HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỮU MẠNH
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2021
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỮU MẠNH
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 9 38 01 06
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. TRƯƠNG HỒ HẢI
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Hữu Mạnh
MỤC LỤC
Trang
1
8
MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến thực hiện pháp luật về
bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
8 28 29
32
1.2. Nhận xét chung và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu 1.3. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu Chương 2: LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I 2.1. Khái niệm và đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
32
2.2. Nội dung pháp luật và các hình thức thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
48
2.3. Các tiêu chí đánh giá và các điều kiện để thực hiện pháp luật về bảo đảm
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
53
62
72
2.4. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị ở một số quốc gia và những giá trị tham khảo cho Việt Nam Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM 3.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
72
3.2. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam
89
108
127
3.3. Nguyên nhân kết quả đạt được và những hạn chế trong thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam Chương 4: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM 4.1. Quan điểm, phương hướng nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật bảo đảm
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
127
4.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
KẾT LUẬN CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
136 152 156 157 172
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADPL
Áp dụng pháp luật
ATXH
An toàn xã hội
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CAND
Công an nhân dân
CHPL
Chấp hành pháp luật
CSND
Cảnh sát nhân dân
ĐT
Đô thị
HĐND
Hội đồng nhân dân
KT-XH
Kinh tế - xã hội
NĐ
Nghị định
QĐ
Quyết định
QH
Quốc hội
SDPL
Sử dụng pháp luật
TAND
Toà án nhân dân
THPL
Thực hiện pháp luật
TTATXH
Trật tự an toàn xã hội
TTPL
Tuân thủ pháp luật
UBND
Uỷ ban nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Chỉ số tội phạm một số đô thị loại I Việt Nam năm 2020
72
Bảng 3.2: Số lượng tội phạm và vi phạm pháp luật về TTATXH của một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020
73
Bảng 3.3: Chỉ số tội phạm ở Việt Nam năm 2012-2020
73
Bảng 3.4: Chỉ số xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật ở các đô thị loại I giai đoạn 2012-2019 (theo thang điểm 10)
76
Bảng 3.5: Tỷ lệ số đơn vị hành chính cơ sở có tủ sách pháp luật trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam
78
Bảng 3.6: Các vi phạm pháp luật trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020
84
Bảng 3.7: Chỉ số an toàn xã hội một số đô thị loại I Việt Nam năm 2020
86
Bảng 3.8: Bảng so sánh mức độ an toàn tại một số đô thị loại I và đô thị đặc biệt
87
Bảng 3.9: Chỉ số an toàn xã hội Việt Nam năm 2012-2020
87
Bảng 3.10: Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam
88
Bảng 3.11: Số vụ và đối tượng phạm tội so với tổng số vụ và đối tượng vi phạm pháp luật trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020
89
Bảng 3.12: Tỷ lệ doanh nghiệp bị mất trộm tài sản những năm gần đây
97
Bảng 3.13: Tỷ lệ người bị vòi tiền tố cáo và mức tiền đòi hối lộ mà người dân bắt đầu tố cáo
101
Bảng 3.14: Số vụ và đối tượng vi phạm pháp luật về môi trường và ma tuý trên địa bàn Đà Nẵng, Huế, Hạ Long, Đà Lạt và Biên Hoà
104
Bảng 3.15: So sánh mức độ an toàn đối với cuộc sống của người dân tại một số đô thị loại I và đô thị đặc biệt năm 2019
106
Bảng 3.16: Chỉ số trật tự an toàn xã hội giai đoạn 2012-2020
107
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Chỉ số tội phạm ở Singapore, Tokyo và Seul
63
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ tội phạm trên 100000 dân ở Singapore và Seul
64
Biểu đồ 2.3: Chỉ số an toàn ở Singapore, Tokyo và Seul
67
Biểu đồ 3.1: Chỉ số chất lượng các văn bản pháp quy của Việt Nam
77
Biểu đồ 3.2: Số vụ và số đối tượng phạm tội bị phát hiện, xử lý trên địa bàn 13 đô thị loại I giai đoạn 2012-2020
90
Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ doanh nghiệp ngành dệt may không chấp hành các quy định pháp luật
94
Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ nhà máy dệt may không chấp hành các quy định liên quan đến phòng chống cháy, nổ
95
Biểu đồ 3.5: Số vụ vi phạm pháp luật về môi trường bị phát hiện xử lý trên địa bàn 13 đô thị loại I giai đoạn 2012-2020
96
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Trật tự an toàn xã hội (TTATXH) là trạng thái mong muốn của bất kỳ xã hội
nào. Ở nước ta, ngay từ những năm đầu tiên thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến công tác giữ gìn an ninh trật tự.
Sắc lệnh số 23/NV ngày 21/02/1946 đã xác định nhiệm vụ của công an là: bảo vệ
“an toàn quốc gia” và giữ gìn “trị an, trật tự” (khoản 1, 2, Điều thứ hai). Sau này,
Bộ Chính trị đưa ra nhiều Nghị quyết nhấn mạnh đến việc giữ gìn TTATXH như:
Nghị quyết số 31/BCT của Bộ Chính trị, về “Nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị và
bảo đảm TTATXH trong tình hình mới” (năm 1980); Hội nghị Trung ương 8 khóa
XI ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới (năm 2013). Điều đó cho thấy, bảo đảm TTATXH là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của của các cấp chính quyền và các cơ quan chức năng, tuy
nhiên, đây là một trong những nhiệm vụ khó khăn và phức tạp bởi mốn đạt đến
trạng thái xã hội ổn định cần không chỉ hệ thống quy phạm pháp luật hoàn thiện mà
còn là sự thực hiện pháp luật (THPL) một cách nghiêm minh với các quy chuẩn đạo
đức xã hội được tuân thủ nghiêm ngặt... Có thể nói thực hiện pháp luật là một trong
các yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tình hình TTATXH của bất cứ một địa phương
hay quốc gia nào.
Trong những năm qua, người dân và các tổ chức tuân thủ, chấp hành các quy
định pháp luật nói chung, pháp luật liên quan đến đảm bảo TTATXH nói riêng
tương đối tốt; đồng thời các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã và đang thực hiện
tương đối đầy đủ chức năng và thẩm quyền của mình trong đảm bảo TTATXH, qua
đó góp phần vào bảm đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam nói
riêng và gìn giữ TTATXH của cả đất nước nói chung, tạo môi trường hoà bình, ổn
định, trật tự an toàn cho các chủ thể trong xã hội, thúc đẩy phát triển KT-XH.
Tuy nhiên, trong quá trình đô thi hoá mạnh mẽ như hiện nay ở nước ta, nhiều
vấn đề KT-XH nảy sinh ảnh hưởng đến TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I điều
này ảnh hưởng trực tiếp đến việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô
thị loại I ở Việt Nam hiện nay. Những năm gần đây số vụ và số đối tượng vi phạm
pháp luật trên địa bàn các đô thị loại I có diễn biến phức tạp, một số vụ và số đối
2
tượng vi phạm pháp luật về TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, như Hải Phòng, Đà
Nẵng, Cần Thơ, Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn, Thái Nguyên, Vũng Tàu, Hạ
Long, Biên Hòa, Mỹ Tho, Thanh Hoá, v.v.. có chiều hướng gia tăng trong giai đoạn
2014-2020; bên cạnh đó tỷ lệ người và tổ chức trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt
Nam không tuân thủ chấp hành các quy định pháp luật về TTATXH chiếm tỷ lệ
tương đối cao, đặc biệt là các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực ma túy, mại
dâm, lô đề, cờ bạc hay thực hành mê tín dị đoan, v.v...; tình hình tội phạm về
TTATXH vẫn còn diễn biến phức tạp, số vụ và số đối tượng vi phạm pháp luật hình
sự luôn duy trì ở mức cao, những năm gần đây, mỗi năm cả nước phát hiện trung
bình trên hàng chục nghìn vụ phạm tội các loại, trong đó khoảng 70% các vụ liên
quan đến các vi phạm về TTATXH, chủ yếu tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn
như: Hải Phòng, Cần Thơ, v.v.. Các đối tượng này hoạt động rộng khắp các vùng
trong cả nước, nhưng tập trung chủ yếu ở 5 thành phố lớn trực thuộc Trung ương và
18 tỉnh. Riêng tội phạm hình sự tại 5 thành phố lớn chiếm khoảng 22%, chiếm gần
1/4 số vụ việc trong cả nước (chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2018) [114].
Dự báo trong thời gian tới, nếu không có giải pháp tốt thì tình hình vi phạm
pháp luật, đặc biệt các tội phạm liên quan đến TTATXH ở các đô thị loại I ngày
càng phát triển với diễn biến ngày càng phức tạp, “tuy đã giảm về số vụ, nhưng tính
chất rất nghiêm trọng, có lúc, có nơi gây bất an, lo lắng và bất an trong nhân dân”
114], gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân và sự phát triển KT-XH của
các đô thị nói riêng, của cả nước nói chung. Vì vậy, thúc đẩy và nâng cao chất
lượng THPL về TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I nhằm phòng, chống các
hành vi phạm pháp luật liên quan đến TTATXH của nước nói chung và trên địa bàn
các đô thị loại I nói riêng là vấn đề cấp thiết luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm
thực hiện.
Từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn nghiên cứu đề tài “Thực hiện
pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
hiện nay” làm luận án tiến sĩ ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
Những phát hiện mới của luận án sẽ đáp ứng yêu cầu cấp thiết trên cả phương diện
lý luận và thực tiễn về THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I ở
Việt Nam hiện nay.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Luận án xây dựng cơ sở lý luận THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô
thị loại I, từ đó luận án phân tích, đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong thời gian qua và đề xuất quan điểm,
phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng THPL về đảm bảo TTATXH trên
địa bàn đô thị loại I ở nước ta trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn
THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, từ đó xác định những vấn đề
luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
- Làm rõ cơ sở lý luận về việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị
loại I ở Việt Nam.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô
thị loại I ở nước ta, từ đó rút ra những nhận xét đánh giá về kết quả đạt được; hạn
chế trong việc THPL về bảo đảm TTATXH địa bàn đô thị loại I ở nước ta.
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng
THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong thời
gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn THPL
về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: luận án tập trung đánh giá việc THPL về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I, bao gồm bốn hình thức: tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp
dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.
- Về không gian: Luận án nghiên cứu vấn đề THPL về bảo đảm TTATXH trên
địa bàn của 22 đô thị loại I của Việt Nam, trong đó, luận án tập trung khảo sát thực
tiễn THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn của các các đô thị điển hình sau: (1)
4
các đô thị là thành phố trực thuộc trung ương (Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ); (2)
các đô thị ở các tỉnh ở vùng Duyên hải Miền Trung và Tây Nguyên (Thanh Hoá,
Huế, Vinh, Đà Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột); (3) các đô thị ở các
tỉnh Miền Bắc (Thái Nguyên, Nam Định, Việt Trì, Hạ Long); (4) các đô thị ở các
tỉnh Miền Nam (Vũng Tàu, Biên Hoà, Mỹ Tho).
- Về thời gian: Luận án đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH tại
các đô thị loại I của Việt Nam từ 2012 đến 2020 và đề xuất giải pháp đến năm 2030.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án sử dụng phương pháp luận của phép duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan
điểm, nguyên tắc của Đảng, Nhà nước về THPL và bảo đảm TTATXH.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
4.2.1. Phương pháp lịch sử - logic
Phương pháp này được NCS sử dụng để phân tích, đánh giá thực trạng THPL
về bảo đảm TTATXH ở đô thị loại I Việt Nam trong tiến trình phát triển KT-XH và
đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô
thị loại I ở nước ta trong thời gian tới.
4.2.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
NCS sử dụng phương pháp này để làm rõ cơ sở lý luận về THPL về bảo đảm
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I và phân tích, đánh giá thực trạng THPL về bảo
đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I Việt Nam trong thời gian qua để chỉ rõ
những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó; từ
đó đề xuất giải pháp thúc đẩy và nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I Việt Nam trong thời gian tới.
4.2.3. Phương pháp phân tích tài liệu
Luận án phân tích các tài liệu như sách, báo, tạp chí, các số liệu thống kê, báo
cáo của các cơ quan chức năng về tình hình vi phạm pháp luật; các báo cáo, đánh
giá việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của các nhân, tổ chức; việc THPL
của các cơ nhà nước nhằm phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài
5
4.2.4. Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia
NCS tham khảo các ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực luật học, trong
lĩnh vực hoạt động tư pháp như cán bộ công an, tòa án, viện kiểm sát hay cán bộ các
cơ quan quản lý hành chính nhằm tìm hiểu quan điểm của họ về hệ thống pháp luật
về bảo đảm TTATXH, cũng như thực tiễn THPLvề bảo đảm TTATXH trên địa bàn
các đô thị loại I của các cơ quan này.
4.2.5. Phương pháp so sánh, thống kê
NCS sử dụng các phương pháp này để thống kê các số liệu THPL về bảo đảm
TTATXH của các chủ thể trên địa bàn độ thị loại I trong thời gian qua, từ đó so
sánh sự khác biệt giữa các năm, cũng như giữa các địa bàn các đô thị loại I làm cơ
sở để đánh gia kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế trong THPL ở các địa bàn
này trong thời gian qua.
4.2.6. Phương pháp nghiên cứu điển hình
Nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp này để khảo sát đánh giá việc THPL về
bảo đảm TTATXH ở một số địa bàn đô thị loại I, như các thành phố trực thuộc
trung ương và một số tỉnh trong tổng số 22 đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay để làm
cơ sở khái quát thực tiễn THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I
nước ta thời gian qua; đồng thời luận án còn phân tích một số vụ vi phạm pháp luật
điển hình để làm rõ những nhận xét, đánh giá về những hạn chế trong THPL về bảo
đảm TTATXH ở một số địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam thời gian qua.
4.2.7. Phương pháp dự báo khoa học
Nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp này để dự báo tình hình THPL về bảo
đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I nước ta trong thời gian tới, đặc biệt là ý
thức pháp luật của các chủ thể và tình hình vi phạm pháp luật TTATXH trên địa
bàn đô thị loại I trong thời gian tới làm cơ sở đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTAXH trên địa bàn đô thị loại I thời gian
tới ở nước ta.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận án
Luận án là công trình khoa học có những đóng góp quan trọng cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
6
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện và làm
phong phú thêm lý luận THPL về đảm bảo TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ thực tiễn
THPL về đảm bảo TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay; đồng
thời những quan điểm, giải pháp được đề xuất trong luận án sẽ là những tham vấn
giúp các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương ở các đô thị loại I có thể
nghiên cứu, áp dụng vào thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của đề
tài luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu
giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức THPL
về đảm bảo TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam.
6. Các điểm mới của đề tài
So với các công trình nghiên cứu liên quan đến THPL về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I, kết quả nghiên cứu của luận án có những điểm mới sau:
- Luận án đã bổ sung hoàn thiện các vấn đề lý luận liên quan đến THPL về
bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, trong đó làm rõ nội hàm khái niệm và
nội dung của THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I; và các tiêu chí
đánh giá hoạt động THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I và các
điều kiện để bảo đảm THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.
- Luận án đã chỉ rõ trong những năm qua, việc THPL về bảo đảm TTATXH
các nhóm chủ thể khác nhau trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam thực hiện tương
đối tốt, tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận người dân, doanh nghiệp, tổ chức và cán bộ,
công chức chưa thực hiện tốt các quy định pháp luật, từ đó đã gây ra những vụ việc
làm mất TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở nước ta.
- Luận án đã luận giải và đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm
thúc đẩy và nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị
loại I ở nước ta trong thời gian tới, đặc biệt trong đó chúng trọng đến hoàn thiên các
quy định pháp luật về TTATXH và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật về TTATXH.
7
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các công trình đã công bố của tác giả liên quan
đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được cấu trúc thành
4 chương, 12 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật
về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I và những vấn đề đặt ra
Chương 2: Lý luận thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên
địa bàn đô thị loại I
Chương 3: Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
Chương 4: Quan điểm, phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng
thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở
Việt Nam
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN
ĐÔ THỊ LOẠI I
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận thực hiện pháp
luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
Trong nhiều năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc THPL trên
nhiều khía cạnh và giác độ khác nhau, tuy nhiên các công trình nghiên cứu cơ bản
thống nhất về nội hàm và các hình thức thực hiện pháp luật.
Các tác giả của Trường Đại học Luật Hà Nội trong “Giáo trình lý luận nhà
nước và pháp luật” (2009) [31], Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội trong “Giáo
trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật” (2007) [58], Viện Nhà nước và Pháp
luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong công trình “Lý luận chung về
nhà nước và pháp luật, tập 1” (2006); Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu trong tác
phẩm “Lý luận nhà nước và pháp luật”; công trình “Những vấn đề lý luận về thực
hiện pháp luật và áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay” do nhà xuất bản Hồng
Đức ấn hành năm 2018, v.v.. đã đề cập đến khái niệm cũng như các hình thức của
THPL. Theo đó khái niệm THPL đều được các tác giả xác định như là tổng hợp các
hoạt động có mục đích của các cơ quan, các tổ chức và các cá nhân nhằm đưa pháp
luật đi vào đời sống. Bốn hình thức cơ bản của THPL là: tuân thủ pháp luật; chấp
hành pháp luật; sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Ngoài ra, một số công trình khác nghiên cứu trực diện vào vấn đề thực hiện
pháp luật, như: “Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” do nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2009 trình bày một số vấn đề lý
luận chung về áp dụng pháp luật, những vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật trong một số lĩnh vực cụ thể như hình sự, dân sự, hành chính, đất
đai; “Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Đoan
9
do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2009 đã phân tích và làm rõ khái
niệm và mục đích của việc thực hiện pháp luật; áp dụng pháp luật; quy trình thực
hiện và áp dụng pháp luật, những bảo đảm thực hiện pháp luật; áp dụng pháp luật
tương tự.
Trên cơ sở lý luận chung về THPL, nhiều tác giả đã nghiên cứu việc THPL
trên các lĩnh vực cụ thể, như: tác giả Phạm Hoài Thu trong luận án “Thực hiện pháp
luật bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”
(2020), Nguyễn Thị Định trong luận án “Thực hiện pháp luật về tôn giáo tại các
tỉnh khu vực Tây Nguyên” (2020), Lê Minh Đức trong luận án “Thực hiện pháp luật
về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện
nay” (2020), Vũ Ngọc Hà trong luận án “Thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” (2019), Phạm Thị
Ngọc Dung trong luận án “Tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở
Việt Nam hiện nay” (2017), Lê Thị Thúy Bình trong luận án tiến sĩ luật học “Thực
hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam” (2016), Nguyễn Trần Điện
trong luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề
ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng Việt Nam” (2016), Đỗ Thị Thơm trong luận án
tiến sĩ luật học “Thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với
người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay” (2015),
Trần Tiến Hải trong luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện pháp luật về đấu giá quyền
sử dụng đất ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay” (2015), Nguyễn Văn Linh
trong luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính
của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay” (2015), Nguyễn Hồng
Chuyên trong luận án “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2014), v.v.. Với cách tiếp
cận khái niệm và các hình thức của THPL như trên các công trình nghiên cứu về
THPL đều hướng đến mô tả, đánh giá việc THPL trên một lĩnh vực nhất định tại địa
bàn cụ thể trong đời sống xã hội. Đặc biệt trong đó, vấn đề áp dụng pháp luật được
các công trình được nghiên cứu và phân tích tương đối kỹ, đây là hình thức THPL
trong đó nhà nước, thông qua cơ quan, cán bộ nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ
chức xã hội được nhà nước trao quyền, tổ chức cho các chủ thể thực hiện quyền
10
hoặc nghĩa vụ do pháp luật quy định hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của
pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt quan hệ
pháp luật. Vì thế, để đánh giá việc áp dụng pháp luật, một số nghiên cứu căn cứ vào
bản án do tòa án các cấp ban hành hoặc quyết định xử lý vi phạm hành chính của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đó chất lượng áp dụng pháp luật được đánh giá
thông qua các tiêu chí như: Xét xử thấu tình đạt lý; Việc áp dụng pháp luật phải
thực sự dân chủ, minh bạch, bảo vệ các quyền lợi chính đáng hợp pháp của công
dân; Việc áp dụng pháp luật phải góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân
và Việc áp dụng pháp luật phải góp phần tích cực vào việc thực hiện đường lối
chính sách của Đảng và nhà nước [62].
Như thế, các công trình này đều phân tích, đánh giá thực trạng THPL theo các
hình thức của việc THPL như: tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật.
Tuy nhiên việc đánh giá từng loại hình THPL hay việc đánh giá sự tác động qua lại
của các loại hình THPL cho đến nay vẫn chưa được các tác giả chú trọng phân tích,
đánh giá trong từng lĩnh vực nghiên cứu ở Việt Nam.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật
Thứ nhất, các công trình đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH trên
địa bàn độ thị loại I một cách tổng thể.
Cuốn sách “Thực trạng và phương sách nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
an toàn thực phẩm của một số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại Hà Nội” của
tác giả Cao Thị Hoa (2016) đã phân tích, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật an
toàn thực phẩm của một số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại Hà Nội. Đánh giá
hiệu quả giải pháp can thiệp nâng cao việc thực thi pháp luật về an toàn thực phẩm
của một số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại địa bàn trên thành phố Hà Nội.
Một số công trình khác ở Việt Nam đã đề cập đến hoạt động quản lý nhà nước
về TTATXH, đây là hoạt động THPL, trong đó chủ yếu tập trung vào hình thức
tuân thủ, thi hành và áp dụng pháp luật. Như luận án tiến sĩ “Quản lý nhà nước về
trật tự an toàn xã hội theo chức năng của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về
trật tự xã hội Công an tỉnh Ninh Bình” của tác giả Đinh Ngọc Khoa (2020) đã
nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện công tác quản lý nhà nước về
11
TTATXH theo chức năng của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã
hội nói chung, quản lý nhà nước về TTATXH theo chức năng của lực lượng Cảnh
sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Ninh Bình nói riêng; luận án
“Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội theo chức năng của lực lượng Cảnh
sát cơ động” của tác giả Nguyễn Văn Mạnh (2018) bổ sung, góp phần hoàn thiện lý
luận về quản lý nhà nước về TTATXH theo chức năng của lực lượng Cảnh sát cơ
động; làm phong phú thêm hệ thống lý luận của ngành Công an trong bảo vệ an
ninh quốc gia, bảo đảm TTATXH đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung;
luận án “Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội của lực
lượng công an nhân dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Phạm Hùng Sơn
(2017) đã khái quát được những vấn đề cơ bản thuộc lý luận về quản lý nhà nước
nói chung, quản lý nhà nước về TTATXH nói riêng như: khái niệm, nội dung, các
quan điểm cần quán triệt, các phương pháp tiến hành, chủ thể quản lý. Luận án đã
làm rõ vai trò, vị trí chính quyền cấp cơ sở, đặc biệt là nhiệm vụ, chức năng Công
an tỉnh trong quản lý nhà nước về TTATXH tại địa bàn. Luận án đã khái quát,
lược sử quá trình hình thành, phát triển và những đặc điểm của tỉnh Bắc Ninh có
liên quan, tác động và ảnh hưởng đến hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà
nước về TTATXH của hệ thống chính trị tỉnh nói chung và trực tiếp là Công an
tỉnh nói riêng; luận án “Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên
địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ” của tác giả Đào Xuân Thành; luận án “Hoạt
động của lực lượng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội trong phòng
ngừa tội phạm về ma túy trên địa bàn các tỉnh, thành phố miền Đông Nam bộ”
của tác giả Nguyễn Duy Hiệu; luận án “Quản lý cư trú đối với người nước ngoài
trên địa bàn thành phố Hà Nội theo chức năng của lực lượng Cảnh sát Quản lý
hành chính về trật tự xã hội” của tác giả Trương Thị Hồng Nhung; v.v.. Các công
trình đã phân tích, đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn
các tỉnh ở Việt Nam, đặc biệt việc thực hiện chức năng này của lực lượng an ninh
chuyên trách, qua đó tác giả các công trình này cho thấy, để thực hiện tốt pháp luật
về bảo đảm TTATXH, các cơ quan chức năng phải phối hợp chặt chẽ với nhau
trong đó lực lượng công an đóng vai trò nòng cốt, đồng thời phải phát huy ý thức
chấp hành pháp luật của cá nhân, tổ chức.
12
Thứ hai, các công trình đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH trên
địa bàn các độ thị loại I theo bốn hình thức THPL.
Một là, các công trình đề cập đến việc tuân thủ pháp luật.
Tuân thủ pháp luật thường được hiểu là việc các chủ thể pháp luật kiềm
chế không thực hiện điều pháp luật cấm. Nghiên cứu về việc tuân thủ pháp luật ở
Việt Nam trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu sau:
Liên quan đến sự gia tăng của tình hình tội phạm, Tác giả Phạm Thị Thoa
trong luận án “Điều tra tra tội phạm cướp giật tài sản theo chức năng của lực lượng
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội”, chỉ ra rằng: Cướp giật là một trong
những vấn nạn tại các đô thị lớn, đặc biệt là TP Hồ Chí Minh trong thời gian vừa
qua [96]. Với các số liệu về tội phạm cướp giật tài sản, đặc điểm hình sự của tội
phạm cướp giật tài sản tác giả Phạm thị Thoa chỉ cho chúng ta thấy rằng việc tuân
thủ pháp luật của một bộ phận người dân vẫn chưa cao. Cùng quan điểm với tác giả
Phạm Thị Thoa nhiều công trình nghiên cứu cũng chỉ cho chúng ta thấy rằng các
loại tội phạm không ngừng tăng lên trong những năm qua, như tác giả Dương Thị
Phương Nam chỉ ra rằng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh số lượng các vụ phạm tội giết
người, cố ý gây thương tích có xu hướng gia tăng. Ngoài các vụ giết người mang
tính nhất thời thì còn tồn tại những vụ giết người do băng nhóm thanh toán lẫn nhau
[68, tr.35]. Bên cạnh đó các tội danh liên quan đến xâm hại tình dục, đặc biệt xâm
hại tình dục trẻ em xuất hiện ngày càng nhiều, các tội liên quan đến trật tự xã hội có
nhiều diễn biến phức tạp [68, tr.36].
Báo cáo của Bộ Công an - Thành ủy - UBND TP HCM (2015), chỉ ra rằng các
vụ phạm pháp hình sự có xu hướng phát triển trên đại bàn toàn quốc. Tổ chức Minh
bạch thế giới đánh giá tình trạng tham nhũng ở Việt Nam đang diễn ra với mức
nghiêm trọng hơn. Các nghiên cứu về tham những chỉ ra rằng nếu trước đây tham
nhũng chủ yếu ở lĩnh vực kinh tế thì hiện nay tình trạng đã phổ biến ngay cả trong
các lĩnh vực được coi là đạo lý như giáo dục, y tế, thực hiện chính sách xã hội,
phòng chống dịch bệnh và cả trong các cơ quan bảo vệ pháp luật như tòa án, công
an, viện kiểm sát và tham nhũng cả ở các cơ quan có chức năng phòng chống tham
nhũng [89]. Cùng với tội phạm, các tệ nạn xã hội cũng có diễn biến phức tạp trên
13
nhiều đại bàn. Nghiên cứu của tác giả Trần Đại Quang và các cộng sự (2015) chỉ ra
rằng tình trạng mại dâm, nghiện ma túy và cờ bạc đang diễn ra khá phổ biến.
Như vậy, các nghiên cứu cho thấy sự phát triển về quy mô và tính chất của các
loại hình tội phạm, tệ nạn xã hội tại nhiều địa bàn trong cả nước những năm qua cho
chúng ta thấy khía cạnh của sự tuân thủ pháp luật của người dân. Tuy nhiên các
nghiên cứu mới chỉ cho chúng ta thấy được quy mô, tính chất của tội phạm mà chưa
thấy hết các chiều cạnh để có thể đánh giá đầy đủ mức độ tuân thủ pháp luật của
người dân, do đó cần phải có những đánh giá một cách rõ ràng và cụ thể hơn về
mức độ tuân thủ pháp luật của người dân tại các địa bàn trên nhiều lĩnh vực khác
nhau của cuộc sống.
Cho đến nay phần lớn các công trình mới chỉ đánh giá một cách tương đối
khái quát mà chưa chỉ ra cụ thể về mức độ tuân thủ pháp luật của các nhóm dân cư
khác nhau trên các địa bàn khác nhau, trong các lĩnh vực khác nhau. Điều này đòi
hỏi phải có được các số liệu thống kê chi tiết cụ thể về mức độ vi phạm pháp luật
của các nhóm dân cư trên từng loại địa bàn, trong từng lĩnh vực cụ thể. Đây là một
thách thức với các nhà nghiên cứu bởi không dễ dàng tiếp cận được với nguồn số
liệu này trong bối cảnh khi mà các số liệu về tội phạm đặc trưng, loại hình tội phạm
ít được công khai, mặt khác, chúng ta không có các điều tra về tình hình tội phạm
ẩn, điều này gây khó trong đánh giá chính xác mức độ tuân thủ pháp luật của các
nhóm dân cư thông qua các số liệu về tội phạm và tệ nạn xã hội.
Hai là, các công trình nghiên cứu liên quan đến chấp hành pháp luật.
Chấp hành pháp luật là hình thức của việc THPL trong đó các chủ thể pháp
luật thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Việc chấp
hành pháp luật có thể được thực hiện thông qua ý thức tự giác của các chủ thể pháp
luật nhưng nó cũng được thực hiện thông qua biện pháp cưỡng chế của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Tác giả Dương Thị Phương Nam (2014) chỉ ra rằng vẫn còn
tình trạng người dân chưa tuân thủ, chấp hành pháp luật. Tình trạng chống người thi
hành công vu ̣ có chiều hướng gia tăng. Các hành vi chống đối thường là chống đối
việc thi hành pháp luật của lực lượng cảnh sát điều tra, cảnh sát giao thông, kiểm
lâm, công an xã. Kết luận của Dương Thị Phương Nam chỉ cho chúng ta thấy rằng
cần phải có số liệu thống kê so sánh để tiếp tục đánh giá về tình trạng, nguyên nhân
14
của các hành vi chống người thi hành công vụ. Tại sao việc chống người thi hành
công vụ lại tập trung vào việc thi hành công vụ của một số lực lượng, điều này do
các đối tượng liên quan hay do tính chất của sự việc hay bắt nguồn từ quá trình xử
lý vấn đề của lực lượng chức năng?
Tuy nhiên để đánh giá được thực trạng chấp hành pháp luật của chủ thể pháp
luật là việc làm tương đối khó khăn bởi công việc này cần có nhiều dữ liệu liên
quan đến việc các chủ thể pháp luật thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình một
cách tự nguyện hay cưỡng bức. Do đó hiện nay còn rất ít công trình nghiên cứu có
thể đưa ra được các số liệu, dẫn chứng một cách thuyết phục để chỉ ra thực trạng
chấp hành pháp luật của cá nhân và tổ chức.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng pháp luật.
Sử dụng pháp luật thường được hiểu là hình thức THPL trong đó các chủ thể
pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình do pháp luật quy định hoặc cho phép.
Việc sử dụng pháp luật liên quan đến việc đảm bảo quyền và tự do pháp lý của các
cá nhân và tổ chức, có nghĩa là nó liên quan đến việc thực hiện những hành vi mà
pháp luật cho phép chủ thể thực hiện. Khác với hình thức chấp hành pháp luật có
thể được thực hiện một cách tự nguyện hay cưỡng chế thì hình thức sử dụng pháp
luật, các chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện tuỳ theo ý chí
của mình.
Cho đến nay, không có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá mức độ sử dụng
pháp luật của các cá nhân và tổ chức trong việc bảo vệ quyền và tự do pháp lý của
mình. Do vậy đây vẫn là một khoảng trống cần có nghiên cứu nhằm tìm hiểu mức
độ sử dụng pháp luật của các nhóm xã hội trong các lĩnh vực khác nhau, ở các vùng
miền khác nhau.
Thứ tư, các công trình nghiên cứu liên quan đến áp dụng pháp luật.
Công trình “Áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
xuất, nhập cảnh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long” của tác giả Nguyễn Việt Thanh và các
cộng sự do nhà xuất bản Lý luận Chính trị ấn hành năm 2020 đã phân tích, trình bày
lý luận áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xuất, nhập
cảnh. Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng việc áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực xuất, nhập cảnh hiện nay tại tỉnh Vĩnh Long; từ đó đề
15
xuất những giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xuất, nhập cảnh trên phạm vi cả
nước nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng.
Một số tác giả khác, như tác giả Dương Văn Thắng, trong luận án tiễn sĩ “Áp
dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án quân sự ở Việt
Nam hiện nay” (2017) đã phân tích, trình bày cơ sở lý luận, tìm hiểu thực trạng và
đề xuất giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
của toà án quân sự ở Việt Nam; tác giả Lê Văn Thành, trong luận án tiến sĩ “Áp
dụng pháp luật trong quản lý nhà nước về đất đai của Uỷ ban nhân dân ở thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay” (2012) đã làm rõ cơ sở lý luận của việc áp dụng pháp
luật trong quản lý nhà nước về đất đai của Uỷ ban nhân dân. Đánh giá thực trạng áp
dụng pháp luật trong quản lý nhà nước về đất đai của Uỷ ban nhân dân Tp. Hồ Chí
Minh, trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm và giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng
pháp luật trong quản lý nhà nước về đất đai của Uỷ ban nhân dân ở thành phố Hồ
Chí Minh; tác giả Đàm Cảnh Long trong bài viết “Hoạt động áp dụng pháp luật nội
dung trong giải quyết các khiếu kiện hành chính ở Việt Nam. Thực trạng và giải
pháp” (2012) đã đánh giá hình thức áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án
hành chính thông qua tỷ lệ các bản hành chính của Tòa án các cấp bị hủy, bị cải sửa.
Theo đó, tác giả này chỉ ra rằng chất lượng của việc áp dụng pháp luật trong xử lý
vụ án hành chính ở Việt Nam chưa cao thể hiện qua tỷ lệ các bản hành chính của
tòa án các cấp bị hủy, bị cải sửa còn cao. Bên cạnh việc vi phạm các quy định tố
tụng hành chính, thì tình trạng các tòa án ra các bản án hành chính không đúng quy
định của pháp luật cũng còn nhiều [112]. Theo tác giả này tỷ lệ các vụ án hành
chính đã xét xử bị tòa án cấp trên hủy hoặc sửa vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể và xảy ra ở
hầu hết các loại khiếu kiện, trong đó nhiều nhất là các khiếu kiện đối với quyết định
hành chính, hành vi hành chính về quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai,
xử phạt vi phạm hành chính và quản lý nhà nước về thuế.
Trong lĩnh vực đảm bảo TTAXH, đặc biệt lĩnh vực an toàn giao thông, một số
tác giả, như: Trần Long Nhi trong Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật hình sự Việt
Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên đại bàn tỉnh Đồng
Tháp” (2015), Nguyễn Thanh Hải trong luận văn thạc sĩ “Tội gây rối trật tự công
16
cộng trong luật hình sự Việt Nam”(2010), Bùi Quang Trung trong luận văn thạc sĩ
“Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt
Nam” (2011), v.v.. đã chỉ rõ việc áp dụng các quy định pháp luật hiện hành để xử lý
hành vi gây rối trật tự công cộng trên địa bàn một số tỉnh chưa được thống nhất, đôi
khi còn có sự nhầm lẫm với các tội danh khác như: còn có trường hợp chưa rõ ràng
giữa phạm tội gây rối trật tự công cộng hay đồng phạm tội giết người hay sự nhầm
lẫn giữa tội gây rối trật tự công cộng với tội đua xe trái phép. Một số trường hợp
định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội có liên quan đến tội gây rối trật tự
công cộng còn chưa chính xác; trong quá trình xét xử các vụ án liên quan đến vi
phạm pháp luật giao thông đường bộ, các cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định
không đúng quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra cũng như lỗi
của người vi phạm (nhầm lẫn giữa nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tai nạn; giữa
lỗi hành chính và lỗi hình sự) nên đã truy cứu trách nhiệm hình sự oan đối với
người vi phạm. Một số tác giả cũng chỉ ra rằng các cơ quan tiến hành tố tụng
thường có quan điểm rất khác nhau về việc xử lý đối với các hành vi này cả trong trường hợp phương tiện giao thông đường bộ là ôtô cũng như xe máy. Do quan
điểm khác nhau về đường lối xử lý đối với các bị cáo trong tội xâm phạm trật tự an
toàn giao thông đường bộ, nên trong thực tiễn ở một số địa phương (hoặc một số
Tòa án trong cùng một địa phương) đã xử phạt rất nghiêm khắc đối với các bị cáo,
nhưng ngược lại ở một số địa phương (một số Tòa án) khác lại xử phạt quá nhẹ và
chủ yếu là phạt tù cho các bị cáo được hưởng án treo [110, tr.94]. Thực tế đó, có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng các cơ quan chức năng sai sót trong việc áp
dụng pháp luật, như: những sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh,
áp dụng hình phạt, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng [62]; việc đánh giá chứng
cứ không đầy đủ, khách quan, toàn diện; việc lựa chọn không đúng quy phạm pháp
luật phù hợp hay việc phân tích nội dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật cần áp
dụng. Đồng thời sai sót trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, còn do nhiều
thẩm phán không chú ý trong việc xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính
bị khiếu kiện; ngoài ra những thiếu sót trong việc nghiên cứu hồ sơ; việc hiểu không
đúng các quy định pháp luật hay việc xác định tư cách tố tụng chưa đúng, triệu tập
những người tham gia tố tụng chưa đầy đủ cũng là nhân tố dẫn đến chất lượng của
17
việc áp dụng quy định pháp luật chưa cao; đôi khi các cơ quan chức năng- Tòa án
lựa chọn chưa chính xác quy phạm pháp luật, viện dẫn các điều luật còn chưa đầy
đủ [73, tr.52]. Như vậy, các nghiên cứu cho chúng ta thấy rằng có nhiều các chiều
cạnh để có thể đánh giá chất lượng của việc áp dụng các quy định pháp luật. Ngoài
việc dựa vào các số liệu liên quan đến các bản án bị sửa đổi, bị hủy bỏ chúng ta cần
đánh giá chất lượng của các bản án thông qua các tiêu chí khác.
Bên cạnh đó chúng ta cũng cần có nghiên cứu đánh giá việc áp dụng pháp luật
của các cơ quan có thẩm quyền khác như Viện Kiểm sát, Công an. Cho đến nay
không có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá chất lượng của việc áp dụng các quy
định pháp luật của các cơ quan này.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu đề cập đến các điều kiện đảm bảo cho việc
thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
Việc thực hiện pháp luật liên quan đến nhiều chủ thể, trong những hoàn cảnh
và điều kiện rất đa dạng do vậy để thực hiện pháp luật đảm bảo TTATXH có hiệu
quả cần nhiều điều kiện từ: “điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá; đạo đức; phong
tục, tập quán, nghệ thuật, các loại quy tắc xã hội khác; yếu tố lợi ích; thói quen, nếp
nghĩ, lối sống; hệ thống chính sách, pháp luật; thái độ, cách thức phục vụ, thực thi
pháp luật của các cơ quan và cá nhân công quyền; khả năng tiếp cận pháp luật, tiếp
cận công lý; điều kiện và môi trường tự nhiên; địa lý; khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng;
kỹ thuật, khoa học và công nghệ; tâm sinh lý; tính cách; lối sống, lối tư duy, vv...
[85, tr.26-31]. Trong những năm qua có một số công trình nghiên cứu đề cập đến
các điều kiện, hay nhân tố ảnh hưởng đến việc THPL.
Tác giả Hoàng Thị Kim Quế (2015) chỉ ra rằng việc thực thi pháp luật của các
cơ quan công quyền cũng như là các phong tục, tập quán, luật lệ có tác động đến ý
thức và hành vi THPL của công dân. Bên cạnh đó tác giả này cũng chỉ ra rằng mức
độ rõ ràng, minh bạch, sự hài hòa, cân bằng các loại lợi ích trong các quy định pháp
luật cũng là một trong các yếu tố rất căn bản tác động đến việc thực hiện pháp luật
của công dân [85, tr.26-31]. Tuy nhiên hạn chế của công trình này là không chỉ ra
những bằng chứng thuyết phục để chứng minh sự tác động của từng nhóm nhân tố
này đến hành vi hay ý thức pháp luật của người dân. Các kết luận chỉ dừng lại ở
những nhận định mang tính phán đoán và suy luận do đó tính thuyết phục chưa cao.
18
Tác giả Đỗ Thị Oanh (2014) cũng chỉ ra các nhân tố tác động đến thực hiện
pháp luật bao gồm: (i) các yếu tố tác động bên trong, thứ nhất, trình độ văn hóa của
chủ thể pháp luật. Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến việc THPL; thứ hai, yếu tố
tâm lý của chủ thể thực hiện pháp luật; thứ ba, phong tục tập quán và lối sống; (ii)
các yếu tố bên ngoài bao gồm: thứ nhất, sự phát triển kinh tế xã hội; thứ hai, hệ
thống pháp luật; thứ ba, yếu tố chính trị; thứ tư, bộ máy nhà nước [75, tr.42].
Như vậy chúng ta thấy có nhiều nhóm nhân tố khác nhau tác động đến các
hình thức THPL, trong đó yếu tố hệ thống pháp luật là một trong các yếu tố quan
trọng được nhắc đến trong nhiều công trình nghiên cứu. Có một hệ thống pháp luật
hoàn thiện là điều kiện căn bản và tiên quyết ảnh hưởng trực tiếp đến việc tuân thủ,
chấp hành, áp dụng, sử dụng pháp luật của người dân và các cơ quan công quyền.
Trong những năm quá có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến mặt mạnh
hay những hạn chế của pháp luật về bảo đảm TTATXH.
1.1.3.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về bảo đảm trật
tự an toàn xã hội
Việc đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật thường được dựa trên
những tiêu chí nhất định. Tác giả Trần Quốc Toàn (2015), dựa trên các tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về TTATXH như: tính toàn diện, tính đồng
bộ thống nhất, tính khoa học, tính hiệu quả, tính ổn định, tính công khai minh bạch,
tính kịp thời [102]; tác giả Nguyễn Minh Đoan, (2009), đã nêu ra các tiêu chí đánh
giá chất lượng của hệ thống pháp luật cũng như các yêu cầu đối với việc nâng cao
chất lượng của hệ thống pháp luật. Theo đó chất lượng của hệ thống pháp luật được
đánh giá trên các tiêu chí như: Toàn diện và đồng bộ, luôn thống nhất, được ban
hành phù hợp, có khả năng thực hiện được [38]. Như vậy có thể thấy các công trình
nghiên cứu đã đề cập đến hệ thống các tiêu chí để đánh giá chất lượng của hệ thống
pháp luật. Dựa trên những tiêu chí này nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra những
hạn chế cơ bản của hệ thống pháp luật liên quan đến đảm bảo TTATXH như:
Thứ nhất, hạn chế của hệ thống pháp luật về lĩnh vực giữ gìn trật tự công cộng.
Nguyễn Ngọc Anh (2009), “Điều tra cơ bản thực trạng và nhu cầu xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực an ninh, trật tự đến năm 2020”, Dự án
Điều tra cơ bản, Vụ Pháp chế, Bộ Công an. Kết quả nghiên cứu đã chỉ rõ một số
19
vấn đề lý luận về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến an ninh trật
tự của nước ta. Trong đó Dự án đã đánh giá được thực trạng công tác xây dựng và
hoàn thiện quy phạm pháp lý về an ninh trật tự trong giai đoạn hiện nay; những
tồn tại và hạn chế, nhược điểm đồng thời nêu lên nguyên nhân của những tồn tại
hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân của những tồn tại đó. Dự án đánh giá tổng quát nhu
cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp lý về an ninh trật tự
đến 2020 và chỉ ra các yêu cầu nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy phạm
pháp lý nói trên.
Nguyễn Thanh Hải, (2010), Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự
Việt Nam, luận văn thạc sỹ khoa luật, đại học quốc gia Hà Nội, luận án đã đánh
giá các quy định pháp luật về tội gây rối trật tự công công trong luật hình sự cũng
như đánh giá việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến tội gây rối trật tự
công cộng. Luận án chỉ ra rằng tội gây rối trật tự công cộng có tính phổ biến - diễn
ra tương đối phổ biến, phong phú, diễn ra hàng ngày, hàng giờ, hình thức đa dạng
và ở địa bàn nào cũng có, đặc biệt là các thành phố lớn, đô thị trung tâm, tỉnh lộ.
Đồng thời luận án này cũng chỉ ra rằng còn tồn tại nhiều hạn chế trong các quy
định của pháp luật khiến cho việc xét xử tội liên quan đến gây rối trật tự công
cộng của các cơ quan chức năng còn khó khăn như: việc không phân biệt giữa tội
gây rối trật tự công cộng với các tội như giết người là do các cơ quan có thẩm
quyền chưa ban hành văn bản hướng dẫn “thương tích như thế nào là đáng kể”
nên khi xác định tội danh còn chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự [40, tr.101].
Đánh giá về các quy định pháp luật liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, tác giả Cù Ngọc Trang và đồng nghiệp
chỉ ra rằng hiện tại các quy định pháp luật xử phạt một số hành vi vi phạm hành
chính còn chung chung, không cụ thể, lại chưa có văn bản hướng dẫn, giải thích nên
dễ gây nhầm lẫn, thiếu thống nhất về cách hiểu cũng như trong quá trình áp dụng.
Còn những điểm vênh giữa các chế tài hành chính áp dụng đối với cùng một hành
vi quy định trong Nghị định 73/2010/NĐ-CP và Nghị định 75/2010/NĐ-CP về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa [108].
20
Thứ hai, pháp luật trong lĩnh vực phòng chống các loại tội phạm.
Một là, tội danh liên quan đến môi trường.
Những hạn chế của hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường đã
được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu. Theo Nguyễn Hoài Phương, (2009)
các quy định liên quan đến pháp luật về bảo vệ môi trường còn chưa quy định cụ
thể nhằm phân biệt trách nhiệm khắc phục tình trạng môi trường, với trách nhiệm
bồi thường thiệt hại điều này dẫn đến việc hiểu và áp dụng một cách khác nhau về
hai loại trách nhiệm này [80, tr.74]. Các nghiên cứu đánh giá hệ thống luật bảo vệ
môi trường trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự cho thấy những bất hợp
lý trong pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội phạm môi trường khiến cho
các cơ quan chức năng khó có thể xử lý các hành vi xâm hại môi trường do các
doanh nghiệp gây ra. Những hạn chế của luật dẫn đến thực trạng nhiều doanh
nghiệp cố ý, gian dối xả chất thải độc hại ra môi trường, mặc dù bị bắt quả tang
nhưng do hạn chế của luật khiến những hành vi này không bị truy cứu trách nhiệm
hình sự.
Hai là, tội danh liên quan đến tham nhũng.
Các nghiên cứu phòng chống tham nhũng chỉ ra rằng những hạn chế của hệ
thống pháp luật liên quan đến phòng chống tham nhũng là rào cản lớn đối với công
tác phòng chống tham nhũng trong thực tế. Trên thực tế, Luật Phòng, chống tham
nhũng ra đời, tuy nhiên số biện pháp phòng ngừa tham nhũng được đánh giá còn
mang tính hình thức, nhất là việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.
Các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và trong các văn bản pháp luật
chưa đồng bộ, thiếu cụ thể, thiếu biện pháp đảm bảo để thực thi có hiệu quả. Các
quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để
xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức đơn vị mình còn thiếu rõ ràng,
chưa thực chất và không khuyến khích được tính chủ động của người đứng đầu
trong phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng các quy định về minh bạch tài sản,
thu nhập chưa giúp kiểm soát biến động về thu nhập; còn phức tạp về trình tự, thủ
tục công khai bản kê khai, giải trình, xác minh tài sản, thu nhập khi có yêu cầu.
Thiếu quy định về việc xử lý các tài sản, thu nhập không được giải trình một cách
hợp lý và thời hạn người kê khai tài sản, thu nhập có nghĩa vụ giải trình về tài sản,
21
thu nhập. Đồng thời các quy định về trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền
trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giải quyết tố cáo nhằm nâng cao
hiệu quả phát hiện tham nhũng chưa có sự phân định rõ ràng nhằm tăng cường tính
chủ động và điều phối trong hoạt động phối hợp giữa các cơ quan. Những quy định
liên quan đến quá trình phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng bởi các cơ quan có
thẩm quyền còn bị ngắt quãng hay tạo ra những khoảng trống. Việc quy định hành
vi tham nhũng trong Luật Phòng, chống tham nhũng và tội phạm về tham nhũng trong Bộ luật Hình sự chưa hợp lý [91]. Tất cả những hạn chế này tác động khiến
cho hiệu quả xử lý hành vi tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng còn thấp, hiệu
quả phối hợp giữa các cơ quan trong phòng chống tham nhũng còn nhiều hạn chế.
Qua các vụ án lớn đã xử lý liên quan đến tham nhũng cho thấy, các đối tượng triệt
để lợi dụng những sơ hở trong cơ chế, chính sách để thông đồng, tạo ra các “nhóm
lợi ích”, hoặc móc ngoặc giữa khu vực nhà nước và doanh nghiệp tạo “sân sau”,
“công ty gia đình”, dùng ảnh hưởng của mình để đấu thầu cho các dự án, thâu tóm
đất công; cho vay sai nguyên tắc, thế chấp vòng vo, rút tiền của nhà nước gây thiệt
hại đặc biệt nghiêm trọng [7].
Ba là, các tội danh khác.
Báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp
luật; công tác thi hành án và công tác phòng, chống tham nhũng năm 2018 chỉ ra
rằng tội phạm có xu hướng ngày càng trẻ hóa, số vụ thanh thiếu niên phạm tội có xu
hướng ngày càng gia tăng. Do vậy các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng đã đến lúc phải
thay đổi cách hành xử với người phạm tội vị thành niên. Nhiều quốc gia đã hạ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với sự phát triển tâm sinh lý của thanh thiếu
niên để chống lại việc phạm pháp gia tăng trong tuổi niên thiếu hay việc lợi dụng
tuổi vị thành niên để phạm tội. Mặt khác, luật pháp nhiều nước quy định người
phạm tội vị thành niên phải được xét xử và giam giữ riêng để tránh những tác động
tiêu cực đối với lứa tuổi này.
Thứ ba, pháp luật liên quan đến phòng ngừa tệ nạn xã hội.
Tệ nạn xã hội được coi là những hành vi lệch chuẩn thường là vi phạm các
chuẩn mực đạo đức và pháp luật, gây hậu quả xấu về mọi mặt đối với đời sống xã
hội, cản trở sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Những cá nhân và nhóm tham gia
22
vào các tệ nạn xã hội thường có nguy cơ cao trở thành tội phạm. Do vậy, đấu tranh
phòng ngừa các tệ nạn xã hội là một trong những nội dung cơ bản của việc giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội. Pháp luật là công cụ xã hội cơ bản để điều chỉnh hành vi
trong đó có những hành vi lệch chuẩn- các loại hình tệ nạn xã hội. Tuy nhiên các
nghiên cứu chỉ ra rằng hệ thống pháp luật, chính sách về phòng, chống tệ nạn xã hội
của nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Các quy định pháp luật về phòng chống
mại dâm đã ban hành gần 15 năm nay nên nhiều điểm không còn phù hợp với
thực tiễn, chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống mại dâm trong tình hình
mới. Các quy định này chưa đảm bảo tiếp cận theo hướng bảo vệ quyền công dân,
quyền con người; khái niệm mại dâm được xác định trong luật còn chưa toàn diện,
các quy định liên quan đến đối tượng, điều kiện bảo đảm các biện pháp phòng
ngừa, vấn đề can thiệp giảm hại, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS, về xử lý vi
phạm, về trách nhiệm quản lý nhà nước của chính quyền cơ sở còn nhiều bất cập
[98]. Các quy định về mức xử phạt trong Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm được
đánh giá chưa thực sự đủ tính răn đe; Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định
người bán dâm chỉ bị cảnh cáo và phạt tiền từ 100.000 đến 300.000 đồng nên mức
phạt này được cho là quá thấp, phạt dường như là “phạt để tồn tại”. Các quy định
về mức phạt đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ có vi phạm chứa chấp hoặc
tham gia vào hoạt động mại dâm theo quy định của Pháp lệnh phòng chống mại
dâm được cho là chưa thảo đáng bởi mức phạt cao nhất hiện nay là 20 triệu đồng.
Do các quy định mức phạt thấp hơn rất nhiều so với lợi ích kiếm được từ các hoạt
động kinh doanh, tổ chức mại dâm nên việc xử phạt hiện nay không có hiệu quả
răn đe làm thay đổi hành vi. Vì vậy, nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ vẫn tiếp tục
tái phạm”, bên cạnh đó các quy định của Pháp lệnh cũng mâu thấn với các quy
định trong Luật phòng chống HIV/AIDS, đặc biệt liên quan đến các biện pháp can
thiệp giảm hại và xóa bỏ kỳ thị.
Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; các quy định của
Luật Phòng, chống ma túy và một số văn bản quy phạm pháp luật khác hiện nay
còn nhiều bất cập như: Các quy định liên quan đến việc quản lý người nghiện từ đủ
12 tuổi đến dưới 18 tuổi và quản lý người sau cai nghiện; người có hành vi sử dụng
trái phép chất ma túy và người nghiện ma túy; người sử dụng ma túy trái phép là tệ
23
nạn xã hội/người bệnh. Các quy định liên quan đến trình tự và thủ tục đưa người đi
cai nghiện còn phức tạp hơn. Các quy định liên quan đến việc xác định tình trạng
nghiện ma túy ở địa phương được đánh giá là gâu khó khăn cho các chủ thể thực
hiện trong thực tế; các quy định liên quan đến các biện pháp cai nghiện còn chưa
quy định rõ phác đồ điều trị cho người nghiện ma túy tổng hợp [98].
Các quy định liên quan đến áp dụng cai nghiện đối với người nghiện ma túy
còn nhiều bất cập, vì vậy một bộ phận không nhỏ người nghiện lợi dụng việc đăng
ký điều trị thay thế tại trung tâm Methadone thay cho việc vào Trung tâm cai nghiện
bắt buộc. Do các quy định liên quan đến thủ tục cho người cai nghiện còn nhiều
phức tạp, thời gian lập hồ sơ, xét duyệt qua các cấp, các ngành còn dài nên nhiều
người nghiện đã bỏ trốn hoặc đi khỏi địa phương, không chấp hành biện pháp đưa
đi cai nghiện bắt buộc. Các cơ sở y tế chưa có bác sỹ đủ thẩm quyền xác định tình
trạng nghiện đối với các loại ma túy tổng hợp, bán tổng hợp phổ biến hiện nay…
dẫn đến việc đưa người nghiện vào trung tâm cai nghiện còn gặp khó khăn.
Thứ tư, pháp luật quy định liên quan đến phòng ngừa tai nạn.
Tai nạn giao thông ở mức cao trong những năm qua đã gây ra những thiệt hại
lớn về người và tài sản, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân trong đó có những hạn chế
trong các quy định pháp luật về giao thông khiến cho tình trạng tai nạn không giả
xuống mà có chiều hướng gia tăng. Theo các nghiên cứu pháp luật giao thông, đặc
biệt giao thông đường bộ của nước ta hiện còn thiếu đồng bộ, chưa theo kịp sự phát
triển của kinh tế - xã hội và thực tiễn đặt ra trong công tác quản lý.
Những hạn chế trong quy định pháp luật gây ra những khó khăn nhất định cho
các cơ quan chức năng thực thi luật trong thực tế. Ví dụ việc thực hiện các quy định
về các biện pháp tạm giữ một số loại phương tiện, giấy tờ có liên quan... còn một số
bất cập nên chưa buộc người vi phạm phải đến chấp hành quyết định xử phạt như:
quy định mức phạt đối với một số hành vi cao hơn giá trị phương tiện bị tạm giữ
nên người vi phạm không đến xử lý; việc cấp lại các loại giấy chứng nhận đăng ký
phương tiện, giấy phép lái xe thủ tục còn đơn giản, trong khi đó việc phối hợp giữa
cơ quan ra quyết định xử phạt và cơ quan có thẩm quyền cấp lại các loại giấy tờ có
lúc, có nơi chưa chặt chẽ... nên nhiều người vi phạm đã không đến chấp hành quyết
định xử phạt mà đi làm thủ tục cấp lại các loại giấy tờ bị tạm giữ.
24
Các quy định về xử lý vi phạm liên quan đến tội chống người thi hành công
vụ hiện còn thiếu và chưa đáp ứng yêu cầu khiến cho tình hình các đối tượng vi
phạm pháp luật chống đối người thi hành công vụ có diễn biến phức tạp. Các quy
định liên quan đến thi hành xử phạt vi phạm hành chính (Điều 70- Luật xử lý vi
phạm hành chính) còn nhiều bất cập gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong
việc ra quyết định xử lý vi phạm hành chính. Theo quy định hiện tại trong vòng 2
ngày cơ quan chức năng phải gửi giấy phạt cho người vi phạm nhưng với khối
lượng quyết định xử phạt nhiều như hiện nay thì trong vòng 2 ngày không thể gửi
hết được cho người vi phạm; hơn nữa người vi phạm an toàn giao thông phần lớn là
lái xe nơi cư trú không ổn định, ít khi có mặt ở địa phương, nhiều trường hợp địa
chỉ ghi trong giấy tờ khác với địa chỉ nơi cư trú thực tế… nên người vi phạm không
thể nhận được quyết định.
Các quy định liên quan đến thông báo hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an
toàn giao thông đến nơi cư trú, học tập, làm việc của người vi phạm tuy được thực
hiện nhưng cơ quan chức năng hầu như không nhận được thông tin phản hồi từ đơn
vị nhận được thông báo, do đó không có sự phối hợp để giáo dục, quản lý người vi
phạm theo quy định. Trong khi đó, việc rà soát đối tượng để áp dụng biện pháp xử
lý vi phạm hành chính giáo dục tại xã phường, thị trấn còn gặp nhiều khó khăn do
quy định số lần vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính trong 6 tháng là quá ngắn
(trong 6 tháng ít nhất phải có 2 lần vi phạm bị xử phạt), rất khó có đối tượng để áp
dụng biện pháp này, nhiều trường hợp đối tượng vi phạm nhiều lần trên nhiều địa
bàn khác nhau nên khó có thể áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã,
phường, thị trấn; bên cạnh đó, việc tổ chức kiểm điểm tại cộng đồng dân cư thực
hiện hiệu quả chưa cao.
1.1.3.2. Các nghiên cứu đề cập đến yếu tố nguồn nhân lực thực hiện pháp
luật bảo đảm trật tự an toàn xã hội
Pháp luật là công cụ hữu hiệu trong đảm bảo TTATXH nhưng pháp luật
muốn đi vào cuộc sống phải thông qua hoạt động thực thi pháp luật của các cơ
quan chức năng cũng như nhận thức, thái độ và hành vi tuân thủ, chấp hành hay sử
dụng luật của người dân. Vì vậy yếu tố nguồn nhân lực là một trong những yếu tố
quan trọng tác động đến việc thực hiện pháp luật. Sự tác động của nhóm yếu tố
25
này có thể được nhìn nhận từ số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ của các
cơ quan công quyền có trách nhiệm thực thi pháp luật như công an, cảnh sát, tòa
án, viện kiểm sát… và người dân - những người trực tiếp tuân thủ, chấp hành và
sử dụng luật.
Thứ nhất, các công trình đề cập đến sự ảnh hưởng của yếu tố nguồn nhân lực
trong các cơ quan chức năng đến việc thực thi pháp luật.
Các nghiên cứu liên quan đến công tác phòng chống tội phạm những năm qua
cho thấy với sự phát triển ngày càng tinh vi của các loại hình tội phạm, tệ nạn xã
hội thì trình độ, kỹ năng và phương tiện của lực lượng phòng, chống tội phạm
chuyên nghiệp hiện còn rất hạn chế đòi hỏi phải có chuyển biến mạnh trong đầu tư
của Nhà nước về đào tạo nghiệp vụ. Các nghiên cứu chỉ ra rằng việc thiếu hiểu
biết, thiếu kinh nghiệm kiến thức và tinh thần trách nhiệm trong công việc của lực
lượng phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội đã ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng
phá án cũng như việc xử lý các vụ án trong thực tế. Các nghiên cứu cũng chỉ ra
hiện tượng những người chấp hành pháp luật bị người phạm tội mua chuộc, trong
những vụ án nghiêm trọng, người phạm tội sẵn sàng chi nhiều tiền cho lực lượng
điều tra, công tố, quan tòa hay mua sự can thiệp của một số lãnh đạo để xóa sửa
hiện trường, tẩu tán chứng cứ, thay đổi tội danh… Sự khác biệt ấy có thể giúp một
số kẻ thoát hiểm từ tử hình xuống chung thân, từ chung thân xuống án có thời hạn,
từ đó chỉ bị giam một thời gian là có thể được ra tù, làm lại cuộc đời một cách
ngoạn mục bằng khối lượng tài sản bất chính [79]. Như vậy ngoài kiến thức, kinh
nghiệm và kỹ năng xử lý công việc thì mức độ công tâm và đạo đức nghề nghiệp
của đội ngũ cán bộ là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến việc thi hành pháp
luật của cơ quan công quyền.
Qua đánh giá việc áp dụng pháp luật của tòa án, các công trình nghiên cứu chỉ
ra rằng:
Một số Thẩm phán còn chủ quan, làm việc đơn thuần theo kinh nghiệm,
một số khác chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu thận trọng, thậm
chí còn cẩu thả, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sai sót trong quá trình
xét xử. Công tác phối hợp giữa Tòa án với các cơ quan hữu quan đôi lúc
còn bị động, có những trường hợp khi Tòa án yêu cầu các cơ quan
26
chuyên môn tiến hành một số công việc như thực hiện ủy thác điều tra,
tống đạt giấy báo, tống đạt quyết định, lấy lời khai, xác minh những vấn
đề có liên quan đến vụ án... thì còn có một cơ quan được ủy thác không
tích cực phối kết hợp, không cho đây là nhiệm vụ được pháp luật quy
định mà cho là việc của Tòa án, nên dẫn đến tình trạng việc làm qua loa,
kéo dài, thậm chí chất lượng những văn bản xác minh, lấy lời khai rất
thấp [73, tr.51].
Trong công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội, còn tình trạng các cơ quan chức
năng không thực hiện tốt công tác bám dân, nắm tình hình. Việc các cơ quan chức
năng chưa chủ động, còn lúng túng trong xử lý các vụ việc liên quan đến xâm phạm
an toàn trật tự xã hội còn diễn ra. Một số trường hợp xử lý thiếu chuyên nghiệp, chưa
thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật. Thiếu sự phối hợp tốt giữa các lực
lượng chức năng trong xử lý vụ việc là nguyên nhân khiến cho công tác đảm bảo trật
tự an toàn xã hội còn chưa đảm bảo. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi thiếu sức
chiến đấu, xa dân, không nắm được tình hình cũng như những suy tư, trăn trở của
người dân để có biện pháp đấu tranh, giải quyết vấn đề khi nó mới vừa manh nha.
Tình trạng một số cán bộ, công chức vi phạm quy định về phẩm chất đạo đức, vi
phạm pháp luật chưa được xử lý dứt điểm dẫn đến mất niềm tin trong nhân dân cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến an ninh trật tự diễn biến phức tạp [6].
Trình độ nghiệp vụ, pháp luật của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu
thực tiễn dẫn đến hữu khuynh né tránh, thậm chí có một số cán bộ biến chất, tiếp
tay cho tội phạm, buông lỏng công tác đấu tranh trấn áp tội phạm. Mối quan hệ giữa
các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thực sự đồng bộ, thiếu thống nhất trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, giáo dục, cải tạo phạm nhân. Hoạt động trao đổi
thông tin giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật còn chưa tốt. Bên cạnh đó, hoạt động
điều tra, xử lý tội phạm chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, xử lý chưa nghiêm minh.
Hệ thống tổ chức bộ máy, phân công chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan bảo vệ
pháp luật và trong nội bộ từng cơ quan chưa thực sự khoa học, hiệu quả vận hành
chưa cao.
Liên quan đến chất lượng của đội ngũ cán bộ tác giả Bùi Quang Trung
(2011) cho thấy hạn chế trong nhận thức của đội ngũ cán bộ có ảnh hưởng tiêu
27
cực đến chất lượng áp dụng pháp luật của các cơ quan công quyền. Khi phân tích
việc xét xử các tội phạm liên quan đến xâm phạm trật tự an toàn giao thông tác giả
này cho thấy:
Đội ngũ các bộ làm công tác xét xử chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về
ý nghĩa và tác dụng cải tạo giáo dục của các loại hình phạt mà pháp luật
quy định đối với các tội phạm nói chung và đối với các tội xâm phạm trật
tự an toàn giao thông đường bộ nói riêng; chưa đánh giá đúng đắn, chính
xác về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo để
lựa chọn loại và mức hình phạt cho phù hợp trong từng trường hợp, hoàn
cảnh cụ thể; thói quen (một cách bàng quan, thiếu tinh thần trách nhiệm)
của các thành viên Hội đồng xét xử các cấp khi coi hình phạt tù là loại
hình phạt phổ thông áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm mà không
cân nhắc, xem xét kỹ các loại hình phạt khác không phải hình phạt tù mà
Bộ luật hình sự cho phép Tòa án lựa chọn để áp dụng đối với tội phạm,
người phạm tội đó... [110, tr.84].
Bên cạnh đó số lượng đội ngũ cán bộ là nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
việc áp dụng quy định pháp luật. Tác giả Trần Long Nhi, (2015), cho thấy việc
thiếu biên chế - biên chế thẩm phán phân bổ chưa đủ để đáp ứng với số lượng vụ
việc phải thụ lý, khiến lượng án mỗi Thẩm phán phải thụ lý, giải quyết hàng tháng
là rất lớn. Điều này gây áp lực cho Thẩm phán về giải quyết án và hoàn thành chỉ
tiêu thi đua do đó nó ảnh hưởng đến chất lượng của các bản án. Bên cạnh đó việc
cán bộ, công chức của một số Tòa án nhân dân cấp huyện phải kiêm nhiệm rất
nhiều. Từ chỗ kiêm nhiệm nhiều việc, không chuyên sâu, không đạt hiệu quả, việc
này gây khó khăn trong công tác quản lý hành chính tư pháp và công tác xét xử các
vụ án về gây rối trật tự công cộng [73, tr.47].
Như vậy có thể thấy các công trình nghiên cứu đã chỉ ra sự tác động của yếu
tố chất lượng nguồn nhân lực cụ thể là nguồn nhân lực của cơ quan công quyền đến
chất lượng áp dụng luật. Tuy nhiên để có thể kiểm chứng rõ ràng hơn về mối quan
hệ này cần những nghiên cứu sâu hơn để đánh giá chất lượng của đội ngũ cán bộ
của các cơ quan công quyền cũng như phải chỉ ra được sự tác động của yếu tố nhận
28
thức, thái độ hành vi của đội ngũ cán bộ đến chất lượng việc áp dụng pháp luật khi
những yếu tố tác động khác giữ nguyên, hay nói đúng hơn là cần phải kiểm chứng
sự tác động này trong tương quan với sự tác động của các yếu tố khác.
1.2. NHẬN XÉT CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU
1.2.1. Nhận xét chung
Từ những công trình nghiên cứu về vấn đề nghiên cứu, cho tác giả rút ra
những nhận định sau:
Thứ nhất, những công trình đã được công bố trên đây ở những mức độ khác
nhau đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về bảo đảm TTATXH nói chung, như
khái niệm, vai trò của lực lượng Công an trong bảo đảm TTATXH; đồng thời, đã
nêu được thực trạng của bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở một số địa phương cụ thể.
Từ đó chỉ ra được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm TTATXH ở
địa phương và địa bàn cụ thể. Đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu
tương đối toàn diện và hệ thống vấn đề THPL về bảo đảm TTATXH ở các địa bàn
đô thị loại I ở Việt Nam. Mặc dù vậy, những công trình khoa học đã được công bố
nêu trên vẫn sẽ là những tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và viết
luận án này.
Thứ hai, các công trình đều nghiên cứu về vấn đề liên quan đến thực hiện
pháp luật nói chung. Các tác giả đã tập trung, khai thác, làm rõ vấn đề lý luận và
thực tiễn về thực hiện pháp luật ở những lĩnh vực cụ thể; một số kết quả nghiên cứu
sẽ gợi mở, cung cấp thông tin, sự kiện để ứng viên tham khảo làm luận cứ khoa học
cho đề tài của mình. Tuy nhiên, các công trình này không trực tiếp đề cập các vấn
đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị
loại I ở Việt Nam.
Thứ ba, trong tất cả các đề tài, công trình đã công bố liên quan đến thực hiện
pháp luật, không những chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và
sâu sắc về thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở
Việt Nam mà còn chưa có một công trình nào đưa ra được những giải pháp khả thi
để bảo đảm thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở
Việt Nam.
29
Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu liên
quan đến THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam, nên tác
giả cho rằng, trong đề tài này, ngoài nội dung lý luận có thể kế thừa một phần từ
những công trình đã công bố thì những nội dung về thực trạng và quan điểm, giải
pháp sẽ thể hiện sự đóng góp mới của đề tài cho vấn đề nghiên cứu. Do vậy, đề tài
nghiên cứu “Thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô
thị loại I ở Việt Nam hiện nay” là không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học
nào đã đã công bố.
1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Những kết quả đạt được trong các công trình nghiên cứu ở trên được luận án
vận dụng và phát triển trong luận án, tuy nhiên vấn đề “Thực hiện pháp luật về bảo
đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay” vẫn còn
những nội dung còn bỏ ngỏ chưa được các công trình này nghiên cứu, cần được giải
quyết trong luận án này, đó là:
Thứ nhất, luận án sẽ tiếp tục làm rõ khái niệm và các hình thức của THPL về
bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, trong đó nhấn mạnh đến việc chỉ ra các
tiêu chí có thể đo lường, đánh giá các hình thức THPL này.
Thứ hai, luận án phân tích, đánh giá rõ thực trạng THPL về bảo đảm
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong thời gian qua, để qua đó chỉ rõ
những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế trong THPL về bảo đảm
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam và nguyên nhân của những hạn chế
đó làm cơ sở để luận giải phương hướng, giải pháp nhằm cải thiện tình trạng trên
trong thời gian tới.
Thứ ba, luận án luận giải quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm thúc
đẩy và nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở
Việt Nam trong thời gian tới.
1.3. CÂU HỎI VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.3.1. Câu hỏi nghiên cứu
Toàn bộ luận án tập trung trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu chính sau:
- Việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là gì, có những
hình thức nào và được đo lường bằng những tiêu chí nào?
30
- Thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt
Nam đang diễn ra như thế nào?
- Việt Nam cần thực hiện những biện pháp gì để thúc đẩy và nâng cao chất
lượng THPL bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong thời
gian tới?
1.3.2. Giả thuyết nghiên cứu
Thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH được thực hiện bởi các chủ thể
khác nhau với những hình thức khác nhau: tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật,
thực thi pháp luật và áp dụng pháp luật. Việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa
bàn đô thị loại I ở Việt Nam theo đúng quy định của pháp luật hiện hành và đạt
được những kết quả nhất định; bên cạnh đó, chất lượng THPL về bảo đảm
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I Việt Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế, vì thế
tình hình vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị này vẫn còn
diễn biến phức tạp.
Tiểu kết chương 1
Như vậy chương 1 đã đánh giá tổng quan các loại tài liệu, các công trình
nghiên cứu để nên lên những phát hiện đã có, những điều mâu thuẫn và những
khoảng trống liên quan đến THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.
Các công trình nghiên cứu liên quan đã chỉ rõ cách tiếp cận để đánh giá thực trạng
THPL trên bốn hình thức là tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật.
Tuy nhiên cần phải làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn để có thể đo lường đánh giá
các khía cạnh, các mặt của các loại hình thực hiện pháp luật cũng như chỉ ra sự tác
động qua lại giữa bốn hình thức THPL. Mặt khác các công trình nghiên cứu đi
trước cũng nêu ra các nhóm nhân tố có ảnh hưởng đến các hành vi liên quan đến
THPL của các cá nhân và tổ chức. Tuy nhiên việc làm rõ sự tác động của từng
nhóm nhân tố đến từng hình thức THPL là cần thiết vì nếu không đánh giá được
các yếu tố tác động đến từng hình thức THPL sẽ không thể đưa ra các biện pháp
can thiệp một cách phù hợp nhằm nâng cao mức độ tuân thủ, chấp hành và sử
dụng pháp luật của nhân dân cũng như nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
31
Kết quả nghiên cứu của các công trình được công bố đến thời điểm hiện nay
đã cho thấy, vấn đề THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt
Nam hiện nay chưa được nghiên cứu toàn diện, vì thế vấn đề nghiên cứu này được
tiếp cận dưới giác độ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật vẫn
cần được nghiên cứu toàn diện hơn nữa.
Cho nên, luận án nghiên cứu vấn đề THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn
đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay cần trả lời các câu hỏi: việc THPL về bảo đảm
TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I là gì, có những hình thức nào và được đo
lường bằng những tiêu chí nào? THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị
loại I ở Việt Nam đang diễn ra như thế nào? Việt Nam cần thực hiện những biện
pháp gì để thúc đẩy và nâng cao chất lượng THPL bảo đảm TTATXH trên địa bàn
đô thị loại I ở Việt Nam trong thời gian tới? Các câu hỏi này sẽ được trả lời trong
các chương tiếp theo của luận án.
32
Chương 2
LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I
2.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I
2.1.1. Các khái niệm liên quan
2.1.1.1. Đô thị loại I
Khái niệm về đô thị có tính tương đối do sự khác nhau về trình độ phát triển
KT-XH, hệ thống dân cư mà mỗi nước có quy định riêng tuỳ theo yêu cầu và khả
năng quản lý của mình. Theo Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 của Việt Nam, đô
thị “là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong
lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa
hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia
hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành
phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn” (Khoản 1 Điều 3). Theo đó, đô thị ở Việt
Nam gồm các thành phố, thị xã, thị trấn là trung tâm của cấp hành chính tương ứng
như cấp tỉnh (tỉnh và cấp tương đương: thành phố trực thuộc trung ương) và cấp
huyện. Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, đô thị có các đặc
điểm sau:
Thứ nhất, đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung
và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp, quy mô dân số ít nhất là
4.000 người, mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng
loại đô thị;
Thư hai, đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp
sống và làm việc theo kiểu thành thị, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 65% trở lên
trong tổng số lao động;
Thứ ba, đô thị thường là trung tâm của một địa giới hành chính trung ương
hoặc địa phương. Chức năng là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành, có vai trò
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất
định. Tuy nhiên, một địa giới hành chính có thể có nhiều đô thị. Trên thực tế, đô thị
33
bao gồm thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định thành lập;
Thứ tư, có cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động dân cư tối thiểu phải đạt 70%
mức tiêu chuẩn, quy chuẩn quy định đối với từng loại đô thị.
Ở Việt Nam, việc phân loại đô thị nhằm tổ chức, sắp xếp và phát triển hệ
thống đô thị cả nước; lập, xét duyệt quy hoạch xây dựng đô thị; nâng cao chất
lượng đô thị và phát triển đô thị bền vững và xây dựng chính sách và cơ chế quản
lý đô thị và phát triển đô thị. Trước đây, việc phân loại đô thị được thực hiện theo
Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001 của Chính phủ, tiếp đó, các đô thị
tại Việt Nam được phân loại dựa theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày
07/5/2009 và gần đây nhất, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết
số 1210/2016/UBTVQH13 về phân loại đô thị. Theo Nghị quyết của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, đô thị tại Việt Nam bao gồm thành phố trực thuộc Trung
ương, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn và khu vực dự kiến hình thành đô thị
trong tương lai được phân loại theo tiêu chí loại đô thị tương ứng. Do đó, các đô thị
Việt Nam được chia thành 6 loại: Đô thị đặc biệt, đô thị loại I, đô thị loại II, đô thị
loại III, đô thị loại IV và đô thị loại V. Trong đó, theo Điều 4, Nghị quyết số
1210/2016/UBTVQH13, đô thị loại I có những đặc trưng sau:
Một là, về vị trí, chức năng, vai trò, cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã
hội: Đô thị loại I có vị trí, chức năng, vai trò là trung tâm tổng hợp cấp quốc gia, cấp
vùng hoặc cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, du lịch, y tế,
khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có
vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng liên tỉnh hoặc cả nước.
Theo phụ lục của Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13, đô thị loại I có cơ cấu và
trình độ phát triển kinh tế - xã hội đạt các tiêu chuẩn cao, như: thu nhập bình quân
đầu người năm so với cả nước của đô thị loại I phải từ 1,75 lần trở lên; tỷ lệ hộ
nghèo phải dưới 6,0%; v.v…
Hai là, về quy mô dân số và mật độ dân số: Đô thị loại I là thành phố trực
thuộc trung ương thì quy mô dân số toàn đô thị đạt từ 1.000.000 người trở lên; khu
vực nội thành đạt từ 500.000 người trở lên. Đây là thành phố thuộc tỉnh hoặc thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương thì quy mô dân số toàn đô thị đạt từ
34
500.000 người trở lên; khu vực nội thành đạt từ 200.000 người trở lên; Mật độ dân số toàn đô thị loại I đạt từ 2.000 người/km2 trở lên; khu vực nội thành tính trên diện tích đất xây dựng đô thị đạt từ 10.000 người/km2 trở lên.
Ba là, về lao động: Đô thị loại I có tỷ lệ lao động phi nông nghiệp toàn đô thị
đạt từ 65% trở lên, trong đó tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thành đạt từ
85% trở lên.
Bốn là, về trình độ phát triển hạ tầng, kiến trúc và cảnh quan đô thị: Đô thị loại
I có trình độ phát triển hạ tầng, kiến trúc và cảnh quan đô thị đạt các tiêu chuẩn của
Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13, trong đó trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và
kiến trúc, cảnh quan đô thị đạt các tiêu chuẩn cao, như: đảm bảo tiêu chuẩn các tiêu chuẩn về nhà ở đô thị với diện tích sàn nhà ở bình quân từ 26,5 m2 sàn/người, tỷ lệ
nhà ở kiên cố và bán kiên cố là từ 90% trở lên; đảm bảo các tiêu chuẩn về công
trình công cộng, giao thông, cấp điện, nước, viễn thông, v.v… (Phụ lục 1). Như thế,
đô thị loại I được hiểu là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ rất cao và
chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị,
hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành có thành phố trực thuộc trung
ương, thành phố thuộc tỉnh hoặc thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương,
có vai trò thúc đẩy sự phát triển KT-XH của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2.1.1.2. Trật tự an toàn xã hội và bảo đảm trật tự an toàn xã hội
* Trật tự an toàn xã hội
Cho đến nay khái niệm TTATXH vẫn được hiểu theo nhiều cách khác nhau,
theo Bùi Thiện Ngộ (1993), “TTATXH là hệ thống các quan hệ xã hội được hình
thành và điều chỉnh bởi hệ thống các quy phạm pháp luật của Nhà nước, quy phạm
đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng của một dân tộc, một quốc
gia, nhờ đó, mọi công dân sống và lao động có tổ chức có kỷ cương, mọi lợi ích
chính đáng được bảo đảm không bị xâm hại” [69, tr.3]. Theo cách tiếp cận này thì
TTATXH là quá trình đảm bảo các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi hệ thống
các quy tắc và chuẩn mực do xã hội đặt ra như chuẩn mực pháp luật hay đạo đức...
nhằm hướng đến mục tiêu là bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi người dân. Khái
niệm này nhấn mạnh đến các hoạt động để đảm bảo TTATXH, theo đó cuộc đấu
tranh giữ gìn TTATXH ở Việt Nam được xác định bao gồm các hoạt động chủ yếu
35
như: chống tội phạm, giữ gìn trật tự nơi công cộng, phòng ngữa tai nạn, bài trừ tệ
nạn xã hội, chống ô nhiễm môi trường nhằm bảo đảm hoạt động bình thường, yên
ổn, hợp pháp của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân [69, tr.3].
Cũng theo hướng tiếp cận này tác giả Codubra. N.I và các cộng sự cho rằng:
Khi nói đến trật tự xã hội là nói đến việc tôn trọng các quy phạm pháp
luật, tôn trọng quyền và nghĩa vụ quy định không chỉ trong các quy
phạm pháp luật, mà còn bằng các quy tắc đạo đức, quy tắc chính trị.
Việc thực hiện tất cả các quy phạm, quy tắc đó có liên quan đến các
mối quan hệ xã hội khác. Hệ thống các quan hệ xã hội được điều chỉnh
bằng các quy tắc xã hội và các quy phạm pháp luật tạo nên “trật tự xã
hội” [20, tr.272].
Định nghĩa này nhấn mạnh đến hoạt động tuân thủ các quy chuẩn pháp luật,
quy chuẩn đạo đức và chính trị của các chủ thể trong xã hội.
Khác với cách tiếp cận nhấn mạnh đến hoạt động và biện pháp đảm bảo
TTATXH ở trên, một số nhà khoa học của Trường Đại học Cảnh sát nhân dân xác
định: “TTATXH chính là trật tự các mối quan hệ xã hội phù hợp với các yêu cầu về
an toàn xã hội; là kết quả của sự điều chỉnh bởi các quy phạm xã hội phù hợp mục
tiêu ổn định và phát triển xã hội đã được Đảng và Nhà nước đề ra” [70, tr.2]. Quan
niệm này nhấn mạnh đến kết quả điều chỉnh các mối quan hệ xã hội thông qua các
quy phạm xã hội, trong đó có quy phạm pháp luật. Cũng theo hướng tiếp cận này,
từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam (2000) định nghĩa: “TTATXH là
trạng thái xã hội có trật tự, kỷ cương trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ
sở các quy phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định” [10, tr.628].
Một số nhà nghiên cứu khác định nghĩa “TTATXH là trạng thái của các quan hệ xã
hội được hình thành và điều chỉnh bởi hệ thống quy phạm pháp luật của Nhà nước,
quy phạm chính trị, quy phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng
đồng của một dân tộc, một nhà nước, là trình trạng xã hội ổn định, ở đó mọi công
dân sống và lao động có tổ chức, có kỷ cương, mọi lợi ích chính đáng được bảo
đảm, không bị xâm hại” [99, tr.3]. Khái niệm này nhằm phân biệt TTATXH khác
với an toàn chính trị, đó là những hoạt động liên quan đến bảo vệ chế độ chính trị,
36
bảo vệ ổn định chính trị, đảm bảo sự lãnh đạo vững chắc của chính đảng cầm quyền
và sự quản lý của nhà nước cũng như quyền làm chủ của nhân dân.
Tác giả Nguyễn Xuân Yêm cho rằng, nếu “An ninh quốc gia là vấn đề liên
quan trực tiếp đến lĩnh vực tối quan trọng của chế độ xã hội, đó là vấn đề chính trị,
là sự tồn vong của đất nước, sự toàn vẹn của non sông, sự độc lập của dân tộc…”
[125, tr.15] thì “TTATXH liên quan trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt cộng đồng. Đó
là hệ thống các quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi hệ thống các quy
phạm pháp luật của nhà nước và các chuẩn mực đạo đức, thuần phong mỹ tục trong
đời sống cộng đồng của dân tộc, nhờ đó mọi công dân sống và lao động có tổ chức,
kỷ cương, mọi lợi ích chính đáng được đảm bảo không bị xâm hại” [125, tr.15].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) xác định: “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh
là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình,
ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội...” [33, tr.7].
Khái niệm an ninh quốc gia và TTATXH có mối quan hệ mật thiết với nhau, tuy
nhiên, hai khái niệm này có nội hàm tương đối khác biệt. Khái niệm an ninh quốc
gia đề cập đến nhiệm vụ bảo vệ quốc phòng an ninh nghĩa là liên quan đến bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ; bảo vệ chế độ chính trị trong khi đó khái niệm trật tự an toàn xã
hội nhấn mạnh đến trạng thái an toàn ổn định do việc thực hiện những quy định,
quy tắc bảo đảm an toàn, trật tự trong cuộc sống của người dân. Vì vậy các hoạt
động phòng chống tội phạm trong đảm bảo TTATXH chủ yếu nhấn mạnh đến các
loại tội phạm xâm phạm đến cuộc sống, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau liên quan đến TTATXH, có định
nghĩa nhấn mạnh đến biện pháp áp dụng các loại quy định chuẩn mực của xã
hội, có định nghĩa nhận mạnh đến các hành vi chấp hành chuẩn mực và có định
nghĩa nhấn mạnh đến kết quả của việc áp dụng hay hành vi tuân thủ chuẩn mực.
Dù tiếp cận theo hướng nào các khái niệm về TTATXH luôn bao hàm các khía
cạnh chính là:
Thứ nhất, TTATXH phản ánh trạng thái của xã hội, trong đó các quan hệ
xã hội diễn ra có trật tự, nề nếp; các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân
37
được đảm bảo theo đúng quy chuẩn chung mà đa số mọi người trong cộng đồng
tuân theo.
Thứ hai, để đạt đến trạng thái xã hội ổn đinh cần có các biện pháp để áp dụng,
triển khai các chuẩn mực mà xã hội đặt ra. Các chuẩn mực có thể là các quy phạm
pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, có thể là các chuẩn
mực về đạo đức do cộng đồng đặt ra ví dụ như các quy tắc, quy phạm liên quan đến
việc giữ gìn trật tự, vệ sinh, giữ gìn các giá trị văn hóa do cộng đồng đặt ra được
mọi người thừa nhận. Theo đó các cơ quan nhà nước sẽ thực hiện các biện pháp áp
dụng các quy chuẩn do mình ban hành, các biện pháp này bao gồm các hoạt động
liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội;
công tác quản lý, bảo vệ, gìn giữ trật tự, an toàn trên các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội.
Thứ ba, TTATXH liên quan đến các hoạt động tuân thủ các quy chuẩn do xã
hội đặt ra của các cá nhân hay tổ chức. Bởi xã hội muốn đạt đến trạng thái ổn định,
an toàn để mọi cá nhân có thể phát triển theo đúng năng lực của mình, các quyền và
lợi ích của mọi người đều được đảm bảo theo quy chuẩn, giá trị chung của cộng
đồng điều này đòi hỏi sự tự giác tuân thủ quy phạm pháp luật, đạo đức của mọi
người trong xã hội. Nghĩa là trạng thái trật tự, kỷ cương của xã hội được xác lập
trên cơ sở các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành (được gọi là những quy
phạm pháp luật) và những giá trị, chuẩn mực do xã hội đặt ra được mọi người trong
xã hội thừa nhận, tôn trọng, tuân thủ.
Từ những gì phân tích nêu trên, TTATXH được hiểu là trạng thái xã hội có
trật tự, kỷ cương, trong đó mọi người có cuộc sống yên ổn, các quyền và lợi ích
chính đáng của mọi người dân được đảm bảo trên cơ sở thực hiện các quy phạm
pháp luật và chuẩn mực đạo đức do xã hội đặt ra.
Theo đó việc đánh giá mức độ trật tự, an toàn của một xã hội nhất định sẽ dựa
trên các chỉ số, chỉ báo liên quan đến tỷ lệ tội phạm, tệ nạn xã hội cũng như việc
đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Theo hệ thống chỉ tiêu thống kê hiện hành ở Việt Nam hiện nay, có quy
định nhóm chỉ tiêu về “trật tự, an toàn xã hội” bao gồm các chỉ tiêu liên
quan đến: số vụ tai nạn giao thông, số người chết, bị thương do tai nạn
38
giao thông; số vụ cháy, nổ và mức độ thiệt hại; số vụ, số bị can đã khởi
tố; số vụ, số bị can đã truy tố; số vụ, số người phạm tội đã kết án, số vụ
phạm tội đã được xử lý; số vụ ngược đãi người già, phụ nữ và trẻ em
trong gia đình (Nghị định 97/2016/NĐ-CP) [18].
* Bảo đảm trật tự an toàn xã hội
Khái niệm bảo đảm TTATXH có thể được hiểu là: “phòng ngừa, phát hiện,
ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về TTATXH
nhằm duy trì trạng thái xã hội bình yên, trong đó mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức
được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật” [83, tr.28]. Theo tác giả Nguyễn
Xuân Yêm (1999), những nội dung chủ yếu của công tác bảo đảm TTATXH bao
gồm: chống tội phạm, giữ gìn trật tự công cộng, phòng ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn
xã hội, chống ô nhiễm môi trường nhằm đảm bảo hoạt động bình thường yên ổn,
hợp pháp của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân [126,
tr.16]. Tuy nhiên cách tiếp cận theo quan điểm trên được cho là tương đối hẹp vì nó
quy vào hoạt động giữ gìn TTATXH theo chức năng nhiệm vụ của ngành công an,
được xác định trong Luật Công an nhân dân năm 2018: “Bảo đảm TTATXH là
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật
về TTATXH” (khoản 2, Điều 3).
Trong thực tế, bảo đảm TTATXH là trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội,
bao gồm người dân, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước và các cơ quan, tổ chức khác,
trong đó công an là lực lượng nòng cốt, đóng vai trò chủ đạo và tiên phong, đi đầu
trong quá trình bảo đảm TTATXH, vì vậy tác giả Trần Đại Quang và các cộng sự
(2015) cho rằng:
Bảo đảm TTATXH là hoạt động của nhà nước trong việc huy động mọi
nguồn lực xã hội để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, xây dựng
hoàn thiện hệ thống pháp luật; tổ chức và duy trì các hoạt động thiết yếu
của đời sống xã hội; đấu tranh, phòng chống tội phạm và các hành vi vi
phạm pháp luật nhằm thiết lập và duy trì xã hội ổn định, có trật tự, kỷ
cương; mọi người dân có cuộc sống bình yên, quyền và lợi ích hợp pháp
không bị xâm hại; mọi hoạt động của nhà nước, tổ chức và công dân
được thực hiện theo quy định của pháp luật [83, tr.29].
39
Từ thực tiễn Việt Nam hiện nay, bảo đảm TTATXH bao gồm các nội
dung sau:
(1) Đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành vi vi
phạm pháp luật về trật tự an toàn xã hội; (2) tổ chức tiến hành các hoạt
động quản lý hành chính về trật tự xã hội; (3) quản lý giáo dục cải tạo
phạm nhân, học sinh trường giáo dưỡng, trung tâm cai nghiện và các cơ
sở chữa bệnh bắt buộc; (4) bảo đảm trật tự an toàn giao thông, phòng,
chống cháy nổ, cứu hộ cứu nạn, bảo vệ môi trường, phòng, chống các sự
cố về môi trường [83, tr.39-43].
Theo hướng tiếp cận trên, các hoạt động bảo đảm TTATXH được xác định là
tất cả các hoạt động nhằm giữ gìn trạng thái bình yên, an toàn, có trật tự kỷ cương
của xã hội. Chủ thể tham gia vào bảo đảm TTATXH ngoài lực lượng nòng cốt là
công an nhân dân với nhiệm vụ phòng chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội còn có
sự tham gia của các cơ quan công quyền khác như hệ thống các cơ quan tư pháp,
các tổ chức chính trị xã hội và lực lượng toàn dân…
Như vậy, bảo đảm TTATXH là hoạt động có chủ đích của các chủ thể trong
xã hội nhằm xây dựng, tổ chức và duy trì trạng thái xã hội có trật tự, kỷ cương,
trong đó mọi người có cuộc sống yên ổn, các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá
nhân, tổ chức được đảm bảo.
Như vậy, bảo đảm TTATXH bao gồm các hoạt động: (i) Các hoạt động
phòng, chống tội phạm, đó là các loại tội phạm liên quan trực tiếp đến đời sống sinh
hoạt của cộng đồng, trừ các tội phạm về an ninh quốc gia; (2) Các hoạt động phòng,
chống tệ nạn xã hội, các hành vi sai lệch xã hội khác khác. Trong đó các hành vi sai
lệch xã hội được xác định là sự vi phạm các chuẩn mực hoặc các quy tắc đã được
chấp nhận của cộng đồng gây ảnh hưởng về đạo đức và những hậu quả nghiêm
trọng trong đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội. Trong đó, bao gồm: tệ nạn mại dâm;
tệ nạn ma tuý; tệ nạn cờ bạc, v.v.. [82, tr.418-420]; (3) Các hoạt động liên quan đến
phòng ngừa tai nạn bao gồm phòng ngừa tai nạn giao thông và các tai nạn liên quan
đến cháy nổ và các tai nạn khác; (4) Các hoạt động quản lý hành chính về trật tự xã
hội như quản lý cư trú, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu; cấp phát, quản lý giấy chứng
minh hoặc thẻ căn cước công dân; quản lý người nước ngoài; quản lý đối tượng; giữ
40
gìn trật tự nơi công cộng; quản lý các ngành nghề kinh doanh có điều kiện về an toàn tật tự; quản lý phương tiện đặc biệt, v.v.. [83, tr.41]; (5) Các hoạt động liên
quan đến giáo dục, cải tạo phạm nhân, học viên các trường giáo dưỡng, trung tâm
cai nghiệm và các cơ sở chữa bệnh bắt buộc; (6) Các hoạt động bảo vệ môi trường,
phòng chống các sự cố về môi trường.
Để bảo đảm TTATXH, nhà nước và xã hội sử dụng nhiều biện pháp khác
nhau, như biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, biện pháp kinh tế, biện
pháp mệnh lệnh hành chính, biện pháp trừng phạt của nhà nước, v.v… Để thực hiện
được các biện pháp này, nhà nước và xã hội cần phải có các công cụ khác nhau,
được áp dụng phù hợp với từng đối tượng và từng nhiệm vụ bảo đảm TTATXH,
trong đó pháp luật là công cụ quan trọng nhất vì được nhà nước ban hành, được áp
dụng thống nhất, không có ngoại lệ và được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy
chuyên nghiệp của nhà nước.
2.1.1.3. Pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội
Trên phương diện lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, pháp luật là hệ
thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận theo thẩm
quyền, trình tự, thủ tục luật định để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một trật tự
mà nhà nước muốn hướng đến và được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy chuyên
nghiệp của nhà nước.
Từ đó, pháp luật về bảo đảm TTATXH được hiểu là hệ thống các quy tắc xử
sự chung, do nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí nhà nước và phù hợp với lịch ích
chung của xã hội bởi bộ máy nhà nước, hướng xã hội đến trạng thái ổn định, cuộc
sống của mọi người được đảm bảo an toàn, không bị đe dọa hay gặp nguy hiểm,
các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và các cơ quan, tổ chức được ghi nhận,
bảo vệ và thúc đẩy phát triển.
2.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn đô thị loại I
Thực hiện pháp luật là một giai đoạn quan trọng trong quá trình đưa pháp luật
vào cuộc sống để qua đó xây dựng xã hội có trật tự và an toàn theo pháp luật. Nội
hàm của khái niệm THPL hiện nay được định nghĩa khác nhau tuy theo quan niệm
41
và cách tiếp cận, nếu tập thể tác giả trưởng Đại học Luật Hà Nội (2009) cho rằng
“THPL là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật,
làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các
chủ thể pháp luật” [31, tr.494] thì các tác giả Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu
(2009) lại cho rằng “THPL là hoạt động của các chủ thể pháp luật làm cho những
quy tắc của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [90,
tr.400], các quan niệm này cho thấy rõ chủ thể tham gia THPL và tính chất của hoạt
động này là hoạt động “có mục đích” và “có ý thức” của chủ thể trong xã hội.
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về THPL nhưng nhìn chung các định
nghĩa đều thống nhất ở khía cạnh đó là hoạt động có chủ đích, có ý thức nhằm hiện
thực hóa các quy định pháp luật, đưa pháp luật đi vào cuộc sống thông qua hoạt
động của các chủ thể pháp luật. Về bản chất, THPL là việc các chủ thể pháp luật
bao gồm các cá nhân và tổ chức tạo lập các hành vi hợp pháp (những hành vi không
trái pháp luật, nằm trong giới hạn cho phép của pháp luật, phù hợp với những mệnh
lệnh (chỉ dẫn) của pháp luật).
Từ những phân tích trên, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại
I chính là việc các chủ thể pháp luật thực hiện hoặc không thực hiện các hoạt động
có mục đích, có ý thức của mình phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành làm
cho những quy định pháp luật về bảo đảm TTATXH đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật, hướng các hoạt động và
quan hệ xã hội trên địa bàn đô thị loại I đến trạng thái ổn định, cuộc sống của mọi
người dân được đảm bảo an toàn, không bị đe dọa hay gặp nguy hiểm, các quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trên địa bàn này được bảo vệ.
2.1.3. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn đô thị loại I
Thực hiện pháp luật về đảm bảo TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là một
dạng cụ thể của THPL, do vậy hoạt động này vừa có những đặc điểm chung của
THPL, vừa có những đặc điểm riêng mang tính đặc thù liên quan đến nội dung của
pháp luật về bảo đảm TTATXH cũng như đặc thù liên quan đến địa bàn đô thị loại
I. Theo, tác giả Nguyễn Minh Đoan (2019), THPL có những đặc điểm cơ bản:
42
(1) THPL là giai đoạn quan trọng không thể thiếu của cơ chế điều chỉnh
pháp luật; (2) THPL là hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp
luật; (3) THPL là nghĩa vụ của tất cả các tổ chức và cá nhân; (4) THPL là
hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hoá các quan định pháp luật; (5)
THPL được tiến hành thông qua nhiều hình thức và với những quy trình
khác nhau [39, tr.21-24].
Trong bốn hình thức THPL, tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật (hay còn
gọi thi hành pháp luật) và sử dụng pháp luật được thực hiện bởi tất cả các chủ thể
pháp luật, bao gồm, cá nhân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Trong khi đó, hoạt
động áp dụng pháp luật chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay người được
nhà nước trao quyền tiến hành; hoạt động này được tiến hành chủ yếu theo ý chí
đơn phương của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật, vì thế nó có
tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể liên quan. Quyết định
áp dụng pháp luật luật được bảo đảm bằng sự cưỡng chế nhà nước cần thiết, đây là
hoạt động có hình thức thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định, điều chỉnh cá biệt, cụ
thể đối với từng quan hệ xã hội xác định.
Trên cơ sở đó, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I có những
đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là hành vi
hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Đó là những hành vi mang tính pháp lý của các
chủ thể pháp luật sinh sống, làm việc trên địa bàn đô thị loại I phù hợp với các quy
định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trên địa bàn đô thị loại I, cũng có
thể hiểu là hành vi làm đúng theo những gì mà pháp luật quy định. Do đó, các chủ
thể thực hiện pháp luật đó có thể được biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không
hành động nhưng phải làm đúng, làm đủ, không trái với những quy định của luật,
nghĩa là hành vi được điều chỉnh bởi các quy định do nhà nước đặt ra.
Thứ hai, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I được tiến hành
bởi nhiều chủ thể với nhiều cách thức, hình thức khác nhau, mỗi hình thức thực hiện
pháp luật có nhóm chủ thể riêng biệt. Ở Việt Nam, việc đảm bảo TTATXH nói
chung và trên địa bàn đô thị loại I được xác định là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân, đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của cả
43
xã hội. Do vậy, chủ thể thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô
thị loại I khá đa dạng, mỗi nhóm chủ thể khác nhau theo vị trí, vai trò cũng như
chức năng, nhiệm vụ của mình sẽ thực hiện những nhiệm vụ khác nhau trong quá
trình THPL như sau:
Một là, các cá nhân và tổ chức là những chủ thể trực tiếp tuân thủ, chấp hành
và sử dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I trong việc đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy có thể thấy chủ thể của các hình
thức như tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa
bàn đô thị loại I bao gồm các cá nhân và tổ chức trong đó có các cơ quan công
quyền. Đối với các cơ quan trong hệ thống chính trị mỗi cơ quan, tổ chức theo chức
năng nhiệm vụ của mình có nhiệm vụ khác nhau trong quá trình THPL về bảo đảm
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.
Hai là, ở Việt Nam, Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo bộ máy nhà nước
thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực TTATXH nói chung và
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I nói riêng. Do đó, trong quá trình bảo đảm
TATXH, các cấp ủy Đảng có vai trò chỉ đạo, định hướng các hoạt động liên quan
đến bảo đảm TTATXH thông qua việc đề ra chủ trương, xây dựng mô hình, định
hướng các hoạt động đảm bảo trật tự an toàn xã hội, đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo bộ
máy Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị- xã hội thực hiện nhiệm vụ bảo
đảm TTATXH.
Ba là, Nhà nước bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp là cơ
quan trực tiếp triển khai quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thành các
chương trình chính sách, pháp luật triển khai trong thực tế nhằm đảm bảo
TTATXH. Theo đó các nhóm cơ quan trong bộ máy nhà nước sẽ thực hiện các
chức năng nhiệm vụ sau: (i) Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, thực hiện
quyền lập pháp, thể chế hóa quan điểm của Đảng thành các quy định trong hệ
thống pháp luật nhằm tạo ra chuẩn mực pháp lý định hướng, điều chỉnh hành vi
của các cá nhân và tổ chức hướng đến bảo đảm TTATXH; (ii) các cơ quan hành
pháp bao gồm Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương các
cấp thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhằm quản lý, điều hành các hoạt
động xã hội nói chung nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội theo chức năng nhiệm
44
vụ của mình. Theo đó nội dung thực hiện pháp luật của cơ quan hành pháp là: (1)
Thực hiện tuyên truyền pháp luật đến mọi người dân; (2) hiện thực hoá quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp luật bằng việc ban hành văn bản dưới luật
để hướng dẫn, triển khai luật, thực hiện cách chính sách phát triển KT-XH và tổ
chức, điều hành các hoạt động KT-XH; (3) kiểm tra giám sát các vi phạm pháp
luật; (4) Giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật; (5) Kiểm tra quá
trình thực hiện pháp luật của các cơ quan; (iii) các cơ quan tư pháp bao gồm: Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân là các cơ quan trực tiếp áp
dụng các quy định pháp luật trong việc đấu tranh phòng ngừa và xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm TTATXH.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên có trách nhiệm giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức Đảng trong quá trình thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luât của nhà nước về bảo đảm
TTATXH; đồng thời có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục người dân trên địa bàn
đô thị loại I thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo đảm TTATXH,
đồng thời phối hợp với các cơ quan khác trong thực hiện quản lý nhà nước về bảo
đảm TTATXH.
Như vậy, chủ thể THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I rất
đa dạng từ các cá nhân với tư cách là công dân tới các cơ quan với tư cách người
thực thi, áp dụng pháp luật và các tổ chức khác. Trong các chủ thể thực hiện pháp
luật thì chỉ có các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới thực hiện hình thức áp
dụng pháp luật nghĩa là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể vi
phạm pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý theo quy định pháp luật. Mỗi nhóm chủ
thể có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, do vậy để đảm bảo TTATXH trên địa bàn
đô thị loại I cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể này trong việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình đồng thời cần phải có sự phân định rạch ròi chức
năng nhiệm vụ của từng nhóm chủ thể.
Thứ ba, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I vừa mang tính
quyền lực nhà nước vừa mang tính cộng đồng. Tính quyền lực nhà nước thể hiện ở
chỗ pháp luật là các nguyên tắc sử sự bắt buộc chung do nhà nước đặt ra và được
thực hiện bởi bộ máy cưỡng chế của nhà nước. Các hoạt động liên quan đến áp
45
dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước, được thực hiện
bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được Nhà
nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể,
đối với cá nhân, tổ chức cụ thể. Việc áp dụng pháp luật được thực hiện bởi cán bộ,
công chức có thẩm quyền hay một tổ chức được giao quyền, căn cứ vào quy định
của pháp luật. Tính cộng đồng của thực hiện pháp luật thể hiện ở chỗ chủ thể THPL
đảm bảo TTATXH không chỉ là các cơ quan nhà nước mà là toàn thể xã hội. Các
quy định pháp luật mặc dù do nhà nước đặt ra nhưng khi nó trở thành nguyên tắc,
chuẩn mực điều chỉnh hành vi, được mọi người chấp nhận thì việc tuân thủ, chấp
hành hay sử dụng pháp luật trở thành nếp sống văn hóa thường xuyên của mỗi
người dân và cộng đồng. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải phát huy vai trò của
người dân, sự chủ động, tích cực của người dân tham gia vào quá trình giữ gìn
TTATH, cũng như trong quá trình đấu tranh, phòng chống tội phạm về TTAXT
trên địa bàn đô thị loại I.
Thứ tư, việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I có nhiều
điểm khác biệt so với thực hiện pháp luật ở khu vực nông thôn và các đô thị loại II,
III, IV và V. Các đô thị đã xuất hiện trong lịch sử loài người từ xa xưa, từ khi mà ở
nơi này bắt đầu hình thành một nếp sinh hoạt khác biệt với nếp sinh hoạt ở nông
thôn. Quá trình đô thị hoá dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ các đô thi, quá trình này
tác động mạnh mẽ đến KT-XH, làm cho các hoạt động KT-XH có sự biến đổi mạnh
mẽ, tạo ra nhiều khác biệt về hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng với nông thôn. Do vậy việc quản lý dân cư và TTATXH ở khu vực đô thị có
nhiều điểm khác biệt, như mật độ dân số tăng, các vấn đề về hạ tầng, y tế, giáo dục,
việc làm, vấn đề về tội phạm, các tệ nạn xã hội, môi trường, v.v.. đòi hỏi các cơ
quan chức năng phải giải quyết. Thông thường việc quản lý xã hội ở các vùng nông
thôn được thực hiện dựa trên nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo
lãnh thổ, còn ở đô thị, do kết cấu hạ tầng thống nhất, liên thông đòi hỏi phải quản lý
theo ngành là chủ yếu. Chính vì thế việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn
đô thị loại I đòi hỏi có sự phối hợp của cơ quan trên nhiều địa bàn. Hơn nữa, so với
đô thị loại II, III, IV và V, đô thị loại I với mật độ dân số cao hơn, tiêu chuẩn về hạ
46
tầng, các dịch vụ công cũng cao hơn, ngoài ra, đô thị loại I là trung tâm chính trị,
hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành có thành phố trực thuộc trung
ương, thành phố thuộc tỉnh hoặc thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương,
vì các vấn đề về đảm bảo TTATXH được đặt ra thường xuyên và tần suất giải quyết
các vấn đề về TTATXH phát sinh nhiều hơn, nên nguồn lực phục vụ cho nhiệm vụ
này được tập trung hơn, với quy mô lớn hơn. Tuy nhiên, với đặc điểm trình độ dân
trí cao hơn sơ với các đô thị II, III, IV và V, nên trong quá trình THPL về bảo đảm
TTATXH trên địa bàn các độ thị loại I, các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội cần phát huy vai trò tích cực, chủ động của người dân tham gia vào quá
trình bảo đảm TTATXH trên địa bàn các độ thị loại I.
2.1.4. Vai trò thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên
địa bàn đô thị loại I
Pháp luật là căn cứ cơ bản để nhà nước xây dựng chính sách phát triển, đồng
thời là công cụ để thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình tổ chức thực hiện
mục tiêu bảo đảm TTATXH. Do vậy việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn
đô thị loại I có vai trò quan trọng như:
Thứ nhất, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I nhằm đưa
những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đảm bảo TTATXH đi vào
cuộc sống. Những chủ trương đường lối của Đảng sẽ được Nhà nước thể chế hóa
thành chương trình, chính sách và pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô
thị loại I, trong đó thực hiện pháp luật là khâu đưa các quy định pháp luật đi vào
cuộc sống. Do đó nếu không có khâu thực thi pháp luật các chủ trương, chính sách
của Đảng sẽ không được chuyển tải thành các hành động cụ thể trong thực tế.
Thứ hai, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trạng thái xã hội ổn định, an toàn cho mọi
người dân trong đó cuộc sống của các cá nhân và tổ chức trên địa bàn này được bảo
vệ, quyền và lợi ích chính đáng của công dân được đảm bảo. Đồng thời đây là cách
thức đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong đó các quyền con người, quyền
công dân, được bảo vệ bằng bộ máy cưỡng chế của nhà nước, tránh cho xã hội trên
địa bàn đô thị loại I rơi vào trạng thái rối loạn hoặc phát triển tự phát, thiếu tổ chức,
kỷ luật và thiếu quy hoạch.
47
Thứ ba, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I nhằm thông qua
quá trình THPL, các vấn đề của cá nhân và tổ chức được giải quyết theo hướng làm
hài hòa các quan hệ xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Cuộc
sống của người dân trên địa bàn đô thị loại I được bảo đảm an toàn tránh khỏi các
mối đe dọa, nguy hiểm bởi tội phạm, sự đàn áp. Đó là cách thức để việc giữ gìn an
ninh và an toàn cho con người, nhờ đó, con người có điều kiện phát triển mà không
phải lo lắng, sợ hãi trước sự đe dọa từ bên trong cũng như bên ngoài.
Thứ tư, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I nhằm giúp các
cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trên địa bàn này nâng cao ý thức pháp luật,
ngăn chặn và phòng ngừa hành vi vi phạm các quy định và chuẩn mực chung do
nhà nước đề ra. Việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I tạo
môi trường, cơ hội pháp lý như nhau đối với các thành viên trong xã hội để họ có
cuộc sống an toàn tạo cơ hội để họ phát huy tài năng, trí tuệ, sức lực để hoàn thiện
và phát triển bản thân mình, đồng thời phát triển xã hộ, đây là cách thức để điều
hòa lợi ích giữa các tầng lớp xã hội, bảo đảm cho xã hội phát triển hài hòa và ổn
định. Trong quá trình phát triển, xã hội luôn có xu hướng phân hóa, sự phân hóa
xã hội sẽ có tác động tiêu cực đến sự phát triển chung, Do đó thông qua quá trình
THPL sẽ giúp cộng đồng trên địa bàn các đô thị loại I điều hoà các mối quan hệ xã
hội, điều hòa các lợi ích, giúp cho hoạt động quản lý phát triển xã hội đạt hiệu quả
cao, từ đó thúc đẩy phát triển KT-XH trên địa bàn theo hướng bền vững, tạo lập
môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn đinh, an toàn, thân thiện, môi trường tự
nhiên trong lành, bảo đảm tốt an ninh, an sinh xã hội cho mọi người dân, cơ quan,
tổ chức và các doanh nghiệp hoạt động, sản xuất và thụ hưởng các thành quả phát
triển trên địa bàn đô thị loại I, đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của cả
vùng và cả nước.
Thứ năm, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I cũng là
phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước, buộc những người có chức vụ, quyền
hạn, các cơ quan chức năng phải hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp
luật, thực hiện đúng và đủ quyền hạn và chức trách của mình. Thông qua đó, hoạt
động THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là cách thức phòng,
chống sự tha hóa quyền lực, làm cho bộ máy công quyền hoạt động một cách hiệu
48
quả theo đúng tuân chỉ mục đích mà xã hội đặt ra, từ đó bảo đảm, thúc đẩy và phát
triển quyền con người, quyền công dân trên địa bàn đô thị loại I.
2.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT VÀ CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I
2.2.1. Nội dung pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
đô thị loại I
Các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng
nên các hành vi thực hiện chúng rất phong phú và đa dạng. Căn cứ vào cách thức
điều chỉnh pháp luật, nội dung pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị
loại I bao gồm:
(1) Các quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong giữ gìn
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, đó là: (i) Các quy định pháp luật cấm thực
hiện nhằm đảm bảo TTATXH, như cấm các hành vi xâm phạm đến tính mạng,
sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, v.v..; (ii) Các quy định pháp luật bắt
buộc phải thực hiện nhằm bảo đảm các chủ thể pháp luật thực hiện đúng quy định
pháp luật về bảo đảm TTATXH, như bắt buộc mọi người điều khiển, người ngồi
trên xe mô tô, xe máy (kể cả xe máy điện) phải đội mũ bảo hiểm theo đúng quy
cách khi tham gia giao thông trên đường bộ, v.v..; (iii) Các quy định pháp luật quy
định quyền của các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội về bảo đảm
TTATXH, như quyền được học tập, quyền được khám chữa bệnh, quyền được kết
hôn, quyền tự do kinh doanh; v.v..;
(2) Các quy định về chức năng, nhiệm vụ của chủ thể trong việc bảo đảm
TTATXH, phòng chống các hành vi vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm
TTATXH, bao gồm: (i) Các quy định pháp luật liên quan đến các hoạt động phòng,
chống tội phạm (các loại tội phạm liên quan trực tiếp đến đời sống sinh hoạt của
cộng đồng); (ii) Các quy định pháp luật về hoạt động phòng, chống tệ nạn xã hội,
các hành vi sai lệch xã hội khác; (iii) Các quy định pháp luật về các hoạt động liên
quan đến phòng ngừa tai nạn bao gồm phòng ngừa tai nạn giao thông và các tai nạn
liên quan đến cháy nổ và các tai nạn khác; (iv) Các quy định pháp luật về hoạt động
quản lý hành chính về trật tự xã hội; (v) Các quy định pháp luật liên quan đến giáo
dục, cải tạo phạm nhân, học sinh các trường giáo dưỡng, trung tâm cai nghiệm và
49
các cơ sở chữa bệnh bắt buộc; (vi) Các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường,
phòng chống các sự cố về môi trường.
2.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã
hội trên địa bàn đô thị loại I
Cho đến nay, trên phương diện lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, các
công trình nghiên cứu đều xác định THPL có bốn hình thức cơ bản: tuân thủ pháp
luật; chấp hành pháp luật (hay còn gọi thi hành pháp luật); sử dụng pháp luật và áp
dụng pháp luật. Trên cơ sở đó, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại
I bao gồm các hình thức sau, đó là: (1) tuân thủ pháp luật về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I; (2) chấp hành pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn
đô thị loại I; (3) sử dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I;
(4) áp dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.
2.2.2.1. Tuân thủ pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
đô thị loại I
Tuân thủ, theo Từ điển tiếng Việt, được hiểu là giữ và làm đúng theo điều đã
quy định; trong Từ điển Cambridge Dictionary “compliance” có nghĩa là tuân thủ
và tuân thủ thường được hiểu là “làm theo một quy tắc (nguyên tắc hay quy định),
chẳng hạn như một quy định, một chính sách, một chuẩn mực hoặc luật lệ” [130].
Theo nghĩa chung này, tuân thủ pháp luật chính là các cá nhân, tổ chức thực hiện
đúng các quy định pháp luật. Trên cơ sở đó, tập thể tác giả Phạm Hồng Thái và
Đinh Văn Mậu (2009) cho rằng: “tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện
pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hành những hoạt
động mà pháp luật ngăn cấm” [90, tr.400]; tác giả Nguyễn Minh Đoan (2019) cũng
cho rằng “tuân thủ pháp luật là hình thức các chủ thể pháp luật thực hiện các quy
phạm pháp luật cấm bằng hành vi không hành động, nói cách khác, các tổ chức, cá
nhân kiềm chế, giữ mình, không làm những gì mà pháp luật cấm” [39, tr.36]. Theo
cách tiếp cận đó, tuân thủ (tuân theo) pháp luật chính là một hình thức THPL đối
với các quy định mang tính ngăn cấm, cấm đoán hoặc thực hiện các giới hạn mà
pháp luật cho phép. Do vậy, các hành vi được đánh giá là tuân thủ pháp luật chủ
yếu dưới dạng không tiến hành các hoạt động mà pháp luật cấm. Chủ thể thực hiện
50
các hành vi tuân thủ pháp luật là: mọi tổ chức, cá nhân. Hình thức tuân thủ pháp luật
là kiềm chế không thực hiện điều pháp luật cấm hay thực hiện các giới hạn mà luật
cho phép. Về tính chất của hành vi đó là những hành vi các cá nhân, tổ chức buộc
phải thực hiện một cách tích cực các quy định cấm của pháp luật.
Theo cách tiếp cận này, tuân thủ pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn
đô thị loại I là hình thức THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I mà
các cá nhân, tổ chức kiềm chế không thực hiện những điều mà pháp luật về bảo
đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I cấm.
2.2.2.2. Chấp hành pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
đô thị loại I
Tác giả Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu (2009) cho rằng, chấp hành pháp
luật là “một hình thức THPL, trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình
bằng hành động tích cực” [90, tr.401]; tác giả Nguyễn Minh Đoan (2019) cũng cho
rằng “chấp hành pháp luật là hình thức các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định
pháp luật bằng hành vi hành động, nói cách khác, các tổ chức, cá nhân buộc phải
tiến hành những hành động nhất định để thực hiện nghĩa vụ pháp lý” [39, tr.37].
Theo cách tiếp cận đó, chấp hành pháp luật là hình thức THPL, trong đó các chủ thể
pháp luật thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình một cách chủ động, tích cực.
Nghĩa vụ pháp lý được quy định trong các quy phạm pháp luật bắt buộc và
được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Do vậy các chủ thể
thực hiện pháp luật nếu không chủ động thực hiện các nghĩa vụ pháp lý do pháp
luật quy định thì sẽ có bộ máy cưỡng chế của Nhà nước để buộc cá nhân và tổ chức
phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình. Như vậy, so với hình thức tuân thủ pháp
luật thì việc chấp hành pháp luật là hành động bắt buộc đối với các chủ thể pháp
luật phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý theo quy định pháp luật.
Trên phương diện đó, chấp hành pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa
bàn đô thị loại I là một hình thức thực hiên pháp luật về bảo đảm TTATXH trên
địa bàn đô thị loại I mà các chủ thể pháp luật (cá nhân, tổ chức) thực hiện nghĩa
vụ pháp lý của mình theo các quy định của pháp luật về bảo đảm TTATXH trên
địa bàn đô thị loại I.
51
2.2.2.3. Sử dụng pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô
thị loại I
Tác giả Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu (2009) cho rằng, sử dụng pháp
luật là một hình thức THPL, trong đó “con người được thực hiện những hành vi cho
phép theo quy định của các quy định pháp luật” [90, tr.401]; tác giả Nguyễn Minh
Đoan (2019) cũng cho rằng “sử dụng pháp luật là hình thức THPL, trong đó các chủ
thể pháp luật tiến hành những hành vi mà pháp luật cho phép” [39, tr.37]. Theo
cách tiếp đó, sử dụng pháp luật khác với chấp hành và tuân thủ pháp luật ở chỗ chủ
thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật trao theo
ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện. Các quy định pháp luật được
áp dụng trong hình thức thực hiện pháp luật này là “quy định về quyền và tự do
pháp lý của các chủ thể được thực hiện ở hình thức này” [39, tr.38].
Như thế, sử dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là
một hình thức THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I mà các chủ thể
pháp luật thực hiện các quyền mà pháp luật về đảm bảo TTATXH trên địa bàn đô
thị loại I đã quy định hoặc cho phép.
Quyền và tự do pháp lý về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là
những hành vi mà pháp luật cho phép các chủ thể trên địa bàn đô thị loại I thực hiện
nên các chủ thể này có thể thực hiện hoặc không thực hiện các quyền, tự do đó tuỳ
theo ý chí của mình, chứ không bắt buộc phải thực hiện. Ví dụ theo quy định pháp
luật công dân có quyền khiếu nại, tố cáo nếu thấy quyền và lợi ích của mình bị cá
nhân hay tổ chức vi phạm. Nếu khi quyền và lợi ích bị vi phạm cá nhân hay tổ chức
thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo để cơ quan chức năng có thẩm quyền bảo vệ lợi
ích cho mình đó là chúng ta đang sử dụng pháp luật.
2.2.2.4. Áp dụng pháp luật về bảo bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô
thị loại I
Tác giả Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu (2009) cho rằng:
Áp dụng pháp luật là một hoạt động tổ chức, mang tính quyền lực nhà
nước của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, nhằm thực hiện
trong thực tế các quy phạm pháp luật trong tình huống cụ thể của cuộc
sống. Đó là: (1) khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với những
52
chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật; (2) khi những quyền chủ thể và
nghĩa vụ pháp lý cụ thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp
của nhà nước; (3) khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ
pháp lý giữa các biên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không
thể tự giải quyết được; (4) trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước
thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên
tham gia quan hệ đố, hoặc Nhà nước xác nhận sự tổn tại hay không tồn
tại một số sự việc, sự kiện thực tế [90, tr.402-403].
Tác giả Nguyễn Minh Đoan (2019) cũng cho rằng “áp dụng pháp luật là hình
thức THPL, trong đó các chủ thể có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật
khác thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy đinh
của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm
dứt những quan hệ pháp luật cụ thể” [39, tr.38-39].
Tư quan niệm của các chuyên gia pháp lý trên, cho thấy áp dụng pháp luật là
hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước, do các cơ quan, tổ chức hoặc các cá
nhân có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm cá
biệt hóa các quy phạm pháp luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với
các cá nhân, tổ chức cụ thể. Thực chất đây là hoạt động của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hoặc cá nhân được Nhà nước trao quyền nhằm tổ chức cho các cơ quan
nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và các cá nhân
khác thực thi các quy phạm pháp luật một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất.
Như thế, áp dụng pháp luật bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là một
hình thức THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I mà cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc cá nhân được nhà nước uỷ quyền tổ chức cho các chủ thể
pháp luật khác thực hiện những quy định pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa
bàn đô thị loại I hoặc tự mình căn cứ vào các quy đinh của pháp luật hiện hành về
bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I để ban hành các quyết định làm phát
sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể trên địa bàn
đô thị loại I.
Từ nội hàm khái niệm này cho thấy, hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của
53
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý trên địa bàn đô thị loại I, nó được thực
hiện chặt chẽ theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm điều chỉnh cá biệt,
cụ thể đối với cá quan hệ xã hội về TTATXH phát sinh trên địa bàn đô thị loại I.
2.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I
2.3.1. Các tiêu chí đánh giá thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
Việc đánh giá THPL về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
được căn cứ vào hai loại tiêu chí, đó là: trước hết là các tiêu chí cụ thể, đó là việc
đánh giá dựa vào đánh giá kết quả của các hình thức THPL về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I; sau đó, trên cơ sở kết quả đánh giá các hình thức THPL
đó, việc đánh giá tổng thể hoạt động THPL phải dựa trên tiêu chí tổng hợp từ các
kết quả đó.
2.3.1.1. Các tiêu chí cụ thể đánh giá hoạt động thực hiện pháp luật về bảo
đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
Việc đánh giá cụ thể THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I
được xây dựng trên cơ sở đánh giá các hình thức THPL, đó là việc tuân thủ, chấp
hành, sử dụng và áp dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.
Thứ nhất, tiêu chí đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I.
Khi đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức thông thường
chúng ta căn cứ vào các hành vi vi phạm các quy định pháp luật. Như vậy, chúng ta
thấy rằng tiêu chí đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của các chủ thể pháp luật dựa
trên mức độ kiềm chế không thực hiện “các quy định pháp luật cấm”. Do đó việc
đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật thường được đo lường thông qua số lần vi phạm
bị xử lý hay phát hiện. Tuy nhiên, việc đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật thông
qua số lần vi phạm các quy định của luật, số lần có hành vi mắc lỗi bị phạt sẽ không
phản ánh đầy đủ việc tuân thủ pháp luật của các cá nhân và tổ chức, bởi có thể trong
thực tế có những trường hợp không tuân thủ pháp luật nhưng không bị phát hiện
hay xử lý. Trong phạm vi luận án này, việc đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật về
bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I thông qua các hành vi vi phạm pháp
54
luật về bảo đảm TTATXH, theo đó mức độ tuân thủ pháp luật của các cá nhân và tổ
chức sẽ được đánh giá thông qua các hành vi không thực hiện các quy định pháp
luật cấm về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, nó được thể hiện ở số liệu
liên quan đến các loại tội phạm xảy ra trên địa bàn đô thị loại I.
Thứ hai, tiêu chí đánh giá mức độ chấp hành pháp luật về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I
Việc đánh giá mức độ chấp hành pháp luật của các chủ thể sẽ được căn cứ và
mức độ tích cực thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật, điều này
được phản ánh thông qua các hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ,
không tốt các nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I. Do đó, việc đánh giá hành vi chấp hành pháp luật về bảo
đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I được thực hiện thông qua các số liệu liên
quan đến các hành vi bị xử phạt do không thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình.
Ngoài ra, đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên địa bàn đô thị loại I,
việc chấp hành pháp luật còn được đánh giá thông qua hiệu quả hoạt động của cơ
quan này.
Thứ ba, tiêu chí đánh giá mức độ sử dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I.
Việc đánh giá mức độ sử dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn
đô thị loại I được xác định bằng việc người dân, doanh nghiệp và các tổ chức thực
hiện quyển và tự do của mình theo quy định pháp luật về TTATXH trên địa bàn đô
thị loại I.
Thứ tư, tiêu chí đánh giá mức độ áp dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên
địa bàn đô thị loại I
Việc đánh giá áp dụng pháp luật bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I
được căn cứ vào kết quả các quyết định quản lý nhà nước làm phát sinh, thay đổi,
đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể liên quan đến quyền, lợi ích
hợp pháp hoặc trách nhiệm pháp lý của các chủ thể pháp luật trên địa bàn đô thị loại
I. Trong đó, số lượng, chất lượng giải quyết các vụ vi phạm pháp luật về bảo đảm
TTATXH của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên địa bàn đô thi loại I là tiêu
55
chí quan trọng để đánh giá kết quả áp dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa
bàn đô thị loại I.
2.3.1.2. Các tiêu chí tổng thể đánh giá hoạt động thực hiện pháp luật về bảo
đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
Việc đánh giá tổng thể hoạt động THPL cần: so sánh giữa trạng thái của các
quan hệ xã hội trước và sau khi pháp luật được thực hiện; so sánh giữa những biến
đổi tích cực với những biến đổi không tích cực của các quan hệ xã hội do việc
THPL mang lại; đối chiếu và so sánh kết quả thực tế đạt được do việc THPL với
mục đích, yêu cầu mong muốn đạt được khi thực hiện nó [39, tr.89]. Như thế kết
quả THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là tổng hoà kết quả của
các hình thức THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, vì thế, trên cơ
sở đánh giá kết quả các hình thức THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị
loại I, việc đánh giá tổng thể hoạt động THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô
thị loại I theo các tiêu chí sau:
Thứ nhất, mức độ ổn định kinh tế, xã hội trên địa đô thị loại I.
Mức độ ổn định kinh tế, xã hội trên địa bàn đô thị loại I phản ánh trạng thái
các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật về TTATXH trên
địa bàn, mức độ ổn định kinh tế, xã hội sẽ được thể hiện thông qua tốc độ phát triển
kinh tế qua các năm, mức độ phát triển văn hoá, xã hội, an sinh xã hội, v.v.. Nếu
múc độ ổn định kinh tế, xã hội loại I càng cao thì hoạt động THPL về TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I càng cao và ngược lại.
Thứ hai, mức độ an toàn, yên ổn, các quyền và lợi ích chính đáng của người
dân, doanh nghiệp và các tổ chức khác trên địa bàn đô thị loại I.
Kết quả hoạt động THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I phản
ánh trực diện mức độ an toàn, yên ổn, các quyền và lợi ích chính đáng của người
dân, doanh nghiệp và các tổ chức khác trên địa bàn đô thị loại I, nếu hoạt động
THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ngày càng tốt thì mức độ an
toàn, yên ổn, các quyền và lợi ích chính đáng của người dân, doanh nghiệp và các tổ
chức khác trên địa bàn đô thị loại I ngày càng cao và ngược lại.
56
2.3.2. Các điều kiện để thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã
hội trên địa bàn đô thị loại I
Thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I vừa mang
tính quyền lực nhà nước vừa mang tính cộng đồng. Chủ thể THPL vừa là các cơ
quan công quyền vừa là công dân với tư cách cá nhân hay với tư cách tổ chức. Do
vậy việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I chịu ảnh hưởng của
nhiều nhóm nhân tố. Để bảo bảo THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị
loại I cần có các điều kiện cơ bản như sau:
2.3.2.1. Điều kiện về hệ thống pháp luật đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên
địa bàn đô thị loại I
Để bảo đảm chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I
thì yếu tố căn bản và quan trọng là chất lượng hay mức độ hoàn thiện của hệ thống
pháp luật về bảo đảm TTATXH nói chung và TTATXH trên địa bàn đô thị loại I
nói riêng. Hệ thống pháp luật này càng cụ thể, chi tiết và phù hợp bao nhiêu thì việc
thực hiện pháp luật càng dễ dàng thuận tiện, hiệu quả bấy nhiêu và ngược lại nếu hệ
thống pháp luật này thiếu đồng bộ, thiếu tính khả thi thì việc THPL trong thực tế sẽ
gặp phải những trở ngại và gián đoạn do sự xung đột giữa nội dung các quy phạm
và thực tiễn các quan hệ xã hội. Một hệ thống pháp luật về TATXH trên địa bàn đô
thị loại I hoàn thiện với các quy định đầy đủ, cụ thể trong luật và văn bản hướng
dẫn thi hành là điều kiện quan trọng để các chủ thể biết và thực hiện; đồng thời
tránh được sự tùy tiện trong quá trình tuân thủ, chấp hành, sử dụng hay áp dụng
luật. Các quy định pháp lý thiếu rõ ràng sẽ dẫn đến tình trạng các cơ quan áp dụng
pháp luật thiếu thống nhất đối với cùng một hành vi và tình huống vi phạm tương
tự, từ đó dẫn đến việc tuỳ tiện trong việc lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng,
khung hình phạt, hoặc có thể buộc tội theo tư duy, mong muốn chủ quan của mình,
đây là cơ sở dẫn đến oan sai hoặc bỏ lọt tội. Đồng thời sự thiếu rõ ràng dễ dẫn đến
tình trạng việc định khung hình phạt là không thống nhất, điều này vi phạm quyền
được xét xử đúng đắn và công bằng trước pháp luật của chủ thể pháp luật.
Mặt khác, việc thiếu quy định rõ ràng cụ thể trong hệ thống pháp luật về bảo
đảm TTATXH sẽ khiến cho tình trạng bỏ qua tội phạm bởi thiếu căn cứ pháp lý để
xử các hành vi. Do vậy, nếu hệ thống pháp luật thiếu toàn diện, bao quát hay không
57
quy định rõ ràng cụ thể sẽ rất khó để người dân và các cơ quan công quyền thực
hiện tốt pháp luật trong thực tế. Ngoài yêu cầu về tính toàn diện, bao quát hệ thống
pháp luật cần đảm bảo tính đồng bộ để tránh trường hợp các cơ quan chức năng và
người dân không biết áp dụng theo quy định nào? Bên cạnh đó tính dễ áp dụng hay
việc giảm bớt tủ thục pháp lý cũng tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận với
hệ thống cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo quyền và lợi ích của mình.
Như vậy chúng ta thấy mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật về bảo đảm
TTATXH là nhân tố quan trọng tác động đến việc THPL về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I của người dân và cơ quan công quyền. Bởi nếu luật pháp
không phản ảnh hết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống thì cũng khó để đưa
pháp luật trở thành quy chuẩn định hướng, điều chỉnh hành vi trong thực tế.
2.3.2.2. Điều kiện về trình độ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn đô thị
loại I
Thực hiện pháp luật là quá trình thực hiện hành vi của các nhóm chủ thể khác
nhau trong xã hội do vậy việc thực hiện các hành vi của các nhóm phụ thuộc rất lớn
vào bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở đó các cá nhân sinh sống và làm
việc. Văn hoá là một hệ thống những giá trị, chuẩn mực và niềm tin được hình
thành, phát triển qua nhiều thế hệ. Các giá trị, quy chuẩn văn hóa được cá nhân học
hỏi trong quá trình sống tạo thành quy chuẩn dẫn dắt, điều chỉnh hành hành vi của
con người. Những cộng đồng, các cá nhân có các giá trị, niềm tin và chuẩn mực văn
hóa khác nhau sẽ có cách thức ứng xử khác nhau với những vấn đề họ gặp phải
trong cuộc sống. Do vậy các quy chuẩn giá trị văn hóa của cộng đồng là nhân tố ảnh
hưởng đến mức độ thực hiện pháp luật của các cá nhân hay tổ chức. Các nghiên cứu
về việc tuân thủ chấp hành pháp luật của người dân chỉ ra rằng môi trường văn hóa
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc THPL của các chủ thể pháp luật.
Chúng ta thường thấy rằng các cá nhân sống trong môi trường nơi có đa
số người dân có ý thức tuân thủ chấp hành quy định pháp luật thì xác
xuất để các cá nhân đó sa vào tệ nạn xã hội hay tội phạm là thấp hơn so
với các cá nhân sống trong môi trường xã hội có đa số người dân thiếu ý
thức chấp hành quy định của luật. Sự tác động của môi trường đến hành
vi tuân thủ pháp luật có thể thực hiện thông qua cơ chế học hỏi. Ví dụ
58
các cá nhân khi tham gia giao thông, họ có thể không biết cụ thể về các
quy định pháp luật nhưng anh ta cũng không vi phạm luật lệ vì đa số họ
thực hiện hành vi giống với những người cùng đi. Các nghiên cứu cho
thấy người dân thường nắm những yêu cầu chung của pháp luật mà ít
biết các quy phạm pháp luật cụ thể; nhưng trong nhiều trường hợp, tuy
không nắm được quy định cụ thể nào đấy nhưng do họ hành động theo
nếp sống xã hội nên không vi phạm pháp luật [85, tr.28-29].
Trong bảo đảm TTATXH, yếu tố tập quán, nếp sống, thói quen có ảnh hưởng
rất mạnh mẽ đến ý thức và hành vi pháp luật của người dân. Bởi tập quán văn hoá
sẽ định hình và điều chỉnh hành vi, do đó nó điều chỉnh hành vi tuân thủ, chấp hành
hay không tuân thủ chấp hành các quy định chung.
Ngoài yếu tố văn hóa thì bối cảnh kinh tế - sự thay đổi cơ cấu kinh tế cũng là
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tuân thủ, chấp hành hay sử dụng pháp luật của cá
nhân và tổ chức.
Nhà xã hội học người Pháp Emile Durkhiem chỉ ra rằng khi xã hội có sự
thay đổi diễn ra một cách nhanh chóng, điều này sẽ tạo ra trạng thái hỗn
độn, thiếu sự quan tâm giữa con người với con người đưa đến tình trạng
thiếu hụt chuẩn mực và giá trị sống đồng thời phá vỡ các chuẩn mực điều
chỉnh hành vi con người. Do vậy trong bối cảnh kinh tế có sự chuyển đổi
nhanh chóng thường các cá nhân dễ rơi vào trạng thái vô thức từ trạng
thái vô thức sẽ dẫn đến các hành vi lệch chuẩn, tội phạm xã hội, tệ nạn
xã hội gia tăng. Các nhà xa hội học cũng chỉ ra rằng tỷ lệ tội phạm gia
tăng trong nhóm người không có chỗ đứng [65, tr.65].
Các lý thuyết tội phạm học theo trường phái lại từ xã hội cho rằng các hành vi
tội phạm là sản phẩm của môi trường xã hội. Do đó khi tìm hiểu các nhân tố ảnh
hưởng đến việc thực hiện pháp luật chúng ta không thể bỏ qua nhóm nhân tố liên
quan đến bối cảnh kinh tế- xã hội. Tác động của yếu tố bối cảnh kinh tế xã hội đến
mức độ tuân thủ, chấp hành các quy định pháp luật sẽ được kiểm chứng khi chúng
ta so sánh việc tuân thủ, chấp hành, sử dụng hay áp dụng pháp luật ở các thời kỳ
khác nhau, giữa các địa bàn có đặc trưng kinh tế xã hội khác nhau.
59
Ngoài ra chúng ta cần quan tâm đến bối cảnh chính trị - pháp lý bởi việc thực
hiện pháp luật không thể tách rời với bối cảnh chính trị pháp lý nghĩa là nó liên
quan đến mức độ dân chủ, đến việc độc lập của hệ thống tư pháp. Theo
Montesquieu, công lý không thể có được trong một xã hội mà cơ quan tư pháp phải
phục tùng sự chuyên quyền, lạm quyền của bộ máy quyền lực nhà nước. Khác với
chế độ quân chủ, trong nhà nước dân chủ không một lĩnh vực nào của cuộc sống bị
loại trừ ra khỏi vòng xét xử của tòa án. Chính vì vậy, ông mạnh mẽ khẳng định
“Tòa án không thể là công cụ trong tay chủ thể quyền lực khi chính chủ thể đó
không là đối tượng của cơ quan tư pháp” [115]. Như vậy mức độ độc lập của tòa án
có ảnh hưởng đến khả năng phán xét và việc áp dụng pháp luật của các cơ quan
công quyền trong việc giải quyết các tranh chấp diễn ra trong xã hội, từ những tranh
chấp giữa các cá nhân cho đến các tranh chấp giữa cá nhân và tổ chức hay giữa các
tổ chức. Do vậy mức độ dân chủ và sự độc lập của cơ quan tư pháp, cơ chế phối
hợp hành động giữa các cơ quan công quyền sẽ là nhân tố có tác động trực tiếp đến
chất lượng của việc thực hiện pháp luật mà đặc biệt là chất lượng của việc áp dụng
pháp luật để đạt mục đích là bảo vệ công lý. Do đó nếu tòa án và các cơ quan tố
tụng khác không hoạt động độc lập đủ để cả các nhà chính trị lẫn dân chúng đều tự
cảm thấy là phải tuân theo phán xét thì tình trạng xét xử có vùng cấm, vùng nhạy
cảm và việc đảm bảo quyền xét xử đúng đắn công bằng bởi một tòa án có thẩm
quyền của người dân sẽ khó được đảm bảo trong thực tế.
Bên cạnh đó việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I bị chi
phối mạnh mẽ bởi các điều kiện liên quan đến cơ sở hạ tầng trên địa bàn đô thị loại
I như chất lượng của các công trình xây dựng, giao thông; liên lạc, kết cấu các khu
nhà ở, khu vực sản xuất… Trình độ phát triển khoa học công nghệ cũng là một
trong những yếu tố tác động trực tiếp đến việc THPL bảo đảm TTATXH của các
nhóm chủ thể. Trước đây khi công nghệ kỹ thuật chưa phát triển, máy tính và mạng
internet chưa phát triển tội phạm sử dụng công nghệ cao chưa xuất hiện. Ngày nay
cùng với sự phát triển của công nghệ, các loại tội phạm công nghệ cao liên quan
đến việc sử dụng máy tính, thiết bị số, khai thác mạng máy tính, mạng viễn thông
để gây tổn hại cho lợi ích của các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội ngày càng phát
60
triển, việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng chống tội phạm đã có nhiều
thay đổi.
2.3.2.3. Điều kiện về năng lực thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trên địa bàn đô thị loại I
Việc THPL nói chung và THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị
loại I chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ,
công chức thuộc các cơ quan công quyền. Đội ngũ cán bộ công chức các cơ quan
công quyền vừa là người tham mưu, xây dựng hệ thống pháp luật đồng thời là đội
ngũ trực tiếp thực thi pháp luật, đưa các quy định pháp luật đi vào cuộc sống. Họ
là người bảo vệ công lý và pháp luật, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, chống lại các hành vi vi phạm
pháp luật. Họ cũng là những người đóng vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh
liên tục, không khoan nhượng với các hiện tượng quan liêu, hành vi tham nhũng,
cửa quyền, tiêu cực khác, làm cho bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả. Do vậy, hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện pháp luật
xét đến cùng được quyết định bởi số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ làm
công tác thực hiện pháp luật, phụ thuộc vào năng lực thực thi pháp luật của đội
ngũ cán bộ công chức thuộc các cơ quan công quyền. Nghĩa là nó phụ thuộc vào
các yếu tố như số lượng, cơ cấu; chất lượng đội ngũ cán bộ bao gồm năng lực thực
thi công vụ được đánh giá thông qua kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi để thực
hiện công việc được giao. Năng lực thực thi công vụ còn bao hàm khả năng kết
hợp hài hòa các yếu tố trên trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt
được hiệu quả công việc cao nhất.
Năng lực thực thi công vụ của cán bộ các cơ quan công quyền không chỉ ảnh
hưởng đến hiệu quả thực hiện pháp luật của các cơ quan công quyền mà nó ảnh
hưởng trưc tiếp đến việc thực hiện pháp luật của người dân. Bởi Pháp luật là công cụ
kiểm soát hành vi của cá nhân và tổ chức từ bên ngoài tuy nhiên việc hiểu và có niềm
tin vào pháp luật có niềm tin vào sự nghiêm minh, đúng đắn của các cơ quan bảo vệ
pháp luật sẽ tạo ra hành vi kiểm soát từ bên trọng. Nếu pháp luật phản ánh đúng thực
tại xã hội, phù hợp với quy chuẩn mà đạo đa số người dân trong cộng đồng tin theo,
việc thực thi pháp luật nghiêm minh đủ tạo ra niềm tin của người dân vào các cơ quan
61
công quyền thì các cá nhân và tổ chức sẽ tự động thực hiện pháp luật một cách
nghiêm minh. Chúng ta thấy rằng niềm tin pháp luật không tự xuất hiện ở các cá
nhân mà phải có sự tác động của thực tiễn pháp luật, thực tiễn chấp hành pháp luật
của những người xung quanh và nhất là của các nhà chức trách áp dụng pháp luật.
Theo đó việc áp dụng, xử lý vi phạm pháp luật của các cơ quan công quyền không
được thực hiện một cách nghiêm minh, không kịp thời và đúng đắn sẽ có ảnh hưởng
tiêu cực đến yếu tố niềm tin pháp luật của các cá nhân và tổ chức do đó nó ảnh hưởng
đến việc tuan thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật của công dân.
2.3.2.4. Điều kiện về ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật của người dân,
doanh nghiệp và các tổ chức trên địa bàn đô thị loại I
Nếu các nhân tố liên quan đến chất lượng của hệ thống pháp luật, bối cảnh kinh
tế, văn hóa, chính trị, xã hội là nhân tố tác động kiểm soát các hành vi thực hiện pháp
luật của các nhóm chủ thể từ bên ngoài thì mức độ hiểu biết, niềm tin vào sự đúng
đắn nghiêm minh của pháp luật, thực thi pháp luật là những nhân tố tác động kiểm
soát định hướng hành vi tuân thủ pháp luật từ bên trong. Do đó việc tuân thủ, chấp
hành hay sử dụng pháp luật của người dân phụ thuộc vào năng lực pháp lý, trình độ
học vấn, mức độ hiểu biết, tin tưởng vào pháp luật của nhóm chủ thể này.
Walter C.Reckless nhà xã hội học người Mỹ chỉ ra rằng tội phạm là kết quả
của áp lực xã hội liên quan đến cá nhân thúc đẩy họ thực hiện hành vi phạm tội
cũng như sự thất bại trong việc chống lại áp lực đó [65, tr.75]. Do vậy trong môi
trường có nhiều biến đổi, con người đứng trước những áp lực điều này tạo ra điều
kiện đẩy con người đến hành vi phi chuẩn mực, không tuân thủ, chấp hành pháp
luật nhưng môi trường xã hội tạo cho họ cơ chế để kiểm soát hành vi để họ nhận
thức được rằng hành vi phi chuẩn sẽ bị trừng phạt thì khả năng các cá nhân xu
hướng tuân thủ chuẩn mực càng cao. Điều này đúng với người dân khi tuân thủ hay
chấp hành pháp luật đồng thời nó đúng với các công chức trong cơ quan công
quyền những người vừa tuân chủ vừa áp dụng quy định của luật. Nếu môi trường
văn hóa, chính trị pháp lý nghiêm minh tạo ra cơ chế ràng buộc hay đủ sức răn đe
điều này trực tiếp ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ hay sử dụng luật của các cá nhân
và tổ chức. Bởi yếu tố niềm tin vào pháp luật, công lý, vào thực thi pháp luật của cá
nhân và các cơ quan công quyền có tầm quan trọng đặc biệt trong việc định hướng
các hoạt động thực hiện pháp luật của các nhóm chủ thể này.
62
2.4. KINH NGHIỆM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN
TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ NHỮNG GIÁ
TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM
2.4.1. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn đô thị ở một số quốc gia
Singapore là quốc đảo, đồng thời cả đất nước này là một đô thị, đây là đô thị
được bảo đảm TTATXH đứng đầu châu Á, đứng thứ 13 toàn cầu về chỉ số pháp
quyền, tiếp đến là Tokyo (Nhật Bản) đứng thứ 15 và Seul (Hàn Quốc) đứng thứ 18
[131]. Các đô thị này thuộc các quốc gia châu Á vì thế có những nét tương đồng với
đô thị loại I ở Việt Nam về đặc điểm đô thị, về sự đang dạng các hoạt động KT-XH,
về thói quen, nền lối của một bộ phận người dân và về nét đặc trưng của văn hoá
phương đông (trọng tình hơn trọng lý); v.v.. Chính vì thế, việc nghiên cứu thực tiễn
THPL về bảo đảm TTATXH ở các đô thị này sẽ hữu ích cho Việt Nam hiện nay.
2.4.1.1. Tuân thủ pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
đô thị ở Singapore, Tokyo, Seul
Chính quyền ở Singapore, Tokyo, Seul đều có những quy định chặt chẽ, rõ
ràng về các hành vi cấm vì thế, người dân ở các đô thị này tuân thủ nghiêm ngăt các
hành vi cấm này, bao gồm những hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của chủ thể khác, như cấm các hành vi vi phạm đến quyền sở hữu của chủ thể; cấm
hành vi xâm phạm đến danh dự, sức khoẻ, tính mạng người khác; cấm các hành vi
vi phạm đến trật tự công cộng; v.v.. Ngoài ra, để giữ vệ sinh chung, như: cấm xả rác
hoặc khạc nhổ trên đường hoặc nơi công cộng; cấm ăn uống trên tàu điện ngầm;
không xả nước khi đi vệ sinh; không được ăn, mang theo hoặc buôn bán kẹo cao su
trên đất nước này. Thêm vào đó, để đảm bảo trật tự nơi công cộng, luật pháp tại các
quốc gia này quy định: không được phép ăn mặc quá hở hàng tại nơi công cộng;
cấm những hành vi quấy rối hoặc lời lẽ khiêu dâm với người khác; cấm hôn nhau
nơi công cộng; cấm tắm tại những nơi công cộng; cấm khỏa thân nơi công cộng,
thậm chí là bãi biển và khỏa thân đi lại trong chính ngôi nhà của mình; không được
ra ngoài khi đang say rượu; cấm mang hoặc uống rượu bia trong bệnh viện; nghiêm
cấm để chó cắn người; cấm thả diều nơi công cộng; cấm hút thuốc lá nơi công cộng
hoặc nơi không được phép hút, nếu có người ở tại nơi không cấm thì vẫn phải xin
63
phép những người có mặt để được phép hút; nghiêm cấm việc cố ý cản trở người
khác đi theo hướng mà người khác được đi; cấm gây ồn ào hoặc phiền toái đến
những người xung quanh dưới mọi hình thức.
Đặc biệt ở Singapore, pháp luật nước này còn quy định: mọi người không
được có thái độ hoặc biểu hiện không tốt khi ăn thức ăn; không được ngồi vào chỗ
đã có người nhận chỗ tại các cửa hàng ăn (nhận chỗ bằng cách đặt giấy ăn lên ghế -
chỗ mình nhận); không được đùa nghịch với đũa; không tháo giầy dép khi vào nhà
hoặc vào các đền chùa; không được dùng tay trái khi ăn các món Ấn hoặc Malaysia.
Các quy định pháp luật cấm về bảo đảm TTATXH được người dân thực hiện
tốt, việc vi phạm các quy định pháp luật cấm ở Singapore, Tokyo và Seul diễn ra
tương đối ít, chình vì thể chỉ số tội phạm ở các thành phố này tương đối thấp so với
nhiều đô thị khác ở các quốc gia trong khu vực (Biểu đồ 2.1).
Biểu đồ 2.1: Chỉ số tội phạm ở Singapore, Tokyo và Seul
Nguồn: Numbeo (2021) [129]
Tuy nhiên, trong những năm gần đây tỷ lệ tội phạm ở Singaore và Seul có
chiều hướng gia tăng (Biểu đồ 2.2), đặc biệt là các vụ các vụ lừa đảo mạo danh ở
Singapore trên mạng xã hội và lừa đảo qua mạng xã hội cũng tăng đáng kể, trong
khi các vụ lừa đảo cho vay cũng gia tăng [133].
Các vụ xâm hại tình dục trên mạng xã hội (Social network) ở Seul cũng
có chiều hướng gia tăng, nếu năm 2008, chưa đến 4% các vụ truy tố tội
phạm tình dục ở Hàn Quốc liên quan đến quay phim bất hợp pháp; đến
năm 2017, số vụ này đã tăng gấp 11 lần, từ 585 vụ lên 6.615 vụ, và
chúng chiếm 20% các vụ truy tố tội phạm tình dục [132].
64
Đơn vị: %
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ tội phạm trên 100000 dân ở Singapore và Seul
Nguồn: Statista (2021) [136] và Macrotrends (2021) [135]
2.4.1.2. Chấp hành pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
đô thị ở Singapore, Tokyo, Seul
Pháp luật ở Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc còn có các quy định bắt buộc
các chủ thể pháp luật phải thực hiện nhằm bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị,
tuỳ vào lĩnh vực cụ thể, hệ thống pháp luật về bảo đảm TTATXH có quy định cụ
thể để các chủ thể phải thực hiện nghiêm túc. Thực tế với điều kiện KT-XH phát
triển, trình độ dân trí cao cho nên người dân ở thành phố Singapore, Tokyo và Seul
chấp hành tốt các quy định pháp luật, trong đó pháp luật về an toàn giao thông, về
vệ sinh môi trường, v.v.. Như trong lĩnh vực kinh doanh, pháp luật Singapore đặt ra
quy định về điều kiện kinh doanh trong một số những ngành nghề nhất định, ví dụ:
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ khám chữa bệnh, giao thông vận tải và lưu trữ,
xuất nhập khẩu hàng hóa, kinh doanh khách sạn, nhà trọ, hoạt động trong ngành
giải trí, v.v..
Theo pháp luật Singapore, để có thể đăng ký kinh doanh hoặc thực hiện
kinh doanh trong một số ngành nghề cụ thể, doanh nghiệp phải được cấp
giấy phép hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh
đó, tại Singapore có 3 loại giấy phép phổ biến, đó là: giấy phép bắt buộc,
đây là loại giấy phép cấp cho doanh nghiệp kinh doanh nhưng không
phải tất cả các doanh nghiệp mà chỉ một số loại hình doanh nghiệp nhất
định đòi hỏi phải có giấy phép đặc biệt này trước khi họ có thể hoạt
động; giấy phép nghề nghiệp; giấy phép hoạt động kinh doanh [122].
65
Trong bối cảnh dịch Covid-19 hiện nay, Singapore đã triển khai thực hiện các
biện pháp phòng chống dịch bệnh, trong đó Chính phủ Singapore quyết định kéo
dài thời gian cách ly bắt buộc với người nhập cảnh từ các nước có nguy cơ cao lên
21 ngày, bắt đầu từ ngày 8/5/2021, đồng thời thắt chặt hơn một số biện pháp giãn
cách xã hội trong nước.
Tuy vậy, ở các đô thị, tình trạng người dân miễn cưỡng hoặc đối phó việc thực
hiện các nghĩa vụ theo quy định pháp luật vẫn còn xảy ra, trong đó chủ yếu xảy ra
trong lĩnh vực lao động, việc làm, kinh doanh, v.v..
Như ở Seul và một số nơi khác của Hàn Quốc, tình trạng phụ nữ làm
công việc không được trả lương nhiều gấp 4 lần nam giới và đối mặt với
khoảng cách trả lương theo giới là 32,5%; bạo lực trên cơ sở giới là phổ
biến, thậm chí so với ước tính toàn cầu rằng cứ 3 phụ nữ thì có 1 phụ nữ
bị bạo lực; trong một cuộc khảo sát năm 2017 với 2.000 nam giới Hàn
Quốc, gần 80% số người được hỏi thừa nhận đã có hành vi bạo lực với
bạn tình; Hàn Quốc là quốc gia hiếm hoi trên toàn cầu có tỷ lệ giết người
ngang nhau giữa nam và nữ [132].
2.4.1.3. Sử dụng pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô
thị ở Singapore, Tokyo, Seul
Hệ thống pháp luật ở Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc quy định rất rõ về
quyền và nghĩa vụ của người ở các nước này. Trong Hiến pháp của Singapore, Nhật
Bản và Hàn Quốc đều quy định rõ quyền tự do và các quyền cơ bản của người dân,
như: Hiến pháp Singapore năm 1963 (sửa đổi năm 2016) quy định quyền tự do,
quyền bình đẳng, quyền khiếu nại, quyền làm việc, v.v.. (từ Điều 9 đến Điều 16)
[134, tr.16-20]; Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 ũng quy định những quyền này từ
Điều 10 đến Điều 40 [58, tr.18-23]; tương tự Hiến pháp Hàn Quốc năm 1987 cũng
quy định từ Điều 10 đến Điều 39 [58, tr.39-47], người dân ở các đô thị này đã phát
huy quyền làm chủ của mình nhằm bảo đảm “nguyên tắc tự quản (tự trị)”, đặc biệt
là trực tiếp bầu ra thị trưởng. Hiến pháp Nhật Bản đã quy định “hoạt động bộ máy
chính quyền địa phương được pháp luật quy định phù hợp với nguyên tắc tự trị địa
phương” (Điều 92) [58, tr.33] và “Người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương,
thành viên của các hội đồng nhân dân và các công chức địa phương khác theo quy
66
định của pháp luật đều được bầu theo phương thức phổ thông đầu phiếu trực tiếp
trong cộng đồng” (Điều 93) [58, tr.33], theo đó chính quyền thành phố Tokyo được
tổ chức gồm 2 cơ quan: Hội đồng thành phố và Thị trưởng. Các thành viên Hội
đồng thành phố do người dân trực tiếp bầu ra, nhiệm kỳ 4 năm. Hội đồng thành phố
quyết định các chính sách quản lý và phát triển đô thị, giám sát hoạt động của cơ
quan hành chính: yêu cầu Thị trưởng báo cáo việc quản lý, thu chi ngân sách đô thị,
việc thi hành nghị quyết của Hội đồng.
Hội đồng thành phố đại điện cho 12 triệu công dân của Thủ đô Tokyo, có
quyền biểu quyết bất tín nhiệm đối với Thị trưởng. Thị trưởng do người
dân trực tiếp bầu ra và có nhiệm kỳ 4 năm, chịu trách nhiệm đối với toàn
bộ hoạt động của chính quyền đô thị và có quyền đại diện cho chính
quyền đô thị trong quan hệ với bên ngoài [2].
Cũng giống như mô hình của chính quyền đô thị Tokyo, mối quan hệ giữa
chính quyền thành phố Seoul và chính quyền các quận được xây dựng theo nguyên
tắc tự quản. Hiến pháp Hàn Quốc quy định “Chính quyền địa phương giải quyết các
vấn đề hành chính liên quan đến an sinh của dân cư địa phương, quản lý tài sản và
có thể đề ra các quy định liên quan đến tự chủ địa phương trong phạm vi luật định”
(Khoản 1, Điều 117) [58, tr.67], theo quy định đó, Chính quyền đô thị được thành
lập ở thành phố và cấp quận, trong đó chính quyền thành phố Seoul gồm Hội đồng
thành phố (Metropolitan Council) và Thị trưởng. Hội đồng được coi là cơ quan lập
pháp của thành phố, do người dân Seoul bầu, nhiệm kỳ 4 năm. Thị trưởng có văn
phòng của thị trưởng được bầu, và cơ quan hành pháp; chính quyền cấp quận cũng
bao gồm Hội đồng quận và Quận trưởng do người dân bầu ra. Dưới quận là phường
(xã) nơi có các nhân viên hành chính quận để cung cấp các dịch vụ công cho người
dân. Bên cạnh đó, người dân ở các đô thị này trực tiếp tham gia vào quá trình giữ
gìn TTATXH trên địa bàn họ sinh sống, như tham gia vào bảo vệ môi trường, bảo
vệ an ninh trật tự, v.v.. và thực hiện các hoạt động giám sát cộng đồng của người
dân. Chính vì thế, trong những năm qua, chỉ số an toàn ở Singapore, Tokyo và Seul
luôn ở mức độ cao và được xếp vào nhóm các đô thị có chỉ số an toàn cao nhất ở
châu Á và thế giới (Biểu đồ 2.3).
67
.
Biểu đồ 2.3: Chỉ số an toàn ở Singapore, Tokyo và Seul
Nguồn: Numbeo (2021) [129]
2.4.1.4. Áp dụng pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
đô thị ở Singapore, Tokyo, Seul
Hoạt động áp dụng pháp luật trên địa bàn đô thị được chính quyền ở
Singapore, Tokyo, Seul thực hiện nghiêm túc. Các biện pháp chế tài được chính
quyền ở các đô thị này áp dụng triệt để nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm
TTATXH trên địa bàn đô thị, đồng thời tăng cường tính răn đe đối với các chủ thể
pháp luật. Theo pháp luật môi trường Singapore, chính quyền ở đây lấy chế tài hình
sự là công cụ cơ bản để thực thi, biện pháp này được áp dụng đối với người bị kết
án phạt tiền, phạt tù, bắt bồi thường và đối với những vi phạm nhỏ thì phạt cải tạo
lao động bắt buộc (chỉ áp dụng với những bị cáo đủ 16 tuổi trở lên và đủ tiêu chuẩn
y tế), cụ thể là:
(1) Hình phạt tiền: Đây là hình phạt phổ biến nhất trong các đạo luật về môi
trường của Singapore, phạt tiền được xem là công cụ hữu hiệu trong việc tăng
cường hiệu lực pháp luật về bảo vệ môi trường của Singapore.
Theo các đạo luật ở Singapore thì có nhiều mức độ vi phạt tiền khác
nhau, tuỳ thuộc vào các đạo luật khác nhau và mức độ nguy hiểm của
hành vi gây ra. Ví dụ trường hợp đổ rác nơi công cộng, nếu bị Toà án kết
tội thì người vi phạm sẽ bị phạt đến 10.000$ với vi phạm lần đầu và nếu
tái phạm sẽ bị phạt tới 20.000$ [76].
68
(2) Hình phạt tù: đây là chế tài nghiêm khắc nhất nhằm trừng trị những
người vi phạm ngoan cố, khi mà các hành vi phạm tội có thể mang lại cho người
phạm tội những khoản lợi nhuận lớn nếu họ không bị phát hiện và hình phạt tiền
vẫn không ngăn chặn được các hành vi mà người đó gây ra.
Theo Đạo luật về môi trường sức khoẻ cộng đồng và Đạo luật kiểm soát
ô nhiễm thì những người vi phạm lần đầu bị buộc tội về hành vi đưa chất
thải hoặc các chất độc hại vào nguồn nước ngầm có thể bị phạt tù đến 12
tháng. Đối với những người tái phạm thì có thể bị phạt tù với chế độ
khắc nghiệt từ 1 đến 12 tháng [76].
(3) Pháp luật nước này còn áp dụng các hình phạt khác như: tạm giữ và tịch
thu; lao động cải tạo bắt buộc và các biện pháp hành chính khác. Thêm vào đó, biện
pháp dân sự được áp dụng, đó là yêu cầu cá nhân gây ô nhiễm phải nộp phạt, bồi
thường thiệt hại, chi phí và các khoản phí tổn mà cơ quan có thẩm quyền phải chịu
để làm sạch môi trường...
Theo Điều 97 của Luật Bảo vệ môi trường của Singapore thì Chính phủ
có thể thu giữ lại từ người sở hữu hoặc quản lý tài sản các phí tổn và chi
phí đã được sử dụng trong quá trình thực hiện bất kỳ nào đã được quy
định trong luật. Trong vòng 14 ngày theo quy định, nếu chi phí này chưa
được thanh toán thì vụ việc sẽ được đưa ra Toà [76].
Tuy nhiên, việc xử lý các vụ vi phạm pháp luật ở các đô thị này không phải
lúc nào cũng thuận lợi và được nhân viên nhà nước thực hiện đầy đủ. Dữ liệu của
chính phủ Hàn Quốc cho thấy rằng trong phần lớn các trường hợp khi nhận tin báo
tội phạm, nghi phạm sẽ bị điều tra và bị truy tố.
Nhưng do các vụ phạm tôi thường rất phức tạp, đặc biệt trong môi trường số
và sự phát triển của mạng xã hội, các công tố viên đã bỏ qua nhiều trường hợp
phạm tội. Trong năm 2019, các công tố viên đã bỏ qua 46,8% các vụ án tội phạm
tình dục so, 27,7% các vụ giết người và 19% các vụ cướp, 43,5% các vụ án tội
phạm tình dục kỹ thuật số” [132].
2.4.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam
Từ thực tiễn THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị ở Singapore,
Tokyo và Seul cho thấy chính quyền ở các đô thị này khá thành công trong việc
69
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân, cũng như ý thức thực hiện
quyền và nghĩa vụ của bản thân họ trong việc gìn giữ và bảo vệ TTATXH trên
địa bàn đô thị, tuy nhiên, trong bối cảnh hiên nay, đặc biệt sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học, công nghệ, tình hình vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm trên
môi trường mạng Internet diễn biến phức tạp dẫn đến chính quyền ở các đô thị
này đôi khi chưa kịp thời có những biện pháp hữu hiệu nhằm phòng chống hiệu
quả các hành vi phạm tội này. Những kết quả đạt được và những hạn chế đó giúp
cho Việt Nam những bài học kinh nghiệm quý báu trong việc nâng cao chất
lượng hoạt động THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I hiện
nay, đó là:
Thứ nhất, hệ thống chính sách, pháp luật phải luôn luôn được hoàn thiện
nhằm đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng các quan hệ pháp lý khi quá trình đô thị hoá
diễn ra nhanh chóng, mật độ dân số ngày càng gia tăng, các hoạt động KT-XH diễn
ra phong phú, đa dạng và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ. Đây là
yêu cầu rất quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng hoạt động THPL về bảo
đảm TTATXH trên địa bàn đô thị, thực tế ở Singapore, Tokyo và Seul, chính quyền
đô thị ở các thành phố này phải luôn hoàn thiện chính sách và pháp luật để phù hợp
với yêu cầu quản lý các đô thị này.
Thứ hai, tăng cường phát huy vai trò của người dân tham gia vào quá trình
THPL. Thực tiễn ở Singapore, Tokyo và Seul, chính quyền ở các đô thị này đã phát
huy rất tốt vai trò của người dân tham gia vào quá trình giữ gìn TTATXH và đấu
tranh, phòng chống tội phạm; đồng thời thông qua đó, người dân phát huy tốt vai trò
làm chủ của mình trong quá trình xây dựng chính quyền, giám sát chính quyền
trong hoạch định và thực thi chính sách công.
Thứ ba, tăng cường kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên
trách trong bảo đảm TTATXH, đặc biệt nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức hành chính và tư pháp nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ áp dụng pháp
luật bảo đảm TTATXH.
Thứ tư, tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại để trợ giúp các
cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, giám sát việc THPL về bảo đảm TTATXH
70
trên địa bàn các đô thị, thông qua đó kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành
vi vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATXH.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật, trong đó gia tăng các biện
pháp chế tài nhằm tăng cường tính răn đe để các cá nhân, tổ chức không dám vi
phạm các quy định pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị; bên
cạnh đó, chính quyền đô thị thực hiện đa dạng các biện pháp tuyên truyền, phổ biến
pháp luật để mọi người dân trên địa bàn hiểu đầy đủ các quy định pháp luật và kiềm
chế không thực hiện các quy định cấm, cũng như tích cực thiện các quy định bắt
buộc phải làm và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình nhằm bảo đảm tốt
TTATXH trên địa bàn các đô thị trong thực tế.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 đã khái quát những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến THPL về
bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I. Trong đó, NCS đã chỉ ra các khái niệm
pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, trong đó NCS phân biệt
nó với khái niệm về pháp luật đảm bảo an ninh quốc gia. Từ đó, NCS đã phân tích,
làm rõ khái niệm, các hình thức, vai trò và đặc điểm của THPL về bảo đảm
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.
Để có cơ sở đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô
thị loại I ở Việt Nam trong thời gian qua, NCS đã xây dựng hệ thống các tiêu chí
đánh giá THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, trong đó bao gồm
hệ thống các tiêu chí cụ thể và các tiêu chí tổng thể đánh giá hoạt động THPL về
bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I. Đây sẽ là những chỉ dẫn quan trọng về
mặt lý luận để NCS tiến hành phân tích tài liệu, thu thập thông tin sơ cấp và thứ cấp
nhằm đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I của
Việt Nam trong các chương tiếp theo.
Bên cạnh đó, trong chương này NCS đã chỉ ra các điều kiện đảm bảo cho
việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I. Đây sẽ là cơ sở định
hướng giúp NCS phân tích các số liệu nhằm tìm đáp án cho câu trả lời xem những
thành tựu và hạn chế của việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I
71
có nguyên nhân từ đâu? Nghĩa là tìm xem đâu là những rào cản đối với việc nâng
cao chất lượng, hiệu quả THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I
nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả cho quá trình thực hiện pháp luật tại
địa bàn nghiên cứu.
Ngoài ra, trong chương này, NCS đã khảo nghiệm thực tiễn THPL về bảo
đảm TTATXH ở Singapore, Tokyo và Seul, đây là những đô thị có chỉ số an toàn
hàng đầu khu vực và thế giới, kết quả này đạt được chính là nhờ hoạt động THPL
về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị này tương đối tốt, từ đó tình hình vi
phạm pháp luật về TTATXH trên địa bàn đô thị, đặc biệt là tội phạm hình sự tương
đối thấp. Thực tiễn đó giúp cho Việt Nam rút ra những bài học kinh nghiệm quý
báu nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật để nâng cao chất lượng hoạt
động THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.
72
Chương 3
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ
AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM
3.1. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở
VIỆT NAM
3.1.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về bảo đảm
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam theo các tiêu chí
cụ thể
3.1.1.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về bảo đảm trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
Trong những năm qua, số lượng cá nhân và tổ chức vi phạm các quy định
pháp luật cấm về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong thời
gian qua ngày một giảm dần. Thực tế này cho thấy, người dân, doanh nghiệp và các
cơ quan, tổ chức tuân thủ pháp luật nói chung, pháp luật về bảo đảm TTATXH nói
riêng tương đối tốt, góp phần vào bảm đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I
ở Việt Nam. Trong đó, hiện nay có những thành phố ở Việt Nam có chỉ số tội phạm
tương đối thấp so với trung bình chung của cả nước (46.09), đặc biệt là các thành
phố du lịch như Đà Nẵng (28.7), Vũng Tàu (29.56), tiếp đó là Đà Lạt (35.15), Nha
Trang (43.24) (Bảng 3.1).
Bảng 3.1: Chỉ số tội phạm một số đô thị loại I Việt Nam năm 2020
STT
Thành phố
Chỉ số tội phạm
1
Hải Phòng
47.58
2
Đà Nẵng
28.70
3
Đà Lạt
35.15
4
Nha Trang
43.24
5
Vũng Tàu
29.56 Nguồn: Tổng hợp từ Numbeo (2021) [129]
Bên cạnh đó, số lượng vụ và đối tượng phạm tội và vi phạm pháp luật về
TTATXH của một số đô thị loại I ở Việt Nam (Đà Nẵng, Huế, Hạ Long, Đà Lạt,
Biên Hoà) trong giai đoạn 2012 - 2020 có sự giảm đáng kể về số vụ và số đối
73
tượng, trong đó: tổng số vụ giảm 19.19% và tổng số đối tượng giảm 13.24%, trong
đó, thành phố Hạ Long giảm số đối tượng nhiều nhất là 44.15%, thành phố Biên
Hoà giảm số vụ nhiều nhất là 30.92%, Đà Nẵng có số vụ giảm ít nhất là 7.13%, Huế
giảm số đối tượng ít nhất là 2.08% (Bảng 3.2).
Bảng 3.2: Số lượng tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự an toàn xã hội
của một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020
Đà Nẵng
Huế
Đà Lạt
Năm
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
547 484 527 546 558 531 523 516 508
Đối tượng 719 703 663 687 702 677 657 692 659
419 401 419 348 348 417 410 387 375
Đối tượng 384 390 419 437 442 419 425 391 376
Hạ Long Đối tượng 265 152 121 130 146 139 179 171 148
210 150 134 133 153 147 175 165 159
Biên Hoà Đối tượng 821 763 828 583 678 668 691 662 708
899 889 817 755 714 678 654 632 621
Đối tượng 327 266 316 298 343 284 337 295 292
192 189 197 170 166 170 178 172 169
4740
6159 3524
3683 1426
1451
1603
2758 6659
6402
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 Tổng số
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an các thành phố đô thị loại I (2021)
Kết quả này góp phần vào cải thiện chỉ số tội phạm (Crime Index) của nước
ta so với các quốc gia trên thế giới. Nếu năm 2012, chỉ số tội phạm của Việt Nam là
53.02 thì đến năm 2020 chỉ số này là 46.09, với sự tiến bộ này, vị trí xếp hạng của
Việt Nam đã được cải thiện từ 32 lên 63 (Bảng 3.3).
Năm 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020
Bảng 3.3: Chỉ số tội phạm ở Việt Nam năm 2012-2020
Chỉ số tội phạm 53.02 53.26 52.29 55.69 52.96 52.22 48.78 45.35 46.09
Xếp hạng 32/118 37/128 48/147 30/117 37/125 28/115 42/118 58/129 63/135
Nguồn: Tổng hợp từ Numbeo (2021) [129]
74
Với những chỉ số trên cho thấy, Việt Nam nói chung và các đô thị loại I ở
nước ta có môi trường xã hội an toàn, đây là một yếu tố đặc biệt quan trọng để thu
hút khách du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư ở Việt Nam và đảm bảo và
phát triển con người ở Việt Nam.
3.1.1.2. Những kết quả đạt được trong chấp hành pháp luật về bảo đảm trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
Thứ nhất, kết quả đạt được trong chấp hành pháp luật về bảo đảm
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam của người dân, doanh nghiệp và
các tổ chức khác.
Việc chấp hành các quy định pháp luật liên quan đến đảm bảo TTATXH trên
địa bàn các đô thị loại I đã đem lại kết quả tích cực trong việc tạo ra môi trường
sống an toàn lành mạnh cho mọi người dân, góp phần giữ vững môi trường xã hội
ổn định, đảm bảo an toàn cho tính mạng, sức khỏe và tài sản của đại đa số nhân dân.
Nhờ thành tựu trong việc chấp hành pháp luật về bảo bảo TTATXH, hầu hết các đô
thị loại I đã đạt trạng thái phát triển bình thường, có trật tự, kỷ cương trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, TTATXH được giữ vững, môi trường kinh tế, xã hội
phát triển lành mạnh theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Môi trường xã hội đạt
được trạng thái trật tự, kỉ cương trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở
các quy phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức, pháp lí xác định.
Ngoài ra, các nghiên cứu về mức độ tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp
cũng cho thấy các doanh nghiệp tuân thủ và chấp hành tương đối tốt các quy định
pháp luật. Các nghiên cứu về chấp hành pháp luật tại các doanh nghiệp dệt may cho
thấy các doanh nghiệp tuân thủ tương đối tốt các quy định của luật liên quan đến
các vấn đề như chi trả chế độ thai sản, nghỉ 60 phút trong giờ làm việc và nghỉ
khám thai cho người lao động [8, tr.16].
Thành tựu tiếp theo của việc thực hiện các quy định pháp luật về đảm bảo
TTATXH là tạo ra được trạng thái xã hội có trật tự. Các hành vi ứng xử của cá nhân
và tổ chức được điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm pháp luật. Trật tự công cộng
được đảm bảo, tạo môi trường sống tương đối an toàn cho mọi người dân. Các quy
định chung về giữ gìn trật tự, yên tĩnh, vệ sinh, nếp sống văn minh nơi cộng cộng
75
được tuân thủ. Đa số người dân có ý thức, giữ gìn vệ sinh chung, duy trì nếp sống
văn minh ở những nơi công cộng. Trật tự an toàn, giao thông được đảm bảo do đó
hoạt động giao thông tại các đô thị loại I thường diễn ra thông suốt, có trật tự, an
toàn, hạn chế tai nạn giao thông gây thiệt hại về người và tài sản. Các vụ cháy nổ
hay tai nạn lao động đã được kiểm soát.
Thứ hai, kết quả đạt được trong chấp hành pháp luật về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Một là, hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trên địa bàn đô thị loại I có những
chuyển biến tích cực.
Để triển khai thực hiện pháp luật, chính quyền địa phương (UBND và
HĐND) các đô thị loại I đều ban hành văn bản quy định chi tiết các văn bản quy
phạm pháp luật. Theo đó hàng năm, chính quyền địa phương ác đô thị loại I đều
ban hành Chương trình xây dựng Nghị quyết, Quyết định trên các đô thị loại I.
Công tác ban hành văn bản quy định chi tiết theo quy định tại một số văn bản quy
phạm pháp luật của Chính phủ, Bộ ngành trên địa bàn các đô thị loại I dần đi vào nề
nếp; công tác tham mưu ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND
của các cơ quan trên địa bàn các đô thị loại I được giao chủ trì ngày càng được nâng
lên, bảo đảm các yêu cầu về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản. Tiến độ xây
dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết nhanh hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu
công tác triển khai thi hành luật trên địa bàn tỉnh. Ngoài các văn bản quy phạm pháp
luật này, UBND các đô thị loại I còn ban hành các Quyết định nhằm tăng cường
công tác đảm bảo trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn; nâng cao trách nhiệm của cơ
quan, đơn vị trong công tác bảo đảm TTATXH.
Thực tế cho thấy, chỉ số xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật ở các đô thị
loại I giai đoạn 2012-2019 tăng đáng kể trong những năm qua, trong tổng số 13 đô
thị loại I được khảo sát, Hải Phòng gia tăng cao nhất (tăng 99.33%), tiếp đến Huế
(tăng 84.21%), Nha Trang (tăng 84%), Cần Thơ gia tăng thấp nhất (tăng 11.54%);
đặc biệt Vũng Tàu, Mỹ Tho, trong 03 năm gần chỉ số này đây luôn tăng (Bảng 3.4).
76
Bảng 3.4: Chỉ số xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật ở các đô thị loại I
giai đoạn 2012-2019 (theo thang điểm 10)
Đô thị
2012
2013
2014
2015
2016 2017
2018 2019
7
Đà Nẵng
6.5
5.75
6.6
6.75
8.6
8.18
8.55
7
Hải Phòng
4.5
3.75
5.58
6
7.17
9.27
8.97
Biên Hòa
6.25
5.75
5.35
6.75
5.5
8.55
7.44
8.71
7
8.73
8.65
7.25
Cần Thơ
6.5
6
7
6.5
5
8.24
8.34
8.63
Vũng Tàu
6.75
5.5
6.35
6.5
7
8.87
8.56
8.94
Hạ Long
7
7
5.25
6.5
Huế
4.75
5.75
6.35
6.25
6.5
8.33
8.87
8.75
7
5.85
Thanh Hóa
7
6.75
7
8.46
6.02
8.95
6.5
5.35
Nha Trang
4.5
5.25
6.5
8.46
8.32
8.28
Đà Lạt
5.5
6.25
5.25
6.5
5.5
8.56
8.56
8.69
7
Mỹ Tho
6.5
6.25
6.35
6.25
8.37
8.58
8.71
5
6
6.25
Quy Nhơn
4
6.35
8.54
8.43
8.81
7
Thái Nguyên
6.35
5.6
6.5
6.5
8.82
8.78
8.9
Nguồn: Bộ Nội vụ (2021) [14]
Những kết quả đạt được trên đã góp phần quan trọng vào hoàn thiện hệ thống
pháp luật ở Việt Nam hiện nay, trong đó, các văn bản quy phạm pháp luật hướng
dẫn, triển khai thi hành luật đều đáp ứng được yêu cầu về nội dung, hình thức, trình
tự, thủ tục và thẩm quyền ban hành, tạo cơ sở pháp lý cho công tác triển khai thực
hiện các văn bản pháp luật của Quốc hội, Chính phủ, Bộ, ngành Trung ương đã quy
định trong những năm qua có xu hướng tăng. Điều này đã thúc đẩy gia tăng chỉ số
chất lượng các văn bản pháp quy (văn bản dưới luật) của Việt Nam trong những
năm qua: nếu năm 2012, chỉ số chất lượng các văn bản pháp quy Việt Nam là 27.96
thì đến năm 2020 là 43.685, tăng 56.24% (Biểu đồ 3.1).
77
Biểu đồ 3.1: Chỉ số chất lượng các văn bản pháp quy của Việt Nam
Nguồn: Xử lý số liệu từ World Wide Governance Indicators (2021) [139]
Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về đảm bảo
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I từng bước được chú trọng, chất lượng công tác
này tiếp tục được cải thiện.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục luôn được xem là cầu nối giữa việc
đưa chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với cán bộ, công chức,
viên chức, các tầng lớp nhân dân. Do vậy Sở Tư pháp, phòng tư pháp của các địa
phương (cơ quan Thường trực Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật) luôn phối
hợp với các Sở, ban, ngành và UBND cấp huyện ở các đô thị loại I tổ chức, tuyên
truyền phổ biến văn bản pháp luật nhằm mục đích nâng cao nhận thức, ý thức tự
giác, tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động và nhân dân, thực hiện tốt khẩu hiệu “Sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật”, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
phục vụ phát triển KT-XH. Các địa phương đã biết sử dụng ưu thế của các phương
tiện truyền thông đại chúng phục vụ cho công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật
đến mọi người dân, như: phát tờ rơi, pano, khẩu hiệu, loa phát thanh, đăng tải thông
tin pháp luật trên trang thông tin điện tử, tổ chức tìm hiểu pháp luật, tổ chức hội
nghị, tuyên truyền trực tiếp, tập huấn pháp luật, sinh hoạt pháp luật định kỳ hàng
tháng, thực hiện tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng... Cổng
Thông tin điện tử của các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan báo chí đã
tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và vận động người dân thực hiện các
78
quy định pháp luật với hình thức phù hợp với từng khu vực, từng vùng và từng
nhóm đối tượng.
Bảng 3.5: Tỷ lệ số đơn vị hành chính cơ sở có tủ sách pháp luật
trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam
Đô thị
2016
2020
Cả nước
98.13
-
Đà Nẵng
100
100
Hải Phòng
98.6
100
Biên Hòa
100
100
Cần Thơ
100
100
Vũng Tàu
100
100
Hạ Long
100
100
Huế
97.14
100
Thanh Hóa
98.27
100
Nha Trang
98.99
100
Đà Lạt
98.29
100
Mỹ Tho
100
100
Quy Nhơn
89.68
100
Thái Nguyên
98.57
100
Nguồn: Tổng Cục thống kê (2021) [104, tr.233-236]
Để phục vụ cho công tác tuyên truyền pháp luật, chính quyền các đô thị loại I
đã đẩy mạnh việc xây dựng và đưa vào sử dụng các tủ sách pháp luật ở cấp cơ sở,
trong số các đô thị loại I được khảo sát, có nhiều đô thị loại I đạt 100% đơn vị hành
chính cơ sở có tủ sách pháp luật từ năm 2016, như Đà Nẵng, Biên Hoà, Cần Thơ,
Vũng Tàu, Hạ Long, Mỹ Tho; các đô thị loại khác cũng có tỷ lệ và đều đạt được
100% vào năm 2020 (Bảng 3.4). Cùng với đó, chính quyền các đô thị loại I tập
trung tuyên truyền các nội dung thực hiện pháp luật về đảm bảo TTATXH trong
đó có thực hiện pháp luật về đảm bảo bảo an toàn giao thông; các quy định pháp
luật về phòng chống các loại tội phạm; các quy định phòng chống cháy nổ; về vệ
sinh an toàn thực phẩm… Đặc biệt trên địa bàn các đô thị loại I nơi có đông người
nhập cư nên việc tuyên truyền Luật Hộ tịch 2014; Nghị định số 123/2015/NĐ-CP
79
ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Hộ tịch và Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch luôn
được chú ý tuyên truyền; v.v..
Ba là, các cơ quan chức năng đã tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm kịp
thời đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn các đô thị loại I, đặc biệt các vụ
trọng án xảy ra trên địa bàn này.
Các cơ quan chức năng mà nòng cốt là lực lượng công an trên địa bàn các đô
thị loại I đã tích cực đổi mới các mặt công tác, các biện pháp nghiệp vụ, từng bước
nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm; chủ động
nắm chắc tình hình, làm tốt công tác nghiệp vụ cơ bản, tiến hành đồng bộ các biện
pháp xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ; phát động phong trào quần chúng bảo vệ an
ninh tổ quốc với nhiều nội dung, hình thức phong phú thiết thực. Đặc biệt đã tập
trung mở nhiều đợt cao điểm tấn công tội phạm, triệt phá nhiều băng, nhóm tội
phạm nguy hiểm, tội phạm có tổ chức; truy bắt các đối tượng truy nã; kiềm chế các
loại tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; hạn chế sự gia tăng của tội
phạm hình sự; chủ động phát hiện, điều tra, xử lý có hiệu quả tội phạm về tham
nhũng, tội phạm về ma tuý, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm về môi
trường, tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm sử dụng vũ khí nóng chống người thi
hành công vụ… như: vụ án 4 người cùng một nhà chết ở Thanh Hóa năm 2015
(Hộp 1, Phụ lục 3), vụ án nhanh chóng được Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thanh
Hoá kết luận là vụ tự tử, không có dấu hiệu của việc tàn sát cả gia đình do kẻ xấu
bên ngoài; vụ án ma tuý lớn ở Hải Phòng năm 2020 (Hộp 2, Phụ lục 3), vụ án được
Công an Hải Phòng triệt phá, thu giữ hơn 3 kg ma túy các loại; v.v.. Kết quả điều
tra, triệt phá các vụ phạm tội, đặc biệt các vụ trọng án trên địa bàn này đạt kết quả
cao đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo cho người dân có cuộc sống an toàn
không bị xâm phạm tính mạng, tài sản trên địa bàn các đô thi loại I ở Việt Nam thời
gian qua.
Bốn là, công tác kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện pháp luật của các cá
nhân và tổ chức trên đại bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong thời gian qua được thực
hiện theo đúng quy định pháp luật.
80
Việc kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện pháp luật của công dân và các
doanh nghiệp là một trong những nội dung quan trọng trong công tác thực hiện
pháp luật của các cơ quan ban ngành. Hoạt động này được thực hiện thông qua
nhiều hoạt động như việc: xây dựng kế hoạch theo dõi việc tuân thủ, chấp hành và
áp dụng pháp luật; công tác phổ biến tập huấn, hướng dẫn về nghiệp vụ kiểm tra
thực hiện công tác theo dõi; việc đảm bảo các điều kiện thực hiện công tác theo dõi
thực thi pháp luật cũng như việc tổ chức theo dõi thực thi pháp luật. Hình thực kiểm
tra, theo dõi tình hình thực hiện pháp luật của các cá nhân và tổ chức trên đại bàn tại
các đô thị loại I tập trung vào những nội dung sau:
(i) Ủy ban nhân dân các thành phố trên địa bàn các đô thị loại I hàng năm đều
có xây dựng kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên địa bàn. Căn cứ kế
hoạch theo dõi thi hành pháp luật của UBND thành phố, các Sở, ngành và UBND
các thành phố, quận, huyện trên địa bàn đều chủ động xây dựng kế hoạch theo dõi
thi hành pháp luật theo ngành, lĩnh vực mình quản lý đảm bảo thực thi đúng kế
hoạch đề ra. Từ các báo cáo của các đại phương tại địa bàn nghiên cứu cho thấy,
các cơ quan quản lý nhà nước đều chủ động xây dựng kế hoạch để triển khai việc
theo dõi thi hành pháp luật, công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã được
thực hiện trên cơ sở bám sát nhiệm vụ của ngành, địa phương. Việc xây dựng kế
hoạch giúp cho việc theo dõi quá trình thực thi được thực hiện có trọng tâm trọng
điểm nhằm kịp thời phát hiện những vướng mắc, bất cập, hạn chế trong việc thi
hành pháp luật nhằm đề xuất các giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật tại địa phương; kịp thời khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong công tác
theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
(ii) Ngoài nhiệm vụ Sở Tư pháp tổ chức phổ biến, tập huấn nghiệp vụ cho cán
bộ, công chức các sở, ngành và UBND cấp quận, huyện về một số văn bản quy
phạm pháp luật. Các Sở, ban ngành và UBND cấp quận, huyện tổ chức, phổ biến
đến cán bộ, công chức do mình quản lý về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp
luật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan;
(iii) Ủy ban nhân dân các đô thị loại I đã chú trọng bảo đảm các điều kiện thực
hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật như tổ chức biên chế bộ máy làm
81
công tác theo dõi thực thi pháp luật đồng thời chú trọng đảm bảo điều kiện phương
tiện vật chất kỹ thuật giúp bộ máy này hoạt động hiệu quả;
(iv) Việc triển khai thực hiện hoạt động theo dõi tình hình thực thi pháp luật.
Thực tiễn triển khai công tác theo dõi thực thi pháp luật tại các đô thị loại I cho thấy
các hoạt động triển khai thực hiện theo dõi đã được thực hiện đều đặn. Kết quả thực
hiện hoạt động kiểm tra theo dõi thi hành pháp luật đã giúp các cấp, các ngành
chính quyền nhìn nhận và đánh giá hiệu quả việc thực thi pháp luật. Qua đó kịp thời
chấn chỉnh, khắc phục những thiếu sót, tồn tại, hạn chế trong quá trình thực thi pháp
luật của công chức và cơ quan nhà nước. Chính quyền các địa phương đã nắm bắt
được tình hình thực hiện pháp luật và mức độ thực thi pháp luật của cơ quan, công
chức có thẩm quyền, tổ chức và cá nhân trên địa bàn, qua đó giúp cho UBND thành
phố đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn về việc thực thi pháp luật của các chủ thể trên
địa bàn, thông qua đó nắm bắt, phát hiện những tồn tại, bất cập, kẽ hở trong hệ
thống pháp luật về bảo đảm TTAXH và hoạt động điều hành, tổ chức THPL của cơ
quan nhà nước trên địa bàn đô thị loại I ở nước ta hiện nay.
Như vậy, kết quả đạt được trong THPL về bảo đảm TTATXH tại các đô thị
loại I thời gian qua đó là đã thực sự tạo nền tảng quan trọng cho việc ổn định
chính trị - xã hội, góp phần giữ vững môi trường hoà bình tạo điều kiện cần thiết
để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho
mọi người dân.
3.1.1.3. Những kết quả đạt được trong sử dụng pháp luật về bảo đảm trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
Các chủ thể pháp luật trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam trong thời gian
qua đã và đang thực hiện tương đối tốt quyền chủ thể của mình, trong đó người dân
ở các đô thị này thực hiện đầy đủ quyền của mình; cán bộ, công chức và các cơ
quan chức năng thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình; các doanh nghiệp tiếp
tục thực hiện đầy đủ quyền của mình.
Trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ
2016-2021, người dân ở các đô thị loại I tham gia bầu cử với tỷ lệ cao, cao hơn so
với tỷ lệ số cử tri cả nước đi bỏ phiếu bầu cử (98,77%), trong đó Huế có 99,93% số
cử tri tham gia bầu cử; Vũng Tàu có 99,63% số cử tri tham gia bầu cử; Hạ Long có
82
số cử tri đi bầu cử đạt tỷ lệ 98,84%; v.v.. [49]. Thực tế này cho thấy, người dân trên
địa bàn đô thị loại I đã và đang tích cực thực hiện quyền và tự do của mình theo luật
định, nhằm góp phần thúc đẩy và phát triển quyền làm chủ của người dân trong
thực tế ở Việt Nam hiện nay.
Thông qua đó, việc thực hiện đầy đủ quyền của người dân, các doanh nghiệp
và các tổ chức khác trở thành nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong việc đáp ứng quyền và nguyện vọng của các chủ thể này, như: quyền dân
chủ của người dân, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
tài sản, v.v..
3.1.1.4. Những kết quả đạt được trong áp dụng pháp luật về bảo đảm trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
Thứ nhất, việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp về bảo đảm
TTATXH trên địa bàn đô thi loại I được thực hiện đúng theo quy định pháp luật,
qua đó kịp thời xử lý các hành vi phạm tội liên quan đến TTATXH trên địa bàn các
đô thị Việt Nam thời gian qua.
Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn các đô thị loại I đều tuân thủ, chấp hành
tốt các quy định pháp luật trong thực hiện nhiệm vụ xét xử. Điều này được thể hiện
rõ qua số lượng vụ án đã được giải quyết đúng thời hạn đạt tỷ lệ cao, tỷ lệ các án bị
hủy, bị cải sửa chiếm tỷ lệ thấp. Thực tiễn xét xử vụ án của Tòa án trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng cho thấy:
Năm 2018, tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã giải quyết 10.943 vụ,
việc/11.296 vụ, việc thụ lý; đạt tỷ lệ chung là 96,9%, đảm bảo 100%
đúng thời hạn luật định. Số bản án, quyết định bị hủy do sai là 20,5 vụ,
chiếm 0,17%. Số án bị sửa do sai là 38 vụ, chiếm 0,19%. So với năm
2017, số án bị hủy giảm 9,5 vụ, giảm 31,6% [1].
Nhìn chung, việc xét xử các vụ án trên địa bàn các đô thị loại I, đặc biệt các vụ
án hình sự bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chưa phát hiện trường
hợp nào kết án oan người không có tội. Các hình phạt mà TAND các cấp trên địa
bàn các đô thị loại I áp dụng đối với các bị cáo tương xứng với tính chất, mức độ
hành vi phạm tội, đúng quy định của pháp luật, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Các quyết định phân xử trong giải quyết tranh chấp đảm
83
bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên. Tỷ lệ các vụ án bị hủy, cải sửa không
nhiều điều đó cho thấy chất lượng của việc áp dụng các quy định pháp luật.
Bên cạnh đó, VKSND trên địa bàn các đô thị loại I chấp hành tương đối tốt
các quy định pháp luật trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Điều
này phản ánh thông qua hoạt động truy tố đạt tỷ lệ rất cao, giảm đáng kể các trường
hợp Viện kiểm sát truy tố nhưng Tòa án tuyên không phạm tội, cũng như giảm các
trường hợp oan, sai thuộc trách nhiệm của VKSND. VKSND đã tuân thủ, chấp
hành tốt các quy định liên quan đến thực hiện trách nhiệm công tố của Kiểm sát
viên tại phiên tòa như tuân thủ, chấp hành các quy định khi tham gia xét hỏi, tranh
tụng để làm rõ nội dung vụ án; Tuân thủ, chấp hành các quy định khi phối hợp với
cơ quan điều tra, tòa án để đẩy nhanh tiến độ, điều tra, truy tố và xét xử vụ án.
VKSND đã thực hiện có hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp; kịp thời
phát hiện, ban hành hàng nghìn kháng nghị, kiến nghị yêu cầu các cơ quan tư pháp,
cơ quan hữu quan khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm, góp phần
khắc phục các vi phạm trong hoạt động tư pháp. Cùng với đó, các cơ quan điều tra
trên địa bàn đô thị loại I đã và đang thực hiện đúng các quy định pháp luật về tiếp
nhận tin báo, tin tố giác và đơn tố giác tội phạm về bảo đảm TTAXH trên địa bàn
đô thị loại I, từ đó các cơ quan chức năng đã kịp thời ngăn chặn, xử lý các hành vi
phạm pháp luật xảy ra trên địa bàn các đô thị loại I.
Ngoài ra, các cơ quan thi hành án trên địa bàn các đô thị loại I cho thấy những
năm qua việc thi hành án luôn được các cơ quan thi hành án thực hiện kịp thời; đảm
bảo tính khách quan, chính xác, đúng các quy định của pháp luật. Tình trạng khiếu
nại, tố cáo phức tạp, vượt cấp, kéo dài đối với cơ quan thi hành án đã được hạn
chế. Các cơ quan thi hành án đã tuân thủ các quy định pháp luật nhằm đảm bảo tốt
nhất quyền lợi ích các bên liên quan.
Thứ hai, việc áp dụng pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước về bảo
đảm TTATXH trên địa bàn đô thi loại I tiếp tục được thực hiện tốt nhằm xử lý kịp
thời các hành vi vi phạm pháp luật hành chính về quản lý TTATXH.
Các cơ quan chức năng trên địa bàn đô thi loại I kịp thời xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật hành chính về quản lý TTATXH, như: xử lý vi phạm về trật tự xây
dựng các công trình dân dụng; vi phạm về an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực
84
phẩm, ô nhiễm môi trường, v.v.. trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong giai
đoạn 2012-2020.
Bảng 3.6: Các vi phạm pháp luật trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-20201
Các vi phạm pháp luật trên địa bàn đô thị loại I
Tổng
Tỷ lệ %
4.0
Vụ
46084
Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội
4.6
Đối tượng
54337
1.6
Vụ
18008
Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy
2.9
Đối tượng
34337
0.9
Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham
Vụ
10917
nhũng, buôn lậu
1.0
Đối tượng
11414
0.9
Vụ
10865
Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường
0.9
Đối tượng
11036
92.6
Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực quản lý hành
Vụ
1072583
chính về TTATXH
90.7
Đối tượng
1079711
Vụ
1158457
100.0
Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội
phạm phát hiện, xử lý
Đối tượng
1190835
100.0
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an các thành phố đô thị loại I (2021)
Trong các vụ việc vi phạm pháp luật trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam hiện
nay, đa số các vụ việc này là vi phạm pháp luật trên lĩnh vực quản lý hành chính về
TTATXH, với 92.6% vụ việc và 90.7% đối tượng vi phạm so với tổng thể số vụ
việc và đối tượng vi phạm pháp luật trên địa bàn này trong giai đoạn 2012-2020
(Bảng 3.6).
3.1.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về bảo đảm trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam theo các tiêu chí tổng thể
3.1.2.1. Thúc đẩy bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn
đô thị loại I ở Việt Nam
Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam đã có những đóng
1 Một số đô thị loại I ở Việt Nam khảo sát trong bảng số liệu này gồm: Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng,
Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Hạ Long, Thái Nguyên, Biên Hoà, Quy Nhơn, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Thanh Hoá.
góp quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn đô thị
85
loại I ở Việt Nam trong những năm vừa qua. Thực tế, kinh tế, xã hội trên địa bàn
các đô thị loại I đã có sự phát triển nhất định, trong đó thu nhập bình quân đầu
người trên địa bàn các đô thị loại I tiếp tục gia tăng, như Hải Phòng tăng từ 59,3
triệu đồng vào năm 2014 tăng lên 66,9 triệu đồng vào năm 2019 hoặc Nha Trang
tăng từ 47,4 triệu vào năm 2015 tăng lên 69,9 triệu vào năm 2019; trong khi đó tỷ lệ
giảm nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều tiếp tục giảm, nếu Hải Phòng tỷ lệ nghèo
năm 2017 là 1,6% đến năm 2019 là 1,2% [23]; Nha Trang giảm từ 7,53% vào năm
2016 đã giảm xuống năm 4,95% vào năm 2018 [25]; v.v..
Đặc biệt, Thành phố Hải Phòng đã thực hiện có hiệu quả Chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới, xây dựng khu vực phòng thủ thành phố vững mạnh,
toàn diện về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh. Đồng thời, luôn chủ động
phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; phòng
chống thiên tai - tìm kiếm cứu nạn. Các hoạt động băng nhóm, tội phạm có tổ chức,
các vụ trọng án tại địa bàn thành phố có xu hướng giảm trong 03 năm qua [24]. Với
sự bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn thành phố Hải Phòng
trong những năm qua đã thúc đẩy thu hút các doanh nghiệp trong vào ngoài nước
đến đầu tư.
Đến nay, thành phố Hải Phòng đã thành lập và cho đi vào hoạt động 12
khu công nghiệp, thu hút được 567 dự án trong và ngoài nước. Trong đó,
400 dự án FDI với tổng vốn đầu tư trên 16 tỷ USD và 167 dự án đầu tư
trong nước với tổng vốn đầu tư xấp xỉ 146.000 tỷ đồng, của các nhà đầu
tư đến từ 29 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong số các dự án này, không
thể không nhắc tới các tên tuổi lớn như: Tập đoàn LG (5,84 tỷ USD),
Bridgestone (1,2 tỷ USD), Pegatron (481 triệu USD), USI (200 triệu
USD), Kyocera (187 triệu USD), v.v.. [53]
Ngoài ra, các đô thị loại I khác như Nha Trang, Đà Lạt, Vũng Tàu, Hạ Long,
Huế đã và đang phát huy tốt lợi thế tự nhiên, xã hội để phát triển thành các đô thị du
lịch. Mặc dù trong năm 2020 do tình hình đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nên
hoạt động lữ hành, khách sạn bị ngưng trệ ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất,
kinh doanh trên địa bàn này. Tuy vậy, đô thị này đã thực hiện tốt các biện pháp
86
phòng, chống dịch Covid - 19, không để xảy ra “điểm nóng” về dịch bệnh, kết hợp
giữa phát triển kinh tế, ổn định xã hội với phòng, chống dịch.
3.1.2.2. Thúc đẩy bảo đảm an toàn, yên ổn, các quyền và lợi ích chính
đáng của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức khác trên địa bàn đô thị
loại I ở Việt Nam
Thứ nhất, mức độ an toàn, yên ổn người dân, doanh nghiệp và các tổ chức
khác trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam tiếp tục được bảo đảm trong những
năm qua.
Trong giai đoạn 2012-2020, chỉ số an toàn (Safety Index) trên các đô thị loại I
ở Việt Nam đạt mức độ khá cao cao, đặc biệt là các thành phố du lịch như Đà Nẵng
(71.30), Vũng Tàu (70.44), tiếp đó là Đà Lạt (64.85), Nha Trang (56.76), Hải Phòng
(52.42) (Bảng 3.7). Với những chỉ số trên cho thấy, các đô thị loại I ở nước ta có
môi trường xã hội an toàn, đây là một yếu tố đặc biệt quan trọng để thu hút khách
du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư ở Việt Nam và đảm bảo và phát triển
con người ở Việt Nam.
Bảng 3.7: Chỉ số an toàn xã hội một số đô thị loại I Việt Nam năm 2020
STT
Thành phố
Chỉ số an toàn xã hội
1
Hải phòng
52.42
2
Đà Nẵng
71.30
3
Đà Lạt
64.85
4
Nha Trang
56.76
5
Vũng Tàu
70.44
Nguồn: Tổng hợp từ Numbeo (2021) [129]
Thực tế cho thấy, trật tự nơi công cộng được giữ gìn, tai nạn được phòng
ngừa, tệ nạn xã hội bị bài trừ, các công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông,
phòng cháy và chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ môi trường, phòng, chống các sự
cố về môi trường trên địa bàn đô thị loại I cũng có những chuyển biến tích cực.
Điều này có tác động tích cực trong việc tạo ra môi trường sống an toàn cho mọi
người dân (Bảng 3.8).
87
Bảng 3.8: Bảng so sánh mức độ an toàn tại một số đô thị loại I
và đô thị đặc biệt
Đô thị
An toàn khi đi một mình vào
An toàn khi đi một mình
ban ngày
ban đêm
Hà Nội
81.41
53.53
TP.HCM
65.84
37.02
Hải Phòng
87.50
50.00
Đà Nẵng
87.50
65.28
Nha Trang
75.00
37.50
Nguồn: Crime Index for Country 2019 [128]
Những kết quả đạt được đó trong những năm qua đã góp phần thúc đẩy mức
đọ an toàn xã hội của nước ta ngày một gia tăng so với các quốc gia trên thế giới.
Nếu năm 2012, chỉ số tội phạm của Việt Nam là 53.02, chỉ số an toàn xã hội là 46.98 thì đến năm 2020 chỉ số này lần lượt là 46.09 và 53.912, với sự tiến bộ này, vị
trí xếp hạng của Việt Nam đã được cải thiện từ 32 lên 58 (Bảng 3.9).
Bảng 3.9: Chỉ số an toàn xã hội Việt Nam năm 2012-2020
Chỉ số an toàn xã hội
Xếp hạng
Năm
46.98
32/118
2012
46.74
37/128
2013
47.71
48/147
2014
44.31
30/117
2015
47.04
37/125
2016
47.78
28/115
2017
51.22
42/118
2018
54.65
58/129
2019
53.91
63/135
2020
Nguồn: Tổng hợp từ Numbeo (2021) [129]
Thứ hai, quyền và lợi ích chính đáng của người dân, doanh nghiệp và các tổ
chức khác trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong những năm qua tiếp tục được
2 Chỉ số an toàn xã hội được đo theo thang điểm từ 0 đến 100 trong đó 100 là an toàn nhất. Chỉ số dựa trên
tỷ lệ tội phạm trên 1.000 dân cho tất cả các tội phạm trong một khu phố hoặc thành phố cụ thể.
ghi nhận, bảo đảm, thúc đẩy và phát triển.
88
Quyền và lợi ích của các chủ thể pháp luật đã được Hiến pháp năm 2013 và
các văn bản pháp luật Việt Nam ghi nhận và từng bước cụ thể hoá. So với các bản
hiến pháp trước đó, đặc biệt so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001), Hiến pháp năm 2013 quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công
dân tại Chương II với 36 điều, đặc biệt trong đó đã có sự chuyển đổi tư duy lập hiến
và bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân đó là tư duy thừa nhận
và ghi nhận, bảo đảm quyền, điều này khác với các bản hiến pháp trước đó với tư
duy trao quyền. Trên cơ sở đó, quyền con người, quyền và lợi ích của các chủ thể
khác trong xã hội nói chung và trên địa bàn đô thị loại I nói chung được cụ thể hoá
trong Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và
Luật Tố tụng Hành chính năm 2015, v.v...
Bảng 3.10: Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính trên địa bàn
một số đô thị loại I ở Việt Nam
Đô thị Đà Nẵng Hải Phòng Biên Hòa Cần Thơ Vũng Tàu Hạ Long Huế Thanh Hóa Nha Trang Đà Lạt Mỹ Tho Quy Nhơn Thái Nguyên Cả nước
2018 87.43% 90.86% 87.48% 79.67% 83.04% 91.15% 82.25% 86.75% 79.79% 80.04% 76.42% 71.81% 86.02% 82.99%
2019 85.49% 92.22% 86.78% 80.39% 83.70% 95.26% 78.37% 86.33% 77.64% 86.78% 83.39% 81.81% 86.26% 84.45%
2017 86.19% 88.92% 88.70% 76.47% 72.18% 92.88% 81.35% 80.58% 69.42% 72.83% 79.18% 81.42% 94.04% 80.90% Nguồn: Bộ Nội vụ (2020) [15]
Trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành ở Việt Nam, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đã và đang cải thiện chất lượng hoạt động, nâng cao chất lượng
phục vụ công, thông qua đó cải thiện mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp
89
và các chủ thể khác về sự phục vụ hành chính trên địa bàn một số đô thị loại I ở
Việt Nam ngày một tăng lên, đặc biệt là cao hơn so với mức trung bình của cả nước
(Bảng 3.10). Đồng thời, chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính trên địa bàn một
số đô thị loại I ở Việt Nam ngày một tăng lên qua các năm, như Hải Phòng, Vũng
Tàu, Đà Lạt, Nha Trang, Cần Thơ, v.v..
3.2. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT
TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN CÁC ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM
3.2.1. Những hạn chế trong tuân thủ pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam theo các tiêu chí cụ thể
3.2.1.1. Những hạn chế trong tuân thủ pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
Một bộ phận người dân, doanh nghiệp và các tổ chức trên địa bàn đô thị loại I
vẫn chưa tuân thủ tốt các quy định pháp luật về TTATXH, vì thế những năm gần
đây số vụ và số đối tượng phạm tội và vi phạm pháp luật trên địa bàn các đô thị loại
I có diễn biến phức tạp.
Bảng 3.11: Số vụ và đối tượng phạm tội so với tổng số vụ và đối tượng vi phạm
pháp luật trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020
Tỷ lệ %
Số đối tượng
Tỷ lệ %
Đô thị loại I
Số vụ
Hải Phòng
15545
56.2%
23172
65.7%
Đà Nẵng
8473
1.7%
10550
2.1%
Cần Thơ
10389
81.8%
13737
85.6%
Huế
4828
21.6%
5617
24.2%
Đà Lạt
3247
1.8%
4626
2.6%
Nha Trang
3908
40.6%
4506
44.1%
Quy Nhơn
3512
12.9%
4093
14.7%
Thái Nguyên
5728
2.0%
6448
2.2%
Vũng Tàu
5660
88.5%
7140
76.1%
Hạ Long
4785
74.2%
5190
74.5%
Biên Hòa
10916
45.2%
16089
54.9%
Mỹ Tho
1971
25.0%
1301
14.3%
Thanh Hóa
6912
11.7%
8655
14.2%
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an các thành phố đô thị loại I (2021)
90
Số vụ và đối tượng phạm tội so với tổng số vụ và đối tượng vi phạm pháp luật
trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020 chiếm tỷ lệ cao
như Hải Phòng với tỷ lệ 56.2% số vụ và 65.7% số đối tượng, Cần Thơ với tỷ lệ lần
lượt là 81.8% và 85.6%, Vùng Tàu với tỷ lệ lần lượt là 88.5% và 76.1%, Hạ Long
với tỷ lệ lần lượt là 74.2% và 74.5%, Biên Hoà với tỷ lệ lần lượt là 45.2% và 54.9%
(Bảng 3.11). Trong tổng số 13 đô thị loại I được khảo sát, Hải Phòng, Cần Thơ là
các thành phố thuộc trung ương, Vũng Tàu, Hạ Long là các thành phố du lịch, Biên
Hoà là đô thị loại I với các khu công nghiệp lớn, vì thế các đô thị này có mật độ dân
số cao hơn các đô thị còn lại, tỷ suất di cư ở các đô thị cao hơn so với các đô thị còn
lại, từ đó gây ra những vấn đề phức tạp trong quản lý hộ khẩu, hộ tịch, đặc biệt đối
với các đô thị du lịch, có khu công nghiệp.
Bên cạnh đó, số vụ và số đối tượng vi phạm pháp luật về TTATXH trên địa
bàn 13 đô thị loại I (Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Quy
Nhơn, Thái Nguyên, Vũng Tàu, Hạ Long, Biên Hòa, Mỹ Tho, Thanh Hoá) có chiều
hướng gia tăng trong giai đoạn 2012-2020 (Biểu đồ 3.2).
Biểu đồ 3.2: Số vụ và số đối tượng phạm tội bị phát hiện, xử lý trên địa bàn
13 đô thị loại I giai đoạn 2012-2020
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của Công an các đô thị loại I (2021)
Bên cạnh đó tỷ lệ người không tuân thủ chấp hành các chuẩn mực chung của
cộng đồng về TTATXH tương đối cao thể hiện số lượng và tỷ lệ người tham gia tệ
nạn xã hội như nghiện ma túy, mại dâm, lô đề, cờ bạc hay thực hành mê tín dị đoan
tương đối phổ biến.
91
Theo thống kê chung, số người nghiện ma túy ở Việt Nam đang có xu hướng
tăng, theo báo cáo của Cục phòng, chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội), trong 10 năm trở lại đây, ở Việt Nam đã có khoảng 10 vạn người nghiện
ma tuý, trong đó có tới 70% số người nghiện dưới 30 tuổi, đặc biệt có tới 50% tổng
số người nghiện là trẻ em [93]. Số người nghiện ma túy đã xuất hiện ở 100% các
tỉnh, thành phố, gần 90% quận, huyện và khoảng 70% số xã, phường, thị trấn trong
cả nước. Các đô thị loại I như Cần Thơ, Hải Phòng, Bắc Ninh, Vũng Tàu là những
địa bàn có tỷ lệ người nghiệm ma túy cao đồng thời đây cũng là những địa bàn có
sự phát triển của các điểm, tụ điểm, ổ, nhóm bán lẻ chất ma túy. Tại các đô thị này
số lượng người nghiện ma túy tăng kéo theo sự phát sinh, phát triển của các điểm,
tụ điểm, ổ, nhóm bán lẻ chất ma túy; cũng như sự phát triển của các điểm kinh
doanh như quán bar, vũ trường, nhà nghỉ, khách sạn trở thành tụ điểm buôn bán và
tiêu thụ ma túy gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội. Việc có số người nghiệm ma túy cao làm tăng tỷ lệ người phạm tội
hình sự bởi các nghiên cứu chỉ ra rằng khoảng 75% các tội phạm hình sự có nguyên
nhân bắt nguồn từ những người nghiện ma tuý [93].
Thực tế tại Hải Phòng cho ta thấy rõ mối quan hệ này, đây là một trong
các đô thị loại I có tỷ lệ người nghiện ma túy cao, theo đó tội phạm liên
quan đến ma túy tại địa bàn này tương đối lớn. Theo số liệu thống kê,
từ năm 2013 đến 31/5/2018 Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hải
Phòng xét xử 6.507 vụ/11.163 bị cáo, trong đó số vụ xét xử về ma túy
là 2.228 vụ/2.906 bị cáo (chiếm tỷ lệ 34% số vụ, 26% số bị cáo). Đa số
tội phạm bị xét xử liên quan đến ma túy trên địa bàn thành phố này
thuộc về nhóm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán, tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy (Trong đó, tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy chiếm tỷ lệ 96% số vụ/92% số bị cáo; tội tổ chức sử dụng
trái phép chất ma túy được đưa ra xét xử chiếm 4% số vụ/ 8% về số bị
cáo). Đây cũng là địa bàn ghi nhận sự gia tăng số vụ án về ma túy khá
cao so với cả nước. Năm 2013 số vụ án về ma túy được đưa ra xét xử
trên địa bàn là 393 vụ với 519 bị cáo, đến năm 2017 số vụ án về ma túy
được đưa ra xét xử là 448 vụ với 584 bị cáo. Như vậy, trong vòng 3
năm số vụ án về ma túy tăng lên 55 vụ/65 bị cáo. Hiện nay, tội phạm về
92
ma túy xảy ra trên địa bàn thành phố Hải Phòng diễn biến hết sức phức
tạp, các đối tượng phạm tội có xu hướng manh động hơn, sử dụng vũ
khí “nóng” và chống trả quyết liệt lực lượng Công an khi bị bắt giữ.
Nhiều bị can, bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố xét xử ngoan cố,
không nhận tội, chống đối đến cùng [28].
Ngoài ra, tại các đô thị loại I của nước ta, hoạt động mại dâm diễn ra dưới nhiều hình thức trong đó các hoạt động mại dâm trá hình trong các loại hình kinh doanh dịch vụ như khách sạn, nhà hàng, karaoke, massage khá phát triển. Hiện nay đã xuất hiện các hình thức mới (giao dịch qua điện thoại, Internet, du lịch tình dục…) Theo kết quả thống kê của các địa phương trên toàn quốc, năm 2016 có khoảng hơn 15.000 người bán dâm. Tuy nhiên theo ước tính của Bộ Y tế, số lượng người bán dâm ở Việt Nam hiện nay vào khoảng 87.000 người (năm 2016). Nghiên cứu của Liên hợp quốc cho thấy năm 2014 ước số lượng người bán dâm ở nước ta ở mức xấp xỉ 300.000 người. Báo cáo giám sát của các địa phương cho biết từ 2011 đến 2016, đội kiểm tra liên ngành 178 của các tỉnh, thành phố đã truy quét, triệt phá 5.791 vụ, ổ nhóm hoạt động mại dâm với 23.231 người vi phạm, gồm 9.643 người bán dâm; 8.206 người mua dâm; 5.158 đối tượng chủ chứa, môi giới và 224 người bán dâm dưới 18 tuổi (tăng 1.572 vụ với 5.837 người vi phạm so với giai đoạn 2006-2010) [109]. VKSND các cấp thụ lý và kiểm sát điều tra 3.963 vụ/4.579 bị can, liên quan đến mại dâm (tội “Chứa mại dâm”: 2.231 vụ/ 2.280 bị can; tội “Môi giới mại dâm”: 1.679 vụ/2.227 bị can; tội “Mua dâm người chưa thành niên”: 53 vụ/72 bị can) [3]. Toà án nhân dân cấp sơ thẩm đã thụ lý 3.800 vụ với 5.004 bị cáo phạm các tội về mại dâm để xét xử theo thủ tục sơ thẩm (tăng 34 vụ, 325 bị cáo so với giai đoạn trước); đã xét xử 3.619 vụ với 4.692 bị cáo, đạt tỷ lệ 95,2% (vượt chỉ tiêu so với kế hoạch đề ra). Trong đó, có 2.662 bị cáo bị xét xử về tội “chứa mại dâm”, 1.971 bị cáo bị xét xử về tội “môi giới mại dâm” và 59 bị cáo bị xét xử về tội “mua dâm người chưa thành niên”; 79 trường hợp phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm [109]. Hoạt động mại dâm tập trung tại các đô thị loại I tương đối phát triển, tại Cần Thơ hiện có khoảng 1.000 nữ nhân viên làm trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ, tham gia bán dâm khi có điều kiện; 325 Phụ nữ hành nghề bán dâm đứng đường (75 người có hồ sơ quản lý). Khoảng 200 người hoạt động mại dâm kiểu “gái gọi”, thông qua người quen và bạn bè kêu đến các nhà hàng, quán ăn, karaoke phục vụ [77].
93
Đặc biệt một số đối tượng còn lợi dụng sự phát triển khoa học, công nghệ để
vi phạm pháp luật hình sự, như sử dụng mạng xã hội để mối giới mại dâm ở một số
đô thị loại I ngày càng diễn biến phức tạp, tinh vi (Hộp 3 Phụ lục 3); hoặc lừa đảo,
chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội, như các sàn giao dịch tiền ảo đã và đang diễn
ra trên nhiều địa bàn ở Việt Nam, đặc biệt ở các đô thị loại I.
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 gây ảnh hưởng lớn đến các hoạt
động đầu tư, kinh doanh, các sàn giao dịch tiền ảo có dấu hiệu hoạt
động mạnh mẽ trở lại, tăng lên cả về số lượng người dùng và số lượng
sàn giao dịch. Về phương thức hoạt động, khi đầu tư người dân phải sử
dụng tiền thật để mua đồng tiền ảo, sau đó nạp tiền ảo này vào tài
khoản của công ty sở hữu sàn giao dịch để mua tiền ảo nội bộ với các
tên gọi khác nhau như “gem”, “xu”, “kim cương”, “thiên kim”,… Sau
khi số lượng tiền ảo nạp vào đủ lớn, đối tượng đứng sau các sàn giao
dịch sẽ đánh sập sàn hoặc đưa giá trị tiền ảo nội bộ (gem, xu, kim
cương,…) tụt dốc và chiếm đoạt toàn bộ số tiền mà khách hàng đã bỏ ra
để mua tiền ảo nội bộ [43].
3.2.1.2. Những hạn chế trong chấp hành pháp luật về bảo đảm trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
Thứ nhất, vẫn còn một bộ phận người dân, doanh nghiệp chưa chấp hành tốt
các quy định pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn loại I ở Việt Nam trong
thời gian qua.
Trong thời gian qua, trên địa bàn các đô thị loại I vẫn còn nhiều chủ thể pháp
luật chưa thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình, đặc biệt các doanh nghiệp, các
cơ sở sản xất, kinh doanh chưa chấp hành nghiêm túc các quy định pháp luật về
phòng, chống cháy nổ, bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn lao động.
Trong báo cáo đánh giá của 257 doanh nghiệp dệt may hoạt động tại Việt
Nam trong đó có nhiều doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn các đô thị loại I trong
giai đoạn từ tháng 10/2015 đến tháng 12/2016 cho thấy tình trạng không chấp hành
đầy đủ các quy định pháp luật về phòng chống cháy nổ, về đảm bảo môi trường làm
việc an toàn và đảm bảo các các quyền lao động cơ bản. Nghiên cứu này chỉ ra
rằng: “Gần 60% trong tổng số nhà máy trong mẫu nghiên cứu không tuân thủ các
quy tắc về thương lượng tập thể như không tham vấn ý kiến của Công đoàn, người
94
lao động chưa biểu quyết tán thành thỏa ước lao động tập thể, và không công khai
thỏa ước lao động tập thể tại doanh nghiệp” [8, tr.5].
Gần 50% các nhà máy không tuân thủ một số khía cạnh về trả lương làm thêm
giờ như việc các nhà máy sử dụng công thức tính lương không chính xác (dẫn đến
việc trả lương tăng ca thấp) hay việc không lưu trữ thông tin liên quan đến trả lương
làm thêm giờ [8, tr.16]. Bên cạnh đó là một tỷ lệ lớn các doanh nghiệp (40%) chi trả
thù lao làm thêm giờ không đúng.
Nhiều trường hợp, do không hiểu đầy đủ quy định của luật, nên 23% doanh
nghiệp cũng tính sai mức chi trả cho người lao động khi huy động họ đi làm
vào ngày nghỉ hằng tuần (Chủ nhật) và một tỉ lệ ít hơn các doanh nghiệp
(13%) chi trả không đúng cho những giờ làm thêm vào ban đêm và vào
ngày nghỉ lễ. Gần 60% nhà máy không thực hiện đầy đủ các quy định của
luật về nghỉ có hưởng lương, nguyên nhân chủ yếu là không chi trả chế độ
ốm đau và thai sản trong vòng 3 ngày làm việc (nhiều nhà máy chi trả mỗi
tháng 1 lần), và không chi trả tiền phép năm chính xác [8, tr.5].
Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ doanh nghiệp ngành dệt may không chấp hành
các quy định pháp luật
Nguồn: Better work Vietnam, (2016) [8, tr.11]
95
Hiện nay, trên địa bàn các đô thị loại I, tỷ lệ không nhỏ các doanh nghiệp
không tuân thủ các quy định trong lĩnh vực lao động, phòng chống cháy, nổ và đảm
bảo vệ sinh an toàn lao động. Khoảng 40% doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ
các quy định về cung cấp và sử dụng bảo hộ cá nhân (ví dụ: khẩu trang, găng tay
sắt, kính bảo hộ); một số doanh nghiệp cũng chưa đảm bảo vận hành máy móc an
toàn (hơn 1/3 số doanh nghiệp), vi phạm chủ yếu là côngnhân điều chỉnh hoặc tháo
các thiết bị bảo vệ như chắn kim, bảo vệ mắt trên các máy may (Biểu đồ 3.3).
Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ nhà máy dệt may không chấp hành các quy định
liên quan đến phòng chống cháy, nổ
Nguồn: Better work Vietnam (2016) [8, tr.21]
Việc phòng chống tai nạn đặc biệt các tai nạn liên quan đến cháy nổ là điều
cần thiết đặc biệt đối với các cơ sở kinh doanh và các nhà máy, xí nghiệp đóng trên
địa bàn các đô thị loại I, nơi có đông dân cư. Trong những năm qua, các quy định
pháp luật về phòng cháy chữa cháy, nổ tiếp tục được hoàn thiện, tuy nhiên việc tuân
thủ chấp hành các quy định phòng cháy chữa cháy của người dân và các doanh
nghiệp trên địa bàn còn khá thấp. Nghiên cứu của Better Work tại Việt Nam cho
thấy rất nhiều các doanh nghiệp trong ngành dệt may của Việt Nam có hệ thống
phát hiện và báo cháy không đầy đủ và không có khả năng phát huy tác dụng trong
thực tế (Bảng 3.4).
96
Kết quả thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng tại các khu công nghiệp
đóng trên địa bàn các đô thị loại I cho thấy có rất nhiều khu công nghiệp vi phạm
các quy định về bảo vệ môi trường. Vi phạm phổ biến nhất là nhiều khu công
nghiệp đang hoạt động nhưng chưa được phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi
trường và rất nhiều khu công nghiệp không thực hiện đúng Báo cáo đánh giá tác
động môi trường được phê duyệt [30].
Biểu đồ 3.5: Số vụ vi phạm pháp luật về môi trường bị phát hiện xử lý
trên địa bàn 13 đô thị loại I giai đoạn 2012-2020
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của Công an các thành phố (2021)
Trong giai đoạn 2012-2020, trên địa bàn 13 đô thị loại I là Hải Phòng, Đà
Nẵng, Cần Thơ, Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn, Thái Nguyên, Vũng Tàu, Hạ
Long, Biên Hòa, Mỹ Tho, Thanh Hoá, cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý
11036 vụ vi phạm pháp luật về môi trường do các nhà máy, xí nghiệp, doanh
nghiệp đóng trên địa bàn các đô thị này gây ra. Trong giai đoạn này số vụ vi phạm
pháp luật về môi trường có xu hướng gia tăng (Biểu đồ 3.5).
Cùng với đó một số doanh nghiệp không chấp hành tốt pháp luật, đôi khi còn
“tiếp tay” cho nhưng sai trái của một bộ phận cán bộ, công chức, đó là một số
doanh ngiệp khi bị phát hiện những sai phạm luôn tìm cách xử lý bằng các hình
thức phi chính thức để êm xuôi mọi chuyện.
97
Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam công bố tháng 3/2019, có tới 58% trong
số khoảng 10.000 doanh nghiệp được khảo sát trên địa bàn các đô thị
loại I thừa nhận phải trả chi phí không chính thức cho các cơ quan quản
lý nhà nước và đây là những chi phí chỉ để tuân thủ pháp luật. Những
doanh nghiệp này cho biết sẵn sàng chấp nhận những vi phạm để hoạt
động vì nếu tuân thủ phải tốn chi phí đầu tư, nhân lực, thời gian và cả chi
phí cơ hội. Khi đặt ra bài toán hiệu quả trong kinh doanh thì việc vi phạm
pháp luật rồi chịu nộp phạt nhiều khi lại có lợi hơn. Đó là hệ quả của việc
còn tồn tại quá nhiều quy định làm cho chi phí tuân thủ của doanh nghiệp
tăng cao một cách bất hợp lý... [32].
Bảng 3.12: Tỷ lệ doanh nghiệp bị mất trộm tài sản những năm gần đây
Đô thị loại I
2017
2018
2019
2020
Hải Phòng
12%
13%
11%
9%
Đà Nẵng
8%
15%
9%
12%
Cần Thơ
7%
18%
10%
11%
Huế
12%
8%
8%
7%
Đà Lạt
7%
13%
10%
21%
Nha Trang
15%
22%
21%
17%
Quy Nhơn
8%
14%
8%
6%
Thái Nguyên
7%
11%
6%
9%
Vũng Tàu
12%
16%
15%
18%
Hạ Long
10%
14%
6%
5%
Biên Hòa
17%
12%
11%
9%
Mỹ Tho
17%
23%
18%
20%
Thanh Hóa
12%
12%
16%
13%
Nguồn: Xử lý từ VCCI (2021) [117]
98
Bên cạnh đó, số doanh nghiệp bị trộm cắp tài sản trong những năm vừa qua
trên địa bàn các đô thị loại I chiếm tỷ lệ nhất định, nếu năm 2017, trong số 13 đô thị
loại I được khảo sát thì các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Mỹ Tho bị trộm
cắp tài sản nhiều nhất, ít nhất là các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Huế, đến
năm 2018 thì các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Mỹ Tho và Biên Hoà chiếm
tỷ lệ nhiều nhất, Cần Thơ, Thái Nguyên và Đà Lạt chiếm tỷ lệ thấp nhất; đến năm
2019 tỷ lệ lớn nhất ở thành phố Nha Trang và ít nhất ở thành phố Thái Nguyên;
năm 2020, tỷ lệ lớn nhất ở thành phố Đà Lạt và ít nhất ở thành phố Hạ Long. Nhìn
chung trong 13 đô thị loại được khảo sát, có đô thị trên địa bàn đó tỷ lệ doanh
nghiệp bị trộm cắp tài sản giảm như Hạ Long, có đô thị thì tỷ lệ này lại tăng như Đà
Lạt, các đô thị khác có năm tăng, năm giảm (Bảng 3.12). Thực tế đó cho thấy, một
bộ phận người dân, trong đó có công nhân của các doanh nghiệp này chưa chấp
hành tốt pháp luật, có có hành vi trộm cắp tài sản, chưa thực sự tôn trọng quyền sở
hữu tài sản của chủ thể khác.
Ngoài ra, việc không chấp hành các quy định pháp luật liên quan đến đảm
bảo TTATXH diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau như không tham gia các quy
định pháp luật giao thông, không tuân thủ các chuẩn mực chung,… Tại các đô thi
loại I vẫn còn hiện tượng vi phạm pháp luật giao thông xảy, như: còn uống rượu bia
khi tham giao thông; người tham gia giao thông lạng lách, đánh võng, phóng nhanh,
vượt ẩu, không đội mũ bảo hiểm, vượt đèn đỏ…
Thứ hai, một số cơ quan chức năng trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
vẫn chưa thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình làm ảnh hưởng xấu
đến chất lượng quản lý nhà nước về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị trong
thời gian qua.
Một là, một số cơ quan chức năng trên địa bàn đô thị loại I còn một số tồn tại,
hạn chế như: việc rà soát, đề xuất bổ sung vào Chương trình ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của HĐND, UBND của các Sở, ngành còn chậm; thiếu tính chủ
động; cán bộ pháp chế chủ yếu làm công tác kiêm nhiệm chưa nắm rõ các quy định
tại văn bản của Trung ương để tham mưu, đề xuất xây dựng văn bản quy định chi
tiết cho ngành mình quản lý, do đó một số văn bản quy định chi tiết của UBND tỉnh
được ban hành chưa kịp thời gian theo quy định của văn bản cấp trên. “Thực tế cho
99
thấy tồn tại hạn chế lớn nhất trong công tác ban hành văn bản hướng dẫn thi hành
quy phạm pháp luật là tình trạng chậm ban hành các văn bản so với yêu cầu công
tác quản lý nhà nước. Còn tình trạng một số văn bản đã ban hành chưa có tính khả
thi cao” [118, tr.42].
Điều xuất phát từ chỗ một số địa phương đô thị loại I có hiện tượng các thủ
trưởng một số Sở, ngành và địa phương chưa quan tâm, chỉ đạo và xây dựng kế
hoạch để triển khai việc thi hành pháp luật. Việc chậm ban hành văn bản hướng dẫn
thi hành khiến cho việc thực hiện pháp luật của cơ quan chức năng và người dân
gặp nhiều khó khăn.
Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan
nhà nước trên địa bàn đô thị loại I thực hiện chưa thực sự hiệu quả.
Các thành phố loại I thành đều có cổng thông tin điện tử, nhằm phổ biến tuyên
truyền thông tin pháp luật cũng như chủ trương chính sách. Tuy nhiên nhiều thông
tin pháp luật vẫn chưa được công bố rộng rãi đầy đủ, chi tiết trên các trang này. Đặc
biệt các thông tin liên quan đến quy hoạch phát triển kinh tế hay quy hoạch đất đai
để người dân và doanh nghiệp dễ ràng tiếp cận thông tin. Nhiều có địa phương chưa
công bố các quy hoạch trên website của mình mà yêu cầu cá nhân, tổ chức muốn tra
cứu quy hoạch thì phải đến tận nơi hoặc gửi công văn đề nghị tới Sở Tài nguyên và
Môi trường. Thêm vào đó, một số bản quy hoạch hoặc điều chỉnh quy hoạch không
được đăng tải đầy đủ các nội dung. Có cơ quan chỉ đăng tải quy hoạch nhưng lại
không đính kèm phụ lục, trong khi phụ lục được coi là một phần không thể tách rời
của quy hoạch và các nội dung cụ thể đối với từng dự án được thể hiện trong phụ
lục. Thực tế đó cho thấy việc cung cấp các thông tin liên quan đến chính sách, pháp
luật còn “chưa được thực hiện một cách triệt để, chưa nghiêm túc và nhiều khi chỉ
mang tính hình thức, chiếu lệ” [118, tr.43].
Chính những hạn chế công tác tuyên truyền, phổ biến công khai các quy định
pháp luật đến với người dân và doanh nghiệp do đó trên thực tế không phải tất cả
các thông tin, quy định pháp luật đều được tiếp cận một cách dễ dàng. Khi nghiên
cứu khả năng tiếp cận thông tin pháp luật từ phía người dân và những doanh
nghiệp cần thông tin chúng ta thấy những khó khăn và rào cản trong việc tiếp cận
100
thông tin pháp luật từ phía người tuân thủ chấp hành luật. Khảo sát PCI năm 2014
của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn đô thị loại I cho thấy: “Có tới 44,83% các
doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết phải dành trên 10% quỹ thời gian để tìm
hiểu và thực hiện các quy định pháp luật, tỷ lệ 44,83% này cao hơn mức chung
của tất cả các ngành (35,02%), và tăng mạnh so với năm 2013 (20%)” [118, tr.42-
43]. Năm 2018, “có 30,7% doanh nghiệp cho biết phải dành hơn 10% quỹ thời
gian để tìm hiểu và thực hiện các quy định pháp luật của Nhà nước (năm 2015 là
35,5%)” [120, tr.8].
Với thang điểm từ 1 đến 5 (từ không thể đến rất dễ), khả năng tiếp cận của
doanh nghiệp với các tài liệu quy hoạch chỉ đạt 2,38 điểm theo kết quả điều tra
PCI năm 2018, tương tự như đánh giá vào năm 2015 và 2016, và thấp hơn đáng kể
mức 2,63 điểm của điều tra năm 2006. Nhiều doanh nghiệp trên địa bàn đô thị loại
I được khảo sát cho kết quả: “Khả năng tiếp cận của doanh nghiệp với các tài liệu
pháp lý có khá hơn, ở mức 3,01 điểm trong năm 2018, song cũng chưa có nhiều
cải thiện kể từ những năm đầu tiến hành điều tra. Vẫn có tới 69,4% doanh nghiệp
cho biết “cần có mối quan hệ” để có được các tài liệu của tỉnh (năm 2017 là
70%)” [120, tr.9].
Điều đó có nghĩa là các cơ quan chức năng đã chưa thật sự làm tốt công tác
tuyên truyền, phổ biến, công khai các quy định chính sách pháp luật đến mọi
người dân. Điều này tạo ra những cản trở rất lớn cho quá trình thực hiện quy định
pháp luật.
3.2.1.3. Những hạn chế trong sử dụng pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
Tình trạng một bộ phận người dân trên địa bàn các đô thị loại I chưa thực
hiện đầy đủ quyền của mình, như quyền bầu cử, quyền tham gia vào quản lý nhà
nước, v.v.. Thực tế qua các cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp,
trên địa bàn các đô thị loại I vẫn còn xảy ra tình trạng một cử tri đi bỏ phiếu cho cả
nhà (bỏ phiếu thay cho 3-4 cử tri khác): “Thực tế các kỳ bầu cử vừa qua vẫn ghi
nhận cá biệt việc bầu hộ, bầu thay. Có hiện tượng một người đem phiếu của cả gia
đình đi bầu” [123].
101
Bảng 3.13: Tỷ lệ người bị vòi tiền tố cáo và mức tiền đòi hối lộ
mà người dân bắt đầu tố cáo
2018
2019
2020
Đô thị loại I
Mức tiền (1000 VNĐ)
Mức tiền (1000 VNĐ)
Mức tiền (1000 VNĐ)
Tỷ lệ người bị vòi tố cáo 0% 0% 0% 13.60% 0% 0% 0% 9.16% 23.87% 30.36% 24.68% 0% 0%
14,700.52 21,411.03 31,650.65 31,722.21 23,695.23 23,516.57 26,140.54 16,883.60 27,758.81 30,667.35 26,305.45 27,731.67 19,625.97
18,538 14,598 18,964 30,590 27,321 28,399 19,391 25,786 24,612 18,974 28,407 26,391 19,525
Tỷ lệ người bị vòi tố cáo 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 27.04% 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 0.00%
21,032 36,136 22,220 28,440 24,940 26,288 27,044 25,366 25,284 36,576 27,391 40,987 22,173
Hải Phòng Đà Nẵng Cần Thơ Huế Đà Lạt Nha Trang Quy Nhơn Thái Nguyên Vũng Tàu Hạ Long Biên Hòa Mỹ Tho Thanh Hóa
Tỷ lệ người bị vòi tố cáo 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 7.73% 13.07% 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 11.74% 5.25% 0.00% Nguồn: PAPI (2021) [17]
Bên cạnh đó, trên địa bàn đô thị loại I vẫn còn một bộ phận người dân thờ ơ,
không tố cáo, tố giác đến các cơ quan chức năng về những tiêu cực trong xã hội,
những tiêu cực của đội ngũ cán bộ, công chức hoặc tiếp tay cho những sai phạm
đó bằng việc “bôi trơn” khi đến giải quyết công việc tại cơ quan nhà nước. Trong
03 năm gần đây, người bị vòi tiền tố cáo chiếm tỷ lệ thấp, đặc biệt các thành phố
trực thuộc trung ương như Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ trong 03 năm qua
không có người bị vòi tiền khi đến giải quyết công việc tại cơ quan nhà nước đi tố
cáo, trong khi đó, mức tiền đòi hối lộ mà người dân ở 3 thành phố này bắt đầu đi
tố cáo ngày tăng từ 13.5% đến 147.54% (Bảng 3.13). Thực tế đó cho thấy hiện
tượng tham nhũng vặt vẫn còn xảy ra phổ biến ở các cơ quan công quyền, các đơn
vị hành chính sự nghiệp trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay, tuy
nhiên, người dân, doanh nghiệp không tố cáo hoặc vì lợi ích của bản thân mình
mà sẵn sàng bỏ qua và tiếp tay cho những sai trái này. Thực tế này dẫn đến, trong
cả nước, “năm 2019, tỷ lệ doanh nghiệp đồng ý với nhận định “chi trả ‘hoa hồng’
102
là cần thiết để có cơ hội thắng thầu” chỉ còn là 41,2%; 48% doanh nghiệp FDI
thực hiện thủ tục xin cấp giấy phép xây dựng trong năm 2019 đã chi trả thêm
trung bình khoảng 24 triệu đồng chi phí không chính thức để nhận được giấy phép
này”, nhưng các con số này mở chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm” [72] vì các
nghiệp lo ngai việc công bố thông tin cho các cơ quan thông tấn, báo chí hay cơ
quan chức năng sẽ gây ra những bất lợi cho hoạt động của doanh nghiệp mình.
3.2.1.4. Những hạn chế trong áp dụng pháp luật về bảo đảm trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
Tình trạng sai sót trong quá trình thụ lý và xét xử các vụ án trên địa bàn các đô
thị loại I vẫn còn xảy ra, dẫn đến việc phải hủy án, hay cải sửa là: nhiều tòa thụ lý,
giải quyết các vụ án không thuộc thẩm quyền phần lớn liên quan đến các xét xử các
án hành chính. Việc thụ lý các vụ án không đúng thẩm quyền thường do ngay từ đầu
chưa xác định rõ loại việc mà đương sự khởi kiện hoặc do các tòa địa phương thường
gặp khó khăn ngay từ khâu xác định nội dung, đối tượng khởi kiện ban đầu. Nhiều
tòa án gặp lúng túng trong khâu xác định thẩm quyền giải quyết của tòa án theo quy
định tại Điều 28 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; một số trường hợp đình chỉ vụ
án sai do ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, các tòa xác định sai tư cách người tham gia tố
tụng; vi phạm trong việc giải quyết không hết hoặc giải quyết ngoài phạm vi đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự. Theo Điều 5 BLTTDS quy định về quyền
quyết định và tự định đoạt của đương sự, trong đó quy định “Tòa án chỉ thụ lý giải
quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải
quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu”, nhưng khi giải quyết án một số
Tòa án đã thực hiện không đúng quy định này.
Bên cạnh đó một số tòa án khi giải quyết các vụ án hành chính lại giải quyết
chưa đủ yêu cầu khởi kiện; sai sót tiếp theo là việc tòa án thụ lý giải quyết vụ án
khi đương sự chưa có đủ điều kiện khởi kiện. Theo quy định tại điểm d khoản 1
Điều 168 BLTTDS năm 2004 nay là điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm
2015 thì Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện khi đương sự chưa có đủ điều kiện khởi
kiện theo quy định của pháp luật. Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp
pháp luật có quy định về các điều kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến
Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó. Theo kết quả khảo sát thực tế cho
103
thấy một số tòa án đôi khi chưa tuân thủ triệt để quy định này; vi phạm trong việc
xác định sai tư cách người tham gia tố tụng; không đưa đầy đủ những người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng. Tại Chương VI BLTTDS quy
định về người tham gia tố tụng, trong đó quy định rõ về nguyên đơn, bị đơn, người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; quyền và nghĩa vụ của đương sự. Tuy nhiên, thực
tế vẫn còn nhiều trường hợp có sai sót trong việc xác định tư cách đương sự và
không đưa đầy đủ những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố
tụng. Những sai sót này thường xảy ra khi xét xử các vụ án dân sự; sai sót tiếp
theo có thể kể đến là việc trong thời điểm có vụ án Tòa án đã xác định sai tư cách
tham gia tố tụng của đương sự dẫn đến hủy án, sửa án. Đồng thời cũng có sai sót
liên quan đến việc xác minh, thu thập chứng cứ; đánh giá chứng cứ. Tại khoản 2
Điều 85 BLTTDS năm 2004 nay là khoản 2 Điều 97 BLTTDS năm 2015 quy
định: Trong các trường hợp do Bộ luật này quy định, Tòa án có thể tiến hành một
hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu, chứng cứ: Lấy lời khai của
đương sự, người làm chứng; Đối chất giữa các đương sự với nhau; Trưng cầu
giám định; Định giá tài sản; Xem xét, thẩm định tại chỗ... Việc thu thập tài liệu,
chứng cứ phải được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự
quy định nếu không thì tài liệu thu thập đó không có giá trị pháp lý. Tuy nhiên
cũng có nhiều bản án bị hủy do quá trình xét xử tòa án đã không tuân thủ, chấp
hành nghiêm quy định này. Những sai sót thường gặp trong quá trình thu thập
chứng cứ là: “việc không tiến hành thu thập hoặc thu thập tài liệu, chứng cứ chưa
đầy đủ; đánh giá chứng cứ không khách quan, toàn diện dẫn đến quyết định của
bản án không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án” [121].
Ngoài ra một số tòa vi phạm các quy định về thời gian xét xử. Theo quy định
tại Điều 177 BLTTHS hiện hành thì, đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày
mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn
thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa. Tuy
nhiên, trên thực tế qua nghiên cứu hồ sơ vụ án chúng tôi nhận thấy có nhiều
trường hợp phiên toà không mở, thời hạn tạm giam đã hết, Toà án ra một cái lệnh
vô thời hạn: “Tạm giam bị cáo cho đến khi kết thúc phiên tòa”, có trường hợp 6
tháng hoặc một năm sau phiên toà mới được mở. Một số tòa án vi phạm thời hạn
gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát cùng cấp. Ngoài ra một số tòa án ra
104
Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án nhưng không nêu rõ hậu quả của việc đình
chỉ giải quyết vụ án, không tuyên đình chỉ đối với yêu cầu đương sự đã rút, không
nêu hậu quả đình chỉ” [121].
Một số tòa án không thực hiện không đầy đủ yêu cầu về tống đạt, niêm yết các
văn bản tố tụng của Tòa án cho các đương sự; cũng như cung cấp kịp thời các tài
liệu, chứng cứ, các yêu cầu về cung cấp thông tin, văn bản thẩm định giá cho Tòa
án theo quy định của pháp luật.
3.2.2. Những hạn chế trong tuân thủ pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam theo các tiêu chí tổng thể
Trong quá trình đô thi hoá mạnh mẽ như hiện nay ở nước ta, nhiều vấn đề KT-
XH nảy sinh ảnh hưởng đến TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I điều này ảnh
hưởng trực tiếp đến việc THPL về bảo đảm TTAHXT trên địa bàn các đô thị loại I
ở Việt Nam hiện nay, cụ thể là:
3.2.2.1. An ninh, trật tự về kinh tế, xã hội trên một số địa bàn đô thị loại I ở
Việt Nam chưa thực sự ổn định và bền vững
Mặc dù kinh tế - xã hội ở các đô thị loại I có sự tăng trưởng khá trong nhiều
năm vừa qua, tuy nhiên, tình trạng tệ nạn xã hội tiếp tục gia tăng, vấn nạn ô nhiễm
môi trường chưa xử lý triệt để đã và đang đe doạ đến sự phát triển bền vững ở các
địa phương này.
Bảng 3.14: Số vụ và đối tượng vi phạm pháp luật về môi trường và ma tuý
trên địa bàn Đà Nẵng, Huế, Hạ Long, Đà Lạt và Biên Hoà
Năm
Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường
Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy
Đối tượng 311 482 371 575 605 618 522 477 437
Vụ 309 481 369 574 603 616 511 463 433
Vụ 694 700 626 495 587 656 665 672 646
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020
Đối tượng 1385 1321 1265 1182 1226 1623 1557 1541 1583 Nguồn: Xử lý từ báo cáo của Công an các thành phố Đà Nẵng, Huế,
Hạ Long, Đà Lạt và Biên Hoà (2021)
105
Trong 09 năm qua, số lượng vụ án và đối tượng vi phạm pháp luật về môi
trường trên địa bàn 05 thành phố trên tiếp tục gia tăng từ 309 vụ và 311 đối tượng
vào năm 2012 đã tăng lên 433 vụ và 437 đối tượng vào năm 2020, tăng 40.13% số
vụ và 40.51% số đối tượng; trong khi đó, số vụ án ma tuý có xu hướng giảm từ 694
vụ vào năm 2012 xuống 646 vụ vào năm 2020, nhưng số đội tượng phạm tội lại
tăng từ 1385 đối tượng vào năm 2012 lên 15813 đối tượng vào năm 2020, tăng
14.3% (Bảng 3.14). Thực tế đó cho thấy, tính chất và mức độ vi phạm pháp luật của
các đối tượng trên lĩnh vực môi trường và ma tuý vẫn diễn biến phức tạp trên địa
bàn các đô thi loại I, trong đó số đối tượng vi phạm pháp luật trên lĩnh vực môi
trường và ma tuý của Đà Lạt cao nhất, với tỷ lệ lần lượt là 79.31%, 72.5%, tiếp đến
là Đà Nẵng với tỷ lệ là 65.22% và 55.46% (Phụ lục 4).
3.2.2.2. Mức độ bảo đảm an toàn, yên ổn, các quyền và lợi ích chính đáng
của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức khác trên địa bàn đô thị loại I ở Việt
Nam chưa được cải thiện rõ rệt, chưa đáp ứng kỳ vọng của người dân
Thứ nhất, mức độ an toàn, yên ổn cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức
trên địa bàn độ thị loại I ở Việt Nam trong thời gian qua chưa được cải thiện rõ rệt.
Trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay, sự gia tăng các băng, nhóm
tội phạm hoạt động chủ yếu dưới dạng đâm thuê, chém mướn, bảo kê, siết nợ, đòi
nợ thuê, cho vay nặng lãi, tổ chức cờ bạc, cá độ bóng đá làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến cuộc sống an toàn của nhiều người dân. Đặc biệt tội phạm chống người
thi hành công vụ với tính chất rất nghiêm trọng xuất hiện ngày càng nhiều khiến
cho tình hình an ninh trật tự xã hội bị vi phạm gây bức xúc cho người dân. Cùng với
tội phạm, các loại tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, nghiện hút, mê tín dị đoan có
chiều hướng gia tăng ảnh hưởng xấu đến cuộc sống bình yên, hạnh phúc của các gia
đình và toàn xã hội. Sự phát triển của tệ nạn xã hội làm gia tăng các loại tội phạm,
đê dọa đến cuộc sống bình yên của người dân. Bên cạnh đó những vụ tai nạn lao
động, tai nạn nghề nghiệp, rủi ro, các vụ cháy nổ, tai nạn giao thông đang đe dọa
đến tài sản, tính mạng của người dân. Những vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi
trường như ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm tiếng ồn và khói bụi cộng với những vấn
đề liên quan đến các loại dịch bệnh, việc không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
do thực phẩm bẩn, hàng giả hàng kém chất lượng khiến cho tình hình trật tự, an
106
toàn xã hội trong những năm qua tại các thành phố, đô thị loại I đang là vấn đề nóng
bỏng, bức xúc, gây bất an cho cộng đồng.
Bảng 3.15: So sánh mức độ an toàn đối với cuộc sống của người dân
tại một số đô thị loại I và đô thị đặc biệt năm 2019
Hà Nội
TP.HCM
Đà Nẵng Hải Phòng Nha Trang
Thấp
Trung bình
Thấp
Lo lắng vì bị đột
Trung bình
Cao
37.50
43.75
34.72
nhập hay mất đồ
43.59
62.60
Rất thấp
Trung bình
thấp
Lo lắng vì bị giết
Trung bình
Cao
12.50
56.25
23.61
64.53
42.21
hay cướp
thấp
Trung bình
Trung Bình
Rất thấp
Thấp
Lo lắng bị mất ô tô
37.50
43.75
19.12
55.19
34.74
Thấp
Trung bình
Thấp
Lo lắng vì bị trộm
Trung bình
Cao
37.50
43.75
20.59
60.74
41.33
đồ trên ô tô
Trung bình
Trung bình
Thấp
Trung bình
Thấp
Lo lắng bị tấn công
50.00
50.00
20.83
47.07
34.94
Thấp
Trung bình
Thấp
Trung bình
Thấp
Lo
lắng bị xúc
37.50
50.00
23.61
45.19
33.12
phạm
Lo lắng bị tấn công
Thấp
Rất thấp
Rất thấp
Rất thấp
Trung
vì màu da, nguồn
26.56
14.47
15.28
0.00
bình 43.75
gốc, dân tộc
Vấn đề với người
Thấp
Trung bình
Trung bình
Thấp
Cao
nghiện hay buôn
31.94
43.33
54.81
37.50
75.00
bán ma túy
Vấn đề liên quan
Thấp
đến tội phạm tài
Trung bình
Cao
Thấp
Trung bình
38.89
52.36
62.02
37.50
43.75
sản như phá hoại
hay trộm cắp
Vấn đề tội phạm
bạo lực như tấn
Thấp
Trung bình
Thấp
Thấp
Thấp
công và cướp có
35.14
51.54
23.61
37.50
37.50
vũ trang
Nguồn: Crime Index for Country 2019 [128]
107
Mức độ an toàn đối với cuộc sống của người dân sinh sống tại các đô thi loại I
(Đà Nẵng, Hải Phòng, Nha Trang) thấp hơn so với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh, cụ thể là: mức độ an toàn do lo lắng bị đột nhập hay mất đồ ở Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh ở mức trung bình và cao thì ở các đô thị loại I trên ở mức
thấp, thấp và trung bình; mức độ an toàn do lo lắng vì bị giết hay cướp ở các đô thị
đặc biệt là trung bình và cao thì ở các đô thị loại I là thấp, rất thấp và trung bình;
mức độ an toàn từ vấn đề liên quan đến tội phạm tài sản như phá hoại hay trộm cắp
ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh ở mức trung bình và cao thì ở các đô thị loại I
này là mức thấp, thấp và trung bình (Bảng 3.15).
Thực tế trên dẫn đến chỉ số TTATXH ở Việt Nam trong những năm qua chưa
có sự cải thiện rõ rệt, trong những năm từ 2017-2020, chỉ số TTATXH không có sự
thay đổi, mặc dù vị trí xếp hạng của Việt Nam ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương và xếp hạng toàn cầu có sự cải thiện, nhưng không nhiều và chưa ổn định,
có lúc tăng, lúc giảm (Bảng 3.16).
Bảng 3.16: Chỉ số trật tự an toàn xã hội giai đoạn 2012-2020
Xếp hạng khu vực châu Á -
Xếp hạng toàn cầu
Năm
Chỉ số TTATXH
Thái Bình Dương
2012
0.82
7/14
24/97
2013
0.82
7/14
24/97
2014
0.8
9/15
32/99
2015
0.79
8/15
35/102
2016
0.79
9/15
35/113
2017
0.77
10/15
83/113
2018
0.77
10/15
83/113
2019
0.77
8/15
40/126
2020
0.77
9/15
44/128
Nguồn: Xử lý số liệu từ The World Justice Project 2011-2020 [137]
Những minh chứng trên cho thấy, mức độ an toàn, yên ổn cho người dân,
doanh nghiệp và các tổ chức trên địa bàn độ thị loại I ở Việt Nam vẫn còn những
hạn chế, chưa đáp ứng được kỳ vọng, mong đợi của người dân sinh sống, làm việc
trên địa bàn các đô thị loại I hiện nay.
108
Thứ hai, quyền và lợi ích chính đáng của người dân, doanh nghiệp và các tổ
chức khác trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam chưa được bảo đảm đầy đủ.
Tình trạng tham nhũng vặt (được phân tích ở trên), cũng với những hạn chế
trong quá trình giải quyết công việc của chính quyền trên địa bàn các đô thị loại I đã
và đang gây cản trở và vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân,
doanh nghiệp và các tổ chức khác trên địa bàn. Thực tế ở 13 độ thị loại I được khảo
sát (Bảng 3.10), số lượng người dân, doanh nghiệp và tổ chức không hài lòng đối
với chính quyền chiếm từ 15-20%, điều đó cho thấy, những tồn tại, hạn chế về thủ
tục hành chính, về năng lực và đạo đức của đội ngũ cán bộ công chức và chất lượng
phục vụ của cơ quan công quyền đã và đang làm suy giảm lòng tin và sự hài lòng
của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức.
3.3. NGUYÊN NHÂN KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG HẠN CHẾ TRONG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA
BÀN CÁC ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM
3.3.1. Nguyên nhân của kết quả đạt được về thực hiện pháp về bảo đảm
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
Những kết quả đạt được trong THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị
loại I ở Việt Nam, xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao.
Thành tựu quan trọng của chính sách giáo dục Việt Nam những năm qua là
việc nâng cao trình độ dân trí cho mọi người dân. Theo báo cáo của Tổng cục
Thống kê năm 2016, tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết khu vực
thành thị là 97,7% [103, tr.44] đến năm 2019, tỷ lệ này là 98,3% [105, tr.239, 364],
nghĩa là phần lớn người dân đang sinh sống khu vực đô thị có thể đọc và viết. Trình
độ học vấn của người dân tại khu vực đô thị loại I tiếp tục được được nâng cao
trong thời gian qua, điều này tạo điều kiện cho việc nâng cao hiểu biết pháp luật,
người dân quan tâm hơn đến pháp luật và ý thức chấp hành, thực hiện pháp luật có
những tiến bộ rõ rệt.
Thứ hai, khả năng tiếp cận với các văn bản pháp luật tại Việt Nam ngày một
thuận lợi hơn và tốt hơn.
Trên thực tế, mức độ minh bạch và khả năng tiếp cận các văn bản pháp luật tại
Việt Nam nói chung và trong lĩnh vực đảm bảo TTATXH trên địa bàn các đô thị
109
loại I nói riêng tương đối tốt. Ngoài các cơ sở dữ liệu về pháp luật do các cơ quan
nhà nước quản lý, nhiều cơ sở dữ liệu khác của tư nhân cũng giúp người dân và
doanh nghiệp dễ dàng tra cứu pháp luật khi có nhu cầu [119, tr.39].
Việc phổ biến rộng rãi các quy định pháp luật thông qua các kênh truyền
thông đại chúng, mạng Internet, thông qua các hoạt động tuyên truyền pháp luật
do các cơ quan, ban ngành thực hiện đã giúp người dân dễ dàng tiếp cận với thông
tin pháp luật. Hiện nay 22 đô thị loại I ở Việt Nam đều có cổng thông tin điện tử,
cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia được công bố công khai trên trang web
http://vbpl.vn/Pages/portal.aspx, trong đó bao gồm cả văn bản pháp luật trung ương
và địa phương; ngoài ra các văn bản pháp luật còn được công khai trên trang Chính
phủ, Quốc hội và các Bộ, ngành. Điều này tạo điều kiện giúp nhân dân trên địa bàn
đô thị loại I dễ dàng tiếp cận và từ đó, nhận thức sâu sắc hơn hành vi của mình để
có thể thực hiện tốt hơn những quy định của pháp luật.
Thứ ba, hệ thống pháp luật về bảo đảm TTATXH tiếp tục được hoàn thiện.
Những năm qua, để đảm bảo TTATXH, Đảng và Nhà nước không ngừng đẩy
mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế, xử lý kịp thời, hiệu quả, các vấn đề thực tiễn đã
và đang đặt ra. Để giữ gìn TTATXH cả nước nói chung và trên các đô thị loại I nói
riêng, việc đảm bảo cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho mọi người dân được Đảng
và nhà nước luôn quan tâm đặc biệt, trong đó không ngừng hoàn thiện hệ thống
pháp luật về trật tự an toàn xã hội, trong đó có việc sửa đổi, bổ sung Luật Công an
nhân dân, nhằm thể chế hóa các quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng và các
văn bản pháp luật liên quan khác; đảm bảo đồng bộ thống nhất trong hệ thống pháp
luật, khắc phục kịp thời những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình quản
lý nhà nước về TTATXH. Việc sửa đổi Luật Công an nhân dân giúp hoàn thiện cơ
sở pháp lý về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn Công an nhân dân trong công tác
quản lý nhà nước về an ninh trật tự, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cùng với
việc hoàn thiện các quy định của Luật Công an nhân nhân, thời gian qua, Quốc hội
đã thông qua nhiều luật, bộ luật như: Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình
sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Luật Quản lý, sử dụng
110
vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017, Luật Cảnh vệ năm 2017… [95] và
rất nhiều quy định pháp luật nhằm điều chính hành vi của cá nhân và tổ chức hướng
đến một xã hội có trật tự, kỷ cương.
Bên cạnh quy định pháp luật của Nhà nước các cộng đồng, địa phương cũng
có những quy định riêng để điều chỉnh các hành vi nhằm giữ gìn trật tự an toàn nơi
công cộng. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật và các quy chuẩn văn hóa đã
góp phần điều chỉnh hành vi tạo môi trường sống an toàn cho mọi người dân.
Thứ tư, bảo bảo TTATXH là vấn đề trọng tâm được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm thực hiện trong những năm qua.
Ngay từ những năm đầu tiên thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
Đảng và nhà nước ta đã luôn quan tâm đến công tác an ninh trật tự. Từ năm 1946 -
những ngày mới giành độc lập Đảng, Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh số 23 ngày
21/02/1946, trong đó xác định rõ khái niệm bảo vệ “an toàn quốc gia” và giữ gìn
“trị an, trật tự”. Có thể thấy trong quá trình phát triển đất nước, bên cạnh việc quan
tâm bảo đảm an ninh chính trị, Đảng, Nhà nước cũng đặc biệt coi trọng nhiệm vụ
bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Năm 1980 Nghị quyết số 31/BCT về “Nhiệm vụ bảo
vệ an ninh chính trị và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới” của Bộ
Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được ban hành
trong đó xác định bảo vệ an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội là hai bộ
phận gắn bó chặt chẽ với nhau trong nhiệm vụ chung bảo vệ an ninh quốc gia, bảo
đảm trật tự an toàn xã hội.
Đến Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, Đảng ban hành Nghị quyết số 28-
NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó xác định trong
bất kỳ tình huống nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững
ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước
theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tiếp tục tinh thần đó, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ giữ gìn trật tự an
toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi cho
111
các đối tác quốc tế trong hợp tác với Việt Nam. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu
rõ: phải “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của
các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy
lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh
truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc;
đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước”.
Như vậy, bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng
an ninh, Đảng, Nhà nước đặt ra yêu cầu các cấp chính quyền và cơ quan chức
năng phải thực hiện tốt công tác đảm bảo an toàn, an ninh trật tự cho người dân;
bảo đảm xã hội công bằng, minh bạch, thượng tôn pháp luật, phòng ngừa và đấu
tranh với tội phạm, giữ gìn cuộc sống bình yên cho người dân. Thực hiện tốt
những nhiệm vụ đó chính là xây dựng môi trường thuận lợi cho sự phát triển ổn
định, bền vững đất nước.
Thực hiện chủ trương của Đảng các cấp, các ngành đã không ngừng thực hiện
công tác quản lý nhà nước về bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Các hoạt động giữ gìn
an toàn giao thông, phòng cháy, chữa cháy, an ninh trật tự tại các cơ sở giam giữ, cơ
sở giáo dục, trường giáo dưỡng, công tác Cảnh sát vũ trang, cảnh vệ được bảo đảm,
tăng cường.
Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát động xây dựng
tại hầu khắp các địa phương. Công tác phòng, chống tội phạm, giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội được lực lượng chức năng đặc biệt là lực lượng
Công an nhân dân nghiêm chỉnh thực hiện. Các đơn vị, địa phương đã
tăng cường các biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật, phòng ngừa
tội phạm; nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo
tội phạm. Tập trung đấu tranh, trấn áp tội phạm có tổ chức liên quan đến
“tín dụng đen”; tội phạm xâm hại trẻ em; tội phạm sử dụng vũ khí, vật
liệu nổ gây án; đẩy nhanh tiến độ điều tra xử lý các vụ án nghiêm trọng,
phức tạp [12].
112
Quyết tâm và nỗ lực của các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp và toàn dân
trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam đã góp phần đẩy lùi các loại hình tội phạm,
tệ nạn xã hội, đảm bảo môi trường sống bình yên cho các cộng đồng dân cư ở các
địa phương này.
3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện pháp luật về bảo
đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
Những kết hạn chế trong THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại
I ở Việt Nam, xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:
Thứ nhất, nguyên nhân khách quan.
Thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I chịu tác
động bởi nhiều yếu tố từ bên ngoài, vì thế những hạn chế của THPL được nêu ở
trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan sau:
Một là, quá trình đô thị hoá mạnh mẽ ở Việt Nam.
Những năm qua, cũng theo xu hướng đô thị hóa và tăng trưởng kinh tế của các
nước như Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam không
ngừng gia tăng, trong hơn 10 năm trở lại đây, mức tăng trưởng đô thị trung bình của
Việt Nam là 3%/năm [55, tr.98]; nếu năm 2009 cả nước có 5 đô thị loại I, dân số đô
thị loại I chiếm 6,2% dân số cả nước và chiếm 12,2% dân số sinh sống ở các đô thị
của Việt Nam [127, tr.11] thì đến hết năm 2020, cả nước có 22 đô thị loại I, dân số
đô thị loại I chiếm 13,51% dân số cả nước và chiếm 32,5% dân số sinh sống ở các
đô thị Việt Nam (Phụ lục 2). Cùng với quá trình đô thị hoá này, nhiều vấn đề kinh
tế - xã hội và môi trường nảy sinh, đặc biệt ở đô thị loại I, các vấn đề này ngày càng
phức tạp, trong khi đó, năng lực quản trị đô thị ở của ở Việt Nam chưa theo kịp, vì
thế những vấn nạn ở đô thị loại I chưa được giải quyết triệt để và kịp thời.
Hai là, những rào cản đến từ văn hóa, lối sống của người Việt.
Người Việt sống trong nền văn hóa coi trọng cộng đồng, ít đề cao cái tôi cá
nhân, đó là nền văn hóa trọng tình hơn trọng lý do vậy yếu tố văn hóa truyền thống
này có những tác động đến việc thực hiện các quy định pháp luật của người dân và
các cơ quan công quyền. Lối sống dựa vào tình cảm nên sự xét đoán bằng lý trí
không được coi trọng vì người ta coi “một trăm cái lý không bằng một tý cái tình”
điều này tạo ra tâm lý cả nể từ đó mà sinh ra tâm lý coi thường pháp luật, bỏ qua
113
quy định quy tắc của các luật lệ. Lối sống duy tình cũng phản ánh một trật tự xã hội
rất đơn giản, con người yêu thương nhau, ưa sống hoà bình, không thích tranh chấp,
cho nên pháp luật cũng không đòi hỏi ở mức độ quá phức tạp do đó không hình
thành một nền văn hoá pháp lý có mức độ phát triển cao như ở các dân tộc hay quốc
gia mà các điều kiện kinh tế có sự phát triển phức tạp.
Lối sống duy tình làm cho ứng xử của con người dễ theo cảm tính ít dựa vào
suy xét của lý tính. Do vậy trong những hoàn cảnh nhất định người ta sẽ không sử
dụng đến luật lệ để ứng xử hay nói đúng hơn là pháp luật bị vô hiệu hóa. Yếu tố văn
hóa này đã ăn sâu vào trong tâm thức của con người rất khó thay đổi đặc biệt với
người Việt bởi họ vốn ưa sự ổn định ngại sự thay đổi.
Một đặc tính tâm lý khác của người Việt đó là người ta dễ chấp nhận tha thứ,
bỏ qua cho nhau những lỗi lầm có thể gây ra sự thiệt hại cho cả cộng đồng, thậm chí
cho bản thân. Lối sống “dĩ hoà vi quý” khiến cho người ta rất e ngại việc kiện tụng
hay sử dụng luật để bảo vệ quyền lợi đến cùng. Người Việt thường coi trọng chữ
danh và rất sợ tai tiếng, sợ đụng chạm do vậy họ ngại đấu tranh với những hiện
tượng tiêu cực xảy ra với chính mình và với cộng đồng. Do đó khi có tranh chấp
hay quyền và lợi ích bị xâm phạm họ ít tìm đến cơ quan chức năng mà tìm cách
thương lượng và thỏa thuận. Rất nhiều trường hợp các nạn nhân của hành vi tội
phạm lại che dấu không muốn khai báo vụ việc cho cơ quan công quyền. Người
Việt thường dạy nhau “một điều nhịn, chín điều lành” do đó việc đưa vụ việc ra ánh
sáng không phải là thói quen của cộng đồng. Mặt khác, người ta làm như thế cũng
vì muốn bấu víu vào cộng đồng như một chỗ dựa chắc chắn với tâm lý “xấu chàng
hổ ai?” nên không muốn “vạch áo cho người xem lưng”. Tâm lý này không chỉ xảy
ra ở trong các cộng đồng dân cư mà còn xảy ra đối với cả các quan chức khi giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong xã hội kéo theo việc nghi ngờ các kết quả giải
quyết khi cho rằng “con kiến mà kiện củ khoai” nên người ta càng không ý thức về
việc phải sử dụng pháp luật như một biện pháp để bảo vệ mình.
Người Việt Nam thường có thói quen sinh hoạt tuỳ tiện, ít chịu tuân thủ những
quy tắc, luật lệ ràng buộc con người.Trong nhiều trường hợp người ta thấy có thể bỏ
qua quy tắc và luật lệ. Điều này dẫn đến việc tùy tiện trong giải quyết các mối qun
hệ xã hội. Sự tùy tiện không chỉ là thoái quen của người dân mà còn là biểu hiện
114
của các cơ quan công quyền. Sự tùy tiện có thể có tác động rất lớn đặc biệt trong
bối cảnh các quy định pháp luật thường thiếu rõ ràng và cụ thể, chi tiết, việc áp
dụng tuân thủ phụ thuộc rất lớn vào các ứng xử của các nhân và tổ chức.
Như vậy, chúng ta thấy yếu tố văn hóa của cộng đồng người Việt cũng tạo ra
những rào cản nhất định đối với việc thực hiện các quy định pháp luật. Do đó thói
quen không tuân thủ pháp luật vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng dân cư và
ngay cả trong các cơ quan công quyền.Chúng ta thường thấy thực trạng “người Việt
khi ra nước ngoài thì chấp hành pháp luật về giao thông, về trật tự, về vệ sinh rất
nghiêm túc, nhưng khi quay về Việt Nam họ lại vi phạm và ngược lại, nhiều người
nước ngoài khi đến Việt Nam một thời gian thì họ cũng có những vi phạm giống
người Việt Nam”. Điều này có thể lý giải do sự tác động của yếu tố văn hóa, do môi
trường văn háo tạo ra.
Một yếu tố tiếp theo khiến người Việt ít thuân thủ chấp hành các quy định
pháp luật là do yếu tố lịch sử. Với hơn một nghìn năm Bắc thuộc, lại trải qua ách
thống trị và đô hộ của chủ nghĩa thực dân, trong những thời kỳ đó pháp luật không
phải là sản phẩm của người Việt nam mà đến từ những kẻ đô hộ nên người ta phải
miễn cưỡng chấp nhận pháp luật, hoặc chống lại một cách ngấm ngầm. Do vậy việc
chống đối với các quy tắc luật lệ được áp đặt từ bên ngoài vào cộng đồng trở thành
thói quen, lối sống của nhiều người Việt. Người Việt cũng tin rằng pháp luật gần
với hình phạt hơn là gần vối công lý, lẽ phải do đó họ không có thói quen tuân theo
pháp luật mà chỉ sợ pháp luật, không coi pháp luật như một phương tiện để bảo vệ
mình mà chỉ nghĩ rằng pháp luật là để thống trị chứ không phải là công cụ để điều
tiết xã hội và bảo vệ con người.
Thứ hai, nguyên nhân chủ quan.
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan trên, những hạn chế trong THPL về
bảo đảm TTATXH của người dân trên địa bàn đô thị loại I còn xuất phát từ chính
bản thân các chủ, đó là:
Một là, nhận thức về pháp luật bảo đảm TTATXH của người dân trên địa bàn
đô thị loại I còn hạn chế.
Muốn nâng cao mức độ thực hiện pháp luật của người dân và các cơ quan
công quyền thì phải nâng cao mức độ hiểu biết, hay khả năng tiếp cận với các quy
115
định pháp luật. Bởi hiểu, biết là yếu tố đầu tiên tác động đến việc thực hiện luật
trong thực tế. Vậy người dân sinh sống tại các đô thị loại I họ có nhận thức như thế
nào với các quy định pháp luật liên quan đến đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Nghiên
cứu của chúng tôi cho thấy rằng mức độ hiểu biết các quy định pháp luật về đảm
bảo TTATXH của người dân tương đối hạn chế. Người dân chỉ biết các quy định
chung của pháp luật theo cảm nhận của mình nhưng không hiểu biết đầy đủ, cặn kẽ
các quy định của luật. Điều này có thể do người dân rất ít quan tâm đến việc tìm
hiểu các quy định của luật, người ta chỉ quan tâm tới pháp luật, tìm đến luật sư khi
bản thân hoặc gia đình có việc liên quan đến pháp luật hay quyền lợi bị xâm hại.
Tuy nhiên khi tìm hiểu pháp luật người dân không dễ dàng có thể hiểu được bởi các
quy định của pháp luật tương đối nhiều và thường xuyên thay đổi và thường chưa
được hệ thống hóa. Do đó ngay cả những người có chuyên môn đọc kỹ cũng không
hiểu hết, không biết đâu mới là quy định mới nhất và phải áp dụng như thế nào mới
đúng chưa nói đến những người dân mới có trình độ học vấn trung học phổ thông
hay chưa tốt nghiệp tiểu học. Khảo sát PCI năm 2014 cho thấy “có tới 44,83% các
doanh nghiệp cho biết phải dành trên 10% quỹ thời gian để tìm hiểu và thực hiện
các quy định pháp luật” [118]. Cũng khảo sát này tiến hành năm 2018, cho thấy
“còn 30,7% doanh nghiệp cho biết phải dành hơn 10% quỹ thời gian để tìm hiểu và
thực hiện các quy định pháp luật của Nhà nước (năm 2015 là 35,5%)” [120, tr.8].
Như vậy, dù người dân có chủ động tìm hiểu quy định của luật thì đối với họ luật
pháp cũng không phải là điều dễ tiếp cận, dễ hiểu hay dễ thực hiện.
Ngoài ra việc hiểu biết pháp luật của người dân rất hạn chế một phần do khả
năng tiếp cận với các quy định của pháp luật rất thấp hay nói đúng hơn vẫn còn
những rào cản nhất định để người dân có thể dễ dàng tiếp cận và hiểu được các quy
định pháp luật của nhà nước. Chúng ta vẫn thường thấy hiện tượng các doanh
nghiệp và người dân không tuân thủ chấp hành các quy định của luật điều này có
thể do người dân và doanh nghiệp không tiếp cận được với quy định chính thức.
Nghiên cứu khả năng tiếp cận của doanh nghiệp với các tài liệu pháp lý trong điều
tra đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh ở Việt Nam những năm qua cho thấy với
thang điểm từ 1 đến 5 (Không thể - Rất dễ), “khả năng tiếp cận của doanh nghiệp
với các tài liệu quy hoạch chỉ đạt 2,38 điểm theo điều tra năm 2018, chỉ xung quanh
116
mức của năm 2015 và 2016, và thấp hơn đáng kể mức 2,63 điểm của điều tra năm
2006. Khả năng tiếp cận của doanh nghiệp với các tài liệu pháp lý có khá hơn, ở
mức 3,01 điểm trong năm 2018, song cũng chưa có nhiều cải thiện kể từ những năm
đầu tiến hành điều tra. Vẫn có tới 69,4% doanh nghiệp cho biết “cần có mối quan
hệ” để có được các tài liệu của tỉnh (năm 2017 là 70%)” [120, tr.9].
Trong khi đó việc phổ biến, giáo dục pháp luật vẫn còn mang nặng tính hình
thức, các bài giảng mới dừng lại ở mức thông tin về pháp luật, thiếu tính thực tế do
đó không thu hút được sự tham gia của người dân. Việc thiếu hiểu biết pháp luật
dẫn đến việc không tuân thủ, chấp hành hay sử dụng luật. Các nghiên cứu về hoạt
động khiếu nại tố cáo cho thấy: đa số vụ việc khiếu nại vượt cấp hay tố cáo không
được giải quyết, khiếu nại nhiều lần là do người dân không hiểu biết các quy định
pháp luật về khiếu nại tố cáo.Theo quy định của Luật Khiếu nại, nếu không đồng ý
với quyết định giải quyết của cơ quan công quyền, người dân có quyền khiếu nại về
quyết định đó. Nhưng đa phần không hiểu biết quy định luật tố cáo nên nhiều người
đã gửi đơn khiếu nại lần 2 lên các cơ quan trung ương, cá nhân các đồng chí lãnh
đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và gửi cho cả những nơi không thuộc thẩm quyền
giải quyết nhưng không gửi đơn đến chính cơ quan có trách nhiệm giải quyết khiếu
nại tố cáo cho họ.
Hai là, ý thức tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật của người dân và các
cơ quan công quyền trên địa bàn đô thị loại I chưa cao.
Hành vi tuân thủ, chấp hành hay sử dụng pháp luật bị tác động không chỉ bởi
yếu tố nhận thức, hiểu biết pháp luật mà còn bị chi phối và ảnh hưởng với yếu tố
tâm lý và tình cảm nghĩa là phải có thái độ tôn trọng pháp luật và tin tưởng vào sự
công bằng của pháp luật; từ đó mới tạo ra khả năng điều chỉnh hành vi hợp pháp
của mình. Thiếu tình cảm và niềm tin vào pháp luật thì mọi hành động dễ bị chệch
hướng khỏi chuẩn mực pháp lí vì những mục đích, động cơ cá nhân. Khi con người
có sự hiểu biết pháp luật, có tình cảm và lòng tin vào pháp luật thì họ sẽ hành động
theo những quy định của pháp luật. Lòng tin vào tính công bằng của pháp luật sẽ
hướng dẫn hành vi hợp pháp, tuân thủ pháp luật ở mọi lúc, mọi nơi; phê phán, lên
án những biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi vi phạm pháp luật; đồng thời
ủng hộ và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật.
117
Việc không hiểu biết, không nắm rõ các quy định pháp luật cộng với việc
thiếu niềm tin vào sự công bằng, đúng đắn của luật và sự công bằng đúng đắn của
các cơ quan công quyền nên người dân rất e ngại với việc sử dụng luật để bảo vệ
quyền lợi của mình. Đồng thời họ có xu hướng không tuân thủ chấp hành các quy
định của luật. Nhiều người dân có quan niệm cơ quan áp dụng pháp luật để trừng trị
các hành vi vi phạm pháp luật của người dân theo hướng “còn nặng về mặt cưỡng
chế và trừng phạt mà nhẹ về bảo đảm quyền lợi chính đáng của quần chúng”. Dó đó
họ khá e dè, nghi ngại và sợ hãi không dám sử dụng đến pháp luật. Họ không coi
pháp luật và tòa án là nơi nương tựa có khả năng giúp đỡ, bảo vệ mình. Việc đến
tòa chỉ là “vô phúc” bởi “chờ được vạ thì má đã sưng”. Họ cũng ngại với các thủ
tục pháp lý rắc rối do đó thường tự tìm cách bảo vệ quyền lợi của mình. Điều này
làm gia tăng tình trạng không tuân thủ, chấp hành các quy định pháp luật. Ví dụ “bà
N. T. Ph gần 5 năm nay cũng gửi đơn khiếu nại đi khắp nơi đề nghị giải quyết vụ
việc thu hồi đất mở đường vào khu dân cư nơi bà sinh sống mà theo bà là có nhiều
khuất tất nhưng bà không gửi đơn đến nơi ra quyết định cưỡng chế thu hồi. Khi
được hỏi vì sao không thấy đơn khiếu nại nào gửi cho Ủy ban nhân dân quận (nơi ra
quyết định cưỡng chế thu hồi đất), bà Ph. trả lời: “Họ ra quyết định sai, giờ gửi đơn khiếu nại đến họ làm sao dám giải quyết”3.
Khi gặp phải các vấn đề trong thực tế các cá nhân hay doanh nghiệp thường
không lựa chọn việc tuân thủ, chấp hành các quy định pháp luật mà tìm cách tránh
né. Ví dụ khi hành vi vượt đèn đỏ, chạy xe quá tốc độ, chở quá tải bị lực lượng chức
năng phát hiện xử lý người dân đều tìm cách giải quyết bằng thủ tục “đầu tiên” với
bất kỳ viên chức hành pháp nào. Người dân và doanh nghiệp có xu hướng “chịu
chi” dưới gầm bàn để giải quyết công việc nhanh hơn so với việc tuân thủ các quy
định và thủ tục. Các nghiên cho thấy việc trả phí không chính thức cho cán bộ nhà
nước dường như là một thông lệ kinh doanh phổ biến mang tính văn hóa ở Việt
Nam. Kết quả cuộc điều tra toàn quốc về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI),
cho thấy “từ 51-65% doanh nghiệp tham gia khảo sát trong giai đoạn 2011-2017
3 Trích biên bản phỏng vấn sâu với người dân
cho rằng các doanh nghiệp cùng ngành đang phải trả chi phí hối lộ; xu hướng doanh
118
nghiệp phải chi trả từ 10% tổng doanh thu trở lên cho các chi phí không chính thức
đang tăng dần từ 7% năm 2010 lên hơn 10% số doanh nghiệp được khảo sát trong
giai đoạn 2014-2017. Các nghiên cứu cúng cho thấy doanh nghiệp tư nhân ở Việt
Nam đã coi hối lộ như là “chi phí kinh doanh” nhiều hơn là vấn đề “liêm chính
trong kinh doanh”. Đa số các doanh nghiệp cho rằng việc chi trả này là ở mức độ
“chấp nhận được” [87]. Kết quả này cho thấy ý thức tuân thủ, chấp hành các quy
định pháp luật của người dân và doanh nghiệp còn rất hạn chế.
Không chỉ ý thức chấp hành các quy định pháp luật của người dân không cao
mà ngay cả các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước cũng thường không tuân
thủ chấp hành các quy định của luật. Do đó khi gặp phải các tình huống trong thực
tế các cơ quan công quyền cũng có xu hướng xử dụng luật ngầm để xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật. Chính vì vậy nghiên cứu chỉ số PCI năm 2018 cho thấy
“28,8% doanh nghiệp lo ngại “tình trạng chạy án” là phổ biến trong hoạt động tố
tụng qua tòa án” [120, tr.35]. Việc không tin tưởng vào sự nghiêm minh đúng đắn
của pháp luật và việc thực thi pháp luật của các cơ quan công quyền có thẻ khiến
cho tình ý thức chấp hành các quy định pháp luật của người dân và doanh nghiệp
không cao. Điều này tạo ra tác động tiêu cực đến việc tuân thủ và chấp hành pháp
luật trong thực tế.
Ba là, năng lực THPL của các cơ quan công quyền trên địa bàn đô thị loại I ở
Việt Nam còn hạn chế.
Để pháp luật đi vào đời sống thì ngoài việc có hệ thống pháp luật hoàn thiện
cần có bộ máy các cơ quan công quyền có khả năng thực thi các quy định của luật.
Do vậy chất lượng hiệu quả của việc thực hiện pháp luật phụ thuộc phần lớn vào
năng lực thực thi của cơ quan công quyền. Năng lực này phụ thuộc vào số lượng, cơ
cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức. Thực tế, số lượng, cơ cấu
chất lượng, năng lực làm việc, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ công chức các
cơ quan công quyền vẫn còn nhiều hạn chế, đó là:
(i) Thiếu về số lượng.
Thiếu số lượng cán bộ vẫn là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế
trong quá trình thực hiện pháp luật được ghi trong báo cáo của nhiều cơ quan. Ví dụ:
Theo Hiến pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có quyền giải thích luật và
119
pháp lệnh. Song thực tế, Ủy ban này hầu như chưa thực hiện được nhiệm vụ, quyền
hạn này, bởi sự "quá tải" trong công tác xây dựng pháp luật theo sự ủy quyền của
Quốc hội. Nên mọi vướng mắc trong việc ADPL nói chung áp dụng hình phạt tù có
thời hạn nói riêng đều dựa vào văn bản hướng dẫn ADPL của các cơ quan tư pháp ở
trung ương mà chủ yếu là TANDTC. Trong khi đó TANDTC cũng thường chưa kịp
thời ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng hình phạt, điều này khiến cho việc áp
dụng hình phạt của tòa án tại địa phương còn gặp nhiều khó khăn lúng túng.
Tại các cơ quan như Kiểm sát, Tòa án, hay Cảnh sát tình trạng thiếu cán bộ
tồn tại khá phổ biến. Theo báo cáo của nhiều Viện kiểm sát tình trạng thiếu đội ngũ
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên vẫn đang làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ
của ngành này. Nhiều “Viện kiểm sát chưa bố trí đủ Kiểm sát viên để tham gia
phiên tòa, phiên họp theo quy định của pháp luật”. Do thiếu nguồn nhân lực các
Kiểm sát viên được uỷ quyền tham gia quá nhiều vụ án nên khi tham gia phiên toà
các kiểm sát viên thường không có thời gian nghiên cứu hồ sơ, vụ án. Điều này dẫn
đến tình trạng các Kiểm sát viên lúng túng không chỉ khi xét hỏi mà khi luận tội
cũng như tranh luận với người bào chữa tại các phiên tòa. Tình trạng “Kiểm sát viên
phải đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà” diễn ra khá phổ biến.
Với cảnh sát theo báo cáo nhiều đơn vị “đội ngũ cán bộ của lực lượng cảnh
sát quản lý hành chính về trật tự xã hội thiếu về số lượng. Trình độ năng lực thực
thi nhiệm vụ của đội ngũ này còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ”
[82, tr.479]. Rất nhiều địa phương báo cáo về việc cán bộ của cơ quan thi hành án
“rơi vào tình trạng quá tải công việc, dẫn đến chậm trễ trong việc tổ chức thi hành
án, do đó quyền lợi của người được thi hành án không được đảm bảo, phát sinh
khiếu nại, tố cáo” [42]. Điều này do “Cục thi hành án dân sự địa phương tuy được
ưu tiên phân bổ chỉ tiêu biên chế nhưng hầu như đều chưa tuyển đủ theo chỉ tiêu”
[42]. Việc thiếu đội ngũ cán bộ khiến cho việc thực hiện pháp luật của cơ quan
công quyền còn ngặp nhiều khó khăn. Trong khi đó “Việc phân bổ cán bộ, công
chức tại nhiều đơn vị chưa thật sự phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được
giao... Công tác thi đua khen thưởng còn mang tính hình thức, chưa thật sự tạo ra
động lực để các cán bộ, công chức của ngành cố gắng, nỗ lực phấn đấu thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao” [71].
120
(ii) Trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ còn chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Năng lực thực thi công vụ và phẩm chất đạo đức là yếu tố quan trọng quyết
định chất lượng hiệu quả của việc tuân thủ, chấp hành áp dụng pháp luật của các cơ
quan công quyền. Các báo cáo đánh giá của tòa án tại các đô thị loại I cho thấy ở
nhiều địa phương đội ngũ cán bộ tòa án đặc biệt đội ngũ thẩm phán chưa đáp ứng
yêu cầu công việc. Nhiều thẩm phán do hạn chế về năng lực và tinh thần trách
nhiệm dẫn đến tình trạng bỏ sót tình tiết quan trọng của vụ án, áp dụng hình phạt tù
hoặc quá nặng hay quá nhẹ. Trình độ năng lực của một bộ phận Hội thẩm chưa theo
kịp yêu cầu ngày càng cao của công tác xét xử. Các hội thẩm chủ yếu kiêm nhiệm,
đa số hạn chế về kiến thức pháp lý nên thời gian giành cho việc nghiên cứu hồ sơ vụ
án trước khi xét xử chưa nhiều. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ Hội thẩm vẫn
còn khiêm tốn nên cũng ảnh hưởng đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong
giải quyết các vụ án hình sự.
Tình trạng yếu kém năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu tinh thần trách
nhiệm cũng được ghi nhận tại các viện Kiểm sát. “Một số Kiểm sát viên yếu về
năng lực, trình độ nghiệp vụ dẫn đến việc nghiên cứu các vụ án chưa sâu, khi tham
gia phiên tòa và kiểm sát bản án, quyết định thiếu chặt chẽ, chưa kịp thời phát hiện
vi phạm của Tòa án để ban hành kháng nghị hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp có
thẩm quyền kháng nghị” [121].
Năng lực, trình độ hạn chế cũng khiến nhiều cán bộ của cơ quan điều tra khi
tiến hành thực thi nhiệm vụ đã: “điều tra không đầy đủ các tình tiết của vụ án”; “các
cơ quan giám định không giám định chính xác” khiến cho việc xét xử của toàn án
gặp nhiều khó khăn đặc biệt khi xác định tình tiết tăng nặng giảm nhẹ.
Các báo cáo ghi nhận việc: “Các cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu cương
quyết trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm do nể nang, ngại va chạm hay do
chịu áp lực từ những người có chức vụ, quyền hạn hoặc do tác động tiêu cực khiến
cho các cơ quan tiến hành tố tụng đã bỏ lọt người phạm tội hoặc bỏ bớt các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội; áp dụng hình phạt nhẹ không
tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhất là các vụ án xâm phạm trật tự
công cộng, không có bị hại cụ thể” [62].
121
Qua nghiên cứu báo cáo và tìm hiểu quan điểm của các cán bộ thuộc các cơ
quan tư pháp, chúng tôi nhận thấy rằng còn tình trạng do năng lực hạn chế nhiều
cán bộ tư pháp chưa hiểu và vận dụng đúng những quy định pháp luật trong thực thi
công vụ khiến “nhiều vụ việc vi phạm pháp luật, bị đình chỉ sai, bỏ lọt tội phạm, bị
kháng nghị, phải qua nhiều lần, nhiều cấp xét xử, khiếu nại, tố cáo kéo dài, phức
tạp, nhiều vụ việc công dân bị oan, sai, thậm chí một số cơ quan tư pháp phải công
khai xin lỗi, khôi phục danh dự và bồi thường thiệt hại cho công dân” [71]. Bên
cạnh đó các công trình nghiên cứu cũng cho rằng tình trạng “cán bộ tư pháp tiêu
cực, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức” diễn ra tương đối phổ biến đang
“làm ảnh hưởng kỷ cương pháp luật, giảm hiệu lực của bộ máy nhà nước và lòng
tin của nhân dân”. Các cơ quan thi hành án báo cáo về tình trạng: “một bộ phận
không nhỏ đội ngũ chấp hành viên, cán bộ, công chức cơ quan Thi hành án dân sự
có trình độ chuyên môn còn hạn chế, kỹ năng xử lý tình huống, giải quyết công việc
chưa cao, thiếu tính chủ động, sáng tạo và chưa thật sự nêu cao tinh thần trách
nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ... Việc kiểm tra, đôn đốc giải quyết việc
thi hành án chưa được thực hiện tốt, thiếu tính quyết liệt, chưa tạo được động lực cơ
bản để các cơ quan Thi hành án dân sự, các chấp hành viên, các cán bộ, công chức
cố gắng, nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, đẩy nhanh tiến trình giải quyết án
tồn đọng” [4].
Bốn là, pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I còn chưa
hoàn thiện.
Có hệ thống pháp luật phù hợp là điều kiện tiên quyết đảm bảo việc thực hiện
pháp luật được nhân rộng và đạt hiệu quả cao. Những hạn chế trong thực hiện pháp
luật đảm bảo TTATXH những năm qua một phần xuất phát do hệ thống pháp luật
về lĩnh vực này của nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như:
(i) Các quy định pháp luật liên quan đến các hoạt động phòng, chống tội
phạm còn nhiều hạn chế.
Hiện nay một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung
2017) đã bộ lộ những hạn chế khiến cho công tác điều tra, truy tố, xét xử bị
122
“vướng” như: Điều 2604, theo các chuyên gia “Điều 260 BLHS hiện hành đang thiếu quy định chuyển từ khung hình phạt này sang khung hình phạt khác trong
cùng điều luật áp dụng… Nội dung quy phạm tại Điều 260 BLHS hiện hành đang
thiếu tính minh bạch với trường hợp chuyển khung (từ khung 1 sang khung 2; từ
khung 2 sang khung 3)” [88].
Mặt khác, hiện tại pháp luật còn thiếu các quy định một cách rõ ràng về việc
thực hiện vai trò nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong hoạt động kiểm sát việc giải
quyết tin báo tố giác tội phạm. Trên thực tế ngoài quy định tại Điều 103 của
BLTTHS, hiện chưa có bất cứ một văn bản pháp lý Liên ngành nào hướng dẫn về
việc thực hiện vai trò nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giải quyết tin báo tố giác tội
phạm do đó hoạt động này chưa được thực hiện một cách đồng bộ. Hiện nay còn
nhiều cách hiểu về hoạt động này do đó việc thực hiện “còn nhiều bất cập và tỷ lệ
giải quyết còn hạn chế” [116]. Bên cạnh đó, các quy định về thẩm quyền của Viện
4 Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ 1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của
những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: a) Không có giấy phép lái xe theo quy định; b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy
định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;
c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông; đ) Làm chết 02 người; e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của
những người này từ 122% đến 200%;
g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Làm chết 03 người trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của
những người này 201% trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên. 4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
01 năm đến 05 năm.”.
kiểm sát trong việc giải quyết tranh chấp nguồn tin về tội phạm theo Điều 150
123
BLTTHS năm 20155 lại thiếu các qui định về thời hạn mà Viện kiểm sát phải giải
quyết tranh chấp này. Hay việc quy định về thẩm quyền giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo Điều 150 vẫn được cho là “còn mang tính chung
chung, không rõ ràng”.
(ii) Những hạn chế của các quy định pháp luật về hoạt động phòng, chống tệ
nạn xã hội, các hành vi sai lệch xã hội khác.
Hiện tại theo ý kiến đánh giá các chuyên gia “hệ thống các văn bản pháp luật
của nhà nước về đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội chưa theo kịp với sự phát
triển của xã hội, văn bản thiếu, văn bản lạc hậu, nhiều loại hình tệ nạn mới phát sinh
không được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật” [82, tr.452]. Các quy định, định
nghĩa về tệ nạn xã hội chưa bao quát, chưa phản ánh đúng những gì đang diễn ra
trong thực tế. Ví dụ tệ mại dâm một hiện tượng diễn ra khá phổ biến tuy nhiên các
định nghĩa về mại dâm hiện không “bao quát được các hành vi mới như mua bán
dâm giữa những người đồng tính, kích dục, khiêu dâm... gây khó khăn cho các cơ
quan chức năng trong việc tổ chức phòng ngừa, ngăn chặn mại dâm trong các cơ sở
kinh doanh dịch vụ” [5].
Bên cạnh đó các quy định chế tài xử lý hành chính đối với các hành vi “vi
phạm như: bảo kê, khiêu dâm, kích dục;” hay hình thức xử lý đối với cán bộ, công
chức vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm vẫn chưa rõ ràng về “cơ chế
thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị để xử lý kỷ luật theo quy
5 Điều 150. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
định” [5].
khởi tố
1. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố do Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết. Tranh chấp thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết. 2. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra cấp tỉnh, giữa các Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương giải quyết. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa các Cơ quan điều tra quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi đầu tiên tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giải quyết.
3. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết.
124
(iii) Những hạn chế trong các quy định pháp luật liên quan đến phòng ngừa
tai nạn bao gồm phòng ngừa tai nạn giao thông và các tai nạn liên quan đến cháy
nổ và các tai nạn khác.
Hiện tại các quy định pháp luật phòng chống tai nạn như tai nạn giao thông,
phòng chống cháy nổ tại khu dân cư, trung cư hay các cở sở sản xuất kinh doanh
vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Các chuyên gia cho rằng “Phạm vi điều chỉnh của
pháp luật về trật tự, an toàn giao thông quá rộng, bao gồm cả các quy định về quy
tắc giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt; kết cấu, xây dựng hạ tầng giao
thông, vận tải và doanh nghiệp giao thông vận tải; dịch vụ hỗ trợ vận tải và quản lý
nhà nước về giao thông dẫn đến chồng chéo với các quy định của các luật khác
(Luật doanh nghiệp, Luật xây dựng, Luật đầu tư công..). Việc coi trọng quy định về
quản lý giao thông mà không coi trọng quy định về quy tắc an toàn giao thông dẫn
đến khó khăn trong việc vận dụng, thực hiện các quy tắc tham gia giao thông. Công
tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
vẫn còn một số quy định chưa khả thi, khó thực hiện do chưa được nghiên cứu, bám
sát thực tiễn đời sống xã hội, việc ban hành các văn bản quy phạm này còn chậm,
chưa đáp ứng được tình hình phát triển của giao thông hiện nay” [13].
Nhiều quy định pháp luật về phòng cháy chữa cháy, các quy định pháp luật
liên quan đến cứu hộ, cứu nạn và đảm bảo an toàn nơi cư trú chưa phù hợp với thực
tiễn, như: những quy định về trách nhiệm của chủ hộ gia đình, quy định về trách
nhiệm xây dựng phương án chữa cháy tại khu dân cư, quy định về cấp giấy chứng
nhận đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy và thẩm duyệt, kiểm tra thi công,
nghiệm thu về phòng cháy chữa cháy, quy định về xử phạt vi phạm hành
chính…Quy định về xây dựng phương án chữa cháy tại các thôn, ấp, bản, tổ dân
phố tại Điều 31 Luật phòng cháy chữa cháy không phản ánh đúng thực tế đối với
điều kiện công tác tổ chức phòng cháy chữa cháy, trình độ cán bộ hiện nay ở khu
vực dân cư.
(iv) Những hạn chế của các quy định pháp luật về hoạt động quản lý hành
chính về trật tự xã hội như quản lý cư trú, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, quản lý các
ngành nghề kinh doanh, các hoạt động giữ gìn trật tự nơi công cộng…
Hiện tại các quy định pháp luật liên quan đến quản lý hành chính về TTATXH
còn nhiều hạn chế như: các quy định pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính,
125
kinh doanh thương mại, lao động còn có những quy định chồng chéo, mẫu thuẫn.
Pháp luật về quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại và hoạt động của người
nước ngoài vẫn chưa phù hợp với tình hình thực tiễn…
(v) Những hạn chế trong các quy định pháp luật liên quan đến giáo dục, cải
tạo phạm nhân, học sinh các trường giáo dưỡng, trung tâm cai nghiệm và các cơ sở
chữa bệnh bắt buộc.
Việc đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội không thể không nhắc đến
công tác thi hành án đối với người vi phạm. Hiện tại công tác đấu tranh phòng ngừa
đã được quy định khá cụ thể trong Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, tuy
nhiên các văn bản pháp luật liên quan đến thi hành án như giáo dục cải tạo phạm
nhân… lại chưa hoàn thiện, tản mạn, chống chéo, mâu thuẫn và chưa phù hợp với
thực tế.
(vi) Những hạn chế trong các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, phòng
chống các sự cố về môi trường.
Bảo vệ môi trường là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta. Tuy
nhiên quá trình phát triển kinh tế những năm qua cho thấy tình trạng ô nhiễm môi
trường diễn ra ngày cảng nghiêm trọng. Điều này một phần do các quy định pháp
luật về bảo vệ môi trường của nước ta hiện còn nhiều bất cập, hạn chế. Các quy
định pháp luật bảo vệ từng thành phần môi trường như môi trường nước, không khí,
đất… cũng như các quy định về việc điều chỉnh hoạt động của con người nhằm bảo
vệ môi trường hiện còn chưa đồng bộ. Nhiều văn bản chậm ban hành, khi ban hành
thiếu tính khả thi do không phù hợp thực tế. Ví dụ các quy định liên quan đến đánh
giá tác động môi trường hiện được cho là không phù hợp, thiếu tính khả thi. Các
quy định liên quan đến quy chuẩn về môi trường lạc hậu hoặc không thể thực hiện
do không có công nghệ. Các quy định liên quan đến chế tài xử phạt được cho không
đảm bảo tính dăn đe khiến cho nhiều doanh nghiệp lựa chọn chịu phạt hơn là thay
đổi công nghệ nhằm bảo vệ môi trường.
Năm là, các điều kiện vật chất, hạ tầng cơ sở còn chưa hoàn thiện gây khó
khăn cho việc thực hiện pháp luật của cá nhân và tổ chức.
Việc thực hiện pháp luật đảm bảo TTATXH chịu sự tác động lớn bởi các điều
kiện vật chất liên quan đến hạ tầng cơ sở như hạ tầng giao thông trong thực hiện
126
quy định pháp luật giao thông, kết cấu khu dân cư, các nhà máy, xí nghiệp ảnh
hưởng trực tiếp đến các quy định về phòng cháy chữa cháy, phòng ngừa tai nạn.
Hiện tại việc tuân thủ chất hành pháp luật về giao thông về phòng cháy chữa cháy
hay phòng ngừa tai nạn khác còn ngặp nhiều khó khăn một phần do hạ tầng cơ sở
tại khác đô thi loại I chưa đảm bảo. Các tuyến đường giao thông trên địa bàn các
khu đô thị nhiều nơi bị hư hỏng, xuống cấp nhiều nơi quy hoạch giao thông, quy
hạch khu dân cư không đảm bảo nguyên tắc phòng cháy chữa cháy do đó việc tuân
thủ chấp hành quy định pháp luật của người dân còn gặp nhiều khó khăn.
Tiểu kết chương 3
Chương 3 đã phân tích thực trạng THPL về đảm bảo TTATXH trên địa bàn
các đô thi loại I, từ đó khái quát rõ nét bức tranh THPL về đảm bảo TTATXH trên
địa bàn các đô thi loại I ở Việt Nam hiện nay. Thực tiễn này cho thấy, người dân,
doanh nghiệp, các tổ chức và các cơ quan công quyền đã thực hiện tương đối tốt
pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I, do vậy trật tự, kỷ
cương tại các đô thị loại I được giữ vững; tính mạng, tài sản và cuộc sống an toàn
của đại đa số người dân được đảm bảo, kinh tế - xã hội trên địa bàn tiếp tục ổn định
và phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh đó việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các
đô thi loại I ở Việt Nam trong thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế nhất định,
đó là: một bộ phận người dân, doanh nghiệp và cơ quan, tổ chức chưa tuân thủ, thực
thi và sử dụng tốt pháp luật vể bảo đảm TTATXH, các hành vi vi phạm pháp luật
liên quan đến đảm bảo TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I có chiều hướng gia
tăng trong giai đoạn 2012-2020; bên cạnh đó, việc áp dụng pháp luật của các cơ
quan nhà nước còn nhiều hạn chế, từ đó dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân và tổ chức nhiều lúc, nhiều nơi chưa được đảm bảo tốt; kinh tế - xã hội trên
địa bàn phát triển chưa bền vững. Nguyên nhân của tồn tại yếu kém này do bản thân
các chủ thể chưa thực hiện đúng, đủ quyền và nghĩa vụ của mình; đồng thời hệ
thống pháp luật Việt Nam về bảo đảm TTATXH còn những lỗ hổng, chưa đồng bộ;
cơ sở vật chất, nguồn nhân lực còn hạn chế, v.v... Những tồn tại hạn chế này cần
phải được khắc phục kịp thời nhằm đảm bảo tốt TTATXH trên địa bàn đô thi loại I
ở Việt Nam trong thời gian tới.
127
Chương 4
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN
XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM
4.1. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ
THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM
4.1.1. Quan điểm nâng cao chất lượng thực hiện các quy định pháp luật
bảo đảm trật tự an toàn xã hội
Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay để nâng cao
hiệu quả THPL về bảo đảm TTATXH thực hiện theo những quan điểm cơ bản
như sau:
Thứ nhất, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I phải xuất phát
từ yêu cầu bảo đảm tốt quyền quyền con người, quyền công dân và quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể pháp luật khác trên địa bàn đô thị loại I.
Bảo đảm TTATXH theo quy định pháp luật là mục tiêu của mọi nhà nước,
trong mọi giai đoạn phát triển. Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
hiện nay đa và đang hướng đến bảo đảm TTATXH nhằm bảo đảm sự phát triển
toàn diện và bền vững đất nước, trên tinh thần đó, việc THPL về bảo đảm
TTATXH nõi chung và trên địa bàn đô thị loại I nói riêng phải thực hiện đúng và đủ
các quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Bộ luật
Tố tụng Dân sự năm 2015, Luật Công an Nhân dân năm 2018 và các văn bản pháp
luật liên quan đến bảo đảm TTAXTH hiện hành.
Trên cơ sở đó, các chủ thế pháp luật phải chủ động, tích cực và thực hiện có
hiệu quả các quy định pháp luật về bảo đảm TTATXH qua đó bảo đảm tốt quyền
quyền con người, quyền công dân và quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp
luật khác trên địa bàn đô thị loại I.
128
Thứ hai, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I phải bảo đảm
tính khoan dung, nhân đạo, vừa thể hiện tính răn đe vừa thể hiện tính giáo dục nâng
cao nhận thức cũng như ý thức pháp luật luật của các chủ thể pháp luật.
Khoan dung, nhân đạo là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Tư tưởng này được phản ánh rõ nét trong các quy định của pháp luật.
Theo đó việc thực hiện pháp luật phải thể hiện rõ tư tưởng khoan dung nhân đạo.
Do vậy, khi áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi phạm pháp luật phải xác định
mục đích của trừng phạt hành vi sai lệch là để bảo vệ công lý, công bằng bảo vệ
tinh nhân văn, nhân đạo đồng thời việc đấu tranh với các hành vi sai lệnh ngoài mục
đích trừng trị và giáo dục, thì cũng là biện pháp để giáo dục người phạm tội hướng
họ đến cái thiện. Theo tinh thần đó việc thực hiện pháp luật luôn phải đề cao tính
“hướng thiện”. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW), trong đó
Đảng ta đã chỉ rõ, cần phải “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục
tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý
người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hạn chế áp
dụng hình phạt tử hình…”.
Pháp luật là một công cụ quản lý nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng
môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hoá đời
sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Theo đó việc các cơ quan
công quyền thực hiện nghiêm minh các quy định pháp luật là biện pháp hữu hiệu
nhất để răn đe và giáo dục những hành vi sai trái. Việc thực hiện pháp luật sẽ có tác
dụng răn đe, giáo dục nếu mọi người nhận thức được đâu là hành vi bị cấm, bị lên
án. Khi mọi người nhận thức rằng pháp luật sẽ trừng trị bất cứ hành vi vi phạm pháp
luật nào không loại trừ một ai và không phân biệt đối xử với bất kỳ ai; đứng trước
pháp luật mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau lúc đó ý thức tuân
thủ pháp luật tuân thủ nguyên tắc trật tự sẽ được hình thành. Việc thực hiện pháp
luật sẽ giúp các cơ quan quản lý xã hội điều chỉnh hành vi của con người theo
hướng ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác và khuyến khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt,
cái thiện vốn có trong mỗi con người. Việc thực thi pháp luật là nhằm xây dựng một
xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, tiến bộ vì con người và cho con người.
129
Thứ ba, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I phải sáng tạo,
tôn trọng thực tế khách quan.
Trong quá trình xây dựng pháp luật, các nhà lập pháp, lập quy đều mong
muốn các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với thực tiễn khách quan nhằm
giúp công tác quản lý nhà nước được thực hiện rễ ràng vừa ít gây phiền hà cho đối
tượng quản lý, đạt được sự đồng thuận cao trong xã hội, tuy nhiên trên thực tế do
thiếu nguồn lực, do hạn chế về năng lực hoặc do khả năng dự báo của nhà lập
pháp, lập quy hạn chế nên chưa lường trước được hết các quan hệ xã hội nảy sinh
trong tương lai gần, vì thế nội dung của các quy định pháp luật được xây dựng có
thể chưa bao quát hết những vấn đề của thực tiễn hay chưa thể cụ thể chi tiết tỉ mỉ
đến từng trường hợp. Chính vì những hạn chế này, trong quá trình THPL, đặc biệt
là áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải căn cứ vào tình
hình thực tiễn để vận dụng luật cho phù hợp, đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Việc sáng tạo trong quá trình THPL đòi hỏi
các chủ thể phải căn cứ theo Hiến pháp hiện hành và các luật hiện hành, không
được sáng tạo vượt ngoài các khung pháp lý đó và không làm phương hại đến
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà
nước và xã hội.
Vì thế, trong quá trình THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I,
các cơ quan áp dụng pháp luật phải bám sát thực tiễn, gạt bỏ lợi ích cá nhân cũng
như chủ quan duy ý chí, cứng nhắc, mà phải đánh giá đúng sự vật, sự việc, không
xuyên tạc, bóp méo hay làm sai sự thật; khi thu thập bằng chứng, chứng cứ phải cẩn
thận, tỉ mỉ toàn diện; khi đánh giá vấn đề phải tuân thủ nguyên tắc khách quan toàn
diện không dựa vào mong muốn, ý chí chủ quan duy ý chí. Ngoài ra, các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong quá trình THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn
đô thị loại I không chỉ thực hiện đúng mà còn phải thực hiện đầy đủ chức năng,
nhiệm vụ của mình để nâng cao chất lượng phục vụ công của các cơ quan nhà nước,
từ đó bảo đảm, thúc đẩy và phát triển quyền con người, bảo đảm tốt quyền và lợi
ích của các chủ thể pháp luật trong thực tế trên địa bàn các đô thị loại I hiện nay ở
Việt Nam.
130
Thứ tư, bảo đảm sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự quản lý của các cơ quan nhà
nước và sự tham gia tích cực Mặt trận tổ quốc, các đoạn thể nhân dân và nhân dân
trong THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.
Bảo đảm TTATXH là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, vì thế
để nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I đòi
hỏi phải có sự tham gia đồng bộ của các cấp uỷ Đảng, các cơ quan nhà nước và Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và bản thân người dân theo phương châm
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ” [35, tr.173], trong đó cần phát huy vai trò
các các cấp ủy đảng trong việc lãnh đạo chỉ đạo các lực lượng thực hiện nghiêm
minh, hiệu quả các quy định pháp luật. Việc thực hiện pháp luật đảm bảo TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I những năm qua cho thấy nơi nào các cấp ủy đảng tập trung
công tác lãnh đạo chỉ đạo việc thực hiện pháp luật sẽ được thực hiện nghiêm minh
đem lại hiệu quả cao. Do đó những năm tới cần đẩy mạnh sự lãnh đạo, chỉ đạo
trong THPL về bảo đảm TTATXH của các cấp ủy đảng trên địa bàn đô thị loại I.
Thông qua đó sức mạnh của toàn thể xã hội được phát huy trong công tác
phòng chống đấu tranh tội phạm, tệ nạn xã hội, thực hiện nghiêm minh các quy
định pháp luật nhằm xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, cuộc sống người dân được
đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe và các quyền con người, quyền và lợi ích
của các chủ thể khác trên địa bàn đô thị luôn được bảo đảm đầy đủ; hệ số an toàn xã
hội trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam tiếp tục tăng cao, xây dựng môi trường
xã hội trên địa bàn các đô thị loại I thật sự an toàn, thực sự trở thành điểm đến thu
hút khách du lịch, thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Thứ năm, kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu phòng chống dịch bệnh với thúc đẩy,
ổn định phát triển kinh tế - xã hội là một trong những nội dung quan trọng trong
THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay.
Trong bối cảnh tình hình dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp trong nước
và trên thế giới, yêu cầu đặt ra đối với các địa phương đặc biệt là các đô thị loại I ở
Việt Nam cần phải kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu phòng chống dịch bệnh với thúc
đẩy, ổn định phát triển kinh tế - xã hội, không vì phòng chông dịch mà làm ngưng
trệ, gián đoán hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì thế trong THPL về bảo
131
đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay phải thực hiện tốt tinh
thần này, trong đó đặc biệt kiểm soát chặt chẽ việc nhập cư, xuất cư của người dân,
khách du lịch trên địa bàn các đô thị loại I; thực hiện các biện pháp để nâng cao ý
thức pháp luật, ý thức cảnh giác tự bảo vệ bản thân, bảo vệ cộng đồng trước tình
hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh, đồng thời xử lý nghiêm minh những cá
nhân, tổ chức cố tình không chấp hành đúng các quy định pháp luật về phòng,
chống dịch.
Tình hình diễn biến dịch bệnh còn diễn biến lâu dài, phức tạp, khó lường, vì
thế, người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức và cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phải thực hiện thật tốt các quy định pháp luật về bảo đảm TTATXH để mọi người
dân, doanh nghiệp trên địa bàn đô thị loại I tiếp tục cuộc sống bình thường, an toàn,
an tâm lao động, sản xuất, từng bước đẩy lùi dịch bệnh góp phần bảo đảm tốt
TTATXH ở Việt Nam hiện nay.
4.1.2. Phương hướng nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về bảo
đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam
4.1.2.1. Thực hiện đồng bộ các hình thức thực hiện pháp luật về bảo đảm
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam
Để thúc đẩy việc thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo TTATXH thì mỗi cán bộ,
công chức viên chức làm công tác quản lý nhà nước về TTATXH phải gương mẫu
thực hiện pháp luật của Nhà nước. Theo đó chúng ta cần chú trọng đến việc nâng
cao năng lực thực thi pháp luật; giáo dục ý thức tôn trọng, tuân thủ và nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức; mỗi cán bộ, công chức trong các cơ
quan nhà nước ý thức về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, cơ quan mình trong việc
tuân thủ, chấp hành pháp luật, để mỗi người tự giác trở thành một thẩm phán của
chính mình trong thực hành “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Đặc
biệt, các cơ quan tư pháp là cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, bảo vệ pháp chế, trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, xã hội và các tổ chức khác. Các cán bộ tư pháp chủ yếu là những người làm
việc trong Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân, cơ quan điều tra và cơ quan
thi hành án (kiểm sát viên, thẩm phán, điều tra viên, chấp hành viên), đây là những
cán bộ có vị trí vai trò rất quan trọng trong quá trình thực hiện pháp luật đảm bảo
132
các quyền con người, quyền công dân; giữ vững ổn định và phát triển của xã hội.
Sự ổn định của trật tự pháp luật trong nước, việc giữ vững kỷ cương xã hội, sự tự do
và an toàn của con người…một phần quan trọng phụ thuộc vào hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử của cơ quan tư pháp. Theo đó nếu các cơ quan này không tuân thủ,
chấp hành các quy định pháp luật sẽ dẫn đến những hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Do đó, cán bộ tư pháp phải hơn ai hết là những người gương mẫu chấp hành pháp
luật, có ý thức trách nhiệm trong thực thi công vụ.
Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước, các cơ quan, tổ chức đoàn thể đẩy mạnh
việc tuyên truyền, giáo dục, nêu gương để mọi người dân thực hiện tốt quyền chủ
thể của mình tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trên địa
bàn đô thị loại I, vừa góp phần phát triển bảo đảm TTATXH, phát triển KT-XH,
đồng thời giám sát chặt chẽ việc THPL về bảo đảm TTATXH của các cơ quan nhà
nước trên địa bàn này.
Ngoài ra, việc tuân thủ chấp hành nghiêm pháp luật của cơ quan tư pháp nghĩa
là hoạt động của đội ngũ cán bộ tư pháp phải chú trọng đến các nội dung sau: Một
là, phải tuân thủ những trình tự tố tụng chặt chẽ, đó là những trình tự tố tụng trong
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự; giải quyết các vụ án dân sự,
hành chính, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình và tổ chức thi hành các bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật. Việc tuân thủ các trình tự này bảo đảm cho hoạt
động của cơ quan tư pháp có hiệu ực hiệu quả cao. Theo đó những bản án, quyết
định đúng pháp luật được thi hành trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước và công dân; hai là, hoạt động của cơ quan tư pháp phải độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật. Đây là nguyên tắc định hướng, xuyên suốt toàn bộ hoạt
động của cán bộ tư pháp. Nguyên tắc này xuất phát từ tính chất khó khăn, phức tạp
của hoạt động tư pháp liên quan tính mạng, quyền tài sản, quyền tự do, danh dự,
nhân phẩm của công dân... đòi hỏi hoạt động tư pháp phải đạt đến độ chính xác cao
nhất, cán bộ tư pháp phải am hiểu pháp luật, có tinh thần trách nhiệm trong thực thi
công vụ; đồng thời nguyên tắc này cũng xuất phát từ nguyện vọng, đòi hỏi chung
của xã hội và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan về sự công bằng, dân chủ,
nghiêm minh trong hoạt động tư pháp.
133
Đối với các hoạt động xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp
luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trên địa bàn này thực hiện đúng, đủ các chức năng, nhiệm vụ của mình
để ngăn chặn các hành vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với TTATXH
trên địa bàn các đô thị loại I, trong đó tập trung vào xử lý các hành vi vi phạm trật
tự an toàn giao thông; trật tự đô thị; vệ sinh môi trường; phòng cháy chữa cháy; vệ
sinh an toàn thực phẩm; trật tự xây dựng và chỉnh trang đô thị; buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả; tệ nạn xã hội; v.v.. Quá trình áp dụng pháp luật trong hoạt
động thụ lý và giải quyết các vụ án của các cơ quan tư pháp trên địa bàn các đô thị
loại I cần tuân thủ triệt để và chính xác theo các (giai đoạn) như: phân tích, đánh giá
các tình tiết, các tài liệu, chứng cứ của vụ án một cách toàn diện, khách quan, chính
xác; lựa chọn quy phạm pháp luật nội dung phù hợp và phân tích làm rõ nội dung, ý
nghĩa của quy phạm pháp luật đối với trường hợp cần áp dụng; ban hành bản án
đảm bảo việc xét xử đúng người đúng tội, không làm oan sai hay bỏ lọt tội phạm.
Tòa án các cấp trên địa bàn các đô thị loại I phải làm sao hạn chế tối đa số các vụ án
bị hủy, bị cải sửa, đảm bảo cho việc xét xử không làm oan sai người vô tội, không
bỏ lọt tội phạm. Xét xử thấu tình đạt lý; Việc áp dụng pháp luật phải thực sự dân
chủ, minh bạch, bảo vệ các quyền lợi chính đáng hợp pháp của công dân.
4.1.2.2. Xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với những chủ thể vi phạm pháp
luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam
Tính nghiêm minh của pháp luật là nguyên tắc theo đó chủ thể thực hiện
pháp luật phải thể hiện sự sáng suốt hài hòa giữa yếu tố tình cảm và lý trí để đảm
bảo tính nghiêm khắc, không bao che sai lầm khuyết điểm, xử lý nghiêm khắc với
hành vi vi phạm pháp luật.
Việc xử lí nghiêm minh, đúng pháp luật đối với các chủ thể vi phạm pháp
luật về TTATXH là yếu tố quan trọng giúp nâng cao hiệu quả của việc THPL có
hiệu quả trên địa bàn các đô thị loại I, đồng thời nó là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến
uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, của chính quyền, của Đảng, ảnh hưởng đến
niềm tin của người dân ở nơi này vào sự đúng đắn công bằng của pháp luật và việc
thực hiện pháp luật. Theo đó việc các cơ quan thi hành pháp luật xử lý các vụ việc
dứt điểm rõ ràng và đúng pháp luật điều này sẽ có tác dụng rất tốt trong việc trấn an
134
dư luận, giữ vững kỷ cương, trật tự xã hội. Mức độ nghiêm minh, đúng đắn của việc
thực hiện pháp luật sẽ được phản ánh thông qua mối quan hệ tương quan như:
tương quan giữa mức độ nặng - nhẹ của hành vi phạm tội với mức độ hình phạt
được áp dụng; tương quan giữa yếu tố hành vi phạm tội và yếu tố nhân thân người
phạm tội với mức hình phạt; tương quan giữa các tình tiết tăng nặng và các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với mức hình phạt; tương quan về lứa tuổi của người
phạm tội với mức định khung hình phạt; tương quan giữa các yếu tố bắt buộc áp
dụng với các yếu tố tùy nghi áp dụng (đối với các cơ quan áp dụng pháp luật);
tương quan giữa yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự và khả năng điều tra, phát hiện
tội phạm; tương quan giữa trách nhiệm cá nhân người phạm tội với trách nhiệm của
xã hội, của Nhà nước... Đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn ra nghiêm
trọng, Uỷ bản nhân dân trên các địa bàn đô thị loại I phải luôn chủ động trong
phòng chống dịch, thực hiện các biện pháp cần thiết để kiểm soát, khống chế dịch
bệnh, khi xảy ra dịch bệnh cần phải tiếp tục quán triệt sâu sắc tinh thần “Các bộ, cơ
quan, địa phương tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác phòng,
chống dịch theo tinh thần cấp trên kiểm tra cấp dưới, tỉnh kiểm tra huyện, huyện
kiểm tra xã, xã kiểm tra thôn, bản, ấp; thôn, ấp, bản kiểm tra dòng họ, gia đình theo
tinh thần đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng”.
4.1.2.3. Xây dựng lối sống thượng tôn pháp luật và văn hoá pháp lý cho
người người dân, doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức trên địa bàn các đô thị
loại I
Lối sống thượng tôn pháp luật và ứng xử có văn hoá trên cơ sở các quy định
pháp luật trong các quan hệ xã hội chính là nền tảng của xã hội pháp quyền và là
mục tiêu hướng đến trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay. Theo
tinh thần đó, mọi người dân, doanh nghiệp và các tổ chức chủ động, tự giác, tích
cực thực hiện đúng, đủ các điều mà pháp luật không cấm; các cơ quan nhà nước và
cán bộ, công chức, viên chức nhà nước chỉ được thực hiện theo đúng, đủ thẩm
quyền của mình do pháp luật quy định. Cho nên, để nâng cao chất lượng THPL về
bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam, các cơ quan có thẩm
quyền cần thúc đẩy nâng cao mức độ hiểu biết pháp luật và nâng cao văn hoá pháp
lý của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức sẽ góp phần tích cực vào việc phát
135
triển kinh tế xã hội, ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn này;
xây dựng văn hoá pháp lý và lối sống thượng tôn pháp luật trở thành một nội dung
quan trọng trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước.
Bên cạnh đó, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và gia đình của họ trên
địa bàn các đô thị loại I phải là luôn gương mẫu trong THPL; các hành vi vi phạm
pháp luật của họ phải xử lý thật nghiêm minh và áp dụng tình tiết tăng nặng để tăng
cường tính răn đe. Theo V.I.Lênin, “mọi người phải chấp hành nghiêm túc pháp
luật của nhà nước, nhất là cơ quan, cán bộ của Đảng và Nhà nước. Khi cán bộ, đảng
viên vi phạm pháp luật phải xử nặng hơn vì lỗi lớn hơn là người ít hiểu biết pháp
luật pháp chế xã hội chủ nghĩa phải được thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn
quốc nghĩa là mọi vi phạm pháp luật phải xử lý nghiêm minh” [41, tr.90]. Vì thế ở
Việt Nam hiện nay phải kết hợp nhuận nhuyễn giữa “thực hành dân chủ và tăng
cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” [35, tr.39], “thưởng, phạt” phân minh,
rõ ràng, kết hợp chặt chẽ với nhau, từ đó tạo động lực thực sự cho đội ngũ cán bộ,
công chức trong thực thi công vụ, nhằm “phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ
nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ
cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh thần “thượng tôn pháp luật”, gương
mẫu theo pháp luật, kỷ cương và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ
chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của
cán bộ, đảng viên” [35, tr.203].
Để triển khai pháp luật kịp thời và hiệu quả vào cuộc sống trên địa bàn các
đô thị loại I, bản thân người dân, doanh nghiệp, các tổ chức và các cơ quan nhà
nước phải luôn luôn nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật một cách tự
giác; xây dựng lối sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật để tinh thần
thượng tôn pháp luật là nhu cầu tự thân của mỗi chủ thể pháp luật. Vì thế, xây dựng
lối sống thượng tôn pháp luật và văn hoá pháp lý cho người người dân, doanh
nghiệp và các cơ quan, tổ chức trên địa bàn các đô thị loại I làm cơ sở bền vững cho
thực hiện tốt các quy định pháp luật nói chung và các quy định pháp luật về bảo
đảm trật TTATXH nó riêng trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam.
136
4.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở
VIỆT NAM
Để nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa
bàn các đô thị loại I, những năm tới Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội
cũng như người dân trên địa bàn cần phải thực hiện hiệu quả và đồng bộ các nhóm
giải pháp như sau:
4.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật của
người dân, doanh nghiệp và các tổ chức trên địa bàn các đô thị loại I
Pháp luật muốn đi vào cuộc sống nó phải trở thành nguyên tắc, chuẩn mực
được mọi người dân coi trọng và vận dụng thực hiện trong mọi tình huống. Do vậy
để nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I,
cần nâng cao chất lượng tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật về bảo đảm
TTATXH của cá nhân và tổ chức trên địa bàn đô thị loại I, trong đó tập trung vào
các nội dung sau:
4.2.1.1. Tăng cường và đổi mới nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật nhằm nâng cao sự hiểu biết và ý thức pháp luật của người dân, doanh
nghiệp và các tổ chức trên địa bàn đô thị loại I
Sự hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật là cơ sở hình thành lối sống tuân
theo Hiến pháp pháp luật của người dân giúp mọi cá nhân và tổ chức hình thành
phong cách sống điềm tĩnh, chủ động tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật
trong giải quyết những tình huống xung đột xảy ra.
Theo đó mục tiêu của nhóm giải pháp này là hướng đến việc nâng cao nhận
thức, thái độ nhằm chuyển biến hành vi của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức
trên địa bàn đô thị loại I theo hướng để các chủ thể này nắm và hiểu rõ các quy định
của pháp luật về đảm bảo TTATXH; xây dựng ở họ tình cảm và niềm tin vào tính
đúng đắn, công bằng và nghiêm minh của pháp luật cũng như của việc thực thi pháp
luật của các cơ quan chức năng; khắc phục xu hướng thờ ơ với pháp luật và coi
pháp luật là công cụ thống trị của nhà nước. Thông qua hoạt động tuyên truyền, phồ
biến giáo dục pháp luật, các chủ thể này hình thành thói quen, tình cảm và luôn xem
việc tuân thủ, chấp hành, sử dụng pháp luật về đảm bảo TTATXH như giá trị và
137
chuẩn mực chung dẫn dắt hành vi của họ trong các hoạt động sống và làm việc trên
địa bàn đô thị loại I.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành, đoàn thể và địa phương
nói chung và trên địa bàn đô thị loại I nói riêng đã có nhiều cố gắng, nỗ lực đẩy
mạnh và tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, cũng phải
thẳng thắn nhìn nhận rằng có lúc, có thời điểm công tác này còn mang tính phong
trào, chưa đi vào thực chất. Nội dung, hình thức giáo dục pháp luật chưa thật sự phù
hợp, trong khi đó hệ thống pháp luật của Việt Nam thường xuyên thay đổi, các quy
định pháp luật về một vấn đề cụ thể được quy định ở nhiều điều luật nhiều văn bản
khác nhau nên khó tra cứu và áp dụng. Các quy trình thủ tục tố tụng phức tạp và
chưa được công khai minh bạch nên việc tiếp cận và có thể hiểu và làm theo pháp
luật của người dân và cả cơ quan công quyền còn hạn chế. Theo đó những năm tới
chúng ta cần thực hiện những giải pháp sau:
Thứ nhất, đối với các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
cần phải đổi mới nội dung, hình thức. Nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật cần sát với từng loại đối tượng đáp ứng theo nhu cầu cụ thể của từng
nhóm; đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; vận dụng
việc lồng ghép đào tạo, phổ biến pháp luật về TTATXH vào trong học đường; sử
dụng các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền thanh, truyền hình các
trang mạng điện tử các trang liên cá nhân như facebook, zalo… để phổ biến các
thông tin, quy định pháp luật. Phát triển dịch vụ tư vấn pháp luật bằng phương thức
điện tử và nhắn tin qua điện thoại… Công khai hóa các quy trình và thủ tục pháp lý
cũng như thủ tục tố tụng trên các website hay cổng thông tin điện tử một cách đầy
đủ chi tiết để người dân dễ dàng hơn trong tiếp cận.
Thứ hai, để thực hiện tốt và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền pháp
luật về TTATXH của các cơ quan nhà nước và đặc biệt là các cơ quan tư pháp phải
đầu tư một cách thỏa đáng để phát triển nguồn lực trong đó có nguồn nhân lực và
các nguồn lực khác phục vụ cho công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật;
thúc đẩy sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành trong hệt hống chính trị
trong việc thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Trong đó
nhấn mạnh việc tuyên truyền giáo dục pháp luật thông qua các vụ việc cụ thể theo
138
đó các cơ quan tư pháp đặc biệt là tòa án cần phải coi hoạt động xét xử như là biện
pháp răn đe, giáo dục nâng cao ý thức tuân thủ chấp hành các quy định pháp luật.
Thứ ba, sở tư pháp, phòng tư pháp thường xuyên kiểm tra, theo dõi đánh giá
hiệu quả để kịp thời có những biện pháp nhằm đổi mới cách thức, nội dung, kỹ
năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn các đô thị loại I.
4.2.1.2. Xây dựng chương trình, kế hoạch nhằm phát huy vai trò của
quần chúng nhân dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh do cấp uỷ Đảng
trên địa bàn các đô thị loại I lãnh đạo thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự
an toàn xã hội
Sự nghiệp bảo vệ TTATXH là sự nghiệp của toàn dân vì nó liên quan đến lợi
ích thiết thân của mỗi người dân trong xã hội, do đó để mỗi người dân đều tham gia
một cách tích cực trong quá trình thực hiện các quy định chuẩn mực chung về đảm
bảo TTATXH, chúng ta cần xây dựng thế trận an ninh nhân dân, phát huy khí thế
cách mạng nhân dân, tự mỗi cán bộ, quần chúng nhân dân đều là một chiến sỹ trên
mặt trận bảo vệ giữ gìn TTATXH. Khi người dân tích cự tham gia thực hiện quy
định pháp luật, họ là phên dậu là tai mắt của cơ quan công quyền trong cuộc chống
phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội đó chính là sự uy hiếp đáng sợ nhất đối với
mỗi người phạm tội. Do đó chúng ta cần phát động phong trào quần chúng nhân
dân tham gia đảm bảo trật TTATXH. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên
lĩnh vực bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Tạo cơ hội và điều kiện để người dân tự giác
tham gia các tổ chức quần chúng bảo vệ trật tự an toàn xã hội, tích cực giúp đỡ các
cơ quan chuyên trách nhất là lực lượng Công an nhân dân, các lực lượng bảo vệ ở
địa phương hoàn thành tốt nhiệm vụ; tự giác tổ chức, tham gia xây dựng và quản lí
cuộc sống mới văn minh trật tự, yên vui lành mạnh ở địa phương, đơn vị công tác,
sản xuất, chiến đấu.
Để mở rộng phát huy vai trò nhân dân trong hoạt động bảo vệ TTATXH,
chính quyền các cấp trên địa bàn đô thị loại I cần gắn các chỉ tiêu về giữ gìn
TTATXH vào phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn
dân cư; tiếp tục xây dựng và duy trì hoạt động của các mô hình về tham gia giữ gìn
trật tự an toàn xã hội hiện có như tổ dân phố tự quản; tổ dân phố văn minh; xây
dựng chương trình phát động quần chúng nhân dân tham gia phát hiện, tố giác tội
139
phạm; cảm hóa, giáo dục người phạm tội tại cộng đồng dân cư, vận động người
phạm tội ra tự thú và truy bắt bọn tội phạm có lệnh truy nã; ngoài ra, triển khai đồng
bộ các biện pháp phòng ngừa tội phạm ở các cộng đồng dân cư, trong từng hộ gia
đình, trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang.
Chính quyền cơ sở trên địa bàn các đô thị loại I cần chú trọng nâng cao vai trò
của gia đình trong công tác đảm bảo TTATXH bởi gia đình đóng vai trò quan trọng
trong nuôi dưỡng, giáo dục đạo đức cho các cá nhân thành viên; cha, mẹ, anh, chị
em trong gia đình có vai trò đặc biệt trong việc hình thành thói quen lối sống và
cung cách ứng xử của các cá nhân. Do vậy việc phát huy vai trò giáo dục tạo lối
sống tuân theo hiến pháp và pháp luật ngay từ trong mỗi gia đình là một trong
những giải pháp tốt để mọi người dân trên địa bàn đô thi loại I thực hiên tốt các quy
định pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn.
Trong việc xây dựng phong trào quần chúng thực hiện pháp luật về TTATXH
trên địa bàn đô thị loại I cần chú trọng vai trò của lực lượng công an dân dân, bởi
đây là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự,
an toàn xã hội. Theo đó Công an nhân dân cần giữ vai trò nòng cốt trong việc phát
động, xây dựng duy trì sự hoạt động của phong trào toàn dân bảo vệ giữ gìn trật tự
nơi công cộng. Bên cạnh đó cần huy động sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị
xã hội trong đó Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt là nhân tố quyết định
thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Do vậy các cấp Đảng ủy
trên địa bàn đô thị loại I phải phát huy vai trò của mình trong việc lãnh đạo, chỉ đạo
các hoạt động giữ gìn bảo vệ an ninh trật tự tại địa phương, theo đó các cấp Đảng
ủy cần đề ra đường lối chính sách và phương pháp đấu tranh bảo vệ trật tự, an toàn
xã hội, đồng thời lãnh đạo chặt chẽ bộ máy Nhà nước và các đoàn thể quần chúng
thực hiện thắng lợi đường lối chính sách đó.
4.2.1.3. Tăng cường cơ sở, vật chất, kỹ thuật nhằm nhằm phục vụ tốt cho
nhiệm vụ thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô
thị loại I
Để bảo đảm nguồn lực phục vụ cho nhiệm vụ THPL về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn các đô thị loại I, chính quyền các cấp trên địa bàn đô thị loại I cần phải
140
tập trung vào những nội dung sau: Một là, tăng cường đầu tư nguồn lực xây dựng,
trang bị cơ sở vất chất, các trang thiết bị chuyên dụng cho các cơ quan chuyên trách,
lực lượng chuyên trách như công an, cảnh sát, quản lý thị trường, quản lý đô thị,
quản lý môi trường, v.v..; bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực phù hợp với yêu
cầu, nhiệm vụ và mức độ phức tạp về tình hình TTATXH trên địa bàn của mỗi đô
thị loại I; Hai là, tiếp tục đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật
đô thị, như đường giao thông, bến xe, chợ, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống quan
trắc môi trường, hệ thống chiếu sáng, cây xanh đô thị, v.v.., đặc biệt các đô thị loại
I cần đầu tư cho việc hoàn hiện mở rộng các tuyến đường giao thông; quy hoạch
lại các khu dân cư theo tiêu chuẩn phòng cháy chữa cháy, đồng thời lắp đặt các
camera nơi công cộng, các tuyến đường nhằm hạn chế sự gia tăng các loại tội
phạm, tệ nạn xã hội.
4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
Để nâng cao hiệu quả THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị
loại I, yêu cầu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo đảm
TTATXH, vì thế những năm tới Quốc hội và Chính phủ cần xem xét để hoàn thiện
các quy định pháp luật liên quan đến bảo đảm TTATXH trên các khái cạnh sau:
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực phòng chống
tội phạm.
Quốc hội tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao
động hiện hành trong đó đặc biệt chú hình sự hoá đối với hành vi quấy rối tình dục,
Cần mở rộng hành vi quấy rối tình dục không chỉ ở nơi làm việc (như trong Bộ luật
Lao động hiện hành quy định).
Trước mắt, nâng mức xử phạt hành chính đối với hành vi quấy rối tình
dục bằng mức bồi thường thiệt hại về tinh thần theo quy định của BLDS
năm 2015 (Khoản 2, Điều 592); tiến tới hình sự hoá đối với hành vi quấy
rối tình dục, vì bản chất của hành vi này là vi phạm đến quyền bất khả
xâm phạm và tự do tình dục của con người, nghĩa là vi phạm đến quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con
người [37, tr.146].
141
Bên cạnh đó, cần sửa đổi, hoàn thiện Luật Giám định tư pháp hay các quy
định pháp luật khác liên quan đến tội xâm hại tình dục… Ngoài ra, cần nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Thi hành án hình sự, pháp luật về
tổ chức cơ quan điều tra hình sự, pháp luật về các biện pháp phòng, chống tội phạm
và một số đạo luật có liên quan để tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan này với
nhau trong đấu tranh, phòng chống tội phạm xâm phạm TTATXH.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến phòng chống tệ nạn
xã hội.
Tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, mê tín dị đoan, v.v... đang có xu hướng
ngày càng phát triển, ngay cả trên địa bàn các đô thị loại I, vì vậy cần hoàn thiện
các quy định pháp luật liên quan đến phòng chống tệ nạn xã hội này. Theo đó cần:
(i) xây dựng quy chế phối hợp giữa Ban Tôn giáo, ngành Văn hoá, thể thao và du
lịch, Công an, Mặt trận Tổ quốc, v.v.. trong quá trình giải quyết các tệ nạn xã hội,
như xử lý các vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; (ii) rà soát, sửa đổi, bổ
sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách về phòng,
chống mại dâm, đặc biệt các vấn đề liên quan đến can thiệp giảm thiệt hại, phòng
chống HIV/AIDS và hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho người bán dâm; xoá bỏ các
hành vi kỳ thị đối với người bị nhiễm HIV/AIDS; (iii) cần bổ sung một số tội danh
mới liên quan đến hành vi truyền bá mê tín, dị đoan trong xã hội; tội sử dụng
mạng mạng xã hội để truyền bá mê tín, dị đoan. Theo đó “những tội liên quan đến
truyền bá mê tín, dị đoan cần được quy định tương tự như tội truyền bá văn hóa
phẩm đồi trụy” [100].
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến quản
lý hành chính về TTATXH.
Quốc hội và Chính phủ tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về
quản lý hành chính về trật tự xã hội, đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-19, các quy
định pháp luật về cư trú, lao động, du lịch, doanh nghiệp, đầu tư liên quan đến quản
lý cư trú của người lao động cần bổ sung thêm các quy định về xét nghiệm dịch
Covid, và việc thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch cần thiết như về khoảng
cách làm việc, các biện pháp bảo hộ, tiêm vaccin cho người lao động đối với cơ sở
142
sử dụng lao động, tiêm vaccin cho khách du lịch có thời gian lưu trú từ 02 tuần trở
lên đối với các công ty lữ hành. Bên cạnh đó, quy định cụ thể biện pháp chế tài chặt
chẽ để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về cư trú, đặc biệt những trường hợp
không chấp hành đúng các quy định về phòng chống dịch Covid, hình sự hoá các
hành vi cố tình vi phạm các quy định pháp luật này gây lây lan dịch cho cộng đồng.
Hiện nay ở các đô thị loại I, đặc biệt ở các địa phương có tiềm năng du lịch
như Đà Nẵng, Hải Phòng, Hạ Long, Đà lạt, Vũng Tàu, v.v.. hoạt động kinh doanh
bất động sản du lịch đã và đang diễn ra phức tạp, từ đó nhiều địa phương lúng túng
trong quản lý các sản phẩm bất động sản du lịch do thiếu các quy định pháp luật về
vấn đề này, từ chủ trương, chính sách, đến việc hiện thực hóa bằng các quy định của
pháp luật thực định đều chưa được minh định cụ thể. Vì thế, Quốc hội nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014,
Luật Đầu tư năm 2020, Luật Nhà ở năm 2014, Luật Du lịch năm 2017, Luật Xây
dựng năm 2014 (sửa đổi năm 2016, 2018, 2019, 2020) và các văn bản hướng dẫn,
trong đó quy định rõ phương thức đầu tư kinh doanh nào được áp dụng cho từng
loại bất động sản du lịch cụ thể để vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước vừa kích
thích được sự năng động và đa dạng các loại hình kinh doanh cho các chủ đầu tư,
tạo cơ hội tiếp cận thông tin minh bạch để khách hàng có thể yên tâm đầu tư và thụ
hưởng các sản phẩm bất động sản mà mình theo đuổi, phòng ngừa được tối đa rủi ro
cho các chủ thể tham gia thị trường, như: quy định cụ thể loại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho khách
hàng mua bất động sản du lịch, hợp đồng chuyển nhượng, quản lý bất động sản du
lịch; trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc thực hiện các cam kết với khách hàng
mua bất động sản du lịch…
Thứ tư, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến đảm bảo trật tự an
toàn giao thông, trật tự đô thị, trật tự công cộng.
Trên cơ sở Luật giao thông đường bộ, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật giao thông đường thủy nội địa hiện hành và các văn bản quy phạm pháp luật
khác, Bộ Công an cần phối hợp với các bộ, ngành hữu quan rà soát lại toàn bộ các
văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và các lĩnh vực
khác có liên quan. Theo đó Bộ Công an và Bộ Giao thông, vận tải cần nghiên cứu,
143
sửa đổi, bổ sung các quy định về hành lang an toàn giao thông, giao thông tĩnh, về
đường ngang đường sắt, quản lý tăng cường giao thông công cộng, tổ chức giao
thông và trách nhiệm của chính quyền cấp huyện, cấp xã cũng như kinh phí bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông lâu dài; trong định hướng sửa đổi, bổ sung pháp luật
về trật tự, an toàn giao thông nên chú trọng đến vấn đề hợp tác quốc tế như chuyển
giao công nghệ trong sản xuất, lắp ráp phương tiện, xây dựng hạ tầng phục vụ giao
thông; đào tạo đội ngũ nhân viên hướng dẫn, cưỡng chế giao thông.
Thứ năm, hoàn thiện các quy định pháp luật về phòng cháy, chữa cháy, cứu hộ
cứu nạn.
Quốc hội nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh Bất động sản hiện
hành trong đó quy định chủ đầu tư sau khi đã nghiệm thu công trình chung cư theo
quy định của Luật Xây dựng thì phải thông báo cho Sở Xây dựng để kiểm tra, nếu
đạt chuẩn thì Sở Xây dựng ban hành văn bản xác nhận công trình đủ điều kiện đưa
vào sử dụng mới được phép bàn giao nhà cho dân vào ở.
Bên cạnh, Quốc hội cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Nhà ở, Luật Kiến trúc,
Luật Xây dựng, Luật Đầu tư hiện hành về quy chuẩn, tiêu chuẩn tầng thoát nạn cho
nhà chung cư, như: cần có quy định liên quan đến việc xây dựng các đường kết nối
các tầng thoát nạn của các chung cư liền kề; quy định rõ ràng các quy chuẩn đối với
khu vực thoát nạn tại các tầng; đối với cụm chung cư thì cần quy định kết nối các
tầng thoát nạn với nhau để tạo điều kiện cho cư dân thoát nạn khi có sự cố xảy ra;
quy định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư dự án nhà chung cư trong việc phải thi công
đường vào chữa cháy đúng thiết kế lòng đường và đạt tải trọng cho xe chữa cháy.
Ngoài ra, cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các thành viên Ban quản trị chung
cư trong việc thường xuyên bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về quản lý, vận hành
chung cư, trong đó, có kiến thức, kỹ năng về phồng cháy chữa cháy; quy định trách
nhiệm đối với chủ đầu tư dự án nhà chung cư và Ban quản trị chung cư chịu trách
nhiệm trong đảm bảo chất lượng vận hành chung cư.
Thứ sáu, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến giáo dục cải tạo
phạm nhân.
Việc giáo dục cải tọa phậm nhân hiện còn gặp nhiều khó khăn do các Trại
giam quản lý nhiều đội tượng hay do các quy định của luật chưa phù hợp thiếu tính
144
khả thi. Việc giáo dục quản lý tội phạm tại trại giam có gặp nhiều khó khăn do quy
định của luật theo đó để cải thiện tình trạng này cần sớm sửa đổi các quy định như:
cần có quy định rõ về tuổi của người bị hại trong bản án để giúp các phạm nhân dễ
ràng thực hiện trách nhiệm pháp lý của mình. Hiện nay vẫn còn một số bản án
không rõ ràng như buộc phạm nhân phải chi trả tiền cấp dưỡng hàng tháng cho con
của bị hại đến khi 18 tuổi nhưng trong bản án không ghi ngày, tháng, năm sinh của
con người bị hại để tính số tháng buộc phạm nhân phải thực hiện phần nuôi dưỡng
đến khi đủ 18 tuổi. Hay theo Thông tư 06 của Bộ trưởng Bộ Công an, phạm nhân
được xếp loại khá, tốt, phải tích cực khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của
mình gây ra, cụ thể áp dụng hình phạt bổ sung là nộp tiền phạt, nộp án phí, bồi
thường thiệt hại; có trường hợp, nhiều thân nhân phạm nhân gặp không ít khó khăn
khi nộp tiền phạt do cơ quan Thi hành án dân sự không nhận. Theo đó Quốc hội
xem xét sửa nội dung Khoản 6, Điều 63, Bộ Luật Hình sự năm 2015 và 8 điều,
khoản tại Luật thi hành án hình sự phù hợp với yêu cầu thực tiễn; quan tâm cải thiện
về điều kiện giam giữ; công tác dạy nghề đối với phạm nhân sắp hoàn thành thời
gian cải tạo…
Thứ bảy, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường ở
các đô thị.
Chính phủ tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường
năm 2020, đặc biệt trong đó quy định rõ:
(1) quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong tổ
chức lập quy hoạch bảo vệ môi trường nước quốc gia; xây dựng nội
dung bảo vệ môi trường nước trong quy hoạch vùng; hướng dẫn các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương xây dựng nội dung bảo vệ môi trường
nước trong quy hoạch tỉnh; (2) quy định rõ trách nhiệm của Chủ tịch
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong xây dựng nội dung
bảo vệ môi trường nước trong quy hoạch tỉnh; (3) quy định rõ các biện
pháp trách nhiệm pháp lý đối với Chủ tịch bảo vệ môi trường nước tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương khi để xảy ra các sai phạm trong lập quy
hoạch hoặc phá vỡ quy hoạch đã được phê duyệt, gây hậu quả xấu về
môi trường nước trong phạm vi tỉnh mình [54, tr.135-135].
145
4.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực thực hiện pháp luật về bảo
đảm trật tự an toàn xã hội cho cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trên địa bàn đô thị loại I
Hiệu quả quản lý của Nhà nước chịu nhiều tác động bởi số lượng và chất
lượng của đội ngũ cán bộ công chức. Đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, hài hòa trong
cơ cấu và có chất lượng tốt như có trình độ năng lực và tận tâm chu đáo trong thực
thi nhiệm vụ thì nhiệm vụ sẽ được thực hiện chính xác, hạn chế đến mức thấp nhất
các sai phạm trong xử lý vụ việc. Điều này cũng có tác động làm giảm tình trạng
chống đối người thi hành công vụ. Bởi thực tế cho thấy các hành vi chống đối người
thi hành công vụ có thể bắt nguồn từ việc cán bộ công chức xử lý vụ việc chưa thỏa
đáng, có thái độ hống hách, quan liêu, cửa quyền trong xử lý vụ việc. Theo đó hoàn
thiện về số lượng, cơ cấu cũng như nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo
đức, năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức là biện pháp hiệu
quả nâng cao mức độ tuân thủ, chấp hành pháp luật không chỉ của cơ quan công
quyền mà còn của người dân. Mục tiêu của nhóm giải pháp này là xây dựng các cơ
quan bảo vệ pháp luật thật sự trong sạch, vững mạnh để làm tròn nhiệm vụ xung
kích trên mặt trận giữ gìn TTATXH. Để nâng cao năng năng lực THPL về bảo đảm
TTATXH cho cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên địa bàn
đô thị loại I, cần chú trọng thực hiện các giải pháp như sau:
Thứ nhất, rà soát, đánh giá thực trạng năng lực của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp và các lực lượng chuyên trách phòng,
chống tội phạm thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, xây dựng đề án tổng
thể khắc phục hạn chế, yếu kém và nâng cao một bước căn bản năng lực các lực
lượng này.
Thứ hai, sau khi rà soát đánh giá cơ cấu, số lượng năng lực của đội ngũ cán
bộ cần tập trung chỉ đạo đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo hướng bố trí hợp lý
cơ cấu số lượng nhân lực cho các cơ quan tư pháp và lực lượng chuyên trách. Cần
bảo đảm sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, hướng về cơ sở; tổ chức đào tạo, đào tạo
lại đội ngũ cán bộ, đổi mới cơ chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ giữa các cơ quan
đơn vị, đó là:
146
Một là, quan tâm thực hiện tốt công tác tuyển dụng, bố trí đánh giá cán bộ.
Theo đó cần cụ thể hóa và thực hiện nghiêm các tiêu chuẩn trong công tác tuyển
dụng, bố trí đánh giá cán bộ công chức. Trên thực tế do thiếu những cơ sở, tiêu chí
đánh giá cán bộ công chức nên khâu tuyển dụng, đánh giá bố trí, sử dụng cán bộ
công chức còn tồn tại nhiều yếu kém. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc
chúng ta có thể nâng phẩm chất năng lực trong thực thi công vụ của cán bộ công
chức. Trong công tác tuyển dụng, bố chí đánh giá cán bộ cần đề cao chuẩn mực
nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp đồng thời cụ thể hóa các tiêu chí chuẩn mực này
để có thể đo lường và vận dụng vào đánh giá cán bộ trong thực tế. Điều này sẽ tạo
nên môi trường ngăn chặn tình trạng tham ô, tham nhũng, hách dịch, cửa quyền
đồng thời loại bỏ tình trạng bổ nhiệm đánh gía cán bộ không sát thực tế dẫn đến
nhiều tiêu cực. Để làm tốt công tác này cần hoàn thiện pháp luật về cán bộ tư pháp
nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ tư pháp trong
thực thi công vụ. Các cơ quan có thẩm quyền cần tập trung hoàn thiện những quy
định pháp luật về tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ tư pháp
theo hướng đề cao trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý, quyền tương ứng với
nghĩa vụ, lợi ích gắn liền trách nhiệm, thưởng và phạt nghiêm minh để cho tất cả
cán bộ tư pháp được đặt trong một chế độ kiểm tra, sàng lọc công bằng giữa công
và tội, giữa tôn vinh, đãi ngộ, trọng dụng với sa thải, trừng phạt và hoàn thiện
những quy định về thủ tục hành chính trong hoạt động tư pháp để tránh sự sách
nhiễu, phiền hà công dân;
Hai là, chú trọng thực hiện công tác sát hạch, đánh giá cán bộ. Đây là một
khâu quan trọng, có tính nền tảng trong toàn bộ công tác quản lý công chức, xét về
một ý nghĩa nhất định, nó có thể được coi là cốt lõi của toàn bộ công tác quản lý
công chức. Việc sát hạch đánh giá phẩm chất đạo đức, chính trị, kiến thức chuyên
môn, năng lực công tác đối với độ ngũ cán bộ có thể được tiến hành theo định kỳ
đánh giá dựa vào kết quả làm việc. Kết quả đánh giá sát hạch sẽ được sử dụng để
thực thi việc thưởng phạt, cất nhắc có thể điều chuyển hay sa thải công chức. Từ đó,
phát huy tính tích cực của công chức, nâng cao hiệu suất công tác của cơ quan, thúc
đẩy công cuộc xây dựng phát triển kinh tế đất nước.
147
Thứ ba, quan tâm đến công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nâng cao trình độ
nghiệp vụ cho cán bộ công chức. Thời gian qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm bằng những chương trình,
kế hoạch ở quy mô quốc gia cũng như ở các địa phương. Số lượng cán bộ, công
chức qua các lớp, khoá đào tạo, bồi dưỡng khá lớn, nhưng nhìn chung chất lượng
còn khiêm tốn. Số lượng cán bộ, công chức có bằng cấp, chứng chỉ tăng, nhưng
chất lượng về chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức có bằng cấp, chứng chỉ
lại đang là vấn đề đáng lo ngại.
Theo đó những năm tới cần đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, khắc phục tình trạng đào tạo, bồi dưỡng quá chú trọng vào việc tiêu
chuẩn hóa chức danh cán bộ, công chức, chưa chú trọng đầy đủ tới những kiến
thức và kỹ năng để xây dựng cho người công chức năng lực thực hiện tốt hơn
công việc và nhiệm vụ được giao. Mục tiêu của đào tạo, bồi dưỡng chính là những
năng lực cần thiết cho công chức, giúp họ có được khả năng hoàn thành tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình, góp phần vào việc đạt được các mục tiêu chiến lược do
Nhà nước đề ra.
Cần tạo điều kiện về thời gian và kinh phí giúp các cán bộ công chức thực thi
pháp luật tham gia các khóa đào tạo hay tự học tập nghiên cứu cập nhật các thông
tin pháp luật cũng như giúp họ nâng cao trình độ nghiệp vụ. Hiện tại mặc dù các
quy định pháp luật của Đảng và nhà nước được phổ biến rộng rãi nhưng do khả
năng khai thác của cán bộ tư pháp ở nhiều cơ quan, địa phương còn hạn chế, nên
việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền trong nhiều trường hợp chưa kịp thời
và hiệu quả. Từ đó, các cơ quan tư pháp cần đa dạng hóa các hình thức tiếp cận
thông tin của cán bộ tư pháp thông qua những cẩm nang, các hệ thống mạng máy
tính, tạp chí, bản tin để trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp và nâng cao hiệu
quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ tư pháp. Ðồng
thời, cần có kế hoạch đào tạo chuyên môn, đào tạo lại, đào tạo nâng cao và trang bị
những kiến thức liên quan cho cán bộ tư pháp theo tiêu chuẩn chức danh và phù
hợp những yêu cầu mới của quá trình cải cách tư pháp.
Các cơ quan cần tạo điều kiện cho cán bộ của các cơ quan bảo vệ pháp luật
giao lưu học hỏi kinh nghiệm giữa các cơ quan địa phương trong nước hay giao lưu
148
học tập nước ngoài nhằm nâng cao kiến thức, trình độ nghiệp vụ. Việc chia sẻ kiến
tức, kinh nghiệm có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức. Các tòa án có thể
tổng hợp các vi phạm của Tòa án, kịp thời ban hành thông báo rút kinh nghiệm đối
với những bản án, quyết định bị hủy, sửa về những vi phạm tố tụng, vi phạm trong
việc đánh giá chứng cứ, tài liệu; những vi phạm về việc thu thập tài liệu, chứng cứ
trong các vụ án; đánh giá chất lượng kháng nghị để kịp thời khắc phục nhằm nâng
cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc. Tòa án nhân dân tối
cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao phải tích cực, nhanh chóng trả lời thỉnh thị và
giải đáp các vướng mắc về nghiệp vụ cũng như về áp dụng pháp luật đối với viện
kiểm sát, tòa án cấp dưới.
Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động kiểm tra giám sát hoạt động của cơ quan thi hành
pháp luật để kịp thời ngăn chặn các hành vi không tuân thủ quy định pháp luật. Biểu
dương khen ngợi động viên các tấm gương thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ. Đối
với hoạt động của tòa án cần kiểm sát chặt chẽ việc tuân theo pháp luật tại phiên
tòa, phiên họp; tích cực kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án kịp thời phát hiện vi
phạm để thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp có
thẩm quyền để kháng nghị, hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp án bị hủy,
sửa có trách nhiệm của Kiểm sát viên. Cần kiểm soát một cách chặt chẽ hoạt động
của các cơ quan quản lý và cơ quan thi hành pháp luật nhằm ngăn ngừa những hành
vi nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật của công chức. Xây dựng và thực thi chế tài
nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật để công chức “không dám” thực hiện
những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức công vụ hoặc các hành vi trái
với lương tâm và đạo đức xã hội.
Thứ năm, đáp ứng điều kiện vật chất, phương tiện kỹ thuật hỗ trợ việc thực
hiện pháp luật của các cơ quan công quyền.
Việc thiếu trang thiết bị vật chất, các máy móc công nghệ phục vụ cho hoạt
động chấp pháp của cơ quan công quyền có thể gây khó khăn nhất định đến hoạt
động thực hiện pháp luật. Do đó các cơ quan công quyền cần “Ưu tiên đầu tư ngân
sách, mua sắm, cung ứng vật tư, phương tiện một cách hợp lý, từng bước đáp ứng
yêu cầu hậu cần - kỹ thuật cho hoạt động của các cơ quan tư pháp và lực lượng
chuyên trách” [107].
149
4.2.4. Nhóm các giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng hiện pháp
luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
Thứ nhất, tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát đối với công tác THPL về
bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam.
Các cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước phải coi trọng và nâng cao hiệu
quả công tác thanh tra, kiểm tra THPL về bảo đảm TTATXH của các cơ quan nhà
nhà nước trên địa bàn các đô thị loại I. Các cơ quan này thanh tra, kiểm tra việc
thực hiện pháp luật đối với các cơ quan thực thi pháp luật cần tập trung chủ yếu vào
kiểm tra tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân, thanh kiểm tra việc tuân
thủ các quy định pháp luật trong thực thi nhiệm vụ; kiểm soát, đánh giá trách nhiệm
của các cơ quan chức năng trong thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục, hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật; xác
định ý thức pháp luật của các cơ quan, đơn vị, các tổ chức và công dân trên địa bàn
các đô thi loại I. Việc thanh kiểm tra cần được tiến hành bằng nhiều biện pháp với
nhiều hình thức khác nhau. Trong đó cần tăng cường vai trò giám sát của nhân dân
thông qua các tổ chức đại diện là Mặt trận Tổ quốc các cấp, các đoàn thể chính trị -
xã hội của nhân dân đối với hoạt động công vụ của cán bộ, công chức; tổ chức tiến
hành khảo sát, đánh giá mức độ hài lòng của người dân, tổ chức nhằm giúp các cơ
quan đơn vị xác định lỗ hổng hay việc làm chưa đúng đắn của cán bộ công chức.
Phát huy vai trò kiểm tra giám sát của nhân dân là kênh giám sát hữu hiệu với hoạt
động của các cơ quan công quyền; đồng thời cần phát huy vai trò giám sát của các
cơ quan truyền thông báo chí. Để thực hiện tốt khâu kiểm tra giám sát cần nâng cao
tình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra đồng thời có cơ chế
chế tài chặt chẽ kiểm tra, giám sát ngay cả các hành vi hoạt động của các cơ quan
thanh tra.
Bên cạnh đó, các cơ quan dân cử (Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp) tổ
chức các đoàn giám sát việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I
để xem xét tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và tính khả thi của hệ thống pháp
luật về đảm bảo TTATXH và thông qua hoạt động tổ chức kiểm tra việc thực hiện
văn bản quy phạm pháp luật sẽ đánh giá mức độ hoàn thiện của các văn bản pháp
luật đồng thời đánh giá được mực độ hiểu quả của việc thực hiện pháp luật trong
150
đời sống từ đó khắc phục những vướng mắc, sửa chữa những bất hợp lý của văn
bản pháp luật cũng như của quá trình thực hiện pháp luật.
Trong bối cảnh hiện nay, các cơ quan thanh tra, kiểm tra chuyên trách, các
cơ quan dân cử, các tổ chức chính trị - xã hội và thông tấn, báo chí và nhân dân
phải tích cực, chủ động và nâng cao tinh thần trách nhiệm trong phòng chống
dịch Covid-19, trong đó thực hiện theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ, đó là:
Phòng, chống dịch Covid-19 với mức độ cảnh giác cao nhất, không được
chủ quan, lơ là. Đề cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu, thực
hiện nghiêm phương châm “bốn tại chỗ” và các biện pháp chiến lược
“kiểm soát chặt chẽ từ bên ngoài, khoanh vùng dập dịch triệt để từ bên
trong, chữa trị hiệu quả, có trách nhiệm” để phòng dịch trong giai đoạn
mới, đồng thời thực hiện tốt mục tiêu kép về phòng, chống dịch gắn với
phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn... Các cơ
sở lưu trú, trường học, khám, chữa bệnh thường xuyên tự đánh giá việc
thực hiện các yêu cầu, hướng dẫn phòng, chống dịch, công khai kết quả tự
đánh giá trên hệ thống bản đồ chống dịch. Tăng cường cảnh giác với nguy
cơ dịch bệnh, thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các biện pháp phòng,
chống dịch đã đề ra; dừng các hoạt động, sự kiện tập trung đông người khi
không cần thiết; trường hợp tổ chức phải bảo đảm các hoạt động phòng
dịch như đeo khẩu trang, sát khuẩn... theo quy định [16].
Thứ hai, kết hợp sử dụng các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác để hỗ trợ
cho THPL về bảo đảm TTATXH của các nhóm chủ thể trên địa bàn các đô thị loại I
ở Việt Nam hiện nay.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, cùng với pháp luật còn có những công cụ
khác như: đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo, hương ước, v.v. tham gia quản lý
xã hội. Các thể chế chính thức và phi chính thức này có mối liên hệ mật thiết với
nhau, luôn dựa vào nhau, hỗ trợ nhau để cùng tồn tại, phát triển vì sự ổn định và
TTATXH, do vậy để hỗ trợ cho các quy định pháp luật, mỗi cộng đồng, mỗi địa
phương cần phát huy tốt vai trò của các thể chế xã hội khác trong xây dựng cộng
đồng. Với các lĩnh vực cụ thể mà pháp luật chưa quy định hoặc điều chỉnh chưa
151
hiệu quả cần phát huy chuẩn mực đạo đức, các quy phạm văn hoá, các quy định
tại tổ dân phố, nhằm điều chính hành vi của cá nhân và tổ chức, như: xây dựng và
thực hiện các quy chế văn hoá khu phố; tiếp tục phát huy quy chế gia đình văn hoá
kiểu mẫu; v.v...
Chính vì thế, chính quyền địa phương và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội trên địa bàn các đô thị loại I tiếp tục phát huy tối đa vai trò của
cộng đồng trong việc xây dựng các nội quy, quy chế của các tổ dân phố nhằm
hướng đến xây dựng khu phố văn minh, khu phố tự quản, từ đó phát huy vai trò
chủ động, tích cực của mỗi người dân, mỗi cơ quan, tổ chức trong khu dân phố
thực hiện tốt nội quy, quy chế, các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
Nhà nước; đồng thời giám sát chặt chẽ hành vi của người dân trong khu phố, phối
hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để giám sát các chủ thể pháp luật trển
địa thực hiện các quy định pháp luật về TTATXH, từ đó hướng đến việc xây dựng
xã hội trật tự, kỷ cương.
Tiểu kết chương 4
Trong chương 4 đã đề ra quan điểm phương hướng và các nhóm giải pháp
nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả việc thực hiện các quy định pháp luật về đảm
bảo TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam trong thời gian tới. Theo đó
để nâng cao mức độ tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật của các cá nhân và tổ
chức cũng như nâng cao chất lượng việc áp dụng quy định pháp luật của các cơ
quan nhà nước cần phát huy vai trò của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn dân
thực hiện đồng bộ, hiệu quả.
Để giải quyết những hạn chế trong thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam, các cấp chính quyền cần thực hiện đồng
bộ các nhóm giải pháp sau: Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện pháp
luật của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức trên địa bàn các đô thị loại I;
Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên
địa bàn đô thị loại I; Nhóm giải pháp nâng cao năng lực thực hiện pháp luật về bảo
đảm trật tự an toàn xã hội cho cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trên địa bàn đô thị loại I; Nhóm các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiện
pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I.
152
KẾT LUẬN
1. Việc đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật đảm bảo TTATXH có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc xây dựng trạng thái xã hội an toàn, ổn định, các
quyền cơ bản của nhân dân được bảo vệ. Những năm qua đã có những công trình
nghiên cứu về từng khía cạnh của việc thực hiện pháp luật đảm bảo TTATXH, tuy
nhiên hầu hết các công trình chưa đi sâu mô tả, đánh giá một cách đầy đủ rõ nét về
từng loại hình của việc thực hiện pháp luật cũng như không chỉ ra được sự tác động
qua lại giữa bốn hình thức thực hiện pháp luật liên quan đến đảm bảo TTATXH
trên địa bàn các đô thị loại I. Do đó luận án này hướng đến khái quát những vấn lý
luận nhằm tạo ra bộ công cụ cho việc đánh giá thực trạng tuân thủ chấp hành, sử
dụng pháp luật về đảm bảo TTATXH của người dân, doanh nghiệp, các cơ quan, tổ
chức cũng như đánh giá việc áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhằm đề xuất giải pháp thúc đẩy việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa
bàn các đô thị loại I của Việt Nam.
2. Trong phạm vi luận án này, TTATXH được xác định là trạng thái xã hội có
trật tự, kỷ cương, trong đó mọi người có cuộc sống yên ổn, các quyền và lợi ích
chính đáng của mọi người dân được đảm bảo trên cơ sở thực hiện các quy phạm
pháp luật và chuẩn mực đạo đức do xã hội đặt ra. Theo đó việc đánh giá mức độ trật
tự, an toàn của một xã hội nhất định sẽ dựa trên các chỉ số, chỉ báo liên quan đến tỷ
lệ tội phạm, tệ nạn xã hội cũng như việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân.
Các hoạt động liên quan đến bảo đảm TTATXH được luận án xác định là tất
cả các hoạt động nhằm giữ gìn trạng thái bình yên, an toàn, có trật tự kỷ cương của
xã hội. Chủ thể tham gia vào đảm bảo TTATXH ngoài lực lượng nòng cốt là công
an nhân nhân với nhiệm vụ phòng chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội thì còn có
sự tham gia của các cơ quan công quyền khác như hệ thống các cơ quan tư pháp,
các tổ chức chính trị xã hội và lực lượng toàn dân.
Khái niệm pháp luật về bảo đảm TTATXH được hiểu là là hệ thống các quy
tắc xử sự chung, do nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành, đảm
bảo thực hiện, thể hiện ý chí nhà nước, của nhân dân nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội, hướng xã hội đến trạng thái ổn định, cuộc sống của mọi người dân được
153
đảm bảo an toàn, không bị đe dọa hay gặp nguy hiểm, các quyền và lợi ích chính
đáng của người dân được bảo vệ.
Thực hiện pháp luật bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I chính là
hoạt động thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo TTATXH trên địa bàn cụ thể
là đô thị loại I. Thực hiện pháp luật được hiểu là việc các chủ thể pháp luật thông
qua quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về trật
tự an toàn xã hội đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của
các chủ thể pháp luật. Có bốn hình thức cơ bản của thực hiện pháp luật là tuân thủ
pháp luật; chấp hành pháp luật (hay còn gọi thi hành pháp luật); sử dụng pháp luật
và áp dụng pháp luật. Mỗi hình thức thực hiện pháp luật sẽ có các tiêu chí đánh
khác nhau để đánh giá mức độ tuân thủ, chấp hành, sử dụng hay áp dụng pháp luật
của các nhóm chủ thể.
3. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số người dân và doanh nghiệp trên địa
bàn các đô thị loại I đều có ý thức thực hiện các quy định pháp luật về đảm bảo
TTATXH. Tuy nhiên số đối tượng và số vụ việc vi phạm pháp luật đảm bảo
TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I có xu hướng tăng trong giai đoạn 2012 -
2020. Việc vi phạm pháp luật diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống đây là chỉ
báo cho thấy người dân và doanh nghiệp chưa tuân thủ, chấp hành nghiêm minh các
quy định của pháp luật. Khi xảy ra tranh chấp, hay mâu thuẫn đa số người dân và
doanh nghiệp đều sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình thông
qua các cơ chế chính thức tuy nhiên vẫn còn tình trạng người dân không tin vào
hiệu quả thực thi pháp luật của các cơ quan công quyền; họ cũng không hiểu biết
hết các quy định của luật nên không sử dụng luật nhằm bảo vệ quyền lợi của mình
khi xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn.
Các cơ quan quản lý nhà nước về bảo đảm TTATXH đã thực hiện tốt vai
trò của mình trong việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tổ
chức tuyên truyền phổ biến pháp luật đến cán bộ công chức và người dân cũng
như thường xuyên tổ chức kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện pháp luật của cá
nhân và tổ chức trên đại bàn. Tuy nhiên việc thực hiện pháp luật của cơ quan quản
lý nhà nước về đảm bảo TTATXH vẫn còn những hạn chế như: (1) Một số địa
phương đã ghi nhận hiện tượng các thủ trưởng một số Sở, ngành và địa phương
154
chưa quan tâm, chỉ đạo và xây dựng kế hoạch để triển khai việc thi hành pháp
luật; (2) Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy và biên chế làm công tác theo dõi thi hành
pháp luật chưa phù hợp; (3) Hoạt động kiểm tra công tác theo dõi tình hình thực
hiện pháp luật chưa được thực hiện thường xuyên, hoạt động kiểm tra theo dõi
chưa bao quát, toàn diện và chưa kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tất
cả các lĩnh vực theo dõi tình hình thực hiện pháp luật trên đại bàn. Khi triển khai
một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn lúng túng và chưa thực hiện đồng bộ hoạt
động theo dõi thi hành pháp luật.
Việc thực hiện pháp luật của cơ quan tư pháp: cơ quan điều tra, viện kiểm
sát, tòa án, cơ quan thi hành án có nhiều ưu điểm như: Tòa cán các cấp trên địa
bàn các đô thị loại I đều tuân thủ, chấp hành tốt các quy định pháp luật trong thực
hiện nhiệm vụ xét xử. việc xét xử các vụ án đặc biệt các vụ án hình sự bảo đảm
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chưa phát hiện trường hợp nào kết án oan
người không có tội. Viện kiểm sát chấp hành tương đối tốt các quy định pháp luật
trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Điều này phản ánh thông qua
hoạt động truy tố đạt tỷ lệ rất cao, giảm đáng kể các trường hợp Viện kiểm sát truy
tố nhưng Tòa án tuyên không phạm tội, cũng như giảm các trường hợp oan, sai
thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát. Việc thi hành án luôn được các cơ quan thi
hành án thực hiện kịp thời; đảm bảo tính khách quan, chính xác, đúng các quy
định của pháp luật.
Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện pháp luật của các cơ quan tư pháp
còn tồn tại nhiều hạn chế thiếu sót như: Tòa án không tuân thủ, chấp hành các quy
định trong xét xử, việc áp dụng pháp luật còn nhiều sai xót dấn đến tỷ lệ án bị hủy,
sửa cao. Một số viện kiểm sát vẫn còn vi phạm các quy định pháp luật trong quá
trình thực thi nhiệm vụ. Các cơ quan nhận tin báo, tố giác tội phạm không chấp
hành nghiêm các quy định về lập hồ sơ tiếp nhận tin báo tội phạm. Các cơ quan thi
hành án còn không tuân thủ, chấp hành hay áp dụng sai các quy định luật khi thực
hiện nhiệm vụ.
4. Những ưu điểm và hạn chế của việc thực hiện pháp luật về bảo đảm
TTATXH trên địa bàn đô thị loại I xuất phát từ các điều kiện liên quan đến mức độ
hoàn thiện của hệ thống pháp luật, năng lực thực thi công vụ các cơ quan công
155
quyền, trình độ ý thức tuân thủ chấp hành pháp luật của người dân cũng như các
điều kiện liên quan đến trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội trên đại
bàn các đô thị loại I. Do đó muốn nâng cao chất lượng hiệu quả việc thực hiện pháp
luật đảm bảo TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, luận án đưa ra các giải pháp nhằm
tác động làm thay đổi các điều kiện liên quan đến việc THPL về bảo đảm TTATXH
trên địa bàn các đô thị loại I, như: nhóm giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện
pháp luật của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức trên địa bàn các đô thị loại I;
nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên
địa bàn đô thị loại I; nhóm giải pháp nâng cao năng lực thực hiện pháp luật về bảo
đảm trật tự an toàn xã hội cho cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trên địa bàn đô thị loại I; giải pháp tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát
đối với công tác THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt
Nam; giải pháp kết hợp sử dụng các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác để hỗ
trợ cho THPL về bảo đảm TTATXH của các nhóm chủ thể trên địa bàn các đô thị
loại I ở Việt Nam hiện nay.
156
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Hữu Mạnh (2016), “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa”, Tạp chí Khoa học và Chiến lược, (5), tr.49-52.
2. Nguyễn Hữu Mạnh (2016), “Huy động các cấp, các ngành tham gia công tác
bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, Tạp chí Khoa học và
Chiến lược, (9), tr.54-57.
3. Nguyễn Hữu Mạnh (2016), “Công an tỉnh Thanh Hóa tham mưu cấp ủy,
chính quyền huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị tham gia bảo
đảm an ninh, trật tự trên địa bàn”, Tạp chí Công an nhân dân, Kỳ 2, (7),
tr.103-107.
4. Nguyễn Hữu Mạnh (2016), “Vai trò của cấp ủy đảng, chính quyền trong lãnh
đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, đoàn thể tham gia đảm bảo an ninh trật tự
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (245), tr.149-151.
5. Nguyễn Hữu Mạnh (2019), “Phòng ngừa tội phạm xâm phạm danh dự, nhân
phẩm của con người nhằm bảo đảm trật tự, an toàn xã hội theo tinh thần Hiến
pháp 2013”, tại trang htt://csnd.vn, ngày 5/3.
6. Nguyễn Hữu Mạnh (2020), “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phòng, chống
tội phạm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, (4),
tr.76-79.
7. Nguyễn Hữu Mạnh (2020), “Nâng cao hiệu quả tuân thủ và áp dụng pháp luật
trong xét xử các vụ án vi phạm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I
ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học chính trị, (10), tr.53-57.
157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Tâm An, Đảm bảo tòa án là chỗ dựa tin cậy của nhân dân, tại trang
https://plo.vn/phap-luat/dam-bao-toa-an-la-cho-dua-tin-cay-cua-nhan-dan-
814256.html, [truy cập ngày 12/12/2020]
2. Vũ Hồng Anh, Chính quyền đô thị: kinh nghiệm gì từ Hàn Quốc, Thái Lan,
Nhật Bản: Chính quyền đô thị giúp Thành phố Hồ Chí Minh phát triển
nhanh, tại trang https://tcnn.vn/news/detail/5262/Chinh_quyen_do_tall.html,
[truy cập ngày 27/5/2021]
3. Huyền Anh, Hoạt động mại dâm đều dưới dạng trá hình, tại trang
https://infonet.vn/hoat-dong-mai-dam-deu-duoi-dang-tra-hinh-
post248354.info, [truy cập ngày 3/4/2021]
4. Minh Anh, Khắc phục những hạn chế để làm tốt công tác thi hành án, từ
trang http://thanglong.chinhphu.vn/khac-phuc-nhung-han-che-de-lam-tot-
cong-tac-thi-hanh-an, [truy cập ngày 25/6/2020]
5. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Cần hoàn thiện chính sách, pháp luật
về phòng, chống mại dâm, từ trang http://www.dangcongsan.vn/day-manh-
cai-cach-tu-phap-va-hoat-dong-tu-phap/duong-loi-chinh-sach/can-hoan-
thien-chinh-sach-phap-luat-ve-phong-chong-mai-dam-348815.html,
[truy cập ngày 22/3/2021]
6. Bảo đảm trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường cho sự phát triển ổn định,
bền vững, truy cập từ trang http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Quan-
triet-thuc-hien-nghi-quyet-dai-hoi-dang-XII/2017/45621/Bao-dam-trat-tu-an-
toan-xa-hoi-tao-moi-truong-cho.aspx, [truy cập ngày 5/12/2020]
7. Bảo vệ pháp luật, Tội phạm có xu hướng ngày càng trẻ hóa, số vụ thanh,
thiếu niên phạm tội tăng, tại trang https://baovephapluat.vn/kiem-sat-
24h/van-de-su-kien/toi-pham-co-xu-huong-ngay-cang-tre-hoa-so-vu-thanh-
thieu-nien-pham-toi-tang-58911.html, [truy cập ngày 3/5/2019]
158
8. Better work Vietnam, (2016), Báo cáo tổng hợp về tuân thủ trong ngành
may mặc.
9. Lê Thị Thúy Bình, (2016), Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
10. Bộ Công an (2000), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân.
11. Bộ Công an - Thành ủy - UBND TP HCM (2015), Vai trò của lực lượng
Công an nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng
và bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh (1945-2015), NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Bộ Công an đánh giá công tác bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội tháng 5, triển khai nhiệm vụ trọng tâm tháng 6/2018, tại trang
http://bocongan.gov.vn/botruong/tin-
tuc/Pages/default.aspx?CateID=4&ItemID=1376, [truy cập ngày 3/4/2019]
13. Bộ Giao thông Vận tải, Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm trật tự ATGT đáp
ứng yêu cầu của tình hình mới, từ trang http://mt.gov.vn/vn/tin-
tuc/48297/hoan-thien-phap-luat-ve-bao-dam-trat-tu-atgt-dap-ung-yeu-cau-
cua-tinh-hinh-moi.aspx, [truy cập ngày 26/3/2021]
14. Bộ Nội vụ, Báo cáo chỉ số cải cách hành chính Par Index 2012, 2013, 2014,
2015, 2016, 2017, 2018, 2019, tr.135-140, 150-154, 161-164, 182-185, 185-
247, 168-230, 160-222, 154-216.
15. Bộ Nội vụ, Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ
quan hành chính nhà nước (SIPAS) năm 2017, 2018, 2019,
16. Các địa phương thực hiện biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, tại trang
https://nhandan.com.vn/tin-tuc-y-te/cac-dia-phuong-thuc-hien-bien-phap-
phong-chong-dich-covid-19-627063/, [truy cập ngày 21/01/2021]
17. CECODES, UNDP và VFF-CRT, Chỉ số hiệu quả Quản trị và Hành chính
công cấp tỉnh tại Việt Nam, tại trang https://papi.org.vn/du-lieu-papi/, [truy
cập ngày 28/3/2021]
159
18. Chỉnh phủ, Nghị định số 97/2016/NĐ-CP quy định nội dung chỉ tiêu thống
kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, tại trang
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/Nghi-dinh-97-2016-
ND-CP-noi-dung-chi-tieu-thong-ke-thuoc-he-thong-chi-tieu-thong-ke-quoc-
gia-319022.aspx, [truy cập ngày 17/3/2020]
19. Nguyễn Văn Chuyên (2014) “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
phòng ngừa tội phạm trong tình hình mới”, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 2,
tháng 4/2014.
20. Codbra N.I và tập thể tác giả (1986), Những vấn đề cơ bản về nhà nước và
pháp luật xã hội chủ nghĩa, (sách dịch của Liên Xô), NXB Sự Thật.
21. Bun Phêng Khiếm Ma Na (2001), Sử dụng biện pháp phát động quần chúng
tham gia hoạt động điều tra vụ án hình sự của lực lượng Cảnh sát điều tra
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận văn Thạc sỹ luật học.
22. Chính sách pháp luật về phòng chống mại dâm còn nhiều bất cập, tại trang
http://www.qdnd.vn/xa-hoi/y-te/chinh-sach-phap-luat-ve-phong-chong-mai-
dam-con-nhieu-bat-cap-535221, [truy cập ngày 24/3/20201]
23. Cục thống kê Hải Phòng, tại trang https://thongkehaiphong.gov.vn/nien-
giam-thong-ke/, [truy cập 12/3/2021]
24. Cục Thống kê Hải Phòng, Kinh tế - xã hội Hải Phòng sau 8 năm thực hiện
Cương lĩnh 2011, từ trang https://thongkehaiphong.gov.vn/thong-tin-kinh-te-
xa-hoi/kinh-te-xa-hoi-hai-phong-sau-8-nam-thuc-hien-cuong-linh-2011-
142.html, truy cập ngày 11/12/2020]
25. Cục thống kê tỉnh Khánh Hoà, tại trang http://khso.gov.vn/tin_tuc.aspx?
chuyenmuc=SP&demuc=SPPH, [truy cập ngày 12/3/2021]
26. Lê Văn Cương (2006), Những giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo an
ninh, trật tự ở các thành phố lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế
mở, Viện nghiên cứu chiến lược và khoa học Công an, Bộ Công an.
27. Dasetakob (2006), Tội phạm học, NXB Trung tâm pháp lý.
160
28. Lê Thị Thu Dung, Nghiên cứu nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa
bàn thành phố Hải Phòng, tại trang http://vienkiemsathaiphong.gov.vn/
vks/132/3105/4273/15208/Nghien-cuu-phap-luat/Nghien-cuu-nhan-than-
nguoi-pham-toi-ve-ma-tuy-tren-dia-ban-thanh-pho-Hai-Phong.aspx,
[truy cập ngày 21/2/2021]
29. Ngô Quang Dũng, Triệt phá đường dây ma túy lớn ở Hải Phòng, tại trang
https://nhandan.vn/thoi-su-phap-luat/triet-pha-duong-day-ma-tuy-lon-o-hai-
phong-474786/, [truy cập ngày 23/5/2021]
30. Đại biểu nhân dân, Báo cáo đánh giá tác động môi trường đã chuẩn chưa?,
từ trang http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=222797,
[truy cập ngày 10/11/2020]
31. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lí luận nhà nước và pháp luật,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
32. Linh Đan, Chi phí tuân thủ pháp luật làm gia tăng áp lực lên doanh nghiệp,
tại trang http://vneconomy.vn/chi-phi-tuan-thu-phap-luat-lam-gia-tang-ap-
luc-len-doanh-nghiep-20190426101039456.htm, [truy cập ngày 25/2/2021]
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 2.
37. Đặng Viết Đạt (2021), Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của
nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
38. Nguyễn Minh Đoan, (2009), Chất lượng của hệ thống pháp luật thực định
đảm bảo quan trọng của thực hiện pháp luật, Tạp chí Luật học số 3/2009.
161
39. Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Minh Đức (2019), Thực hiện, áp dụng và giải
thích pháp luật ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
40. Nguyễn Thanh Hải, (2010), Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự
việt nam, luận văn thạc sỹ khoa luật, đại học quốc gia Hà Nội.
41. Trương Hồ Hải (2020), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học
“Nghiên cứu tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề nhà nước
và đề xuất bổ sung, phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới”,
Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020,
KX.02.11/16-20.
42. Nguyễn Hằng, Thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi
hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự, từ trang
http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/tuthuctien/view_detail.aspx?item
id=554, [truy cập ngày 13/2/2021]
43. Nguyễn Huy Hoàng, Nhận diện một số thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản
qua mạng xã hội và giải pháp nâng cao chất lượng công tác đấu tranh đối
với loại tội phạm này, tại trang https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-
sat/nhan-dien-mot-so-thu-doan-lua-dao-chiem-doat-tai-s-d10-t9002.html,
[truy cập ngày 20/3/2021]
44. Hoạt động áp dụng pháp luật nội dung trong giải quyết các khiếu kiện hành
chính ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, truy cập từ trang
http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/120/354
45. Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Hội thảo khoa học về “Bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội trong chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới” (2013).
46. Học viện Cảnh sát nhân dân, Khoa học Công an Việt Nam, NXB Công an
nhân dân.
47. Học viện Cảnh sát nhân dân, Tổng Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm - Bộ
Công an, Viện Kinh tế Việt Nam - thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam tổ chức Hội thảo Khoa học “Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với
phòng, chống tội phạm góp phần đảm bảo an ninh, trật tự” (2014).
162
48. Học viện Cảnh sát nhân dân phối hợp với Công an thành phố Hải Phòng tổ
chức Hội thảo “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý cư trú và dữ liệu quốc
gia về dân cư đáp ứng yêu cầu củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hải Phòng” (2015).
49. Hội luật gia Việt Nam, Cử tri cả nước đi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV
và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021, tại trang
http://hoiluatgiavn.org.vn:8080/cu-tri-ca-nuoc-di-bau-cu-dai-bieu-quoc-hoi-
khoa-xiv-va-dai-bieu-hdnd-cac-cap-nhiem-ky-2016---2021-d1027.html,
[truy cập ngày 14/2/2021]
50. Xuân Hùng, Vụ 4 người cùng một nhà chết ở Thanh Hóa: “Sao lại bắt bạn
con đi như thế?“, tại trang https://laodong.vn/phong-su/vu-4-nguoi-cung-
mot-nha-chet-o-thanh-hoa-sao-lai-bat-ban-con-di-nhu-the-526087.ldo, [truy
cập ngày 12/4/2020]
51. Nguyễn Thị Hồng Huệ, (2014), Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện
pháp luật, luận văn thạc sỹ luật học - khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
52. Cao Quang Hưng, Hoạt động của lực lượng cảnh sát khu vực trong phòng
ngừa tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận án Tiến sỹ, Học viện
Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an.
53. Đặng Hương, Hải Phòng tăng tốc thu hút đầu tư FDI, tại trang
https://vneconomy.vn/hai-phong-tang-toc-thu-hut-dau-tu-fdi-646321.htm,
[truy cập ngày 12/3/2021]
54. Đỗ Thị Hường (2020), Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường nước ở
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.
55. Irène Salenson,(2014), Thách thức đô thị tương lai và quy hoạch lãnh thổ,
trong phát triển đô thị bền vững, NXB Tri thức.
56. La Quốc Khánh, Đường dây mối giới mại dâm qua mạng, tại trang
http://vkscantho.vn/vkscantho/index.php/news/VKSND-TP-Can-Tho/
Duong-day-moi-gioi-mai-dam-qua-mang-2887/, [truy cập ngày 17/12/2020]
163
57. Nguyễn Đức Khiêm, Tổ chức điều khiển giao thông đô thị của lực lượng
Cảnh sát giao thông Công an thành phố Hà Nội, Luận án Tiến sỹ, Học viện
Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an.
58. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận chung về
nhà nước và pháp luật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
59. Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Tuyển tập Hiến pháp của một số
quốc gia, NXB Hồng Đức.
60. Mai Phương Lan, (2013) Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy
chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ luật học khoa
luật đại học quốc gia Hà Nội\
61. Tô Lâm, “Lực lượng Công an nhân dân với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình hiện nay”, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 2, tháng 6/2014.
62. Đàm Cảnh Long, (2012), Áp dụng pháp luật hình sự của tòa án nhân dân
qua thực tiến tỉnh Thanh Hóa, tại trang http://repository.vnu.edu.vn/
bitstream/VNU_123/6125/1/00050001286.pdf, [truy cập 4/7/2020]
63. Đồng Đại Lộc (2015), “Nâng cao hiệu quả công tác đảm bảo trật tự, an toàn
xã hội trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc”, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 2,
tháng 4/2015.
64. Minkovskij G.M; Moskva, jurid. Literature (1987), Cơ sở lý luận của việc
phòng ngừa tội phạm.
65. Dương Tuyết Miên và các cộng sự, (2010), Giáo trình tội phạm học, NXB
Giáo dục Việt Nam.
66. Một số bất cập chính khi thực hiện luật phòng chống tham nhũng, taiij trang
http://mt.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/1108/41849/mot-so-bat-cap-chinh-khi-thuc-
thi-luat-pctn-trong-10-nam-qua.aspx, [truy cập ngày 20/3/2020]
67. Một số khó khăn, vướng mắc và kinh nghiệm, giải pháp trong thực hiện công
tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Công an Hà Tĩnh,
truy cập từ trang tại trang http://conganhatinh.gov.vn/tin-chi-tiet/-/chi-
tiet/mot-so-kho-khan-vuong-mac-va-kinh-nghiem-giai-phap-trong-thuc-
hien-cong-tac-thi-hanh-phap-luat-ve-xu-ly-vi-pham-hanh-chinh-cua-cong-
an-ha-tinh-15528-1811.html, [truy cập ngày 20/5/2020]
164
68. Dương Thị Phương Nam,(2014), Hoạt động điều tra về trật tự xã hội của cơ
quan điều tra trong công an nhân dân (trên cơ sở nghiên cứu ở Hà Tĩnh),
Luận văn thạc sỹ chuyên ngành luật, khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội.
69. Bùi Thiện Ngộ (1993), “Làm tốt công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong
tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản, số 10.
70. Hồ Trọng Ngũ (1996), “Về khái niệm trật tự, an toàn xã hội”, Tạp chí Trật tự
an toàn xã hội, số 1.
71. Hạnh Nguyên, Các giải pháp cơ bản cần áp dụng ngay để giảm án tồn đọng
hiệu quả trong thời gian tới, tại trang http://thads.moj.gov.vn/danang/
noidung/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi/View_Detail.aspx?ItemID=8, [truy
cập tại trang 23/5/2020]
72. Quý Nguyễn, Thực trạng phí 'bôi trơn' tại Việt Nam, tại trang
https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/xoa-bo-phi-boi-tron/34980/thuc-trang-
phi-boi-tron-tai-viet-nam, [truy cập ngày 24/3/2021]
73. Trần Long Nhi, (2015), Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự
công cộng và thực tiễn xét xử trên đại bàn tỉnh Đồng Tháp, Luận văn thạc sỹ
luật học, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
74. Phạm Thị Yến Nhi (2011), Tình hình tội phạm trật tự xã hội ở đô thị Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn tốt nghiệp khoa luật Đại học
Cần Thơ.
75. Đỗ Thị Oanh, (2014), Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam
hiện nay, luận văn thạc sỹ khoa luật đại học quốc gia Hà Nội.
76. Pháp luật về bảo vệ môi trường ở Singapore, tại trang https://tks.edu.vn/
thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/120/331, [truy cập ngày 14/3/2021]
77. T.Phong, Mại dâm tại Cần Thơ đang có xu hướng trẻ hóa, tại trang
https://www.tinmoi.vn/mai-dam-tai-can-tho-dang-co-xu-huong-tre-hoa-
011385570.html, [truy cập ngày 24/3/2021]
78. Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, (2017), Báo cáo về mức độ
tuân thủ các quy định pháp luật về minh bạch trong lĩnh vực khoáng sản.
165
79. Phòng, chống tội phạm: Sửa luật để tăng hiệu quả, tại trang
http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/80/14, [truy cập ngày 20/4/2020]
80. Nguyễn Thị Hoài Phương, (2009), Thực hiện pháp luật môi trường ở Việt
Nam giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sỹ chuyên ngành luật, khoa luật Đại
học quốc gia Hà Nội.
81. Prokopenko Vladimia Nikolaievich (2002), Các cơ sở về pháp luật và tổ
chức cho hoạt động phòng ngừa của Cảnh sát khu vực.
82. Trần Đại Quang và các cộng sự, (2015), Khoa học công an Việt Nam, tập 2
Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, NXB Công an
nhân dân.
83. Trần Đại Quang và các cộng sự (2015), Khoa học Công an Việt Nam, Tập 5-
Lý luận về đảm bảo trật tự an toàn xã hội, NXB Công an nhân dân.
84. Trần Đại Quang, Tăng cường công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật
tự an toàn xã hội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
85. Hoàng Thị Kim Quế, (2015), “Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật
của công dân ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học,
Tập 31, Số 3 (2015)
86. Ricky Storm Braskov (2010), Phương pháp phòng, chống tội phạm dựa vào
cộng đồng, Trung tâm Nghiên cứu phát triển quốc tế và truyền thông Đại học
Roskilde, Đan Mạch.
87. Số liệu báo động về chi phí “ngầm” trong hoạt động doanh nghiệp, tại trang
http://baophapluat.vn/kinh-te/so-lieu-bao-dong-ve-chi-phi-ngam-trong-hoat-
dong-doanh-nghiep-441795.html, [truy cập ngày 3/4/2020]
88. Lê Văn Sua (2019), Một vài bất cập từ thực tiễn áp dụng Điều 260 và khoản
3 Điều 29 BLHS năm 2015, từ trang https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/
nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2444, [truy cập ngày 26/12/2019]
89. Sửa đổi Luật phòng chống tham nhũng: Phải giải trình nguồn gốc tài sản
tăng thêm, từ trang http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_
TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?ItemID=611, [truy cập ngày 23/1/2021]
166
90. Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu (2009), Lý luận nhà nước và pháp luật,
NXB Giao thông vận tải, Hà Nội
91. Thanh tra Việt Nam, Một số bất cập chính khi thực hiện luật phòng chống
tham nhũng, tại trang http://mt.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/1108/41849/mot-so-
bat-cap-chinh-khi-thuc-thi-luat-pctn-trong-10-nam-qua.aspx, [truy cập ngày
25/8/2019]
92. Nguyễn Trung Thành (2008), Các biện pháp công tác Công an những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Viện chiến lược và khoa học Công an, Bộ Công an.
93. Đoàn Thảo, Ma túy và tệ nạn xã hội ngày càng phức tạp, tại trang
http://www.vnpost.vn/vi-vn/bai-viet/chi-tiet/id/83318/key/ma-tuy-va-te-nan-
xa-hoi-ngay-cang-phuc-tap, [truy cập ngày 30/4/2021]
94. Trần Quyết Thắng (2013), Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác tiếp nhận và xử lý tin báo tố giác tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn
quận Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội, Đề tài khoa học
95. Đỗ Cảnh Thìn, Nền tảng pháp lý quan trọng đảm bảo an ninh, trật tự của
đất nước trong tình hình mới, từ trang http://hvcsnd.edu.vn/tin-tuc-su-
kien/tieu-diem/nen-tang-phap-ly-quan-trong-dam-bao-an-ninh-trat-tu-cua-
dat-nuoc-trong-tinh-hinh-moi-4515, [truy cập ngày 25/2/2021]
96. Phạm Thị Thoa, Điều tra tra tội phạm cướp giật tài sản theo chức năng của
lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Luận án Tiến sỹ, Học
viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an.
97. Nguyễn Văn Thương (2014), “Bảo đảm an ninh, trật tự tại các công trình
kinh tế trọng điểm ở thành phố Cần Thơ”, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 2,
tháng 4/2014.
98. Nhật Thy, Những tồn tại, hạn chế trong phòng, chống mại dâm, cai nghiện
ma túy, tại trang http://tiengchuong.vn/Nghien-cuu-Chuyen-de/Nhung-ton-
tai-han-che-trong-phong-chong-mai-dam-cai-nghien-ma-tuy/25733.vgp,
[truy cập ngày 20/4/2019]
167
99. Lê Thế Tiệm và tập thể tác giả (1995), Luận cứ khoa học đổi mới chính sách
xã hội nhằm đảm bảo ANXH và khắc phục tệ nạn xã hội, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Nhà nước KX. 04.14.
100. Toà án nhân dân tỉnh Đaklak, Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật
hình sự về những hành vi phạm tội liên quan đến tội hành nghề mê tín, dị
đoan và các tội phạm khác có liên quan đến mê tín, dị đoan, từ trang
http://toaandaklak.gov.vn/trao-doi-nghiep-vu/e-xuat-kien-nghi-hoan-thien-
phap-luat-hinh-su-ve-nhung-hanh-vi-pham-toi-lien-quan-en-toi-hanh-nghe-
me-tin-di-oan-va-cac-toi-pham-khac-co-lien-quan-en-me-tin-di-oan-
377.html l, [truy cập ngày 23/8/2020]
101. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng triển khai công tác năm 2019, tại
trang https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tatc/chi-tiet-tin?dDocName=
TAND059548, [truy cập ngày 14/2/2020]
102. Trần Quốc Toàn, (2015), Hoàn thiện pháp luật về trật tự, an toàn xã hội ở
nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.
103. Tổng cục thống kê (2017), Kết quả chủ yếu điều tra dân số và kế hoạch hoá
gia đình thời điểm 1/4/2016, NXB Thống kê, Hà Nội.
104. Tổng Cục thống kê (2018), Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và
thuỷ sản năm 2016, NXB Thống kê, Hà Nội.
105. Tổng cục thống kê (2020), Kết quả toàn bộ tổng điều tra dân số và nhà ở
năm 2019, NXB Thống kê, Hà Nội.
106. Tổng quan về mức độ của tình hình tội phạm ở Việt Nam qua số liệu thống
kê từ năm 1986 - 2008, truy cập từ http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-
tiet/80/5, [truy cập ngày 12/3/2020]
107. Trần Minh Tơn, Quan điểm và giải pháp chiến lược phòng, chống tội phạm
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từ trang
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2014/29352/
Quan-diem-va-giai-phap-chien-luoc-phong-chong-toi-pham-thoi.aspx.,
[truy cập ngày 20/3/2021]
168
108. Cù Ngọc Trang, Trao đổi về một số vướng mắc, bất cập trong các quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực an ninh, trật tự an toàn xã hội,
tại trang http://csnd.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/260/Trao-doi-ve-mot-
so-vuong-mac-bat-cap-trong-cac-quy-dinh-ve-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-
tren-linh-vuc-an-ninh-trat-tu-an-toan-xa-hoi, [truy cập ngày 23/3/2019]
109. Bảo Trân, Việt Nam có 15.000 hay 300.000 người bán dâm?, tại trang
https://nld.com.vn/thoi-su/viet-nam-co-15000-hay-300000-nguoi-ban-dam-
20171102065231077.htm, [truy cập ngày 11/2/2021]
110. Bùi Quang Trung, (2011), Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông
đường bộ theo luật hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật-
Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội
111. Mai Thế Trung, “Tăng cường lãnh đạo công tác bảo đảm ANTT, phòng,
chống tội phạm, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở Bình
Dương”, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 1, tháng 7 năm 2013.
112. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Hoạt động áp dụng pháp luật nội dung
trong giải quyết các khiếu kiện hành chính ở Việt Nam. Thực trạng và giải
pháp, tại trang http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/120/354, [truy
cập 04/9/2019]
113. Tổng Cục thống kê (2018), Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp
và thuỷ sản năm 2016, NXB Thống kê, Hà Nội.
114. TTX, Toàn quốc xảy ra hơn 25.800 vụ phạm pháp hình sự trong 6 tháng,
tại trang http://tuyengiao.vn/thoi-su/toan-quoc-xay-ra-hon-25-800-vu-
pham-phap-hinh-su-trong-6-thang-113731, [truy cập ngày 20/12/2019]
115. Nguyễn Xuân Tùng, Độc lập tư pháp là điều kiện tiên quyết để bảo vệ công
lý, tại trang http://ttpc.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=c1b0aa3a-38a2-4856-
82fd-5fd554f8c7c6, [truy cập ngày 20/3/2019]
116. Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm thực trạng và một số giải pháp, từ trang https://vksbinhphuoc.gov.vn/
news/KIEM-SAT-VIEN-CAN-BIET/Vai-tro-trach-nhiem-cua-Vien-kiem-
sat-trong-giai-quyet-tin-bao-to-giac-toi-pham-thuc-trang-va-mot-so-giai-
phap-365/, [truy cập ngày 11/3/2020]
169
117. VCCI, Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, tại trang https://pcivietnam.vn/
du-lieu-pci, [truy cập ngày 12/3/2021]
118. VCCI (2017), Chỉ số năng lực canh tranh cấp tỉnh năm 2017, NB.
119. VCCI (2017), Báo cáo về mức độ tuân thủ các quy định pháp luật về minh
bạch trong lĩnh vực khoáng sản.
120. VCCI (2018), Chỉ số năng lực canh tranh cấp tỉnh năm 2018, NB.
121. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thông báo số 50/TB-VKSTC ngày 29 tháng
01 năm 2019 về Kinh nghiệm và rút kinh nghiệm 06 tháng cuối năm về công
tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định
giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, tại
trang http://www.vksndtc.gov.vn/khac-1022, [truy cập ngày 23/9/2020]
122. Vũ Đức Vinh, Pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh tại Singapore, tại
trang https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/tin-tuc/600/4871/phap-luat-ve-
dieu-kien-dau-tu-kinh-doanh-tai-singapore.aspx, [truy cập ngày 24/5/2021]
123. VTCNews, Một người đi bỏ phiếu thay cả nhà: Vô trách nhiệm với bản
thân, đất nước, tại trang https://vtc.vn/mot-nguoi-di-bo-phieu-thay-ca-nha-
vo-trach-nhiem-voi-ban-than-dat-nuoc-ar613233.html, [truy cập ngày
24/5/2021]
124. Nguyễn Xuân Yêm, Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới,
Đề tài cấp quốc gia.
125. Nguyễn Xuân Yêm (2011), Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, NXB Thông tin và truyền
thông, Hà Nội.
126. Nguyễn Xuân Yêm (1999), Một số vấn đề quản lý nhà nước về an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, NXB Công an nhân dân.
127. WB (2011), Đánh giá đô thị hóa ở Việt Nam: Báo cáo hỗ trợ kỹ thuật,
Hà Nội
170
II. Tài liệu Tiếng Anh
128. Crime Index for Country 2019, tại trang https://www.numbeo.com/crime/
rankings_by_country.jsp [truy cập ngày 25/12/2019]
129. Crime Index for Country 2021, tại trang https://www.numbeo.com/crime/
rankings_by_country.jsp [truy cập ngày 25/4/2021]
130. Cambridge English Dictionary, tại trang https://dictionary.cambridge.org/
vi/dictionary/english/compliance, [truy cập ngày 12/3/2019]
131. Tan Tam Mei, Singapore tops global ranking for order and security, tại
trang https://www.straitstimes.com/singapore/spore-tops-global-ranking-
for-order-and-security,[truy cập ngày 21/5/2021]
132. “My Life is Not Your Porn”: Digital Sex Crimes in South Korea, tại trang
https://www.hrw.org/report/2021/06/16/my-life-not-your-porn/digital-sex-
crimes-south-korea, [truy cập ngày 20/6/2021]
133. Singapore's crime rate up in 2020 amid rise in scam cases, tại trang
https://www.channelnewsasia.com/news/singapore/mha-scam-cases-
increase-2020-physical-crime-decrease-accidents-14096118, [truy cập ngày
17/5/2021]
134. Singapore's Constitution of 1963 with Amendments through 2016, tại trang
https://constituteproject.org/constitution/Singapore_2016.pdf?lang=en,
tr.16-20, [truy cập ngày 25/5/2021]
135. South Korea Crime Rate & Statistics 1990-2021, https://www.
macrotrends.net/ countries/KOR/south-korea/crime-rate-statistics, [truy cập
ngày 20/6/2021]
136. Overall crime rate in Singapore from 2011 to 2020, https://www.
statista.com/statistics/628339/crime-rates-in-singapore/, [truy cập ngày
20/6/2021]
171
137. WJP (2011), Rule of Law Index 2011, p 105; WJP (2013), Rule of Law Index
2012-2013, p 154; WJP (2014), Rule of Law Index 2014, p 158; WJP (2015),
Rule of Law Index 2015, p.156; WJP (2016), Rule of Law Index 2016, p 157;
WJP (2018), Rule of Law Index 2017-2018, p 157; WJP (2019), Rule of Law
Index 2019, p 156, tại trang https://worldjusticeproject.org/, [truy cập ngày
25/9/2020]
138. World Wide Governance Indicators, tại trang https://info.worldbank.org/
governance/wgi/, [truy cập ngày 25/9/2020]
139. World Wide Governance Indicators tại trang https://info.worldbank.org/
governance/wgi/ [truy cập ngày 25/5/2021
172
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
TIÊU CHUẨN CỦA CÁC TIÊU CHÍ PHÂN LOẠI ĐÔ THỊ VÀ
PHƯƠNG PHÁP TÍNH ĐIỂM; CÁC TIÊU CHUẨN VỀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG ÁP DỤNG ĐỐI VỚI KHU VỰC DỰ KIẾN THÀNH LẬP PHƯỜNG, QUẬN (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 ngày 25 tháng 5 năm 2016)
1. Tiêu chí 1: Vị trí, chức năng, vai trò, cơ cấu và trình độ phát triển kinh
tế - xã hội (tối thiểu đạt 15 điểm, tối đa đạt 20 điểm)
Bảng 1.1: Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò đô thị loại I
(tối thiểu đạt 3,75 điểm, tối đa đạt 5,0 điểm)
TT
Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò
Điểm
1
5,0
Là trung tâm tổng hợp cấp quốc gia về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng liên tỉnh hoặc cả nước.
2
3,75
Là trung tâm tổng hợp cấp vùng hoặc cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của một vùng liên tỉnh.
Bảng 1.2: Nhóm tiêu chuẩn cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội
(tối thiểu đạt 11,25 điểm, tối đa đạt 15 điểm)
TT
Tiêu chuẩn
Đô thị loại I
Điểm
Đơn vị tính
1 Cân đối thu chi ngân
Dư
2,0
sách
Đủ
1,5
2 Thu nhập bình quân
≥ 2,1
3,0
lần
1,75
2,25
đầu người năm so với cả nước
173
3
3,0
Tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông lâm thủy sản theo mục tiêu đề ra
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế(1)
2,25
Tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng hoặc tăng tỷ trọng dịch vụ, giảm tỷ trọng nông lâm thủy sản theo mục tiêu đề ra
≥ 9
2,0
%
7
1,5
4 Mức tăng trưởng kinh tế trung bình 3 năm gần nhất
5 Tỷ lệ hộ nghèo
≤ 5,5
2,0
%
6,0
1,5
6 Tỷ lệ tăng dân số
≥ 2,0
3,0
1,6
2,25
%
hàng năm (bao gồm tăng tự nhiên và tăng cơ học)
(1) Mục tiêu phát triển kinh tế của đô thị được xác định trong Nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội.
2. Tiêu chí 2: Quy mô dân số (tối thiểu đạt 6,0 điểm, tối đa đạt 8,0 điểm)
Bảng 2: Quy mô dân số (tối thiểu đạt 6,0 điểm, tối đa đạt 8,0 điểm)
Loại đô thị
TT
Tiêu chuẩn
Điểm
I
Đơn vị tính
TW
Tỉnh
≥ 5.000
≥ 1.000
2,0
1 Dân số toàn đô thị
1.000 người
1.000
500
1,5
≥ 3.000
≥ 500
6,0
2
Dân số khu vực nội thành, nội thị
1.000 người
500
200
4,5
174
3. Tiêu chí 3: Mật độ dân số (tối thiểu đạt 4,5 điểm, tối đa đạt 6,0 điểm)
Bảng 3: Mật độ dân số (tối thiểu đạt 4,5 điểm, tối đa đạt 6,0 điểm)
Tiêu chuẩn
Đơn vị tính
Đô thị loại I Điểm
TT
Mật độ dân số toàn đô thị
≥ 3.000
1,5
người/km2
1
2.000
1,0
≥ 12.000
4,5
2
người/km2
10.000
3,5
Mật độ dân số khu vực nội thành, nội thị tính trên diện tích đất xây dựng đô thị (đối với thành phố loại đặc biệt, I, II, III; thị xã loại III, IV); mật độ dân số trên diện tích đất xây dựng (đối với thị trấn loại IV hoặc loại V) (2)
(2) Nếu mật độ dân số vượt quá 20.000 người/km2 thì đánh giá đạt 3,0 điểm.
4. Tiêu chí 4: Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp (tối thiểu đạt 4,5 điểm, tối đa
đạt 6,0 điểm)
Bảng 4: Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp (tối thiểu đạt 4,5 điểm, tối đa
đạt 6,0 điểm)
TT
Tiêu chuẩn
Điểm
Đơn vị tính
Đô thị loại I
≥ 75
1,5
1
%
Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp toàn đô thị
65
1,0
≥ 90
4,5
2
%
Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thành, nội thị
85
3,5
175
5. Tiêu chí 5: Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan
đô thị (tối thiểu đạt 45 điểm, tối đa đạt 60 điểm)
Bảng 5. A: Nhóm các tiêu chuẩn về trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan khu vực nội thành, nội thị(3) (tối thiểu đạt 36 điểm, tối đa đạt 48,0 điểm)
Loại đô thị
TT
Đơn vị tính
Điểm
Tiêu chuẩn
I
I Nhóm các tiêu chuẩn về hạ tầng xã hội
7,5 - 10,0
I.1 Các tiêu chuẩn về nhà ở
1,5 -2,0
1,0
≥ 29
m2 sàn/người
1
Diện tích sàn nhà ở bình quân
0,75
26,5
1,0
≥ 95
%
2
Tỷ lệ nhà ở kiên cố, bán kiên cố
0,75
90
I.2 Các tiêu chuẩn về công trình công cộng
6,0 - 8,0
1,0
61
1 Đất dân dụng(4)
m2 /người
0,75
54
1,0
≥ 5
m2 /người
2
Đất xây dựng các công trình dịch vụ công cộng đô thị
0,75
4
1,0
≥ 2,0
m2 /người
3
Đất xây dựng công trình công cộng cấp đơn vị ở
0,75
1,5
1,0
≥ 2,8
4 Cơ sở y tế cấp đô thị
giường/1.000 dân
0,75
2,4
1,0
≥ 30
5
cơ sở
Cơ sở giáo dục, đào tạo cấp đô thị
0,75
20
1,0
≥ 14
6 Công trình văn hóa cấp đô thị
công trình
0,75
10
1,0
≥ 10
công trình
7
Công trình thể dục, thể thao cấp đô thị
0,75
7
1,0
≥ 14
công trình
8
Công trình thương mại, dịch vụ cấp đô thị
0,75
10
176
II Nhóm các tiêu chuẩn về hạ tầng kỹ thuật
10,5-14,0
II.1 Các tiêu chuẩn về giao thông
4,5 - 6,0
Quốc tế
2,0
cấp
1
Quốc gia
1,5
Đầu mối giao thông (cảng biển, cảng hàng không, cảng đường thủy nội địa, ga đường sắt, bến xe ô tô)
≥ 24
1,0
%
2
Tỷ lệ đất giao thông so với đất xây dựng
16
0,75
≥ 13
1,0
km/km2
3
10
0,75
Mật độ đường giao thông (tính đến đường có chiều rộng phần xe chạy ≥ 7,5m)
≥ 15
1,0
m2/người
4
Diện tích đất giao thông tính trên dân số
13
0,75
≥ 20
1,0
%
5
Tỷ lệ vận tải hành khách công cộng
15
0,75
II.2 Các tiêu chuẩn về cấp điện và chiếu sáng công cộng
2,25 - 3,0
1,0
≥ 1.000
1 Cấp điện sinh hoạt
kwh/người/năm
850
0,75
100
1,0
%
2
Tỷ lệ đường phố chính được chiếu sáng
95
0,75
≥ 85
1,0
%
3
Tỷ lệ đường khu nhà ở, ngõ xóm được chiếu sáng
60
0,75
II.3 Các tiêu chuẩn về cấp nước
2,25 - 3
≥ 130
1,0
1 Cấp nước sinh hoạt
lít/người/ngày đêm
120
0,75
100
2,0
%
2
Tỷ lệ hộ dân được cấp nước sạch, hợp vệ sinh
95
1,5
II.4 Các tiêu chuẩn về hệ thống viễn thông
1,5 - 2,0
≥ 30
1,0
1
25
0,75
Số thuê bao internet (băng rộng cố định và băng rộng di động)
Số thuê bao internet/100 dân
100
1,0
%
2
Tỷ lệ phủ sóng thông tin di động trên dân số
95
0,75
177
III Nhóm các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường
10,5 - 14
III.1 Các tiêu chuẩn về hệ thống thoát nước mưa và chống ngập úng
2,25 - 3,0
≥ 4,5
2,0
1
km/km
Mật độ đường cống thoát nước chính
4
1,5
≥ 50
1,0
2
%
pháp
20
0,75
Tỷ lệ các khu vực ngập úng có giải phòng chống, giảm ngập úng
III.2 Các tiêu chuẩn về thu gom, xử lý nước thải, chất thải
3,75 - 5,0
≥ 85
1,0
1
%
70
0,75
Tỷ lệ chất thải nguy hại được xử lý, tiêu hủy, chôn lấp an toàn sau xử lý, tiêu hủy
≥ 50
1,0
2
%
Tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật
40
0,75
100
1,0
3
%
Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom
90
0,75
≥ 90
1,0
4
%
80
0,75
Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lý tại khu chôn lấp hợp vệ sinh hoặc tại các nhà máy đốt, nhà máy chế biến rác thải
100
1,0
5
%
90
0,75
Tỷ lệ chất thải y tế được xử lý, tiêu hủy, chôn lấp an toàn sau xử lý, tiêu hủy
III.3 Các tiêu chuẩn về nhà tang lễ
1,5 -2,0
≥ 4
1,0
1 Nhà tang lễ
cơ sở
2
0,75
≥ 25
1,0
2
%
Tỷ lệ sử dụng hình thức hỏa táng
20
0,75
III.4 Các tiêu chuẩn về cây xanh đô thị
3,0 - 4,0
≥ 15
2,0
1 Đất cây xanh toàn đô thị
m2/người
10
1,5
≥ 6
2,0
2
m2/người
Đất cây xanh công cộng khu vực nội thành, nội thị
5
1,5
178
IV Nhóm các tiêu chuẩn về kiến trúc, cảnh quan đô thị
7,5 - 10,0
Đã có quy chế
được ban hành
tối thiểu 2 năm,
2,0
Quy chế quản lý quy hoạch
IV.1
Quy chế
thực hiện tốt
kiến trúc đô thị
quy chế
Đã có quy chế
1,5
Tỷ lệ tuyến phố văn minh đô
≥ 60
2,0
IV.2
%
thị tính trên tổng số trục phố
50
1,5
chính
≥ 6
2,0
Số lượng dự án cải tạo,
IV.3
Dự án
chỉnh trang đô thị
4
1,5
≥ 7
2,0
Số lượng không gian công
IV.4
Khu
cộng của đô thị
5
1,5
Có công trình
2,0
cấp quốc gia
IV.5 Công trình kiến trúc tiêu biểu
Cấp
Có công trình
1,5
cấp tỉnh
(3) Đối với đô thị không có khu vực ngoại thành, ngoại thị: các tiêu chuẩn về trình
độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan đô thị được đánh giá trên toàn
đô thị. (4) Nếu tiêu chuẩn đất dân dụng vượt mức tối đa thì đánh giá đạt 0,75 điểm
179
Bảng 5.B: Nhóm các tiêu chuẩn về trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan khu vực ngoại thành, ngoại thị(5) (tối thiểu đạt 9,0 điểm, tối đa đạt 12,0 điểm)
TT
Tiêu chuẩn
Đô thị loại I
Điểm
Đơn vị tính
I Nhóm các tiêu chuẩn về hạ tầng xã hội
3,0 - 4,0
1 Trường học
%
≥ 60
1,0
50
0,75
2 Cơ sở vật chất văn hóa
%
≥ 60
1,0
45
0,75
3 Chợ nông thôn
%
≥ 80
1,0
70
0,75
4 Nhà ở dân cư
%
≥ 90
1,0
80
0,75
II Nhóm các tiêu chuẩn về hạ tầng kỹ thuật
3,0 - 4,0
1 Giao thông
%
≥ 60
3,0
50
2,25
2 Điện
%
≥ 90
1,0
85
0,75
III Nhóm các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường
1,5 - 2,0
Môi trường
%
≥ 70
2,0
65
1,5
IV Nhóm các tiêu chuẩn về kiến trúc, cảnh quan
1,5 - 2,0
≥ 90
2,0
%
80
1,5
Quỹ đất nông nghiệp, vùng cảnh quan sinh thái được phục hồi, bảo vệ
(5) Đối với đô thị không có khu vực ngoại thành, ngoại thị: nhóm tiêu chuẩn về trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan khu vực ngoại thành, ngoại thị đạt 12 điểm.
180
Phụ lục 2 CÁC TIÊU CHUẨN VỀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG ÁP DỤNG ĐỐI VỚI KHU VỰC DỰ KIẾN THÀNH LẬP PHƯỜNG, QUẬN
Bảng 2.1: Các tiêu chuẩn về trình độ phát triển cơ sở hạ tầng đô thị áp
dụng đối với khu vực dự kiến thành lập phường
TT
Tiêu chuẩn
Đơn vị tính
Đô thị loại I
1
≥ 2,7
m2/người
Đất công trình giáo dục mầm non và phổ thông cơ sở
2 Trạm y tế (≥ 500 m2/trạm)
≥ 1
trạm/5.000 người
3 Sân luyện tập (≥ 3.000 m2)
m2/người
≥ 0,5
4 Chợ hoặc siêu thị
Công trình
≥ 1
5 Đất cây xanh sử dụng công cộng
m2/người
≥ 2
6
≥ 13
km/km2
Diện tích đất giao thông tỉnh trên dân số
7 Cấp điện sinh hoạt
kwh/người/năm
≥ 850
8
%
≥ 95
Tỷ lệ đường phố chính được chiếu sáng
9
%
≥ 95
Tỷ lệ hộ dân được cấp nước sạch, hợp vệ sinh
10
≥ 4
km/km2
Mật độ đường cống thoát nước chính
11
%
≥ 40
Tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật
12
%
≥ 90
Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom
181
Bảng 2.2: Các tiêu chuẩn về trình độ phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị áp dụng đối với khu vực dự kiến thành lập quận
Tiêu chuẩn
Đơn vị tính Đô thị loại I
Nhóm các tiêu chuẩn về hệ thống công trình hạ tầng xã hội ≥ 90
%
TT I 1 Tỷ lệ nhà ở kiên cố, bán kiên cố 2 Đất xây dựng các công trình dịch vụ công
m2 /người
≥ 4
cộng
3 Đất xây dựng công trình công cộng cấp
m2 /người
≥ 1,5
đơn vị ở
4
≥ 2,4
Cơ sở y tế cấp đô thị
giường/1.000 dân cơ sở công trình công trình công trình
≥ 2 ≥ 1 ≥ 1 ≥1
km/km2 %
≥ 10 ≥ 95
5 Cơ sở giáo dục, đào tạo cấp đô thị 6 Công trình văn hóa cấp đô thị 7 Công trình thể dục, thể thao cấp đô thị 8 Công trình thương mại, dịch vụ cấp đô thị II Nhóm các tiêu chuẩn về hạ tầng kỹ thuật đô thị 1 Mật độ đường giao thông đô thị 2 Tỷ lệ đường đô thị được chiếu sáng 3 Tỷ lệ đường khu nhà ở, ngõ xóm được
%
≥ 60
chiếu sáng
4 Tỷ lệ hộ dân được cấp nước sạch, hợp vệ
%
≥ 95
sinh
III Nhóm các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường 1 Tỷ lệ các khu vực ngập úng có giải pháp
%
≥ 20
phòng chống, giảm ngập úng
2 Tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý đạt quy
%
≥ 40
chuẩn kỹ thuật
3 Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu
%
≥ 90
gom
≥ 20 ≥ 5
% 4 Tỷ lệ sử dụng hình thức hỏa táng m2/người 5 Đất cây xanh công cộng trên địa bàn quận IV Nhóm các tiêu chuẩn về kiến trúc, cảnh quan đô thị; 1 Tỷ lệ tuyến phố văn minh đô thị tính trên
%
≥ 40
tổng số trục phố chính
Dự án
≥ 2
2 Số lượng dự án cải tạo, chỉnh trang đô thị 3 Số lượng không gian công cộng của đô
Khu
≥ 1
thị
4
Công trình kiến trúc tiêu biểu
Cấp
Có công trình cấp tỉnh
182
Bảng 2.3
Vị trí
STT
Tên thành phố
Dân số (triệu người)
Mật độ dân số (nghìn người/km2)
Dân số thành thị (triệu người)
trung tâm của vùng
1
Hải Phòng
2.03
0.92
1.3
Duyên hải Bắc Bộ
trung tâm của miền
2
Đà Nẵng
1.13
0.99
0.83
Trung
3
Cần Thơ
1.24
0.86
0.89
trung tâm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long
4
Thái Nguyên
0.36
0.36
1.63
trung tâm của vùng Trung du và miền núi phía Bắc
5
Việt Trì
0.21
0.14
1.92
thành phố du lịch về với cội nguồn dân tộc Việt Nam và là trung tâm của liên tỉnh phía Bắc
thành phố
6
Bắc Ninh
0.52
0.52
6.29
công nghiệp công nghệ cao của vùng Đồng bằng sông Hồng.
thành phố
7
Hải Dương
0.51
0.51
4.55
công nghiệp sản xuất, chế tạo, lắp ráp, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng Thủ đô Hà Nội, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng.
8
Hạ Long
0.3
0.3
0.27
thành phố dịch vụ, du lịch biển quốc tế; nơi có kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long.
183
trung tâm của vùng bằng
9
Nam Định
0.24
0.24
5.09
Nam Đồng sông Hồng
10
Thanh Hoá
0.5
0.5
3.41
hai trung tâm của
vùng Bắc Trung Bộ.
11
Vinh
0.55
0.55
5.19
12
Huế
0.46
0.46
6.33
trung tâm du lịch di sản quốc gia, nơi có hai di sản văn hóa thế giới là Cố đô Huế và Nhã nhạc cung đình Huế
13
Quy Nhơn
0.48
0.48
1.68
14
Nha Trang
0.42
0.29
1.68
hai trung tâm công nghiệp, dịch vụ, du lịch của vùng Nam Trung Bộ
15
Pleiku
0.5
0.41
1.94
trung tâm, đô thị quan trọng nhất của tiểu vùng Bắc Tây Nguyên
Ma
16
0.5
0.5
1.33
Buôn Thuật
17
Đà Lạt
0.43
0.35
1.08
hai trung tâm công nghiệp, dịch vụ, giáo dục, khoa học công nghệ, du lịch của vùng Tây Nguyên
18
Thủ Dầu Một
0.33
0.33
2.74
19
Biên Hoà
1.06
1.06
3.99
ba trung tâm công nghiệp, dịch vụ của vùng Đông Nam Bộ
20
Vũng Tàu
0.53
0.53
3.74
trung tâm của vùng
21 Mỹ Tho
0.23
0.23
2.79
Bắc Sông Tiền.
22
Long Xuyên
0.5
0.46
4.38
trung tâm của vùng Tứ giác Long Xuyên.
Tổng
13.03
10.99
Cả nước
96.48
33.82
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng Cục thống kê (2020)
184
Phụ lục 3
Hộp 1: Vụ 4 người cùng một nhà chết ở Thanh Hóa năm 2015
Sáng 3.11, hàng trăm người tập trung tại nhà tang lễ tiễn đưa 4 người trong gia
đình anh Ngô Lê Hà (số 218, Trần Phú, TP. Thanh Hoá) về cõi vĩnh hằng. Trong
dòng người đẫm nước mắt ấy có hàng chục học sinh cùng lớp, cùng trường với Ngô
Quang Ninh - học sinh lớp 7A, người con út trong gia đình tang tóc. Các em khóc
nức nở tiếc thương người bạn ngồi bàn đầu ít nói, hiền lành, dễ mến. “Tại sao bố
bạn ấy lại làm như thế chứ?”; “Bạn ấy có biết gì đâu?”; “bạn ấy đâu có lỗi lầm gì”;
“Sao người lớn làm sai lại bắt trẻ con cùng gánh chịu”…
Ngô Quang Ninh là con út của anh Ngô Lê Hà và chị Trần Thị Nhung. Nhà
anh Hà có 2 con trai: Ngô Duy Tân (23 tuổi) và Ngô Quang Ninh (13 tuổi). Cả hai
đều được phát hiện trong tư thế đang ngủ. Em Ngô Quang Ninh chết ở phòng ngủ
tầng lửng, em Ngô Duy Tân chết ở phòng ngủ tầng 3. Chị Nhung chết ở phòng ngủ
tầng hai còn anh Hà chết treo cổ ở tầng 1. Khi người thân phát hiện, em Ngô Quang
Ninh vẫn trong tư thế ôm gối ngủ. Khi người bác chạy lên, hét lên đau đớn thì Ninh
hộc máu oan khuất.
Vụ án nhanh chóng được Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận là
vụ tự tử. Không có dấu hiệu của việc tàn sát cả gia đình do kẻ xấu bên ngoài. Theo
đó, người cha - anh Ngô Lê Hà vì túng quẫn nợ nần trong kinh doanh, làm ăn đã
quyết đinh tìm đến cái chết. Nhưng đau đớn thay, anh còn lên kế hoạch cho cả gia
đình cùng chết. Anh đã mua thuốc mê, thuốc độc chuẩn bị cho cuộc ra đi của cả gia
đình. Anh Hà đã tiêm thuốc độc cho hai cậu con trai đẹp như tranh vào khoảng 3h
sáng, khi các con đang say ngủ để mãi mãi hai em không còn thức dậy. Sau khi tiêm
thuốc độc cho vợ và hai con, Ngô Lê Hà còn quay lại hình ảnh, ghi âm lời trăn trối
rồi mới treo cổ tự vẫn lúc 4h15 phút.
Nguồn: Xuân Hùng (2015) [50]
185
Hộp 2: Triệt phá đường dây ma túy lớn ở Hải Phòng năm 2020
Sáng 16-6, Công an TP Hải Phòng cho hay, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm
ma túy vừa bắt giữ Trần Thị Thanh Nga (SN 1979), đăng ký hộ khẩu tại số 73/414
đường Tô Hiệu, phường Hồ Nam (quận Lê Chân), hiện ở tại Venice 17-12 khu đô
thị Vinhomes Imperia, phường Thượng Lý (quận Hồng Bàng). Nga chính là đối
tượng cầm đầu đường dây mua bán ma túy với số lượng lớn và chỉ chuyên cung cấp
cho các đối tượng sử dụng giàu có. Từng có tiền án 15 năm tù về tội mua bán trái
phép chất ma túy, nhưng Nga vẫn tổ chức đường dây mua bán, vận chuyển ma túy,
đặc biệt là các loại thuốc lắc có mẫu mã mới, giá cao.
Trưa 9-6, mắt xích đầu tiên của đường dây đã bị lực lượng công an đột kích
với việc bắt quả tang Nguyễn Thành Long (SN 1990), hiện ở tổ 3, khu 7, Bãi Cháy,
TP Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh) và Phạm Văn Dương (SN 1990), trú tại xóm 1,
Kinh Giao, xã Tân Tiến (huyện An Dương) có hành vi tàng trữ trái phép chất ma
túy. Tang vật thu giữ 5,86 gam ketamine, 13,52 gam MDMA, một xe ô-tô, ba điện
thoại di động và một số tang vật khác có liên quan. Đây là hai đối tượng giúp sức
đắc lực cho Trần Thị Thanh Nga. Tiến hành khám xét khẩn cấp, bắt giữ đối với
Trần Thị Thanh Nga tại nơi ở của Nga tại Venice 17-12 khu đô thị Vinhomes
Imperia, công an thu giữ 3,19477 kg ma túy (trong đó gồm 93,49 gam ketamine,
1.356,85 gam MDMA, 1.551,25 gam methamphetamine, 193,18 gam heroin), cùng
cân điện tử và nhiều tang vật khác có liên quan. Tổng số ma túy thu giữ trong vụ án
là 3,21415 kg ma túy các loại, cùng nhiều tang vật khác có liên quan.
Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC04) đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nga
và đồng bọn về tội mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy, đồng thời tiếp tục điều
tra mở rộng vụ án.
Nguồn: Ngô Quang Dũng (2020) [29]
186
Hộp 3: Vụ án môi giới mại dâm qua mạng
Ngày 11/6/2019, Tòa án nhân dân TP Cần Thơ xét xử phúc thẩm theo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của Tống Thanh Hiền (Tuấn) (sinh năm: 1986, ngụ quận Cái Răng); Nguyễn Thị Thùy Trang (My) (sinh năm: 11/11/2000, ngụ quận Cái Răng) và Trương Hoàng Vũ (sinh năm: 1991, ngụ quận Ninh Kiều) về tội “Môi giới mại dâm”.
lập
ra nhóm
trên Zalo
Theo hồ sơ vụ án, từ tháng 2/2018 đến tháng 6/2018, Tống Thanh Hiền, Nguyễn Thị Thùy Trang lập trang Web khiêu dâm, tạo tài khoản Zalo và trang Facebook làm môi giới nhiều người bán dâm cho khách nhằm thu lợi bất chính. Hiền và Trang tìm các cô gái có nhu cầu bán dâm, nếu đồng ý Hiền và Trang hẹn lại nhà nghỉ để chụp hình khỏa thân nhiều tư thế, sau đó đăng lên trang Web khiêu dâm “gaigoizalo.com”, “tinhmotgio.com”; Hiền là “Tuấncheckergroup” và đưa tài khoản zalo của gái mại dâm vào để quản lý và điều hành. Ngoài ra Hiền và Trang lập Facebook có tên “Đặng Diễm My” để tiếp tục đăng tin tuyển nhân viên công việc “nhạy cảm”, mục đích tìm kiếm các cô gái có nhu cầu bán dâm. Đường dây mua bán dâm của Hiền và Trang có khoảng 26 người bán dâm với các độ tuổi khác nhau từ khoảng 14 tuổi đến 23 tuổi. Trong quá trình hoạt động, Hiền đặt ra nội quy cho các cô gái bán dâm thực hiện, nếu vi phạm thì bị Hiền phạt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, khi khách có nhu cầu mua dâm thì liên hệ qua zalo của Hiền, Hiền gửi ảnh các gái bán dâm cho khách lựa chọn, khi lựa chọn xong thì chọn địa điểm là các khách sạn hoặc nhà nghỉ rồi báo thời gian và số phòng cho Hiền, Hiền điều gái bán dâm đến để bán dâm, gái bán dâm tự di chuyển đến hoặc Trương Hoàng Vũ đưa đón, khi bán dâm xong Vũ thu tiền từ gái bán dâm về đưa cho Hiền một khoản tiền từ tiền bán dâm, Hiền thu từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng, tùy theo giá bán dâm, ngoài ra gái bán dâm còn trả cho Vũ 100.000 đồng tiền đưa rước.Trong số gái bán dâm mà các bị cáo đã thực hiện hành vi môi giới bán dâm có Nguyễn Trần Phương Uyên ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi.
Sau khi bị Toà án nhân dân quận Cái Răng tuyên phạt Hiền 10 năm tù; Trang 07 năm và Vũ 07 năm tù, các bị báo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với lí do hoàn cảnh gia đình khó khăn, Tuy nhiên xét thấy các bị cáo không có tình tiết mới để xem xét nên Hội đồng xét xử tuyên y án sơ thẩm.
Nguồn: La Quốc Khánh (2020) [56]
Phụ lục 4 Bảng 1: Tổng số vụ, số đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm bị phát hiện, xử lý trên địa bàn các đô thị loại I, giai đoạn 2012-2020
Đô thị loại I
Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội
Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy
Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường
Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm phát hiện, xử lý
Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực QLHC về TTATXH
Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Đối tượng
Vụ
Đối tượng 3542 1362 1469 183 451 172 328 82 334 1140 1281 335 357
Hải Phòng Đà Nẵng Cần Thơ Huế Đà Lạt Nha Trang Quy Nhơn Thái Nguyên Vũng Tàu Hạ Long Biên Hòa Mỹ Tho Thanh Hóa Tổng Tỷ lệ %
6697 4740 3306 3524 1603 2915 2357 3791 3092 1426 6659 1321 4653 46084 4.0
Đối tượng 10170 6159 4432 3683 2758 3273 2595 4267 2758 1451 6402 539 5850 54337 4.6
3869 1141 2280 645 366 591 141 1574 2024 1425 2164 159 1629 18008 1.6
Đối tượng 7970 1595 4449 1257 536 831 338 1757 3815 1709 7586 397 2097 34337 2.9
1452 1236 3349 489 846 240 696 288 216 804 822 173 306 10917 0.9
3527 1356 1454 170 432 162 318 75 328 1130 1271 318 324 10865 0.9
Đối tượng 12106 12106 486407 482825 2316 2316 17569 17569 173502 173502 5716 5716 23745 23745 281073 281056 2246 737 1773 1662 13226 13226 7823 5914 52209 52209 11036 1072583 1079711 92.6
90.7
0.9
27651 491298 12705 22397 176749 9624 27257 286784 6397 6447 24142 7885 59121 1158457 100
35278 496957 16053 23186 178128 10222 27838 287521 9386 6963 29315 9124 60864 1190835 100
Đối tượng 1490 1434 3387 494 881 230 832 342 233 890 820 30 351 11414 1.0
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an các đô thị loại I (2021)
187
Bảng 2: Tổng số vụ, số đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm bị phát hiện, xử lý
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, giai đoạn 2012-2020
Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội
Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy
Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường
NĂM
Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm phát hiện, xử lý
Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu
Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực QLHC về TTATXH
Vụ
Vụ
Đối tượng
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
547
92
719
119
78
86
87
54906
55117
55709
56163
121
2012
484
99
703
148
97
93
93
62857
62857
63630
63912
111
2013
527
117
663
170
144
74
75
39764
39714
40626
40779
157
2014
546
115
687
166
196
141
141
44338
44855
45336
46069
220
2015
558
145
702
196
150
229
231
58623
59287
59705
60602
186
2016
531
165
677
231
158
255
256
58065
59087
59174
60429
178
2017
523
142
657
183
137
172
173
54159
54426
55133
55591
152
2018
516
135
692
197
145
164
164
55137
55732
56097
56940
155
2019
508
131
659
185
131
142
142
54976
55332
55888
56472
154
4740
6159
1141
1595
1236
1434
1356
1362
482825 486407
491298
496957
2020 Tổng số
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an thành phố Đà Nẵng (2021)
188
Bảng 3: Tổng số vụ, số đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm bị phát hiện, xử lý
trên địa bàn thành phố Huế, giai đoạn 2012-2020
Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội
Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy
Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường
NĂM
Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm phát hiện, xử lý
Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu
Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực QLHC về TTATXH
Vụ
Đối tượng
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
419
384
79
143
42
14
484
484
15
1038
1064
38
2012
401
390
97
195
56
24
2555
2555
25
3133
3216
51
2013
419
419
89
198
49
15
1732
1732
16
2304
2415
50
2014
348
437
45
105
47
16
1433
1433
17
1889
2048
56
2015
348
442
47
84
61
15
3218
3218
15
3689
3823
64
2016
417
419
67
106
70
26
2381
2381
27
2961
3004
71
2017
410
425
72
134
52
19
1879
1879
23
2432
2513
52
2018
387
391
71
137
61
21
1934
1934
24
2474
2547
61
2019
375
376
78
155
51
20
1953
1953
21
2477
2556
51
3524
3683
645
1257
489
494
170
183
17569
17569
22397
23186
2020 Tổng số
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an tỉnh Thừa Thiên - Huế (2021)
189
Bảng 4: Tổng số vụ, số đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm bị phát hiện, xử lý
trên địa bàn thành phố Hạ Long, giai đoạn 2012-2020
Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội
Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy
Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường
NĂM
Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm phát hiện, xử lý
Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu
Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực QLHC về TTATXH
Vụ
Đối tượng
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
210
199
225
220
265
61
61
245
245
935
1079
283
2012
150
183
205
126
152
203
203
119
125
781
801
116
2013
134
163
186
65
121
111
111
267
267
740
748
63
2014
133
95
122
65
130
155
155
244
244
692
729
78
2015
153
161
210
59
146
154
154
162
162
689
731
59
2016
147
150
192
32
139
116
116
112
112
557
589
30
2017
175
157
183
79
179
127
131
165
195
703
775
87
2018
165
162
194
73
171
109
115
176
207
685
770
83
2019
159
155
192
85
148
94
94
172
216
665
741
91
1426
1451
1425
1709
804
890
1130
1140
1662
1773
6447
6963
2020 Tổng số
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an tỉnh Quảng Ninh (2021)
190
Bảng 5: Tổng số vụ, số đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm bị phát hiện, xử lý
trên địa bàn thành phố Đà Lạt, giai đoạn 2012-2020
Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội
Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy
Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường
NĂM
Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm phát hiện, xử lý
Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu
Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực QLHC về TTATXH
Vụ
Vụ
Đối tượng
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
192
327
24
206
40
29
29
36811
36811
37262
37416
209
2012
189
266
39
99
61
46
46
24134
24134
24507
24609
102
2013
197
316
44
92
52
47
47
2085
2085
2465
2594
94
2014
170
298
34
68
55
58
58
18423
18423
18753
18902
68
2015
166
343
45
78
72
39
39
17656
17656
17984
18189
79
2016
170
284
49
56
57
57
57
15066
15066
15398
15521
57
2017
178
337
47
87
71
56
56
18192
18192
18560
18754
98
2018
172
295
45
81
59
48
48
19554
19554
19900
20041
85
2019
169
292
39
79
69
52
52
21581
21581
21920
22083
89
1603
2758
366
536
846
881
432
432
173502
173502
176749
178109
2020 Tổng số
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an tỉnh Lâm Đồng (2021)
191
Bảng 6: Tổng số vụ, số đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm bị phát hiện, xử lý
trên địa bàn thành phố Biên Hoà, giai đoạn 2012-2020
Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội
Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy
Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường
NĂM
Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm phát hiện, xử lý
Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu
Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực QLHC về TTATXH
Vụ
Đối tượng
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Vụ
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
Đối tượng
899
300
821
858
112
119
119
541
541
1971
2452
113
2012
889
282
763
712
105
115
115
1561
1561
2952
3252
101
2013
817
213
828
659
72
122
122
1382
1382
2606
3060
69
2014
755
206
583
734
96
204
204
416
416
1677
2041
104
2015
714
189
678
664
69
166
166
995
995
2133
2567
64
2016
678
225
668
1037
102
162
162
3874
3874
5041
5842
101
2017
654
247
691
986
89
137
139
1459
1459
2586
3364
89
2018
632
259
662
954
93
121
126
1537
1537
2642
3372
93
2019
621
243
708
982
84
125
128
1461
1461
2534
3365
86
6659
6402
2164
7586
822
820
1271
1281
13226
13226
24142
29315
2020 Tổng số
Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an tỉnh Đồng Nai (2021)
192