LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng

tôi.

Các kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình

nào khác. Các số liệu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích

dẫn đúng theo quy định.

Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận án này.

Tác giả luận án

Phạm Thị Hải Dịu

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ sự tri ân sâu sắc tới thầy, cô hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Bình và

TS. Đỗ Thị Dung – những người đã đồng hành và tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành

luận án này.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới các thành viên trong gia đình –

những người đã luôn ở bên động viên, khích lệ và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi có

thời gian nghiên cứu, hoàn thiện luận án.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Ban lãnh đạo Khoa Đào tạo Đại học -

Học viện Tòa án đã tạo điều kiện để tôi có thể hoàn thành luận án.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các đồng nghiệp, bạn bè đã luôn hỏi han,

quan tâm, động viên, chia sẻ kinh nghiệm để tôi hoàn thành luận án.

Tác giả luận án

Phạm Thị Hải Dịu

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

An sinh xã hội ASXH

Bảo hiểm xã hội BHXH

Bảo hiểm y tế BHYT

Dịch vụ xã hội DVXH

DVXHCB Dịch vụ xã hội cơ bản

ILO Tổ chức Lao động Quốc tế

LHQ Liên Hợp Quốc

Nghị định số Nghị định số 49/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1

49/2021/NĐ-CP tháng 4 năm 2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị

định số 100/2015/NĐ-CP

Nghị định số Nghị định số 60/2021/NĐ-CP của Chính Phủ ngày

60/2021/NĐ-CP 21 tháng 6 năm 2021 quy định cơ chế tự chủ tài chính

của đơn vị sự nghiệp công lập

Nghị quyết số Nghị quyết số 15/NQ-TW Hội nghị lần thứ năm Ban

15/NQ-TW chấp hành Trung ương Khoá XI của Đảng về “Một số

vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020

NLĐ Người lao động

NSNN Ngân sách nhà nước

Nxb Nhà xuất bản

TCTT Tiếp cận thông tin

Thông tư số Thông tư số 39/2017/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 18

39/2017/TT-BYT tháng 10 năm 2017 quy định gói dịch vụ y tế cơ bản

TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh

UBND Uỷ ban nhân dân

UNDP Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc

YTCB Y tế cơ bản

DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT Ký hiệu Tên bảng biểu Trang

1 2.1 Tỷ lệ sử dụng nước sạch một số địa phương 107

2 2.2 111 Số lượng công trình cấp nước tập trung nông thông tính đến năm 2019

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………… 1

1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………… 2

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………..… 4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………… 4

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu…………………… 5

5. Những đóng góp mới của luận án…………………………………… 6

6. Kết cấu của luận án………………………………………………… 7

PHẦN TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU…………………… 8

1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án…………….………… 8

1.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản và

pháp luật an sinh xã hội về dịch vụ xã hội cơ bản…………………… 8

1.1.1. Tình hình nghiên cứu một số vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản……. 8

1.1.2. Tình hình nghiên cứu pháp luật an sinh xã hội về dịch vụ xã hội cơ bản… 14

1.2. Tình hình nghiên cứu thực trạng pháp luật an sinh xã hội Việt Nam

về các dịch vụ xã hội cơ bản và thực tiễn thực hiện………………… 16

1.3. Tình hình nghiên cứu về kiến nghị hoàn thiện pháp luật an sinh xã

hội về dịch vụ xã hội cơ bản và nâng cao hiệu quả thực hiện……… 19

2. Nhận xét, đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án

và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu ……………………… 21

2.1. Nhận xét, đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án…… 21

2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu……………..…………… 21

3. Cơ sở lý thuyết của luận án, câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu 22

3.1. Cơ sở lý thuyết của luận án………………………………….……..… 22

3.2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu……………………… 25

KẾT LUẬN PHẦN TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU……… 28

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ

BẢN VÀ PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI VỀ DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ

BẢN………………………………………………………………………... 29

1.1. Một số vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an

sinh xã hội………………………………………………………….…. 29

1.1.1 Khái niệm an sinh xã hội và các bộ phận cấu thành an sinh xã hội…… 29

1.1.2 Khái niệm dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an sinh xã hội……… 33

1.1.3 Vai trò của dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an sinh xã hội………. 42

1.2 Pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản……………. 47

1.2.1 Khái niệm pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản………. 47

1.2.2 Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật an sinh xã hội về dịch vụ xã hội

cơ bản………………………………………………………………………… 51

1.2.3 Nội dung pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản…… 57

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1……………………………………………...… 67

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI VỀ

CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN

THỰC HIỆN……………………………………………………………… 68

2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục và

thực tiễn thực hiện ……………………………………….…………….…… 69

2.1.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ

bản về giáo dục và thực tiễn thực hiện.................................................................. 68

2.1.2 Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về

giáo dục và thực tiễn thực hiện ………….……….……………………………… 71

2.1.3 Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ

bản về giáo dục và thực tiễn thực hiện............................................................ 72

2.1.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ

xã hội cơ bản về giáo dục và thực tiễn thực hiện………………………………… 74

2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về chăm sóc y tế

và thực tiễn thực hiện.......................................................................................... 77

2.2.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ

bản về chăm sóc y tế và thực tiễn thực hiện……………………….……….….. 77

2.2.2 Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về

phạm vi và mức hưởng dịch vụ y tế cơ bản…………………………………….… 81

2.2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ

bản về chăm sóc y tế và thực tiễn thực hiện………………………..…………… 84

2.2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ

xã hội cơ bản về chăm sóc y tế và thực tiễn thực hiện……………….………… 87

2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về nhà ở và

thực tiễn thực hiện………………………………………………………… 91

2.3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội

cơ bản về nhà ở và thực tiễn thực hiện………………………..………………… 91

2.3.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về

nhà ở và thực tiễn thực hiện…………………………………………..…………… 96

2.3.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ

bản về nhà ở và thực tiễn thực hiện…….……………………..………………… 97

2.3.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ

xã hội cơ bản về nhà ở và thực tiễn thực hiện……………………………….…… 99

2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về nước

sạch và thực tiễn thực hiện……………………………………………….… 102

2.4.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ

bản về nước sạch và thực tiễn thực hiện………………………………….…… 103

2.4.2 Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về

nước sạch và thực tiễn thực hiện…………………………………………….……. 104

2.4.3 Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ

bản về nước sạch và thực tiễn thực hiện………………………………………... 106

2.4.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ

xã hội cơ bản về nước sạch và thực tiễn thực hiện…………………..………… 108

2.5. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về tiếp cận

thông tin và thực tiễn thực hiện………………………………….………… 112

2.5.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội

cơ bản về thông tin và thực tiễn thực hiện........................................................ 112

2.5.2 Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về

tiếp cận thông tin và thực tiễn thực hiện………………………………….……… 116

2.5.3 Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ

bản về tiếp cận thông tin và thực tiễn thực hiện………………………….……… 119

2.5.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ

xã hội cơ bản về tiếp cận thông tin và thực tiễn thực hiện…………..…………. 121

2.6. Một số nhận xét, đánh giá…………………………….……….…… 124

2.6.1 Những kết quả đạt được…………………………………..…………..…… 123

2.6.2 Những hạn chế và nguyên nhân…………………..….……………… 126

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2…………………………………………..……… 130

CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU

QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI VỀ CÁC DỊCH VỤ XÃ

HỘI CƠ BẢN……………………………..…………. 131

3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật an

sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản ……………………..…………. 131

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội Việt Nam về các dịch vụ xã

hội cơ bản…………………………………………………………………. 136

3.2.1. Kiến nghị chung……………………………….………..…………………….. 136

3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục…... 141

3.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về chăm sóc y tế 143

3.2.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về nhà ở….…… 148

3.2.5. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về nước sạch….. 153

3.2.6. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về tiếp cận

thông tin……………............................................................................................... 155

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật an sinh xã hội về

các dịch vụ xã hội cơ bản………………………………………………… 157

3.3.1.Giải pháp chung…………………………………………..………………… 158

3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ

bản về giáo dục ………..………………………….................................................... 161

3.3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ

bản về chăm sóc y tế ………………………………………………………................. 164

3.3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ

bản về nhà ở ………………………………………………………….…………….… 169

3.3.5. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ

bản về nước sạch ……………………………………………………………….…..… 175

3.3.6. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ

bản về tiếp cận thông tin……………………………………………………………… 177

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3………………………………….……………… 182

KẾT LUẬN……………………………………………………..…………. 183

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, ASXH giữ vai trò vừa là động lực

của sự phát triển, vừa là mục tiêu xây dựng đất nước. Mục tiêu cơ bản của ASXH

là tạo một môi trường công bằng cho các tầng lớp dân cư, cho người nghèo, cho

NLĐ, cho các đối tượng gặp biến cố rủi ro tham gia. Vì vậy, ASXH phải thực sự

là công cụ phát triển tiến bộ xã hội.

Năm 2009, LHQ phát triển sáng kiến “Sàn an sinh xã hội” với mục đích đảm

bảo mọi người dân có mức thu nhập tối thiểu và tiếp cận được các dịch vụ xã hội

thiết yếu, nhằm bảo đảm các quyền cơ bản của con người được quốc tế và quốc

gia thừa nhận, vì mục tiêu giảm nghèo và đảm bảo ASXH. Các cấu phần chính

của “Sàn an sinh xã hội” bao gồm: (i) chăm sóc sức khỏe cơ bản; (ii) thu nhập tối

thiểu cho người trong tuổi lao động nhưng không có khả năng tạo thu nhập vĩnh

viễn (người khuyết tật), hoặc mất việc làm tạm thời (người bị thất nghiệp), hoặc

thu nhập thấp hơn mức đủ sống (người nghèo); (iii) thu nhập tối thiểu đối với

người trên tuổi lao động (người cao tuổi) và dưới tuổi lao động (trẻ em). Bên cạnh

đó, sàn ASXH cũng nhấn mạnh đến các dịch vụ xã hội thiết yếu cho con người,

bao gồm: (i) Chăm sóc y tế cơ bản; (ii) Nước sinh hoạt hợp vệ sinh; (iii) Nhà ở;

(iv) Giáo dục và (v) Các dịch vụ khác tùy theo ưu tiên của từng quốc gia.

Như vậy, ở phạm vi quốc tế, DVXHCB được quy định là một trong những

cấu phần, trụ cột chính của ASXH. DVXHCB là dịch vụ cung cấp cho các đối

tượng nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, do vậy, có vai trò

quan trọng và quyết định sự thành công của các chính sách ASXH.1

Ở Việt Nam, DVXHCB lần đầu tiên được đề cập trong Chương trình hành

động quốc gia vì trẻ em Việt Nam 2001-2010 và Chương trình mục tiêu quốc gia

1 Viện Khoa học lao động và xã hội (ILSSA) và GIZ, Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam, 2010.

giảm nghèo và việc làm 2001 - 2005, mục tiêu hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo và

2

xã nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội. Đặc biệt, Nghị quyết số 15/NQ-TW Hội nghị

lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Khoá XI của Đảng về “Một số vấn đề về

chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020” đã xác định mục tiêu đảm bảo các

DVXHCB cho người dân bao gồm giáo dục tối thiểu, y tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu,

nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin truyền thông. Có thể nói, quan niệm

toàn diện về ASXH quốc gia với bốn trụ cột, bao gồm cả DVXHCB đề cập trong

văn kiện này đã làm cơ sở quan trọng cho việc hoàn thiện pháp luật, thiết lập “sàn”

bảo vệ và tăng cường khả năng tiếp cận của nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội.

DVXHCB ở Việt Nam được thể chế hóa trong Luật Giáo dục năm 2019,

Luật BHYT năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014, Luật Nhà ở năm 2014, Luật

TCTT năm 2016 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Hệ thống văn bản

này quy định về đối tượng tiếp cận DVXHCB, chủ thể cung cấp DVXHCB, mức

hưởng, phạm vi hưởng DVXHCB, nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB... Thực

tiễn thực hiện pháp luật ASXH về DVXHCB đạt được những thành tựu nhất định

như tỷ lệ phổ cập giáo dục, tỷ lệ bao phủ BHYT, tỷ lệ người dân tiếp cận nước

sạch ngày càng tăng, các dự án xây dựng nhà ở được triển khai cung cấp một số

lượng lớn nhà ở mỗi năm. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về vấn đề này vẫn tồn tại

những hạn chế, bất cập, chưa thống nhất, thiếu tính hệ thống gây khó khăn, chưa

đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện. Chẳng hạn, quy định đối tượng tiếp cận

DVXHCB chưa bao quát hết các đối tượng, các quy định ưu đãi thu hút khu vực

tư nhân đầu tư cung cấp DVXHCB chưa rõ ràng, chưa hợp lý… Thực tiễn thực

hiện pháp luật về vấn đề này chưa đạt hiệu quả cao như chất lượng DVXHCB

chưa đảm bảo, việc tiếp cận DVXHCB còn chênh lệch giữa các vùng, miền, giữa

các nhóm đối tượng….

Với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội, mức sống và nhu cầu của con

người ngày càng cao thì DVXHCB đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm

các nhu cầu tối thiểu của con người. Trong khi đó, chưa có một công trình nào

nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện pháp luật ASXH về DVXHCB.

3

Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Pháp luật an sinh xã hội về

các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận án là nhằm nghiên cứu toàn diện, sâu sắc hệ thống một

số các vấn đề lý luận về DVXHCB trong hệ thống ASXH. Trên cơ sở quan điểm

về lý luận được nghiên cứu, luận án tập trung phân tích thực trạng pháp luật và

thực tiễn thực hiện pháp luật ASXH về DVXHCB. Từ đó, đề xuất một số kiến

nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ASXH về các

DVXHCB.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích đặt ra, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

- Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Cụ

thể tiến hành hồi cứu, thu thập các tài liệu, công trình khoa học liên quan đến đề

tài luận án. Từ đó, khái quát các nội dung đã được nghiên cứu, nội dung chưa được

nghiên cứu trong các công trình đó để định hướng các vấn đề, nội dung sẽ được

giải quyết trong luận án. Nghiên cứu cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả

thuyết nghiên cứu để làm cơ sở nghiên cứu các nội dung của luận án và để nhận

diện rõ hơn xu thế điều chỉnh pháp luật ASXH về DVXHCB hiện nay.

- Thứ hai, nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về DVXHCB trong

ASXH và pháp luật ASXH về DVXHCB. Cụ thể, làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai

trò của DVXHCB trong hệ thống ASXH; Khái niệm, các nguyên tắc, nội dung

của pháp luật ASXH về DVXHCB.

- Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp

luật ASXH về DVXHCB ở Việt Nam đối với từng DVXHCB nhằm tìm ra điểm

bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật hiện hành và vướng mắc trong quá

trình thực hiện pháp luật vấn đề này. Tùy từng nội dung, luận án có nghiên cứu,

tham khảo kinh nghiệm các quốc gia về lĩnh vực này để vận dụng phù hợp với

4

điều kiện của Việt Nam.

- Thứ tư, luận giải về yêu cầu mang tính khách quan của việc hoàn thiện pháp

luật ASXH về DVXHCB. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp

luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ASXH về DVXHCB ở

Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là các quy định của pháp luật ASXH Việt

Nam về các DVXHCB, cụ thể là các đạo luật liên quan và hệ thống văn bản hướng

dẫn. Để làm sâu sắc vấn đề nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của luận án còn là

các công ước, khuyến nghị của LHQ, các tổ chức quốc tế và pháp luật ASXH một

số quốc gia có liên quan tới đối tượng nghiên cứu của luận án.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu quy định pháp luật ASXH Việt Nam

về 05 DVXHCB bao gồm: DVXHCB về giáo dục, DVXHCB về chăm sóc y tế,

DVXHCB về nhà ở, DVXHCB về nước sạch và DVXHCB về TCTT. Do yêu cầu

về dung lượng cũng như mục đích nghiên cứu đặt ra, trong mỗi DVXHCB, luận

án chỉ tập tập trung nghiên cứu các vấn đề đối tượng tiếp cận DVXHCB, nội dung

DVXHCB, chủ thể cung cấp DVXHCB và nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB.

Luận án không nghiên cứu các nội dung: thủ tục thực hiện DVXHCB, khiếu

nại, tố cáo về DVXHCB; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về

DVXHCB; giải quyết tranh chấp về DVXHCB.

- Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu pháp luật ASXH về DVXHCB ở

Việt Nam, có so sánh với pháp luật quốc tế và một số quốc gia về vấn đề này.

- Phạm vi thời gian: Luận án được nghiên cứu có tính bao quát về thời gian

nhưng chú trọng hơn khoảng thời gian từ năm 2015 đến nay. Năm 2015 là thời

điểm Nghị quyết số 15/NQ-TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương

Khoá XI của Đảng về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”

5

được ban hành và ghi nhận các DVXHCB thuộc hệ thống ASXH quốc gia.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của học thuyết Mac-

Lenin, bao gồm phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử. Đồng thời luận

án còn dựa trên cơ sở các quan điểm, chủ trương, định hướng trong các Nghị Quyết

của Đảng và Nhà nước về ASXH nói chung và ASXH về DVXHCB nói riêng.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: phương pháp hồi

cứu tài liệu, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp chứng

minh, phương pháp tổng hợp… Cụ thể:

- Phương pháp hồi cứu tài liệu được sử dụng để tập hợp các tài liệu, công

trình đã nghiên cứu dựa trên các mốc thời gian, các nội dung liên quan nhằm lựa

chọn, tập hợp một cách đầy đủ nhất các tài liệu liên quan đến đề tài luận án.

Phương pháp này được sử dụng nhiều trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu

luận án. Ngoài ra, phương pháp này còn được sử dụng kết hợp với các phương

pháp khác trong quá trình nghiên cứu các nội dung khác của luận án.

- Phương pháp phân tích được áp dụng phổ biến trong việc phân tích quy

định pháp luật, phân tích số liệu liên quan đến từng nội dung trong luận án.

- Phương pháp so sánh được sử dụng ở hầu hết các nội dung của luận án

nhằm đối chiếu các quan điểm khác nhau giữa các nhà khoa học trong các công

trình nghiên cứu; giữa quy định của pháp luật ASXH hiện hành với quy định của

pháp luật ASXH các giai đoạn trước đây; giữa quy định của pháp luật ASXH Việt

Nam về DVXHCB với quy định của LHQ và một số quốc gia trên thế giới.

- Phương pháp chứng minh được sử dụng để đưa ra các dẫn chứng (các quy

định, số liệu, tài liệu…) nhằm làm rõ các luận điểm, luận cứ trong nội dung quy

định pháp luật ASXH về DVXHCB và thực tiễn thực hiện ở chương 3.

- Phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu trong việc rút ra những nhận

6

định, ý kiến đánh giá sau quá trình phân tích ở từng mục, từng chương, đặc biệt

được sử dụng để kết luận các chương và kết luận chung của luận án.

- Phương pháp dự báo khoa học được sử dụng nhằm đề xuất các kiến nghị

hoàn thiện quy định pháp luật ASXH về DVXHCB và kiến nghị nâng cao hiệu

quả thực hiện pháp luật ASXH về DVXHCB trong chương 3 luận án.

Các phương pháp này có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với nhau

tuỳ thuộc vào từng nội dung, từng vấn đề nhằm đạt được mục đích nghiên cứu của

luận án.

5. Những đóng góp mới của luận án

Là một công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện pháp luật

an sinh xã hội về các các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam, luận án có những

đóng góp mới về mặt khoa học như sau:

- Luận án góp phần củng cố và làm giàu hệ thống lý luận ASXH về

DVXHCB thông qua việc xây dựng hệ thống các khái niệm DVXHCB trong

ASXH như khái niệm dịch vụ xã hội, khái niệm DVXHCB, đặc trưng của

DVXHCB, chỉ ra vai trò của DVXHCB với tư cách là một bộ phận cấu thành

ASXH.

- Luận án góp phần hoàn thiện lý luận về pháp luật ASXH về DVXHCB, cụ

thể: luận án đã xây dựng khái niệm pháp luật ASXH về DVXHCB, xác định các

nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật ASXH về DVXHCB và phân tích tương đối

toàn diện, có hệ thống nội dung điều chỉnh pháp luật ASXH về DVXHCB.

- Luận án là công trình đầu tiên phân tích, đánh giá một cách khá toàn diện

và chi tiết thực trạng pháp luật ASXH Việt Nam về DVXHCB và thực tiễn thực

hiện, chỉ ra những bất cập của hệ thống pháp luật ASXH hiện hành về DVXHCB.

- Luận án đề xuất được các kiến nghị cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật

ASXH về DVXHCB và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu qủa thực hiện pháp luật

ASXH về DVXHCB, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam trong

bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

7

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần tổng quan tình hình nghiên cứu, danh mục

từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án được kết cấu gồm 03 chương:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản và pháp luật an sinh xã

hội về dịch vụ xã hội cơ bản.

Chương 2. Thực trạng pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt

Nam và thực tiễn thực hiện.

Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản.

8

PHẦN TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

1.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản và pháp

luật an sinh xã hội về dịch vụ xã hội cơ bản

1.1.1. Tình hình nghiên cứu một số vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản

Nghiên cứu về khái niệm an sinh xã hội và khái niệm dịch vụ xã hội cơ

bản trong hệ thống an sinh xã hội

Khái niệm ASXH được một số công trình nghiên cứu trong nước và nước

ngoài đề cập đến. Đó là:

Sách “Thuật ngữ ASXH” (2011) của Viện Khoa học và Lao động xã hội

(ILSSA) phối hợp với Dự án hỗ trợ giảm nghèo ở Việt Nam, do Cơ quan Hợp tác

Phát triển Quốc tế Cộng hòa Liên bang Đức (GIZ) thực hiện dưới sự ủy quyền của

Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Đức (BMZ). Cuốn sách đưa ra gần 200 thuật ngữ

về ASXH và khái quát về mối liên hệ giữa các trụ cột chính của hệ thống ASXH.

Trong đó, một số khái niệm liên quan tới DVXHCB trong ASXH như ASXH cơ

bản, sàn ASXH, dịch vụ xã hội, gói dịch vụ y tế cơ bản… Đây là nguồn tài liệu

hữu ích cho các nhà nghiên cứu về ASXH nói chung và luận án nói riêng.

Sách “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam”

(2009) của tác giả Mai Ngọc Cường, Nxb. Chính trị Quốc gia. Cuốn sách cung

cấp cái nhìn tổng quan về ASXH từ khái niệm, cấu trúc đến nội dung. Trong đó,

khái niệm ASXH được tiếp cận từ góc độ rộng đến hẹp khác nhau.

Nghiên cứu “Social Security – The way Forward” (An sinh xã hội – Con

đường phía trước) (2011) của tác giả R Ramakrishnan tại Hội nghị thượng đỉnh

SKOCH lần thứ 25 năm 2011 đã đưa ra khái niệm ASXH. Theo đó, ASXH hiện

nay thường được hiểu là sự bảo vệ do xã hội cung cấp cho các thành viên của mình

thông qua một loạt các biện pháp công chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và

xã hội gây ra bởi việc ngừng hoặc giảm thu nhập đáng kể do ốm đau, thai sản, việc

làm, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong.

9

Về cơ bản, khái niệm DVXHCB có được đề cập, phân tích trong một số

công trình nghiên cứu tuy nhiên chưa có nhiều công trình nghiên cứu, phân tích

sâu mà chủ yếu phân tích trên cơ sở khái niệm do LHQ xây dựng.

Nghiên cứu cấp Bộ (2011-2012) của Viện Khoa học Lao động và Xã hội,

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ở đề tài nhánh 3 “Đánh giá thực trạng khả

năng và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội của nhóm người nghèo, đối tượng dễ bị tổn

thương, đặc biệt là tại các vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số” đã tiếp cận

khái niệm DVXHCB từ khái niệm DVXH. Theo tài liệu này,“Dịch vụ xã hội là

hoạt động cung cấp, đáp ứng nhu cầu cho các thành viên trong xã hội để nâng

cao năng lực có việc làm và khả năng hội nhập xã hội nhằm bảo đảm các giá trị

và chuẩn mực xã hội được thừa nhận”. Tuy nhiên, khái niệm DVXHCB đề cập

trong nghiên cứu là khái niệm được trích dẫn từ khái niệm do LHQ xây dựng.

Theo đó, DVXHCB là các hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối

tượng nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, bao gồm giáo dục

cơ bản; y tế cơ bản; dân số và kế hoạch hóa gia đình; các dịch vụ xã hội liên quan

đến cứu trợ thiên tai; nước sạch và vệ sinh. Như vậy, nghiên cứu này mới dừng

lại ở việc trích dẫn khái niệm DVXHCB của LHQ mà chưa đưa ra được quan điểm

riêng về DVXHCB cũng như lý giải cơ sở xác định phạm vi các dịch vụ xã hội cơ

bản.

Chương trình nghiên cứu cấp Bộ 2011-2012 “Nghiên cứu giải pháp mở

rộng ASXH đồng bộ với chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến 2020”, đề tài

nhánh 3 “Đánh giá thực trạng khả năng và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội của

nhóm người nghèo, đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là tại các vùng sâu vùng

xa, vùng dân tộc thiểu số” của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ Lao động

- Thương binh và Xã hội chủ trì, do PGS.TS Nguyễn Bá Ngọc chủ nhiệm đề tài,

mã số: CT 2011-02-03. Trong công trình này, một trong các nội dung được nhóm

tác giả nghiên cứu là cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu khả năng tiếp cận

DVXHCB của người nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Trong

10

đó làm rõ khái niệm DVXH, DVXHCB và những đặc thù khác biệt của vùng dân

tộc thiểu số, vùng núi.

Nghiên cứu “Universal Basic Services: a theoretical and moral

framework” (Các dịch vụ cơ bản phổ cập: khung lý thuyết và đạo đức) năm 2019

của tác giả Lan Gough đã xây dựng khái niệm dịch vụ cơ bản phổ quát. Theo đó,

dịch vụ có nghĩa là tập hợp các hoạt động phục vụ lợi ích công cộng. Cơ bản nghĩa

là cần thiết và đủ chứ không phải tối thiểu, làm cho con người thịnh vượng và

tham gia vào xã hội. Phổ quát có nghĩa là mọi người đều được hưởng các dịch vụ

đáp ứng nhu cầu của họ, bất kể khả năng chi trả. Ngoài dịch vụ y tế và giáo dục

công, các dịch vụ khác được đề xuất thêm vào mô hình dịch vụ cơ bản phổ quát

như nơi cư trú, dinh dưỡng, giao thông và thông tin.

Báo cáo của Viện Thịnh Vượng Toàn cầu “Universal basic services: theory

and practice” (Các dịch vụ cơ bản phổ cập: lý thuyết và thực hành) năm 2019 do

Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy thực hiện đã nêu và phân tích

một số vai trò của dịch vụ công và dịch vụ cơ bản phổ quát. Theo các tác giả, dịch

vụ công giảm bớt sự bất bình đẳng về thu nhập bằng cách cung cấp "mức lương

xã hội" đáng giá cho những người thuộc nhóm thu nhập thấp nhất. Dịch vụ cơ bản

phổ quát còn có vai trò tăng cường sự đoàn kết bởi nó kêu gọi thực hành chính

sách tập thể bằng cách chia sẻ nguồn lực và cùng nhau hành động để đối phó với

rủi ro và vấn đề con người không thể đối phó một mình. Ngoài ra, nghiên cứu còn

chỉ ra vai trò của dịch vụ giáo dục cơ bản, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, các dịch vụ

giao thông công cộng, các tiện ích gia đình như điện, nước, điện thoại, nước thải,

năng lượng.

Sổ tay hướng dẫn “Social Protection Floor Initiative” (Sáng kiến sàn bảo

trợ xã hội) năm 2009 của nhóm các cơ quan hợp tác và đối tác phát triển, Văn

phòng Lao động Quốc tế và Tổ chức Y tế Thế giới là sáng kiến thứ sáu của CEB

(Trưởng ban điều hành hệ thống LHQ về điều phối) đã gián tiếp đưa ra định nghĩa

DVXHCB thông qua khái niệm về “Tầng bảo trợ xã hội” và “các dịch vụ thiết

11

yếu”. Theo đó, tầng bảo trợ xã hội là một khái niệm chính sách xã hội nhất quán

và toàn cầu nhằm thúc đẩy các chiến lược mỗi quốc gia với mục tiêu bảo vệ mức

độ tiếp cận tối thiểu các dịch vụ và chuyển giao thiết yếu, đảm bảo thu nhập cho

mọi người trong cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính hiện nay và hơn thế nữa.

Sàn bảo trợ xã hội quốc gia là một tập hợp các quyền cơ bản cho phép và trao

quyền cho các thành viên trong xã hội tiếp cận mức hàng hóa và dịch vụ tối thiểu

và được xã hội bảo vệ ở bất kỳ thời điểm nào. Dựa trên danh sách các dịch vụ và

chuyển giao của Tuyên bố chung của LHQ thì các dịch vụ thiết yếu được hiểu là

khả năng tiếp cận theo khu vực và tài chính đối với các dịch vụ thiết yếu (chẳng

hạn như nước và vệ sinh, dinh dưỡng đầy đủ, y tế và giáo dục, nhà ở, và các dịch

vụ bao gồm thông tin về cuộc sống và tiết kiệm tài sản).

Bài viết “The Right to Health and Basic Services" (Quyền được chăm sóc

sức khỏe và các dịch vụ cơ bản) năm 2010 của tác giả W. Courtland Robinson đã

đưa ra định nghĩa DVXHCB dựa trên Điều lệ nhân đạo của Dự án Sphere và Tiêu

chuẩn tối thiểu trong Ứng phó thiên tai là: “được tiếp cận với ít nhất các yêu cầu

tối thiểu (nước, vệ sinh, thực phẩm, dinh dưỡng, nơi ở và chăm sóc sức khỏe) để

đáp ứng quyền cơ bản được sống với phẩm giá”.

Nếu như các công trình trên nghiên cứu về DVXHCB nói chung thì một số

công trình dưới đây lại nghiên cứu về một DVXHCB cụ thể, như DVXHCB về

giáo dục cơ bản hoặc DVXHCB về nước sạch, DVXHCB về TCTT ….

Về dịch vụ giáo dục cơ bản, bài viết “Đừng nhầm lẫn “dịch vụ giáo dục” với

“giáo dục là dịch vụ” năm 2018 của Phạm Ngọc Duy đăng trên báo Vietnamnet ngày

03/06/2018. Bài viết được tác giả nghiên cứu trong bối cảnh luật Giáo dục đang được

dự thảo sửa đổi, trong đó tác giả trình bày một số kinh nghiệm quốc tế cũng như

những lưu ý khi sử dụng thuật ngữ “dịch vụ giáo dục” trong luật giáo dục. Theo tác

giả, “dịch vụ giáo dục được đề cập đến trong các văn bản pháp luật quốc tế để chỉ

các hoạt động giáo dục tương đối cụ thể và chính thức do các cơ sở giáo dục tổ chức

và người học thụ hưởng nhằm đạt được mục tiêu giáo dục toàn diện nêu trên”.

12

Liên quan đến quyền tiếp cận thông tin, sách tham khảo “Quyền tiếp cận

thông tin của công dân Việt Nam” (2015) của tác giả Thái Thị Tuyết Dung, Nxb.

Đại học Quốc gia, đã dành chương đầu tiên để lí giải một số vấn đề lý luận về

quyền tiếp cận thông tin của công dân. Trong đó làm rõ nhiều khái niệm liên quan.

Tác giả phân tích khái niệm “thông tin” trong quyền TCTT của công dân. Cùng

với đó, quyền TCTT được tác giả định nghĩa như sau: “quyền tiếp cận thông tin

là khả năng xử sự và lựa chọn xử sự của công dân trong những điều kiện cụ thể

được pháp luật quy định nhằm có được thông tin mà các cơ quan nhà nước đang

nắm giữ”.

Liên quan đến nước sạch, luận án “Bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch ở

nông thôn từ thực tiễn các tỉnh Đồng bằng Sông Hồng” (2020) của Trần Thị Xuân

chuyên ngành luật Hiến pháp và luật Hành chính định nghĩa “Quyền tiếp cận nước

sạch là một quyền quan trọng của con người; Theo đó mỗi người đều có quyền

tiếp cận nước bảo đảm tiêu chuẩn an toàn cho sức khỏe, đáp ứng được các tiêu

chí đầy đủ, dễ tiếp cận, chấp nhận được trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối

xử và có quyền tự quyết trong tiếp cận”.

Nghiên cứu vai trò của dịch vụ xã hội cơ bản

Một tài liệu rất đáng quan tâm là báo cáo của Viện Thịnh vượng Toàn cầu

“Social prosperity for the future: A proposal for Universal Basic Services” (Sự

thịnh vượng xã hội cho tương lai: Một đề xuất về các dịch vụ cơ bản phổ quát)

năm 2017. Báo cáo cho rằng tập trung vào DVXHCB chẳng hạn như chăm sóc

sức khoẻ, giáo dục, nhà ở, thực phẩm, thông tin liên lạc và vận tải hiệu quả hơn

nhiều trong việc giảm chi phí sinh hoạt so với việc chi cùng một khoản tiền cho

dịch vụ hiện có hoặc cho việc phân phối lại. Không những thế, DVXHCB thực sự

mang lại một mức sàn chung cho tiêu chuẩn sống của bất kỳ công dân nào.

Vai trò của DVXHCB còn được đề cập trong nghiên cứu “Assessment of

Basic Social Services Coverage on Life Quality for Ethnic Minorities in Vietnam”

(Đánh giá mức độ bao phủ của các dịch vụ xã hội cơ bản về chất lượng cuộc sống

13

của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam) của tập thể tác giả Ha Thi Hai Do, Nui Dang

Nguyen, Anh Ngoc Mai, Duc Minh Phung. Trong nghiên cứu này, các tác giả cho

rằng DVXHCB giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân và góp phần

phát triển kinh tế đất nước bền vững. Chất lượng cuộc sống có mối liên hệ với các

nhu cầu cơ bản như giáo dục, dinh dưỡng, sức khoẻ, nhà ở, nước sạch, giao thông.

Về vai trò của giáo dục cơ bản, bài viết “Legal policy of Basic Education

in National Education System” (Chính sách pháp luật về Giáo dục cơ bản trong

Hệ thống giáo dục quốc dân) (2017) của các tác giả Ichsan Yasin Limpo, Syamsul

Bachri, Aminuddin Ilmar, Farida Patittingi đã đánh giá bản chất của giáo dục như

một tiến trình có tính hệ thống để nâng cao phẩm giá của con người một cách tổng

thế. Giáo dục chính quy cần có chiến lược phát triển tiềm năng của người học.

Liên quan tới vai trò của chăm sóc sức khoẻ cơ bản và giáo dục, không thể

bỏ qua cuốn sách của Viện Ngân hàng phát triển châu Á “Public – Private

partnerships in the social sector, Issues and Country Experiences in Asia and the

Pacific” (Quan hệ đối tác công - tư trong lĩnh vực xã hội, Các vấn đề và Kinh

nghiệm Quốc gia ở Châu Á - Thái Bình Dương), Nxb. ADBI. Theo nghiên cứu

này, chăm sóc sức khỏe và giáo dục là cần thiết để đạt được chất lượng cuộc sống

cao. Những người khỏe mạnh, được giáo dục tốt có xu hướng có thu nhập cao hơn

và làm việc hiệu quả hơn về mặt kinh tế. Ở cấp độ quốc gia, một dân số khỏe

mạnh, có trình độ học vấn tốt sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế và giúp tạo ra một

nền kinh tế có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường quốc tế. Nghiên cứu

cũng khẳng định y tế, giáo dục và tăng trưởng kinh tế dường như đang tái tạo lẫn

nhau theo một số cách.

Đối với vai trò của nhà ở, tác giả Lisa T. Alexander trong bài viết “Bring

home the right to housing to advance urban sustainability” (Mang lại quyền về

nhà ở để thúc đẩy sự bền vững của đô thị) năm 2017, khẳng định đảm bảo quyền

có nhà ở góp phần xây dựng đô thị bền vững bên cạnh các yếu tố khác như đất,

không khí, nước và không gian mà con người chiếm giữ.

14

Với nước sạch, tác giả Keimer Raymond trong bài viết “Many poor

Americans are not getting access to clean drinking water, basic human right”

(Nhiều người Mỹ nghèo không được tiếp cận với nước uống sạch, quyền cơ bản

của con người) năm 2016 đã nghiên cứu tầm quan trọng của nước đối với con

người và sự ảnh hưởng của nước bị ô nhiễm đối với sức khỏe con người nói chung

và cộng đồng người nghèo ở Mỹ nói riêng.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu pháp luật an sinh xã hội về dịch vụ xã hội cơ bản

Về khái niệm pháp luật ASXH và nguyên tắc cơ bản của pháp luật ASXH

về dịch vụ xã hội, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu nào

đề cập vấn đề lý luận pháp luật ASXH về DVXHCB. Vì thế, khái niệm, nguyên

tắc pháp luật ASXH về DVXHCB chưa được nghiên cứu.

Nội dung pháp luật ASXH về DVXHCB được nghiên cứu ở mức độ rộng

hẹp khác nhau giữa các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài, xuất phát

từ sự khác nhau giữa hệ thống pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội mỗi quốc gia

và pháp luật quốc tế. Hầu hết công trình nghiên cứu trong nước đề cập đến nội

dung pháp luật ASXH về DVXHCB bao gồm 05 dịch vụ xã hội: giáo dục cơ bản,

y tế cơ bản, nhà ở, nước sạch và TCTT. Điều này có thể xuất phát từ chủ trương

thể hiện trong Nghị quyết 15-NQ/TW Hội nghị lần thứ Năm, Ban chấp hành Trung

ương khoá XI khi xác định mục tiêu đảm bảo các DVXHCB cho người dân bao

gồm 05 dịch vụ này. Vì vậy nghiên cứu sinh cũng đồng ý với cách tiếp cận của

các nghiên cứu trong nước về phạm vi của DVXHCB và luận án cũng tập trung

nghiên cứu 05 DVXHCB này.

Viện Khoa học Lao động và Xã hội phối hợp với Cơ quan Hợp tác Phát

triển Quốc tế Cộng hòa Liên bang Đức (GIZ) xuất bản cuốn “Phát triển hệ thống

ASXH ở Việt Nam đến năm 2020” (2013), trong đó đề cập đến vấn đề bảo đảm

mức tối thiểu các DVXHCB cho người dân. 05 chính sách về DVXHCB được

phân tích bao gồm: đảm bảo giáo dục tối thiểu, bảo đảm y tế tối thiểu, bảo đảm

mức tối thiểu về nhà ở, đảm bảo nước sạch cho người dân và đảm bảo thông tin

15

cho người nghèo, vùng nghèo. Ở mỗi chính sách, các tác giả đều xoay quanh các

nội dung như vai trò, mục tiêu, chính sách hiện hành và định hướng phát triển

chính sách trong tương lai.

Công trình nghiên cứu “Cơ sở khoa học của việc xây dựng sàn ASXH ở Việt

Nam giai đoạn 2011-2020” (2013) của Viện Khoa học và Lao động xã hội, Bộ

Lao động Thương binh và Xã hội do TS. Doãn Mậu Diệp chủ nhiệm đề tài đã

nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng sàn ASXH ở Việt Nam.

Từ nghiên cứu này có thể thấy quan điểm của các tác giả về các bộ phận cấu thành

DVXHCB. Theo tác giả, mục tiêu của sàn ASXH là đảm bảo quyền con người về

thu nhập tối thiểu, y tế cơ bản, giáo dục cơ bản, nhà ở, nước sạch, nhà vệ sinh.

Tuy nhiên, một số tác giả lại nghiên cứu các bộ phận cấu thành DVXHCB

với phạm vi rộng hơn. Ngoài 05 dịch vụ trên, bộ phận cấu thành của DVXHCB

còn được nghiên cứu mở rộng ở các dịch vụ như dinh dưỡng, tiếp cận công lý,

giao thông, chương trình hỗ trợ và cơ sở hạ tầng…

Có thể chỉ ra bài viết “Basic service and social protection” (DVXHCB và

bảo trợ xã hội) (2004) của Rachel Marcus, Laure- Hèlène Piron và Tom Slaymaker

tập trung vào các DVXHCB như dịch vụ sức khỏe (bao gồm cả dinh dưỡng), giáo

dục, vệ sinh, an toàn, an ninh và tiếp cận công lý. Bài viết nhấn mạnh tầm quan

trọng của chất lượng dịch vụ trong việc giảm thiểu tổn thương, xem xét một cách

ngắn gọn về khả năng tiếp cận dịch vụ cơ bản. Trong đó nêu lên mối liên hệ giữa

không biệt đối xử trong tiếp cận DVXHCB với khả năng tiếp cận và sự liên hệ

giữa khả năng tiếp cận với quyền về thông tin.

Tác giả Nguyen Viet Cuong và Giang Thanh Long về “Access to basic

social services: an evaluation from the Viet Nam household living standard

surveys” (Tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản: một đánh giá từ cuộc khảo sát tiêu chuẩn

sống hộ gia đình Việt Nam) (2012) đã tập trung vào các dịch vụ xã hội cơ bản bao

gồm trường học; chăm sóc sức khỏe; hưu trí và trợ cấp, điều kiện nhà ở; nước sạch

và vệ sinh; điện, chương trình hỗ trợ và cơ sở hạ tầng. Sổ tay hướng dẫn “Social

16

Protection Floor Initiative” (2009) chỉ ra các dịch vụ xã hội thiết yếu theo Sáng

kiến Sàn bảo trợ xã hội bao gồm 05 dịch vụ: y tế, giáo dục, nhà ở, nước và vệ sinh,

dịch vụ về thông tin.

1.2. Tình hình nghiên cứu thực trạng pháp luật an sinh xã hội Việt Nam về

các dịch vụ xã hội cơ bản và thực tiễn thực hiện

Đề tài cấp nhà nước “nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả,

hiệu lực chi NSNN cho giáo dục ở Việt Nam”, mã số: KHGD/16 - 20.ĐT.023 do

PGS.TS Nguyễn Vũ Việt chủ biên đã nghiên cứu về thực trạng chính sách và chi

cho giáo dục ở Việt Nam. Trong đó, đề tài chỉ ra một số hạn chế liên quan đến chi

tiêu cho giáo dục như: chênh lệch giữa thực hiện và dự toán chi NSNN cho giáo

dục và đào tạo còn ở mức cao; chiến lược đầu tư cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo

chưa được đặt ra đồng thời với chiến lược phát triển hệ thống giáo dục quốc dân

nên điều kiện về nguồn lực để thực hiện giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng

đầu còn hạn chế; tốc độ chi NSNN cho giáo dục và đào tạo tăng nhưng chưa phù

hợp với biến động của số lượng học sinh và tính đến biến động giá cả thị trường...

Cuốn sách “Quyền an sinh xã hội và đảm bảo thực hiện trong pháp luật

Việt Nam” (2014) của tác giả Lê Thị Hoài Thu, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,

có đề cập đến nội dung thực trạng đảm bảo quyền ASXH trong việc tiếp cận các

DVXHCB. Trong đó, phân tích đánh giá về thực trạng đảm bảo quyền ASXH

trong tiếp cận từng DVXHCB bao gồm: thực trạng đảm bảo quyền giáo dục cơ

bản, đảm bảo quyền chăm sóc y tế cơ bản, đảm bảo quyền có nơi cư trú, đảm bảo

quyền được cung cấp nước sạch, đảm bảo quyền TCTT. Đồng thời, tác giả cũng

chỉ ra nhiều hạn chế trong thực tiễn thực hiện pháp luật ASXH về các DVXHCB

như: đảm bảo giáo dục cơ bản còn tồn tại những hạn chế liên quan tới chất lượng

giáo dục. Đối với dịch vụ y tế, tình trạng bệnh biện quá tải, điều kiện cơ sở vật

chất ở bệnh viện còn hạn chế, khâu tổ chức, quản lý, thủ tục hành chính vẫn tồn

tại bất cập. Đối với quyền có nơi cư trú, tác giả nêu lên tình trạng nhiều người dân

không có tiền mua nhà, khó khăn trong thủ tục xác nhận hiện trạng nhà ở hay xác

17

nhận đối tượng có thu nhập thấp. Về quyền được cung cấp nước sạch, tỷ lệ người

dân được cung cấp nước sạch còn rất thấp cộng với chất lượng nước chưa đảm

bảo, giá nước sạch cao. Về đảm bảo quyền TCTT, hoạt động công khai thông tin

của cơ quan nhà nước chưa hiệu quả, các kênh thông tin chính thức của cơ quan

nhà nước chưa đáp ứng nhu cầu TCTT, nhận thức của người dân về quyền này

còn hạn chế. Như vậy có thể thấy, trong nghiên cứu này, tác giả đã nêu lên thực

tiễn thực hiện đảm bảo quyền tiếp cận các DVXHCB khá bao quát và đây thực sự

là những thực trạng đang tồn tại trên thực tế ở nước ta.

Liên quan tới dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, nghiên cứu “100 years of

social protection: the road to universal social protection systems and floors” (100

năm bảo trợ xã hội: con đường hướng tới hệ thống và sàn bảo trợ xã hội phổ quát)

(2019) của tập thể 63 tác giả, được biên tập bởi Ortiz, Isabel; Schmitt, Valérie và

De, Loveleen các tác giả đã đề cập đến một trong các mục tiêu quan trọng của

Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) trong chương trình Nghị sự 2030 là mục

tiêu bao phủ sức khỏe toàn dân (mục tiêu 3.8). Nghiên cứu cũng đưa ra một số

liệu đáng báo động liên quan tới thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản khi mà cứ

10 người thì có 4 người không được tiếp cận với các dịch vụ y tế thiết yếu và

khoảng cách lớn về bảo trợ xã hội này là không thể chấp nhận được từ góc độ nhân

quyền. Nghiên cứu này cũng đưa ra những lập luận để phản bác lại quan điểm cho

rằng một tầng bảo trợ xã hội bảo đảm cung cấp sự bảo trợ xã hội cơ bản cho tất cả

người dân là không đủ khả năng chi trả và khẳng định tầng bảo trợ xã hội phổ cập

là khả thi ở đa số các nước đang phát triển.

Báo cáo quốc gia về phát triển con người (2011 và 2015) của Văn phòng

báo cáo phát triển con người (HDRO) chỉ ra một thực trạng là mức độ hài lòng

của người dân đối với các dịch vụ y tế và giáo dục còn thấp thông qua những số

liệu có được qua các cuộc điều tra. Đồng thời đưa ra đánh giá những thành tựu đạt

được trong việc đảm bảo dịch vụ y tế và giáo dục đối với người dân. Báo cáo cũng

chỉ ra những thách thức mà nhiều người Việt Nam đang phải đối mặt; phân tích

18

khoảng cách trong tiếp cận các dịch vụ y tế và giáo dục ở cấp địa phương và giữa

các nhóm kinh tế xã hội cụ thể; thảo luận về việc cung cấp các DVXH.

Liên quan đến vấn đề tiếp cận dịch vụ nước sạch, bài viết “Quản lý nước

sạch và các vấn đề sức khỏe” năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị Thủy chỉ ra sự

khác biệt trong việc tiếp cận nước sạch giữa các nhóm người trong xã hội mà

nguyên nhân là do sự bất bình đẳng về địa lý, văn hóa xã hội và kinh tế. Sự bất

bình đẳng này không chỉ xảy ra giữa nông thôn và thành thị, mà còn ở ngay trong

thị trấn và thành phố. Đối với người dân có thu nhập thấp, các khu định cư không

chính thức hoặc bất hợp pháp thường ít được tiếp cận với nguồn nước sạch đã qua

xử lý. Tuy nhiên, những dữ liệu này bài viết tổng hợp từ nghiên cứu của WHO mà

chưa có sự nghiên cứu cụ thể từng trường hợp, do đó chưa thể khắc họa được tình

hình ở Việt Nam hiện nay. Cũng liên quan đến nội dung này, một số công trình

nghiên cứu nước ngoài đã đã nêu ra tình trạng thiếu tiếp cận vệ sinh mà hàng tỷ

người đang phải đối mặt, tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận vệ sinh như tác

giả Inga T. Winkler (2016) và tác giả Siyambonga Heleba (2019) chỉ ra.

Tác giả Thái Thị Tuyết Dung trong cuốn sách “Quyền tiếp cận thông tin

của công dân Việt Nam” (2015) đưa ra nhận xét quy định của pháp luật về quyền

TCTT ở Việt Nam như: quy định của pháp luật về vấn đề này chưa thực sự đầy

đủ, nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau và chưa đáp ứng yêu cầu thực

tế, chưa quy định giải thích thế nào là quyền tiếp cận thông tin, một số quy định

có thể gây nhầm lẫn trong quá trình thực hiện, chưa quy định biện pháp xử lý đối

với chủ thể có vi phạm quy định trong lĩnh vực này… Có thể thấy những đánh giá

về thực trạng của tác giả khá bao quát từ thực trạng quy định pháp luật đến thực

tiễn thực hiện. Tuy nhiên, công trình này được nghiên cứu khi Luật TCTT năm

2016 chưa được ban hành nên một số nhận xét, đánh giá quy định pháp luật về

TCTT của tác giả không còn phù hợp ở thời điểm hiện tại.

Báo cáo đánh giá việc thực thi Luật TCTT (lần thứ hai) tổ chức CARE tại

Việt Nam, tổ chức Oxfam tại Việt Nam, Liên minh Nước sạch, Liên minh Khoáng

19

sản và Liên minh đất rừng thực hiện năm 2020 nhằm tìm ra những yếu tố thúc đẩy

thực thi Luật TCTT, những kết quả và tồn tại trong việc ban hành các văn bản

pháp luật hướng dẫn và trong tổ chức thực hiện Luật TCTT. Báo cáo đã phân tích

và chỉ ra những tổn tại trong quy định về cơ chế theo dõi, kiểm tra, giám sát, khiếu

nại và tố cáo việc thực thi Luật TCTT khá cụ thể và chi tiết.

Đảm bảo DVXHCB đối với nhóm người dễ bị tổn thương, tác giả Tran Van

Kham và Pham Van Quyet trong bài báo “Access to social services: How poor

migrants experience their life in contemporary Vietnamese urban areas” (Tiếp

cận các dịch vụ xã hội: Người di cư nghèo trải nghiệm cuộc sống ở các đô thị Việt

Nam đương đại như thế nào) (2015) đăng trên tạp chí Social Sciences and

Humanities, tập 1, số 3 (2015) tr. 277-290 cũng giới hạn đối tượng nghiên cứu ở

nhóm người di cư nghèo ở Việt Nam. Bài viết phân tích thực trạng tiếp cận DVXH

của nhóm người di cư nghèo. Trong đó nghiên cứu tập trung vào khả năng tiếp

cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe của nhóm đối tượng này bên cạnh việc tiếp cận

một số dịch vụ khác như dịch vụ giáo dục, dịch vụ nước sạch, dịch vụ pháp lý…

Theo tác giả, thực tiễn thực hiện tiếp cận DVXHCB đối với người di cư nghèo

còn tồn tại nhiều bất cập, điển hình như người di cư tham gia dịch vụ y tế trong

thời kỳ di cư ở mức cao hơn so với giai đoạn trước di cư; người di cư ở Hà Nội

gặp khó khăn về tất cả các khía cạnh của các DVXH trong quá trình di cư của họ;

thiếu các DVXH cho người di cư và chính sách cải thiện điều kiện sống cho họ.

1.3. Tình hình nghiên cứu về kiến nghị hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội

về dịch vụ xã hội cơ bản và nâng cao hiệu quả thực hiện

Đề tài cấp quốc gia “Đảm bảo dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân vùng

dân tộc thiểu số trong thời kỳ đổi mới" Mã số đề tài CTDT.19.17/16-20 của

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân chủ trì, do PGS.TS. Đỗ Thị Hải Hà chủ biên.

Nghiên cứu này đưa ra các đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp, cơ chế,

chính sách nhằm đảm bảo DVXHCB cho người dân vùng dân tộc thiểu số đến

năm 2025, định hướng đến năm 2030 bên cạnh nhiều nội dung khác về DVXHCB

20

cho người vùng dân tộc thiểu số.

Công trình nghiên cứu cấp Bộ của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Bộ

Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, do PGS.TS Nguyễn Bá Ngọc chủ nhiệm

đề tài (2011-2012) đã đánh giá thực trạng khả năng tiếp cận DVXHCB của người

nghèo tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi, bao gồm: khả năng tiếp cận chính

sách và dịch vụ việc làm; khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục cơ bản; khả năng

tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản; khả năng tiếp cận nước sạch và vệ sinh môi trường;

khả năng tiếp cận trợ giúp đột xuất.

Đáng chú ý có nghiên của tác giả Hoàng Triều Hòa (2011) “Chính

sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản” phân tích chính sách

hỗ trợ người nghèo tiếp cận chính sách y tế cơ bản, chính sách giáo dục cơ bản,

chính sách nhà ở - đất ở cho người nghèo. Theo tác giả, ngày nay giảm nghèo

được nhìn nhận không chỉ với ý nghĩa tăng thu nhập mà còn với nghĩa cải thiện

cơ hội tiếp cận các DVXH cho người nghèo. Đồng thời tác giả đưa ra một số giải

pháp cải thiện cơ hội tiếp cận các DVXH cho người nghèo. Đối với riêng vấn đề

nhà ở - đất ở, bài viết phân tích sự hỗ trợ dịch vụ của nhà nước cho đối tượng

người nghèo ở khu vực thuộc vùng dân tộc thiểu số và đô thị. Nhà nước đã đưa ra

các chính sách đề tạo điều kiện cho người nghèo có thể thuê nhà hoặc mua nhà

với mức giá thấp.

Nhằm đảm bảo giáo dục cơ bản cho đồng bào dân tộc thiểu số, bài viết

“Ensuring basic education for ethnic minority groups in Vietnam”(Đảm bảo giáo

dục cơ bản cho các nhóm dân tộc thiểu số ở Việt Nam) (2020) của tác giả Nui

Dang Nguyen đã đề xuất một số kiến nghị về chính sách hiện hành để bảo đảm

giáo dục cơ bản cho đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường công tác giám sát, kiểm

tra, rà soát, kiểm soát, đánh giá việc thực hiện các chính sách; cải cách thủ tục

hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và nâng cao chất lượng

các cơ sở giáo dục vùng dân tộc thiểu số.

2. Nhận xét, đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và

21

những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu

2.1. Nhận xét, đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án

Qua tổng quan công trình nghiên trong nước cũng như quốc tế về các vấn

đề liên quan đến luận án, có thể thấy rằng, nhìn chung các nghiên cứu về

DVXHCB tập trung nghiên cứu về thực trạng đảm bảo tiếp cận DVXHCB. Các

đối tượng được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu là nhóm đối tượng yếu

thế như trẻ em, lao động di cư, người nghèo, người dân tộc thiểu số, vùng núi.

Trong khi đó, không có nhiều công trình nghiên cứu đối với người dân cộng đồng.

Mặc dù một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã đề cập đến

khái niệm DVXHCB nhưng hầu hết mới chỉ dừng lại ở mức độ khái lược hoặc

trình bày lại khái niệm dịch DVXHCB do LHQ xây dựng.

Một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài có đề cập đến vai

trò của DVXHCB và thể hiện sự đồng thuận cao trong nhận thức về vai trò, ý

nghĩa của DVXHCB đối với con người, sự phát triển con người và đối với xã hội.

Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu phân tích vai trò của DVXHCB ở vị trí độc

lập mà chưa đặt DVXHCB trong mối tương quan là một bộ phận của ASXH.

Về nghiên cứu quy định pháp luật về DVXHCB, chỉ một số ít công trình

nghiên cứu về vấn đề này và chưa có công trình nào nghiên cứu một cách khái

quát hệ thống pháp luật về DVXHCB. Một số công trình chỉ nghiên cứu về một

DVXHCB nhất định. Trong đó, quyền được giáo dục và chăm sóc sức khỏe được

các công trình nghiên cứu bàn luận nhiều nhất. Các DVXHCB khác như dịch vụ

xã hội về nơi cư trú, dịch vụ nước sạch hay TCTT mới được nghiên cứu chủ yếu

với nhóm đối tượng yếu thế. Có thể thấy, đây là một khoảng trống lớn trong các

công trình nghiên cứu đã có về pháp luật ASXH về DVXHCB.

Các công trình nghiên cứu phần lớn đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả thực hiện đảm bảo các DVXHCB, trong khi giải pháp hoàn thiện pháp luật

ASXH về các DVXHCB thì chưa được đề xuất trong các công trình.

2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu

22

Từ tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, các công

trình nghiên cứu chưa nghiên cứu nội dung pháp luật ASXH về DVXHCB, nguyên

tắc pháp luật ASXH về DVXHCB, thực trạng pháp luật ASXH Việt Nam về

DVXHCB. Do đó, để đạt được mục đích nghiên cứu của luận án, tác giả nhận thấy

cần làm sâu sắc hơn, có tính hệ thống và toàn diện hơn các nội dung sau:

- Luận án cần hệ thống hoá và làm sâu sắc hơn hệ thống lý luận ASXH về

DVXHCB như xây dựng khái niệm DVXHCB, chỉ ra đặc điểm đặc trưng của

DVXHCB với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống ASXH.

- Khắc phục sự thiếu hụt trong các công trình nghiên cứu, luận án nghiên

cứu, làm sâu sắc hơn vấn đề lý luận pháp luật ASXH về DVXHCB để xây dựng

khái niệm, các nguyên tắc cơ bản, nội dung pháp luật ASXH về DVXHCB.

- Luận án nghiên cứu đầy đủ và toàn diện thực trạng pháp luật và thực tiễn

thực hiện pháp luật ASXH về các DVXHCB ở Việt Nam với 05 DVXHCB, bao

gồm DVXHCB về giáo dục, DVXHCB về chăm sóc y tế, DVXHCB về nhà ở,

DVXHCB về nước sạch và DVXHCB về TCTT. Từ đó, đưa ra nhận xét, đánh giá

các quy định pháp luật DVXHCB về đối tượng tiếp cận, nội dung, chủ thể cung

cấp DVXHCB và nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB, làm cơ sở cho những đề

xuất, kiến nghị trong chương 3 luận án.

- Dựa trên cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật, thực tiễn thực hiện pháp luật

ASXH về DVXHCB ở Việt Nam, luận án đề xuất những giải pháp mang tính cấp

thiết nhằm bổ sung và hoàn thiện các quy định về DVXHCB trong hệ thống pháp

luật ASXH Việt Nam, phù hợp với quan điểm sàn ASXH theo pháp luật quốc tế.

Để các quy định pháp luật ASXH về DVXHCB đi vào đời sống, luận án cũng đưa

ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ASXH về DVXHCB ở Việt

Nam trong bối cảnh mới.

3. Cơ sở lý thuyết của luận án và câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu

3.1. Cơ sở lý thuyết của luận án

- Lý thuyết về quyền con người

23

Mỗi con người tồn tại đều được đảm bảo nhân quyền, không phân biệt chủng

tộc, giới tính, quốc tịch, sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo hay bất kỳ địa vị nào khác. Nhân

quyền bao gồm quyền được sống và tự do, tự do quan điểm và biểu đạt, quyền giáo

dục, chăm sóc sức khoẻ, tự do đi lại, cư trú… Mọi người đều được hưởng những

quyền này, không bị phân biệt đối xử. Quyền con người của công dân được Nhà nước

tôn trọng, thực hiện và bảo vệ.

Cách tiếp cận dựa trên quyền không những đảm bảo sự đúng đắn về mặt đạo đức

hoặc pháp lý mà còn đảm bảo dẫn đến sự phát triển con người tốt hơn. Sự kết hợp cả

hai yếu tố này cũng là lý do giải thích cho sự đúng đắn khi sử dụng cách tiếp cận này.2

Tiếp cận dựa trên quyền lấy nền tảng cơ bản chính là hệ thống quyền con người

đã được pháp luật quốc tế thừa nhận và bảo vệ. Cách tiếp cận này trong nghiên

cứu pháp luật ASXH về DVXHCB hướng tới cải thiện điều kiện và chất lượng

sống của con người, tập trung vào các yếu tố đóng vai trò trọng yếu đối với sự

phát triển con người như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin…Ngoài ra,

cách tiếp cận dựa trên quyền con người còn xác định chủ thể có quyền và chủ thể

có nghĩa vụ. Các cá nhân và các nhóm xã hội tương ứngcó quyền cá nhân và quyền

của nhóm là chủ thể chính của quyền con người.3 Chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng,

bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là nhà nước, các tổ chức, cộng đồng xã hôi,

gia đình và cá nhân.4

Vận dụng lý thuyết về quyền con người, vai trò của DVXHCB trong hệ thống

ASXH càng được khẳng định chắc chắn và sự cần thiết phát triển hệ thống ASXH

đa tầng với “nhiều tấm lưới đỡ” để đảm bảo không bỏ lọt bất cứ thành viên nào

trong xã hội. Cách tiếp cận dựa trên quyền con người cũng đảm bảo sự phù hợp

2 Liên Hợp Quốc (2006), Frequently asked questions on human rights – based approach to development cooperation, New York and Geneva, tr.15 3 Nguyễn Đăne Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nôi, tr.65 4 Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc Gia Hà Nội, tr.75

trong quy định của pháp luật về đối tượng tiếp cận DVXHCB (chủ thể có quyền)

24

và trách nhiệm của Nhà nước (chủ thể có nghĩa vụ).

- Lý thuyết về nhu cầu con người

Con người ai cũng có những nhu cầu cơ bản phải được thoả mãn để tồn tại

và phát triển. Nhu cầu của con người không phải là một điều riêng biệt nhưng

mang tính phổ quát theo thời gian và không gian. Mặc dù chi tiết về cách thức đáp

ứng các nhu cầu rất khác nhau, nhưng một số chung nhất định không thay đổi.5

Những yếu tố này ban đầu được các nhà lý luận về nhu cầu liệt kê là nước, dinh

dưỡng, chỗ ở, công việc an toàn và không bị đe dọa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe,

an ninh thời thơ ấu, các mối quan hệ cơ bản quan trọng, an ninh kinh tế và thể chất

và một môi trường an toàn.6 Các quốc gia đồng thuận rằng trách nhiệm đối với

phúc lợi của người dân là một chức năng tập thể, được thực hiện bằng cách tập

hợp các nguồn lực và chia sẻ rủi ro thông qua các thể chế của chính phủ. 7

Vận dụng lý thuyết này, luận án có cơ sở vững chắc để nghiên cứu DVXHCB

với tư cách là một cấu phần của hệ thống ASXH. Lý thuyết về nhu cầu con người

cũng là cơ sở để đề xuất kiến nghị tăng cường trách nhiệm của Nhà nước, tăng

đầu tư từ NSNN đảm bảo cung cấp DVXHCB đầy đủ; kiến nghị mở rộng phạm

vi DVXHCB để đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tối thiểu khác của con người nhằm

phát triển toàn diện.

- Lý thuyết bình đẳng về cơ hội

Bình đẳng về cơ hội đề cập đến sự công bằng của các quy trình thông qua

đó, các cá nhân có nền nảng khác nhau hoặc từ các nhóm xã hội khác nhau đạt

được kết quả cụ thể, chẳng hạn như mục tiêu giáo dục. Bình đẳng về cơ hội thường

liên quan đến các nhóm nhân khẩu như chủng tộc, giới tính, tình trạng kinh tế, xã

5 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal Basic Services: theory and practice 6 Doyal, L. & Gough, I. (1991), A Theory of Human Need. Basingstoke: Palgrave Macmillan 7 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal Basic Services: theory and practice 8 Jomills Henry Braddock II, James M. McPartland, Equality Of Opportunity, https://www.encyclopedia.com/social-sciences/encyclopedias-almanacs-transcripts-and-maps/equality- opportunity

hội.8 Cơ hội bình đẳng sẽ cho phép sự khác biệt trong hoàn cảnh xã hội về tầng

25

lớp kinh tế, gia đình, nền văn hoá. Thực hiện cơ hội bình đẳng đòi hỏi phải chống

lại các tác động của sự khác biệt về giai cấp, chủng tộc, giới tính và các yếu tố

khác.9

Các dịch vụ công được tìm thấy để giảm bớt sự bất bình đẳng về thu nhập.

Trong trường hợp không cung cấp dịch vụ công, đối với những người có thu nhập

thấp, việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản có thể sẽ tiêu dùng phần lớn thu nhập của

họ. Nếu không, những nhu cầu cơ bản không được đáp ứng sẽ gây ra những tác

động tiêu cực đến cá nhân và xã hội.10

Dựa trên lý thuyết bình đẳng về cơ hội, DVXHCB cần được cung cấp một

cách công bằng, bình đẳng giữa các đối tượng trong xã hội, không phân biệt mức

thu nhập, khu vực sống hay bất kỳ yếu tố nào. Theo đó, tất cả mọi người đều có

cơ hội bình đẳng trong học tập, chăm sóc sức khoẻ, có cơ hội bình đẳng trong tiếp

cận nhà ở, sử dụng nước sạch hay TCTT. Tiếp cận bình đẳng DVXHCB không có

nghĩa là người dân được tiếp cận các dịch vụ này miễn phí nhưng Nhà nước có

trách nhiệm đảm bảo chi phí sử dụng dịch vụ cần nằm trong phạm vi khả năng chi

trả của chủ thể sử dụng dịch vụ. Để thực hiện được điều này, cần sự hỗ trợ, ưu đãi

từ NSNN trung ương và địa phương, trong đó có tính đến nhóm đối tượng yếu thế,

có khó khăn về thu nhập.

3.2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, luận án đặt ra các câu hỏi

nghiên cứu trọng tâm như sau:

Câu hỏi nghiên cứu 1: Khái niệm, đặc điểm của DVXHCB như thế nào?

DVXHCB có vai trò gì trong hệ thống ASXH?

Giả thuyết nghiên cứu: DVXHCB là hệ thống các hoạt động cung cấp dịch

9 Andy Mason, Equal opportunity political theory https://www.britannica.com/topic/meritocracy, truy cập ngày 25/1/2023 10 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal Basic Services: theory and practice

vụ nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của con người. Ngoài các đặc điểm

26

chung của ASXH, DVXHCB có một số đặc điểm đặc thù. DVXHCB có vai trò

đối với sự phát triển toàn diện của con người và sự phát triển bền vững của xã hội.

Câu hỏi nghiên cứu 2: Khái niệm pháp luật ASXH về các DVXHCB?

Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật ASXH về các DVXHCB? Nội dung điều chỉnh

pháp luật ASXH về các DVXHCB?

Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật ASXH đối với DVXHCB là tổng hợp các

quy định về việc đảm bảo tiếp cận các dịch vụ cơ bản, thiết yếu như giáo dục,

chăm sóc sức khoẻ, nhà ở, nước sạch, tiếp cận thông tin… một cách phổ quát, phù

hợp với từng thời kỳ phát triển đất nước. Pháp luật ASXH về DVXHCB ngoài

việc tuân theo các nguyên tắc chung của pháp luật ASXH còn phải tuân theo các

nguyên tắc riêng đảm bảo phù hợp với bản chất của DVXHCB. Nội dung pháp

luật ASXH được quy định rộng - hẹp khác nhau phụ thuộc quan điểm, trình độ

phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.

Câu hỏi nghiên cứu 3: Thực trạng pháp luật ASXH Việt Nam về DVXHCB

và thực tiễn thực hiện như thế nào? Ưu điểm, hạn chế của các quy định đó?

Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật ASXH về DVXHCB được quy định khá

bao quát trong việc xác định đối tượng tiếp cận, nội dung, chủ thể cung cấp, nguồn

tài chính đầu tư cho DVXHCB đối với từng DVXHCB. Các quy định này nhìn

chung đã tạo hành lang pháp lý trong việc đảm bảo quyền tiếp cận DVXHCB cho

người dân. Tuy nhiên hệ thống pháp luật về vấn đề này vẫn tồn tại bất cập, mâu

thuẫn, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế như chưa bao quát hết đối tượng tiếp cận

DVXHCB, nội dung DVXHCB còn hẹp, các quy định về mức chi từ NSNN cho

DVXHCB chưa phù hợp, quy định về xã hội hoá, đầu tư theo hình thức đối tác

công tư tồn tại nhiều hạn chế. Do vậy, việc thực hiện pháp luật ASXH về

DVXHCB trên thực tế chưa đạt hiệu quả cao.

Câu hỏi nghiên cứu 4: Yêu cầu hoàn thiện và kiến nghị hoàn thiện pháp

luật ASXH về DVXHCB và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật như

thế nào?

27

Giả thuyết nghiên cứu: Việc hoàn thiện pháp luật ASXH về DVXHCB cần

đáp ứng các yêu cầu nhất định. Theo đó, các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và

nâng cao hiệu quả thực hiện được đề xuất nhằm khắc phục những bất cập trong

quy định của pháp luật và đạt hiệu quả cao hơn trong quá trình thực hiện, góp phần

đảm bảo quyền tiếp cận DVXHCB của người dân.

28

KẾT LUẬN PHẦN TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Mặc dù có nhiều công trình khác nhau nghiên cứu về DVXHCB nhưng

chưa có một công trình nào nghiên cứu về DVXHCB dưới góc độ pháp luật một

cách toàn diện. Các công trình đã nghiên cứu chủ yếu nghiên cứu riêng một hoặc

một số DVXHCB hoặc nghiên cứu về DVXHCB với một số nhóm đối tượng nhất

định. Các công trình nghiên cứu chưa làm rõ được lý luận về DVXHCB và pháp

luật về DVXHCB mà chủ yếu tập trung vào các nội dung về thực tiễn tiếp cận

DVXHCB và các giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp cận DVXHCB.

Luận án kế thừa các kết quả nghiên cứu trước và tiếp tục nghiên cứu ở phạm

vi sâu sắc và toàn diện hơn các vấn đề lý luận về DVXHCB trong mối tương quan

với hệ thống ASXH và pháp luật ASXH về DVXHCB. Đồng thời, luận án cũng

nghiên cứu sâu về pháp luật ASXH Việt Nam về DVXHCB một cách tương đối

toàn diện với 05 DVXHCB, bao gồm DVGDCB về giáo dục, DVGDCB về chăm

sóc y tế, DVGDCB về nhà ở, DVGDCB về nước sạch và DVGDCB về TCTT.

Trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng pháp luật về vấn đề này và đề xuất kiến nghị

hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện.

Việc nghiên cứu luận án được dựa trên các lý thuyết nghiên cứu như lý

thuyết về quyền con người, lý thuyết về nhu cầu và lý thuyết bình đẳng về cơ hội.

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu

trọng tâm và đưa ra giả thuyết nghiên cứu.

29

PHẦN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 1.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN

VÀ PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI VỀ DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN

1.1. Một số vấn đề lý luận về dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an sinh xã

hội

1.1.1. Khái niệm an sinh xã hội và các bộ phận cấu thành an sinh xã hội

Trong cuộc sống, con người có thể gặp những rủi ro, khó khăn từ thiên tai,

từ điều kiện sống làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, đói nghèo…, gây khó khăn cho

việc duy trì cuộc sống. Khi rơi vào hoàn cảnh này, con người cần được xã hội và

cộng đồng giúp đỡ, chia sẻ để vượt qua khó khăn. Sự chia sẻ này với các thành

viên gặp khó khăn thông qua các chính sách, pháp luật chính là ASXH.

Trên thế giới, khái niệm ASXH ra đời từ thế kỷ XIX gắn liền với cuộc cách

mạng công nghiệp ở các nước phát triển phương Tây. Tuy nhiên, cho đến nay, do

tính chất phức tạp và đa dạng của ASXH nên vẫn còn nhiều nhận thức khác nhau

về vấn đề này. Khái niệm ASXH cũng khá khác biệt giữa các tổ chức, các quốc

gia mà thực chất là quan niệm về phạm vi của nó.

Theo ILO thì “ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình

thông qua một số biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh

tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao

động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già hoặc chết; đồng thời, đảm bảo sự chăm sóc

y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.”11

Theo Ngân hàng thế giới thì “ASXH là những biện pháp công cộng nhằm

giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được nguy

cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bếp bênh thu

truy cập

11 Mạc Văn Tiến, Bản chất và những chức năng cơ bản của ASXH, tạp chí BHXH Bộ Quốc Phòng. http://www.bhxhbqp.vn/bai-viet/ban-chat-va-nhung-chuc-nang-co-ban-cua-an-sinh-xa-hoi-2155, ngày 24/3/2021

nhập”. Định nghĩa này nhấn mạnh đến các giải pháp nhằm kiềm chế nguy cơ làm

30

giảm thu nhập của các cá nhân, gia đình và cộng đồng.12

Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) thì “ASXH là các chính sách,

chương trình giảm nghèo và sự giảm sự yếu thế bởi sự thúc đẩy có hiệu qủa thị

trường lao động, giảm thiểu rủi ro của người dân và nâng cao năng lực của họ để

đối phó với rủi ro và suy giảm hoặc mất thu nhập”. Định nghĩa này cho thấy, vai

trò của nhà nước được nhấn mạnh trong việc đảm bảo ASXH, giảm nhẹ những tác

động bất lợi đến người dân.

Có thể thấy, mặc dù có nhiều cách định nghĩa về ASXH nhưng tựu chung lại

thì ASXH có mục tiêu là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ

cho mọi thành viên trong cộng đồng khi gặp phải những rủi ro nhất định trong

cuộc sống với những đặc điểm chính sau:

- ASXH là sự đảm bảo an toàn thu nhập ở mức tối thiểu thông qua hệ thống

các chính sách nhằm quản lý rủi ro tốt hơn, bao gồm các rủi ro liên quan đến nhu

cầu cơ bản nhất của con người: rủi ro về sức khỏe, thiếu hoặc mất việc làm, tuổi

già, trẻ em, tàn tật… dẫn đến mất thu nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn so với mức tối

thiểu đủ sống.

- ASXH là các chính sách chủ yếu do nhà nước tổ chức thực hiện, sự tham gia

của các tổ chức xã hội, cộng đồng và thị trường trong việc tổ chức thực hiện và

cung cấp dịch vụ ASXH. Các chính sách này hướng đến mọi thành viên trong xã

hội, bảo đảm cho mọi thành viên được bình đẳng về tiếp cận và chất lượng dịch

vụ, tuy nhiên, nhấn mạnh đến nhóm đối tượng yếu thế.

- ASXH là lưới an toàn cho mọi thành viên trong xã hội. Do đó, phạm vi của

ASXH là bao phủ toàn dân và toàn diện (cơ bản đáp ứng được nhu cầu ASXH của

người dân một cách toàn diện).

Ở Việt Nam, thuật ngữ “ASXH” được bắt đầu nhắc đến trong một số cuốn

12 Học viện Chính trị- Hành chính khu vực III, Phát triển kinh tế và ASXH – Từ lý luận đến thực tiễn các tỉnh miền Trung”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Đà nẵng, 2012.

sách nghiên cứu về pháp luật của các học giả Sài Gòn vào những năm 1970. Tuy

31

nhiên, thời kỳ đó, các học giả chưa sử dụng nhất quán thuật ngữ “an sinh xã hội”

bởi nó được dịch từ cụm từ “Social Security”, có học giả dịch là “bảo đảm xã

hội", có người sử dụng “bảo trợ xã hội”, “an ninh xã hội” hay “an toàn xã hội”…

Theo cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam tập I thì ASXH được định nghĩa là “Sự

bảo vệ của xã hội đối với công dân thông qua các biện pháp công cộng nhằm giúp

họ khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội; đồng thời bảo đảm chăm sóc

y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con...".13

Năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội khẳng định:“Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng

cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập,

nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất...”. Đặc biệt lần đầu tiên, Cương lĩnh

xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (được

bổ sung, phát triển năm 2011) đã tuyên bố cần phải: “Hoàn thiện hệ thống ASXH”.

Cụm từ “ASXH” được chính thức sử dụng trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX của Đảng năm 2001:“Khẩn trương mở rộng hệ thống BHXH và

ASXH”. Tiếp theo đó, vấn đề ASXH ở nước ta ngày càng được quan tâm và nâng

lên tầm chiến lược về phát triển hệ thống chính sách ASXH, được nhắc đến trong

các Nghị Quyết Đại hội X, XI.

Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 nhấn mạnh phát triển hệ

thống ASXH đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Nghị Quyết số 15-NQ/TW

của Ban chấp hành TW Đảng ngày 1/6/2012 đặt ra yêu cầu “Chính sách xã hội

phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát

triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng

thời kỳ ...”, đồng thời thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm mức sống tối

thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn cảnh khó khăn.

Hệ thống ASXH được xây dựng gồm nhiều cấu phần khác nhau. Tuỳ thuộc

13 Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, tập I. Nxb.Từ điển Bách khoa, 2005

vào điều kiện kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ mà nội dung của

32

ASXH rộng, hẹp khác nhau. Nhưng nhìn chung, các quốc gia thường có xu hướng

xây dựng ASXH theo tuần tự từ giải quyết lĩnh vực thương tật việc làm trước, sau

đó đến lương hưu cho người già, trợ cấp tàn tật và tiền tuất, tiếp theo đó mới đến

chính sách bảo hiểm ốm đau, sức khỏe và thai sản. Trợ cấp cho trẻ em và gia đình,

và trợ cấp thất nghiệp, thường đứng sau cùng.14 Hiện nay, hệ thống ASXH thường

bao gồm các cấu phần chủ yếu sau:

Bảo hiểm xã hội: là bảo đảm thay thế phần thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất

trong quá trình lao động hoặc sau quá trình lao động cho NLĐ khi họ gặp rủi ro

trong cuộc sống như ốm đau, tai nạn lao động, nghỉ hưu...

Bảo hiểm y tế: là hình thức bảo hiểm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ

cho các thành viên trong xã hội.

Trợ giúp xã hội: là sự hỗ trợ từ Nhà nước và cộng đồng xã hội cho người có

hoàn cảnh khó khăn, rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát,

bao gồm chính sách trợ giúp thường xuyên và đột xuất.

Dịch vụ xã hội cơ bản: là hệ thống dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu tối thiểu,

cơ bản của con người, bao gồm dịch vụ giáo dục cơ bản, chăm sóc YTCB, nhà ở

tối thiểu, nước sạch và tiếp cận thông tin.

Năm 2009, Sáng kiến về Sàn ASXH của LHQ ghi nhận DVXHCB là một trong

những cấu phần thuộc hệ thống ASXH. Bên cạnh đó, xu hướng chung của ở các quốc

gia trong quan niệm về ASXH cũng từng bước thừa nhận DVXHCB là một bộ phận

cấu thành nên hệ thống ASXH. Chẳng hạn như ở Ấn Độ, khái niệm ASXH đã được

mở rộng hơn, bao gồm các điều khoản về nhà ở, nước uống an toàn, vệ sinh, y tế, cơ

sở giáo dục và văn hoá và cả mức lương tối thiểu đảm bảo NLĐ có cuộc sống tốt.15

1.1.2. Khái niệm dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an sinh xã hội

14 Ortiz, I., Schmitt, V. and De, L. (2018), 100 years of social protection: The road to universal social protection systems and floors,Volum 1: 50 country cases, Geneva: ILO, tr.8 15 Ministry of Labour and Employment and Rehabilitation, India (1969), Report of the Nation commission on labour, tr. 162;

1.1.2.1. Khái niệm dịch vụ xã hội

33

Từ điển tiếng Việt định nghĩa dịch vụ là các công việc phục vụ trực tiếp cho

những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công.16 Dịch vụ được

nghiên cứu ở nhiều ngành khác nhau như: kinh tế học, văn hóa học, luật học,

hành chính học đến khoa học quản lý. Do vậy mà dịch vụ có thể được hiểu theo

nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau.

Theo nghĩa rộng, dịch vụ chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của chúng

không tồn tại dưới hình dạng vật thể. Hoạt động dịch vụ bao trùm lên tất cả các

lĩnh vực với trình độ cao, chi phối rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã

hội, môi trường của từng quốc gia, khu vực nói riêng và toàn thế giới nói chung.

Với cách hiểu này thì dịch vụ có thể xuất hiện ở rất nhiều lĩnh vực, từ các lĩnh

vực truyền thống như: giao thông vận tải, du lịch, ngân hàng, thương mại, bao

hiểm, bưu chính viễn thông, văn hoá, hành hính, bảo vệ môi trường… Theo nghĩa

hẹp, dịch vụ là thực hiện một công việc nhằm đáp ứng một nhu cầu nào đó của

con người như: vận chuyển, sửa chữa và bảo dưỡng các thiết bị máy móc..

Theo các tác giả Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy thì dịch vụ

“là các hoạt động được tạo ra chung nhằm phục vụ lợi ích công cộng”.17 Kotler,

Bowen & Makens thì cho rằng “dịch vụ là bất kỳ hoạt động hoặc lợi ích nào mà

một bên cung cấp cho bên kia về cơ bản vô hình và không dẫn đến quyền sở hữu

bất cứ điều gì. Sản xuất có thể có hoặc không gắn với một sản phẩm vật lý”. Dịch

vụ là loại hàng hoá phi vật chất bởi những đặc trưng của nó như tính vô hình, tính

đồng nhất, tính không thể tách rời, tính biến đổi, tính không thể lưu giữ được.18

Như vậy, theo nghĩa chung nhất, dịch vụ được hiểu là những hoạt động

lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hoá tồn tại chủ yếu dưới

hình thái vô hình, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thoả mãn kịp

thời các nhu cầu sản xuất và đời sống của con người.

16 Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2004, tr.256 17 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal Basic Services: theory and practice 18 Philip Kotler, Gary Armstrong (1996), Principles of Marketing, Chương (2) 2, Nxb. Prentice Hall

Nếu như dịch vụ là một khái niệm đơn lẻ thì DVXH lại là một khái niệm

34

kép, bao gồm “dịch vụ” và “xã hội”. Thuật ngữ “xã hội” trong khái niệm này có

thể được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, nếu xét từ khía cạnh mục tiêu, nghĩa là

dịch vụ hướng tới phát triển xã hội. Thứ hai, nếu xét từ khía cạnh về chuẩn mực

hay tính xã hội thì DVXH cung cấp sự hỗ trợ cho các thành viên trong xã hội

nhằm: (i) chủ động phòng ngừa khả năng xảy ra rủi ro để bảo đảm giá trị và chuẩn

mực xã hội; (ii) khắc phục rủi ro và hòa nhập cộng đồng/xã hội trên cơ sở các giá

trị, chuẩn mực xã hội. Các DVXH là trọng tâm để tạo ra một xã hội quan tâm, hòa

nhập và hiệu quả. Mạng xã hội châu Âu (ESN) tin rằng điều này có nghĩa là coi

con người là trọng tâm của việc quản lý và cung cấp các DVXH19. DVXH theo

ILO bao gồm dịch vụ y tế, dự phòng y tế, dự phòng tai nạn, dịch vụ đặc biệt đối

với người tàn tật, người già yếu, bảo vệ trẻ em, kế hoạch gia đình20…

Như vậy, DVXH là những hoạt động đáp ứng các nhu cầu cộng đồng và cá

nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò đảm bảo phúc lợi và công bằng xã hội, đề

cao giá trị đạo lý, nhân văn, vì con người và là một trong những công cụ thực hiện

chính sách ASXH.

1.1.2.2. Khái niệm dịch vụ xã hội cơ bản

Dịch vụ xã hội rất rộng, bao trùm lên rất nhiều lĩnh vực của đời sống, vậy

những DVXH nào được coi là DVXHCB? DVXHCB (basic social services) được

xây dựng dựa trên nhu cầu cơ bản, thiết yếu của con người. Nhà tâm lý học người

Mỹ Abraham.Maslow chia nhu cầu thành 5 loại:

+ Nhu cầu vật chất (sinh lý) như: thức ăn, không khí, nước uống…

+ Nhu cầu an toàn (được bảo vệ) như: nhà ở, việc làm, sức khoẻ…

+ Nhu cầu giao tiếp xã hội: Tình thương yêu, được hoà nhập.

+ Nhu cầu được tôn trọng: Được chấp nhận có một vị trí trong một nhóm người…

+ Nhu cầu tự khẳng định mình: Nhu cầu hoàn thiện, được thể hiện khả năng và

19 https://www.esn-eu.org/about/what-are-types-social-services 20 Bộ Lao động thương binh và xã hội và ILO (1998), Cẩm nang ASXH, tập 1 và tài liệu phục vụ chương trình tập huấn phát triển chế độ BHXH.

tiềm lực của mình.

35

Có thể thấy, hai nhu cầu đầu tiên trong số năm nhu cầu trên được coi là nhu

cầu cơ bản, tối thiểu (nhu cầu cấp thấp) của mỗi con người, ba nhu cầu sau được

coi là nhu cầu cấp cao. Khi các nhu cầu tối thiểu này được đáp ứng thì sẽ xuất hiện

nhu cầu bậc cao. Nhu cầu của mỗi công dân, mỗi nhóm đối tượng khác nhau về

trình độ văn hoá, nhận thức, điều kiện, hoàn cảnh sống… cũng sẽ khác nhau.

Nghiên cứu chỉ ra rằng, tính phổ biến của nhu cầu phụ thuộc vào niềm tin rằng

nếu nhu cầu không được thỏa mãn thì sẽ dẫn đến tác hại nghiêm trọng do khách

quan mang lại. Các nhu cầu cơ bản là tiền đề chung để tham gia có hiệu quả vào

bất kỳ hình thức nào của đời sống xã hội. Chúng bao gồm các yếu tố vật chất-

nước, dinh dưỡng, nơi ở, giáo dục và chăm sóc sức khỏe; các yếu tố phi vật chất -

an toàn trong thời thơ ấu, các mối quan hệ chính yếu, an sinh về vật chất và kinh

tế; và bao trùm cả hai, một môi trường an toàn.21 Như vậy có thể thấy việc cung

cấp nhu cầu và nhu cầu của con người có mối liên hệ mật thiết và việc đáp ứng

nhu cầu cơ bản của con người mang ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống và sự phát

triển của con người.

Tương tự như sự phân tầng trong nhu cầu của con người, DVXH cũng được

phân tầng theo nhiều cấp khác nhau. Trong đó, DVXHCB là hệ thống cung cấp

dịch vụ nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của con người. Các DVXHCB

được UNDP, UNESCO, UNFPA, UNICEF và WHO giới thiệu tại Hội nghị

thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội ở Copenhagen vào tháng 5 năm 1995 "là

các hoạt động dịch vụ được cung cấp để đáp ứng nhu cầu tối thiểu của cuộc sống”.

DVXHCB được LHQ định nghĩa: là các hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu

cầu cho các đối tượng nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống22,

bao gồm:

- Giáo dục: mầm non, tiểu học, xoá mù chữ cho người lớn.

21 Gough, Ian (2019), Universal Basic Services: a theoretical and moral framework https://doi.org/10.1111/1467-923X.12706 22 UN – Africa Spending Less on Basic Social Services.

- Y tế: tất cả các hoạt động dịch vụ y tế - chăm sóc sức khoẻ ở tuyến cơ sở

36

gồm: (i) các trạm/ trung tâm y tế xã/phường; các phòng khám đa khoa khu vực;

các bệnh viện và trung tâm y tế quận/huyện; (ii) chăm sóc sức khoẻ ban đầu (tỉnh,

quận/huyện); (iii) y tế dự phòng: phòng dịch cho trẻ em, chăm sóc sau sinh con,

giáo dục y tế; (iv) các chương trình y tế công cộng: sức khoẻ bà mẹ và trẻ em,

bệnh sốt rét, bệnh lao, bệnh phong, thuốc và dược liệu cơ bản; vệ sinh phòng dịch.

- Chương trình quốc gia về dinh dưỡng

- Dân số và kế hoạch hoá gia đình

- Các dịch vụ xã hội: Cứu trợ thiên tai

- Nước sạch và vệ sinh môi trường: các dự án nước sạch nông thôn (bao gồm

cả những thị trấn có 30.000 dân trở xuống); Các dự án nước và vệ sinh ở các khu

vực ven đô.

Năm 2017, Viện Thịnh vượng Toàn cầu (Institute for Global Prosperity) đã

đưa ra những ý tưởng ban đầu về dịch vụ cơ bản phổ quát (Universal Basic

Services), theo đó đề xuất một loạt các dịch vụ công miễn phí cho phép mọi người

dân có một cuộc sống dài hơn bằng cách đảm bảo tiếp cận với các mức độ nhất

định về an sinh, cơ hội và sự tham gia. Theo nghiên cứu này, dịch vụ có nghĩa là

tập hợp các hoạt động phục vụ lợi ích công cộng. Cơ bản nghĩa là cần thiết và đủ

chứ không phải tối thiểu, làm cho con người thịnh vượng và tham gia vào xã hội.

Phổ quát có nghĩa là mọi người đều được hưởng các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của

họ, bất kể khả năng chi trả. Ngoài dịch vụ y tế và giáo dục công, các dịch vụ khác

được đề xuất thêm vào mô hình dịch vụ cơ bản phổ quát như nơi cư trú, dinh

dưỡng, giao thông và thông tin.23

Như vậy, chỉ một số DVXH được coi là DVXHCB. Nếu như DVXH rất

rộng, là hoạt động mang bản chất kinh tế - xã hội, do nhà nước, thị trường hoặc

xã hội dân sự cung ứng, bao gồm nhiều lĩnh vực như giáo dục – đào tạo, y tế, khoa

học – công nghệ, văn hoá – thông tin, thể dục - thể thao và các trợ giúp xã hội

23 Gough, Ian (2019), tlđd, tr. 9.

khác thì DVXHCB chỉ giới hạn ở những DVXH đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết

37

yếu nhất đối với sự phát triển, tồn tại của con người.

Quan niệm về nội dung của DVXHCB không giống nhau ở mỗi quốc gia,

tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, quan điểm khác nhau mà mỗi quốc gia quy

định khác nhau về các DVXH được coi là DVXHCB. Phạm vi, mức độ đáp ứng

DVXHCB ở mỗi quốc gia có thể thay đổi theo từng thời kỳ, từng giai đoạn phát

triển đất nước.

“Sàn an sinh xã hội” của LHQ nhấn mạnh đến các DVXH thiết yếu cho con

người, bao gồm: (i) Chăm sóc YTCB; (ii) Nước sinh hoạt hợp vệ sinh; (iii) nhà ở;

(iv) giáo dục; và (v) Các dịch vụ khác tùy theo ưu tiên của từng quốc gia. Quan

niệm về ASXH ở Ấn Độ đã được mở rộng hơn từ năm 2007 với các nội dung về

nhà ở, nước uống an toàn, vệ sinh, y tế, cơ sở giáo dục và văn hóa và cả mức lương

tối thiểu có thể đảm bảo cho NLĐ một cuộc sống tốt.24 Còn ở Nam Phi, DVXHCB

được quy định khá rộng với 08 loại dịch vụ, bao gồm: nhà ở, giáo dục, chăm sóc

sức khoẻ, phúc lợi xã hội, vận chuyển, điện và năng lượng, nước uống, vệ sinh và

rác thải, loại bỏ chất thải.25

Như vậy có thể thấy, DVXHCB được tiếp cận như quyền con người, mọi

người đều được đảm bảo tiếp cận một cách công bằng. Vì vậy, cần có một sự tập

trung đặc biệt để đảm bảo những người nghèo nhất, bị thiệt thòi hoặc những người

phải chịu nhiều hình thức phân biệt đối xử cũng được hưởng lợi từ các DVXHCB

và đều có thể tiếp cận dịch vụ thích hợp.26 Theo đó, các DVXHCB nên được quy

định nằm trong cấu phần của hệ thống ASXH quốc gia. Đây cũng là quan điểm

chung của Tổ chức Lao động quốc tế, LHQ và các quốc gia trên thế giới khi thừa

nhận DVXHCB là một trong những cấu phần, trụ cột chính của ASXH. Theo đó,

trụ cột này cung cấp cho các đối tượng trong xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu

24 Indian Government, Planning Commission Report of the Working Group on Social Security for the Eleventh Five Year Plan 2007-2012, tr.17 25 https://www.etu.org.za/toolbox/docs/government/basic.html#we, truy cập ngày 15/4/2022 26 Rachel Marcus, Laure-Hélène Piron, Tom Slaymaker (2004), Basic services and social protection

tối thiểu của cuộc sống, do vậy, có vai trò quan trọng và quyết định sự thành công

38

của các chính sách ASXH.27

Ở Việt Nam, DVXHCB lần đầu tiên được đề cập trong Chương trình hành

động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001-2010 và Chương trình mục tiêu

quốc gia giảm nghèo và việc làm 2001 - 2005, mục tiêu hỗ trợ người nghèo, hộ

nghèo và xã nghèo tiếp cận các DVXH. Từ đây, các chính sách công do Nhà nước

ban hành thường đặt ra mục tiêu bảo đảm khả năng tiếp cận các DVXHCB. Đồng

thời, việc tiếp cận DVXHCB cũng được coi là một trong các tiêu chí xác định tiêu

chuẩn nghèo đa chiều.28 Theo đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những

quốc gia đang phát triển đầu tư sớm vào các DVXH bên cạnh Trung Quốc, Cuba29.

DVXHCB được xác định là một bộ phận của hệ thống ASXH Việt Nam, là một

nhóm quyền con người được pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam ghi nhận,

đảm bảo thực hiện. DVXHCB ở Việt Nam bao gồm:

(i) DVXHCB về giáo dục: là các hoạt động giáo dục được thiết kế để mọi

người có được kiến thức và kỹ năng cần thiết để tồn tại, phát triển.30

(ii) DVXHCB về chăm sóc y tế: là các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản,

phòng bệnh, khám, chữa bệnh cơ bản;

(iii) DVXHCB về nhà ở: đảm bảo quyền cư trú, quyền tiếp cận nhà ở của người

dân;

(iv) DVXHCB về nước sạch: đảm bảo mọi người dân được quyền tiếp cận nước

sạch;

(v) DVXHCB về TCTT: đảm bảo mọi người dân được quyền tìm kiếm thông

tin, được cung cấp thông tin.

Như vậy, về cơ bản các nội dung DVXHCB ở Việt Nam được đánh giá là

27 Viện Khoa học lao động và xã hội (ILSSA) và GIZ, Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam, 2010. 28Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 19 tháng 11 năm 2015 về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020. 29 Santosh Mehrotra, Jan Vandemoortele and Enrique Delamonica (2002), Basic services for all? 30Tuyên bố thế giới về giáo dục cho tất cả mọi người được thông qua tại Hội nghị Thế giới về giáo dục cho tất cả mọi người (WCEFA) năm 1990

khá tương đồng với nội dung DVXHCB của các tổ chức quốc tế và Sáng kiến Sàn

39

ASXH của LHQ.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu DVXHCB là hệ thống các hoạt động

đảm bảo cá nhân, tổ chức được tiếp cận các dịch vụ thiết yếu như giáo dục, chăm

sóc sức khoẻ, nhà ở, nước sạch, tiếp cận thông tin… nhằm đảm bảo nhu cầu tối

thiểu, cơ bản nhất của người dân trong từng thời kỳ phát triển đất nước.

1.1.2.3. Đặc điểm của dịch vụ xã hội cơ bản

Với tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ thống ASXH, DVXHCB vừa

chứa đựng các đặc điểm chung của ASXH vừa mang các đặc điểm riêng biệt, đặc

trưng như:

- DVXHCB chủ yếu do nhà nước cung cấp hoặc cho phép cung cấp

Để đảm bảo sự phân phối công bằng và đảm bảo chất lượng dịch vụ,

DVXHCB phải được đảm bảo từ nhà nước. Hơn nữa, điều này cũng xuất phát từ

vai trò nòng cốt của chính phủ trong việc cung cấp “hàng hóa công”. Trong các

DVXHCB, y tế và giáo dục thường được coi là hàng hóa công, đặc biệt ở cấp độ

cơ bản vì chúng mang lại lợi ích cho tăng trưởng kinh tế và xã hội của một quốc

gia nói chung.31 Tương tự, quyền có nhà ở thích đáng (nơi cư trú)32, quyền về

nước33, đều là quyền con người được quy định trong Công ước quốc tế về các

quyền kinh tế, xã hội, văn hoá. Vì vậy, dịch vụ về nước, dịch vụ về nhà ở cũng

cần được nhà nước đảm bảo bằng cách nhà nước cung cấp hoặc hợp tác với tư

nhân để cung cấp. Thông qua việc cung cấp các dịch vụ, nhà nước đảm nhận trách

nhiệm chính trong việc bảo vệ lợi ích công nhằm cải thiện cuộc sống của người

dân cũng như phát triển kinh tế, xã hội.

Việc cung cấp DVXHCB của nhà nước thể hiện qua hoạt động phân bổ

ngân sách để đầu tư cho DVXHCB hoặc đẩy mạnh xã hội hoá huy động nguồn

31 Asian Development Bank Institute (2000), Public-Private Partnerships in the Social Sector: Issues and Country Experiences in Asia and the Pacific, Nxb. ADBI, tr.3 32 Bình luận chung số 4 của Uỷ ban các quyền về kinh tế, xã hội, văn hoá được thông qua tại phiên họp thứ 6 năm 1991 33 Bình luận chung số 15 của Uỷ ban các quyền về kinh tế, xã hội, văn hoá được thông qua tại phiên họp thứ 29 năm 2002

40

lực xã hội. Những DVXHCB nhà nước không trực tiếp cung cấp thì nhà nước có

nhiệm vụ quản lý và đảm bảo người dân được tiếp cận công bằng, bình đẳng, đảm

bảo chất lượng bằng cách uỷ quyền cho các doanh nghiệp cung cấp và không đặt

mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Như vậy, các DVXH do tư nhân cung cấp trên

cơ sở thỏa thuận dân sự và vì mục tiêu lợi nhuận không thuộc nội dung ASXH.

Theo nghiên cứu của Viện Thịnh vượng toàn cầu trong nghiên cứu “Sự thịnh

vượng xã hội trong tương lai: Một đề xuất cho việc phổ cập dịch vụ cơ bản” thì

hai tiêu chí đầu tiên của DVXHCB là tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã

hội duy trì sự an toàn về vật chất và có cơ hội đóng góp cho xã hội bằng sự nỗ lực

của chính bản thân các thành viên đó. Nghiên cứu này chỉ ra một tiêu chí thứ ba

của DVXHCB là có sự tham gia của hệ thống chính trị dân chủ khi cần thiết.34 Kết

luận này của nghiên cứu chứng minh rõ hơn lập luận DVXHCB là “luới an sinh”

ở tầng thấp đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người. Tuy nhiên, điều đó không

có nghĩa nhà nước phải có nghĩa vụ cung cấp tất cả các dịch vụ này cho người

dân, mà trong những trường hợp nhất định, nhà nước chỉ có nghĩa vụ đảm bảo

người dân được tiếp cận thông qua hoạt động ban hành chính sách, pháp luật, quản

lý, giám sát chất lượng dịch vụ. Chẳng hạn đối với quyền về nhà ở, Chính phủ

không bắt buộc phải cung cấp đủ nhà ở để hỗ trợ người dân, mà tập trung vào việc

ngăn chặn tình trạng vô gia cư, trục xuất và phân biệt đối xử và duy trì an ninh

cho quyền sở hữu.35 Còn về phía người dân, họ cũng có nghĩa vụ “đóng góp cho

xã hội bằng sự nỗ lực của bản thân” để tiếp cận DVXHCB.36

- DVXHCB có đối tượng phục vụ rộng rãi, bình đẳng.

Điều này xuất phát từ quyền tiếp cận DVXHCB là quyền con người mà đã

34 Institute for global prosperity (2017), Xã hội thịnh vượng trong tương lai: Một đề xuất cho các dịch vụ xã hội cơ bản, tr.11 35 Maria Massimo, Housing as a Right in the United States: Mitigating the Affordable Housing Crisis Using an International Human Rights Law Approach, tr.284 (2021) 36 Viện Thịnh vượng toàn cầu UCL (Institute for Global Prosperity) trong nghiên cứu “Sự thịnh vượng xã hội trong tương lai: Một đề xuất cho việc phổ cập dịch vụ cơ bản

là quyền con người thì mọi người dân đều được đảm bảo thụ hưởng. Hội nghị Lao

41

động quốc tế nhấn mạnh, ASXH là quyền cơ bản của con người và là phương tiện

cơ bản để tạo dựng vị thế xã hội, giúp đảm bảo hoà bình xã hội và hoà nhập xã hội.

Đối tượng phục vụ của DVXHCB là mọi người dân trên lãnh thổ không

phụ thuộc giới tính, tôn giáo, dân tộc, giàu nghèo…. Và mỗi người dân cần được

đảm bảo quyền tiếp cận DVXHCB một cách công bằng, không có sự phân biệt

đối xử với mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội. Nếu các nội dung khác của ASXH

như BHXH, BHYT hay trợ giúp xã hội chỉ đảm bảo quyền thụ hưởng giới hạn ở

một số nhóm đối tượng nhất định thì DVXHCB đảm bảo quyền thụ hưởng cho

mọi người dân. Chẳng hạn các dịch vụ khác như BHXH, BHYT của ASXH đảm

bảo quyền lợi cho người tham gia đóng phí bảo hiểm khi đáp ứng các điều kiện

nhất định, hay trợ giúp xã hội đảm bảo hỗ trợ cho nhóm người có hoàn cảnh khó

khăn. Ngược lại DVXHCB mang tính phổ quát, được cung cấp cho mọi người

dân, không có sự phân biệt, không đặt ra tiêu chí loại trừ đối tượng. Ý tưởng về

dịch vụ cơ bản phổ quát của Viện Thịnh vượng Toàn cầu vào năm 2017 kêu gọi

sự chia sẻ nguồn lực và cùng nhau hành động để đối phó với những rủi ro và các

vấn đề mà con người không thể đối phó một mình. Điều này cũng được phản ánh

trong mục tiêu lâu dài của liên minh Châu Âu về “gắn kết” kinh tế và xã hội: kết

hợp nền kinh tế thị trường tự do với cam kết về các giá trị đoàn kết nội tại và hỗ

trợ lẫn nhau, đảm bảo quyền tiếp cận cởi mở cho tất cả các thành viên trong xã

hội.37

- Dịch vụ xã hội cơ bản tác động đến sự phát triển con người

Đặc điểm này xuất phát từ vai trò của DVXHCB đối với tất cả các giai đoạn

phát triển trong vòng đời của con người. DVXHCB đáp ứng bậc nhu cầu tối thiểu

trong các bậc nhu cầu từ thấp đến cao của con người. Các nhu cầu tối thiểu, cơ

bản nhất được cung cấp sẽ đảm bảo con người được phát triển toàn diện về thể

37 Gough, Ian (2019), Dịch vụ cơ bản phổ quát: khung lý thuyết và đạo đức https://doi.org/10.1111/1467- 923X.12706

chất lẫn tinh thần. Thật vậy, DVXHCB về giáo dục cung cấp cho con người kiến

42

thức cơ bản để có thể làm việc, phát triển bản thân. Người dân được tiếp cận

DVXHCB về giáo dục đầy đủ sẽ là chìa khóa để giải quyết vấn đề việc làm. Hay

nói cách khác, đảm bảo DVXHCB cũng gián tiếp đảm bảo dịch vụ việc làm. Chăm

sóc YTCB giúp con người được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khoẻ từ khi còn

trong bụng mẹ đến giai đoạn tuổi già. DVXHCB về nước sạch, nhà ở tác động đến

điều kiện sống của con người, giúp con người có môi trường sống an toàn để

phòng ngừa bệnh tật và phát triển toàn diện, còn DVXHCB về TCTT sẽ đảm bảo

con người có được thông tin cần thiết để tiếp cận tốt hơn các DVXHCB khác. Hay

nói cách khác, mỗi DVXHCB đều có ý nghĩa và có tác động mạnh mẽ đến quá

trình phát triển và hoàn thiện của mỗi con người.

Số lượng, chất lượng DVXHCB được thể hiện ở quy mô, phạm vi bao phủ

và mức độ đáp ứng nhu cầu đối tượng thụ hưởng, hiệu quả tác động đến sự phát

triển của cá nhân và xã hội trong quá trình lâu dài. DVXHCB tác động đến sự phát

triển con người, nó đáp ứng nhu cầu thụ hưởng của con người trong suốt các giai

đoạn của cuộc đời. Vì vậy, quy mô, phạm vi và mức độ đáp ứng của DVXHCB

càng cao càng thể hiện quy mô và chất lượng của hệ thống ASXH. Số lượng, phạm

vi DVXHCB ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia

đó theo từng giai đoạn phát triển. Điều đó có nghĩa, số lượng DVXHCB càng mở

rộng, chất lượng càng cao sẽ thể hiện sự phồn thịnh của quốc gia, của xã hội.

Đây cũng là một trong những đặc trưng của DVXHCB, phân biệt

DVXHCB với các DVXH khác và với các cấu phần khác của ASXH. Chẳng hạn

BHXH có ý nghĩa trong việc bảo vệ thu nhập cho NLĐ trong những trường hợp

nhất định hay BHYT có ý nghĩa trong việc giảm bớt gánh nặng chi phí khám, chữa

bệnh, điều trị cho đối tượng tham gia. BHXH và BHYT được thực hiện dựa trên

nguyên tắc đóng - hưởng và người tham gia được hưởng chế độ BHXH, được hỗ

trợ chi phí khám, chữa bệnh khi đáp ứng điều kiện nhất định. Hoặc trợ giúp xã hội

chỉ trợ giúp cho một số nhóm đối tượng nhất định. Trong khi đó, DVXHCB đáp

ứng nhu cầu tối thiểu cho mọi người dân từ giai đoạn đầu của sự phát triển đến

43

khi trưởng thành và tuổi già.

1.1.3. Vai trò của dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an sinh xã hội

Dịch vụ xã hội cơ bản có vai trò rất quan trọng trong hệ thống các DVXH

nói chung cũng như hệ thống an sinh xã hội bởi các hoạt động giúp người dân tiếp

cận hệ thống DVXHCB là những hoạt động đầu tiên, thiết yếu và cơ bản nhất. Vai

trò của DVXHCB được thể hiện rõ nét không chỉ đối với sự phát triển con người

mà còn đóng góp cho sự phát triển công bằng, tiến bộ của xã hội, của hệ thống

ASXH mỗi quốc gia.

- DVXHCB giúp cải thiện tình trạng nghèo đói

DVXHCB đóng vai trò trong việc giải quyết tất cả các hình thức nghèo đói

và có vai trò quan trọng ở các giai đoạn vòng đời dễ bị tổn thương như giai đoạn

thời thơ ấu (bao gồm cả giai đoạn thai kỳ), thời kỳ thiếu niên và tuổi già.38 Điều

này được minh chứng ở mỗi DVXHCB, cụ thể:

Giáo dục trong những năm đầu đời có vai trò to lớn đối với sự phát triển

của một đứa trẻ và đối với cả một thế hệ tương lai của xã hội, nó mở ra con đường

cho những cơ hội cũng như sự tiến bộ, cải thiện bản thân. Giáo dục cơ bản làm gia

tăng cơ hội tìm kiếm việc làm, nhất là trong thời kỳ phát triển kỹ thuật công nghệ

mạnh mẽ như hiện nay. Giáo dục cơ bản sẽ giúp người học có kiến thức và biết

cách thức sử dụng Internet, phần mềm và công nghệ khác phục vụ cho công việc,

từ đó giúp giảm tình trạng nghèo đói triền miên giữa các thế hệ.

Tương tự, YTCB, nước hợp vệ sinh, nhà ở có vai trò quan trọng trong suốt

các giai đoạn của đời người. Nó có thể chống lại những tổn thương về thể chất và

dinh dưỡng của trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai thông qua các dịch vụ như tiêm chủng,

bổ sung vi chất dinh dưỡng, chăm sóc chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế… hay sự bảo

vệ khi sức khoẻ của con người suy yếu vì tuổi già. YTCB cũng giúp giảm tình

trạng đói nghèo, thực tế cho thấy, những cú sốc về sức khoẻ như ốm đau nghiêm

38 Rachel Marcus, Laure-Hélène Piron, Tom Slaymaker (2014), Các dịch vụ xã hội và bảo trợ xã hội, tr.3

trọng, thương tật sẽ tốn kém chi phí điều trị cũng như ảnh hưởng đến khả năng

44

tham gia vào các hoạt động sinh kế của người đó và là một trong những nguyên

nhân chính của đói nghèo. Kể từ khi ILO được thành lập vào năm 1919, tổ chức

này đã nhấn mạnh vai trò của bảo vệ sức khỏe xã hội trong việc giảm nghèo, tạo

thu nhập và gia tăng sự giàu có.39 Do đó, tiếp cận hiệu quả YTCB có thể ngăn

chặn sự nghèo nàn. Nước sạch không những đảm bảo sức khoẻ cho người dân mà

còn được coi là một loại tài sản sản xuất khi kết hợp với các tài sản khác để sản

xuất ra thực phẩm và phi thực phẩm phục vụ cho con người40 và tạo ra thu nhập.

DVXHCB giúp người nghèo thoát nghèo nếu được đáp ứng đầy đủ. Lý do

là DVXHCB giúp người nghèo làm việc hiệu quả hơn và mang lại cho họ những

cơ hội mới để tạo ra thu nhập thiết yếu, từ đó họ có thể thoát nghèo và sống một

cuộc sống đầy đủ.41 Chính sách dịch vụ cơ bản phổ quát (universal basic services-

UBS) hiện đang được nghiên cứu, đề xuất thay thế cho chính sách thu nhập cơ bản

phổ quát (universal basic income - UBI) vì hiệu quả của nó trong việc giúp người

dân thoát khỏi cảnh nghèo túng. Thu nhập cơ bản phổ quát còn được gọi là thu

nhập của công dân, thu nhập tối thiểu được đảm bảo hay thu nhập cơ bản. Nó là

khoản thu nhập mà chính phủ cung cấp cho người dân nhằm trang trải chi phí sinh

hoạt cơ bản và đảm bảo tài chính cho họ.42 Chính sách thu nhập cơ bản phổ quát

được xây dựng với mục đích làm giảm hoặc tránh tình trạng nghèo đói của người

dân và mang đến một xã hội phát triển bền vững. Tuy nhiên, thực tế chính sách

này không thực sự mang lại hiệu quả. Bởi nó chỉ giúp giảm nghèo nếu nó được

xác lập ở mức cao nhưng nếu nó cao: công việc sẽ giảm, sự phục tùng sẽ giảm

và/hoặc giá cả của dịch vụ tăng. Trong khi đó, dịch vụ cơ bản thực sự mang lại

một sự hứa hẹn về một mức sàn chung cho tiêu chuẩn sống của bất kỳ công dân

39 ILO, Bảo vệ sức khoẻ xã hội, một chiến lược của ILO về tiếp cận phổ quát chăm sóc sức khoẻ (Social Health Protection. An ILO strategy towards universal access to health care), 2008. 40 Rachel Marcus, Laure-Hélène Piron, Tom Slaymaker, tlđd, 10, 5, 8 41 McGuire, J. (2010), Phân cấp để đáp ứng nhu cầu cơ bản: Hướng dẫn kinh tế cho các nhà hoạch định chính sách (tái bản lần 2), Nxb. Information Age. 42 Kimberly Amadeo, Thu nhập cơ bản phổ quát là gì? Ưu, nhược điểm của đảm bảo thu nhập, ngày 11 tháng 5 năm 2021, https://www.thebalance.com/universal-basic-income-4160668

nào, thay thế chi phí sinh hoạt cho những người sử dụng dịch vụ và làm gia tăng

45

khoản tiền tích luỹ.43 Như vậy, DVXHCB còn được đánh giá trong vai trò khắc

phục những lỗ hổng mà chính sách thu nhập cơ bản phổ quát mang lại. Một nền

tảng dịch vụ cơ bản làm hiện thực hoá sự hứa hẹn về một mức lương cơ bản nguỵ

tạo.44

- DVXHCB nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân và góp phần phát

triển kinh tế đất nước bền vững

Chất lượng cuộc sống có mối liên hệ với các nhu cầu cơ bản như giáo dục,

dinh dưỡng, sức khoẻ, nhà ở, nước sạch, giao thông.45 Do đó, đảm bảo các nhu

cầu cơ bản là nền tảng đảm bảo chất lượng cuộc sống, phạm vi DVXHCB được

đáp ứng càng rộng và ở mức độ càng cao thì chất lượng cuộc sống càng được cải

thiện. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng cuộc sống, DVXHCB còn góp phần phát

triển kinh tế bền vững. Thật vậy, những người khoẻ mạnh, được giáo dục tốt có

xu hướng làm việc hiệu quả hơn và thu nhập cao hơn. Từ đó, họ sẽ chi nhiều hơn

(trực tiếp hoặc thông qua thuế) cho giáo dục cũng như các dịch vụ thiết yếu khác

như nước sạch, nhà ở, thông tin truyền thông và như vậy chất lượng cuộc sống của

họ được đảm bảo và nâng cao. Ở cấp độ quốc gia, một dân số khỏe mạnh, có trình

độ học vấn tốt, quốc gia đó sẽ tăng trưởng kinh tế tốt và tạo nên một nền kinh tế

có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.46

- DVXHCB tạo ra công bằng xã hội, tăng cường sự gắn kết của toàn xã hội

Việc tiếp cận DVXHCB một cách phổ quát tạo ra một mức sàn chung cho

xã hội bằng cách bảo đảm tiêu chuẩn sống tối thiểu. Mô hình dịch vụ nâng cao

cũng có khả năng tăng cường sự gắn kết xã hội, cho phép chấp nhận các giới hạn

43 Institute for global prosperity (2017), tlđd, 17, 13 44 Institute for global prosperity (2017), tlđd 17, 10 45 Ha Thi Hai Do, Nui Dang Nguyen, Anh Ngoc Mai, Duc Minh Phung (2020), Assessment of basic social services coverage on life quality for ethnic minorities in Vietnam, International magazine of innovation, Vol.13. No.10 46 Asian Development Bank Institute (2000), Đối tác công – tư trong khu vực xã hội – Các vấn đề và kinh nghiệm các quốc gia Châu Á, Thái Bình Dương, Nxb. ADBI, tr.16

đặt ra trước những thách thức về tài chính, già hóa, năng suất và suy thoái môi

46

trường.47 Mục tiêu của chính sách phổ quát dịch vụ cơ bản là kêu gọi thực hành

và chính sách tập thể, theo hướng chia sẻ nguồn lực và cùng nhau hành động để

đối phó với những rủi ro và vấn đề mà mọi người không thể đối phó một mình.

Tinh thần đoàn kết mà DVXHCB tạo ra là một quá trình toàn diện bởi nó không

chỉ là sự tương hỗ lẫn nhau giữa các nhóm người thân quen mà quan trọng hơn là

giữa những người xa lạ.48

- DVXHCB làm giảm sự bất bình đẳng về thu nhập của người dân

DVXHCB góp phần làm giảm chi phí sinh hoạt49 và giảm bớt sự bất bình

đẳng về thu nhập bằng cách cung cấp “lương xã hội” (social wage).50 Giá trị của

các dịch vụ công miễn phí và dễ tiếp cận đối với cá nhân người nhận thường được

gọi là "lương xã hội" vì nó thay thế các chi phí mà cá nhân đó sẽ phải trả từ thu

nhập cá nhân nếu các dịch vụ công không miễn phí. Những người có thu nhập

thấp sẽ phải tiêu dùng phần lớn thu nhập của họ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản

nếu các dịch vụ công không được cung cấp. Một nghiên cứu ở các nước OECD

cho thấy người nghèo sẽ phải dùng ¾ thu nhập nếu chi trả trực tiếp cho các dịch

vụ thiết yếu.51 Do đó, khoản chi tiêu của nhà nước cho DVXHCB mang lại lợi ích

cho người dân được coi như cung cấp cho người dân một khoản “lương xã hội”.

- DVXHCB góp phần giúp nâng cao năng lực của con người

Thật vậy, các DVXHCB có mối quan hệ tương hỗ, bổ trợ lẫn nhau. Giáo

dục cơ bản nâng cao năng lực của con người và khuyến khích sự tham gia tích cực

hoặc sẵn sàng vào các hoạt động phát triển.52 Hoặc, đảm bảo quyền TCTT có thể

thúc đẩy cơ quan nhà nước, chủ thể có thẩm quyền phản ứng và hành động một

47 Institute for global prosperity (2017),tlđd, 10, 10 48 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Dịch vụ cơ bản phổ quát: lý thuyết and thực tiễn, Báo cáo của Viện Thịnh vượng Toàn cầu 49 Institute for global prosperity (2017),tlđd, 10, 6 50 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), tlđd, 20 51 G. Verbist, M. F. Förster & M. Vaalavuo (2012), Tác động của các dịch vụ được cung cấp công khai về phân phối tài nguyên, OECD social, employment and migration working paper no.130 52 Viện Hợp tác quốc tế -Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Phương pháp tiếp cận để lập kế hoạch có hệ thống cho các dự án phát triển (Approaches for Systematic Planning of Development Projects), Tr. 27, 2002

cách nhanh chóng hơn với các vấn đề đang tồn tại trong xã hội mà có ảnh hưởng

47

đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Việc TCTT cũng có thể giúp

cho người dân tiếp cận các thông tin về chính sách của nhà nước, địa phương trong

lĩnh vực giáo dục, y tế, nhà ở… để nắm bắt quyền và nghĩa vụ, cơ hội tiếp cận với

các DVXHCB khác. Ngược lại, việc tiếp cận DVGDCB một cách hiệu quả cũng

giúp người dân có khả năng tìm kiếm được công việc với mức thu nhập tốt. Từ

đó, họ có khả năng tiếp cận các DVXHCB khác tốt hơn như chăm sóc YTCB, có

khả năng chi trả chi phí sử dụng nước sạch, có khả năng TCTT tốt hơn.

1.2. Pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản

1.2.1. Khái niệm pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản

ASXH luôn là nội dung quan trọng được hệ thống pháp luật của các quốc

gia ghi nhận và điều chỉnh. Tuy nhiên, tùy thuộc vào quan điểm chính trị, trình độ

phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi giai đoạn mà pháp luật các nước quy định khác

nhau về ASXH cũng như nội hàm của ASXH. Ở Anh, những manh nha về ASXH

đã xuất hiện thông qua việc Chính phủ Anh công bố “Luật cứu tế mới” năm 1834.

Luật này công nhận cứu trợ xã hội như một lưới đỡ thấp nhất trong hệ thống ASXH

và lần đầu tiên trên thế giới hệ thống ASXH đã được thực hiện dựa trên luật pháp,

được điều tiết bởi luật pháp. Đến năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã

thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị

giảm thu nhập vì bệnh tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu

hình thức này chỉ áp dụng đối với giới thợ nhưng sau đó được mở rộng ra cho các

trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Sau đó, vào những năm 80 của

thế kỷ 19, ASXH (lúc này là BHXH) đã mở ra hướng mới, các hình thức bảo hiểm

lúc này mang tính bắt buộc và không chỉ mỗi NLĐ đóng góp mà có sự tham gia

của ba bên (giới chủ, giới thợ và nhà nước). Sau đó, mô hình này của Đức đã lan

dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào

53 Hồ Diệu Mai, Vai trò của Nhà nước trong chính sách an sinh xã hội, kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/vai-tro-cua-nha-nuoc-trong-chinh-sach-an-sinh-xa-hoi-kinh- nghiem-va-bai-hoc-cho-viet-nam-48427.htm, truy cập ngày 5/8/2020

những năm 30 của thế kỷ XX.53 Ngoài BHXH, các hình thức truyền thống về

48

tương tế, cứu trợ xã hội cũng tiếp tục phát triển để giúp đỡ những người có hoàn

cảnh khó khăn, như những người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người

goá bụa và những người không may gặp rủi ro vì thiên tai, hoả hoạn... Các DVXH

như dịch vụ y tế, dự phòng tai nạn, dự phòng y tế tái thích ứng; dịch vụ đặc biệt

cho người tàn tật, người già, bảo vệ trẻ em... được từng bước mở rộng ở các nước

theo những điều kiện tổ chức, chính trị, kinh tế - xã hội, tài chính và quản lý khác

nhau. Hệ thống ASXH được hình thành và phát triển rất đa dạng dưới nhiều hình

thức khác nhau ở từng quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử.

Năm 1935, Mỹ đã đưa ra đạo luật về ASXH, đạo luật này quy định thực

hiện chế độ bảo vệ tuổi già, chế độ tử tuất, tàn tật và trợ cấp thất nghiệp. Thuật

ngữ ASXH được chính thức sử dụng. Đến năm 1941, ASXH lại xuất hiện trong

Hiến chương Đại Tây Dương. Sau đó ILO đã chính thức sử dụng cụm từ này cho

đến nay trong các công ước của mình. Đặc biệt, năm 1952 Hội nghị quốc tế về lao

động đã thông qua Công ước số 152 - Công ước quy định các quy phạm tối thiếu

về ASXH. ILO cũng đã thừa nhận ASXH là một trong những nguyện vọng sâu

sắc nhất, phổ biến nhất của mọi dân tộc trên thế giới và được ghi nhận trong Tuyên

ngôn của Đại hội đồng LHQ về quyền con người. ASXH đã được tất cả các nước

thừa nhận là quyền con người. Nội dung của ASXH đã được ghi nhận trong Tuyên

ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948.

Trong bản Tuyên ngôn có viết: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã

hội có quyền hưởng ASXH. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về

kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người...”.

Ngày 25/6/1952, Hội nghị toàn thể của ILO đã thông qua Công ước số 102, được

gọi là Công ước về ASXH (tiêu chuẩn tối thiểu) trên cơ sở tập hợp các chế độ về

ASXH đã có trên toàn thế giới thành 09 bộ phận.

Cụ thể hơn, LHQ đã ban hành Khuyến Nghị R202 - Sàn ASXH. Theo ILO

thì sàn ASXH chính là hệ thống các chính sách nhằm giúp người dân được quyền

tiếp cận tới rổ hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và chuyển nhượng thu nhập cơ bản theo

49

chuẩn quốc gia đảm bảo người dân được cung cấp đầy đủ lương thực thực phẩm,

được chăm sóc y tế, được giáo dục, được dùng nước sạch và có nhà ở. Hội nghị

Lao động quốc tế nhấn mạnh, ASXH là quyền cơ bản của con người và là phương

tiện cơ bản để tạo dựng vị thế xã hội, qua đó giúp đảm bảo hòa bình và hòa nhập

xã hội. Nó là một phần không thể thiếu trong chính sách xã hội của chính phủ và

là một công cụ quan trọng để ngăn ngừa và xóa đói giảm nghèo. Do đó khái niệm

ASXH với tư cách là quyền con người bắt nguồn từ Tuyên ngôn thế giới về quyền

con người.54 Các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền ASXH.

Theo đó, pháp luật ASXH về DVXHCB của quốc gia cần được xây dựng theo

hướng đảm bảo đầy đủ ba nghĩa vụ trên. Nghĩa vụ tôn trọng yêu cầu quốc gia

không được từ chối hay hạn chế người nào tiếp cận DVXHCB. Mở rộng khả năng

tiếp cận phổ cập các dịch vụ cơ bản cũng là cách hiệu quả nhất để tăng cường hàng

hóa công, cái mà cả xã hội và nền kinh tế đều phụ thuộc vào. Những lợi ích mang

lại từ việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng xã hội lớn hơn nhiều so với những lợi ích nhắm

vào cá nhân.55 Nghĩa vụ bảo vệ đòi hỏi các quốc gia đảm bảo sự bình đẳng trong

tiếp cận DVXHCB cho dù các dịch vụ này do nhà nước hay tư nhân cung cấp.

Nghĩa vụ thực hiện yêu cầu pháp luật các quốc gia công nhận quyền tiếp cận

DVXHCB và thực hiện các biện pháp đảm bảo thực hiện quyền này trên thực tế.

Các biện pháp tiền mặt hoặc hiện vật, cho phép các cá nhân và gia đình được chăm

sóc sức khỏe thiết yếu, nơi cư trú cơ bản và nhà ở, nước và vệ sinh, thực phẩm và

giáo dục tối thiểu.

Bên cạnh đó, khi xây dựng pháp luật ASXH về DVXHCB cần thể hiện rõ

quy định thể hiện tính sẵn có của các DVXHCB, đồng thời khẳng định nhà nước

đảm bảo người dân được tiếp cận DVXHCB như một quyền con người cơ bản.

54 Kanak Kanthi Bagchi and Nirupam Gobi, Social Security for Unorganised Workers in India (Gurgaon: Madhav Books) 2012 Edition tr.1. 55 Institute for global prosperity (2017), Social prosperity for the future:A proposal for Universal Basic Services, tr.6

Trong đó có những quy định riêng đảm bảo tiếp cận DVXHCB của nhóm dễ bị

50

tổn thương (trẻ em, người khuyết tật, người nghèo…). Tính sẵn có của DVXHCB

liên quan mật thiết đến vấn đề tài chính đảm bảo cho DVXHCB. Sách Trắng năm

1998 về Chính quyền địa phương56 của Nam Phi nhấn mạnh tầm quan trọng của

việc đảm bảo các dịch vụ cơ bản có giá cả phải chăng để đạt được mục tiêu tiếp

cận toàn dân. Sách Trắng cũng nhấn mạnh thêm, mỗi đô thị có trách nhiệm đảm

bảo thuế quan được đặt ở mức giá cả phải chăng “Khả năng tiếp cận được liên kết

chặt chẽ với khả năng chi trả. Ngay cả khi cơ sở hạ tầng dịch vụ đã có, các dịch

vụ vẫn có thể nằm ngoài tầm với của nhiều người trừ khi các dịch vụ này có khả

năng chi trả về mặt tài chính”. Như vậy, có thể thấy, vấn đề tài chính có vai trò

quan trọng quyết định trong việc đảm bảo tiếp cận DVXHCB của người dân. Điều

này một lần nữa được ILO khẳng định khi xây dựng Sàn bảo trợ xã hội đã xác

định các yếu tố chính là: (1) các dịch vụ thiết yếu: tức là khả năng tiếp cận về địa

lý và tài chính đối với các dịch vụ thiết yếu (như nước và vệ sinh, dinh dưỡng đầy

đủ, y tế và giáo dục, nhà ở, và các dịch vụ khác bao gồm thông tin về cuộc sống

và tiết kiệm tài sản); và (2) chuyển giao xã hội thiết yếu: tức là chuyển giao xã

hội, bằng tiền và hiện vật, được trả cho người nghèo và dễ bị tổn thương để mang

lại thu nhập tối thiểu và đảm bảo an toàn sức khỏe.57

Phù hợp với quan điểm của LHQ, các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên

thế giới, Việt Nam cũng xác định tiếp cận DVXHCB là quyền con người được

đảm bảo. Nhất quán với nguyên tắc tất cả vì tự do và hạnh phúc nhân dân, Ðảng

và Nhà nước ta vừa không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo tiền đề pháp

lý bảo đảm quyền con người, vừa luôn xây dựng các chính sách cụ thể để từng

bước cải thiện, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Có thể nói, cơ sở nền

tảng của việc xây dựng hệ thống pháp luật ASXH nói chung và pháp luật ASXH

về DVXHCB nói riêng ở Việt Nam được tiếp cận từ hệ thống pháp luật về quyền

56 https://www.cogta.gov.za/cgta_2016/wp-content/uploads/2016/06/whitepaper-on-loca-gov.pdf 57 ILO (2009), Social Protection Floor Initiative

con người thể hiện sự phù hợp về nhận thức và phù hợp với chuẩn mực quốc tế

51

cũng như xu hướng của các nước trên thế giới.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu pháp luật ASXH về DVXHCB là tổng

hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh quan hệ xã hội hình

thành trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản, thiết yếu như giáo dục cơ bản, chăm

sóc y tế cơ bản, nhà ở, nước sạch, tiếp cận thông tin… nhằm đảm bảo nhu cầu tối

thiểu, cơ bản của người dân trong từng thời kỳ phát triển đất nước.

Pháp luật ASXH về DVXHCB là sự thể hiện rõ rệt thái độ tích cực của nhà

nước và tạo hành lang pháp lý đảm bảo các nhu cầu tối thiểu và thiết yếu cho

người dân. Đảm bảo tiếp cận DVXHCB chặt chẽ và công bằng góp phần thu hẹp

khoảng cách, sự chênh lệch mức sống giữa các thành viên trong xã hội. Pháp luật

ASXH về DVXHCB là chế định quan trọng, tạo cơ sở pháp lý để nhà nước, với

chức năng quản lý của mình, thông qua hệ thống các cơ quan, tổ chức hiện thực

hoá quy định pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật ASXH về DVXHCB

thể hiện sự tương đồng, theo kịp xu hướng quốc tế khi mà điều kiện sống và các

giá trị, phẩm giá, sự bình đẳng của con người ngày càng được đề cao.

1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật an sinh xã hội về dịch vụ xã hội cơ

bản

Pháp luật ASXH về DVXHCB với tư cách là một bộ phận cấu thành hệ

thống pháp luật ASXH đảm bảo các nguyên tắc sau đây:

1.2.2.1. Nguyên tắc mọi người dân đều có quyền tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản

Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất xã hội của ASXH và từ đặc trưng của

DVXHCB là cung cấp nhu cầu tối thiểu và cơ bản cho sự tổn tại, phát triển của

con người. Quyền hưởng ASXH nói chung và quyền tiếp cận DVXHCB nói riêng

không loại trừ bất kỳ thành viên nào trong xã hội. Theo ILO, ASXH là nhu cầu cơ

bản của tất cả mọi người không phụ thuộc vào công việc mà họ đang làm việc và

58 Meenakshi Gupta, Labour Welfare and Social Security in Unorganized Sector (New Delhi: Deep & Deep Publications) Bản 2007, tr. 90.

sinh sống. Nó nên được bắt đầu từ khi sinh ra và sẽ tiếp tục cho đến khi chết.58

52

Pháp luật quốc tế cũng thừa nhận quyền hưởng ASXH của con người như một

quyền con người cơ bản. Tuyên bố thế giới về nhân quyền năm 1948 của LHQ tại

Điều 25 cũng ghi nhận: “Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống phù

hợp với sức khoẻ và sự no ấm cho bản thân và gia đình bao gồm: thực phẩm, quần

áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết…”. Ở góc độ quốc gia, quyền hưởng

ASXH được ghi nhận trong Hiến pháp tại Điều 34 quy định: “Công dân có quyền

được đảm bảo an sinh xã hội”. Cùng với đó, quyền tiếp cận DVXHCB được khẳng

định trong một loạt các quy định của Hiến pháp năm 2013 như: Điều 22, 23 (quyền

có nơi cư trú), Điều 25 (quyền tiếp cận thông tin), Điều 38 (quyền được chăm sóc

sức khoẻ), Điều 39 (quyền được học tập).

Nguyên tắc này thể hiện trước hết thông qua việc DVXHCB có tính phổ

quát. Là một cấu phần của hệ thống ASXH, DVXHCB có đối tượng phục vụ rộng

rãi, bình đẳng, mọi người dân đều được quyền tiếp cận DVXHCB không có sự

phân biệt dựa trên bất kỳ yếu tố nào. Tiếp cận phổ quát các DVXH cũng là một

nguyên tắc chính về quyền con người và là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát

triển con người một cách công bằng.59 Theo đó, bất kể thành viên nào trong xã hội

cũng được tiếp cận DVXHCB. Điều này không có nghĩa tất cả DVXHCB đều do

nhà nước cung cấp và miễn phí cho công dân của mình mà có nghĩa là mọi công

dân đều được nhà nước tạo điều kiện tiếp cận DVXHCB thông qua các phương

thức khác nhau tuỳ thuộc mỗi quốc gia ở mỗi giai đoạn lịch sử. Mức độ hỗ trợ của

nhà nước cũng được thực hiện khác nhau tuỳ thuộc vào mỗi loại DVXHCB nhưng

nhìn chung nhà nước đảm bảo các điều kiện về tính sẵn có để người dân có thể

tiếp cận DVXHCB một cách thuận lợi. Ngoài ra, mỗi quốc gia sẽ có quy định khác

nhau về đối tượng được tiếp cận DVXHCB dựa trên những điều kiện nhất định.

Những điều kiện này có thể là điều kiện về quốc tịch, nơi cư trú.

Nguyên tắc mọi người dân đều có quyền tiếp cận DVXHCB còn thể hiện

59 UNDP, Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người, Báo cáo Quốc gia về Phát triển Con người năm 2011

thông qua việc DVXHCB phải được tiếp cận công bằng. DVXHCB dù được cung

53

cấp bởi nhà nước hay chủ thể khác ngoài nhà nước thì người dân đều phải được

tiếp cận nó một cách bình đẳng và không phân biệt đối xử. Tiếp cận bình đẳng có

nghĩa là xoá bỏ các rào cản về hành chính, địa lý, chính trị và tài chính, với sự

đảm bảo tất cả các cộng đồng không phân biệt dân tộc, tôn giáo, đảng phái chính

trị đều được cung cấp và đảm bảo quyền tiếp cận.60 Chẳng hạn, công bằng về nhà

ở được hiểu là trong xã hội hiện đại, mọi người phải được đối xử bình đẳng và

sống có phẩm giá, không phân biệt lợi ích cá nhân, chức năng thể chất và tinh

thần, giới tính, tuổi tác, đặc điểm gia đình và văn hóa dân tộc. Hay nói cách khác,

không để tình trạng có người không có nơi ở, hoặc sống trong những ngôi nhà tồi

tệ hơn những tiêu chuẩn dân cư thấp nhất.61 Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, đối với

một số nhóm đối tượng yếu thế như trẻ em, người nghèo, người khuyết tật… pháp

luật có những quy định riêng về ưu đãi, hỗ trợ nhằm đảm bảo nhóm đối tượng này

không bị bỏ sót trong việc tiếp cận DVXHCB. Những quy định này mặc dù hướng

đến một số nhóm đối tượng nhất định với những điều kiện nhất định nhưng không

phải là sự bất bình đẳng mà càng thể hiện rõ hơn nguyên tắc này khi xây dựng và

thực thi pháp luật.

1.2.2.2. Nguyên tắc kết hợp hài hoà giữa chính sách kinh tế và xã hội trong việc

quy định và thực hiện an sinh xã hội về dịch vụ xã hội cơ bản

Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của DVXHCB là vừa mang bản chất

kinh tế vừa mang bản chất xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các lợi ích chung

mà dịch vụ công đem lại thể hiện dưới hình thức “hàng hoá công cộng”62 và việc

cung ứng các DVXHCB vẫn thuộc ngành kinh tế dịch vụ trong cơ cấu ngành của

quốc gia. Vì vậy, việc cung ứng dịch vụ từ việc lựa chọn sản phẩm dịch vụ đến

60https://www.usip.org/guiding-principles-stabilization-and-reconstruction-the-web-version/stable- governance/provision-esse, truy cập ngày 9/12/2021 61 China Association for Human Rights Studies (2015), Legal Defense of the Right to Housing: A Comparative Study of Mainland and Taiwan 62https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/2018/816018/xa-hoi-hoa-dich-vu- cong-o-viet-nam.aspx, truy cập ngày 01/04/2021

giá cả của dịch vụ (nếu có) đều phải tuân theo quy luật của thị trường, quy luật

54

cung cầu của nền kinh tế. Điều kiện kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ, từng

giai đoạn nhất định sẽ góp phần quan trọng trong việc quyết định các loại

DVXHCB được cung ứng và mức độ cung ứng các dịch vụ này. Vì vậy, có thể nói

DVXHCB cũng mang bản chất kinh tế. Tuy nhiên, mục tiêu lợi nhuận không phải

là điều kiện cần có của hoạt động DVXHCB. Dịch vụ công hướng tới lợi ích của

cộng đồng, của đất nước, vì vậy hình thức cung cấp, chất lượng và giá của

DVXHCB phải được xây dựng phù hợp để người dân có thể tiếp cận được và phù

hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Ý tưởng về

dịch vụ cơ bản phổ quát của Viện Thịnh vượng Toàn cầu vào năm 2017 kêu gọi

sự chia sẻ nguồn lực và cùng nhau hành động để đối phó với những rủi ro và các

vấn đề mà con người không thể đối phó một mình. Điều này cũng được phản ánh

trong mục tiêu lâu dài của EU về “gắn kết” kinh tế và xã hội: kết hợp nền kinh tế

thị trường tự do với cam kết về các giá trị đoàn kết nội tại và hỗ trợ lẫn nhau, đảm

bảo quyền tiếp cận cởi mở cho tất cả các thành viên trong xã hội.63 Vì vậy, khi xây

dựng pháp luật ASXH về DVXHCB cần đảm bảo nguyên tắc kết hợp chính sách

kinh tế và xã hội để đảm bảo quy định pháp luật mang tính khả thi và phù hợp bản

chất của DVXHCB.

Nguyên tắc này thể hiện ở việc người sử dụng DVXHCB được nhà nước

đảm bảo việc cung ứng không vì mục tiêu lợi nhuận. Một số DVXHCB do nhà

nước cung cấp như giáo dục, y tế, thông tin… Một số dịch vụ sẽ do khu vực tư

nhân cung cấp như dịch vụ nước sạch, nhà ở… Tuy nhiên, giá dịch vụ do pháp

luật quy định theo những nguyên tắc nhất định để đảm bảo nằm trong khả năng

chi trả của người dân. Tuỳ từng dịch vụ mà người dân trả phí một phần hay toàn

bộ phí hoặc được miễn phí khi sử dụng dịch vụ. Dù vậy, các dịch vụ này sẽ luôn

được đảm bảo cung cấp cho người dân và nhà nước có trách nhiệm đến cùng trước

63Gough, Ian (2019), Universal Basic Services: a theoretical and moral framework https://doi.org/10.1111/1467-923X.12706

xã hội, trước công dân về số lượng và chất lượng cung cấp các dịch vụ này. Nhà

55

nước có chính sách hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cho các tổ chức, cá nhân trong

trường hợp họ bị hạn chế tiếp cận DVXHCB. Chẳng hạn, nhà nước có chính sách

hỗ trợ học phí, miễn học phí cho học sinh nghèo, chính sách hỗ trợ học sinh khuyết

tật để đảm bảo họ có thể tiếp cận DVGDCB. Hoặc trường hợp cấp thẻ BHYT miễn

phí, hỗ trợ đóng BHYT đối với một số đối tượng nhất định để họ có thể tiếp cận

chăm sóc YTCB. Hay như Chương trình mở rộng quy mô vệ sinh và nước sạch

nông thôn thông qua nguồn vốn hỗ trợ từ Ngân hàng thế giới với mục tiêu đảm

bảo tiếp cận nước sạch cho khu vực nông thôn và người nghèo hoặc chính sách

nhà ở xã hội….

1.2.2.3. Nguyên tắc đa dạng hóa, xã hội hoá hoạt động dịch vụ xã hội cơ bản

Trước đây, phần lớn chi tiêu của chính phủ dành cho cung cấp các dịch vụ

của chính phủ trong khi việc cung cấp các dịch vụ tư nhân được thực hiện phần

lớn từ chi tiêu từ tư nhân. Tuy nhiên, thực tế, chính phủ có thể tài trợ cho một số

hoạt động cung cấp dịch vụ của tư nhân và ngược lại, chẳng hạn nhà nước ký hợp

đồng với nhà cung cấp tư nhân (bệnh viện, trường học) để cung cấp dịch vụ thuộc

hệ thống công tổng thể. Trường hợp Chính phủ vừa là chủ thể cung cấp vừa trả

tiền cho các dịch vụ, sẽ có khả năng dẫn đến tình trạng thiếu kinh phí và chất

lượng dịch vụ kém.64 Ngược lại, nếu tư nhân cung cấp dịch vụ và người dùng trả

phí thì có thể dẫn tới khả năng người dùng không đủ khả năng chi trả chi phí sử

dụng dịch vụ. Chính vì vậy, xã hội hoá dịch vụ công có thể tháo gỡ “nút thắt” này.

Bởi khi xã hội hoá dịch vụ công nói chung và DVXHCB nói riêng thì bộ máy của

chính phủ có thể tinh giản hơn, chính phủ chỉ tập trung quản lý ở tầm vĩ mô. Trong

khi đó, khu vực tư nhân ngày càng tỏ ra năng động và phát triển mạnh, có thể đảm

đương nhiều lĩnh vực mà trước đây chỉ có nhà nước mới có thể thực hiện được.

Không những thế, xã hội hoá dịch vụ công còn làm giảm gánh nặng lên NSNN và

64 Asian Development Bank Institute (2000), Public-Private Partnerships in the Social Sector: Issues and Country

Experiences in Asia and the Pacific, Nxb. ADBI, tr.62

nâng cao chất lượng dịch vụ khi có sự cạnh tranh của khu vực tư nhân.

56

DVXHCB đáp ứng nhu cầu cơ bản cho sự tồn tại và phát triển của con

người, nhưng khi xã hội càng phát triển, tiến bộ thì nhu cầu con người ngày càng

đòi hỏi ở mức độ cao hơn. Trong khi đó, NSNN khó có thể trang trải cho việc

cung cấp tất cả DVXHCB, đặc biệt là các nước kém phát triển và các nước đang

phát triển. Quan hệ đối tác công tư được coi là một giải pháp cho các vấn đề cả về

tài chính và khả năng cung cấp dịch vụ cơ bản, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, nước

và vệ sinh65. Khi các chính phủ phải đối mặt với những hạn chế ngày càng tăng

về tài khóa, họ đã chuyển sang đóng góp và cung cấp dịch vụ từ khu vực tư nhân.

Ở hầu hết các nước Châu Á và Thái Bình Dương, đóng góp của khu vực tư nhân

trong lĩnh vực y tế và giáo dục là rất đáng kể. Ở một số quốc gia, tỷ trọng từ khu

vực tư nhân thậm chí có thể lớn hơn so với các đối tác công của họ. Đồng thời,

khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ cùng với chính phủ.66 Ngoài ra, quan

hệ đối tác công - tư giúp tận dụng năng lực của các nhà cung cấp tư nhân trong

việc hướng dẫn và quản lý các hoạt động và cho phép sự rủi ro tài chính được

chuyển giao cho các nhà cung cấp.67

Tuy nhiên, nhà nước vẫn nên giữ vai trò tạo ra nền tảng hành chính và cơ

sở hạ tầng cần thiết để cung cấp các dịch vụ này một cách công bằng và hiệu quả.

Cùng với đó, nhà nước xây dựng hành lang pháp lý tạo điều kiện cho khu vực tư

nhân tham gia cung ứng dịch vụ, tạo môi trường bình đẳng giữa các doanh nghiệp

thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia cung ứng dịch vụ và đưa ra tiêu chuẩn đánh

giá chất lượng dịch vụ, mức giá dịch vụ. Việc xây dựng và thực hiện các chính

sách, quy định, ngân sách, hợp đồng, quan hệ đối tác công-tư và hệ thống dịch vụ

dân sự của chính phủ để cung cấp các dịch vụ thiết yếu cần đảm bảo tính minh

65 Rachel Marcus, Laure-Hélène Piron, Tom Slaymaker (2004), Basic services and social protection 66 Viện Ngân hàng Phát triển Châu Á (2000), Public – Private Partnerships in the Social Sector, Nxb. ADBI, tr.3 67 Roland Almqvist, Olle Högberg (2005), The Challenge of Public-Private Partnerships: learning from international experience, Nxb. Edvard Elgar Publishing Ltd, tr. 1 68 Brinkerhoff (2007), Governance in Post-Conflict Societies

bạch.68 Các tổ chức phi chính phủ hoặc khu vực tư nhân cung cấp các dịch vụ này

57

phải chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương và quốc gia bằng các hoạt

động kế toán, tuyển dụng và quản lý minh bạch, đồng thời phải tuân thủ luật và

công ước về nhân quyền.69

Trong số các DVXHCB, DVXHCB về giáo dục và chăm sóc y tế vẫn chủ

yếu do nhà nước cung cấp và chi phối, còn các DVXHCB khác thường có sự tham

gia của khu vực tư nhân, do tư nhân cung cấp. Bên cạnh sự hỗ trợ từ NSNN, thì

người sử dụng dịch vụ phải chi trả chi phí sử dụng dịch vụ. Tuỳ thuộc vào điều

kiện phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia trong từng giai đoạn mà chi phí sử dụng

DVXHCB được quy định khác nhau. Thông thường ở các quốc gia, NSNN thường

ưu tiên đầu tư cho DVGDCB và chăm sóc YTCB, các DVXHCB khác như nhà ở,

nước sạch, TCTT được nhà nước hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, ưu đãi về thuế…

1.2.3. Nội dung pháp luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản

Với mục đích đảm bảo và đáp ứng các nhu cầu tối thiểu của con người,

pháp luật quốc tế, pháp luật các quốc gia trong đó có Việt Nam, thường bao gồm

các nội dung: (i) DVXHCB về giáo dục; (ii) DVXHCB về chăm sóc y tế; (iii)

DVXHCB về nhà ở; (iv) DVXHCB về nước sạch và (v) DVXHCB về TCTT.

Trong mỗi nội dung, pháp luật thông thường điều chỉnh về đối tượng tiếp cận

DVXHCB, nội dung DVXHCB, chủ thể cung cấp DVXHCB và nguồn tài chính

đầu tư cho DVXHCB.

1.2.3.1. Dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục

Giáo dục cơ bản được coi là một trong những quyền con người quan trọng

nhất bởi vai trò to lớn của nó không chỉ với mỗi cá nhân mà đối với cả sự phát

triển của cả một thế hệ người trẻ cũng như sự phát triển của đất nước, của xã hội.

Vì vậy, DVXHCB về giáo dục được coi là nội dung trọng tâm trong số các

DVXHCB. Hiện có nhiều cách tiếp cận khác nhau từ các góc độ khác nhau về nội

69https://www.usip.org/guiding-principles-stabilization-and-reconstruction-the-web-version/stable- governance/provisionesse#:~:text=Providing%20essential%20services%20is%20the,such%20as%20health %20and%20education, truy cập ngày 9/12/2021

dung này. Theo Tuyên bố thế giới về giáo dục cho tất cả mọi người, được thông

58

qua tại hội nghị Thế giới về Giáo dục cho mọi người (WCEFA) năm 1990 thì

DVGDCB được định nghĩa là “các hoạt động giáo dục được thiết kế để mọi người

có được kiến thức và kỹ năng cần thiết để tồn tại, phát triển đầy đủ năng lực, sống

và làm việc có phẩm giá, tham gia đầy đủ vào phát triển, cải thiện chất lượng

cuộc sống, đưa ra các quyết định sáng suốt và để tiếp tục học hỏi”. Một cách

chung nhất, DVGDCB được hiểu là toàn bộ các hoạt động giáo dục diễn ra trong

các môi trường khác nhau nhằm đáp ứng các nhu cầu học tập cơ bản.

Nội dung DVXHCB về giáo dục được quy định khác nhau tuỳ thuộc mỗi

quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển đất nước. Theo Phân loại Giáo dục Tiêu

chuẩn Quốc tế (ISCED 2011) thì DVXHCB về giáo dục bao gồm giáo dục tiểu

học và giáo dục trung học cơ sở. Còn Tuyên bố thế giới về giáo dục cho tất cả mọi

người lại khẳng định giáo dục cơ bản bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục tiểu

học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục không chính quy (bao gồm giáo dục tôn

giáo, giáo dục cộng đồng, giáo dục người lớn và giáo dục xóa mù chữ). Trong đó,

giáo dục tiểu học và trung học cơ sở là cốt lõi của giáo dục cơ bản vì giai đoạn

này xây dựng một tính cách cân bằng và tìm cách thống nhất chủ quyền của một

quốc gia bằng cách đóng góp ngôn ngữ, giá trị và hành vi chung.70 Giáo dục cơ

bản thường được thực hiện ở giai đoạn đầu, nhằm giúp mọi người đạt được một

mức độ hiểu biết nhất định để nhận ra tính đúng, sai của vấn đề, nên hoặc không

nên thực hiện nó, từ đó, giúp xây dựng hệ tư tưởng của một cá nhân. Giáo dục cơ

bản cung cấp việc đào tạo để giúp mọi người học cách đọc, viết, làm toán, và có

kỹ năng sống cơ bản.71

DVGDCB phổ quát được coi là ưu tiên của các nước đang phát triển và là

trọng tâm của phong trào giáo dục cho mọi người do UNESCO dẫn đầu. Đảm bảo

70 Viện Hợp tác quốc tế -Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) (2002), Approaches for Systematic Planning of Development Projects, Tr. 23 71 Ha Thi Hai Do, Nui Dang Nguyen, Anh Ngoc Mai, Duc Minh Phung, Nguyen Duy Vu, Hung Dinh Nguyen, Dung Manh Chan, Thuy Minh Thu Phung, Ensuring basic education for ethnic minority groups in Vietnam, Management Science Letters, tháng 4/2020. DOI: 10.5267/j.msl.2020.4.029

quyền được hưởng giáo dục cơ bản có thể thực hiện ở các mức độ khác nhau tùy

59

theo điều kiện và hoàn cảnh thực tế của mỗi quốc gia nhưng phải đáp ứng được

các yêu cầu về tính sẵn có (về chương trình và cơ sở giáo dục); tính có thể tiếp

cận (không có sự phân biệt về tiếp cận với chương trình và cơ sở giáo dục); tính

có thể chấp nhận được (nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp) và tính thích

ứng (đáp ứng linh hoạt với sự thay đổi nhu cầu người học và môi trường xã hội và

văn hoá đa dạng).72 Giáo dục cơ bản ở mỗi quốc gia được quy định khác nhau và

thường thể hiện thông qua quy định về số năm giáo dục bắt buộc và được cung

cấp bởi Nhà nước thông qua hệ thống trường công lập. Chẳng hạn, ở Trung Quốc

trẻ em phải đi học tối thiểu là 09 năm, từ khi trẻ 6 tuổi. Ở Mỹ, mỗi tiểu bang của

Mỹ có thể quy định khác nhau về giáo dục cơ bản, thường từ 5 hoặc 6 tuổi đến 16,

17 hoặc 18 tuổi tùy thuộc vào quy định ở mỗi bang.73

1.2.3.2. Dịch vụ xã hội cơ bản về chăm sóc y tế

Chăm sóc sức khoẻ là một quyền con người cơ bản không thể thiếu để thực

hiện các quyền khác. Quyền được chăm sóc sức khoẻ không chỉ được hiểu là

quyền được khoẻ mạnh mà bao gồm các quyền và tự do làm chủ sức khoẻ và thân

thể, kể cả về tình dục và sinh sản, tự do không bị can thiệp (không bị tra tấn, điều

trị hay thí nghiệm mà không được sự đồng ý) và quyền bình đẳng về cơ hội trong

chăm sóc sức khoẻ.74

Chăm sóc YTCB và chăm sóc sức khoẻ là hai khái niệm không đồng nhất.

Chăm sóc sức khoẻ có nội hàm rộng hơn chăm sóc YTCB. Chăm sóc sức khoẻ

như trên đã phân tích, được hiểu là bao gồm tất cả các cơ chế và hoạt động nhằm

mục đích bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ người dân ở các cấp độ khác nhau như

chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chăm sóc sức khoẻ chuyên sâu. Trong khi đó, chăm

sóc YTCB được hiểu là dịch vụ cung ứng hoạt động chăm sóc về y tế đầu tiên cho

72 Bình luận chung số 13 về Quyền được giáo dục của Uỷ ban kinh tế, xã hội, văn hoá được thông qua tại phiên họp 21 năm 1999. 73 Antonella Corsi-bunker, Guide to the education system in the United States https://isss.umn.edu/publications/USEducation/2.pdf 74 Bình luận chung số 14 của Uỷ ban về quyền kinh tế, xã hội, văn hoá giải thích về Điều 12 của ICESCR

người dân và ở tầng thấp, phổ quát nhất trong hệ thống ASXH quốc gia. Chăm

60

sóc YTCB được LHQ đưa ra bao gồm: chăm sóc sức khỏe ban đầu, y tế dự phòng

(phòng dịch cho trẻ, chăm sóc sau khi sinh đẻ, giáo dục y tế) và các chương trình

y tế công cộng (sức khỏe bà mẹ và trẻ em, bệnh sốt rét, bệnh lao, thuốc và dược

liệu cơ bản, vệ sinh) và chương trình quốc gia về dinh dưỡng.75

Ngoài ra, cần phân biệt chăm sóc YTCB với BHYT. BHYT theo quan niệm

của ILO là một bộ phận cấu thành của hệ thống ASXH quốc gia với mục đích

chung là bảo vệ cuộc sống của các thành viên trong xã hội. Còn cơ quan phát triển

quốc tế Vương Quốc Anh (Department for International Development – DFID)

đưa ra định nghĩa BHYT: “BHYT là một cách để chi trả một phần hoặc toàn bộ

chi phí y tế cho các cá nhân bởi chính phủ hoặc các tổ chức BHYT vì mục đích lợi

nhuận hay không vì mục đích lợi nhuận. Nó hỗ trợ những người tham gia bảo

hiểm chi trả chi phí khám chữa bệnh khi gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật và hỗ trợ chi

phí khám chữa bệnh thường xuyên để đảm bảo nhu cầu của người mua bảo

hiểm”76. Định nghĩa này thể hiện cả bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHYT,

đó là sự tương trợ lẫn nhau, giúp đỡ nhau về tài chính khi các thành viên gặp phải

rủi ro về sức khỏe.

Phạm vi của chăm sóc YTCB rộng hẹp tuỳ thuộc quan niệm của mỗi quốc

gia. ILO cho rằng các gói dịch vụ y tế cung cấp cho đối tượng được bảo hiểm nên

được xác định nhằm duy trì, phục hồi hoặc cải thiện sức khỏe, đảm bảo khả năng

làm việc và đáp ứng các nhu cầu chăm sóc sức khỏe cá nhân. Cũng theo tổ chức

này, tiếp cận hiệu quả bao gồm cả tiếp cận các dịch vụ y tế và bảo vệ tài chính.

Bảo vệ tài chính bao gồm việc tránh các khoản chi từ tiền túi làm giảm khả năng

chi trả cho các dịch vụ và lý tưởng hơn là có một số khoản bồi thường cho việc

75 Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2012), Đánh giá thực trạng khả năng và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội của nhóm người nghèo, đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là tại các vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, Hà Nội, tr. 3. 76 Catherine P Conn & Veronica Walford, An Introduction to Health Insurance for Low Income Countries”, DFID- Health Systems Resource Centre, 2008. 77 ILO (2008), Social Health Protection - an ILO strategy towards universal access to health care, tr. 17

mất năng suất do ốm đau.77 Không những thế, các tài liệu nghiên cứu và điều tra

61

tình hình thực hiện ASXH trên thế giới của ILO cho thấy chăm sóc y tế không chỉ

dừng lại ở chế độ bảo hiểm cho các thành viên xã hội mà còn bao gồm các hoạt

động y tế công cộng khác nhằm mục đích chăm lo và bảo vệ sức khoẻ toàn dân.78

Tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn

khác nhau mà nội dung của chăm sóc YTCB được quy định khác nhau. Chăm sóc

YTCB thường được cung cấp bởi Nhà nước với nguồn ngân sách lớn của Nhà

nước. Ở Ấn Độ, chăm sóc sức khoẻ cơ bản cung cấp dịch vụ chăm sóc toàn diện

cho các nhu cầu sức khỏe trong suốt cuộc đời, không chỉ cho một số bệnh cụ thể79.

Chăm sóc YTCB Việt Nam được thực hiện thông qua BHYT và các dịch vụ chăm

sóc sức khoẻ cơ bản. Trong đó, BHYT được thực hiện theo nguyên tắc đóng-

hưởng với sự hỗ trợ một phần từ NSNN. Còn các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ

bản bao gồm: giáo dục sức khoẻ; kiểm soát dịch bệnh; tiêm phòng cho trẻ em và

bà mẹ; cung cấp thuốc thiết yếu; cung cấp lương thực, thực phẩm, cải thiện dinh

dưỡng bữa ăn; điều trị và phòng bệnh; quản lý sức khoẻ; kiện toàn mạng lưới y tế.

1.2.3.3. Dịch vụ xã hội cơ bản về nhà ở

Quyền có nhà ở là một trong các quyền con người nằm trong tập hợp quyền

được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng (Điều 11 ICESCR). Quyền có

nhà ở thích đáng được giải thích trong Bình luận chung số 4 về Điều 11 ICESCR

của Uỷ ban kinh tế, xã hội và văn hoá (thông qua tại phiên họp thứ 6 năm 1991).

Theo đó, quyền có nhà ở thích đáng được hiểu là theo nghĩa hẹp là quyền có một

mái che trên đầu để trú ngụ. Hoặc theo nghĩa rộng hơn, có thể hiểu là quyền được

sống ở một nơi an toàn, bình yên và thích đáng với phẩm giá con người. Quyền

này được áp dụng cho tất cả mọi người mà không có sự phân biệt về bất cứ yếu tố

nào. Nhà ở cần được đảm bảo “đầy đủ” cho người dân, đây cũng là vấn đề mà hệ

78 ILO (1992), Introduction Social Secutity, Giownevo 79https://www.who.int/india/health-topics/primary-health- care#:~:text=It%20provides%20whole%2Dperson%20care,feasible%20to%20people's%20everyday%20envi ronment

thống ASXH chất lượng và tiến bộ hướng tới. Nhà ở đầy đủ được hiểu là nơi có

62

thể ở được và cung cấp phương tiện cơ bản cần thiết để duy trì sức khỏe, bao gồm

nước uống an toàn và vệ sinh thích hợp.80 Ngoài ra, nhà ở đầy đủ phải có giá cả

phải chăng (chi phí của nó không gây gánh nặng hoặc đe doạ đến việc đáp ứng

các nhu cầu cơ bản khác), có tính đến nhu cầu đặc biệt của nhóm yếu thế .81 Như

vậy, quyền về nhà ở không có nghĩa là Nhà nước có nghĩa vụ cung cấp nhà ở cho

mọi người dân mà có nghĩa Nhà nước ghi nhận và đảm bảo các điều kiện cần thiết

để người dân có thể tiếp cận nhà ở.

Hiến pháp và nhiều văn bản luật của Philippines quy định trách nhiệm của

Chính phủ đảm bảo cung cấp nhà ở giá cả phải chăng cho mọi người dân

Philippines. Chẳng hạn, Đạo luật Nhà ở và Phát triển đô thị năm 1992 (UDHA)

của Philippines đề cập đến quyền có nhà ở của người vô gia cư và người dân

Philippines có hoàn cảnh khó khăn. Theo quy định của luật này, nhà ở xã hội cho

nhóm đối tượng yếu thế được cung cấp bằng cách giải quyết khả năng tiếp cận với

đất đai, nhà ở, tái định cư phá dỡ và thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân.

Luật cũng quy định việc xây dựng khung nhà ở và phát triển đô thị trong hoạch

định chính sách về xác định khu vực đô thị hoá. 82

Tương đồng với quan điểm của các quốc gia, ở Việt Nam, pháp luật

DVXHCB về nhà ở cũng quy định đối tượng phục vụ rộng rãi, không chỉ có công

dân trong nước mà cả người nước ngoài cũng được đảm bảo quyền này bởi quyền

tiếp cận nhà ở gắn liền với quyền cư trú, quyền tự do đi lại ở mỗi quốc gia. Ngoài

ra, nếu các DVXHCB khác như DVGDCB, chăm sóc YTCB được quy định chủ

yếu do nhà nước cung cấp, thì DVXHCB về nhà ở tối thiểu lại có sự tham gia

nhiều từ khu vực tư nhân. Nhà nước thường đóng vai trò hỗ trợ thông qua quy

80 Maria Massimo (2021), Housing as a Right in the United States: Mitigating the Affordable Housing Crisis Using an International Human Rights Law Approach, tr.284 81 Bình luận chung số 4: Quyền có nhà ở đầy đủ, Công ước Quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá 82 Masahiro Kobayashi (2016), The Housing Market and Housing Policies in Japan, ADBI Working Paper Series, No.558, tr.26

định pháp luật về ưu đãi, đầu tư vốn trong một số trường hợp để đảm bảo cho

63

nhóm đối tượng yếu thế, nhóm đối tượng có thu nhập thấp được tiếp cận nhà ở.

1.2.3.4. Dịch vụ xã hội cơ bản về nước sạch

Từ bình diện pháp luật quốc tế, Bình luận chung số 15 về Điều 11 ICESCR

của Uỷ ban kinh tế, xã hội và văn hoá (thông qua tại phiên họp thứ 29 năm 2002),

quyền về nước được giải thích rất chi tiết. Theo đó, đảm bảo nước sạch là một

trong những quyền con người quan trọng vì nước là điều kiện tiên quyết để đạt

được những quyền về sức khoẻ, quyền có mức sống thích đáng, quyền có nhà ở

và lương thực thích đáng (đoạn 1 và 3). Quyền này hàm ý mọi người có quyền

tiếp cận với nguồn nước một cách thích đáng, an toàn, có thể chấp nhận được, có

thể tiếp cận được và chi trả được với cá nhân mình và gia đình (đoạn 2). Đảm bảo

quyền về nước bao gồm việc đảm bảo cho mọi người khả năng tiếp cận các nguồn

nước thích đáng cho nông nghiệp và các nguồn nước sinh hoạt vệ sinh, không bị

nhiễm độc (đoạn 7, 8). Quyền về nước còn bao gồm việc tự do tiếp cận với các

nguồn cung cấp nước có sẵn, được bảo vệ không bị tuỳ tiện cắt hoặc làm ô nhiễm

nguồn nước, bình đẳng trong tiếp cận hệ thống cung cấp nước (đoạn 10). Những

yếu tố cơ bản của quyền về nước được áp dụng trong mọi trường hợp là (i) tính

sẵn có, tức là việc cung cấp nước phải liên tục và đủ cho những mục đích sử dụng

của cá nhân và gia đình như ăn uống, nước để vệ sinh cá nhân, giặt giũ, lau dọn

nhà cửa; (ii) chất lượng: thể hiện ở việc nước phải an toàn, không chứa hợp chất

hoá học nguy hiểm; (iii) Có thể tiếp cận, thể hiện ở việc tất cả mọi người, không

phân biệt bất cứ yếu tố nào đều có quyền tiếp cận với nước và các tiện ích, dịch

vụ về nước. Tháng 7/2010, Đại hội đồng LHQ đã thông qua một nghị quyết công

nhận quyền của con người được sử dụng nước sạch và hệ thống vệ sinh trong sinh

hoạt với đa số phiếu thuận. Mỗi nhà nước phải tạo điều kiện, quy tắc, dự án đầu

tư hoặc điều kiện đầu tư thích hợp để cải thiện tình trạng cung cấp nước sạch cho

người dân. Không những thế, quyền sử dụng nước sạch còn được hiểu là mỗi

người phải được tiếp cận nguồn nước vệ sinh, có thể tiếp nhận được, chi trả được

và nguồn nước đó phải được cung cấp đủ cho nhu cầu sinh hoạt cá nhân.

64

Từ bình diện pháp luật các quốc gia, việc thừa nhận quyền được tiếp cận

nước sạch được quy định khác nhau. Chẳng hạn, Hiến pháp Ấn Độ không công

nhận quyền cơ bản đối với nước một cách trực tiếp nhưng các phán quyết của tòa

án thì cho rằng quyền tiếp cận nước sạch thuộc quyền sống được quy định trong

Điều 21 Hiến Pháp. Quyền có nước được cho là ngụ ý trong việc công nhận quyền

có môi trường sống trong sạch.83 Pháp luật nước này cũng quy định việc cung cấp

nước sạch được nhà nước bảo đảm. Luật pháp Ấn Độ thừa nhận rằng do thiếu

nguồn lực, chính phủ không thể cung cấp các dịch vụ này cho tất cả mọi người

ngay lập tức. Tuy nhiên, chính phủ phải có kế hoạch rõ ràng với khung thời gian

và ngân sách để cung cấp các dịch vụ này và tăng khả năng tiếp cận.84

1.2.3.5. Dịch vụ xã hội cơ bản về tiếp cận thông tin

LHQ cho rằng đảm bảo quyền TCTT là tiêu chuẩn cho sự tự do của con

người. Quyền TCTT được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan

trọng trong các lĩnh vực cụ thể khác như Tuyên bố Rio về Môi trường và phát triển

năm 1992, Công ước UNECE về tiếp cận thông tin, tham gia của công chúng và

tiếp cận công lý đối với các vấn đề về môi trường năm 1998, Công ước của LHQ

về chống tham nhũng năm 2003... Tuy nhiên, tùy thuộc vào quan điểm chính trị,

trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi giai đoạn mà pháp luật các nước quy định

khác nhau về ASXH cũng như nội hàm của ASXH.

Quan điểm của nhiều quốc gia trên thế giới cũng cho rằng quyền TCTT là

quyền Hiến định và là một yếu tố điển hình của quyền tự do ngôn luận. Các quốc

gia cần quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước cung cấp thông tin cho dân

chúng. Theo quan điểm của LHQ, mọi thông tin tạo ra trong quá trình điều hành,

83 Philippe Cullet, Joyeeta Gupta (2009), The Evolution of the Law and Politics of Water, Springer Academic Publishers, tr.167 84 Philippe Cullet (2007), Water law in India – Overview of existing framework and proposed reforms, IELRC Working Paper, 2007-01 http://www.ielrc.org/content/w0701.pdf

quản lý nhà nước không phải là tài sản riêng của cơ quan công quyền mà nó là tài

65

sản công được tạo ra bởi rất nhiều thiết chế trong xã hội, cơ quan công quyền chỉ

là một bộ phận trong thiết chế này. Do vậy, cơ quan nhà nước nắm giữ thông tin

công phải có trách nhiệm cung cấp cho người dân không vì mục tiêu lợi nhuận.85

Nhiều quốc gia đã ban hành luật riêng về TCTT như Mỹ (năm 1966), Canada (năm

1983), Vương Quốc Anh (năm 2000), Hàn Quốc (năm 1998), Nhật Bản (năm

2004), Trung Quốc (năm 2007) và nhiều quốc gia khác. Đặc biệt, Luật TCTT hoặc

tự do thông tin ở một số quốc gia có vị trí pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp

luật quốc gia.86 Một số quốc gia quy định đối tượng TCTT là công dân của quốc

gia đó như Tây Ban Nha (khoản b Điều 105 Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1978)

Hoặc Ấn Độ (Điều 3 Luật về quyền được thông tin của Ấn Độ). Tuy nhiên, một

số quốc gia quy định chủ thể có quyền TCTT ở phạm vi rộng hơn, đó là cá nhân

hoặc tổ chức. Cá nhân có thể là công dân của quốc gia, người không có quốc tịch,

người nước ngoài không cần tính đến việc họ có các lợi ích pháp lý liên quan hay

không.87 Do đó, các văn bản này thường sử dụng các cụm từ như “mọi người”,

“bất kể người nào” hay “công chúng”88 để thể hiện tính phổ quát của quyền TCTT.

Phù hợp với quan điểm của LHQ và các quốc gia trên thế giới, Việt Nam

cũng xác định DVXHCB về TCTT là một trong những quyền con người cơ bản.

Nhất quán với nguyên tắc tất cả vì tự do và hạnh phúc nhân dân, Ðảng và Nhà

nước ta vừa không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo tiền đề pháp lý bảo

đảm quyền con người, vừa luôn xây dựng các chính sách cụ thể để từng bước cải

thiện, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.

Dưới góc độ pháp lý, “quyền tiếp cận thông tin” là quyền căn bản mà mọi

85 Hội Luật gia Việt Nam (2009), Báo cáo nghiên cứu về Luật Tiếp cận thông tin của các nước Bắc Âu 86 Đặc san tuyên truyền pháp luật, Pháp luật về tiếp cận thông tin, Trang thông tin về Phổ biến giáo dục pháp luật-Bộ Tư Pháp, Số 07/2016, tr.50 87 Toby Mendel (2008), Freedom of information: A comparative legal survey, Second Edition, United Nations, UNESCO, Paris, tr. 144. 88 Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường (25/6/1998); Công ước của LHQ về Chống tham nhũng được Đại hội đồng LHQ; Công ước của Liên minh Châu Phi về phòng, chống tham nhũng; Luật tiếp cận thông tin của Canada năm 1985; Luật Tự do thông tin Thuỵ Điển năm 1949, sửa đổi năm 1976.

người ở tất cả các quốc gia đều có quyền được hưởng, đó là quyền được biết thông

66

tin của Nhà nước (thông qua cách thức trực tiếp hay gián tiếp) để thỏa mãn các

nhu cầu trong cuộc sống của mình cũng như để bảo vệ và thực hiện các quyền

năng khác đã được pháp luật ghi nhận89. Khi xây dựng pháp luật về quyền TCTT,

cần xác định quyền TCTT mang tính phổ quát và nghĩa cụ cung cấp thông tin của

cơ quan nhà nước. Thông thường, pháp luật về TCTT của các quốc gia đều giới

hạn nội dung TCTT đối với những thông tin không được tiếp cận và thông tin tiếp

cận có điều kiện. Vấn đề nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB về TCTT cũng cần

được quy định rõ ràng trong pháp luật về TCTT. Pháp luật ASXH về DVXHCB

trong việc TCTT tạo hành lang pháp lý cho việc đảm bảo, đáp ứng nhu cầu cơ bản

của con người về nhu cầu được biết thông tin cách bình đẳng và khả thi. Không

những thế, pháp luật về vấn đề này sẽ thúc đẩy công khai, minh bạch trong quản

lý nhà nước, tác động đến sự tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà nước, của tổ chức

89 Bộ Tư Pháp, Pháp luật về tiếp cận thông tin, Trang thông tin về Phổ biến giáo dục pháp luật, Đặc san tuyên truyền pháp luật Số 07/2016, tr.3-4

và người dân.

67

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

ASXH là sự bảo vệ của nhà nước và xã hội với các thành viên của mình khi

gặp rủi ro trong cuộc sống thông qua nhằm ổn định và bền vững kinh tế xã hội.

DVXHCB với tư cách là một cấu phần thuộc hệ thống ASXH được hiểu là hệ

thống các hoạt động đảm bảo cá nhân, tổ chức được tiếp cận các dịch vụ cơ bản,

thiết yếu như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, nhà ở, nước sạch, tiếp cận thông tin…

nhằm đảm bảo nhu cầu tối thiểu, cơ bản nhất của người dân trong từng thời kỳ

phát triển đất nước. DVXHCB đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện tình

trạng nghèo đói, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân và góp phần phát

triển kinh tế đất nước bền vững. DVXHCB còn góp phần tạo ra công bằng xã hội,

tăng cường sự gắn kết của toàn xã hội. Không những thế, DVXHCB còn đóng vai

trò trong việc làm giảm sự bất bình đẳng về thu nhập của người dân và góp phần

giúp người dân bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp.

Để DVXHCB phát huy tối đa vai trò của mình thì pháp luật được coi là

công cụ hữu hiệu nhất. Theo đó, pháp luật ASXH về DVXHCB thường bao gồm

các nội dung như: Khẳng định và đảm bảo quyền tiếp cận DVXHCB là quyền cơ

bản của con người với nội dung cụ thể của mỗi DVXHCB; trách nhiệm của nhà

nước, chủ thể cung cấp DVXHCB cùng với việc xác định nguồn tài chính chi cho

DVXHCB… Về cơ bản pháp luật ASXH về DVXHCB cũng tuân thủ theo các

nguyên tắc của pháp luật ASXH nói chung nhưng do các đặc thù riêng của

DVXHCB so với các cấu phần khác của hệ thống ASXH mà còn bị chi phối bởi

một số nguyên tắc mang tính chất đặc thù. Tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia

mà pháp luật ASXH về DVXHCB được điều chỉnh khác nhau, nhưng nhìn chung

nội dung pháp luật về lĩnh vực này thường bao gồm các nội dung như: DVXHCB

về giáo dục ; DVXHCB về chăm sóc y tế; DVXHCB về nhà ở; DVXHCB vềnước

sạch và DVXHCB về TCTT.

68

CHƯƠNG 2.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI VỀ CÁC DỊCH VỤ XÃ

HỘI CƠ BẢN Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục và

thực tiễn thực hiện

Pháp luật về DVXHCB trong tiếp cận giáo dục cơ bản hiện hành được quy

định chủ yếu trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp, Luật Giáo dục năm 2019,

Luật Trẻ em năm 2016 và hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành.

2.1.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản

về giáo dục và thực tiễn thực hiện

Tiếp cận DVGDCB là quyền con người cơ bản, quan trọng và là tiền đề để

tiếp cận các quyền con người khác. Vì vậy, đối tượng tiếp cận DVGDCB phải

mang tính phổ quát và bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử. Điều này được

ghi nhận từ pháp luật quốc tế đến pháp luật quốc gia. Trong 17 mục tiêu Phát triển

bền vững của thế giới cho giai đoạn 2015-2030, mục tiêu số 4 được hướng tới

“đảm bảo giáo dục chất lượng, rộng mở và công bằng và nâng cao cơ hội học tập

suốt đời cho tất cả mọi người”.

Ở phạm vi quốc gia, tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam đều ghi nhận

quyền tiếp cận giáo dục và đặt quyền này ở một vị trí đặc biệt. Hiến pháp năm

2013 tại Điều 61 khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu; Ưu tiên

phát triển giáo dục ở các vùng khó khăn… Đối tượng được tiếp cận giáo dục cơ

bản ở Việt Nam là toàn thể người dân, nhà nước mong muốn, tạo điều kiện và đảm

bảo tính bao phủ trong tiếp cận giáo dục.

Nghị định số 20/2014/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 24 tháng 3 năm 2014 về

phổ cập giáo dục, xoá mù chữ quy định đối tượng phổ cập giáo dục là trẻ em từ 5

tuổi đến 18 tuổi và đối tượng xóa mù chữ là những người trong độ tuổi từ 15 đến

60 chưa biết chữ. Những quy định này thể hiện rất rõ quan điểm của Việt Nam

trong việc chú trọng phát triển giáo dục và đảm bảo quyền học tập của mọi nguời

69

dân một cách bình đẳng. Tuy nhiên, quy định này chưa phát huy hiệu quả tối đa khi

tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi tiểu học ở một số dân tộc thiểu số như dân tộc Lô Lô

chỉ đạt 76,9%, Brâu đạt 77,6%, Rơ Măm đạt 78,7%, Khmer đạt 82,6%... Về tiếp

cận giáo dục cơ bản, tỷ lệ người dân tộc thiểu số biết đọc, biết viết chưa cao và có

sự chênh lệch lớn giữa các dân tộc. Thậm chí, có một số dân tộc tỷ lệ mù chữ chiếm

tới hơn 50% như dân tộc Cơ Lao, Brâu, Hà Nhì, La Hủ…90 Do đặc thù dân cư phân

tán, điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội khó khăn nên tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số

học mẫu giáo, mầm non, đặc biệt là nhóm trẻ 3 - 5 tuổi và mẫu giáo 5 tuổi còn thấp.

Bình quân chỉ có 67,5% trẻ em người dân tộc thiểu số từ 36-59 tháng tuổi đi học

mẫu giáo, trong khi bình quân chung cả nước đạt khoảng trên 80%.91

Về cơ bản, pháp luật về DVGDCB ở Việt Nam khá tương đồng với pháp

luật của các quốc gia trên thế giới khi quy định đối tượng tiếp cận DVGDCB mang

tính phổ quát. Pháp luật Mỹ cũng đặc biệt quan tâm tới vấn đề bình đẳng trong

giáo dục. Điều này thể hiện thông qua quy định của Đạo luật Cơ hội Giáo dục

Bình đẳng năm 1974, theo đó không một tiểu bang nào được từ chối cơ hội giáo

dục bình đẳng đối với một cá nhân nào trên cơ sở chủng tộc, màu da, giới tính

hoặc nguồn gốc quốc gia.92 Ở Trung Quốc, từ năm 1986, Luật Giáo dục Bắt buộc

9 năm được ban hành, quy định các yêu cầu để đạt được một nền giáo dục phổ cập

và đảm bảo quyền của mọi trẻ em trong độ tuổi đi học.

Nhìn chung, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non

cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2017. Tính đến năm học 2020-2021 toàn bộ 63/63 tỉnh,

truy

cập

90 Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tr.35 91 Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tr.81 92Antonella Corsi-bunker, Guide to the education system in the United States https://docplayer.net/20649730-Guide-to-the-education-system-in-the-united-states.html 93 Lê Thị Mai Hoa, Phát triển giáo dục mầm non trong tình hình mới, https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/phat-trien-giao-duc-mam-non-trong-tinh-hinh-moi.html, ngày 25/8/2022

thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi93 và cơ bản đã

70

đảm bảo tất cả trẻ em trai và trẻ em gái được đi học cấp tiểu học.94 Tuy nhiên, chất

lượng giáo dục chưa cao, không đồng đều giữa các khu vực, các địa phương và

giữa các nhóm đối tượng khác nhau. Hiện tượng học sinh đã tốt nghiệp trung học

cơ sở nhưng trình độ học vấn chỉ tương đương học sinh tiểu học khá phổ biến,

nhất là khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, thực trạng trường

mầm non công lập tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và những địa phương có

đông lao động di cư tự do chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng. Theo

thống kê năm 2017 cả nước có khoảng 260 khu công nghiệp, khu chế xuất đang

hoạt động với tổng số 2,8 triệu lao động. Thế nhưng cả nước mới chỉ có 112 trường

mầm non ở các khu công nghiệp, khu chế xuất95 trong khi các cơ sở mầm non

ngoài công lập còn tồn tại nhiều bất cập. Đây cũng là tình trạng tương tự diễn ra

ở Anh khi mà chỉ một nửa số chính quyền địa phương ở Anh và xứ Wales có đủ

dịch vụ chăm sóc trẻ em cho các bậc cha mẹ làm việc toàn thời gian. 33% chính

quyền địa phương ở Anh, 40% ở Wales và 14% ở Scotland, không có đủ giáo dục

sớm cho những đứa trẻ ba và bốn tuổi để hưởng các quyền miễn phí phổ cập.96

Bên cạnh các quy định thể hiện quyền bình đẳng và cơ hội tiếp cận giáo

dục cho mọi đối tượng, pháp luật Việt Nam còn xây dựng nhiều quy định riêng về

tiếp cận DVGDCB cho người khuyết tật. Các quy định này mặc dù thể hiện sự

quan tâm đặc biệt của Nhà nước tới nhóm đối tượng yếu thế, nhưng một số quy

định vẫn tồn tại bất cập gây khó khăn cho quá trình áp dụng. Cụ thể, Luật Người

khuyết tật năm 2010 quy định việc điều chỉnh chương trình giáo dục cho trẻ khuyết

tật sẽ do Trung tâm Hỗ trợ giáo dục hoà nhập đảm nhiệm. Tuy nhiên, thực tế hiện

nay cả nước mới chỉ có 14 Trung tâm được thành lập. Mặc dù các trung tâm này

hoạt động dưới sự quản lý của ngành giáo dục nhưng chưa đủ điều kiện pháp lý

truy

cập

94 Báo cáo quốc gia năm 2020, Tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, tr.50 95Giám đốc trung tâm hỗ trợ giáo dục và nâng cao năng lực cho phụ nữ, https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/con-em-lao-dong-di-cu-hoc-o-dau-ai-lo-post186480.gd, ngày22/2/2022 96 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal Basic Services: theory and practice

trở thành cơ sở giáo dục. Vì vậy việc quản lý, vận hành, hoạt động và phát triển

71

các trung tâm hỗ trợ gặp rất nhiều khó khăn làm ảnh hưởng đến quá trình thực

hiện nhiệm vụ, chức năng của mình. Một số quy định mang tính nhân văn và

hướng đến bảo vệ quyền được học tập của người khuyết tật nhưng lại chưa khả thi

như quy định các cơ sở giáo dục bắt buộc phải tiếp nhận học sinh khuyết tật và

tạo đủ điều kiện để học sinh khuyết tật tham gia học hòa nhập. Trong khi đó, cơ

sở vật chất cho giáo dục trẻ khuyết tật còn chưa đáp ứng yêu cầu. Theo thống kê,

cứ 100 trường học thì chỉ có 03 trường có thiết kế phù hợp với người khuyết tật,

có 08 trường có lối đi chung dành cho người khuyết tật; 10 trường có nà vệ sinh

phù hợp với người khuyết tật.97 Thực tế, trẻ khuyết tật, gia đình trẻ khuyết tật vẫn

phải đối mặt với thái độ kỳ thị khi người khuyết tật đến tuổi đi học98 hoặc gặp khó

khăn trong đi lại, giao tiếp, nảy sinh tâm lý chán nản và bỏ học. Theo kết quả điều

tra của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ trẻ khuyết tật đi đúng độ tuổi ở cấp tiểu học đạt

81,69%, so với tỷ lệ trẻ bình thường là 96,05%.99 Phần lớn trẻ khuyết tật đi học là

trẻ khuyết tật nhẹ do nhà trường thiếu trang thiết bị, dụng cụ tài liệu trợ giảng

chuyên biệt như phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu, chữ nổi để đáp ứng được việc dạy

hòa nhập cho học viên là người điếc hoặc khiếm thính, người khiếm thị hoặc mù

hay người có chứng tự kỷ.100 Đây cũng là một trong những rào cản lớn ảnh hưởng

đến việc tiếp cận giáo dục cơ bản của trẻ khuyết tật nặng.

2.1.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về giáo

dục và thực tiễn thực hiện

Tùy thuộc vào quan điểm mỗi quốc gia cũng như điều kiện phát triển kinh

tế - xã hội của mỗi quốc gia theo từng giai đoạn mà nội dung DVXHCB về giáo

dục được quy định khác nhau. Thông thường, nội dung DVXHCB về giáo dục

97 Tổng cục Thống kê (2016), Điều tra Quốc gia người khuyết tật năm 2016 (VDS2016), Báo cáo cuối cùng, tr.19 98 Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam (2020), Báo cáo độc lập về tình hình thực thi công ước của LHQ về quyền của Người khuyết tật tại Việt Nam 99 Tổng cục Thống kê (2016), Điều tra Quốc gia người khuyết tật năm 2016 (VDS2016) – Báo cáo cuối cùng. 100 Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iSEE), “Xóa bỏ kỳ thị-quan điểm và đánh giá của người khuyết tật”, Nxb. Tri thức, 2017.

được quy định dựa trên số năm giáo dục bắt buộc, phổ cập giáo dục và xóa mù

72

chữ. Hiện nay, rất nhiều quốc gia khác quy định giáo dục bắt buộc 9 năm như:

Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Tây Ban Nha… Hoặc giáo dục bắt buộc 11 năm

như: Anh, Liên Bang Nga, Scotland…

Ở Việt Nam, DVXHCB về giáo dục bao gồm các nội dung về xoá mù chữ

cho người từ 15 đến 60 tuổi chưa biết chữ, giáo dục bắt buộc và phổ cập giáo dục.

Cụ thể, Luật Giáo dục năm 2009 và Luật Giáo dục 2019 đều quy định giáo dục

bắt buộc cấp tiểu học, phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi và cấp trung học cơ sở.

Có thể thấy, số năm giáo dục bắt buộc của Việt Nam khá thấp so với các quốc gia

trên thế giới, kể cả các nước trong khu vực Châu Á. Hay nói cách khác, nội dung

DVXHCB về giáo dục ở Việt Nam được quy định hẹp hơn so với nhiều quốc gia

trên thế giới. Điều này phần nào làm hạn chế cơ hội tiếp cận mức độ giáo dục cơ

bản của người dân nói chung và trẻ em nói riêng. Bởi vai trò, tính chất của giáo

dục bắt buộc và phổ cập giáo dục là khác nhau. Giáo dục bắt buộc có nghĩa là

pháp luật quy định mọi người dân trong độ tuổi bắt buộc phải đi học, bản thân gia

đình và người học nếu có điều kiện mà không đi học thì sẽ bị xử phạt vi phạm.

Trường hợp người học không có đủ điều kiện đi học thì sẽ được nhà nước hỗ trợ

một phần hoặc toàn bộ để hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc. Còn phổ

cập giáo dục chỉ dừng lại ở mức độ vận động, khuyến khích người học đi học,

không có chế tài xử phạt nếu người dân không hoàn thành phổ cập giáo dục.

2.1.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản

về giáo dục và thực tiễn thực hiện

Giáo dục là một dịch vụ công do nhà nước cung cấp cho người dân qua các

tổ chức nhà nước hay qua việc hỗ trợ tài chính cho các nhà cung cấp dịch vụ tư

nhân và giáo dục được coi là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia

trên con đường phát triển. Luật Giáo dục năm 2009 và Luật Giáo dục 2019 quy

định miễn học phí đối với học sinh tiểu học trường công lập; trẻ em mầm non 05

tuổi ở thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng

xa, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, ở địa bàn không đủ trường công lập. Học

73

sinh tiểu học trường tư thục được hỗ trợ tiền đóng học phí. Như vậy, ở Việt Nam,

chủ thể cung cấp DVGDCB là nhà nước thông qua hệ thống các trường công lập.

Theo đó, nếu trẻ theo học ở các trường công lập sẽ được miễn học phí trong những

năm giáo dục bắt buộc và được hỗ trợ học phí trong những năm phổ cập giáo dục.

Quy định về chủ thể cung cấp DVGDCB ở Việt Nam cũng tương đồng với quy

định của các quốc gia khác. Chẳng hạn, Ở Trung Quốc, Mỹ,… nhà nước cũng là

chủ thể cung cấp giáo dục bắt buộc thông qua hệ thống các trường công lập. Mỹ

quy định giáo dục bắt buộc cho trẻ em từ 5 hoặc 6 tuổi đến 16, 17 hoặc 18 tuổi tùy

thuộc vào quy định ở mỗi Bang và được miễn phí khi học ở các trường công lập.101

Theo Luật giáo dục bắt buộc 9 năm của Trung Quốc thì tất cả trẻ em trong độ tuổi

đi học có quốc tịch Trung Quốc đều có quyền được giáo dục bắt buộc tại các

trường công lập, phụ huynh có trách nhiệm ghi danh cho con em mình đi học và

đảm bảo chúng học xong 9 năm học bắt buộc.

Việc quy định Nhà nước là chủ thể cung cấp DVGDCB thông qua hệ thống

trường công lập cũng tạo ra sự rào cản nhất định đối với người di dân. Bởi theo

quy định hiện hành, điều kiện quan trọng nhất để trẻ nhập học ở các trường công

lập là có hộ khẩu thường trú hoặc sổ tạm trú dài hạn. Nếu không có hộ khẩu, trẻ

được xem ở diện trái tuyến và chỉ được nhận học nếu lớp học còn chỗ, đóng tiền

trái tuyến, hoặc phải đóng học phí cao hơn. Trong khi đó, Luật Cư trú năm 2020

không còn quy định về hộ khẩu nên gây ra mâu thuẫn, chưa có sự tương thích

trong hệ thống pháp luật. Theo ông Khưu Mạnh Hùng - trưởng phòng Giáo dục-

Đào tạo quận 12, TP. HCM thì năm 2021, có khoảng hơn 1000 trẻ trên địa bàn

quận không được nhận vào học tại trường công lập. Lý do là vì các trường công

lập ưu tiên trẻ có hộ khẩu thường trú trước, sau đó nếu còn chỉ tiêu thì mới xét đến

101 Antonella Corsi-bunker, Guide to the education system in the United States https://docplayer.net/20649730-Guide-to-the-education-system-in-the-united-states.html 102 Nguyễn Loan, Không có sổ hộ khẩu, tạm trú không đủ 1 năm có được vào lớp 1?” https://thanhnien.vn/khong-co-so-ho-khau-tam-tru-khong-du-1-nam-co-duoc-vao-lop-1-post1088409.html, truy cập ngày 1/10/2022

diện tạm trú dài hạn.102 Như vậy, nếu trẻ không có hộ khẩu thường trú thì trẻ có

74

thể không được nhận vào học trường công lập và phải chuyển về học tại nơi có hộ

khẩu hoặc học tại trường ngoài công lập. Điều này vô hình chung trở thành gánh

nặng tài chính cho cha mẹ của trẻ bởi học phí trường ngoài công lập thường cao

hơn trường công lập một hoặc gây khó khăn cho trẻ khi phải sống xa cha mẹ nếu

học ở nơi có hộ khẩu thường trú.

2.1.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ xã

hội cơ bản về giáo dục và thực tiễn thực hiện

Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục đào tạo là

đầu tư cho phát triển đất nước được hiện thực hoá từ rất sớm, xuyên suốt các văn

kiện của Đảng. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư kinh phí cho

giáo dục, thực hiện đa dạng các nguồn đầu tư giáo dục phù hợp với cơ chế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa.103

Luật Giáo dục năm 2019 quy định nhà nước ưu tiên hàng đầu cho việc bố

trí ngân sách giáo dục, bảo đảm NSNN chi cho giáo dục, đào tạo tối thiểu là 20%

tổng chi NSNN (Điều 96). Cũng theo quy định của luật này, nguồn tài chính đầu

tư cho giáo dục bao gồm: (1) NSNN; (2) Nguồn vốn đầu tư hợp pháp; (3) Nguồn

thu liên quan tới dịch vụ giáo dục, đào tạo; (4) Kinh phí đặt hàng, giao nhiệm vụ

của Nhà nước; (5) Nguồn vốn vay; (6) Nguồn tài trợ, viện trợ, tặng cho.104 Nhìn

chung, mức chi cho giáo dục ở Việt Nam là một nỗ lực rất lớn từ phía nhà nước.

So với mức chi cho giáo dục tính trên GDP của một số quốc gia trong khu vực

như Thái Lan với 3,8%, Malaysia 5,1% thì mức chi của Việt Nam được đánh giá

là khá cao. Năm 2017 và 2018, Việt Nam đứng đầu về chi tiêu cho giáo dục trong

số các quốc gia ASEAN.105 Tuy nhiên, quy định về nguồn tài chính đầu tư cho

103 Nghị quyết 04-NQ/HNTW Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo; Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương, khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục 104 Điều 95 Luật Giáo dục năm 2019 105 Theo Đại biểu Quốc Hội Nguyễn Thị Mai Hoa https://baoquocte.vn/ngan-sach-cho-giao-duc-con-nhieu-bat-cap-81691.html

giáo dục vẫn tồn tại những hạn chế nhất định như:

75

Thứ nhất, quy định về cơ cấu chi chưa hợp lý dẫn đến hiệu quả chi chưa đạt

được kết quả mong đợi. Hiện nay, tỷ lệ chi thường xuyên chiếm khoảng 82% tổng

chi NSNN cho giáo dục, chi đầu tư xây dựng cơ bản rất thấp dẫn đến tình trạng cơ

sở vật chất các trường học của Việt Nam chưa đảm bảo như diện tích trường nhỏ,

thiếu phòng học, phòng thí nghiệm, phòng thể chất… Không những thế, quy định

về phân bổ ngân sách giáo dục đào tạo dựa trên dân số độ tuổi đi học căn cứ vào

hộ khẩu chưa hợp lý và không hiệu quả khi áp dụng. Bởi lẽ, xu hướng di cư từ

nông thôn ra thành thị ngày càng phổ biến. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê

về Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, thì tỷ lệ di cư ở Việt Nam chiếm 7,3%

dân số, trong đó độ tuổi di cư từ 20-39 chiếm tỷ lệ lớn. Như vậy nếu ngân sách

đầu tư cho giáo dục đào tạo được phân bổ theo cách này thì có thể dẫn tới tình

trạng nguồn tài chính đầu tư được phân bổ không bình đẳng và vô hình chung tạo

sức ép cho các thành phố lớn.

Thứ hai, quy định “bảo đảm NSNN chi cho giáo dục, đào tạo tối thiểu là

20% tổng chi NSNN” chưa có hướng dẫn cụ thể dẫn tới cách hiểu và vận dụng

khác nhau giữa các địa phương. Thực tế, có địa phương dành trên 20% ngân sách

địa phương chi cho giáo dục đào tạo nhưng có những địa phương có nguồn lực

lớn, là thành phố trực thuộc trung ương nhưng lại không thể chi hết 20% ngân

sách địa phương theo quy định.106

So sánh với pháp luật một số quốc gia cho thấy, pháp luật các nước quy

định nhiều ưu đãi hơn cho người học so với pháp luật Việt Nam. Luật giáo dục

bắt buộc 09 năm ở Trung Quốc cho phép tất cả học sinh trong chương trình giáo

dục bắt buộc được miễn học phí và các khoản phí khác. Sách giáo khoa chỉ có thể

được định giá ở mức lợi nhuận cận biên.107 Chi phí thực hiện giáo dục bắt buộc từ

NSNN và ngân sách cho các quỹ giáo dục được chính phủ quản lý. Quỹ này được

106 Nguyễn Vũ Việt (2020), Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực chi NSNN cho giáo dục ở Việt Nam, đề tài cấp nhà nước, Học viện Tài chính, mã số KHGD/16-20. ĐT. 023 107 OECD (2015), Education in China- a snapshot

phân bổ từ các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp do nhà nước quản lý, nguồn

76

thu giáo dục từ các doanh nghiệp tại trường và doanh thu dịch vụ xã hội của họ.108

Mỹ cũng dành khoản ngân sách lớn cho giáo dục bắt buộc, trong đó chính phủ liên

bang chỉ đóng góp gần 10% vào ngân sách giáo dục quốc gia, còn lại do chính

quyền tiểu bang và địa phương chịu trách nhiệm.109 Học sinh ở Mỹ không chỉ

được miễn học phí mà còn được NSNN hỗ trợ sách giáo khoa, dịch vụ đưa đón,

chi phí ăn trưa và các chi phí khác. Trong khi đó, Việt Nam hiện nay mới chỉ miễn

học phí cấp tiểu học. Mặc dù trong một vài năm trở lại đây, một số tỉnh, thành phố

đã thực hiện chính sách miễn giảm học phí cho học sinh nhưng chính sách này

hiện mới chỉ được thực hiện ở một số ít địa phương. Điển hình như thành phố Hải

Phòng đã bắt đầu hỗ trợ 100% học phí cho trẻ mầm non đang thực học tại các cơ

sở giáo dục mầm non được thành lập, cấp phép hoạt động (cả công lập và tư thục).

Đối với học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông và bổ túc, ngân sách thành

phố Hải Phòng dự kiến hỗ trợ miễn học phí với khoảng hơn 300 tỉ đồng/năm.

Tương tự như Hải Phòng, từ năm 2019, TP. HCM thực hiện chính sách giảm học

phí 40.000 - 55.000 đồng/tháng đối với học sinh trung học cơ sở và bổ túc trung

học cơ sở tại các trường công lập.110

Bên cạnh NSNN, các nguồn lực tài chính phục vụ cho cung cấp các dịch vụ

giáo dục bao gồm: (i) Nguồn tài chính huy động nguồn lực của các ngành, các

cấp, các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân; (ii) Học phí.111 Mặc dù nhà nước đã

có chủ trương xã hội hoá hoạt động giáo dục nhưng thực tế hoạt động đầu tư của

khu vực tư nhân vào lĩnh vực này chưa đạt hiệu quả cao. Một trong những nguyên

nhân là pháp luật chưa có quy định chính sách ưu đãi cần thiết cho nhà đầu tư như

ưu đãi về giao đất, cho thuê đất hoặc cho thuê cơ sở vật chất, các chính sách ưu

108 China’s education spending for 2019, Nguồn: www.moe.gov.cn, truy cập ngày 14/6/2020 109Antonella Corsi-bunker , Guide to the education system in the United States https://isss.umn.edu/publications/USEducation/2.pdf 110 Đặng Chung, Các tỉnh miễn giảm, Hà Nội lại liên tục tăng học phí https://laodong.vn/xa-hoi/cac-tinh-mien- giam-ha-noi-lai-lien-tuc-tang-hoc-phi-771045.ldo, truy cập ngày 10/12/2019 111 Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao

đãi về tín dụng. Do vậy, các nhà đầu tư phải tự bỏ khoản vốn lớn để thuê hoặc

77

mua cơ sở vật chất, trang thiết bị để vận hành và học phí chính là nguồn bù đắp

cho các khoản đầu tư này. Điều này kéo theo mức học phí các trường dân lập được

tính ở mức cao và vô hình chung làm cản trở việc tiếp cận giáo dục của một bộ

phận người dân không thể hoặc khó tiếp cận dịch vụ giáo dục công lập.

2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về chăm sóc y tế

và thực tiễn thực hiện

Tương tự DVXHCB về giáo dục, DVXHCB về chăm sóc y tế cũng được thể

hiện ở hai nội dung chính là đảm bảo tiếp cận dịch vụ y tế bình đẳng với mọi đối

tượng dân chúng và cung cấp các dịch vụ y tế theo mức cơ bản mà quốc gia xác

định theo từng giai đoạn cụ thể của sự phát triển. Hiện nay, pháp luật về chăm sóc

YTCB ở Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như

Hiến pháp, Luật BHYT năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014, Luật Khám bệnh,

chữa bệnh năm 2009 và hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn.

2.2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản

về chăm sóc y tế và thực tiễn thực hiện

Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 đã ghi nhận khá đầy đủ và chính thức

quyền được chăm sóc sức khỏe của công dân, thể hiện tính phổ quát trong đối

tượng tiếp cận dịch vụ chăm sóc YTCB. Theo đó, mọi người đều có quyền được

bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế.112

Luật BHYT năm 2008, Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 ra đời tạo

hành lang pháp lý khá vững chắc và là một bước ngoặt lớn cho công tác chăm sóc

y tế đối với nhân dân. Pháp luật về đảm bảo quyền chăm sóc YTCB cũng chính là

pháp luật về khám chữa bệnh và BHYT, là những quy định cơ bản góp phần đảm

bảo ASXH. Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 tại Khoản 1 Điều 3 và Luật

Khám chữa bệnh năm 2023 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2024) ghi nhận sự

bình đẳng, công bằng và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người bệnh. Thông

112 Khoản 1 Điều 38 Hiến pháp 2013

tư số 39/2017/TT-BYT cũng ghi nhận một cách “gián tiếp” đối tượng được hưởng

78

gói dịch vụ y tế cơ bản là “mọi người dân” tại Điều 1 về phạm vi và đối tượng áp

dụng. Thêm vào đó, Luật sửa đổi, bổ sung Luật BHYT năm 2014 đã chính thức

xóa bỏ hình thức BHYT tự nguyện, chỉ ghi nhận hình thức BHYT bắt buộc và

hướng tới BHYT phổ quát. Luật BHYT sửa đổi năm 2014 và Nghị định số

146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một

số điều của Luật BHYT đã quy định đối tượng tham gia BHYT gồm 6 nhóm: (i)

Nhóm do NLĐ và người sử dụng lao động đóng; (ii) Nhóm do cơ quan BHXH

đóng; (iii) Nhóm do NSNN đóng chủ yếu là những đối tượng chính sách; (iv)

Nhóm do NSNN hỗ trợ mức đóng; (v) Nhóm tham gia BHYT theo hộ gia đình;

(vi) Nhóm do người sử dụng lao động đóng.113

Về cơ bản đối tượng tham gia BHYT hiện nay được quy định mang tính bao

phủ hầu hết các thành viên xã hội nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu BHYT toàn

dân. Thực tế đã chứng minh, ưu điểm lớn nhất khi tham gia BHYT đó chính là

gánh nặng tài chính trước rủi ro sức khỏe được san sẻ một cách đáng kể. Hơn thế,

đây có thể coi là tấm “lưới đỡ” an toàn để người tham gia BHYT có cơ hội được

tiếp cận chăm sóc YTCB. Tính đến năm 2022, số lượng người tham gia BHYT

chiếm 92,6% dân số.114

Tuy nhiên, quy định về đối tượng tiếp cận chăm sóc YTCB trong hệ thống

pháp luật còn tồn tại những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng đến quyền tiếp cận

chăm sóc YTCB của người dân và việc thực hiện chưa đạt hiệu quả cao như:

Một là, Luật Khám bệnh, chữa bệnh và Thông tư số 39/2017/TT-BYT chưa

có quy định trực tiếp và rõ ràng về đối tượng được tiếp cận chăm sóc YTCB. Đối

tượng tiếp cận chăm sóc YTCB thường được thể hiện trong các Chương trình mục

tiêu quốc gia cụ thể đối với từng loại dịch vụ. Chẳng hạn, Chương trình tiêm chủng

113 Xem thêm Điều 12 Văn bản hợp nhất Luật Bảo hiểm y tế số 28/VBHN-VPQH ngày 7 tháng 12 năm 2020 và Điều 1, 2, 3, 4, 5, 6 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP 114 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị trung ương 5 Khoá XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020

mở rộng quốc gia ghi nhận đối tượng được tiếp cận là tất cả trẻ em từ 0-10 tuổi.

79

Hoặc Chương trình quốc gia về sức khỏe sinh sản, bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em

giai đoạn 2021-2025 có đối tượng tiếp cận là “bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ”…

Hai là, quy định nhóm tham gia BHYT do NLĐ và người sử dụng lao động

đóng chưa có sự phân biệt NLĐ là người nước ngoài và NLĐ trong nước. Trong

khi, lao động là người nước ngoài có thể thuộc nhiều diện khác nhau: người nước

ngoài hưởng lương ở nước ngoài và làm việc tại VN, người nước ngoài làm việc

ở VN có những cam kết về BHYT, chăm sóc sức khoẻ trong các Điều ước quốc

tế, cam kết thoả thuận quốc gia.... Bên cạnh đó, nhóm người nước ngoài đang sinh

sống tại Việt Nam kết hôn với người Việt Nam, trẻ em là người nước ngoài, có

quốc tịch nước ngoài ở Việt Nam cũng chưa có hướng dẫn cụ thể gây lúng túng

trong quá trình thực hiện.

Ba là, nhóm đối tượng nhiễm HIV/AIDS chưa được đề cập cụ thể trong quy

định về đối tượng tham gia BHYT trong khi hiện nay thuốc điều trị HIV/AIDS

được BHYT thanh toán thay vì do NSNN chi trả như trước đây.115

Bốn là, Luật BHYT còn “bỏ sót” nhóm người mắc các bệnh đặc biệt như

bệnh phong, bệnh lao hay người khuyết tật nhẹ. Những nhóm đối tượng này gặp

nhiều khó khăn trong điều trị, thường có điều kiện kinh tế khó khăn và rất cần

được hỗ trợ tiếp cận chăm sóc YTCB.

Năm là, nhóm NLĐ nhập cư, tái nhập cư, lao động là người Việt Nam quay

trở lại Việt Nam từ Lào, Camphuchia, Trung Quốc và sống ở vùng biên giới chưa

được quy định thuộc nhóm nào trong đối tượng tham gia BHYT. Nhóm đối tượng

này không có hộ khẩu ở Việt Nam nên chưa được tham gia BHYT theo hộ gia

đình.

Sáu là, quy định về nhóm đối tượng tham gia BHYT theo hộ gia đình chưa

tương thích với quy định của Luật Cư trú năm 2020. Nhóm tham gia BHYT theo

115 Thông tư số 27/2018/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 26 tháng 10 năm 2018 hướng dẫn thực hiện BHYT và khám chữa bệnh BHYT liên quan đến HIV/AIDS

hộ gia đình được xác định dựa trên sổ hộ khẩu, sổ tạm trú nhưng Luật Cư trú năm

80

2020 không còn quy định về sổ hộ khẩu, sổ tạm trú nên việc xác định đối tượng

tham gia BHYT theo nhóm này sẽ gặp những vướng mắc nhất định trên thực tế và

thể hiện sự không đồng nhất trong hệ thống pháp luật.

Bảy là, nhóm người cao tuổi. Điều 12 Luật BHYT sửa đổi bổ sung năm

2014 quy định người cao tuổi đủ điều kiện hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng được

nhà nước đóng BHYT. Người cao tuổi đang hưởng lương hưu, người cao tuổi từ

đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng chế độ tuất hàng tháng được tổ chức BHXH đóng

BHYT. Như vậy, nhóm người cao tuổi từ 60-79 tuổi không thuộc diện hưởng trợ

cấp xã hội hàng tháng, không có lương hưu, không hưởng chế độ tuất hàng tháng

phải tự tham gia BHYT. Quy định này vô hình chung đang “bỏ lọt” nhóm đối

tượng có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cao bởi theo thống kê trung bình một người

cao tuổi mắc 3 bệnh mãn tính và có 14 năm sống chung với bệnh tật.116 Hơn nữa,

nhóm người cao tuổi chưa có thẻ BHYT chủ yếu tập trung ở nhóm 60-79 nêu

trên.117

Thực tiễn thực hiện quy định đối tượng tiếp cận DVXHCB về chăm sóc y

tế cho người khuyết tật chưa đạt hiệu quả cao do chất lượng dịch vụ chăm sóc sức

khoẻ, khám chữa bệnh còn hạn chế. Điều này xuất phát từ nguyên nhân số lượng

trạm y tế cấp xã thực hiện phục hồi chức năng cho người khuyết tật chỉ chiếm

57,3%, cả nước chỉ có 12,6% cán bộ, nhân viên trạm y tế cấp xã được đào tạo về

phục hồi chức năng cho người khuyết tật.118 Mặc dù đã có 10.000/11.000 xã trên

cả nước đã có phân công cán bộ y tế chuyên trách về phục hồi chức năng nhưng

chỉ có khoảng 50% trong số này được đào tạo và có kiến thức, kỹ năng về phục

116 Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội Khoá 13 (2015), Già hoá dân số và chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng ở Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, 2015, tr.13 117 Nỗ lực đảm bảo 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế https://soyte.hanoi.gov.vn/chuong-trinh-y-te/- /asset_publisher/4IVkx5Jltnbg/content/no-luc-am, truy cập ngày 15/7/2022 118 Tổng cục Thống kê (2018), Báo cáo quốc gia về người khuyết tật 2016, Nxb. Thống kê, tr.158, 160 119 Đỗ Thị Dung, Quyền bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của người khuyết tật trong Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật 2006 và việc nội luật hoá trong pháp luật Việt Nam, chuyên đề đề tài cấp khoa học cấp cơ sở “Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật (2006) và vấn đề nội luật hoá trong pháp luật Việt Nam, chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Hiền Phương, Đại học Luật Hà Nội, 2020.

hồi chức năng và phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng.119 Theo thống kê, số

81

trạm y tế có thiết kế phù hợp với người khuyết tật chỉ chiếm 16,9%. Trong số đó,

chỉ có 22,4% trạm y tế có công trình vệ sinh thiết kế phù hợp để người khuyết tật

có thể dễ dàng sử dụng.120

Không những thế, tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số dưới 01 tuổi tử vong còn

cao, tỷ lệ phụ nữ mang thai được thăm, khám trong thai kỳ chưa cao, tỷ lệ phụ nữ

sinh con tại nhà và tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dân tộc thiểu số còn chiếm tỷ lệ

cao. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là đội ngũ y bác sĩ, cán

bộ y tế ở Việt Nam chưa đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Bằng chứng là tỷ

lệ bác sĩ ở Việt Nam tính trên 01 vạn dân còn thấp, mới đạt 10 bác sĩ/1 vạn dân

tính đến năm 2022121, thiếu cán thiếu cán bộ y tế có chuyên môn sâu, cán bộ người

địa phương; cơ sở vật chất y tế ở những vùng nghèo, nhất là vùng dân tộc thiểu

số, miền núi còn thiếu, chưa đồng bộ (tính đến tháng 07/2018, mới có 9.821 trạm

y tế xã đủ điều kiện khám, chữa bệnh BHYT); tại 01 số tỉnh có tỷ lệ bác sĩ/trạm y

tế rất thấp như Lai Châu 15,9%, Lào Cai 28,6%, Điện Biên 33,9%, Khánh Hòa

23,5%...; trong tổng số 26.557 nhân viên y tế trạm y tế xã thì có 12,3% là bác sỹ,

số còn lại là y tá, điều dưỡng, nữ hộ sinh.

2.2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về chăm

sóc y tế và thực tiễn thực hiện

DVXHCB về chăm sóc y tế được cung cấp ở Việt Nam bao gồm gói dịch

vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khoẻ và gói dịch vụ y

tế cơ bản do quỹ bảo hiểm y tế chi trả được quy định tại Thông tư số 39/2017/TT-

BYT.

Thứ nhất, gói dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng và nâng cao

sức khỏe. Gói này được quy định bao gồm 17 dịch vụ, bao gồm: tư vấn, truyền

120 Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam (2020), Báo cáo độc lập về tình hình thực thi công ước của LHQ về quyền của Người khuyết tật tại Việt Nam 121 Bộ Y tế (2022), Báo cáo nâng cao công tác chăm sóc sức khoẻ Nhân dân; chủ động thích ứng linh hoạt, góp phần phục hồi nhanh, phát triển bền vững, Tài liệu Hội nghị ngày 21/8/2022

thông, giáo dục, nâng cao sức khỏe; tiêm chủng; khám, quản lý sức khỏe cá nhân;

82

giám sát và phòng chống các bệnh, dịch truyền nhiễm; chăm sóc sức khỏe bà mẹ

trẻ em và kế hoạch hóa gia đình; tư vấn, truyền thông dinh dưỡng và an toàn thực

phẩm; giáo dục, truyền thông và vận động nhân dân sử dụng nước sạch, bảo đảm

vệ sinh môi trường, sử dụng nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh...; giám sát và phòng

chống các bệnh không lây nhiễm; kiểm soát các yếu tố nguy cơ có hại cho sức

khỏe; bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng; y tế học đường; bảo đảm máu an toàn

và phòng, chống các bệnh về máu; Quản lý sức khỏe các đối tượng ưu tiên; phục

hồi chức năng cho người khuyết tật tại cộng đồng; chăm sóc sức khỏe tại nhà, bao

gồm phục hồi chức năng, vật lý trị liệu, phòng chống ung thư; khám sàng lọc, phát

hiện các bệnh tật cho nhóm nguy cơ cao cho cộng đồng; Cung cấp thuốc thiết yếu.

Khi người dân sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dự phòng và nâng cao sức

khoẻ tại cơ sở y tế địa phương được NSNN bảo đảm kinh phí.122

Nhìn chung, gói dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dự phòng và nâng cao

sức khỏe đã bao gồm khá nhiều dịch vụ mang tính thiết yếu, đáp ứng phần lớn nhu

cầu chăm sóc sức khoẻ cơ bản của người dân. Tuy nhiên, gói dịch vụ này vẫn thiếu

vắng một số dịch vụ cũng được cho là rất cần thiết, có vai trò quan trọng đối với

chất lượng dân số. Đó là dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tình dục, chăm sóc sức khoẻ

sinh sản cho đối tượng vị thành niên, thanh niên. Hiện nay, tỷ lệ dân số ở đội tuổi

vị thành niên, thanh niên chiếm tỷ lệ không nhỏ với khoảng 23,8% dân số của

nước, tương đương 22.898.886 người vào năm 2019.123 Vấn đề chăm sóc sức khoẻ

tình dục, chăm sóc sức khoẻ sinh sản sẽ giúp cho nhóm đối tượng này có những

kiến thức cơ bản về tình dục an toàn, về sức khoẻ sinh sản, từ đó đảm bảo vấn đề

sức khoẻ và nâng cao chất lượng dân số. Thứ hai, gói dịch vụ y tế cơ bản do quỹ

bảo hiểm y tế chi trả. Khi tham gia BHYT, người tham gia được hưởng một số chi

122 Điều 4, Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 39/2017/TT-BYT của Bộ Y tế 123 Nguyễn Tuấn Anh (2020), Dân số trong độ tuổi thanh niên ở Việt Nam – Những vấn đề đặt ra, https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/12/22/dan-so-trong-do-tuoi-thanh-nien-o-viet-nam-nhung-van-de-dat- ra/, truy cập ngày 10/9/2022

phí như: chi phí khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ,

83

sinh con (bao gồm các chi phí thuốc, hoá chất, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật y tế);

Chi phí vận chuyển người bệnh (vận chuyển người bệnh từ tuyến dưới lên tuyến

trên trong một số trường hợp). Người tham gia BHYT khi đi khám bệnh, chữa

bệnh sẽ được quỹ BHYT thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh ở mức 100%,

95%, 80% tùy từng đối tượng.124

Nhìn chung, gói dịch vụ y tế cơ bản do quỹ BHYT chi trả vẫn chưa bao

quát một số chi phí như: chi phí dự phòng y tế, quản lý sức khoẻ, khám sàng lọc

và chẩn đoán sớm một số bệnh, nhóm bệnh, chi phí cho một số sản phẩm đặc trị

điều trị suy dinh dưỡng, rối loạn chuyển hoá bẩm sinh cho trẻ em dưới 6 tuổi. Hơn

nữa, một số dịch vụ chưa nằm trong phạm vi thanh toán BHYT, tạo nên sự hạn

chế trong quy định của luật như:

Một là, dịch vụ khám, tư vấn dinh dưỡng, điều trị suy dinh dưỡng cấp tính

cho trẻ em dưới 6 tuổi và một số sản phẩm đặc hiệu không phải là thuốc để điều

trị trẻ em dưới 6 tuổi bị suy dinh dưỡng, rối loạn chuyển hoá bẩm sinh đòi hỏi phải

sử dụng. Đây là một dịch vụ y tế cơ bản và thiết yếu trong bối cảnh tỉ lệ trẻ em

dưới 6 tuổi bị suy dinh dưỡng ở Việt Nam vẫn còn khá cao và tốn kém chi phí chữa

trị, tập trung nhiều ở nhóm đối tượng có hoàn cảnh kinh tế khó khăn song suy dinh

dưỡng lại chưa được coi là một loại bệnh cần được quan tâm đúng mức và được

BHYT thanh toán. Theo GS.TS Nguyễn Gia Khánh, Chủ tịch Hội Nhi Khoa Việt

Nam cho biết năm 2016, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng là 24.3%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5

tuổi ở Việt Nam bị thấp còi là 30% (khoảng 2,5 triệu trẻ) là những con số đáng

báo động cần sự hỗ trợ khắc phục của BHYT vì tương lai phát triển quốc gia.

Hai là, chi phí xét nghiệm, chẩn đoán thai không nhằm mục đích điều trị.

Việc xét nghiệm, chẩn đoán thai như: dịch vụ xét nghiệm, chẩn đoán thai nhi để

khám sàng lọc trẻ sơ sinh, kiểm tra sức khỏe thai nhi, nếu phát hiện thai nhi bị dị

124 Điều 14 Nghị định 146/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17 tháng 10 năm 2018 quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật BHYT

tật bẩm sinh thì có thể kịp thời đưa ra các biện pháp chữa trị thích hợp. Dịch vụ

84

này góp phần quan trọng trong việc giảm chi phí y tế sau khi sinh, nâng cao chất

lượng dân số, giảm gánh nặng cho xã hội và gia đình trẻ;

Ba là, phạm vi hưởng BHYT còn giới hạn một số dụng cụ chỉnh hình cho

người khuyết tật như chân tay giả, máy trợ thính, phương tiện giúp vận động trong

khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng; các dịch vụ can thiệp tâm lý cho

người khuyết tật trí tuệ, thần kinh.

2.2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản

về chăm sóc y tế và thực tiễn thực hiện

Chủ thể cung cấp dịch vụ chăm sóc YTCB ở Việt Nam hiện nay là hệ thống

cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thành lập theo quy định của pháp luật và thuộc

một trong các hình thức tổ chức như: Bệnh viện; bệnh xá thuộc lực lượng công an

nhân dân; phòng khám đa khoa; phòng khám chuyên khoa; cơ sở khám bệnh, chữa

bệnh y học gia đình; Nhà hộ sinh; Cơ sở y tế....125.

Đối với gói dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng và nâng cao sức

khỏe, gói này do hệ thống trung tâm y tế quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

(trung tâm y tế huyện) và các trạm y tế xã, phường, thị trấn cung cấp. Thực tế cho

thấy, hệ thống y tế tuyến cơ sở đã phát huy được vai trò, vị trí trong công tác quản

lý, chăm sóc sức khoẻ người dân ngay tại cộng đồng như: thực hiện khám chữa

một số bệnh thông thường, triển khai hoạt động y tế- dân số, tiêm chủng mở rộng,

phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, phòng chống một số bệnh truyền nhiễm…

Tuyến y tế cơ sở đã thực hiện được khoảng 50-60% các dịch vụ theo phân tuyến,

theo gói dịch vụ y tế cơ bản.126 Tỷ lệ tiêm phòng đầy đủ và tỷ lệ phụ nữ được cán

bộ y tế đỡ đẻ đạt trên 90%.127 Bên cạnh những kết quả tích cực, thực tiễn thực hiện

125 Khoản 3 Điều 11Nghị định 155/2018/NĐ-CP ngày 12/11/2018 sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế 126 Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020. 127 Ngân hàng thế giới, Tổ chức Y tế thế giới, UNICEF và JICA, Hướng tới bao phủ, chăm sóc sức khoẻ toàn dân Việt Nam

quy định về dịch vụ chăm sóc YTCB vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Tỷ lệ

85

trẻ em được tiêm chủng đầy đủ luôn duy trì mức trên 90% nhưng không đồng đều

giữa các vùng, chẳng hạn năm 2019, vùng Đông Nam Bộ tỷ lệ trẻ em tiêm chủng

đầy đủ là 89,6% trong khi vùng Đồng Bằng sông Hồng đạt tới 96,8%.128 Hệ quả

là những trẻ em này trở thành đối tượng nhạy cảm với dịch bệnh và cũng là nơi ổ

dịch tiếp tục duy trì nguồn bệnh và khi dịch bệnh bùng phát sẽ ảnh hưởng đến sức

khoẻ chính bản thân những trẻ đó và là nguồn lây nhiễm cho cộng đồng. Tỷ lệ

khám thai của phụ nữ dân tộc thiểu số còn quá thấp như dân tộc La Hủ khám thai

ít nhất 3 lần trong thai kỳ chỉ đạt 9,1%, Hà Nhì với 25,4%, Si La: 25,5%, La Ha:

31,9%, Mảng: 34,9%, Mông: 36,5%.129 Tỷ lệ sinh con tại cơ sở y tế của phụ nữ

dân tộc thiểu số chỉ chiếm 16%, quá thấp so với tỷ lệ 94% của cả nước. Tương tự,

tỷ lệ các ca đẻ có sự hỗ trợ của cán bộ y tế có trình độ chuyên môn của phụ nữ dân

tộc thiểu số chiếm 41% so với tỷ lệ chung trên cả nước là 94%. Nhiều phụ nữ dân

tộc thiểu số muốn sinh con tại nhà nhưng nhân viên y tế của các trạm y tế không

cung cấp dịch vụ hỗ trợ sinh đẻ tại nhà, trừ trường hợp có tai biến hoặc cấp cứu.130

Với việc hạn chế tiếp cận chăm sóc YTCB, tình trạng tử vong trẻ em dân tộc thiểu

số dưới 1 tuổi thực sự đáng báo động. Đặc biệt các dân tộc thiểu số như La Hủ,

Lự, Mảng, Si La, Rơ Măm, và Cơ Lao, tỷ lệ tử vong trẻ dưới 1 tuổi trên 40‰ và

trẻ dưới 5 tuổi trên 60‰ (cao gấp 2,5 lần mức bình quân của các dân tộc thiểu số

nói chung và gấp 3 lần mức bình quân chung trên cả nước).

Theo quy định của Luật BHYT, khi tham gia BHYT, người tham gia có thể

khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế có ký hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh với tổ

chức BHYT.131 Như vậy, chủ thể cung cấp gói dịch vụ y tế cơ bản do quỹ BHYT

chi trả không chỉ có hệ thống cơ sở y tế công lập, mà còn có các cơ sở y tế ngoài

128 Báo cáo quốc gia năm 2020, Tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, tr.46 129 Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tr.30 130 Trường Đại học Toronto, Canada, Viện Nghiên cứu Phát triển Mekong tại Hà Nội (2017), Những rào cản trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và kế hoạch hoá gia đình của đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam. 131 Điều 24 Luật BHYT sửa đổi, bổ sung năm 2014

công lập, miễn là các cơ sở y tế này có ký hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh với tổ

86

chức BHYT. Quy định này tạo điều kiện cho người tham gia BHYT dễ dàng tiếp

cận dịch vụ chăm sóc YTCB và giảm áp lực lên hệ thống cơ sở y tế công lập.

Ngoài ra, với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia BHYT

khám chữa bệnh, Luật BHYT quy định về thông tuyến khám chữa bệnh với bệnh

viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh từ ngày 1/1/2016132 và thông tuyến điều

trị nội trú đối với bệnh viện tuyến tỉnh trong phạm vi cả nước từ ngày 1/1/2021.133

Tuy nhiên, quy định này vẫn chưa thực sự đạt được mục đích đặt ra. Điểm hạn

chế trong quy định này là thông tuyến khám chữa bệnh bệnh viện tuyến huyện

mới chỉ áp dụng trong phạm vi tỉnh và thông tuyến khám chữa bệnh bệnh viện

tuyến tỉnh chỉ áp dụng đối với người bệnh điều trị nội trú mà chưa áp dụng đối với

khám chữa bệnh ngoại trú. Do đó, NLĐ di cư vẫn gặp khó khăn trong khám chữa

bệnh bằng thẻ BHYT bởi nếu họ di cư tới một tỉnh, thành phố khác làm việc thì

vẫn phải quay về địa bàn tỉnh nơi họ cư trú khi khám, chữa bệnh BHYT. Điều này

làm hạn chế việc dùng thẻ BHYT trong khám, chữa bệnh và làm cho BHYT kém

hấp dẫn với người dân nói chung và NLĐ di cư nói riêng.

Trong thời gian qua, hệ thống mạng lưới bệnh viện tuyến tỉnh và huyện ở

Việt Nam đã được mở rộng và nâng cấp. Các trạm y tế xã bao phủ 99% các xã,

phường, thị trấn toàn quốc.134 Điều này góp phần tích cực trong việc làm giảm

đáng kể tỷ lệ mắc các bệnh truyền nhiễm có vắc-xin dự phòng, giúp trẻ có thể

phòng tránh một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và nâng cao chất lượng sống.

Hiệu quả tiếp cận y tế cơ bản của người dân một số địa phương rất khả quản như

TP.HCM, tính đến năm 2015, có 456 cơ sở y tế với 35.981 giường bệnh, trong đó

có 109 bệnh viện, 319 trạm y tế xã phường, số lượng cán bộ y tế lên tới hơn 45.000

người. Bình quân 9.981 người dân thì có 1 cơ sở y tế.135 Hệ thống cơ sở y tế ở

132 Điểm c, Khoản 2, Điều 22 Luật BHYT năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 133 Khoản 6 Điều 22 Luật BHYT năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 134 Ngân hàng thế giới, Tổ chức Y tế thế giới, UNICEF và JICA, Hướng tới bao phủ, chăm sóc sức khoẻ toàn dân Việt Nam 135 Cục thống kê TPHCM (2015), Niên giám thống kê TPHCM, NXB. Thanh niên

thành phố Hà Nội cũng ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng với 111

87

bệnh viện, trong đó có 41 bệnh viện công lập trực thuộc thành phố, 39 bệnh viện

ngoài công lập, 31 bệnh viện Trung ương, bộ, ngành. Hệ thống trung tâm y tế

quận, huyện bao gồm 30 trung tâm; 53 phòng khám đa khoa khu vực, 4 nhà hộ

sinh và 584 trạm y tế xã, phường. Trong đó 456 trạm y tế được đầu tư nâng cấp

cải tạo, sửa chữa, bảo đảm đủ các phòng chức năng theo đúng quy định để thực

hiện tốt các hoạt động chuyên môn, gọi là các trạm y tế điểm đạt (chiếm 95,19%

số lượng trạm y tế).136

2.2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ xã

hội cơ bản về chăm sóc y tế và thực tiễn thực hiện

Có thể nói, hoạt động chăm sóc sức khỏe cộng đồng ở Việt Nam có từ rất

sớm với các thành tựu về y học cổ truyền. Trải qua 2 cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp và đế quốc Mỹ, mô hình y tế khám, chữa bệnh của nước ta chủ yếu dưới

dạng các trung tâm y tế cộng đồng. Sau này, hệ thống y tế được tổ chức mở rộng

theo mô hình kim tự tháp áp dụng trên cả nước. Mỗi xã, phường đều có một trung

tâm/trạm y tế cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho người dân. Từ năm 1989, Chính

phủ quyết định bỏ chế độ chăm sóc y tế miễn phí, cho phép các bệnh viện được

thu viện phí theo ngày nằm viện và mức sử dụng dịch vụ.137

Đến nay, vấn đề đầu tư cho dịch vụ chăm sóc sức khoẻ vẫn luôn được quan

tâm và ưu tiên ở nước ta. Luật Khám bệnh, chữa bệnh đã minh chứng điều này khi

quy định: (i) Ưu tiên bố trí ngân sách nhằm đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa

bệnh cơ bản của nhân dân, trong đó quan tâm dành ngân sách cho việc chăm sóc

sức khỏe của một số đối tượng đặc biệt; (ii) Tăng cường phát triển nguồn nhân lực

y tế, đặc biệt là ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn;

136 Hiếu Giang, Hà Nội phát triển hệ thống y tế cơ sở trong tình hình mới https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tap-doan-vingroup/-/2018/820737/ha-noi-phat-trien-he-thong- y-te-co-so-trong-tinh-hinh-moi.aspx, truy cập ngày 30/9/2022. 137 Quyết định số 45/ HĐBT ngày 24/4/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cho phép cơ sở khám chữa bệnh thu một phần viện phí y tế

(iii) Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh; khuyến khích tổ

88

chức, cá nhân đầu tư phát triển dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh...;138 Hoặc Luật

Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023 sắp có hiệu lực cũng thể hiện rõ tinh thần này

khi quy định ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho các hoạt động như: hoạt động

phát triển cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Khám bệnh chữa bệnh cho người có công

với cách mạng, nhóm đối tượng yếu thế (trẻ em, người khuyết tật…); Tăng cường

phát triển nguồn nhân lực y tế; Nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển

đổi số trong khám, chữa bệnh.139 Nhà nước dành một phần ngân sách cho dịch vụ

khám bệnh, chữa bệnh cơ bản của người dân, đồng thời người dân cũng có nghĩa

vụ tự chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh. Tuy nhiên, nếu người bệnh có tham

gia BHYT thì chi phí khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện theo nguyên tắc đóng

hưởng của BHYT, có nghĩa người tham gia BHYT đóng một khoản tiền vào quỹ

BHYT và khi họ có nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh thì quỹ BHYT hỗ trợ chi trả

một phần chi phí. Về cơ bản, quy định về nguồn tài chính đầu tư cho YTCB phù

hợp với xu thế chung của các quốc gia, một mặt thể hiện trách nhiệm của Nhà

nước trong đảm bảo ASXH cho người dân, một mặt huy động tài chính từ người

sử dụng dịch vụ và sự đầu tư của khu vực tư nhân.

Tuy nhiên, quy định trên vẫn tồn tại những hạn chế nhất định làm ảnh hưởng

đến quyền tiếp cận dịch vụ chăm sóc YTCB của người dân, cụ thể:

Vấn đề tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập mặc dù được quy định tại

Nghị định số 60/2021/NĐ-CP nhưng Nghị định này được áp dụng chung cho đơn

vị sự nghiệp ở tất cả các lĩnh vực. Trong khi đó, vấn đề tài chính trong lĩnh vực y

tế có những đặc thù riêng và cần phải có quy định riêng. Đây là một trong những

nguyên nhân làm cho các cơ sở y tế còn lúng túng trong việc mua sắm trang thiết

bị, vật tư, thuốc phục vụ hoạt động khám, chữa bệnh dẫn đến tình trạng thiếu trang

thiết bị, vật tư, thuốc.

138 Điều 4 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 139 Điều 4 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023

Vấn đề đầu tư cho y tế cơ sở cũng chưa được quan tâm đúng mực. Luật

89

NSNN quy định ngân sách địa phương có trách nhiệm đầu tư cho y tế địa phương.

Theo đó, UBND cấp tỉnh trình HĐND cấp tỉnh ban hành định mức phân bổ ngân

sách địa phương cho y tế dự phòng, y tế cơ sở nhưng lại chưa có hướng dẫn cụ

thể. Do vậy, các địa phương còn lúng túng trong quá trình thực hiện hoặc chưa

phân bổ đủ ngân sách cho y tế dự phòng theo quy định. Theo nguyên Bộ trưởng

Nguyễn Thị Kim Tiến thì nhiều địa phương chưa đảm bảo được 30% ngân sách

cho y tế dự phòng, nhiều hoạt động dự phòng, nâng cao sức khỏe, chăm sóc sức

khỏe ban đầu chưa được phân bổ kinh phí để triển khai hoặc có nhưng rất thấp.”140

Hơn nữa, chưa có quy định hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho các địa phương có

khó khăn trong đầu tư cho y tế cơ sở. Với vai trò nòng cốt của y tế tuyến cơ sở -

nơi đầu tiên người dân có thể tiếp cận thuận tiện và dễ dàng khi ốm đau, bệnh tật

thì đầu tư cho y tế cơ sở rất cần được chú trọng.

Tương tự như các dịch vụ công khác, nhà nước từng bước thực hiện mục

tiêu xã hội hoá công tác khám bệnh, chữa bệnh. Trong đó, nhà nước giữ vai trò

chủ đạo trong phát triển hệ thống khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở khám bệnh, chữa

bệnh của nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Để nâng cao chất lượng

dịch vụ chăm sóc YTCB nói riêng thì mô hình đối tác công tư được coi là một giải

pháp tích cực. Năm 2020, Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư theo phương thức

đối tác công tư nhằm khuyến khích và tạo hành lang pháp lý cho khu vực tư nhân

tham gia vào các dự án công, trong đó có lĩnh vực y tế. Tuy nhiên, các quy định

này vẫn bộc lộ những hạn chế, thể hiện “ưu thế” của nhà nước trong mối quan hệ

vốn phải bình đẳng này, làm giảm sự thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân. Chẳng

hạn, Luật chưa quy định cụ thể và rõ về trách nhiệm của nhà nước trong trường

hợp giải ngân chậm tiến độ, không tăng phí theo cam kết… trong khi nhà đầu tư

phải thực hiện nhiều cam kết và nếu vi phạm thì bị xử lý. Quy định thể hiện sự bất

140https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tin tuc/Lists/News&ItemID=36843, truy cập ngày 18/9/2022

bình đẳng trong quan hệ đối tác công tư như quy định chỉ có cơ quan nhà nước là

90

cơ quan ký kết hợp đồng dự án mới có quyền yêu cầu Kiểm toán Nhà nước thực

hiện kiểm toán. Hoặc một số quy định chưa phù hợp, chưa mang tính khả thi cao

như quy định về tổng mức đầu tư dự án thuộc lĩnh vực y tế, làm cơ sở để cơ quan

ký hợp đồng tiến hành kiểm tra và cấp xác nhận hoàn thành cho doanh nghiệp

là tối thiểu 100 tỷ đồng. Mức đầu tư này khó khả thi với doanh nghiệp. Không

những thế, hiện nay chưa có quy định về chính sách ưu đãi cho các dự án đối tác

công tư có mức lợi nhuận không cao nhưng có ý nghĩa thực hiện mục tiêu bao phủ

chăm sóc YTCB như các dự án dành cho nhóm đối tượng yếu thế (người khuyết

tật, trẻ em, người nghèo…). Theo kết quả công bố của Ngân hàng Thế giới, đến

năm 2019, Việt Nam có 58 dự án thuộc danh sách dự án đối tác công tư trong lĩnh

vực y tế được đề xuất nhưng chỉ có 26 dự án đang bắt đầu triển khai. Trong đó, 13

dự án đã thực hiện đến bước báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, 6 dự án đến giai

đoạn báo cáo nghiên cứu khả thi, 5 dự án mới đến giai đoạn đấu thầu, lựa chọn

nhà đầu tư và có 2 dự án đang ở giai đoạn ký kết hợp đồng.141

Một thực trạng khác đang tồn tại là nhiều cơ sở y tế công lập được đầu tư

đầy đủ theo hình thức xã hội hoá nhưng không phát huy được hiệu quả làm lãng

phí nguồn lực đầu tư của NSNN và khó khăn trong thu hồi vốn cho doanh nghiệp.

Điển hình là 129 trạm y tế xã, phường trên địa bàn tỉnh được đầu tư cơ sở vật chất,

trang thiết bị cơ sở vật chất, kỹ thuật với tổng mức đầu tư là 123,749 tỷ đồng trong

thời hạn 10 năm theo Quyết định số 3468/QĐ-UBND ngày 24-8-2020 của Chủ

tịch UBND tỉnh Thanh Hóa. Trong đó 95% là nguồn vốn đầu tư của công ty Nhật

Quang, 5% còn lại là nguồn vốn ngân sách tỉnh. Theo đó, mỗi trạm y tế được đầu

tư khá đầy đủ từ cơ sở vật chất (máy tính, điều hoà, máy lọc nước…) đến trang

thiết bị chuyên môn (máy siêu âm Doppler màu 4D, máy xét nghiệm huyết học tự

động…). Ngoài ra đề án còn dành kinh phí để đào tạo, cấp chứng chỉ chuyên môn,

141 https://dangcongsan.vn/phat-huy-thanh-tuu-y-te-trong-cham-soc-suc-khoe-nhan-dan/tin-tuc/thuc-day-hop- tac-cong-tu-thuc-day-phat-trien-ben-vung-nganh-y-te-610401.html, truy cập ngày 20/7/2022

hướng dẫn vận hành, chuyển giao kỹ thuật cho người sử dụng thiết bị. Mặc dù

91

được đầu tư như vậy nhưng kết quả mang lại không như mong đợi. Theo thống

kê, hơn 20% trạm y tế trong số các trạm y tế được đầu tư nêu trên chỉ thực hiện

dịch vụ kỹ thuật vài lần để thử máy, sau đó gần như không sử dụng, 50% số TYT

rất ít sử dụng; chỉ có 20% số trạm y tế thường xuyên sử dụng trang thiết bị.142

2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về nhà ở và thực

tiễn thực hiện

Vấn đề nhà ở được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như

Hiến pháp, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Nhà ở năm 2014, Luật Cư trú năm

2020 và các văn bản hướng dẫn thi thành.

2.3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản

về nhà ở và thực tiễn thực hiện

Quyền có nhà ở được ghi nhận và đảm bảo trong các bản Hiến pháp của

Nhà nước Việt Nam từ năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013. Do tình hình an ninh,

quốc phòng, tình hình kinh tế xã hội mỗi giai đoạn mà quy định về quyền có nhà

ở của công dân có sự khác nhau. Điều 22 Hiến pháp 2013 quy định: “công dân có

quyền có nơi ở hợp pháp, mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, không

ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được sự đồng ý”. Quyền này

được cụ thể hoá tại Điều 4 Luật Nhà ở năm 2014 với việc ghi nhận quyền có chỗ

ở của hộ gia đình, cá nhân thông qua nhiều hình thức như mua, thuê, nhận tặng,

cho, hưởng thừa kế...

Đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam không chỉ có tổ chức, cá nhân,

hộ gia đình trong nước mà còn có người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức,

cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án tại Việt Nam; doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước

142 Hà Bắc, Bất cập trong thực hiện đề án đầu tư xã hội hoá y tế tuyến xã, https://baothanhhoa.vn/y-te-suc-khoe/bat-cap-trong-thuc-hien-de-an-dau-tu-xa-hoi-hoa-y-te-tuyen- xa/170659.htm, truy cập ngày 1/11/2022

ngoài, quỹ đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động

92

tại Việt Nam; cá nhân nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam.143 Luật

Nhà ở năm 2014 cũng quy định cá nhân nước ngoài được mua và sở hữu nhà ở. Ở

Việt Nam, quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất144 và tỷ lệ phần

quyền sử dụng đất của người mua căn hộ chung cư được tính bằng tỷ lệ diện tích

căn hộ chia cho tổng diện tích sàn của các căn hộ trong nhà chung cư145. Trong

khi đó, Điều 5 Luật Đất đai năm 2013 liệt kê 07 nhóm đối tượng được nhà nước

giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng

đất lại không có “người nước ngoài”. Như vậy, quy định về sở hữu nhà ở của

người nước ngoài có sự mâu thuẫn, chưa tương thích với các quy định liên quan

dẫn đến tình trạng khó khăn khi áp dụng luật và phần nào ảnh hưởng đến quyền

tiếp cận nhà ở của người nước ngoài tại Việt Nam.

Để đảm bảo tiếp cận nhà ở mang tính phổ quát đến mọi đối tượng, hầu hết

các quốc gia đều quy định và chú trọng phát triển hình thức nhà ở xã hội. Hiện

nay, quan điểm về quy mô, phạm vi, dân số, mục tiêu cung cấp loại hình nhà ở

này mỗi quốc gia có thể khác nhau. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

thì nhà ở xã hội được định nghĩa là chỗ ở cho thuê để ở được cung cấp với giá

dưới thị trường được phân bổ theo các quy tắc cụ thể, chẳng hạn như nhu cầu được

xác định hoặc danh sách chờ.146 Ở Úc, Canada, Đức, Vương Quốc Anh cũng dùng

tên gọi là “nhà ở xã hội” hoặc Đan Mạch là “nhà ở trợ cấp”, ở Hoa Kỳ là “nhà ở

công cộng” hay “nhà ở chung”.147 Dù tên gọi khác nhau nhưng nhà ở xã hội đều

có mục tiêu tập trung phân bổ chủ yếu (hoặc riêng) cho các nhóm dân cư có thu

143 Điều 7, Khoản 1 Điều 159 Luật Nhà ở năm 2014 144 Khoản 1 Điều 19 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 145 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 5 năm 2014 quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Đất đai 146 Salvi del Pero, A. et al. (2016), “Policies to promote access to good-quality affordable housing in OECD countries”, OECD Social, Employment and Migration Working Papers, Số 176, Nxb. OECD, 147 OECD (2020), Social housing: A key part of past and future housing policy, Employment, Labour and Social Affairs Policy Briefs, Paris http://oe.cd/social-housing-2020 148 Scanlon, K., M. Fernández Arrigoitia and C. Whitehead (2015), Social housing in Europe. European Policy Analysis, Viện Nghiên cứu Chính sách Châu Âu của Thụy Điển http://eprints.lse.ac.uk/62938/1/Fernandez_Social%20housing%20in%20Europe_2015.pdf .

nhập thấp, dễ bị tổn thương và/hoặc những NLĐ chính.148

93

Tương đồng với quan điểm của các quốc gia, Việt Nam cũng quy định hình

thức nhà ở xã hội với nhiều chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư, phát triển.

Nhà ở xã hội ở Việt Nam được hiểu là nhà ở có sự hỗ trợ của Nhà nước cho các

đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở149.

Các nhóm đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở bao gồm 09 nhóm.

Đó là người thu nhập thấp, hộ gia đình nghèo và cận nghèo; hộ gia đình ở các

vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai; Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, hạ

sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân trong cơ quan,

đơn vị lực lượng vũ trang; Cán bộ, công chức, viên chức; Các đối tượng đã trả lại

nhà ở công vụ; Học sinh, sinh viên nói chung và học sinh trường dân tộc nội trú

công lập trong thời gian học tập; Hộ gia đình, cá nhân thuộc diện bị thu hồi đất và

phải giải toả, phá dỡ nhà ở mà chưa được nhà nước bồi thường bằng nhà ở, đất

ở150. Đây là nhóm đối tượng có thu nhập hạn hẹp, khó tiếp cận thuê, mua nhà ở

thương mại nên nhà ở xã hội là một giải pháp tích cực giúp họ có cơ hội được “an

cư”. Trong những năm qua, nhà ở xã hội, nhà ở cho người thu nhập thấp, người

nghèo được triển khai khá mạnh mẽ với những con số khá tích cực. Tính đến đầu

năm 2022, có 266 dự án nhà ở xã hội bao gồm cả nhà thu nhập thấp và nhà công

nhân với khoảng hơn 142.000 căn được hoàn thành.151 Về hỗ trợ nhà ở khu vực

nông thôn, đến đầu năm 2018, có trên 570.000 hộ nghèo khu vực nông thôn được

hỗ trợ về nhà ở, khu vực miền Trung có khoảng 14.000 hộ nghèo được hỗ trợ xây

dựng nhà ở phòng chống bão, lụt. Cũng tính đến thời điểm này, 190.841 hộ thuộc

982 dự án thuộc chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ

đồng bằng Sông Cửu Long hoàn thành. Nhà ở cho công nhân, sinh viên cũng được

nỗ lực thực hiện nhằm đảm bảo nhóm đối tượng này được tiếp cận nhà ở. Theo

149 Khoản 7, Điều 1 Luật Nhà ở năm 2014 150 Điều 39 Luật Nhà ở năm 2014 151 Theo Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị https://moc.gov.vn/vn/tin-tuc/1173/70357/tiep-tuc-hoan-thien-the- che-day-manh-phat-trien-nha-o-xa-hoi.aspx, truy cập ngày 1/12/2022

đó, 100 dự án nhà ở công nhân với 41.000 căn được hoàn thành và dự kiến thời

94

gian tới thực hiện tiếp 72 dự án với quy mô khoảng 88.000 căn, 220.000 sinh viên

được bố trí nhà ở.152

Bên cạnh những kết quả tích cực, việc tiếp cận nhà ở của một số nhóm đối

tượng yếu thế chưa được đảm bảo do chưa được quy định thuộc 09 nhóm đối

tượng được hỗ trợ nhà ở, bao gồm:

Thứ nhất là người khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật có hoàn cảnh khó

khăn, có nhu cầu về nhà ở. Do khó khăn trong lao động, học tập, sinh hoạt mà các

dạng tật đem lại, người khuyết tật cũng gặp khó khăn trong vấn đề tìm kiếm việc

làm và tạo ra thu nhập nên cơ hội được tiếp cận nhà ở thương mại đối với họ khá

xa vời. Trong khi đó, hiện nay quy định pháp luật mới chỉ dừng lại ở các quy định

về tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng công trình đảm bảo người

khuyết tật dễ tiếp cận.153 Thực tế tiếp cận nhà ở của nhóm đối tượng này cũng gặp

không ít khó khăn. Bằng chứng là các trường đào tạo kiến trúc sư hầu như vắng

bóng giáo trình giảng dạy thiết kế cho người khuyết tật. Nếu có cũng chỉ là những

lưu ý, thoáng qua.154 Thêm vào đó, ở nước ta hiện nay chưa có nhiều các công

trình riêng lẻ dành riêng để chăm sóc nhóm người khuyết tật, đặc biệt là người

khuyết tật ngồi xe lăn. Phần đông những người thuộc nhóm dân cư này vẫn sống

chung cùng gia đình tại chung cư hay nhà riêng thông thường, không có thiết kế

phù hợp với sinh hoạt thường nhật của nhóm dân cư đặc biệt này.

Thứ hai là lao động di cư, công nhân làm việc tại các khu công nghiệp. Các

nhóm đối tượng này chiếm một số lượng không nhỏ ở các thành phố lớn. Báo cáo

Tổng điều tra dân số và nhà ở toàn quốc năm 2019 cho thấy, hơn 13% dân số cả

nước là người di cư, là lực lượng đóng góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội quốc

gia. Vấn đề thiếu hụt trong tiếp cận nhà ở thể hiện rõ nét và đáng báo động khi đại

152 Nhóm công tác liên ngành 18 cơ quan, Báo cáo quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III, 2018, tr.21 153 Khoản 1 Điều 39 Luật Người khuyết tật năm 2010 154 Phạm Thanh Tùng, Kiến trúc nào cho người khuyết tật, https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen- muc/kien-truc-nao-cho-nguoi-khuyet-tat.html, truy cập ngày 25/02/2021

dịch Covid-19 xuất hiện. Theo Phó Thủ tướng Lê Văn Thành, TP. HCM có

95

700.000 căn nhà cho thuê, diện tích chỉ khoảng 9m2/căn hộ, nhưng có đến 3 triệu

công nhân, NLĐ sống.155 Trong Báo cáo kết quả kiểm toán năm 2020, đánh giá

về chương trình nhà ở xã hội tại Hà Nội và TP.HCM cũng cho thấy cả 2 địa phương

đều chưa thực hiện được mục tiêu đề ra. Trong đó, Hà Nội chỉ đạt 16% tổng diện

tích sàn, TP. HCM đạt 69% so với kế hoạch. Theo thống kê, hơn 39% hộ nghèo

thiếu hụt về nhà ở.156 Tình trạng này không chỉ diễn ra ở Hà Nội, TP.HCM mà

trên phạm vi cả nước. Tính đến năm 2021, cả nước mới hoàn thành 249 dự án với

5,21 triệu mét vuông sàn nhà ở xã hội, quy mô khoảng 104.200 căn hộ, chỉ đạt tỷ

lệ 41,7% so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm

2020, tầm nhìn đến năm 2030 (mục tiêu đến năm 2020 hoàn thành 12,5 triệu mét

vuông sàn nhà ở xã hội).157 Thực tiễn này không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn

diễn ra ở các nước khác, chẳng hạn, ở Ấn Độ, trong thời kỳ đóng cửa toàn quốc

do đại dịch Covid cuộc di cư ồ ạt của NLĐ nhập cư ra khỏi các thành phố đô thị

ở Ấn Độ đã làm nổi bật sự bấp bênh về điều kiện sống của họ ở thành phố.158

Không những thế, quy định về đối tượng hưởng chính sách nhà ở xã hội

được xác định thông qua các yếu tố như tiền lương, thực trạng nhà đất dẫn tới hệ

quả là việc xác định đối tượng chưa thực sự chính xác trên thực tế. Tình trạng

người thực sự có nhu cầu thì không tiếp cận được nhà ở và ngược lại vẫn xảy ra.

Thực tế, tại 5 dự án được kiểm toán chi tiết ở TP. HCM có 85 trường hợp người

được mua, thuê nhà ở xã hội có dấu hiệu đã có nhà ở; 64 trường hợp người được

mua, thuê nhà ở xã hội có giao dịch ủy quyền về nhà ở xã hội. Còn ở Hà Nội, tại

2 dự án được kiểm toán chi tiết có 122 khách hàng được mua, 16 khách hàng được

155 Lê Quân, “Lộ” bất cập trong cơ chế tạo quỹ đất xây nhà ở xã hội tại Hà Nội, https://thanhnien.vn/lo-bat- cap-trong-co-che-tao-quy-dat-xay-nha-o-xa-hoi-tai-ha-noi-post1412920.html, truy cập ngày 1/11/2022 156 Đường Loan (2017), Để giảm nghèo từ 1,2-1,4% hộ gia đình, https://dttc.sggp.org.vn/de-giam-ngheo-tu- 12-14-ho-gia-dinh-post5491.html, truy cập ngày 3/9/2022 157 Dạ Khánh, Phát triển nhà ở giá rẻ: tìm giải pháp hiệu quả, https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Bat-dong- san/988002/phat-trien-nha-o-gia-re-tim-giai-phap-hieu-qua, truy cập ngày 3/9/2022 158 Dev Pa et al (2020), A Study on Migrant Workers’ Access to Housing and Land 159 Kiểm toán nhà nước (2020), Báo cáo kiểm toán năm 2020

thuê nhà ở xã hội sử dụng không đúng mục đích.159

96

Hơn nữa, cách tính giá bán, giá thuê nhà ở xã hội cũng chưa hợp lý, chưa

tương quan với mức thu nhập của đối tượng thuộc diện được mua, thuê. Theo quy

định, giá bán, giá thuê nhà ở xã hội do chủ đầu tư dự án xác định theo nguyên tắc

tính đủ chi phí thu hồi vốn (đối với giá mua), chi phí bảo trì nhà ở (đối với giá

thuê), lãi vay (nếu có) và lợi nhuận định mức. Có thể thấy, cách tính giá theo

nguyên tắc này mặc dù mục đích để đảm bảo nhà ở xã hội có giá cả phải chăng

hơn giá nhà ở trên thị trường nhưng vẫn chưa tính đế khả năng chi trả của đối

tượng thuê, mua. Vì vậy, nhà ở xã hội vẫn nằm ngoài tầm với của đối tượng có

thu nhập thấp hoặc rất thấp. Hơn nữa, nếu chi phí thu hồi vốn, chi phí bảo trì không

được kiểm soát tốt có thể dẫn đến tình trạng kém hiệu quả.160 Trên thế giới, cách

tính giá thuê nhà ở xã hội được xác định theo nhiều cách khác nhau như phương

pháp ấn định giá thuê, phương pháp xem xét mức tiền thuê, mua dựa trên thu nhập

để xác định mức tiền mà đối tượng hưởng chính sách hỗ trợ có khả năng chi trả.161

Mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm, vì vậy việc cân nhắc áp dụng phương

pháp tính giá thuê cần có sự nghiên cứu phù hợp với khung giá nhà đất mỗi thời

điểm và mức độ phát triển kinh tế xã hội qua từng giai đoạn.

2.3.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về nhà ở

và thực tiễn thực hiện

Theo quy định tại Điều 4 Luật Nhà ở năm 2014 thì hộ gia đình, cá nhân có

quyền có chỗ ở thông qua nhiều hình thức khác nhau (mua, thuê, thừa kế, tặng,

cho…). Quyền sở hữu hợp pháp về nhà ở được Nhà nước công nhận và bảo hộ.

Cùng với đó, hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhà ở bị nghiêm cấm. Ở Canada,

quyền có nhà ở được Chính phủ đảm bảo khả năng tiếp cận nhà ở an toàn và giá

160 Scanlon, K., M. Fernández Arrigoitia and C. Whitehead (2015), Social housing in Europe. European Policy Analysis, Swedish Institute for European Policy Studies, http://eprints.lse.ac.uk/62938/1/Fernandez_Social%20housing%20in%20Europe_2015.pdf 161 OECD (2020), Social housing: A key part of past and future housing policy, Employment, Labour and Social Affairs Policy Briefs, Paris, http://oe.cd/social-housing-2020

cả phải chăng. Chiến lược nhà ở quốc gia của Canada cũng tập trung vào việc cải

97

thiện kết quả nhà ở cho những người có nhu cầu lớn nhất.162 DVXHCB về nhà ở

thuộc hệ thống ASXH Việt Nam được pháp luật ghi nhận và bảo đảm quyền có

chỗ ở hợp pháp của mọi người dân. Nhà nước không có nghĩa vụ cung cấp hay

đảm bảo mọi người dân đều sở hữu nhà ở mà Nhà nước chỉ có trách nhiệm đảm

bảo mọi người dân có quyền có nơi ở hợp pháp, an toàn, bất khả xâm phạm. Trong

đó, nhóm đối tượng yếu thế được Nhà nước đảm bảo, ưu tiên, hỗ trợ tiếp cận nhà

ở bằng các hình thức khác nhau phù hợp từng nhóm đối tượng. Chẳng hạn, hình

thức hỗ trợ nhà ở được áp dụng cho 09 nhóm đối tượng được đề cập ở phần trên163,

theo đó Nhà nước trực tiếp đầu tư hoặc quy định chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho khu

vực tư nhân đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Hình thức hỗ trợ đất ở, xây dựng nhà

ở đảm bảo 3 cứng (nền cứng, khung-tường cứng, mái cứng), hỗ trợ xây dựng 01

căn nhà theo phong tục tập quán của địa phương được áp dụng đối với vùng đồng

bào dân tộc thiểu số và miền núi khó khăn chưa có đất ở, nhà ở hoặc nhà ở dột

nát, nhà ở tạm. Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng

đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 đã nêu ra chỉ tiêu về

giải quyết vấn đề này. Nguồn vốn thực hiện Dự án này được huy động từ nhiều

nguồn khác nhau, trong đó, ngân sách trung ương chiếm phần lớn với 7.840,553

tỷ đồng (vốn đầu tư: 4.565,965 tỷ đồng, vốn sự nghiệp: 3.274,588 tỷ đồng); ngân

sách địa phương 640,321 tỷ đồng; vốn vay tín dụng chính sách: 9.291,096 tỷ đồng;

vốn huy động hợp pháp khác: 405,478 tỷ đồng. Tuy nhiên, thực tế, các hộ gia đình

dân tộc thiểu số vẫn sống trong các căn nhà có diện tích bình quân đầu người nhỏ

hơn 8m2 còn khá phổ biến như dân tộc La Hủ với 65,2% , dân tộc Bru Vân Kiều

với 47,8%, dân tộc Ba Na là 39,1%, dân tộc Co với 32,1%, Gia Rai 30,6%.164

2.3.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản

162 https://www.placetocallhome.ca/human-rights-based-approach-to- housing#:~:text=This%20right%20is%20recognized%20in,that%20is%20safe%20and%20affordable. 163 Xem thêm mục 2.3.1 164 Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tr.56

về nhà ở và thực tiễn thực hiện

98

Theo quy định tại Điều 13 Luật Nhà ở năm 2014 thì Nhà nước là chủ thể

thực hiện chính sách phát triển nhà ở. Trong đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các

chủ dự án xây dựng nhà ở thương mại phải dành diện tích đất để xây dựng nhà ở

xã hội. Điều 53 quy định các hình thức phát triển nhà ở xã hội, bao gồm nhà nước

đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân bỏ

vốn đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. DVXHCB về nhà ở được cung cấp bởi nhà

nước, các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân. Trong đó Nhà nước

quản lý về chất lượng, có chính sách hỗ trợ các chủ thể cung cấp nhà ở xã hội và

quy định việc xác định giá thuê, giá thuê mua, giá bán nhà ở xã hội nhằm đảm bảo

người dân có thể tiếp cận. Cụ thể, đối với công nhân lao động tại các khu công

nghiệp, cụm công nghiệp và các cơ sở sản xuất, dịch vụ ngoài khu công nghiệp,

Nhà nước chủ động tham gia đầu tư phát triển nhà ở cho thuê; khuyến khích các

thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng nhà ở.165 Với sự hỗ trợ, khuyến khích

từ phía Nhà nước, thực tế, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện dự án xây dựng nhà ở

cho công nhân, cung cấp chỗ ở cho NLĐ của doanh nghiệp. Chẳng hạn, đầu năm

2022, tổng công ty Viglacera đã khởi công xây dựng khu nhà ở công nhân và chuyên

gia tại Khu công nghiệp Yên Phong (Bắc Ninh) với quy mô 2.000 căn hộ chung cư

và dự án nhà ở tại khu công nghiệp Đông Mai (Quảng Ninh) với quy mô 1000 căn

hộ cho công nhân và 72 căn hộ thấp tầng chuyên gia. Hoặc Tổng công ty Becamex

IDC cũng đang xây dựng hàng loạt dự án nhà ở xã hội ở những khu vực đông công

nhân lao động như thị xã Bến Cát, thị xã Tân Uyên, huyện Bàu Bàng với khoảng

20.000 căn nhà ở xã hội. Công ty CP Tập đoàn Tư vấn đầu tư xây dựng Kiên Giang

165 Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 20/4/2009 về một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị; Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê; Quyết định số 2127/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030

(CIC Group) đã khởi công dự án nhà ở xã hội 7 hecta khu đô thị Tây Bắc, thành phố

99

Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang166….

Nghị định số 49/2021/NĐ-CP quy định các dự án nhà ở thương mại phải

dành 20% quỹ đất để phát triển nhà ở xã hội. Quy định này cho thấy, các doanh

nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở thương mại cũng là một trong những chủ thể có vai

trò quan trọng trong việc cung cấp nhà ở xã hội. Sự ra đời của Nghị định số

49/2021/NĐ-CP đã loại bỏ quy định cho phép chủ đầu tư chọn cách nộp tiền thay

thế để không phải dành diện tích xây dựng nhà ở xã hội như trước đây. Quy định

này ràng buộc trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc cung cấp nhà ở xã hội,

đảm bảo tiếp cận nhà ở của nhóm đối tượng thu nhập thấp. Tuy nhiên, quy định

này có điểm chưa rõ ràng, chưa hợp lý dẫn tới hệ quả chủ đầu tư không mặn mà

với việc đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Cụ thể:

Luật Nhà ở quy định dự án nhà ở xã hội thuộc diện được miễn tiền sử dụng.

Tuy nhiên đối với trường hợp quỹ đất xây dựng nhà ở xã hội là đất do doanh

nghiệp tạo lập và đã nộp tiền sử dụng đất thì pháp luật chưa quy định rõ liệu doanh

nghiệp có được hoàn trả lại tiền sử dụng đất hay không. Trường hợp được hoàn

trả lại thì thủ tục và mức hoàn trả như thế nào?

Các quy định về ưu đãi đối với chủ đầu tư chưa tính đến chi phí giải phóng

mặt bằng. Chi phí nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được tính đúng,

tính đủ vào giá thành dự án nhà ở xã hội. Trong khi các chi phí này không hề nhỏ,

từ đó làm giảm mức lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được sau khi đầu tư.

Nghị định số 100/2015/NĐ-CP quy định "lợi nhuận định mức của toàn bộ

dự án không vượt quá 10% tổng chi phí đầu tư" trong khi Luật Nhà ở cho phép

chủ đầu tư dự án 100% nhà ở xã hội được quyền bán 20% quỹ nhà theo giá thương

mại để giảm giá thành nhà ở xã hội. Điều này cho thấy hai quy định này có sự mâu

thuẫn dẫn đến thực tế là lợi nhuận của chủ đầu tư khi bán 20% quỹ nhà ở thương

166 Bảo Ngọc, Vốn đầu tư dồn dập vào dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, https://nhadat.tuoitre.vn/von-tu- nhan-don-dap-vao-du-an-nha-o-xa-hoi-nha-o-cong-nhan-20220415090637594.htm, truy cập ngày 15/4/2022

mại này vô hình chung cũng không được vượt quá 10% tổng chi phí đầu tư. Không

100

những thế, với mức lợi nhuận tối đa 10% tổng chi phí đầu tư, chủ đầu tư cũng khó

có thể ứng dụng công nghệ, kỹ thuật, quản lý, gia tăng các tiện ích, dịch vụ.

2.3.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ xã

hội cơ bản về nhà ở và thực tiễn thực hiện

Đối với nhà ở xã hội, nhà nước đầu tư ngân sách hoặc có chính sách ưu đãi

đối với tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Điều 53 Luật Nhà ở quy

định nhà ở xã hội có thể do Nhà nước đầu tư hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã bỏ

vốn đầu tư xây dựng cho NLĐ trong đơn vị mình thuê hoặc hộ gia đình, cá nhân

bỏ vốn đầu tư xây dựng. Về cơ bản, nguồn tài chính đầu tư cho nhà ở xã hội theo

quy định của pháp luật Việt Nam khá tương đồng với quy định của các quốc gia

khác. Ở các quốc gia, ba nguồn tài chính đầu tư cho nhà ở xã hội là (i) thu nhập

cho thuê từ người thuê; (ii) vay của nhà cung cấp nhà ở xã hội; và (iii) các khoản

thanh toán và/hoặc trợ cấp từ các chủ thể khác, bao gồm cả chính phủ. Trong đó,

Chính phủ đóng vai trò quan trọng và hỗ trợ cung cấp nhà ở xã hội thông qua việc

cung cấp trực tiếp hoặc hỗ trợ thông qua hình thức tài trợ, cho vay, bảo lãnh khoản

vay cho chủ thể cung cấp nhà ở xã hội; chính quyền địa phương cung cấp đất với

giá chiết khấu để phát triền nhà ở xã hội.167 Ở Bỉ, nhà ở xã hội được cung cấp cho

cá nhân hay gia đình có thu nhập thấp từ các thành phố, các công ty đại chúng,

hợp tác xã hoặc các tổ chức phi lợi nhuận. Chính sách Nhà ở xã hội ở Bỉ được

thực hiện trong một khoảng thời gian dài (40 năm). Tương tự, quy định về nhà ở

xã hội và giá cả phải chăng của Chile bao gồm trợ cấp cho các gia đình có thu

nhập trung bình và thấp, chương trình thuê để mua và trợ cấp thuê. Còn ở Hà Lan,

nhà ở xã hội được cung cấp cho người dân với sự trợ cấp từ chính phủ. Người dân

phải trả tối đa là 710,68€/tháng, phần còn lại Chính phủ sẽ hỗ trợ, nhà nước còn

kiểm soát mức độ tăng giá thuê nhà. Nhà ở ở Hà Lan được quản lý thông qua hệ

167 Scanlon, K., M. Fernández Arrigoitia and C. Whitehead (2015), Social housing in Europe. European Policy Analysis, Viện Nghiên cứu Chính sách Châu Âu của Thụy Điển http://eprints.lse.ac.uk/62938/1/Fernandez_Social%20housing%20in%20Europe_2015.pdf .

thống tính điểm, hệ thống này sẽ xác định giá trị bất động sản mà người nộp đơn

101

sẽ ở, từ đó xác định tiền thuê của họ.168 Như vậy, pháp luật Việt Nam và nhiều

quốc gia trên thế giới có sự tương đồng khi quy định Nhà nước có chính sách hỗ

trợ một phần hoặc có chính sách ưu đãi về nhà ở xã hội cho một số nhóm đối tượng

nhất định, phần còn lại người mua nhà, thuê nhà phải tự chi trả.

Ở Việt Nam, thực tiễn phát triển nhà ở chưa đạt hiệu quả cao. Theo báo cáo

do Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh ký trình Chính phủ năm 2022 thì

vốn bố trí cho Ngân hàng Chính sách xã hội trong giai đoạn 2016 - 2020 đạt thấp,

chỉ hơn 3.160 tỷ đồng/9.000 tỷ đồng. Thực tiễn phát triển nhà ở xã hội không chỉ

khó khăn về tài chính, sự giới hạn trong chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư mà còn

khó khăn về việc bố trí quỹ đất.

Quy định các dự án nhà ở thương mại phải dành 20% quỹ đất để phát triển

nhà ở xã hội mặc dù được coi là “cú hích” thúc đẩy nguồn lưc đầu tư từ khu vực

tư nhân nhưng thực tế triển khai chưa thực sự hiệu quả vì vướng mắc trong một

số quy định liên quan.

Thứ nhất, quy định hiện hành chưa có quy định tỷ lệ phần trăm đất ở dành

để phát triển nhà ở xã hội khi lập, thẩm duyệt quy hoạch phân khu, quy hoạch

chung… Do đó, chủ đầu tư và cơ quan có thẩm quyền thiếu tính chủ động khi bố

trí quỹ đất, đề xuất dự án xây dựng nhà ở xã hội đáp ứng nhu cầu theo đúng chương

trình, kế hoạch đặt ra. Quy định này cũng chưa thực sự phù hợp với tất cả dự án

nhà ở thương mại. Chẳng hạn, ở một số thành phố lớn như Hà Nội, TP. HCM,

nhiều dự án nhà ở thương mại nằm trong khu vực theo quy hoạch chung hoặc quy

hoạch phân khu chỉ được xây dựng nhà ở thấp tầng như nhà liền kề, biệt thự hoặc

hình dạng, đặc tính khu đất chỉ phù hợp để xây dựng nhà ở thấp tầng. Do vậy,

không phù hợp để bố trí quỹ đất xây dựng nhà ở xã hội tại dự án. Mặc dù pháp

luật không cấm xây dựng nhà ở xã hội thấp tầng nhưng đối với đất ở có giá trị

168 Niall Patrick Walsh (2020), Comparing social housing: 30 projects from countries a round the world, https://www.archdaily.com/932075/comparing-social-housing-in-countries-around-the-world

thương mại rất cao ở thành phố lớn thì xây dựng nhà ở xã hội thấp tầng sẽ không

102

thực sự phù hợp và không phát huy được hết giá trị của khu đất. Thứ ba, xây dựng

nhà ở xã hội trong cùng dự án nhà ở thương mại cũng gây khó khăn trong quản lý

vận hành, bởi có thể cùng một khu đô thị, cùng chủ đầu tư nhưng mức phí dịch vụ

lại khác nhau hoặc cùng phí dịch vụ như nhau nhưng mức hưởng thụ khác nhau.

Vì những khó khăn, vướng mắc, bất cập như vậy nên nhiều chủ đầu tư tìm cách

“lách luật” để tránh thực hiện nghĩa vụ này.

Thứ hai, theo Hiệp hội Bất động sản TP. HCM (HoREA) thì một số quy

định mặc dù rất tốt, rất có lợi cho đối tượng thụ hưởng nhà ở xã hội, nhưng có thể

đã vượt quá thẩm quyền của Ngân hàng Chính sách xã hội và chưa chặt chẽ như:

quy định thời hạn vay vốn ưu đãi để thuê mua nhà ở xã hội tối đa là 25 năm kể từ

ngày giải ngân khoản vay đầu tiên169; quy định thời hạn cho vay tối thiểu là 15

năm và tối đa không quá 25 năm kể từ ngày giải ngân khoản vay đầu tiên170; quy

định người vay vốn chưa phải trả nợ gốc trong thời gian ân hạn 12 tháng kể từ

ngày nhận khoản vay đầu tiên.171 Lý do là thời hạn cho vay có liên quan đến cơ

chế tái cấp vốn, cấp bù lãi suất của Ngân hàng Nhà nước cho Ngân hàng Chính

sách xã hội và các tổ chức tín dụng được chỉ định. Việc không quy định rõ đối

tượng được vay, thời hạn vay có thể dẫn tới cơ chế “xin - cho”, vận dụng tùy tiện.

Hơn nữa, quy định ân hạn chưa phải trả nợ gốc thuộc thẩm quyền của Ngân hàng

Nhà nước. Cũng liên quan tới vấn đề vay vốn ưu đãi mua nhà ở xã hội, Luật Nhà

ở quy định hộ gia đình, cá nhân mua, thuê mua nhà ở xã hội thì chỉ được vay ưu

đãi tại ngân hàng Chính sách xã hội. Điều này vô hình chung làm hạn chế quyền

tiếp cận của người dân với các gói hỗ trợ từ các ngân hàng thương mại. Trong khi

người mua, thuê mua nhà ở xã hội thường là người có thu nhập thấp nên rất cần

chính sách thông thoáng trong vay vốn ưu đãi để tiếp cận nhà ở xã hội.

2.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về nước sạch và

169 Nghị định 49/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1 tháng 4 năm 2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2015/NĐ-CP 170 Mục 6 văn bản 2526/NHCS-TDSV ngày 27/7/2016 của Ngân hàng Chính sách xã hội 171 Mục 11.b văn bản 2526/NHCS-TDSV ngày 27/7/2016 của Ngân hàng Chính sách xã hội

thực tiễn thực hiện

103

2.4.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản

về nước sạch và thực tiễn thực hiện

Nước sạch là nước đã qua xử lý có chất lượng bảo đảm, đáp ứng yêu cầu

sử dụng.172 Nước sạch đóng vai trò then chốt đối với sức khoẻ và đời sống của con

người. Chính vì vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật hầu hết các quốc gia đều ghi

nhận quyền về nước là quyền cơ bản của con người. Trong Mục tiêu Phát triển

bền vững của thế giới cho giai đoạn 2015-2030, Mục tiêu số 6 có nêu “Đảm bảo

sự sẵn có và quản lý bền vững nguồn nước và cải thiện các điều kiện vệ sinh cho

tất cả mọi người”. Trong đó, một trong các mục tiêu cụ thể về nước đặt ra đến năm

2030 là đạt được tiếp cận công bằng và phổ cập nguồn nước uống an toàn và có

thể chi trả được cho tất cả mọi người. Mục tiêu này ở Việt Nam cũng khá tương

đồng với mục tiêu toàn cầu. Cụ thể, trong mục tiêu số 6 của Nghị quyết số 136/NQ-

CP ngày 25/9/2020 của Chính Phủ về phát triển bền vững cũng đặt ra mục tiêu

“đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho

tất cả mọi người”.

Như vậy, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ khi đặt mục tiêu bao phủ

toàn dân trong tiếp cận nước sạch. Kế thừa quy định về sở hữu toàn dân của Hiến

pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở tiếp cận mới, đúng đắn và

chính xác hơn, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận tài nguyên nước là một trong

những đối tượng tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Chiến lược quốc gia

về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020 đã đề ra phương châm,

nguyên tắc, phạm vi và các giải pháp thực hiện nhằm thúc đẩy cho tất cả người

dân được sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia.

Bên cạnh đó, nhằm thực hiện mục tiêu bao phủ đối tượng tiếp cận nước

sạch, ngày 24/11/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

1978/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn

172 Khoản 7 Điều 2, Nghị định 117/2007 ngày 11 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ về sản xuấ, tiêu thụ và cung cấp nước sạch

đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nội dung Chiến lược đặt ra mục tiêu tổng

104

thể là đảm bảo người dân nông thôn được quyền tiếp cận sử dụng dịch vụ cấp

nước sạch công bằng, thuận lợi, an toàn với chi phí hợp lý. Đến năm 2030 có 65%

dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt chất lượng theo quy chuẩn với số

lượng tối thiểu 60 lít/người/ngày. Đến năm 2045, phấn đấu 100% người dân nông

thôn đươc sử dụng nước sạch và vệ sinh an toàn, bền vững.173

Nhìn chung, tiếp cận nước sạch chưa được quan tâm đúng mực khi mà hành

lang pháp lý về vấn đề này chưa được quy định chặt chẽ và rõ ràng. Hiện nay, hệ

thống pháp luật Việt Nam chưa có một đạo luật riêng quy định về vấn đề này mà

chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng và thực hiện các chương trình mục tiêu

quốc gia. Hơn nữa, việc tiếp cận nước sạch ở khu vực nông thôn chưa được đảm

bảo như mục tiêu đề ra, nguyên nhân là chưa có quy định ràng buộc trách nhiệm

của các địa phương trong việc xây dựng các chỉ tiêu cấp nước vào chỉ tiêu phát

triển kinh tế xã hội trong kế hoạch, chưa có sự quan tâm đúng mực đối với cấp

nước quy mô hộ gia đình.

Thực tiễn tiếp cận nước sạch của người dân chưa cao, đặc biệt là người tộc

thiểu số và tỷ tệ hộ gia đình dân tộc thiểu số được sử dụng nước sạch tăng chậm

qua các năm. Mặc dù mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đặt mục tiêu đến năm 2025

có ít nhất 50% số hộ gia đình dân tộc thiểu số được tiếp cận nước sạch nhưng mục

tiêu này khó có thể thực hiện nếu với đà tăng như những năm qua. Những năm

1990, tỷ lệ hộ gia đình dân tộc thiểu số được tiếp cận nước sạch khoảng 5,3%

nhưng đến năm 2016, tỷ lệ này mới chỉ đạt khoảng 24%. Thậm chí, tỷ lệ hộ gia

đình dân tộc thiểu số tiếp cận nước hợp vệ sinh cũng chỉ chiếm trung bình khoảng

73,3%. Một số dân tộc thiểu số như Khơ Mú, La Ha, La Chí, Hà Nhì, Lô Lô… chỉ

có 30% - 50% số hộ được tiếp cận nước hợp vệ sinh.174 Qua đó cho thấy, việc đảm

bảo tiếp cận DVXHCB về nước sạch của nhóm đối tượng là người dân tộc thiểu

173https://www.sahrc.org.za/home/21/files/SAHRC%20Water%20and%20Sanitation%20revised%20pamphle t%2020%20March%202018.pdf 174 Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tr.41

số còn tồn tại nhiều hạn chế.

105

2.4.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về nước

sạch và thực tiễn thực hiện

Nước sạch được hiểu là nước hợp vệ sinh, đảm bảo an toàn cho sức khỏe,

nước trong, không màu, không mùi, không vị, không chứa vi sinh vật gây bệnh và

các chất độc hại gây ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng. Nước sạch theo quy

chuẩn quốc gia là nước đáp ứng các chỉ tiêu theo quy định của Quy chuẩn kỹ thuật

Quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt. Nước hợp vệ sinh là nước không màu,

không mùi, không vị, không chứa các thành phần có thể gây ảnh hưởng đến sức

khoẻ con người, có thể dùng để ăn uống sau khi đun sôi. Tiếp cận nước sạch với

tư cách là một DVXHCB, là bộ phận của ASXH được hiểu là nước sạch đáp ứng

chỉ tiêu theo quy định của Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sinh

hoạt. Hay nói cách khác, Nhà nước đảm bảo người dân được tiếp cận nước sạch

với các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt do cơ quan có

thẩm quyền của Việt Nam xây dựng. Khi sử dụng nước sạch, người sử dụng dịch

vụ phải trả phí theo khung giá, biểu giá do Nhà nước quy định.

Hiện nay ở Việt Nam, giá nước sạch do UBND tỉnh quyết định dựa trên

Thông tư số 44/2021/TT-BTC ngày 18/6/2021 của Bộ Tài chính quy định về

khung giá, nguyên tắc, phương pháp xác định giá nước sinh hoạt và được tính theo

phương pháp lũy tiến. Chẳng hạn, ở Bắc Ninh, giá nước sạch đối với hộ dân cư sử

dụng dưới 10m3/đồng hồ/tháng là 8.610đ/m3, sử dụng từ trên 10m3 đến 20

m3/đồng hồ/tháng là 10.710đ/m3 và mức cao nhất có giá là 18.360đ/m3 nếu sử

dụng trên 30m3/đồng hồ/tháng.175 Ở Hà Giang, giá nước cũng được quy định theo

mức lũy tiến như tỉnh Bắc Ninh với giá nước tương ứng là 7.500đ, 9.300đ và mức

cao nhất là 18.700đ.176 Giá nước sạch ở Hà Nội dự kiến từ tháng 7/2023 áp dụng

175 Quyết định Số 170/QĐ-UBND của UBND tỉnh Bắc Ninh ngày 9 tháng 5 năm 2023 về phê duyệt phương án giá nước sạch và biểu giá nước sinh hoạt của công ty cổ phần nước sạch Bắc Ninh 176 Quyết định Số 25/2022/QĐ-UBND của UBND tỉnh Hà Giang ngày 21 tháng 11 năm 2022 ban hành giá nước sinh hoạt trên địa bàn thành phố Hà Giang 177 https://vtv.vn/xa-hoi/ha-noi-du-kien-tang-gia-nuoc-sach-tu-thang-7-2023- 20230509100106043.htm#:~:text=Ph%C6%B0%C6%A1ng%20%C3%A1n%20%C4%91i%E1%BB%81u% 20ch%E1%BB%89nh%20gi%C3%A1%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20s%E1%BA%A1ch%20sinh%20h

mức 7.500đ/m3, 8.800đ/m3 và mức cao nhất là 12.000đ/m3177 với các mức sử

106

dụng tương tự quy định của tỉnh Bắc Ninh và Hà Giang.

So với Nam Phi, nội dung DVXHCB về nước sạch được quy định ở Việt Nam

hẹp hơn. Ở Nam Phi, nước dùng để uống phải được cung cấp tối thiểu 25l/người/ngày

hoặc 6 kg lít/hộ gia đình/tháng.178 Đối với người nghèo, các dịch vụ cơ bản được

cung cấp miễn phí bao gồm nước, điện và thu gom chất thải rắn để đảm bảo mỗi

hộ gia đình được cung cấp 6.000 lít nước đầu tiên miễn phí mỗi tháng. Sau đó,

nếu sử dụng thêm thì phải trả phí. Giá nước được tính luỹ tiến, có nghĩa dùng càng

nhiều thì giá càng cao. Có thể thấy, quy định này của Nam Phi đảm bảo mọi người

dân được tiếp cận nước sạch và đảm bảo người nghèo được sử dụng một lượng

nước sạch mà không phải trả phí. Điều này rất có ý nghĩa cho sức khoẻ, đời sống

của nhóm dân cư này. mà.

2.4.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản

về nước sạch và thực tiễn thực hiện

Theo quy định tại Văn bản hợp nhất số 12/VBHN-BXD ngày 27/4/2020

Nghị định về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch do Bộ Xây dựng ban hành

thì đơn vị cấp nước là tổ chức, cá nhân thực hiện một phần hoặc tất cả các

hoạt động khai thác, sản xuất, truyền dẫn, bán buôn nước sạch và bán lẻ nước sạch.

Như vậy, Nhà nước không trực tiếp cung cấp nước sạch mà lựa chọn các đơn vị

cấp nước có đủ kiều kiện theo quy định để ký thỏa thuận cấp nước sạch. Nhà nước

thực hiện kiểm soát hoạt động cấp nước nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

của đơn vị cấp nước và khách hàng sử dụng nước.179 Trong đó, đơn vị cấp nước

được UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan được UBND cấp tỉnh phân cấp lựa chọn (có

sự tham gia của các địa phương trong vùng cấp nước). Đơn vị cấp nước đô thị và

khu vực công nghiệp do Bộ Xây dựng lựa chọn. Đơn vị cấp nước nông thôn, có

phạm vi liên tỉnh sẽ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lựa chọn. Đơn vị

o%E1%BA%A1t%20nh%C6%B0,%C4%91%E1%BB%93ng%2Fm3%20v%C3%A0o%20n%C4%83m%20 2024%3B 178 Alex Wafer, Jackie Dugard, Muzi Ngwenya, Shereza Sibanda (2008), The lived -reality of poor people’s access to basic services in Johannesburg’s inner city, Báo cáo nghiên cứu, tr.10

cấp nước được Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng công trình hạ tầng, chi phí bồi

107

thường, giải phóng mặt bằng, một phần chi phí đầu tư xây dựng công trình cấp

nước ở vùng đặt biệt khó khăn về nguồn nước, dân tộc ít người, miền núi, hải đảo;

hỗ trợ lãi suất… Nhìn chung, các chính sách ưu đãi này chưa đủ lớn để thu hút tư

nhân tham gia đầu tư. Chẳng hạn, ưu đãi đối với dự án cấp nước khu vực nông

thôn, khu vực miền núi, hải đảo, Nhà nước chỉ ưu đãi một phần chí phí đầu tư xây

dựng công trình, thực chất là chi phí thuê đất xây nhà máy. Ưu đãi về đường ống

không được bao gồm nên doanh nghiệp cũng không mặn mà với đầu tư nước sạch

ở các khu vực này. Điều này dẫn tới hệ quả là tỷ lệ tiếp cận nước sạch giữa khu

vực đô thị và nông thôn, giữa các vùng trong cả nước chưa đồng đều, chênh lệch

đáng kể.

BIỂU ĐỒ 2.1

Tỷ lệ sử dụng nước sạch ở một số địa phương

Nguồn: Tạp chí kinh tế Việt Nam180

Tỷ lệ trung bình hộ gia đình khu vực thành thị tiếp cận nước sạch chiếm

180 Chu Khôi, Quy hoạch nước sạch có nguy cơ “lỗi hẹn, vì đâu?”, https://vneconomy.vn/quy-hoach-nuoc- sach-co-nguy-co-loi-hen-vi-dau.htm, truy cập ngày 12/10/2022

84,2%, trong khi tỷ lệ này ở khu vực nông thôn chỉ đạt xấp xỉ 40%. Một trong các

108

nguyên nhân của tình trạng này là do đặc thù khu vực đô thị với dân trí cao, điều

kiện kinh tế tốt, nhà dân san sát nhau nên đường ống nước ngắn, có nghĩa suất đầu

tư thấp, chi phí quản lý, chăm sóc khách hàng cũng thấp do thuận tiện đi lại. Mặc

dù tài chính đầu tư thấp hơn khu vực nông thôn nhưng doanh thu cao hơn vì người

dân khu vực đô thị dùng nước với khối lượng tương đối lớn và chủ yếu dùng nước

sạch thay vì các nguồn nước khác như nước mưa, nước giếng khoan… như khu

vực nông thôn. Trong khi đó, khu vực nông thôn với đặc thù mật độ dân số thưa

và xa nên cần kéo dài đường ống dẫn đến chi phí lớn, nhưng mức độ sử dụng của

người dân thấp. Thực tế một số doanh nghiệp đã đầu tư ở nông thôn, sau đó phải

dừng vì người dân nông thôn tiết kiệm, chỉ sử dụng nước sạch để ăn uống còn

phục vụ những mục đích khác thì họ dùng nước khác.

2.4.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ xã

hội cơ bản về nước sạch và thực tiễn thực hiện

Nhà nước đảm bảo mọi người dân được tiếp cận nước sạch, nhằm hướng

tới mục tiêu bảo vệ sức khỏe, đảm bảo ASXH, giảm và phòng chống bệnh tật,

nâng cao chất lượng cuộc sống. Nhằm giảm tải áp lực cho NSNN và nâng cao

trách nhiệm của mỗi người dân, hoạt động cấp nước sạch được thực hiện theo

phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm, đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút nguồn

lực tham gia đầu tư xây dựng, quản lý vận hành công trình, đảm bảo hoạt động

hiệu quả, bền vững. Theo đó, người sử dụng nước sạch phải trả phí khi sử dụng

nước sạch theo nguyên tắc tính lũy tiến. Văn bản hợp nhất số 12/VBHN-BXD

Nghị định về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch do Bộ Xây dựng ban hành

cũng thể hiện rõ quan điểm này. Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế

tham gia đầu tư phát triển cấp nước và thành lập Quỹ quay vòng cấp nước do Ngân

hàng Phát triển Việt Nam quản lý. Quỹ này nhằm tạo nguồn tài chính ưu đãi, sẵn

có cho các dự án đầu tư phát triển cấp nước các đô thị nhỏ và khu dân cư tập trung.

Nhà nước có nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ, ưu đãi đối với các dự án đầu

tư xây dựng cấp nước như: (a) Hỗ trợ đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng ngoài

109

hàng rào như cấp điện, đường; (b) Chi phí bồi thường, giải phóng mặt bằng đối

với dự án cấp nước tại các đô thị; (c) Chi phí bồi thường, giải phóng mặt bằng và

một phần chi phí đầu tư xây dựng công trình dự án cấp nước vùng đặc biệt khó

khăn về nguồn nước, dân tộc ít người, miền núi và hải đảo; (d) Ưu tiên sử dụng

các nguồn tài chính ưu đãi cho dự án đầu tư cấp nước, không phân biệt đối tượng

sử dụng; (d) Ưu tiên hỗ trợ lãi suất sau đầu tư các dự án cấp nước sử dụng nguồn

vốn vay thương mại. Các quy định này phần nào đã phát huy hiệu quả trong cung

cấp nước sạch với một số nhà máy nước quy mô lớn được vận hành cung cấp nước

sạch cho người dân trên diện rộng. Chẳng hạn, nhà máy nước mặt Sông Đuống

của tập đoàn AquaOne đã đầu tư 5000 tỷ, quy mô cung cấp nước sạch lớn nhất

miền Bắc nước ta với công suất 300.000m3/ngày đêm cung cấp đủ nước sạch cho

khoảng 3triệu người (chiếm 1/3 dân số Hà Nội và một số địa phương lân cận) và

dự kiến mở rộng thêm nữa trong tương lai. Hoặc khu vực miền Nam cũng có nhiều

công ty lớn đầu tư cung cấp nước sạch như: Công ty Nhự Đồng Nai, Công ty cổ

phần Nước-Môi trường Bình Dương (Biwase), Công ty cổ phần Nước Thủ Dầu

Một (Tdmwater).181

Văn bản hợp nhất số 12/VBHN-BXD Nghị định về sản xuất, cung cấp và

tiêu thụ nước sạch còn quy định cách tính giá nước sạch để xây dựng mức giá phù

hợp, vừa đảm bảo người dân có thể chi trả được, không quá rẻ để tránh lãng phí

nước, vừa đảm bảo quyền và lợi lích hợp pháp của đơn vị cấp nước, đảm bảo duy

trì, phát triển, khuyến khích nâng cao chất lượng dịch vụ. Theo đó, giá nước sạch

phải được tính đúng, tính đủ các yếu tố chi phí sản xuất hợp lý trong quá trình sản

xuất, phân phối nước sạch (bao gồm cả chi phí duy trì đấu nối). Các chủ thể được

bảo đảm quyền tự quyết định giá mua, bán nước trong khung giá, biểu giá nước

do Nhà nước quy định.

181 Bạch Huệ, cuộc chiến nước sạch: Những “tay chơi” mới khai phá thị trường tỷ USD https://vneconomy.vn/cuoc-chien-nuoc-sach-nhung-tay-choi-moi-khai-pha-thi-truong-ty-usd.htm, truy cập ngày 7/2/2023

Nhằm đảm bảo mục tiêu mọi người dân được tiếp cận nước sạch công bằng,

110

nhà nước chú trọng tới chính sách cấp nước sạch cho người dân nông thôn, vùng

có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Chiến lược quốc gia cấp

nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã thể hiện

rất rõ quan điểm này. Trong đó, vấn đề đầu tư cho nước sạch đóng vai trò quan

trọng, góp phần làm nên thành công của Chiến lược. Chiến lược quốc gia cũng chỉ

ra nhiều nguồn lực được huy động cho việc thực hiện chiến lược. Trong đó, ưu

tiên nguồn lực từ NSNN, vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài, nhất là nguồn

vốn từ các Chương trình mục tiêu quốc gia cho xây dựng nông thôn mới, phát

triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giảm nghèo và

ASXH bền vững và các chương trình, dự án khác có mục tiêu về cấp nước sạch

và vệ sinh nông thôn. Bên cạnh đó, nguồn đầu tư cho nước sạch còn được thu hút

từ các thành phần kinh tế xã hội, huy động sự tham gia, đóng góp của người dân

trong đầu tư xây dựng, quản lý vận hành công trình cấp nước, vệ sinh môi trường

nông thôn và hỗ trợ hoạt động cấp nước quy mô hộ gia đình. Tỷ lệ chi NSNN cho

nước sạch và vệ sinh tăng dần qua các năm, cụ thể tỷ lệ chi cho các tỉnh miền núi

tăng từ 8% năm 2016 lên 25% năm 2018. Khu vực nghèo được chú trọng đảm bảo

sự công bằng trong tiếp cận nước sạch khi tỷ lệ NSNN chi cho nước sạch và vệ

sinh ở khu vực này tăng từ 4% năm 2016 lên 35% năm 2018.182 Tính đến năm

2020, đã có 18 nhà tài trợ đa phương, song phương và các tổ chức phi chính phủ

cam kết hỗ trợ và tài trợ thực hiện Chiến lược quốc gia cấp nước sạch và vệ sinh

nông thôn hoặc các dự án độc lập của Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển

Châu Á… tài trợ.183 Ở các quốc gia, NSNN cũng chi cho vấn đề đảm bảo nước

sạch của người dân bên cạnh nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân. Chính phủ Ấn

Độ đã đạt được thành tựu rất lớn trong vấn đề nước sạch, vệ sinh môi trường.

182 Unicef (2022), Tóm tắt chính sách về nước sạch và vệ sinh môi trường tại Việt Nam 183 Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2030, tầm nhìn đến 2045, Báo cáo chiến lược (V6), 2020, tr. 20

Chính phủ Mỹ cũng nỗ lực thúc đẩy các nguồn đầu tư từ khu vực tư nhân, các cơ

111

quan phát triển, các tổ chức dựa trên đức tin và người dân184.

Nhìn chung, các quy định về đầu tư cho nước sạch vẫn tập trung về đầu tư

xây dựng, chưa có nhiều quy định đảm bảo hoạt động vận hành, khai thác để phát

huy hiệu quả đầu tư. Bằng chứng là tính đến năm 2019, mặc dù cả nước đã xây

dựng khoảng 16.342 công trình cấp nước tập trung nhưng hiệu quả hoạt động lại

chưa cao.

BIỀU ĐỒ 2.2

Số lượng công trình cấp nước tập trung nông thôn tính đến năm 2019185

Trong số các công trình này, có 12% công trình không hoạt động, tỷ lệ công

trình hoạt động kém hiệu quả chiếm 16,7%, công trình hoạt động trung bình chiếm

37,8% và chỉ có 33,5% công trình bền vững. Tỷ lệ bao phủ người dân nông thôn

sử dụng nước hợp vệ sinh khá cao, chiếm 88,5%. Tuy nhiên tỷ lệ người dân được

sử dụng nước sạch đạt Quy chuẩn Việt Nam chỉ chiếm 51%. Tình trạng công trình

cấp nước sạch được đầu tư xây dựng nhưng hoạt động không hiệu quả xảy ra phổ

184 Unicef, Tóm tắt chính sách về nước sạch & vệ sinh môi trường tại Việt Nam, 2020, tr. 11 185 Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2030, tầm nhìn đến 2045, Báo cáo chiến lược (V6), 2020, tr.16

biến. Chẳng hạn, tính đến năm 2020 tại tỉnh Đắk Lắk có 114 công trình cấp nước

112

sinh hoạt nhưng có đến 8 công trình kém bền vững và 46 công trình đã ngưng hoạt

động. Tương tự, tỉnh Đắk Nông có 250 công trình cấp nước tập trung nhưng chỉ

có 1/3 số công trình hoạt động (79/250) tương ứng với khoảng 9% tổng số hộ dân

trên địa bàn được sử dụng nước từ các công trình cấp nước này.186

2.5. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ xã hội cơ bản về tiếp cận thông

tin và thực tiễn thực hiện

Trước năm 2016, vấn đề TCTT được đề cập trong các văn bản pháp luật

thuộc các lĩnh vực khác nhau và chưa có một đạo luật trực tiếp điều chỉnh vấn đề

này. Các văn bản này nhìn chung mới chỉ quy định về trách nhiệm công khai, minh

bạch và cung cấp thông tin trong các lĩnh vực cụ thể. Luật TCTT năm 2016 ra đời

là một bước tiến quan trọng thể hiện sự tiến bộ trong hệ thống ASXH quốc gia và

thể hiện sự nỗ lực thực hiện cam kết quốc tế về quyền con người của Việt Nam.

Ngoài ra, vấn đề TCTT còn được quy định trong một số văn bản pháp luật khác

như Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018, Luật Báo chí năm 2016, Luật Bảo

vệ bí mật nhà nước năm 2018… và các văn bản hướng dẫn thi hành.

2.5.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về đối tượng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản

về thông tin và thực tiễn thực hiện

Quyền TCTT là quyền của mọi người dân được tiếp cận các thông tin được

ban hành và lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức công quyền, đặc biệt là các cơ quan

hành chính nhà nước. Quyền TCTT của công dân Việt Nam được chính thức ghi

nhận từ Hiếp pháp 1992. Điều này thể hiện kết quả của quá trình đổi mới, khẳng

định quyền TCTT là quyền cơ bản của công dân, đồng thời nâng cao trách nhiệm

của nhà nước trong việc cung cấp thông tin. Hiến pháp 2013 tiếp tục ghi nhận

quyền TCTT của công dân tại Điều 25 và được cụ thể hoá tại Điều 3 Luật TCTT:

“Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện

186 Lê Hường, Thấy gì từ các công trình nước sinh hoạt tập trung ở Tây Nguyên? Hàng trăm công trình không hiệu quả, https://baodantoc.vn/thay-gi-tu-cac-cong-trinh-nuoc-sinh-hoat-tap-trung-o-tay-nguyen-hang-tram- cong-trinh-khong-hieu-qua-bai-1-1623050902607.htm, truy cập ngày 12/9/2022

quyền TCTT”. Như vậy, đối tượng TCTT ở Việt Nam mang tính phổ quát đối với

113

mọi công dân. Đối tượng TCTT không chỉ có công dân Việt Nam mà còn cả người

nước ngoài cư trú tại Việt Nam.187

Nhìn chung, quy định về đối tượng TCTT ở Việt Nam tương đối phù hợp

với pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia trên thế giới, thể hiện sự nỗ lực

hoàn thiện hệ thống pháp luật trong việc đảm bảo nhu cầu cơ bản của con người.

Việc TCTT của người dân ngày càng thuận tiện với sự phát triển của khoa học

công nghệ, sự quan tâm từ phía nhà nước và từ chính nhu cầu, ý thức về quyền

được TCTT của người dân. Cụ thể, tỷ lệ bao phủ người dân sử dụng Internet ở

Việt Nam ngày tăng mạnh qua các năm, tính đến năm 2019, có khoảng 59,2 triệu

người dân sử dụng Internet và con số này được dự báo tăng tới 75,7 triệu người

sử dụng vào năm 2023 và 82,25 triệu người vào năm 2025.188 Tỷ lệ người dân đọc

tin tức trên nền tảng Internet và sử dụng Internet tăng nhanh từ 28% năm 2017 lên

38% năm 2018189. Tính đến tháng 6/2018, Việt Nam có 857 cơ quan báo chí với

1.119 ấn phẩm và 1.510 website được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép.

Mỗi năm có 650 triệu ấn bản báo chí được phát hành. Việt Nam có 195 trang báo,

tạp chí điện tử, 67 đài phát thanh và truyền hình trên cả nước phát sóng trên 182

kênh và 01 hãng thông tấn. Trong đó, đài Tiếng nói Việt Nam phủ sóng trên 97,5%

diện tích đất nước và tín hiệu truyền hình Việt Nam tiếp sóng 90% hộ gia đình.190

Tuy nhiên, quy định về đối tượng TCTT ở Việt Nam vẫn tồn tại hạn chế,

bất cập và mâu thuẫn dẫn tới khó khăn trong quá trình thực hiện.

Thứ nhất, quy định đối tượng TCTT trong luật TCTT chưa tương thích với

các văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia và chưa tương thích

https://www.statista.com/

187 Khoản 1 Điều 36 Luật TCTT năm 2016 188Statista, Number of internet users in Vietnam from 2017 to 2023 statistics/369732/internet-users-vietnam, truy cập ngày 7/2/2022. 189 Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2020), Báo cáo tóm tắt đánh giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (lần thứ ba) 190 Nhóm công tác liên ngành 18 cơ quan, Báo cáo quốc gia về thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III, 2018, tr.16

với chính các văn bản quy phạm pháp luật khác trong nước. Điều 19 Tuyên ngôn

114

nhân quyền năm 1948 quy định “Ai cũng có quyền tự do quan niệm…và quyền tìm

kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông

không kể biên giới quốc gia”. Điều 19.2 Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính

trị năm 1966 quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm

tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến…”. Ở Việt Nam, đối

tượng TCTT được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau

với nhiều cách quy định khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu của Bộ Tư pháp năm

2015 trong Báo cáo đánh giá về bảo đảm quyền TCTT của công dân thì Việt Nam

có ít nhất 41 luật, pháp lệnh và 34 thông tư, nghị định thuộc 16 lĩnh vực có quy

định về chủ thể TCTT. Trong số các văn bản này, có văn bản không giới hạn,

không xác định cụ thể đối tượng được TCTT. Điều này có nghĩa là người nước

ngoài, người không có quốc tịch sinh sống ở Việt Nam và tổ chức nước ngoài hoạt

động hợp pháp tại Việt Nam vẫn được TCTT do cơ quan nhà nước chủ động công

khai rộng rãi. Chẳng hạn, Luật Dược trong quy định về công khai giá thuốc; Luật

Phòng, chống bệnh truyền nhiễm “Mọi người đều được tiếp cận với thông tin…”

(Điều 10). Một số văn bản lại xác định đối tượng TCTT là cá nhân, cơ quan, tổ

chức như Luật Tài nguyên nước191, Luật Phòng chống tham nhũng. Trong khi đó,

như trên đã phân tích Luật TCTT chỉ giới hạn đối tượng TCTT là “công dân”.

Thứ hai, Khoản 3 Điều 4 Luật TCTT chưa tương thích với Luật trẻ em khi

quy định: “Người dưới 18 tuổi yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại

diện theo pháp luật”. Còn theo Luật Trẻ em năm 2016 quy định “trẻ em là người

dưới 16 tuổi” và “Trẻ em có quyền được TCTT đầy đủ, kịp thời, phù hợp; có quyền

tìm kiếm, thu nhận các thông tin dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật”.

Như vậy, quy định về đối tượng TCTT tại Điều 4 Luật TCTT chưa hoàn toàn

tương thích với Luật Trẻ em và quyền TCTT của nhóm người từ đủ 16 đến dưới

18 tuổi vô hình chung bị hạn chế vì phải thông qua người đại diện theo pháp luật.

191 Điều 8 Luật Tài nguyên nước năm 2012

Đảm bảo quyền TCTT còn được quy định riêng đối với người khuyết tật,

115

là những người có khó khăn trong việc TCTT. Luật Người khuyết tật năm 2010

quy định quyền TCTT được xác định là một trong 7 nhóm quyền của người khuyết

tật. Nghị định số 13/2018/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật

TCTT đã dành riêng một điều quy định về vấn đề này. Theo đó, các thông tin liên

quan trực tiếp tới người khuyết tật phải được cung cấp kịp thời theo hình thức

thuận lợi, cơ quan cung cấp thông tin bố trí cán bộ hướng dẫn, giải thích, giúp đỡ

người khuyết tật trong việc yêu cầu cung cấp thông tin… Cơ quan báo chí có giấy

phép hoạt động phát thanh, truyền hình cung cấp kênh chương trình truyền hình

phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu của quốc gia có trách

nhiệm áp dụng tiêu chuẩn, công nghệ hỗ trợ người khuyết tật nghe tiếp cận chương

trình thời sự chính trị tổng hợp hàng ngày trên kênh. Nghĩa vụ tương tự cũng được

quy định đối với trang thông tin điện tử/Cổng thông tin điện tử/Cổng Dịch vụ công

của cơ quan, tổ chức.192 Như vậy, Việt Nam đang từng bước thực hiện cam kết

khi tham gia Công ước về các quyền của người khuyết tật (CRPD), điều này góp

phần to lớn nhằm đảm bảo quyền TCTT được thực hiện một cách công bằng đối

với mọi người dân. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, TCTT của người khuyết tật

đang gặp phải những rào cản nhất định, họ chưa được TCTT một cách thuận lợi

và hiệu quả. Trong số 245 cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của 27

cơ quan nhà nước cấp TW; Văn phòng UBND cấp tỉnh và Sở Tư pháp thuộc 63

tỉnh, thành phố; và 92 cơ quan nhà nước nằm trong phạm vi nghiên cứu, thì tất cả

245 cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử này đều chưa có thư mục

tiếp cận thông tin với người khuyết tật. Phần mềm đọc văn bản cho người khuyết

tật nhìn hay hướng dẫn kết nối với dịch vụ phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu dành cho người khuyết tật nghe chưa được đăng tải trên các cổng/trang thông tin điện tử

192 Điều 4 Thông tư số 26/2020/TT-BTTTT ngày 23/9/2020 về áp dụng tiêu chuẩn, công nghệ hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận, sử dụng sản phẩm, dịch vụ thông tin và truyền thông 193 Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2020), Báo cáo đánh giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (lần thứ hai)

này.193 Thêm vào đó, TCTT của người khuyết tật còn hạn chế hơn so với người

116

không khuyết tật do tỷ lệ sở hữu các phương tiện truyền thông của hai nhóm này

còn sự chênh lệch lớn. Chẳng hạn tỷ lệ hộ gia đình sở hữu Tivi giữa hai nhóm là

87,7% so với 94,4%, tỷ lệ sử dụng thuê bao Internet là 16,8% so với 30,9%, tỷ lệ

sở hữu máy tính là 13,7% so với 28,6% và đặc biệt là tỷ lệ cá nhân sử dụng Internet

của người không khuyết tật cao gấp 6,5 lần so với người khuyết tật.194

Một nhóm đối tượng khác cũng gặp khá nhiều trở ngại trong việc TCTT là

NLĐ di cư. Quá trình sinh sống, làm việc tại nơi di cư đến, lao động di cư phải

đối mặt với nhiều khó khăn. Vì vậy, việc TCTT là nhu cầu thiết yếu với họ, nó

không những đáp ứng nhu cầu trao đổi, nắm bắt tình hình, mở rộng kiến thức mà

còn giúp họ có khả năng, cơ hội khắc phục khó khăn để vươn lên. Tuy nhiên, việc

TCTT của lao động di cư chưa đồng đều ở các vùng khác nhau trong cả nước. Cụ

thể, tại khu vực thành thị, lao động di cư có sự thuận tiện, dễ dàng hơn trong

TCTT. Theo thống kê, chỉ có 1,1% lao động di cư tại Hà Nội gặp khó khăn về

TCTT, thấp nhất cả nước nhưng tại khu vực Tây Nguyên, tỷ lệ này là 23,9% cao

nhất nước.195 Theo nghiên cứu của Oxfam, 67,2% lao động di cư không biết nơi

cung cấp thông tin và tư vấn về Bộ luật Lao động và Luật BHXH, Luật BHYT.

Cho đến nay, chưa có chương trình truyền thông đại chúng chuyên biệt chính thức

nào dành riêng cho cộng đồng người di cư.

2.5.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nội dung dịch vụ xã hội cơ bản về tiếp

cận thông tin và thực tiễn thực hiện

Theo Luật TCTT năm 2016 thì công dân được tiếp cận tất cả thông tin do cơ

quan nhà nước công khai và được quyền yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông

tin (Điều 10). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng quyền TCTT của công dân có thể bị giới

hạn trong một số trường hợp đặc biệt hoặc được tiếp cận có điều kiện. Điều 6 Luật

TCTT quy định thông tin không được tiếp cận là những thông tin thuộc bí mật nhà

194 Tổng cục Thống kê (2016), Điều tra Quốc gia về người khuyết tật 2016 – Báo cáo cuối cùng, tr.21 195 Tổng Cục thống kê- Quỹ dân số LHQ (2016), Báo cáo điều tra di cư nội địa quốc gia năm 2015

nước (thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an

117

ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo

quy định của pháp luật). Thông tin công dân được tiếp cận có điều kiện là thông

tin liên quan đến bí mật kinh doanh, bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí

mật gia đình cần được sự đồng ý. Nhìn chung, Luật TCTT năm 2016 ra đời đã tạo

hành lang pháp lý trong việc xác định phạm vi, nội dung thông tin được tiếp cận

một cách rõ ràng hơn so với trước đây. Tuy nhiên, các quy định về nội dung TCTT

vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Cụ thể:

Theo quy định tại Khoản 3, Điều 2 thì “tiếp cận thông tin là việc đọc, nghe,

ghi chép, sao chép, chụp thông tin”. Như vậy, nội dung DVXHCB về TCTT ở

Việt Nam chỉ dừng lại ở việc đọc, nghe, ghi chép, sao chép và chụp thông tin do

cơ quan nhà nước công khai hoặc thông tin yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp,

mà không có các nội dung khác như truyền bá hoặc chia sẻ thông tin. Có thể thấy,

nội dung DVXHCB về TCTT được quy định ở Việt Nam chưa tương thích với

Hiến pháp năm 2013 và với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Công

ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị tại Khoản 2 Điều 19 quy định “mọi người

có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền

đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng

miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương

tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ.” Điều 25 Hiến pháp năm

2013 quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông

tin,…”. Việc Luật TCTT năm 2016 chưa tương thích với Hiếp pháp và Công ước

quốc tế, chưa cụ thể hoá quyền chia sẻ thông tin được cung cấp cũng dễ đặt công

dân vào tình trạng vi phạm pháp luật trong trường hợp họ chia sẻ thông tin tiếp

cận được với người khác dưới bất kỳ hình thức nào.196

Một bất cập khác là quy định về công khai thông tin của cơ quan nhà nước.

196 Tổ chức CARE tại Việt Nam, tổ chức Oxfam tại Việt Nam, Liên minh Nước sạch, Liên minh Khoáng sản và Liên minh đất rừng (2019), Báo cáo đánh giá ban đầu việc thực thi Luật tiếp cận thông tin.

Cụ thể, đối với thông tin được cơ quan nhà nước công khai thì thời điểm công khai

118

thông tin đối với từng lĩnh vực được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên

quan, trường hợp pháp luật chưa có quy định thì chậm nhất là 05 ngày làm việc

kể từ ngày tạo ra thông tin, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải công khai thông

tin (Khoản 4 Điều 18). Tuy nhiên, khoản 1 Điều 23 Luật TCTT lại quy định thông

tin phải được công khai có thể là thông tin được cung cấp theo yêu cầu. Như vậy,

quy định này có thể dẫn đến tình trạng cơ quan cung cấp thông tin viện dẫn lý do

“cung cấp thông tin theo yêu cầu” để biện minh cho việc không kịp thời công khai

thông tin. Từ đó, việc thực hiện nghĩa vụ chủ động công khai, cung cấp thông tin

của cơ quan Nhà nước có thể bị chậm trễ, dẫn đến vi phạm nguyên tắc kịp thời

cung cấp thông tin cho công dân.

Không những thế, bất cập trong quy định về cung cấp thông tin theo yêu

cầu làm ảnh hưởng đến quyền TCTT. Cụ thể, Điều 24 Luật TCTT quy định khi

yêu cầu cung cấp thông tin, người yêu cầu phải viết Phiếu yêu cầu cung cấp thông

tin. Trong đó, nội dung của Phiếu yêu cầu cung cấp thông tin phải chỉ rõ tên văn

bản, hồ sơ, tài liệu của thông tin được yêu cầu cung cấp. Quy định này phần nào

làm hạn chế quyền TCTT của người yêu cầu cung cấp thông tin trong trường hợp

cơ quan nhà nước tạo ra văn bản chưa công khai tài liệu hoặc tài liệu chưa được

đưa vào danh mục tài liệu phải công khai/ tiếp cận theo yêu cầu hoặc tài liệu đã

hết thời hạn công khai nhưng người dân chưa tiếp cận được. Hơn nữa quy định

phải chỉ rõ tên văn bản, hồ sơ, tài liệu cũng gây khó khăn cho người yêu cầu cung

cấp thông tin bởi không phải người dân nào cũng có thể nhớ, nắm được tên các

văn bản, hồ sơ, tài liệu của cơ quan nhà nước hoặc trong trường hợp người yêu

cầu không biết chữ cũng là một khó khăn khi cần phải đọc và nhớ tên văn bản, hồ

sơ, tài liệu.

Về chi phí TCTT, tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia mà chi phí TCTT

được quy định khác nhau. Nhìn chung, nhiều quốc gia quy định nghĩa vụ trả phí

khi yêu cầu cung cấp thông tin, nhưng các chi phí này phải được quy định một

cách hợp lý, không tạo ra rào cản TCTT hoặc không phải là mục tiêu lợi nhuận

119

của chủ thể cung cấp thông tin. Thông thường các loại chi phí bao gồm chi phí

nộp đơn, tìm kiếm, sao chép thông tin và lệ phí khiếu nại. Nếu chi phí TCTT được

quy định một cách hợp lý, sẽ là điều cần thiết bảo đảm bù đắp chi phí hoạt động

cho các cơ quan công quyền, tránh tình trạng công dân yêu cầu cung cấp thông tin

một cách tuỳ tiện và là biện pháp giảm áp lực cho NSNN. Ở Việt Nam, công dân

được cung cấp thông tin không phải trả phí, lệ phí, trừ trường hợp luật khác có

quy định. Người yêu cầu cung cấp thông tin phải trả chi phí thực tế để in, sao,

chụp, gửi thông tin (Điều 12 luật TCTT năm 2016). Quy định này nhìn chung phù

hợp với xu hướng chung của nhiều nước trên thế giới, nhằm đảm bảo công dân

khi yêu cầu cung cấp thông tin phải trả mức phí có thể chấp nhận được so với thu

nhập và tránh sự tuỳ tiện khi yêu cầu cung cấp thông tin.

2.5.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chủ thể cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản

về tiếp cận thông tin và thực tiễn thực hiện

Quyền TCTT luôn gắn liền với trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan

nhà nước. Khoản 1 Điều 9 Luật TCTT quy định cơ quan nhà nước có trách nhiệm

cung cấp thông tin do mình tạo ra, trừ thông tin công dân không được tiếp cận; đối

với thông tin được tiếp cận có điều kiện thì cung cấp thông tin khi có đủ điều kiện

theo quy định. UBND cấp xã có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình tạo ra và

thông tin do mình nhận được để trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của mình, trừ trường hợp thông tin công dân không được tiếp cận; thông tin

được tiếp cận có điều kiện thì cung cấp thông tin khi có đủ điều kiện theo quy

định. Quy định này thể hiện được bản chất của quyền TCTT và phù hợp với các

quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước. Thực tế, một số cơ quan

nhà nước đã thực hiện nghiêm túc quy định của Luật TCTT về ban hành và công

khai quy chế nội bộ về tổ chức cung cấp thông tin. Trong đó, quy định đối tượng,

nguyên tắc thực hiện Luật TCTT; trách nhiệm lãnh đạo trong thực hiện quyền

TCTT; đầu mối công khai cung cấp thông tin; quy trình công khai thông tin và

cung cấp thông tin theo yêu cầu; trách nhiệm khi cung cấp thông tin sai và các quy

120

định liên quan đến phí cung cấp thông tin.197 Điều này tác động tích cực đến hiệu

quả yêu cầu cung cấp thông tin của công dân cũng như tăng trách nhiệm của cơ

quan nhà nước về trách nhiệm giải trình thực hiện quyền TCTT của công dân. Quy

định về chủ thể cung cấp thông tin vẫn tồn tại một số hạn chế, mâu thuẫn với các

văn bản luật khác gây khó khăn trong quá trình áp dụng. Cụ thể:

Quy định về chủ thể cung cấp thông tin trong Luật TCTT của Việt Nam

chưa đồng nhất, chưa tương thích với quy định của các văn bản pháp luật khác

trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Theo kết quả nghiên cứu, rà soát của Tổ chức

Hướng tới minh bạch (TT) và Nhóm làm việc vì sự tham gia của người dân

(PPWG) thì có 31 luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền

TCTT và 18 lĩnh vực thông tin phải công khai theo quy định của Luật Phòng,

chống tham nhũng. Các văn bản này quy định chủ thể cung cấp thông tin rất rộng,

bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp ở tất cả các cấp cũng như

các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp nhà nước,

các cơ quan cung cấp dịch vụ công. Thêm vào đó, Báo cáo đánh giá thực trạng

pháp luật về đảm bảo quyền TCTT do Bộ Tư pháp thực hiện nêu trên đưa ra kết

luận: “chủ thể có trách nhiệm công bố, công khai thông tin được quy định rất

rộng, bao gồm toàn bộ cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị -xã hội, doanh nghiệp

và cả các tổ chức, cá nhân trong một số lĩnh vực”. Như vậy, có thể thấy, chủ thể

cung cấp thông tin được quy định ở các văn bản pháp luật khác không chỉ có cơ

quan nhà nước mà còn có doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân. Trong khi Luật

TCTT chỉ giới hạn chủ thể cung cấp thông tin là cơ quan nhà nước, thể hiện hệ

thống pháp luật còn tồn tại mâu thuẫn, chồng chéo.

Nhìn chung, việc chủ động cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước

được thực hiện khá chậm, thiếu cập nhật làm ảnh hưởng tới quá trình tìm kiếm

197 Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2020), Báo cáo đánh giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (lần thứ hai), tr.17

thông tin của người dân. Theo kết quả nghiên cứu thì tính đến đầu tháng 3/2/2020

121

trong số 245 cổng thông tin được tìm kiếm của cơ quan nhà nước, bao gồm của

cơ quan trung ương, cơ quan địa phương, cơ quan chuyên môn thì chỉ có 27 cổng

thông tin có chuyên mục tiếp cận thông tin và có 11 cổng thông tin có danh mục

thông tin phải công khai theo quy định của Luật TCTT. Cũng theo kết quả nghiên

cứu này, tỷ lệ cơ quan nhà nước không phản hồi yêu cầu cung cấp thông tin lên

tới 70% số cơ quan được nhóm nghiên cứu gửi yêu cầu cung cấp thông tin. Không

những thế, một số đại diện của các cơ quan nhà nước chưa hiểu hoặc còn nhầm

lẫn quyền yêu cầu cung cấp thông tin của công dân theo luật TCTT với yêu cầu

giải quyết thủ tục hành chính thông thường.198 Khi được hỏi về tình hình công

khai thông tin và cung cấp thông tin theo yêu cầu, đa phần các lãnh đạo và chuyên

viên được hỏi đều viện dẫn việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật khác

như Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật; Luật Tiếp công dân; Luật Báo chí..; Hoặc

có sự nhầm lẫn giữa công chức phụ trách công tác lưu trữ và công chức được phân

công làm đầu mối cung cấp thông tin.199

2.5.4. Thực trạng pháp luật Việt Nam về nguồn tài chính đầu tư cho dịch vụ xã

hội cơ bản về tiếp cận thông tin và thực tiễn thực hiện

Nghiên cứu của Viện Thịnh vượng Toàn cầu đã chứng minh rằng tiền chi

cho các dịch vụ cơ bản - nền tảng cơ bản nhất của cuộc sống cần thiết cho mọi

người dân trong thế kỷ XXI - làm giảm đáng kể chi phí sinh hoạt cơ bản của những

người có thu nhập thấp nhất.200 Như vậy, đầu tư cho TCTT cần phải được NSNN

hỗ trợ bên cạnh nguồn đầu tư từ xã hội hoá, nguồn vốn đầu tư của khu vực tư

nhân.

198 Trung tâm Thúc đẩy giáo dục s và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2020), Báo cáo đánh giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (lần thứ hai), tr.20, 35 199 Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2021), Thảo luận chính sách, Thực thi hiệu quả Luật Tiếp cận thông tin 200 Institute for global prosperity (2017), Social prosperity for the future:A proposal for Universal Basic Services, tr.6

Để quyền TCTT được đảm bảo thực hiện hiệu quả trên thực tế thì một trong

122

những phương thức hữu hiệu nhất là ứng dụng công nghệ thông tin. Năm 2019,

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05

tháng 9 năm 2019 quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng

nguồn vốn NSNN nhằm bảo đảm sự tương thích với quy định của Luật Đầu tư

công. Chính phủ đề nghị các địa phương dành ít nhất 1% ngân sách hàng năm cho

ứng dụng công nghệ thông tin. Pháp luật TCTT cũng quy định NSNN đảm bảo

kinh phí thực hiện việc cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước.201 Kinh phí

thực hiện Kế hoạch triển khai thực thi Luật TCTT được bố trí từ NSNN trong dự

toán chi thường xuyên hàng năm và các nguồn khác theo quy định của pháp luật.

Nhìn chung, các quy định về nguồn tài chính đầu tư cho TCTT vẫn chung chung,

chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về mức kinh phí và cách thức sử dụng NSNN

cho TCTT. Việc dành 1% ngân sách địa phương hàng năm cho ứng dụng công

nghệ thông tin cũng mới chỉ dừng lại ở góc độ khuyến khích của Chính phủ mà

chưa có quy định cụ thể ràng buộc trách nhiệm của chính quyền địa phương. Chưa

có quy định hướng dẫn mức kinh phí cụ thể hàng năm ngân sách địa phương phải

dành cho việc phát triển công nghệ thông tin. Nếu so sánh với một số quốc gia

khác thì mức đầu tư cho công nghệ thông tin ở Việt Nam còn thấp. Các quốc gia

Asean chi 1,3-1,5% GDP, còn các nước phát triển chi 2-2,5% GDP trong khi mức

chi ở Việt Nam rất khiêm tốn với 0,3-0,4% GDP.202

Thực tiễn đầu tư cho cơ sở hạ tầng lưu trữ và cung cấp thông tin chưa đạt

hiệu quả cao trên thực tế, khó đảm bảo cung cấp thông tin cho công dân một cách

kịp thời, chính xác và đầy đủ. Một số xã, phường chưa có trang thông tin điện tử

hoặc có thì cũng chỉ là trang liên kết từ trang thông tin điện tử của UBND huyện.

Hình thức lưu trữ chủ yếu vẫn là lưu trữ văn bản giấy, tài liệu chưa được sắp xếp

theo tiêu chuẩn quy định tại Luật Lưu trữ. Cơ sở hạ tầng lưu trữ thông tin hiện tại

201 Điều 13 Nghị định 13/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Tiếp cận thông tin 202 https://amp.baodautu.vn/phat-trien-cong-nghe-thong-tin-muon-dot-pha-phai-chiu-chi-d130405.html, truy cập ngày 12/3/2022

của các cơ quan thuộc cấp huyện và cấp xã khó bảo đảm cung cấp thông tin, đặc

123

biệt những thông tin chỉ được lưu bằng văn bản giấy. Nguyên nhân được phản ánh

là do khó khăn về tài chính, cách thức và khó khăn nhân lực có chuyên môn công

nghệ thông tin để tạo dựng cơ sở vật chất hay vận hành cổng/trang thông tin điện

tử. Đặc biệt, vận hành các cổng/trang này dễ tiếp cận hơn cho người khuyết tật,

người mù chữ hay những nhóm dễ bị tổn thương khác.203

Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, việc TCTT chủ yếu qua phương

tiện ti vi nhưng tỷ lệ sở hữu ti vi không đồng đều giữa các khu vực. Theo thống

kê, tỷ lệ hộ gia đình dân tộc Hoa, Sán Dìu sở hữu ti vi lên tới 95% nhưng một số

dân tộc khác tỷ lệ khiêm tốn hơn, ở mức dưới 60% như dân tộc Co, Khơ Mú,

Mông, Chứt, Cơ Lao, Lô Lô, Mảng và La Hủ. Một công cụ quan trọng nữa để

người dân nơi đây TCTT là máy vi tính kết nối Internet nhưng tỷ lệ người dân tộc

thiểu số có máy tính kết nối Internet lại khá khiêm tốn. Tỷ lệ hộ dân tộc Hoa có

máy tính là 46,7%, có kết nối Internet là 47,2%; dân tộc Ngái là 27,4% hộ có máy

vi tính và 17,1% có kết nối Internet. 51 dân tộc còn lại chỉ có dưới 17% hộ dân

tộc thiểu số sở hữu máy tính và dưới 10% tiếp cận được Internet. Thậm chí, các

dân tộc Si La, Chứt, La Hủ, Xinh Mun chỉ có dưới 1% số hộ có máy vi tính. Các

dân tộc La Hủ, Kháng, Khơ Mú, Xinh Mun, Rơ Măm không được kết nối Internet,

đặc biệt dân tộc Brâu không có hộ nào có máy vi tính hay Internet.204

Một điều kiện nữa để quyền TCTT của người dân được thực hiện hiệu quả

là không thể thiếu hệ thống chia sẻ dữ liệu của cơ quan nhà nước. Chính phủ đã

ban hành Nghị định số 47/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/4/2020 quy định về

quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước. Điểm b khoản 6 Điều

5 quy định dữ liệu của cơ quan nhà nước chia sẻ cho tổ chức, cá nhân thực hiện

theo quy định của Luật TCTT và các quy định của pháp luật hiện hành. Quy định

203 Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2020), Báo cáo đánh giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (lần thứ hai), tr.30, 204 Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của 53 dân tộc thiểu số, tr.47

này một lần nữa khẳng định việc chia sẻ dữ liệu của cơ quan nhà nước là nhằm

124

đảm bảo TCTT cho người dân. Kinh phí đầu tư cho kết nối, chia sẻ dữ liệu được

đảm bảo bởi NSNN trung ương và ngân sách địa phương. Theo tinh thần đó, năm

2020, 100 chuyên gia được đào tạo cho chính phủ điện tử ở các bộ, ngành, địa

phương. Đồng thời, sử dụng tối thiểu 1% tỷ lệ chi ngân sách các cấp từ trung ương

đến địa phương cho xây dựng và phát triển chính phủ điện tử.

2.6. Một số nhận xét, đánh giá

2.6.1. Những kết quả đạt được

Thứ nhất, các DVXHCB đều được quy định có đối tượng tiếp cận mang

tính phổ quát.

Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đều ghi nhận quyền

tiếp cận DVXHCB đối với toàn bộ dân chúng. Điều này góp phần đảm bảo không

ai bị bỏ lọt khỏi tấm lưới đỡ ASXH quốc gia.

Thứ hai, một số DVXHCB được quy định trong hệ thống pháp luật tương

đối đầy đủ, toàn diện.

Hệ thống pháp luật về DVXHCB không chỉ dừng lại ở quy định ghi nhận

đối tượng tiếp cận mang tính bao phủ mà còn quy định riêng đối với nhóm đối

tượng yếu thế như người nghèo, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số… Chẳng

hạn, quy định giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật; trẻ em mầm non 05 tuổi ở

thôn, xã đặc biệt khó khăn, dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo được miễn học phí;

người nghèo được NSNN đóng BHYT; áp dụng tiêu chuẩn, kỹ thuật hỗ trợ người

khuyết tật TCTT,…

Hệ thống pháp luật về DVXHCB quy định khá đầy đủ về chủ thể cung cấp

DVXHCB. Theo đó, tùy từng DVXHCB mà chủ thể cung cấp DVXHCB là Nhà

nước hay khu vực tư nhân cung cấp. Chẳng hạn, DVGDCB do Nhà nước cung cấp

thông qua hệ thống trường công lập. Chủ thể cung cấp chăm sóc YTCB là các cơ

sở khám chữa bệnh công lập hoặc các cơ sở khám chữa bệnh có ký hợp đồng với

tổ chức BHYT. Hoặc đối với nước sạch, chủ thể cung cấp nước sạch là các đơn vị

cấp nước được Nhà nước lựa chọn… Đối với những DVXHCB mà Nhà nước

125

không trực tiếp cung cấp thì Nhà nước chịu trách nhiệm kiểm soát, quản lý đảm

bảo về chất lượng, giá dịch vụ…

Hệ thống pháp luật về DVXHCB chỉ ra nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB

tương đối đầy đủ và phù hợp với xu thế chung của các quốc gia trên thế giới. Trong

đó, nguồn tài chính được đảm bảo từ NSNN, nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân,

nguồn vốn xã hội hóa, nguồn viện trợ, tài trợ từ các tổ chức, cá nhân…

Thứ ba, phạm vi DVXHCB tương đối phù hợp với sàn ASXH của LHQ

Nhìn chung, DVXHCB ở Việt Nam bao gồm 05 dịch vụ như đã trình bày

có sự tương thích tương đối với Sàn ASXH của LHQ và pháp luật quốc tế. Các

DVXHCB này đều là những dịch vụ thiết yếu, đáp ứng nhu cầu tối thiểu của con

người và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển con người.

Thứ tư, thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về các DVXHCB đều đạt

được kết quả tích cực.

Về DVGDCB, tất cả trẻ em trai và trẻ em gái được đi học cấp tiểu học.

NSNN đầu tư cho giáo dục luôn duy trì ở mức cao so với các nước trong khu vực.

Một số tỉnh thành đã bước đầu thực hiện giảm học phí cho bậc giáo dục trung học

cơ sở, trung học phổ thông

Về chăm sóc YTCB, tỷ lệ người dân được tiếp cận với gói chăm sóc sức

khỏe ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khỏe ngày càng cao, thể hiện thông qua

tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đầy đủ, số lượng phụ nữ dân tộc thiểu số được khám

thai; tỷ lệ người dân tham gia BHYT…;

Về nhà ở, trong những năm gần đây, nhà ở cho người thu nhập thấp, người

nghèo được triển khai khá mạnh mẽ với những con số khá tích cực. Các dự án nhà

ở xã hội quy mô lớn ngày càng triển khai rộng rãi. Một số doanh nghiệp đã thực

hiện xây dựng dự án nhà ở cho công nhân như Tổng công ty Viglacera, Tổng công

ty Becamex IDC, Công ty cổ phần tập đoàn tư vấn xây dựng Kiên Giang (CIC

Group)…

Về nước sạch, tiếp cận nước sạch của người dân ngày càng được đảm bảo khi

126

nhiều nhà đầu tư dành khoản đầu tư lớn cho nước sạch như tập đoàn AquaOne,

Công ty Nhự Đồng Nai, Công ty cổ phần Nước - Môi trường Bình Dương

(Biwase), Công ty cổ phần Nước Thủ Dầu Một (Tdmwater).205

Về TCTT, tỷ lệ người dân sử dụng Internet tăng nhanh trong những năm

gần đây giúp cho việc TCTT được thuận tiện. Mạng lưới cơ quan báo chí, trang

báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, website của cơ quan nhà nước rộng khắp

giúp cho việc cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước được nhanh chóng, kịp

thời.

2.6.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Thứ nhất, phạm vi DVXHCB còn thiếu một số dịch vụ cơ bản, thiết yếu.

Mặc dù, về cơ bản phạm vi DVXHCB với 05 dịch vụ như trên đã trình bày

là tương đối đầy đủ để đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của người dân. Tuy nhiên,

với nhu cầu ngày càng cao của người dân cùng với sự phát triển kinh tế và từ thực

tiễn Việt Nam thì phạm vi DVXHCB chưa hoàn toàn đầy đủ, thiếu một số

DVXHCB như DVXHCB về vệ sinh, DVXHCB về chăm sóc người cao tuổi….

Thứ hai, một số DVXHCB chưa có hành lang pháp lý rõ ràng mà chủ yếu

thể hiện thông qua các chính sách.

DVXHCB về chăm sóc y tế và DVXHCB về nước sạch hiện nay chưa được

quy định đầy đủ và toàn diện bằng văn bản pháp luật mà Nhà nước chủ yếu ban

hành các Chương trình mục tiêu quốc gia và áp dụng theo các giai đoạn nhất định.

Mặc dù Quốc hội đã ban hành Luật khám bệnh, chữa bệnh và văn bản quy định

gói dịch vụ y tế cơ bản cho tuyến y tế cơ sở nhưng các văn bản này chưa quy định

trực tiếp đối tượng được tiếp, chủ thể cung cấp chăm sóc YTCB. Các nội dung

này chủ yếu được ghi nhận và thực hiện thông qua các Chương trình mục tiêu

quốc gia theo từng gia đoạn nhất định. Chẳng hạn, Chương trình mục tiêu Y tế -

205 Bạch Huệ, cuộc chiến nước sạch: Những “tay chơi” mới khai phá thị trường tỷ USD https://vneconomy.vn/cuoc-chien-nuoc-sach-nhung-tay-choi-moi-khai-pha-thi-truong-ty-usd.htm, truy cập ngày 7/2/2023

Dân số giai đoạn 2016-2020, Chương trình mục tiêu quốc gia về dân số và kế

127

hoạch hoá gia đình,… Tương tự, vấn đề tiếp cận nước sạch cũng chưa có đạo luật

riêng điều chỉnh mà chủ yếu được thực hiện thông qua các chiến lược quốc gia.

Chẳng hạn, Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm

2030, tầm nhìn đến năm 2045… Việc chưa có văn bản quy phạm pháp luật riêng

điều chỉnh trực tiếp, đầy đủ các nội dung của các DVXHCB này thể hiện sự chưa

tương xứng về vị trí giữa các DVXHCB trong hệ thống ASXH và thể hiện sự chưa

hoàn thiện trong hệ thống pháp luật, gây khó khăn cho quá trình thực hiện trên

thực tế. Nguyên nhân của tình trạng này có thể do nội dung tiếp cận dịch vụ chăm

sóc sức khoẻ ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khoẻ thuộc dịch vụ chăm sóc

YTCB có thể thay đổi theo từng giai đoạn hoặc theo thực tế diễn biến dịch bệnh.

Chẳng hạn, vắc-xin phòng bệnh Covid-19 trước đây không nằm trong danh mục

các loại bệnh được tiêm chủng miễn phí nhưng do tình hình diễn biến phức tạp

của dịch bệnh mà mọi người dân, không chỉ có trẻ em được tiêm chủng văc-xin

này. Đối với DVXHCB về nước sạch, mỗi địa phương có quy định riêng về giá

bán, chính sách ưu đãi cho đơn vị cấp nước đầu tư cung cấp nước sạch… nên đây

có thể là nguyên nhân của tình trạng nêu trên.

Thứ ba, việc tiếp cận DVGDCB, chăm sóc YTCB của người di cư còn gặp

khó khăn do quy định về hộ khẩu.

Nhu cầu tiếp cận DVGDCB và chăm sóc YTCB ở các thành phố lớn, những

khu vực tập trung đông dân cư luôn ở mức cao trong khi số lượng, điều kiện cơ sở

vật chất, nguồn lực có hạn. Vì vậy, một trong những điều kiện để nhập học ở các

trường công lập và điều kiện hưởng tối đa quyền lợi BHYT là hộ khẩu và nơi đăng

ký khám chữa bệnh ban đầu.

Thứ tư, hệ thống pháp luật về DVXHCB chưa có sự thống nhất, rải rác

trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau và một số quy định chưa có sự tương

thích, thống nhất.

DVXHCB ở Việt Nam được ghi nhận chính thức là một trong những cấu

phần của hệ thống ASXH trong Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1/6/2012 của Ban

128

Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai

đoạn 2012-2020. Trong khi đó, các nội dung về giáo dục cơ bản, chăm sóc YTCB,

nhà ở, nước sạch và TCTT đã được pháp luật điều chỉnh từ sớm. Chẳng hạn, Luật

Giáo dục đầu tiên của Việt Nam được ban hành năm 1998, Luật khám bệnh, chữa

bệnh được ban hành từ năm 2009; Luật Nhà ở được ban hành từ năm 2005… Do

được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau và ban hành ở các

giai đoạn khác nhau nên các quy định liên quan đến DVXHCB vẫn tồn tại sự chưa

thống nhất ở mức độ nhất định.

Thứ năm, chất lượng DVXHCB chưa đảm bảo, tiếp cận DVXHCB chưa

hiệu quả, còn sự chênh lệch giữa các nhóm đối tượng.

Tình trạng học sinh đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục cơ bản

nhưng chưa đảm bảo kiến thức còn tồn tại. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu,

cán bộ y tế được đào tạo chuyên sâu về phục hồi chức năng cho người khuyết tật

còn thiếu nên chăm sóc YTCB cho đối tượng này chưa đảm bảo chất lượng. Hay

tình trạng nước sạch bị ô nhiễm, lẫn tạp chất vẫn xảy ra thường xuyên. Nguyên

nhân của tình trạng này là nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB chưa đáp ứng

yêu cầu, NSNN đầu tư cho DVXHCB còn hạn chế ở một số dịch vụ (nhà ở, nước

sạch, TCTT), chưa thu hút được nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân. Ngoài ra,

việc chưa cho phép người sử dụng DVXHCB được quyền kiểm tra, đánh giá chất

lượng dịch vụ cũng là một trong những nguyên nhân của tình trạng chất lượng

DVXHCB chưa đảm bảo. Người sử dụng DVXHCB cũng là khách hàng bởi họ

phải trả phí để sử dụng dịch vụ nên họ cần có đầy đủ quyền của một khách hàng

thực thụ như được đánh giá, được phản ánh chất lượng, được lựa chọn chủ thể

cung cấp dịch vụ... Một nguyên nhân khác là công tác thanh tra, kiểm tra chất

lượng DVXHCB của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa được thực hiện

thường xuyên và hiệu quả trên thực tế.

Thực trạng tiếp cận DVXHCB chưa hiệu quả còn tồn tại khá phổ biến, nhất

là vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nhóm người nghèo. Một bộ

129

phận người dân chưa được tiếp cận DVXHCB một cách đầy đủ. Một phần nguyên

nhân xuất phát từ ý thức, quan điểm của người dân về tầm quan trọng và sự cần

thiết của DVXHCB. Một phần nguyên nhân khác đến từ tình trạng nghèo đói của

một bộ phận dân cư bởi họ không đủ khả năng hoặc không ưu tiên chi trả chi phí

sử dụng DVXHCB.

Sự chênh lệnh trong tiếp cận DVXHCB giữa các vùng, miền, giữa các nhóm

đối tượng trong xã hội vẫn tồn tại khá phổ biến. Nhóm đối tượng yếu thế như

người khuyết tật, lao động di cư, người cao tuổi, người dân vùng đồng bào dân tộc

thiểu số, miền núi, hải đảo tiếp cận DVXHCB chưa đầy đủ. Một trong những

nguyên nhân chính dẫn tới thực trạng này là khu vực dân tộc thiểu số chưa được

đầu tư cơ sở vật chất đầy đủ để cung cấp DVXHCB. Chẳng hạn, khoảng cách quá

xa từ nhà đến trường học, đến cơ sở y tế gây khó khăn trong tiếp cận giáo dục cơ

bản và chăm sóc YTCB. Địa hình hiểm trở, nhà dân cách xa nhau dẫn tới chi phí

đầu tư lớn, không thu hút được đầu tư cung cấp nước sạch làm cho người dân nơi

đây khó tiếp cận nước sạch. Tỷ lệ người dân sở hữu tivi, sử dụng Internet thấp

cũng là nguyên nhân tạo nên rảo cản trong TCTT.

Thứ sáu, việc thực hiện đầu tư cho DVXHCB theo hình thức xã hội hóa

chưa đạt hiệu quả cao.

Mặc dù pháp luật về DVXHCB đã quy định một trong những nguồn vốn

đầu tư cho DVXHCB là nguồn vốn từ xã hội hoá nhưng thực tiễn thực hiện quy

định này chưa đạt hiệu quả cao. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ các

quy định ưu đãi, hỗ trợ nhà đầu tư về tín dụng, giao đất, cho thuê đất để xây dựng

trường học, cơ sở y tế, dự án nhà ở, công trình cấp nước, hạ tầng thông tin chưa

thoả đáng, chưa thút được khu vực tư nhân tham gia đầu tư. Hơn nữa, một số quy

định còn thể hiện sự bất bình đẳng giữa Nhà nước và doanh nghiệp trong mối quan

hệ hợp tác vốn dĩ phải bình đẳng.

130

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Pháp luật ASXH hiện hành về DVXHCB được quy định trong nhiều đạo

luật và văn bản pháp luật liên quan với 05 dịch vụ, bao gồm: (i) dịch vụ giáo dục

cơ bản; (ii) chăm sóc YTCB; (iii) nhà ở; (iv) nước sạch và (v) tiếp cận thông tin.

Trong đó, đối tượng tiếp cận DVXHCB được quy định mang tính phổ quát, tức là

mọi người dân được tiếp cận công bằng, không có sự phân biệt đối xử, trong đó

chú trọng tới nhóm đối tượng yếu thế như trẻ em, người khuyết tật, người nghèo…

Nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB được quy định từ NSNN cùng với các

nguồn đầu tư từ khu vực tư nhân, thực hiện xã hội hóa.

Pháp luật ASXH về DVXHCB là cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo mọi

công dân được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tối thiểu và thể hiện hệ thống ASXH

quốc gia ngày càng hoàn thiện, phù hợp với xu thế chung của quốc tế. Bên cạnh

mặt tích cực, hệ thống pháp luật về vấn đề này vẫn tồn tại những hạn chế nhất

định, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng. Cụ thể, một số nhóm đối tượng vẫn bị

“bỏ lọt” trong tiếp cận DVXHCB. Sự chênh lệnh trong tiếp cận DVXHCB giữa

các vùng, miền, giữa các nhóm đối tượng trong xã hội vẫn tồn tại khá phổ biến.

Nhóm đối tượng yếu thế như người khuyết tật, lao động di cư, người cao tuổi,

người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo gặp tiếp cận

DVXHCB chưa đầy đủ. Nhìn chung mức chi cho DVXHCB từ NSNN ở Việt Nam

được quy định còn khá thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Các

quy định về huy động nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân, quy định về xã hội

hóa còn nhiều bất cập về thủ tục, hình thức ưu đãi, mức ưu đãi dẫn tới việc thực

hiện chưa đạt hiệu quả cao.

CHƯƠNG 3.

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT AN SINH XÃ HỘI VỀ CÁC DỊCH VỤ XÃ

HỘI CƠ BẢN

3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật

131

an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản

Qua nghiên cứu cho thấy, vấn đề cốt lõi không chỉ đơn thuần dừng lại ở

việc đảm bảo tiếp cận DVXHCB cho người dân mà còn là tính khả thi, khả năng

đáp ứng, đảm bảo của nhà nước đến đâu, biểu hiện thông qua nguồn tài chính đầu

tư cho DVXHCB, chế tài áp dụng đối với các hành vi xâm phạm đến quyền tiếp

cận DVXHCB. Bài toán về phương thức, cách thức đáp ứng nhu cầu cơ bản, tối

thiểu của người dân một cách hiệu quả không chỉ đặt ra với các quốc gia đang phát

triển mà còn cả các quốc gia phát triển với mức thu nhập cao. Theo nghiên cứu

của Viện Thịnh vượng toàn cầu, ý tưởng về dịch vụ cơ bản phổ quát (Universal

Basic Services) đang được nghiên cứu, áp dụng thay thế cho chính sách thu nhập

phổ quát đã được áp dụng trước đó.

Tại Việt Nam, mặc dù quan điểm, tư tưởng về đảm bảo tiếp cận DVXHCB

với tư cách là một cấu phần của hệ thống ASXH hình thành và thực hiện chưa lâu,

nhưng nó đã phản ánh sự đúng đắn và phù hợp với xu thế của thế giới. Tuy nhiên,

pháp luật về vấn đề này còn khá mới mẻ nên không tránh khỏi những hạn chế nhất

định. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về

DVXHCB cần phải đáp ứng các yêu cầu nhất định.

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật dịch vụ xã hội cơ bản phù hợp chính

sách an sinh xã hội của Đảng và nhà nước trong giai đoạn hiện nay

Ngay từ khi thành lập, Đảng và Nhà nước đã chú trọng phát triển hệ thống

ASXH, coi đây vừa là mục tiêu vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội, phát

triển đất nước bền vững. Mức độ phát triển và tính bền vững của hệ thống ASXH

quốc gia thể hiện mức độ phát triển kinh tế- xã hội, tính ổn định chính trị - xã hội.

Đảm bảo tiếp cận DVXHCB là điều kiện để đảm bảo sự phát triển bền vững của

xã hội, của quốc gia và là điều kiện đảm bảo công bằng xã hội.

Mặc dù trong bối cảnh đất nước còn nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết

ở kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, nhưng đảm bảo ASXH vẫn

được Đảng xác định có tầm quan trọng hàng đầu và là nhiệm vụ thường xuyên.

132

Đến Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, ASXH được xác định đảm bảo vì con người

và là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội IX, X, Đảng nhấn mạnh ASXH

phải góp phần nâng cao đời sống nhân dân, chăm lo tốt cho nhân dân về phúc lợi,

việc làm, xoá đói giảm nghèo, phát triển giáo dục văn hoá, sức khoẻ nhân dân.

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế quốc gia, đảm bảo ASXH nói

chung và đảm bảo ASXH về DVXHCB ngày càng được Đảng và Nhà nước quan

tâm. Điều này được minh chứng qua việc các quan điểm chỉ đạo của Đảng về định

hướng mục tiêu ASXH thường xuyên được củng cố, bổ sung và ngày càng hoàn

thiện trong các văn kiện quan trọng qua các kỳ đại hội. Đặc biệt, một trong các

quan điểm chỉ đạo thể hiện trong Nghị Quyết số 15-NQ/TW, ngày 1/6/2012 của

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai

đoạn 2012-2020 là “hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia

sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ

và giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng.” Đồng thời, nhiệm vụ đảm bảo

ASXH về DVXHCB được nêu lên “đảm bảo mức tối thiểu về một số DVXHCB

cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng

bào dân tộc thiểu số”. Trong đó, từng nhiệm vụ cụ thể đối với từng DVXHCB

cũng được nêu ra trong Nghị quyết. Với tư cách là một nội dung của ASXH, pháp

luật về DVXHCB cần được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với tinh thần, quan

điểm và chính sách ASXH của Đảng và Nhà nước.

Thứ hai, đảm bảo hoàn thiện pháp luật về DVXHCB phù hợp với bản

chất của DVXHCB là quyền con người cơ bản

Đảm bảo DVXHCB là đảm bảo các nhu cầu tối thiểu, cơ bản của con người

nhằm phát triển toàn diện. Vì vậy, pháp luật về DVXHCB cần quy định rõ trách

nhiệm của nhà nước trong việc đảm bảo người dân được tiếp cận đầy đủ và bình

đẳng. Mặc dù mức độ mức độ đảm bảo tiếp cận nhu cầu, tối thiểu ở mỗi quốc gia

trong mỗi thời kỳ phát triển là khác nhau, nhưng với góc độ là quyền con người

cơ bản, DVXHCB cần được mỗi quốc gia đảm bảo các yếu tố sau thông qua hệ

133

thống pháp luật. Thứ nhất, bảo đảm pháp lý. Hệ thống pháp luật cần quy định cụ

thể quyền tiếp cận DVXHCB của công dân, đồng thời xác định rõ những dịch vụ

nào được coi là DVXHCB mà công dân được đảm bảo tiếp cận trong từng thời

kỳ. Thứ hai, tính sẵn có. Tính sẵn có của DVXHCB thể hiện ở việc đủ điều kiện

vận hành các dịch vụ, đảm bảo điều kiện cần thiết để người dân có thể tiếp cận

mỗi dịch vụ một cách thuận lợi. Chẳng hạn, đối với DVGDCB, tính sẵn có thể

hiện qua số lượng các chương trình giáo dục, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, tài

liệu học tập… phục vụ cho việc học tập. Hoặc tính sẵn có của nhà ở thể hiện qua

những tiện nghi, các điều kiện của nơi ở như nước sạch, ánh sáng, vệ sinh…. Thứ

ba, tính chấp nhận được, có nghĩa DVXHCB được tiếp cận miễn phí hoặc phải trả

phí nhưng ở mức có thể chấp nhận được, phù hợp với thu nhập của người dân,

việc chi trả phí DVXHCB không làm ảnh hưởng đến các nhu cầu khác. Thứ tư, có

thể tiếp cận được. DVXHCB đảm bảo tiếp cận đối với mọi đối tượng trong xã hội

một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Cần có chính

sách riêng, ưu tiên tiếp cận DVXHCB đối với nhóm người yếu thế như trẻ em,

người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo…

Đảm bảo yêu cầu này, pháp luật quốc gia cần xác định trách nhiệm của Nhà

nước trong đảm bảo cung cấp DVXHCB. Nhà nước có thể là chủ thể trực tiếp

cung cấp DVXHCB hoặc giao cho chủ thể khác cung cấp nhưng có trách nhiệm

đảm bảo tiếp cận DVXHCB bình đẳng, quản lý chất lượng, giá cả,… Để đạt được

mục tiêu này, nguồn tài chính đầu tư cho DVXHCB cần có sự hỗ trợ từ NSNN,

nguồn vốn xã hội hoá và chi phí sử dụng dịch vụ được tính đúng, tính đủ. Việc

cung cấp DVXHCB nhằm mục tiêu xây dựng hệ thống ASXH bền vững, không

nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Thứ ba, khắc phục bất cập trong quy định hiện hành về dịch vụ xã hội

cơ bản

Một trong những chức năng quan trọng của nhà nước là thực hiện chính

sách ASXH, vì vậy, Việt Nam đã thực hiện chính sách ASXH từ thời phong

134

kiến.206 Qua thời gian, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, hệ thống

ASXH Việt Nam ngày càng đổi mới theo hướng đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền

lợi cho người dân. Đặc biệt, trong những năm gần gây, hệ thống ASXH quốc gia

được mở rộng hơn khi thừa nhận DVXHCB là một cấu phần trong hệ thống

ASXH.

Nhìn chung, pháp luật ASXH nói chung và các quy định pháp luật về

DVXHCB nói riêng đã thể hiện được quan điểm của nhà nước trong việc đảm bảo

quyền tiếp cận DVXHCB của người dân như đảm bảo quyền con người. Tuy

nhiên, từ trước đến nay, ba trụ cột chính của ASXH là BHXH, BHYT, trợ giúp xã

hội được hình thành trong thời gian dài và được biết đến nhiều hơn nên hệ thống

pháp luật về các vấn đề này cũng hoàn thiện hơn. Ngược lại, DVXHCB là một

khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam và có nội hàm rộng nên pháp luật về vấn đề

này chưa có sự tập trung và chưa hoàn thiện.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam về DVXHCB còn nằm rải rác ở rất nhiều văn

bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Mặc dù, Hiến pháp và các Đạo luật

đều khẳng định quyền tiếp cận phổ quát đối với DVXHCB nhưng thực tế, một số

nhóm đối tượng vẫn chưa thể tiếp cận DVXHCB, chẳng hạn như nhà ở, nước sạch

hay thông tin. Hơn nữa, nhiều quy định rõ ràng, cụ thể như trách nhiệm cụ thể của

nhà nước với tư cách là chủ thể đảm bảo ASXH cho người dân trong việc đảm

bảo đáp ứng nhu cầu tối thiểu của người dân. Các quy định xác định mức độ đáp

ứng, giới hạn của các dịch vụ cơ bản thuộc trách nhiệm cung cấp của nhà nước

cũng chưa được xây dựng. Một số DVXHCB chưa được quy định cụ thể về tỷ lệ

NSNN đầu tư dựa trên GDP.

Với những bất cập nêu trên, hệ thống pháp luật ASXH về DVXHCB cần

được bổ sung, sửa đổi nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng hiệu quả trên

thực tế. Hơn nữa, đây cũng là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh nước ta đang mở

206 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb. Công an nhân dân, tr.11

rộng phạm vi của hệ thống ASXH quốc gia. Việc hoàn thiện pháp luật cần được

135

thực hiện đồng bộ đối với cả hệ thống pháp luật về DVXHCB và với pháp luật

của từng DVXHCB.

Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về DVXHCB phù hợp với pháp luật quốc tế

và xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới

Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực gia nhập các điều ước quốc tế

quan trọng về quyền con người như Công ước của LHQ về các quyền dân sự,

chính trị năm 1966, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm 1966,

Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công

ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm

2006, Công ước 102 của ILO về tiêu chuẩn tối thiểu… Đặc biệt, ý tưởng ban đầu

về sàn ASXH của Tổ chức Lao động Quốc tế -ILO và Tổ chức Y tế thế giới –

WHO, nay gọi là Sáng kiến sàn ASXH của LHQ đã mở ra một trang mới về phạm

vi rộng lớn hơn của hệ thống ASXH. Điều 25 quy định: “Mọi người đều có quyền

được hưởng một mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia

đình bao gồm: thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết,…”.

Theo ILO, khái niệm sàn ASXH chính là hệ thống các chính sách nhằm giúp người

dân được quyền tiếp cận tới rổ hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và chuyển nhượng thu

nhập cơ bản theo chuẩn quốc gia đảm bảo người dân được cung cấp đầy đủ lương

thực thực phẩm, chăm sóc y tế, được giáo dục, được dùng nước sạch và có nhà ở.

Việc tham gia các Công ước Quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải nghiêm túc

thực hiện các nghĩa vụ của quốc gia thành viên, trong đó, nghĩa vụ nội luật hoá

trong hệ thống pháp luật quốc gia được coi là nhiệm vụ quan trọng và không thể

thiếu. Thực tế, Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận và đang từng bước thực hiện nghĩa

vụ này trong hệ thống pháp luật quốc gia, bắt đầu với quan điểm chỉ đạo thể hiện

trong Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khoá XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020. Tuy nhiên,

hệ thống pháp luật Việt Nam về DVXHCB còn chưa tập trung, thống nhất mà nằm

rải rác ở nhiều văn bản pháp luật trong nhiều lĩnh vực khác nhau, các quy định

136

cũng chưa đầy đủ theo tinh thần của LHQ đưa ra trong các Công ước cũng như

Sàn ASXH. Chính vì vậy, hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này cần phù hợp với

pháp luật quốc tế.

Từ phương diện các quốc gia, xu hướng trong những năm gần đây, ý tưởng

về DVXHCB phổ quát đang được nghiên cứu áp dụng thay thế cho biện pháp thu

nhập cơ bản phổ quát. Theo đó, chuyển từ mô hình chủ yếu phân phối lại vì ASXH

sang mô hình chủ yếu hướng vào dịch vụ đáp ứng nhu cầu trực tiếp hơn, tăng hiệu

quả, giảm chi phí, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân sôi động và củng cố cơ cấu

thể chế của xã hội.207 Như vậy, Việt Nam đang có hướng đi đúng và phù hợp với

xu thế cung của các quốc gia trên thế giới khi xây dựng hành lang pháp lý đảm

bảo tiếp cận DVXHCB cho công dân. Tuy nhiên, phạm vi và mức độ tiếp cận

DVXHCB của nước ta còn hạn chế. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về DVXHCB

cần tham khảo pháp luật các quốc gia để đảm bảo tiệm cận với xu thế chung của

thế giới.

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội Việt Nam về các dịch vụ

xã hội cơ bản

3.2.1. Kiến nghị chung

Thứ nhất, cần quy định mở rộng phạm vi DVXHCB

So sánh với pháp luật một số quốc gia, với xu hướng phát triển hệ thống

ASXH quốc gia đa tầng với nhiều tấm lưới đỡ và với quan điểm chỉ đạo của Đảng

về phát triển hệ thống ASXH quốc gia thì phạm vi của DVXHCB cần được mở

rộng thêm với một số dịch vụ thiết yếu khác, cụ thể:

Một là, dịch vụ vệ sinh. Nước sạch và vệ sinh là hai yếu tố luôn gắn liền

với nhau trong hầu hết các khía cạnh, từ khía cạnh nghiên cứu đến vai trò của

207 Viện Thịnh Vượng Toàn cầu (2017), Social prosperity for the future: A proposal for Universal Basic Services. 208 De Jongh, J. Mncayi, P. and Mdluli, P. (2019), Analysing the impact of water access and sanitation on local economic development (led) in the sedibeng district municipality, South Africa, International Journal of Innovation, Creativity and Change, Tập. 5, Số. 2, tr. 551-572.

chúng đối với sự phát triển và sức khoẻ con người.208 Quan điểm của pháp luật

137

quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới về DVXHCB cũng bao gồm vệ sinh trong

mối tương quan gắn liền với nước sạch.209 Từ góc độ thực tiễn, hiện nay, tiếp cận

vệ sinh cơ bản ở Việt Nam chưa được xác định rõ ràng trong phạm vi DVXHCB

như các DVXHCB còn lại. Nghị quyết số 15-NQ/TW liệt kê các DVXHCB, trong

đó DVXHCB thứ 4 là “bảo đảm nước sạch” và trong nội dung của dịch vụ nước

sạch có nhắc tới “vệ sinh nông thôn” là “tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu

quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn….”. Từ thực tiễn vấn đề vệ

sinh ở nước ta chưa được đảm bảo tiếp cận đầy đủ và có ảnh hưởng tiêu cực đến

sức khoẻ con người, không kém việc tiếp cận không đầy đủ chăm sóc YTCB, đặc

biệt ở khu vực dân tộc thiểu số, với chỉ chưa tới 1/3 hộ có nhà xí hợp vệ sinh.210

Theo tính toán của UNICEF thì năm 2019, có tới 10,15 triệu người khu vực nông

thôn và 550.000 người khu vực thành thị vẫn phóng uế bừa bãi ra môi trường, đặc

biệt là khu vực miền núi phía Bắc211 thì rất cần bổ sung dịch vụ về tiếp cận vệ

sinh vào phạm vi DVXHCB. Việc thừa nhận DVXHCB về vệ sinh là một cấu

phần của DVXHCB cũng cần quy định rõ nội dung, phạm vi đảm bảo tiếp cận của

dịch vụ này bao gồm: vệ sinh môi trường, chấm dứt phóng uế bừa bãi ra môi

trường, vấn đề về nước thải, rác thải sinh hoạt.

Hai là, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi. Từ góc độ lý luận thì người cao

tuổi được coi là đối tượng yếu thế cần được quan tâm chăm sóc đặc biệt, đặc biệt

là người cao tuổi nghèo, không nơi nương tựa, người cao tuổi không còn khả năng

lao động, người cao tuổi có nhiều đóng góp cho xã hội… Theo nghiên cứu thì

phần lớn người cao tuổi có bệnh tật ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt hàng ngày

(chiếm 64,2% người cao tuổi), 13,5% người cao tuổi mắc bệnh nặng không tự sinh

209 UNDP (2001), Choices for the Poor: Lessons from national poverty strategies, Ấn phẩm của LHQ 210 Uỷ ban dân tộc (2017), Tổng quan thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số , tiểu dự án hỗ trợ giảm nghèo PRPP. 211 UNICEF (2020), Tóm tắt chính sách về nước sạch và vệ sinh môi trường tại Việt Nam 212 Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội Khoá 13 (2015), Già hoá dân số và chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng ở Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, tr.13

hoạt hàng ngày.212 Hơn nữa con người thường có xu hướng thay đổi tâm lý khi

138

lớn tuổi. Tâm lý người cao tuổi giống với tâm lý của một đứa trẻ, rất muốn được

nhiều người quan tâm tới mình.213 Chăm sóc người cao tuổi cũng là đáp ứng nhu

cầu thiết yếu, cơ bản của con người. Từ góc độ thực tiễn ở Việt Nam, trong những

năm gần đây, nước ta đang có xu hướng già hoá dân số. Trong 10 năm từ năm

2009-2019, số người cao tuổi tăng từ 7,45 triệu (chiếm 8,68% tổng dân số) lên tới

11,41 triệu (chiếm 11,86% tổng dân số).214 Mặc dù việc chăm sóc người cao tuổi

được thực hiện thông qua hệ thống chăm sóc sức khoẻ như ưu tiên trong khám

chữa bệnh, hỗ trợ tham gia BHYT, trợ cấp xã hội… nhưng việc chăm sóc người

cao tuổi trên thực tế chưa đáp ứng được nhu cầu và yêu cầu đặt ra. Vì vậy, chăm

sóc người cao tuổi cần được xác định là một DVXHCB nằm trong hệ thống ASXH

quốc gia. Từ góc độ này, chăm sóc người cao tuổi không chỉ bao gồm chăm sóc y

tế nằm trong DVXHCB về chăm sóc YTCB mà còn bao gồm chăm sóc về đời

sống tinh thần, đảm bảo điều kiện sống đầy đủ. Trong những năm gần đây, mặc

dù hệ thống viện dưỡng lão ở Việt Nam đang dần phát triển nhưng chủ yếu là từ

khu vực tư nhân đầu tư với mức thu phí khá cao so với thu nhập trung bình của

người dân.215 Từ phương diện quốc tế, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi cũng được

đề xuất là một nội dung của DVXHCB tại Vương Quốc Anh.216 Việc ghi nhận

dịch vụ này là DVXHCB thuộc hệ thống ASXH nhằm tạo hành lang pháp lý để

bất kỳ người cao tuổi nào cũng được chăm sóc với chất lượng tốt bất kể khả năng

213 Bộ lao động, Thương binh và Xã hội (2012), Chương trình đào tạo bồi dưỡng nghề công tác xã hội cho cán bộ tuyến cơ sở (xã/phường, thôn/ấp/bản), Đề án 32 214 Tổng cục Thống kê (2021), Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Già hoá dân số và người cao tuổi ở Việt Nam 215 Chi phí 1 tháng ở viện dưỡng lão dao động từ 7triệu-16 triệu/tháng/người tuỳ trung tâm và chưa bao gồm các dịch vụ chăm sóc khác như hỗ trợ tắm, vệ sinh, cho ăn… https://orihome.com.vn/dichvu/banggia?gclid=EAIaIQobChMIbzJguS8_QIVYtxMAh3izwAAEAAYASAB EgIwlPD_BwE, truy cập ngày 12/1/2023 https://duonglaovuonlai.vn/chi-phi-song-va-goi-dich-vu-tai-vien-duong-lao- tphcm#:~:text=%2D%20M%E1%BB%A8C%20PH%C3%8D%20CH%C4%82M%20S%C3%93C%20TO% C3%80N%20DI%E1%BB%86N%201%20PH%C3%92NG%2003%20GI%C6%AF%E1%BB%9CNG,16.00 0.000%20VN%C4%90%2FTH%C3%81NG, truy cập ngày 12/1/2023 https://fdcmedical.vn/dich-vu-duong-lao, truy cập ngày 12/1/2023 216 Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal basic services: theory and pratice, A literature review

chi trả hoặc bất kể việc họ có con cháu hay không. Tuy nhiên, với tình hình phát

139

triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay, DVXHCB về chăm sóc người cao

tuổi cần được thực hiện theo lộ trình. Theo đó, các tỉnh, thành phố lớn có tốc độ

tăng trưởng kinh tế cao cần được thí điểm thực hiện trước và thực hiện đối với

nhóm người cao tuổi nghèo, người cao tuổi không có con cháu chăm sóc, không

có nơi ở trước khi quy định thực hiện trên cả nước và với toàn bộ người cao tuổi.

Thứ hai, xây dựng quy định cho phép chuyển dịch cung cấp DVXHCB từ

nhà nước sang khu vực tư nhân và đẩy mạnh xã hội hoá trong cung cấp DVXHCB

Với vai trò chủ thể quản lý và đảm bảo ASXH, nhà nước đóng vai trò chủ

đạo đảm bảo DVXHCB cho người dân. Hiện nay ở Việt Nam, chủ thể cung cấp

giáo dục cơ bản và y tế cơ bản, thông tin là nhà nước còn DVXHCB về nhà ở,

nước sạch chủ yếu do khu vực tư nhân cung cấp. Vai trò của nhà nước trong việc

đảm bảo tiếp cận bình đẳng và đầy đủ các dịch vụ này là không thể phủ nhận. Tuy

nhiên, xu hướng chung của các quốc gia là cho phép khu vực tư nhân thực hiện

cung cấp dịch vụ công nói chung và DVXHCB nói riêng nhằm tạo ra sự cạnh tranh

và mang lại lợi ích cho người dân - người tiêu dùng. Mặc dù trong tiến trình đổi

mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã xác định quan điểm nhà nước chỉ làm những

gì tư nhân không làm được hoặc không muốn làm nhưng thực tế Nhà nước vẫn

đang trực tiếp cung cấp nhiều dịch vụ công mà khu vực tư nhân hoàn toàn có thể

làm tốt. Vì vậy, pháp luật nên được hoàn thiện theo hướng tạo hành lang pháp lý

cho phép chuyển dịch dần các dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y tế… cho khu vực

tư nhân đảm nhiệm và đảm bảo người dân vẫn được tiếp cận các dịch vụ này một

cách bình đẳng như Nhà nước trực tiếp cung cấp. Thực hiện điều này cần có quy

định chính sách khuyến khích, ưu đãi khi đầu tư cung cấp các dịch vụ này ở vùng

nông thôn, vùng miền núi, hải đảo, khu vực dân cư thưa thớt… để tạo sự bình

đẳng trong tiếp cận giáo dục cơ bản, y tế cơ bản. Đồng thời, quy định ràng buộc

trách nhiệm về chất lượng dịch vụ và kiểm soát chi phí, giá dịch vụ để đảm bảo

người dân có thể tiếp cận.

Thứ ba, rà soát, loại bỏ các quy định về hộ khẩu, tạm trú trong tiếp cận

140

DVXHCB nhằm tương thích với Luật Cư trú năm 2020

Theo quy định của Luật Cư trú năm 2020, thì “sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã

được cấp vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú

theo quy định của Luật này cho đến hết ngày 31/12/2022” (Khoản 3 Điều 38),

điều này có nghĩa, kể từ ngày 01/01/2023, sổ hộ khẩu và sổ tạm trú chính thức hết

giá trị sử dụng. Mặc dù ngày 21/12/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

104/2022/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến

việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính,

cung cấp dịch vụ công nhưng về thực chất các quy định này chỉ giúp “loại bỏ”

việc sử dụng sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy còn việc tiếp cận các DVXHCB vẫn dựa

trên hộ khẩu. Hàng loạt các quy định khác liên quan đến điều kiện, thủ tục tiếp

cận DVXHCB như điều kiện nhập học trường công lập, hình thức mua BHYT

theo hộ gia đình, khám chữa bệnh BHYT, thủ tục xác nhận tình trạng nhà ở, sự

phân bổ ngân sách… vẫn dựa trên hộ gia đình đăng ký thường trú. Có thể nói, quy

định về bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú trong quản lý dân cư sẽ rất thuận tiện cho người

dân trong việc thực hiện các thủ tục hành chính nói chung và tiếp cận dịch vụ công

nói riêng. Tuy nhiên, người dân vẫn gặp khó khăn trong tiếp cận DVXHCB về

giáo dục, khám chữa bệnh BHYT, nhà ở… Do vậy, pháp luật cần được sửa đổi

theo hướng không căn cứ vào nơi cư trú, thường trú của người dân trong tiếp cận

các DVXHCB.

Thứ tư, quy định cụ thể trách nhiệm của địa phương trong đảm bảo tiếp

cận DVXHCB

Với vai trò của ASXH nói chung và vai trò của DVXHCB nói riêng (như

đã trình bày), thì ASXH không phải là một gánh nặng mà là một khoản đầu tư

khôn ngoan mang lại cổ tức tốt trong tương lai217. Vì vậy, sự hỗ trợ tài chính từ

NSNN không thể thiếu trong cung cấp DVXHCB và sự hỗ trợ này phải được phân

217 V.V Giri (1972), Vấn đề về lao động trong ngành công nghiệp Ấn Độ, Nxb. Châu Á, tr.269

bổ hợp lý giữa NSNN và ngân sách địa phương. Tuy nhiên, hiện nay mặc dù pháp

141

luật đã có quy định về trách nhiệm phân bổ ngân sách của địa phương trong từng

lĩnh vực nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể dẫn đến sự chưa thống nhất trong quá

trình thực hiện. Vì vậy, hệ thống pháp luật nói chung và luật NSNN nói riêng cần

quy định chặt chẽ và rõ ràng để bảo đảm ngân sách trung ương đóng vai trò chủ

đạo và nâng cao tính chủ động của địa phương, phân định rõ hơn quyền và trách

nhiệm giữa Trung ương và địa phương. Cụ thể, UBND cấp tỉnh là cơ quan có trách

nhiệm và thẩm quyền cao nhất trong việc thực hiện các chiến lược cụ thể trong

từng nhiệm vụ đối với từng DVXHCB của tỉnh đó; Mỗi tỉnh có trách nhiệm xây

dựng chính sách riêng của tỉnh trong khuôn khổ pháp luật cho phép để thu hút

nguồn vốn nhà tài trợ, đầu tư cho phát triển DVXHCB đảm bảo quyền cơ bản của

công dân trong địa bàn của mình. Ngoài ra, luật NSNN cần quy định rõ tỷ lệ chi

hàng năm của ngân sách trung ương, tỷ lệ chi của ngân sách tỉnh đối với từng

DVXHCB. Sau đó mỗi tỉnh sẽ quy định tỷ lệ chi ngân sách cấp tỉnh và cấp huyện

trong địa bàn tỉnh. Tỷ lệ chi này có thể được cân đối và tính toán phù hợp với đặc

thù phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, trong đó quy định mức hỗ trợ

ngân sách cho các địa phương khó khăn nhằm đảm bảo cơ hội tiếp cận DVXHCB

bình đẳng.

3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục

Thực tế cho thấy, nhiều nước trên thế giới đã ban hành luật giáo dục bắt

buộc như Anh, Ba Lan, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Mỹ, Trung Quốc… Từ

thành công của các quốc gia, đặc biệt là quốc gia láng giềng của Việt Nam là

Trung Quốc áp dụng giáo dục bắt buộc 9 năm từ rất sớm (năm 1986), năm 2001,

chính phủ Trung Quốc tuyên bố đất nước đã cơ bản thành công trong việc thúc

đẩy giáo dục bắt buộc 9 năm từ cấp tiểu học đến trung học cơ sở và do đó xóa nạn

mù chữ ở hầu hết các vùng của đất nước. Đến năm 2010, hệ thống giáo dục bắt

buộc đã bao phủ hơn 98% thanh thiếu niên cả nước.218 Giáo dục bắt buộc có vai

218 Chu Zhaohui, The important of compulsory education, China Daily, 2019-07-22

trò quan trọng trong việc hình thành nên những công dân có chuyên môn và tay

142

nghề để đáp ứng những thay đổi của nền kinh tế. Hiện nay Việt Nam mới chỉ thực

hiện giáo dục bắt buộc219 ở bậc tiểu học, còn bậc mầm non 05 tuổi và trung học

cơ sở mới chỉ quy định ở mức phổ cập giáo dục220. Thiết nghĩ, trong thời gian tới

Việt Nam cũng nên ban hành luật giáo dục bắt buộc 9 năm để tăng khả năng và

mức độ tiếp cận giáo dục cơ bản nhằm cải thiện chất lượng dân số và đóng góp

vào sự phát triển chung của xã hội.

Quyền học tập là một quyền rất quan trọng của người khuyết tật, nó mang

đến cho người khuyết tật cơ hội tiếp cận và thực hiện các quyền khác. Vì vậy,

hoàn thiện quy định pháp luật nhằm đảm bảo tiếp cận tốt nhất cho nhóm đối tượng

này là yêu cầu cấp thiết. Từ thực trạng Trung tâm Hỗ trợ giáo dục hoà nhập chưa

được quy định là cơ sở giáo dục dẫn đến nhiều khó khăn trong thực hiện nhiệm

vụ, quy định pháp luật cần sửa đổi theo hướng quy định các Trung tâm này được

hoạt động như cơ sở giáo dục và đối tượng giáo dục là người khuyết tật. Trung

tâm này là đầu mối xây dựng và điều chỉnh chương trình giáo dục, trực thuộc Bộ

giáo dục và Đào tạo.

Xuất phát từ thực trạng các địa phương chưa có cách hiểu thống nhất về tỷ

lệ chi cho giáo dục, đào tạo, cần ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết về tỷ lệ chi

cho giáo dục, đào tạo từ ngân sách địa phương. Trong đó, quy định rõ tỷ lệ chi

giảng dạy và học tập không kể lương và các khoản chi có tính chất lương và tỷ lệ

cụ thể chi cho các hoạt động khác như thí nghiệm, thực hành, thể thao… để tránh

tình trạng học phí được miễn hoặc hỗ trợ nhưng phụ huynh học sinh vẫn phải đóng

góp nhiều khoản chi phí khác.

Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai và miễn học phí là một trong

219 Giáo dục bắt buộc có nghĩa là pháp luật quy định mọi người dân trong độ tuổi bắt buộc phải đi học, bản thân gia đình và người học nếu có điều kiện mà không đi học thì sẽ bị xử phạt vi phạm. Trường hợp người học không có đủ điều kiện đi học thì sẽ được nhà nước hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ để hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc. 220 Phổ cập giáo dục là chỉ dừng lại ở mức độ vận động, khuyến khích người học đi học, không có chế tài xử phạt nếu người dân không hoàn thành phổ cập giáo dục.

những phương thức thúc đẩy mục tiêu phổ cập giáo dục, giáo dục bắt buộc. Kinh

143

nghiệm từ các quốc gia đã thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm, 12 năm và miễn

học phí cho những năm giáo dục bắt buộc đã chứng minh điều này. Vì vậy, Việt

Nam cần nhanh chóng triển khai thực hiện chính sách miễn học phí cho giáo dục

mầm non 05 tuổi và trung học cơ sở như Luật Giáo dục 2019 đã đề ra. Việc miễn

học phí có thể được nghiên cứu thực hiện bằng ngân sách địa phương bởi thực tế

hiện nay một số địa phương đã thực hiện chính sách hỗ trợ, miễn học phí cho các

cấp học này. Theo đó, các tỉnh có nguồn thu ngân sách lớn như: TP.HCM, Hà Nội,

Đà Nẵng, Hải Phòng... nên thực hiện miễn học phí cho bậc mầm non và trung học

cơ sở trước. Cùng với đó, Chính phủ cần thành lập Quỹ giáo dục hỗ trợ các tỉnh

khó khăn với nguồn thu Quỹ từ ngân sách trung ương hỗ trợ và sự chia sẻ từ các

địa phương có nguồn thu cao, điều kiện kinh tế phát triển để tiến tới thực hiện

chính sách này đồng bộ trên cả nước.

3.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về chăm sóc y tế

Về dịch vụ chăm sóc YTCB, hiện nay ở Việt Nam chưa có văn bản quy

phạm pháp luật quy định cụ thể về đối tượng hưởng, chế độ, quyền lợi hưởng mà

chủ yếu các nội dung về chăm sóc YTCB được thể hiện trong các chương trình

mục tiêu quốc gia, chương trình hành động theo từng giai đoạn. Với vai trò của

chăm sóc YTCB nói chung, vai trò của nó trong hệ thống ASXH quốc gia và trong

mối tương quan với các DVXHCB khác, cần thiết phải ban hành văn bản quy

phạm pháp luật quy định cụ thể về vấn đề này. Văn bản quy phạm pháp luật quy

định về chăm sóc YTCB cần quy định cụ thể về đối tượng được hưởng dịch vụ

chăm sóc sức khoẻ cơ bản, quyền lợi hưởng và phạm vi dịch vụ chăm sóc sức

khoẻ cơ bản, trách nhiệm của các chủ thể… Hơn nữa, ngoài 17 dịch vụ của gói

chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khoẻ đã triển khai thực

hiện trong thời gian qua, cần bổ sung thêm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tình dục,

sức khoẻ sinh sản cho độ đối tượng vị thành niên và thanh niên. Đây được coi là

dịch vụ thiết yếu với sức khoẻ mỗi người trong giai đoạn trưởng thành và đóng

vai trò quan trọng với chất lượng dân số của quốc gia.

144

Như trên đã phân tích, công tác đánh giá, bình xét hộ nghèo trên thực tế

chưa thực sự chuẩn xác, những hộ gia đình nghèo hoặc đối tượng cần trợ giúp xã

hội đôi khi vẫn bị bỏ sót. Do đó, nhiều hộ gia đình nghèo chưa được đưa vào danh

sách hộ nghèo và chưa được cấp thẻ BHYT. Bản thân những hộ gia đình này lại

không đủ điều kiện kinh tế để tự tham gia BHYT nên việc bao phủ BHYT cho

nhóm đối tượng này chưa tuyệt đối. Vì vậy, cần phải sửa đổi quy định về tiêu chí

đánh giá, xác định hộ nghèo phù hợp thực tiễn để để đảm bảo xác định đúng đối

tương thuộc hộ nghèo bởi việc xác định đúng đối tượng thuộc hộ nghèo sẽ giúp

cho việc cấp thẻ BHYT (miễn phí) được chính xác, đúng đối tượng.

Hoàn thiện pháp luật BHYT bằng việc ban hành luật mới thay thế Luật

BHYT 2008 đã qua nhiều lần sửa đổi bổ sung và hướng dẫn thực hiện. Xét về cơ

sở lý luận, đã đến lúc cần ban hành Luật BHYT mới bởi các nội dung không còn

đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh pháp luật khi các quan hệ xã hội trong lĩnh vực

này liên lục thay đổi và phát triển. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết để hoàn thiện hệ

thống pháp luật ASXH nói chung. Về thực tiễn, qua nhiều lần sửa đổi bổ sung và

hướng dẫn thực hiện, hiện nay có quá nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện gây

chồng chéo, khó thực hiện. Việc ban hành Luật BHYT là công cụ hữu hiệu thực

hiện mục tiêu chăm sóc sức khoẻ toàn dân theo định hướng công bằng và hiệu

quả. Luật BHYT mới cần khắc phục được những hạn chế, bất cập của Luật BHYT

năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014. Cụ thể:

- Tiếp tục khẳng định thực hiện BHYT toàn dân, rà soát bổ sung, mở rộng

đối tượng đảm bảo bao quát toàn bộ đối tượng tham gia và quy định cụ thể hơn về

đối tượng tham gia để thống nhất thực hiện như nhóm đối tượng là người nước

ngoài kết hôn với người Việt Nam, đang sinh sống ở Việt Nam, trẻ em là người

nước ngoài ở Việt Nam, lao động nhập cư, tái nhập cư, lao động là người Việt

Nam quay trở lại từ Lào, Campuchia, Trung Quốc đang sống ở vùng biên giới...

Đồng thời, chú trọng nhiều tới những đối tượng yếu thế khó thực hiện bao phủ

như: (i) Lao động di cư; (ii) Người nước ngoài; (iii) Người dân tộc thiểu số; (iv)

145

Người sống phụ thuộc vào NLĐ, người nhiễm HIV, người mắc bệnh phong, bệnh

lao; (v) Nhóm người cao tuổi từ 60-79; (vi) Người khuyết tật nhẹ. Hiện nay, nhóm

đối tượng là người khuyết tật nhẹ chưa được NSNN hỗ trợ mức đóng BHYT.

Nhưng thực tế thì nhóm đối tượng này cũng bị hạn chế về thu nhập trong khi nhu

cầu khám chữa bệnh cao hơn những người không khuyết tật. Kết quả khảo sát cho

thấy, có tới 82% người khuyết tật nhẹ không có cuộc sống ổn định khi 23% trong

số đó không có khả năng lao động và 59% có việc làm bấp bênh. Hơn nữa, 95%

trong số người khuyết tật nhẹ chưa có thẻ BHYT nói rằng chi phí khám chữa bệnh

“cao và rất cao” so với khả năng kinh tế của họ.221 Vì vậy, Luật BHYT cần sửa

đổi theo hướng quy định nhóm người khuyết tật nhẹ được NSNN đóng BHYT.

Đồng thời, mở rộng phạm vi thanh toán và phạm vi danh mục vật tư, thiết bị y tế

(kính cho người khiếm thị, máy trợ thính cho người khiếm thính…) đối với người

khuyết tật nặng và đặc biệt nặng.

Với hạn chế trong quy định về thông tuyến khám chữa bệnh, Luật BHYT

nên được sửa đổi theo hướng thông tuyến khám chữa bệnh BHYT tại các bệnh

viện tuyến huyện trên phạm vi cả nước và áp dụng thông tuyến khám chữa bệnh

trong điều trị nội trú, ngoại trú bệnh viện tuyến tỉnh. Thực hiện điều này sẽ tạo

điều kiện thuận lợi tối đa cho người tham gia BHYT, đặc biệt là lao động di cư

tham gia BHYT và tăng hấp dẫn cho BHYT nhằm sớm hoàn thành mục tiêu bao

phủ BHYT toàn dân trong thời gian sớm nhất.

- Hoàn thiện quyền lợi của người tham gia BHYT: (i) mở rộng nội dung chăm

sóc sức khoẻ ban đầu, y tế dự phòng, phòng bệnh lây truyền… thuộc phạm vi

thanh toán BHYT; (ii) chú trọng phát triển y tế cấp cơ sở, mở rộng phạm vi cơ sở

khám chữa bệnh BHYT; (iii) Mở rộng phạm vi thanh toán BHYT đối với một số

đối tượng, dịch vụ như: dịch vụ khám sàng lọc trẻ sơ sinh; dịch vụ khám, điều trị

221 Nguyễn Thị Thu Hường (2022), Quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam, luận án tiến sĩ luật học, tr.143

suy dinh dưỡng cấp tính cho trẻ dưới 6 tuổi; kính khiếm thị, máy trợ thính, ốc tai

146

điện tử cho người khiếm thính, chân tay giả, dụng cụ hỗ trợ, dụng cụ chỉnh hình

phục hồi chức năng, các dịch vụ kỹ thuật cao trong quá trình khám bệnh chữa

bệnh, phục hồi chức năng, cho người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng; (iv) cân

đối quyền lợi hưởng, từng bước nâng dần mức đóng với việc mở rộng độ bao phủ

nhằm đảm bảo mục tiêu chăm sóc sức khoẻ toàn dân.

- Hiện nay, chủ thể cung cấp dịch vụ chăm sóc YTCB ở Việt Nam chủ yếu

là cơ sở y tế công lập thông qua dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản và hệ thống

BHYT công cập mà chưa cho phép BHYT tư nhân cùng tồn tại song song trong

việc cung cấp dịch vụ chăm sóc YTCB. Vì vậy, pháp luật nên cân nhắc sửa đổi

luật BHYT theo hướng cho phép BHYT tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ chăm

sóc YTCB cho người tham gia bằng cách liên kết các gói BHYT giữa hai hệ thống

công lập và tư nhân. Đồng thời, có cơ chế cho phép người tham gia BHYT được

phép chuyển đổi/quy đổi về thời gian tham gia, mức đóng, mức hưởng, phạm vi

hưởng giữa hai hệ thống để tăng mức độ tiếp cận theo nhu cầu của người tham gia

đáp ứng đa dạng nhu cầu trong xã hội. Thực tế đã chứng minh hiệu quả của chính

sách xã hội hoá trong việc bù đắp thiếu hụt về tài chính và mở rộng cung ứng dịch

vụ cho đối tượng hưởng dụng dịch vụ. Từ năm 1993, khi pháp luật Việt Nam cho

phép hành nghề y, dược tư nhân, số lượng các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân ở Việt

Nam tăng nhanh chóng với trung bình mỗi năm có 1.300 phòng khám tư nhân và

9,6 bệnh viện tư nhân được mở mới. Năm 2018, cả nước có khoảng 35.000 phòng

khám tư nhân gấp gần 3 lần số lượng trạm y tế và phòng khám đa khoa công lập;

240 bệnh viện tư nhân chiếm 14% số lượng bệnh viện và 6% số giường bệnh cả

nước.222 Các cơ sở y tế tư nhân cung cấp 32,2% dịch vụ ngoại trú và 6,3% dịch vụ

nội trú cho người dân.223 Tuy nhiên, cũng có một thực tế là mặc dù lĩnh vực y tế

222 Lê Minh Sang, Ramesh Govindaraj, và Caryn Bredenkamp (2020), Đối tác công tư y tế ở Việt Nam: Vấn đề và lựa chọn. Tiêu điểm phát triển quốc tế. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới. doi:10.1596/978-1-4648- 1585-0. Giấy phép xuất bản: Giấy phép Creative Commons theo thẩm quyền CC BY 3.0 IGO, tr. 25 223 Tổng cục thống kê, Khảo sát mức sống dân cư năm 2017

là một lĩnh vực thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân nhưng nhìn chung nhà đầu tư

147

thường có xu hướng tập trung đầu tư ở các khu vực địa lý có khả năng mang lại

doanh thu cao. Vì vậy, nhà nước cần có quy định khuyến khích khu vực tư nhân

đầu tư vào lĩnh vực y tế, đặc biệt dành nhiều ưu đãi cho nhà đầu tư đầu tư y tế ở

vùng nông thôn, vùng núi, hải đảo, khu vực dân cư có thu nhập thấp để đảm bảo

người dân ở các khu vực này được tiếp cận dịch vụ chăm sóc YTCB thuận tiện.

Để khắc phục tình trạng cơ sở y tế công lập chưa có cách hiểu thống nhất

và lúng túng trong việc mua sắm trang thiết vị y tết, vật tư, thuốc do chưa có quy

định riêng về tài chính trong đơn vị sự nghiệp công lập y tế tự chủ, cần sửa đổi

Nghị định số 60/2021/NĐ-CP. Theo đó, Nghị định cần được sửa đổi theo hướng

có quy định riêng về cơ chế tự chủ tài chính trong việc mua sắm trang thiết bị, vật

tư, thuốc trong các cơ sở y tế công lập. Ngoài ra, cần quy định về cách tính đúng,

tính đủ giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với từng hệ thống y tế: hệ thống y

tế công lập, hệ thống y tế tư nhân và hệ thống y tế hoạt động không vì mục tiêu

lợi nhuận.

Hình thức đầu tư PPP trong lĩnh vực y tế được các quốc gia phát triển lẫn

các nước có thu nhập trung bình thấp đều áp dụng phổ biến.224 Mặc dù Việt Nam

đã có Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư mới được ban hành và luật

này quy định lĩnh vực đầu tư theo phương thức đối tác công tư có cả lĩnh vực y tế.

Tuy nhiên, Luật chưa có quy định riêng về đầu tư theo hình thức PPP riêng cho

lĩnh vực y tế mà quy định chung cùng nhiều lĩnh vực khác như: giao thông vận

tải, điện, thuỷ lợi…. Trong khi đó, lĩnh vực y tế chứa đựng những đặc thù riêng

biệt. Vì vậy, cần ban hành quy định về PPP riêng cho lĩnh vực y tế trong Luật đầu

tư theo phương pháp đối tác công tư hoặc ban hành Nghị định hướng dẫn riêng về

hình thức đầu tư PPP cho lĩnh vực y tế. Nhằm thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân

224 Lê Minh Sang, Ramesh Govindaraj, và Caryn Bredenkamp (2020), Đối tác công tư y tế ở Việt Nam: Vấn đề và lựa chọn. Tiêu điểm phát triển quốc tế. Washington, DC: Ngân hàng Thế giới. doi:10.1596/978-1-4648- 1585-0. Giấy phép xuất bản: Giấy phép Creative Commons theo thẩm quyền CC BY 3.0 IGO, tr. 85

vào lĩnh vực y tế, luật đầu tư theo hình thức PPP cần sửa đổi theo hướng tạo ra

148

một sân chơi bình đẳng giữa Nhà nước và nhà đầu tư theo hướng đảm bảo quyền

và nghĩa vụ ngang nhau khi ký hợp đồng PPP. Sửa đổi quy định về tổng mức đầu

tư dự án thuộc lĩnh vực y tế theo hướng giảm tổng mức đầu tư xuống thấp hơn

(quy định hiện hành là 100 tỷ) để nhà đầu tư nhỏ có thể tham gia đầu tư theo hình

thức này. Ngoài ra, cần có chính sách ưu đãi về vốn, về giao đất…. khi đầu tư vào

các lĩnh vực có mức lợi nhuận không cao như cơ sở y tế chăm sóc người khuyết

tật, người nghèo, viện dưỡng lão.

3.2.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về nhà ở

Nghiên cứu năm 2019 của nhà kinh tế học Raj Chetty của Đại học Harvard,

Hoa Kỳ cho thấy việc tăng cường khả năng tiếp cận nhà ở giá cả phải chăng là

chiến lược hiệu quả nhất về chi phí để giảm nghèo và tăng khả năng chuyển dịch

kinh tế ở Hoa Kỳ.225 Đảm bảo tiếp cận nhà ở cho mọi người dân sinh sống trên

đất nước là trách nhiệm của mọi quốc gia trong việc đảm bảo quyền con người.

Để người dân được tiếp cận nhà ở bình đẳng, phổ quát, pháp luật về nhà ở cần

khác phục các hạn chế sau:

Thứ nhất, sửa đổi quy định về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất

của người nước ngoài

Nhằm khắc phục sự mâu thuẫn giữa Luật Nhà ở năm 2014 và Luật Đất đai

năm 2013 và Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 liên quan đến quyền sở hữu

nhà ở của người nước ngoài, cần quy định người nước ngoài thuộc đối tượng

“người sử dụng đất” ở Điều 5 Luật Đất đai năm 2013. Quy định như vậy không

những giải quyết được sự bất đồng trong hệ thống pháp luật về vấn đề này mà còn

đảm bảo quyền sở hữu nhà ở của người nước ngoài tại Việt Nam.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về đảm bảo tiếp cận nhà ở cho nhóm đối

tượng khó khăn trong tiếp cận nhà ở như người khuyết tật

225 Lê Thị Thuý Hà, Những nét mới trong phát triển nhà ở xã hội trên thế giới và ở Việt Nam, Tạp chí Quy hoạch xây dựng số 109+110/2021, tr.34

Điều 39 Luật Nhà ở cần bổ sung nhóm đối tượng người khuyết tật vào nhóm

149

đối tượng được quyền mua, thuê mua, thuê nhà ở xã hội. Cùng với đó, đối tượng

tiếp cận nhà ở xã hội do nhà nước đầu tư xây dựng nên được thu hẹp lại, chỉ bao

gồm người có công với cách mạng, người khuyết tật, cán bộ, công chức, viên chức,

lực lượng công an nhân dân và quân đội nhân dân, hộ gia đình nghèo. Theo thống

kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hiện vẫn còn khoảng 230.000 hộ

nghèo cần hỗ trợ về nhà ở. Do vậy, cần quy định chế độ ưu đãi, hỗ trợ ở mức cao

hơn mức quy định hiện tại trong Luật Nhà ở để các nhóm đối tượng này có cơ hội

tiếp cận nhà ở. Còn các đối tượng khác như hộ gia đình cận nghèo, người có thu

nhập thấp, NLĐ đang làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài khu công

nghiệp, học sinh, sinh viên và một số đối tượng có thu nhập thấp khác hoặc đối

tượng thực sự có nhu cầu về nhà ở (hộ gia đình bị thu hồi đất, bị giải tỏa…) nên

được quy định thuộc nhóm đối tượng mua, thuê, thuê mua nhà ở giá rẻ được nhà

nước đầu tư xây dựng hoặc doanh nghiệp đầu tư xây dựng với các chính sách ưu

đãi, hỗ trợ từ NSNN. Bên cạnh đó, quy hoạch các khu nhà ở giá rẻ này cần nghiên

cứu xây dựng tại vị trí gần các khu công nghiệp để thuận tiện cho công nhân khu

công nghiệp, học sinh, sinh viên… ở, học tập và làm việc.

Thứ ba, cân nhắc ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhằm khuyến khích

hoặc ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp sử dụng số lượng lao động lớn

phải dành một tỷ lệ vốn để phát triển nhà ở cho NLĐ của mình

Cần xây dựng chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhằm khuyến khích doanh nghiệp

tự xây dựng nhà ở giá rẻ, xây dựng nhà lưu trú cho công nhân. Từ đó, xây dựng

quy định vừa khuyến khích vừa ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể này trong

việc phát triển nhà ở cho người lao động như: (i) nhà nước hỗ trợ vay vốn với lãi

suất ưu đãi; (ii) được chậm nộp tiền sử dụng đất trong một khoảng thời gian nhất

định; (iv) được hỗ trợ thủ tục xây dựng nhà ở, được miễn thủ tục thẩm định bước

thiết kế triển khai sau thiết kế cơ sở; (v) được giảm thuế giá trị gia tăng, giảm thuế

thu nhập doanh nghiệp; (vi) được huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau ngoài

nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ đầu tư như huy động vốn từ hình thức góp vốn,

150

hình thức hợp tác kinh doanh, đầu tư, nguồn vốn huy động từ người mua, người

thuê; (vii) nghĩa vụ dành một tỷ lệ nguồn kinh phí tính trên quỹ lương hoặc doanh

thu để hỗ trợ NLĐ thuê nhà, mua nhà. Thực hiện đồng bộ giải pháp này, cần quy

định chặt chẽ về trách nhiệm của UBND các tỉnh, thành phố trong quy hoạch, bố

trí quỹ đất để doanh nghiệp, nhà đầu tư xây dựng nhà ở giá rẻ, nhà lưu trú cho

công nhân đặc biệt là ở các tỉnh, thành phố tập trung nhiều khu công nghiệp với

lực lượng lao động đông đảo. Nhà ở giá rẻ, nhà lưu trú cho công nhân có thể

nghiên cứu xây dựng theo loại hình nhà ở căn hộ chung cư, thiết kế căn hộ khép

kín, diện tích sử dụng nhỏ, phù hợp với nhu cầu sử dụng của nhiều nhóm đối tượng

khác nhau như căn hộ dành cho cá nhân, căn hộ gia đình. Theo đó, diện tích căn

hộ nhà ở giá rẻ có thể nghiên cứu thiết kế với diện tích từ 30m2-70m2 và tuân thủ

các quy định của quy chuẩn, tiêu chuẩn về quy hoạch, xây dựng hiện hành và đảm

bảo đồng bộ với các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.

Thứ tư, quy định lại cách tính giá bán, giá thuê nhà ở xã hội

Như trên đã phân tích, nguyên tắc xác định giá bán, cho thuê nhà ở xã hội ở

nước ta do chủ đầu tư xác định dựa trên chi phí thu hồi vốn hay chi phí bảo trì, lãi

vay và lợi nhuận định mức là chưa hợp lý, cách tính này vẫn có thể đẩy giá bán,

cho thuê nhà ở xã hội vượt quá khả năng chi trả của những người có thu nhập hạn

hẹp. Chính vì vậy, cần xem xét quy định lại cách tính giá bán, cho thuê nhà ở xã

hội kết hợp nhiều tiêu chí. Trong đó, ngoài các các tiêu chí về vốn, lãi vay, lợi

nhuận định mức như đã quy định, nên cân nhắc xem xét đến mức thu nhập thực tế

của nhóm đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở. Trong trường hợp

giá bán, cho thuê nhà ở xã hội được tính toán dựa trên các tiêu chí về vốn, lãi vay,

lợi nhuận định mức cao hơn mức thu nhập bình quân của nhóm đối tượng được

hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở thì cần quy định sự hỗ trợ nhiều hơn nữa từ

NSNN về ưu đãi vốn vay, về cấp đất, giá cho thuê đất… Đồng thời, xây dựng

phương án quản lý và kiểm soát chi phí hiệu quả để tính đúng, tính đủ chi phí

nhằm đảm bảo nhà ở xã hội có giá cả phải chăng và phù hợp với khả năng chi trả

151

của đối tượng thuộc diện được mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội theo luật Nhà ở.

Từ kinh nghiệm của Hoa Kỳ trong việc xây dựng giải pháp cụ thể để hỗ trợ

nhà ở cho các gia đình có thu nhập thấp, Việt Nam cũng nên cân nhắc giới hạn giá

thuê, mua nhà ở xã hội dựa trên thu nhập thực tế của đối tượng thuộc diện được

hỗ trợ nhà ở xã hội. Cụ thể, Hoa kỳ thực hiện bốn giải pháp hỗ trợ nhà ở công

cộng bao gồm: thứ nhất, hỗ trợ tài chính thông qua phát hành tín phiếu; thứ hai,

hỗ trợ bù lỗ phần chênh lệch giữa giá cho thuê thực tế, giá thị trường và giá ưu đãi

cho các đơn vị kinh doanh nhà để đảm bảo giá thuê nhà không lớn hơn 30% thu

nhập của gia đình nghèo; thứ ba, hỗ trợ sửa chữa, cải tạo nhà; thứ tư, lựa chọn gia

đình đủ điều kiện ở nhà thu nhập thấp thuộc sở hữu của Nhà nước.226 Thực hiện

giải pháp này cần có sự hỗ trợ lớn hơn nữa từ phía Nhà nước để bù lỗ cho chủ đầu

tư xây dựng nhà ở xã hội nếu có sự chênh lệch giữa giá cho thuê thực tế, giá thị

trường và giá ưu đãi. Kinh nghiệm từ Nhật Bản còn cho thấy một giải pháp khá

hiệu quả trong đảm bảo tiếp cận nhà ở đó là ban hành một bộ luật điều chỉnh mối

quan hệ giữa chủ cho thuê nhà và người thuê nhà. Theo đó, chủ nhà phải chứng

minh được có lý do chính đáng nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà hoặc

từ chối gia hạn hợp đồng thuê nhà. Hợp đồng thuê phải được ký dài hạn và tiền

thuê nhà bị giới hạn. Quy định này nhằm đảm bảo sự ổn định cho người thu nhập

thấp-những người phải đối mặt với sự không chắc chắn về kinh tế.227 Như vậy,

quy định kiểm soát giá thuê nhà được áp dụng ở một số quốc gia như Nhật Bản,

Hoa Kỳ. Việt Nam cũng nên cân nhắc áp dụng giải pháp này nhằm đảm bảo nhóm

thu nhập trung bình, thấp được tiếp cận nhà ở thuận tiện hơn.

Thứ năm, xây dựng chính sách khuyến khích phát triển nhà ở giá rẻ

Để khắc phục tình trạng nguồn cung về nhà ở không đủ cầu như hiện nay,

226 Hoàng Thị Hằng Nga, một số kinh nghiệm phát triển nhà ở thu nhập thấp trên thế giới và bài học cho Việt Nam, tạp chí Khoa học Kiến trúc - Xây dựng, số 38/2020 227 Samuel Kleven, Housing policy in Japan

đảm bảo tiếp cận nhà ở của một số nhóm đối tượng có thu nhập thấp thì một trong

152

những giải pháp là phát triển nhà ở giá rẻ. Tuy nhiên, để thu hút đầu tư phát triển

nhà ở giá rẻ cần nhiều chính sách ưu đãi, khuyến khích đối với chủ đầu tư, nhất là

ở những nơi có giá đất cao như các thành phố lớn Hà Nội, thành Phố Hồ Chí

Minh… Các chính sách khuyến khích ưu đãi như cho phép chậm nộp tiền sử dụng

đất trong thời hạn nhất định kể từ ngày doanh nghiệp tham gia đầu tư xây dựng

nhà ở giá rẻ được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc cho phép chuyển mục đích

sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về đầu tư; ưu đãi

vay vốn. Nhằm giảm chi phí đầu tư, cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về

xây dựng có thể nghiên cứu ban hành các bản thiết kế mẫu, thiết kế điển hình loại

nhà ở này và cung cấp miễn phí cho nhà đầu tư tham khảo. Bên cạnh đó, nhằm

tránh tình trạng doanh nghiệp hưởng ưu đãi nhưng không thực hiện xây dựng nhà

ở giá rẻ, pháp luật cần có cơ chế ràng buộc chủ đầu tư bằng cách yêu cầu cam kết

giá bán nhà ở tương xứng với đặc thù phát triển kinh tế, xã hội và khả năng chi trả

của người dân trong từng giai đoạn và sự phù hợp giữa khu vực nông thôn, với

thành thị hoặc các thành phố lớn. Đồng thời, quy định cơ quan có thẩm quyền ở

địa phương phải có trách nhiệm xác định rõ chỉ tiêu phát triển, danh mục nhà ở

giá rẻ khi thực hiện rà soát, xây dựng, phê duyệt chương trình, kế hoạch phát triển

nhà ở. Một giải pháp khá quan trọng nhằm thu hút đầu tư vào dự án nhà ở xã hội,

nhà ở giá rẻ là quy định lại thủ tục, quy trình đầu tư phát triển nhà ở theo hướng

đơn giản hoá ở tất cả các khâu. Cùng với đó, các cơ quan có thẩm quyền như Bộ

kế hoạch Đầu tư, Bộ xây dựng, Bộ Tài nguyên môi trường, Bộ Tư pháp, Bộ Tài

chính phối kết hợp xây dựng một quy trình chuẩn về trình tự, thủ tục đầu tư dự án

nhà ở xã hội và thống nhất thực hiện trong cả nước. Ứng dụng công nghệ thông

tin trong thực hiện các thủ tục hành chính để tiết kiệm thời gian, chi phí cho chủ

đầu tư và đảm bảo minh bạch trong tất cả giai đoạn đầu tư phát triển nhà ở.

Thứ sáu, quy định thành lập Quỹ tín dụng nhà ở

Từ kinh nghiệm một số quốc gia về phát triển nhà ở xã hội bằng việc thành lập

một Quỹ tín dụng độc lập và từ thực trạng một số dự án xây dựng nhà ở thương

153

mại quy mô trên 2ha nhưng không phù hợp xây dựng nhà ở xã hội trong quỹ đất

20%, pháp luật có thể cân nhắc sửa đổi quy định theo hướng cho phép chủ đầu tư

được lựa chọn một trong hai phương án: Một là chủ đầu tư được lựa chọn đổi 20%

diện tích này sang một vị trí khác có giá trị tương đương; Hai là chủ đầu tư được

lựa chọn thanh toán bằng tiền giá trị quỹ đất 20% và chi phí xây dựng tương đương

với giá đất trên thị trường. Khoản tiền này được đưa vào Quỹ tín dụng nhà ở, quỹ

này hạch toán độc lập với NSNN để phát triển nhà ở xã hội như một số quốc gia

đang thực hiện.

Thứ bảy, quy định ràng buộc trách nhiệm của chính quyền địa phương

trong thực hiện quy hoạch bố trí quỹ đất phát triển nhà ở

Chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong thực hiện quy hoạch,

bố trí quỹ đất để xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở giá rẻ, nhà lưu trú của công nhân,

lao động di cư, sinh viên…. Theo đó, pháp luật cần quy định cụ thể trách nhiệm

của các địa phương (UBND cấp tỉnh, huyện) trong việc thực hiện quy hoạch, bố

trí quỹ đất, công tác bồi thường giải phóng mặt bằng để xây dựng nhà ở xã hội,

nhà ở giá rẻ, nhà lưu trú và chế tài áp dụng tương ứng

3.2.5. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về nước sạch

Hiện nay, các quy định về quyền được cung cấp nước sạch và yêu cầu đối

với sản xuất, cung cấp và sử dụng nước sạch mới chỉ được ghi nhận trong văn bản

pháp luật có giá trị cao nhất là Nghị định. So sánh với hành lang pháp lý của các

DVXHCB khác và tầm quan trọng của quyền tiếp cận nước sạch đầy đủ đối với

sự phát triển con người, hành lang pháp lý cho tiếp cận nước sạch thể hiện sự chưa

đầy đủ, chưa được đề cao. Vì vậy, cần bổ sung, hoàn thiện, nâng quy định về sản

xuất, cung cấp và sử dụng nước sạch lên thành luật. Luật về cung cấp nước sạch

cần quy định cụ thể đối tượng được tiếp cận nước sạch, chủ thể sản xuất, cung cấp

nước sạch, việc sử dụng nước sạch, quy định về quy chuẩn, tiêu chuẩn, chất lượng

nước sạch, trách nhiệm quản lý nhà nước về cấp nước, trách nhiệm của chủ thể

cung cấp nước sạch, nguồn vốn đầu tư cho công trình cấp nước, quy định về xã

154

hội hoá trong cung cấp nước, kiểm soát tài sản công trình cấp nước, trách nhiệm

quản lý công trình cấp nước sau khi đầu tư đưa vào vận hành, phương pháp tính

giá nước, chế tài đối với các hoạt động vi phạm pháp luật về sản xuất, cung cấp

nước sạch…

Kinh nghiệm từ Nam Phi cho thấy hiệu quả bao phủ tiếp cận nước sạch ở

quốc gia này một phần đến từ chính sách hỗ trợ từ Nhà nước. Nam Phi hỗ trợ miễn

phí một lượng nước tối thiểu cho các hộ gia đình và nếu sử dụng quá lượng nước

này thì người dân phải trả tiền. Với thực trạng tỷ lệ bao phủ sử dụng nước sạch ở

Việt Nam còn thấp như hiện nay và khả năng khó hoàn thành mục tiêu phát triển

bền vững về đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ

sinh cho tất cả mọi người (mục tiếu số 6) vào năm 2030228 thì đây là một giải pháp

nên cân nhắc áp dụng. Ngoài ra, nhằm tăng cường trách nhiệm của địa phương

trong tiến trình bao phủ tiếp cận nước sạch, cần quy định rõ trách nhiệm của địa

phương phải xây dựng chỉ tiêu cấp nước vào chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội trong

kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương hàng năm. Đồng thời, quy định

mức ưu đãi lớn hơn nhằm thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư cung cấp nước

sạch, đặc biệt khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo. Theo đó, với các địa phương

có địa hình hiểm trở, khu dân cư thưa thớt, ngoài ưu đãi về xây dựng công trình,

cần quy định hỗ trợ một phần chi phí lắp đặt đường ống, hỗ trợ doanh nghiệp bù

lỗ trong thời gian đầu vận hành công trình.

Nhằm đảm bảo công trình cấp nước nông thôn được đưa vào sử dụng, vận

hành, tránh lãng phí cho NSNN, cần quy định trách nhiệm của chính quyền địa

phương trong vận hành, khai thác công trình cấp nước mà địa phương đã tiếp quản.

Việc chưa có quy định cụ thể về vấn đề này khiến cho các bên còn có nhiều cách

hiểu khác nhau và lúng túng trong quá trình thực hiện dẫn đến nhiều công trình

228 Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021), Báo cáo Quốc gia năm 2020: tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững

cấp nước đang bỏ không. Một số bộ phận quản lý cho rằng trách nhiệm quản lý,

155

vận hành công trình sau phân cấp thuộc về người dân bởi họ cho rằng các công

trình được đầu tư theo hình thức xã hôi hoá, nhà nước đã đầu tư xây dựng thì người

dân phải chi trả chi phí quản lý vận hành.229 Cụ thể, pháp luật cần có quy định rõ

ràng về nguồn kinh phí vận hành, khai thác các công trình cấp nước. Chi phí này

có thể được quy định lấy từ nguồn thu từ chi phí sử dụng nước của các hộ dân,

phần còn thiếu sẽ được lấy từ ngân sách của huyện, xã nơi có công trình cấp nước.

Đồng thời, văn bản hướng dẫn còn phải quy định rõ mỗi xã phải thành lập tổ quản

lý vận hành công trình cấp nước. Việc thành lập tổ quản lý cũng cần được hướng

dẫn cụ thể về quy trình thành lập, số lượng thành viên, điều kiện của thành viên,

chức năng, nhiệm vụ của tổ, chế tài xử lý các vi phạm… Do đó, rất cần thiết phải

có văn bản hướng dẫn cụ thể về nguồn tài chính đầu tư cho khai thác, vận hành để

thống nhất thực hiện trên thực tiễn.

3.2.6. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản về tiếp cận thông

tin

Từ những bất cập còn tồn tại trong quy định pháp luật về TCTT, pháp luật

về TCTT cần hoàn thiện nhằm đảo bảo tính khả thi trong áp dụng pháp luật.

Thứ nhất, sửa đổi quy định về chủ thể tiếp cận thông tin. Nhằm đảm bảo sự

tương thích trong quy định về đối tượng TCTT của Luật TCTT và pháp luật quốc

tế cũng như hệ thống pháp luật quốc gia, cần sửa đổi quy định tại Điều 4 Luật

TCTT theo hướng mở rộng đối tượng TCTT và có sự dẫn chiếu đối tượng TCTT

đến các luật chuyên ngành. Cụ thể Điều 4 cần sửa đổi theo hướng bổ sung thêm

khoản 3 như sau: “3. Các chủ thể khác thực hiện quyền tiếp cận thông tin theo quy

định của các văn bản pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể.

Thứ hai, mở rộng phạm vi chủ thể cung cấp thông tin. Để tạo sự thống nhất

trong hệ thống luật quốc gia và mở rộng quyền TCTT của cá nhân, tổ chức, đồng

229 Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường-Tổng cục thuỷ lợi (2020), Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2030, tầm nhìn đến 2045

thời thúc đẩy minh bạch, trách nhiệm giải trình và phòng, chống tham nhũng của

156

các cơ quan, tổ chức, thiết nghĩ Luật TCTT cần mở rộng phạm vi chủ thể cung

cấp thông tin. Theo đó, chủ thể có nghĩa vụ công khai, cung cấp thông tin ngoài

cơ quan nhà nước còn có các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các doanh

nghiệp cũng có trách nhiệm công khai, cung cấp thông tin. Lý do là vì nhu cầu

được tìm kiếm, tiếp nhận thông tin của cá nhân, tổ chức không chỉ dừng lại đối

với các thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra, nắm giữ mà còn có nhu cầu được

biết các thông tin liên quan, ảnh hưởng tới đời sống của cá nhân, tới hoạt động của

tổ chức. Ví dụ, các thông tin về cách tính giá nước sạch do các đơn vị cung cấp

nước sạch áp dụng, các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh môi trường cần đáp ứng trong

quá trình sản xuất, kinh doanh, thông tin về giá, thời điểm mở bán nhà ở xã hội...

Thứ ba, cần bãi bỏ Khoản 1 Điều 23 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.

Việc bãi bỏ quy định này nhằm phục sự chưa thống nhất trong quy định về công

khai thông tin và thúc đẩy việc chủ động công khai thông tin như đã trình bày ở

trên.

Thứ tư, quy định tăng mức kinh phí đầu tư phát triển công nghệ thông tin,

mạng lưới Internet vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Theo kết quả điều tra của Tổng

cục Thống kê và Uỷ ban Dân tộc thì tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số sử dụng Internet

chiếm 61,3% vào năm 2019.230 Trong khi việc sử dụng Internet sẽ giúp TCTT

đơn giản, thuận tiện và tiết kiệm cả về thời gian đi lại và chi phí. Với đặc thù địa

lý đồi núi, đi lại khó khăn, hiểm trở ở các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng

biên giới, hải đảo thì sử dụng Internet để TCTT càng thuận tiện hơn cho đồng bào

dân tộc thiểu số. Chính vì vậy, trong thời gian tới, các địa phương vùng dân tộc

thiểu số cần tập trung đầu tư cho việc bao phủ phủ hộ gia đình dân tộc thiểu số sử

dụng Internet bằng cách dành kinh phí từ ngân sách địa phương để hỗ trợ một

phần chi phí sử dụng Internet hàng tháng cho các gia đình dân tộc thiểu số nghèo;

230 Tổng cục Thống kê, Uỷ ban dân tộc (2020), Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb. Thống Kê, tr.96

dành chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp cung cấp Internet để giảm giá thành phí

157

dịch vụ nhằm giúp người dân tộc thiểu số dễ tiếp cận.

Thứ năm, quy định cụ thể mức ngân sách địa phương dùng để phát triển công

nghệ thông tin, đảm bảo TCTT của nhóm người khuyết tật. Đối với nhóm người

khuyết tật, để đảm bảo cho nhóm này được TCTT, cần sử dụng phần mềm, công

nghệ hỗ trợ, tiêu chuẩn chuyên biệt, điều này đồng nghĩa với việc chi phí đầu tư

công nghệ thông tin sẽ gia tăng. Chính vì vậy, nhà làm luật cũng cần xây dựng

quy định ràng buộc trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc sử dụng

một phần ngân sách địa phương hàng năm đầu tư cho công nghệ thông tin nói

chung và cho việc đảm bảo TCTT của người khuyết tật nói riêng. Đồng thời, quy

định lộ trình, giới hạn khoảng thời gian để các cơ quan hoàn thiện các điều kiện

đảm bảo người khuyết tật được TCTT.

Thứ sáu, quy định chế tài xử lý các cơ quan chậm trễ thực hiện nghĩa vụ

cung cấp thông tin. Như trên đã phân tích, hầu hết các cơ quan nhà nước chưa có

đầu mối, chuyên mục TCTT, chưa có danh mục thông tin phải công khai, danh

mục thông tin cung cấp có điều kiện trên cổng/trang thông tin điện tử. Để khắc

phục tình trạng này, Luật TCTT cần quy định chế tài xử lý đối với các cơ quan

chậm trễ trong việc thực hiện nghĩa vụ của Luật TCTT.

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật an sinh xã hội về các

dịch vụ xã hội cơ bản

Nếu hoàn thiện hệ thống pháp luật ASXH về DVXHCB đóng vai trò then

chốt trong đảm bảo quyền tiếp cận DVXHCB thì nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật về lĩnh vực này cũng quan trọng không kém. Để nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật ASXH về DVXHCB, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó

có một số giải pháp chung áp dụng cho tất cả các DVXHCB và một số giải pháp

riêng phù hợp với đặc thù từng DVXHCB.

3.3.1. Giải pháp chung

Thứ nhất, giải quyết tình trạng nghèo đói giúp tăng cường hiệu quả tiếp

cận DVXHCB

158

Một nghiên cứu ở các nước OECD cho thấy người nghèo sẽ phải chi 3/4

thu nhập của họ cho các dịch vụ thiết yếu nếu họ phải trực tiếp mua chúng. Dịch

vụ làm giảm bất bình đẳng thu nhập trung bình 20%.231 Như vậy, nghèo đói có

ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ và khả năng tiếp cận giáo dục, y tế, nhà ở, nước

sạch, thông tin và nhiều dịch vụ xã hội khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.

Trong nghiên cứu quốc tế quốc tế về tình trạng nghèo ở trẻ em ở bốn quốc gia có

mức thu nhập thấp và trung bình bao gồm Ethiopia, Ấn Độ (Andhra Pradesh và

Telangana), Peru và Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra rằng phát triển kinh tế

đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng nhận thức của trẻ em ở

Việt Nam.232 Nghiên cứu này chỉ ra một vòng luẩn quẩn, đó là trẻ em sinh ra trong

các gia đình nghèo sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập của trẻ sau này, từ

đó ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập của trẻ sau này.233 Học sinh nghèo thường ít

có thời gian và điều kiện học tập hơn so với các học sinh khác. Các em thường

phải giúp bố mẹ trong các công việc nhà, lao động kiếm sống nên thời gian dành

cho việc học thường rất hạn chế.234 Nghèo đói cũng cản trở tiếp cận các DVXHCB

mà yêu cầu người sử dụng dịch vụ trả phí như y tế, nước sạch. Nghèo đói và

DVXHCB là một vòng luẩn quẩn bởi DVXHCB đóng vai trò giải quyết tất cả các

hình thức nghèo đói, trong khi đó, nghèo đói là nguyên nhất chủ yếu cản trở tiếp

cận DVXHCB. Vì vậy, nhà nước cần giải quyết các vấn đề một cách đồng bộ để

phá vỡ vòng luẩn quẩn này. Giải pháp này không thể thực hiện một sớm, một

chiều trong thời gian ngắn mà cần được thực hiện với nhiều giải pháp toàn diện,

231 G. Verbist, M. F. Förster & M. Vaalavuo. (2012), The Impact of Publicly Provided Services on the Distribution of Resources: Review of New Results and Methods. OECD, OECD Social, Tạp chí Việc làm và Di cư Số. 130, tr.35 232 Phạm Minh Thái, Trần Quang Tuyến (2021), Does greater household wealth make young children perform better? The case of Vietnam" 233 Nguyễn Thắng, Nguyễn Thị Thu Phương, Vũ Hoàng Đạt, Phạm Minh Thái, Nguyễn Thế Quân, Lộ Thị Đức (2021), Thúc đẩy giảm nghèo nhanh và bền vững theo mọi chiều cạnh và mọi nơi ở Việt Nam, Báo cáo nghèo đa chiều Việt Nam. 234 Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam-Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Đánh giá khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục của người nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc trong điều kiện xã hội hoá các hoạt động giáo dục ở Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp Viện, Mã số: B2011-37-04, tr.27

trong đó vấn đề giải quyết việc làm được coi là nền tảng trong việc giải quyết đói

159

nghèo, đồng thời tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận giáo dục và nâng cao chất

lượng giáo dục của quốc gia.

Thứ hai, đảm bảo tiếp cận DVXHCB trong “khả năng chi trả” của người

sử dụng dịch vụ

Hiệu quả tiếp cận DVXHCB phụ thuộc “khả năng chi trả” của người hưởng

dụng dịch vụ. Thật vậy, như trên đã phân tích, Nhà nước không có trách nhiệm và

không đủ khả năng cung cấp miễn phí tất cả DVXHCB, Nhà nước với vai trò quản

lý, có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các DVXHCB, đảm bảo tính sẵn có, đảm bảo

chất lượng và sự công bằng trong tiếp cận DVXHCB. Điều đó có nghĩa, người sử

dụng dịch vụ có trách nhiệm trả phí khi sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên, với tư cách

là một nội dung của hệ thống ASXH quốc gia, NSNN cần hỗ trợ một phần cho

việc cung cấp DVXHCB để phí sử dụng dịch vụ nằm trong “khả năng chi trả” của

người dân trong từng giai đoạn. Khả năng chi trả có thể quyết định tới hiệu quả sử

dụng dịch vụ và mục tiêu phổ cập DVXHCB của Nhà nước. Vì vậy, cần có sự

đánh giá tổng chi phí cho tất cả DVXHCB mà người dân phải chi trả trong tương

quan với thu nhập của hộ gia đình theo tháng/năm. Việc tính toán này được thực

hiện theo vùng dân cư (thành thị, nông thôn, miền núi…), theo nhóm dân số (nhập

cao, thu nhập thấp, hộ gia đình nghèo) để có sự đánh giá một cách toàn diện. Từ

đó, có sự điều chỉnh mức giá dịch vụ cho phù hợp để việc sử dụng DVXHCB

không trở thành gánh nặng cho hộ gia đình.

Thứ ba, cải thiện hệ thống hạ tầng cơ sở ở nông thôn, miền núi, hải đảo

Một trong những rào cản trong tiếp cận DVXHCB của người dân tộc thiểu

số là hạ tầng giao thông không thuận lợi. Khoảng cách xa từ nhà đến trường/lớp

học, bệnh viện làm cho người dân tộc thiểu số khó tiếp cận giáo dục, dịch vụ chăm

sóc YTCB. Khu dân cư thưa thớt, cách xa nhau cũng làm tăng chi phí đầu tư hệ

thống cung cấp nước sạch, thông tin, từ đó ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận

DVXHCB của người dân nơi đây. Vì vậy, giải pháp cải thiện hệ thống hạ tầng cơ

sở, phát triển giao thông đường bộ sẽ làm tăng khả năng tiếp cận DVXHCB của

160

người dân nông thôn, người dân vùng dân tộc thiểu số.

Thứ tư, tăng cường sự giám sát, đánh giá từ chính người sử dụng dịch vụ

và sự kiểm tra, giám sát từ cơ quan có thẩm quyền

Từ năm 2014, tỉnh Quảng Trị đã thực hiện Dự án Sáng kiến Dân chấm điểm

M-Score. Đây là chương trình gọi điện trực tiếp phỏng vấn người dân để thu thập

ý kiến đánh giá, chấm điểm về chất lượng dịch vụ công đối với hai dịch vụ: hành

chính và y tế. Mục tiêu của Sáng kiến nhằm nâng cao tính minh bạch, chất lượng

dịch vụ và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước dựa trên sự đánh giá, chấm

điểm của người dân.235 Từ kinh nghiệm và những thành công của Dự án sau 05

năm triển khai, thiết nghĩ cần nghiêm cứu triển khai rộng rãi mô hình này trong cả

nước và với tất cả các dịch vụ công, đặc biệt là các DVXHCB. Việc lấy ý kiến có

thể thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau như: Nhà nước có thể thuê một

bên thứ ba thực hiện dịch vụ khảo sát, lấy ý kiến của người sử dụng dịch vụ, lập

ứng dụng để người dân có thể đánh giá dịch vụ trên ứng dụng đó, phát phiểu khảo

sát định kỳ… Đây là hoạt động rất thiết thực, thể hiện sự quyết tâm của cơ quan

nhà nước trong việc đảm bảo người dân được tiếp cận DVXHCB hiệu quả, chất

lượng, tăng cường trách nhiệm của chủ thể cung cấp dịch vụ DVXHCB và người

dân được thực hiện quyền đánh giá, giám sát như một “khách hàng” thực thụ.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra sát sao và hiệu quả đối với các hoạt động,

nhiệm vụ, chiến lược quốc gia và địa phương trong quá trình đảm bảo quyền

ASXH cơ bản. Các cơ quan chủ quản, các Sở, ban ngành trong từng lĩnh vực cần

phối kết hợp tốt hơn nữa trong việc đảm bảo chất lượng từng DVXHCB. Thường

xuyên tổ chức các đợt thanh tra về chất lượng dịch vụ. Đồng thời, xử lý nghiêm

các trường hợp cán bộ thiếu trách nhiệm, tham nhũng, lợi dụng chức vụ nhằm làm

sai quy định pháp luật hoặc hành vi cản trở tiếp cận DVXHCB của công dân.

235 Hội nghị tổng kết 5 năm triển khai Sáng kiến Dân chấm điểm M.Score tổ chức ngày 22/11/2019 https://www.quangtri.gov.vn/xem-chi-tiet-thong-tin-can-biet/-/view- article/1/13848241113627/1577690854408, truy cập ngày 15/4/2022

Ngoài biện pháp chung nêu trên nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

161

luật về tất cả các DVXHCB thì mỗi DVXHCB với đặc thù riêng, cần có biện pháp

riêng nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhất quy định của pháp luật.

3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản

về giáo dục

- Nâng cao chất lượng giáo dục

Thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục không chỉ nên dừng lại ở mức độ bao

phủ ở số lượng người được tiếp cận giáo dục cơ bản mà còn cả yếu tố về chất

lượng giáo dục. Xuất phát từ vai trò của giáo dục cơ bản với sự phát triển của con

người, nâng cao cơ hội tìm kiếm việc làm và từ thực tiễn chất lượng giáo dục ở

Việt Nam hiện nay thì nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục là yêu cầu cấp thiết.

JICA cho rằng mở rộng số lượng lượng giáo dục tiểu học và nâng cao chất lượng

giáo dục tiểu học và trung học cơ sở là hai yếu tố không tách rời đối với sự phát

triển giáo dục ở các nước đang phát triển. Nếu thiếu một trong hai yếu tố này thì

không thể đạt được sự phát triển cơ bản về giáo dục. Do vậy, ngoài việc khuyến

khích ghi danh cho trẻ em đi học thì còn yêu cầu giáo viên có chất lượng, phương

pháp sư phạm phù hợp, cải thiện cơ sở vật chất giáo dục, sách giáo khoa, tài liệu

khóa học, chương trình giảng dạy phải phù hợp với ngôn ngữ và môi trường xã

hội của trẻ em. Ngoài ra, giáo dục chất lượng cao có thể ngăn chặn tình trạng bỏ

học và lưu ban, đồng thời nâng cao hiệu quả giáo dục và mở rộng giáo dục.236 Do

đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng giáo

viên không chỉ về kiến thức trong chương trình đào tạo mà còn trang bị cho giáo

viên kiến thức về tâm lý trẻ em, phương pháp sư phạm, sự nhiệt huyết với nghề.

Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chất lượng giáo dục, với

phương châm lấy người học làm trung tâm, ngăn chặn tình trạng thành tích, hình

thức trong công tác giảng dạy.

- Cần đầu tư xây dựng mới, mở rộng mạng lưới cơ sở giáo dục công lập

236 JICA, Effective Approaches in Basic Education https://www.jica.go.jp/jica-ri/IFIC_and_JBICI- Studies/english/publications/reports/study/topical/spd/pdf/chapter1.pdf, truy cập ngày 12/12/2022

162

Như trên đã phân tích, thực trạng thiếu trường mầm non tại khu công

nghiệp, địa phương có đông lao động di cư còn tồn tại. Do vậy, để con em lao

động di cư tiếp cận giáo dục cơ bản bình đẳng và hiệu quả, giải pháp được đề xuất

là Nhà nước và chính quyền địa phương cần nghiên cứu tăng cường đầu tư xây

dựng mới, mở rộng mạng lưới cơ sở giáo dục công lập dựa trên số lượng dân số

của từng địa phương. Thực hiện biện pháp này rất cần có sự phối kết hợp của các

cơ quan, ban ngành và chính quyền địa phương. Theo đó, chính quyền các địa

phương có khu công nghiệp, khu chế xuất và có đông NLĐ di cư cần sớm thực

hiện rà soát, dự báo, điều chỉnh quy hoạch phát triển các dịch vụ công bao gồm

mầm non công lập gắn với nhà ở của công nhân. HĐND ở các địa phương có đông

khu công nghiệp, khu chế xuất cân nhắc ban hành nghị quyết để những trường

mầm non công lập ở các khu công nghiệp, khu chế xuất nhận trông trẻ ngoài giờ

và ngày nghỉ với chi phí phù hợp để lao động di cư gửi con trong thời gian tăng

ca. Vụ Giáo dục mầm non thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thống kê số lượng

lao động và trẻ em di cư ở các bậc học này tại các địa phương có nhiều khu công

nghiệp, khu chế xuất để đề xuất tăng phân bổ ngân sách cho những địa phương

này.

- Tăng cường vận động, tuyên truyền khu vực dân tộc thiểu số

Khắc phục tình trạng một tỷ lệ lớn trẻ em dân tộc thiểu số chưa nhập học

đúng độ tuổi, mù chữ, cần làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, vận động ở các

khu vực này. Bởi việc sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản như chăm sóc sức khỏe

và giáo dục để cải thiện chất lượng cuộc sống phụ thuộc vào khả năng người dân

sử dụng chúng một cách hiệu quả.237 Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao các dịch vụ

đó về số lượng và chất lượng thì việc tạo cơ chế khuyến khích người dân sử dụng

các dịch vụ đó cũng rất quan trọng. Nội dung tuyên truyền, vận động cần chú trọng

237 Ha Thi Hai Do, Nui Dang Nguyen, Anh Ngoc Mai, Duc Minh Phung (2020), Assessment of basic social services coverage on life quality for ethnic minorities in Vietnam, International magazine of innovation, Vol.13, No. 10.

tới các chính sách ưu tiên trong giáo dục dành cho đồng bào dân tộc thiểu số, lợi

163

ích về vật chất và tinh thần khi hoàn thành giáo dục cơ bản để thúc đẩy cha mẹ tạo

điều kiện cho con em mình đi học và thúc đẩy người dân tộc thiểu số tham gia lớp

học xoá mù chữ. Nội dung tuyên truyền, vận động cần được xây dựng phù hợp

với từng lứa tuổi và đối tượng tuyên truyền, vận động không chỉ có người dân mà

còn dành cho cán bộ, chính quyền địa phương đó.

- Thúc đẩy cơ hội tiếp cận giáo dục cơ bản của trẻ em khuyết tật

Để trẻ khuyết tật, gia đình trẻ khuyết tật ý thức tầm quan trọng của việc cần

thiết học tập, cần thống kê số lượng trẻ khuyết tật chưa đi học đúng độ tuổi ở các

cấp và giao trách nhiệm cho cơ sở giáo dục nơi trẻ sinh sống vận động trẻ đến

trường. Tăng cường đầu tư từ NSNN và nguồn vốn viện trợ của tổ chức nước

ngoài, tăng cường đầu tư từ khu vực tư nhân trong việc đầu tư cơ sở vật chất, trang

thiết bị phục vụ dạy học đối với từng dạng tật. Thường xuyên tổ chức tập huấn,

bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viên dạy trẻ khuyết tật, khuyến khích

sinh viên theo học các khoa đào tạo về giáo dục chuyên biệt nằm cải thiện cả về

chất lượng và số lượng giáo viên. Thực hiện hiệu quả giáo dục hoà nhập. Giáo dục

hòa nhập không chỉ đơn giản là đưa trẻ khuyết tật vào trong lớp học, không chỉ

đơn thuần là biện pháp để trẻ khuyết tật học chung với trẻ không khuyết tật mà

phải thực hiện nghiêm túc phương pháp tiếp cận lấy trẻ làm trung tâm. Thực hiện

thống kê, khảo sát hàng năm để có số liệu chính xác về số lượng người khuyết tật

và theo các dạng tật, độ tuổi. Từ đó, lập kế hoạch, dự trù ngân sách và phát triển

đội ngũ tham gia giáo dục trẻ khuyết tật tương ứng. Thường xuyên bồi dưỡng năng

lực giáo dục hoà nhập của giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, tăng cường cơ sở

vật chất cơ sở giáo dục phù hợp với dạng tật. Ngoài hình thức giáo dục hoà nhập,

người khuyết tật nên được tạo điều kiện tham gia nhiều hình thức giáo dục khác

như giáo dục từ xa, giáo dục tại cộng đồng nhất là đối với trẻ khuyết tật đặc biệt

nặng, khó khăn trong việc đến cơ sở giáo dục.

- Thực hiện miễn, giảm học phí đối với giáo dục cơ bản

Từ kinh nghiệm của Trung Quốc về chính sách miễn giảm học phí cho thời

164

gian giáo dục bắt buộc, nhìn lại lịch sử thực hiện miễn học phí cho giáo dục bắt

buộc ở Trung Quốc thì thấy, chính sách này không thể thực hiện ngay trong những

năm đầu mà được thực hiện theo lộ trình. Với hơn 1,3 tỉ dân, Trung Quốc thực

hiện miễn học phí ở khu vực có nguồn thu ngân sách lớn trước, những nơi khó

khăn làm sau. Song song với đó, Trung Quốc thành lập quỹ hỗ trợ giáo dục bắt

buộc 9 năm cho các vùng khó khăn. Nhờ vậy, đến năm 2006, nước này thực hiện

miễn phí trung học cơ sở 100% trên phạm vi toàn quốc. Việt Nam cũng cần học

hỏi kinh nghiệm này từ Trung Quốc, nhanh chóng triển khai thực hiện chính sách

miễn học phí giáo dục mầm non 05 tuổi và trung học cơ sở như luật Giáo dục 2019

đã đề ra. Theo đó, các tỉnh có nguồn thu ngân sách lớn như: thành phố Hồ Chí

Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng... nên thực hiện miễn học phí cho bậc trung

học cơ sở trước. Cùng với đó, Chính phủ cần thành lập Quỹ hỗ trợ các tỉnh khó

khăn để tiến tới thực hiện chính sách này đồng bộ trên cả nước. Chính sách miễn

học phí cần được thực hiện ở tất cả các trường công lập và hỗ trợ một phần học

phí ở các cơ sở giáo dục ngoài công lập.

3.3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản

về chăm sóc y tế

- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và nhân lực ngành y chuyên sâu phù hợp

với từng đối tượng

Để tiếp cận hiệu quả dịch vụ chăm sóc YTCB cho một số nhóm đối tượng

đặc thù như người khuyết tật, người cao tuổi…, cần tiếp tục tăng cường đầu tư cơ

sở vật chất và nhân lực ngành y chuyên sâu phù hợp với từng đối tượng. Trong

đó, y tế tuyến cơ sở, các trạm y tế xã đóng vai trò then chốt giúp các nhóm đối

tượng này được theo dõi sức khoẻ thường xuyên và thuận tiện cho việc đi lại thăm

khám, điều trị. Phát triển hệ thống cơ sở chăm sóc sức khoẻ và tinh thần cho người

cao tuổi, có thể tham khảo mô hình viện dưỡng lão hoạt động như đơn vị sự nghiệp

công lập tự chủ. Số lượng viện dưỡng lão nên được phân bổ phù hợp với số lượng

người cao tuổi ở mỗi địa phương và được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ, có nhân

165

viên chăm sóc người cao tuổi, nhân viên y tế. Đối với người khuyết tật, việc tiếp

cận chăm sóc YTCB còn hạn chế do những hạn chế về cơ sở vật chất, nguồn lực.

Do vậy, cần hoàn thiện mạng lưới phục hồi chức năng trên toàn quốc bằng cách

cải tạo, xây dựng mới các khoa phục hồi chức năng trong các cơ sở y tế, các trung

tâm phục hồi chức năng riêng phù hợp với từng dạng tật. Đồng thời, tăng cường

công tác bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn về phục hồi chức năng

cho đội ngũ cán bộ y tế để họ có kiến thức và kỹ năng chuyên sâu về lĩnh vực này.

Thường xuyên tổ chức hội thảo, tập huấn nhằm trao đổi kinh nghiệm giữa các bác

sỹ, kỹ thuật viên, điều dưỡng, cán bộ y tế trực tiếp thực hiện phục hồi chức năng

cho người khuyết tật nhằm hoàn thiện kiến thức, kỹ năng, tay nghề để đảm bảo

người khuyết tật được chăm sóc YTCB một cách tốt nhất. Đồng thời, các cơ sở

đào tạo ngành y cần hoàn thiện chương trình đào tạo, giáo án về phục hồi chức

năng để nâng cao chất lượng nhân lực làm việc trong lĩnh vực này. Để thực hiện

tốt các mục tiêu này, Nhà nước cần huy động nguồn lực tài chính từ khu vực tư

nhân, các tổ chức phi chính phủ, cá nhân trong và ngoài nước để giảm tải áp lực

lên NSNN. Cần tăng cường các hoạt động hợp tác với các quốc gia, các trung tâm,

cơ sở y tế có uy tín trong khu vực và trên thế giới để hỗ trợ chuyên môn, kỹ năng

trong chăm sóc sức khoẻ người khuyết tật. Có chính sách ưu đãi về học phí,

khuyến khích sinh viên theo học và làm việc trong lĩnh vực này để tạo nên một

mạng lưới rộng khắp cả nước nhằm hỗ trợ người khuyết tật giảm bớt khó khăn

trong cuộc sống do các dạng tật đem lại nói chung và tiếp cận hiệu quả chăm sóc

YTCB nói riêng nhằm giảm bớt khó khăn cho cuộc sống.

- Nâng cao nhận thức của người dân vùng dân tộc thiểu số về chăm sóc sức

khoẻ cơ bản

Thực tế cho thấy người nghèo, đối tượng trợ giúp xã hội ở vùng dân tộc

thiểu số chưa thực sự tiếp cận đầy đủ các chương trình chăm sóc y tế và hạn chế

này chủ yếu đến từ nhận thức và khả năng tài chính của họ. Chẳng hạn, theo nghiên

cứu của Quỹ Dân số LHQ và Bộ Y tế, phần lớn phụ nữ người dân tộc thiểu số

166

tham gia nghiên cứu đều cho rằng sinh đẻ là một quá trình tự nhiên của con người.

Họ muốn sinh con tại nhà hơn là sinh con tại các cơ sở y tế, trừ khi có biến chứng

xảy ra. Bên cạnh việc không có khả năng chi trả các chi phí cho các dịch vụ tại

các cơ sở y tế ở vùng sâu vùng xa, việc khó tiếp cận tới các nhân viên y tế và cơ

sở chăm sóc y tế cũng là một trong số những lý do chính khiến phụ nữ dân tộc

thiểu số muốn sinh con tại nhà và hạn chế tới các dịch vụ chăm sóc trước sinh.

Ngoài ra, khi đi siêu âm, một số cho biết họ không muốn phơi bày cơ thể của họ

với người lạ, đặc biệt là các nam bác sĩ, và có những trường hợp phụ nữ rời khỏi

cơ sở khám thai vì ở đó không có cán bộ y tế nữ238. Vì vậy cần nâng cao nhận thức

của người dân, đẩy mạnh công tác truyền thông, để những người nghèo, đối tượng

trợ giúp xã hội ở những khu vực này hiểu được lợi ích, sự an toàn khi sinh con ở

trạm y tế. Cùng với đó, xây dựng đề án phát huy và thúc đẩy vai trò của y tế thôn

bản trong công tác truyền thông, tư vấn, hướng dẫn cho nhóm đối tượng này. Cùng

với đó, mở rộng mô hình cô đỡ thôn bản, là những người có chuyên môn y tế và

biết phong tục, tập quá, ngôn ngữ của người dân tộc, từ đó có thể giúp phụ nữ dân

tộc thiểu số sinh đẻ an toàn, giảm tình trạng tự sinh con tại nhà. Đây là giải pháp

hiệu quả để phụ nữ khu vực này được tiếp cận chăm sóc sức khoẻ cơ bản trong

bối cảnh phụ nữ ở vùng sâu, vùng sa gặp nhiều khó khăn do điều kiện đi lại khó

khăn, xa xôi, nhất là thời điểm sinh con.

- Phát triển mô hình bác sĩ gia đình

Ngoài hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ y, bác sĩ,

cán bộ y tế thì yêu cầu tăng số lượng bác sĩ cũng là vấn đề cấp thiết trong bối cảnh

số lượng bác sĩ ở Việt Nam mới đạt 10 bác sĩ/1 vạn dân. Trong khi ở Úc, tỷ lệ này

là 36 bác sĩ/1vạn dân, Pháp là 34/1 vạn dân và Trung Quốc là 22/1 vạn dân. Vì

vậy, Bộ Y tế cần đánh giá lại nguồn lực và có giải pháp tăng số lượng bác sĩ, cam

238 Bộ Y tế, Quỹ Dân số LHQ (2017), Những rào cản trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và kế hoạch hóa gia đình của đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam, tr. 40.

kết khoảng thời gian cụ thể. Nghiên cứu thiết lập và phát triển mô hình “bác sĩ gia

167

đình”. Đối với nhiều nước trên thế giới từ những nước phát triển như Mỹ, Anh

Pháp, Canada…đến các nước đang phát triển như Philippines, Malaysia hay Cu

Ba, mô hình bác sĩ gia đình không còn xa lạ, thậm chí rất phát triển nhưng ở Việt

Nam, đây vẫn là mô hình mới, chưa được quan tâm đầu tư tương xứng, chưa có

chức danh bác sĩ gia đình ở các cơ sở y tế, hoạt động còn tản mạn, chưa có đầy đủ

cơ sở pháp lý và hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy, cần nghiên cứu phát triển mô

hình bác sĩ gia đình để (i) nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh ban đầu,

giúp người dân nói chung và trẻ em, người nghèo, đối tượng trợ giúp xã hội được

chăm sóc sức khoẻ toàn diện, liên tục và phòng bệnh chủ động, tích cực; (ii) giảm

bớt thời gian và công việc cho các bác sĩ chuyên khoa liên quan và tiết kiệm kinh

phí nằm việc cho bệnh nhân cũng như kinh phí BHYT, từ đó góp phần đảm bảo

tính bền vững của quỹ BHYT.

- Phát huy hiệu quả hoạt động của trạm y tế và y tế tuyến cơ sở

Như trên đã phân tích, hiệu quả hoạt động của các trạm y tế trong cung cấp

dịch vụ chăm sóc YTCB cho người dân chưa cao mặc dù nhiều trạm y tế đã được

đầu tư trang thiết bị, máy móc hiện đại gây lãng phí lớn. Nguyên nhân của tình

trạng này là do các trạm y tế gặp khó khăn trong việc mua, cung ứng hoá chất xét

nghiệm, vật tư y tế hoặc không có người vận hành, sử dụng máy móc, trang thiết

bị. Đa số các trung tâm y tế chưa tiếp cận, bắt nhịp kịp thời công tác quản lý khám

chữa bệnh tại tuyến xã, chưa nắm vững quy định về thanh quyết toán trong khám

chữa bệnh BHYT.239 Để khắc phục tình trạng này và nâng cao hiệu quả công tác

chăm sóc sức khoẻ cơ bản ở tuyến cơ sở, chính quyền địa phương cần tháo gỡ

vướng mắc về thủ tục, hướng dẫn các trạm y tế và chủ đầu tư trong việc mua hoá

chất xét nghiệm, vật tư y tế và các vật tư cần thiết để vận hành các máy móc, trang

thiết bị đã được trang bị. Đồng thời, tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn

239https://baothanhhoa.vn/y-te-suc-khoe/bat-cap-trong-thuc-hien-de-an-dau-tu-xa-hoi-hoa-y-te-tuyen- xa/170659.htm, truy cập ngày 15/5/2022

cho cán bộ y tế xã về cách vận hành các thiết bị này, chính quyền địa phương phối

168

hợp với cán bộ BHXH tập huấn cho nhân viên kế toán của trạm y tế về phương

thức, cách thức thanh quyết toán khám chữa bệnh BHYT.

Thực tiễn thực hiện BHYT trong thời gian qua mặc dù vẫn tồn tại những

hạn chế nhất định nhưng vai trò của BHYT trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận

dịch vụ chăm sóc YTCB thì không thể phủ nhận. Bên cạnh quy định pháp luật về

về đối tượng tham gia BHYT mang tính bao quát với sự hỗ trợ phí đóng BHYT

từ NSNN để khuyến khích người dân tham gia BHYT thì giải pháp nâng cao hiệu

quả tiếp cận dịch vụ chăm sóc YTCB thông qua BHYT không thể coi nhẹ. Theo

đó, y tế tuyến cơ sở với vai trò gần dân, dễ tiếp cận nên được chú trọng đầu tư hơn

nữa, trong đó chú trọng đầu tư cả cơ sở vật chất lẫn nguồn nhân lực. Hiện nay,

tâm lý của một bộ phân người dân chưa tin tưởng vào trình độ tay nghề của đội

ngũ cán bộ y tế ở cơ sở khám chữa bệnh tuyến dưới, cộng với sự hạn chế về máy

móc, trang thiết bị y tế nên thường có xu hướng khám chữa bệnh ở tuyến trung

ương kể cả với những bệnh đơn giản, không nghiêm trọng. Để thay đổi quan niệm

và tạo sự tin tưởng cho người dân, cần nâng cao trình độ tay nghề của đôi ngũ cán

bộ y tế, nâng cấp cơ sở vật chất cho y tế cơ sở, cơ sở khám chữa bệnh cấp huyện,

tỉnh. Tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền, vận động người dân khám chữa bệnh

ở cơ sở y tế tuyến dưới đối với các bệnh thông thường. Đặc biệt, chú trọng phát

triển y tế tuyến cơ sở ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo,

biên giới để người dân thuận lợi trong tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản như chăm sóc

sức khoẻ sinh sản, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, tiêm chủng mở rộng, phòng

chống và điều trị một số bệnh truyền nhiễm thường xuyên xảy ra như sốt xuất

huyết, cúm A, điều trị HIV/AIDS…

- Cần khuyến khích hoạt động của các tổ chức phi chính phủ

Trong thời gian qua, một số tổ chức phi chính phủ như Viện phát triển sức

khoẻ cộng đồng Ánh Sáng (LIGHT), Trung tâm nghiên cứu, tư vấn công tác xã

169

hội và phát triển cộng đồng (SDRC)240 và nhiều tổ chức khác hoạt động rất hiệu

quả trong việc hỗ trợ người di cư tiếp cận dịch vụ chăm sóc YTCB. LIGHT đã

triển khai nhiều chương trình, dự án can thiệp nhằm nâng cao chất lượng cuộc

sống của người di cư, đặc biệt là sức khỏe (sức khỏe cộng đồng, sức khỏe sinh sản

và tình dục) kết hợp với trao quyền, tăng năng lực và sinh kế bền vững. Từ những

thành quả và kinh nghiệm hoạt động mà những tổ chức phi lợi nhuận này đóng

góp cho cộng đồng nói chung và nhóm đối tượng yếu thế nói riêng, Nhà nước cần

có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức này và các tổ chức

tương tự thành lập, hoạt động. Đồng thời khuyến khích mở rộng dịch vụ hỗ trợ

đối với tất cả các DVXHCB mà không chỉ bó hẹp phạm vi dịch vụ chăm sóc sức

khoẻ.

3.3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản

về nhà ở

- Cần nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong xây dựng để giảm

giá thành nhà ở

Nhà nước cần nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo cho nhóm có thu

nhập thấp như hộ gia đình nghèo, cận nghèo, lao động di cư làm việc tự do, công

nhân khu công nghiệp, người khuyết tật,… được mua, thuê mua nhà ở xã hội ở

mức giá có thể chi trả được. Qua đợt bùng phát dịch Covid-19, vai trò của nhà ở

càng thể hiện rõ và sâu sắc hơn trong việc đảm bảo ổn định việc làm, đời sống của

các nhóm đối tượng này. Đầu tư, phát triển nhà ở cho nhóm đối tượng này cần chú

trọng đến các yếu tố đặc thù về thu nhập, nhu cầu sử dụng. Nhóm đối tượng này

có thu nhập trung bình, thấp và nhiều người không có nhu cầu sở hữu những căn

240 LIGHT là một tổ chức khoa học công nghệ, hoạt động phi lợi nhuận vì mục đích nhân đạo. LIGHT cam kết tham gia vào sự phát triển cộng đồng, nâng cao sức khoẻ cho người dân và góp phần hỗ trợ chính phủ trong việc xây dựng và thực thi các chính sách nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân Việt Nam. SDRC cũng có các hoạt động tương tự như LIGHT song có phạm vi dự án giới hạn hơn, nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng chăm sóc sức khỏe sinh sản và tình dục an toàn cho lao động nhập cư tại cộng đồng dân cư thuộc một số khu vực ở thành phố Hồ Chí Minh 241 Lê Thị Bích Thuận, Các nước đã phát triển nhà ở cho công nhân như thế nào?

hộ vĩnh cửu, nhưng lại rất cần những chỗ ở có giá rẻ, tiện ích thiết yếu tối thiểu.241

170

Giải pháp là tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, các loại vật liệu mới với

thiết kế và sử dụng công nghệ lắp ghép khung, trần, tường, sàn để “sản xuất nhà”

thay cho hình thức xây bê tông như truyền thống. Hình thức này tạo sự linh hoạt

trong điều chỉnh kích thước, diện tích nhà phù hợp với nhiều nhu cầu khác nhau

Đồng thời, các chủ đầu tư cũng nghiên cứu xây dựng nhà ở giá rẻ với nhiều loại

diện tích khác nhau tương ứng nhiều mức giá, phù hợp với nhu cầu và thu nhập

của nhiều đối tượng khác nhau. Chẳng hạn xây dựng căn hộ với diện tích khoảng

20-30m2 và thiết kế gác xép để cho gia đình trẻ thuê, mua; căn hộ diện tích lớn

hơn để cho thuê theo nhóm người hoặc cho hộ gia đình có ông, bà sống cùng.

Riêng đối với nhóm người khuyết tật, việc đảm bảo điều kiện về nhà ở có đặc thù

nhất định so với nhóm dân cư khác. Theo kết quả Điều tra Quốc gia của Tổng cục

Thống kê và UNICEF về Người Khuyết tật tại Việt Nam thì nước ta có hơn 7%

dân số 2 tuổi trở lên - khoảng hơn 6,2 triệu người, là người khuyết tật. Để đảm

bảo tiếp cận nhà ở cho người khuyết tật, cần bổ sung nội dung kiến thức về thiết

kế nhà ở cho người khuyết tật vào trong chương trình đào tạo ở các trường đại học

trong lĩnh vực xây dựng, kiến trúc. Đồng thời, UBND cấp Huyện, Quận, cấp xã

cần hỗ trợ các gia đình có người khuyết tật hoặc hỗ trợ người khuyết tật thiết kế

nhà ở phù hợp với đặc thù từng dạng khuyết tật để thuận tiện hơn trong sinh hoạt,

có thể tự phục vụ mà không phải phụ thuộc vào người sống cùng. Thêm vào đó,

diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình dân tộc thiểu số dưới

8m2/người còn khá phổ biến trong khi ở các vùng này đất đai lại rộng lớn. Do đó,

vấn đề nằm ở chỗ các hộ gia đình thiếu tiền xây mới, cơi nới, sửa chữa nhà. Vì

vậy, cần có chính sách hỗ trợ các hộ gia đình có diện tích nhà ở nhỏ cải tạo, sửa

chữa, nâng cấp, cơi nới để cải thiện tình trạng trên.

- Cần ưu tiên giải quyết, có phương án tháo gỡ cho các dự án đang bị “ách

truy cập

https://nguoidothi.net.vn/cac-nuoc-da-phat-trien-nha-o-cho-cong-nhan-nhu-the-nao-33103.html, ngày 14/11/2022

tắc” vì lý do thủ tục

171

Để tăng nguồn cung nhà ở xã hội trong thời gian sớm nhất, một trong các

giải pháp là tháo gỡ vướng mắc cho các dự án nhà ở xã hội đang “nằm chờ” do

vướng mắc về thủ tục được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu nhà

ở cho người dân. Thực tế, nhiều dự án đã bị ách lại chờ thủ tục nhiều năm như:

Dự án nhà ở xã hội Khu chế xuất Linh Trung 2, giai đoạn 2; dự án cao ốc văn

phòng - thương mại - dịch vụ officetel và căn hộ tại số 38 Trương Quốc Dung,

phường 8, quận Phú Nhuận; dự án nhà ở xã hội Lê Thành Tân Tạo 2; dự án nhà ở

xã hội Lê Thành Tân Kiên, giai đoạn 1 và giai đoạn 2; dự án khu nhà ở Him Lam;

dự án chung cư nhà ở xã hội An Phú Đông242. Giải pháp này cũng được nhiều

doanh nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đề xuất và đã được Hiệp hội Bất động sản

TP. HCM tổng hợp gửi tới UBND TP. HCM. Trong bối cảnh thiếu nhà ở như hiện

nay, chính quyền các tỉnh, thành phố cần ưu tiên giải quyết, có phương án tháo gỡ

cho các dự án đang bị “ách tắc” do thủ tục để các dự án này được tiếp tục triển

khai, sớm hoàn thiện đưa vào sử dụng.

- Thành lập Quỹ tín dụng nhà ở

Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc về thành công trong cung cấp nhà ở xã hội,

Việt Nam có thể cân nhắc áp dụng để cải thiện tình trạng thiếu nhà ở và đạt được

mục tiêu đã đặt ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2030. Hàn Quốc đã sử dụng nguồn lực tài chính khu vực tư nhân

cho phát triển nhà ở, thông qua phát hành trái phiếu và tiết kiệm mua nhà. Trong

đó, sản phẩm tiết kiệm mua nhà được quy định dùng để mua nhà dưới 90m2, đối

tượng tham gia là người trên 20 tuổi, số tiền tiết kiệm hàng tháng từ 20.000won –

100.000 won (khoảng 500.000 đồng – 2 triệu đồng). Đồng thời, Chính phủ Hàn

Quốc mở rộng cung cấp nhà ở đa dạng như nhà ở thương mại tư nhân, nhà ở xã

hội cho thuê dựa trên khả năng chi trả của người dân bằng cách thực hiện khống

242 Doãn Thành, Xây dựng nhà ở xã hội: loay hoay xử lý quỹ đất, https://kinhtedothi.vn/xay-dung-nha-o-xa-hoi-loay-hoay-xu-ly-quy-dat.html, truy cập ngày 1/12/2022 243 Ngô Bảo Ngọc, Thực trạng và giải pháp phát triển nhà ở xã hội tại các đô thị ở Việt Nam,

chế giá cho thuê, hỗ trợ vay tiền mua nhà.243 Giải pháp này có thể cân nhắc áp

172

dụng kết hợp với việc thay đổi phương pháp tính giá bán nhà ở xã hội có sự hỗ trợ

của Nhà nước để giá bán nhà ở xã hội nằm trong khả năng chi trả của người thu

nhập thấp. Kinh nghiệm của quốc gia này cũng cho thấy, cần có một quỹ tín dụng

riêng để giải quyết vấn đề tài chính cho các dự án nhà ở xã hội, cũng như hỗ trợ

đối tượng thuộc diện hỗ trợ về nhà ở trong việc chi trả chi phí mua, thuê mua, thuê

nhà ở xã hội. Quỹ tín dụng này dùng để hoạt động tín dụng ngân hàng và phục vụ

mục tiêu phát triển nhà ở xã hội. Nguồn hình thành quỹ có thể được xây dựng từ

gói tín dụng hỗ trợ nhà ở của Chính phủ, khoản nộp phạt của doanh nghiệp bị xử

lý vi phạm do vi phạm các quy định về nhà ở xã hội, khoản tiền tiết kiệm mua nhà

của người có nhu cầu mua nhà ở xã hội và khoản tiền quy đổi từ 20% quỹ đất dùng

để xây dựng nhà ở xã hội trong các dự án nhà ở thương mại.

- Thành lập một bộ máy chuyên trách về nhà ở

Yếu tố quản lý đóng vai trò tích cực trong tăng cường tiếp cận nhà ở xã hội

một cách hiệu quả. Thật vậy, Singapore và Thái Lan là những quốc gia khá thành

công trong việc đảm bảo tiếp cận nhà ở cho công dân của họ. Kinh nghiệm từ các

quốc gia này cho thấy, cần thành lập một bộ máy chuyên trách về nhà ở. Ngay từ

những năm 1960, Singapore đã thành lập ra Hội đồng Phát triển nhà ở (Housing

Development Board-HDB). Cơ quan này thực hiện nhiều nhiệm vụ như: công tác

quy hoạch, thiết kế, thu hồi đất và xây dựng, phân phối, quản lý, bảo trì và các

nhiệm vụ liên quan đến nhà ở trong một tổng thể chung. Việc quy định quyền và

trách nhiệm rõ ràng, cụ thể trong mọi khâu điều hành, quản lý đã giúp hoạt động

phát triển nhà ở tại quốc gia này đạt hiệu quả cao bên cạnh sự hỗ trợ từ Nhà nước

cộng với thủ tục hành chính rõ ràng, nhanh chóng. Cơ quan này của Singapore đã

thực hiện rất tốt vai trò của mình khi triển khai thành công hơn 1 triệu căn hộ, trải

khắp 24 thị trấn và 3 khu trung tâm của Singapore. Có đến hơn 80% dân số của

https://tapchitaichinh.vn/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-nha-o-xa-hoi-tai-cac-do-thi-o-viet-nam.html, truy cập ngày 12/12/2022

Singapore sống trong các căn hộ này và khoảng 90% trong số này là chủ sở hữu,

173

còn lại là thuê.244 Tương tự, Thái Lan cũng thành lập cơ quan Cộng đồng nhà ở

(UCDO) trực thuộc Bộ Nhà ở. UCDO có vai trò liên kết các tổ chức khác nhằm

huy động tài chính để phát triển nhà ở và các nhiệm vụ khác tương tự như cơ quan

Nhà ở và Phát triển của Singapore là hoạch định chính sách, quy hoạch, thiết kế

nhà ở.245 Hiện nay, Việt nam chưa có một cơ quan chuyên trách nào thực hiện phát

triển nhà ở xã hội và việc phát triển nhà ở xã hội ở nước ta cũng chưa đạt kết quả

như mong muốn. Vì vậy, giải pháp này là một gợi ý đáng để Nhà nước cân nhắc

áp dụng tại Việt Nam.

- Tăng cường trách nhiệm của UBND các tỉnh, thành phố trong việc dành

quỹ đất cho phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn

Để giải quyết bài toán về quỹ đất xây dựng nhà ở xã hội, Bộ Xây dựng cần

sát sao trong việc đề nghị UBND các tỉnh, thành phố báo cáo việc dành quỹ đất

cho phát triển nhà ở xã hội trên địa bàn. Các địa phương phải phải nêu rõ thực

trạng thực hiện nghĩa vụ nhà ở xã hội đối với dự án phát triển nhà ở thương mại,

dự án phát triển đô thị tại địa phương. Phát triển nhà ở phải gắn với phát triển giao

thông là bài học từ Nhật Bản. 13,6 triệu cư dân Tokyo sống trong các căn hộ cao

tầng mới xây thay cho các toà nhà cũ kỹ, nhỏ để đáp ứng nhu cầu về nhà ở. Điều

này dẫn tới hệ quả mật độ dân cư sẽ đông đúc hơn và ảnh hưởng tới giao thông

nên Chính phủ nước này đã phát triển giao thông công cộng để đảm bảo người

dân sử dụng nhanh chóng và thuận tiện để thay thế cho phương tiện cá nhân. Ở

Việt Nam, giao thông công cộng chưa phổ biến và thuận tiện, đây là điểm hạn chế

và thể hiện sự chưa đồng bộ với chính sách phát triển nhà ở của nước ta.

- Khuyến khích sự tham gia của các chủ thể khác trong cung cấp nhà ở

Về chủ thể cung cấp nhà ở, kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, bên cạnh

244 John Bryson (2019), A century of public housing: lessons from Singapore, where housing is a social, not financial, asset, https://theconversation.com/a-century-of-public-housing-lessons-from-singapore-where- housing-is-a-social-not-financial-asset-121141, truy cập ngày 21/10/2022 245 Hoàng Thị Hằng Nga, một số kinh nghiệm phát triển nhà ở thu nhập thấp trên thế giới và bài học cho Việt Nam, tạp chí Khoa học Kiến trúc - Xây dựng, số 38/2020

hình thức giao việc cung cấp nhà ở cho khu vực tư nhân hoặc cơ quan chuyên

174

trách về nhà ở, Mỹ còn kêu gọi sự tham gia của nhiều chủ thể khác trong cung cấp

nhà ở, cung cấp dịch vụ cho thuê nhà với giá cả phải chăng như các tổ chức phi

lợi nhuận, tình nguyện viên và các tổ chức tôn giáo.246 Việt Nam cũng có thể cân

nhắc áp dụng phương thức này để tăng nguồn cung nhà ở bán hoặc cho thuê với

giá cả phải chăng từ các tổ chức tôn giáo. Việt Nam có số lượng tổ chức tôn giáo

lớn và đang làm khá tốt trong việc cung cấp một số dịch vụ khác như dịch vụ giáo

dục, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Theo Báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, cả

nước có khoảng 300 trường mầm non, 2000 cơ sở giáo dục mầm non, 12 cơ sở

dạy nghề thuộc tổ chức tôn giáo; 500 cơ sở y tế, phòng khám chữa bệnh từ thiện

do các tổ chức tôn giáo thành lập dưới nhiều hình thức.247 Qua đó cho thấy, đây là

một giải pháp mang tính khả thi cao, nên được cân nhắc tiếp thu từ kinh nghiệm

của Mỹ trong tương quan với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.

Cần áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý đối tượng được hưởng

-

chính sách hỗ trợ nhà ở

Nhằm giải quyết tình trạng bỏ lọt các đối tượng có đủ điều kiện theo quy

định nhưng không được mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội và ngược lại, một giải

pháp hữu hiệu là cần chuyển đổi số hóa, áp dụng công nghệ thông tin. Cụ thể, cần

liên thông và đồng bộ dữ liệu giữa các cơ quan trong cả nước, trong đó, các giao

dịch về tài sản sẽ được cập nhật trên hệ thống. Khi xét đối tượng hưởng chính sách

hỗ trợ về nhà ở xã hội chỉ cần tra thông tin của cá nhân, hộ gia đình đó trên hệ

thống để xác định tình hình sở hữu nhà của đối tượng, lịch sử mua, thuê, thuê mua

nhà ở xã hội trong thời gian trước khi đăng ký. Qua đó, xác định đúng đối tượng

thực sự có nhu cầu về nhà ở, tránh tình trạng “nước chảy chỗ trũng” như thực tế

hiện nay.

3.3.5. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản

246 https://tapchitaichinh.vn/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-nha-o-xa-hoi-tai-cac-do-thi-o-viet-nam.html 247 https://sonoivu.namdinh.gov.vn/qlnn-ve-ton-giao/truong-ban-ton-giao-chinh-phu-cac-to-chuc-ton-giao-la- cau-noi-giua-dang-nha-nuoc-voi-chuc-sac-tin-do-trong-cong-2456

về nước sạch

175

- Cần nâng cao nhận thức của người dân trong tiếp cận nước sạch.

Một trong những nguyên nhân của tình trạng tỷ lệ sử dụng nước sạch ở khu

vực nông thôn thấp đến từ chính quan niệm, thói quen, nhận thức của người dân

trong sử dụng nước. Họ chưa nhận thức được tầm quan trọng của nước sạch đối

với sức khỏe của bản thân và gia đình, chưa hiểu biết đầy đủ mối liên hệ giữa lợi

ích kinh tế và lợi ích sức khoẻ, cùng với nghèo đói248 và thói quen sử dụng các

nguồn nước khác như nước mưa, nước giếng khoan, nước sông, suối… Do vậy,

họ chưa ưu tiên cho việc bỏ chi phí trong thu nhập của gia đình để chi trả cho nước

sạch. Chính vì vậy, giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp cận nước sạch và tăng tỷ lệ

sử dụng nước sạch ở khu vực nông thôn là tổ chức các đợt tập huấn, tuyên truyền

về vai trò quan trọng của nước sạch, các nguy cơ về sức khỏe khi sử dụng các

nguồn nước không được kiểm chứng về các loại tạp chất, axit, vi khuẩn, các chất

độc hại… Đối tượng được tập huấn, tuyên truyền không chỉ có người dân mà còn

với nhóm đối tượng là lãnh đạo xã, cán bộ các ban, ngành, đoàn thể, khu dân cư,

cán bộ y tế xã. Từ đó, giúp họ có thêm thông tin bổ ích, thông tin chính thống để

thay đổi nhận thức về nước sạch nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của bản

thân và gia đình tiến tới thực hiện mục tiêu bao phủ toàn dân tiếp cận nước sạch.

- Cần tiến hành nghiên cứu cung và cầu cũng như khả năng chi trả và sự bất

bình đẳng trong tiếp cận

Tương tự Việt Nam, Trung Quốc cũng có sự chênh lệch lớn trong tiếp cận

nước sạch giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa miền Tây và miền Đông. Do

vậy, giải pháp hạn chế tình trạng này được thực hiện là nghiên cứu tình hình cung-

cầu và khả năng chi trả cũng như sự bất bình đẳng trong tiếp cận nước sạch giữa

các nhóm đối tượng. Trung Quốc đã thiết kế mô hình dự án thí điểm ở trường học,

bệnh viện thị trấn và các cộng đồng nông thôn. Từ đó, rút ra kinh nghiệm và đưa

248 Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường-Tổng cục thuỷ lợi (2020), Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2030, tầm nhìn đến 2045

các dự án này vào các chính sách, hướng dẫn và phát triển chương trình của Chính

176

Phủ. Với thực trạng chênh lệch trong tiếp cận nước sạch giữa thành thị và nông

thôn Việt Nam như hiện nay cộng với một số lượng lớn công trình cấp nước nông

thôn hoạt động không hiệu quả sau đầu tư, Việt Nam có thể cân nhắc thực hiện

giải pháp thí điểm như Trung Quốc. Có nghĩa là, chúng ta sẽ thí điểm hai mô hình

quản lý công trình cấp nước sau đầu tư, một là giao cho cộng đồng dân cư địa

phương, hai là giao cho chính quyền địa phương quản lý. Từ đó, đánh giá tính hiệu

quả của mỗi mô hình và nhân rộng trong phạm vi cả nước.

- Cần đặt vấn đề nước sạch ở đúng vị trí, thể hiện tầm quan trọng của nước

sạch trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm

Nhìn chung, kết quả thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu về tỷ lệ dân số sử dụng

nước sạch theo tiêu chuẩn quốc gia chưa đạt được mục tiêu đề ra trong Nghị quyết

số 15-NQ/TW. Cụ thể, Nghị quyết đề ra chỉ tiêu đến năm 2020, tỷ lệ dân số sử

dụng nước sạch theo tiêu chuẩn quốc gia phải đạt 70%, nhưng thực tế đến năm

2021, con số này mới chỉ đạt 54%.249 Thực trạng một phần phụ thuộc vào nguồn

chi cho nước sạch. Nhằm tăng nguồn chi từ NSNN và sự tham gia của khu vực tư

nhân cho nước sạch, cần đặt vấn đề nước sạch ở đúng vị trí, thể hiện tầm quan

trọng của nước sạch trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm. Theo đó,

cần lồng ghép các mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể về nước sạch trong kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội ở cấp trung ương và địa phương, các chương trình mục tiêu

quốc gia. Đặc biệt là các chương trình mục tiêu quốc gia liên quan đến phát triển

nông thôn như chương trình quốc gia về giảm nghèo bền vững, chương trình mục

tiêu quốc gia về phát triển nông thôn mới, chương trình hỗ trợ đồng bào dân tộc

thiểu số ít người…

- Cần thống nhất quản lý nhà nước về cấp nước sạch cả khu vực đô thị và

nông thôn

249 Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết hội nghị trung ương 5 khoá XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.

Để kiểm soát tình trạng phân khúc, độc quyền trong cung cấp nước sạch

177

cần thống nhất quản lý nhà nước về cấp nước sạch cả khu vực đô thị và nông thôn

bởi một Bộ, ngành. Cụ thể, giao cơ quan quản lý ngành cấp nước giúp Bộ, Chính

phủ xây dựng và đảm bảo thực hiện chính sách về cấp nước; hỗ trợ, hướng dẫn

pháp lý trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các doanh nghiệp cấp nước hoặc

giữa doanh nghiệp cấp nước với chính quyền địa phương liên quan đến việc đầu

tư và cung cấp nước sạch. Đồng thời, giao quyền tự chủ cho địa phương trong việc

lựa chọn đơn vị cấp nước, ký kết hợp đồng hợp tác đầu tư với khu vực tư nhân

đầu tư cấp nước, quyết định giá bán nước trong mức trần do luật quy định.

3.3.6. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dịch vụ xã hội cơ bản

về tiếp cận thông tin

Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ASXH về DVXHCB trong TCTT

cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

- Cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến Luật TCTT

Một thực tế đang tồn tại là nhiều nguời dân chưa nắm được quyền TCTT

nên việc TCTT còn chưa phổ biến. Thậm chí có những địa phương trong 03 năm

từ khi có Luật TCTT, chưa có trường hợp nào đến yêu cầu cung cấp thông tin theo

Luật TCTT.250 Vì vậy, chính quyền địa phương cần tăng cường tổ chức các buổi

tuyên truyền, giáo dục, phổ biến Luật TCTT cho người dân trên địa bàn. Trong

đó, nhấn mạnh quyền TCTT của người dân, những thông tin được tiếp cận, những

thông tin được tiếp cận có điều kiện và những không tin không được tiếp cận; trình

tự, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin và chi phí yêu cầu cung cấp thông tin. Sau

các đợt tuyên truyền, cần tìm hiểu nhu cầu của người dân muốn biết loại thông tin

nào và hướng dẫn họ thực hành yêu cầu cung cấp thông tin.

- Cần đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho cán bộ đầu mối cung cấp thông tin

Để hoạt động TCTT và cung cấp thông tin hiệu quả, một trong những yếu

tố quan trọng là mỗi cơ quan phải có cán bộ đầu mối cung cấp thông tin nắm rõ

250 Sở Tài chính tỉnh Bình Thuận (2021), Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai thi hành Luật Tiếp cận thông tin

quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước,

178

những thông tin được công khai, cách thức cung cấp thông tin, trình tự, thủ tục

cung cấp thông tin, kỹ năng cung cấp thông tin nói chung và kỹ năng cung cấp

thông tin cho nhóm đối tượng đặc biệt như người khuyết tật. Hiện nay, ở các cơ

quan nhà nước, cán bộ được giao làm đầu mối cung cấp thông tin chủ yếu là kiêm

nhiệm, chưa được tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về hoạt động cung cấp thông

tin do đó việc thực hiện nhiệm vụ còn gặp nhiều khó khăn, chưa hiệu quả. Vì vậy,

Bộ Tư pháp cần thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo có sự tham gia

của đại diện các cơ quan chức năng để thảo luận, quán triệt việc phân công và

công khai đầu mối cung cấp thông tin, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ đầu mối

cung cấp thông tin. Đồng thời, Bộ cần xây dựng và công khai quy chế cung cấp

thông tin, thiết lập chuyên mục TCTT và danh mục thông tin phải công khai, thông

tin cung cấp có điều kiện để các cơ quan khác tham khảo, phục vụ cho quá trình

cung cấp thông tin của cơ quan mình.

- Cần xây dựng chính phủ điện tử và bao phủ tỷ lệ sử dụng Internet

Xây dựng chính phủ điện tử và tỷ lệ người dân sử dụng Internet cao sẽ tạo

điều kiện thuận lợi cho người dân tìm kiếm, tiếp cận thông tin từ phía cơ quan nhà

nước. Trong thời gian tới, Chính phủ cần nỗ lực hơn nữa đẩy mạnh tiến trình xây

dựng chính phủ điện tử. Đồng thời, xây dựng và thực hiện chính sách hỗ trợ, giảm

chi phí sử dụng Internet để người dân có thể dễ dàng tiếp cận Internet, là một cách

gián tiếp đẩy mạnh quyền TCTT của người dân. Từ đó, tiến tới thực hiện cung cấp

thông tin qua hình thức trực tuyến để giảm thời gian đi lại, chi phí in ấn, gửi bưu

chính của cơ quan nhà nước và của người yêu cầu cung cấp thông tin.

- Nâng cao hiệu quả TCTT cho người khuyết tật, NLĐ di cư

Để nâng cao hiệu quả TCTT của người khuyết tật, cần dành một phần kinh

phí riêng cho việc phát triển công nghệ thông tin phục vụ TCTT cho nhóm đối

tượng này phù hợp với các dạng tật khác nhau. Cụ thể, các cổng/trang thông tin

điện tử của các cơ quan nhà nước cần được cài đặt phần mềm đọc tài liệu và liên

kết dịch vụ phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu. Đồng thời, tổ chức tập huấn cho bộ phận

179

tin học, cán bộ đầu mối cung cấp thông tin của mỗi cơ quan có kiến thức về các

dạng tật để có kỹ năng hỗ trợ người khuyết tật TCTT. Tăng cường đầu tư lắp đặt

Internet và hỗ trợ phí sử dụng Internet để nhóm đối tượng này có cơ hội tốt hơn

trong TCTT.

Để đảm bảo TCTT cho nhóm NLĐ di cư, Bộ Lao động thương binh và Xã

hội cần nghiên cứu kênh thông tin dành riêng cho NLĐ di cư như trang thông tin

điện tử, nền tảng mạng xã hội… Trong đó cung cấp thông tin về pháp luật liên

quan đến họ như quy định của pháp luật lao động, pháp luật BHXH, bảo hiểm y

tế, pháp luật về cư trú, ưu đãi, chính sách về nhà ở, các thông tin về thị trường lao

động… Qua đó, họ có thể nắm bắt được quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia

quan hệ lao động, khi cư trú ở nơi di cư đến, cơ hội về nhà ở, cơ hội tìm kiếm việc

làm…

- Tăng cường tập huấn Luật TCTT đối với chủ thể cung cấp thông tin

Để khắc phục tình trạng một số đại diện cơ quan nhà nước, lãnh đạo, chuyên

viên cơ quan nhà nước chưa nắm rõ nghĩa vụ cung cấp thông tin theo Luật TCTT,

nhầm lẫn yêu cầu cung cấp thông tin với yêu cầu giải quyết thủ tục hành chính

thông thường thì UBND tỉnh, thành phố cần thường xuyên tổ chức giáo dục, phổ

biến Luật TCTT tới các chủ thể này. Nội dung tập huấn cần đặc biệt nhấn mạnh

nội dung về nghĩa vụ công khai thông tin, những thông tin cần công khai, thông

tin được tiếp cận có điều kiện, nghĩa vụ, quy trình, thủ tục cung cấp thông tin theo

yêu cầu. Tương tự đối với đối tượng TCTT, để người dân nắm rõ và thực hiện tốt

quyền và nghĩa vụ của mình trong việc TCTT, các tổ chức chính trị-xã hội cần

định kỳ tổ chức phổ biến Luật TCTT cho thành viên của tổ chức và người dân,

trong đó nhấn mạnh cách thức thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin, các nội dung

liên quan đến quyền khiếu nại, tố cáo và các tình huống yêu cầu cung cấp thông

tin thực tế để khuyến khích người dân thực hành quyền TCTT trên thực tiễn.

- Cần ràng buộc trách nhiệm báo cáo tình hình thực hiện luật TCTT của các

cơ quan nhà nước

180

Để nắm bắt nhu cầu TCTT của người dân và tình hình công khai, cung cấp

thông tin của cơ quan nhà nước, mỗi cơ quan nhà nước cần báo cáo về tình hình

thực hiện luật TCTT hàng năm. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy cần yêu cầu tất cả

cơ quan nhà nước báo cáo về tình hình thực hiện luật TCTT hoặc dành một phần

trong báo cáo thường niên cho vấn đề này.251 Nhiệm vụ tổng hợp các báo cáo để

xây dựng một báo cáo tổng quát về tình hình thực hiện quyền tiếp cận thông tin

nên được giao cho một cơ quan trung ương. Cơ quan này có thể là Bộ Thông tin

và Truyền thông. Trong báo cáo của các cơ quan, cần nêu rõ tình hình công khai

thông tin của cơ quan, việc cử cán bộ đầu mối cung cấp thông tin, cơ sở vật chất

lưu trữ tài liệu, vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong cung cấp thông tin,

tình hình yêu cầu cung cấp thông tin của người dân và khả năng đáp ứng yêu cầu

của cơ quan…. Từ đó, có thể nắm bắt vướng mắc trong quá trình TCTT của người

dân và quá trình cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước nhằm kịp thời đề xuất

251 Trung tâm Pháp luật và Dân chủ (CLD) – Canada, Tổ chức Tiếp cận thông tin Châu Âu (AIE), Tổ chức Hướng tới Minh bạch (TT) (2015), Báo cáo phân tích Dự thảo Luật Tiếp cận Thông tin của Việt Nam

các giải pháp giải quyết những vướng mắc trên thực tế trong thời gian sớm nhất.

181

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Hoàn thiện hệ thống pháp luật ASXH về DVXHCB cần đảm bảo sự phù

với bản chất của DVXHCB là quyền con người cơ bản. Quy định pháp luật hiện

hành về DVXHCB còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập nên việc hoàn thiện pháp

luật về vấn đề này cần khắc phục những hạn chế, bất cập trong quy định của luật.

Ngoài ra, hoàn thiện pháp luật về DVXHCB phải phù hợp với pháp luật quốc tế,

với các quốc gia trên thế giới và với chính sách ASXH của Đảng và nhà nước

trong giai đoạn hiện nay.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ASXH về DVXHCB được đề xuất bao gồm

một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật áp dụng chung cho tất cả các DVXHCB như

mở rộng phạm vi DVXHCB; Tạo hành lang pháp lý cho phép khu vực tư nhân

cung cấp DVXHCB; Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định chưa tương thích với

nhau trong hệ thống pháp luật và quy định cụ thể trách nhiệm của địa phương

trong đảm bảo tiếp cận DVXHCB. Ngoài ra, đối với mỗi loại DVXHCB, các kiến

nghị tập trung đề xuất sửa đổi quy định của luật theo hướng đảm bảo mọi người

dân được tiếp cận DVXHCB bình đẳng, trong đó đặc biệt chú trọng đến một số

nhóm đối tượng yếu thế. Đồng thời, tăng cường nguồn tài chính đầu tư cho

DVXHCB từ hình thức xã hội hoá, đầu tư theo hình thức đối tác công tư...

Để quy định của pháp luật được thực hiện hiệu quả trên thực tế, đi vào đời

sống và đạt được mục đích đặt ra, bao giờ cũng phải chú trọng công tác thực hiện

pháp luật. Do vậy, nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật ASXH về

DVXHCB, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp. Trước hết, giải quyết tình

trạng nghèo đói để tăng cường hiệu quả tiếp cận DVXHCB. Tiếp theo, DVXHCB

cần được kiểm soát để đảm bảo nằm trong “khả năng chi trả” của người sử dụng

dịch vụ, cải thiện hệ thống hạ tầng cơ sở và đảm bảo chất lượng dịch vụ. Ngoài

các giải pháp chung này, mỗi DVXHCB với đặc thù riêng, cần có biện pháp riêng

nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhất quy định của pháp luật.

182

KẾT LUẬN

Sự ra đời của Nghị quyết số 15/NQ-TW Hội nghị lần thứ năm Ban chấp

hành Trung ương Khoá XI của Đảng về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai

đoạn 2012-2020” đã mở ra một trang mới, mở rộng phạm vi của hệ thống ASXH

Việt Nam. Trong đó, việc ghi nhận DVXHCB là một trụ cột mới của ASXH thể

hiện hệ thống ASXH Việt Nam ngày càng hoàn thiện và tiến bộ. Với đề tài “Pháp

luật an sinh xã hội về các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam”, luận án hướng tới

làm sâu sắc thêm các vấn đề lý luận về DVXHCB với tư cách là một cấu phần

thuộc hệ thống ASXH quốc gia, hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề này nhằm

đảm bảo mọi người dân được tiếp cận DVXHCB đầy đủ. Qua nghiên cứu, luận án

rút ra những kết luận sau:

1. DVXHCB được hiểu là hệ thống các hoạt động đảm bảo cá nhân, tổ chức

được tiếp cận các dịch vụ cơ bản, thiết yếu như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, nhà

ở, nước sạch, tiếp cận thông tin… nhằm đảm bảo nhu cầu tối thiểu, cơ bản nhất

của người dân trong từng thời kỳ phát triển đất nước. Cách hiểu này được xây

dựng dựa trên định nghĩa về “dịch vụ”, “dịch vụ xã hội” và các nhu cầu cơ bản,

thiết yếu để con người tồn tại và phát triển. Vì vậy, DVXHCB chứa đựng các đặc

điểm như DVXHCB chủ yếu do Nhà nước cung cấp hoặc uỷ quyền cung cấp,

DVXHCB có đối tượng phục vụ rộng rãi, bình đẳng, Dịch vụ xã hội cơ bản tác

động đến sự phát triển con người. Với bản chất và đặc điểm như vậy, vai trò của

DVXHCB được thể hiện rõ nét không chỉ đối với sự phát triển con người mà còn

đóng góp cho sự phát triển công bằng, tiến bộ của xã hội, của hệ thống ASXH mỗi

quốc gia. Nhằm đảm bảo mọi người dân được tiếp cận DVXHCB đầy đủ thì pháp

luật là công cụ hữu hiệu nhất. Tùy thuộc vào pháp luật mỗi quốc gia mà pháp luật

ASXH về DVXHCB được quy định khác nhau, nhưng nhìn chung nội dung pháp

luật về lĩnh vực này thường bao gồm các nội dung như: DVXHCB trong tiếp cận

GDCB; DVXHCB trong tiếp cận chăm sóc YTCB; DVXHCB về nhà ở;

DVXHCB về tiếp cận nước sạch và DVXHCB về TCTT.

183

2. Nhìn chung, hệ thống pháp luật Việt Nam về DVXHCB khá đầy đủ bao

phủ cả 05 DVXHCB. Hiện chưa có một văn bản thống nhất quy định về tất cả

DVXHCB mà mỗi DVXHCB được quy định trong một đạo luật riêng (trừ

DVXHCB về nước sạch vẫn được điều chỉnh trong các văn bản dưới luật). Các

văn bản này đều quy định DVXHCB được tiếp cận một cách phổ quát, bình đẳng

và không có sự phân biệt đối xử. Nội dung DVXHCB được quy định khá cụ thể

và tương ứng với đặc thù từng loại DVXHCB. Chủ thể cung cấp DVXHCB là Nhà

nước hoặc chủ thể khác được Nhà nước cho phép. Nguồn tài chính đầu tư cho

cung cấp DVXHCB chủ yếu từ NSNN bên cạnh việc huy động từ nguồn vốn xã

hội hoá, đầu tư theo hình thức đối tác công tư, nguồn vốn huy động từ khu vực tư

nhân… Bên cạnh các quy định hợp lý, khả thi thì một số quy định vẫn tồn tại

những điểm bất cập, chưa rõ ràng gây khó khăn cho thực tiễn thực hiện.

3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật

về DVXHCB để đảm bảo người dân được tiếp cận DVXHCB đầy đủ và hướng tới

xây dựng hệ thống ASXH quốc gia tiến bộ với nhiều tấm lưới đỡ, phù hợp với xu

thế chung của thế giới. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thực hiện pháp luật về DVXHCB cần chú trọng tới một số yêu cầu nhất định. Các

giải pháp được đề xuất chủ yếu hướng tới đảm bảo mọi người dân được đáp ứng

các nhu cầu cơ bản, thiết yếu để tồn tại và nâng cao chất lượng cuộc sống.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật

Các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật Việt Nam

Nghị quyết số 04-NQ/HNTW Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII 1.

về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

2. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung

ương, khóa XI về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục”

3. Nghị quyết số 15/NQ-TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương

Khoá XI của Đảng về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-

2020”;

4. Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương

Khoá XII về “công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân

trong tình hình mới”;

5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng năm 2001 “Khẩn

trương mở rộng hệ thống BHXH và ASXH”

Hiến pháp 1992 6.

Hiến pháp 2013 7.

Luật Bảo hiểm y tế năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 8.

Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 9.

10. Luật Nhà ở năm 2014

11. Luật Đất đai năm 2013

12. Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014

13. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016

14. Luật Giáo dục năm 2019

15. Luật Người khuyết tật năm 2016

16. Luật Tài nguyên nước năm 2012

17. Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 về đẩy mạnh xã hội hoá các

hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao;

18. Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 20/4/2009 về một số cơ chế, chính sách

nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo

và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người

có thu nhập thấp tại khu vực đô thị;

19. Nghị định số 20/2014/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 24 tháng 3 năm 2014 về

phổ cập giáo dục, xoá mù chữ

20. Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế

21. Nghị định 60/2021/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 21 tháng 6 năm 2021 quy

định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập;

22. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 5 năm 2014

quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Đất đai;

23. Nghị định số 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20 tháng 10 năm 2015

về phát triển và quản lý nhà ở xã hội;

24. Nghị định số 49/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1 tháng 4 năm 2021 sửa

đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 100/2015/NĐ-CP;

25. Nghị định số 13/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23 tháng 1 năm 2018

quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Tiếp cận thông tin;

26. Nghị định số 73/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 9 năm 2019

quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn

ngân sách nhà nước;

27. Nghị định số 47/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 9/4/2020 quy định về

quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước;

28. Thông tư số 39/2017/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 18 tháng 10 năm 2017 quy

định gói dịch vụ y tế cơ bản;

29. Thông tư số 27/2018/TT-BYT của Bộ Y tế ngày 26 tháng 10 năm 2018 hướng

dẫn thực hiện BHYT và khám chữa bệnh BHYT liên quan đến HIV/AIDS.

30. Quyết định số 45/ HĐBT ngày 24/4/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là

Chính phủ) cho phép cơ sở khám chữa bệnh thu một phần viện phí y tế;

31. Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ

về một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho công nhân lao động tại

các khu công nghiệp thuê;

32. Quyết định số 2127/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến

lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;

33. Quyết định số 1978/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia cấp nước sạch

và vệ sinh nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;

Các văn bản pháp luật quốc tế

34. Công ước Quốc tế về Quyền dân sự, chính trị năm 1966;

35. Công ước Quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá;

36. Công ước Quốc tế về Tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong

việc ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường

(25/6/1998);

37. Công ước của Liên Hợp quốc về Chống tham nhũng được Đại hội đồng

LHQ;

38. Công ước của Liên minh Châu Phi về phòng, chống tham nhũng;

39. Công ước về Quyền của Người khuyết tật năm 2006;

40. Công ước số 152 năm 1952 quy định các quy phạm tối thiếu về ASXH;

41. Khuyến nghị R202 - Sàn an sinh xã hội, 2012 (202);

42. Luật tiếp cận thông tin của Canada năm 1985;

43. Luật Tự do thông tin Thuỵ Điển năm 1949, sửa đổi năm 1976.

B. Các tài liệu tham khảo khác

Tiếng Việt

44. Báo cáo quốc gia năm 2020, Tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển

bền vững;

45. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021), Báo cáo Quốc gia năm 2020: tiến độ 5 năm

thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững;

46. Bộ Lao động thương binh và xã hội và ILO (1998), Cẩm nang ASXH, tập 1

và tài liệu phục vụ chương trình tập huấn phát triển chế độ BHXH.

47. Bộ lao động, Thương binh và Xã hội (2012), Chương trình đào tạo bồi dưỡng

nghề công tác xã hội cho cán bộ tuyến cơ sở (xã/phường, thôn/ấp/bản), Đề án 32;

48. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện

Nghị quyết Hội nghị trung ương 5 Khoá XI một số vấn đề về chính sách xã

hội giai đoạn 2012-2020

49. Bộ Tư Pháp, Pháp luật về tiếp cận thông tin, Trang thông tin về Phổ biến

giáo dục pháp luật, Đặc san tuyên truyền pháp luật Số 07/2016;

50. Bộ Y tế (2020), Báo cáo tóm tăt công tác quản lý sử dụng quỹ bảo hiểm y

tế năm 2020;

51. Bộ Y tế (2022), Báo cáo nâng cao công tác chăm sóc sức khoẻ Nhân dân;

chủ động thích ứng linh hoạt, góp phần phục hồi nhanh, phát triển bền

vững, Tài liệu Hội nghị ngày 21/8/2022

52. Bộ Y tế và Quỹ Dân số LHQ (2017), Những rào cản trong tiếp cận các dịch

vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và kế hoạch hóa gia đình của đồng bào dân

tộc thiểu số Việt Nam

53. Cục thống kê TPHCM (2015), Niên giám thống kê TPHCM, Nxb. Thanh niên

54. Nguyễn Thắng, Nguyễn Thị Thu Phương, Vũ Hoàng Đạt, Phạm Minh Thái,

Nguyễn Thế Quân, Lộ Thị Đức (2021), Thúc đẩy giảm nghèo nhanh và bền

vững theo mọi chiều cạnh và mọi nơi ở Việt Nam, Báo cáo nghèo đa chiều

Việt Nam.

55. Đỗ Thị Dung, Quyền bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của người khuyết tật trong

Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật 2006 và việc nội luật hoá trong

pháp luật Việt Nam, chuyên đề đề tài cấp khoa học cấp cơ sở Công ước quốc tế

về quyền của người khuyết tật (2006) và vấn đề nội luật hoá trong pháp luật

Việt Nam, chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Hiền Phương, Đại học Luật Hà Nội, 2020

56. Lê Thị Thuý Hà, Những nét mới trong phát triển nhà ở xã hội trên thế giới

và ở Việt Nam, Tạp chí Quy hoạch xây dựng số 109+110/2021;

57. Hoàng Thị Hằng Nga, một số kinh nghiệm phát triển nhà ở thu nhập thấp

trên thế giới và bài học cho Việt Nam, tạp chí Khoa học Kiến trúc - Xây

dựng, số 38/2020;

58. Học viện Chính trị- Hành chính khu vực III (2012), Phát triển kinh tế và

ASXH – từ lý luận đến thực tiễn các tỉnh miền Trung”, Kỷ yếu hội thảo

khoa học, Đà nẵng;

59. Hội Luật gia Việt Nam (2009), Báo cáo nghiên cứu về Luật Tiếp cận thông

tin của các nước Bắc Âu;

60. Nguyễn Thị Thu Hường (2022), Quyền của người khuyết tật trong pháp

luật an sinh xã hội ở Việt Nam, luận án tiến sĩ luật học;

61. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình lý luận và pháp

luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc Gia Hà Nội;

62. Kiểm toán nhà nước (2020), Báo cáo kiểm toán năm 2020;

63. Lê Minh Sang, Ramesh Govindaraj, và Caryn Bredenkamp (2020), Đối tác

công tư y tế ở Việt Nam: Vấn đề và lựa chọn. Tiêu điểm phát triển quốc tế.

Washington, DC: Ngân hàng Thế giới. doi:10.1596/978-1-4648-1585-0.

Giấy phép xuất bản: Giấy phép Creative Commons theo thẩm quyền CC

BY 3.0 IGO;

64. Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam (2020), Báo cáo độc lập về tình

hình thực thi công ước của LHQ về quyền của Người khuyết tật tại Việt Nam;

65. Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam (2020), Báo cáo độc lập về tình

hình thực thi công ước của LHQ về quyền của Người khuyết tật tại Việt Nam;

66. Ngân hàng thế giới, Tổ chức Y tế thế giới, UNICEF và JICA, Hướng tới

bao phủ, chăm sóc sức khoẻ toàn dân Việt Nam;

67. Nguyễn Vũ Việt (2020), Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu

quả, hiệu lực chi NSNN cho giáo dục ở Việt Nam, đề tài cấp nhà nước, Học

viện Tài chính, mã số KHGD/16-20. ĐT. 023

68. Nhóm công tác liên ngành 18 cơ quan, Báo cáo quốc gia về thúc đẩy và bảo

vệ quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR)

chu kỳ III, 2018;

69. Phùng Đức Tùng (2017), Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn

Thị Nhung, Tạ Thị Khánh Vân, Tổng quan thực trạng kinh tế -xã hội của

53 dân tộc thiểu số;

70. Sở Tài chính tỉnh Bình Thuận (2021), Báo cáo sơ kết 03 năm triển khai thi

hành Luật Tiếp cận thông tin;

71. Tổng cục Thống kê (2016), Điều tra Quốc gia người khuyết tật năm 2016

(VDS2016) – Báo cáo cuối cùng;

72. Tổng cục Thống kê (2021), Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Già

hoá dân số và người cao tuổi ở Việt Nam

73. Tổng Cục thống kê- Quỹ dân số LHQ (2016), Báo cáo điều tra di cư nội

địa quốc gia năm 2015;

74. Tổng cục thống kê, Khảo sát mức sống dân cư năm 2017;

75. Tổng cục Thống kê, Uỷ ban dân tộc (2020), Kết quả điều tra thu thập thông

tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb.

Thống Kê;

76. Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường-Tổng cục thuỷ lợi (2020),

Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2030, tầm

nhìn đến 2045;

77. Trung tâm Pháp luật và Dân chủ (CLD) – Canada, Tổ chức Tiếp cận thông

tin Châu Âu (AIE), Tổ chức Hướng tới Minh bạch (TT) (2015), Báo cáo

phân tích Dự thảo Luật Tiếp cận Thông tin của Việt Nam

78. Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Chiến

lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến 2030, tầm nhìn

đến 2045, Báo cáo chiến lược (V6), 2020;

79. Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên

minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh

nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2020), Báo cáo đánh

giá việc thực thi Luật Tiếp cận thông tin (lần thứ hai);

80. Trung tâm Thúc đẩy giáo dục và nâng cao năng lực phụ nữ (CEPEW), Liên

minh khoáng sản (LMKS), Liên minh đất rừng (FORLAND), Liên minh

nước sạch (LMNS) và tổ chức Oxfam tại Việt Nam (2021), Thảo luận chính

sách, Thực thi hiệu quả Luật Tiếp cận thông tin;

81. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật An sinh xã hội, Nxb. Công

an nhân dân;

82. Trường Đại học Toronto, Canada, Viện Nghiên cứu Phát triển Mekong tại Hà

Nội (2017), Những rào cản trong tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà

mẹ và kế hoạch hoá gia đình của đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam;

83. Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, tập I. Nxb.Từ điển Bách khoa, 2005

84. Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2004;

85. UNDP, Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người, Báo cáo Quốc gia về

Phát triển Con người năm 2011

86. Unicef (2022), Tóm tắt chính sách về nước sạch và vệ sinh môi trường tại

Việt Nam;

87. Unicef, Tóm tắt chính sách về nước sạch & vệ sinh môi trường tại Việt

Nam, 2020;

88. Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội Khoá 13 (2015), Già hoá dân số và chăm

sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng ở Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, 2015;

89. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam-Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Đánh

giá khả năng tiếp cận dịch vụ giáo dục của người nghèo ở các tỉnh miền núi

phía Bắc trong điều kiện xã hội hoá các hoạt động giáo dục ở Việt Nam, Báo

cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp Viện, Mã số: B2011-37-04;

90. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2012), Đánh giá thực trạng khả năng

và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội của nhóm người nghèo, đối tượng dễ bị tổn

thương, đặc biệt là tại các vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, Hà Nội;

91. Viện Khoa học lao động và xã hội (ILSSA) và GIZ, Thuật ngữ an sinh xã

hội Việt Nam, 2010;

92. Viện Khoa học lao động và xã hội (ILSSA) và GIZ, Thuật ngữ an sinh xã

hội Việt Nam, 2010;

93. Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iSEE), “Xóa bỏ kỳ thị-quan

điểm và đánh giá của người khuyết tật”, Nxb. Tri thức, 2017.

Tiếng nước ngoài

94. Alex Wafer, Jackie Dugard, Muzi Ngwenya, Shereza Sibanda (2008), The

lived -reality of poor people’s access to basic services in Johannesburg’s

inner city, Research report;

95. Anna Coote, Pritika Kasliwal and Andrew Percy (2019), Universal Basic

Services: theory and practice;

96. Antonella Corsi-bunker, Guide to the education system in the United States;

97. Antonella Corsi-bunker, Guide to the education system in the United States;

98. Asian Development Bank Institute (2000), Public-Private Partnerships in

the Social Sector: Issues and Country Experiences in Asia and the Pacific,

ADBI Publisher;

99. Brinkerhoff (2007), Governance in Post-Conflict Societies;

100. Catherine P Conn & Veronica Walford, An Introduction to Health

Insurance for Low Income Countries”, DFID- Health Systems Resource

Centre, 2008;

101. China Association for Human Rights Studies (2015), Legal Defense of the

Right to Housing: A Comparative Study of Mainland and Taiwan;

102. Chu Zhaohui, The important of compulsory education, China Daily, 2019-07-22;

103. De Jongh, J. Mncayi, P. and Mdluli, P. (2019), Analysing the impact of

water access and sanitation on local economic development (led) in the

sedibeng district municipality, South Africa, International Journal of

Innovation, Creativity and Change, Vol. 5, No. 2;

104. Dev Pa et al (2020), A Study on Migrant Workers’ Access to Housing and Land;

105. Doyal, L. & Gough, I. (1991), A Theory of Human Need. Basingstoke:

Palgrave Macmillan;

106. G. Verbist, M. F. Förster & M. Vaalavuo. (2012), The Impact of Publicly

Provided Services on the Distribution of Resources: Review of New Results and

Methods. OECD, OECD Social, Employment and Migration Magazine No. 130;

107. Gough, Ian (2019), Universal Basic Services: a theoretical and moral

framework;

108. Ha Thi Hai Do, Nui Dang Nguyen, Anh Ngoc Mai, Duc Minh Phung (2020),

Assessment of basic social services coverage on life quality for ethnic minorities

in Vietnam, International magazine of innovation, Vol.13. No.10;

109. Ha Thi Hai Do, Nui Dang Nguyen, Anh Ngoc Mai, Duc Minh Phung,

Nguyen Duy Vu, Hung Dinh Nguyen, Dung Manh Chan, Thuy Minh Thu

Phung, Ensuring basic education for ethnic minority groups in Vietnam,

Management Science Letters;

110. ILO (1992), Introduction Social Secutity, Giownevo;

111. ILO (2008), Social Health Protection - an ILO strategy towards universal

access to health care;

112. ILO (2009), Social Protection Floor Initiative;

113. Indian government, Planning Commission Report of the Working Group on

Social Security for the Eleventh Five Year Plan 2007-2012;

114. Institute for global prosperity (2017), Social prosperity for the future:A

proposal for Universal Basic Services;

115. JICA (2002), Approaches for Systematic Planning of Development Projects;

116. John Bryson (2019), A century of public housing: lessons from Singapore,

where housing is a social, not financial, asset.

117. Jomills Henry Braddock II, James M. McPartland, Equality Of Opportunity;

118. Maria Massimo (2021), Housing as a Right in the United States: Mitigating

the Affordable Housing Crisis Using an International Human Rights Law

Approach;

119. Meenakshi Gupta, Labour Welfare and Social Security in Unorganized

Sector (New Delhi: Deep & Deep Publications), 2007;

120. Ministry of Labour and Employment and Rehabilitation, India (1969),

Report of the Nation commission on labour;

121. Niall Patrick Walsh (2020), Comparing social housing: 30 projects from

countries a round the world;

122. OECD (2015), Education in China- a snapshot;

123. OECD (2020), Social housing: A key part of past and future housing policy,

Employment, Labour and Social Affairs Policy Briefs;

124. Ortiz, I., Schmitt, V. and De, L. (2018), 100 years of social protection: The

road to universal social protection systems and floors,Volum 1: 50 country

cases, Geneva: ILO;

125. Phạm Minh Thái, Trần Quang Tuyến (2021), Does greater household

wealth make young children perform better? The case of Vietnam";

126. Philip Kotler, Gary Armstrong (1996), Principles of Marketing, Chapter (2)

2, Prentice Hall Publishers;

127. Philippe Cullet (2007), Water law in India – Overview of existing

framework and proposed reforms, IELRC Working Paper, 2007-01;

128. Philippe Cullet, Joyeeta Gupta (2009), The Evolution of the Law and

Politics of Water, Springer Academic Publishers;

129. Rachel Marcus, Laure-Hélène Piron, Tom Slaymaker (2004), Basic

services and social protection;

130. Roland Almqvist, Olle Högberg (2005), The Challenge of Public-Private

Partnerships: learning from international experience, Edvard Elgar

Publishing Ltd;

131. Salvi del Pero, A. et al. (2016), “Policies to promote access to good-quality

affordable housing in OECD countries”, OECD Social, Employment and

Migration Working Papers, No. 176, OECD Publisher;

132. Samuel Kleven (2022), Housing policy in Japan;

133. Santosh Mehrotra, Jan Vandemoortele and Enrique Delamonica (2002),

Basic services for all?

134. Scanlon, K., M. Fernández Arrigoitia and C. Whitehead (2015), Social

housinin Europe. European Policy Analysis, Swedish Institute for

European Policy Studies;

135. Scanlon, K., M. Fernández Arrigoitia and C. Whitehead (2015), Social

housing in Europe. European Policy Analysis, Swedish Institute for

European Policy Studies;

136. Toby Mendel (2008), Freedom of information: A comparative legal survey,

Second Edition, United Nations, UNESCO, Paris;

137. UN – Africa Spending Less on Basic Social Services;

138. UN (2006), Frequently asked questions on human rights – based approach

to development cooperation, New York and Geneva;

139. UNDP (2001), Choices for the Poor: Lessons from national poverty

strategies, Publication of ILO;

Website C.

https://www.britannica.com/topic/meritocracy;

1.

http://www.bhxhbqp.vn/bai-viet/ban-chat-va-nhung-chuc-nang-co-ban-cua-

2.

an-sinh-xa-hoi-2155, truy cập ngày 3/3/2021

https://www.esn-eu.org/about/what-are-types-social-services, truy cập ngày

3.

3/3/2020

https://www.etu.org.za/toolbox/docs/government/basic.html#we, truy cập ngày

4.

15/4/2020

https://www.usip.org/guiding-principles-stabilization-and-reconstruction-the-

5.

web-version/stable-governance/provision-esse, truy cập ngày 9/12/2021

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-

6.

/2018/816018/xa-hoi-hoa-dich-vu-cong-o-viet-nam.aspx, truy cập ngày

9/4/2021

https://www.usip.org/guiding-principles-stabilization-and-reconstruction-the-

7.

web-version/stable

governance/provisionesse#:~:text=Providing%20essential%20services%20is%

20the,such%20as%20health%20and%20education, truy cập ngày 9/12/2021;

https://baothanhhoa.vn/y-te-suc-khoe/bat-cap-trong-thuc-hien-de-an-dau-

8.

tu-xa-hoi-hoa-y-te-tuyen-xa/170659.htm, truy cập ngày 15/5/2022;

https://www.who.int/india/health-topics/primary-health-

9.

care#:~:text=It%20provides%20whole%2Dperson%20care,feasible%20to

%20people's%20everyday%20environment,

https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/phat-trien-giao-duc-mam-non-

10.

trong-tinh-hinh-moi.html, truy cập ngày 25/8/2022;

https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/con-em-lao-dong-di-cu-hoc-o-dau-ai-

11.

lo-post186480.gd; truy cập ngày 22/4/2022;

https://thanhnien.vn/khong-co-so-ho-khau-tam-tru-khong-du-1-nam-co-

12.

duoc-vao-lop-1-post1088409.html, truy cập ngày 1/10/2022;

https://baoquocte.vn/ngan-sach-cho-giao-duc-con-nhieu-bat-cap-81691.html

13.

14. www.moe.gov.cn, 14/6/2020;

https://laodong.vn/xa-hoi/cac-tinh-mien-giam-ha-noi-lai-lien-tuc-tang-

15.

hoc-phi-771045.ldo, truy cập ngày 10/12/2019;

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/tap-doan-vingroup/-

16.

/2018/820737/ha-noi-phat-trien-he-thong-y-te-co-so-trong-tinh-hinh-

moi.aspx, truy cập ngày 30/9/2022;

https://quochoi.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.a

17.

spx?UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=36843, truy cập

ngày 18/9/2022;

https://baothanhhoa.vn/y-te-suc-khoe/bat-cap-trong-thuc-hien-de-an-dau-

18.

tu-xa-hoi-hoa-y-te-tuyen-xa/170659.htm, truy cập ngày 1/11/2022;

https://nhadat.tuoitre.vn/von-tu-nhan-don-dap-vao-du-an-nha-o-xa-hoi-

19.

nha-o-cong-nhan-20220415090637594.htm, truy cập ngày 15/4/2022;

https://moc.gov.vn/vn/tin-tuc/1173/70357/tiep-tuc-hoan-thien-the-che-

20.

day-manh-phat-trien-nha-o-xa-hoi.aspx, truy cập ngày 1/12/2022;

https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/kien-truc-nao-cho-nguoi-

21.

khuyet-tat.html, truy cập ngày 25/02/2021;

https://thanhnien.vn/lo-bat-cap-trong-co-che-tao-quy-dat-xay-nha-o-xa-

22.

hoi-tai-ha-noi-post1412920.html, truy cập ngày 1/11/2022;

https://dttc.sggp.org.vn/de-giam-ngheo-tu-12-14-ho-gia-dinh-

23.

post5491.html, truy cập ngày 3/9/2022;

https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Bat-dong-san/988002/phat-trien-nha-o-

24.

gia-re-tim-giai-phap-hieu-qua, truy cập ngày 3/9/2022;

https://www.sahrc.org.za/home/21/files/SAHRC%20Water%20and%20Sanitation%20re

25.

vised%20pamphlet%2020%20March%202018.pdf; truy cập ngày 15/11/2022;

https://baodantoc.vn/thay-gi-tu-cac-cong-trinh-nuoc-sinh-hoat-tap-trung-

26.

o-tay-nguyen-hang-tram-cong-trinh-khong-hieu-qua-bai-1-

1623050902607.htm, truy cập ngày 12/9/2022;

https://amp.baodautu.vn/phat-trien-cong-nghe-thong-tin-muon-dot-pha-

27.

phai-chiu-chi-d130405.html, truy cập ngày 12/3/2022;

https://orihome.com.vn/dichvu/banggia?gclid=EAIaIQobChMIbzJguS8_QI

28.

VYtxMAh3izwAAEAAYASABEgIwlPD_BwE, truy cập ngày 12/1/2023;

https://fdcmedical.vn/dich-vu-duong-lao, truy cập ngày 12/1/2023;

29.

https://www.jica.go.jp/jica-ri/IFIC_and_JBICI-

30.

Studies/english/publications/reports/study/topical/spd/pdf/chapter1.pdf