại Chính phủ sẽ hỗ trợ, nhà nước còn
kiểm soát mức độ tăng giá thuê nhà. Nhà ở ở Hà Lan được quản lý thông qua hệ
167 Scanlon, K., M. Fernández Arrigoitia and C. Whitehead (2015), Social housing in Europe. European Policy Analysis, Viện Nghiên cứu Chính sách Châu Âu của Thụy Điển http://eprints.lse.ac.uk/62938/1/Fernandez_Social%20housing%20in%20Europe_2015.pdf .
thống tính điểm, hệ thống này sẽ xác định giá trị bất động sản mà người nộp đơn
101
sẽ ở, từ đó xác định tiền thuê của họ.168 Như vậy, pháp luật Việt Nam và nhiều
quốc gia trên thế giới có sự tương đồng khi quy định Nhà nước có chính sách hỗ
trợ một phần hoặc có chính sách ưu đãi về nhà ở xã hội cho một số nhóm đối tượng
nhất định, phần còn lại người mua nhà, thuê nhà phải tự chi trả.
Ở Việt Nam, thực tiễn phát triển nhà ở chưa đạt hiệu quả cao. Theo báo cáo
do Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh ký trình Chính phủ năm 2022 thì
vốn bố trí cho Ngân hàng Chính sách xã hội trong giai đoạn 2016 - 2020 đạt thấp,
chỉ hơn 3.160 tỷ đồng/9.000 tỷ đồng. Thực tiễn phát triển nhà ở xã hội không chỉ
khó khăn về tài chính, sự giới hạn trong chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư mà còn
khó khăn về việc bố trí quỹ đất.
Quy định các dự án nhà ở thương mại phải dành 20% quỹ đất để phát triển
nhà ở xã hội mặc dù được coi là “cú hích” thúc đẩy nguồn lưc đầu tư từ khu vực
tư nhân nhưng thực tế triển khai chưa thực sự hiệu quả vì vướng mắc trong một
số quy định liên quan.
Thứ nhất, quy định hiện hành chưa có quy định tỷ lệ phần trăm đất ở dành
để phát triển nhà ở xã hội khi lập, thẩm duyệt quy hoạch phân khu, quy hoạch
chung… Do đó, chủ đầu tư và cơ quan có thẩm quyền thiếu tính chủ động khi bố
trí quỹ đất, đề xuất dự án xây dựng nhà ở xã hội đáp ứng nhu cầu theo đúng chương
trình, kế hoạch đặt ra. Quy định này cũng chưa thực sự phù hợp với tất cả dự án
nhà ở thương mại. Chẳng hạn, ở một số thành phố lớn như Hà Nội, TP. HCM,
nhiều dự án nhà ở thương mại nằm trong khu vực theo quy hoạch chung hoặc quy
hoạch phân khu chỉ được xây dựng nhà ở thấp tầng như nhà liền kề, biệt thự hoặc
hình dạng, đặc tính khu đất chỉ phù hợp để xây dựng nhà ở thấp tầng. Do vậy,
không phù hợp để bố trí quỹ đất xây dựng nhà ở xã hội tại dự án. Mặc dù pháp
luật không cấm xây dựng nhà ở xã hội thấp tầng nhưng đối với đất ở có giá trị
168 Niall Patrick Walsh (2020), Comparing social housing: 30 projects from countries a round the world, https://www.archdaily.com/932075/comparing-social-housing-in-countries-around-the-world
thương mại rất cao ở thành phố lớn thì xây dựng nhà ở xã hội thấp tầng sẽ không
102
thực sự phù hợp và không phát huy được hết giá trị của khu đất. Thứ ba, xây dựng
nhà ở xã hội trong cùng dự án nhà ở thương mại cũng gây khó khăn trong quản lý
vận hành, bởi có thể cùng một khu đô thị, cùng chủ đầu tư nhưng mức phí dịch vụ
lại khác nhau hoặc cùng phí dịch vụ như nhau nhưng mức hưởng thụ khác nhau.
Vì những khó khăn, vướng mắc, bất cập như vậy nên nhiều chủ đầu tư tìm cách
“lách luật” để tránh thực hiện nghĩa vụ này.
Thứ hai, theo Hiệp hội Bất động sản TP. HCM (HoREA) thì một số quy
định mặc dù rất tốt, rất có lợi cho đối tượng thụ hưởng nhà ở xã hội, nhưng có thể
đã vượt quá thẩm quyền của Ngân hàng Chính sách xã hội và chưa chặt chẽ như:
quy định thời hạn vay vốn ưu đãi để thuê mua nhà ở xã hội tối đa là 25 năm kể từ
ngày giải ngân khoản vay đầu tiên169; quy định thời hạn cho vay tối thiểu là 15
năm và tối đa không quá 25 năm kể từ ngày giải ngân khoản vay đầu tiên170; quy
định người vay vốn chưa phải trả nợ gốc trong thời gian ân hạn 12 tháng kể từ
ngày nhận khoản vay đầu tiên.171 Lý do là thời hạn cho vay có liên quan đến cơ
chế tái cấp vốn, cấp bù lãi suất của Ngân hàng Nhà nước cho Ngân hàng Chính
sách xã hội và các tổ chức tín dụng được chỉ định. Việc không quy định rõ đối
tượng được vay, thời hạn vay có thể dẫn tới cơ chế “xin - cho”, vận dụng tùy tiện.
Hơn nữa, quy định ân hạn chưa phải trả nợ gốc thuộc thẩm quyền của Ngân hàng
Nhà nước. Cũng liên quan tới vấn đề vay vốn ưu đãi mua nhà ở xã hội, Luật Nhà
ở quy định hộ gia đình, cá nhân mua, thuê mua nhà ở xã hội thì chỉ được vay ưu
đãi tại ngân hàng Chính sách xã hội. Điều này vô hình chung làm hạn chế quyền
tiếp cận của người dân với các gói hỗ trợ từ các ngân hàng thương mại. Trong khi
người mua, thuê mua nhà ở xã hội thường là người có thu nhập thấp nên rất cần
chính sách thông thoáng trong vay vốn ưu đãi để tiếp cận nhà ở xã hội.
2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về nước sạch và
169 Nghị định 49/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1 tháng 4 năm 2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2015/NĐ-CP 170 Mục 6 văn bản 2526/NHCS-TDSV ngày 27/7/2016 của Ngân hàng Chính sách xã hội 171 Mục 11.b văn bản 2526/NHCS-TDSV ngày 27/7/2016 của Ngân hàng Chính sách xã hội
thực tiễn thực hiện
103
2.4.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản
về nước sạch và thực tiễn thực hiện
Nước sạch là nước đã qua xử lý có chất lượng bảo đảm, đáp ứng yêu cầu
sử dụng.172 Nước sạch đóng vai trò then chốt đối với sức khoẻ và đời sống của con
người. Chính vì vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật hầu hết các quốc gia đều ghi
nhận quyền về nước là quyền cơ bản của con người. Trong Mục tiêu Phát triển
bền vững của thế giới cho giai đoạn 2015-2030, Mục tiêu số 6 có nêu “Đảm bảo
sự sẵn có và quản lý bền vững nguồn nước và cải thiện các điều kiện vệ sinh cho
tất cả mọi người”. Trong đó, một trong các mục tiêu cụ thể về nước đặt ra đến năm
2030 là đạt được tiếp cận công bằng và phổ cập nguồn nước uống an toàn và có
thể chi trả được cho tất cả mọi người. Mục tiêu này ở Việt Nam cũng khá tương
đồng với mục tiêu toàn cầu. Cụ thể, trong mục tiêu số 6 của Nghị quyết số 136/NQ-
CP ngày 25/9/2020 của Chính Phủ về phát triển bền vững cũng đặt ra mục tiêu
“đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho
tất cả mọi người”.
Như vậy, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ khi đặt mục tiêu bao phủ
toàn dân trong tiếp cận nước sạch. Kế thừa quy định về sở hữu toàn dân của Hiến
pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở tiếp cận mới, đúng đắn và
chính xác hơn, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận tài nguyên nước là một trong
những đối tượng tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Chiến lược quốc gia
về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020 đã đề ra phương châm,
nguyên tắc, phạm vi và các giải pháp thực hiện nhằm thúc đẩy cho tất cả người
dân được sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia.
Bên cạnh đó, nhằm thực hiện mục tiêu bao phủ đối tượng tiếp cận nước
sạch, ngày 24/11/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1978/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn
172 Khoản 7 Điều 2, Nghị định 117/2007 ngày 11 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ về sản xuấ, tiêu thụ và cung cấp nước sạch
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nội dung Chiến lược đặt ra mục tiêu tổng
104
thể là đảm bảo người dân nông thôn được quyền tiếp cận sử dụng dịch vụ cấp
nước sạch công bằng, thuận lợi, an toàn với chi phí hợp lý. Đến năm 2030 có 65%
dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt chất lượng theo quy chuẩn với số
lượng tối thiểu 60 lít/người/ngày. Đến năm 2045, phấn đấu 100% người dân nông
thôn đươc sử dụng nước sạch và vệ sinh an toàn, bền vững.173
Nhìn chung, tiếp cận nước sạch chưa được quan tâm đúng mực khi mà hành
lang pháp lý về vấn đề này chưa được quy định chặt chẽ và rõ ràng. Hiện nay, hệ
thống pháp luật Việt Nam chưa có một đạo luật riêng quy định về vấn đề này mà
chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng và thực hiện các chương trình mục tiêu
quốc gia. Hơn nữa, việc tiếp cận nước sạch ở khu vực nông thôn chưa được đảm
bảo như mục tiêu đề ra, nguyên nhân là chưa có quy định ràng buộc trách nhiệm
của các địa phương trong việc xây dựng các chỉ tiêu cấp nước vào chỉ tiêu phát
triển kinh tế xã hội trong kế hoạch, chưa có sự quan tâm đúng mực đối với cấp
nước quy mô hộ gia đình.
Thực tiễn tiếp cận nước sạch của người dân chưa cao, đặc biệt là người tộc
thiểu số và tỷ tệ hộ gia đình dân tộc thiểu số được sử dụng nước sạch tăng chậm
qua các năm. Mặc dù mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đặt mục tiêu đến năm 2025
có ít nhất 50% số hộ gia đình dân tộc thiểu số được tiếp cận nước sạch nhưng mục
tiêu này khó có thể thực hiện nếu với đà tăng như những năm qua. Những năm
1990, tỷ lệ hộ gia đình dân tộc thiểu số được tiếp cận nước sạch khoảng 5,3%
nhưng đến năm 2016, tỷ lệ này mới chỉ đạt khoảng 24%. Thậm chí, tỷ lệ hộ gia
đình dân tộc thiểu số tiếp cận nước hợp vệ sinh cũng chỉ chiếm trung bình khoảng
73,3%. Một số dân tộc thiểu số như Khơ Mú, La Ha, La Chí, Hà Nhì, Lô Lô… chỉ
có 30% - 50% số hộ được tiếp cận nước hợp vệ sinh.174 Qua đó cho thấy, việc đảm
bảo tiếp cận DVXHCB về nước sạch của nhóm đối tượng là người dân tộc thiểu
173https://www.sahrc.org.za/home/21/files/SAHRC%20Water%20and%20Sanitation%20revised%20pamphle t%2020%20March%202018.pdf 174 Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tr.41
số còn tồn tại nhiều hạn chế.
105
2.4.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về nước
sạch và thực tiễn thực hiện
Nước sạch được hiểu là nước hợp vệ sinh, đảm bảo an toàn cho sức khỏe,
nước trong, không màu, không mùi, không vị, không chứa vi sinh vật gây bệnh và
các chất độc hại gây ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng. Nước sạch theo quy
chuẩn quốc gia là nước đáp ứng các chỉ tiêu theo quy định của Quy chuẩn kỹ thuật
Quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt. Nước hợp vệ sinh là nước không màu,
không mùi, không vị, không chứa các thành phần có thể gây ảnh hưởng đến sức
khoẻ con người, có thể dùng để ăn uống sau khi đun sôi. Tiếp cận nước sạch với
tư cách là một DVXHCB, là bộ phận của ASXH được hiểu là nước sạch đáp ứng
chỉ tiêu theo quy định của Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sinh
hoạt. Hay nói cách khác, Nhà nước đảm bảo người dân được tiếp cận nước sạch
với các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt do cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam xây dựng. Khi sử dụng nước sạch, người sử dụng dịch
vụ phải trả phí theo khung giá, biểu giá do Nhà nước quy định.
Hiện nay ở Việt Nam, giá nước sạch do UBND tỉnh quyết định dựa trên
Thông tư số 44/2021/TT-BTC ngày 18/6/2021 của Bộ Tài chính quy định về
khung giá, nguyên tắc, phương pháp xác định giá nước sinh hoạt và được tính theo
phương pháp lũy tiến. Chẳng hạn, ở Bắc Ninh, giá nước sạch đối với hộ dân cư sử
dụng dưới 10m3/đồng hồ/tháng là 8.610đ/m3, sử dụng từ trên 10m3 đến 20
m3/đồng hồ/tháng là 10.710đ/m3 và mức cao nhất có giá là 18.360đ/m3 nếu sử
dụng trên 30m3/đồng hồ/tháng.175 Ở Hà Giang, giá nước cũng được quy định theo
mức lũy tiến như tỉnh Bắc Ninh với giá nước tương ứng là 7.500đ, 9.300đ và mức
cao nhất là 18.700đ.176 Giá nước sạch ở Hà Nội dự kiến từ tháng 7/2023 áp dụng
175 Quyết định Số 170/QĐ-UBND của UBND tỉnh Bắc Ninh ngày 9 tháng 5 năm 2023 về phê duyệt phương án giá nước sạch và biểu giá nước sinh hoạt của công ty cổ phần nước sạch Bắc Ninh 176 Quyết định Số 25/2022/QĐ-UBND của UBND tỉnh Hà Giang ngày 21 tháng 11 năm 2022 ban hành giá nước sinh hoạt trên địa bàn thành phố Hà Giang 177 https://vtv.vn/xa-hoi/ha-noi-du-kien-tang-gia-nuoc-sach-tu-thang-7-2023- 20230509100106043.htm#:~:text=Ph%C6%B0%C6%A1ng%20%C3%A1n%20%C4%91i%E1%BB%81u% 20ch%E1%BB%89nh%20gi%C3%A1%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20s%E1%BA%A1ch%20sinh%20h
mức 7.500đ/m3, 8.800đ/m3 và mức cao nhất là 12.000đ/m3177 với các mức sử
106
dụng tương tự quy định của tỉnh Bắc Ninh và Hà Giang.
So với Nam Phi, nội dung DVXHCB về nước sạch được quy định ở Việt Nam
hẹp hơn. Ở Nam Phi, nước dùng để uống phải được cung cấp tối thiểu 25l/người/ngày
hoặc 6 kg lít/hộ gia đình/tháng.178 Đối với người nghèo, các dịch vụ cơ bản được
cung cấp miễn phí bao gồm nước, điện và thu gom chất thải rắn để đảm bảo mỗi
hộ gia đình được cung cấp 6.000 lít nước đầu tiên miễn phí mỗi tháng. Sau đó,
nếu sử dụng thêm thì phải trả phí. Giá nước được tính luỹ tiến, có nghĩa dùng càng
nhiều thì giá càng cao. Có thể thấy, quy định này của Nam Phi đảm bảo mọi người
dân được tiếp cận nước sạch và đảm bảo người nghèo được sử dụng một lượng
nước sạch mà không phải trả phí. Điều này rất có ý nghĩa cho sức khoẻ, đời sống
của nhóm dân cư này. mà.
2.4.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản
về nước sạch và thực tiễn thực hiện
Theo quy định tại Văn bản hợp nhất số 12/VBHN-BXD ngày 27/4/2020
Nghị định về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch do Bộ Xây dựng ban hành
thì đơn vị cấp nước là tổ chức, cá nhân thực hiện một phần hoặc tất cả các
hoạt động khai thác, sản xuất, truyền dẫn, bán buôn nước sạch và bán lẻ nước sạch.
Như vậy, Nhà nước không trực tiếp cung cấp nước sạch mà lựa chọn các đơn vị
cấp nước có đủ kiều kiện theo quy định để ký thỏa thuận cấp nước sạch. Nhà nước
thực hiện kiểm soát hoạt động cấp nước nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của đơn vị cấp nước và khách hàng sử dụng nước.179 Trong đó, đơn vị cấp nước
được UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan được UBND cấp tỉnh phân cấp lựa chọn (có
sự tham gia của các địa phương trong vùng cấp nước). Đơn vị cấp nước đô thị và
khu vực công nghiệp do Bộ Xây dựng lựa chọn. Đơn vị cấp nước nông thôn, có
phạm vi liên tỉnh sẽ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lựa chọn. Đơn vị
o%E1%BA%A1t%20nh%C6%B0,%C4%91%E1%BB%93ng%2Fm3%20v%C3%A0o%20n%C4%83m%20 2024%3B 178 Alex Wafer, Jackie Dugard, Muzi Ngwenya, Shereza Sibanda (2008), The lived -reality of poor people’s access to basic services in Johannesburg’s inner city, Báo cáo nghiên cứu, tr.10
cấp nước được Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng công trình hạ tầng, chi phí bồi
107
thường, giải phóng mặt bằng, một phần chi phí đầu tư xây dựng công trình cấp
nước ở vùng đặt biệt khó khăn về nguồn nước, dân tộc ít người, miền núi, hải đảo;
hỗ trợ lãi suất… Nhìn chung, các chính sách ưu đãi này chưa đủ lớn để thu hút tư
nhân tham gia đầu tư. Chẳng hạn, ưu đãi đối với dự án cấp nước khu vực nông
thôn, khu vực miền núi, hải đảo, Nhà nước chỉ ưu đãi một phần chí phí đầu tư xây
dựng công trình, thực chất là chi phí thuê đất xây nhà máy. Ưu đãi về đường ống
không được bao gồm nên doanh nghiệp cũng không mặn mà với đầu tư nước sạch
ở các khu vực này. Điều này dẫn tới hệ quả là tỷ lệ tiếp cận nước sạch giữa khu
vực đô thị và nông thôn, giữa các vùng trong cả nước chưa đồng đều, chênh lệch
đáng kể.
BIỂU ĐỒ 2.1
Tỷ lệ sử dụng nước sạch ở một số địa phương
Nguồn: Tạp chí kinh tế Việt Nam180
Tỷ lệ trung bình hộ gia đình khu vực thành thị tiếp cận nước sạch chiếm
180 Chu Khôi, Quy hoạch nước sạch có nguy cơ “lỗi hẹn, vì đâu?”, https://vneconomy.vn/quy-hoach-nuoc- sach-co-nguy-co-loi-hen-vi-dau.htm, truy cập ngày 12/10/2022
84,2%, trong khi tỷ lệ này ở khu vực nông thôn chỉ đạt xấp xỉ 40%. Một trong các
108
nguyên nhân của tình trạng này là do đặc thù khu vực đô thị với dân trí cao, điều
kiện kinh tế tốt, nhà dân san sát nhau nên đường ống nước ngắn, có nghĩa suất đầu
tư thấp, chi phí quản lý, chăm sóc khách hàng cũng thấp do thuận tiện đi lại. Mặc
dù tài chính đầu tư thấp hơn khu vực nông thôn nhưng doanh thu cao hơn vì người
dân khu vực đô thị dùng nước với khối lượng tương đối lớn và chủ yếu dùng nước
sạch thay vì các nguồn nước khác như nước mưa, nước giếng khoan… như khu
vực nông thôn. Trong khi đó, khu vực nông thôn với đặc thù mật độ dân số thưa
và xa nên cần kéo dài đường ống dẫn đến chi phí lớn, nhưng mức độ sử dụng của
người dân thấp. Thực tế một số doanh nghiệp đã đầu tư ở nông thôn, sau đó phải
dừng vì người dân nông thôn tiết kiệm, chỉ sử dụng nước sạch để ăn uống còn
phục vụ những mục đích khác thì họ dùng nước khác.
2.4.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ xã
hội cơ bản về nước sạch và thực tiễn thực hiện
Nhà nước đảm bảo mọi người dân được tiếp cận nước sạch, nhằm hướng
tới mục tiêu bảo vệ sức khỏe, đảm bảo ASXH, giảm và phòng chống bệnh tật,
nâng cao chất lượng cuộc sống. Nhằm giảm tải áp lực cho NSNN và nâng cao
trách nhiệm của mỗi người dân, hoạt động cấp nước sạch được thực hiện theo
phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm, đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút nguồn
lực tham gia đầu tư xây dựng, quản lý vận hành công trình, đảm bảo hoạt động
hiệu quả, bền vững. Theo đó, người sử dụng nước sạch phải trả phí khi sử dụng
nước sạch theo nguyên tắc tính lũy tiến. Văn bản hợp nhất số 12/VBHN-BXD
Nghị định về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch do Bộ Xây dựng ban hành
cũng thể hiện rõ quan điểm này. Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia đầu tư phát triển cấp nước và thành lập Quỹ quay vòng cấp nước do Ngân
hàng Phát triển Việt Nam quản lý. Quỹ này nhằm tạo nguồn tài chính ưu đãi, sẵn
có cho các dự án đầu tư phát triển cấp nước các đô thị nhỏ và khu dân cư tập trung.
Nhà nước có nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ, ưu đãi đối với các dự án đầu
tư xây dựng cấp nước như: (a) Hỗ trợ đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng ngoài
109
hàng rào như cấp điện, đường; (b) Chi phí bồi thường, giải phóng mặt bằng đối
với dự án cấp nước tại các đô thị; (c) Chi phí bồi thường, giải phóng mặt bằng và
một phần chi phí đầu tư xây dựng công trình dự án cấp nước vùng đặc biệt khó
khăn về nguồn nước, dân tộc ít người, miền núi và hải đảo; (d) Ưu tiên sử dụng
các nguồn tài chính ưu đãi cho dự án đầu tư cấp nước, không phân biệt đối tượng
sử dụng; (d) Ưu tiên hỗ trợ lãi suất sau đầu tư các dự án cấp nước sử dụng nguồn
vốn vay thương mại. Các quy định này phần nào đã phát huy hiệu quả trong cung
cấp nước sạch với một số nhà máy nước quy mô lớn được vận hành cung cấp nước
sạch cho người dân trên diện rộng. Chẳng hạn, nhà máy nước mặt Sông Đuống
của tập đoàn AquaOne đã đầu tư 5000 tỷ, quy mô cung cấp nước sạch lớn nhất
miền Bắc nước ta với công suất 300.000m3/ngày đêm cung cấp đủ nước sạch cho
khoảng 3triệu người (chiếm 1/3 dân số Hà Nội và một số địa phương lân cận) và
dự kiến mở rộng thêm nữa trong tương lai. Hoặc khu vực miền Nam cũng có nhiều
công ty lớn đầu tư cung cấp nước sạch như: Công ty Nhự Đồng Nai, Công ty cổ
phần Nước-Môi trường Bình Dương (Biwase), Công ty cổ phần Nước Thủ Dầu
Một (Tdmwater).181
Văn bản hợp nhất số 12/VBHN-BXD Nghị định về sản xuất, cung cấp và
tiêu thụ nước sạch còn quy định cách tính giá nước sạch để xây dựng mức giá phù
hợp, vừa đảm bảo người dân có thể chi trả được, không quá rẻ để tránh lãng phí
nước, vừa đảm bảo quyền và lợi lích hợp pháp của đơn vị cấp nước, đảm bảo duy
trì, phát triển, khuyến khích nâng cao chất lượng dịch vụ. Theo đó, giá nước sạch
phải được tính đúng, tính đủ các yếu tố chi phí sản xuất hợp lý trong quá trình sản
xuất, phân phối nước sạch (bao gồm cả chi phí duy trì đấu nối). Các chủ thể được
bảo đảm quyền tự quyết định giá mua, bán nước trong khung giá, biểu giá nước
do Nhà nước quy định.
181 Bạch Huệ, cuộc chiến nước sạch: Những “tay chơi” mới khai phá thị trường tỷ USD https://vneconomy.vn/cuoc-chien-nuoc-sach-nhung-tay-choi-moi-khai-pha-thi-truong-ty-usd.htm, truy cập ngày 7/2/2023
Nhằm đảm bảo mục tiêu mọi người dân được tiếp cận nước sạch công bằng,
110
nhà nước chú trọng tới chính sách cấp nước sạch cho người dân nông thôn, vùng
có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Chiến lược quốc gia cấp
nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã thể hiện
rất rõ quan điểm này. Trong đó, vấn đề đầu tư cho nước sạch đóng vai trò quan
trọng, góp phần làm nên thành công của Chiến lược. Chiến lược quốc gia cũng chỉ
ra nhiều nguồn lực được huy động cho việc thực hiện chiến lược. Trong đó, ưu
tiên nguồn lực từ NSNN, vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài, nhất là nguồn
vốn từ các Chương trình mục tiêu quốc gia cho xây dựng nông thôn mới, phát
triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giảm nghèo và
ASXH bền vững và các chương trình, dự án khác có mục tiêu về cấp nước sạch
và vệ sinh nông thôn. Bên cạnh đó, nguồn đầu tư cho nước sạch còn được thu hút
từ các thành phần kinh tế xã hội, huy động sự tham gia, đóng góp của người dân
trong đầu tư xây dựng, quản lý vận hành công trình cấp nước, vệ sinh môi trường
nông thôn và hỗ trợ hoạt động cấp nước quy mô hộ gia đình. Tỷ lệ chi NSNN cho
nước sạch và vệ sinh tăng dần qua các năm, cụ thể tỷ lệ chi cho các tỉnh miền núi
tăng từ 8% năm 2016 lên 25% năm 2018. Khu vực nghèo được chú trọng đảm bảo
sự công bằng trong tiếp cận nước sạch khi tỷ lệ NSNN chi cho nước sạch và vệ
sinh ở khu vực này tăng từ 4% năm 2016 lên 35% năm 2018.182 Tính đến năm
2020, đã có 18 nhà tài trợ đa phương, song phương và các tổ chức phi chính phủ
cam kết hỗ trợ và tài trợ thực hiện Chiến lược quốc gia cấp nước sạch và vệ sinh
nông thôn hoặc các dự án độc lập của Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển
Châu Á… tài trợ.183 Ở các quốc gia, NSNN cũng chi cho vấn đề đảm bảo nước
sạch của người dân bên cạnh nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân. Chính phủ Ấn
Độ đã đạt được thành tựu rất lớn trong vấn đề nước sạch, vệ sinh môi trường.
182 Unicef (2022), Tóm tắt chính sách về nước sạch và vệ sinh môi trường tại Việt Nam 183 Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2030, tầm nhìn đến 2045, Báo cáo chiến lược (V6), 2020, tr. 20
Chính phủ Mỹ cũng nỗ lực thúc đẩy các nguồn đầu tư từ khu vực tư nhân, các cơ
111
quan phát triển, các tổ chức dựa trên đức tin và người dân184.
Nhìn chung, các quy định về đầu tư cho nước sạch vẫn tập trung về đầu tư
xây dựng, chưa có nhiều quy định đảm bảo hoạt động vận hành, khai thác để phát
huy hiệu quả đầu tư. Bằng chứng là tính đến năm 2019, mặc dù cả nước đã xây
dựng khoảng 16.342 công trình cấp nước tập trung nhưng hiệu quả hoạt động lại
chưa cao.
BIỀU ĐỒ 2.2
Số lượng công trình cấp nước tập trung nông thôn tính đến năm 2019185
Trong số các công trình này, có 12% công trình không hoạt động, tỷ lệ công
trình hoạt động kém hiệu quả chiếm 16,7%, công trình hoạt động trung bình chiếm
37,8% và chỉ có 33,5% công trình bền vững. Tỷ lệ bao phủ người dân nông thôn
sử dụng nước hợp vệ sinh khá cao, chiếm 88,5%. Tuy nhiên tỷ lệ người dân được
sử dụng nước sạch đạt Quy chuẩn Việt Nam chỉ chiếm 51%. Tình trạng công trình
cấp nước sạch được đầu tư xây dựng nhưng hoạt động không hiệu quả xảy ra phổ
184 Unicef, Tóm tắt chính sách về nước sạch & vệ sinh môi trường tại Việt Nam, 2020, tr. 11 185 Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2030, tầm nhìn đến 2045, Báo cáo chiến lược (V6), 2020, tr.16
biến. Chẳng hạn, tính đến năm 2020 tại tỉnh Đắk Lắk có 114 công trình cấp nước
112
sinh hoạt nhưng có đến 8 công trình kém bền vững và 46 công trình đã ngưng hoạt
động. Tương tự, tỉnh Đắk Nông có 250 công trình cấp nước tập trung nhưng chỉ
có 1/3 số công trình hoạt động (79/250) tương ứng với khoảng 9% tổng số hộ dân
trên địa bàn được sử dụng nước từ các công trình cấp nước này.186
2.5. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về tiếp cận thông
tin và thực tiễn thực hiện
Trước năm 2016, vấn đề TCTT được đề cập trong các văn bản pháp luật
thuộc các lĩnh vực khác nhau và chưa có một đạo luật trực tiếp điều chỉnh vấn đề
này. Các văn bản này nhìn chung mới chỉ quy định về trách nhiệm công khai, minh
bạch và cung cấp thông tin trong các lĩnh vực cụ thể. Luật TCTT năm 2016 ra đời
là một bước tiến quan trọng thể hiện sự tiến bộ trong hệ thống ASXH quốc gia và
thể hiện sự nỗ lực thực hiện cam kết quốc tế về quyền con người của Việt Nam.
Ngoài ra, vấn đề TCTT còn được quy định trong một số văn bản pháp luật khác
như Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018, Luật Báo chí năm 2016, Luật Bảo
vệ bí mật nhà nước năm 2018… và các văn bản hướng dẫn thi hành.
2.5.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản
về thông tin và thực tiễn thực hiện
Quyền TCTT là quyền của mọi người dân được tiếp cận các thông tin được
ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức công quyền, đặc biệt là các cơ quan
hành chính nhà nước. Quyền TCTT của công dân Việt Nam được chính thức ghi
nhận từ Hiếp pháp 1992. Điều này thể hiện kết quả của quá trình đổi mới, khẳng
định quyền TCTT là quyền cơ bản của công dân, đồng thời nâng cao trách nhiệm
của nhà nước trong việc cung cấp thông tin. Hiến pháp 2013 tiếp tục ghi nhận
quyền TCTT của công dân tại Điều 25 và được cụ thể hoá tại Điều 3 Luật TCTT:
“Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện
186 Lê Hường, Thấy gì từ các công trình nước sinh hoạt tập trung ở Tây Nguyên? Hàng trăm công trình không hiệu quả, https://baodantoc.vn/thay-gi-tu-cac-cong-trinh-nuoc-sinh-hoat-tap-trung-o-tay-nguyen-hang-tram- cong-trinh-khong-hieu-qua-bai-1-1623050902607.htm, truy cập ngày 12/9/2022
quyền TCTT”. Như vậy, đối tượng TCTT ở Việt Nam mang tính phổ quát đối với
113
mọi công dân. Đối tượng TCTT không chỉ có công dân Việt Nam mà còn cả người
nước ngoài cư trú tại Việt Nam.187
Nhìn chung, quy định về đối tượng TCTT ở Việt Nam tương đối phù hợp
với pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia trên thế giới, thể hiện sự nỗ lực
hoàn thiện hệ thống pháp luật trong việc đảm bảo nhu cầu cơ bản của con người.
Việc TCTT của người dân ngày càng thuận tiện với sự phát triển của khoa học
công nghệ, sự quan tâm từ phía nhà nước và từ chính nhu cầu, ý thức về quyền
được TCTT của người dân. Cụ thể, tỷ lệ bao phủ người dân sử dụng Internet ở
Việt Nam ngày tăng mạnh qua các năm, tính đến năm 2019, có khoảng 59,2 triệu
người dân sử dụng Internet và con số này được dự báo tăng tới 75,7 triệu người
sử dụng vào năm 2023 và 82,25 triệu người vào năm 2025.188 Tỷ lệ người dân đọc
tin tức trên nền tảng Internet và sử dụng Internet tăng nhanh từ 28% năm 2017 lên
38% năm 2018189. Tính đến tháng 6/2018, Việt Nam có 857 cơ quan báo chí với
1.119 ấn phẩm và 1.510 website được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép.
Mỗi năm có 650 triệu ấn bản báo chí được phát hành. Việt Nam có 195 trang báo,
tạp chí điện tử, 67 đài phát thanh và truyền hình trên cả nước phát sóng trên 182
kênh và 01 hãng thông tấn. Trong đó, đài Tiếng nói Việt Nam phủ sóng trên 97,5%
diện tích đất nước và tín hiệu truyền hình Việt Nam tiếp sóng 90% hộ gia đình.190
Tuy nhiên, quy định về đối tượng TCTT ở Việt Nam vẫn tồn tại hạn chế,
bất cập và mâu thuẫn dẫn tới khó khăn trong quá trình thực hiện.
Thứ nhất, quy định đối tượng TCTT trong luật TCTT chưa tương thích với
các văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia và chưa tương thích
https://www.statista.com/
187 Khoản 1 Điều 36 Luật TCTT năm 2016 188Statista, Number of internet users in Vietnam from 2017 to 2023 statistics/369732/internet-users-vietnam, truy cập ngày 7/2/2022. 189 Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2020), Báo cáo tóm tắt đánh giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (lần thứ ba) 190 Nhóm công tác liên ngành 18 cơ quan, Báo cáo quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III, 2018, tr.16
với chính các văn bản quy phạm pháp luật khác trong nước. Điều 19 Tuyên ngôn
114
nhân quyền năm 1948 quy định “Ai cũng có quyền tự do quan niệm…và quyền tìm
kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông
không kể biên giới quốc gia”. Điều 19.2 Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính
trị năm 1966 quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm
tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến…”. Ở Việt Nam, đối
tượng TCTT được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau
với nhiều cách quy định khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu của Bộ Tư pháp năm
2015 trong Báo cáo đánh giá về bảo đảm quyền TCTT của công dân thì Việt Nam
có ít nhất 41 luật, pháp lệnh và 34 thông tư, nghị định thuộc 16 lĩnh vực có quy
định về chủ thể TCTT. Trong số các văn bản này, có văn bản không giới hạn,
không xác định cụ thể đối tượng được TCTT. Điều này có nghĩa là người nước
ngoài, người không có quốc tịch sinh sống ở Việt Nam và tổ chức nước ngoài hoạt
động hợp pháp tại Việt Nam vẫn được TCTT do cơ quan nhà nước chủ động công
khai rộng rãi. Chẳng hạn, Luật Dược trong quy định về công khai giá thuốc; Luật
Phòng, chống bệnh truyền nhiễm “Mọi người đều được tiếp cận với thông tin…”
(Điều 10). Một số văn bản lại xác định đối tượng TCTT là cá nhân, cơ quan, tổ
chức như Luật Tài nguyên nước191, Luật Phòng chống tham nhũng. Trong khi đó,
như trên đã phân tích Luật TCTT chỉ giới hạn đối tượng TCTT là “công dân”.
Thứ hai, Khoản 3 Điều 4 Luật TCTT chưa tương thích với Luật trẻ em khi
quy định: “Người dưới 18 tuổi yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại
diện theo pháp luật”. Còn theo Luật Trẻ em năm 2016 quy định “trẻ em là người
dưới 16 tuổi” và “Trẻ em có quyền được TCTT đầy đủ, kịp thời, phù hợp; có quyền
tìm kiếm, thu nhận các thông tin dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, quy định về đối tượng TCTT tại Điều 4 Luật TCTT chưa hoàn toàn
tương thích với Luật Trẻ em và quyền TCTT của nhóm người từ đủ 16 đến dưới
18 tuổi vô hình chung bị hạn chế vì phải thông qua người đại diện theo pháp luật.
191 Điều 8 Luật Tài nguyên nước năm 2012
Đảm bảo quyền TCTT còn được quy định riêng đối với người khuyết tật,
115
là những người có khó khăn trong việc TCTT. Luật Người khuyết tật năm 2010
quy định quyền TCTT được xác định là một trong 7 nhóm quyền của người khuyết
tật. Nghị định số 13/2018/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật
TCTT đã dành riêng một điều quy định về vấn đề này. Theo đó, các thông tin liên
quan trực tiếp tới người khuyết tật phải được cung cấp kịp thời theo hình thức
thuận lợi, cơ quan cung cấp thông tin bố trí cán bộ hướng dẫn, giải thích, giúp đỡ
người khuyết tật trong việc yêu cầu cung cấp thông tin… Cơ quan báo chí có giấy
phép hoạt động phát thanh, truyền hình cung cấp kênh chương trình truyền hình
phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu của quốc gia có trách
nhiệm áp dụng tiêu chuẩn, công nghệ hỗ trợ người khuyết tật nghe tiếp cận chương
trình thời sự chính trị tổng hợp hàng ngày trên kênh. Nghĩa vụ tương tự cũng được
quy định đối với trang thông tin điện tử/Cổng thông tin điện tử/Cổng Dịch vụ công
của cơ quan, tổ chức.192 Như vậy, Việt Nam đang từng bước thực hiện cam kết
khi tham gia Công ước về các quyền của người khuyết tật (CRPD), điều này góp
phần to lớn nhằm đảm bảo quyền TCTT được thực hiện một cách công bằng đối
với mọi người dân. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, TCTT của người khuyết tật
đang gặp phải những rào cản nhất định, họ chưa được TCTT một cách thuận lợi
và hiệu quả. Trong số 245 cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của 27
cơ quan nhà nước cấp TW; Văn phòng UBND cấp tỉnh và Sở Tư pháp thuộc 63
tỉnh, thành phố; và 92 cơ quan nhà nước nằm trong phạm vi nghiên cứu, thì tất cả
245 cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử này đều chưa có thư mục
tiếp cận thông tin với người khuyết tật. Phần mềm đọc văn bản cho người khuyết
tật nhìn hay hướng dẫn kết nối với dịch vụ phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật nghe chưa được đăng tải trên các cổng/trang thông tin điện tử
192 Điều 4 Thông tư số 26/2020/TT-BTTTT ngày 23/9/2020 về áp dụng tiêu chuẩn, công nghệ hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận, sử dụng sản phẩm, dịch vụ thông tin và truyền thông 193 Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2020), Báo cáo đánh giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (lần thứ hai)
này.193 Thêm vào đó, TCTT của người khuyết tật còn hạn chế hơn so với người
116
không khuyết tật do tỷ lệ sở hữu các phương tiện truyền thông của hai nhóm này
còn sự chênh lệch lớn. Chẳng hạn tỷ lệ hộ gia đình sở hữu Tivi giữa hai nhóm là
87,7% so với 94,4%, tỷ lệ sử dụng thuê bao Internet là 16,8% so với 30,9%, tỷ lệ
sở hữu máy tính là 13,7% so với 28,6% và đặc biệt là tỷ lệ cá nhân sử dụng Internet
của người không khuyết tật cao gấp 6,5 lần so với người khuyết tật.194
Một nhóm đối tượng khác cũng gặp khá nhiều trở ngại trong việc TCTT là
NLĐ di cư. Quá trình sinh sống, làm việc tại nơi di cư đến, lao động di cư phải
đối mặt với nhiều khó khăn. Vì vậy, việc TCTT là nhu cầu thiết yếu với họ, nó
không những đáp ứng nhu cầu trao đổi, nắm bắt tình hình, mở rộng kiến thức mà
còn giúp họ có khả năng, cơ hội khắc phục khó khăn để vươn lên. Tuy nhiên, việc
TCTT của lao động di cư chưa đồng đều ở các vùng khác nhau trong cả nước. Cụ
thể, tại khu vực thành thị, lao động di cư có sự thuận tiện, dễ dàng hơn trong
TCTT. Theo thống kê, chỉ có 1,1% lao động di cư tại Hà Nội gặp khó khăn về
TCTT, thấp nhất cả nước nhưng tại khu vực Tây Nguyên, tỷ lệ này là 23,9% cao
nhất nước.195 Theo nghiên cứu của Oxfam, 67,2% lao động di cư không biết nơi
cung cấp thông tin và tư vấn về Bộ luật Lao động và Luật BHXH, Luật BHYT.
Cho đến nay, chưa có chương trình truyền thông đại chúng chuyên biệt chính thức
nào dành riêng cho cộng đồng người di cư.
2.5.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về tiếp
cận thông tin và thực tiễn thực hiện
Theo Luật TCTT năm 2016 thì công dân được tiếp cận tất cả thông tin do cơ
quan nhà nước công khai và được quyền yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông
tin (Điều 10). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng quyền TCTT của công dân có thể bị giới
hạn trong một số trường hợp đặc biệt hoặc được tiếp cận có điều kiện. Điều 6 Luật
TCTT quy định thông tin không được tiếp cận là những thông tin thuộc bí mật nhà
194 Tổng cục Thống kê (2016), Điều tra Quốc gia về người khuyết tật 2016 – Báo cáo cuối cùng, tr.21 195 Tổng Cục thống kê- Quỹ dân số LHQ (2016), Báo cáo điều tra di cư nội địa quốc gia năm 2015
nước (thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an
117
ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo
quy định của pháp luật). Thông tin công dân được tiếp cận có điều kiện là thông
tin liên quan đến bí mật kinh doanh, bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình cần được sự đồng ý. Nhìn chung, Luật TCTT năm 2016 ra đời đã tạo
hành lang pháp lý trong việc xác định phạm vi, nội dung thông tin được tiếp cận
một cách rõ ràng hơn so với trước đây. Tuy nhiên, các quy định về nội dung TCTT
vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Cụ thể:
Theo quy định tại Khoản 3, Điều 2 thì “tiếp cận thông tin là việc đọc, nghe,
ghi chép, sao chép, chụp thông tin”. Như vậy, nội dung DVXHCB về TCTT ở
Việt Nam chỉ dừng lại ở việc đọc, nghe, ghi chép, sao chép và chụp thông tin do
cơ quan nhà nước công khai hoặc thông tin yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp,
mà không có các nội dung khác như truyền bá hoặc chia sẻ thông tin. Có thể thấy,
nội dung DVXHCB về TCTT được quy định ở Việt Nam chưa tương thích với
Hiến pháp năm 2013 và với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Công
ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị tại Khoản 2 Điều 19 quy định “mọi người
có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền
đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng
miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương
tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ.” Điều 25 Hiến pháp năm
2013 quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin,…”. Việc Luật TCTT năm 2016 chưa tương thích với Hiếp pháp và Công ước
quốc tế, chưa cụ thể hoá quyền chia sẻ thông tin được cung cấp cũng dễ đặt công
dân vào tình trạng vi phạm pháp luật trong trường hợp họ chia sẻ thông tin tiếp
cận được với người khác dưới bất kỳ hình thức nào.196
Một bất cập khác là quy định về công khai thông tin của cơ quan nhà nước.
196 Tổ chức CARE tại Việt Nam, tổ chức Oxfam tại Việt Nam, Liên minh Nước sạch, Liên minh Khoáng sản và Liên minh đất rừng (2019), Báo cáo đánh giá ban đầu việc thực thi Luật tiếp cận thông tin.
Cụ thể, đối với thông tin được cơ quan nhà nước công khai thì thời điểm công khai
118
thông tin đối với từng lĩnh vực được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên
quan, trường hợp pháp luật chưa có quy định thì chậm nhất là 05 ngày làm việc
kể từ ngày tạo ra thông tin, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải công khai thông
tin (Khoản 4 Điều 18). Tuy nhiên, khoản 1 Điều 23 Luật TCTT lại quy định thông
tin phải được công khai có thể là thông tin được cung cấp theo yêu cầu. Như vậy,
quy định này có thể dẫn đến tình trạng cơ quan cung cấp thông tin viện dẫn lý do
“cung cấp thông tin theo yêu cầu” để biện minh cho việc không kịp thời công khai
thông tin. Từ đó, việc thực hiện nghĩa vụ chủ động công khai, cung cấp thông tin
của cơ quan Nhà nước có thể bị chậm trễ, dẫn đến vi phạm nguyên tắc kịp thời
cung cấp thông tin cho công dân.
Không những thế, bất cập trong quy định về cung cấp thông tin theo yêu
cầu làm ảnh hưởng đến quyền TCTT. Cụ thể, Điều 24 Luật TCTT quy định khi
yêu cầu cung cấp thông tin, người yêu cầu phải viết Phiếu yêu cầu cung cấp thông
tin. Trong đó, nội dung của Phiếu yêu cầu cung cấp thông tin phải chỉ rõ tên văn
bản, hồ sơ, tài liệu của thông tin được yêu cầu cung cấp. Quy định này phần nào
làm hạn chế quyền TCTT của người yêu cầu cung cấp thông tin trong trường hợp
cơ quan nhà nước tạo ra văn bản chưa công khai tài liệu hoặc tài liệu chưa được
đưa vào danh mục tài liệu phải công khai/ tiếp cận theo yêu cầu hoặc tài liệu đã
hết thời hạn công khai nhưng người dân chưa tiếp cận được. Hơn nữa quy định
phải chỉ rõ tên văn bản, hồ sơ, tài liệu cũng gây khó khăn cho người yêu cầu cung
cấp thông tin bởi không phải người dân nào cũng có thể nhớ, nắm được tên các
văn bản, hồ sơ, tài liệu của cơ quan nhà nước hoặc trong trường hợp người yêu
cầu không biết chữ cũng là một khó khăn khi cần phải đọc và nhớ tên văn bản, hồ
sơ, tài liệu.
Về chi phí TCTT, tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia mà chi phí TCTT
được quy định khác nhau. Nhìn chung, nhiều quốc gia quy định nghĩa vụ trả phí
khi yêu cầu cung cấp thông tin, nhưng các chi phí này phải được quy định một
cách hợp lý, không tạo ra rào cản TCTT hoặc không phải là mục tiêu lợi nhuận
119
của chủ thể cung cấp thông tin. Thông thường các loại chi phí bao gồm chi phí
nộp đơn, tìm kiếm, sao chép thông tin và lệ phí khiếu nại. Nếu chi phí TCTT được
quy định một cách hợp lý, sẽ là điều cần thiết bảo đảm bù đắp chi phí hoạt động
cho các cơ quan công quyền, tránh tình trạng công dân yêu cầu cung cấp thông tin
một cách tuỳ tiện và là biện pháp giảm áp lực cho NSNN. Ở Việt Nam, công dân
được cung cấp thông tin không phải trả phí, lệ phí, trừ trường hợp luật khác có
quy định. Người yêu cầu cung cấp thông tin phải trả chi phí thực tế để in, sao,
chụp, gửi thông tin (Điều 12 luật TCTT năm 2016). Quy định này nhìn chung phù
hợp với xu hướng chung của nhiều nước trên thế giới, nhằm đảm bảo công dân
khi yêu cầu cung cấp thông tin phải trả mức phí có thể chấp nhận được so với thu
nhập và tránh sự tuỳ tiện khi yêu cầu cung cấp thông tin.
2.5.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản
về tiếp cận thông tin và thực tiễn thực hiện
Quyền TCTT luôn gắn liền với trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan
nhà nước. Khoản 1 Điều 9 Luật TCTT quy định cơ quan nhà nước có trách nhiệm
cung cấp thông tin do mình tạo ra, trừ thông tin công dân không được tiếp cận; đối
với thông tin được tiếp cận có điều kiện thì cung cấp thông tin khi có đủ điều kiện
theo quy định. UBND cấp xã có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình tạo ra và
thông tin do mình nhận được để trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, trừ trường hợp thông tin công dân không được tiếp cận; thông tin
được tiếp cận có điều kiện thì cung cấp thông tin khi có đủ điều kiện theo quy
định. Quy định này thể hiện được bản chất của quyền TCTT và phù hợp với các
quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước. Thực tế, một số cơ quan
nhà nước đã thực hiện nghiêm túc quy định của Luật TCTT về ban hành và công
khai quy chế nội bộ về tổ chức cung cấp thông tin. Trong đó, quy định đối tượng,
nguyên tắc thực hiện Luật TCTT; trách nhiệm lãnh đạo trong thực hiện quyền
TCTT; đầu mối công khai cung cấp thông tin; quy trình công khai thông tin và
cung cấp thông tin theo yêu cầu; trách nhiệm khi cung cấp thông tin sai và các quy
120
định liên quan đến phí cung cấp thông tin.197 Điều này tác động tích cực đến hiệu
quả yêu cầu cung cấp thông tin của công dân cũng như tăng trách nhiệm của cơ
quan nhà nước về trách nhiệm giải trình thực hiện quyền TCTT của công dân. Quy
định về chủ thể cung cấp thông tin vẫn tồn tại một số hạn chế, mâu thuẫn với các
văn bản luật khác gây khó khăn trong quá trình áp dụng. Cụ thể:
Quy định về chủ thể cung cấp thông tin trong Luật TCTT của Việt Nam
chưa đồng nhất, chưa tương thích với quy định của các văn bản pháp luật khác
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Theo kết quả nghiên cứu, rà soát của Tổ chức
Hướng tới minh bạch (TT) và Nhóm làm việc vì sự tham gia của người dân
(PPWG) thì có 31 luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền
TCTT và 18 lĩnh vực thông tin phải công khai theo quy định của Luật Phòng,
chống tham nhũng. Các văn bản này quy định chủ thể cung cấp thông tin rất rộng,
bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp ở tất cả các cấp cũng như
các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp nhà nước,
các cơ quan cung cấp dịch vụ công. Thêm vào đó, Báo cáo đánh giá thực trạng
pháp luật về đảm bảo quyền TCTT do Bộ Tư pháp thực hiện nêu trên đưa ra kết
luận: “chủ thể có trách nhiệm công bố, công khai thông tin được quy định rất
rộng, bao gồm toàn bộ cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị -xã hội, doanh nghiệp
và cả các tổ chức, cá nhân trong một số lĩnh vực”. Như vậy, có thể thấy, chủ thể
cung cấp thông tin được quy định ở các văn bản pháp luật khác không chỉ có cơ
quan nhà nước mà còn có doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân. Trong khi Luật
TCTT chỉ giới hạn chủ thể cung cấp thông tin là cơ quan nhà nước, thể hiện hệ
thống pháp luật còn tồn tại mâu thuẫn, chồng chéo.
Nhìn chung, việc chủ động cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước
được thực hiện khá chậm, thiếu cập nhật làm ảnh hưởng tới quá trình tìm kiếm
197 Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2020), Báo cáo đánh giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (lần thứ hai), tr.17
thông tin của người dân. Theo kết quả nghiên cứu thì tính đến đầu tháng 3/2/2020
121
trong số 245 cổng thông tin được tìm kiếm của cơ quan nhà nước, bao gồm của
cơ quan trung ương, cơ quan địa phương, cơ quan chuyên môn thì chỉ có 27 cổng
thông tin có chuyên mục tiếp cận thông tin và có 11 cổng thông tin có danh mục
thông tin phải công khai theo quy định của Luật TCTT. Cũng theo kết quả nghiên
cứu này, tỷ lệ cơ quan nhà nước không phản hồi yêu cầu cung cấp thông tin lên
tới 70% số cơ quan được nhóm nghiên cứu gửi yêu cầu cung cấp thông tin. Không
những thế, một số đại diện của các cơ quan nhà nước chưa hiểu hoặc còn nhầm
lẫn quyền yêu cầu cung cấp thông tin của công dân theo luật TCTT với yêu cầu
giải quyết thủ tục hành chính thông thường.198 Khi được hỏi về tình hình công
khai thông tin và cung cấp thông tin theo yêu cầu, đa phần các lãnh đạo và chuyên
viên được hỏi đều viện dẫn việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật khác
như Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật; Luật Tiếp công dân; Luật Báo chí..; Hoặc
có sự nhầm lẫn giữa công chức phụ trách công tác lưu trữ và công chức được phân
công làm đầu mối cung cấp thông tin.199
2.5.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ xã
hội cơ bản về tiếp cận thông tin và thực tiễn thực hiện
Nghiên cứu của Viện Thịnh vượng Toàn cầu đã chứng minh rằng tiền chi
cho các dịch vụ cơ bản - nền tảng cơ bản nhất của cuộc sống cần thiết cho mọi
người dân trong thế kỷ XXI - làm giảm đáng kể chi phí sinh hoạt cơ bản của những
người có thu nhập thấp nhất.200 Như vậy, đầu tư cho TCTT cần phải được NSNN
hỗ trợ bên cạnh nguồn đầu tư từ xã hội hoá, nguồn vốn đầu tư của khu vực tư
nhân.
198 Trung tâm Thúc đẩy giáo dục s và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2020), Báo cáo đánh giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (lần thứ hai), tr.20, 35 199 Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2021), Thảo luận chính sách, Thực thi hiệu quả Luật Tiếp cận thông tin 200 Institute for global prosperity (2017), Social prosperity for the future:A proposal for Universal Basic Services, tr.6
Để quyền TCTT được đảm bảo thực hiện hiệu quả trên thực tế thì một trong
122
những phương thức hữu hiệu nhất là ứng dụng công nghệ thông tin. Năm 2019,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05
tháng 9 năm 2019 quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng
nguồn vốn NSNN nhằm bảo đảm sự tương thích với quy định của Luật Đầu tư
công. Chính phủ đề nghị các địa phương dành ít nhất 1% ngân sách hàng năm cho
ứng dụng công nghệ thông tin. Pháp luật TCTT cũng quy định NSNN đảm bảo
kinh phí thực hiện việc cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước.201 Kinh phí
thực hiện Kế hoạch triển khai thực thi Luật TCTT được bố trí từ NSNN trong dự
toán chi thường xuyên hàng năm và các nguồn khác theo quy định của pháp luật.
Nhìn chung, các quy định về nguồn tài chính đầu tư cho TCTT vẫn chung chung,
chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về mức kinh phí và cách thức sử dụng NSNN
cho TCTT. Việc dành 1% ngân sách địa phương hàng năm cho ứng dụng công
nghệ thông tin cũng mới chỉ dừng lại ở góc độ khuyến khích của Chính phủ mà
chưa có quy định cụ thể ràng buộc trách nhiệm của chính quyền địa phương. Chưa
có quy định hướng dẫn mức kinh phí cụ thể hàng năm ngân sách địa phương phải
dành cho việc phát triển công nghệ thông tin. Nếu so sánh với một số quốc gia
khác thì mức đầu tư cho công nghệ thông tin ở Việt Nam còn thấp. Các quốc gia
Asean chi 1,3-1,5% GDP, còn các nước phát triển chi 2-2,5% GDP trong khi mức
chi ở Việt Nam rất khiêm tốn với 0,3-0,4% GDP.202
Thực tiễn đầu tư cho cơ sở hạ tầng lưu trữ và cung cấp thông tin chưa đạt
hiệu quả cao trên thực tế, khó đảm bảo cung cấp thông tin cho công dân một cách
kịp thời, chính xác và đầy đủ. Một số xã, phường chưa có trang thông tin điện tử
hoặc có thì cũng chỉ là trang liên kết từ trang thông tin điện tử của UBND huyện.
Hình thức lưu trữ chủ yếu vẫn là lưu trữ văn bản giấy, tài liệu chưa được sắp xếp
theo tiêu chuẩn quy định tại Luật Lưu trữ. Cơ sở hạ tầng lưu trữ thông tin hiện tại
201 Điều 13 Nghị định 13/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Tiếp cận thông tin 202 https://amp.baodautu.vn/phat-trien-cong-nghe-thong-tin-muon-dot-pha-phai-chiu-chi-d130405.html, truy cập ngày 12/3/2022
của các cơ quan thuộc cấp huyện và cấp xã khó bảo đảm cung cấp thông tin, đặc
123
biệt những thông tin chỉ được lưu bằng văn bản giấy. Nguyên nhân được phản ánh
là do khó khăn về tài chính, cách thức và khó khăn nhân lực có chuyên môn công
nghệ thông tin để tạo dựng cơ sở vật chất hay vận hành cổng/trang thông tin điện
tử. Đặc biệt, vận hành các cổng/trang này dễ tiếp cận hơn cho người khuyết tật,
người mù chữ hay những nhóm dễ bị tổn thương khác.203
Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, việc TCTT chủ yếu qua phương
tiện ti vi nhưng tỷ lệ sở hữu ti vi không đồng đều giữa các khu vực. Theo thống
kê, tỷ lệ hộ gia đình dân tộc Hoa, Sán Dìu sở hữu ti vi lên tới 95% nhưng một số
dân tộc khác tỷ lệ khiêm tốn hơn, ở mức dưới 60% như dân tộc Co, Khơ Mú,
Mông, Chứt, Cơ Lao, Lô Lô, Mảng và La Hủ. Một công cụ quan trọng nữa để
người dân nơi đây TCTT là máy vi tính kết nối Internet nhưng tỷ lệ người dân tộc
thiểu số có máy tính kết nối Internet lại khá khiêm tốn. Tỷ lệ hộ dân tộc Hoa có
máy tính là 46,7%, có kết nối Internet là 47,2%; dân tộc Ngái là 27,4% hộ có máy
vi tính và 17,1% có kết nối Internet. 51 dân tộc còn lại chỉ có dưới 17% hộ dân
tộc thiểu số sở hữu máy tính và dưới 10% tiếp cận được Internet. Thậm chí, các
dân tộc Si La, Chứt, La Hủ, Xinh Mun chỉ có dưới 1% số hộ có máy vi tính. Các
dân tộc La Hủ, Kháng, Khơ Mú, Xinh Mun, Rơ Măm không được kết nối Internet,
đặc biệt dân tộc Brâu không có hộ nào có máy vi tính hay Internet.204
Một điều kiện nữa để quyền TCTT của người dân được thực hiện hiệu quả
là không thể thiếu hệ thống chia sẻ dữ liệu của cơ quan nhà nước. Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 47/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/4/2020 quy định về
quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước. Điểm b khoản 6 Điều
5 quy định dữ liệu của cơ quan nhà nước chia sẻ cho tổ chức, cá nhân thực hiện
theo quy định của Luật TCTT và các quy định của pháp luật hiện hành. Quy định
203 Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2020), Báo cáo đánh giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (lần thứ hai), tr.30, 204 Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tr.47
này một lần nữa khẳng định việc chia sẻ dữ liệu của cơ quan nhà nước là nhằm
124
đảm bảo TCTT cho người dân. Kinh phí đầu tư cho kết nối, chia sẻ dữ liệu được
đảm bảo bởi NSNN trung ương và ngân sách địa phương. Theo tinh thần đó, năm
2020, 100 chuyên gia được đào tạo cho chính phủ điện tử ở các bộ, ngành, địa
phương. Đồng thời, sử dụng tối thiểu 1% tỷ lệ chi ngân sách các cấp từ trung ương
đến địa phương cho xây dựng và phát triển chính phủ điện tử.
2.6. Một số nhận xét, đánh giá
2.6.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, các DVXHCB đều được quy định có đối tượng tiếp cận mang
tính phổ quát.
Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đều ghi nhận quyền
tiếp cận DVXHCB đối với toàn bộ dân chúng. Điều này góp phần đảm bảo không
ai bị bỏ lọt khỏi tấm lưới đỡ ASXH quốc gia.
Thứ hai, một số DVXHCB được quy định trong hệ thống pháp luật tương
đối đầy đủ, toàn diện.
Hệ thống pháp luật về DVXHCB không chỉ dừng lại ở quy định ghi nhận
đối tượng tiếp cận mang tính bao phủ mà còn quy định riêng đối với nhóm đối
tượng yếu thế như người nghèo, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số… Chẳng
hạn, quy định giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật; trẻ em mầm non 05 tuổi ở
thôn, xã đặc biệt khó khăn, dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo được miễn học phí;
người nghèo được NSNN đóng BHYT; áp dụng tiêu chuẩn, kỹ thuật hỗ trợ người
khuyết tật TCTT,…
Hệ thống pháp luật về DVXHCB quy định khá đầy đủ về chủ thể cung cấp
DVXHCB. Theo đó, tùy từng DVXHCB mà chủ thể cung cấp DVXHCB là Nhà
nước hay khu vực tư nhân cung cấp. Chẳng hạn, DVGDCB do Nhà nước cung cấp
thông qua hệ thống trường công lập. Chủ thể cung cấp chăm sóc YTCB là các cơ
sở khám chữa bệnh công lập hoặc các cơ sở khám chữa bệnh có ký hợp đồng với
tổ chức BHYT. Hoặc đối với nước sạch, chủ thể cung cấp nước sạch là các đơn vị
cấp nước được Nhà nước lựa chọn… Đối với những DVXHCB mà Nhà nước
125
không trực tiếp cung cấp thì Nhà nước chịu trách nhiệm kiểm soát, quản lý đảm
bảo về chất lượng, giá dịch vụ…
Hệ thống pháp luật về DVXHCB chỉ ra nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB
tương đối đầy đủ và phù hợp với xu thế chung của các quốc gia trên thế giới. Trong
đó, nguồn tài chính được đảm bảo từ NSNN, nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân,
nguồn vốn xã hội hóa, nguồn viện trợ, tài trợ từ các tổ chức, cá nhân…
Thứ ba, phạm vi DVXHCB tương đối phù hợp với sàn ASXH của LHQ
Nhìn chung, DVXHCB ở Việt Nam bao gồm 05 dịch vụ như đã trình bày
có sự tương thích tương đối với Sàn ASXH của LHQ và pháp luật quốc tế. Các
DVXHCB này đều là những dịch vụ thiết yếu, đáp ứng nhu cầu tối thiểu của con
người và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển con người.
Thứ tư, thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về các DVXHCB đều đạt
được kết quả tích cực.
Về DVGDCB, tất cả trẻ em trai và trẻ em gái được đi học cấp tiểu học.
NSNN đầu tư cho giáo dục luôn duy trì ở mức cao so với các nước trong khu vực.
Một số tỉnh thành đã bước đầu thực hiện giảm học phí cho bậc giáo dục trung học
cơ sở, trung học phổ thông
Về chăm sóc YTCB, tỷ lệ người dân được tiếp cận với gói chăm sóc sức
khỏe ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khỏe ngày càng cao, thể hiện thông qua
tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đầy đủ, số lượng phụ nữ dân tộc thiểu số được khám
thai; tỷ lệ người dân tham gia BHYT…;
Về nhà ở, trong những năm gần đây, nhà ở cho người thu nhập thấp, người
nghèo được triển khai khá mạnh mẽ với những con số khá tích cực. Các dự án nhà
ở xã hội quy mô lớn ngày càng triển khai rộng rãi. Một số doanh nghiệp đã thực
hiện xây dựng dự án nhà ở cho công nhân như Tổng công ty Viglacera, Tổng công
ty Becamex IDC, Công ty cổ phần tập đoàn tư vấn xây dựng Kiên Giang (CIC
Group)…
Về nước sạch, tiếp cận nước sạch của người dân ngày càng được đảm bảo khi
126
nhiều nhà đầu tư dành khoản đầu tư lớn cho nước sạch như tập đoàn AquaOne,
Công ty Nhự Đồng Nai, Công ty cổ phần Nước - Môi trường Bình Dương
(Biwase), Công ty cổ phần Nước Thủ Dầu Một (Tdmwater).205
Về TCTT, tỷ lệ người dân sử dụng Internet tăng nhanh trong những năm
gần đây giúp cho việc TCTT được thuận tiện. Mạng lưới cơ quan báo chí, trang
báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, website của cơ quan nhà nước rộng khắp
giúp cho việc cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước được nhanh chóng, kịp
thời.
2.6.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Thứ nhất, phạm vi DVXHCB còn thiếu một số dịch vụ cơ bản, thiết yếu.
Mặc dù, về cơ bản phạm vi DVXHCB với 05 dịch vụ như trên đã trình bày
là tương đối đầy đủ để đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của người dân. Tuy nhiên,
với nhu cầu ngày càng cao của người dân cùng với sự phát triển kinh tế và từ thực
tiễn Việt Nam thì phạm vi DVXHCB chưa hoàn toàn đầy đủ, thiếu một số
DVXHCB như DVXHCB về vệ sinh, DVXHCB về chăm sóc người cao tuổi….
Thứ hai, một số DVXHCB chưa có hành lang pháp lý rõ ràng mà chủ yếu
thể hiện thông qua các chính sách.
DVXHCB về chăm sóc y tế và DVXHCB về nước sạch hiện nay chưa được
quy định đầy đủ và toàn diện bằng văn bản pháp luật mà Nhà nước chủ yếu ban
hành các Chương trình mục tiêu quốc gia và áp dụng theo các giai đoạn nhất định.
Mặc dù Quốc hội đã ban hành Luật khám bệnh, chữa bệnh và văn bản quy định
gói dịch vụ y tế cơ bản cho tuyến y tế cơ sở nhưng các văn bản này chưa quy định
trực tiếp đối tượng được tiếp, chủ thể cung cấp chăm sóc YTCB. Các nội dung
này chủ yếu được ghi nhận và thực hiện thông qua các Chương trình mục tiêu
quốc gia theo từng gia đoạn nhất định. Chẳng hạn, Chương trình mục tiêu Y tế -
205 Bạch Huệ, cuộc chiến nước sạch: Những “tay chơi” mới khai phá thị trường tỷ USD https://vneconomy.vn/cuoc-chien-nuoc-sach-nhung-tay-choi-moi-khai-pha-thi-truong-ty-usd.htm, truy cập ngày 7/2/2023
Dân số giai đoạn 2016-2020, Chương trình mục tiêu quốc gia về dân số và kế
127
hoạch hoá gia đình,… Tương tự, vấn đề tiếp cận nước sạch cũng chưa có đạo luật
riêng điều chỉnh mà chủ yếu được thực hiện thông qua các chiến lược quốc gia.
Chẳng hạn, Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045… Việc chưa có văn bản quy phạm pháp luật riêng
điều chỉnh trực tiếp, đầy đủ các nội dung của các DVXHCB này thể hiện sự chưa
tương xứng về vị trí giữa các DVXHCB trong hệ thống ASXH và thể hiện sự chưa
hoàn thiện trong hệ thống pháp luật, gây khó khăn cho quá trình thực hiện trên
thực tế. Nguyên nhân của tình trạng này có thể do nội dung tiếp cận dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khoẻ thuộc dịch vụ chăm sóc
YTCB có thể thay đổi theo từng giai đoạn hoặc theo thực tế diễn biến dịch bệnh.
Chẳng hạn, vắc-xin phòng bệnh Covid-19 trước đây không nằm trong danh mục
các loại bệnh được tiêm chủng miễn phí nhưng do tình hình diễn biến phức tạp
của dịch bệnh mà mọi người dân, không chỉ có trẻ em được tiêm chủng văc-xin
này. Đối với DVXHCB về nước sạch, mỗi địa phương có quy định riêng về giá
bán, chính sách ưu đãi cho đơn vị cấp nước đầu tư cung cấp nước sạch… nên đây
có thể là nguyên nhân của tình trạng nêu trên.
Thứ ba, việc tiếp cận DVGDCB, chăm sóc YTCB của người di cư còn gặp
khó khăn do quy định về hộ khẩu.
Nhu cầu tiếp cận DVGDCB và chăm sóc YTCB ở các thành phố lớn, những
khu vực tập trung đông dân cư luôn ở mức cao trong khi số lượng, điều kiện cơ sở
vật chất, nguồn lực có hạn. Vì vậy, một trong những điều kiện để nhập học ở các
trường công lập và điều kiện hưởng tối đa quyền lợi BHYT là hộ khẩu và nơi đăng
ký khám chữa bệnh ban đầu.
Thứ tư, hệ thống pháp luật về DVXHCB chưa có sự thống nhất, rải rác
trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau và một số quy định chưa có sự tương
thích, thống nhất.
DVXHCB ở Việt Nam được ghi nhận chính thức là một trong những cấu
phần của hệ thống ASXH trong Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1/6/2012 của Ban
128
Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai
đoạn 2012-2020. Trong khi đó, các nội dung về giáo dục cơ bản, chăm sóc YTCB,
nhà ở, nước sạch và TCTT đã được pháp luật điều chỉnh từ sớm. Chẳng hạn, Luật
Giáo dục đầu tiên của Việt Nam được ban hành năm 1998, Luật khám bệnh, chữa
bệnh được ban hành từ năm 2009; Luật Nhà ở được ban hành từ năm 2005… Do
được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau và ban hành ở các
giai đoạn khác nhau nên các quy định liên quan đến DVXHCB vẫn tồn tại sự chưa
thống nhất ở mức độ nhất định.
Thứ năm, chất lượng DVXHCB chưa đảm bảo, tiếp cận DVXHCB chưa
hiệu quả, còn sự chênh lệch giữa các nhóm đối tượng.
Tình trạng học sinh đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục cơ bản
nhưng chưa đảm bảo kiến thức còn tồn tại. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu,
cán bộ y tế được đào tạo chuyên sâu về phục hồi chức năng cho người khuyết tật
còn thiếu nên chăm sóc YTCB cho đối tượng này chưa đảm bảo chất lượng. Hay
tình trạng nước sạch bị ô nhiễm, lẫn tạp chất vẫn xảy ra thường xuyên. Nguyên
nhân của tình trạng này là nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB chưa đáp ứng
yêu cầu, NSNN đầu tư cho DVXHCB còn hạn chế ở một số dịch vụ (nhà ở, nước
sạch, TCTT), chưa thu hút được nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân. Ngoài ra,
việc chưa cho phép người sử dụng DVXHCB được quyền kiểm tra, đánh giá chất
lượng dịch vụ cũng là một trong những nguyên nhân của tình trạng chất lượng
DVXHCB chưa đảm bảo. Người sử dụng DVXHCB cũng là khách hàng bởi họ
phải trả phí để sử dụng dịch vụ nên họ cần có đầy đủ quyền của một khách hàng
thực thụ như được đánh giá, được phản ánh chất lượng, được lựa chọn chủ thể
cung cấp dịch vụ... Một nguyên nhân khác là công tác thanh tra, kiểm tra chất
lượng DVXHCB của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa được thực hiện
thường xuyên và hiệu quả trên thực tế.
Thực trạng tiếp cận DVXHCB chưa hiệu quả còn tồn tại khá phổ biến, nhất
là vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nhóm người nghèo. Một bộ
129
phận người dân chưa được tiếp cận DVXHCB một cách đầy đủ. Một phần nguyên
nhân xuất phát từ ý thức, quan điểm của người dân về tầm quan trọng và sự cần
thiết của DVXHCB. Một phần nguyên nhân khác đến từ tình trạng nghèo đói của
một bộ phận dân cư bởi họ không đủ khả năng hoặc không ưu tiên chi trả chi phí
sử dụng DVXHCB.
Sự chênh lệnh trong tiếp cận DVXHCB giữa các vùng, miền, giữa các nhóm
đối tượng trong xã hội vẫn tồn tại khá phổ biến. Nhóm đối tượng yếu thế như
người khuyết tật, lao động di cư, người cao tuổi, người dân vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, miền núi, hải đảo tiếp cận DVXHCB chưa đầy đủ. Một trong những
nguyên nhân chính dẫn tới thực trạng này là khu vực dân tộc thiểu số chưa được
đầu tư cơ sở vật chất đầy đủ để cung cấp DVXHCB. Chẳng hạn, khoảng cách quá
xa từ nhà đến trường học, đến cơ sở y tế gây khó khăn trong tiếp cận giáo dục cơ
bản và chăm sóc YTCB. Địa hình hiểm trở, nhà dân cách xa nhau dẫn tới chi phí
đầu tư lớn, không thu hút được đầu tư cung cấp nước sạch làm cho người dân nơi
đây khó tiếp cận nước sạch. Tỷ lệ người dân sở hữu tivi, sử dụng Internet thấp
cũng là nguyên nhân tạo nên rảo cản trong TCTT.
Thứ sáu, việc thực hiện đầu tư cho DVXHCB theo hình thức xã hội hóa
chưa đạt hiệu quả cao.
Mặc dù pháp luật về DVXHCB đã quy định một trong những nguồn vốn
đầu tư cho DVXHCB là nguồn vốn từ xã hội hoá nhưng thực tiễn thực hiện quy
định này chưa đạt hiệu quả cao. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ các
quy định ưu đãi, hỗ trợ nhà đầu tư về tín dụng, giao đất, cho thuê đất để xây dựng
trường học, cơ sở y tế, dự án nhà ở, công trình cấp nước, hạ tầng thông tin chưa
thoả đáng, chưa thút được khu vực tư nhân tham gia đầu tư. Hơn nữa, một số quy
định còn thể hiện sự bất bình đẳng giữa Nhà nước và doanh nghiệp trong mối quan
hệ hợp tác vốn dĩ phải bình đẳng.
130
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Pháp luật ASXH hiện hành về DVXHCB được quy định trong nhiều đạo
luật và văn bản pháp luật liên quan với 05 dịch vụ, bao gồm: (i) dịch vụ giáo dục
cơ bản; (ii) chăm sóc YTCB; (iii) nhà ở; (iv) nước sạch và (v) tiếp cận thông tin.
Trong đó, đối tượng tiếp cận DVXHCB được quy định mang tính phổ quát, tức là
mọi người dân được tiếp cận công bằng, không có sự phân biệt đối xử, trong đó
chú trọng tới nhóm đối tượng yếu thế như trẻ em, người khuyết tật, người nghèo…
Nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB được quy định từ NSNN cùng với các
nguồn đầu tư từ khu vực tư nhân, thực hiện xã hội hóa.
Pháp luật ASXH về DVXHCB là cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo mọi
công dân được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tối thiểu và thể hiện hệ thống ASXH
quốc gia ngày càng hoàn thiện, phù hợp với xu thế chung của quốc tế. Bên cạnh
mặt tích cực, hệ thống pháp luật về vấn đề này vẫn tồn tại những hạn chế nhất
định, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng. Cụ thể, một số nhóm đối tượng vẫn bị
“bỏ lọt” trong tiếp cận DVXHCB. Sự chênh lệnh trong tiếp cận DVXHCB giữa
các vùng, miền, giữa các nhóm đối tượng trong xã hội vẫn tồn tại khá phổ biến.
Nhóm đối tượng yếu thế như người khuyết tật, lao động di cư, người cao tuổi,
người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo gặp tiếp cận
DVXHCB chưa đầy đủ. Nhìn chung mức chi cho DVXHCB từ NSNN ở Việt Nam
được quy định còn khá thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Các
quy định về huy động nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân, quy định về xã hội
hóa còn nhiều bất cập về thủ tục, hình thức ưu đãi, mức ưu đãi dẫn tới việc thực
hiện chưa đạt hiệu quả cao.
CHƯƠNG 3.
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI VỀ CÁC DỊCH VỤ XÃ
HỘI CƠ BẢN
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
131
an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản
Qua nghiên cứu cho thấy, vấn đề cốt lõi không chỉ đơn thuần dừng lại ở
việc đảm bảo tiếp cận DVXHCB cho người dân mà còn là tính khả thi, khả năng
đáp ứng, đảm bảo của nhà nước đến đâu, biểu hiện thông qua nguồn tài chính đầu
tư cho DVXHCB, chế tài áp dụng đối với các hành vi xâm phạm đến quyền tiếp
cận DVXHCB. Bài toán về phương thức, cách thức đáp ứng nhu cầu cơ bản, tối
thiểu của người dân một cách hiệu quả không chỉ đặt ra với các quốc gia đang phát
triển mà còn cả các quốc gia phát triển với mức thu nhập cao. Theo nghiên cứu
của Viện Thịnh vượng toàn cầu, ý tưởng về dịch vụ cơ bản phổ quát (Universal
Basic Services) đang được nghiên cứu, áp dụng thay thế cho chính sách thu nhập
phổ quát đã được áp dụng trước đó.
Tại Việt Nam, mặc dù quan điểm, tư tưởng về đảm bảo tiếp cận DVXHCB
với tư cách là một cấu phần của hệ thống ASXH hình thành và thực hiện chưa lâu,
nhưng nó đã phản ánh sự đúng đắn và phù hợp với xu thế của thế giới. Tuy nhiên,
pháp luật về vấn đề này còn khá mới mẻ nên không tránh khỏi những hạn chế nhất
định. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
DVXHCB cần phải đáp ứng các yêu cầu nhất định.
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật dịch vụ xã hội cơ bản phù hợp chính
sách an sinh xã hội của Đảng và nhà nước trong giai đoạn hiện nay
Ngay từ khi thành lập, Đảng và Nhà nước đã chú trọng phát triển hệ thống
ASXH, coi đây vừa là mục tiêu vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội, phát
triển đất nước bền vững. Mức độ phát triển và tính bền vững của hệ thống ASXH
quốc gia thể hiện mức độ phát triển kinh tế- xã hội, tính ổn định chính trị - xã hội.
Đảm bảo tiếp cận DVXHCB là điều kiện để đảm bảo sự phát triển bền vững của
xã hội, của quốc gia và là điều kiện đảm bảo công bằng xã hội.
Mặc dù trong bối cảnh đất nước còn nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết
ở kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, nhưng đảm bảo ASXH vẫn
được Đảng xác định có tầm quan trọng hàng đầu và là nhiệm vụ thường xuyên.
132
Đến Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, ASXH được xác định đảm bảo vì con người
và là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội IX, X, Đảng nhấn mạnh ASXH
phải góp phần nâng cao đời sống nhân dân, chăm lo tốt cho nhân dân về phúc lợi,
việc làm, xoá đói giảm nghèo, phát triển giáo dục văn hoá, sức khoẻ nhân dân.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế quốc gia, đảm bảo ASXH nói
chung và đảm bảo ASXH về DVXHCB ngày càng được Đảng và Nhà nước quan
tâm. Điều này được minh chứng qua việc các quan điểm chỉ đạo của Đảng về định
hướng mục tiêu ASXH thường xuyên được củng cố, bổ sung và ngày càng hoàn
thiện trong các văn kiện quan trọng qua các kỳ đại hội. Đặc biệt, một trong các
quan điểm chỉ đạo thể hiện trong Nghị Quyết số 15-NQ/TW, ngày 1/6/2012 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai
đoạn 2012-2020 là “hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia
sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ
và giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng.” Đồng thời, nhiệm vụ đảm bảo
ASXH về DVXHCB được nêu lên “đảm bảo mức tối thiểu về một số DVXHCB
cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng
bào dân tộc thiểu số”. Trong đó, từng nhiệm vụ cụ thể đối với từng DVXHCB
cũng được nêu ra trong Nghị quyết. Với tư cách là một nội dung của ASXH, pháp
luật về DVXHCB cần được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với tinh thần, quan
điểm và chính sách ASXH của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, đảm bảo hoàn thiện pháp luật về DVXHCB phù hợp với bản
chất của DVXHCB là quyền con người cơ bản
Đảm bảo DVXHCB là đảm bảo các nhu cầu tối thiểu, cơ bản của con người
nhằm phát triển toàn diện. Vì vậy, pháp luật về DVXHCB cần quy định rõ trách
nhiệm của nhà nước trong việc đảm bảo người dân được tiếp cận đầy đủ và bình
đẳng. Mặc dù mức độ mức độ đảm bảo tiếp cận nhu cầu, tối thiểu ở mỗi quốc gia
trong mỗi thời kỳ phát triển là khác nhau, nhưng với góc độ là quyền con người
cơ bản, DVXHCB cần được mỗi quốc gia đảm bảo các yếu tố sau thông qua hệ
133
thống pháp luật. Thứ nhất, bảo đảm pháp lý. Hệ thống pháp luật cần quy định cụ
thể quyền tiếp cận DVXHCB của công dân, đồng thời xác định rõ những dịch vụ
nào được coi là DVXHCB mà công dân được đảm bảo tiếp cận trong từng thời
kỳ. Thứ hai, tính sẵn có. Tính sẵn có của DVXHCB thể hiện ở việc đủ điều kiện
vận hành các dịch vụ, đảm bảo điều kiện cần thiết để người dân có thể tiếp cận
mỗi dịch vụ một cách thuận lợi. Chẳng hạn, đối với DVGDCB, tính sẵn có thể
hiện qua số lượng các chương trình giáo dục, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, tài
liệu học tập… phục vụ cho việc học tập. Hoặc tính sẵn có của nhà ở thể hiện qua
những tiện nghi, các điều kiện của nơi ở như nước sạch, ánh sáng, vệ sinh…. Thứ
ba, tính chấp nhận được, có nghĩa DVXHCB được tiếp cận miễn phí hoặc phải trả
phí nhưng ở mức có thể chấp nhận được, phù hợp với thu nhập của người dân,
việc chi trả phí DVXHCB không làm ảnh hưởng đến các nhu cầu khác. Thứ tư, có
thể tiếp cận được. DVXHCB đảm bảo tiếp cận đối với mọi đối tượng trong xã hội
một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Cần có chính
sách riêng, ưu tiên tiếp cận DVXHCB đối với nhóm người yếu thế như trẻ em,
người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo…
Đảm bảo yêu cầu này, pháp luật quốc gia cần xác định trách nhiệm của Nhà
nước trong đảm bảo cung cấp DVXHCB. Nhà nước có thể là chủ thể trực tiếp
cung cấp DVXHCB hoặc giao cho chủ thể khác cung cấp nhưng có trách nhiệm
đảm bảo tiếp cận DVXHCB bình đẳng, quản lý chất lượng, giá cả,… Để đạt được
mục tiêu này, nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB cần có sự hỗ trợ từ NSNN,
nguồn vốn xã hội hoá và chi phí sử dụng dịch vụ được tính đúng, tính đủ. Việc
cung cấp DVXHCB nhằm mục tiêu xây dựng hệ thống ASXH bền vững, không
nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Thứ ba, khắc phục bất cập trong quy định hiện hành về dịch vụ xã hội
cơ bản
Một trong những chức năng quan trọng của nhà nước là thực hiện chính
sách ASXH, vì vậy, Việt Nam đã thực hiện chính sách ASXH từ thời phong
134
kiến.206 Qua thời gian, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, hệ thống
ASXH Việt Nam ngày càng đổi mới theo hướng đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền
lợi cho người dân. Đặc biệt, trong những năm gần gây, hệ thống ASXH quốc gia
được mở rộng hơn khi thừa nhận DVXHCB là một cấu phần trong hệ thống
ASXH.
Nhìn chung, pháp luật ASXH nói chung và các quy định pháp luật về
DVXHCB nói riêng đã thể hiện được quan điểm của nhà nước trong việc đảm bảo
quyền tiếp cận DVXHCB của người dân như đảm bảo quyền con người. Tuy
nhiên, từ trước đến nay, ba trụ cột chính của ASXH là BHXH, BHYT, trợ giúp xã
hội được hình thành trong thời gian dài và được biết đến nhiều hơn nên hệ thống
pháp luật về các vấn đề này cũng hoàn thiện hơn. Ngược lại, DVXHCB là một
khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam và có nội hàm rộng nên pháp luật về vấn đề
này chưa có sự tập trung và chưa hoàn thiện.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam về DVXHCB còn nằm rải rác ở rất nhiều văn
bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Mặc dù, Hiến pháp và các Đạo luật
đều khẳng định quyền tiếp cận phổ quát đối với DVXHCB nhưng thực tế, một số
nhóm đối tượng vẫn chưa thể tiếp cận DVXHCB, chẳng hạn như nhà ở, nước sạch
hay thông tin. Hơn nữa, nhiều quy định rõ ràng, cụ thể như trách nhiệm cụ thể của
nhà nước với tư cách là chủ thể đảm bảo ASXH cho người dân trong việc đảm
bảo đáp ứng nhu cầu tối thiểu của người dân. Các quy định xác định mức độ đáp
ứng, giới hạn của các dịch vụ cơ bản thuộc trách nhiệm cung cấp của nhà nước
cũng chưa được xây dựng. Một số DVXHCB chưa được quy định cụ thể về tỷ lệ
NSNN đầu tư dựa trên GDP.
Với những bất cập nêu trên, hệ thống pháp luật ASXH về DVXHCB cần
được bổ sung, sửa đổi nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng hiệu quả trên
thực tế. Hơn nữa, đây cũng là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh nước ta đang mở
206 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb. Công an nhân dân, tr.11
rộng phạm vi của hệ thống ASXH quốc gia. Việc hoàn thiện pháp luật cần được
135
thực hiện đồng bộ đối với cả hệ thống pháp luật về DVXHCB và với pháp luật
của từng DVXHCB.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về DVXHCB phù hợp với pháp luật quốc tế
và xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới
Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực gia nhập các điều ước quốc tế
quan trọng về quyền con người như Công ước của LHQ về các quyền dân sự,
chính trị năm 1966, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm 1966,
Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công
ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm
2006, Công ước 102 của ILO về tiêu chuẩn tối thiểu… Đặc biệt, ý tưởng ban đầu
về sàn ASXH của Tổ chức Lao động Quốc tế -ILO và Tổ chức Y tế thế giới –
WHO, nay gọi là Sáng kiến sàn ASXH của LHQ đã mở ra một trang mới về phạm
vi rộng lớn hơn của hệ thống ASXH. Điều 25 quy định: “Mọi người đều có quyền
được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia
đình bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết,…”.
Theo ILO, khái niệm sàn ASXH chính là hệ thống các chính sách nhằm giúp người
dân được quyền tiếp cận tới rổ hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và chuyển nhượng thu
nhập cơ bản theo chuẩn quốc gia đảm bảo người dân được cung cấp đầy đủ lương
thực thực phẩm, chăm sóc y tế, được giáo dục, được dùng nước sạch và có nhà ở.
Việc tham gia các Công ước Quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải nghiêm túc
thực hiện các nghĩa vụ của quốc gia thành viên, trong đó, nghĩa vụ nội luật hoá
trong hệ thống pháp luật quốc gia được coi là nhiệm vụ quan trọng và không thể
thiếu. Thực tế, Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận và đang từng bước thực hiện nghĩa
vụ này trong hệ thống pháp luật quốc gia, bắt đầu với quan điểm chỉ đạo thể hiện
trong Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020. Tuy nhiên,
hệ thống pháp luật Việt Nam về DVXHCB còn chưa tập trung, thống nhất mà nằm
rải rác ở nhiều văn bản pháp luật trong nhiều lĩnh vực khác nhau, các quy định
136
cũng chưa đầy đủ theo tinh thần của LHQ đưa ra trong các Công ước cũng như
Sàn ASXH. Chính vì vậy, hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này cần phù hợp với
pháp luật quốc tế.
Từ phương diện các quốc gia, xu hướng trong những năm gần đây, ý tưởng
về DVXHCB phổ quát đang được nghiên cứu áp dụng thay thế cho biện pháp thu
nhập cơ bản phổ quát. Theo đó, chuyển từ mô hình chủ yếu phân phối lại vì ASXH
sang mô hình chủ yếu hướng vào dịch vụ đáp ứng nhu cầu trực tiếp hơn, tăng hiệu
quả, giảm chi phí, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân sôi động và củng cố cơ cấu
thể chế của xã hội.207 Như vậy, Việt Nam đang có hướng đi đúng và phù hợp với
xu thế cung của các quốc gia trên thế giới khi xây dựng hành lang pháp lý đảm
bảo tiếp cận DVXHCB cho công dân. Tuy nhiên, phạm vi và mức độ tiếp cận
DVXHCB của nước ta còn hạn chế. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về DVXHCB
cần tham khảo pháp luật các quốc gia để đảm bảo tiệm cận với xu thế chung của
thế giới.
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội Việt Nam về các dịch vụ
xã hội cơ bản
3.2.1. Kiến nghị chung
Thứ nhất, cần quy định mở rộng phạm vi DVXHCB
So sánh với pháp luật một số quốc gia, với xu hướng phát triển hệ thống
ASXH quốc gia đa tầng với nhiều tấm lưới đỡ và với quan điểm chỉ đạo của Đảng
về phát triển hệ thống ASXH quốc gia thì phạm vi của DVXHCB cần được mở
rộng thêm với một số dịch vụ thiết yếu khác, cụ thể:
Một là, dịch vụ vệ sinh. Nước sạch và vệ sinh là hai yếu tố luôn gắn liền
với nhau trong hầu hết các khía cạnh, từ khía cạnh nghiên cứu đến vai trò của
207 Viện Thịnh Vượng Toàn cầu (2017), Social prosperity for the future: A proposal for Universal Basic Services. 208 De Jongh, J. Mncayi, P. and Mdluli, P. (2019), Analysing the impact of water access and sanitation on local economic development (led) in the sedibeng district municipality, South Africa, International Journal of Innovation, Creativity and Change, Tập. 5, Số. 2, tr. 551-572.
chúng đối với sự phát triển và sức khoẻ con người.208 Quan điểm của pháp luật
137
quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới về DVXHCB cũng bao gồm vệ sinh trong
mối tương quan gắn liền với nước sạch.209 Từ góc độ thực tiễn, hiện nay, tiếp cận
vệ sinh cơ bản ở Việt Nam chưa được xác định rõ ràng trong phạm vi DVXHCB
như các DVXHCB còn lại. Nghị quyết số 15-NQ/TW liệt kê các DVXHCB, trong
đó DVXHCB thứ 4 là “bảo đảm nước sạch” và trong nội dung của dịch vụ nước
sạch có nhắc tới “vệ sinh nông thôn” là “tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu
quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn….”. Từ thực tiễn vấn đề vệ
sinh ở nước ta chưa được đảm bảo tiếp cận đầy đủ và có ảnh hưởng tiêu cực đến
sức khoẻ con người, không kém việc tiếp cận không đầy đủ chăm sóc YTCB, đặc
biệt ở khu vực dân tộc thiểu số, với chỉ chưa tới 1/3 hộ có nhà xí hợp vệ sinh.210
Theo tính toán của UNICEF thì năm 2019, có tới 10,15 triệu người khu vực nông
thôn và 550.000 người khu vực thành thị vẫn phóng uế bừa bãi ra môi trường, đặc
biệt là khu vực miền núi phía Bắc211 thì rất cần bổ sung dịch vụ về tiếp cận vệ
sinh vào phạm vi DVXHCB. Việc thừa nhận DVXHCB về vệ sinh là một cấu
phần của DVXHCB cũng cần quy định rõ nội dung, phạm vi đảm bảo tiếp cận của
dịch vụ này bao gồm: vệ sinh môi trường, chấm dứt phóng uế bừa bãi ra môi
trường, vấn đề về nước thải, rác thải sinh hoạt.
Hai là, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi. Từ góc độ lý luận thì người cao
tuổi được coi là đối tượng yếu thế cần được quan tâm chăm sóc đặc biệt, đặc biệt
là người cao tuổi nghèo, không nơi nương tựa, người cao tuổi không còn khả năng
lao động, người cao tuổi có nhiều đóng góp cho xã hội… Theo nghiên cứu thì
phần lớn người cao tuổi có bệnh tật ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt hàng ngày
(chiếm 64,2% người cao tuổi), 13,5% người cao tuổi mắc bệnh nặng không tự sinh
209 UNDP (2001), Choices for the Poor: Lessons from national poverty strategies, Ấn phẩm của LHQ 210 Uỷ ban dân tộc (2017), Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số , tiểu dự án hỗ trợ giảm nghèo PRPP. 211 UNICEF (2020), Tóm tắt chính sách về nước sạch và vệ sinh môi trường tại Việt Nam 212 Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội Khoá 13 (2015), Già hoá dân số và chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng ở Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, tr.13
hoạt hàng ngày.212 Hơn nữa con người thường có xu hướng thay đổi tâm lý khi
138
lớn tuổi. Tâm lý người cao tuổi giống với tâm lý của một đứa trẻ, rất muốn được
nhiều người quan tâm tới mình.213 Chăm sóc người cao tuổi cũng là đáp ứng nhu
cầu thiết yếu, cơ bản của con người. Từ góc độ thực tiễn ở Việt Nam, trong những
năm gần đây, nước ta đang có xu hướng già hoá dân số. Trong 10 năm từ năm
2009-2019, số người cao tuổi tăng từ 7,45 triệu (chiếm 8,68% tổng dân số) lên tới
11,41 triệu (chiếm 11,86% tổng dân số).214 Mặc dù việc chăm sóc người cao tuổi
được thực hiện thông qua hệ thống chăm sóc sức khoẻ như ưu tiên trong khám
chữa bệnh, hỗ trợ tham gia BHYT, trợ cấp xã hội… nhưng việc chăm sóc người
cao tuổi trên thực tế chưa đáp ứng được nhu cầu và yêu cầu đặt ra. Vì vậy, chăm
sóc người cao tuổi cần được xác định là một DVXHCB nằm trong hệ thống ASXH
quốc gia. Từ góc độ này, chăm sóc người cao tuổi không chỉ bao gồm chăm sóc y
tế nằm trong DVXHCB về chăm sóc YTCB mà còn bao gồm chăm sóc về đời
sống tinh thần, đảm bảo điều kiện sống đầy đủ. Trong những năm gần đây, mặc
dù hệ thống viện dưỡng lão ở Việt Nam đang dần phát triển nhưng chủ yếu là từ
khu vực tư nhân đầu tư với mức thu phí khá cao so với thu nhập trung bình của
người dân.215 Từ phương diện quốc tế, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi cũng được
đề xuất là một nội dung của DVXHCB tại Vương Quốc Anh.216 Việc ghi nhận
dịch vụ này là DVXHCB thuộc hệ thống ASXH nhằm tạo hành lang pháp lý để
bất kỳ người cao tuổi nào cũng được chăm sóc với chất lượng tốt bất kể khả năng
213 Bộ lao động, Thương binh và Xã hội (2012), Chương trình đào tạo bồi dưỡng nghề công tác xã hội cho cán bộ tuyến cơ sở (xã/phường, thôn/ấp/bản), Đề án 32 214 Tổng cục Thống kê (2021), Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Già hoá dân số và người cao tuổi ở Việt Nam 215 Chi phí 1 tháng ở viện dưỡng lão dao động từ 7triệu-16 triệu/tháng/người tuỳ trung tâm và chưa bao gồm các dịch vụ chăm sóc khác như hỗ trợ tắm, vệ sinh, cho ăn… https://orihome.com.vn/dichvu/banggia?gclid=EAIaIQobChMIbzJguS8_QIVYtxMAh3izwAAEAAYASAB EgIwlPD_BwE, truy cập ngày 12/1/2023 https://duonglaovuonlai.vn/chi-phi-song-va-goi-dich-vu-tai-vien-duong-lao- tphcm#:~:text=%2D%20M%E1%BB%A8C%20PH%C3%8D%20CH%C4%82M%20S%C3%93C%20TO% C3%80N%20DI%E1%BB%86N%201%20PH%C3%92NG%2003%20GI%C6%AF%E1%BB%9CNG,16.00 0.000%20VN%C4%90%2FTH%C3%81NG, truy cập ngày 12/1/2023 https://fdcmedical.vn/dich-vu-duong-lao, truy cập ngày 12/1/2023 216 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal basic services: theory and pratice, A literature review
chi trả hoặc bất kể việc họ có con cháu hay không. Tuy nhiên, với tình hình phát
139
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay, DVXHCB về chăm sóc người cao
tuổi cần được thực hiện theo lộ trình. Theo đó, các tỉnh, thành phố lớn có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao cần được thí điểm thực hiện trước và thực hiện đối với
nhóm người cao tuổi nghèo, người cao tuổi không có con cháu chăm sóc, không
có nơi ở trước khi quy định thực hiện trên cả nước và với toàn bộ người cao tuổi.
Thứ hai, xây dựng quy định cho phép chuyển dịch cung cấp DVXHCB từ
nhà nước sang khu vực tư nhân và đẩy mạnh xã hội hoá trong cung cấp DVXHCB
Với vai trò chủ thể quản lý và đảm bảo ASXH, nhà nước đóng vai trò chủ
đạo đảm bảo DVXHCB cho người dân. Hiện nay ở Việt Nam, chủ thể cung cấp
giáo dục cơ bản và y tế cơ bản, thông tin là nhà nước còn DVXHCB về nhà ở,
nước sạch chủ yếu do khu vực tư nhân cung cấp. Vai trò của nhà nước trong việc
đảm bảo tiếp cận bình đẳng và đầy đủ các dịch vụ này là không thể phủ nhận. Tuy
nhiên, xu hướng chung của các quốc gia là cho phép khu vực tư nhân thực hiện
cung cấp dịch vụ công nói chung và DVXHCB nói riêng nhằm tạo ra sự cạnh tranh
và mang lại lợi ích cho người dân - người tiêu dùng. Mặc dù trong tiến trình đổi
mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã xác định quan điểm nhà nước chỉ làm những
gì tư nhân không làm được hoặc không muốn làm nhưng thực tế Nhà nước vẫn
đang trực tiếp cung cấp nhiều dịch vụ công mà khu vực tư nhân hoàn toàn có thể
làm tốt. Vì vậy, pháp luật nên được hoàn thiện theo hướng tạo hành lang pháp lý
cho phép chuyển dịch dần các dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y tế… cho khu vực
tư nhân đảm nhiệm và đảm bảo người dân vẫn được tiếp cận các dịch vụ này một
cách bình đẳng như Nhà nước trực tiếp cung cấp. Thực hiện điều này cần có quy
định chính sách khuyến khích, ưu đãi khi đầu tư cung cấp các dịch vụ này ở vùng
nông thôn, vùng miền núi, hải đảo, khu vực dân cư thưa thớt… để tạo sự bình
đẳng trong tiếp cận giáo dục cơ bản, y tế cơ bản. Đồng thời, quy định ràng buộc
trách nhiệm về chất lượng dịch vụ và kiểm soát chi phí, giá dịch vụ để đảm bảo
người dân có thể tiếp cận.
Thứ ba, rà soát, loại bỏ các quy định về hộ khẩu, tạm trú trong tiếp cận
140
DVXHCB nhằm tương thích với Luật Cư trú năm 2020
Theo quy định của Luật Cư trú năm 2020, thì “sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã
được cấp vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú
theo quy định của Luật này cho đến hết ngày 31/12/2022” (Khoản 3 Điều 38),
điều này có nghĩa, kể từ ngày 01/01/2023, sổ hộ khẩu và sổ tạm trú chính thức hết
giá trị sử dụng. Mặc dù ngày 21/12/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
104/2022/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến
việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính,
cung cấp dịch vụ công nhưng về thực chất các quy định này chỉ giúp “loại bỏ”
việc sử dụng sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy còn việc tiếp cận các DVXHCB vẫn dựa
trên hộ khẩu. Hàng loạt các quy định khác liên quan đến điều kiện, thủ tục tiếp
cận DVXHCB như điều kiện nhập học trường công lập, hình thức mua BHYT
theo hộ gia đình, khám chữa bệnh BHYT, thủ tục xác nhận tình trạng nhà ở, sự
phân bổ ngân sách… vẫn dựa trên hộ gia đình đăng ký thường trú. Có thể nói, quy
định về bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú trong quản lý dân cư sẽ rất thuận tiện cho người
dân trong việc thực hiện các thủ tục hành chính nói chung và tiếp cận dịch vụ công
nói riêng. Tuy nhiên, người dân vẫn gặp khó khăn trong tiếp cận DVXHCB về
giáo dục, khám chữa bệnh BHYT, nhà ở… Do vậy, pháp luật cần được sửa đổi
theo hướng không căn cứ vào nơi cư trú, thường trú của người dân trong tiếp cận
các DVXHCB.
Thứ tư, quy định cụ thể trách nhiệm của địa phương trong đảm bảo tiếp
cận DVXHCB
Với vai trò của ASXH nói chung và vai trò của DVXHCB nói riêng (như
đã trình bày), thì ASXH không phải là một gánh nặng mà là một khoản đầu tư
khôn ngoan mang lại cổ tức tốt trong tương lai217. Vì vậy, sự hỗ trợ tài chính từ
NSNN không thể thiếu trong cung cấp DVXHCB và sự hỗ trợ này phải được phân
217 V.V Giri (1972), Vấn đề về lao động trong ngành công nghiệp Ấn Độ, Nxb. Châu Á, tr.269
bổ hợp lý giữa NSNN và ngân sách địa phương. Tuy nhiên, hiện nay mặc dù pháp
141
luật đã có quy định về trách nhiệm phân bổ ngân sách của địa phương trong từng
lĩnh vực nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể dẫn đến sự chưa thống nhất trong quá
trình thực hiện. Vì vậy, hệ thống pháp luật nói chung và luật NSNN nói riêng cần
quy định chặt chẽ và rõ ràng để bảo đảm ngân sách trung ương đóng vai trò chủ
đạo và nâng cao tính chủ động của địa phương, phân định rõ hơn quyền và trách
nhiệm giữa Trung ương và địa phương. Cụ thể, UBND cấp tỉnh là cơ quan có trách
nhiệm và thẩm quyền cao nhất trong việc thực hiện các chiến lược cụ thể trong
từng nhiệm vụ đối với từng DVXHCB của tỉnh đó; Mỗi tỉnh có trách nhiệm xây
dựng chính sách riêng của tỉnh trong khuôn khổ pháp luật cho phép để thu hút
nguồn vốn nhà tài trợ, đầu tư cho phát triển DVXHCB đảm bảo quyền cơ bản của
công dân trong địa bàn của mình. Ngoài ra, luật NSNN cần quy định rõ tỷ lệ chi
hàng năm của ngân sách trung ương, tỷ lệ chi của ngân sách tỉnh đối với từng
DVXHCB. Sau đó mỗi tỉnh sẽ quy định tỷ lệ chi ngân sách cấp tỉnh và cấp huyện
trong địa bàn tỉnh. Tỷ lệ chi này có thể được cân đối và tính toán phù hợp với đặc
thù phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, trong đó quy định mức hỗ trợ
ngân sách cho các địa phương khó khăn nhằm đảm bảo cơ hội tiếp cận DVXHCB
bình đẳng.
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục
Thực tế cho thấy, nhiều nước trên thế giới đã ban hành luật giáo dục bắt
buộc như Anh, Ba Lan, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Mỹ, Trung Quốc… Từ
thành công của các quốc gia, đặc biệt là quốc gia láng giềng của Việt Nam là
Trung Quốc áp dụng giáo dục bắt buộc 9 năm từ rất sớm (năm 1986), năm 2001,
chính phủ Trung Quốc tuyên bố đất nước đã cơ bản thành công trong việc thúc
đẩy giáo dục bắt buộc 9 năm từ cấp tiểu học đến trung học cơ sở và do đó xóa nạn
mù chữ ở hầu hết các vùng của đất nước. Đến năm 2010, hệ thống giáo dục bắt
buộc đã bao phủ hơn 98% thanh thiếu niên cả nước.218 Giáo dục bắt buộc có vai
218 Chu Zhaohui, The important of compulsory education, China Daily, 2019-07-22
trò quan trọng trong việc hình thành nên những công dân có chuyên môn và tay
142
nghề để đáp ứng những thay đổi của nền kinh tế. Hiện nay Việt Nam mới chỉ thực
hiện giáo dục bắt buộc219 ở bậc tiểu học, còn bậc mầm non 05 tuổi và trung học
cơ sở mới chỉ quy định ở mức phổ cập giáo dục220. Thiết nghĩ, trong thời gian tới
Việt Nam cũng nên ban hành luật giáo dục bắt buộc 9 năm để tăng khả năng và
mức độ tiếp cận giáo dục cơ bản nhằm cải thiện chất lượng dân số và đóng góp
vào sự phát triển chung của xã hội.
Quyền học tập là một quyền rất quan trọng của người khuyết tật, nó mang
đến cho người khuyết tật cơ hội tiếp cận và thực hiện các quyền khác. Vì vậy,
hoàn thiện quy định pháp luật nhằm đảm bảo tiếp cận tốt nhất cho nhóm đối tượng
này là yêu cầu cấp thiết. Từ thực trạng Trung tâm Hỗ trợ giáo dục hoà nhập chưa
được quy định là cơ sở giáo dục dẫn đến nhiều khó khăn trong thực hiện nhiệm
vụ, quy định pháp luật cần sửa đổi theo hướng quy định các Trung tâm này được
hoạt động như cơ sở giáo dục và đối tượng giáo dục là người khuyết tật. Trung
tâm này là đầu mối xây dựng và điều chỉnh chương trình giáo dục, trực thuộc Bộ
giáo dục và Đào tạo.
Xuất phát từ thực trạng các địa phương chưa có cách hiểu thống nhất về tỷ
lệ chi cho giáo dục, đào tạo, cần ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về tỷ lệ chi
cho giáo dục, đào tạo từ ngân sách địa phương. Trong đó, quy định rõ tỷ lệ chi
giảng dạy và học tập không kể lương và các khoản chi có tính chất lương và tỷ lệ
cụ thể chi cho các hoạt động khác như thí nghiệm, thực hành, thể thao… để tránh
tình trạng học phí được miễn hoặc hỗ trợ nhưng phụ huynh học sinh vẫn phải đóng
góp nhiều khoản chi phí khác.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai và miễn học phí là một trong
219 Giáo dục bắt buộc có nghĩa là pháp luật quy định mọi người dân trong độ tuổi bắt buộc phải đi học, bản thân gia đình và người học nếu có điều kiện mà không đi học thì sẽ bị xử phạt vi phạm. Trường hợp người học không có đủ điều kiện đi học thì sẽ được nhà nước hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ để hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc. 220 Phổ cập giáo dục là chỉ dừng lại ở mức độ vận động, khuyến khích người học đi học, không có chế tài xử phạt nếu người dân không hoàn thành phổ cập giáo dục.
những phương thức thúc đẩy mục tiêu phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc. Kinh
143
nghiệm từ các quốc gia đã thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm, 12 năm và miễn
học phí cho những năm giáo dục bắt buộc đã chứng minh điều này. Vì vậy, Việt
Nam cần nhanh chóng triển khai thực hiện chính sách miễn học phí cho giáo dục
mầm non 05 tuổi và trung học cơ sở như Luật Giáo dục 2019 đã đề ra. Việc miễn
học phí có thể được nghiên cứu thực hiện bằng ngân sách địa phương bởi thực tế
hiện nay một số địa phương đã thực hiện chính sách hỗ trợ, miễn học phí cho các
cấp học này. Theo đó, các tỉnh có nguồn thu ngân sách lớn như: TP.HCM, Hà Nội,
Đà Nẵng, Hải Phòng... nên thực hiện miễn học phí cho bậc mầm non và trung học
cơ sở trước. Cùng với đó, Chính phủ cần thành lập Quỹ giáo dục hỗ trợ các tỉnh
khó khăn với nguồn thu Quỹ từ ngân sách trung ương hỗ trợ và sự chia sẻ từ các
địa phương có nguồn thu cao, điều kiện kinh tế phát triển để tiến tới thực hiện
chính sách này đồng bộ trên cả nước.
3.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về chăm sóc y tế
Về dịch vụ chăm sóc YTCB, hiện nay ở Việt Nam chưa có văn bản quy
phạm pháp luật quy định cụ thể về đối tượng hưởng, chế độ, quyền lợi hưởng mà
chủ yếu các nội dung về chăm sóc YTCB được thể hiện trong các chương trình
mục tiêu quốc gia, chương trình hành động theo từng giai đoạn. Với vai trò của
chăm sóc YTCB nói chung, vai trò của nó trong hệ thống ASXH quốc gia và trong
mối tương quan với các DVXHCB khác, cần thiết phải ban hành văn bản quy
phạm pháp luật quy định cụ thể về vấn đề này. Văn bản quy phạm pháp luật quy
định về chăm sóc YTCB cần quy định cụ thể về đối tượng được hưởng dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ cơ bản, quyền lợi hưởng và phạm vi dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ cơ bản, trách nhiệm của các chủ thể… Hơn nữa, ngoài 17 dịch vụ của gói
chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khoẻ đã triển khai thực
hiện trong thời gian qua, cần bổ sung thêm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tình dục,
sức khoẻ sinh sản cho độ đối tượng vị thành niên và thanh niên. Đây được coi là
dịch vụ thiết yếu với sức khoẻ mỗi người trong giai đoạn trưởng thành và đóng
vai trò quan trọng với chất lượng dân số của quốc gia.
144
Như trên đã phân tích, công tác đánh giá, bình xét hộ nghèo trên thực tế
chưa thực sự chuẩn xác, những hộ gia đình nghèo hoặc đối tượng cần trợ giúp xã
hội đôi khi vẫn bị bỏ sót. Do đó, nhiều hộ gia đình nghèo chưa được đưa vào danh
sách hộ nghèo và chưa được cấp thẻ BHYT. Bản thân những hộ gia đình này lại
không đủ điều kiện kinh tế để tự tham gia BHYT nên việc bao phủ BHYT cho
nhóm đối tượng này chưa tuyệt đối. Vì vậy, cần phải sửa đổi quy định về tiêu chí
đánh giá, xác định hộ nghèo phù hợp thực tiễn để để đảm bảo xác định đúng đối
tương thuộc hộ nghèo bởi việc xác định đúng đối tượng thuộc hộ nghèo sẽ giúp
cho việc cấp thẻ BHYT (miễn phí) được chính xác, đúng đối tượng.
Hoàn thiện pháp luật BHYT bằng việc ban hành luật mới thay thế Luật
BHYT 2008 đã qua nhiều lần sửa đổi bổ sung và hướng dẫn thực hiện. Xét về cơ
sở lý luận, đã đến lúc cần ban hành Luật BHYT mới bởi các nội dung không còn
đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh pháp luật khi các quan hệ xã hội trong lĩnh vực
này liên lục thay đổi và phát triển. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết để hoàn thiện hệ
thống pháp luật ASXH nói chung. Về thực tiễn, qua nhiều lần sửa đổi bổ sung và
hướng dẫn thực hiện, hiện nay có quá nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện gây
chồng chéo, khó thực hiện. Việc ban hành Luật BHYT là công cụ hữu hiệu thực
hiện mục tiêu chăm sóc sức khoẻ toàn dân theo định hướng công bằng và hiệu
quả. Luật BHYT mới cần khắc phục được những hạn chế, bất cập của Luật BHYT
năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014. Cụ thể:
- Tiếp tục khẳng định thực hiện BHYT toàn dân, rà soát bổ sung, mở rộng
đối tượng đảm bảo bao quát toàn bộ đối tượng tham gia và quy định cụ thể hơn về
đối tượng tham gia để thống nhất thực hiện như nhóm đối tượng là người nước
ngoài kết hôn với người Việt Nam, đang sinh sống ở Việt Nam, trẻ em là người
nước ngoài ở Việt Nam, lao động nhập cư, tái nhập cư, lao động là người Việt
Nam quay trở lại từ Lào, Campuchia, Trung Quốc đang sống ở vùng biên giới...
Đồng thời, chú trọng nhiều tới những đối tượng yếu thế khó thực hiện bao phủ
như: (i) Lao động di cư; (ii) Người nước ngoài; (iii) Người dân tộc thiểu số; (iv)
145
Người sống phụ thuộc vào NLĐ, người nhiễm HIV, người mắc bệnh phong, bệnh
lao; (v) Nhóm người cao tuổi từ 60-79; (vi) Người khuyết tật nhẹ. Hiện nay, nhóm
đối tượng là người khuyết tật nhẹ chưa được NSNN hỗ trợ mức đóng BHYT.
Nhưng thực tế thì nhóm đối tượng này cũng bị hạn chế về thu nhập trong khi nhu
cầu khám chữa bệnh cao hơn những người không khuyết tật. Kết quả khảo sát cho
thấy, có tới 82% người khuyết tật nhẹ không có cuộc sống ổn định khi 23% trong
số đó không có khả năng lao động và 59% có việc làm bấp bênh. Hơn nữa, 95%
trong số người khuyết tật nhẹ chưa có thẻ BHYT nói rằng chi phí khám chữa bệnh
“cao và rất cao” so với khả năng kinh tế của họ.221 Vì vậy, Luật BHYT cần sửa
đổi theo hướng quy định nhóm người khuyết tật nhẹ được NSNN đóng BHYT.
Đồng thời, mở rộng phạm vi thanh toán và phạm vi danh mục vật tư, thiết bị y tế
(kính cho người khiếm thị, máy trợ thính cho người khiếm thính…) đối với người
khuyết tật nặng và đặc biệt nặng.
Với hạn chế trong quy định về thông tuyến khám chữa bệnh, Luật BHYT
nên được sửa đổi theo hướng thông tuyến khám chữa bệnh BHYT tại các bệnh
viện tuyến huyện trên phạm vi cả nước và áp dụng thông tuyến khám chữa bệnh
trong điều trị nội trú, ngoại trú bệnh viện tuyến tỉnh. Thực hiện điều này sẽ tạo
điều kiện thuận lợi tối đa cho người tham gia BHYT, đặc biệt là lao động di cư
tham gia BHYT và tăng hấp dẫn cho BHYT nhằm sớm hoàn thành mục tiêu bao
phủ BHYT toàn dân trong thời gian sớm nhất.
- Hoàn thiện quyền lợi của người tham gia BHYT: (i) mở rộng nội dung chăm
sóc sức khoẻ ban đầu, y tế dự phòng, phòng bệnh lây truyền… thuộc phạm vi
thanh toán BHYT; (ii) chú trọng phát triển y tế cấp cơ sở, mở rộng phạm vi cơ sở
khám chữa bệnh BHYT; (iii) Mở rộng phạm vi thanh toán BHYT đối với một số
đối tượng, dịch vụ như: dịch vụ khám sàng lọc trẻ sơ sinh; dịch vụ khám, điều trị
221 Nguyễn Thị Thu Hường (2022), Quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam, luận án tiến sĩ luật học, tr.143
suy dinh dưỡng cấp tính cho trẻ dưới 6 tuổi; kính khiếm thị, máy trợ thính, ốc tai
146
điện tử cho người khiếm thính, chân tay giả, dụng cụ hỗ trợ, dụng cụ chỉnh hình
phục hồi chức năng, các dịch vụ kỹ thuật cao trong quá trình khám bệnh chữa
bệnh, phục hồi chức năng, cho người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng; (iv) cân
đối quyền lợi hưởng, từng bước nâng dần mức đóng với việc mở rộng độ bao phủ
nhằm đảm bảo mục tiêu chăm sóc sức khoẻ toàn dân.
- Hiện nay, chủ thể cung cấp dịch vụ chăm sóc YTCB ở Việt Nam chủ yếu
là cơ sở y tế công lập thông qua dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản và hệ thống
BHYT công cập mà chưa cho phép BHYT tư nhân cùng tồn tại song song trong
việc cung cấp dịch vụ chăm sóc YTCB. Vì vậy, pháp luật nên cân nhắc sửa đổi
luật BHYT theo hướng cho phép BHYT tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ chăm
sóc YTCB cho người tham gia bằng cách liên kết các gói BHYT giữa hai hệ thống
công lập và tư nhân. Đồng thời, có cơ chế cho phép người tham gia BHYT được
phép chuyển đổi/quy đổi về thời gian tham gia, mức đóng, mức hưởng, phạm vi
hưởng giữa hai hệ thống để tăng mức độ tiếp cận theo nhu cầu của người tham gia
đáp ứng đa dạng nhu cầu trong xã hội. Thực tế đã chứng minh hiệu quả của chính
sách xã hội hoá trong việc bù đắp thiếu hụt về tài chính và mở rộng cung ứng dịch
vụ cho đối tượng hưởng dụng dịch vụ. Từ năm 1993, khi pháp luật Việt Nam cho
phép hành nghề y, dược tư nhân, số lượng các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân ở Việt
Nam tăng nhanh chóng với trung bình mỗi năm có 1.300 phòng khám tư nhân và
9,6 bệnh viện tư nhân được mở mới. Năm 2018, cả nước có khoảng 35.000 phòng
khám tư nhân gấp gần 3 lần số lượng trạm y tế và phòng khám đa khoa công lập;
240 bệnh viện tư nhân chiếm 14% số lượng bệnh viện và 6% số giường bệnh cả
nước.222 Các cơ sở y tế tư nhân cung cấp 32,2% dịch vụ ngoại trú và 6,3% dịch vụ
nội trú cho người dân.223 Tuy nhiên, cũng có một thực tế là mặc dù lĩnh vực y tế
222 Lê Minh Sang, Ramesh Govindaraj, và Caryn Bredenkamp (2020), Đối tác công tư y tế ở Việt Nam: Vấn đề và lựa chọn. Tiêu điểm phát triển quốc tế. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới. doi:10.1596/978-1-4648- 1585-0. Giấy phép xuất bản: Giấy phép Creative Commons theo thẩm quyền CC BY 3.0 IGO, tr. 25 223 Tổng cục thống kê, Khảo sát mức sống dân cư năm 2017
là một lĩnh vực thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân nhưng nhìn chung nhà đầu tư
147
thường có xu hướng tập trung đầu tư ở các khu vực địa lý có khả năng mang lại
doanh thu cao. Vì vậy, nhà nước cần có quy định khuyến khích khu vực tư nhân
đầu tư vào lĩnh vực y tế, đặc biệt dành nhiều ưu đãi cho nhà đầu tư đầu tư y tế ở
vùng nông thôn, vùng núi, hải đảo, khu vực dân cư có thu nhập thấp để đảm bảo
người dân ở các khu vực này được tiếp cận dịch vụ chăm sóc YTCB thuận tiện.
Để khắc phục tình trạng cơ sở y tế công lập chưa có cách hiểu thống nhất
và lúng túng trong việc mua sắm trang thiết vị y tết, vật tư, thuốc do chưa có quy
định riêng về tài chính trong đơn vị sự nghiệp công lập y tế tự chủ, cần sửa đổi
Nghị định số 60/2021/NĐ-CP. Theo đó, Nghị định cần được sửa đổi theo hướng
có quy định riêng về cơ chế tự chủ tài chính trong việc mua sắm trang thiết bị, vật
tư, thuốc trong các cơ sở y tế công lập. Ngoài ra, cần quy định về cách tính đúng,
tính đủ giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với từng hệ thống y tế: hệ thống y
tế công lập, hệ thống y tế tư nhân và hệ thống y tế hoạt động không vì mục tiêu
lợi nhuận.
Hình thức đầu tư PPP trong lĩnh vực y tế được các quốc gia phát triển lẫn
các nước có thu nhập trung bình thấp đều áp dụng phổ biến.224 Mặc dù Việt Nam
đã có Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư mới được ban hành và luật
này quy định lĩnh vực đầu tư theo phương thức đối tác công tư có cả lĩnh vực y tế.
Tuy nhiên, Luật chưa có quy định riêng về đầu tư theo hình thức PPP riêng cho
lĩnh vực y tế mà quy định chung cùng nhiều lĩnh vực khác như: giao thông vận
tải, điện, thuỷ lợi…. Trong khi đó, lĩnh vực y tế chứa đựng những đặc thù riêng
biệt. Vì vậy, cần ban hành quy định về PPP riêng cho lĩnh vực y tế trong Luật đầu
tư theo phương pháp đối tác công tư hoặc ban hành Nghị định hướng dẫn riêng về
hình thức đầu tư PPP cho lĩnh vực y tế. Nhằm thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân
224 Lê Minh Sang, Ramesh Govindaraj, và Caryn Bredenkamp (2020), Đối tác công tư y tế ở Việt Nam: Vấn đề và lựa chọn. Tiêu điểm phát triển quốc tế. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới. doi:10.1596/978-1-4648- 1585-0. Giấy phép xuất bản: Giấy phép Creative Commons theo thẩm quyền CC BY 3.0 IGO, tr. 85
vào lĩnh vực y tế, luật đầu tư theo hình thức PPP cần sửa đổi theo hướng tạo ra
148
một sân chơi bình đẳng giữa Nhà nước và nhà đầu tư theo hướng đảm bảo quyền
và nghĩa vụ ngang nhau khi ký hợp đồng PPP. Sửa đổi quy định về tổng mức đầu
tư dự án thuộc lĩnh vực y tế theo hướng giảm tổng mức đầu tư xuống thấp hơn
(quy định hiện hành là 100 tỷ) để nhà đầu tư nhỏ có thể tham gia đầu tư theo hình
thức này. Ngoài ra, cần có chính sách ưu đãi về vốn, về giao đất…. khi đầu tư vào
các lĩnh vực có mức lợi nhuận không cao như cơ sở y tế chăm sóc người khuyết
tật, người nghèo, viện dưỡng lão.
3.2.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về nhà ở
Nghiên cứu năm 2019 của nhà kinh tế học Raj Chetty của Đại học Harvard,
Hoa Kỳ cho thấy việc tăng cường khả năng tiếp cận nhà ở giá cả phải chăng là
chiến lược hiệu quả nhất về chi phí để giảm nghèo và tăng khả năng chuyển dịch
kinh tế ở Hoa Kỳ.225 Đảm bảo tiếp cận nhà ở cho mọi người dân sinh sống trên
đất nước là trách nhiệm của mọi quốc gia trong việc đảm bảo quyền con người.
Để người dân được tiếp cận nhà ở bình đẳng, phổ quát, pháp luật về nhà ở cần
khác phục các hạn chế sau:
Thứ nhất, sửa đổi quy định về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất
của người nước ngoài
Nhằm khắc phục sự mâu thuẫn giữa Luật Nhà ở năm 2014 và Luật Đất đai
năm 2013 và Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 liên quan đến quyền sở hữu
nhà ở của người nước ngoài, cần quy định người nước ngoài thuộc đối tượng
“người sử dụng đất” ở Điều 5 Luật Đất đai năm 2013. Quy định như vậy không
những giải quyết được sự bất đồng trong hệ thống pháp luật về vấn đề này mà còn
đảm bảo quyền sở hữu nhà ở của người nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về đảm bảo tiếp cận nhà ở cho nhóm đối
tượng khó khăn trong tiếp cận nhà ở như người khuyết tật
225 Lê Thị Thuý Hà, Những nét mới trong phát triển nhà ở xã hội trên thế giới và ở Việt Nam, Tạp chí Quy hoạch xây dựng số 109+110/2021, tr.34
Điều 39 Luật Nhà ở cần bổ sung nhóm đối tượng người khuyết tật vào nhóm
149
đối tượng được quyền mua, thuê mua, thuê nhà ở xã hội. Cùng với đó, đối tượng
tiếp cận nhà ở xã hội do nhà nước đầu tư xây dựng nên được thu hẹp lại, chỉ bao
gồm người có công với cách mạng, người khuyết tật, cán bộ, công chức, viên chức,
lực lượng công an nhân dân và quân đội nhân dân, hộ gia đình nghèo. Theo thống
kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hiện vẫn còn khoảng 230.000 hộ
nghèo cần hỗ trợ về nhà ở. Do vậy, cần quy định chế độ ưu đãi, hỗ trợ ở mức cao
hơn mức quy định hiện tại trong Luật Nhà ở để các nhóm đối tượng này có cơ hội
tiếp cận nhà ở. Còn các đối tượng khác như hộ gia đình cận nghèo, người có thu
nhập thấp, NLĐ đang làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài khu công
nghiệp, học sinh, sinh viên và một số đối tượng có thu nhập thấp khác hoặc đối
tượng thực sự có nhu cầu về nhà ở (hộ gia đình bị thu hồi đất, bị giải tỏa…) nên
được quy định thuộc nhóm đối tượng mua, thuê, thuê mua nhà ở giá rẻ được nhà
nước đầu tư xây dựng hoặc doanh nghiệp đầu tư xây dựng với các chính sách ưu
đãi, hỗ trợ từ NSNN. Bên cạnh đó, quy hoạch các khu nhà ở giá rẻ này cần nghiên
cứu xây dựng tại vị trí gần các khu công nghiệp để thuận tiện cho công nhân khu
công nghiệp, học sinh, sinh viên… ở, học tập và làm việc.
Thứ ba, cân nhắc ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhằm khuyến khích
hoặc ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp sử dụng số lượng lao động lớn
phải dành một tỷ lệ vốn để phát triển nhà ở cho NLĐ của mình
Cần xây dựng chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhằm khuyến khích doanh nghiệp
tự xây dựng nhà ở giá rẻ, xây dựng nhà lưu trú cho công nhân. Từ đó, xây dựng
quy định vừa khuyến khích vừa ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể này trong
việc phát triển nhà ở cho người lao động như: (i) nhà nước hỗ trợ vay vốn với lãi
suất ưu đãi; (ii) được chậm nộp tiền sử dụng đất trong một khoảng thời gian nhất
định; (iv) được hỗ trợ thủ tục xây dựng nhà ở, được miễn thủ tục thẩm định bước
thiết kế triển khai sau thiết kế cơ sở; (v) được giảm thuế giá trị gia tăng, giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp; (vi) được huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau ngoài
nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ đầu tư như huy động vốn từ hình thức góp vốn,
150
hình thức hợp tác kinh doanh, đầu tư, nguồn vốn huy động từ người mua, người
thuê; (vii) nghĩa vụ dành một tỷ lệ nguồn kinh phí tính trên quỹ lương hoặc doanh
thu để hỗ trợ NLĐ thuê nhà, mua nhà. Thực hiện đồng bộ giải pháp này, cần quy
định chặt chẽ về trách nhiệm của UBND các tỉnh, thành phố trong quy hoạch, bố
trí quỹ đất để doanh nghiệp, nhà đầu tư xây dựng nhà ở giá rẻ, nhà lưu trú cho
công nhân đặc biệt là ở các tỉnh, thành phố tập trung nhiều khu công nghiệp với
lực lượng lao động đông đảo. Nhà ở giá rẻ, nhà lưu trú cho công nhân có thể
nghiên cứu xây dựng theo loại hình nhà ở căn hộ chung cư, thiết kế căn hộ khép
kín, diện tích sử dụng nhỏ, phù hợp với nhu cầu sử dụng của nhiều nhóm đối tượng
khác nhau như căn hộ dành cho cá nhân, căn hộ gia đình. Theo đó, diện tích căn
hộ nhà ở giá rẻ có thể nghiên cứu thiết kế với diện tích từ 30m2-70m2 và tuân thủ
các quy định của quy chuẩn, tiêu chuẩn về quy hoạch, xây dựng hiện hành và đảm
bảo đồng bộ với các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.
Thứ tư, quy định lại cách tính giá bán, giá thuê nhà ở xã hội
Như trên đã phân tích, nguyên tắc xác định giá bán, cho thuê nhà ở xã hội ở
nước ta do chủ đầu tư xác định dựa trên chi phí thu hồi vốn hay chi phí bảo trì, lãi
vay và lợi nhuận định mức là chưa hợp lý, cách tính này vẫn có thể đẩy giá bán,
cho thuê nhà ở xã hội vượt quá khả năng chi trả của những người có thu nhập hạn
hẹp. Chính vì vậy, cần xem xét quy định lại cách tính giá bán, cho thuê nhà ở xã
hội kết hợp nhiều tiêu chí. Trong đó, ngoài các các tiêu chí về vốn, lãi vay, lợi
nhuận định mức như đã quy định, nên cân nhắc xem xét đến mức thu nhập thực tế
của nhóm đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở. Trong trường hợp
giá bán, cho thuê nhà ở xã hội được tính toán dựa trên các tiêu chí về vốn, lãi vay,
lợi nhuận định mức cao hơn mức thu nhập bình quân của nhóm đối tượng được
hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở thì cần quy định sự hỗ trợ nhiều hơn nữa từ
NSNN về ưu đãi vốn vay, về cấp đất, giá cho thuê đất… Đồng thời, xây dựng
phương án quản lý và kiểm soát chi phí hiệu quả để tính đúng, tính đủ chi phí
nhằm đảm bảo nhà ở xã hội có giá cả phải chăng và phù hợp với khả năng chi trả
151
của đối tượng thuộc diện được mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội theo luật Nhà ở.
Từ kinh nghiệm của Hoa Kỳ trong việc xây dựng giải pháp cụ thể để hỗ trợ
nhà ở cho các gia đình có thu nhập thấp, Việt Nam cũng nên cân nhắc giới hạn giá
thuê, mua nhà ở xã hội dựa trên thu nhập thực tế của đối tượng thuộc diện được
hỗ trợ nhà ở xã hội. Cụ thể, Hoa kỳ thực hiện bốn giải pháp hỗ trợ nhà ở công
cộng bao gồm: thứ nhất, hỗ trợ tài chính thông qua phát hành tín phiếu; thứ hai,
hỗ trợ bù lỗ phần chênh lệch giữa giá cho thuê thực tế, giá thị trường và giá ưu đãi
cho các đơn vị kinh doanh nhà để đảm bảo giá thuê nhà không lớn hơn 30% thu
nhập của gia đình nghèo; thứ ba, hỗ trợ sửa chữa, cải tạo nhà; thứ tư, lựa chọn gia
đình đủ điều kiện ở nhà thu nhập thấp thuộc sở hữu của Nhà nước.226 Thực hiện
giải pháp này cần có sự hỗ trợ lớn hơn nữa từ phía Nhà nước để bù lỗ cho chủ đầu
tư xây dựng nhà ở xã hội nếu có sự chênh lệch giữa giá cho thuê thực tế, giá thị
trường và giá ưu đãi. Kinh nghiệm từ Nhật Bản còn cho thấy một giải pháp khá
hiệu quả trong đảm bảo tiếp cận nhà ở đó là ban hành một bộ luật điều chỉnh mối
quan hệ giữa chủ cho thuê nhà và người thuê nhà. Theo đó, chủ nhà phải chứng
minh được có lý do chính đáng nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà hoặc
từ chối gia hạn hợp đồng thuê nhà. Hợp đồng thuê phải được ký dài hạn và tiền
thuê nhà bị giới hạn. Quy định này nhằm đảm bảo sự ổn định cho người thu nhập
thấp-những người phải đối mặt với sự không chắc chắn về kinh tế.227 Như vậy,
quy định kiểm soát giá thuê nhà được áp dụng ở một số quốc gia như Nhật Bản,
Hoa Kỳ. Việt Nam cũng nên cân nhắc áp dụng giải pháp này nhằm đảm bảo nhóm
thu nhập trung bình, thấp được tiếp cận nhà ở thuận tiện hơn.
Thứ năm, xây dựng chính sách khuyến khích phát triển nhà ở giá rẻ
Để khắc phục tình trạng nguồn cung về nhà ở không đủ cầu như hiện nay,
226 Hoàng Thị Hằng Nga, một số kinh nghiệm phát triển nhà ở thu nhập thấp trên thế giới và bài học cho Việt Nam, tạp chí Khoa học Kiến trúc - Xây dựng, số 38/2020 227 Samuel Kleven, Housing policy in Japan
đảm bảo tiếp cận nhà ở của một số nhóm đối tượng có thu nhập thấp thì một trong
152
những giải pháp là phát triển nhà ở giá rẻ. Tuy nhiên, để thu hút đầu tư phát triển
nhà ở giá rẻ cần nhiều chính sách ưu đãi, khuyến khích đối với chủ đầu tư, nhất là
ở những nơi có giá đất cao như các thành phố lớn Hà Nội, thành Phố Hồ Chí
Minh… Các chính sách khuyến khích ưu đãi như cho phép chậm nộp tiền sử dụng
đất trong thời hạn nhất định kể từ ngày doanh nghiệp tham gia đầu tư xây dựng
nhà ở giá rẻ được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc cho phép chuyển mục đích
sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về đầu tư; ưu đãi
vay vốn. Nhằm giảm chi phí đầu tư, cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về
xây dựng có thể nghiên cứu ban hành các bản thiết kế mẫu, thiết kế điển hình loại
nhà ở này và cung cấp miễn phí cho nhà đầu tư tham khảo. Bên cạnh đó, nhằm
tránh tình trạng doanh nghiệp hưởng ưu đãi nhưng không thực hiện xây dựng nhà
ở giá rẻ, pháp luật cần có cơ chế ràng buộc chủ đầu tư bằng cách yêu cầu cam kết
giá bán nhà ở tương xứng với đặc thù phát triển kinh tế, xã hội và khả năng chi trả
của người dân trong từng giai đoạn và sự phù hợp giữa khu vực nông thôn, với
thành thị hoặc các thành phố lớn. Đồng thời, quy định cơ quan có thẩm quyền ở
địa phương phải có trách nhiệm xác định rõ chỉ tiêu phát triển, danh mục nhà ở
giá rẻ khi thực hiện rà soát, xây dựng, phê duyệt chương trình, kế hoạch phát triển
nhà ở. Một giải pháp khá quan trọng nhằm thu hút đầu tư vào dự án nhà ở xã hội,
nhà ở giá rẻ là quy định lại thủ tục, quy trình đầu tư phát triển nhà ở theo hướng
đơn giản hoá ở tất cả các khâu. Cùng với đó, các cơ quan có thẩm quyền như Bộ
kế hoạch Đầu tư, Bộ xây dựng, Bộ Tài nguyên môi trường, Bộ Tư pháp, Bộ Tài
chính phối kết hợp xây dựng một quy trình chuẩn về trình tự, thủ tục đầu tư dự án
nhà ở xã hội và thống nhất thực hiện trong cả nước. Ứng dụng công nghệ thông
tin trong thực hiện các thủ tục hành chính để tiết kiệm thời gian, chi phí cho chủ
đầu tư và đảm bảo minh bạch trong tất cả giai đoạn đầu tư phát triển nhà ở.
Thứ sáu, quy định thành lập Quỹ tín dụng nhà ở
Từ kinh nghiệm một số quốc gia về phát triển nhà ở xã hội bằng việc thành lập
một Quỹ tín dụng độc lập và từ thực trạng một số dự án xây dựng nhà ở thương
153
mại quy mô trên 2ha nhưng không phù hợp xây dựng nhà ở xã hội trong quỹ đất
20%, pháp luật có thể cân nhắc sửa đổi quy định theo hướng cho phép chủ đầu tư
được lựa chọn một trong hai phương án: Một là chủ đầu tư được lựa chọn đổi 20%
diện tích này sang một vị trí khác có giá trị tương đương; Hai là chủ đầu tư được
lựa chọn thanh toán bằng tiền giá trị quỹ đất 20% và chi phí xây dựng tương đương
với giá đất trên thị trường. Khoản tiền này được đưa vào Quỹ tín dụng nhà ở, quỹ
này hạch toán độc lập với NSNN để phát triển nhà ở xã hội như một số quốc gia
đang thực hiện.
Thứ bảy, quy định ràng buộc trách nhiệm của chính quyền địa phương
trong thực hiện quy hoạch bố trí quỹ đất phát triển nhà ở
Chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong thực hiện quy hoạch,
bố trí quỹ đất để xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở giá rẻ, nhà lưu trú của công nhân,
lao động di cư, sinh viên…. Theo đó, pháp luật cần quy định cụ thể trách nhiệm
của các địa phương (UBND cấp tỉnh, huyện) trong việc thực hiện quy hoạch, bố
trí quỹ đất, công tác bồi thường giải phóng mặt bằng để xây dựng nhà ở xã hội,
nhà ở giá rẻ, nhà lưu trú và chế tài áp dụng tương ứng
3.2.5. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về nước sạch
Hiện nay, các quy định về quyền được cung cấp nước sạch và yêu cầu đối
với sản xuất, cung cấp và sử dụng nước sạch mới chỉ được ghi nhận trong văn bản
pháp luật có giá trị cao nhất là Nghị định. So sánh với hành lang pháp lý của các
DVXHCB khác và tầm quan trọng của quyền tiếp cận nước sạch đầy đủ đối với
sự phát triển con người, hành lang pháp lý cho tiếp cận nước sạch thể hiện sự chưa
đầy đủ, chưa được đề cao. Vì vậy, cần bổ sung, hoàn thiện, nâng quy định về sản
xuất, cung cấp và sử dụng nước sạch lên thành luật. Luật về cung cấp nước sạch
cần quy định cụ thể đối tượng được tiếp cận nước sạch, chủ thể sản xuất, cung cấp
nước sạch, việc sử dụng nước sạch, quy định về quy chuẩn, tiêu chuẩn, chất lượng
nước sạch, trách nhiệm quản lý nhà nước về cấp nước, trách nhiệm của chủ thể
cung cấp nước sạch, nguồn vốn đầu tư cho công trình cấp nước, quy định về xã
154
hội hoá trong cung cấp nước, kiểm soát tài sản công trình cấp nước, trách nhiệm
quản lý công trình cấp nước sau khi đầu tư đưa vào vận hành, phương pháp tính
giá nước, chế tài đối với các hoạt động vi phạm pháp luật về sản xuất, cung cấp
nước sạch…
Kinh nghiệm từ Nam Phi cho thấy hiệu quả bao phủ tiếp cận nước sạch ở
quốc gia này một phần đến từ chính sách hỗ trợ từ Nhà nước. Nam Phi hỗ trợ miễn
phí một lượng nước tối thiểu cho các hộ gia đình và nếu sử dụng quá lượng nước
này thì người dân phải trả tiền. Với thực trạng tỷ lệ bao phủ sử dụng nước sạch ở
Việt Nam còn thấp như hiện nay và khả năng khó hoàn thành mục tiêu phát triển
bền vững về đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ
sinh cho tất cả mọi người (mục tiếu số 6) vào năm 2030228 thì đây là một giải pháp
nên cân nhắc áp dụng. Ngoài ra, nhằm tăng cường trách nhiệm của địa phương
trong tiến trình bao phủ tiếp cận nước sạch, cần quy định rõ trách nhiệm của địa
phương phải xây dựng chỉ tiêu cấp nước vào chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội trong
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương hàng năm. Đồng thời, quy định
mức ưu đãi lớn hơn nhằm thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư cung cấp nước
sạch, đặc biệt khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo. Theo đó, với các địa phương
có địa hình hiểm trở, khu dân cư thưa thớt, ngoài ưu đãi về xây dựng công trình,
cần quy định hỗ trợ một phần chi phí lắp đặt đường ống, hỗ trợ doanh nghiệp bù
lỗ trong thời gian đầu vận hành công trình.
Nhằm đảm bảo công trình cấp nước nông thôn được đưa vào sử dụng, vận
hành, tránh lãng phí cho NSNN, cần quy định trách nhiệm của chính quyền địa
phương trong vận hành, khai thác công trình cấp nước mà địa phương đã tiếp quản.
Việc chưa có quy định cụ thể về vấn đề này khiến cho các bên còn có nhiều cách
hiểu khác nhau và lúng túng trong quá trình thực hiện dẫn đến nhiều công trình
228 Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021), Báo cáo Quốc gia năm 2020: tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững
cấp nước đang bỏ không. Một số bộ phận quản lý cho rằng trách nhiệm quản lý,
155
vận hành công trình sau phân cấp thuộc về người dân bởi họ cho rằng các công
trình được đầu tư theo hình thức xã hôi hoá, nhà nước đã đầu tư xây dựng thì người
dân phải chi trả chi phí quản lý vận hành.229 Cụ thể, pháp luật cần có quy định rõ
ràng về nguồn kinh phí vận hành, khai thác các công trình cấp nước. Chi phí này
có thể được quy định lấy từ nguồn thu từ chi phí sử dụng nước của các hộ dân,
phần còn thiếu sẽ được lấy từ ngân sách của huyện, xã nơi có công trình cấp nước.
Đồng thời, văn bản hướng dẫn còn phải quy định rõ mỗi xã phải thành lập tổ quản
lý vận hành công trình cấp nước. Việc thành lập tổ quản lý cũng cần được hướng
dẫn cụ thể về quy trình thành lập, số lượng thành viên, điều kiện của thành viên,
chức năng, nhiệm vụ của tổ, chế tài xử lý các vi phạm… Do đó, rất cần thiết phải
có văn bản hướng dẫn cụ thể về nguồn tài chính đầu tư cho khai thác, vận hành để
thống nhất thực hiện trên thực tiễn.
3.2.6. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về tiếp cận thông
tin
Từ những bất cập còn tồn tại trong quy định pháp luật về TCTT, pháp luật
về TCTT cần hoàn thiện nhằm đảo bảo tính khả thi trong áp dụng pháp luật.
Thứ nhất, sửa đổi quy định về chủ thể tiếp cận thông tin. Nhằm đảm bảo sự
tương thích trong quy định về đối tượng TCTT của Luật TCTT và pháp luật quốc
tế cũng như hệ thống pháp luật quốc gia, cần sửa đổi quy định tại Điều 4 Luật
TCTT theo hướng mở rộng đối tượng TCTT và có sự dẫn chiếu đối tượng TCTT
đến các luật chuyên ngành. Cụ thể Điều 4 cần sửa đổi theo hướng bổ sung thêm
khoản 3 như sau: “3. Các chủ thể khác thực hiện quyền tiếp cận thông tin theo quy
định của các văn bản pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể.
Thứ hai, mở rộng phạm vi chủ thể cung cấp thông tin. Để tạo sự thống nhất
trong hệ thống luật quốc gia và mở rộng quyền TCTT của cá nhân, tổ chức, đồng
229 Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường-Tổng cục thuỷ lợi (2020), Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2030, tầm nhìn đến 2045
thời thúc đẩy minh bạch, trách nhiệm giải trình và phòng, chống tham nhũng của
156
các cơ quan, tổ chức, thiết nghĩ Luật TCTT cần mở rộng phạm vi chủ thể cung
cấp thông tin. Theo đó, chủ thể có nghĩa vụ công khai, cung cấp thông tin ngoài
cơ quan nhà nước còn có các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các doanh
nghiệp cũng có trách nhiệm công khai, cung cấp thông tin. Lý do là vì nhu cầu
được tìm kiếm, tiếp nhận thông tin của cá nhân, tổ chức không chỉ dừng lại đối
với các thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra, nắm giữ mà còn có nhu cầu được
biết các thông tin liên quan, ảnh hưởng tới đời sống của cá nhân, tới hoạt động của
tổ chức. Ví dụ, các thông tin về cách tính giá nước sạch do các đơn vị cung cấp
nước sạch áp dụng, các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh môi trường cần đáp ứng trong
quá trình sản xuất, kinh doanh, thông tin về giá, thời điểm mở bán nhà ở xã hội...
Thứ ba, cần bãi bỏ Khoản 1 Điều 23 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.
Việc bãi bỏ quy định này nhằm phục sự chưa thống nhất trong quy định về công
khai thông tin và thúc đẩy việc chủ động công khai thông tin như đã trình bày ở
trên.
Thứ tư, quy định tăng mức kinh phí đầu tư phát triển công nghệ thông tin,
mạng lưới Internet vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Theo kết quả điều tra của Tổng
cục Thống kê và Uỷ ban Dân tộc thì tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số sử dụng Internet
chiếm 61,3% vào năm 2019.230 Trong khi việc sử dụng Internet sẽ giúp TCTT
đơn giản, thuận tiện và tiết kiệm cả về thời gian đi lại và chi phí. Với đặc thù địa
lý đồi núi, đi lại khó khăn, hiểm trở ở các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng
biên giới, hải đảo thì sử dụng Internet để TCTT càng thuận tiện hơn cho đồng bào
dân tộc thiểu số. Chính vì vậy, trong thời gian tới, các địa phương vùng dân tộc
thiểu số cần tập trung đầu tư cho việc bao phủ phủ hộ gia đình dân tộc thiểu số sử
dụng Internet bằng cách dành kinh phí từ ngân sách địa phương để hỗ trợ một
phần chi phí sử dụng Internet hàng tháng cho các gia đình dân tộc thiểu số nghèo;
230 Tổng cục Thống kê, Uỷ ban dân tộc (2020), Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb. Thống Kê, tr.96
dành chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp cung cấp Internet để giảm giá thành phí
157
dịch vụ nhằm giúp người dân tộc thiểu số dễ tiếp cận.
Thứ năm, quy định cụ thể mức ngân sách địa phương dùng để phát triển công
nghệ thông tin, đảm bảo TCTT của nhóm người khuyết tật. Đối với nhóm người
khuyết tật, để đảm bảo cho nhóm này được TCTT, cần sử dụng phần mềm, công
nghệ hỗ trợ, tiêu chuẩn chuyên biệt, điều này đồng nghĩa với việc chi phí đầu tư
công nghệ thông tin sẽ gia tăng. Chính vì vậy, nhà làm luật cũng cần xây dựng
quy định ràng buộc trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc sử dụng
một phần ngân sách địa phương hàng năm đầu tư cho công nghệ thông tin nói
chung và cho việc đảm bảo TCTT của người khuyết tật nói riêng. Đồng thời, quy
định lộ trình, giới hạn khoảng thời gian để các cơ quan hoàn thiện các điều kiện
đảm bảo người khuyết tật được TCTT.
Thứ sáu, quy định chế tài xử lý các cơ quan chậm trễ thực hiện nghĩa vụ
cung cấp thông tin. Như trên đã phân tích, hầu hết các cơ quan nhà nước chưa có
đầu mối, chuyên mục TCTT, chưa có danh mục thông tin phải công khai, danh
mục thông tin cung cấp có điều kiện trên cổng/trang thông tin điện tử. Để khắc
phục tình trạng này, Luật TCTT cần quy định chế tài xử lý đối với các cơ quan
chậm trễ trong việc thực hiện nghĩa vụ của Luật TCTT.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật an sinh xã hội về các
dịch vụ xã hội cơ bản
Nếu hoàn thiện hệ thống pháp luật ASXH về DVXHCB đóng vai trò then
chốt trong đảm bảo quyền tiếp cận DVXHCB thì nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về lĩnh vực này cũng quan trọng không kém. Để nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật ASXH về DVXHCB, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó
có một số giải pháp chung áp dụng cho tất cả các DVXHCB và một số giải pháp
riêng phù hợp với đặc thù từng DVXHCB.
3.3.1. Giải pháp chung
Thứ nhất, giải quyết tình trạng nghèo đói giúp tăng cường hiệu quả tiếp
cận DVXHCB
158
Một nghiên cứu ở các nước OECD cho thấy người nghèo sẽ phải chi 3/4
thu nhập của họ cho các dịch vụ thiết yếu nếu họ phải trực tiếp mua chúng. Dịch
vụ làm giảm bất bình đẳng thu nhập trung bình 20%.231 Như vậy, nghèo đói có
ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ và khả năng tiếp cận giáo dục, y tế, nhà ở, nước
sạch, thông tin và nhiều dịch vụ xã hội khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Trong nghiên cứu quốc tế quốc tế về tình trạng nghèo ở trẻ em ở bốn quốc gia có
mức thu nhập thấp và trung bình bao gồm Ethiopia, Ấn Độ (Andhra Pradesh và
Telangana), Peru và Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng phát triển kinh tế
đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng nhận thức của trẻ em ở
Việt Nam.232 Nghiên cứu này chỉ ra một vòng luẩn quẩn, đó là trẻ em sinh ra trong
các gia đình nghèo sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập của trẻ sau này, từ
đó ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập của trẻ sau này.233 Học sinh nghèo thường ít
có thời gian và điều kiện học tập hơn so với các học sinh khác. Các em thường
phải giúp bố mẹ trong các công việc nhà, lao động kiếm sống nên thời gian dành
cho việc học thường rất hạn chế.234 Nghèo đói cũng cản trở tiếp cận các DVXHCB
mà yêu cầu người sử dụng dịch vụ trả phí như y tế, nước sạch. Nghèo đói và
DVXHCB là một vòng luẩn quẩn bởi DVXHCB đóng vai trò giải quyết tất cả các
hình thức nghèo đói, trong khi đó, nghèo đói là nguyên nhất chủ yếu cản trở tiếp
cận DVXHCB. Vì vậy, nhà nước cần giải quyết các vấn đề một cách đồng bộ để
phá vỡ vòng luẩn quẩn này. Giải pháp này không thể thực hiện một sớm, một
chiều trong thời gian ngắn mà cần được thực hiện với nhiều giải pháp toàn diện,
231 G. Verbist, M. F. Förster & M. Vaalavuo. (2012), The Impact of Publicly Provided Services on the Distribution of Resources: Review of New Results and Methods. OECD, OECD Social, Tạp chí Việc làm và Di cư Số. 130, tr.35 232 Phạm Minh Thái, Trần Quang Tuyến (2021), Does greater household wealth make young children perform better? The case of Vietnam" 233 Nguyễn Thắng, Nguyễn Thị Thu Phương, Vũ Hoàng Đạt, Phạm Minh Thái, Nguyễn Thế Quân, Lộ Thị Đức (2021), Thúc đẩy giảm nghèo nhanh và bền vững theo mọi chiều cạnh và mọi nơi ở Việt Nam, Báo cáo nghèo đa chiều Việt Nam. 234 Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam-Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Đánh giá khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục của người nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc trong điều kiện xã hội hoá các hoạt động giáo dục ở Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp Viện, Mã số: B2011-37-04, tr.27
trong đó vấn đề giải quyết việc làm được coi là nền tảng trong việc giải quyết đói
159
nghèo, đồng thời tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận giáo dục và nâng cao chất
lượng giáo dục của quốc gia.
Thứ hai, đảm bảo tiếp cận DVXHCB trong “khả năng chi trả” của người
sử dụng dịch vụ
Hiệu quả tiếp cận DVXHCB phụ thuộc “khả năng chi trả” của người hưởng
dụng dịch vụ. Thật vậy, như trên đã phân tích, Nhà nước không có trách nhiệm và
không đủ khả năng cung cấp miễn phí tất cả DVXHCB, Nhà nước với vai trò quản
lý, có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các DVXHCB, đảm bảo tính sẵn có, đảm bảo
chất lượng và sự công bằng trong tiếp cận DVXHCB. Điều đó có nghĩa, người sử
dụng dịch vụ có trách nhiệm trả phí khi sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, với tư cách
là một nội dung của hệ thống ASXH quốc gia, NSNN cần hỗ trợ một phần cho
việc cung cấp DVXHCB để phí sử dụng dịch vụ nằm trong “khả năng chi trả” của
người dân trong từng giai đoạn. Khả năng chi trả có thể quyết định tới hiệu quả sử
dụng dịch vụ và mục tiêu phổ cập DVXHCB của Nhà nước. Vì vậy, cần có sự
đánh giá tổng chi phí cho tất cả DVXHCB mà người dân phải chi trả trong tương
quan với thu nhập của hộ gia đình theo tháng/năm. Việc tính toán này được thực
hiện theo vùng dân cư (thành thị, nông thôn, miền núi…), theo nhóm dân số (nhập
cao, thu nhập thấp, hộ gia đình nghèo) để có sự đánh giá một cách toàn diện. Từ
đó, có sự điều chỉnh mức giá dịch vụ cho phù hợp để việc sử dụng DVXHCB
không trở thành gánh nặng cho hộ gia đình.
Thứ ba, cải thiện hệ thống hạ tầng cơ sở ở nông thôn, miền núi, hải đảo
Một trong những rào cản trong tiếp cận DVXHCB của người dân tộc thiểu
số là hạ tầng giao thông không thuận lợi. Khoảng cách xa từ nhà đến trường/lớp
học, bệnh viện làm cho người dân tộc thiểu số khó tiếp cận giáo dục, dịch vụ chăm
sóc YTCB. Khu dân cư thưa thớt, cách xa nhau cũng làm tăng chi phí đầu tư hệ
thống cung cấp nước sạch, thông tin, từ đó ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận
DVXHCB của người dân nơi đây. Vì vậy, giải pháp cải thiện hệ thống hạ tầng cơ
sở, phát triển giao thông đường bộ sẽ làm tăng khả năng tiếp cận DVXHCB của
160
người dân nông thôn, người dân vùng dân tộc thiểu số.
Thứ tư, tăng cường sự giám sát, đánh giá từ chính người sử dụng dịch vụ
và sự kiểm tra, giám sát từ cơ quan có thẩm quyền
Từ năm 2014, tỉnh Quảng Trị đã thực hiện Dự án Sáng kiến Dân chấm điểm
M-Score. Đây là chương trình gọi điện trực tiếp phỏng vấn người dân để thu thập
ý kiến đánh giá, chấm điểm về chất lượng dịch vụ công đối với hai dịch vụ: hành
chính và y tế. Mục tiêu của Sáng kiến nhằm nâng cao tính minh bạch, chất lượng
dịch vụ và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước dựa trên sự đánh giá, chấm
điểm của người dân.235 Từ kinh nghiệm và những thành công của Dự án sau 05
năm triển khai, thiết nghĩ cần nghiêm cứu triển khai rộng rãi mô hình này trong cả
nước và với tất cả các dịch vụ công, đặc biệt là các DVXHCB. Việc lấy ý kiến có
thể thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau như: Nhà nước có thể thuê một
bên thứ ba thực hiện dịch vụ khảo sát, lấy ý kiến của người sử dụng dịch vụ, lập
ứng dụng để người dân có thể đánh giá dịch vụ trên ứng dụng đó, phát phiểu khảo
sát định kỳ… Đây là hoạt động rất thiết thực, thể hiện sự quyết tâm của cơ quan
nhà nước trong việc đảm bảo người dân được tiếp cận DVXHCB hiệu quả, chất
lượng, tăng cường trách nhiệm của chủ thể cung cấp dịch vụ DVXHCB và người
dân được thực hiện quyền đánh giá, giám sát như một “khách hàng” thực thụ.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra sát sao và hiệu quả đối với các hoạt động,
nhiệm vụ, chiến lược quốc gia và địa phương trong quá trình đảm bảo quyền
ASXH cơ bản. Các cơ quan chủ quản, các Sở, ban ngành trong từng lĩnh vực cần
phối kết hợp tốt hơn nữa trong việc đảm bảo chất lượng từng DVXHCB. Thường
xuyên tổ chức các đợt thanh tra về chất lượng dịch vụ. Đồng thời, xử lý nghiêm
các trường hợp cán bộ thiếu trách nhiệm, tham nhũng, lợi dụng chức vụ nhằm làm
sai quy định pháp luật hoặc hành vi cản trở tiếp cận DVXHCB của công dân.
235 Hội nghị tổng kết 5 năm triển khai Sáng kiến Dân chấm điểm M.Score tổ chức ngày 22/11/2019 https://www.quangtri.gov.vn/xem-chi-tiet-thong-tin-can-biet/-/view- article/1/13848241113627/1577690854408, truy cập ngày 15/4/2022
Ngoài biện pháp chung nêu trên nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
161
luật về tất cả các DVXHCB thì mỗi DVXHCB với đặc thù riêng, cần có biện pháp
riêng nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhất quy định của pháp luật.
3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản
về giáo dục
- Nâng cao chất lượng giáo dục
Thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục không chỉ nên dừng lại ở mức độ bao
phủ ở số lượng người được tiếp cận giáo dục cơ bản mà còn cả yếu tố về chất
lượng giáo dục. Xuất phát từ vai trò của giáo dục cơ bản với sự phát triển của con
người, nâng cao cơ hội tìm kiếm việc làm và từ thực tiễn chất lượng giáo dục ở
Việt Nam hiện nay thì nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục là yêu cầu cấp thiết.
JICA cho rằng mở rộng số lượng lượng giáo dục tiểu học và nâng cao chất lượng
giáo dục tiểu học và trung học cơ sở là hai yếu tố không tách rời đối với sự phát
triển giáo dục ở các nước đang phát triển. Nếu thiếu một trong hai yếu tố này thì
không thể đạt được sự phát triển cơ bản về giáo dục. Do vậy, ngoài việc khuyến
khích ghi danh cho trẻ em đi học thì còn yêu cầu giáo viên có chất lượng, phương
pháp sư phạm phù hợp, cải thiện cơ sở vật chất giáo dục, sách giáo khoa, tài liệu
khóa học, chương trình giảng dạy phải phù hợp với ngôn ngữ và môi trường xã
hội của trẻ em. Ngoài ra, giáo dục chất lượng cao có thể ngăn chặn tình trạng bỏ
học và lưu ban, đồng thời nâng cao hiệu quả giáo dục và mở rộng giáo dục.236 Do
đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng giáo
viên không chỉ về kiến thức trong chương trình đào tạo mà còn trang bị cho giáo
viên kiến thức về tâm lý trẻ em, phương pháp sư phạm, sự nhiệt huyết với nghề.
Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chất lượng giáo dục, với
phương châm lấy người học làm trung tâm, ngăn chặn tình trạng thành tích, hình
thức trong công tác giảng dạy.
- Cần đầu tư xây dựng mới, mở rộng mạng lưới cơ sở giáo dục công lập
236 JICA, Effective Approaches in Basic Education https://www.jica.go.jp/jica-ri/IFIC_and_JBICI- Studies/english/publications/reports/study/topical/spd/pdf/chapter1.pdf, truy cập ngày 12/12/2022
162
Như trên đã phân tích, thực trạng thiếu trường mầm non tại khu công
nghiệp, địa phương có đông lao động di cư còn tồn tại. Do vậy, để con em lao
động di cư tiếp cận giáo dục cơ bản bình đẳng và hiệu quả, giải pháp được đề xuất
là Nhà nước và chính quyền địa phương cần nghiên cứu tăng cường đầu tư xây
dựng mới, mở rộng mạng lưới cơ sở giáo dục công lập dựa trên số lượng dân số
của từng địa phương. Thực hiện biện pháp này rất cần có sự phối kết hợp của các
cơ quan, ban ngành và chính quyền địa phương. Theo đó, chính quyền các địa
phương có khu công nghiệp, khu chế xuất và có đông NLĐ di cư cần sớm thực
hiện rà soát, dự báo, điều chỉnh quy hoạch phát triển các dịch vụ công bao gồm
mầm non công lập gắn với nhà ở của công nhân. HĐND ở các địa phương có đông
khu công nghiệp, khu chế xuất cân nhắc ban hành nghị quyết để những trường
mầm non công lập ở các khu công nghiệp, khu chế xuất nhận trông trẻ ngoài giờ
và ngày nghỉ với chi phí phù hợp để lao động di cư gửi con trong thời gian tăng
ca. Vụ Giáo dục mầm non thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thống kê số lượng
lao động và trẻ em di cư ở các bậc học này tại các địa phương có nhiều khu công
nghiệp, khu chế xuất để đề xuất tăng phân bổ ngân sách cho những địa phương
này.
- Tăng cường vận động, tuyên truyền khu vực dân tộc thiểu số
Khắc phục tình trạng một tỷ lệ lớn trẻ em dân tộc thiểu số chưa nhập học
đúng độ tuổi, mù chữ, cần làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, vận động ở các
khu vực này. Bởi việc sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản như chăm sóc sức khỏe
và giáo dục để cải thiện chất lượng cuộc sống phụ thuộc vào khả năng người dân
sử dụng chúng một cách hiệu quả.237 Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao các dịch vụ
đó về số lượng và chất lượng thì việc tạo cơ chế khuyến khích người dân sử dụng
các dịch vụ đó cũng rất quan trọng. Nội dung tuyên truyền, vận động cần chú trọng
237 Ha Thi Hai Do, Nui Dang Nguyen, Anh Ngoc Mai, Duc Minh Phung (2020), Assessment of basic social services coverage on life quality for ethnic minorities in Vietnam, International magazine of innovation, Vol.13, No. 10.
tới các chính sách ưu tiên trong giáo dục dành cho đồng bào dân tộc thiểu số, lợi
163
ích về vật chất và tinh thần khi hoàn thành giáo dục cơ bản để thúc đẩy cha mẹ tạo
điều kiện cho con em mình đi học và thúc đẩy người dân tộc thiểu số tham gia lớp
học xoá mù chữ. Nội dung tuyên truyền, vận động cần được xây dựng phù hợp
với từng lứa tuổi và đối tượng tuyên truyền, vận động không chỉ có người dân mà
còn dành cho cán bộ, chính quyền địa phương đó.
- Thúc đẩy cơ hội tiếp cận giáo dục cơ bản của trẻ em khuyết tật
Để trẻ khuyết tật, gia đình trẻ khuyết tật ý thức tầm quan trọng của việc cần
thiết học tập, cần thống kê số lượng trẻ khuyết tật chưa đi học đúng độ tuổi ở các
cấp và giao trách nhiệm cho cơ sở giáo dục nơi trẻ sinh sống vận động trẻ đến
trường. Tăng cường đầu tư từ NSNN và nguồn vốn viện trợ của tổ chức nước
ngoài, tăng cường đầu tư từ khu vực tư nhân trong việc đầu tư cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ dạy học đối với từng dạng tật. Thường xuyên tổ chức tập huấn,
bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viên dạy trẻ khuyết tật, khuyến khích
sinh viên theo học các khoa đào tạo về giáo dục chuyên biệt nằm cải thiện cả về
chất lượng và số lượng giáo viên. Thực hiện hiệu quả giáo dục hoà nhập. Giáo dục
hòa nhập không chỉ đơn giản là đưa trẻ khuyết tật vào trong lớp học, không chỉ
đơn thuần là biện pháp để trẻ khuyết tật học chung với trẻ không khuyết tật mà
phải thực hiện nghiêm túc phương pháp tiếp cận lấy trẻ làm trung tâm. Thực hiện
thống kê, khảo sát hàng năm để có số liệu chính xác về số lượng người khuyết tật
và theo các dạng tật, độ tuổi. Từ đó, lập kế hoạch, dự trù ngân sách và phát triển
đội ngũ tham gia giáo dục trẻ khuyết tật tương ứng. Thường xuyên bồi dưỡng năng
lực giáo dục hoà nhập của giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, tăng cường cơ sở
vật chất cơ sở giáo dục phù hợp với dạng tật. Ngoài hình thức giáo dục hoà nhập,
người khuyết tật nên được tạo điều kiện tham gia nhiều hình thức giáo dục khác
như giáo dục từ xa, giáo dục tại cộng đồng nhất là đối với trẻ khuyết tật đặc biệt
nặng, khó khăn trong việc đến cơ sở giáo dục.
- Thực hiện miễn, giảm học phí đối với giáo dục cơ bản
Từ kinh nghiệm của Trung Quốc về chính sách miễn giảm học phí cho thời
164
gian giáo dục bắt buộc, nhìn lại lịch sử thực hiện miễn học phí cho giáo dục bắt
buộc ở Trung Quốc thì thấy, chính sách này không thể thực hiện ngay trong những
năm đầu mà được thực hiện theo lộ trình. Với hơn 1,3 tỉ dân, Trung Quốc thực
hiện miễn học phí ở khu vực có nguồn thu ngân sách lớn trước, những nơi khó
khăn làm sau. Song song với đó, Trung Quốc thành lập quỹ hỗ trợ giáo dục bắt
buộc 9 năm cho các vùng khó khăn. Nhờ vậy, đến năm 2006, nước này thực hiện
miễn phí trung học cơ sở 100% trên phạm vi toàn quốc. Việt Nam cũng cần học
hỏi kinh nghiệm này từ Trung Quốc, nhanh chóng triển khai thực hiện chính sách
miễn học phí giáo dục mầm non 05 tuổi và trung học cơ sở như luật Giáo dục 2019
đã đề ra. Theo đó, các tỉnh có nguồn thu ngân sách lớn như: thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng... nên thực hiện miễn học phí cho bậc trung
học cơ sở trước. Cùng với đó, Chính phủ cần thành lập Quỹ hỗ trợ các tỉnh khó
khăn để tiến tới thực hiện chính sách này đồng bộ trên cả nước. Chính sách miễn
học phí cần được thực hiện ở tất cả các trường công lập và hỗ trợ một phần học
phí ở các cơ sở giáo dục ngoài công lập.
3.3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản
về chăm sóc y tế
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và nhân lực ngành y chuyên sâu phù hợp
với từng đối tượng
Để tiếp cận hiệu quả dịch vụ chăm sóc YTCB cho một số nhóm đối tượng
đặc thù như người khuyết tật, người cao tuổi…, cần tiếp tục tăng cường đầu tư cơ
sở vật chất và nhân lực ngành y chuyên sâu phù hợp với từng đối tượng. Trong
đó, y tế tuyến cơ sở, các trạm y tế xã đóng vai trò then chốt giúp các nhóm đối
tượng này được theo dõi sức khoẻ thường xuyên và thuận tiện cho việc đi lại thăm
khám, điều trị. Phát triển hệ thống cơ sở chăm sóc sức khoẻ và tinh thần cho người
cao tuổi, có thể tham khảo mô hình viện dưỡng lão hoạt động như đơn vị sự nghiệp
công lập tự chủ. Số lượng viện dưỡng lão nên được phân bổ phù hợp với số lượng
người cao tuổi ở mỗi địa phương và được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ, có nhân
165
viên chăm sóc người cao tuổi, nhân viên y tế. Đối với người khuyết tật, việc tiếp
cận chăm sóc YTCB còn hạn chế do những hạn chế về cơ sở vật chất, nguồn lực.
Do vậy, cần hoàn thiện mạng lưới phục hồi chức năng trên toàn quốc bằng cách
cải tạo, xây dựng mới các khoa phục hồi chức năng trong các cơ sở y tế, các trung
tâm phục hồi chức năng riêng phù hợp với từng dạng tật. Đồng thời, tăng cường
công tác bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn về phục hồi chức năng
cho đội ngũ cán bộ y tế để họ có kiến thức và kỹ năng chuyên sâu về lĩnh vực này.
Thường xuyên tổ chức hội thảo, tập huấn nhằm trao đổi kinh nghiệm giữa các bác
sỹ, kỹ thuật viên, điều dưỡng, cán bộ y tế trực tiếp thực hiện phục hồi chức năng
cho người khuyết tật nhằm hoàn thiện kiến thức, kỹ năng, tay nghề để đảm bảo
người khuyết tật được chăm sóc YTCB một cách tốt nhất. Đồng thời, các cơ sở
đào tạo ngành y cần hoàn thiện chương trình đào tạo, giáo án về phục hồi chức
năng để nâng cao chất lượng nhân lực làm việc trong lĩnh vực này. Để thực hiện
tốt các mục tiêu này, Nhà nước cần huy động nguồn lực tài chính từ khu vực tư
nhân, các tổ chức phi chính phủ, cá nhân trong và ngoài nước để giảm tải áp lực
lên NSNN. Cần tăng cường các hoạt động hợp tác với các quốc gia, các trung tâm,
cơ sở y tế có uy tín trong khu vực và trên thế giới để hỗ trợ chuyên môn, kỹ năng
trong chăm sóc sức khoẻ người khuyết tật. Có chính sách ưu đãi về học phí,
khuyến khích sinh viên theo học và làm việc trong lĩnh vực này để tạo nên một
mạng lưới rộng khắp cả nước nhằm hỗ trợ người khuyết tật giảm bớt khó khăn
trong cuộc sống do các dạng tật đem lại nói chung và tiếp cận hiệu quả chăm sóc
YTCB nói riêng nhằm giảm bớt khó khăn cho cuộc sống.
- Nâng cao nhận thức của người dân vùng dân tộc thiểu số về chăm sóc sức
khoẻ cơ bản
Thực tế cho thấy người nghèo, đối tượng trợ giúp xã hội ở vùng dân tộc
thiểu số chưa thực sự tiếp cận đầy đủ các chương trình chăm sóc y tế và hạn chế
này chủ yếu đến từ nhận thức và khả năng tài chính của họ. Chẳng hạn, theo nghiên
cứu của Quỹ Dân số LHQ và Bộ Y tế, phần lớn phụ nữ người dân tộc thiểu số
166
tham gia nghiên cứu đều cho rằng sinh đẻ là một quá trình tự nhiên của con người.
Họ muốn sinh con tại nhà hơn là sinh con tại các cơ sở y tế, trừ khi có biến chứng
xảy ra. Bên cạnh việc không có khả năng chi trả các chi phí cho các dịch vụ tại
các cơ sở y tế ở vùng sâu vùng xa, việc khó tiếp cận tới các nhân viên y tế và cơ
sở chăm sóc y tế cũng là một trong số những lý do chính khiến phụ nữ dân tộc
thiểu số muốn sinh con tại nhà và hạn chế tới các dịch vụ chăm sóc trước sinh.
Ngoài ra, khi đi siêu âm, một số cho biết họ không muốn phơi bày cơ thể của họ
với người lạ, đặc biệt là các nam bác sĩ, và có những trường hợp phụ nữ rời khỏi
cơ sở khám thai vì ở đó không có cán bộ y tế nữ238. Vì vậy cần nâng cao nhận thức
của người dân, đẩy mạnh công tác truyền thông, để những người nghèo, đối tượng
trợ giúp xã hội ở những khu vực này hiểu được lợi ích, sự an toàn khi sinh con ở
trạm y tế. Cùng với đó, xây dựng đề án phát huy và thúc đẩy vai trò của y tế thôn
bản trong công tác truyền thông, tư vấn, hướng dẫn cho nhóm đối tượng này. Cùng
với đó, mở rộng mô hình cô đỡ thôn bản, là những người có chuyên môn y tế và
biết phong tục, tập quá, ngôn ngữ của người dân tộc, từ đó có thể giúp phụ nữ dân
tộc thiểu số sinh đẻ an toàn, giảm tình trạng tự sinh con tại nhà. Đây là giải pháp
hiệu quả để phụ nữ khu vực này được tiếp cận chăm sóc sức khoẻ cơ bản trong
bối cảnh phụ nữ ở vùng sâu, vùng sa gặp nhiều khó khăn do điều kiện đi lại khó
khăn, xa xôi, nhất là thời điểm sinh con.
- Phát triển mô hình bác sĩ gia đình
Ngoài hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ y, bác sĩ,
cán bộ y tế thì yêu cầu tăng số lượng bác sĩ cũng là vấn đề cấp thiết trong bối cảnh
số lượng bác sĩ ở Việt Nam mới đạt 10 bác sĩ/1 vạn dân. Trong khi ở Úc, tỷ lệ này
là 36 bác sĩ/1vạn dân, Pháp là 34/1 vạn dân và Trung Quốc là 22/1 vạn dân. Vì
vậy, Bộ Y tế cần đánh giá lại nguồn lực và có giải pháp tăng số lượng bác sĩ, cam
238 Bộ Y tế, Quỹ Dân số LHQ (2017), Những rào cản trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và kế hoạch hóa gia đình của đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam, tr. 40.
kết khoảng thời gian cụ thể. Nghiên cứu thiết lập và phát triển mô hình “bác sĩ gia
167
đình”. Đối với nhiều nước trên thế giới từ những nước phát triển như Mỹ, Anh
Pháp, Canada…đến các nước đang phát triển như Philippines, Malaysia hay Cu
Ba, mô hình bác sĩ gia đình không còn xa lạ, thậm chí rất phát triển nhưng ở Việt
Nam, đây vẫn là mô hình mới, chưa được quan tâm đầu tư tương xứng, chưa có
chức danh bác sĩ gia đình ở các cơ sở y tế, hoạt động còn tản mạn, chưa có đầy đủ
cơ sở pháp lý và hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy, cần nghiên cứu phát triển mô
hình bác sĩ gia đình để (i) nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh ban đầu,
giúp người dân nói chung và trẻ em, người nghèo, đối tượng trợ giúp xã hội được
chăm sóc sức khoẻ toàn diện, liên tục và phòng bệnh chủ động, tích cực; (ii) giảm
bớt thời gian và công việc cho các bác sĩ chuyên khoa liên quan và tiết kiệm kinh
phí nằm việc cho bệnh nhân cũng như kinh phí BHYT, từ đó góp phần đảm bảo
tính bền vững của quỹ BHYT.
- Phát huy hiệu quả hoạt động của trạm y tế và y tế tuyến cơ sở
Như trên đã phân tích, hiệu quả hoạt động của các trạm y tế trong cung cấp
dịch vụ chăm sóc YTCB cho người dân chưa cao mặc dù nhiều trạm y tế đã được
đầu tư trang thiết bị, máy móc hiện đại gây lãng phí lớn. Nguyên nhân của tình
trạng này là do các trạm y tế gặp khó khăn trong việc mua, cung ứng hoá chất xét
nghiệm, vật tư y tế hoặc không có người vận hành, sử dụng máy móc, trang thiết
bị. Đa số các trung tâm y tế chưa tiếp cận, bắt nhịp kịp thời công tác quản lý khám
chữa bệnh tại tuyến xã, chưa nắm vững quy định về thanh quyết toán trong khám
chữa bệnh BHYT.239 Để khắc phục tình trạng này và nâng cao hiệu quả công tác
chăm sóc sức khoẻ cơ bản ở tuyến cơ sở, chính quyền địa phương cần tháo gỡ
vướng mắc về thủ tục, hướng dẫn các trạm y tế và chủ đầu tư trong việc mua hoá
chất xét nghiệm, vật tư y tế và các vật tư cần thiết để vận hành các máy móc, trang
thiết bị đã được trang bị. Đồng thời, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn
239https://baothanhhoa.vn/y-te-suc-khoe/bat-cap-trong-thuc-hien-de-an-dau-tu-xa-hoi-hoa-y-te-tuyen- xa/170659.htm, truy cập ngày 15/5/2022
cho cán bộ y tế xã về cách vận hành các thiết bị này, chính quyền địa phương phối
168
hợp với cán bộ BHXH tập huấn cho nhân viên kế toán của trạm y tế về phương
thức, cách thức thanh quyết toán khám chữa bệnh BHYT.
Thực tiễn thực hiện BHYT trong thời gian qua mặc dù vẫn tồn tại những
hạn chế nhất định nhưng vai trò của BHYT trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận
dịch vụ chăm sóc YTCB thì không thể phủ nhận. Bên cạnh quy định pháp luật về
về đối tượng tham gia BHYT mang tính bao quát với sự hỗ trợ phí đóng BHYT
từ NSNN để khuyến khích người dân tham gia BHYT thì giải pháp nâng cao hiệu
quả tiếp cận dịch vụ chăm sóc YTCB thông qua BHYT không thể coi nhẹ. Theo
đó, y tế tuyến cơ sở với vai trò gần dân, dễ tiếp cận nên được chú trọng đầu tư hơn
nữa, trong đó chú trọng đầu tư cả cơ sở vật chất lẫn nguồn nhân lực. Hiện nay,
tâm lý của một bộ phân người dân chưa tin tưởng vào trình độ tay nghề của đội
ngũ cán bộ y tế ở cơ sở khám chữa bệnh tuyến dưới, cộng với sự hạn chế về máy
móc, trang thiết bị y tế nên thường có xu hướng khám chữa bệnh ở tuyến trung
ương kể cả với những bệnh đơn giản, không nghiêm trọng. Để thay đổi quan niệm
và tạo sự tin tưởng cho người dân, cần nâng cao trình độ tay nghề của đôi ngũ cán
bộ y tế, nâng cấp cơ sở vật chất cho y tế cơ sở, cơ sở khám chữa bệnh cấp huyện,
tỉnh. Tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền, vận động người dân khám chữa bệnh
ở cơ sở y tế tuyến dưới đối với các bệnh thông thường. Đặc biệt, chú trọng phát
triển y tế tuyến cơ sở ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo,
biên giới để người dân thuận lợi trong tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản như chăm sóc
sức khoẻ sinh sản, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, tiêm chủng mở rộng, phòng
chống và điều trị một số bệnh truyền nhiễm thường xuyên xảy ra như sốt xuất
huyết, cúm A, điều trị HIV/AIDS…
- Cần khuyến khích hoạt động của các tổ chức phi chính phủ
Trong thời gian qua, một số tổ chức phi chính phủ như Viện phát triển sức
khoẻ cộng đồng Ánh Sáng (LIGHT), Trung tâm nghiên cứu, tư vấn công tác xã
169
hội và phát triển cộng đồng (SDRC)240 và nhiều tổ chức khác hoạt động rất hiệu
quả trong việc hỗ trợ người di cư tiếp cận dịch vụ chăm sóc YTCB. LIGHT đã
triển khai nhiều chương trình, dự án can thiệp nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống của người di cư, đặc biệt là sức khỏe (sức khỏe cộng đồng, sức khỏe sinh sản
và tình dục) kết hợp với trao quyền, tăng năng lực và sinh kế bền vững. Từ những
thành quả và kinh nghiệm hoạt động mà những tổ chức phi lợi nhuận này đóng
góp cho cộng đồng nói chung và nhóm đối tượng yếu thế nói riêng, Nhà nước cần
có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức này và các tổ chức
tương tự thành lập, hoạt động. Đồng thời khuyến khích mở rộng dịch vụ hỗ trợ
đối với tất cả các DVXHCB mà không chỉ bó hẹp phạm vi dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ.
3.3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản
về nhà ở
- Cần nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong xây dựng để giảm
giá thành nhà ở
Nhà nước cần nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo cho nhóm có thu
nhập thấp như hộ gia đình nghèo, cận nghèo, lao động di cư làm việc tự do, công
nhân khu công nghiệp, người khuyết tật,… được mua, thuê mua nhà ở xã hội ở
mức giá có thể chi trả được. Qua đợt bùng phát dịch Covid-19, vai trò của nhà ở
càng thể hiện rõ và sâu sắc hơn trong việc đảm bảo ổn định việc làm, đời sống của
các nhóm đối tượng này. Đầu tư, phát triển nhà ở cho nhóm đối tượng này cần chú
trọng đến các yếu tố đặc thù về thu nhập, nhu cầu sử dụng. Nhóm đối tượng này
có thu nhập trung bình, thấp và nhiều người không có nhu cầu sở hữu những căn
240 LIGHT là một tổ chức khoa học công nghệ, hoạt động phi lợi nhuận vì mục đích nhân đạo. LIGHT cam kết tham gia vào sự phát triển cộng đồng, nâng cao sức khoẻ cho người dân và góp phần hỗ trợ chính phủ trong việc xây dựng và thực thi các chính sách nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân Việt Nam. SDRC cũng có các hoạt động tương tự như LIGHT song có phạm vi dự án giới hạn hơn, nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng chăm sóc sức khỏe sinh sản và tình dục an toàn cho lao động nhập cư tại cộng đồng dân cư thuộc một số khu vực ở thành phố Hồ Chí Minh 241 Lê Thị Bích Thuận, Các nước đã phát triển nhà ở cho công nhân như thế nào?
hộ vĩnh cửu, nhưng lại rất cần những chỗ ở có giá rẻ, tiện ích thiết yếu tối thiểu.241
170
Giải pháp là tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, các loại vật liệu mới với
thiết kế và sử dụng công nghệ lắp ghép khung, trần, tường, sàn để “sản xuất nhà”
thay cho hình thức xây bê tông như truyền thống. Hình thức này tạo sự linh hoạt
trong điều chỉnh kích thước, diện tích nhà phù hợp với nhiều nhu cầu khác nhau
Đồng thời, các chủ đầu tư cũng nghiên cứu xây dựng nhà ở giá rẻ với nhiều loại
diện tích khác nhau tương ứng nhiều mức giá, phù hợp với nhu cầu và thu nhập
của nhiều đối tượng khác nhau. Chẳng hạn xây dựng căn hộ với diện tích khoảng
20-30m2 và thiết kế gác xép để cho gia đình trẻ thuê, mua; căn hộ diện tích lớn
hơn để cho thuê theo nhóm người hoặc cho hộ gia đình có ông, bà sống cùng.
Riêng đối với nhóm người khuyết tật, việc đảm bảo điều kiện về nhà ở có đặc thù
nhất định so với nhóm dân cư khác. Theo kết quả Điều tra Quốc gia của Tổng cục
Thống kê và UNICEF về Người Khuyết tật tại Việt Nam thì nước ta có hơn 7%
dân số 2 tuổi trở lên - khoảng hơn 6,2 triệu người, là người khuyết tật. Để đảm
bảo tiếp cận nhà ở cho người khuyết tật, cần bổ sung nội dung kiến thức về thiết
kế nhà ở cho người khuyết tật vào trong chương trình đào tạo ở các trường đại học
trong lĩnh vực xây dựng, kiến trúc. Đồng thời, UBND cấp Huyện, Quận, cấp xã
cần hỗ trợ các gia đình có người khuyết tật hoặc hỗ trợ người khuyết tật thiết kế
nhà ở phù hợp với đặc thù từng dạng khuyết tật để thuận tiện hơn trong sinh hoạt,
có thể tự phục vụ mà không phải phụ thuộc vào người sống cùng. Thêm vào đó,
diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình dân tộc thiểu số dưới
8m2/người còn khá phổ biến trong khi ở các vùng này đất đai lại rộng lớn. Do đó,
vấn đề nằm ở chỗ các hộ gia đình thiếu tiền xây mới, cơi nới, sửa chữa nhà. Vì
vậy, cần có chính sách hỗ trợ các hộ gia đình có diện tích nhà ở nhỏ cải tạo, sửa
chữa, nâng cấp, cơi nới để cải thiện tình trạng trên.
- Cần ưu tiên giải quyết, có phương án tháo gỡ cho các dự án đang bị “ách
truy cập
https://nguoidothi.net.vn/cac-nuoc-da-phat-trien-nha-o-cho-cong-nhan-nhu-the-nao-33103.html, ngày 14/11/2022
tắc” vì lý do thủ tục
171
Để tăng nguồn cung nhà ở xã hội trong thời gian sớm nhất, một trong các
giải pháp là tháo gỡ vướng mắc cho các dự án nhà ở xã hội đang “nằm chờ” do
vướng mắc về thủ tục được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu nhà
ở cho người dân. Thực tế, nhiều dự án đã bị ách lại chờ thủ tục nhiều năm như:
Dự án nhà ở xã hội Khu chế xuất Linh Trung 2, giai đoạn 2; dự án cao ốc văn
phòng - thương mại - dịch vụ officetel và căn hộ tại số 38 Trương Quốc Dung,
phường 8, quận Phú Nhuận; dự án nhà ở xã hội Lê Thành Tân Tạo 2; dự án nhà ở
xã hội Lê Thành Tân Kiên, giai đoạn 1 và giai đoạn 2; dự án khu nhà ở Him Lam;
dự án chung cư nhà ở xã hội An Phú Đông242. Giải pháp này cũng được nhiều
doanh nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đề xuất và đã được Hiệp hội Bất động sản
TP. HCM tổng hợp gửi tới UBND TP. HCM. Trong bối cảnh thiếu nhà ở như hiện
nay, chính quyền các tỉnh, thành phố cần ưu tiên giải quyết, có phương án tháo gỡ
cho các dự án đang bị “ách tắc” do thủ tục để các dự án này được tiếp tục triển
khai, sớm hoàn thiện đưa vào sử dụng.
- Thành lập Quỹ tín dụng nhà ở
Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc về thành công trong cung cấp nhà ở xã hội,
Việt Nam có thể cân nhắc áp dụng để cải thiện tình trạng thiếu nhà ở và đạt được
mục tiêu đã đặt ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030. Hàn Quốc đã sử dụng nguồn lực tài chính khu vực tư nhân
cho phát triển nhà ở, thông qua phát hành trái phiếu và tiết kiệm mua nhà. Trong
đó, sản phẩm tiết kiệm mua nhà được quy định dùng để mua nhà dưới 90m2, đối
tượng tham gia là người trên 20 tuổi, số tiền tiết kiệm hàng tháng từ 20.000won –
100.000 won (khoảng 500.000 đồng – 2 triệu đồng). Đồng thời, Chính phủ Hàn
Quốc mở rộng cung cấp nhà ở đa dạng như nhà ở thương mại tư nhân, nhà ở xã
hội cho thuê dựa trên khả năng chi trả của người dân bằng cách thực hiện khống
242 Doãn Thành, Xây dựng nhà ở xã hội: loay hoay xử lý quỹ đất, https://kinhtedothi.vn/xay-dung-nha-o-xa-hoi-loay-hoay-xu-ly-quy-dat.html, truy cập ngày 1/12/2022 243 Ngô Bảo Ngọc, Thực trạng và giải pháp phát triển nhà ở xã hội tại các đô thị ở Việt Nam,
chế giá cho thuê, hỗ trợ vay tiền mua nhà.243 Giải pháp này có thể cân nhắc áp
172
dụng kết hợp với việc thay đổi phương pháp tính giá bán nhà ở xã hội có sự hỗ trợ
của Nhà nước để giá bán nhà ở xã hội nằm trong khả năng chi trả của người thu
nhập thấp. Kinh nghiệm của quốc gia này cũng cho thấy, cần có một quỹ tín dụng
riêng để giải quyết vấn đề tài chính cho các dự án nhà ở xã hội, cũng như hỗ trợ
đối tượng thuộc diện hỗ trợ về nhà ở trong việc chi trả chi phí mua, thuê mua, thuê
nhà ở xã hội. Quỹ tín dụng này dùng để hoạt động tín dụng ngân hàng và phục vụ
mục tiêu phát triển nhà ở xã hội. Nguồn hình thành quỹ có thể được xây dựng từ
gói tín dụng hỗ trợ nhà ở của Chính phủ, khoản nộp phạt của doanh nghiệp bị xử
lý vi phạm do vi phạm các quy định về nhà ở xã hội, khoản tiền tiết kiệm mua nhà
của người có nhu cầu mua nhà ở xã hội và khoản tiền quy đổi từ 20% quỹ đất dùng
để xây dựng nhà ở xã hội trong các dự án nhà ở thương mại.
- Thành lập một bộ máy chuyên trách về nhà ở
Yếu tố quản lý đóng vai trò tích cực trong tăng cường tiếp cận nhà ở xã hội
một cách hiệu quả. Thật vậy, Singapore và Thái Lan là những quốc gia khá thành
công trong việc đảm bảo tiếp cận nhà ở cho công dân của họ. Kinh nghiệm từ các
quốc gia này cho thấy, cần thành lập một bộ máy chuyên trách về nhà ở. Ngay từ
những năm 1960, Singapore đã thành lập ra Hội đồng Phát triển nhà ở (Housing
Development Board-HDB). Cơ quan này thực hiện nhiều nhiệm vụ như: công tác
quy hoạch, thiết kế, thu hồi đất và xây dựng, phân phối, quản lý, bảo trì và các
nhiệm vụ liên quan đến nhà ở trong một tổng thể chung. Việc quy định quyền và
trách nhiệm rõ ràng, cụ thể trong mọi khâu điều hành, quản lý đã giúp hoạt động
phát triển nhà ở tại quốc gia này đạt hiệu quả cao bên cạnh sự hỗ trợ từ Nhà nước
cộng với thủ tục hành chính rõ ràng, nhanh chóng. Cơ quan này của Singapore đã
thực hiện rất tốt vai trò của mình khi triển khai thành công hơn 1 triệu căn hộ, trải
khắp 24 thị trấn và 3 khu trung tâm của Singapore. Có đến hơn 80% dân số của
https://tapchitaichinh.vn/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-nha-o-xa-hoi-tai-cac-do-thi-o-viet-nam.html, truy cập ngày 12/12/2022
Singapore sống trong các căn hộ này và khoảng 90% trong số này là chủ sở hữu,
173
còn lại là thuê.244 Tương tự, Thái Lan cũng thành lập cơ quan Cộng đồng nhà ở
(UCDO) trực thuộc Bộ Nhà ở. UCDO có vai trò liên kết các tổ chức khác nhằm
huy động tài chính để phát triển nhà ở và các nhiệm vụ khác tương tự như cơ quan
Nhà ở và Phát triển của Singapore là hoạch định chính sách, quy hoạch, thiết kế
nhà ở.245 Hiện nay, Việt nam chưa có một cơ quan chuyên trách nào thực hiện phát
triển nhà ở xã hội và việc phát triển nhà ở xã hội ở nước ta cũng chưa đạt kết quả
như mong muốn. Vì vậy, giải pháp này là một gợi ý đáng để Nhà nước cân nhắc
áp dụng tại Việt Nam.
- Tăng cường trách nhiệm của UBND các tỉnh, thành phố trong việc dành
quỹ đất cho phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn
Để giải quyết bài toán về quỹ đất xây dựng nhà ở xã hội, Bộ Xây dựng cần
sát sao trong việc đề nghị UBND các tỉnh, thành phố báo cáo việc dành quỹ đất
cho phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn. Các địa phương phải phải nêu rõ thực
trạng thực hiện nghĩa vụ nhà ở xã hội đối với dự án phát triển nhà ở thương mại,
dự án phát triển đô thị tại địa phương. Phát triển nhà ở phải gắn với phát triển giao
thông là bài học từ Nhật Bản. 13,6 triệu cư dân Tokyo sống trong các căn hộ cao
tầng mới xây thay cho các toà nhà cũ kỹ, nhỏ để đáp ứng nhu cầu về nhà ở. Điều
này dẫn tới hệ quả mật độ dân cư sẽ đông đúc hơn và ảnh hưởng tới giao thông
nên Chính phủ nước này đã phát triển giao thông công cộng để đảm bảo người
dân sử dụng nhanh chóng và thuận tiện để thay thế cho phương tiện cá nhân. Ở
Việt Nam, giao thông công cộng chưa phổ biến và thuận tiện, đây là điểm hạn chế
và thể hiện sự chưa đồng bộ với chính sách phát triển nhà ở của nước ta.
- Khuyến khích sự tham gia của các chủ thể khác trong cung cấp nhà ở
Về chủ thể cung cấp nhà ở, kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, bên cạnh
244 John Bryson (2019), A century of public housing: lessons from Singapore, where housing is a social, not financial, asset, https://theconversation.com/a-century-of-public-housing-lessons-from-singapore-where- housing-is-a-social-not-financial-asset-121141, truy cập ngày 21/10/2022 245 Hoàng Thị Hằng Nga, một số kinh nghiệm phát triển nhà ở thu nhập thấp trên thế giới và bài học cho Việt Nam, tạp chí Khoa học Kiến trúc - Xây dựng, số 38/2020
hình thức giao việc cung cấp nhà ở cho khu vực tư nhân hoặc cơ quan chuyên
174
trách về nhà ở, Mỹ còn kêu gọi sự tham gia của nhiều chủ thể khác trong cung cấp
nhà ở, cung cấp dịch vụ cho thuê nhà với giá cả phải chăng như các tổ chức phi
lợi nhuận, tình nguyện viên và các tổ chức tôn giáo.246 Việt Nam cũng có thể cân
nhắc áp dụng phương thức này để tăng nguồn cung nhà ở bán hoặc cho thuê với
giá cả phải chăng từ các tổ chức tôn giáo. Việt Nam có số lượng tổ chức tôn giáo
lớn và đang làm khá tốt trong việc cung cấp một số dịch vụ khác như dịch vụ giáo
dục, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Theo Báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, cả
nước có khoảng 300 trường mầm non, 2000 cơ sở giáo dục mầm non, 12 cơ sở
dạy nghề thuộc tổ chức tôn giáo; 500 cơ sở y tế, phòng khám chữa bệnh từ thiện
do các tổ chức tôn giáo thành lập dưới nhiều hình thức.247 Qua đó cho thấy, đây là
một giải pháp mang tính khả thi cao, nên được cân nhắc tiếp thu từ kinh nghiệm
của Mỹ trong tương quan với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
Cần áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý đối tượng được hưởng
-
chính sách hỗ trợ nhà ở
Nhằm giải quyết tình trạng bỏ lọt các đối tượng có đủ điều kiện theo quy
định nhưng không được mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội và ngược lại, một giải
pháp hữu hiệu là cần chuyển đổi số hóa, áp dụng công nghệ thông tin. Cụ thể, cần
liên thông và đồng bộ dữ liệu giữa các cơ quan trong cả nước, trong đó, các giao
dịch về tài sản sẽ được cập nhật trên hệ thống. Khi xét đối tượng hưởng chính sách
hỗ trợ về nhà ở xã hội chỉ cần tra thông tin của cá nhân, hộ gia đình đó trên hệ
thống để xác định tình hình sở hữu nhà của đối tượng, lịch sử mua, thuê, thuê mua
nhà ở xã hội trong thời gian trước khi đăng ký. Qua đó, xác định đúng đối tượng
thực sự có nhu cầu về nhà ở, tránh tình trạng “nước chảy chỗ trũng” như thực tế
hiện nay.
3.3.5. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản
246 https://tapchitaichinh.vn/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-nha-o-xa-hoi-tai-cac-do-thi-o-viet-nam.html 247 https://sonoivu.namdinh.gov.vn/qlnn-ve-ton-giao/truong-ban-ton-giao-chinh-phu-cac-to-chuc-ton-giao-la- cau-noi-giua-dang-nha-nuoc-voi-chuc-sac-tin-do-trong-cong-2456
về nước sạch
175
- Cần nâng cao nhận thức của người dân trong tiếp cận nước sạch.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng tỷ lệ sử dụng nước sạch ở khu
vực nông thôn thấp đến từ chính quan niệm, thói quen, nhận thức của người dân
trong sử dụng nước. Họ chưa nhận thức được tầm quan trọng của nước sạch đối
với sức khỏe của bản thân và gia đình, chưa hiểu biết đầy đủ mối liên hệ giữa lợi
ích kinh tế và lợi ích sức khoẻ, cùng với nghèo đói248 và thói quen sử dụng các
nguồn nước khác như nước mưa, nước giếng khoan, nước sông, suối… Do vậy,
họ chưa ưu tiên cho việc bỏ chi phí trong thu nhập của gia đình để chi trả cho nước
sạch. Chính vì vậy, giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp cận nước sạch và tăng tỷ lệ
sử dụng nước sạch ở khu vực nông thôn là tổ chức các đợt tập huấn, tuyên truyền
về vai trò quan trọng của nước sạch, các nguy cơ về sức khỏe khi sử dụng các
nguồn nước không được kiểm chứng về các loại tạp chất, axit, vi khuẩn, các chất
độc hại… Đối tượng được tập huấn, tuyên truyền không chỉ có người dân mà còn
với nhóm đối tượng là lãnh đạo xã, cán bộ các ban, ngành, đoàn thể, khu dân cư,
cán bộ y tế xã. Từ đó, giúp họ có thêm thông tin bổ ích, thông tin chính thống để
thay đổi nhận thức về nước sạch nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của bản
thân và gia đình tiến tới thực hiện mục tiêu bao phủ toàn dân tiếp cận nước sạch.
- Cần tiến hành nghiên cứu cung và cầu cũng như khả năng chi trả và sự bất
bình đẳng trong tiếp cận
Tương tự Việt Nam, Trung Quốc cũng có sự chênh lệch lớn trong tiếp cận
nước sạch giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa miền Tây và miền Đông. Do
vậy, giải pháp hạn chế tình trạng này được thực hiện là nghiên cứu tình hình cung-
cầu và khả năng chi trả cũng như sự bất bình đẳng trong tiếp cận nước sạch giữa
các nhóm đối tượng. Trung Quốc đã thiết kế mô hình dự án thí điểm ở trường học,
bệnh viện thị trấn và các cộng đồng nông thôn. Từ đó, rút ra kinh nghiệm và đưa
248 Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường-Tổng cục thuỷ lợi (2020), Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2030, tầm nhìn đến 2045
các dự án này vào các chính sách, hướng dẫn và phát triển chương trình của Chính
176
Phủ. Với thực trạng chênh lệch trong tiếp cận nước sạch giữa thành thị và nông
thôn Việt Nam như hiện nay cộng với một số lượng lớn công trình cấp nước nông
thôn hoạt động không hiệu quả sau đầu tư, Việt Nam có thể cân nhắc thực hiện
giải pháp thí điểm như Trung Quốc. Có nghĩa là, chúng ta sẽ thí điểm hai mô hình
quản lý công trình cấp nước sau đầu tư, một là giao cho cộng đồng dân cư địa
phương, hai là giao cho chính quyền địa phương quản lý. Từ đó, đánh giá tính hiệu
quả của mỗi mô hình và nhân rộng trong phạm vi cả nước.
- Cần đặt vấn đề nước sạch ở đúng vị trí, thể hiện tầm quan trọng của nước
sạch trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm
Nhìn chung, kết quả thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu về tỷ lệ dân số sử dụng
nước sạch theo tiêu chuẩn quốc gia chưa đạt được mục tiêu đề ra trong Nghị quyết
số 15-NQ/TW. Cụ thể, Nghị quyết đề ra chỉ tiêu đến năm 2020, tỷ lệ dân số sử
dụng nước sạch theo tiêu chuẩn quốc gia phải đạt 70%, nhưng thực tế đến năm
2021, con số này mới chỉ đạt 54%.249 Thực trạng một phần phụ thuộc vào nguồn
chi cho nước sạch. Nhằm tăng nguồn chi từ NSNN và sự tham gia của khu vực tư
nhân cho nước sạch, cần đặt vấn đề nước sạch ở đúng vị trí, thể hiện tầm quan
trọng của nước sạch trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm. Theo đó,
cần lồng ghép các mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể về nước sạch trong kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội ở cấp trung ương và địa phương, các chương trình mục tiêu
quốc gia. Đặc biệt là các chương trình mục tiêu quốc gia liên quan đến phát triển
nông thôn như chương trình quốc gia về giảm nghèo bền vững, chương trình mục
tiêu quốc gia về phát triển nông thôn mới, chương trình hỗ trợ đồng bào dân tộc
thiểu số ít người…
- Cần thống nhất quản lý nhà nước về cấp nước sạch cả khu vực đô thị và
nông thôn
249 Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết hội nghị trung ương 5 khoá XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.
Để kiểm soát tình trạng phân khúc, độc quyền trong cung cấp nước sạch
177
cần thống nhất quản lý nhà nước về cấp nước sạch cả khu vực đô thị và nông thôn
bởi một Bộ, ngành. Cụ thể, giao cơ quan quản lý ngành cấp nước giúp Bộ, Chính
phủ xây dựng và đảm bảo thực hiện chính sách về cấp nước; hỗ trợ, hướng dẫn
pháp lý trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các doanh nghiệp cấp nước hoặc
giữa doanh nghiệp cấp nước với chính quyền địa phương liên quan đến việc đầu
tư và cung cấp nước sạch. Đồng thời, giao quyền tự chủ cho địa phương trong việc
lựa chọn đơn vị cấp nước, ký kết hợp đồng hợp tác đầu tư với khu vực tư nhân
đầu tư cấp nước, quyết định giá bán nước trong mức trần do luật quy định.
3.3.6. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản
về tiếp cận thông tin
Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ASXH về DVXHCB trong TCTT
cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
- Cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến Luật TCTT
Một thực tế đang tồn tại là nhiều nguời dân chưa nắm được quyền TCTT
nên việc TCTT còn chưa phổ biến. Thậm chí có những địa phương trong 03 năm
từ khi có Luật TCTT, chưa có trường hợp nào đến yêu cầu cung cấp thông tin theo
Luật TCTT.250 Vì vậy, chính quyền địa phương cần tăng cường tổ chức các buổi
tuyên truyền, giáo dục, phổ biến Luật TCTT cho người dân trên địa bàn. Trong
đó, nhấn mạnh quyền TCTT của người dân, những thông tin được tiếp cận, những
thông tin được tiếp cận có điều kiện và những không tin không được tiếp cận; trình
tự, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin và chi phí yêu cầu cung cấp thông tin. Sau
các đợt tuyên truyền, cần tìm hiểu nhu cầu của người dân muốn biết loại thông tin
nào và hướng dẫn họ thực hành yêu cầu cung cấp thông tin.
- Cần đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho cán bộ đầu mối cung cấp thông tin
Để hoạt động TCTT và cung cấp thông tin hiệu quả, một trong những yếu
tố quan trọng là mỗi cơ quan phải có cán bộ đầu mối cung cấp thông tin nắm rõ
250 Sở Tài chính tỉnh Bình Thuận (2021), Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai thi hành Luật Tiếp cận thông tin
quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước,
178
những thông tin được công khai, cách thức cung cấp thông tin, trình tự, thủ tục
cung cấp thông tin, kỹ năng cung cấp thông tin nói chung và kỹ năng cung cấp
thông tin cho nhóm đối tượng đặc biệt như người khuyết tật. Hiện nay, ở các cơ
quan nhà nước, cán bộ được giao làm đầu mối cung cấp thông tin chủ yếu là kiêm
nhiệm, chưa được tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về hoạt động cung cấp thông
tin do đó việc thực hiện nhiệm vụ còn gặp nhiều khó khăn, chưa hiệu quả. Vì vậy,
Bộ Tư pháp cần thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo có sự tham gia
của đại diện các cơ quan chức năng để thảo luận, quán triệt việc phân công và
công khai đầu mối cung cấp thông tin, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ đầu mối
cung cấp thông tin. Đồng thời, Bộ cần xây dựng và công khai quy chế cung cấp
thông tin, thiết lập chuyên mục TCTT và danh mục thông tin phải công khai, thông
tin cung cấp có điều kiện để các cơ quan khác tham khảo, phục vụ cho quá trình
cung cấp thông tin của cơ quan mình.
- Cần xây dựng chính phủ điện tử và bao phủ tỷ lệ sử dụng Internet
Xây dựng chính phủ điện tử và tỷ lệ người dân sử dụng Internet cao sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân tìm kiếm, tiếp cận thông tin từ phía cơ quan nhà
nước. Trong thời gian tới, Chính phủ cần nỗ lực hơn nữa đẩy mạnh tiến trình xây
dựng chính phủ điện tử. Đồng thời, xây dựng và thực hiện chính sách hỗ trợ, giảm
chi phí sử dụng Internet để người dân có thể dễ dàng tiếp cận Internet, là một cách
gián tiếp đẩy mạnh quyền TCTT của người dân. Từ đó, tiến tới thực hiện cung cấp
thông tin qua hình thức trực tuyến để giảm thời gian đi lại, chi phí in ấn, gửi bưu
chính của cơ quan nhà nước và của người yêu cầu cung cấp thông tin.
- Nâng cao hiệu quả TCTT cho người khuyết tật, NLĐ di cư
Để nâng cao hiệu quả TCTT của người khuyết tật, cần dành một phần kinh
phí riêng cho việc phát triển công nghệ thông tin phục vụ TCTT cho nhóm đối
tượng này phù hợp với các dạng tật khác nhau. Cụ thể, các cổng/trang thông tin
điện tử của các cơ quan nhà nước cần được cài đặt phần mềm đọc tài liệu và liên
kết dịch vụ phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu. Đồng thời, tổ chức tập huấn cho bộ phận
179
tin học, cán bộ đầu mối cung cấp thông tin của mỗi cơ quan có kiến thức về các
dạng tật để có kỹ năng hỗ trợ người khuyết tật TCTT. Tăng cường đầu tư lắp đặt
Internet và hỗ trợ phí sử dụng Internet để nhóm đối tượng này có cơ hội tốt hơn
trong TCTT.
Để đảm bảo TCTT cho nhóm NLĐ di cư, Bộ Lao động thương binh và Xã
hội cần nghiên cứu kênh thông tin dành riêng cho NLĐ di cư như trang thông tin
điện tử, nền tảng mạng xã hội… Trong đó cung cấp thông tin về pháp luật liên
quan đến họ như quy định của pháp luật lao động, pháp luật BHXH, bảo hiểm y
tế, pháp luật về cư trú, ưu đãi, chính sách về nhà ở, các thông tin về thị trường lao
động… Qua đó, họ có thể nắm bắt được quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia
quan hệ lao động, khi cư trú ở nơi di cư đến, cơ hội về nhà ở, cơ hội tìm kiếm việc
làm…
- Tăng cường tập huấn Luật TCTT đối với chủ thể cung cấp thông tin
Để khắc phục tình trạng một số đại diện cơ quan nhà nước, lãnh đạo, chuyên
viên cơ quan nhà nước chưa nắm rõ nghĩa vụ cung cấp thông tin theo Luật TCTT,
nhầm lẫn yêu cầu cung cấp thông tin với yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính
thông thường thì UBND tỉnh, thành phố cần thường xuyên tổ chức giáo dục, phổ
biến Luật TCTT tới các chủ thể này. Nội dung tập huấn cần đặc biệt nhấn mạnh
nội dung về nghĩa vụ công khai thông tin, những thông tin cần công khai, thông
tin được tiếp cận có điều kiện, nghĩa vụ, quy trình, thủ tục cung cấp thông tin theo
yêu cầu. Tương tự đối với đối tượng TCTT, để người dân nắm rõ và thực hiện tốt
quyền và nghĩa vụ của mình trong việc TCTT, các tổ chức chính trị-xã hội cần
định kỳ tổ chức phổ biến Luật TCTT cho thành viên của tổ chức và người dân,
trong đó nhấn mạnh cách thức thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin, các nội dung
liên quan đến quyền khiếu nại, tố cáo và các tình huống yêu cầu cung cấp thông
tin thực tế để khuyến khích người dân thực hành quyền TCTT trên thực tiễn.
- Cần ràng buộc trách nhiệm báo cáo tình hình thực hiện luật TCTT của các
cơ quan nhà nước
180
Để nắm bắt nhu cầu TCTT của người dân và tình hình công khai, cung cấp
thông tin của cơ quan nhà nước, mỗi cơ quan nhà nước cần báo cáo về tình hình
thực hiện luật TCTT hàng năm. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy cần yêu cầu tất cả
cơ quan nhà nước báo cáo về tình hình thực hiện luật TCTT hoặc dành một phần
trong báo cáo thường niên cho vấn đề này.251 Nhiệm vụ tổng hợp các báo cáo để
xây dựng một báo cáo tổng quát về tình hình thực hiện quyền tiếp cận thông tin
nên được giao cho một cơ quan trung ương. Cơ quan này có thể là Bộ Thông tin
và Truyền thông. Trong báo cáo của các cơ quan, cần nêu rõ tình hình công khai
thông tin của cơ quan, việc cử cán bộ đầu mối cung cấp thông tin, cơ sở vật chất
lưu trữ tài liệu, vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong cung cấp thông tin,
tình hình yêu cầu cung cấp thông tin của người dân và khả năng đáp ứng yêu cầu
của cơ quan…. Từ đó, có thể nắm bắt vướng mắc trong quá trình TCTT của người
dân và quá trình cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước nhằm kịp thời đề xuất
251 Trung tâm Pháp luật và Dân chủ (CLD) – Canada, Tổ chức Tiếp cận thông tin Châu Âu (AIE), Tổ chức Hướng tới Minh bạch (TT) (2015), Báo cáo phân tích Dự thảo Luật Tiếp cận Thông tin của Việt Nam
các giải pháp giải quyết những vướng mắc trên thực tế trong thời gian sớm nhất.
181
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Hoàn thiện hệ thống pháp luật ASXH về DVXHCB cần đảm bảo sự phù
với bản chất của DVXHCB là quyền con người cơ bản. Quy định pháp luật hiện
hành về DVXHCB còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập nên việc hoàn thiện pháp
luật về vấn đề này cần khắc phục những hạn chế, bất cập trong quy định của luật.
Ngoài ra, hoàn thiện pháp luật về DVXHCB phải phù hợp với pháp luật quốc tế,
với các quốc gia trên thế giới và với chính sách ASXH của Đảng và nhà nước
trong giai đoạn hiện nay.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ASXH về DVXHCB được đề xuất bao gồm
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật áp dụng chung cho tất cả các DVXHCB như
mở rộng phạm vi DVXHCB; Tạo hành lang pháp lý cho phép khu vực tư nhân
cung cấp DVXHCB; Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định chưa tương thích với
nhau trong hệ thống pháp luật và quy định cụ thể trách nhiệm của địa phương
trong đảm bảo tiếp cận DVXHCB. Ngoài ra, đối với mỗi loại DVXHCB, các kiến
nghị tập trung đề xuất sửa đổi quy định của luật theo hướng đảm bảo mọi người
dân được tiếp cận DVXHCB bình đẳng, trong đó đặc biệt chú trọng đến một số
nhóm đối tượng yếu thế. Đồng thời, tăng cường nguồn tài chính đầu tư cho
DVXHCB từ hình thức xã hội hoá, đầu tư theo hình thức đối tác công tư...
Để quy định của pháp luật được thực hiện hiệu quả trên thực tế, đi vào đời
sống và đạt được mục đích đặt ra, bao giờ cũng phải chú trọng công tác thực hiện
pháp luật. Do vậy, nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật ASXH về
DVXHCB, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp. Trước hết, giải quyết tình
trạng nghèo đói để tăng cường hiệu quả tiếp cận DVXHCB. Tiếp theo, DVXHCB
cần được kiểm soát để đảm bảo nằm trong “khả năng chi trả” của người sử dụng
dịch vụ, cải thiện hệ thống hạ tầng cơ sở và đảm bảo chất lượng dịch vụ. Ngoài
các giải pháp chung này, mỗi DVXHCB với đặc thù riêng, cần có biện pháp riêng
nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhất quy định của pháp luật.
182
KẾT LUẬN
Sự ra đời của Nghị quyết số 15/NQ-TW Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương Khoá XI của Đảng về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai
đoạn 2012-2020” đã mở ra một trang mới, mở rộng phạm vi của hệ thống ASXH
Việt Nam. Trong đó, việc ghi nhận DVXHCB là một trụ cột mới của ASXH thể
hiện hệ thống ASXH Việt Nam ngày càng hoàn thiện và tiến bộ. Với đề tài “Pháp
luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam”, luận án hướng tới
làm sâu sắc thêm các vấn đề lý luận về DVXHCB với tư cách là một cấu phần
thuộc hệ thống ASXH quốc gia, hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề này nhằm
đảm bảo mọi người dân được tiếp cận DVXHCB đầy đủ. Qua nghiên cứu, luận án
rút ra những kết luận sau:
1. DVXHCB được hiểu là hệ thống các hoạt động đảm bảo cá nhân, tổ chức
được tiếp cận các dịch vụ cơ bản, thiết yếu như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, nhà
ở, nước sạch, tiếp cận thông tin… nhằm đảm bảo nhu cầu tối thiểu, cơ bản nhất
của người dân trong từng thời kỳ phát triển đất nước. Cách hiểu này được xây
dựng dựa trên định nghĩa về “dịch vụ”, “dịch vụ xã hội” và các nhu cầu cơ bản,
thiết yếu để con người tồn tại và phát triển. Vì vậy, DVXHCB chứa đựng các đặc
điểm như DVXHCB chủ yếu do Nhà nước cung cấp hoặc uỷ quyền cung cấp,
DVXHCB có đối tượng phục vụ rộng rãi, bình đẳng, Dịch vụ xã hội cơ bản tác
động đến sự phát triển con người. Với bản chất và đặc điểm như vậy, vai trò của
DVXHCB được thể hiện rõ nét không chỉ đối với sự phát triển con người mà còn
đóng góp cho sự phát triển công bằng, tiến bộ của xã hội, của hệ thống ASXH mỗi
quốc gia. Nhằm đảm bảo mọi người dân được tiếp cận DVXHCB đầy đủ thì pháp
luật là công cụ hữu hiệu nhất. Tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia mà pháp luật
ASXH về DVXHCB được quy định khác nhau, nhưng nhìn chung nội dung pháp
luật về lĩnh vực này thường bao gồm các nội dung như: DVXHCB trong tiếp cận
GDCB; DVXHCB trong tiếp cận chăm sóc YTCB; DVXHCB về nhà ở;
DVXHCB về tiếp cận nước sạch và DVXHCB về TCTT.
183
2. Nhìn chung, hệ thống pháp luật Việt Nam về DVXHCB khá đầy đủ bao
phủ cả 05 DVXHCB. Hiện chưa có một văn bản thống nhất quy định về tất cả
DVXHCB mà mỗi DVXHCB được quy định trong một đạo luật riêng (trừ
DVXHCB về nước sạch vẫn được điều chỉnh trong các văn bản dưới luật). Các
văn bản này đều quy định DVXHCB được tiếp cận một cách phổ quát, bình đẳng
và không có sự phân biệt đối xử. Nội dung DVXHCB được quy định khá cụ thể
và tương ứng với đặc thù từng loại DVXHCB. Chủ thể cung cấp DVXHCB là Nhà
nước hoặc chủ thể khác được Nhà nước cho phép. Nguồn tài chính đầu tư cho
cung cấp DVXHCB chủ yếu từ NSNN bên cạnh việc huy động từ nguồn vốn xã
hội hoá, đầu tư theo hình thức đối tác công tư, nguồn vốn huy động từ khu vực tư
nhân… Bên cạnh các quy định hợp lý, khả thi thì một số quy định vẫn tồn tại
những điểm bất cập, chưa rõ ràng gây khó khăn cho thực tiễn thực hiện.
3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về DVXHCB để đảm bảo người dân được tiếp cận DVXHCB đầy đủ và hướng tới
xây dựng hệ thống ASXH quốc gia tiến bộ với nhiều tấm lưới đỡ, phù hợp với xu
thế chung của thế giới. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về DVXHCB cần chú trọng tới một số yêu cầu nhất định. Các
giải pháp được đề xuất chủ yếu hướng tới đảm bảo mọi người dân được đáp ứng
các nhu cầu cơ bản, thiết yếu để tồn tại và nâng cao chất lượng cuộc sống.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật
Các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật Việt Nam
Nghị quyết số 04-NQ/HNTW Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII 1.
về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
2. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương, khóa XI về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục”
3. Nghị quyết số 15/NQ-TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
Khoá XI của Đảng về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-
2020”;
4. Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
Khoá XII về “công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân
trong tình hình mới”;
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng năm 2001 “Khẩn
trương mở rộng hệ thống BHXH và ASXH”
Hiến pháp 1992 6.
Hiến pháp 2013 7.
Luật Bảo hiểm y tế năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 8.
Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 9.
10. Luật Nhà ở năm 2014
11. Luật Đất đai năm 2013
12. Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014
13. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016
14. Luật Giáo dục năm 2019
15. Luật Người khuyết tật năm 2016
16. Luật Tài nguyên nước năm 2012
17. Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 về đẩy mạnh xã hội hoá các
hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao;
18. Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 20/4/2009 về một số cơ chế, chính sách
nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo
và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người
có thu nhập thấp tại khu vực đô thị;
19. Nghị định số 20/2014/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 24 tháng 3 năm 2014 về
phổ cập giáo dục, xoá mù chữ
20. Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế
21. Nghị định 60/2021/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 21 tháng 6 năm 2021 quy
định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập;
22. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 5 năm 2014
quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Đất đai;
23. Nghị định số 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20 tháng 10 năm 2015
về phát triển và quản lý nhà ở xã hội;
24. Nghị định số 49/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1 tháng 4 năm 2021 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 100/2015/NĐ-CP;
25. Nghị định số 13/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23 tháng 1 năm 2018
quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Tiếp cận thông tin;
26. Nghị định số 73/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 9 năm 2019
quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn
ngân sách nhà nước;
27. Nghị định số 47/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/4/2020 quy định về
quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước;
28. Thông tư số 39/2017/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 18 tháng 10 năm 2017 quy
định gói dịch vụ y tế cơ bản;
29. Thông tư số 27/2018/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 26 tháng 10 năm 2018 hướng
dẫn thực hiện BHYT và khám chữa bệnh BHYT liên quan đến HIV/AIDS.
30. Quyết định số 45/ HĐBT ngày 24/4/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) cho phép cơ sở khám chữa bệnh thu một phần viện phí y tế;
31. Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho công nhân lao động tại
các khu công nghiệp thuê;
32. Quyết định số 2127/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến
lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
33. Quyết định số 1978/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia cấp nước sạch
và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
Các văn bản pháp luật quốc tế
34. Công ước Quốc tế về Quyền dân sự, chính trị năm 1966;
35. Công ước Quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá;
36. Công ước Quốc tế về Tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong
việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường
(25/6/1998);
37. Công ước của Liên Hợp quốc về Chống tham nhũng được Đại hội đồng
LHQ;
38. Công ước của Liên minh Châu Phi về phòng, chống tham nhũng;
39. Công ước về Quyền của Người khuyết tật năm 2006;
40. Công ước số 152 năm 1952 quy định các quy phạm tối thiếu về ASXH;
41. Khuyến nghị R202 - Sàn an sinh xã hội, 2012 (202);
42. Luật tiếp cận thông tin của Canada năm 1985;
43. Luật Tự do thông tin Thuỵ Điển năm 1949, sửa đổi năm 1976.
B. Các tài liệu tham khảo khác
Tiếng Việt
44. Báo cáo quốc gia năm 2020, Tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển
bền vững;
45. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021), Báo cáo Quốc gia năm 2020: tiến độ 5 năm
thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững;
46. Bộ Lao động thương binh và xã hội và ILO (1998), Cẩm nang ASXH, tập 1
và tài liệu phục vụ chương trình tập huấn phát triển chế độ BHXH.
47. Bộ lao động, Thương binh và Xã hội (2012), Chương trình đào tạo bồi dưỡng
nghề công tác xã hội cho cán bộ tuyến cơ sở (xã/phường, thôn/ấp/bản), Đề án 32;
48. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện
Nghị quyết Hội nghị trung ương 5 Khoá XI một số vấn đề về chính sách xã
hội giai đoạn 2012-2020
49. Bộ Tư Pháp, Pháp luật về tiếp cận thông tin, Trang thông tin về Phổ biến
giáo dục pháp luật, Đặc san tuyên truyền pháp luật Số 07/2016;
50. Bộ Y tế (2020), Báo cáo tóm tăt công tác quản lý sử dụng quỹ bảo hiểm y
tế năm 2020;
51. Bộ Y tế (2022), Báo cáo nâng cao công tác chăm sóc sức khoẻ Nhân dân;
chủ động thích ứng linh hoạt, góp phần phục hồi nhanh, phát triển bền
vững, Tài liệu Hội nghị ngày 21/8/2022
52. Bộ Y tế và Quỹ Dân số LHQ (2017), Những rào cản trong tiếp cận các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và kế hoạch hóa gia đình của đồng bào dân
tộc thiểu số Việt Nam
53. Cục thống kê TPHCM (2015), Niên giám thống kê TPHCM, Nxb. Thanh niên
54. Nguyễn Thắng, Nguyễn Thị Thu Phương, Vũ Hoàng Đạt, Phạm Minh Thái,
Nguyễn Thế Quân, Lộ Thị Đức (2021), Thúc đẩy giảm nghèo nhanh và bền
vững theo mọi chiều cạnh và mọi nơi ở Việt Nam, Báo cáo nghèo đa chiều
Việt Nam.
55. Đỗ Thị Dung, Quyền bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của người khuyết tật trong
Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật 2006 và việc nội luật hoá trong
pháp luật Việt Nam, chuyên đề đề tài cấp khoa học cấp cơ sở Công ước quốc tế
về quyền của người khuyết tật (2006) và vấn đề nội luật hoá trong pháp luật
Việt Nam, chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Hiền Phương, Đại học Luật Hà Nội, 2020
56. Lê Thị Thuý Hà, Những nét mới trong phát triển nhà ở xã hội trên thế giới
và ở Việt Nam, Tạp chí Quy hoạch xây dựng số 109+110/2021;
57. Hoàng Thị Hằng Nga, một số kinh nghiệm phát triển nhà ở thu nhập thấp
trên thế giới và bài học cho Việt Nam, tạp chí Khoa học Kiến trúc - Xây
dựng, số 38/2020;
58. Học viện Chính trị- Hành chính khu vực III (2012), Phát triển kinh tế và
ASXH – từ lý luận đến thực tiễn các tỉnh miền Trung”, Kỷ yếu hội thảo
khoa học, Đà nẵng;
59. Hội Luật gia Việt Nam (2009), Báo cáo nghiên cứu về Luật Tiếp cận thông
tin của các nước Bắc Âu;
60. Nguyễn Thị Thu Hường (2022), Quyền của người khuyết tật trong pháp
luật an sinh xã hội ở Việt Nam, luận án tiến sĩ luật học;
61. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình lý luận và pháp
luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc Gia Hà Nội;
62. Kiểm toán nhà nước (2020), Báo cáo kiểm toán năm 2020;
63. Lê Minh Sang, Ramesh Govindaraj, và Caryn Bredenkamp (2020), Đối tác
công tư y tế ở Việt Nam: Vấn đề và lựa chọn. Tiêu điểm phát triển quốc tế.
Washington, DC: Ngân hàng Thế giới. doi:10.1596/978-1-4648-1585-0.
Giấy phép xuất bản: Giấy phép Creative Commons theo thẩm quyền CC
BY 3.0 IGO;
64. Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam (2020), Báo cáo độc lập về tình
hình thực thi công ước của LHQ về quyền của Người khuyết tật tại Việt Nam;
65. Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam (2020), Báo cáo độc lập về tình
hình thực thi công ước của LHQ về quyền của Người khuyết tật tại Việt Nam;
66. Ngân hàng thế giới, Tổ chức Y tế thế giới, UNICEF và JICA, Hướng tới
bao phủ, chăm sóc sức khoẻ toàn dân Việt Nam;
67. Nguyễn Vũ Việt (2020), Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả, hiệu lực chi NSNN cho giáo dục ở Việt Nam, đề tài cấp nhà nước, Học
viện Tài chính, mã số KHGD/16-20. ĐT. 023
68. Nhóm công tác liên ngành 18 cơ quan, Báo cáo quốc gia về thúc đẩy và bảo
vệ quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR)
chu kỳ III, 2018;
69. Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn
Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của
53 dân tộc thiểu số;
70. Sở Tài chính tỉnh Bình Thuận (2021), Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai thi
hành Luật Tiếp cận thông tin;
71. Tổng cục Thống kê (2016), Điều tra Quốc gia người khuyết tật năm 2016
(VDS2016) – Báo cáo cuối cùng;
72. Tổng cục Thống kê (2021), Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Già
hoá dân số và người cao tuổi ở Việt Nam
73. Tổng Cục thống kê- Quỹ dân số LHQ (2016), Báo cáo điều tra di cư nội
địa quốc gia năm 2015;
74. Tổng cục thống kê, Khảo sát mức sống dân cư năm 2017;
75. Tổng cục Thống kê, Uỷ ban dân tộc (2020), Kết quả điều tra thu thập thông
tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb.
Thống Kê;
76. Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường-Tổng cục thuỷ lợi (2020),
Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2030, tầm
nhìn đến 2045;
77. Trung tâm Pháp luật và Dân chủ (CLD) – Canada, Tổ chức Tiếp cận thông
tin Châu Âu (AIE), Tổ chức Hướng tới Minh bạch (TT) (2015), Báo cáo
phân tích Dự thảo Luật Tiếp cận Thông tin của Việt Nam
78. Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Chiến
lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2030, tầm nhìn
đến 2045, Báo cáo chiến lược (V6), 2020;
79. Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên
minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh
nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2020), Báo cáo đánh
giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (lần thứ hai);
80. Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên
minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh
nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2021), Thảo luận chính
sách, Thực thi hiệu quả Luật Tiếp cận thông tin;
81. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb. Công
an nhân dân;
82. Trường Đại học Toronto, Canada, Viện Nghiên cứu Phát triển Mekong tại Hà
Nội (2017), Những rào cản trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà
mẹ và kế hoạch hoá gia đình của đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam;
83. Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, tập I. Nxb.Từ điển Bách khoa, 2005
84. Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2004;
85. UNDP, Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người, Báo cáo Quốc gia về
Phát triển Con người năm 2011
86. Unicef (2022), Tóm tắt chính sách về nước sạch và vệ sinh môi trường tại
Việt Nam;
87. Unicef, Tóm tắt chính sách về nước sạch & vệ sinh môi trường tại Việt
Nam, 2020;
88. Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội Khoá 13 (2015), Già hoá dân số và chăm
sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng ở Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, 2015;
89. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam-Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Đánh
giá khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục của người nghèo ở các tỉnh miền núi
phía Bắc trong điều kiện xã hội hoá các hoạt động giáo dục ở Việt Nam, Báo
cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp Viện, Mã số: B2011-37-04;
90. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2012), Đánh giá thực trạng khả năng
và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội của nhóm người nghèo, đối tượng dễ bị tổn
thương, đặc biệt là tại các vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, Hà Nội;
91. Viện Khoa học lao động và xã hội (ILSSA) và GIZ, Thuật ngữ an sinh xã
hội Việt Nam, 2010;
92. Viện Khoa học lao động và xã hội (ILSSA) và GIZ, Thuật ngữ an sinh xã
hội Việt Nam, 2010;
93. Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iSEE), “Xóa bỏ kỳ thị-quan
điểm và đánh giá của người khuyết tật”, Nxb. Tri thức, 2017.
Tiếng nước ngoài
94. Alex Wafer, Jackie Dugard, Muzi Ngwenya, Shereza Sibanda (2008), The
lived -reality of poor people’s access to basic services in Johannesburg’s
inner city, Research report;
95. Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal Basic
Services: theory and practice;
96. Antonella Corsi-bunker, Guide to the education system in the United States;
97. Antonella Corsi-bunker, Guide to the education system in the United States;
98. Asian Development Bank Institute (2000), Public-Private Partnerships in
the Social Sector: Issues and Country Experiences in Asia and the Pacific,
ADBI Publisher;
99. Brinkerhoff (2007), Governance in Post-Conflict Societies;
100. Catherine P Conn & Veronica Walford, An Introduction to Health
Insurance for Low Income Countries”, DFID- Health Systems Resource
Centre, 2008;
101. China Association for Human Rights Studies (2015), Legal Defense of the
Right to Housing: A Comparative Study of Mainland and Taiwan;
102. Chu Zhaohui, The important of compulsory education, China Daily, 2019-07-22;
103. De Jongh, J. Mncayi, P. and Mdluli, P. (2019), Analysing the impact of
water access and sanitation on local economic development (led) in the
sedibeng district municipality, South Africa, International Journal of
Innovation, Creativity and Change, Vol. 5, No. 2;
104. Dev Pa et al (2020), A Study on Migrant Workers’ Access to Housing and Land;
105. Doyal, L. & Gough, I. (1991), A Theory of Human Need. Basingstoke:
Palgrave Macmillan;
106. G. Verbist, M. F. Förster & M. Vaalavuo. (2012), The Impact of Publicly
Provided Services on the Distribution of Resources: Review of New Results and
Methods. OECD, OECD Social, Employment and Migration Magazine No. 130;
107. Gough, Ian (2019), Universal Basic Services: a theoretical and moral
framework;
108. Ha Thi Hai Do, Nui Dang Nguyen, Anh Ngoc Mai, Duc Minh Phung (2020),
Assessment of basic social services coverage on life quality for ethnic minorities
in Vietnam, International magazine of innovation, Vol.13. No.10;
109. Ha Thi Hai Do, Nui Dang Nguyen, Anh Ngoc Mai, Duc Minh Phung,
Nguyen Duy Vu, Hung Dinh Nguyen, Dung Manh Chan, Thuy Minh Thu
Phung, Ensuring basic education for ethnic minority groups in Vietnam,
Management Science Letters;
110. ILO (1992), Introduction Social Secutity, Giownevo;
111. ILO (2008), Social Health Protection - an ILO strategy towards universal
access to health care;
112. ILO (2009), Social Protection Floor Initiative;
113. Indian government, Planning Commission Report of the Working Group on
Social Security for the Eleventh Five Year Plan 2007-2012;
114. Institute for global prosperity (2017), Social prosperity for the future:A
proposal for Universal Basic Services;
115. JICA (2002), Approaches for Systematic Planning of Development Projects;
116. John Bryson (2019), A century of public housing: lessons from Singapore,
where housing is a social, not financial, asset.
117. Jomills Henry Braddock II, James M. McPartland, Equality Of Opportunity;
118. Maria Massimo (2021), Housing as a Right in the United States: Mitigating
the Affordable Housing Crisis Using an International Human Rights Law
Approach;
119. Meenakshi Gupta, Labour Welfare and Social Security in Unorganized
Sector (New Delhi: Deep & Deep Publications), 2007;
120. Ministry of Labour and Employment and Rehabilitation, India (1969),
Report of the Nation commission on labour;
121. Niall Patrick Walsh (2020), Comparing social housing: 30 projects from
countries a round the world;
122. OECD (2015), Education in China- a snapshot;
123. OECD (2020), Social housing: A key part of past and future housing policy,
Employment, Labour and Social Affairs Policy Briefs;
124. Ortiz, I., Schmitt, V. and De, L. (2018), 100 years of social protection: The
road to universal social protection systems and floors,Volum 1: 50 country
cases, Geneva: ILO;
125. Phạm Minh Thái, Trần Quang Tuyến (2021), Does greater household
wealth make young children perform better? The case of Vietnam";
126. Philip Kotler, Gary Armstrong (1996), Principles of Marketing, Chapter (2)
2, Prentice Hall Publishers;
127. Philippe Cullet (2007), Water law in India – Overview of existing
framework and proposed reforms, IELRC Working Paper, 2007-01;
128. Philippe Cullet, Joyeeta Gupta (2009), The Evolution of the Law and
Politics of Water, Springer Academic Publishers;
129. Rachel Marcus, Laure-Hélène Piron, Tom Slaymaker (2004), Basic
services and social protection;
130. Roland Almqvist, Olle Högberg (2005), The Challenge of Public-Private
Partnerships: learning from international experience, Edvard Elgar
Publishing Ltd;
131. Salvi del Pero, A. et al. (2016), “Policies to promote access to good-quality
affordable housing in OECD countries”, OECD Social, Employment and
Migration Working Papers, No. 176, OECD Publisher;
132. Samuel Kleven (2022), Housing policy in Japan;
133. Santosh Mehrotra, Jan Vandemoortele and Enrique Delamonica (2002),
Basic services for all?
134. Scanlon, K., M. Fernández Arrigoitia and C. Whitehead (2015), Social
housinin Europe. European Policy Analysis, Swedish Institute for
European Policy Studies;
135. Scanlon, K., M. Fernández Arrigoitia and C. Whitehead (2015), Social
housing in Europe. European Policy Analysis, Swedish Institute for
European Policy Studies;
136. Toby Mendel (2008), Freedom of information: A comparative legal survey,
Second Edition, United Nations, UNESCO, Paris;
137. UN – Africa Spending Less on Basic Social Services;
138. UN (2006), Frequently asked questions on human rights – based approach
to development cooperation, New York and Geneva;
139. UNDP (2001), Choices for the Poor: Lessons from national poverty
strategies, Publication of ILO;
Website C.
https://www.britannica.com/topic/meritocracy;
1.
http://www.bhxhbqp.vn/bai-viet/ban-chat-va-nhung-chuc-nang-co-ban-cua-
2.
an-sinh-xa-hoi-2155, truy cập ngày 3/3/2021
https://www.esn-eu.org/about/what-are-types-social-services, truy cập ngày
3.
3/3/2020
https://www.etu.org.za/toolbox/docs/government/basic.html#we, truy cập ngày
4.
15/4/2020
https://www.usip.org/guiding-principles-stabilization-and-reconstruction-the-
5.
web-version/stable-governance/provision-esse, truy cập ngày 9/12/2021
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-
6.
/2018/816018/xa-hoi-hoa-dich-vu-cong-o-viet-nam.aspx, truy cập ngày
9/4/2021
https://www.usip.org/guiding-principles-stabilization-and-reconstruction-the-
7.
web-version/stable
governance/provisionesse#:~:text=Providing%20essential%20services%20is%
20the,such%20as%20health%20and%20education, truy cập ngày 9/12/2021;
https://baothanhhoa.vn/y-te-suc-khoe/bat-cap-trong-thuc-hien-de-an-dau-
8.
tu-xa-hoi-hoa-y-te-tuyen-xa/170659.htm, truy cập ngày 15/5/2022;
https://www.who.int/india/health-topics/primary-health-
9.
care#:~:text=It%20provides%20whole%2Dperson%20care,feasible%20to
%20people's%20everyday%20environment,
https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/phat-trien-giao-duc-mam-non-
10.
trong-tinh-hinh-moi.html, truy cập ngày 25/8/2022;
https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/con-em-lao-dong-di-cu-hoc-o-dau-ai-
11.
lo-post186480.gd; truy cập ngày 22/4/2022;
https://thanhnien.vn/khong-co-so-ho-khau-tam-tru-khong-du-1-nam-co-
12.
duoc-vao-lop-1-post1088409.html, truy cập ngày 1/10/2022;
https://baoquocte.vn/ngan-sach-cho-giao-duc-con-nhieu-bat-cap-81691.html
13.
14. www.moe.gov.cn, 14/6/2020;
https://laodong.vn/xa-hoi/cac-tinh-mien-giam-ha-noi-lai-lien-tuc-tang-
15.
hoc-phi-771045.ldo, truy cập ngày 10/12/2019;
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tap-doan-vingroup/-
16.
/2018/820737/ha-noi-phat-trien-he-thong-y-te-co-so-trong-tinh-hinh-
moi.aspx, truy cập ngày 30/9/2022;
https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.a
17.
spx?UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=36843, truy cập
ngày 18/9/2022;
https://baothanhhoa.vn/y-te-suc-khoe/bat-cap-trong-thuc-hien-de-an-dau-
18.
tu-xa-hoi-hoa-y-te-tuyen-xa/170659.htm, truy cập ngày 1/11/2022;
https://nhadat.tuoitre.vn/von-tu-nhan-don-dap-vao-du-an-nha-o-xa-hoi-
19.
nha-o-cong-nhan-20220415090637594.htm, truy cập ngày 15/4/2022;
https://moc.gov.vn/vn/tin-tuc/1173/70357/tiep-tuc-hoan-thien-the-che-
20.
day-manh-phat-trien-nha-o-xa-hoi.aspx, truy cập ngày 1/12/2022;
https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/kien-truc-nao-cho-nguoi-
21.
khuyet-tat.html, truy cập ngày 25/02/2021;
https://thanhnien.vn/lo-bat-cap-trong-co-che-tao-quy-dat-xay-nha-o-xa-
22.
hoi-tai-ha-noi-post1412920.html, truy cập ngày 1/11/2022;
https://dttc.sggp.org.vn/de-giam-ngheo-tu-12-14-ho-gia-dinh-
23.
post5491.html, truy cập ngày 3/9/2022;
https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Bat-dong-san/988002/phat-trien-nha-o-
24.
gia-re-tim-giai-phap-hieu-qua, truy cập ngày 3/9/2022;
https://www.sahrc.org.za/home/21/files/SAHRC%20Water%20and%20Sanitation%20re
25.
vised%20pamphlet%2020%20March%202018.pdf; truy cập ngày 15/11/2022;
https://baodantoc.vn/thay-gi-tu-cac-cong-trinh-nuoc-sinh-hoat-tap-trung-
26.
o-tay-nguyen-hang-tram-cong-trinh-khong-hieu-qua-bai-1-
1623050902607.htm, truy cập ngày 12/9/2022;
https://amp.baodautu.vn/phat-trien-cong-nghe-thong-tin-muon-dot-pha-
27.
phai-chiu-chi-d130405.html, truy cập ngày 12/3/2022;
https://orihome.com.vn/dichvu/banggia?gclid=EAIaIQobChMIbzJguS8_QI
28.
VYtxMAh3izwAAEAAYASABEgIwlPD_BwE, truy cập ngày 12/1/2023;
https://fdcmedical.vn/dich-vu-duong-lao, truy cập ngày 12/1/2023;
29.
https://www.jica.go.jp/jica-ri/IFIC_and_JBICI-
30.
Studies/english/publications/reports/study/topical/spd/pdf/chapter1.pdf