HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN HỮU MẠNH

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM

TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2021

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN HỮU MẠNH

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM

TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Mã số: 9 38 01 06

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. TRƯƠNG HỒ HẢI

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được

trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Hữu Mạnh

MỤC LỤC

Trang

1

8

MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến thực hiện pháp luật về

bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

8 28 29

32

1.2. Nhận xét chung và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu 1.3. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu Chương 2: LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I 2.1. Khái niệm và đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự

an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

32

2.2. Nội dung pháp luật và các hình thức thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự

an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

48

2.3. Các tiêu chí đánh giá và các điều kiện để thực hiện pháp luật về bảo đảm

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

53

62

72

2.4. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị ở một số quốc gia và những giá trị tham khảo cho Việt Nam Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM 3.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

72

3.2. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội

trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam

89

108

127

3.3. Nguyên nhân kết quả đạt được và những hạn chế trong thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam Chương 4: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM 4.1. Quan điểm, phương hướng nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật bảo đảm

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

127

4.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn

xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

KẾT LUẬN CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

136 152 156 157 172

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADPL

Áp dụng pháp luật

ATXH

An toàn xã hội

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CAND

Công an nhân dân

CHPL

Chấp hành pháp luật

CSND

Cảnh sát nhân dân

ĐT

Đô thị

HĐND

Hội đồng nhân dân

KT-XH

Kinh tế - xã hội

Nghị định

Quyết định

QH

Quốc hội

SDPL

Sử dụng pháp luật

TAND

Toà án nhân dân

THPL

Thực hiện pháp luật

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

TTPL

Tuân thủ pháp luật

UBND

Uỷ ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1: Chỉ số tội phạm một số đô thị loại I Việt Nam năm 2020

72

Bảng 3.2: Số lượng tội phạm và vi phạm pháp luật về TTATXH của một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020

73

Bảng 3.3: Chỉ số tội phạm ở Việt Nam năm 2012-2020

73

Bảng 3.4: Chỉ số xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật ở các đô thị loại I giai đoạn 2012-2019 (theo thang điểm 10)

76

Bảng 3.5: Tỷ lệ số đơn vị hành chính cơ sở có tủ sách pháp luật trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam

78

Bảng 3.6: Các vi phạm pháp luật trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020

84

Bảng 3.7: Chỉ số an toàn xã hội một số đô thị loại I Việt Nam năm 2020

86

Bảng 3.8: Bảng so sánh mức độ an toàn tại một số đô thị loại I và đô thị đặc biệt

87

Bảng 3.9: Chỉ số an toàn xã hội Việt Nam năm 2012-2020

87

Bảng 3.10: Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam

88

Bảng 3.11: Số vụ và đối tượng phạm tội so với tổng số vụ và đối tượng vi phạm pháp luật trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020

89

Bảng 3.12: Tỷ lệ doanh nghiệp bị mất trộm tài sản những năm gần đây

97

Bảng 3.13: Tỷ lệ người bị vòi tiền tố cáo và mức tiền đòi hối lộ mà người dân bắt đầu tố cáo

101

Bảng 3.14: Số vụ và đối tượng vi phạm pháp luật về môi trường và ma tuý trên địa bàn Đà Nẵng, Huế, Hạ Long, Đà Lạt và Biên Hoà

104

Bảng 3.15: So sánh mức độ an toàn đối với cuộc sống của người dân tại một số đô thị loại I và đô thị đặc biệt năm 2019

106

Bảng 3.16: Chỉ số trật tự an toàn xã hội giai đoạn 2012-2020

107

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang

Biểu đồ 2.1: Chỉ số tội phạm ở Singapore, Tokyo và Seul

63

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ tội phạm trên 100000 dân ở Singapore và Seul

64

Biểu đồ 2.3: Chỉ số an toàn ở Singapore, Tokyo và Seul

67

Biểu đồ 3.1: Chỉ số chất lượng các văn bản pháp quy của Việt Nam

77

Biểu đồ 3.2: Số vụ và số đối tượng phạm tội bị phát hiện, xử lý trên địa bàn 13 đô thị loại I giai đoạn 2012-2020

90

Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ doanh nghiệp ngành dệt may không chấp hành các quy định pháp luật

94

Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ nhà máy dệt may không chấp hành các quy định liên quan đến phòng chống cháy, nổ

95

Biểu đồ 3.5: Số vụ vi phạm pháp luật về môi trường bị phát hiện xử lý trên địa bàn 13 đô thị loại I giai đoạn 2012-2020

96

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án

Trật tự an toàn xã hội (TTATXH) là trạng thái mong muốn của bất kỳ xã hội

nào. Ở nước ta, ngay từ những năm đầu tiên thành lập nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến công tác giữ gìn an ninh trật tự.

Sắc lệnh số 23/NV ngày 21/02/1946 đã xác định nhiệm vụ của công an là: bảo vệ

“an toàn quốc gia” và giữ gìn “trị an, trật tự” (khoản 1, 2, Điều thứ hai). Sau này,

Bộ Chính trị đưa ra nhiều Nghị quyết nhấn mạnh đến việc giữ gìn TTATXH như:

Nghị quyết số 31/BCT của Bộ Chính trị, về “Nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị và

bảo đảm TTATXH trong tình hình mới” (năm 1980); Hội nghị Trung ương 8 khóa

XI ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình

hình mới (năm 2013). Điều đó cho thấy, bảo đảm TTATXH là một trong những

nhiệm vụ trọng tâm của của các cấp chính quyền và các cơ quan chức năng, tuy

nhiên, đây là một trong những nhiệm vụ khó khăn và phức tạp bởi mốn đạt đến

trạng thái xã hội ổn định cần không chỉ hệ thống quy phạm pháp luật hoàn thiện mà

còn là sự thực hiện pháp luật (THPL) một cách nghiêm minh với các quy chuẩn đạo

đức xã hội được tuân thủ nghiêm ngặt... Có thể nói thực hiện pháp luật là một trong

các yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tình hình TTATXH của bất cứ một địa phương

hay quốc gia nào.

Trong những năm qua, người dân và các tổ chức tuân thủ, chấp hành các quy

định pháp luật nói chung, pháp luật liên quan đến đảm bảo TTATXH nói riêng

tương đối tốt; đồng thời các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã và đang thực hiện

tương đối đầy đủ chức năng và thẩm quyền của mình trong đảm bảo TTATXH, qua

đó góp phần vào bảm đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam nói

riêng và gìn giữ TTATXH của cả đất nước nói chung, tạo môi trường hoà bình, ổn

định, trật tự an toàn cho các chủ thể trong xã hội, thúc đẩy phát triển KT-XH.

Tuy nhiên, trong quá trình đô thi hoá mạnh mẽ như hiện nay ở nước ta, nhiều

vấn đề KT-XH nảy sinh ảnh hưởng đến TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I điều

này ảnh hưởng trực tiếp đến việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô

thị loại I ở Việt Nam hiện nay. Những năm gần đây số vụ và số đối tượng vi phạm

pháp luật trên địa bàn các đô thị loại I có diễn biến phức tạp, một số vụ và số đối

2

tượng vi phạm pháp luật về TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, như Hải Phòng, Đà

Nẵng, Cần Thơ, Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn, Thái Nguyên, Vũng Tàu, Hạ

Long, Biên Hòa, Mỹ Tho, Thanh Hoá, v.v.. có chiều hướng gia tăng trong giai đoạn

2014-2020; bên cạnh đó tỷ lệ người và tổ chức trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt

Nam không tuân thủ chấp hành các quy định pháp luật về TTATXH chiếm tỷ lệ

tương đối cao, đặc biệt là các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực ma túy, mại

dâm, lô đề, cờ bạc hay thực hành mê tín dị đoan, v.v...; tình hình tội phạm về

TTATXH vẫn còn diễn biến phức tạp, số vụ và số đối tượng vi phạm pháp luật hình

sự luôn duy trì ở mức cao, những năm gần đây, mỗi năm cả nước phát hiện trung

bình trên hàng chục nghìn vụ phạm tội các loại, trong đó khoảng 70% các vụ liên

quan đến các vi phạm về TTATXH, chủ yếu tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn

như: Hải Phòng, Cần Thơ, v.v.. Các đối tượng này hoạt động rộng khắp các vùng

trong cả nước, nhưng tập trung chủ yếu ở 5 thành phố lớn trực thuộc Trung ương và

18 tỉnh. Riêng tội phạm hình sự tại 5 thành phố lớn chiếm khoảng 22%, chiếm gần

1/4 số vụ việc trong cả nước (chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2018) [114].

Dự báo trong thời gian tới, nếu không có giải pháp tốt thì tình hình vi phạm

pháp luật, đặc biệt các tội phạm liên quan đến TTATXH ở các đô thị loại I ngày

càng phát triển với diễn biến ngày càng phức tạp, “tuy đã giảm về số vụ, nhưng tính

chất rất nghiêm trọng, có lúc, có nơi gây bất an, lo lắng và bất an trong nhân dân”

114], gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân và sự phát triển KT-XH của

các đô thị nói riêng, của cả nước nói chung. Vì vậy, thúc đẩy và nâng cao chất

lượng THPL về TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I nhằm phòng, chống các

hành vi phạm pháp luật liên quan đến TTATXH của nước nói chung và trên địa bàn

các đô thị loại I nói riêng là vấn đề cấp thiết luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm

thực hiện.

Từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn nghiên cứu đề tài “Thực hiện

pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

hiện nay” làm luận án tiến sĩ ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.

Những phát hiện mới của luận án sẽ đáp ứng yêu cầu cấp thiết trên cả phương diện

lý luận và thực tiễn về THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I ở

Việt Nam hiện nay.

3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu:

Luận án xây dựng cơ sở lý luận THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô

thị loại I, từ đó luận án phân tích, đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong thời gian qua và đề xuất quan điểm,

phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng THPL về đảm bảo TTATXH trên

địa bàn đô thị loại I ở nước ta trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn

THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, từ đó xác định những vấn đề

luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ.

- Làm rõ cơ sở lý luận về việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị

loại I ở Việt Nam.

- Khảo sát, đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô

thị loại I ở nước ta, từ đó rút ra những nhận xét đánh giá về kết quả đạt được; hạn

chế trong việc THPL về bảo đảm TTATXH địa bàn đô thị loại I ở nước ta.

- Đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng

THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong thời

gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn THPL

về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Về nội dung: luận án tập trung đánh giá việc THPL về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I, bao gồm bốn hình thức: tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp

dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.

- Về không gian: Luận án nghiên cứu vấn đề THPL về bảo đảm TTATXH trên

địa bàn của 22 đô thị loại I của Việt Nam, trong đó, luận án tập trung khảo sát thực

tiễn THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn của các các đô thị điển hình sau: (1)

4

các đô thị là thành phố trực thuộc trung ương (Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ); (2)

các đô thị ở các tỉnh ở vùng Duyên hải Miền Trung và Tây Nguyên (Thanh Hoá,

Huế, Vinh, Đà Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột); (3) các đô thị ở các

tỉnh Miền Bắc (Thái Nguyên, Nam Định, Việt Trì, Hạ Long); (4) các đô thị ở các

tỉnh Miền Nam (Vũng Tàu, Biên Hoà, Mỹ Tho).

- Về thời gian: Luận án đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH tại

các đô thị loại I của Việt Nam từ 2012 đến 2020 và đề xuất giải pháp đến năm 2030.

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

Luận án sử dụng phương pháp luận của phép duy vật biện chứng, duy vật lịch

sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan

điểm, nguyên tắc của Đảng, Nhà nước về THPL và bảo đảm TTATXH.

4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

4.2.1. Phương pháp lịch sử - logic

Phương pháp này được NCS sử dụng để phân tích, đánh giá thực trạng THPL

về bảo đảm TTATXH ở đô thị loại I Việt Nam trong tiến trình phát triển KT-XH và

đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô

thị loại I ở nước ta trong thời gian tới.

4.2.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp

NCS sử dụng phương pháp này để làm rõ cơ sở lý luận về THPL về bảo đảm

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I và phân tích, đánh giá thực trạng THPL về bảo

đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I Việt Nam trong thời gian qua để chỉ rõ

những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó; từ

đó đề xuất giải pháp thúc đẩy và nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I Việt Nam trong thời gian tới.

4.2.3. Phương pháp phân tích tài liệu

Luận án phân tích các tài liệu như sách, báo, tạp chí, các số liệu thống kê, báo

cáo của các cơ quan chức năng về tình hình vi phạm pháp luật; các báo cáo, đánh

giá việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của các nhân, tổ chức; việc THPL

của các cơ nhà nước nhằm phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài

5

4.2.4. Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia

NCS tham khảo các ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực luật học, trong

lĩnh vực hoạt động tư pháp như cán bộ công an, tòa án, viện kiểm sát hay cán bộ các

cơ quan quản lý hành chính nhằm tìm hiểu quan điểm của họ về hệ thống pháp luật

về bảo đảm TTATXH, cũng như thực tiễn THPLvề bảo đảm TTATXH trên địa bàn

các đô thị loại I của các cơ quan này.

4.2.5. Phương pháp so sánh, thống kê

NCS sử dụng các phương pháp này để thống kê các số liệu THPL về bảo đảm

TTATXH của các chủ thể trên địa bàn độ thị loại I trong thời gian qua, từ đó so

sánh sự khác biệt giữa các năm, cũng như giữa các địa bàn các đô thị loại I làm cơ

sở để đánh gia kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế trong THPL ở các địa bàn

này trong thời gian qua.

4.2.6. Phương pháp nghiên cứu điển hình

Nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp này để khảo sát đánh giá việc THPL về

bảo đảm TTATXH ở một số địa bàn đô thị loại I, như các thành phố trực thuộc

trung ương và một số tỉnh trong tổng số 22 đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay để làm

cơ sở khái quát thực tiễn THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I

nước ta thời gian qua; đồng thời luận án còn phân tích một số vụ vi phạm pháp luật

điển hình để làm rõ những nhận xét, đánh giá về những hạn chế trong THPL về bảo

đảm TTATXH ở một số địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam thời gian qua.

4.2.7. Phương pháp dự báo khoa học

Nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp này để dự báo tình hình THPL về bảo

đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I nước ta trong thời gian tới, đặc biệt là ý

thức pháp luật của các chủ thể và tình hình vi phạm pháp luật TTATXH trên địa

bàn đô thị loại I trong thời gian tới làm cơ sở đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm

nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTAXH trên địa bàn đô thị loại I thời gian

tới ở nước ta.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận án

Luận án là công trình khoa học có những đóng góp quan trọng cả về mặt lý

luận và thực tiễn.

6

- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện và làm

phong phú thêm lý luận THPL về đảm bảo TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.

- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ thực tiễn

THPL về đảm bảo TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay; đồng

thời những quan điểm, giải pháp được đề xuất trong luận án sẽ là những tham vấn

giúp các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương ở các đô thị loại I có thể

nghiên cứu, áp dụng vào thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của đề

tài luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu

giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức THPL

về đảm bảo TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam.

6. Các điểm mới của đề tài

So với các công trình nghiên cứu liên quan đến THPL về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I, kết quả nghiên cứu của luận án có những điểm mới sau:

- Luận án đã bổ sung hoàn thiện các vấn đề lý luận liên quan đến THPL về

bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, trong đó làm rõ nội hàm khái niệm và

nội dung của THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I; và các tiêu chí

đánh giá hoạt động THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I và các

điều kiện để bảo đảm THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.

- Luận án đã chỉ rõ trong những năm qua, việc THPL về bảo đảm TTATXH

các nhóm chủ thể khác nhau trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam thực hiện tương

đối tốt, tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận người dân, doanh nghiệp, tổ chức và cán bộ,

công chức chưa thực hiện tốt các quy định pháp luật, từ đó đã gây ra những vụ việc

làm mất TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở nước ta.

- Luận án đã luận giải và đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm

thúc đẩy và nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị

loại I ở nước ta trong thời gian tới, đặc biệt trong đó chúng trọng đến hoàn thiên các

quy định pháp luật về TTATXH và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ

biến giáo dục pháp luật về TTATXH.

7

7. Bố cục của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, các công trình đã công bố của tác giả liên quan

đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được cấu trúc thành

4 chương, 12 tiết.

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật

về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I và những vấn đề đặt ra

Chương 2: Lý luận thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên

địa bàn đô thị loại I

Chương 3: Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội

trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

Chương 4: Quan điểm, phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng

thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở

Việt Nam

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI

TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC

HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN

ĐÔ THỊ LOẠI I

1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận thực hiện pháp

luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

Trong nhiều năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc THPL trên

nhiều khía cạnh và giác độ khác nhau, tuy nhiên các công trình nghiên cứu cơ bản

thống nhất về nội hàm và các hình thức thực hiện pháp luật.

Các tác giả của Trường Đại học Luật Hà Nội trong “Giáo trình lý luận nhà

nước và pháp luật” (2009) [31], Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội trong “Giáo

trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật” (2007) [58], Viện Nhà nước và Pháp

luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong công trình “Lý luận chung về

nhà nước và pháp luật, tập 1” (2006); Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu trong tác

phẩm “Lý luận nhà nước và pháp luật”; công trình “Những vấn đề lý luận về thực

hiện pháp luật và áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay” do nhà xuất bản Hồng

Đức ấn hành năm 2018, v.v.. đã đề cập đến khái niệm cũng như các hình thức của

THPL. Theo đó khái niệm THPL đều được các tác giả xác định như là tổng hợp các

hoạt động có mục đích của các cơ quan, các tổ chức và các cá nhân nhằm đưa pháp

luật đi vào đời sống. Bốn hình thức cơ bản của THPL là: tuân thủ pháp luật; chấp

hành pháp luật; sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.

Ngoài ra, một số công trình khác nghiên cứu trực diện vào vấn đề thực hiện

pháp luật, như: “Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn” do nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2009 trình bày một số vấn đề lý

luận chung về áp dụng pháp luật, những vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn áp

dụng pháp luật trong một số lĩnh vực cụ thể như hình sự, dân sự, hành chính, đất

đai; “Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Đoan

9

do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2009 đã phân tích và làm rõ khái

niệm và mục đích của việc thực hiện pháp luật; áp dụng pháp luật; quy trình thực

hiện và áp dụng pháp luật, những bảo đảm thực hiện pháp luật; áp dụng pháp luật

tương tự.

Trên cơ sở lý luận chung về THPL, nhiều tác giả đã nghiên cứu việc THPL

trên các lĩnh vực cụ thể, như: tác giả Phạm Hoài Thu trong luận án “Thực hiện pháp

luật bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa”

(2020), Nguyễn Thị Định trong luận án “Thực hiện pháp luật về tôn giáo tại các

tỉnh khu vực Tây Nguyên” (2020), Lê Minh Đức trong luận án “Thực hiện pháp luật

về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện

nay” (2020), Vũ Ngọc Hà trong luận án “Thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành

chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” (2019), Phạm Thị

Ngọc Dung trong luận án “Tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở

Việt Nam hiện nay” (2017), Lê Thị Thúy Bình trong luận án tiến sĩ luật học “Thực

hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam” (2016), Nguyễn Trần Điện

trong luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề

ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng Việt Nam” (2016), Đỗ Thị Thơm trong luận án

tiến sĩ luật học “Thực hiện pháp luật về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đối với

người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay” (2015),

Trần Tiến Hải trong luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện pháp luật về đấu giá quyền

sử dụng đất ở các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện nay” (2015), Nguyễn Văn Linh

trong luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính

của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay” (2015), Nguyễn Hồng

Chuyên trong luận án “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2014), v.v.. Với cách tiếp

cận khái niệm và các hình thức của THPL như trên các công trình nghiên cứu về

THPL đều hướng đến mô tả, đánh giá việc THPL trên một lĩnh vực nhất định tại địa

bàn cụ thể trong đời sống xã hội. Đặc biệt trong đó, vấn đề áp dụng pháp luật được

các công trình được nghiên cứu và phân tích tương đối kỹ, đây là hình thức THPL

trong đó nhà nước, thông qua cơ quan, cán bộ nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ

chức xã hội được nhà nước trao quyền, tổ chức cho các chủ thể thực hiện quyền

10

hoặc nghĩa vụ do pháp luật quy định hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của

pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt quan hệ

pháp luật. Vì thế, để đánh giá việc áp dụng pháp luật, một số nghiên cứu căn cứ vào

bản án do tòa án các cấp ban hành hoặc quyết định xử lý vi phạm hành chính của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đó chất lượng áp dụng pháp luật được đánh giá

thông qua các tiêu chí như: Xét xử thấu tình đạt lý; Việc áp dụng pháp luật phải

thực sự dân chủ, minh bạch, bảo vệ các quyền lợi chính đáng hợp pháp của công

dân; Việc áp dụng pháp luật phải góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân

và Việc áp dụng pháp luật phải góp phần tích cực vào việc thực hiện đường lối

chính sách của Đảng và nhà nước [62].

Như thế, các công trình này đều phân tích, đánh giá thực trạng THPL theo các

hình thức của việc THPL như: tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật.

Tuy nhiên việc đánh giá từng loại hình THPL hay việc đánh giá sự tác động qua lại

của các loại hình THPL cho đến nay vẫn chưa được các tác giả chú trọng phân tích,

đánh giá trong từng lĩnh vực nghiên cứu ở Việt Nam.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật

Thứ nhất, các công trình đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH trên

địa bàn độ thị loại I một cách tổng thể.

Cuốn sách “Thực trạng và phương sách nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật

an toàn thực phẩm của một số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại Hà Nội” của

tác giả Cao Thị Hoa (2016) đã phân tích, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật an

toàn thực phẩm của một số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại Hà Nội. Đánh giá

hiệu quả giải pháp can thiệp nâng cao việc thực thi pháp luật về an toàn thực phẩm

của một số cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại địa bàn trên thành phố Hà Nội.

Một số công trình khác ở Việt Nam đã đề cập đến hoạt động quản lý nhà nước

về TTATXH, đây là hoạt động THPL, trong đó chủ yếu tập trung vào hình thức

tuân thủ, thi hành và áp dụng pháp luật. Như luận án tiến sĩ “Quản lý nhà nước về

trật tự an toàn xã hội theo chức năng của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về

trật tự xã hội Công an tỉnh Ninh Bình” của tác giả Đinh Ngọc Khoa (2020) đã

nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện công tác quản lý nhà nước về

11

TTATXH theo chức năng của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã

hội nói chung, quản lý nhà nước về TTATXH theo chức năng của lực lượng Cảnh

sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Ninh Bình nói riêng; luận án

“Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội theo chức năng của lực lượng Cảnh

sát cơ động” của tác giả Nguyễn Văn Mạnh (2018) bổ sung, góp phần hoàn thiện lý

luận về quản lý nhà nước về TTATXH theo chức năng của lực lượng Cảnh sát cơ

động; làm phong phú thêm hệ thống lý luận của ngành Công an trong bảo vệ an

ninh quốc gia, bảo đảm TTATXH đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung;

luận án “Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội của lực

lượng công an nhân dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Phạm Hùng Sơn

(2017) đã khái quát được những vấn đề cơ bản thuộc lý luận về quản lý nhà nước

nói chung, quản lý nhà nước về TTATXH nói riêng như: khái niệm, nội dung, các

quan điểm cần quán triệt, các phương pháp tiến hành, chủ thể quản lý. Luận án đã

làm rõ vai trò, vị trí chính quyền cấp cơ sở, đặc biệt là nhiệm vụ, chức năng Công

an tỉnh trong quản lý nhà nước về TTATXH tại địa bàn. Luận án đã khái quát,

lược sử quá trình hình thành, phát triển và những đặc điểm của tỉnh Bắc Ninh có

liên quan, tác động và ảnh hưởng đến hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà

nước về TTATXH của hệ thống chính trị tỉnh nói chung và trực tiếp là Công an

tỉnh nói riêng; luận án “Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên

địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ” của tác giả Đào Xuân Thành; luận án “Hoạt

động của lực lượng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội trong phòng

ngừa tội phạm về ma túy trên địa bàn các tỉnh, thành phố miền Đông Nam bộ”

của tác giả Nguyễn Duy Hiệu; luận án “Quản lý cư trú đối với người nước ngoài

trên địa bàn thành phố Hà Nội theo chức năng của lực lượng Cảnh sát Quản lý

hành chính về trật tự xã hội” của tác giả Trương Thị Hồng Nhung; v.v.. Các công

trình đã phân tích, đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn

các tỉnh ở Việt Nam, đặc biệt việc thực hiện chức năng này của lực lượng an ninh

chuyên trách, qua đó tác giả các công trình này cho thấy, để thực hiện tốt pháp luật

về bảo đảm TTATXH, các cơ quan chức năng phải phối hợp chặt chẽ với nhau

trong đó lực lượng công an đóng vai trò nòng cốt, đồng thời phải phát huy ý thức

chấp hành pháp luật của cá nhân, tổ chức.

12

Thứ hai, các công trình đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH trên

địa bàn các độ thị loại I theo bốn hình thức THPL.

Một là, các công trình đề cập đến việc tuân thủ pháp luật.

Tuân thủ pháp luật thường được hiểu là việc các chủ thể pháp luật kiềm

chế không thực hiện điều pháp luật cấm. Nghiên cứu về việc tuân thủ pháp luật ở

Việt Nam trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu sau:

Liên quan đến sự gia tăng của tình hình tội phạm, Tác giả Phạm Thị Thoa

trong luận án “Điều tra tra tội phạm cướp giật tài sản theo chức năng của lực lượng

Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội”, chỉ ra rằng: Cướp giật là một trong

những vấn nạn tại các đô thị lớn, đặc biệt là TP Hồ Chí Minh trong thời gian vừa

qua [96]. Với các số liệu về tội phạm cướp giật tài sản, đặc điểm hình sự của tội

phạm cướp giật tài sản tác giả Phạm thị Thoa chỉ cho chúng ta thấy rằng việc tuân

thủ pháp luật của một bộ phận người dân vẫn chưa cao. Cùng quan điểm với tác giả

Phạm Thị Thoa nhiều công trình nghiên cứu cũng chỉ cho chúng ta thấy rằng các

loại tội phạm không ngừng tăng lên trong những năm qua, như tác giả Dương Thị

Phương Nam chỉ ra rằng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh số lượng các vụ phạm tội giết

người, cố ý gây thương tích có xu hướng gia tăng. Ngoài các vụ giết người mang

tính nhất thời thì còn tồn tại những vụ giết người do băng nhóm thanh toán lẫn nhau

[68, tr.35]. Bên cạnh đó các tội danh liên quan đến xâm hại tình dục, đặc biệt xâm

hại tình dục trẻ em xuất hiện ngày càng nhiều, các tội liên quan đến trật tự xã hội có

nhiều diễn biến phức tạp [68, tr.36].

Báo cáo của Bộ Công an - Thành ủy - UBND TP HCM (2015), chỉ ra rằng các

vụ phạm pháp hình sự có xu hướng phát triển trên đại bàn toàn quốc. Tổ chức Minh

bạch thế giới đánh giá tình trạng tham nhũng ở Việt Nam đang diễn ra với mức

nghiêm trọng hơn. Các nghiên cứu về tham những chỉ ra rằng nếu trước đây tham

nhũng chủ yếu ở lĩnh vực kinh tế thì hiện nay tình trạng đã phổ biến ngay cả trong

các lĩnh vực được coi là đạo lý như giáo dục, y tế, thực hiện chính sách xã hội,

phòng chống dịch bệnh và cả trong các cơ quan bảo vệ pháp luật như tòa án, công

an, viện kiểm sát và tham nhũng cả ở các cơ quan có chức năng phòng chống tham

nhũng [89]. Cùng với tội phạm, các tệ nạn xã hội cũng có diễn biến phức tạp trên

13

nhiều đại bàn. Nghiên cứu của tác giả Trần Đại Quang và các cộng sự (2015) chỉ ra

rằng tình trạng mại dâm, nghiện ma túy và cờ bạc đang diễn ra khá phổ biến.

Như vậy, các nghiên cứu cho thấy sự phát triển về quy mô và tính chất của các

loại hình tội phạm, tệ nạn xã hội tại nhiều địa bàn trong cả nước những năm qua cho

chúng ta thấy khía cạnh của sự tuân thủ pháp luật của người dân. Tuy nhiên các

nghiên cứu mới chỉ cho chúng ta thấy được quy mô, tính chất của tội phạm mà chưa

thấy hết các chiều cạnh để có thể đánh giá đầy đủ mức độ tuân thủ pháp luật của

người dân, do đó cần phải có những đánh giá một cách rõ ràng và cụ thể hơn về

mức độ tuân thủ pháp luật của người dân tại các địa bàn trên nhiều lĩnh vực khác

nhau của cuộc sống.

Cho đến nay phần lớn các công trình mới chỉ đánh giá một cách tương đối

khái quát mà chưa chỉ ra cụ thể về mức độ tuân thủ pháp luật của các nhóm dân cư

khác nhau trên các địa bàn khác nhau, trong các lĩnh vực khác nhau. Điều này đòi

hỏi phải có được các số liệu thống kê chi tiết cụ thể về mức độ vi phạm pháp luật

của các nhóm dân cư trên từng loại địa bàn, trong từng lĩnh vực cụ thể. Đây là một

thách thức với các nhà nghiên cứu bởi không dễ dàng tiếp cận được với nguồn số

liệu này trong bối cảnh khi mà các số liệu về tội phạm đặc trưng, loại hình tội phạm

ít được công khai, mặt khác, chúng ta không có các điều tra về tình hình tội phạm

ẩn, điều này gây khó trong đánh giá chính xác mức độ tuân thủ pháp luật của các

nhóm dân cư thông qua các số liệu về tội phạm và tệ nạn xã hội.

Hai là, các công trình nghiên cứu liên quan đến chấp hành pháp luật.

Chấp hành pháp luật là hình thức của việc THPL trong đó các chủ thể pháp

luật thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Việc chấp

hành pháp luật có thể được thực hiện thông qua ý thức tự giác của các chủ thể pháp

luật nhưng nó cũng được thực hiện thông qua biện pháp cưỡng chế của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền. Tác giả Dương Thị Phương Nam (2014) chỉ ra rằng vẫn còn

tình trạng người dân chưa tuân thủ, chấp hành pháp luật. Tình trạng chống người thi

hành công vu ̣ có chiều hướng gia tăng. Các hành vi chống đối thường là chống đối

việc thi hành pháp luật của lực lượng cảnh sát điều tra, cảnh sát giao thông, kiểm

lâm, công an xã. Kết luận của Dương Thị Phương Nam chỉ cho chúng ta thấy rằng

cần phải có số liệu thống kê so sánh để tiếp tục đánh giá về tình trạng, nguyên nhân

14

của các hành vi chống người thi hành công vụ. Tại sao việc chống người thi hành

công vụ lại tập trung vào việc thi hành công vụ của một số lực lượng, điều này do

các đối tượng liên quan hay do tính chất của sự việc hay bắt nguồn từ quá trình xử

lý vấn đề của lực lượng chức năng?

Tuy nhiên để đánh giá được thực trạng chấp hành pháp luật của chủ thể pháp

luật là việc làm tương đối khó khăn bởi công việc này cần có nhiều dữ liệu liên

quan đến việc các chủ thể pháp luật thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình một

cách tự nguyện hay cưỡng bức. Do đó hiện nay còn rất ít công trình nghiên cứu có

thể đưa ra được các số liệu, dẫn chứng một cách thuyết phục để chỉ ra thực trạng

chấp hành pháp luật của cá nhân và tổ chức.

Thứ ba, các công trình nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng pháp luật.

Sử dụng pháp luật thường được hiểu là hình thức THPL trong đó các chủ thể

pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình do pháp luật quy định hoặc cho phép.

Việc sử dụng pháp luật liên quan đến việc đảm bảo quyền và tự do pháp lý của các

cá nhân và tổ chức, có nghĩa là nó liên quan đến việc thực hiện những hành vi mà

pháp luật cho phép chủ thể thực hiện. Khác với hình thức chấp hành pháp luật có

thể được thực hiện một cách tự nguyện hay cưỡng chế thì hình thức sử dụng pháp

luật, các chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện tuỳ theo ý chí

của mình.

Cho đến nay, không có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá mức độ sử dụng

pháp luật của các cá nhân và tổ chức trong việc bảo vệ quyền và tự do pháp lý của

mình. Do vậy đây vẫn là một khoảng trống cần có nghiên cứu nhằm tìm hiểu mức

độ sử dụng pháp luật của các nhóm xã hội trong các lĩnh vực khác nhau, ở các vùng

miền khác nhau.

Thứ tư, các công trình nghiên cứu liên quan đến áp dụng pháp luật.

Công trình “Áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

xuất, nhập cảnh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long” của tác giả Nguyễn Việt Thanh và các

cộng sự do nhà xuất bản Lý luận Chính trị ấn hành năm 2020 đã phân tích, trình bày

lý luận áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xuất, nhập

cảnh. Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng việc áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực xuất, nhập cảnh hiện nay tại tỉnh Vĩnh Long; từ đó đề

15

xuất những giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp

luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xuất, nhập cảnh trên phạm vi cả

nước nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng.

Một số tác giả khác, như tác giả Dương Văn Thắng, trong luận án tiễn sĩ “Áp

dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án quân sự ở Việt

Nam hiện nay” (2017) đã phân tích, trình bày cơ sở lý luận, tìm hiểu thực trạng và

đề xuất giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự

của toà án quân sự ở Việt Nam; tác giả Lê Văn Thành, trong luận án tiến sĩ “Áp

dụng pháp luật trong quản lý nhà nước về đất đai của Uỷ ban nhân dân ở thành

phố Hồ Chí Minh hiện nay” (2012) đã làm rõ cơ sở lý luận của việc áp dụng pháp

luật trong quản lý nhà nước về đất đai của Uỷ ban nhân dân. Đánh giá thực trạng áp

dụng pháp luật trong quản lý nhà nước về đất đai của Uỷ ban nhân dân Tp. Hồ Chí

Minh, trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm và giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng

pháp luật trong quản lý nhà nước về đất đai của Uỷ ban nhân dân ở thành phố Hồ

Chí Minh; tác giả Đàm Cảnh Long trong bài viết “Hoạt động áp dụng pháp luật nội

dung trong giải quyết các khiếu kiện hành chính ở Việt Nam. Thực trạng và giải

pháp” (2012) đã đánh giá hình thức áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án

hành chính thông qua tỷ lệ các bản hành chính của Tòa án các cấp bị hủy, bị cải sửa.

Theo đó, tác giả này chỉ ra rằng chất lượng của việc áp dụng pháp luật trong xử lý

vụ án hành chính ở Việt Nam chưa cao thể hiện qua tỷ lệ các bản hành chính của

tòa án các cấp bị hủy, bị cải sửa còn cao. Bên cạnh việc vi phạm các quy định tố

tụng hành chính, thì tình trạng các tòa án ra các bản án hành chính không đúng quy

định của pháp luật cũng còn nhiều [112]. Theo tác giả này tỷ lệ các vụ án hành

chính đã xét xử bị tòa án cấp trên hủy hoặc sửa vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể và xảy ra ở

hầu hết các loại khiếu kiện, trong đó nhiều nhất là các khiếu kiện đối với quyết định

hành chính, hành vi hành chính về quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai,

xử phạt vi phạm hành chính và quản lý nhà nước về thuế.

Trong lĩnh vực đảm bảo TTAXH, đặc biệt lĩnh vực an toàn giao thông, một số

tác giả, như: Trần Long Nhi trong Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật hình sự Việt

Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên đại bàn tỉnh Đồng

Tháp” (2015), Nguyễn Thanh Hải trong luận văn thạc sĩ “Tội gây rối trật tự công

16

cộng trong luật hình sự Việt Nam”(2010), Bùi Quang Trung trong luận văn thạc sĩ

“Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt

Nam” (2011), v.v.. đã chỉ rõ việc áp dụng các quy định pháp luật hiện hành để xử lý

hành vi gây rối trật tự công cộng trên địa bàn một số tỉnh chưa được thống nhất, đôi

khi còn có sự nhầm lẫm với các tội danh khác như: còn có trường hợp chưa rõ ràng

giữa phạm tội gây rối trật tự công cộng hay đồng phạm tội giết người hay sự nhầm

lẫn giữa tội gây rối trật tự công cộng với tội đua xe trái phép. Một số trường hợp

định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội có liên quan đến tội gây rối trật tự

công cộng còn chưa chính xác; trong quá trình xét xử các vụ án liên quan đến vi

phạm pháp luật giao thông đường bộ, các cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định

không đúng quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra cũng như lỗi

của người vi phạm (nhầm lẫn giữa nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tai nạn; giữa

lỗi hành chính và lỗi hình sự) nên đã truy cứu trách nhiệm hình sự oan đối với

người vi phạm. Một số tác giả cũng chỉ ra rằng các cơ quan tiến hành tố tụng

thường có quan điểm rất khác nhau về việc xử lý đối với các hành vi này cả trong trường hợp phương tiện giao thông đường bộ là ôtô cũng như xe máy. Do quan

điểm khác nhau về đường lối xử lý đối với các bị cáo trong tội xâm phạm trật tự an

toàn giao thông đường bộ, nên trong thực tiễn ở một số địa phương (hoặc một số

Tòa án trong cùng một địa phương) đã xử phạt rất nghiêm khắc đối với các bị cáo,

nhưng ngược lại ở một số địa phương (một số Tòa án) khác lại xử phạt quá nhẹ và

chủ yếu là phạt tù cho các bị cáo được hưởng án treo [110, tr.94]. Thực tế đó, có

nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng các cơ quan chức năng sai sót trong việc áp

dụng pháp luật, như: những sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh,

áp dụng hình phạt, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng [62]; việc đánh giá chứng

cứ không đầy đủ, khách quan, toàn diện; việc lựa chọn không đúng quy phạm pháp

luật phù hợp hay việc phân tích nội dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật cần áp

dụng. Đồng thời sai sót trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, còn do nhiều

thẩm phán không chú ý trong việc xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính

bị khiếu kiện; ngoài ra những thiếu sót trong việc nghiên cứu hồ sơ; việc hiểu không

đúng các quy định pháp luật hay việc xác định tư cách tố tụng chưa đúng, triệu tập

những người tham gia tố tụng chưa đầy đủ cũng là nhân tố dẫn đến chất lượng của

17

việc áp dụng quy định pháp luật chưa cao; đôi khi các cơ quan chức năng- Tòa án

lựa chọn chưa chính xác quy phạm pháp luật, viện dẫn các điều luật còn chưa đầy

đủ [73, tr.52]. Như vậy, các nghiên cứu cho chúng ta thấy rằng có nhiều các chiều

cạnh để có thể đánh giá chất lượng của việc áp dụng các quy định pháp luật. Ngoài

việc dựa vào các số liệu liên quan đến các bản án bị sửa đổi, bị hủy bỏ chúng ta cần

đánh giá chất lượng của các bản án thông qua các tiêu chí khác.

Bên cạnh đó chúng ta cũng cần có nghiên cứu đánh giá việc áp dụng pháp luật

của các cơ quan có thẩm quyền khác như Viện Kiểm sát, Công an. Cho đến nay

không có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá chất lượng của việc áp dụng các quy

định pháp luật của các cơ quan này.

1.1.3. Các công trình nghiên cứu đề cập đến các điều kiện đảm bảo cho việc

thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

Việc thực hiện pháp luật liên quan đến nhiều chủ thể, trong những hoàn cảnh

và điều kiện rất đa dạng do vậy để thực hiện pháp luật đảm bảo TTATXH có hiệu

quả cần nhiều điều kiện từ: “điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá; đạo đức; phong

tục, tập quán, nghệ thuật, các loại quy tắc xã hội khác; yếu tố lợi ích; thói quen, nếp

nghĩ, lối sống; hệ thống chính sách, pháp luật; thái độ, cách thức phục vụ, thực thi

pháp luật của các cơ quan và cá nhân công quyền; khả năng tiếp cận pháp luật, tiếp

cận công lý; điều kiện và môi trường tự nhiên; địa lý; khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng;

kỹ thuật, khoa học và công nghệ; tâm sinh lý; tính cách; lối sống, lối tư duy, vv...

[85, tr.26-31]. Trong những năm qua có một số công trình nghiên cứu đề cập đến

các điều kiện, hay nhân tố ảnh hưởng đến việc THPL.

Tác giả Hoàng Thị Kim Quế (2015) chỉ ra rằng việc thực thi pháp luật của các

cơ quan công quyền cũng như là các phong tục, tập quán, luật lệ có tác động đến ý

thức và hành vi THPL của công dân. Bên cạnh đó tác giả này cũng chỉ ra rằng mức

độ rõ ràng, minh bạch, sự hài hòa, cân bằng các loại lợi ích trong các quy định pháp

luật cũng là một trong các yếu tố rất căn bản tác động đến việc thực hiện pháp luật

của công dân [85, tr.26-31]. Tuy nhiên hạn chế của công trình này là không chỉ ra

những bằng chứng thuyết phục để chứng minh sự tác động của từng nhóm nhân tố

này đến hành vi hay ý thức pháp luật của người dân. Các kết luận chỉ dừng lại ở

những nhận định mang tính phán đoán và suy luận do đó tính thuyết phục chưa cao.

18

Tác giả Đỗ Thị Oanh (2014) cũng chỉ ra các nhân tố tác động đến thực hiện

pháp luật bao gồm: (i) các yếu tố tác động bên trong, thứ nhất, trình độ văn hóa của

chủ thể pháp luật. Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến việc THPL; thứ hai, yếu tố

tâm lý của chủ thể thực hiện pháp luật; thứ ba, phong tục tập quán và lối sống; (ii)

các yếu tố bên ngoài bao gồm: thứ nhất, sự phát triển kinh tế xã hội; thứ hai, hệ

thống pháp luật; thứ ba, yếu tố chính trị; thứ tư, bộ máy nhà nước [75, tr.42].

Như vậy chúng ta thấy có nhiều nhóm nhân tố khác nhau tác động đến các

hình thức THPL, trong đó yếu tố hệ thống pháp luật là một trong các yếu tố quan

trọng được nhắc đến trong nhiều công trình nghiên cứu. Có một hệ thống pháp luật

hoàn thiện là điều kiện căn bản và tiên quyết ảnh hưởng trực tiếp đến việc tuân thủ,

chấp hành, áp dụng, sử dụng pháp luật của người dân và các cơ quan công quyền.

Trong những năm quá có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến mặt mạnh

hay những hạn chế của pháp luật về bảo đảm TTATXH.

1.1.3.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về bảo đảm trật

tự an toàn xã hội

Việc đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật thường được dựa trên

những tiêu chí nhất định. Tác giả Trần Quốc Toàn (2015), dựa trên các tiêu chí

đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về TTATXH như: tính toàn diện, tính đồng

bộ thống nhất, tính khoa học, tính hiệu quả, tính ổn định, tính công khai minh bạch,

tính kịp thời [102]; tác giả Nguyễn Minh Đoan, (2009), đã nêu ra các tiêu chí đánh

giá chất lượng của hệ thống pháp luật cũng như các yêu cầu đối với việc nâng cao

chất lượng của hệ thống pháp luật. Theo đó chất lượng của hệ thống pháp luật được

đánh giá trên các tiêu chí như: Toàn diện và đồng bộ, luôn thống nhất, được ban

hành phù hợp, có khả năng thực hiện được [38]. Như vậy có thể thấy các công trình

nghiên cứu đã đề cập đến hệ thống các tiêu chí để đánh giá chất lượng của hệ thống

pháp luật. Dựa trên những tiêu chí này nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra những

hạn chế cơ bản của hệ thống pháp luật liên quan đến đảm bảo TTATXH như:

Thứ nhất, hạn chế của hệ thống pháp luật về lĩnh vực giữ gìn trật tự công cộng.

Nguyễn Ngọc Anh (2009), “Điều tra cơ bản thực trạng và nhu cầu xây dựng,

hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực an ninh, trật tự đến năm 2020”, Dự án

Điều tra cơ bản, Vụ Pháp chế, Bộ Công an. Kết quả nghiên cứu đã chỉ rõ một số

19

vấn đề lý luận về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến an ninh trật

tự của nước ta. Trong đó Dự án đã đánh giá được thực trạng công tác xây dựng và

hoàn thiện quy phạm pháp lý về an ninh trật tự trong giai đoạn hiện nay; những

tồn tại và hạn chế, nhược điểm đồng thời nêu lên nguyên nhân của những tồn tại

hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân của những tồn tại đó. Dự án đánh giá tổng quát nhu

cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp lý về an ninh trật tự

đến 2020 và chỉ ra các yêu cầu nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy phạm

pháp lý nói trên.

Nguyễn Thanh Hải, (2010), Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự

Việt Nam, luận văn thạc sỹ khoa luật, đại học quốc gia Hà Nội, luận án đã đánh

giá các quy định pháp luật về tội gây rối trật tự công công trong luật hình sự cũng

như đánh giá việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến tội gây rối trật tự

công cộng. Luận án chỉ ra rằng tội gây rối trật tự công cộng có tính phổ biến - diễn

ra tương đối phổ biến, phong phú, diễn ra hàng ngày, hàng giờ, hình thức đa dạng

và ở địa bàn nào cũng có, đặc biệt là các thành phố lớn, đô thị trung tâm, tỉnh lộ.

Đồng thời luận án này cũng chỉ ra rằng còn tồn tại nhiều hạn chế trong các quy

định của pháp luật khiến cho việc xét xử tội liên quan đến gây rối trật tự công

cộng của các cơ quan chức năng còn khó khăn như: việc không phân biệt giữa tội

gây rối trật tự công cộng với các tội như giết người là do các cơ quan có thẩm

quyền chưa ban hành văn bản hướng dẫn “thương tích như thế nào là đáng kể”

nên khi xác định tội danh còn chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

hình sự [40, tr.101].

Đánh giá về các quy định pháp luật liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, tác giả Cù Ngọc Trang và đồng nghiệp

chỉ ra rằng hiện tại các quy định pháp luật xử phạt một số hành vi vi phạm hành

chính còn chung chung, không cụ thể, lại chưa có văn bản hướng dẫn, giải thích nên

dễ gây nhầm lẫn, thiếu thống nhất về cách hiểu cũng như trong quá trình áp dụng.

Còn những điểm vênh giữa các chế tài hành chính áp dụng đối với cùng một hành

vi quy định trong Nghị định 73/2010/NĐ-CP và Nghị định 75/2010/NĐ-CP về xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa [108].

20

Thứ hai, pháp luật trong lĩnh vực phòng chống các loại tội phạm.

Một là, tội danh liên quan đến môi trường.

Những hạn chế của hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường đã

được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu. Theo Nguyễn Hoài Phương, (2009)

các quy định liên quan đến pháp luật về bảo vệ môi trường còn chưa quy định cụ

thể nhằm phân biệt trách nhiệm khắc phục tình trạng môi trường, với trách nhiệm

bồi thường thiệt hại điều này dẫn đến việc hiểu và áp dụng một cách khác nhau về

hai loại trách nhiệm này [80, tr.74]. Các nghiên cứu đánh giá hệ thống luật bảo vệ

môi trường trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự cho thấy những bất hợp

lý trong pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội phạm môi trường khiến cho

các cơ quan chức năng khó có thể xử lý các hành vi xâm hại môi trường do các

doanh nghiệp gây ra. Những hạn chế của luật dẫn đến thực trạng nhiều doanh

nghiệp cố ý, gian dối xả chất thải độc hại ra môi trường, mặc dù bị bắt quả tang

nhưng do hạn chế của luật khiến những hành vi này không bị truy cứu trách nhiệm

hình sự.

Hai là, tội danh liên quan đến tham nhũng.

Các nghiên cứu phòng chống tham nhũng chỉ ra rằng những hạn chế của hệ

thống pháp luật liên quan đến phòng chống tham nhũng là rào cản lớn đối với công

tác phòng chống tham nhũng trong thực tế. Trên thực tế, Luật Phòng, chống tham

nhũng ra đời, tuy nhiên số biện pháp phòng ngừa tham nhũng được đánh giá còn

mang tính hình thức, nhất là việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.

Các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và trong các văn bản pháp luật

chưa đồng bộ, thiếu cụ thể, thiếu biện pháp đảm bảo để thực thi có hiệu quả. Các

quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để

xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức đơn vị mình còn thiếu rõ ràng,

chưa thực chất và không khuyến khích được tính chủ động của người đứng đầu

trong phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng các quy định về minh bạch tài sản,

thu nhập chưa giúp kiểm soát biến động về thu nhập; còn phức tạp về trình tự, thủ

tục công khai bản kê khai, giải trình, xác minh tài sản, thu nhập khi có yêu cầu.

Thiếu quy định về việc xử lý các tài sản, thu nhập không được giải trình một cách

hợp lý và thời hạn người kê khai tài sản, thu nhập có nghĩa vụ giải trình về tài sản,

21

thu nhập. Đồng thời các quy định về trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền

trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giải quyết tố cáo nhằm nâng cao

hiệu quả phát hiện tham nhũng chưa có sự phân định rõ ràng nhằm tăng cường tính

chủ động và điều phối trong hoạt động phối hợp giữa các cơ quan. Những quy định

liên quan đến quá trình phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng bởi các cơ quan có

thẩm quyền còn bị ngắt quãng hay tạo ra những khoảng trống. Việc quy định hành

vi tham nhũng trong Luật Phòng, chống tham nhũng và tội phạm về tham nhũng trong Bộ luật Hình sự chưa hợp lý [91]. Tất cả những hạn chế này tác động khiến

cho hiệu quả xử lý hành vi tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng còn thấp, hiệu

quả phối hợp giữa các cơ quan trong phòng chống tham nhũng còn nhiều hạn chế.

Qua các vụ án lớn đã xử lý liên quan đến tham nhũng cho thấy, các đối tượng triệt

để lợi dụng những sơ hở trong cơ chế, chính sách để thông đồng, tạo ra các “nhóm

lợi ích”, hoặc móc ngoặc giữa khu vực nhà nước và doanh nghiệp tạo “sân sau”,

“công ty gia đình”, dùng ảnh hưởng của mình để đấu thầu cho các dự án, thâu tóm

đất công; cho vay sai nguyên tắc, thế chấp vòng vo, rút tiền của nhà nước gây thiệt

hại đặc biệt nghiêm trọng [7].

Ba là, các tội danh khác.

Báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp

luật; công tác thi hành án và công tác phòng, chống tham nhũng năm 2018 chỉ ra

rằng tội phạm có xu hướng ngày càng trẻ hóa, số vụ thanh thiếu niên phạm tội có xu

hướng ngày càng gia tăng. Do vậy các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng đã đến lúc phải

thay đổi cách hành xử với người phạm tội vị thành niên. Nhiều quốc gia đã hạ tuổi

chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với sự phát triển tâm sinh lý của thanh thiếu

niên để chống lại việc phạm pháp gia tăng trong tuổi niên thiếu hay việc lợi dụng

tuổi vị thành niên để phạm tội. Mặt khác, luật pháp nhiều nước quy định người

phạm tội vị thành niên phải được xét xử và giam giữ riêng để tránh những tác động

tiêu cực đối với lứa tuổi này.

Thứ ba, pháp luật liên quan đến phòng ngừa tệ nạn xã hội.

Tệ nạn xã hội được coi là những hành vi lệch chuẩn thường là vi phạm các

chuẩn mực đạo đức và pháp luật, gây hậu quả xấu về mọi mặt đối với đời sống xã

hội, cản trở sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Những cá nhân và nhóm tham gia

22

vào các tệ nạn xã hội thường có nguy cơ cao trở thành tội phạm. Do vậy, đấu tranh

phòng ngừa các tệ nạn xã hội là một trong những nội dung cơ bản của việc giữ gìn

trật tự, an toàn xã hội. Pháp luật là công cụ xã hội cơ bản để điều chỉnh hành vi

trong đó có những hành vi lệch chuẩn- các loại hình tệ nạn xã hội. Tuy nhiên các

nghiên cứu chỉ ra rằng hệ thống pháp luật, chính sách về phòng, chống tệ nạn xã hội

của nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Các quy định pháp luật về phòng chống

mại dâm đã ban hành gần 15 năm nay nên nhiều điểm không còn phù hợp với

thực tiễn, chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống mại dâm trong tình hình

mới. Các quy định này chưa đảm bảo tiếp cận theo hướng bảo vệ quyền công dân,

quyền con người; khái niệm mại dâm được xác định trong luật còn chưa toàn diện,

các quy định liên quan đến đối tượng, điều kiện bảo đảm các biện pháp phòng

ngừa, vấn đề can thiệp giảm hại, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS, về xử lý vi

phạm, về trách nhiệm quản lý nhà nước của chính quyền cơ sở còn nhiều bất cập

[98]. Các quy định về mức xử phạt trong Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm được

đánh giá chưa thực sự đủ tính răn đe; Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định

người bán dâm chỉ bị cảnh cáo và phạt tiền từ 100.000 đến 300.000 đồng nên mức

phạt này được cho là quá thấp, phạt dường như là “phạt để tồn tại”. Các quy định

về mức phạt đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ có vi phạm chứa chấp hoặc

tham gia vào hoạt động mại dâm theo quy định của Pháp lệnh phòng chống mại

dâm được cho là chưa thảo đáng bởi mức phạt cao nhất hiện nay là 20 triệu đồng.

Do các quy định mức phạt thấp hơn rất nhiều so với lợi ích kiếm được từ các hoạt

động kinh doanh, tổ chức mại dâm nên việc xử phạt hiện nay không có hiệu quả

răn đe làm thay đổi hành vi. Vì vậy, nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ vẫn tiếp tục

tái phạm”, bên cạnh đó các quy định của Pháp lệnh cũng mâu thấn với các quy

định trong Luật phòng chống HIV/AIDS, đặc biệt liên quan đến các biện pháp can

thiệp giảm hại và xóa bỏ kỳ thị.

Các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; các quy định của

Luật Phòng, chống ma túy và một số văn bản quy phạm pháp luật khác hiện nay

còn nhiều bất cập như: Các quy định liên quan đến việc quản lý người nghiện từ đủ

12 tuổi đến dưới 18 tuổi và quản lý người sau cai nghiện; người có hành vi sử dụng

trái phép chất ma túy và người nghiện ma túy; người sử dụng ma túy trái phép là tệ

23

nạn xã hội/người bệnh. Các quy định liên quan đến trình tự và thủ tục đưa người đi

cai nghiện còn phức tạp hơn. Các quy định liên quan đến việc xác định tình trạng

nghiện ma túy ở địa phương được đánh giá là gâu khó khăn cho các chủ thể thực

hiện trong thực tế; các quy định liên quan đến các biện pháp cai nghiện còn chưa

quy định rõ phác đồ điều trị cho người nghiện ma túy tổng hợp [98].

Các quy định liên quan đến áp dụng cai nghiện đối với người nghiện ma túy

còn nhiều bất cập, vì vậy một bộ phận không nhỏ người nghiện lợi dụng việc đăng

ký điều trị thay thế tại trung tâm Methadone thay cho việc vào Trung tâm cai nghiện

bắt buộc. Do các quy định liên quan đến thủ tục cho người cai nghiện còn nhiều

phức tạp, thời gian lập hồ sơ, xét duyệt qua các cấp, các ngành còn dài nên nhiều

người nghiện đã bỏ trốn hoặc đi khỏi địa phương, không chấp hành biện pháp đưa

đi cai nghiện bắt buộc. Các cơ sở y tế chưa có bác sỹ đủ thẩm quyền xác định tình

trạng nghiện đối với các loại ma túy tổng hợp, bán tổng hợp phổ biến hiện nay…

dẫn đến việc đưa người nghiện vào trung tâm cai nghiện còn gặp khó khăn.

Thứ tư, pháp luật quy định liên quan đến phòng ngừa tai nạn.

Tai nạn giao thông ở mức cao trong những năm qua đã gây ra những thiệt hại

lớn về người và tài sản, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân trong đó có những hạn chế

trong các quy định pháp luật về giao thông khiến cho tình trạng tai nạn không giả

xuống mà có chiều hướng gia tăng. Theo các nghiên cứu pháp luật giao thông, đặc

biệt giao thông đường bộ của nước ta hiện còn thiếu đồng bộ, chưa theo kịp sự phát

triển của kinh tế - xã hội và thực tiễn đặt ra trong công tác quản lý.

Những hạn chế trong quy định pháp luật gây ra những khó khăn nhất định cho

các cơ quan chức năng thực thi luật trong thực tế. Ví dụ việc thực hiện các quy định

về các biện pháp tạm giữ một số loại phương tiện, giấy tờ có liên quan... còn một số

bất cập nên chưa buộc người vi phạm phải đến chấp hành quyết định xử phạt như:

quy định mức phạt đối với một số hành vi cao hơn giá trị phương tiện bị tạm giữ

nên người vi phạm không đến xử lý; việc cấp lại các loại giấy chứng nhận đăng ký

phương tiện, giấy phép lái xe thủ tục còn đơn giản, trong khi đó việc phối hợp giữa

cơ quan ra quyết định xử phạt và cơ quan có thẩm quyền cấp lại các loại giấy tờ có

lúc, có nơi chưa chặt chẽ... nên nhiều người vi phạm đã không đến chấp hành quyết

định xử phạt mà đi làm thủ tục cấp lại các loại giấy tờ bị tạm giữ.

24

Các quy định về xử lý vi phạm liên quan đến tội chống người thi hành công

vụ hiện còn thiếu và chưa đáp ứng yêu cầu khiến cho tình hình các đối tượng vi

phạm pháp luật chống đối người thi hành công vụ có diễn biến phức tạp. Các quy

định liên quan đến thi hành xử phạt vi phạm hành chính (Điều 70- Luật xử lý vi

phạm hành chính) còn nhiều bất cập gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong

việc ra quyết định xử lý vi phạm hành chính. Theo quy định hiện tại trong vòng 2

ngày cơ quan chức năng phải gửi giấy phạt cho người vi phạm nhưng với khối

lượng quyết định xử phạt nhiều như hiện nay thì trong vòng 2 ngày không thể gửi

hết được cho người vi phạm; hơn nữa người vi phạm an toàn giao thông phần lớn là

lái xe nơi cư trú không ổn định, ít khi có mặt ở địa phương, nhiều trường hợp địa

chỉ ghi trong giấy tờ khác với địa chỉ nơi cư trú thực tế… nên người vi phạm không

thể nhận được quyết định.

Các quy định liên quan đến thông báo hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an

toàn giao thông đến nơi cư trú, học tập, làm việc của người vi phạm tuy được thực

hiện nhưng cơ quan chức năng hầu như không nhận được thông tin phản hồi từ đơn

vị nhận được thông báo, do đó không có sự phối hợp để giáo dục, quản lý người vi

phạm theo quy định. Trong khi đó, việc rà soát đối tượng để áp dụng biện pháp xử

lý vi phạm hành chính giáo dục tại xã phường, thị trấn còn gặp nhiều khó khăn do

quy định số lần vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính trong 6 tháng là quá ngắn

(trong 6 tháng ít nhất phải có 2 lần vi phạm bị xử phạt), rất khó có đối tượng để áp

dụng biện pháp này, nhiều trường hợp đối tượng vi phạm nhiều lần trên nhiều địa

bàn khác nhau nên khó có thể áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã,

phường, thị trấn; bên cạnh đó, việc tổ chức kiểm điểm tại cộng đồng dân cư thực

hiện hiệu quả chưa cao.

1.1.3.2. Các nghiên cứu đề cập đến yếu tố nguồn nhân lực thực hiện pháp

luật bảo đảm trật tự an toàn xã hội

Pháp luật là công cụ hữu hiệu trong đảm bảo TTATXH nhưng pháp luật

muốn đi vào cuộc sống phải thông qua hoạt động thực thi pháp luật của các cơ

quan chức năng cũng như nhận thức, thái độ và hành vi tuân thủ, chấp hành hay sử

dụng luật của người dân. Vì vậy yếu tố nguồn nhân lực là một trong những yếu tố

quan trọng tác động đến việc thực hiện pháp luật. Sự tác động của nhóm yếu tố

25

này có thể được nhìn nhận từ số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ của các

cơ quan công quyền có trách nhiệm thực thi pháp luật như công an, cảnh sát, tòa

án, viện kiểm sát… và người dân - những người trực tiếp tuân thủ, chấp hành và

sử dụng luật.

Thứ nhất, các công trình đề cập đến sự ảnh hưởng của yếu tố nguồn nhân lực

trong các cơ quan chức năng đến việc thực thi pháp luật.

Các nghiên cứu liên quan đến công tác phòng chống tội phạm những năm qua

cho thấy với sự phát triển ngày càng tinh vi của các loại hình tội phạm, tệ nạn xã

hội thì trình độ, kỹ năng và phương tiện của lực lượng phòng, chống tội phạm

chuyên nghiệp hiện còn rất hạn chế đòi hỏi phải có chuyển biến mạnh trong đầu tư

của Nhà nước về đào tạo nghiệp vụ. Các nghiên cứu chỉ ra rằng việc thiếu hiểu

biết, thiếu kinh nghiệm kiến thức và tinh thần trách nhiệm trong công việc của lực

lượng phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội đã ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng

phá án cũng như việc xử lý các vụ án trong thực tế. Các nghiên cứu cũng chỉ ra

hiện tượng những người chấp hành pháp luật bị người phạm tội mua chuộc, trong

những vụ án nghiêm trọng, người phạm tội sẵn sàng chi nhiều tiền cho lực lượng

điều tra, công tố, quan tòa hay mua sự can thiệp của một số lãnh đạo để xóa sửa

hiện trường, tẩu tán chứng cứ, thay đổi tội danh… Sự khác biệt ấy có thể giúp một

số kẻ thoát hiểm từ tử hình xuống chung thân, từ chung thân xuống án có thời hạn,

từ đó chỉ bị giam một thời gian là có thể được ra tù, làm lại cuộc đời một cách

ngoạn mục bằng khối lượng tài sản bất chính [79]. Như vậy ngoài kiến thức, kinh

nghiệm và kỹ năng xử lý công việc thì mức độ công tâm và đạo đức nghề nghiệp

của đội ngũ cán bộ là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến việc thi hành pháp

luật của cơ quan công quyền.

Qua đánh giá việc áp dụng pháp luật của tòa án, các công trình nghiên cứu chỉ

ra rằng:

Một số Thẩm phán còn chủ quan, làm việc đơn thuần theo kinh nghiệm,

một số khác chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu thận trọng, thậm

chí còn cẩu thả, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sai sót trong quá trình

xét xử. Công tác phối hợp giữa Tòa án với các cơ quan hữu quan đôi lúc

còn bị động, có những trường hợp khi Tòa án yêu cầu các cơ quan

26

chuyên môn tiến hành một số công việc như thực hiện ủy thác điều tra,

tống đạt giấy báo, tống đạt quyết định, lấy lời khai, xác minh những vấn

đề có liên quan đến vụ án... thì còn có một cơ quan được ủy thác không

tích cực phối kết hợp, không cho đây là nhiệm vụ được pháp luật quy

định mà cho là việc của Tòa án, nên dẫn đến tình trạng việc làm qua loa,

kéo dài, thậm chí chất lượng những văn bản xác minh, lấy lời khai rất

thấp [73, tr.51].

Trong công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội, còn tình trạng các cơ quan chức

năng không thực hiện tốt công tác bám dân, nắm tình hình. Việc các cơ quan chức

năng chưa chủ động, còn lúng túng trong xử lý các vụ việc liên quan đến xâm phạm

an toàn trật tự xã hội còn diễn ra. Một số trường hợp xử lý thiếu chuyên nghiệp, chưa

thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật. Thiếu sự phối hợp tốt giữa các lực

lượng chức năng trong xử lý vụ việc là nguyên nhân khiến cho công tác đảm bảo trật

tự an toàn xã hội còn chưa đảm bảo. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi thiếu sức

chiến đấu, xa dân, không nắm được tình hình cũng như những suy tư, trăn trở của

người dân để có biện pháp đấu tranh, giải quyết vấn đề khi nó mới vừa manh nha.

Tình trạng một số cán bộ, công chức vi phạm quy định về phẩm chất đạo đức, vi

phạm pháp luật chưa được xử lý dứt điểm dẫn đến mất niềm tin trong nhân dân cũng

là một trong những nguyên nhân dẫn đến an ninh trật tự diễn biến phức tạp [6].

Trình độ nghiệp vụ, pháp luật của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu

thực tiễn dẫn đến hữu khuynh né tránh, thậm chí có một số cán bộ biến chất, tiếp

tay cho tội phạm, buông lỏng công tác đấu tranh trấn áp tội phạm. Mối quan hệ giữa

các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thực sự đồng bộ, thiếu thống nhất trong quá trình

điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, giáo dục, cải tạo phạm nhân. Hoạt động trao đổi

thông tin giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật còn chưa tốt. Bên cạnh đó, hoạt động

điều tra, xử lý tội phạm chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, xử lý chưa nghiêm minh.

Hệ thống tổ chức bộ máy, phân công chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan bảo vệ

pháp luật và trong nội bộ từng cơ quan chưa thực sự khoa học, hiệu quả vận hành

chưa cao.

Liên quan đến chất lượng của đội ngũ cán bộ tác giả Bùi Quang Trung

(2011) cho thấy hạn chế trong nhận thức của đội ngũ cán bộ có ảnh hưởng tiêu

27

cực đến chất lượng áp dụng pháp luật của các cơ quan công quyền. Khi phân tích

việc xét xử các tội phạm liên quan đến xâm phạm trật tự an toàn giao thông tác giả

này cho thấy:

Đội ngũ các bộ làm công tác xét xử chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về

ý nghĩa và tác dụng cải tạo giáo dục của các loại hình phạt mà pháp luật

quy định đối với các tội phạm nói chung và đối với các tội xâm phạm trật

tự an toàn giao thông đường bộ nói riêng; chưa đánh giá đúng đắn, chính

xác về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo để

lựa chọn loại và mức hình phạt cho phù hợp trong từng trường hợp, hoàn

cảnh cụ thể; thói quen (một cách bàng quan, thiếu tinh thần trách nhiệm)

của các thành viên Hội đồng xét xử các cấp khi coi hình phạt tù là loại

hình phạt phổ thông áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm mà không

cân nhắc, xem xét kỹ các loại hình phạt khác không phải hình phạt tù mà

Bộ luật hình sự cho phép Tòa án lựa chọn để áp dụng đối với tội phạm,

người phạm tội đó... [110, tr.84].

Bên cạnh đó số lượng đội ngũ cán bộ là nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng

việc áp dụng quy định pháp luật. Tác giả Trần Long Nhi, (2015), cho thấy việc

thiếu biên chế - biên chế thẩm phán phân bổ chưa đủ để đáp ứng với số lượng vụ

việc phải thụ lý, khiến lượng án mỗi Thẩm phán phải thụ lý, giải quyết hàng tháng

là rất lớn. Điều này gây áp lực cho Thẩm phán về giải quyết án và hoàn thành chỉ

tiêu thi đua do đó nó ảnh hưởng đến chất lượng của các bản án. Bên cạnh đó việc

cán bộ, công chức của một số Tòa án nhân dân cấp huyện phải kiêm nhiệm rất

nhiều. Từ chỗ kiêm nhiệm nhiều việc, không chuyên sâu, không đạt hiệu quả, việc

này gây khó khăn trong công tác quản lý hành chính tư pháp và công tác xét xử các

vụ án về gây rối trật tự công cộng [73, tr.47].

Như vậy có thể thấy các công trình nghiên cứu đã chỉ ra sự tác động của yếu

tố chất lượng nguồn nhân lực cụ thể là nguồn nhân lực của cơ quan công quyền đến

chất lượng áp dụng luật. Tuy nhiên để có thể kiểm chứng rõ ràng hơn về mối quan

hệ này cần những nghiên cứu sâu hơn để đánh giá chất lượng của đội ngũ cán bộ

của các cơ quan công quyền cũng như phải chỉ ra được sự tác động của yếu tố nhận

28

thức, thái độ hành vi của đội ngũ cán bộ đến chất lượng việc áp dụng pháp luật khi

những yếu tố tác động khác giữ nguyên, hay nói đúng hơn là cần phải kiểm chứng

sự tác động này trong tương quan với sự tác động của các yếu tố khác.

1.2. NHẬN XÉT CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC

NGHIÊN CỨU

1.2.1. Nhận xét chung

Từ những công trình nghiên cứu về vấn đề nghiên cứu, cho tác giả rút ra

những nhận định sau:

Thứ nhất, những công trình đã được công bố trên đây ở những mức độ khác

nhau đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về bảo đảm TTATXH nói chung, như

khái niệm, vai trò của lực lượng Công an trong bảo đảm TTATXH; đồng thời, đã

nêu được thực trạng của bảo đảm trật tự an toàn xã hội ở một số địa phương cụ thể.

Từ đó chỉ ra được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm TTATXH ở

địa phương và địa bàn cụ thể. Đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu

tương đối toàn diện và hệ thống vấn đề THPL về bảo đảm TTATXH ở các địa bàn

đô thị loại I ở Việt Nam. Mặc dù vậy, những công trình khoa học đã được công bố

nêu trên vẫn sẽ là những tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và viết

luận án này.

Thứ hai, các công trình đều nghiên cứu về vấn đề liên quan đến thực hiện

pháp luật nói chung. Các tác giả đã tập trung, khai thác, làm rõ vấn đề lý luận và

thực tiễn về thực hiện pháp luật ở những lĩnh vực cụ thể; một số kết quả nghiên cứu

sẽ gợi mở, cung cấp thông tin, sự kiện để ứng viên tham khảo làm luận cứ khoa học

cho đề tài của mình. Tuy nhiên, các công trình này không trực tiếp đề cập các vấn

đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị

loại I ở Việt Nam.

Thứ ba, trong tất cả các đề tài, công trình đã công bố liên quan đến thực hiện

pháp luật, không những chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và

sâu sắc về thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở

Việt Nam mà còn chưa có một công trình nào đưa ra được những giải pháp khả thi

để bảo đảm thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở

Việt Nam.

29

Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu liên

quan đến THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam, nên tác

giả cho rằng, trong đề tài này, ngoài nội dung lý luận có thể kế thừa một phần từ

những công trình đã công bố thì những nội dung về thực trạng và quan điểm, giải

pháp sẽ thể hiện sự đóng góp mới của đề tài cho vấn đề nghiên cứu. Do vậy, đề tài

nghiên cứu “Thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô

thị loại I ở Việt Nam hiện nay” là không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học

nào đã đã công bố.

1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu

Những kết quả đạt được trong các công trình nghiên cứu ở trên được luận án

vận dụng và phát triển trong luận án, tuy nhiên vấn đề “Thực hiện pháp luật về bảo

đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay” vẫn còn

những nội dung còn bỏ ngỏ chưa được các công trình này nghiên cứu, cần được giải

quyết trong luận án này, đó là:

Thứ nhất, luận án sẽ tiếp tục làm rõ khái niệm và các hình thức của THPL về

bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, trong đó nhấn mạnh đến việc chỉ ra các

tiêu chí có thể đo lường, đánh giá các hình thức THPL này.

Thứ hai, luận án phân tích, đánh giá rõ thực trạng THPL về bảo đảm

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong thời gian qua, để qua đó chỉ rõ

những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế trong THPL về bảo đảm

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam và nguyên nhân của những hạn chế

đó làm cơ sở để luận giải phương hướng, giải pháp nhằm cải thiện tình trạng trên

trong thời gian tới.

Thứ ba, luận án luận giải quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm thúc

đẩy và nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở

Việt Nam trong thời gian tới.

1.3. CÂU HỎI VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

1.3.1. Câu hỏi nghiên cứu

Toàn bộ luận án tập trung trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu chính sau:

- Việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là gì, có những

hình thức nào và được đo lường bằng những tiêu chí nào?

30

- Thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt

Nam đang diễn ra như thế nào?

- Việt Nam cần thực hiện những biện pháp gì để thúc đẩy và nâng cao chất

lượng THPL bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong thời

gian tới?

1.3.2. Giả thuyết nghiên cứu

Thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH được thực hiện bởi các chủ thể

khác nhau với những hình thức khác nhau: tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật,

thực thi pháp luật và áp dụng pháp luật. Việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa

bàn đô thị loại I ở Việt Nam theo đúng quy định của pháp luật hiện hành và đạt

được những kết quả nhất định; bên cạnh đó, chất lượng THPL về bảo đảm

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I Việt Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế, vì thế

tình hình vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị này vẫn còn

diễn biến phức tạp.

Tiểu kết chương 1

Như vậy chương 1 đã đánh giá tổng quan các loại tài liệu, các công trình

nghiên cứu để nên lên những phát hiện đã có, những điều mâu thuẫn và những

khoảng trống liên quan đến THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.

Các công trình nghiên cứu liên quan đã chỉ rõ cách tiếp cận để đánh giá thực trạng

THPL trên bốn hình thức là tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật.

Tuy nhiên cần phải làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn để có thể đo lường đánh giá

các khía cạnh, các mặt của các loại hình thực hiện pháp luật cũng như chỉ ra sự tác

động qua lại giữa bốn hình thức THPL. Mặt khác các công trình nghiên cứu đi

trước cũng nêu ra các nhóm nhân tố có ảnh hưởng đến các hành vi liên quan đến

THPL của các cá nhân và tổ chức. Tuy nhiên việc làm rõ sự tác động của từng

nhóm nhân tố đến từng hình thức THPL là cần thiết vì nếu không đánh giá được

các yếu tố tác động đến từng hình thức THPL sẽ không thể đưa ra các biện pháp

can thiệp một cách phù hợp nhằm nâng cao mức độ tuân thủ, chấp hành và sử

dụng pháp luật của nhân dân cũng như nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật của

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

31

Kết quả nghiên cứu của các công trình được công bố đến thời điểm hiện nay

đã cho thấy, vấn đề THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt

Nam hiện nay chưa được nghiên cứu toàn diện, vì thế vấn đề nghiên cứu này được

tiếp cận dưới giác độ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật vẫn

cần được nghiên cứu toàn diện hơn nữa.

Cho nên, luận án nghiên cứu vấn đề THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn

đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay cần trả lời các câu hỏi: việc THPL về bảo đảm

TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I là gì, có những hình thức nào và được đo

lường bằng những tiêu chí nào? THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị

loại I ở Việt Nam đang diễn ra như thế nào? Việt Nam cần thực hiện những biện

pháp gì để thúc đẩy và nâng cao chất lượng THPL bảo đảm TTATXH trên địa bàn

đô thị loại I ở Việt Nam trong thời gian tới? Các câu hỏi này sẽ được trả lời trong

các chương tiếp theo của luận án.

32

Chương 2

LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM

TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I

2.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I

2.1.1. Các khái niệm liên quan

2.1.1.1. Đô thị loại I

Khái niệm về đô thị có tính tương đối do sự khác nhau về trình độ phát triển

KT-XH, hệ thống dân cư mà mỗi nước có quy định riêng tuỳ theo yêu cầu và khả

năng quản lý của mình. Theo Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 của Việt Nam, đô

thị “là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong

lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa

hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia

hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành

phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn” (Khoản 1 Điều 3). Theo đó, đô thị ở Việt

Nam gồm các thành phố, thị xã, thị trấn là trung tâm của cấp hành chính tương ứng

như cấp tỉnh (tỉnh và cấp tương đương: thành phố trực thuộc trung ương) và cấp

huyện. Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, đô thị có các đặc

điểm sau:

Thứ nhất, đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung

và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp, quy mô dân số ít nhất là

4.000 người, mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng

loại đô thị;

Thư hai, đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp

sống và làm việc theo kiểu thành thị, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 65% trở lên

trong tổng số lao động;

Thứ ba, đô thị thường là trung tâm của một địa giới hành chính trung ương

hoặc địa phương. Chức năng là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành, có vai trò

thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất

định. Tuy nhiên, một địa giới hành chính có thể có nhiều đô thị. Trên thực tế, đô thị

33

bao gồm thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết

định thành lập;

Thứ tư, có cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động dân cư tối thiểu phải đạt 70%

mức tiêu chuẩn, quy chuẩn quy định đối với từng loại đô thị.

Ở Việt Nam, việc phân loại đô thị nhằm tổ chức, sắp xếp và phát triển hệ

thống đô thị cả nước; lập, xét duyệt quy hoạch xây dựng đô thị; nâng cao chất

lượng đô thị và phát triển đô thị bền vững và xây dựng chính sách và cơ chế quản

lý đô thị và phát triển đô thị. Trước đây, việc phân loại đô thị được thực hiện theo

Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001 của Chính phủ, tiếp đó, các đô thị

tại Việt Nam được phân loại dựa theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày

07/5/2009 và gần đây nhất, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết

số 1210/2016/UBTVQH13 về phân loại đô thị. Theo Nghị quyết của Ủy ban

Thường vụ Quốc hội, đô thị tại Việt Nam bao gồm thành phố trực thuộc Trung

ương, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn và khu vực dự kiến hình thành đô thị

trong tương lai được phân loại theo tiêu chí loại đô thị tương ứng. Do đó, các đô thị

Việt Nam được chia thành 6 loại: Đô thị đặc biệt, đô thị loại I, đô thị loại II, đô thị

loại III, đô thị loại IV và đô thị loại V. Trong đó, theo Điều 4, Nghị quyết số

1210/2016/UBTVQH13, đô thị loại I có những đặc trưng sau:

Một là, về vị trí, chức năng, vai trò, cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã

hội: Đô thị loại I có vị trí, chức năng, vai trò là trung tâm tổng hợp cấp quốc gia, cấp

vùng hoặc cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, du lịch, y tế,

khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có

vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng liên tỉnh hoặc cả nước.

Theo phụ lục của Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13, đô thị loại I có cơ cấu và

trình độ phát triển kinh tế - xã hội đạt các tiêu chuẩn cao, như: thu nhập bình quân

đầu người năm so với cả nước của đô thị loại I phải từ 1,75 lần trở lên; tỷ lệ hộ

nghèo phải dưới 6,0%; v.v…

Hai là, về quy mô dân số và mật độ dân số: Đô thị loại I là thành phố trực

thuộc trung ương thì quy mô dân số toàn đô thị đạt từ 1.000.000 người trở lên; khu

vực nội thành đạt từ 500.000 người trở lên. Đây là thành phố thuộc tỉnh hoặc thành

phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương thì quy mô dân số toàn đô thị đạt từ

34

500.000 người trở lên; khu vực nội thành đạt từ 200.000 người trở lên; Mật độ dân số toàn đô thị loại I đạt từ 2.000 người/km2 trở lên; khu vực nội thành tính trên diện tích đất xây dựng đô thị đạt từ 10.000 người/km2 trở lên.

Ba là, về lao động: Đô thị loại I có tỷ lệ lao động phi nông nghiệp toàn đô thị

đạt từ 65% trở lên, trong đó tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thành đạt từ

85% trở lên.

Bốn là, về trình độ phát triển hạ tầng, kiến trúc và cảnh quan đô thị: Đô thị loại

I có trình độ phát triển hạ tầng, kiến trúc và cảnh quan đô thị đạt các tiêu chuẩn của

Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13, trong đó trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và

kiến trúc, cảnh quan đô thị đạt các tiêu chuẩn cao, như: đảm bảo tiêu chuẩn các tiêu chuẩn về nhà ở đô thị với diện tích sàn nhà ở bình quân từ 26,5 m2 sàn/người, tỷ lệ

nhà ở kiên cố và bán kiên cố là từ 90% trở lên; đảm bảo các tiêu chuẩn về công

trình công cộng, giao thông, cấp điện, nước, viễn thông, v.v… (Phụ lục 1). Như thế,

đô thị loại I được hiểu là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ rất cao và

chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị,

hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành có thành phố trực thuộc trung

ương, thành phố thuộc tỉnh hoặc thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương,

có vai trò thúc đẩy sự phát triển KT-XH của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

2.1.1.2. Trật tự an toàn xã hội và bảo đảm trật tự an toàn xã hội

* Trật tự an toàn xã hội

Cho đến nay khái niệm TTATXH vẫn được hiểu theo nhiều cách khác nhau,

theo Bùi Thiện Ngộ (1993), “TTATXH là hệ thống các quan hệ xã hội được hình

thành và điều chỉnh bởi hệ thống các quy phạm pháp luật của Nhà nước, quy phạm

đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng của một dân tộc, một quốc

gia, nhờ đó, mọi công dân sống và lao động có tổ chức có kỷ cương, mọi lợi ích

chính đáng được bảo đảm không bị xâm hại” [69, tr.3]. Theo cách tiếp cận này thì

TTATXH là quá trình đảm bảo các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi hệ thống

các quy tắc và chuẩn mực do xã hội đặt ra như chuẩn mực pháp luật hay đạo đức...

nhằm hướng đến mục tiêu là bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi người dân. Khái

niệm này nhấn mạnh đến các hoạt động để đảm bảo TTATXH, theo đó cuộc đấu

tranh giữ gìn TTATXH ở Việt Nam được xác định bao gồm các hoạt động chủ yếu

35

như: chống tội phạm, giữ gìn trật tự nơi công cộng, phòng ngữa tai nạn, bài trừ tệ

nạn xã hội, chống ô nhiễm môi trường nhằm bảo đảm hoạt động bình thường, yên

ổn, hợp pháp của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân [69, tr.3].

Cũng theo hướng tiếp cận này tác giả Codubra. N.I và các cộng sự cho rằng:

Khi nói đến trật tự xã hội là nói đến việc tôn trọng các quy phạm pháp

luật, tôn trọng quyền và nghĩa vụ quy định không chỉ trong các quy

phạm pháp luật, mà còn bằng các quy tắc đạo đức, quy tắc chính trị.

Việc thực hiện tất cả các quy phạm, quy tắc đó có liên quan đến các

mối quan hệ xã hội khác. Hệ thống các quan hệ xã hội được điều chỉnh

bằng các quy tắc xã hội và các quy phạm pháp luật tạo nên “trật tự xã

hội” [20, tr.272].

Định nghĩa này nhấn mạnh đến hoạt động tuân thủ các quy chuẩn pháp luật,

quy chuẩn đạo đức và chính trị của các chủ thể trong xã hội.

Khác với cách tiếp cận nhấn mạnh đến hoạt động và biện pháp đảm bảo

TTATXH ở trên, một số nhà khoa học của Trường Đại học Cảnh sát nhân dân xác

định: “TTATXH chính là trật tự các mối quan hệ xã hội phù hợp với các yêu cầu về

an toàn xã hội; là kết quả của sự điều chỉnh bởi các quy phạm xã hội phù hợp mục

tiêu ổn định và phát triển xã hội đã được Đảng và Nhà nước đề ra” [70, tr.2]. Quan

niệm này nhấn mạnh đến kết quả điều chỉnh các mối quan hệ xã hội thông qua các

quy phạm xã hội, trong đó có quy phạm pháp luật. Cũng theo hướng tiếp cận này,

từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam (2000) định nghĩa: “TTATXH là

trạng thái xã hội có trật tự, kỷ cương trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ

sở các quy phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định” [10, tr.628].

Một số nhà nghiên cứu khác định nghĩa “TTATXH là trạng thái của các quan hệ xã

hội được hình thành và điều chỉnh bởi hệ thống quy phạm pháp luật của Nhà nước,

quy phạm chính trị, quy phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng

đồng của một dân tộc, một nhà nước, là trình trạng xã hội ổn định, ở đó mọi công

dân sống và lao động có tổ chức, có kỷ cương, mọi lợi ích chính đáng được bảo

đảm, không bị xâm hại” [99, tr.3]. Khái niệm này nhằm phân biệt TTATXH khác

với an toàn chính trị, đó là những hoạt động liên quan đến bảo vệ chế độ chính trị,

36

bảo vệ ổn định chính trị, đảm bảo sự lãnh đạo vững chắc của chính đảng cầm quyền

và sự quản lý của nhà nước cũng như quyền làm chủ của nhân dân.

Tác giả Nguyễn Xuân Yêm cho rằng, nếu “An ninh quốc gia là vấn đề liên

quan trực tiếp đến lĩnh vực tối quan trọng của chế độ xã hội, đó là vấn đề chính trị,

là sự tồn vong của đất nước, sự toàn vẹn của non sông, sự độc lập của dân tộc…”

[125, tr.15] thì “TTATXH liên quan trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt cộng đồng. Đó

là hệ thống các quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi hệ thống các quy

phạm pháp luật của nhà nước và các chuẩn mực đạo đức, thuần phong mỹ tục trong

đời sống cộng đồng của dân tộc, nhờ đó mọi công dân sống và lao động có tổ chức,

kỷ cương, mọi lợi ích chính đáng được đảm bảo không bị xâm hại” [125, tr.15].

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ

sung, phát triển năm 2011) xác định: “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh

là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,

bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình,

ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội...” [33, tr.7].

Khái niệm an ninh quốc gia và TTATXH có mối quan hệ mật thiết với nhau, tuy

nhiên, hai khái niệm này có nội hàm tương đối khác biệt. Khái niệm an ninh quốc

gia đề cập đến nhiệm vụ bảo vệ quốc phòng an ninh nghĩa là liên quan đến bảo vệ

chủ quyền lãnh thổ; bảo vệ chế độ chính trị trong khi đó khái niệm trật tự an toàn xã

hội nhấn mạnh đến trạng thái an toàn ổn định do việc thực hiện những quy định,

quy tắc bảo đảm an toàn, trật tự trong cuộc sống của người dân. Vì vậy các hoạt

động phòng chống tội phạm trong đảm bảo TTATXH chủ yếu nhấn mạnh đến các

loại tội phạm xâm phạm đến cuộc sống, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau liên quan đến TTATXH, có định

nghĩa nhấn mạnh đến biện pháp áp dụng các loại quy định chuẩn mực của xã

hội, có định nghĩa nhận mạnh đến các hành vi chấp hành chuẩn mực và có định

nghĩa nhấn mạnh đến kết quả của việc áp dụng hay hành vi tuân thủ chuẩn mực.

Dù tiếp cận theo hướng nào các khái niệm về TTATXH luôn bao hàm các khía

cạnh chính là:

Thứ nhất, TTATXH phản ánh trạng thái của xã hội, trong đó các quan hệ

xã hội diễn ra có trật tự, nề nếp; các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân

37

được đảm bảo theo đúng quy chuẩn chung mà đa số mọi người trong cộng đồng

tuân theo.

Thứ hai, để đạt đến trạng thái xã hội ổn đinh cần có các biện pháp để áp dụng,

triển khai các chuẩn mực mà xã hội đặt ra. Các chuẩn mực có thể là các quy phạm

pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, có thể là các chuẩn

mực về đạo đức do cộng đồng đặt ra ví dụ như các quy tắc, quy phạm liên quan đến

việc giữ gìn trật tự, vệ sinh, giữ gìn các giá trị văn hóa do cộng đồng đặt ra được

mọi người thừa nhận. Theo đó các cơ quan nhà nước sẽ thực hiện các biện pháp áp

dụng các quy chuẩn do mình ban hành, các biện pháp này bao gồm các hoạt động

liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội;

công tác quản lý, bảo vệ, gìn giữ trật tự, an toàn trên các lĩnh vực khác nhau của đời

sống xã hội.

Thứ ba, TTATXH liên quan đến các hoạt động tuân thủ các quy chuẩn do xã

hội đặt ra của các cá nhân hay tổ chức. Bởi xã hội muốn đạt đến trạng thái ổn định,

an toàn để mọi cá nhân có thể phát triển theo đúng năng lực của mình, các quyền và

lợi ích của mọi người đều được đảm bảo theo quy chuẩn, giá trị chung của cộng

đồng điều này đòi hỏi sự tự giác tuân thủ quy phạm pháp luật, đạo đức của mọi

người trong xã hội. Nghĩa là trạng thái trật tự, kỷ cương của xã hội được xác lập

trên cơ sở các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành (được gọi là những quy

phạm pháp luật) và những giá trị, chuẩn mực do xã hội đặt ra được mọi người trong

xã hội thừa nhận, tôn trọng, tuân thủ.

Từ những gì phân tích nêu trên, TTATXH được hiểu là trạng thái xã hội có

trật tự, kỷ cương, trong đó mọi người có cuộc sống yên ổn, các quyền và lợi ích

chính đáng của mọi người dân được đảm bảo trên cơ sở thực hiện các quy phạm

pháp luật và chuẩn mực đạo đức do xã hội đặt ra.

Theo đó việc đánh giá mức độ trật tự, an toàn của một xã hội nhất định sẽ dựa

trên các chỉ số, chỉ báo liên quan đến tỷ lệ tội phạm, tệ nạn xã hội cũng như việc

đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Theo hệ thống chỉ tiêu thống kê hiện hành ở Việt Nam hiện nay, có quy

định nhóm chỉ tiêu về “trật tự, an toàn xã hội” bao gồm các chỉ tiêu liên

quan đến: số vụ tai nạn giao thông, số người chết, bị thương do tai nạn

38

giao thông; số vụ cháy, nổ và mức độ thiệt hại; số vụ, số bị can đã khởi

tố; số vụ, số bị can đã truy tố; số vụ, số người phạm tội đã kết án, số vụ

phạm tội đã được xử lý; số vụ ngược đãi người già, phụ nữ và trẻ em

trong gia đình (Nghị định 97/2016/NĐ-CP) [18].

* Bảo đảm trật tự an toàn xã hội

Khái niệm bảo đảm TTATXH có thể được hiểu là: “phòng ngừa, phát hiện,

ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về TTATXH

nhằm duy trì trạng thái xã hội bình yên, trong đó mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức

được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật” [83, tr.28]. Theo tác giả Nguyễn

Xuân Yêm (1999), những nội dung chủ yếu của công tác bảo đảm TTATXH bao

gồm: chống tội phạm, giữ gìn trật tự công cộng, phòng ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn

xã hội, chống ô nhiễm môi trường nhằm đảm bảo hoạt động bình thường yên ổn,

hợp pháp của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân [126,

tr.16]. Tuy nhiên cách tiếp cận theo quan điểm trên được cho là tương đối hẹp vì nó

quy vào hoạt động giữ gìn TTATXH theo chức năng nhiệm vụ của ngành công an,

được xác định trong Luật Công an nhân dân năm 2018: “Bảo đảm TTATXH là

phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật

về TTATXH” (khoản 2, Điều 3).

Trong thực tế, bảo đảm TTATXH là trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội,

bao gồm người dân, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước và các cơ quan, tổ chức khác,

trong đó công an là lực lượng nòng cốt, đóng vai trò chủ đạo và tiên phong, đi đầu

trong quá trình bảo đảm TTATXH, vì vậy tác giả Trần Đại Quang và các cộng sự

(2015) cho rằng:

Bảo đảm TTATXH là hoạt động của nhà nước trong việc huy động mọi

nguồn lực xã hội để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, xây dựng

hoàn thiện hệ thống pháp luật; tổ chức và duy trì các hoạt động thiết yếu

của đời sống xã hội; đấu tranh, phòng chống tội phạm và các hành vi vi

phạm pháp luật nhằm thiết lập và duy trì xã hội ổn định, có trật tự, kỷ

cương; mọi người dân có cuộc sống bình yên, quyền và lợi ích hợp pháp

không bị xâm hại; mọi hoạt động của nhà nước, tổ chức và công dân

được thực hiện theo quy định của pháp luật [83, tr.29].

39

Từ thực tiễn Việt Nam hiện nay, bảo đảm TTATXH bao gồm các nội

dung sau:

(1) Đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành vi vi

phạm pháp luật về trật tự an toàn xã hội; (2) tổ chức tiến hành các hoạt

động quản lý hành chính về trật tự xã hội; (3) quản lý giáo dục cải tạo

phạm nhân, học sinh trường giáo dưỡng, trung tâm cai nghiện và các cơ

sở chữa bệnh bắt buộc; (4) bảo đảm trật tự an toàn giao thông, phòng,

chống cháy nổ, cứu hộ cứu nạn, bảo vệ môi trường, phòng, chống các sự

cố về môi trường [83, tr.39-43].

Theo hướng tiếp cận trên, các hoạt động bảo đảm TTATXH được xác định là

tất cả các hoạt động nhằm giữ gìn trạng thái bình yên, an toàn, có trật tự kỷ cương

của xã hội. Chủ thể tham gia vào bảo đảm TTATXH ngoài lực lượng nòng cốt là

công an nhân dân với nhiệm vụ phòng chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội còn có

sự tham gia của các cơ quan công quyền khác như hệ thống các cơ quan tư pháp,

các tổ chức chính trị xã hội và lực lượng toàn dân…

Như vậy, bảo đảm TTATXH là hoạt động có chủ đích của các chủ thể trong

xã hội nhằm xây dựng, tổ chức và duy trì trạng thái xã hội có trật tự, kỷ cương,

trong đó mọi người có cuộc sống yên ổn, các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá

nhân, tổ chức được đảm bảo.

Như vậy, bảo đảm TTATXH bao gồm các hoạt động: (i) Các hoạt động

phòng, chống tội phạm, đó là các loại tội phạm liên quan trực tiếp đến đời sống sinh

hoạt của cộng đồng, trừ các tội phạm về an ninh quốc gia; (2) Các hoạt động phòng,

chống tệ nạn xã hội, các hành vi sai lệch xã hội khác khác. Trong đó các hành vi sai

lệch xã hội được xác định là sự vi phạm các chuẩn mực hoặc các quy tắc đã được

chấp nhận của cộng đồng gây ảnh hưởng về đạo đức và những hậu quả nghiêm

trọng trong đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội. Trong đó, bao gồm: tệ nạn mại dâm;

tệ nạn ma tuý; tệ nạn cờ bạc, v.v.. [82, tr.418-420]; (3) Các hoạt động liên quan đến

phòng ngừa tai nạn bao gồm phòng ngừa tai nạn giao thông và các tai nạn liên quan

đến cháy nổ và các tai nạn khác; (4) Các hoạt động quản lý hành chính về trật tự xã

hội như quản lý cư trú, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu; cấp phát, quản lý giấy chứng

minh hoặc thẻ căn cước công dân; quản lý người nước ngoài; quản lý đối tượng; giữ

40

gìn trật tự nơi công cộng; quản lý các ngành nghề kinh doanh có điều kiện về an toàn tật tự; quản lý phương tiện đặc biệt, v.v.. [83, tr.41]; (5) Các hoạt động liên

quan đến giáo dục, cải tạo phạm nhân, học viên các trường giáo dưỡng, trung tâm

cai nghiệm và các cơ sở chữa bệnh bắt buộc; (6) Các hoạt động bảo vệ môi trường,

phòng chống các sự cố về môi trường.

Để bảo đảm TTATXH, nhà nước và xã hội sử dụng nhiều biện pháp khác

nhau, như biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, biện pháp kinh tế, biện

pháp mệnh lệnh hành chính, biện pháp trừng phạt của nhà nước, v.v… Để thực hiện

được các biện pháp này, nhà nước và xã hội cần phải có các công cụ khác nhau,

được áp dụng phù hợp với từng đối tượng và từng nhiệm vụ bảo đảm TTATXH,

trong đó pháp luật là công cụ quan trọng nhất vì được nhà nước ban hành, được áp

dụng thống nhất, không có ngoại lệ và được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy

chuyên nghiệp của nhà nước.

2.1.1.3. Pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội

Trên phương diện lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, pháp luật là hệ

thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận theo thẩm

quyền, trình tự, thủ tục luật định để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một trật tự

mà nhà nước muốn hướng đến và được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy chuyên

nghiệp của nhà nước.

Từ đó, pháp luật về bảo đảm TTATXH được hiểu là hệ thống các quy tắc xử

sự chung, do nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định

nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí nhà nước và phù hợp với lịch ích

chung của xã hội bởi bộ máy nhà nước, hướng xã hội đến trạng thái ổn định, cuộc

sống của mọi người được đảm bảo an toàn, không bị đe dọa hay gặp nguy hiểm,

các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và các cơ quan, tổ chức được ghi nhận,

bảo vệ và thúc đẩy phát triển.

2.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội

trên địa bàn đô thị loại I

Thực hiện pháp luật là một giai đoạn quan trọng trong quá trình đưa pháp luật

vào cuộc sống để qua đó xây dựng xã hội có trật tự và an toàn theo pháp luật. Nội

hàm của khái niệm THPL hiện nay được định nghĩa khác nhau tuy theo quan niệm

41

và cách tiếp cận, nếu tập thể tác giả trưởng Đại học Luật Hà Nội (2009) cho rằng

“THPL là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật,

làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các

chủ thể pháp luật” [31, tr.494] thì các tác giả Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu

(2009) lại cho rằng “THPL là hoạt động của các chủ thể pháp luật làm cho những

quy tắc của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [90,

tr.400], các quan niệm này cho thấy rõ chủ thể tham gia THPL và tính chất của hoạt

động này là hoạt động “có mục đích” và “có ý thức” của chủ thể trong xã hội.

Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về THPL nhưng nhìn chung các định

nghĩa đều thống nhất ở khía cạnh đó là hoạt động có chủ đích, có ý thức nhằm hiện

thực hóa các quy định pháp luật, đưa pháp luật đi vào cuộc sống thông qua hoạt

động của các chủ thể pháp luật. Về bản chất, THPL là việc các chủ thể pháp luật

bao gồm các cá nhân và tổ chức tạo lập các hành vi hợp pháp (những hành vi không

trái pháp luật, nằm trong giới hạn cho phép của pháp luật, phù hợp với những mệnh

lệnh (chỉ dẫn) của pháp luật).

Từ những phân tích trên, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại

I chính là việc các chủ thể pháp luật thực hiện hoặc không thực hiện các hoạt động

có mục đích, có ý thức của mình phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành làm

cho những quy định pháp luật về bảo đảm TTATXH đi vào cuộc sống, trở thành

những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật, hướng các hoạt động và

quan hệ xã hội trên địa bàn đô thị loại I đến trạng thái ổn định, cuộc sống của mọi

người dân được đảm bảo an toàn, không bị đe dọa hay gặp nguy hiểm, các quyền

và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trên địa bàn này được bảo vệ.

2.1.3. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội

trên địa bàn đô thị loại I

Thực hiện pháp luật về đảm bảo TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là một

dạng cụ thể của THPL, do vậy hoạt động này vừa có những đặc điểm chung của

THPL, vừa có những đặc điểm riêng mang tính đặc thù liên quan đến nội dung của

pháp luật về bảo đảm TTATXH cũng như đặc thù liên quan đến địa bàn đô thị loại

I. Theo, tác giả Nguyễn Minh Đoan (2019), THPL có những đặc điểm cơ bản:

42

(1) THPL là giai đoạn quan trọng không thể thiếu của cơ chế điều chỉnh

pháp luật; (2) THPL là hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp

luật; (3) THPL là nghĩa vụ của tất cả các tổ chức và cá nhân; (4) THPL là

hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hoá các quan định pháp luật; (5)

THPL được tiến hành thông qua nhiều hình thức và với những quy trình

khác nhau [39, tr.21-24].

Trong bốn hình thức THPL, tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật (hay còn

gọi thi hành pháp luật) và sử dụng pháp luật được thực hiện bởi tất cả các chủ thể

pháp luật, bao gồm, cá nhân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Trong khi đó, hoạt

động áp dụng pháp luật chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay người được

nhà nước trao quyền tiến hành; hoạt động này được tiến hành chủ yếu theo ý chí

đơn phương của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật, vì thế nó có

tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể liên quan. Quyết định

áp dụng pháp luật luật được bảo đảm bằng sự cưỡng chế nhà nước cần thiết, đây là

hoạt động có hình thức thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định, điều chỉnh cá biệt, cụ

thể đối với từng quan hệ xã hội xác định.

Trên cơ sở đó, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I có những

đặc trưng cơ bản như sau:

Thứ nhất, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là hành vi

hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Đó là những hành vi mang tính pháp lý của các

chủ thể pháp luật sinh sống, làm việc trên địa bàn đô thị loại I phù hợp với các quy

định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trên địa bàn đô thị loại I, cũng có

thể hiểu là hành vi làm đúng theo những gì mà pháp luật quy định. Do đó, các chủ

thể thực hiện pháp luật đó có thể được biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không

hành động nhưng phải làm đúng, làm đủ, không trái với những quy định của luật,

nghĩa là hành vi được điều chỉnh bởi các quy định do nhà nước đặt ra.

Thứ hai, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I được tiến hành

bởi nhiều chủ thể với nhiều cách thức, hình thức khác nhau, mỗi hình thức thực hiện

pháp luật có nhóm chủ thể riêng biệt. Ở Việt Nam, việc đảm bảo TTATXH nói

chung và trên địa bàn đô thị loại I được xác định là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn

quân, toàn dân, đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của cả

43

xã hội. Do vậy, chủ thể thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô

thị loại I khá đa dạng, mỗi nhóm chủ thể khác nhau theo vị trí, vai trò cũng như

chức năng, nhiệm vụ của mình sẽ thực hiện những nhiệm vụ khác nhau trong quá

trình THPL như sau:

Một là, các cá nhân và tổ chức là những chủ thể trực tiếp tuân thủ, chấp hành

và sử dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I trong việc đảm

bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy có thể thấy chủ thể của các hình

thức như tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa

bàn đô thị loại I bao gồm các cá nhân và tổ chức trong đó có các cơ quan công

quyền. Đối với các cơ quan trong hệ thống chính trị mỗi cơ quan, tổ chức theo chức

năng nhiệm vụ của mình có nhiệm vụ khác nhau trong quá trình THPL về bảo đảm

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.

Hai là, ở Việt Nam, Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo bộ máy nhà nước

thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực TTATXH nói chung và

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I nói riêng. Do đó, trong quá trình bảo đảm

TATXH, các cấp ủy Đảng có vai trò chỉ đạo, định hướng các hoạt động liên quan

đến bảo đảm TTATXH thông qua việc đề ra chủ trương, xây dựng mô hình, định

hướng các hoạt động đảm bảo trật tự an toàn xã hội, đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo bộ

máy Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị- xã hội thực hiện nhiệm vụ bảo

đảm TTATXH.

Ba là, Nhà nước bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp là cơ

quan trực tiếp triển khai quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thành các

chương trình chính sách, pháp luật triển khai trong thực tế nhằm đảm bảo

TTATXH. Theo đó các nhóm cơ quan trong bộ máy nhà nước sẽ thực hiện các

chức năng nhiệm vụ sau: (i) Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, thực hiện

quyền lập pháp, thể chế hóa quan điểm của Đảng thành các quy định trong hệ

thống pháp luật nhằm tạo ra chuẩn mực pháp lý định hướng, điều chỉnh hành vi

của các cá nhân và tổ chức hướng đến bảo đảm TTATXH; (ii) các cơ quan hành

pháp bao gồm Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương các

cấp thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhằm quản lý, điều hành các hoạt

động xã hội nói chung nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội theo chức năng nhiệm

44

vụ của mình. Theo đó nội dung thực hiện pháp luật của cơ quan hành pháp là: (1)

Thực hiện tuyên truyền pháp luật đến mọi người dân; (2) hiện thực hoá quyền và

lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp luật bằng việc ban hành văn bản dưới luật

để hướng dẫn, triển khai luật, thực hiện cách chính sách phát triển KT-XH và tổ

chức, điều hành các hoạt động KT-XH; (3) kiểm tra giám sát các vi phạm pháp

luật; (4) Giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật; (5) Kiểm tra quá

trình thực hiện pháp luật của các cơ quan; (iii) các cơ quan tư pháp bao gồm: Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân là các cơ quan trực tiếp áp

dụng các quy định pháp luật trong việc đấu tranh phòng ngừa và xử lý các hành vi

vi phạm pháp luật liên quan đến bảo đảm TTATXH.

Bốn là, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên có trách nhiệm giám sát

hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức Đảng trong quá trình thực hiện

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luât của nhà nước về bảo đảm

TTATXH; đồng thời có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục người dân trên địa bàn

đô thị loại I thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo đảm TTATXH,

đồng thời phối hợp với các cơ quan khác trong thực hiện quản lý nhà nước về bảo

đảm TTATXH.

Như vậy, chủ thể THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I rất

đa dạng từ các cá nhân với tư cách là công dân tới các cơ quan với tư cách người

thực thi, áp dụng pháp luật và các tổ chức khác. Trong các chủ thể thực hiện pháp

luật thì chỉ có các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới thực hiện hình thức áp

dụng pháp luật nghĩa là cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể vi

phạm pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý theo quy định pháp luật. Mỗi nhóm chủ

thể có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, do vậy để đảm bảo TTATXH trên địa bàn

đô thị loại I cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể này trong việc thực hiện

chức năng, nhiệm vụ của mình đồng thời cần phải có sự phân định rạch ròi chức

năng nhiệm vụ của từng nhóm chủ thể.

Thứ ba, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I vừa mang tính

quyền lực nhà nước vừa mang tính cộng đồng. Tính quyền lực nhà nước thể hiện ở

chỗ pháp luật là các nguyên tắc sử sự bắt buộc chung do nhà nước đặt ra và được

thực hiện bởi bộ máy cưỡng chế của nhà nước. Các hoạt động liên quan đến áp

45

dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức quyền lực nhà nước, được thực hiện

bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được Nhà

nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể,

đối với cá nhân, tổ chức cụ thể. Việc áp dụng pháp luật được thực hiện bởi cán bộ,

công chức có thẩm quyền hay một tổ chức được giao quyền, căn cứ vào quy định

của pháp luật. Tính cộng đồng của thực hiện pháp luật thể hiện ở chỗ chủ thể THPL

đảm bảo TTATXH không chỉ là các cơ quan nhà nước mà là toàn thể xã hội. Các

quy định pháp luật mặc dù do nhà nước đặt ra nhưng khi nó trở thành nguyên tắc,

chuẩn mực điều chỉnh hành vi, được mọi người chấp nhận thì việc tuân thủ, chấp

hành hay sử dụng pháp luật trở thành nếp sống văn hóa thường xuyên của mỗi

người dân và cộng đồng. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm

vụ của mình, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải phát huy vai trò của

người dân, sự chủ động, tích cực của người dân tham gia vào quá trình giữ gìn

TTATH, cũng như trong quá trình đấu tranh, phòng chống tội phạm về TTAXT

trên địa bàn đô thị loại I.

Thứ tư, việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I có nhiều

điểm khác biệt so với thực hiện pháp luật ở khu vực nông thôn và các đô thị loại II,

III, IV và V. Các đô thị đã xuất hiện trong lịch sử loài người từ xa xưa, từ khi mà ở

nơi này bắt đầu hình thành một nếp sinh hoạt khác biệt với nếp sinh hoạt ở nông

thôn. Quá trình đô thị hoá dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ các đô thi, quá trình này

tác động mạnh mẽ đến KT-XH, làm cho các hoạt động KT-XH có sự biến đổi mạnh

mẽ, tạo ra nhiều khác biệt về hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc

phòng với nông thôn. Do vậy việc quản lý dân cư và TTATXH ở khu vực đô thị có

nhiều điểm khác biệt, như mật độ dân số tăng, các vấn đề về hạ tầng, y tế, giáo dục,

việc làm, vấn đề về tội phạm, các tệ nạn xã hội, môi trường, v.v.. đòi hỏi các cơ

quan chức năng phải giải quyết. Thông thường việc quản lý xã hội ở các vùng nông

thôn được thực hiện dựa trên nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo

lãnh thổ, còn ở đô thị, do kết cấu hạ tầng thống nhất, liên thông đòi hỏi phải quản lý

theo ngành là chủ yếu. Chính vì thế việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn

đô thị loại I đòi hỏi có sự phối hợp của cơ quan trên nhiều địa bàn. Hơn nữa, so với

đô thị loại II, III, IV và V, đô thị loại I với mật độ dân số cao hơn, tiêu chuẩn về hạ

46

tầng, các dịch vụ công cũng cao hơn, ngoài ra, đô thị loại I là trung tâm chính trị,

hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành có thành phố trực thuộc trung

ương, thành phố thuộc tỉnh hoặc thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương,

vì các vấn đề về đảm bảo TTATXH được đặt ra thường xuyên và tần suất giải quyết

các vấn đề về TTATXH phát sinh nhiều hơn, nên nguồn lực phục vụ cho nhiệm vụ

này được tập trung hơn, với quy mô lớn hơn. Tuy nhiên, với đặc điểm trình độ dân

trí cao hơn sơ với các đô thị II, III, IV và V, nên trong quá trình THPL về bảo đảm

TTATXH trên địa bàn các độ thị loại I, các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính

trị - xã hội cần phát huy vai trò tích cực, chủ động của người dân tham gia vào quá

trình bảo đảm TTATXH trên địa bàn các độ thị loại I.

2.1.4. Vai trò thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên

địa bàn đô thị loại I

Pháp luật là căn cứ cơ bản để nhà nước xây dựng chính sách phát triển, đồng

thời là công cụ để thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình tổ chức thực hiện

mục tiêu bảo đảm TTATXH. Do vậy việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn

đô thị loại I có vai trò quan trọng như:

Thứ nhất, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I nhằm đưa

những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đảm bảo TTATXH đi vào

cuộc sống. Những chủ trương đường lối của Đảng sẽ được Nhà nước thể chế hóa

thành chương trình, chính sách và pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô

thị loại I, trong đó thực hiện pháp luật là khâu đưa các quy định pháp luật đi vào

cuộc sống. Do đó nếu không có khâu thực thi pháp luật các chủ trương, chính sách

của Đảng sẽ không được chuyển tải thành các hành động cụ thể trong thực tế.

Thứ hai, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I nhằm điều

chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trạng thái xã hội ổn định, an toàn cho mọi

người dân trong đó cuộc sống của các cá nhân và tổ chức trên địa bàn này được bảo

vệ, quyền và lợi ích chính đáng của công dân được đảm bảo. Đồng thời đây là cách

thức đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong đó các quyền con người, quyền

công dân, được bảo vệ bằng bộ máy cưỡng chế của nhà nước, tránh cho xã hội trên

địa bàn đô thị loại I rơi vào trạng thái rối loạn hoặc phát triển tự phát, thiếu tổ chức,

kỷ luật và thiếu quy hoạch.

47

Thứ ba, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I nhằm thông qua

quá trình THPL, các vấn đề của cá nhân và tổ chức được giải quyết theo hướng làm

hài hòa các quan hệ xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Cuộc

sống của người dân trên địa bàn đô thị loại I được bảo đảm an toàn tránh khỏi các

mối đe dọa, nguy hiểm bởi tội phạm, sự đàn áp. Đó là cách thức để việc giữ gìn an

ninh và an toàn cho con người, nhờ đó, con người có điều kiện phát triển mà không

phải lo lắng, sợ hãi trước sự đe dọa từ bên trong cũng như bên ngoài.

Thứ tư, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I nhằm giúp các

cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trên địa bàn này nâng cao ý thức pháp luật,

ngăn chặn và phòng ngừa hành vi vi phạm các quy định và chuẩn mực chung do

nhà nước đề ra. Việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I tạo

môi trường, cơ hội pháp lý như nhau đối với các thành viên trong xã hội để họ có

cuộc sống an toàn tạo cơ hội để họ phát huy tài năng, trí tuệ, sức lực để hoàn thiện

và phát triển bản thân mình, đồng thời phát triển xã hộ, đây là cách thức để điều

hòa lợi ích giữa các tầng lớp xã hội, bảo đảm cho xã hội phát triển hài hòa và ổn

định. Trong quá trình phát triển, xã hội luôn có xu hướng phân hóa, sự phân hóa

xã hội sẽ có tác động tiêu cực đến sự phát triển chung, Do đó thông qua quá trình

THPL sẽ giúp cộng đồng trên địa bàn các đô thị loại I điều hoà các mối quan hệ xã

hội, điều hòa các lợi ích, giúp cho hoạt động quản lý phát triển xã hội đạt hiệu quả

cao, từ đó thúc đẩy phát triển KT-XH trên địa bàn theo hướng bền vững, tạo lập

môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn đinh, an toàn, thân thiện, môi trường tự

nhiên trong lành, bảo đảm tốt an ninh, an sinh xã hội cho mọi người dân, cơ quan,

tổ chức và các doanh nghiệp hoạt động, sản xuất và thụ hưởng các thành quả phát

triển trên địa bàn đô thị loại I, đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của cả

vùng và cả nước.

Thứ năm, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I cũng là

phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước, buộc những người có chức vụ, quyền

hạn, các cơ quan chức năng phải hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp

luật, thực hiện đúng và đủ quyền hạn và chức trách của mình. Thông qua đó, hoạt

động THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là cách thức phòng,

chống sự tha hóa quyền lực, làm cho bộ máy công quyền hoạt động một cách hiệu

48

quả theo đúng tuân chỉ mục đích mà xã hội đặt ra, từ đó bảo đảm, thúc đẩy và phát

triển quyền con người, quyền công dân trên địa bàn đô thị loại I.

2.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT VÀ CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I

2.2.1. Nội dung pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

đô thị loại I

Các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng

nên các hành vi thực hiện chúng rất phong phú và đa dạng. Căn cứ vào cách thức

điều chỉnh pháp luật, nội dung pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị

loại I bao gồm:

(1) Các quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong giữ gìn

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, đó là: (i) Các quy định pháp luật cấm thực

hiện nhằm đảm bảo TTATXH, như cấm các hành vi xâm phạm đến tính mạng,

sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người, v.v..; (ii) Các quy định pháp luật bắt

buộc phải thực hiện nhằm bảo đảm các chủ thể pháp luật thực hiện đúng quy định

pháp luật về bảo đảm TTATXH, như bắt buộc mọi người điều khiển, người ngồi

trên xe mô tô, xe máy (kể cả xe máy điện) phải đội mũ bảo hiểm theo đúng quy

cách khi tham gia giao thông trên đường bộ, v.v..; (iii) Các quy định pháp luật quy

định quyền của các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội về bảo đảm

TTATXH, như quyền được học tập, quyền được khám chữa bệnh, quyền được kết

hôn, quyền tự do kinh doanh; v.v..;

(2) Các quy định về chức năng, nhiệm vụ của chủ thể trong việc bảo đảm

TTATXH, phòng chống các hành vi vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm

TTATXH, bao gồm: (i) Các quy định pháp luật liên quan đến các hoạt động phòng,

chống tội phạm (các loại tội phạm liên quan trực tiếp đến đời sống sinh hoạt của

cộng đồng); (ii) Các quy định pháp luật về hoạt động phòng, chống tệ nạn xã hội,

các hành vi sai lệch xã hội khác; (iii) Các quy định pháp luật về các hoạt động liên

quan đến phòng ngừa tai nạn bao gồm phòng ngừa tai nạn giao thông và các tai nạn

liên quan đến cháy nổ và các tai nạn khác; (iv) Các quy định pháp luật về hoạt động

quản lý hành chính về trật tự xã hội; (v) Các quy định pháp luật liên quan đến giáo

dục, cải tạo phạm nhân, học sinh các trường giáo dưỡng, trung tâm cai nghiệm và

49

các cơ sở chữa bệnh bắt buộc; (vi) Các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường,

phòng chống các sự cố về môi trường.

2.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã

hội trên địa bàn đô thị loại I

Cho đến nay, trên phương diện lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, các

công trình nghiên cứu đều xác định THPL có bốn hình thức cơ bản: tuân thủ pháp

luật; chấp hành pháp luật (hay còn gọi thi hành pháp luật); sử dụng pháp luật và áp

dụng pháp luật. Trên cơ sở đó, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại

I bao gồm các hình thức sau, đó là: (1) tuân thủ pháp luật về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I; (2) chấp hành pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn

đô thị loại I; (3) sử dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I;

(4) áp dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.

2.2.2.1. Tuân thủ pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

đô thị loại I

Tuân thủ, theo Từ điển tiếng Việt, được hiểu là giữ và làm đúng theo điều đã

quy định; trong Từ điển Cambridge Dictionary “compliance” có nghĩa là tuân thủ

và tuân thủ thường được hiểu là “làm theo một quy tắc (nguyên tắc hay quy định),

chẳng hạn như một quy định, một chính sách, một chuẩn mực hoặc luật lệ” [130].

Theo nghĩa chung này, tuân thủ pháp luật chính là các cá nhân, tổ chức thực hiện

đúng các quy định pháp luật. Trên cơ sở đó, tập thể tác giả Phạm Hồng Thái và

Đinh Văn Mậu (2009) cho rằng: “tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện

pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không thực hành những hoạt

động mà pháp luật ngăn cấm” [90, tr.400]; tác giả Nguyễn Minh Đoan (2019) cũng

cho rằng “tuân thủ pháp luật là hình thức các chủ thể pháp luật thực hiện các quy

phạm pháp luật cấm bằng hành vi không hành động, nói cách khác, các tổ chức, cá

nhân kiềm chế, giữ mình, không làm những gì mà pháp luật cấm” [39, tr.36]. Theo

cách tiếp cận đó, tuân thủ (tuân theo) pháp luật chính là một hình thức THPL đối

với các quy định mang tính ngăn cấm, cấm đoán hoặc thực hiện các giới hạn mà

pháp luật cho phép. Do vậy, các hành vi được đánh giá là tuân thủ pháp luật chủ

yếu dưới dạng không tiến hành các hoạt động mà pháp luật cấm. Chủ thể thực hiện

50

các hành vi tuân thủ pháp luật là: mọi tổ chức, cá nhân. Hình thức tuân thủ pháp luật

là kiềm chế không thực hiện điều pháp luật cấm hay thực hiện các giới hạn mà luật

cho phép. Về tính chất của hành vi đó là những hành vi các cá nhân, tổ chức buộc

phải thực hiện một cách tích cực các quy định cấm của pháp luật.

Theo cách tiếp cận này, tuân thủ pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn

đô thị loại I là hình thức THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I mà

các cá nhân, tổ chức kiềm chế không thực hiện những điều mà pháp luật về bảo

đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I cấm.

2.2.2.2. Chấp hành pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

đô thị loại I

Tác giả Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu (2009) cho rằng, chấp hành pháp

luật là “một hình thức THPL, trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình

bằng hành động tích cực” [90, tr.401]; tác giả Nguyễn Minh Đoan (2019) cũng cho

rằng “chấp hành pháp luật là hình thức các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định

pháp luật bằng hành vi hành động, nói cách khác, các tổ chức, cá nhân buộc phải

tiến hành những hành động nhất định để thực hiện nghĩa vụ pháp lý” [39, tr.37].

Theo cách tiếp cận đó, chấp hành pháp luật là hình thức THPL, trong đó các chủ thể

pháp luật thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình một cách chủ động, tích cực.

Nghĩa vụ pháp lý được quy định trong các quy phạm pháp luật bắt buộc và

được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Do vậy các chủ thể

thực hiện pháp luật nếu không chủ động thực hiện các nghĩa vụ pháp lý do pháp

luật quy định thì sẽ có bộ máy cưỡng chế của Nhà nước để buộc cá nhân và tổ chức

phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình. Như vậy, so với hình thức tuân thủ pháp

luật thì việc chấp hành pháp luật là hành động bắt buộc đối với các chủ thể pháp

luật phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý theo quy định pháp luật.

Trên phương diện đó, chấp hành pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa

bàn đô thị loại I là một hình thức thực hiên pháp luật về bảo đảm TTATXH trên

địa bàn đô thị loại I mà các chủ thể pháp luật (cá nhân, tổ chức) thực hiện nghĩa

vụ pháp lý của mình theo các quy định của pháp luật về bảo đảm TTATXH trên

địa bàn đô thị loại I.

51

2.2.2.3. Sử dụng pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô

thị loại I

Tác giả Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu (2009) cho rằng, sử dụng pháp

luật là một hình thức THPL, trong đó “con người được thực hiện những hành vi cho

phép theo quy định của các quy định pháp luật” [90, tr.401]; tác giả Nguyễn Minh

Đoan (2019) cũng cho rằng “sử dụng pháp luật là hình thức THPL, trong đó các chủ

thể pháp luật tiến hành những hành vi mà pháp luật cho phép” [39, tr.37]. Theo

cách tiếp đó, sử dụng pháp luật khác với chấp hành và tuân thủ pháp luật ở chỗ chủ

thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật trao theo

ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện. Các quy định pháp luật được

áp dụng trong hình thức thực hiện pháp luật này là “quy định về quyền và tự do

pháp lý của các chủ thể được thực hiện ở hình thức này” [39, tr.38].

Như thế, sử dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là

một hình thức THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I mà các chủ thể

pháp luật thực hiện các quyền mà pháp luật về đảm bảo TTATXH trên địa bàn đô

thị loại I đã quy định hoặc cho phép.

Quyền và tự do pháp lý về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là

những hành vi mà pháp luật cho phép các chủ thể trên địa bàn đô thị loại I thực hiện

nên các chủ thể này có thể thực hiện hoặc không thực hiện các quyền, tự do đó tuỳ

theo ý chí của mình, chứ không bắt buộc phải thực hiện. Ví dụ theo quy định pháp

luật công dân có quyền khiếu nại, tố cáo nếu thấy quyền và lợi ích của mình bị cá

nhân hay tổ chức vi phạm. Nếu khi quyền và lợi ích bị vi phạm cá nhân hay tổ chức

thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo để cơ quan chức năng có thẩm quyền bảo vệ lợi

ích cho mình đó là chúng ta đang sử dụng pháp luật.

2.2.2.4. Áp dụng pháp luật về bảo bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô

thị loại I

Tác giả Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu (2009) cho rằng:

Áp dụng pháp luật là một hoạt động tổ chức, mang tính quyền lực nhà

nước của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, nhằm thực hiện

trong thực tế các quy phạm pháp luật trong tình huống cụ thể của cuộc

sống. Đó là: (1) khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với những

52

chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật; (2) khi những quyền chủ thể và

nghĩa vụ pháp lý cụ thể không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp

của nhà nước; (3) khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ

pháp lý giữa các biên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không

thể tự giải quyết được; (4) trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước

thấy cần thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên

tham gia quan hệ đố, hoặc Nhà nước xác nhận sự tổn tại hay không tồn

tại một số sự việc, sự kiện thực tế [90, tr.402-403].

Tác giả Nguyễn Minh Đoan (2019) cũng cho rằng “áp dụng pháp luật là hình

thức THPL, trong đó các chủ thể có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật

khác thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy đinh

của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm

dứt những quan hệ pháp luật cụ thể” [39, tr.38-39].

Tư quan niệm của các chuyên gia pháp lý trên, cho thấy áp dụng pháp luật là

hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước, do các cơ quan, tổ chức hoặc các cá

nhân có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm cá

biệt hóa các quy phạm pháp luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với

các cá nhân, tổ chức cụ thể. Thực chất đây là hoạt động của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền hoặc cá nhân được Nhà nước trao quyền nhằm tổ chức cho các cơ quan

nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và các cá nhân

khác thực thi các quy phạm pháp luật một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất.

Như thế, áp dụng pháp luật bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là một

hình thức THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I mà cơ quan nhà

nước có thẩm quyền hoặc cá nhân được nhà nước uỷ quyền tổ chức cho các chủ thể

pháp luật khác thực hiện những quy định pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa

bàn đô thị loại I hoặc tự mình căn cứ vào các quy đinh của pháp luật hiện hành về

bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I để ban hành các quyết định làm phát

sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể trên địa bàn

đô thị loại I.

Từ nội hàm khái niệm này cho thấy, hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của

53

cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý trên địa bàn đô thị loại I, nó được thực

hiện chặt chẽ theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm điều chỉnh cá biệt,

cụ thể đối với cá quan hệ xã hội về TTATXH phát sinh trên địa bàn đô thị loại I.

2.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I

2.3.1. Các tiêu chí đánh giá thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

Việc đánh giá THPL về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

được căn cứ vào hai loại tiêu chí, đó là: trước hết là các tiêu chí cụ thể, đó là việc

đánh giá dựa vào đánh giá kết quả của các hình thức THPL về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I; sau đó, trên cơ sở kết quả đánh giá các hình thức THPL

đó, việc đánh giá tổng thể hoạt động THPL phải dựa trên tiêu chí tổng hợp từ các

kết quả đó.

2.3.1.1. Các tiêu chí cụ thể đánh giá hoạt động thực hiện pháp luật về bảo

đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

Việc đánh giá cụ thể THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I

được xây dựng trên cơ sở đánh giá các hình thức THPL, đó là việc tuân thủ, chấp

hành, sử dụng và áp dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.

Thứ nhất, tiêu chí đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I.

Khi đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức thông thường

chúng ta căn cứ vào các hành vi vi phạm các quy định pháp luật. Như vậy, chúng ta

thấy rằng tiêu chí đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của các chủ thể pháp luật dựa

trên mức độ kiềm chế không thực hiện “các quy định pháp luật cấm”. Do đó việc

đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật thường được đo lường thông qua số lần vi phạm

bị xử lý hay phát hiện. Tuy nhiên, việc đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật thông

qua số lần vi phạm các quy định của luật, số lần có hành vi mắc lỗi bị phạt sẽ không

phản ánh đầy đủ việc tuân thủ pháp luật của các cá nhân và tổ chức, bởi có thể trong

thực tế có những trường hợp không tuân thủ pháp luật nhưng không bị phát hiện

hay xử lý. Trong phạm vi luận án này, việc đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật về

bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I thông qua các hành vi vi phạm pháp

54

luật về bảo đảm TTATXH, theo đó mức độ tuân thủ pháp luật của các cá nhân và tổ

chức sẽ được đánh giá thông qua các hành vi không thực hiện các quy định pháp

luật cấm về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, nó được thể hiện ở số liệu

liên quan đến các loại tội phạm xảy ra trên địa bàn đô thị loại I.

Thứ hai, tiêu chí đánh giá mức độ chấp hành pháp luật về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I

Việc đánh giá mức độ chấp hành pháp luật của các chủ thể sẽ được căn cứ và

mức độ tích cực thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật, điều này

được phản ánh thông qua các hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ,

không tốt các nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I. Do đó, việc đánh giá hành vi chấp hành pháp luật về bảo

đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I được thực hiện thông qua các số liệu liên

quan đến các hành vi bị xử phạt do không thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình.

Ngoài ra, đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên địa bàn đô thị loại I,

việc chấp hành pháp luật còn được đánh giá thông qua hiệu quả hoạt động của cơ

quan này.

Thứ ba, tiêu chí đánh giá mức độ sử dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I.

Việc đánh giá mức độ sử dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn

đô thị loại I được xác định bằng việc người dân, doanh nghiệp và các tổ chức thực

hiện quyển và tự do của mình theo quy định pháp luật về TTATXH trên địa bàn đô

thị loại I.

Thứ tư, tiêu chí đánh giá mức độ áp dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên

địa bàn đô thị loại I

Việc đánh giá áp dụng pháp luật bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I

được căn cứ vào kết quả các quyết định quản lý nhà nước làm phát sinh, thay đổi,

đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể liên quan đến quyền, lợi ích

hợp pháp hoặc trách nhiệm pháp lý của các chủ thể pháp luật trên địa bàn đô thị loại

I. Trong đó, số lượng, chất lượng giải quyết các vụ vi phạm pháp luật về bảo đảm

TTATXH của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên địa bàn đô thi loại I là tiêu

55

chí quan trọng để đánh giá kết quả áp dụng pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa

bàn đô thị loại I.

2.3.1.2. Các tiêu chí tổng thể đánh giá hoạt động thực hiện pháp luật về bảo

đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

Việc đánh giá tổng thể hoạt động THPL cần: so sánh giữa trạng thái của các

quan hệ xã hội trước và sau khi pháp luật được thực hiện; so sánh giữa những biến

đổi tích cực với những biến đổi không tích cực của các quan hệ xã hội do việc

THPL mang lại; đối chiếu và so sánh kết quả thực tế đạt được do việc THPL với

mục đích, yêu cầu mong muốn đạt được khi thực hiện nó [39, tr.89]. Như thế kết

quả THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I là tổng hoà kết quả của

các hình thức THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, vì thế, trên cơ

sở đánh giá kết quả các hình thức THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị

loại I, việc đánh giá tổng thể hoạt động THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô

thị loại I theo các tiêu chí sau:

Thứ nhất, mức độ ổn định kinh tế, xã hội trên địa đô thị loại I.

Mức độ ổn định kinh tế, xã hội trên địa bàn đô thị loại I phản ánh trạng thái

các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật về TTATXH trên

địa bàn, mức độ ổn định kinh tế, xã hội sẽ được thể hiện thông qua tốc độ phát triển

kinh tế qua các năm, mức độ phát triển văn hoá, xã hội, an sinh xã hội, v.v.. Nếu

múc độ ổn định kinh tế, xã hội loại I càng cao thì hoạt động THPL về TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I càng cao và ngược lại.

Thứ hai, mức độ an toàn, yên ổn, các quyền và lợi ích chính đáng của người

dân, doanh nghiệp và các tổ chức khác trên địa bàn đô thị loại I.

Kết quả hoạt động THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I phản

ánh trực diện mức độ an toàn, yên ổn, các quyền và lợi ích chính đáng của người

dân, doanh nghiệp và các tổ chức khác trên địa bàn đô thị loại I, nếu hoạt động

THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ngày càng tốt thì mức độ an

toàn, yên ổn, các quyền và lợi ích chính đáng của người dân, doanh nghiệp và các tổ

chức khác trên địa bàn đô thị loại I ngày càng cao và ngược lại.

56

2.3.2. Các điều kiện để thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã

hội trên địa bàn đô thị loại I

Thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I vừa mang

tính quyền lực nhà nước vừa mang tính cộng đồng. Chủ thể THPL vừa là các cơ

quan công quyền vừa là công dân với tư cách cá nhân hay với tư cách tổ chức. Do

vậy việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I chịu ảnh hưởng của

nhiều nhóm nhân tố. Để bảo bảo THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị

loại I cần có các điều kiện cơ bản như sau:

2.3.2.1. Điều kiện về hệ thống pháp luật đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên

địa bàn đô thị loại I

Để bảo đảm chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I

thì yếu tố căn bản và quan trọng là chất lượng hay mức độ hoàn thiện của hệ thống

pháp luật về bảo đảm TTATXH nói chung và TTATXH trên địa bàn đô thị loại I

nói riêng. Hệ thống pháp luật này càng cụ thể, chi tiết và phù hợp bao nhiêu thì việc

thực hiện pháp luật càng dễ dàng thuận tiện, hiệu quả bấy nhiêu và ngược lại nếu hệ

thống pháp luật này thiếu đồng bộ, thiếu tính khả thi thì việc THPL trong thực tế sẽ

gặp phải những trở ngại và gián đoạn do sự xung đột giữa nội dung các quy phạm

và thực tiễn các quan hệ xã hội. Một hệ thống pháp luật về TATXH trên địa bàn đô

thị loại I hoàn thiện với các quy định đầy đủ, cụ thể trong luật và văn bản hướng

dẫn thi hành là điều kiện quan trọng để các chủ thể biết và thực hiện; đồng thời

tránh được sự tùy tiện trong quá trình tuân thủ, chấp hành, sử dụng hay áp dụng

luật. Các quy định pháp lý thiếu rõ ràng sẽ dẫn đến tình trạng các cơ quan áp dụng

pháp luật thiếu thống nhất đối với cùng một hành vi và tình huống vi phạm tương

tự, từ đó dẫn đến việc tuỳ tiện trong việc lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng,

khung hình phạt, hoặc có thể buộc tội theo tư duy, mong muốn chủ quan của mình,

đây là cơ sở dẫn đến oan sai hoặc bỏ lọt tội. Đồng thời sự thiếu rõ ràng dễ dẫn đến

tình trạng việc định khung hình phạt là không thống nhất, điều này vi phạm quyền

được xét xử đúng đắn và công bằng trước pháp luật của chủ thể pháp luật.

Mặt khác, việc thiếu quy định rõ ràng cụ thể trong hệ thống pháp luật về bảo

đảm TTATXH sẽ khiến cho tình trạng bỏ qua tội phạm bởi thiếu căn cứ pháp lý để

xử các hành vi. Do vậy, nếu hệ thống pháp luật thiếu toàn diện, bao quát hay không

57

quy định rõ ràng cụ thể sẽ rất khó để người dân và các cơ quan công quyền thực

hiện tốt pháp luật trong thực tế. Ngoài yêu cầu về tính toàn diện, bao quát hệ thống

pháp luật cần đảm bảo tính đồng bộ để tránh trường hợp các cơ quan chức năng và

người dân không biết áp dụng theo quy định nào? Bên cạnh đó tính dễ áp dụng hay

việc giảm bớt tủ thục pháp lý cũng tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận với

hệ thống cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo quyền và lợi ích của mình.

Như vậy chúng ta thấy mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật về bảo đảm

TTATXH là nhân tố quan trọng tác động đến việc THPL về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I của người dân và cơ quan công quyền. Bởi nếu luật pháp

không phản ảnh hết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống thì cũng khó để đưa

pháp luật trở thành quy chuẩn định hướng, điều chỉnh hành vi trong thực tế.

2.3.2.2. Điều kiện về trình độ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn đô thị

loại I

Thực hiện pháp luật là quá trình thực hiện hành vi của các nhóm chủ thể khác

nhau trong xã hội do vậy việc thực hiện các hành vi của các nhóm phụ thuộc rất lớn

vào bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở đó các cá nhân sinh sống và làm

việc. Văn hoá là một hệ thống những giá trị, chuẩn mực và niềm tin được hình

thành, phát triển qua nhiều thế hệ. Các giá trị, quy chuẩn văn hóa được cá nhân học

hỏi trong quá trình sống tạo thành quy chuẩn dẫn dắt, điều chỉnh hành hành vi của

con người. Những cộng đồng, các cá nhân có các giá trị, niềm tin và chuẩn mực văn

hóa khác nhau sẽ có cách thức ứng xử khác nhau với những vấn đề họ gặp phải

trong cuộc sống. Do vậy các quy chuẩn giá trị văn hóa của cộng đồng là nhân tố ảnh

hưởng đến mức độ thực hiện pháp luật của các cá nhân hay tổ chức. Các nghiên cứu

về việc tuân thủ chấp hành pháp luật của người dân chỉ ra rằng môi trường văn hóa

có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc THPL của các chủ thể pháp luật.

Chúng ta thường thấy rằng các cá nhân sống trong môi trường nơi có đa

số người dân có ý thức tuân thủ chấp hành quy định pháp luật thì xác

xuất để các cá nhân đó sa vào tệ nạn xã hội hay tội phạm là thấp hơn so

với các cá nhân sống trong môi trường xã hội có đa số người dân thiếu ý

thức chấp hành quy định của luật. Sự tác động của môi trường đến hành

vi tuân thủ pháp luật có thể thực hiện thông qua cơ chế học hỏi. Ví dụ

58

các cá nhân khi tham gia giao thông, họ có thể không biết cụ thể về các

quy định pháp luật nhưng anh ta cũng không vi phạm luật lệ vì đa số họ

thực hiện hành vi giống với những người cùng đi. Các nghiên cứu cho

thấy người dân thường nắm những yêu cầu chung của pháp luật mà ít

biết các quy phạm pháp luật cụ thể; nhưng trong nhiều trường hợp, tuy

không nắm được quy định cụ thể nào đấy nhưng do họ hành động theo

nếp sống xã hội nên không vi phạm pháp luật [85, tr.28-29].

Trong bảo đảm TTATXH, yếu tố tập quán, nếp sống, thói quen có ảnh hưởng

rất mạnh mẽ đến ý thức và hành vi pháp luật của người dân. Bởi tập quán văn hoá

sẽ định hình và điều chỉnh hành vi, do đó nó điều chỉnh hành vi tuân thủ, chấp hành

hay không tuân thủ chấp hành các quy định chung.

Ngoài yếu tố văn hóa thì bối cảnh kinh tế - sự thay đổi cơ cấu kinh tế cũng là

nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tuân thủ, chấp hành hay sử dụng pháp luật của cá

nhân và tổ chức.

Nhà xã hội học người Pháp Emile Durkhiem chỉ ra rằng khi xã hội có sự

thay đổi diễn ra một cách nhanh chóng, điều này sẽ tạo ra trạng thái hỗn

độn, thiếu sự quan tâm giữa con người với con người đưa đến tình trạng

thiếu hụt chuẩn mực và giá trị sống đồng thời phá vỡ các chuẩn mực điều

chỉnh hành vi con người. Do vậy trong bối cảnh kinh tế có sự chuyển đổi

nhanh chóng thường các cá nhân dễ rơi vào trạng thái vô thức từ trạng

thái vô thức sẽ dẫn đến các hành vi lệch chuẩn, tội phạm xã hội, tệ nạn

xã hội gia tăng. Các nhà xa hội học cũng chỉ ra rằng tỷ lệ tội phạm gia

tăng trong nhóm người không có chỗ đứng [65, tr.65].

Các lý thuyết tội phạm học theo trường phái lại từ xã hội cho rằng các hành vi

tội phạm là sản phẩm của môi trường xã hội. Do đó khi tìm hiểu các nhân tố ảnh

hưởng đến việc thực hiện pháp luật chúng ta không thể bỏ qua nhóm nhân tố liên

quan đến bối cảnh kinh tế- xã hội. Tác động của yếu tố bối cảnh kinh tế xã hội đến

mức độ tuân thủ, chấp hành các quy định pháp luật sẽ được kiểm chứng khi chúng

ta so sánh việc tuân thủ, chấp hành, sử dụng hay áp dụng pháp luật ở các thời kỳ

khác nhau, giữa các địa bàn có đặc trưng kinh tế xã hội khác nhau.

59

Ngoài ra chúng ta cần quan tâm đến bối cảnh chính trị - pháp lý bởi việc thực

hiện pháp luật không thể tách rời với bối cảnh chính trị pháp lý nghĩa là nó liên

quan đến mức độ dân chủ, đến việc độc lập của hệ thống tư pháp. Theo

Montesquieu, công lý không thể có được trong một xã hội mà cơ quan tư pháp phải

phục tùng sự chuyên quyền, lạm quyền của bộ máy quyền lực nhà nước. Khác với

chế độ quân chủ, trong nhà nước dân chủ không một lĩnh vực nào của cuộc sống bị

loại trừ ra khỏi vòng xét xử của tòa án. Chính vì vậy, ông mạnh mẽ khẳng định

“Tòa án không thể là công cụ trong tay chủ thể quyền lực khi chính chủ thể đó

không là đối tượng của cơ quan tư pháp” [115]. Như vậy mức độ độc lập của tòa án

có ảnh hưởng đến khả năng phán xét và việc áp dụng pháp luật của các cơ quan

công quyền trong việc giải quyết các tranh chấp diễn ra trong xã hội, từ những tranh

chấp giữa các cá nhân cho đến các tranh chấp giữa cá nhân và tổ chức hay giữa các

tổ chức. Do vậy mức độ dân chủ và sự độc lập của cơ quan tư pháp, cơ chế phối

hợp hành động giữa các cơ quan công quyền sẽ là nhân tố có tác động trực tiếp đến

chất lượng của việc thực hiện pháp luật mà đặc biệt là chất lượng của việc áp dụng

pháp luật để đạt mục đích là bảo vệ công lý. Do đó nếu tòa án và các cơ quan tố

tụng khác không hoạt động độc lập đủ để cả các nhà chính trị lẫn dân chúng đều tự

cảm thấy là phải tuân theo phán xét thì tình trạng xét xử có vùng cấm, vùng nhạy

cảm và việc đảm bảo quyền xét xử đúng đắn công bằng bởi một tòa án có thẩm

quyền của người dân sẽ khó được đảm bảo trong thực tế.

Bên cạnh đó việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I bị chi

phối mạnh mẽ bởi các điều kiện liên quan đến cơ sở hạ tầng trên địa bàn đô thị loại

I như chất lượng của các công trình xây dựng, giao thông; liên lạc, kết cấu các khu

nhà ở, khu vực sản xuất… Trình độ phát triển khoa học công nghệ cũng là một

trong những yếu tố tác động trực tiếp đến việc THPL bảo đảm TTATXH của các

nhóm chủ thể. Trước đây khi công nghệ kỹ thuật chưa phát triển, máy tính và mạng

internet chưa phát triển tội phạm sử dụng công nghệ cao chưa xuất hiện. Ngày nay

cùng với sự phát triển của công nghệ, các loại tội phạm công nghệ cao liên quan

đến việc sử dụng máy tính, thiết bị số, khai thác mạng máy tính, mạng viễn thông

để gây tổn hại cho lợi ích của các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội ngày càng phát

60

triển, việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng chống tội phạm đã có nhiều

thay đổi.

2.3.2.3. Điều kiện về năng lực thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền trên địa bàn đô thị loại I

Việc THPL nói chung và THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị

loại I chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ,

công chức thuộc các cơ quan công quyền. Đội ngũ cán bộ công chức các cơ quan

công quyền vừa là người tham mưu, xây dựng hệ thống pháp luật đồng thời là đội

ngũ trực tiếp thực thi pháp luật, đưa các quy định pháp luật đi vào cuộc sống. Họ

là người bảo vệ công lý và pháp luật, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, quyền con

người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, chống lại các hành vi vi phạm

pháp luật. Họ cũng là những người đóng vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh

liên tục, không khoan nhượng với các hiện tượng quan liêu, hành vi tham nhũng,

cửa quyền, tiêu cực khác, làm cho bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt

động có hiệu lực, hiệu quả. Do vậy, hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện pháp luật

xét đến cùng được quyết định bởi số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ làm

công tác thực hiện pháp luật, phụ thuộc vào năng lực thực thi pháp luật của đội

ngũ cán bộ công chức thuộc các cơ quan công quyền. Nghĩa là nó phụ thuộc vào

các yếu tố như số lượng, cơ cấu; chất lượng đội ngũ cán bộ bao gồm năng lực thực

thi công vụ được đánh giá thông qua kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi để thực

hiện công việc được giao. Năng lực thực thi công vụ còn bao hàm khả năng kết

hợp hài hòa các yếu tố trên trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt

được hiệu quả công việc cao nhất.

Năng lực thực thi công vụ của cán bộ các cơ quan công quyền không chỉ ảnh

hưởng đến hiệu quả thực hiện pháp luật của các cơ quan công quyền mà nó ảnh

hưởng trưc tiếp đến việc thực hiện pháp luật của người dân. Bởi Pháp luật là công cụ

kiểm soát hành vi của cá nhân và tổ chức từ bên ngoài tuy nhiên việc hiểu và có niềm

tin vào pháp luật có niềm tin vào sự nghiêm minh, đúng đắn của các cơ quan bảo vệ

pháp luật sẽ tạo ra hành vi kiểm soát từ bên trọng. Nếu pháp luật phản ánh đúng thực

tại xã hội, phù hợp với quy chuẩn mà đạo đa số người dân trong cộng đồng tin theo,

việc thực thi pháp luật nghiêm minh đủ tạo ra niềm tin của người dân vào các cơ quan

61

công quyền thì các cá nhân và tổ chức sẽ tự động thực hiện pháp luật một cách

nghiêm minh. Chúng ta thấy rằng niềm tin pháp luật không tự xuất hiện ở các cá

nhân mà phải có sự tác động của thực tiễn pháp luật, thực tiễn chấp hành pháp luật

của những người xung quanh và nhất là của các nhà chức trách áp dụng pháp luật.

Theo đó việc áp dụng, xử lý vi phạm pháp luật của các cơ quan công quyền không

được thực hiện một cách nghiêm minh, không kịp thời và đúng đắn sẽ có ảnh hưởng

tiêu cực đến yếu tố niềm tin pháp luật của các cá nhân và tổ chức do đó nó ảnh hưởng

đến việc tuan thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật của công dân.

2.3.2.4. Điều kiện về ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật của người dân,

doanh nghiệp và các tổ chức trên địa bàn đô thị loại I

Nếu các nhân tố liên quan đến chất lượng của hệ thống pháp luật, bối cảnh kinh

tế, văn hóa, chính trị, xã hội là nhân tố tác động kiểm soát các hành vi thực hiện pháp

luật của các nhóm chủ thể từ bên ngoài thì mức độ hiểu biết, niềm tin vào sự đúng

đắn nghiêm minh của pháp luật, thực thi pháp luật là những nhân tố tác động kiểm

soát định hướng hành vi tuân thủ pháp luật từ bên trong. Do đó việc tuân thủ, chấp

hành hay sử dụng pháp luật của người dân phụ thuộc vào năng lực pháp lý, trình độ

học vấn, mức độ hiểu biết, tin tưởng vào pháp luật của nhóm chủ thể này.

Walter C.Reckless nhà xã hội học người Mỹ chỉ ra rằng tội phạm là kết quả

của áp lực xã hội liên quan đến cá nhân thúc đẩy họ thực hiện hành vi phạm tội

cũng như sự thất bại trong việc chống lại áp lực đó [65, tr.75]. Do vậy trong môi

trường có nhiều biến đổi, con người đứng trước những áp lực điều này tạo ra điều

kiện đẩy con người đến hành vi phi chuẩn mực, không tuân thủ, chấp hành pháp

luật nhưng môi trường xã hội tạo cho họ cơ chế để kiểm soát hành vi để họ nhận

thức được rằng hành vi phi chuẩn sẽ bị trừng phạt thì khả năng các cá nhân xu

hướng tuân thủ chuẩn mực càng cao. Điều này đúng với người dân khi tuân thủ hay

chấp hành pháp luật đồng thời nó đúng với các công chức trong cơ quan công

quyền những người vừa tuân chủ vừa áp dụng quy định của luật. Nếu môi trường

văn hóa, chính trị pháp lý nghiêm minh tạo ra cơ chế ràng buộc hay đủ sức răn đe

điều này trực tiếp ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ hay sử dụng luật của các cá nhân

và tổ chức. Bởi yếu tố niềm tin vào pháp luật, công lý, vào thực thi pháp luật của cá

nhân và các cơ quan công quyền có tầm quan trọng đặc biệt trong việc định hướng

các hoạt động thực hiện pháp luật của các nhóm chủ thể này.

62

2.4. KINH NGHIỆM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN

TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ NHỮNG GIÁ

TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM

2.4.1. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội

trên địa bàn đô thị ở một số quốc gia

Singapore là quốc đảo, đồng thời cả đất nước này là một đô thị, đây là đô thị

được bảo đảm TTATXH đứng đầu châu Á, đứng thứ 13 toàn cầu về chỉ số pháp

quyền, tiếp đến là Tokyo (Nhật Bản) đứng thứ 15 và Seul (Hàn Quốc) đứng thứ 18

[131]. Các đô thị này thuộc các quốc gia châu Á vì thế có những nét tương đồng với

đô thị loại I ở Việt Nam về đặc điểm đô thị, về sự đang dạng các hoạt động KT-XH,

về thói quen, nền lối của một bộ phận người dân và về nét đặc trưng của văn hoá

phương đông (trọng tình hơn trọng lý); v.v.. Chính vì thế, việc nghiên cứu thực tiễn

THPL về bảo đảm TTATXH ở các đô thị này sẽ hữu ích cho Việt Nam hiện nay.

2.4.1.1. Tuân thủ pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

đô thị ở Singapore, Tokyo, Seul

Chính quyền ở Singapore, Tokyo, Seul đều có những quy định chặt chẽ, rõ

ràng về các hành vi cấm vì thế, người dân ở các đô thị này tuân thủ nghiêm ngăt các

hành vi cấm này, bao gồm những hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp

của chủ thể khác, như cấm các hành vi vi phạm đến quyền sở hữu của chủ thể; cấm

hành vi xâm phạm đến danh dự, sức khoẻ, tính mạng người khác; cấm các hành vi

vi phạm đến trật tự công cộng; v.v.. Ngoài ra, để giữ vệ sinh chung, như: cấm xả rác

hoặc khạc nhổ trên đường hoặc nơi công cộng; cấm ăn uống trên tàu điện ngầm;

không xả nước khi đi vệ sinh; không được ăn, mang theo hoặc buôn bán kẹo cao su

trên đất nước này. Thêm vào đó, để đảm bảo trật tự nơi công cộng, luật pháp tại các

quốc gia này quy định: không được phép ăn mặc quá hở hàng tại nơi công cộng;

cấm những hành vi quấy rối hoặc lời lẽ khiêu dâm với người khác; cấm hôn nhau

nơi công cộng; cấm tắm tại những nơi công cộng; cấm khỏa thân nơi công cộng,

thậm chí là bãi biển và khỏa thân đi lại trong chính ngôi nhà của mình; không được

ra ngoài khi đang say rượu; cấm mang hoặc uống rượu bia trong bệnh viện; nghiêm

cấm để chó cắn người; cấm thả diều nơi công cộng; cấm hút thuốc lá nơi công cộng

hoặc nơi không được phép hút, nếu có người ở tại nơi không cấm thì vẫn phải xin

63

phép những người có mặt để được phép hút; nghiêm cấm việc cố ý cản trở người

khác đi theo hướng mà người khác được đi; cấm gây ồn ào hoặc phiền toái đến

những người xung quanh dưới mọi hình thức.

Đặc biệt ở Singapore, pháp luật nước này còn quy định: mọi người không

được có thái độ hoặc biểu hiện không tốt khi ăn thức ăn; không được ngồi vào chỗ

đã có người nhận chỗ tại các cửa hàng ăn (nhận chỗ bằng cách đặt giấy ăn lên ghế -

chỗ mình nhận); không được đùa nghịch với đũa; không tháo giầy dép khi vào nhà

hoặc vào các đền chùa; không được dùng tay trái khi ăn các món Ấn hoặc Malaysia.

Các quy định pháp luật cấm về bảo đảm TTATXH được người dân thực hiện

tốt, việc vi phạm các quy định pháp luật cấm ở Singapore, Tokyo và Seul diễn ra

tương đối ít, chình vì thể chỉ số tội phạm ở các thành phố này tương đối thấp so với

nhiều đô thị khác ở các quốc gia trong khu vực (Biểu đồ 2.1).

Biểu đồ 2.1: Chỉ số tội phạm ở Singapore, Tokyo và Seul

Nguồn: Numbeo (2021) [129]

Tuy nhiên, trong những năm gần đây tỷ lệ tội phạm ở Singaore và Seul có

chiều hướng gia tăng (Biểu đồ 2.2), đặc biệt là các vụ các vụ lừa đảo mạo danh ở

Singapore trên mạng xã hội và lừa đảo qua mạng xã hội cũng tăng đáng kể, trong

khi các vụ lừa đảo cho vay cũng gia tăng [133].

Các vụ xâm hại tình dục trên mạng xã hội (Social network) ở Seul cũng

có chiều hướng gia tăng, nếu năm 2008, chưa đến 4% các vụ truy tố tội

phạm tình dục ở Hàn Quốc liên quan đến quay phim bất hợp pháp; đến

năm 2017, số vụ này đã tăng gấp 11 lần, từ 585 vụ lên 6.615 vụ, và

chúng chiếm 20% các vụ truy tố tội phạm tình dục [132].

64

Đơn vị: %

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ tội phạm trên 100000 dân ở Singapore và Seul

Nguồn: Statista (2021) [136] và Macrotrends (2021) [135]

2.4.1.2. Chấp hành pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

đô thị ở Singapore, Tokyo, Seul

Pháp luật ở Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc còn có các quy định bắt buộc

các chủ thể pháp luật phải thực hiện nhằm bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị,

tuỳ vào lĩnh vực cụ thể, hệ thống pháp luật về bảo đảm TTATXH có quy định cụ

thể để các chủ thể phải thực hiện nghiêm túc. Thực tế với điều kiện KT-XH phát

triển, trình độ dân trí cao cho nên người dân ở thành phố Singapore, Tokyo và Seul

chấp hành tốt các quy định pháp luật, trong đó pháp luật về an toàn giao thông, về

vệ sinh môi trường, v.v.. Như trong lĩnh vực kinh doanh, pháp luật Singapore đặt ra

quy định về điều kiện kinh doanh trong một số những ngành nghề nhất định, ví dụ:

Dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ khám chữa bệnh, giao thông vận tải và lưu trữ,

xuất nhập khẩu hàng hóa, kinh doanh khách sạn, nhà trọ, hoạt động trong ngành

giải trí, v.v..

Theo pháp luật Singapore, để có thể đăng ký kinh doanh hoặc thực hiện

kinh doanh trong một số ngành nghề cụ thể, doanh nghiệp phải được cấp

giấy phép hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh

đó, tại Singapore có 3 loại giấy phép phổ biến, đó là: giấy phép bắt buộc,

đây là loại giấy phép cấp cho doanh nghiệp kinh doanh nhưng không

phải tất cả các doanh nghiệp mà chỉ một số loại hình doanh nghiệp nhất

định đòi hỏi phải có giấy phép đặc biệt này trước khi họ có thể hoạt

động; giấy phép nghề nghiệp; giấy phép hoạt động kinh doanh [122].

65

Trong bối cảnh dịch Covid-19 hiện nay, Singapore đã triển khai thực hiện các

biện pháp phòng chống dịch bệnh, trong đó Chính phủ Singapore quyết định kéo

dài thời gian cách ly bắt buộc với người nhập cảnh từ các nước có nguy cơ cao lên

21 ngày, bắt đầu từ ngày 8/5/2021, đồng thời thắt chặt hơn một số biện pháp giãn

cách xã hội trong nước.

Tuy vậy, ở các đô thị, tình trạng người dân miễn cưỡng hoặc đối phó việc thực

hiện các nghĩa vụ theo quy định pháp luật vẫn còn xảy ra, trong đó chủ yếu xảy ra

trong lĩnh vực lao động, việc làm, kinh doanh, v.v..

Như ở Seul và một số nơi khác của Hàn Quốc, tình trạng phụ nữ làm

công việc không được trả lương nhiều gấp 4 lần nam giới và đối mặt với

khoảng cách trả lương theo giới là 32,5%; bạo lực trên cơ sở giới là phổ

biến, thậm chí so với ước tính toàn cầu rằng cứ 3 phụ nữ thì có 1 phụ nữ

bị bạo lực; trong một cuộc khảo sát năm 2017 với 2.000 nam giới Hàn

Quốc, gần 80% số người được hỏi thừa nhận đã có hành vi bạo lực với

bạn tình; Hàn Quốc là quốc gia hiếm hoi trên toàn cầu có tỷ lệ giết người

ngang nhau giữa nam và nữ [132].

2.4.1.3. Sử dụng pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô

thị ở Singapore, Tokyo, Seul

Hệ thống pháp luật ở Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc quy định rất rõ về

quyền và nghĩa vụ của người ở các nước này. Trong Hiến pháp của Singapore, Nhật

Bản và Hàn Quốc đều quy định rõ quyền tự do và các quyền cơ bản của người dân,

như: Hiến pháp Singapore năm 1963 (sửa đổi năm 2016) quy định quyền tự do,

quyền bình đẳng, quyền khiếu nại, quyền làm việc, v.v.. (từ Điều 9 đến Điều 16)

[134, tr.16-20]; Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 ũng quy định những quyền này từ

Điều 10 đến Điều 40 [58, tr.18-23]; tương tự Hiến pháp Hàn Quốc năm 1987 cũng

quy định từ Điều 10 đến Điều 39 [58, tr.39-47], người dân ở các đô thị này đã phát

huy quyền làm chủ của mình nhằm bảo đảm “nguyên tắc tự quản (tự trị)”, đặc biệt

là trực tiếp bầu ra thị trưởng. Hiến pháp Nhật Bản đã quy định “hoạt động bộ máy

chính quyền địa phương được pháp luật quy định phù hợp với nguyên tắc tự trị địa

phương” (Điều 92) [58, tr.33] và “Người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương,

thành viên của các hội đồng nhân dân và các công chức địa phương khác theo quy

66

định của pháp luật đều được bầu theo phương thức phổ thông đầu phiếu trực tiếp

trong cộng đồng” (Điều 93) [58, tr.33], theo đó chính quyền thành phố Tokyo được

tổ chức gồm 2 cơ quan: Hội đồng thành phố và Thị trưởng. Các thành viên Hội

đồng thành phố do người dân trực tiếp bầu ra, nhiệm kỳ 4 năm. Hội đồng thành phố

quyết định các chính sách quản lý và phát triển đô thị, giám sát hoạt động của cơ

quan hành chính: yêu cầu Thị trưởng báo cáo việc quản lý, thu chi ngân sách đô thị,

việc thi hành nghị quyết của Hội đồng.

Hội đồng thành phố đại điện cho 12 triệu công dân của Thủ đô Tokyo, có

quyền biểu quyết bất tín nhiệm đối với Thị trưởng. Thị trưởng do người

dân trực tiếp bầu ra và có nhiệm kỳ 4 năm, chịu trách nhiệm đối với toàn

bộ hoạt động của chính quyền đô thị và có quyền đại diện cho chính

quyền đô thị trong quan hệ với bên ngoài [2].

Cũng giống như mô hình của chính quyền đô thị Tokyo, mối quan hệ giữa

chính quyền thành phố Seoul và chính quyền các quận được xây dựng theo nguyên

tắc tự quản. Hiến pháp Hàn Quốc quy định “Chính quyền địa phương giải quyết các

vấn đề hành chính liên quan đến an sinh của dân cư địa phương, quản lý tài sản và

có thể đề ra các quy định liên quan đến tự chủ địa phương trong phạm vi luật định”

(Khoản 1, Điều 117) [58, tr.67], theo quy định đó, Chính quyền đô thị được thành

lập ở thành phố và cấp quận, trong đó chính quyền thành phố Seoul gồm Hội đồng

thành phố (Metropolitan Council) và Thị trưởng. Hội đồng được coi là cơ quan lập

pháp của thành phố, do người dân Seoul bầu, nhiệm kỳ 4 năm. Thị trưởng có văn

phòng của thị trưởng được bầu, và cơ quan hành pháp; chính quyền cấp quận cũng

bao gồm Hội đồng quận và Quận trưởng do người dân bầu ra. Dưới quận là phường

(xã) nơi có các nhân viên hành chính quận để cung cấp các dịch vụ công cho người

dân. Bên cạnh đó, người dân ở các đô thị này trực tiếp tham gia vào quá trình giữ

gìn TTATXH trên địa bàn họ sinh sống, như tham gia vào bảo vệ môi trường, bảo

vệ an ninh trật tự, v.v.. và thực hiện các hoạt động giám sát cộng đồng của người

dân. Chính vì thế, trong những năm qua, chỉ số an toàn ở Singapore, Tokyo và Seul

luôn ở mức độ cao và được xếp vào nhóm các đô thị có chỉ số an toàn cao nhất ở

châu Á và thế giới (Biểu đồ 2.3).

67

.

Biểu đồ 2.3: Chỉ số an toàn ở Singapore, Tokyo và Seul

Nguồn: Numbeo (2021) [129]

2.4.1.4. Áp dụng pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

đô thị ở Singapore, Tokyo, Seul

Hoạt động áp dụng pháp luật trên địa bàn đô thị được chính quyền ở

Singapore, Tokyo, Seul thực hiện nghiêm túc. Các biện pháp chế tài được chính

quyền ở các đô thị này áp dụng triệt để nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm

TTATXH trên địa bàn đô thị, đồng thời tăng cường tính răn đe đối với các chủ thể

pháp luật. Theo pháp luật môi trường Singapore, chính quyền ở đây lấy chế tài hình

sự là công cụ cơ bản để thực thi, biện pháp này được áp dụng đối với người bị kết

án phạt tiền, phạt tù, bắt bồi thường và đối với những vi phạm nhỏ thì phạt cải tạo

lao động bắt buộc (chỉ áp dụng với những bị cáo đủ 16 tuổi trở lên và đủ tiêu chuẩn

y tế), cụ thể là:

(1) Hình phạt tiền: Đây là hình phạt phổ biến nhất trong các đạo luật về môi

trường của Singapore, phạt tiền được xem là công cụ hữu hiệu trong việc tăng

cường hiệu lực pháp luật về bảo vệ môi trường của Singapore.

Theo các đạo luật ở Singapore thì có nhiều mức độ vi phạt tiền khác

nhau, tuỳ thuộc vào các đạo luật khác nhau và mức độ nguy hiểm của

hành vi gây ra. Ví dụ trường hợp đổ rác nơi công cộng, nếu bị Toà án kết

tội thì người vi phạm sẽ bị phạt đến 10.000$ với vi phạm lần đầu và nếu

tái phạm sẽ bị phạt tới 20.000$ [76].

68

(2) Hình phạt tù: đây là chế tài nghiêm khắc nhất nhằm trừng trị những

người vi phạm ngoan cố, khi mà các hành vi phạm tội có thể mang lại cho người

phạm tội những khoản lợi nhuận lớn nếu họ không bị phát hiện và hình phạt tiền

vẫn không ngăn chặn được các hành vi mà người đó gây ra.

Theo Đạo luật về môi trường sức khoẻ cộng đồng và Đạo luật kiểm soát

ô nhiễm thì những người vi phạm lần đầu bị buộc tội về hành vi đưa chất

thải hoặc các chất độc hại vào nguồn nước ngầm có thể bị phạt tù đến 12

tháng. Đối với những người tái phạm thì có thể bị phạt tù với chế độ

khắc nghiệt từ 1 đến 12 tháng [76].

(3) Pháp luật nước này còn áp dụng các hình phạt khác như: tạm giữ và tịch

thu; lao động cải tạo bắt buộc và các biện pháp hành chính khác. Thêm vào đó, biện

pháp dân sự được áp dụng, đó là yêu cầu cá nhân gây ô nhiễm phải nộp phạt, bồi

thường thiệt hại, chi phí và các khoản phí tổn mà cơ quan có thẩm quyền phải chịu

để làm sạch môi trường...

Theo Điều 97 của Luật Bảo vệ môi trường của Singapore thì Chính phủ

có thể thu giữ lại từ người sở hữu hoặc quản lý tài sản các phí tổn và chi

phí đã được sử dụng trong quá trình thực hiện bất kỳ nào đã được quy

định trong luật. Trong vòng 14 ngày theo quy định, nếu chi phí này chưa

được thanh toán thì vụ việc sẽ được đưa ra Toà [76].

Tuy nhiên, việc xử lý các vụ vi phạm pháp luật ở các đô thị này không phải

lúc nào cũng thuận lợi và được nhân viên nhà nước thực hiện đầy đủ. Dữ liệu của

chính phủ Hàn Quốc cho thấy rằng trong phần lớn các trường hợp khi nhận tin báo

tội phạm, nghi phạm sẽ bị điều tra và bị truy tố.

Nhưng do các vụ phạm tôi thường rất phức tạp, đặc biệt trong môi trường số

và sự phát triển của mạng xã hội, các công tố viên đã bỏ qua nhiều trường hợp

phạm tội. Trong năm 2019, các công tố viên đã bỏ qua 46,8% các vụ án tội phạm

tình dục so, 27,7% các vụ giết người và 19% các vụ cướp, 43,5% các vụ án tội

phạm tình dục kỹ thuật số” [132].

2.4.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam

Từ thực tiễn THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị ở Singapore,

Tokyo và Seul cho thấy chính quyền ở các đô thị này khá thành công trong việc

69

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân, cũng như ý thức thực hiện

quyền và nghĩa vụ của bản thân họ trong việc gìn giữ và bảo vệ TTATXH trên

địa bàn đô thị, tuy nhiên, trong bối cảnh hiên nay, đặc biệt sự phát triển mạnh mẽ

của khoa học, công nghệ, tình hình vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm trên

môi trường mạng Internet diễn biến phức tạp dẫn đến chính quyền ở các đô thị

này đôi khi chưa kịp thời có những biện pháp hữu hiệu nhằm phòng chống hiệu

quả các hành vi phạm tội này. Những kết quả đạt được và những hạn chế đó giúp

cho Việt Nam những bài học kinh nghiệm quý báu trong việc nâng cao chất

lượng hoạt động THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I hiện

nay, đó là:

Thứ nhất, hệ thống chính sách, pháp luật phải luôn luôn được hoàn thiện

nhằm đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng các quan hệ pháp lý khi quá trình đô thị hoá

diễn ra nhanh chóng, mật độ dân số ngày càng gia tăng, các hoạt động KT-XH diễn

ra phong phú, đa dạng và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ. Đây là

yêu cầu rất quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng hoạt động THPL về bảo

đảm TTATXH trên địa bàn đô thị, thực tế ở Singapore, Tokyo và Seul, chính quyền

đô thị ở các thành phố này phải luôn hoàn thiện chính sách và pháp luật để phù hợp

với yêu cầu quản lý các đô thị này.

Thứ hai, tăng cường phát huy vai trò của người dân tham gia vào quá trình

THPL. Thực tiễn ở Singapore, Tokyo và Seul, chính quyền ở các đô thị này đã phát

huy rất tốt vai trò của người dân tham gia vào quá trình giữ gìn TTATXH và đấu

tranh, phòng chống tội phạm; đồng thời thông qua đó, người dân phát huy tốt vai trò

làm chủ của mình trong quá trình xây dựng chính quyền, giám sát chính quyền

trong hoạch định và thực thi chính sách công.

Thứ ba, tăng cường kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên

trách trong bảo đảm TTATXH, đặc biệt nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công

chức hành chính và tư pháp nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ áp dụng pháp

luật bảo đảm TTATXH.

Thứ tư, tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại để trợ giúp các

cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, giám sát việc THPL về bảo đảm TTATXH

70

trên địa bàn các đô thị, thông qua đó kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành

vi vi phạm pháp luật về bảo đảm TTATXH.

Thứ năm, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật, trong đó gia tăng các biện

pháp chế tài nhằm tăng cường tính răn đe để các cá nhân, tổ chức không dám vi

phạm các quy định pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị; bên

cạnh đó, chính quyền đô thị thực hiện đa dạng các biện pháp tuyên truyền, phổ biến

pháp luật để mọi người dân trên địa bàn hiểu đầy đủ các quy định pháp luật và kiềm

chế không thực hiện các quy định cấm, cũng như tích cực thiện các quy định bắt

buộc phải làm và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình nhằm bảo đảm tốt

TTATXH trên địa bàn các đô thị trong thực tế.

Tiểu kết chương 2

Chương 2 đã khái quát những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến THPL về

bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I. Trong đó, NCS đã chỉ ra các khái niệm

pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, trong đó NCS phân biệt

nó với khái niệm về pháp luật đảm bảo an ninh quốc gia. Từ đó, NCS đã phân tích,

làm rõ khái niệm, các hình thức, vai trò và đặc điểm của THPL về bảo đảm

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.

Để có cơ sở đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô

thị loại I ở Việt Nam trong thời gian qua, NCS đã xây dựng hệ thống các tiêu chí

đánh giá THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, trong đó bao gồm

hệ thống các tiêu chí cụ thể và các tiêu chí tổng thể đánh giá hoạt động THPL về

bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I. Đây sẽ là những chỉ dẫn quan trọng về

mặt lý luận để NCS tiến hành phân tích tài liệu, thu thập thông tin sơ cấp và thứ cấp

nhằm đánh giá thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I của

Việt Nam trong các chương tiếp theo.

Bên cạnh đó, trong chương này NCS đã chỉ ra các điều kiện đảm bảo cho

việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I. Đây sẽ là cơ sở định

hướng giúp NCS phân tích các số liệu nhằm tìm đáp án cho câu trả lời xem những

thành tựu và hạn chế của việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I

71

có nguyên nhân từ đâu? Nghĩa là tìm xem đâu là những rào cản đối với việc nâng

cao chất lượng, hiệu quả THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I

nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả cho quá trình thực hiện pháp luật tại

địa bàn nghiên cứu.

Ngoài ra, trong chương này, NCS đã khảo nghiệm thực tiễn THPL về bảo

đảm TTATXH ở Singapore, Tokyo và Seul, đây là những đô thị có chỉ số an toàn

hàng đầu khu vực và thế giới, kết quả này đạt được chính là nhờ hoạt động THPL

về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị này tương đối tốt, từ đó tình hình vi

phạm pháp luật về TTATXH trên địa bàn đô thị, đặc biệt là tội phạm hình sự tương

đối thấp. Thực tiễn đó giúp cho Việt Nam rút ra những bài học kinh nghiệm quý

báu nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật để nâng cao chất lượng hoạt

động THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.

72

Chương 3

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ

AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM

3.1. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở

VIỆT NAM

3.1.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về bảo đảm

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam theo các tiêu chí

cụ thể

3.1.1.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về bảo đảm trật

tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

Trong những năm qua, số lượng cá nhân và tổ chức vi phạm các quy định

pháp luật cấm về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong thời

gian qua ngày một giảm dần. Thực tế này cho thấy, người dân, doanh nghiệp và các

cơ quan, tổ chức tuân thủ pháp luật nói chung, pháp luật về bảo đảm TTATXH nói

riêng tương đối tốt, góp phần vào bảm đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I

ở Việt Nam. Trong đó, hiện nay có những thành phố ở Việt Nam có chỉ số tội phạm

tương đối thấp so với trung bình chung của cả nước (46.09), đặc biệt là các thành

phố du lịch như Đà Nẵng (28.7), Vũng Tàu (29.56), tiếp đó là Đà Lạt (35.15), Nha

Trang (43.24) (Bảng 3.1).

Bảng 3.1: Chỉ số tội phạm một số đô thị loại I Việt Nam năm 2020

STT

Thành phố

Chỉ số tội phạm

1

Hải Phòng

47.58

2

Đà Nẵng

28.70

3

Đà Lạt

35.15

4

Nha Trang

43.24

5

Vũng Tàu

29.56 Nguồn: Tổng hợp từ Numbeo (2021) [129]

Bên cạnh đó, số lượng vụ và đối tượng phạm tội và vi phạm pháp luật về

TTATXH của một số đô thị loại I ở Việt Nam (Đà Nẵng, Huế, Hạ Long, Đà Lạt,

Biên Hoà) trong giai đoạn 2012 - 2020 có sự giảm đáng kể về số vụ và số đối

73

tượng, trong đó: tổng số vụ giảm 19.19% và tổng số đối tượng giảm 13.24%, trong

đó, thành phố Hạ Long giảm số đối tượng nhiều nhất là 44.15%, thành phố Biên

Hoà giảm số vụ nhiều nhất là 30.92%, Đà Nẵng có số vụ giảm ít nhất là 7.13%, Huế

giảm số đối tượng ít nhất là 2.08% (Bảng 3.2).

Bảng 3.2: Số lượng tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự an toàn xã hội

của một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020

Đà Nẵng

Huế

Đà Lạt

Năm

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

547 484 527 546 558 531 523 516 508

Đối tượng 719 703 663 687 702 677 657 692 659

419 401 419 348 348 417 410 387 375

Đối tượng 384 390 419 437 442 419 425 391 376

Hạ Long Đối tượng 265 152 121 130 146 139 179 171 148

210 150 134 133 153 147 175 165 159

Biên Hoà Đối tượng 821 763 828 583 678 668 691 662 708

899 889 817 755 714 678 654 632 621

Đối tượng 327 266 316 298 343 284 337 295 292

192 189 197 170 166 170 178 172 169

4740

6159 3524

3683 1426

1451

1603

2758 6659

6402

2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 Tổng số

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an các thành phố đô thị loại I (2021)

Kết quả này góp phần vào cải thiện chỉ số tội phạm (Crime Index) của nước

ta so với các quốc gia trên thế giới. Nếu năm 2012, chỉ số tội phạm của Việt Nam là

53.02 thì đến năm 2020 chỉ số này là 46.09, với sự tiến bộ này, vị trí xếp hạng của

Việt Nam đã được cải thiện từ 32 lên 63 (Bảng 3.3).

Năm 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020

Bảng 3.3: Chỉ số tội phạm ở Việt Nam năm 2012-2020

Chỉ số tội phạm 53.02 53.26 52.29 55.69 52.96 52.22 48.78 45.35 46.09

Xếp hạng 32/118 37/128 48/147 30/117 37/125 28/115 42/118 58/129 63/135

Nguồn: Tổng hợp từ Numbeo (2021) [129]

74

Với những chỉ số trên cho thấy, Việt Nam nói chung và các đô thị loại I ở

nước ta có môi trường xã hội an toàn, đây là một yếu tố đặc biệt quan trọng để thu

hút khách du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư ở Việt Nam và đảm bảo và

phát triển con người ở Việt Nam.

3.1.1.2. Những kết quả đạt được trong chấp hành pháp luật về bảo đảm trật

tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

Thứ nhất, kết quả đạt được trong chấp hành pháp luật về bảo đảm

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam của người dân, doanh nghiệp và

các tổ chức khác.

Việc chấp hành các quy định pháp luật liên quan đến đảm bảo TTATXH trên

địa bàn các đô thị loại I đã đem lại kết quả tích cực trong việc tạo ra môi trường

sống an toàn lành mạnh cho mọi người dân, góp phần giữ vững môi trường xã hội

ổn định, đảm bảo an toàn cho tính mạng, sức khỏe và tài sản của đại đa số nhân dân.

Nhờ thành tựu trong việc chấp hành pháp luật về bảo bảo TTATXH, hầu hết các đô

thị loại I đã đạt trạng thái phát triển bình thường, có trật tự, kỷ cương trên tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội, TTATXH được giữ vững, môi trường kinh tế, xã hội

phát triển lành mạnh theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Môi trường xã hội đạt

được trạng thái trật tự, kỉ cương trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở

các quy phạm pháp luật và chuẩn mực đạo đức, pháp lí xác định.

Ngoài ra, các nghiên cứu về mức độ tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp

cũng cho thấy các doanh nghiệp tuân thủ và chấp hành tương đối tốt các quy định

pháp luật. Các nghiên cứu về chấp hành pháp luật tại các doanh nghiệp dệt may cho

thấy các doanh nghiệp tuân thủ tương đối tốt các quy định của luật liên quan đến

các vấn đề như chi trả chế độ thai sản, nghỉ 60 phút trong giờ làm việc và nghỉ

khám thai cho người lao động [8, tr.16].

Thành tựu tiếp theo của việc thực hiện các quy định pháp luật về đảm bảo

TTATXH là tạo ra được trạng thái xã hội có trật tự. Các hành vi ứng xử của cá nhân

và tổ chức được điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm pháp luật. Trật tự công cộng

được đảm bảo, tạo môi trường sống tương đối an toàn cho mọi người dân. Các quy

định chung về giữ gìn trật tự, yên tĩnh, vệ sinh, nếp sống văn minh nơi cộng cộng

75

được tuân thủ. Đa số người dân có ý thức, giữ gìn vệ sinh chung, duy trì nếp sống

văn minh ở những nơi công cộng. Trật tự an toàn, giao thông được đảm bảo do đó

hoạt động giao thông tại các đô thị loại I thường diễn ra thông suốt, có trật tự, an

toàn, hạn chế tai nạn giao thông gây thiệt hại về người và tài sản. Các vụ cháy nổ

hay tai nạn lao động đã được kiểm soát.

Thứ hai, kết quả đạt được trong chấp hành pháp luật về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Một là, hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết văn bản quy

phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trên địa bàn đô thị loại I có những

chuyển biến tích cực.

Để triển khai thực hiện pháp luật, chính quyền địa phương (UBND và

HĐND) các đô thị loại I đều ban hành văn bản quy định chi tiết các văn bản quy

phạm pháp luật. Theo đó hàng năm, chính quyền địa phương ác đô thị loại I đều

ban hành Chương trình xây dựng Nghị quyết, Quyết định trên các đô thị loại I.

Công tác ban hành văn bản quy định chi tiết theo quy định tại một số văn bản quy

phạm pháp luật của Chính phủ, Bộ ngành trên địa bàn các đô thị loại I dần đi vào nề

nếp; công tác tham mưu ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND

của các cơ quan trên địa bàn các đô thị loại I được giao chủ trì ngày càng được nâng

lên, bảo đảm các yêu cầu về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản. Tiến độ xây

dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết nhanh hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu

công tác triển khai thi hành luật trên địa bàn tỉnh. Ngoài các văn bản quy phạm pháp

luật này, UBND các đô thị loại I còn ban hành các Quyết định nhằm tăng cường

công tác đảm bảo trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn; nâng cao trách nhiệm của cơ

quan, đơn vị trong công tác bảo đảm TTATXH.

Thực tế cho thấy, chỉ số xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật ở các đô thị

loại I giai đoạn 2012-2019 tăng đáng kể trong những năm qua, trong tổng số 13 đô

thị loại I được khảo sát, Hải Phòng gia tăng cao nhất (tăng 99.33%), tiếp đến Huế

(tăng 84.21%), Nha Trang (tăng 84%), Cần Thơ gia tăng thấp nhất (tăng 11.54%);

đặc biệt Vũng Tàu, Mỹ Tho, trong 03 năm gần chỉ số này đây luôn tăng (Bảng 3.4).

76

Bảng 3.4: Chỉ số xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật ở các đô thị loại I

giai đoạn 2012-2019 (theo thang điểm 10)

Đô thị

2012

2013

2014

2015

2016 2017

2018 2019

7

Đà Nẵng

6.5

5.75

6.6

6.75

8.6

8.18

8.55

7

Hải Phòng

4.5

3.75

5.58

6

7.17

9.27

8.97

Biên Hòa

6.25

5.75

5.35

6.75

5.5

8.55

7.44

8.71

7

8.73

8.65

7.25

Cần Thơ

6.5

6

7

6.5

5

8.24

8.34

8.63

Vũng Tàu

6.75

5.5

6.35

6.5

7

8.87

8.56

8.94

Hạ Long

7

7

5.25

6.5

Huế

4.75

5.75

6.35

6.25

6.5

8.33

8.87

8.75

7

5.85

Thanh Hóa

7

6.75

7

8.46

6.02

8.95

6.5

5.35

Nha Trang

4.5

5.25

6.5

8.46

8.32

8.28

Đà Lạt

5.5

6.25

5.25

6.5

5.5

8.56

8.56

8.69

7

Mỹ Tho

6.5

6.25

6.35

6.25

8.37

8.58

8.71

5

6

6.25

Quy Nhơn

4

6.35

8.54

8.43

8.81

7

Thái Nguyên

6.35

5.6

6.5

6.5

8.82

8.78

8.9

Nguồn: Bộ Nội vụ (2021) [14]

Những kết quả đạt được trên đã góp phần quan trọng vào hoàn thiện hệ thống

pháp luật ở Việt Nam hiện nay, trong đó, các văn bản quy phạm pháp luật hướng

dẫn, triển khai thi hành luật đều đáp ứng được yêu cầu về nội dung, hình thức, trình

tự, thủ tục và thẩm quyền ban hành, tạo cơ sở pháp lý cho công tác triển khai thực

hiện các văn bản pháp luật của Quốc hội, Chính phủ, Bộ, ngành Trung ương đã quy

định trong những năm qua có xu hướng tăng. Điều này đã thúc đẩy gia tăng chỉ số

chất lượng các văn bản pháp quy (văn bản dưới luật) của Việt Nam trong những

năm qua: nếu năm 2012, chỉ số chất lượng các văn bản pháp quy Việt Nam là 27.96

thì đến năm 2020 là 43.685, tăng 56.24% (Biểu đồ 3.1).

77

Biểu đồ 3.1: Chỉ số chất lượng các văn bản pháp quy của Việt Nam

Nguồn: Xử lý số liệu từ World Wide Governance Indicators (2021) [139]

Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về đảm bảo

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I từng bước được chú trọng, chất lượng công tác

này tiếp tục được cải thiện.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục luôn được xem là cầu nối giữa việc

đưa chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với cán bộ, công chức,

viên chức, các tầng lớp nhân dân. Do vậy Sở Tư pháp, phòng tư pháp của các địa

phương (cơ quan Thường trực Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật) luôn phối

hợp với các Sở, ban, ngành và UBND cấp huyện ở các đô thị loại I tổ chức, tuyên

truyền phổ biến văn bản pháp luật nhằm mục đích nâng cao nhận thức, ý thức tự

giác, tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên

chức, người lao động và nhân dân, thực hiện tốt khẩu hiệu “Sống và làm việc theo

Hiến pháp và pháp luật”, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,

phục vụ phát triển KT-XH. Các địa phương đã biết sử dụng ưu thế của các phương

tiện truyền thông đại chúng phục vụ cho công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật

đến mọi người dân, như: phát tờ rơi, pano, khẩu hiệu, loa phát thanh, đăng tải thông

tin pháp luật trên trang thông tin điện tử, tổ chức tìm hiểu pháp luật, tổ chức hội

nghị, tuyên truyền trực tiếp, tập huấn pháp luật, sinh hoạt pháp luật định kỳ hàng

tháng, thực hiện tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng... Cổng

Thông tin điện tử của các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan báo chí đã

tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và vận động người dân thực hiện các

78

quy định pháp luật với hình thức phù hợp với từng khu vực, từng vùng và từng

nhóm đối tượng.

Bảng 3.5: Tỷ lệ số đơn vị hành chính cơ sở có tủ sách pháp luật

trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam

Đô thị

2016

2020

Cả nước

98.13

-

Đà Nẵng

100

100

Hải Phòng

98.6

100

Biên Hòa

100

100

Cần Thơ

100

100

Vũng Tàu

100

100

Hạ Long

100

100

Huế

97.14

100

Thanh Hóa

98.27

100

Nha Trang

98.99

100

Đà Lạt

98.29

100

Mỹ Tho

100

100

Quy Nhơn

89.68

100

Thái Nguyên

98.57

100

Nguồn: Tổng Cục thống kê (2021) [104, tr.233-236]

Để phục vụ cho công tác tuyên truyền pháp luật, chính quyền các đô thị loại I

đã đẩy mạnh việc xây dựng và đưa vào sử dụng các tủ sách pháp luật ở cấp cơ sở,

trong số các đô thị loại I được khảo sát, có nhiều đô thị loại I đạt 100% đơn vị hành

chính cơ sở có tủ sách pháp luật từ năm 2016, như Đà Nẵng, Biên Hoà, Cần Thơ,

Vũng Tàu, Hạ Long, Mỹ Tho; các đô thị loại khác cũng có tỷ lệ và đều đạt được

100% vào năm 2020 (Bảng 3.4). Cùng với đó, chính quyền các đô thị loại I tập

trung tuyên truyền các nội dung thực hiện pháp luật về đảm bảo TTATXH trong

đó có thực hiện pháp luật về đảm bảo bảo an toàn giao thông; các quy định pháp

luật về phòng chống các loại tội phạm; các quy định phòng chống cháy nổ; về vệ

sinh an toàn thực phẩm… Đặc biệt trên địa bàn các đô thị loại I nơi có đông người

nhập cư nên việc tuyên truyền Luật Hộ tịch 2014; Nghị định số 123/2015/NĐ-CP

79

ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi

hành Luật Hộ tịch và Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ

trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch luôn

được chú ý tuyên truyền; v.v..

Ba là, các cơ quan chức năng đã tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm kịp

thời đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn các đô thị loại I, đặc biệt các vụ

trọng án xảy ra trên địa bàn này.

Các cơ quan chức năng mà nòng cốt là lực lượng công an trên địa bàn các đô

thị loại I đã tích cực đổi mới các mặt công tác, các biện pháp nghiệp vụ, từng bước

nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm; chủ động

nắm chắc tình hình, làm tốt công tác nghiệp vụ cơ bản, tiến hành đồng bộ các biện

pháp xã hội và phòng ngừa nghiệp vụ; phát động phong trào quần chúng bảo vệ an

ninh tổ quốc với nhiều nội dung, hình thức phong phú thiết thực. Đặc biệt đã tập

trung mở nhiều đợt cao điểm tấn công tội phạm, triệt phá nhiều băng, nhóm tội

phạm nguy hiểm, tội phạm có tổ chức; truy bắt các đối tượng truy nã; kiềm chế các

loại tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; hạn chế sự gia tăng của tội

phạm hình sự; chủ động phát hiện, điều tra, xử lý có hiệu quả tội phạm về tham

nhũng, tội phạm về ma tuý, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm về môi

trường, tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm sử dụng vũ khí nóng chống người thi

hành công vụ… như: vụ án 4 người cùng một nhà chết ở Thanh Hóa năm 2015

(Hộp 1, Phụ lục 3), vụ án nhanh chóng được Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thanh

Hoá kết luận là vụ tự tử, không có dấu hiệu của việc tàn sát cả gia đình do kẻ xấu

bên ngoài; vụ án ma tuý lớn ở Hải Phòng năm 2020 (Hộp 2, Phụ lục 3), vụ án được

Công an Hải Phòng triệt phá, thu giữ hơn 3 kg ma túy các loại; v.v.. Kết quả điều

tra, triệt phá các vụ phạm tội, đặc biệt các vụ trọng án trên địa bàn này đạt kết quả

cao đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo cho người dân có cuộc sống an toàn

không bị xâm phạm tính mạng, tài sản trên địa bàn các đô thi loại I ở Việt Nam thời

gian qua.

Bốn là, công tác kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện pháp luật của các cá

nhân và tổ chức trên đại bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong thời gian qua được thực

hiện theo đúng quy định pháp luật.

80

Việc kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện pháp luật của công dân và các

doanh nghiệp là một trong những nội dung quan trọng trong công tác thực hiện

pháp luật của các cơ quan ban ngành. Hoạt động này được thực hiện thông qua

nhiều hoạt động như việc: xây dựng kế hoạch theo dõi việc tuân thủ, chấp hành và

áp dụng pháp luật; công tác phổ biến tập huấn, hướng dẫn về nghiệp vụ kiểm tra

thực hiện công tác theo dõi; việc đảm bảo các điều kiện thực hiện công tác theo dõi

thực thi pháp luật cũng như việc tổ chức theo dõi thực thi pháp luật. Hình thực kiểm

tra, theo dõi tình hình thực hiện pháp luật của các cá nhân và tổ chức trên đại bàn tại

các đô thị loại I tập trung vào những nội dung sau:

(i) Ủy ban nhân dân các thành phố trên địa bàn các đô thị loại I hàng năm đều

có xây dựng kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên địa bàn. Căn cứ kế

hoạch theo dõi thi hành pháp luật của UBND thành phố, các Sở, ngành và UBND

các thành phố, quận, huyện trên địa bàn đều chủ động xây dựng kế hoạch theo dõi

thi hành pháp luật theo ngành, lĩnh vực mình quản lý đảm bảo thực thi đúng kế

hoạch đề ra. Từ các báo cáo của các đại phương tại địa bàn nghiên cứu cho thấy,

các cơ quan quản lý nhà nước đều chủ động xây dựng kế hoạch để triển khai việc

theo dõi thi hành pháp luật, công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã được

thực hiện trên cơ sở bám sát nhiệm vụ của ngành, địa phương. Việc xây dựng kế

hoạch giúp cho việc theo dõi quá trình thực thi được thực hiện có trọng tâm trọng

điểm nhằm kịp thời phát hiện những vướng mắc, bất cập, hạn chế trong việc thi

hành pháp luật nhằm đề xuất các giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả thi hành pháp

luật tại địa phương; kịp thời khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong công tác

theo dõi tình hình thi hành pháp luật.

(ii) Ngoài nhiệm vụ Sở Tư pháp tổ chức phổ biến, tập huấn nghiệp vụ cho cán

bộ, công chức các sở, ngành và UBND cấp quận, huyện về một số văn bản quy

phạm pháp luật. Các Sở, ban ngành và UBND cấp quận, huyện tổ chức, phổ biến

đến cán bộ, công chức do mình quản lý về công tác theo dõi tình hình thi hành pháp

luật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan;

(iii) Ủy ban nhân dân các đô thị loại I đã chú trọng bảo đảm các điều kiện thực

hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật như tổ chức biên chế bộ máy làm

81

công tác theo dõi thực thi pháp luật đồng thời chú trọng đảm bảo điều kiện phương

tiện vật chất kỹ thuật giúp bộ máy này hoạt động hiệu quả;

(iv) Việc triển khai thực hiện hoạt động theo dõi tình hình thực thi pháp luật.

Thực tiễn triển khai công tác theo dõi thực thi pháp luật tại các đô thị loại I cho thấy

các hoạt động triển khai thực hiện theo dõi đã được thực hiện đều đặn. Kết quả thực

hiện hoạt động kiểm tra theo dõi thi hành pháp luật đã giúp các cấp, các ngành

chính quyền nhìn nhận và đánh giá hiệu quả việc thực thi pháp luật. Qua đó kịp thời

chấn chỉnh, khắc phục những thiếu sót, tồn tại, hạn chế trong quá trình thực thi pháp

luật của công chức và cơ quan nhà nước. Chính quyền các địa phương đã nắm bắt

được tình hình thực hiện pháp luật và mức độ thực thi pháp luật của cơ quan, công

chức có thẩm quyền, tổ chức và cá nhân trên địa bàn, qua đó giúp cho UBND thành

phố đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn về việc thực thi pháp luật của các chủ thể trên

địa bàn, thông qua đó nắm bắt, phát hiện những tồn tại, bất cập, kẽ hở trong hệ

thống pháp luật về bảo đảm TTAXH và hoạt động điều hành, tổ chức THPL của cơ

quan nhà nước trên địa bàn đô thị loại I ở nước ta hiện nay.

Như vậy, kết quả đạt được trong THPL về bảo đảm TTATXH tại các đô thị

loại I thời gian qua đó là đã thực sự tạo nền tảng quan trọng cho việc ổn định

chính trị - xã hội, góp phần giữ vững môi trường hoà bình tạo điều kiện cần thiết

để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho

mọi người dân.

3.1.1.3. Những kết quả đạt được trong sử dụng pháp luật về bảo đảm trật tự

an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

Các chủ thể pháp luật trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam trong thời gian

qua đã và đang thực hiện tương đối tốt quyền chủ thể của mình, trong đó người dân

ở các đô thị này thực hiện đầy đủ quyền của mình; cán bộ, công chức và các cơ

quan chức năng thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình; các doanh nghiệp tiếp

tục thực hiện đầy đủ quyền của mình.

Trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ

2016-2021, người dân ở các đô thị loại I tham gia bầu cử với tỷ lệ cao, cao hơn so

với tỷ lệ số cử tri cả nước đi bỏ phiếu bầu cử (98,77%), trong đó Huế có 99,93% số

cử tri tham gia bầu cử; Vũng Tàu có 99,63% số cử tri tham gia bầu cử; Hạ Long có

82

số cử tri đi bầu cử đạt tỷ lệ 98,84%; v.v.. [49]. Thực tế này cho thấy, người dân trên

địa bàn đô thị loại I đã và đang tích cực thực hiện quyền và tự do của mình theo luật

định, nhằm góp phần thúc đẩy và phát triển quyền làm chủ của người dân trong

thực tế ở Việt Nam hiện nay.

Thông qua đó, việc thực hiện đầy đủ quyền của người dân, các doanh nghiệp

và các tổ chức khác trở thành nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

trong việc đáp ứng quyền và nguyện vọng của các chủ thể này, như: quyền dân

chủ của người dân, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,

tài sản, v.v..

3.1.1.4. Những kết quả đạt được trong áp dụng pháp luật về bảo đảm trật tự

an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

Thứ nhất, việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp về bảo đảm

TTATXH trên địa bàn đô thi loại I được thực hiện đúng theo quy định pháp luật,

qua đó kịp thời xử lý các hành vi phạm tội liên quan đến TTATXH trên địa bàn các

đô thị Việt Nam thời gian qua.

Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn các đô thị loại I đều tuân thủ, chấp hành

tốt các quy định pháp luật trong thực hiện nhiệm vụ xét xử. Điều này được thể hiện

rõ qua số lượng vụ án đã được giải quyết đúng thời hạn đạt tỷ lệ cao, tỷ lệ các án bị

hủy, bị cải sửa chiếm tỷ lệ thấp. Thực tiễn xét xử vụ án của Tòa án trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng cho thấy:

Năm 2018, tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã giải quyết 10.943 vụ,

việc/11.296 vụ, việc thụ lý; đạt tỷ lệ chung là 96,9%, đảm bảo 100%

đúng thời hạn luật định. Số bản án, quyết định bị hủy do sai là 20,5 vụ,

chiếm 0,17%. Số án bị sửa do sai là 38 vụ, chiếm 0,19%. So với năm

2017, số án bị hủy giảm 9,5 vụ, giảm 31,6% [1].

Nhìn chung, việc xét xử các vụ án trên địa bàn các đô thị loại I, đặc biệt các vụ

án hình sự bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chưa phát hiện trường

hợp nào kết án oan người không có tội. Các hình phạt mà TAND các cấp trên địa

bàn các đô thị loại I áp dụng đối với các bị cáo tương xứng với tính chất, mức độ

hành vi phạm tội, đúng quy định của pháp luật, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh

phòng, chống tội phạm. Các quyết định phân xử trong giải quyết tranh chấp đảm

83

bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên. Tỷ lệ các vụ án bị hủy, cải sửa không

nhiều điều đó cho thấy chất lượng của việc áp dụng các quy định pháp luật.

Bên cạnh đó, VKSND trên địa bàn các đô thị loại I chấp hành tương đối tốt

các quy định pháp luật trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Điều

này phản ánh thông qua hoạt động truy tố đạt tỷ lệ rất cao, giảm đáng kể các trường

hợp Viện kiểm sát truy tố nhưng Tòa án tuyên không phạm tội, cũng như giảm các

trường hợp oan, sai thuộc trách nhiệm của VKSND. VKSND đã tuân thủ, chấp

hành tốt các quy định liên quan đến thực hiện trách nhiệm công tố của Kiểm sát

viên tại phiên tòa như tuân thủ, chấp hành các quy định khi tham gia xét hỏi, tranh

tụng để làm rõ nội dung vụ án; Tuân thủ, chấp hành các quy định khi phối hợp với

cơ quan điều tra, tòa án để đẩy nhanh tiến độ, điều tra, truy tố và xét xử vụ án.

VKSND đã thực hiện có hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp; kịp thời

phát hiện, ban hành hàng nghìn kháng nghị, kiến nghị yêu cầu các cơ quan tư pháp,

cơ quan hữu quan khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm, góp phần

khắc phục các vi phạm trong hoạt động tư pháp. Cùng với đó, các cơ quan điều tra

trên địa bàn đô thị loại I đã và đang thực hiện đúng các quy định pháp luật về tiếp

nhận tin báo, tin tố giác và đơn tố giác tội phạm về bảo đảm TTAXH trên địa bàn

đô thị loại I, từ đó các cơ quan chức năng đã kịp thời ngăn chặn, xử lý các hành vi

phạm pháp luật xảy ra trên địa bàn các đô thị loại I.

Ngoài ra, các cơ quan thi hành án trên địa bàn các đô thị loại I cho thấy những

năm qua việc thi hành án luôn được các cơ quan thi hành án thực hiện kịp thời; đảm

bảo tính khách quan, chính xác, đúng các quy định của pháp luật. Tình trạng khiếu

nại, tố cáo phức tạp, vượt cấp, kéo dài đối với cơ quan thi hành án đã được hạn

chế. Các cơ quan thi hành án đã tuân thủ các quy định pháp luật nhằm đảm bảo tốt

nhất quyền lợi ích các bên liên quan.

Thứ hai, việc áp dụng pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước về bảo

đảm TTATXH trên địa bàn đô thi loại I tiếp tục được thực hiện tốt nhằm xử lý kịp

thời các hành vi vi phạm pháp luật hành chính về quản lý TTATXH.

Các cơ quan chức năng trên địa bàn đô thi loại I kịp thời xử lý các hành vi vi

phạm pháp luật hành chính về quản lý TTATXH, như: xử lý vi phạm về trật tự xây

dựng các công trình dân dụng; vi phạm về an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực

84

phẩm, ô nhiễm môi trường, v.v.. trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong giai

đoạn 2012-2020.

Bảng 3.6: Các vi phạm pháp luật trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-20201

Các vi phạm pháp luật trên địa bàn đô thị loại I

Tổng

Tỷ lệ %

4.0

Vụ

46084

Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội

4.6

Đối tượng

54337

1.6

Vụ

18008

Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy

2.9

Đối tượng

34337

0.9

Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham

Vụ

10917

nhũng, buôn lậu

1.0

Đối tượng

11414

0.9

Vụ

10865

Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường

0.9

Đối tượng

11036

92.6

Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực quản lý hành

Vụ

1072583

chính về TTATXH

90.7

Đối tượng

1079711

Vụ

1158457

100.0

Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội

phạm phát hiện, xử lý

Đối tượng

1190835

100.0

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an các thành phố đô thị loại I (2021)

Trong các vụ việc vi phạm pháp luật trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam hiện

nay, đa số các vụ việc này là vi phạm pháp luật trên lĩnh vực quản lý hành chính về

TTATXH, với 92.6% vụ việc và 90.7% đối tượng vi phạm so với tổng thể số vụ

việc và đối tượng vi phạm pháp luật trên địa bàn này trong giai đoạn 2012-2020

(Bảng 3.6).

3.1.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về bảo đảm trật

tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam theo các tiêu chí tổng thể

3.1.2.1. Thúc đẩy bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn

đô thị loại I ở Việt Nam

Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam đã có những đóng

1 Một số đô thị loại I ở Việt Nam khảo sát trong bảng số liệu này gồm: Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng,

Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Hạ Long, Thái Nguyên, Biên Hoà, Quy Nhơn, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Thanh Hoá.

góp quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn đô thị

85

loại I ở Việt Nam trong những năm vừa qua. Thực tế, kinh tế, xã hội trên địa bàn

các đô thị loại I đã có sự phát triển nhất định, trong đó thu nhập bình quân đầu

người trên địa bàn các đô thị loại I tiếp tục gia tăng, như Hải Phòng tăng từ 59,3

triệu đồng vào năm 2014 tăng lên 66,9 triệu đồng vào năm 2019 hoặc Nha Trang

tăng từ 47,4 triệu vào năm 2015 tăng lên 69,9 triệu vào năm 2019; trong khi đó tỷ lệ

giảm nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều tiếp tục giảm, nếu Hải Phòng tỷ lệ nghèo

năm 2017 là 1,6% đến năm 2019 là 1,2% [23]; Nha Trang giảm từ 7,53% vào năm

2016 đã giảm xuống năm 4,95% vào năm 2018 [25]; v.v..

Đặc biệt, Thành phố Hải Phòng đã thực hiện có hiệu quả Chiến lược bảo vệ

Tổ quốc trong tình hình mới, xây dựng khu vực phòng thủ thành phố vững mạnh,

toàn diện về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh. Đồng thời, luôn chủ động

phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; phòng

chống thiên tai - tìm kiếm cứu nạn. Các hoạt động băng nhóm, tội phạm có tổ chức,

các vụ trọng án tại địa bàn thành phố có xu hướng giảm trong 03 năm qua [24]. Với

sự bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn thành phố Hải Phòng

trong những năm qua đã thúc đẩy thu hút các doanh nghiệp trong vào ngoài nước

đến đầu tư.

Đến nay, thành phố Hải Phòng đã thành lập và cho đi vào hoạt động 12

khu công nghiệp, thu hút được 567 dự án trong và ngoài nước. Trong đó,

400 dự án FDI với tổng vốn đầu tư trên 16 tỷ USD và 167 dự án đầu tư

trong nước với tổng vốn đầu tư xấp xỉ 146.000 tỷ đồng, của các nhà đầu

tư đến từ 29 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong số các dự án này, không

thể không nhắc tới các tên tuổi lớn như: Tập đoàn LG (5,84 tỷ USD),

Bridgestone (1,2 tỷ USD), Pegatron (481 triệu USD), USI (200 triệu

USD), Kyocera (187 triệu USD), v.v.. [53]

Ngoài ra, các đô thị loại I khác như Nha Trang, Đà Lạt, Vũng Tàu, Hạ Long,

Huế đã và đang phát huy tốt lợi thế tự nhiên, xã hội để phát triển thành các đô thị du

lịch. Mặc dù trong năm 2020 do tình hình đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nên

hoạt động lữ hành, khách sạn bị ngưng trệ ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất,

kinh doanh trên địa bàn này. Tuy vậy, đô thị này đã thực hiện tốt các biện pháp

86

phòng, chống dịch Covid - 19, không để xảy ra “điểm nóng” về dịch bệnh, kết hợp

giữa phát triển kinh tế, ổn định xã hội với phòng, chống dịch.

3.1.2.2. Thúc đẩy bảo đảm an toàn, yên ổn, các quyền và lợi ích chính

đáng của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức khác trên địa bàn đô thị

loại I ở Việt Nam

Thứ nhất, mức độ an toàn, yên ổn người dân, doanh nghiệp và các tổ chức

khác trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam tiếp tục được bảo đảm trong những

năm qua.

Trong giai đoạn 2012-2020, chỉ số an toàn (Safety Index) trên các đô thị loại I

ở Việt Nam đạt mức độ khá cao cao, đặc biệt là các thành phố du lịch như Đà Nẵng

(71.30), Vũng Tàu (70.44), tiếp đó là Đà Lạt (64.85), Nha Trang (56.76), Hải Phòng

(52.42) (Bảng 3.7). Với những chỉ số trên cho thấy, các đô thị loại I ở nước ta có

môi trường xã hội an toàn, đây là một yếu tố đặc biệt quan trọng để thu hút khách

du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư ở Việt Nam và đảm bảo và phát triển

con người ở Việt Nam.

Bảng 3.7: Chỉ số an toàn xã hội một số đô thị loại I Việt Nam năm 2020

STT

Thành phố

Chỉ số an toàn xã hội

1

Hải phòng

52.42

2

Đà Nẵng

71.30

3

Đà Lạt

64.85

4

Nha Trang

56.76

5

Vũng Tàu

70.44

Nguồn: Tổng hợp từ Numbeo (2021) [129]

Thực tế cho thấy, trật tự nơi công cộng được giữ gìn, tai nạn được phòng

ngừa, tệ nạn xã hội bị bài trừ, các công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông,

phòng cháy và chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ môi trường, phòng, chống các sự

cố về môi trường trên địa bàn đô thị loại I cũng có những chuyển biến tích cực.

Điều này có tác động tích cực trong việc tạo ra môi trường sống an toàn cho mọi

người dân (Bảng 3.8).

87

Bảng 3.8: Bảng so sánh mức độ an toàn tại một số đô thị loại I

và đô thị đặc biệt

Đô thị

An toàn khi đi một mình vào

An toàn khi đi một mình

ban ngày

ban đêm

Hà Nội

81.41

53.53

TP.HCM

65.84

37.02

Hải Phòng

87.50

50.00

Đà Nẵng

87.50

65.28

Nha Trang

75.00

37.50

Nguồn: Crime Index for Country 2019 [128]

Những kết quả đạt được đó trong những năm qua đã góp phần thúc đẩy mức

đọ an toàn xã hội của nước ta ngày một gia tăng so với các quốc gia trên thế giới.

Nếu năm 2012, chỉ số tội phạm của Việt Nam là 53.02, chỉ số an toàn xã hội là 46.98 thì đến năm 2020 chỉ số này lần lượt là 46.09 và 53.912, với sự tiến bộ này, vị

trí xếp hạng của Việt Nam đã được cải thiện từ 32 lên 58 (Bảng 3.9).

Bảng 3.9: Chỉ số an toàn xã hội Việt Nam năm 2012-2020

Chỉ số an toàn xã hội

Xếp hạng

Năm

46.98

32/118

2012

46.74

37/128

2013

47.71

48/147

2014

44.31

30/117

2015

47.04

37/125

2016

47.78

28/115

2017

51.22

42/118

2018

54.65

58/129

2019

53.91

63/135

2020

Nguồn: Tổng hợp từ Numbeo (2021) [129]

Thứ hai, quyền và lợi ích chính đáng của người dân, doanh nghiệp và các tổ

chức khác trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam trong những năm qua tiếp tục được

2 Chỉ số an toàn xã hội được đo theo thang điểm từ 0 đến 100 trong đó 100 là an toàn nhất. Chỉ số dựa trên

tỷ lệ tội phạm trên 1.000 dân cho tất cả các tội phạm trong một khu phố hoặc thành phố cụ thể.

ghi nhận, bảo đảm, thúc đẩy và phát triển.

88

Quyền và lợi ích của các chủ thể pháp luật đã được Hiến pháp năm 2013 và

các văn bản pháp luật Việt Nam ghi nhận và từng bước cụ thể hoá. So với các bản

hiến pháp trước đó, đặc biệt so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm

2001), Hiến pháp năm 2013 quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công

dân tại Chương II với 36 điều, đặc biệt trong đó đã có sự chuyển đổi tư duy lập hiến

và bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân đó là tư duy thừa nhận

và ghi nhận, bảo đảm quyền, điều này khác với các bản hiến pháp trước đó với tư

duy trao quyền. Trên cơ sở đó, quyền con người, quyền và lợi ích của các chủ thể

khác trong xã hội nói chung và trên địa bàn đô thị loại I nói chung được cụ thể hoá

trong Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017), Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và

Luật Tố tụng Hành chính năm 2015, v.v...

Bảng 3.10: Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính trên địa bàn

một số đô thị loại I ở Việt Nam

Đô thị Đà Nẵng Hải Phòng Biên Hòa Cần Thơ Vũng Tàu Hạ Long Huế Thanh Hóa Nha Trang Đà Lạt Mỹ Tho Quy Nhơn Thái Nguyên Cả nước

2018 87.43% 90.86% 87.48% 79.67% 83.04% 91.15% 82.25% 86.75% 79.79% 80.04% 76.42% 71.81% 86.02% 82.99%

2019 85.49% 92.22% 86.78% 80.39% 83.70% 95.26% 78.37% 86.33% 77.64% 86.78% 83.39% 81.81% 86.26% 84.45%

2017 86.19% 88.92% 88.70% 76.47% 72.18% 92.88% 81.35% 80.58% 69.42% 72.83% 79.18% 81.42% 94.04% 80.90% Nguồn: Bộ Nội vụ (2020) [15]

Trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành ở Việt Nam, các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền đã và đang cải thiện chất lượng hoạt động, nâng cao chất lượng

phục vụ công, thông qua đó cải thiện mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp

89

và các chủ thể khác về sự phục vụ hành chính trên địa bàn một số đô thị loại I ở

Việt Nam ngày một tăng lên, đặc biệt là cao hơn so với mức trung bình của cả nước

(Bảng 3.10). Đồng thời, chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính trên địa bàn một

số đô thị loại I ở Việt Nam ngày một tăng lên qua các năm, như Hải Phòng, Vũng

Tàu, Đà Lạt, Nha Trang, Cần Thơ, v.v..

3.2. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT

TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN CÁC ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM

3.2.1. Những hạn chế trong tuân thủ pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn

xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam theo các tiêu chí cụ thể

3.2.1.1. Những hạn chế trong tuân thủ pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn

xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

Một bộ phận người dân, doanh nghiệp và các tổ chức trên địa bàn đô thị loại I

vẫn chưa tuân thủ tốt các quy định pháp luật về TTATXH, vì thế những năm gần

đây số vụ và số đối tượng phạm tội và vi phạm pháp luật trên địa bàn các đô thị loại

I có diễn biến phức tạp.

Bảng 3.11: Số vụ và đối tượng phạm tội so với tổng số vụ và đối tượng vi phạm

pháp luật trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020

Tỷ lệ %

Số đối tượng

Tỷ lệ %

Đô thị loại I

Số vụ

Hải Phòng

15545

56.2%

23172

65.7%

Đà Nẵng

8473

1.7%

10550

2.1%

Cần Thơ

10389

81.8%

13737

85.6%

Huế

4828

21.6%

5617

24.2%

Đà Lạt

3247

1.8%

4626

2.6%

Nha Trang

3908

40.6%

4506

44.1%

Quy Nhơn

3512

12.9%

4093

14.7%

Thái Nguyên

5728

2.0%

6448

2.2%

Vũng Tàu

5660

88.5%

7140

76.1%

Hạ Long

4785

74.2%

5190

74.5%

Biên Hòa

10916

45.2%

16089

54.9%

Mỹ Tho

1971

25.0%

1301

14.3%

Thanh Hóa

6912

11.7%

8655

14.2%

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an các thành phố đô thị loại I (2021)

90

Số vụ và đối tượng phạm tội so với tổng số vụ và đối tượng vi phạm pháp luật

trên địa bàn một số đô thị loại I ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020 chiếm tỷ lệ cao

như Hải Phòng với tỷ lệ 56.2% số vụ và 65.7% số đối tượng, Cần Thơ với tỷ lệ lần

lượt là 81.8% và 85.6%, Vùng Tàu với tỷ lệ lần lượt là 88.5% và 76.1%, Hạ Long

với tỷ lệ lần lượt là 74.2% và 74.5%, Biên Hoà với tỷ lệ lần lượt là 45.2% và 54.9%

(Bảng 3.11). Trong tổng số 13 đô thị loại I được khảo sát, Hải Phòng, Cần Thơ là

các thành phố thuộc trung ương, Vũng Tàu, Hạ Long là các thành phố du lịch, Biên

Hoà là đô thị loại I với các khu công nghiệp lớn, vì thế các đô thị này có mật độ dân

số cao hơn các đô thị còn lại, tỷ suất di cư ở các đô thị cao hơn so với các đô thị còn

lại, từ đó gây ra những vấn đề phức tạp trong quản lý hộ khẩu, hộ tịch, đặc biệt đối

với các đô thị du lịch, có khu công nghiệp.

Bên cạnh đó, số vụ và số đối tượng vi phạm pháp luật về TTATXH trên địa

bàn 13 đô thị loại I (Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Quy

Nhơn, Thái Nguyên, Vũng Tàu, Hạ Long, Biên Hòa, Mỹ Tho, Thanh Hoá) có chiều

hướng gia tăng trong giai đoạn 2012-2020 (Biểu đồ 3.2).

Biểu đồ 3.2: Số vụ và số đối tượng phạm tội bị phát hiện, xử lý trên địa bàn

13 đô thị loại I giai đoạn 2012-2020

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của Công an các đô thị loại I (2021)

Bên cạnh đó tỷ lệ người không tuân thủ chấp hành các chuẩn mực chung của

cộng đồng về TTATXH tương đối cao thể hiện số lượng và tỷ lệ người tham gia tệ

nạn xã hội như nghiện ma túy, mại dâm, lô đề, cờ bạc hay thực hành mê tín dị đoan

tương đối phổ biến.

91

Theo thống kê chung, số người nghiện ma túy ở Việt Nam đang có xu hướng

tăng, theo báo cáo của Cục phòng, chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động - Thương binh

và Xã hội), trong 10 năm trở lại đây, ở Việt Nam đã có khoảng 10 vạn người nghiện

ma tuý, trong đó có tới 70% số người nghiện dưới 30 tuổi, đặc biệt có tới 50% tổng

số người nghiện là trẻ em [93]. Số người nghiện ma túy đã xuất hiện ở 100% các

tỉnh, thành phố, gần 90% quận, huyện và khoảng 70% số xã, phường, thị trấn trong

cả nước. Các đô thị loại I như Cần Thơ, Hải Phòng, Bắc Ninh, Vũng Tàu là những

địa bàn có tỷ lệ người nghiệm ma túy cao đồng thời đây cũng là những địa bàn có

sự phát triển của các điểm, tụ điểm, ổ, nhóm bán lẻ chất ma túy. Tại các đô thị này

số lượng người nghiện ma túy tăng kéo theo sự phát sinh, phát triển của các điểm,

tụ điểm, ổ, nhóm bán lẻ chất ma túy; cũng như sự phát triển của các điểm kinh

doanh như quán bar, vũ trường, nhà nghỉ, khách sạn trở thành tụ điểm buôn bán và

tiêu thụ ma túy gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh chính trị và trật tự

an toàn xã hội. Việc có số người nghiệm ma túy cao làm tăng tỷ lệ người phạm tội

hình sự bởi các nghiên cứu chỉ ra rằng khoảng 75% các tội phạm hình sự có nguyên

nhân bắt nguồn từ những người nghiện ma tuý [93].

Thực tế tại Hải Phòng cho ta thấy rõ mối quan hệ này, đây là một trong

các đô thị loại I có tỷ lệ người nghiện ma túy cao, theo đó tội phạm liên

quan đến ma túy tại địa bàn này tương đối lớn. Theo số liệu thống kê,

từ năm 2013 đến 31/5/2018 Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hải

Phòng xét xử 6.507 vụ/11.163 bị cáo, trong đó số vụ xét xử về ma túy

là 2.228 vụ/2.906 bị cáo (chiếm tỷ lệ 34% số vụ, 26% số bị cáo). Đa số

tội phạm bị xét xử liên quan đến ma túy trên địa bàn thành phố này

thuộc về nhóm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán, tổ chức sử dụng trái

phép chất ma túy (Trong đó, tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép

chất ma túy chiếm tỷ lệ 96% số vụ/92% số bị cáo; tội tổ chức sử dụng

trái phép chất ma túy được đưa ra xét xử chiếm 4% số vụ/ 8% về số bị

cáo). Đây cũng là địa bàn ghi nhận sự gia tăng số vụ án về ma túy khá

cao so với cả nước. Năm 2013 số vụ án về ma túy được đưa ra xét xử

trên địa bàn là 393 vụ với 519 bị cáo, đến năm 2017 số vụ án về ma túy

được đưa ra xét xử là 448 vụ với 584 bị cáo. Như vậy, trong vòng 3

năm số vụ án về ma túy tăng lên 55 vụ/65 bị cáo. Hiện nay, tội phạm về

92

ma túy xảy ra trên địa bàn thành phố Hải Phòng diễn biến hết sức phức

tạp, các đối tượng phạm tội có xu hướng manh động hơn, sử dụng vũ

khí “nóng” và chống trả quyết liệt lực lượng Công an khi bị bắt giữ.

Nhiều bị can, bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố xét xử ngoan cố,

không nhận tội, chống đối đến cùng [28].

Ngoài ra, tại các đô thị loại I của nước ta, hoạt động mại dâm diễn ra dưới nhiều hình thức trong đó các hoạt động mại dâm trá hình trong các loại hình kinh doanh dịch vụ như khách sạn, nhà hàng, karaoke, massage khá phát triển. Hiện nay đã xuất hiện các hình thức mới (giao dịch qua điện thoại, Internet, du lịch tình dục…) Theo kết quả thống kê của các địa phương trên toàn quốc, năm 2016 có khoảng hơn 15.000 người bán dâm. Tuy nhiên theo ước tính của Bộ Y tế, số lượng người bán dâm ở Việt Nam hiện nay vào khoảng 87.000 người (năm 2016). Nghiên cứu của Liên hợp quốc cho thấy năm 2014 ước số lượng người bán dâm ở nước ta ở mức xấp xỉ 300.000 người. Báo cáo giám sát của các địa phương cho biết từ 2011 đến 2016, đội kiểm tra liên ngành 178 của các tỉnh, thành phố đã truy quét, triệt phá 5.791 vụ, ổ nhóm hoạt động mại dâm với 23.231 người vi phạm, gồm 9.643 người bán dâm; 8.206 người mua dâm; 5.158 đối tượng chủ chứa, môi giới và 224 người bán dâm dưới 18 tuổi (tăng 1.572 vụ với 5.837 người vi phạm so với giai đoạn 2006-2010) [109]. VKSND các cấp thụ lý và kiểm sát điều tra 3.963 vụ/4.579 bị can, liên quan đến mại dâm (tội “Chứa mại dâm”: 2.231 vụ/ 2.280 bị can; tội “Môi giới mại dâm”: 1.679 vụ/2.227 bị can; tội “Mua dâm người chưa thành niên”: 53 vụ/72 bị can) [3]. Toà án nhân dân cấp sơ thẩm đã thụ lý 3.800 vụ với 5.004 bị cáo phạm các tội về mại dâm để xét xử theo thủ tục sơ thẩm (tăng 34 vụ, 325 bị cáo so với giai đoạn trước); đã xét xử 3.619 vụ với 4.692 bị cáo, đạt tỷ lệ 95,2% (vượt chỉ tiêu so với kế hoạch đề ra). Trong đó, có 2.662 bị cáo bị xét xử về tội “chứa mại dâm”, 1.971 bị cáo bị xét xử về tội “môi giới mại dâm” và 59 bị cáo bị xét xử về tội “mua dâm người chưa thành niên”; 79 trường hợp phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm [109]. Hoạt động mại dâm tập trung tại các đô thị loại I tương đối phát triển, tại Cần Thơ hiện có khoảng 1.000 nữ nhân viên làm trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ, tham gia bán dâm khi có điều kiện; 325 Phụ nữ hành nghề bán dâm đứng đường (75 người có hồ sơ quản lý). Khoảng 200 người hoạt động mại dâm kiểu “gái gọi”, thông qua người quen và bạn bè kêu đến các nhà hàng, quán ăn, karaoke phục vụ [77].

93

Đặc biệt một số đối tượng còn lợi dụng sự phát triển khoa học, công nghệ để

vi phạm pháp luật hình sự, như sử dụng mạng xã hội để mối giới mại dâm ở một số

đô thị loại I ngày càng diễn biến phức tạp, tinh vi (Hộp 3 Phụ lục 3); hoặc lừa đảo,

chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội, như các sàn giao dịch tiền ảo đã và đang diễn

ra trên nhiều địa bàn ở Việt Nam, đặc biệt ở các đô thị loại I.

Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 gây ảnh hưởng lớn đến các hoạt

động đầu tư, kinh doanh, các sàn giao dịch tiền ảo có dấu hiệu hoạt

động mạnh mẽ trở lại, tăng lên cả về số lượng người dùng và số lượng

sàn giao dịch. Về phương thức hoạt động, khi đầu tư người dân phải sử

dụng tiền thật để mua đồng tiền ảo, sau đó nạp tiền ảo này vào tài

khoản của công ty sở hữu sàn giao dịch để mua tiền ảo nội bộ với các

tên gọi khác nhau như “gem”, “xu”, “kim cương”, “thiên kim”,… Sau

khi số lượng tiền ảo nạp vào đủ lớn, đối tượng đứng sau các sàn giao

dịch sẽ đánh sập sàn hoặc đưa giá trị tiền ảo nội bộ (gem, xu, kim

cương,…) tụt dốc và chiếm đoạt toàn bộ số tiền mà khách hàng đã bỏ ra

để mua tiền ảo nội bộ [43].

3.2.1.2. Những hạn chế trong chấp hành pháp luật về bảo đảm trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

Thứ nhất, vẫn còn một bộ phận người dân, doanh nghiệp chưa chấp hành tốt

các quy định pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn loại I ở Việt Nam trong

thời gian qua.

Trong thời gian qua, trên địa bàn các đô thị loại I vẫn còn nhiều chủ thể pháp

luật chưa thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình, đặc biệt các doanh nghiệp, các

cơ sở sản xất, kinh doanh chưa chấp hành nghiêm túc các quy định pháp luật về

phòng, chống cháy nổ, bảo vệ môi trường và vệ sinh an toàn lao động.

Trong báo cáo đánh giá của 257 doanh nghiệp dệt may hoạt động tại Việt

Nam trong đó có nhiều doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn các đô thị loại I trong

giai đoạn từ tháng 10/2015 đến tháng 12/2016 cho thấy tình trạng không chấp hành

đầy đủ các quy định pháp luật về phòng chống cháy nổ, về đảm bảo môi trường làm

việc an toàn và đảm bảo các các quyền lao động cơ bản. Nghiên cứu này chỉ ra

rằng: “Gần 60% trong tổng số nhà máy trong mẫu nghiên cứu không tuân thủ các

quy tắc về thương lượng tập thể như không tham vấn ý kiến của Công đoàn, người

94

lao động chưa biểu quyết tán thành thỏa ước lao động tập thể, và không công khai

thỏa ước lao động tập thể tại doanh nghiệp” [8, tr.5].

Gần 50% các nhà máy không tuân thủ một số khía cạnh về trả lương làm thêm

giờ như việc các nhà máy sử dụng công thức tính lương không chính xác (dẫn đến

việc trả lương tăng ca thấp) hay việc không lưu trữ thông tin liên quan đến trả lương

làm thêm giờ [8, tr.16]. Bên cạnh đó là một tỷ lệ lớn các doanh nghiệp (40%) chi trả

thù lao làm thêm giờ không đúng.

Nhiều trường hợp, do không hiểu đầy đủ quy định của luật, nên 23% doanh

nghiệp cũng tính sai mức chi trả cho người lao động khi huy động họ đi làm

vào ngày nghỉ hằng tuần (Chủ nhật) và một tỉ lệ ít hơn các doanh nghiệp

(13%) chi trả không đúng cho những giờ làm thêm vào ban đêm và vào

ngày nghỉ lễ. Gần 60% nhà máy không thực hiện đầy đủ các quy định của

luật về nghỉ có hưởng lương, nguyên nhân chủ yếu là không chi trả chế độ

ốm đau và thai sản trong vòng 3 ngày làm việc (nhiều nhà máy chi trả mỗi

tháng 1 lần), và không chi trả tiền phép năm chính xác [8, tr.5].

Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ doanh nghiệp ngành dệt may không chấp hành

các quy định pháp luật

Nguồn: Better work Vietnam, (2016) [8, tr.11]

95

Hiện nay, trên địa bàn các đô thị loại I, tỷ lệ không nhỏ các doanh nghiệp

không tuân thủ các quy định trong lĩnh vực lao động, phòng chống cháy, nổ và đảm

bảo vệ sinh an toàn lao động. Khoảng 40% doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ

các quy định về cung cấp và sử dụng bảo hộ cá nhân (ví dụ: khẩu trang, găng tay

sắt, kính bảo hộ); một số doanh nghiệp cũng chưa đảm bảo vận hành máy móc an

toàn (hơn 1/3 số doanh nghiệp), vi phạm chủ yếu là côngnhân điều chỉnh hoặc tháo

các thiết bị bảo vệ như chắn kim, bảo vệ mắt trên các máy may (Biểu đồ 3.3).

Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ nhà máy dệt may không chấp hành các quy định

liên quan đến phòng chống cháy, nổ

Nguồn: Better work Vietnam (2016) [8, tr.21]

Việc phòng chống tai nạn đặc biệt các tai nạn liên quan đến cháy nổ là điều

cần thiết đặc biệt đối với các cơ sở kinh doanh và các nhà máy, xí nghiệp đóng trên

địa bàn các đô thị loại I, nơi có đông dân cư. Trong những năm qua, các quy định

pháp luật về phòng cháy chữa cháy, nổ tiếp tục được hoàn thiện, tuy nhiên việc tuân

thủ chấp hành các quy định phòng cháy chữa cháy của người dân và các doanh

nghiệp trên địa bàn còn khá thấp. Nghiên cứu của Better Work tại Việt Nam cho

thấy rất nhiều các doanh nghiệp trong ngành dệt may của Việt Nam có hệ thống

phát hiện và báo cháy không đầy đủ và không có khả năng phát huy tác dụng trong

thực tế (Bảng 3.4).

96

Kết quả thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng tại các khu công nghiệp

đóng trên địa bàn các đô thị loại I cho thấy có rất nhiều khu công nghiệp vi phạm

các quy định về bảo vệ môi trường. Vi phạm phổ biến nhất là nhiều khu công

nghiệp đang hoạt động nhưng chưa được phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi

trường và rất nhiều khu công nghiệp không thực hiện đúng Báo cáo đánh giá tác

động môi trường được phê duyệt [30].

Biểu đồ 3.5: Số vụ vi phạm pháp luật về môi trường bị phát hiện xử lý

trên địa bàn 13 đô thị loại I giai đoạn 2012-2020

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của Công an các thành phố (2021)

Trong giai đoạn 2012-2020, trên địa bàn 13 đô thị loại I là Hải Phòng, Đà

Nẵng, Cần Thơ, Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn, Thái Nguyên, Vũng Tàu, Hạ

Long, Biên Hòa, Mỹ Tho, Thanh Hoá, cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý

11036 vụ vi phạm pháp luật về môi trường do các nhà máy, xí nghiệp, doanh

nghiệp đóng trên địa bàn các đô thị này gây ra. Trong giai đoạn này số vụ vi phạm

pháp luật về môi trường có xu hướng gia tăng (Biểu đồ 3.5).

Cùng với đó một số doanh nghiệp không chấp hành tốt pháp luật, đôi khi còn

“tiếp tay” cho nhưng sai trái của một bộ phận cán bộ, công chức, đó là một số

doanh ngiệp khi bị phát hiện những sai phạm luôn tìm cách xử lý bằng các hình

thức phi chính thức để êm xuôi mọi chuyện.

97

Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương

mại và Công nghiệp Việt Nam công bố tháng 3/2019, có tới 58% trong

số khoảng 10.000 doanh nghiệp được khảo sát trên địa bàn các đô thị

loại I thừa nhận phải trả chi phí không chính thức cho các cơ quan quản

lý nhà nước và đây là những chi phí chỉ để tuân thủ pháp luật. Những

doanh nghiệp này cho biết sẵn sàng chấp nhận những vi phạm để hoạt

động vì nếu tuân thủ phải tốn chi phí đầu tư, nhân lực, thời gian và cả chi

phí cơ hội. Khi đặt ra bài toán hiệu quả trong kinh doanh thì việc vi phạm

pháp luật rồi chịu nộp phạt nhiều khi lại có lợi hơn. Đó là hệ quả của việc

còn tồn tại quá nhiều quy định làm cho chi phí tuân thủ của doanh nghiệp

tăng cao một cách bất hợp lý... [32].

Bảng 3.12: Tỷ lệ doanh nghiệp bị mất trộm tài sản những năm gần đây

Đô thị loại I

2017

2018

2019

2020

Hải Phòng

12%

13%

11%

9%

Đà Nẵng

8%

15%

9%

12%

Cần Thơ

7%

18%

10%

11%

Huế

12%

8%

8%

7%

Đà Lạt

7%

13%

10%

21%

Nha Trang

15%

22%

21%

17%

Quy Nhơn

8%

14%

8%

6%

Thái Nguyên

7%

11%

6%

9%

Vũng Tàu

12%

16%

15%

18%

Hạ Long

10%

14%

6%

5%

Biên Hòa

17%

12%

11%

9%

Mỹ Tho

17%

23%

18%

20%

Thanh Hóa

12%

12%

16%

13%

Nguồn: Xử lý từ VCCI (2021) [117]

98

Bên cạnh đó, số doanh nghiệp bị trộm cắp tài sản trong những năm vừa qua

trên địa bàn các đô thị loại I chiếm tỷ lệ nhất định, nếu năm 2017, trong số 13 đô thị

loại I được khảo sát thì các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Mỹ Tho bị trộm

cắp tài sản nhiều nhất, ít nhất là các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Huế, đến

năm 2018 thì các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Mỹ Tho và Biên Hoà chiếm

tỷ lệ nhiều nhất, Cần Thơ, Thái Nguyên và Đà Lạt chiếm tỷ lệ thấp nhất; đến năm

2019 tỷ lệ lớn nhất ở thành phố Nha Trang và ít nhất ở thành phố Thái Nguyên;

năm 2020, tỷ lệ lớn nhất ở thành phố Đà Lạt và ít nhất ở thành phố Hạ Long. Nhìn

chung trong 13 đô thị loại được khảo sát, có đô thị trên địa bàn đó tỷ lệ doanh

nghiệp bị trộm cắp tài sản giảm như Hạ Long, có đô thị thì tỷ lệ này lại tăng như Đà

Lạt, các đô thị khác có năm tăng, năm giảm (Bảng 3.12). Thực tế đó cho thấy, một

bộ phận người dân, trong đó có công nhân của các doanh nghiệp này chưa chấp

hành tốt pháp luật, có có hành vi trộm cắp tài sản, chưa thực sự tôn trọng quyền sở

hữu tài sản của chủ thể khác.

Ngoài ra, việc không chấp hành các quy định pháp luật liên quan đến đảm

bảo TTATXH diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau như không tham gia các quy

định pháp luật giao thông, không tuân thủ các chuẩn mực chung,… Tại các đô thi

loại I vẫn còn hiện tượng vi phạm pháp luật giao thông xảy, như: còn uống rượu bia

khi tham giao thông; người tham gia giao thông lạng lách, đánh võng, phóng nhanh,

vượt ẩu, không đội mũ bảo hiểm, vượt đèn đỏ…

Thứ hai, một số cơ quan chức năng trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

vẫn chưa thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình làm ảnh hưởng xấu

đến chất lượng quản lý nhà nước về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị trong

thời gian qua.

Một là, một số cơ quan chức năng trên địa bàn đô thị loại I còn một số tồn tại,

hạn chế như: việc rà soát, đề xuất bổ sung vào Chương trình ban hành văn bản quy

phạm pháp luật của HĐND, UBND của các Sở, ngành còn chậm; thiếu tính chủ

động; cán bộ pháp chế chủ yếu làm công tác kiêm nhiệm chưa nắm rõ các quy định

tại văn bản của Trung ương để tham mưu, đề xuất xây dựng văn bản quy định chi

tiết cho ngành mình quản lý, do đó một số văn bản quy định chi tiết của UBND tỉnh

được ban hành chưa kịp thời gian theo quy định của văn bản cấp trên. “Thực tế cho

99

thấy tồn tại hạn chế lớn nhất trong công tác ban hành văn bản hướng dẫn thi hành

quy phạm pháp luật là tình trạng chậm ban hành các văn bản so với yêu cầu công

tác quản lý nhà nước. Còn tình trạng một số văn bản đã ban hành chưa có tính khả

thi cao” [118, tr.42].

Điều xuất phát từ chỗ một số địa phương đô thị loại I có hiện tượng các thủ

trưởng một số Sở, ngành và địa phương chưa quan tâm, chỉ đạo và xây dựng kế

hoạch để triển khai việc thi hành pháp luật. Việc chậm ban hành văn bản hướng dẫn

thi hành khiến cho việc thực hiện pháp luật của cơ quan chức năng và người dân

gặp nhiều khó khăn.

Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan

nhà nước trên địa bàn đô thị loại I thực hiện chưa thực sự hiệu quả.

Các thành phố loại I thành đều có cổng thông tin điện tử, nhằm phổ biến tuyên

truyền thông tin pháp luật cũng như chủ trương chính sách. Tuy nhiên nhiều thông

tin pháp luật vẫn chưa được công bố rộng rãi đầy đủ, chi tiết trên các trang này. Đặc

biệt các thông tin liên quan đến quy hoạch phát triển kinh tế hay quy hoạch đất đai

để người dân và doanh nghiệp dễ ràng tiếp cận thông tin. Nhiều có địa phương chưa

công bố các quy hoạch trên website của mình mà yêu cầu cá nhân, tổ chức muốn tra

cứu quy hoạch thì phải đến tận nơi hoặc gửi công văn đề nghị tới Sở Tài nguyên và

Môi trường. Thêm vào đó, một số bản quy hoạch hoặc điều chỉnh quy hoạch không

được đăng tải đầy đủ các nội dung. Có cơ quan chỉ đăng tải quy hoạch nhưng lại

không đính kèm phụ lục, trong khi phụ lục được coi là một phần không thể tách rời

của quy hoạch và các nội dung cụ thể đối với từng dự án được thể hiện trong phụ

lục. Thực tế đó cho thấy việc cung cấp các thông tin liên quan đến chính sách, pháp

luật còn “chưa được thực hiện một cách triệt để, chưa nghiêm túc và nhiều khi chỉ

mang tính hình thức, chiếu lệ” [118, tr.43].

Chính những hạn chế công tác tuyên truyền, phổ biến công khai các quy định

pháp luật đến với người dân và doanh nghiệp do đó trên thực tế không phải tất cả

các thông tin, quy định pháp luật đều được tiếp cận một cách dễ dàng. Khi nghiên

cứu khả năng tiếp cận thông tin pháp luật từ phía người dân và những doanh

nghiệp cần thông tin chúng ta thấy những khó khăn và rào cản trong việc tiếp cận

100

thông tin pháp luật từ phía người tuân thủ chấp hành luật. Khảo sát PCI năm 2014

của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn đô thị loại I cho thấy: “Có tới 44,83% các

doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết phải dành trên 10% quỹ thời gian để tìm

hiểu và thực hiện các quy định pháp luật, tỷ lệ 44,83% này cao hơn mức chung

của tất cả các ngành (35,02%), và tăng mạnh so với năm 2013 (20%)” [118, tr.42-

43]. Năm 2018, “có 30,7% doanh nghiệp cho biết phải dành hơn 10% quỹ thời

gian để tìm hiểu và thực hiện các quy định pháp luật của Nhà nước (năm 2015 là

35,5%)” [120, tr.8].

Với thang điểm từ 1 đến 5 (từ không thể đến rất dễ), khả năng tiếp cận của

doanh nghiệp với các tài liệu quy hoạch chỉ đạt 2,38 điểm theo kết quả điều tra

PCI năm 2018, tương tự như đánh giá vào năm 2015 và 2016, và thấp hơn đáng kể

mức 2,63 điểm của điều tra năm 2006. Nhiều doanh nghiệp trên địa bàn đô thị loại

I được khảo sát cho kết quả: “Khả năng tiếp cận của doanh nghiệp với các tài liệu

pháp lý có khá hơn, ở mức 3,01 điểm trong năm 2018, song cũng chưa có nhiều

cải thiện kể từ những năm đầu tiến hành điều tra. Vẫn có tới 69,4% doanh nghiệp

cho biết “cần có mối quan hệ” để có được các tài liệu của tỉnh (năm 2017 là

70%)” [120, tr.9].

Điều đó có nghĩa là các cơ quan chức năng đã chưa thật sự làm tốt công tác

tuyên truyền, phổ biến, công khai các quy định chính sách pháp luật đến mọi

người dân. Điều này tạo ra những cản trở rất lớn cho quá trình thực hiện quy định

pháp luật.

3.2.1.3. Những hạn chế trong sử dụng pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn

xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

Tình trạng một bộ phận người dân trên địa bàn các đô thị loại I chưa thực

hiện đầy đủ quyền của mình, như quyền bầu cử, quyền tham gia vào quản lý nhà

nước, v.v.. Thực tế qua các cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp,

trên địa bàn các đô thị loại I vẫn còn xảy ra tình trạng một cử tri đi bỏ phiếu cho cả

nhà (bỏ phiếu thay cho 3-4 cử tri khác): “Thực tế các kỳ bầu cử vừa qua vẫn ghi

nhận cá biệt việc bầu hộ, bầu thay. Có hiện tượng một người đem phiếu của cả gia

đình đi bầu” [123].

101

Bảng 3.13: Tỷ lệ người bị vòi tiền tố cáo và mức tiền đòi hối lộ

mà người dân bắt đầu tố cáo

2018

2019

2020

Đô thị loại I

Mức tiền (1000 VNĐ)

Mức tiền (1000 VNĐ)

Mức tiền (1000 VNĐ)

Tỷ lệ người bị vòi tố cáo 0% 0% 0% 13.60% 0% 0% 0% 9.16% 23.87% 30.36% 24.68% 0% 0%

14,700.52 21,411.03 31,650.65 31,722.21 23,695.23 23,516.57 26,140.54 16,883.60 27,758.81 30,667.35 26,305.45 27,731.67 19,625.97

18,538 14,598 18,964 30,590 27,321 28,399 19,391 25,786 24,612 18,974 28,407 26,391 19,525

Tỷ lệ người bị vòi tố cáo 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 27.04% 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 0.00%

21,032 36,136 22,220 28,440 24,940 26,288 27,044 25,366 25,284 36,576 27,391 40,987 22,173

Hải Phòng Đà Nẵng Cần Thơ Huế Đà Lạt Nha Trang Quy Nhơn Thái Nguyên Vũng Tàu Hạ Long Biên Hòa Mỹ Tho Thanh Hóa

Tỷ lệ người bị vòi tố cáo 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 7.73% 13.07% 0.00% 0.00% 0.00% 0.00% 11.74% 5.25% 0.00% Nguồn: PAPI (2021) [17]

Bên cạnh đó, trên địa bàn đô thị loại I vẫn còn một bộ phận người dân thờ ơ,

không tố cáo, tố giác đến các cơ quan chức năng về những tiêu cực trong xã hội,

những tiêu cực của đội ngũ cán bộ, công chức hoặc tiếp tay cho những sai phạm

đó bằng việc “bôi trơn” khi đến giải quyết công việc tại cơ quan nhà nước. Trong

03 năm gần đây, người bị vòi tiền tố cáo chiếm tỷ lệ thấp, đặc biệt các thành phố

trực thuộc trung ương như Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ trong 03 năm qua

không có người bị vòi tiền khi đến giải quyết công việc tại cơ quan nhà nước đi tố

cáo, trong khi đó, mức tiền đòi hối lộ mà người dân ở 3 thành phố này bắt đầu đi

tố cáo ngày tăng từ 13.5% đến 147.54% (Bảng 3.13). Thực tế đó cho thấy hiện

tượng tham nhũng vặt vẫn còn xảy ra phổ biến ở các cơ quan công quyền, các đơn

vị hành chính sự nghiệp trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay, tuy

nhiên, người dân, doanh nghiệp không tố cáo hoặc vì lợi ích của bản thân mình

mà sẵn sàng bỏ qua và tiếp tay cho những sai trái này. Thực tế này dẫn đến, trong

cả nước, “năm 2019, tỷ lệ doanh nghiệp đồng ý với nhận định “chi trả ‘hoa hồng’

102

là cần thiết để có cơ hội thắng thầu” chỉ còn là 41,2%; 48% doanh nghiệp FDI

thực hiện thủ tục xin cấp giấy phép xây dựng trong năm 2019 đã chi trả thêm

trung bình khoảng 24 triệu đồng chi phí không chính thức để nhận được giấy phép

này”, nhưng các con số này mở chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm” [72] vì các

nghiệp lo ngai việc công bố thông tin cho các cơ quan thông tấn, báo chí hay cơ

quan chức năng sẽ gây ra những bất lợi cho hoạt động của doanh nghiệp mình.

3.2.1.4. Những hạn chế trong áp dụng pháp luật về bảo đảm trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

Tình trạng sai sót trong quá trình thụ lý và xét xử các vụ án trên địa bàn các đô

thị loại I vẫn còn xảy ra, dẫn đến việc phải hủy án, hay cải sửa là: nhiều tòa thụ lý,

giải quyết các vụ án không thuộc thẩm quyền phần lớn liên quan đến các xét xử các

án hành chính. Việc thụ lý các vụ án không đúng thẩm quyền thường do ngay từ đầu

chưa xác định rõ loại việc mà đương sự khởi kiện hoặc do các tòa địa phương thường

gặp khó khăn ngay từ khâu xác định nội dung, đối tượng khởi kiện ban đầu. Nhiều

tòa án gặp lúng túng trong khâu xác định thẩm quyền giải quyết của tòa án theo quy

định tại Điều 28 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; một số trường hợp đình chỉ vụ

án sai do ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, các tòa xác định sai tư cách người tham gia tố

tụng; vi phạm trong việc giải quyết không hết hoặc giải quyết ngoài phạm vi đơn

khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự. Theo Điều 5 BLTTDS quy định về quyền

quyết định và tự định đoạt của đương sự, trong đó quy định “Tòa án chỉ thụ lý giải

quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải

quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu”, nhưng khi giải quyết án một số

Tòa án đã thực hiện không đúng quy định này.

Bên cạnh đó một số tòa án khi giải quyết các vụ án hành chính lại giải quyết

chưa đủ yêu cầu khởi kiện; sai sót tiếp theo là việc tòa án thụ lý giải quyết vụ án

khi đương sự chưa có đủ điều kiện khởi kiện. Theo quy định tại điểm d khoản 1

Điều 168 BLTTDS năm 2004 nay là điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm

2015 thì Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện khi đương sự chưa có đủ điều kiện khởi

kiện theo quy định của pháp luật. Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp

pháp luật có quy định về các điều kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến

Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó. Theo kết quả khảo sát thực tế cho

103

thấy một số tòa án đôi khi chưa tuân thủ triệt để quy định này; vi phạm trong việc

xác định sai tư cách người tham gia tố tụng; không đưa đầy đủ những người có

quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng. Tại Chương VI BLTTDS quy

định về người tham gia tố tụng, trong đó quy định rõ về nguyên đơn, bị đơn, người

có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; quyền và nghĩa vụ của đương sự. Tuy nhiên, thực

tế vẫn còn nhiều trường hợp có sai sót trong việc xác định tư cách đương sự và

không đưa đầy đủ những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố

tụng. Những sai sót này thường xảy ra khi xét xử các vụ án dân sự; sai sót tiếp

theo có thể kể đến là việc trong thời điểm có vụ án Tòa án đã xác định sai tư cách

tham gia tố tụng của đương sự dẫn đến hủy án, sửa án. Đồng thời cũng có sai sót

liên quan đến việc xác minh, thu thập chứng cứ; đánh giá chứng cứ. Tại khoản 2

Điều 85 BLTTDS năm 2004 nay là khoản 2 Điều 97 BLTTDS năm 2015 quy

định: Trong các trường hợp do Bộ luật này quy định, Tòa án có thể tiến hành một

hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu, chứng cứ: Lấy lời khai của

đương sự, người làm chứng; Đối chất giữa các đương sự với nhau; Trưng cầu

giám định; Định giá tài sản; Xem xét, thẩm định tại chỗ... Việc thu thập tài liệu,

chứng cứ phải được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự

quy định nếu không thì tài liệu thu thập đó không có giá trị pháp lý. Tuy nhiên

cũng có nhiều bản án bị hủy do quá trình xét xử tòa án đã không tuân thủ, chấp

hành nghiêm quy định này. Những sai sót thường gặp trong quá trình thu thập

chứng cứ là: “việc không tiến hành thu thập hoặc thu thập tài liệu, chứng cứ chưa

đầy đủ; đánh giá chứng cứ không khách quan, toàn diện dẫn đến quyết định của

bản án không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án” [121].

Ngoài ra một số tòa vi phạm các quy định về thời gian xét xử. Theo quy định

tại Điều 177 BLTTHS hiện hành thì, đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày

mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn

thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa. Tuy

nhiên, trên thực tế qua nghiên cứu hồ sơ vụ án chúng tôi nhận thấy có nhiều

trường hợp phiên toà không mở, thời hạn tạm giam đã hết, Toà án ra một cái lệnh

vô thời hạn: “Tạm giam bị cáo cho đến khi kết thúc phiên tòa”, có trường hợp 6

tháng hoặc một năm sau phiên toà mới được mở. Một số tòa án vi phạm thời hạn

gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát cùng cấp. Ngoài ra một số tòa án ra

104

Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án nhưng không nêu rõ hậu quả của việc đình

chỉ giải quyết vụ án, không tuyên đình chỉ đối với yêu cầu đương sự đã rút, không

nêu hậu quả đình chỉ” [121].

Một số tòa án không thực hiện không đầy đủ yêu cầu về tống đạt, niêm yết các

văn bản tố tụng của Tòa án cho các đương sự; cũng như cung cấp kịp thời các tài

liệu, chứng cứ, các yêu cầu về cung cấp thông tin, văn bản thẩm định giá cho Tòa

án theo quy định của pháp luật.

3.2.2. Những hạn chế trong tuân thủ pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn

xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam theo các tiêu chí tổng thể

Trong quá trình đô thi hoá mạnh mẽ như hiện nay ở nước ta, nhiều vấn đề KT-

XH nảy sinh ảnh hưởng đến TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I điều này ảnh

hưởng trực tiếp đến việc THPL về bảo đảm TTAHXT trên địa bàn các đô thị loại I

ở Việt Nam hiện nay, cụ thể là:

3.2.2.1. An ninh, trật tự về kinh tế, xã hội trên một số địa bàn đô thị loại I ở

Việt Nam chưa thực sự ổn định và bền vững

Mặc dù kinh tế - xã hội ở các đô thị loại I có sự tăng trưởng khá trong nhiều

năm vừa qua, tuy nhiên, tình trạng tệ nạn xã hội tiếp tục gia tăng, vấn nạn ô nhiễm

môi trường chưa xử lý triệt để đã và đang đe doạ đến sự phát triển bền vững ở các

địa phương này.

Bảng 3.14: Số vụ và đối tượng vi phạm pháp luật về môi trường và ma tuý

trên địa bàn Đà Nẵng, Huế, Hạ Long, Đà Lạt và Biên Hoà

Năm

Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường

Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy

Đối tượng 311 482 371 575 605 618 522 477 437

Vụ 309 481 369 574 603 616 511 463 433

Vụ 694 700 626 495 587 656 665 672 646

2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020

Đối tượng 1385 1321 1265 1182 1226 1623 1557 1541 1583 Nguồn: Xử lý từ báo cáo của Công an các thành phố Đà Nẵng, Huế,

Hạ Long, Đà Lạt và Biên Hoà (2021)

105

Trong 09 năm qua, số lượng vụ án và đối tượng vi phạm pháp luật về môi

trường trên địa bàn 05 thành phố trên tiếp tục gia tăng từ 309 vụ và 311 đối tượng

vào năm 2012 đã tăng lên 433 vụ và 437 đối tượng vào năm 2020, tăng 40.13% số

vụ và 40.51% số đối tượng; trong khi đó, số vụ án ma tuý có xu hướng giảm từ 694

vụ vào năm 2012 xuống 646 vụ vào năm 2020, nhưng số đội tượng phạm tội lại

tăng từ 1385 đối tượng vào năm 2012 lên 15813 đối tượng vào năm 2020, tăng

14.3% (Bảng 3.14). Thực tế đó cho thấy, tính chất và mức độ vi phạm pháp luật của

các đối tượng trên lĩnh vực môi trường và ma tuý vẫn diễn biến phức tạp trên địa

bàn các đô thi loại I, trong đó số đối tượng vi phạm pháp luật trên lĩnh vực môi

trường và ma tuý của Đà Lạt cao nhất, với tỷ lệ lần lượt là 79.31%, 72.5%, tiếp đến

là Đà Nẵng với tỷ lệ là 65.22% và 55.46% (Phụ lục 4).

3.2.2.2. Mức độ bảo đảm an toàn, yên ổn, các quyền và lợi ích chính đáng

của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức khác trên địa bàn đô thị loại I ở Việt

Nam chưa được cải thiện rõ rệt, chưa đáp ứng kỳ vọng của người dân

Thứ nhất, mức độ an toàn, yên ổn cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức

trên địa bàn độ thị loại I ở Việt Nam trong thời gian qua chưa được cải thiện rõ rệt.

Trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay, sự gia tăng các băng, nhóm

tội phạm hoạt động chủ yếu dưới dạng đâm thuê, chém mướn, bảo kê, siết nợ, đòi

nợ thuê, cho vay nặng lãi, tổ chức cờ bạc, cá độ bóng đá làm ảnh hưởng nghiêm

trọng đến cuộc sống an toàn của nhiều người dân. Đặc biệt tội phạm chống người

thi hành công vụ với tính chất rất nghiêm trọng xuất hiện ngày càng nhiều khiến

cho tình hình an ninh trật tự xã hội bị vi phạm gây bức xúc cho người dân. Cùng với

tội phạm, các loại tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, nghiện hút, mê tín dị đoan có

chiều hướng gia tăng ảnh hưởng xấu đến cuộc sống bình yên, hạnh phúc của các gia

đình và toàn xã hội. Sự phát triển của tệ nạn xã hội làm gia tăng các loại tội phạm,

đê dọa đến cuộc sống bình yên của người dân. Bên cạnh đó những vụ tai nạn lao

động, tai nạn nghề nghiệp, rủi ro, các vụ cháy nổ, tai nạn giao thông đang đe dọa

đến tài sản, tính mạng của người dân. Những vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi

trường như ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm tiếng ồn và khói bụi cộng với những vấn

đề liên quan đến các loại dịch bệnh, việc không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm

do thực phẩm bẩn, hàng giả hàng kém chất lượng khiến cho tình hình trật tự, an

106

toàn xã hội trong những năm qua tại các thành phố, đô thị loại I đang là vấn đề nóng

bỏng, bức xúc, gây bất an cho cộng đồng.

Bảng 3.15: So sánh mức độ an toàn đối với cuộc sống của người dân

tại một số đô thị loại I và đô thị đặc biệt năm 2019

Hà Nội

TP.HCM

Đà Nẵng Hải Phòng Nha Trang

Thấp

Trung bình

Thấp

Lo lắng vì bị đột

Trung bình

Cao

37.50

43.75

34.72

nhập hay mất đồ

43.59

62.60

Rất thấp

Trung bình

thấp

Lo lắng vì bị giết

Trung bình

Cao

12.50

56.25

23.61

64.53

42.21

hay cướp

thấp

Trung bình

Trung Bình

Rất thấp

Thấp

Lo lắng bị mất ô tô

37.50

43.75

19.12

55.19

34.74

Thấp

Trung bình

Thấp

Lo lắng vì bị trộm

Trung bình

Cao

37.50

43.75

20.59

60.74

41.33

đồ trên ô tô

Trung bình

Trung bình

Thấp

Trung bình

Thấp

Lo lắng bị tấn công

50.00

50.00

20.83

47.07

34.94

Thấp

Trung bình

Thấp

Trung bình

Thấp

Lo

lắng bị xúc

37.50

50.00

23.61

45.19

33.12

phạm

Lo lắng bị tấn công

Thấp

Rất thấp

Rất thấp

Rất thấp

Trung

vì màu da, nguồn

26.56

14.47

15.28

0.00

bình 43.75

gốc, dân tộc

Vấn đề với người

Thấp

Trung bình

Trung bình

Thấp

Cao

nghiện hay buôn

31.94

43.33

54.81

37.50

75.00

bán ma túy

Vấn đề liên quan

Thấp

đến tội phạm tài

Trung bình

Cao

Thấp

Trung bình

38.89

52.36

62.02

37.50

43.75

sản như phá hoại

hay trộm cắp

Vấn đề tội phạm

bạo lực như tấn

Thấp

Trung bình

Thấp

Thấp

Thấp

công và cướp có

35.14

51.54

23.61

37.50

37.50

vũ trang

Nguồn: Crime Index for Country 2019 [128]

107

Mức độ an toàn đối với cuộc sống của người dân sinh sống tại các đô thi loại I

(Đà Nẵng, Hải Phòng, Nha Trang) thấp hơn so với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí

Minh, cụ thể là: mức độ an toàn do lo lắng bị đột nhập hay mất đồ ở Hà Nội và

Thành phố Hồ Chí Minh ở mức trung bình và cao thì ở các đô thị loại I trên ở mức

thấp, thấp và trung bình; mức độ an toàn do lo lắng vì bị giết hay cướp ở các đô thị

đặc biệt là trung bình và cao thì ở các đô thị loại I là thấp, rất thấp và trung bình;

mức độ an toàn từ vấn đề liên quan đến tội phạm tài sản như phá hoại hay trộm cắp

ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh ở mức trung bình và cao thì ở các đô thị loại I

này là mức thấp, thấp và trung bình (Bảng 3.15).

Thực tế trên dẫn đến chỉ số TTATXH ở Việt Nam trong những năm qua chưa

có sự cải thiện rõ rệt, trong những năm từ 2017-2020, chỉ số TTATXH không có sự

thay đổi, mặc dù vị trí xếp hạng của Việt Nam ở khu vực châu Á - Thái Bình

Dương và xếp hạng toàn cầu có sự cải thiện, nhưng không nhiều và chưa ổn định,

có lúc tăng, lúc giảm (Bảng 3.16).

Bảng 3.16: Chỉ số trật tự an toàn xã hội giai đoạn 2012-2020

Xếp hạng khu vực châu Á -

Xếp hạng toàn cầu

Năm

Chỉ số TTATXH

Thái Bình Dương

2012

0.82

7/14

24/97

2013

0.82

7/14

24/97

2014

0.8

9/15

32/99

2015

0.79

8/15

35/102

2016

0.79

9/15

35/113

2017

0.77

10/15

83/113

2018

0.77

10/15

83/113

2019

0.77

8/15

40/126

2020

0.77

9/15

44/128

Nguồn: Xử lý số liệu từ The World Justice Project 2011-2020 [137]

Những minh chứng trên cho thấy, mức độ an toàn, yên ổn cho người dân,

doanh nghiệp và các tổ chức trên địa bàn độ thị loại I ở Việt Nam vẫn còn những

hạn chế, chưa đáp ứng được kỳ vọng, mong đợi của người dân sinh sống, làm việc

trên địa bàn các đô thị loại I hiện nay.

108

Thứ hai, quyền và lợi ích chính đáng của người dân, doanh nghiệp và các tổ

chức khác trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam chưa được bảo đảm đầy đủ.

Tình trạng tham nhũng vặt (được phân tích ở trên), cũng với những hạn chế

trong quá trình giải quyết công việc của chính quyền trên địa bàn các đô thị loại I đã

và đang gây cản trở và vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân,

doanh nghiệp và các tổ chức khác trên địa bàn. Thực tế ở 13 độ thị loại I được khảo

sát (Bảng 3.10), số lượng người dân, doanh nghiệp và tổ chức không hài lòng đối

với chính quyền chiếm từ 15-20%, điều đó cho thấy, những tồn tại, hạn chế về thủ

tục hành chính, về năng lực và đạo đức của đội ngũ cán bộ công chức và chất lượng

phục vụ của cơ quan công quyền đã và đang làm suy giảm lòng tin và sự hài lòng

của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức.

3.3. NGUYÊN NHÂN KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG HẠN CHẾ TRONG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA

BÀN CÁC ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM

3.3.1. Nguyên nhân của kết quả đạt được về thực hiện pháp về bảo đảm

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

Những kết quả đạt được trong THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị

loại I ở Việt Nam, xuất phát từ những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao.

Thành tựu quan trọng của chính sách giáo dục Việt Nam những năm qua là

việc nâng cao trình độ dân trí cho mọi người dân. Theo báo cáo của Tổng cục

Thống kê năm 2016, tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết khu vực

thành thị là 97,7% [103, tr.44] đến năm 2019, tỷ lệ này là 98,3% [105, tr.239, 364],

nghĩa là phần lớn người dân đang sinh sống khu vực đô thị có thể đọc và viết. Trình

độ học vấn của người dân tại khu vực đô thị loại I tiếp tục được được nâng cao

trong thời gian qua, điều này tạo điều kiện cho việc nâng cao hiểu biết pháp luật,

người dân quan tâm hơn đến pháp luật và ý thức chấp hành, thực hiện pháp luật có

những tiến bộ rõ rệt.

Thứ hai, khả năng tiếp cận với các văn bản pháp luật tại Việt Nam ngày một

thuận lợi hơn và tốt hơn.

Trên thực tế, mức độ minh bạch và khả năng tiếp cận các văn bản pháp luật tại

Việt Nam nói chung và trong lĩnh vực đảm bảo TTATXH trên địa bàn các đô thị

109

loại I nói riêng tương đối tốt. Ngoài các cơ sở dữ liệu về pháp luật do các cơ quan

nhà nước quản lý, nhiều cơ sở dữ liệu khác của tư nhân cũng giúp người dân và

doanh nghiệp dễ dàng tra cứu pháp luật khi có nhu cầu [119, tr.39].

Việc phổ biến rộng rãi các quy định pháp luật thông qua các kênh truyền

thông đại chúng, mạng Internet, thông qua các hoạt động tuyên truyền pháp luật

do các cơ quan, ban ngành thực hiện đã giúp người dân dễ dàng tiếp cận với thông

tin pháp luật. Hiện nay 22 đô thị loại I ở Việt Nam đều có cổng thông tin điện tử,

cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia được công bố công khai trên trang web

http://vbpl.vn/Pages/portal.aspx, trong đó bao gồm cả văn bản pháp luật trung ương

và địa phương; ngoài ra các văn bản pháp luật còn được công khai trên trang Chính

phủ, Quốc hội và các Bộ, ngành. Điều này tạo điều kiện giúp nhân dân trên địa bàn

đô thị loại I dễ dàng tiếp cận và từ đó, nhận thức sâu sắc hơn hành vi của mình để

có thể thực hiện tốt hơn những quy định của pháp luật.

Thứ ba, hệ thống pháp luật về bảo đảm TTATXH tiếp tục được hoàn thiện.

Những năm qua, để đảm bảo TTATXH, Đảng và Nhà nước không ngừng đẩy

mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chủ

động và tích cực hội nhập quốc tế, xử lý kịp thời, hiệu quả, các vấn đề thực tiễn đã

và đang đặt ra. Để giữ gìn TTATXH cả nước nói chung và trên các đô thị loại I nói

riêng, việc đảm bảo cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho mọi người dân được Đảng

và nhà nước luôn quan tâm đặc biệt, trong đó không ngừng hoàn thiện hệ thống

pháp luật về trật tự an toàn xã hội, trong đó có việc sửa đổi, bổ sung Luật Công an

nhân dân, nhằm thể chế hóa các quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng và các

văn bản pháp luật liên quan khác; đảm bảo đồng bộ thống nhất trong hệ thống pháp

luật, khắc phục kịp thời những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình quản

lý nhà nước về TTATXH. Việc sửa đổi Luật Công an nhân dân giúp hoàn thiện cơ

sở pháp lý về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn Công an nhân dân trong công tác

quản lý nhà nước về an ninh trật tự, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cùng với

việc hoàn thiện các quy định của Luật Công an nhân nhân, thời gian qua, Quốc hội

đã thông qua nhiều luật, bộ luật như: Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình

sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Luật Quản lý, sử dụng

110

vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017, Luật Cảnh vệ năm 2017… [95] và

rất nhiều quy định pháp luật nhằm điều chính hành vi của cá nhân và tổ chức hướng

đến một xã hội có trật tự, kỷ cương.

Bên cạnh quy định pháp luật của Nhà nước các cộng đồng, địa phương cũng

có những quy định riêng để điều chỉnh các hành vi nhằm giữ gìn trật tự an toàn nơi

công cộng. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật và các quy chuẩn văn hóa đã

góp phần điều chỉnh hành vi tạo môi trường sống an toàn cho mọi người dân.

Thứ tư, bảo bảo TTATXH là vấn đề trọng tâm được Đảng và Nhà nước ta

quan tâm thực hiện trong những năm qua.

Ngay từ những năm đầu tiên thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,

Đảng và nhà nước ta đã luôn quan tâm đến công tác an ninh trật tự. Từ năm 1946 -

những ngày mới giành độc lập Đảng, Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh số 23 ngày

21/02/1946, trong đó xác định rõ khái niệm bảo vệ “an toàn quốc gia” và giữ gìn

“trị an, trật tự”. Có thể thấy trong quá trình phát triển đất nước, bên cạnh việc quan

tâm bảo đảm an ninh chính trị, Đảng, Nhà nước cũng đặc biệt coi trọng nhiệm vụ

bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Năm 1980 Nghị quyết số 31/BCT về “Nhiệm vụ bảo

vệ an ninh chính trị và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới” của Bộ

Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được ban hành

trong đó xác định bảo vệ an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội là hai bộ

phận gắn bó chặt chẽ với nhau trong nhiệm vụ chung bảo vệ an ninh quốc gia, bảo

đảm trật tự an toàn xã hội.

Đến Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, Đảng ban hành Nghị quyết số 28-

NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó xác định trong

bất kỳ tình huống nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm bảo vệ vững

chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước,

nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự

an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững

ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước

theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tiếp tục tinh thần đó, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ giữ gìn trật tự an

toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi cho

111

các đối tác quốc tế trong hợp tác với Việt Nam. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu

rõ: phải “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của

các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy

lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh

truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng.

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn

lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc;

đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước”.

Như vậy, bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng

an ninh, Đảng, Nhà nước đặt ra yêu cầu các cấp chính quyền và cơ quan chức

năng phải thực hiện tốt công tác đảm bảo an toàn, an ninh trật tự cho người dân;

bảo đảm xã hội công bằng, minh bạch, thượng tôn pháp luật, phòng ngừa và đấu

tranh với tội phạm, giữ gìn cuộc sống bình yên cho người dân. Thực hiện tốt

những nhiệm vụ đó chính là xây dựng môi trường thuận lợi cho sự phát triển ổn

định, bền vững đất nước.

Thực hiện chủ trương của Đảng các cấp, các ngành đã không ngừng thực hiện

công tác quản lý nhà nước về bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Các hoạt động giữ gìn

an toàn giao thông, phòng cháy, chữa cháy, an ninh trật tự tại các cơ sở giam giữ, cơ

sở giáo dục, trường giáo dưỡng, công tác Cảnh sát vũ trang, cảnh vệ được bảo đảm,

tăng cường.

Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát động xây dựng

tại hầu khắp các địa phương. Công tác phòng, chống tội phạm, giữ gìn

trật tự, an toàn xã hội được lực lượng chức năng đặc biệt là lực lượng

Công an nhân dân nghiêm chỉnh thực hiện. Các đơn vị, địa phương đã

tăng cường các biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật, phòng ngừa

tội phạm; nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo

tội phạm. Tập trung đấu tranh, trấn áp tội phạm có tổ chức liên quan đến

“tín dụng đen”; tội phạm xâm hại trẻ em; tội phạm sử dụng vũ khí, vật

liệu nổ gây án; đẩy nhanh tiến độ điều tra xử lý các vụ án nghiêm trọng,

phức tạp [12].

112

Quyết tâm và nỗ lực của các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp và toàn dân

trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam đã góp phần đẩy lùi các loại hình tội phạm,

tệ nạn xã hội, đảm bảo môi trường sống bình yên cho các cộng đồng dân cư ở các

địa phương này.

3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện pháp luật về bảo

đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

Những kết hạn chế trong THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại

I ở Việt Nam, xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:

Thứ nhất, nguyên nhân khách quan.

Thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I chịu tác

động bởi nhiều yếu tố từ bên ngoài, vì thế những hạn chế của THPL được nêu ở

trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan sau:

Một là, quá trình đô thị hoá mạnh mẽ ở Việt Nam.

Những năm qua, cũng theo xu hướng đô thị hóa và tăng trưởng kinh tế của các

nước như Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam không

ngừng gia tăng, trong hơn 10 năm trở lại đây, mức tăng trưởng đô thị trung bình của

Việt Nam là 3%/năm [55, tr.98]; nếu năm 2009 cả nước có 5 đô thị loại I, dân số đô

thị loại I chiếm 6,2% dân số cả nước và chiếm 12,2% dân số sinh sống ở các đô thị

của Việt Nam [127, tr.11] thì đến hết năm 2020, cả nước có 22 đô thị loại I, dân số

đô thị loại I chiếm 13,51% dân số cả nước và chiếm 32,5% dân số sinh sống ở các

đô thị Việt Nam (Phụ lục 2). Cùng với quá trình đô thị hoá này, nhiều vấn đề kinh

tế - xã hội và môi trường nảy sinh, đặc biệt ở đô thị loại I, các vấn đề này ngày càng

phức tạp, trong khi đó, năng lực quản trị đô thị ở của ở Việt Nam chưa theo kịp, vì

thế những vấn nạn ở đô thị loại I chưa được giải quyết triệt để và kịp thời.

Hai là, những rào cản đến từ văn hóa, lối sống của người Việt.

Người Việt sống trong nền văn hóa coi trọng cộng đồng, ít đề cao cái tôi cá

nhân, đó là nền văn hóa trọng tình hơn trọng lý do vậy yếu tố văn hóa truyền thống

này có những tác động đến việc thực hiện các quy định pháp luật của người dân và

các cơ quan công quyền. Lối sống dựa vào tình cảm nên sự xét đoán bằng lý trí

không được coi trọng vì người ta coi “một trăm cái lý không bằng một tý cái tình”

điều này tạo ra tâm lý cả nể từ đó mà sinh ra tâm lý coi thường pháp luật, bỏ qua

113

quy định quy tắc của các luật lệ. Lối sống duy tình cũng phản ánh một trật tự xã hội

rất đơn giản, con người yêu thương nhau, ưa sống hoà bình, không thích tranh chấp,

cho nên pháp luật cũng không đòi hỏi ở mức độ quá phức tạp do đó không hình

thành một nền văn hoá pháp lý có mức độ phát triển cao như ở các dân tộc hay quốc

gia mà các điều kiện kinh tế có sự phát triển phức tạp.

Lối sống duy tình làm cho ứng xử của con người dễ theo cảm tính ít dựa vào

suy xét của lý tính. Do vậy trong những hoàn cảnh nhất định người ta sẽ không sử

dụng đến luật lệ để ứng xử hay nói đúng hơn là pháp luật bị vô hiệu hóa. Yếu tố văn

hóa này đã ăn sâu vào trong tâm thức của con người rất khó thay đổi đặc biệt với

người Việt bởi họ vốn ưa sự ổn định ngại sự thay đổi.

Một đặc tính tâm lý khác của người Việt đó là người ta dễ chấp nhận tha thứ,

bỏ qua cho nhau những lỗi lầm có thể gây ra sự thiệt hại cho cả cộng đồng, thậm chí

cho bản thân. Lối sống “dĩ hoà vi quý” khiến cho người ta rất e ngại việc kiện tụng

hay sử dụng luật để bảo vệ quyền lợi đến cùng. Người Việt thường coi trọng chữ

danh và rất sợ tai tiếng, sợ đụng chạm do vậy họ ngại đấu tranh với những hiện

tượng tiêu cực xảy ra với chính mình và với cộng đồng. Do đó khi có tranh chấp

hay quyền và lợi ích bị xâm phạm họ ít tìm đến cơ quan chức năng mà tìm cách

thương lượng và thỏa thuận. Rất nhiều trường hợp các nạn nhân của hành vi tội

phạm lại che dấu không muốn khai báo vụ việc cho cơ quan công quyền. Người

Việt thường dạy nhau “một điều nhịn, chín điều lành” do đó việc đưa vụ việc ra ánh

sáng không phải là thói quen của cộng đồng. Mặt khác, người ta làm như thế cũng

vì muốn bấu víu vào cộng đồng như một chỗ dựa chắc chắn với tâm lý “xấu chàng

hổ ai?” nên không muốn “vạch áo cho người xem lưng”. Tâm lý này không chỉ xảy

ra ở trong các cộng đồng dân cư mà còn xảy ra đối với cả các quan chức khi giải

quyết các tranh chấp phát sinh trong xã hội kéo theo việc nghi ngờ các kết quả giải

quyết khi cho rằng “con kiến mà kiện củ khoai” nên người ta càng không ý thức về

việc phải sử dụng pháp luật như một biện pháp để bảo vệ mình.

Người Việt Nam thường có thói quen sinh hoạt tuỳ tiện, ít chịu tuân thủ những

quy tắc, luật lệ ràng buộc con người.Trong nhiều trường hợp người ta thấy có thể bỏ

qua quy tắc và luật lệ. Điều này dẫn đến việc tùy tiện trong giải quyết các mối qun

hệ xã hội. Sự tùy tiện không chỉ là thoái quen của người dân mà còn là biểu hiện

114

của các cơ quan công quyền. Sự tùy tiện có thể có tác động rất lớn đặc biệt trong

bối cảnh các quy định pháp luật thường thiếu rõ ràng và cụ thể, chi tiết, việc áp

dụng tuân thủ phụ thuộc rất lớn vào các ứng xử của các nhân và tổ chức.

Như vậy, chúng ta thấy yếu tố văn hóa của cộng đồng người Việt cũng tạo ra

những rào cản nhất định đối với việc thực hiện các quy định pháp luật. Do đó thói

quen không tuân thủ pháp luật vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng dân cư và

ngay cả trong các cơ quan công quyền.Chúng ta thường thấy thực trạng “người Việt

khi ra nước ngoài thì chấp hành pháp luật về giao thông, về trật tự, về vệ sinh rất

nghiêm túc, nhưng khi quay về Việt Nam họ lại vi phạm và ngược lại, nhiều người

nước ngoài khi đến Việt Nam một thời gian thì họ cũng có những vi phạm giống

người Việt Nam”. Điều này có thể lý giải do sự tác động của yếu tố văn hóa, do môi

trường văn háo tạo ra.

Một yếu tố tiếp theo khiến người Việt ít thuân thủ chấp hành các quy định

pháp luật là do yếu tố lịch sử. Với hơn một nghìn năm Bắc thuộc, lại trải qua ách

thống trị và đô hộ của chủ nghĩa thực dân, trong những thời kỳ đó pháp luật không

phải là sản phẩm của người Việt nam mà đến từ những kẻ đô hộ nên người ta phải

miễn cưỡng chấp nhận pháp luật, hoặc chống lại một cách ngấm ngầm. Do vậy việc

chống đối với các quy tắc luật lệ được áp đặt từ bên ngoài vào cộng đồng trở thành

thói quen, lối sống của nhiều người Việt. Người Việt cũng tin rằng pháp luật gần

với hình phạt hơn là gần vối công lý, lẽ phải do đó họ không có thói quen tuân theo

pháp luật mà chỉ sợ pháp luật, không coi pháp luật như một phương tiện để bảo vệ

mình mà chỉ nghĩ rằng pháp luật là để thống trị chứ không phải là công cụ để điều

tiết xã hội và bảo vệ con người.

Thứ hai, nguyên nhân chủ quan.

Bên cạnh những nguyên nhân khách quan trên, những hạn chế trong THPL về

bảo đảm TTATXH của người dân trên địa bàn đô thị loại I còn xuất phát từ chính

bản thân các chủ, đó là:

Một là, nhận thức về pháp luật bảo đảm TTATXH của người dân trên địa bàn

đô thị loại I còn hạn chế.

Muốn nâng cao mức độ thực hiện pháp luật của người dân và các cơ quan

công quyền thì phải nâng cao mức độ hiểu biết, hay khả năng tiếp cận với các quy

115

định pháp luật. Bởi hiểu, biết là yếu tố đầu tiên tác động đến việc thực hiện luật

trong thực tế. Vậy người dân sinh sống tại các đô thị loại I họ có nhận thức như thế

nào với các quy định pháp luật liên quan đến đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Nghiên

cứu của chúng tôi cho thấy rằng mức độ hiểu biết các quy định pháp luật về đảm

bảo TTATXH của người dân tương đối hạn chế. Người dân chỉ biết các quy định

chung của pháp luật theo cảm nhận của mình nhưng không hiểu biết đầy đủ, cặn kẽ

các quy định của luật. Điều này có thể do người dân rất ít quan tâm đến việc tìm

hiểu các quy định của luật, người ta chỉ quan tâm tới pháp luật, tìm đến luật sư khi

bản thân hoặc gia đình có việc liên quan đến pháp luật hay quyền lợi bị xâm hại.

Tuy nhiên khi tìm hiểu pháp luật người dân không dễ dàng có thể hiểu được bởi các

quy định của pháp luật tương đối nhiều và thường xuyên thay đổi và thường chưa

được hệ thống hóa. Do đó ngay cả những người có chuyên môn đọc kỹ cũng không

hiểu hết, không biết đâu mới là quy định mới nhất và phải áp dụng như thế nào mới

đúng chưa nói đến những người dân mới có trình độ học vấn trung học phổ thông

hay chưa tốt nghiệp tiểu học. Khảo sát PCI năm 2014 cho thấy “có tới 44,83% các

doanh nghiệp cho biết phải dành trên 10% quỹ thời gian để tìm hiểu và thực hiện

các quy định pháp luật” [118]. Cũng khảo sát này tiến hành năm 2018, cho thấy

“còn 30,7% doanh nghiệp cho biết phải dành hơn 10% quỹ thời gian để tìm hiểu và

thực hiện các quy định pháp luật của Nhà nước (năm 2015 là 35,5%)” [120, tr.8].

Như vậy, dù người dân có chủ động tìm hiểu quy định của luật thì đối với họ luật

pháp cũng không phải là điều dễ tiếp cận, dễ hiểu hay dễ thực hiện.

Ngoài ra việc hiểu biết pháp luật của người dân rất hạn chế một phần do khả

năng tiếp cận với các quy định của pháp luật rất thấp hay nói đúng hơn vẫn còn

những rào cản nhất định để người dân có thể dễ dàng tiếp cận và hiểu được các quy

định pháp luật của nhà nước. Chúng ta vẫn thường thấy hiện tượng các doanh

nghiệp và người dân không tuân thủ chấp hành các quy định của luật điều này có

thể do người dân và doanh nghiệp không tiếp cận được với quy định chính thức.

Nghiên cứu khả năng tiếp cận của doanh nghiệp với các tài liệu pháp lý trong điều

tra đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh ở Việt Nam những năm qua cho thấy với

thang điểm từ 1 đến 5 (Không thể - Rất dễ), “khả năng tiếp cận của doanh nghiệp

với các tài liệu quy hoạch chỉ đạt 2,38 điểm theo điều tra năm 2018, chỉ xung quanh

116

mức của năm 2015 và 2016, và thấp hơn đáng kể mức 2,63 điểm của điều tra năm

2006. Khả năng tiếp cận của doanh nghiệp với các tài liệu pháp lý có khá hơn, ở

mức 3,01 điểm trong năm 2018, song cũng chưa có nhiều cải thiện kể từ những năm

đầu tiến hành điều tra. Vẫn có tới 69,4% doanh nghiệp cho biết “cần có mối quan

hệ” để có được các tài liệu của tỉnh (năm 2017 là 70%)” [120, tr.9].

Trong khi đó việc phổ biến, giáo dục pháp luật vẫn còn mang nặng tính hình

thức, các bài giảng mới dừng lại ở mức thông tin về pháp luật, thiếu tính thực tế do

đó không thu hút được sự tham gia của người dân. Việc thiếu hiểu biết pháp luật

dẫn đến việc không tuân thủ, chấp hành hay sử dụng luật. Các nghiên cứu về hoạt

động khiếu nại tố cáo cho thấy: đa số vụ việc khiếu nại vượt cấp hay tố cáo không

được giải quyết, khiếu nại nhiều lần là do người dân không hiểu biết các quy định

pháp luật về khiếu nại tố cáo.Theo quy định của Luật Khiếu nại, nếu không đồng ý

với quyết định giải quyết của cơ quan công quyền, người dân có quyền khiếu nại về

quyết định đó. Nhưng đa phần không hiểu biết quy định luật tố cáo nên nhiều người

đã gửi đơn khiếu nại lần 2 lên các cơ quan trung ương, cá nhân các đồng chí lãnh

đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và gửi cho cả những nơi không thuộc thẩm quyền

giải quyết nhưng không gửi đơn đến chính cơ quan có trách nhiệm giải quyết khiếu

nại tố cáo cho họ.

Hai là, ý thức tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật của người dân và các

cơ quan công quyền trên địa bàn đô thị loại I chưa cao.

Hành vi tuân thủ, chấp hành hay sử dụng pháp luật bị tác động không chỉ bởi

yếu tố nhận thức, hiểu biết pháp luật mà còn bị chi phối và ảnh hưởng với yếu tố

tâm lý và tình cảm nghĩa là phải có thái độ tôn trọng pháp luật và tin tưởng vào sự

công bằng của pháp luật; từ đó mới tạo ra khả năng điều chỉnh hành vi hợp pháp

của mình. Thiếu tình cảm và niềm tin vào pháp luật thì mọi hành động dễ bị chệch

hướng khỏi chuẩn mực pháp lí vì những mục đích, động cơ cá nhân. Khi con người

có sự hiểu biết pháp luật, có tình cảm và lòng tin vào pháp luật thì họ sẽ hành động

theo những quy định của pháp luật. Lòng tin vào tính công bằng của pháp luật sẽ

hướng dẫn hành vi hợp pháp, tuân thủ pháp luật ở mọi lúc, mọi nơi; phê phán, lên

án những biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi vi phạm pháp luật; đồng thời

ủng hộ và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật.

117

Việc không hiểu biết, không nắm rõ các quy định pháp luật cộng với việc

thiếu niềm tin vào sự công bằng, đúng đắn của luật và sự công bằng đúng đắn của

các cơ quan công quyền nên người dân rất e ngại với việc sử dụng luật để bảo vệ

quyền lợi của mình. Đồng thời họ có xu hướng không tuân thủ chấp hành các quy

định của luật. Nhiều người dân có quan niệm cơ quan áp dụng pháp luật để trừng trị

các hành vi vi phạm pháp luật của người dân theo hướng “còn nặng về mặt cưỡng

chế và trừng phạt mà nhẹ về bảo đảm quyền lợi chính đáng của quần chúng”. Dó đó

họ khá e dè, nghi ngại và sợ hãi không dám sử dụng đến pháp luật. Họ không coi

pháp luật và tòa án là nơi nương tựa có khả năng giúp đỡ, bảo vệ mình. Việc đến

tòa chỉ là “vô phúc” bởi “chờ được vạ thì má đã sưng”. Họ cũng ngại với các thủ

tục pháp lý rắc rối do đó thường tự tìm cách bảo vệ quyền lợi của mình. Điều này

làm gia tăng tình trạng không tuân thủ, chấp hành các quy định pháp luật. Ví dụ “bà

N. T. Ph gần 5 năm nay cũng gửi đơn khiếu nại đi khắp nơi đề nghị giải quyết vụ

việc thu hồi đất mở đường vào khu dân cư nơi bà sinh sống mà theo bà là có nhiều

khuất tất nhưng bà không gửi đơn đến nơi ra quyết định cưỡng chế thu hồi. Khi

được hỏi vì sao không thấy đơn khiếu nại nào gửi cho Ủy ban nhân dân quận (nơi ra

quyết định cưỡng chế thu hồi đất), bà Ph. trả lời: “Họ ra quyết định sai, giờ gửi đơn khiếu nại đến họ làm sao dám giải quyết”3.

Khi gặp phải các vấn đề trong thực tế các cá nhân hay doanh nghiệp thường

không lựa chọn việc tuân thủ, chấp hành các quy định pháp luật mà tìm cách tránh

né. Ví dụ khi hành vi vượt đèn đỏ, chạy xe quá tốc độ, chở quá tải bị lực lượng chức

năng phát hiện xử lý người dân đều tìm cách giải quyết bằng thủ tục “đầu tiên” với

bất kỳ viên chức hành pháp nào. Người dân và doanh nghiệp có xu hướng “chịu

chi” dưới gầm bàn để giải quyết công việc nhanh hơn so với việc tuân thủ các quy

định và thủ tục. Các nghiên cho thấy việc trả phí không chính thức cho cán bộ nhà

nước dường như là một thông lệ kinh doanh phổ biến mang tính văn hóa ở Việt

Nam. Kết quả cuộc điều tra toàn quốc về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI),

cho thấy “từ 51-65% doanh nghiệp tham gia khảo sát trong giai đoạn 2011-2017

3 Trích biên bản phỏng vấn sâu với người dân

cho rằng các doanh nghiệp cùng ngành đang phải trả chi phí hối lộ; xu hướng doanh

118

nghiệp phải chi trả từ 10% tổng doanh thu trở lên cho các chi phí không chính thức

đang tăng dần từ 7% năm 2010 lên hơn 10% số doanh nghiệp được khảo sát trong

giai đoạn 2014-2017. Các nghiên cứu cúng cho thấy doanh nghiệp tư nhân ở Việt

Nam đã coi hối lộ như là “chi phí kinh doanh” nhiều hơn là vấn đề “liêm chính

trong kinh doanh”. Đa số các doanh nghiệp cho rằng việc chi trả này là ở mức độ

“chấp nhận được” [87]. Kết quả này cho thấy ý thức tuân thủ, chấp hành các quy

định pháp luật của người dân và doanh nghiệp còn rất hạn chế.

Không chỉ ý thức chấp hành các quy định pháp luật của người dân không cao

mà ngay cả các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước cũng thường không tuân

thủ chấp hành các quy định của luật. Do đó khi gặp phải các tình huống trong thực

tế các cơ quan công quyền cũng có xu hướng xử dụng luật ngầm để xử lý các hành

vi vi phạm pháp luật. Chính vì vậy nghiên cứu chỉ số PCI năm 2018 cho thấy

“28,8% doanh nghiệp lo ngại “tình trạng chạy án” là phổ biến trong hoạt động tố

tụng qua tòa án” [120, tr.35]. Việc không tin tưởng vào sự nghiêm minh đúng đắn

của pháp luật và việc thực thi pháp luật của các cơ quan công quyền có thẻ khiến

cho tình ý thức chấp hành các quy định pháp luật của người dân và doanh nghiệp

không cao. Điều này tạo ra tác động tiêu cực đến việc tuân thủ và chấp hành pháp

luật trong thực tế.

Ba là, năng lực THPL của các cơ quan công quyền trên địa bàn đô thị loại I ở

Việt Nam còn hạn chế.

Để pháp luật đi vào đời sống thì ngoài việc có hệ thống pháp luật hoàn thiện

cần có bộ máy các cơ quan công quyền có khả năng thực thi các quy định của luật.

Do vậy chất lượng hiệu quả của việc thực hiện pháp luật phụ thuộc phần lớn vào

năng lực thực thi của cơ quan công quyền. Năng lực này phụ thuộc vào số lượng, cơ

cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức. Thực tế, số lượng, cơ cấu

chất lượng, năng lực làm việc, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ công chức các

cơ quan công quyền vẫn còn nhiều hạn chế, đó là:

(i) Thiếu về số lượng.

Thiếu số lượng cán bộ vẫn là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế

trong quá trình thực hiện pháp luật được ghi trong báo cáo của nhiều cơ quan. Ví dụ:

Theo Hiến pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có quyền giải thích luật và

119

pháp lệnh. Song thực tế, Ủy ban này hầu như chưa thực hiện được nhiệm vụ, quyền

hạn này, bởi sự "quá tải" trong công tác xây dựng pháp luật theo sự ủy quyền của

Quốc hội. Nên mọi vướng mắc trong việc ADPL nói chung áp dụng hình phạt tù có

thời hạn nói riêng đều dựa vào văn bản hướng dẫn ADPL của các cơ quan tư pháp ở

trung ương mà chủ yếu là TANDTC. Trong khi đó TANDTC cũng thường chưa kịp

thời ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng hình phạt, điều này khiến cho việc áp

dụng hình phạt của tòa án tại địa phương còn gặp nhiều khó khăn lúng túng.

Tại các cơ quan như Kiểm sát, Tòa án, hay Cảnh sát tình trạng thiếu cán bộ

tồn tại khá phổ biến. Theo báo cáo của nhiều Viện kiểm sát tình trạng thiếu đội ngũ

Kiểm sát viên, Kiểm tra viên vẫn đang làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ

của ngành này. Nhiều “Viện kiểm sát chưa bố trí đủ Kiểm sát viên để tham gia

phiên tòa, phiên họp theo quy định của pháp luật”. Do thiếu nguồn nhân lực các

Kiểm sát viên được uỷ quyền tham gia quá nhiều vụ án nên khi tham gia phiên toà

các kiểm sát viên thường không có thời gian nghiên cứu hồ sơ, vụ án. Điều này dẫn

đến tình trạng các Kiểm sát viên lúng túng không chỉ khi xét hỏi mà khi luận tội

cũng như tranh luận với người bào chữa tại các phiên tòa. Tình trạng “Kiểm sát viên

phải đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà” diễn ra khá phổ biến.

Với cảnh sát theo báo cáo nhiều đơn vị “đội ngũ cán bộ của lực lượng cảnh

sát quản lý hành chính về trật tự xã hội thiếu về số lượng. Trình độ năng lực thực

thi nhiệm vụ của đội ngũ này còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ”

[82, tr.479]. Rất nhiều địa phương báo cáo về việc cán bộ của cơ quan thi hành án

“rơi vào tình trạng quá tải công việc, dẫn đến chậm trễ trong việc tổ chức thi hành

án, do đó quyền lợi của người được thi hành án không được đảm bảo, phát sinh

khiếu nại, tố cáo” [42]. Điều này do “Cục thi hành án dân sự địa phương tuy được

ưu tiên phân bổ chỉ tiêu biên chế nhưng hầu như đều chưa tuyển đủ theo chỉ tiêu”

[42]. Việc thiếu đội ngũ cán bộ khiến cho việc thực hiện pháp luật của cơ quan

công quyền còn ngặp nhiều khó khăn. Trong khi đó “Việc phân bổ cán bộ, công

chức tại nhiều đơn vị chưa thật sự phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được

giao... Công tác thi đua khen thưởng còn mang tính hình thức, chưa thật sự tạo ra

động lực để các cán bộ, công chức của ngành cố gắng, nỗ lực phấn đấu thực hiện

tốt nhiệm vụ được giao” [71].

120

(ii) Trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ còn chưa đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Năng lực thực thi công vụ và phẩm chất đạo đức là yếu tố quan trọng quyết

định chất lượng hiệu quả của việc tuân thủ, chấp hành áp dụng pháp luật của các cơ

quan công quyền. Các báo cáo đánh giá của tòa án tại các đô thị loại I cho thấy ở

nhiều địa phương đội ngũ cán bộ tòa án đặc biệt đội ngũ thẩm phán chưa đáp ứng

yêu cầu công việc. Nhiều thẩm phán do hạn chế về năng lực và tinh thần trách

nhiệm dẫn đến tình trạng bỏ sót tình tiết quan trọng của vụ án, áp dụng hình phạt tù

hoặc quá nặng hay quá nhẹ. Trình độ năng lực của một bộ phận Hội thẩm chưa theo

kịp yêu cầu ngày càng cao của công tác xét xử. Các hội thẩm chủ yếu kiêm nhiệm,

đa số hạn chế về kiến thức pháp lý nên thời gian giành cho việc nghiên cứu hồ sơ vụ

án trước khi xét xử chưa nhiều. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ Hội thẩm vẫn

còn khiêm tốn nên cũng ảnh hưởng đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong

giải quyết các vụ án hình sự.

Tình trạng yếu kém năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu tinh thần trách

nhiệm cũng được ghi nhận tại các viện Kiểm sát. “Một số Kiểm sát viên yếu về

năng lực, trình độ nghiệp vụ dẫn đến việc nghiên cứu các vụ án chưa sâu, khi tham

gia phiên tòa và kiểm sát bản án, quyết định thiếu chặt chẽ, chưa kịp thời phát hiện

vi phạm của Tòa án để ban hành kháng nghị hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp có

thẩm quyền kháng nghị” [121].

Năng lực, trình độ hạn chế cũng khiến nhiều cán bộ của cơ quan điều tra khi

tiến hành thực thi nhiệm vụ đã: “điều tra không đầy đủ các tình tiết của vụ án”; “các

cơ quan giám định không giám định chính xác” khiến cho việc xét xử của toàn án

gặp nhiều khó khăn đặc biệt khi xác định tình tiết tăng nặng giảm nhẹ.

Các báo cáo ghi nhận việc: “Các cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu cương

quyết trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm do nể nang, ngại va chạm hay do

chịu áp lực từ những người có chức vụ, quyền hạn hoặc do tác động tiêu cực khiến

cho các cơ quan tiến hành tố tụng đã bỏ lọt người phạm tội hoặc bỏ bớt các tình tiết

tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội; áp dụng hình phạt nhẹ không

tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhất là các vụ án xâm phạm trật tự

công cộng, không có bị hại cụ thể” [62].

121

Qua nghiên cứu báo cáo và tìm hiểu quan điểm của các cán bộ thuộc các cơ

quan tư pháp, chúng tôi nhận thấy rằng còn tình trạng do năng lực hạn chế nhiều

cán bộ tư pháp chưa hiểu và vận dụng đúng những quy định pháp luật trong thực thi

công vụ khiến “nhiều vụ việc vi phạm pháp luật, bị đình chỉ sai, bỏ lọt tội phạm, bị

kháng nghị, phải qua nhiều lần, nhiều cấp xét xử, khiếu nại, tố cáo kéo dài, phức

tạp, nhiều vụ việc công dân bị oan, sai, thậm chí một số cơ quan tư pháp phải công

khai xin lỗi, khôi phục danh dự và bồi thường thiệt hại cho công dân” [71]. Bên

cạnh đó các công trình nghiên cứu cũng cho rằng tình trạng “cán bộ tư pháp tiêu

cực, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức” diễn ra tương đối phổ biến đang

“làm ảnh hưởng kỷ cương pháp luật, giảm hiệu lực của bộ máy nhà nước và lòng

tin của nhân dân”. Các cơ quan thi hành án báo cáo về tình trạng: “một bộ phận

không nhỏ đội ngũ chấp hành viên, cán bộ, công chức cơ quan Thi hành án dân sự

có trình độ chuyên môn còn hạn chế, kỹ năng xử lý tình huống, giải quyết công việc

chưa cao, thiếu tính chủ động, sáng tạo và chưa thật sự nêu cao tinh thần trách

nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ... Việc kiểm tra, đôn đốc giải quyết việc

thi hành án chưa được thực hiện tốt, thiếu tính quyết liệt, chưa tạo được động lực cơ

bản để các cơ quan Thi hành án dân sự, các chấp hành viên, các cán bộ, công chức

cố gắng, nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, đẩy nhanh tiến trình giải quyết án

tồn đọng” [4].

Bốn là, pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I còn chưa

hoàn thiện.

Có hệ thống pháp luật phù hợp là điều kiện tiên quyết đảm bảo việc thực hiện

pháp luật được nhân rộng và đạt hiệu quả cao. Những hạn chế trong thực hiện pháp

luật đảm bảo TTATXH những năm qua một phần xuất phát do hệ thống pháp luật

về lĩnh vực này của nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như:

(i) Các quy định pháp luật liên quan đến các hoạt động phòng, chống tội

phạm còn nhiều hạn chế.

Hiện nay một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung

2017) đã bộ lộ những hạn chế khiến cho công tác điều tra, truy tố, xét xử bị

122

“vướng” như: Điều 2604, theo các chuyên gia “Điều 260 BLHS hiện hành đang thiếu quy định chuyển từ khung hình phạt này sang khung hình phạt khác trong

cùng điều luật áp dụng… Nội dung quy phạm tại Điều 260 BLHS hiện hành đang

thiếu tính minh bạch với trường hợp chuyển khung (từ khung 1 sang khung 2; từ

khung 2 sang khung 3)” [88].

Mặt khác, hiện tại pháp luật còn thiếu các quy định một cách rõ ràng về việc

thực hiện vai trò nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong hoạt động kiểm sát việc giải

quyết tin báo tố giác tội phạm. Trên thực tế ngoài quy định tại Điều 103 của

BLTTHS, hiện chưa có bất cứ một văn bản pháp lý Liên ngành nào hướng dẫn về

việc thực hiện vai trò nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giải quyết tin báo tố giác tội

phạm do đó hoạt động này chưa được thực hiện một cách đồng bộ. Hiện nay còn

nhiều cách hiểu về hoạt động này do đó việc thực hiện “còn nhiều bất cập và tỷ lệ

giải quyết còn hạn chế” [116]. Bên cạnh đó, các quy định về thẩm quyền của Viện

4 Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ 1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của

những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm: a) Không có giấy phép lái xe theo quy định; b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy

định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;

c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông; đ) Làm chết 02 người; e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của

những người này từ 122% đến 200%;

g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a) Làm chết 03 người trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của

những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên. 4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ

01 năm đến 05 năm.”.

kiểm sát trong việc giải quyết tranh chấp nguồn tin về tội phạm theo Điều 150

123

BLTTHS năm 20155 lại thiếu các qui định về thời hạn mà Viện kiểm sát phải giải

quyết tranh chấp này. Hay việc quy định về thẩm quyền giải quyết tin báo, tố giác

về tội phạm, kiến nghị khởi tố theo Điều 150 vẫn được cho là “còn mang tính chung

chung, không rõ ràng”.

(ii) Những hạn chế của các quy định pháp luật về hoạt động phòng, chống tệ

nạn xã hội, các hành vi sai lệch xã hội khác.

Hiện tại theo ý kiến đánh giá các chuyên gia “hệ thống các văn bản pháp luật

của nhà nước về đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội chưa theo kịp với sự phát

triển của xã hội, văn bản thiếu, văn bản lạc hậu, nhiều loại hình tệ nạn mới phát sinh

không được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật” [82, tr.452]. Các quy định, định

nghĩa về tệ nạn xã hội chưa bao quát, chưa phản ánh đúng những gì đang diễn ra

trong thực tế. Ví dụ tệ mại dâm một hiện tượng diễn ra khá phổ biến tuy nhiên các

định nghĩa về mại dâm hiện không “bao quát được các hành vi mới như mua bán

dâm giữa những người đồng tính, kích dục, khiêu dâm... gây khó khăn cho các cơ

quan chức năng trong việc tổ chức phòng ngừa, ngăn chặn mại dâm trong các cơ sở

kinh doanh dịch vụ” [5].

Bên cạnh đó các quy định chế tài xử lý hành chính đối với các hành vi “vi

phạm như: bảo kê, khiêu dâm, kích dục;” hay hình thức xử lý đối với cán bộ, công

chức vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm vẫn chưa rõ ràng về “cơ chế

thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị để xử lý kỷ luật theo quy

5 Điều 150. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

định” [5].

khởi tố

1. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố do Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết. Tranh chấp thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết. 2. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra cấp tỉnh, giữa các Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương giải quyết. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa các Cơ quan điều tra quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi đầu tiên tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giải quyết.

3. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết.

124

(iii) Những hạn chế trong các quy định pháp luật liên quan đến phòng ngừa

tai nạn bao gồm phòng ngừa tai nạn giao thông và các tai nạn liên quan đến cháy

nổ và các tai nạn khác.

Hiện tại các quy định pháp luật phòng chống tai nạn như tai nạn giao thông,

phòng chống cháy nổ tại khu dân cư, trung cư hay các cở sở sản xuất kinh doanh

vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Các chuyên gia cho rằng “Phạm vi điều chỉnh của

pháp luật về trật tự, an toàn giao thông quá rộng, bao gồm cả các quy định về quy

tắc giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt; kết cấu, xây dựng hạ tầng giao

thông, vận tải và doanh nghiệp giao thông vận tải; dịch vụ hỗ trợ vận tải và quản lý

nhà nước về giao thông dẫn đến chồng chéo với các quy định của các luật khác

(Luật doanh nghiệp, Luật xây dựng, Luật đầu tư công..). Việc coi trọng quy định về

quản lý giao thông mà không coi trọng quy định về quy tắc an toàn giao thông dẫn

đến khó khăn trong việc vận dụng, thực hiện các quy tắc tham gia giao thông. Công

tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông

vẫn còn một số quy định chưa khả thi, khó thực hiện do chưa được nghiên cứu, bám

sát thực tiễn đời sống xã hội, việc ban hành các văn bản quy phạm này còn chậm,

chưa đáp ứng được tình hình phát triển của giao thông hiện nay” [13].

Nhiều quy định pháp luật về phòng cháy chữa cháy, các quy định pháp luật

liên quan đến cứu hộ, cứu nạn và đảm bảo an toàn nơi cư trú chưa phù hợp với thực

tiễn, như: những quy định về trách nhiệm của chủ hộ gia đình, quy định về trách

nhiệm xây dựng phương án chữa cháy tại khu dân cư, quy định về cấp giấy chứng

nhận đủ điều kiện về phòng cháy chữa cháy và thẩm duyệt, kiểm tra thi công,

nghiệm thu về phòng cháy chữa cháy, quy định về xử phạt vi phạm hành

chính…Quy định về xây dựng phương án chữa cháy tại các thôn, ấp, bản, tổ dân

phố tại Điều 31 Luật phòng cháy chữa cháy không phản ánh đúng thực tế đối với

điều kiện công tác tổ chức phòng cháy chữa cháy, trình độ cán bộ hiện nay ở khu

vực dân cư.

(iv) Những hạn chế của các quy định pháp luật về hoạt động quản lý hành

chính về trật tự xã hội như quản lý cư trú, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, quản lý các

ngành nghề kinh doanh, các hoạt động giữ gìn trật tự nơi công cộng…

Hiện tại các quy định pháp luật liên quan đến quản lý hành chính về TTATXH

còn nhiều hạn chế như: các quy định pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính,

125

kinh doanh thương mại, lao động còn có những quy định chồng chéo, mẫu thuẫn.

Pháp luật về quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú, đi lại và hoạt động của người

nước ngoài vẫn chưa phù hợp với tình hình thực tiễn…

(v) Những hạn chế trong các quy định pháp luật liên quan đến giáo dục, cải

tạo phạm nhân, học sinh các trường giáo dưỡng, trung tâm cai nghiệm và các cơ sở

chữa bệnh bắt buộc.

Việc đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội không thể không nhắc đến

công tác thi hành án đối với người vi phạm. Hiện tại công tác đấu tranh phòng ngừa

đã được quy định khá cụ thể trong Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, tuy

nhiên các văn bản pháp luật liên quan đến thi hành án như giáo dục cải tạo phạm

nhân… lại chưa hoàn thiện, tản mạn, chống chéo, mâu thuẫn và chưa phù hợp với

thực tế.

(vi) Những hạn chế trong các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, phòng

chống các sự cố về môi trường.

Bảo vệ môi trường là chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta. Tuy

nhiên quá trình phát triển kinh tế những năm qua cho thấy tình trạng ô nhiễm môi

trường diễn ra ngày cảng nghiêm trọng. Điều này một phần do các quy định pháp

luật về bảo vệ môi trường của nước ta hiện còn nhiều bất cập, hạn chế. Các quy

định pháp luật bảo vệ từng thành phần môi trường như môi trường nước, không khí,

đất… cũng như các quy định về việc điều chỉnh hoạt động của con người nhằm bảo

vệ môi trường hiện còn chưa đồng bộ. Nhiều văn bản chậm ban hành, khi ban hành

thiếu tính khả thi do không phù hợp thực tế. Ví dụ các quy định liên quan đến đánh

giá tác động môi trường hiện được cho là không phù hợp, thiếu tính khả thi. Các

quy định liên quan đến quy chuẩn về môi trường lạc hậu hoặc không thể thực hiện

do không có công nghệ. Các quy định liên quan đến chế tài xử phạt được cho không

đảm bảo tính dăn đe khiến cho nhiều doanh nghiệp lựa chọn chịu phạt hơn là thay

đổi công nghệ nhằm bảo vệ môi trường.

Năm là, các điều kiện vật chất, hạ tầng cơ sở còn chưa hoàn thiện gây khó

khăn cho việc thực hiện pháp luật của cá nhân và tổ chức.

Việc thực hiện pháp luật đảm bảo TTATXH chịu sự tác động lớn bởi các điều

kiện vật chất liên quan đến hạ tầng cơ sở như hạ tầng giao thông trong thực hiện

126

quy định pháp luật giao thông, kết cấu khu dân cư, các nhà máy, xí nghiệp ảnh

hưởng trực tiếp đến các quy định về phòng cháy chữa cháy, phòng ngừa tai nạn.

Hiện tại việc tuân thủ chất hành pháp luật về giao thông về phòng cháy chữa cháy

hay phòng ngừa tai nạn khác còn ngặp nhiều khó khăn một phần do hạ tầng cơ sở

tại khác đô thi loại I chưa đảm bảo. Các tuyến đường giao thông trên địa bàn các

khu đô thị nhiều nơi bị hư hỏng, xuống cấp nhiều nơi quy hoạch giao thông, quy

hạch khu dân cư không đảm bảo nguyên tắc phòng cháy chữa cháy do đó việc tuân

thủ chấp hành quy định pháp luật của người dân còn gặp nhiều khó khăn.

Tiểu kết chương 3

Chương 3 đã phân tích thực trạng THPL về đảm bảo TTATXH trên địa bàn

các đô thi loại I, từ đó khái quát rõ nét bức tranh THPL về đảm bảo TTATXH trên

địa bàn các đô thi loại I ở Việt Nam hiện nay. Thực tiễn này cho thấy, người dân,

doanh nghiệp, các tổ chức và các cơ quan công quyền đã thực hiện tương đối tốt

pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I, do vậy trật tự, kỷ

cương tại các đô thị loại I được giữ vững; tính mạng, tài sản và cuộc sống an toàn

của đại đa số người dân được đảm bảo, kinh tế - xã hội trên địa bàn tiếp tục ổn định

và phát triển.

Tuy nhiên, bên cạnh đó việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các

đô thi loại I ở Việt Nam trong thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế nhất định,

đó là: một bộ phận người dân, doanh nghiệp và cơ quan, tổ chức chưa tuân thủ, thực

thi và sử dụng tốt pháp luật vể bảo đảm TTATXH, các hành vi vi phạm pháp luật

liên quan đến đảm bảo TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I có chiều hướng gia

tăng trong giai đoạn 2012-2020; bên cạnh đó, việc áp dụng pháp luật của các cơ

quan nhà nước còn nhiều hạn chế, từ đó dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá

nhân và tổ chức nhiều lúc, nhiều nơi chưa được đảm bảo tốt; kinh tế - xã hội trên

địa bàn phát triển chưa bền vững. Nguyên nhân của tồn tại yếu kém này do bản thân

các chủ thể chưa thực hiện đúng, đủ quyền và nghĩa vụ của mình; đồng thời hệ

thống pháp luật Việt Nam về bảo đảm TTATXH còn những lỗ hổng, chưa đồng bộ;

cơ sở vật chất, nguồn nhân lực còn hạn chế, v.v... Những tồn tại hạn chế này cần

phải được khắc phục kịp thời nhằm đảm bảo tốt TTATXH trên địa bàn đô thi loại I

ở Việt Nam trong thời gian tới.

127

Chương 4

QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT

LƯỢNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN

XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM

4.1. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC

HIỆN PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ

THỊ LOẠI I Ở VIỆT NAM

4.1.1. Quan điểm nâng cao chất lượng thực hiện các quy định pháp luật

bảo đảm trật tự an toàn xã hội

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay để nâng cao

hiệu quả THPL về bảo đảm TTATXH thực hiện theo những quan điểm cơ bản

như sau:

Thứ nhất, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I phải xuất phát

từ yêu cầu bảo đảm tốt quyền quyền con người, quyền công dân và quyền, lợi ích

hợp pháp của các chủ thể pháp luật khác trên địa bàn đô thị loại I.

Bảo đảm TTATXH theo quy định pháp luật là mục tiêu của mọi nhà nước,

trong mọi giai đoạn phát triển. Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội

hiện nay đa và đang hướng đến bảo đảm TTATXH nhằm bảo đảm sự phát triển

toàn diện và bền vững đất nước, trên tinh thần đó, việc THPL về bảo đảm

TTATXH nõi chung và trên địa bàn đô thị loại I nói riêng phải thực hiện đúng và đủ

các quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Bộ luật

Tố tụng Dân sự năm 2015, Luật Công an Nhân dân năm 2018 và các văn bản pháp

luật liên quan đến bảo đảm TTAXTH hiện hành.

Trên cơ sở đó, các chủ thế pháp luật phải chủ động, tích cực và thực hiện có

hiệu quả các quy định pháp luật về bảo đảm TTATXH qua đó bảo đảm tốt quyền

quyền con người, quyền công dân và quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp

luật khác trên địa bàn đô thị loại I.

128

Thứ hai, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I phải bảo đảm

tính khoan dung, nhân đạo, vừa thể hiện tính răn đe vừa thể hiện tính giáo dục nâng

cao nhận thức cũng như ý thức pháp luật luật của các chủ thể pháp luật.

Khoan dung, nhân đạo là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc

Việt Nam. Tư tưởng này được phản ánh rõ nét trong các quy định của pháp luật.

Theo đó việc thực hiện pháp luật phải thể hiện rõ tư tưởng khoan dung nhân đạo.

Do vậy, khi áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi phạm pháp luật phải xác định

mục đích của trừng phạt hành vi sai lệch là để bảo vệ công lý, công bằng bảo vệ

tinh nhân văn, nhân đạo đồng thời việc đấu tranh với các hành vi sai lệnh ngoài mục

đích trừng trị và giáo dục, thì cũng là biện pháp để giáo dục người phạm tội hướng

họ đến cái thiện. Theo tinh thần đó việc thực hiện pháp luật luôn phải đề cao tính

“hướng thiện”. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW), trong đó

Đảng ta đã chỉ rõ, cần phải “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục

tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý

người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hạn chế áp

dụng hình phạt tử hình…”.

Pháp luật là một công cụ quản lý nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng

môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hoá đời

sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Theo đó việc các cơ quan

công quyền thực hiện nghiêm minh các quy định pháp luật là biện pháp hữu hiệu

nhất để răn đe và giáo dục những hành vi sai trái. Việc thực hiện pháp luật sẽ có tác

dụng răn đe, giáo dục nếu mọi người nhận thức được đâu là hành vi bị cấm, bị lên

án. Khi mọi người nhận thức rằng pháp luật sẽ trừng trị bất cứ hành vi vi phạm pháp

luật nào không loại trừ một ai và không phân biệt đối xử với bất kỳ ai; đứng trước

pháp luật mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau lúc đó ý thức tuân

thủ pháp luật tuân thủ nguyên tắc trật tự sẽ được hình thành. Việc thực hiện pháp

luật sẽ giúp các cơ quan quản lý xã hội điều chỉnh hành vi của con người theo

hướng ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác và khuyến khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt,

cái thiện vốn có trong mỗi con người. Việc thực thi pháp luật là nhằm xây dựng một

xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, tiến bộ vì con người và cho con người.

129

Thứ ba, THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I phải sáng tạo,

tôn trọng thực tế khách quan.

Trong quá trình xây dựng pháp luật, các nhà lập pháp, lập quy đều mong

muốn các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với thực tiễn khách quan nhằm

giúp công tác quản lý nhà nước được thực hiện rễ ràng vừa ít gây phiền hà cho đối

tượng quản lý, đạt được sự đồng thuận cao trong xã hội, tuy nhiên trên thực tế do

thiếu nguồn lực, do hạn chế về năng lực hoặc do khả năng dự báo của nhà lập

pháp, lập quy hạn chế nên chưa lường trước được hết các quan hệ xã hội nảy sinh

trong tương lai gần, vì thế nội dung của các quy định pháp luật được xây dựng có

thể chưa bao quát hết những vấn đề của thực tiễn hay chưa thể cụ thể chi tiết tỉ mỉ

đến từng trường hợp. Chính vì những hạn chế này, trong quá trình THPL, đặc biệt

là áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải căn cứ vào tình

hình thực tiễn để vận dụng luật cho phù hợp, đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích

hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Việc sáng tạo trong quá trình THPL đòi hỏi

các chủ thể phải căn cứ theo Hiến pháp hiện hành và các luật hiện hành, không

được sáng tạo vượt ngoài các khung pháp lý đó và không làm phương hại đến

quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà

nước và xã hội.

Vì thế, trong quá trình THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I,

các cơ quan áp dụng pháp luật phải bám sát thực tiễn, gạt bỏ lợi ích cá nhân cũng

như chủ quan duy ý chí, cứng nhắc, mà phải đánh giá đúng sự vật, sự việc, không

xuyên tạc, bóp méo hay làm sai sự thật; khi thu thập bằng chứng, chứng cứ phải cẩn

thận, tỉ mỉ toàn diện; khi đánh giá vấn đề phải tuân thủ nguyên tắc khách quan toàn

diện không dựa vào mong muốn, ý chí chủ quan duy ý chí. Ngoài ra, các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền trong quá trình THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn

đô thị loại I không chỉ thực hiện đúng mà còn phải thực hiện đầy đủ chức năng,

nhiệm vụ của mình để nâng cao chất lượng phục vụ công của các cơ quan nhà nước,

từ đó bảo đảm, thúc đẩy và phát triển quyền con người, bảo đảm tốt quyền và lợi

ích của các chủ thể pháp luật trong thực tế trên địa bàn các đô thị loại I hiện nay ở

Việt Nam.

130

Thứ tư, bảo đảm sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự quản lý của các cơ quan nhà

nước và sự tham gia tích cực Mặt trận tổ quốc, các đoạn thể nhân dân và nhân dân

trong THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I.

Bảo đảm TTATXH là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, vì thế

để nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I đòi

hỏi phải có sự tham gia đồng bộ của các cấp uỷ Đảng, các cơ quan nhà nước và Mặt

trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và bản thân người dân theo phương châm

“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã

hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ” [35, tr.173], trong đó cần phát huy vai trò

các các cấp ủy đảng trong việc lãnh đạo chỉ đạo các lực lượng thực hiện nghiêm

minh, hiệu quả các quy định pháp luật. Việc thực hiện pháp luật đảm bảo TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I những năm qua cho thấy nơi nào các cấp ủy đảng tập trung

công tác lãnh đạo chỉ đạo việc thực hiện pháp luật sẽ được thực hiện nghiêm minh

đem lại hiệu quả cao. Do đó những năm tới cần đẩy mạnh sự lãnh đạo, chỉ đạo

trong THPL về bảo đảm TTATXH của các cấp ủy đảng trên địa bàn đô thị loại I.

Thông qua đó sức mạnh của toàn thể xã hội được phát huy trong công tác

phòng chống đấu tranh tội phạm, tệ nạn xã hội, thực hiện nghiêm minh các quy

định pháp luật nhằm xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, cuộc sống người dân được

đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe và các quyền con người, quyền và lợi ích

của các chủ thể khác trên địa bàn đô thị luôn được bảo đảm đầy đủ; hệ số an toàn xã

hội trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam tiếp tục tăng cao, xây dựng môi trường

xã hội trên địa bàn các đô thị loại I thật sự an toàn, thực sự trở thành điểm đến thu

hút khách du lịch, thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Thứ năm, kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu phòng chống dịch bệnh với thúc đẩy,

ổn định phát triển kinh tế - xã hội là một trong những nội dung quan trọng trong

THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay.

Trong bối cảnh tình hình dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp trong nước

và trên thế giới, yêu cầu đặt ra đối với các địa phương đặc biệt là các đô thị loại I ở

Việt Nam cần phải kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu phòng chống dịch bệnh với thúc

đẩy, ổn định phát triển kinh tế - xã hội, không vì phòng chông dịch mà làm ngưng

trệ, gián đoán hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì thế trong THPL về bảo

131

đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam hiện nay phải thực hiện tốt tinh

thần này, trong đó đặc biệt kiểm soát chặt chẽ việc nhập cư, xuất cư của người dân,

khách du lịch trên địa bàn các đô thị loại I; thực hiện các biện pháp để nâng cao ý

thức pháp luật, ý thức cảnh giác tự bảo vệ bản thân, bảo vệ cộng đồng trước tình

hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh, đồng thời xử lý nghiêm minh những cá

nhân, tổ chức cố tình không chấp hành đúng các quy định pháp luật về phòng,

chống dịch.

Tình hình diễn biến dịch bệnh còn diễn biến lâu dài, phức tạp, khó lường, vì

thế, người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức và cơ quan nhà nước có thẩm quyền

phải thực hiện thật tốt các quy định pháp luật về bảo đảm TTATXH để mọi người

dân, doanh nghiệp trên địa bàn đô thị loại I tiếp tục cuộc sống bình thường, an toàn,

an tâm lao động, sản xuất, từng bước đẩy lùi dịch bệnh góp phần bảo đảm tốt

TTATXH ở Việt Nam hiện nay.

4.1.2. Phương hướng nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về bảo

đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam

4.1.2.1. Thực hiện đồng bộ các hình thức thực hiện pháp luật về bảo đảm

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam

Để thúc đẩy việc thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo TTATXH thì mỗi cán bộ,

công chức viên chức làm công tác quản lý nhà nước về TTATXH phải gương mẫu

thực hiện pháp luật của Nhà nước. Theo đó chúng ta cần chú trọng đến việc nâng

cao năng lực thực thi pháp luật; giáo dục ý thức tôn trọng, tuân thủ và nghiêm chỉnh

chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức; mỗi cán bộ, công chức trong các cơ

quan nhà nước ý thức về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, cơ quan mình trong việc

tuân thủ, chấp hành pháp luật, để mỗi người tự giác trở thành một thẩm phán của

chính mình trong thực hành “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Đặc

biệt, các cơ quan tư pháp là cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, bảo vệ pháp chế, trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà

nước, xã hội và các tổ chức khác. Các cán bộ tư pháp chủ yếu là những người làm

việc trong Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân, cơ quan điều tra và cơ quan

thi hành án (kiểm sát viên, thẩm phán, điều tra viên, chấp hành viên), đây là những

cán bộ có vị trí vai trò rất quan trọng trong quá trình thực hiện pháp luật đảm bảo

132

các quyền con người, quyền công dân; giữ vững ổn định và phát triển của xã hội.

Sự ổn định của trật tự pháp luật trong nước, việc giữ vững kỷ cương xã hội, sự tự do

và an toàn của con người…một phần quan trọng phụ thuộc vào hoạt động điều tra,

truy tố, xét xử của cơ quan tư pháp. Theo đó nếu các cơ quan này không tuân thủ,

chấp hành các quy định pháp luật sẽ dẫn đến những hậu quả vô cùng nghiêm trọng.

Do đó, cán bộ tư pháp phải hơn ai hết là những người gương mẫu chấp hành pháp

luật, có ý thức trách nhiệm trong thực thi công vụ.

Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước, các cơ quan, tổ chức đoàn thể đẩy mạnh

việc tuyên truyền, giáo dục, nêu gương để mọi người dân thực hiện tốt quyền chủ

thể của mình tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trên địa

bàn đô thị loại I, vừa góp phần phát triển bảo đảm TTATXH, phát triển KT-XH,

đồng thời giám sát chặt chẽ việc THPL về bảo đảm TTATXH của các cơ quan nhà

nước trên địa bàn này.

Ngoài ra, việc tuân thủ chấp hành nghiêm pháp luật của cơ quan tư pháp nghĩa

là hoạt động của đội ngũ cán bộ tư pháp phải chú trọng đến các nội dung sau: Một

là, phải tuân thủ những trình tự tố tụng chặt chẽ, đó là những trình tự tố tụng trong

hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự; giải quyết các vụ án dân sự,

hành chính, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình và tổ chức thi hành các bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật. Việc tuân thủ các trình tự này bảo đảm cho hoạt

động của cơ quan tư pháp có hiệu ực hiệu quả cao. Theo đó những bản án, quyết

định đúng pháp luật được thi hành trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp

của Nhà nước và công dân; hai là, hoạt động của cơ quan tư pháp phải độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật. Đây là nguyên tắc định hướng, xuyên suốt toàn bộ hoạt

động của cán bộ tư pháp. Nguyên tắc này xuất phát từ tính chất khó khăn, phức tạp

của hoạt động tư pháp liên quan tính mạng, quyền tài sản, quyền tự do, danh dự,

nhân phẩm của công dân... đòi hỏi hoạt động tư pháp phải đạt đến độ chính xác cao

nhất, cán bộ tư pháp phải am hiểu pháp luật, có tinh thần trách nhiệm trong thực thi

công vụ; đồng thời nguyên tắc này cũng xuất phát từ nguyện vọng, đòi hỏi chung

của xã hội và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan về sự công bằng, dân chủ,

nghiêm minh trong hoạt động tư pháp.

133

Đối với các hoạt động xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp

luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I, các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền trên địa bàn này thực hiện đúng, đủ các chức năng, nhiệm vụ của mình

để ngăn chặn các hành vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với TTATXH

trên địa bàn các đô thị loại I, trong đó tập trung vào xử lý các hành vi vi phạm trật

tự an toàn giao thông; trật tự đô thị; vệ sinh môi trường; phòng cháy chữa cháy; vệ

sinh an toàn thực phẩm; trật tự xây dựng và chỉnh trang đô thị; buôn lậu, gian lận

thương mại và hàng giả; tệ nạn xã hội; v.v.. Quá trình áp dụng pháp luật trong hoạt

động thụ lý và giải quyết các vụ án của các cơ quan tư pháp trên địa bàn các đô thị

loại I cần tuân thủ triệt để và chính xác theo các (giai đoạn) như: phân tích, đánh giá

các tình tiết, các tài liệu, chứng cứ của vụ án một cách toàn diện, khách quan, chính

xác; lựa chọn quy phạm pháp luật nội dung phù hợp và phân tích làm rõ nội dung, ý

nghĩa của quy phạm pháp luật đối với trường hợp cần áp dụng; ban hành bản án

đảm bảo việc xét xử đúng người đúng tội, không làm oan sai hay bỏ lọt tội phạm.

Tòa án các cấp trên địa bàn các đô thị loại I phải làm sao hạn chế tối đa số các vụ án

bị hủy, bị cải sửa, đảm bảo cho việc xét xử không làm oan sai người vô tội, không

bỏ lọt tội phạm. Xét xử thấu tình đạt lý; Việc áp dụng pháp luật phải thực sự dân

chủ, minh bạch, bảo vệ các quyền lợi chính đáng hợp pháp của công dân.

4.1.2.2. Xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với những chủ thể vi phạm pháp

luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I ở Việt Nam

Tính nghiêm minh của pháp luật là nguyên tắc theo đó chủ thể thực hiện

pháp luật phải thể hiện sự sáng suốt hài hòa giữa yếu tố tình cảm và lý trí để đảm

bảo tính nghiêm khắc, không bao che sai lầm khuyết điểm, xử lý nghiêm khắc với

hành vi vi phạm pháp luật.

Việc xử lí nghiêm minh, đúng pháp luật đối với các chủ thể vi phạm pháp

luật về TTATXH là yếu tố quan trọng giúp nâng cao hiệu quả của việc THPL có

hiệu quả trên địa bàn các đô thị loại I, đồng thời nó là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến

uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, của chính quyền, của Đảng, ảnh hưởng đến

niềm tin của người dân ở nơi này vào sự đúng đắn công bằng của pháp luật và việc

thực hiện pháp luật. Theo đó việc các cơ quan thi hành pháp luật xử lý các vụ việc

dứt điểm rõ ràng và đúng pháp luật điều này sẽ có tác dụng rất tốt trong việc trấn an

134

dư luận, giữ vững kỷ cương, trật tự xã hội. Mức độ nghiêm minh, đúng đắn của việc

thực hiện pháp luật sẽ được phản ánh thông qua mối quan hệ tương quan như:

tương quan giữa mức độ nặng - nhẹ của hành vi phạm tội với mức độ hình phạt

được áp dụng; tương quan giữa yếu tố hành vi phạm tội và yếu tố nhân thân người

phạm tội với mức hình phạt; tương quan giữa các tình tiết tăng nặng và các tình tiết

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với mức hình phạt; tương quan về lứa tuổi của người

phạm tội với mức định khung hình phạt; tương quan giữa các yếu tố bắt buộc áp

dụng với các yếu tố tùy nghi áp dụng (đối với các cơ quan áp dụng pháp luật);

tương quan giữa yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự và khả năng điều tra, phát hiện

tội phạm; tương quan giữa trách nhiệm cá nhân người phạm tội với trách nhiệm của

xã hội, của Nhà nước... Đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn ra nghiêm

trọng, Uỷ bản nhân dân trên các địa bàn đô thị loại I phải luôn chủ động trong

phòng chống dịch, thực hiện các biện pháp cần thiết để kiểm soát, khống chế dịch

bệnh, khi xảy ra dịch bệnh cần phải tiếp tục quán triệt sâu sắc tinh thần “Các bộ, cơ

quan, địa phương tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác phòng,

chống dịch theo tinh thần cấp trên kiểm tra cấp dưới, tỉnh kiểm tra huyện, huyện

kiểm tra xã, xã kiểm tra thôn, bản, ấp; thôn, ấp, bản kiểm tra dòng họ, gia đình theo

tinh thần đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng”.

4.1.2.3. Xây dựng lối sống thượng tôn pháp luật và văn hoá pháp lý cho

người người dân, doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức trên địa bàn các đô thị

loại I

Lối sống thượng tôn pháp luật và ứng xử có văn hoá trên cơ sở các quy định

pháp luật trong các quan hệ xã hội chính là nền tảng của xã hội pháp quyền và là

mục tiêu hướng đến trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay. Theo

tinh thần đó, mọi người dân, doanh nghiệp và các tổ chức chủ động, tự giác, tích

cực thực hiện đúng, đủ các điều mà pháp luật không cấm; các cơ quan nhà nước và

cán bộ, công chức, viên chức nhà nước chỉ được thực hiện theo đúng, đủ thẩm

quyền của mình do pháp luật quy định. Cho nên, để nâng cao chất lượng THPL về

bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam, các cơ quan có thẩm

quyền cần thúc đẩy nâng cao mức độ hiểu biết pháp luật và nâng cao văn hoá pháp

lý của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức sẽ góp phần tích cực vào việc phát

135

triển kinh tế xã hội, ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn này;

xây dựng văn hoá pháp lý và lối sống thượng tôn pháp luật trở thành một nội dung

quan trọng trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu

cầu phát triển bền vững đất nước.

Bên cạnh đó, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và gia đình của họ trên

địa bàn các đô thị loại I phải là luôn gương mẫu trong THPL; các hành vi vi phạm

pháp luật của họ phải xử lý thật nghiêm minh và áp dụng tình tiết tăng nặng để tăng

cường tính răn đe. Theo V.I.Lênin, “mọi người phải chấp hành nghiêm túc pháp

luật của nhà nước, nhất là cơ quan, cán bộ của Đảng và Nhà nước. Khi cán bộ, đảng

viên vi phạm pháp luật phải xử nặng hơn vì lỗi lớn hơn là người ít hiểu biết pháp

luật pháp chế xã hội chủ nghĩa phải được thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn

quốc nghĩa là mọi vi phạm pháp luật phải xử lý nghiêm minh” [41, tr.90]. Vì thế ở

Việt Nam hiện nay phải kết hợp nhuận nhuyễn giữa “thực hành dân chủ và tăng

cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” [35, tr.39], “thưởng, phạt” phân minh,

rõ ràng, kết hợp chặt chẽ với nhau, từ đó tạo động lực thực sự cho đội ngũ cán bộ,

công chức trong thực thi công vụ, nhằm “phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ

nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ

cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh thần “thượng tôn pháp luật”, gương

mẫu theo pháp luật, kỷ cương và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ

chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của

cán bộ, đảng viên” [35, tr.203].

Để triển khai pháp luật kịp thời và hiệu quả vào cuộc sống trên địa bàn các

đô thị loại I, bản thân người dân, doanh nghiệp, các tổ chức và các cơ quan nhà

nước phải luôn luôn nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật một cách tự

giác; xây dựng lối sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật để tinh thần

thượng tôn pháp luật là nhu cầu tự thân của mỗi chủ thể pháp luật. Vì thế, xây dựng

lối sống thượng tôn pháp luật và văn hoá pháp lý cho người người dân, doanh

nghiệp và các cơ quan, tổ chức trên địa bàn các đô thị loại I làm cơ sở bền vững cho

thực hiện tốt các quy định pháp luật nói chung và các quy định pháp luật về bảo

đảm trật TTATXH nó riêng trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam.

136

4.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN ĐÔ THỊ LOẠI I Ở

VIỆT NAM

Để nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa

bàn các đô thị loại I, những năm tới Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội

cũng như người dân trên địa bàn cần phải thực hiện hiệu quả và đồng bộ các nhóm

giải pháp như sau:

4.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật của

người dân, doanh nghiệp và các tổ chức trên địa bàn các đô thị loại I

Pháp luật muốn đi vào cuộc sống nó phải trở thành nguyên tắc, chuẩn mực

được mọi người dân coi trọng và vận dụng thực hiện trong mọi tình huống. Do vậy

để nâng cao chất lượng THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I,

cần nâng cao chất lượng tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật về bảo đảm

TTATXH của cá nhân và tổ chức trên địa bàn đô thị loại I, trong đó tập trung vào

các nội dung sau:

4.2.1.1. Tăng cường và đổi mới nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật nhằm nâng cao sự hiểu biết và ý thức pháp luật của người dân, doanh

nghiệp và các tổ chức trên địa bàn đô thị loại I

Sự hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật là cơ sở hình thành lối sống tuân

theo Hiến pháp pháp luật của người dân giúp mọi cá nhân và tổ chức hình thành

phong cách sống điềm tĩnh, chủ động tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật

trong giải quyết những tình huống xung đột xảy ra.

Theo đó mục tiêu của nhóm giải pháp này là hướng đến việc nâng cao nhận

thức, thái độ nhằm chuyển biến hành vi của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức

trên địa bàn đô thị loại I theo hướng để các chủ thể này nắm và hiểu rõ các quy định

của pháp luật về đảm bảo TTATXH; xây dựng ở họ tình cảm và niềm tin vào tính

đúng đắn, công bằng và nghiêm minh của pháp luật cũng như của việc thực thi pháp

luật của các cơ quan chức năng; khắc phục xu hướng thờ ơ với pháp luật và coi

pháp luật là công cụ thống trị của nhà nước. Thông qua hoạt động tuyên truyền, phồ

biến giáo dục pháp luật, các chủ thể này hình thành thói quen, tình cảm và luôn xem

việc tuân thủ, chấp hành, sử dụng pháp luật về đảm bảo TTATXH như giá trị và

137

chuẩn mực chung dẫn dắt hành vi của họ trong các hoạt động sống và làm việc trên

địa bàn đô thị loại I.

Những năm qua, Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành, đoàn thể và địa phương

nói chung và trên địa bàn đô thị loại I nói riêng đã có nhiều cố gắng, nỗ lực đẩy

mạnh và tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, cũng phải

thẳng thắn nhìn nhận rằng có lúc, có thời điểm công tác này còn mang tính phong

trào, chưa đi vào thực chất. Nội dung, hình thức giáo dục pháp luật chưa thật sự phù

hợp, trong khi đó hệ thống pháp luật của Việt Nam thường xuyên thay đổi, các quy

định pháp luật về một vấn đề cụ thể được quy định ở nhiều điều luật nhiều văn bản

khác nhau nên khó tra cứu và áp dụng. Các quy trình thủ tục tố tụng phức tạp và

chưa được công khai minh bạch nên việc tiếp cận và có thể hiểu và làm theo pháp

luật của người dân và cả cơ quan công quyền còn hạn chế. Theo đó những năm tới

chúng ta cần thực hiện những giải pháp sau:

Thứ nhất, đối với các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

cần phải đổi mới nội dung, hình thức. Nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật cần sát với từng loại đối tượng đáp ứng theo nhu cầu cụ thể của từng

nhóm; đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; vận dụng

việc lồng ghép đào tạo, phổ biến pháp luật về TTATXH vào trong học đường; sử

dụng các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền thanh, truyền hình các

trang mạng điện tử các trang liên cá nhân như facebook, zalo… để phổ biến các

thông tin, quy định pháp luật. Phát triển dịch vụ tư vấn pháp luật bằng phương thức

điện tử và nhắn tin qua điện thoại… Công khai hóa các quy trình và thủ tục pháp lý

cũng như thủ tục tố tụng trên các website hay cổng thông tin điện tử một cách đầy

đủ chi tiết để người dân dễ dàng hơn trong tiếp cận.

Thứ hai, để thực hiện tốt và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền pháp

luật về TTATXH của các cơ quan nhà nước và đặc biệt là các cơ quan tư pháp phải

đầu tư một cách thỏa đáng để phát triển nguồn lực trong đó có nguồn nhân lực và

các nguồn lực khác phục vụ cho công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật;

thúc đẩy sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành trong hệt hống chính trị

trong việc thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Trong đó

nhấn mạnh việc tuyên truyền giáo dục pháp luật thông qua các vụ việc cụ thể theo

138

đó các cơ quan tư pháp đặc biệt là tòa án cần phải coi hoạt động xét xử như là biện

pháp răn đe, giáo dục nâng cao ý thức tuân thủ chấp hành các quy định pháp luật.

Thứ ba, sở tư pháp, phòng tư pháp thường xuyên kiểm tra, theo dõi đánh giá

hiệu quả để kịp thời có những biện pháp nhằm đổi mới cách thức, nội dung, kỹ

năng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn các đô thị loại I.

4.2.1.2. Xây dựng chương trình, kế hoạch nhằm phát huy vai trò của

quần chúng nhân dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh do cấp uỷ Đảng

trên địa bàn các đô thị loại I lãnh đạo thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự

an toàn xã hội

Sự nghiệp bảo vệ TTATXH là sự nghiệp của toàn dân vì nó liên quan đến lợi

ích thiết thân của mỗi người dân trong xã hội, do đó để mỗi người dân đều tham gia

một cách tích cực trong quá trình thực hiện các quy định chuẩn mực chung về đảm

bảo TTATXH, chúng ta cần xây dựng thế trận an ninh nhân dân, phát huy khí thế

cách mạng nhân dân, tự mỗi cán bộ, quần chúng nhân dân đều là một chiến sỹ trên

mặt trận bảo vệ giữ gìn TTATXH. Khi người dân tích cự tham gia thực hiện quy

định pháp luật, họ là phên dậu là tai mắt của cơ quan công quyền trong cuộc chống

phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội đó chính là sự uy hiếp đáng sợ nhất đối với

mỗi người phạm tội. Do đó chúng ta cần phát động phong trào quần chúng nhân

dân tham gia đảm bảo trật TTATXH. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên

lĩnh vực bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Tạo cơ hội và điều kiện để người dân tự giác

tham gia các tổ chức quần chúng bảo vệ trật tự an toàn xã hội, tích cực giúp đỡ các

cơ quan chuyên trách nhất là lực lượng Công an nhân dân, các lực lượng bảo vệ ở

địa phương hoàn thành tốt nhiệm vụ; tự giác tổ chức, tham gia xây dựng và quản lí

cuộc sống mới văn minh trật tự, yên vui lành mạnh ở địa phương, đơn vị công tác,

sản xuất, chiến đấu.

Để mở rộng phát huy vai trò nhân dân trong hoạt động bảo vệ TTATXH,

chính quyền các cấp trên địa bàn đô thị loại I cần gắn các chỉ tiêu về giữ gìn

TTATXH vào phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn

dân cư; tiếp tục xây dựng và duy trì hoạt động của các mô hình về tham gia giữ gìn

trật tự an toàn xã hội hiện có như tổ dân phố tự quản; tổ dân phố văn minh; xây

dựng chương trình phát động quần chúng nhân dân tham gia phát hiện, tố giác tội

139

phạm; cảm hóa, giáo dục người phạm tội tại cộng đồng dân cư, vận động người

phạm tội ra tự thú và truy bắt bọn tội phạm có lệnh truy nã; ngoài ra, triển khai đồng

bộ các biện pháp phòng ngừa tội phạm ở các cộng đồng dân cư, trong từng hộ gia

đình, trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các cơ quan nhà nước, tổ chức

xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang.

Chính quyền cơ sở trên địa bàn các đô thị loại I cần chú trọng nâng cao vai trò

của gia đình trong công tác đảm bảo TTATXH bởi gia đình đóng vai trò quan trọng

trong nuôi dưỡng, giáo dục đạo đức cho các cá nhân thành viên; cha, mẹ, anh, chị

em trong gia đình có vai trò đặc biệt trong việc hình thành thói quen lối sống và

cung cách ứng xử của các cá nhân. Do vậy việc phát huy vai trò giáo dục tạo lối

sống tuân theo hiến pháp và pháp luật ngay từ trong mỗi gia đình là một trong

những giải pháp tốt để mọi người dân trên địa bàn đô thi loại I thực hiên tốt các quy

định pháp luật về bảo đảm TTATXH trên địa bàn.

Trong việc xây dựng phong trào quần chúng thực hiện pháp luật về TTATXH

trên địa bàn đô thị loại I cần chú trọng vai trò của lực lượng công an dân dân, bởi

đây là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự,

an toàn xã hội. Theo đó Công an nhân dân cần giữ vai trò nòng cốt trong việc phát

động, xây dựng duy trì sự hoạt động của phong trào toàn dân bảo vệ giữ gìn trật tự

nơi công cộng. Bên cạnh đó cần huy động sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị

xã hội trong đó Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt là nhân tố quyết định

thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Do vậy các cấp Đảng ủy

trên địa bàn đô thị loại I phải phát huy vai trò của mình trong việc lãnh đạo, chỉ đạo

các hoạt động giữ gìn bảo vệ an ninh trật tự tại địa phương, theo đó các cấp Đảng

ủy cần đề ra đường lối chính sách và phương pháp đấu tranh bảo vệ trật tự, an toàn

xã hội, đồng thời lãnh đạo chặt chẽ bộ máy Nhà nước và các đoàn thể quần chúng

thực hiện thắng lợi đường lối chính sách đó.

4.2.1.3. Tăng cường cơ sở, vật chất, kỹ thuật nhằm nhằm phục vụ tốt cho

nhiệm vụ thực hiện pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô

thị loại I

Để bảo đảm nguồn lực phục vụ cho nhiệm vụ THPL về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn các đô thị loại I, chính quyền các cấp trên địa bàn đô thị loại I cần phải

140

tập trung vào những nội dung sau: Một là, tăng cường đầu tư nguồn lực xây dựng,

trang bị cơ sở vất chất, các trang thiết bị chuyên dụng cho các cơ quan chuyên trách,

lực lượng chuyên trách như công an, cảnh sát, quản lý thị trường, quản lý đô thị,

quản lý môi trường, v.v..; bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực phù hợp với yêu

cầu, nhiệm vụ và mức độ phức tạp về tình hình TTATXH trên địa bàn của mỗi đô

thị loại I; Hai là, tiếp tục đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật

đô thị, như đường giao thông, bến xe, chợ, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống quan

trắc môi trường, hệ thống chiếu sáng, cây xanh đô thị, v.v.., đặc biệt các đô thị loại

I cần đầu tư cho việc hoàn hiện mở rộng các tuyến đường giao thông; quy hoạch

lại các khu dân cư theo tiêu chuẩn phòng cháy chữa cháy, đồng thời lắp đặt các

camera nơi công cộng, các tuyến đường nhằm hạn chế sự gia tăng các loại tội

phạm, tệ nạn xã hội.

4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo trật tự an

toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

Để nâng cao hiệu quả THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị

loại I, yêu cầu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo đảm

TTATXH, vì thế những năm tới Quốc hội và Chính phủ cần xem xét để hoàn thiện

các quy định pháp luật liên quan đến bảo đảm TTATXH trên các khái cạnh sau:

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực phòng chống

tội phạm.

Quốc hội tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao

động hiện hành trong đó đặc biệt chú hình sự hoá đối với hành vi quấy rối tình dục,

Cần mở rộng hành vi quấy rối tình dục không chỉ ở nơi làm việc (như trong Bộ luật

Lao động hiện hành quy định).

Trước mắt, nâng mức xử phạt hành chính đối với hành vi quấy rối tình

dục bằng mức bồi thường thiệt hại về tinh thần theo quy định của BLDS

năm 2015 (Khoản 2, Điều 592); tiến tới hình sự hoá đối với hành vi quấy

rối tình dục, vì bản chất của hành vi này là vi phạm đến quyền bất khả

xâm phạm và tự do tình dục của con người, nghĩa là vi phạm đến quyền

bất khả xâm phạm về thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con

người [37, tr.146].

141

Bên cạnh đó, cần sửa đổi, hoàn thiện Luật Giám định tư pháp hay các quy

định pháp luật khác liên quan đến tội xâm hại tình dục… Ngoài ra, cần nghiên cứu

sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm

sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Thi hành án hình sự, pháp luật về

tổ chức cơ quan điều tra hình sự, pháp luật về các biện pháp phòng, chống tội phạm

và một số đạo luật có liên quan để tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan này với

nhau trong đấu tranh, phòng chống tội phạm xâm phạm TTATXH.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến phòng chống tệ nạn

xã hội.

Tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, mê tín dị đoan, v.v... đang có xu hướng

ngày càng phát triển, ngay cả trên địa bàn các đô thị loại I, vì vậy cần hoàn thiện

các quy định pháp luật liên quan đến phòng chống tệ nạn xã hội này. Theo đó cần:

(i) xây dựng quy chế phối hợp giữa Ban Tôn giáo, ngành Văn hoá, thể thao và du

lịch, Công an, Mặt trận Tổ quốc, v.v.. trong quá trình giải quyết các tệ nạn xã hội,

như xử lý các vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; (ii) rà soát, sửa đổi, bổ

sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách về phòng,

chống mại dâm, đặc biệt các vấn đề liên quan đến can thiệp giảm thiệt hại, phòng

chống HIV/AIDS và hỗ trợ hòa nhập cộng đồng cho người bán dâm; xoá bỏ các

hành vi kỳ thị đối với người bị nhiễm HIV/AIDS; (iii) cần bổ sung một số tội danh

mới liên quan đến hành vi truyền bá mê tín, dị đoan trong xã hội; tội sử dụng

mạng mạng xã hội để truyền bá mê tín, dị đoan. Theo đó “những tội liên quan đến

truyền bá mê tín, dị đoan cần được quy định tương tự như tội truyền bá văn hóa

phẩm đồi trụy” [100].

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến quản

lý hành chính về TTATXH.

Quốc hội và Chính phủ tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về

quản lý hành chính về trật tự xã hội, đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-19, các quy

định pháp luật về cư trú, lao động, du lịch, doanh nghiệp, đầu tư liên quan đến quản

lý cư trú của người lao động cần bổ sung thêm các quy định về xét nghiệm dịch

Covid, và việc thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch cần thiết như về khoảng

cách làm việc, các biện pháp bảo hộ, tiêm vaccin cho người lao động đối với cơ sở

142

sử dụng lao động, tiêm vaccin cho khách du lịch có thời gian lưu trú từ 02 tuần trở

lên đối với các công ty lữ hành. Bên cạnh đó, quy định cụ thể biện pháp chế tài chặt

chẽ để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về cư trú, đặc biệt những trường hợp

không chấp hành đúng các quy định về phòng chống dịch Covid, hình sự hoá các

hành vi cố tình vi phạm các quy định pháp luật này gây lây lan dịch cho cộng đồng.

Hiện nay ở các đô thị loại I, đặc biệt ở các địa phương có tiềm năng du lịch

như Đà Nẵng, Hải Phòng, Hạ Long, Đà lạt, Vũng Tàu, v.v.. hoạt động kinh doanh

bất động sản du lịch đã và đang diễn ra phức tạp, từ đó nhiều địa phương lúng túng

trong quản lý các sản phẩm bất động sản du lịch do thiếu các quy định pháp luật về

vấn đề này, từ chủ trương, chính sách, đến việc hiện thực hóa bằng các quy định của

pháp luật thực định đều chưa được minh định cụ thể. Vì thế, Quốc hội nghiên cứu

sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014,

Luật Đầu tư năm 2020, Luật Nhà ở năm 2014, Luật Du lịch năm 2017, Luật Xây

dựng năm 2014 (sửa đổi năm 2016, 2018, 2019, 2020) và các văn bản hướng dẫn,

trong đó quy định rõ phương thức đầu tư kinh doanh nào được áp dụng cho từng

loại bất động sản du lịch cụ thể để vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước vừa kích

thích được sự năng động và đa dạng các loại hình kinh doanh cho các chủ đầu tư,

tạo cơ hội tiếp cận thông tin minh bạch để khách hàng có thể yên tâm đầu tư và thụ

hưởng các sản phẩm bất động sản mà mình theo đuổi, phòng ngừa được tối đa rủi ro

cho các chủ thể tham gia thị trường, như: quy định cụ thể loại giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho khách

hàng mua bất động sản du lịch, hợp đồng chuyển nhượng, quản lý bất động sản du

lịch; trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc thực hiện các cam kết với khách hàng

mua bất động sản du lịch…

Thứ tư, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến đảm bảo trật tự an

toàn giao thông, trật tự đô thị, trật tự công cộng.

Trên cơ sở Luật giao thông đường bộ, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật giao thông đường thủy nội địa hiện hành và các văn bản quy phạm pháp luật

khác, Bộ Công an cần phối hợp với các bộ, ngành hữu quan rà soát lại toàn bộ các

văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và các lĩnh vực

khác có liên quan. Theo đó Bộ Công an và Bộ Giao thông, vận tải cần nghiên cứu,

143

sửa đổi, bổ sung các quy định về hành lang an toàn giao thông, giao thông tĩnh, về

đường ngang đường sắt, quản lý tăng cường giao thông công cộng, tổ chức giao

thông và trách nhiệm của chính quyền cấp huyện, cấp xã cũng như kinh phí bảo

đảm trật tự, an toàn giao thông lâu dài; trong định hướng sửa đổi, bổ sung pháp luật

về trật tự, an toàn giao thông nên chú trọng đến vấn đề hợp tác quốc tế như chuyển

giao công nghệ trong sản xuất, lắp ráp phương tiện, xây dựng hạ tầng phục vụ giao

thông; đào tạo đội ngũ nhân viên hướng dẫn, cưỡng chế giao thông.

Thứ năm, hoàn thiện các quy định pháp luật về phòng cháy, chữa cháy, cứu hộ

cứu nạn.

Quốc hội nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh Bất động sản hiện

hành trong đó quy định chủ đầu tư sau khi đã nghiệm thu công trình chung cư theo

quy định của Luật Xây dựng thì phải thông báo cho Sở Xây dựng để kiểm tra, nếu

đạt chuẩn thì Sở Xây dựng ban hành văn bản xác nhận công trình đủ điều kiện đưa

vào sử dụng mới được phép bàn giao nhà cho dân vào ở.

Bên cạnh, Quốc hội cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Nhà ở, Luật Kiến trúc,

Luật Xây dựng, Luật Đầu tư hiện hành về quy chuẩn, tiêu chuẩn tầng thoát nạn cho

nhà chung cư, như: cần có quy định liên quan đến việc xây dựng các đường kết nối

các tầng thoát nạn của các chung cư liền kề; quy định rõ ràng các quy chuẩn đối với

khu vực thoát nạn tại các tầng; đối với cụm chung cư thì cần quy định kết nối các

tầng thoát nạn với nhau để tạo điều kiện cho cư dân thoát nạn khi có sự cố xảy ra;

quy định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư dự án nhà chung cư trong việc phải thi công

đường vào chữa cháy đúng thiết kế lòng đường và đạt tải trọng cho xe chữa cháy.

Ngoài ra, cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các thành viên Ban quản trị chung

cư trong việc thường xuyên bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về quản lý, vận hành

chung cư, trong đó, có kiến thức, kỹ năng về phồng cháy chữa cháy; quy định trách

nhiệm đối với chủ đầu tư dự án nhà chung cư và Ban quản trị chung cư chịu trách

nhiệm trong đảm bảo chất lượng vận hành chung cư.

Thứ sáu, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến giáo dục cải tạo

phạm nhân.

Việc giáo dục cải tọa phậm nhân hiện còn gặp nhiều khó khăn do các Trại

giam quản lý nhiều đội tượng hay do các quy định của luật chưa phù hợp thiếu tính

144

khả thi. Việc giáo dục quản lý tội phạm tại trại giam có gặp nhiều khó khăn do quy

định của luật theo đó để cải thiện tình trạng này cần sớm sửa đổi các quy định như:

cần có quy định rõ về tuổi của người bị hại trong bản án để giúp các phạm nhân dễ

ràng thực hiện trách nhiệm pháp lý của mình. Hiện nay vẫn còn một số bản án

không rõ ràng như buộc phạm nhân phải chi trả tiền cấp dưỡng hàng tháng cho con

của bị hại đến khi 18 tuổi nhưng trong bản án không ghi ngày, tháng, năm sinh của

con người bị hại để tính số tháng buộc phạm nhân phải thực hiện phần nuôi dưỡng

đến khi đủ 18 tuổi. Hay theo Thông tư 06 của Bộ trưởng Bộ Công an, phạm nhân

được xếp loại khá, tốt, phải tích cực khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của

mình gây ra, cụ thể áp dụng hình phạt bổ sung là nộp tiền phạt, nộp án phí, bồi

thường thiệt hại; có trường hợp, nhiều thân nhân phạm nhân gặp không ít khó khăn

khi nộp tiền phạt do cơ quan Thi hành án dân sự không nhận. Theo đó Quốc hội

xem xét sửa nội dung Khoản 6, Điều 63, Bộ Luật Hình sự năm 2015 và 8 điều,

khoản tại Luật thi hành án hình sự phù hợp với yêu cầu thực tiễn; quan tâm cải thiện

về điều kiện giam giữ; công tác dạy nghề đối với phạm nhân sắp hoàn thành thời

gian cải tạo…

Thứ bảy, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường ở

các đô thị.

Chính phủ tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường

năm 2020, đặc biệt trong đó quy định rõ:

(1) quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong tổ

chức lập quy hoạch bảo vệ môi trường nước quốc gia; xây dựng nội

dung bảo vệ môi trường nước trong quy hoạch vùng; hướng dẫn các tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương xây dựng nội dung bảo vệ môi trường

nước trong quy hoạch tỉnh; (2) quy định rõ trách nhiệm của Chủ tịch

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong xây dựng nội dung

bảo vệ môi trường nước trong quy hoạch tỉnh; (3) quy định rõ các biện

pháp trách nhiệm pháp lý đối với Chủ tịch bảo vệ môi trường nước tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương khi để xảy ra các sai phạm trong lập quy

hoạch hoặc phá vỡ quy hoạch đã được phê duyệt, gây hậu quả xấu về

môi trường nước trong phạm vi tỉnh mình [54, tr.135-135].

145

4.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực thực hiện pháp luật về bảo

đảm trật tự an toàn xã hội cho cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền trên địa bàn đô thị loại I

Hiệu quả quản lý của Nhà nước chịu nhiều tác động bởi số lượng và chất

lượng của đội ngũ cán bộ công chức. Đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, hài hòa trong

cơ cấu và có chất lượng tốt như có trình độ năng lực và tận tâm chu đáo trong thực

thi nhiệm vụ thì nhiệm vụ sẽ được thực hiện chính xác, hạn chế đến mức thấp nhất

các sai phạm trong xử lý vụ việc. Điều này cũng có tác động làm giảm tình trạng

chống đối người thi hành công vụ. Bởi thực tế cho thấy các hành vi chống đối người

thi hành công vụ có thể bắt nguồn từ việc cán bộ công chức xử lý vụ việc chưa thỏa

đáng, có thái độ hống hách, quan liêu, cửa quyền trong xử lý vụ việc. Theo đó hoàn

thiện về số lượng, cơ cấu cũng như nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo

đức, năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức là biện pháp hiệu

quả nâng cao mức độ tuân thủ, chấp hành pháp luật không chỉ của cơ quan công

quyền mà còn của người dân. Mục tiêu của nhóm giải pháp này là xây dựng các cơ

quan bảo vệ pháp luật thật sự trong sạch, vững mạnh để làm tròn nhiệm vụ xung

kích trên mặt trận giữ gìn TTATXH. Để nâng cao năng năng lực THPL về bảo đảm

TTATXH cho cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên địa bàn

đô thị loại I, cần chú trọng thực hiện các giải pháp như sau:

Thứ nhất, rà soát, đánh giá thực trạng năng lực của Cơ quan điều tra, Viện

kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp và các lực lượng chuyên trách phòng,

chống tội phạm thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, xây dựng đề án tổng

thể khắc phục hạn chế, yếu kém và nâng cao một bước căn bản năng lực các lực

lượng này.

Thứ hai, sau khi rà soát đánh giá cơ cấu, số lượng năng lực của đội ngũ cán

bộ cần tập trung chỉ đạo đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo hướng bố trí hợp lý

cơ cấu số lượng nhân lực cho các cơ quan tư pháp và lực lượng chuyên trách. Cần

bảo đảm sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, hướng về cơ sở; tổ chức đào tạo, đào tạo

lại đội ngũ cán bộ, đổi mới cơ chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ giữa các cơ quan

đơn vị, đó là:

146

Một là, quan tâm thực hiện tốt công tác tuyển dụng, bố trí đánh giá cán bộ.

Theo đó cần cụ thể hóa và thực hiện nghiêm các tiêu chuẩn trong công tác tuyển

dụng, bố trí đánh giá cán bộ công chức. Trên thực tế do thiếu những cơ sở, tiêu chí

đánh giá cán bộ công chức nên khâu tuyển dụng, đánh giá bố trí, sử dụng cán bộ

công chức còn tồn tại nhiều yếu kém. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc

chúng ta có thể nâng phẩm chất năng lực trong thực thi công vụ của cán bộ công

chức. Trong công tác tuyển dụng, bố chí đánh giá cán bộ cần đề cao chuẩn mực

nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp đồng thời cụ thể hóa các tiêu chí chuẩn mực này

để có thể đo lường và vận dụng vào đánh giá cán bộ trong thực tế. Điều này sẽ tạo

nên môi trường ngăn chặn tình trạng tham ô, tham nhũng, hách dịch, cửa quyền

đồng thời loại bỏ tình trạng bổ nhiệm đánh gía cán bộ không sát thực tế dẫn đến

nhiều tiêu cực. Để làm tốt công tác này cần hoàn thiện pháp luật về cán bộ tư pháp

nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ tư pháp trong

thực thi công vụ. Các cơ quan có thẩm quyền cần tập trung hoàn thiện những quy

định pháp luật về tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ tư pháp

theo hướng đề cao trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý, quyền tương ứng với

nghĩa vụ, lợi ích gắn liền trách nhiệm, thưởng và phạt nghiêm minh để cho tất cả

cán bộ tư pháp được đặt trong một chế độ kiểm tra, sàng lọc công bằng giữa công

và tội, giữa tôn vinh, đãi ngộ, trọng dụng với sa thải, trừng phạt và hoàn thiện

những quy định về thủ tục hành chính trong hoạt động tư pháp để tránh sự sách

nhiễu, phiền hà công dân;

Hai là, chú trọng thực hiện công tác sát hạch, đánh giá cán bộ. Đây là một

khâu quan trọng, có tính nền tảng trong toàn bộ công tác quản lý công chức, xét về

một ý nghĩa nhất định, nó có thể được coi là cốt lõi của toàn bộ công tác quản lý

công chức. Việc sát hạch đánh giá phẩm chất đạo đức, chính trị, kiến thức chuyên

môn, năng lực công tác đối với độ ngũ cán bộ có thể được tiến hành theo định kỳ

đánh giá dựa vào kết quả làm việc. Kết quả đánh giá sát hạch sẽ được sử dụng để

thực thi việc thưởng phạt, cất nhắc có thể điều chuyển hay sa thải công chức. Từ đó,

phát huy tính tích cực của công chức, nâng cao hiệu suất công tác của cơ quan, thúc

đẩy công cuộc xây dựng phát triển kinh tế đất nước.

147

Thứ ba, quan tâm đến công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nâng cao trình độ

nghiệp vụ cho cán bộ công chức. Thời gian qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm bằng những chương trình,

kế hoạch ở quy mô quốc gia cũng như ở các địa phương. Số lượng cán bộ, công

chức qua các lớp, khoá đào tạo, bồi dưỡng khá lớn, nhưng nhìn chung chất lượng

còn khiêm tốn. Số lượng cán bộ, công chức có bằng cấp, chứng chỉ tăng, nhưng

chất lượng về chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức có bằng cấp, chứng chỉ

lại đang là vấn đề đáng lo ngại.

Theo đó những năm tới cần đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức, khắc phục tình trạng đào tạo, bồi dưỡng quá chú trọng vào việc tiêu

chuẩn hóa chức danh cán bộ, công chức, chưa chú trọng đầy đủ tới những kiến

thức và kỹ năng để xây dựng cho người công chức năng lực thực hiện tốt hơn

công việc và nhiệm vụ được giao. Mục tiêu của đào tạo, bồi dưỡng chính là những

năng lực cần thiết cho công chức, giúp họ có được khả năng hoàn thành tốt chức

năng, nhiệm vụ của mình, góp phần vào việc đạt được các mục tiêu chiến lược do

Nhà nước đề ra.

Cần tạo điều kiện về thời gian và kinh phí giúp các cán bộ công chức thực thi

pháp luật tham gia các khóa đào tạo hay tự học tập nghiên cứu cập nhật các thông

tin pháp luật cũng như giúp họ nâng cao trình độ nghiệp vụ. Hiện tại mặc dù các

quy định pháp luật của Đảng và nhà nước được phổ biến rộng rãi nhưng do khả

năng khai thác của cán bộ tư pháp ở nhiều cơ quan, địa phương còn hạn chế, nên

việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền trong nhiều trường hợp chưa kịp thời

và hiệu quả. Từ đó, các cơ quan tư pháp cần đa dạng hóa các hình thức tiếp cận

thông tin của cán bộ tư pháp thông qua những cẩm nang, các hệ thống mạng máy

tính, tạp chí, bản tin để trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp và nâng cao hiệu

quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ tư pháp. Ðồng

thời, cần có kế hoạch đào tạo chuyên môn, đào tạo lại, đào tạo nâng cao và trang bị

những kiến thức liên quan cho cán bộ tư pháp theo tiêu chuẩn chức danh và phù

hợp những yêu cầu mới của quá trình cải cách tư pháp.

Các cơ quan cần tạo điều kiện cho cán bộ của các cơ quan bảo vệ pháp luật

giao lưu học hỏi kinh nghiệm giữa các cơ quan địa phương trong nước hay giao lưu

148

học tập nước ngoài nhằm nâng cao kiến thức, trình độ nghiệp vụ. Việc chia sẻ kiến

tức, kinh nghiệm có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức. Các tòa án có thể

tổng hợp các vi phạm của Tòa án, kịp thời ban hành thông báo rút kinh nghiệm đối

với những bản án, quyết định bị hủy, sửa về những vi phạm tố tụng, vi phạm trong

việc đánh giá chứng cứ, tài liệu; những vi phạm về việc thu thập tài liệu, chứng cứ

trong các vụ án; đánh giá chất lượng kháng nghị để kịp thời khắc phục nhằm nâng

cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc. Tòa án nhân dân tối

cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao phải tích cực, nhanh chóng trả lời thỉnh thị và

giải đáp các vướng mắc về nghiệp vụ cũng như về áp dụng pháp luật đối với viện

kiểm sát, tòa án cấp dưới.

Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động kiểm tra giám sát hoạt động của cơ quan thi hành

pháp luật để kịp thời ngăn chặn các hành vi không tuân thủ quy định pháp luật. Biểu

dương khen ngợi động viên các tấm gương thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ. Đối

với hoạt động của tòa án cần kiểm sát chặt chẽ việc tuân theo pháp luật tại phiên

tòa, phiên họp; tích cực kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án kịp thời phát hiện vi

phạm để thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp có

thẩm quyền để kháng nghị, hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp án bị hủy,

sửa có trách nhiệm của Kiểm sát viên. Cần kiểm soát một cách chặt chẽ hoạt động

của các cơ quan quản lý và cơ quan thi hành pháp luật nhằm ngăn ngừa những hành

vi nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật của công chức. Xây dựng và thực thi chế tài

nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật để công chức “không dám” thực hiện

những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức công vụ hoặc các hành vi trái

với lương tâm và đạo đức xã hội.

Thứ năm, đáp ứng điều kiện vật chất, phương tiện kỹ thuật hỗ trợ việc thực

hiện pháp luật của các cơ quan công quyền.

Việc thiếu trang thiết bị vật chất, các máy móc công nghệ phục vụ cho hoạt

động chấp pháp của cơ quan công quyền có thể gây khó khăn nhất định đến hoạt

động thực hiện pháp luật. Do đó các cơ quan công quyền cần “Ưu tiên đầu tư ngân

sách, mua sắm, cung ứng vật tư, phương tiện một cách hợp lý, từng bước đáp ứng

yêu cầu hậu cần - kỹ thuật cho hoạt động của các cơ quan tư pháp và lực lượng

chuyên trách” [107].

149

4.2.4. Nhóm các giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng hiện pháp

luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

Thứ nhất, tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát đối với công tác THPL về

bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam.

Các cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước phải coi trọng và nâng cao hiệu

quả công tác thanh tra, kiểm tra THPL về bảo đảm TTATXH của các cơ quan nhà

nhà nước trên địa bàn các đô thị loại I. Các cơ quan này thanh tra, kiểm tra việc

thực hiện pháp luật đối với các cơ quan thực thi pháp luật cần tập trung chủ yếu vào

kiểm tra tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân, thanh kiểm tra việc tuân

thủ các quy định pháp luật trong thực thi nhiệm vụ; kiểm soát, đánh giá trách nhiệm

của các cơ quan chức năng trong thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo

dục, hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật; xác

định ý thức pháp luật của các cơ quan, đơn vị, các tổ chức và công dân trên địa bàn

các đô thi loại I. Việc thanh kiểm tra cần được tiến hành bằng nhiều biện pháp với

nhiều hình thức khác nhau. Trong đó cần tăng cường vai trò giám sát của nhân dân

thông qua các tổ chức đại diện là Mặt trận Tổ quốc các cấp, các đoàn thể chính trị -

xã hội của nhân dân đối với hoạt động công vụ của cán bộ, công chức; tổ chức tiến

hành khảo sát, đánh giá mức độ hài lòng của người dân, tổ chức nhằm giúp các cơ

quan đơn vị xác định lỗ hổng hay việc làm chưa đúng đắn của cán bộ công chức.

Phát huy vai trò kiểm tra giám sát của nhân dân là kênh giám sát hữu hiệu với hoạt

động của các cơ quan công quyền; đồng thời cần phát huy vai trò giám sát của các

cơ quan truyền thông báo chí. Để thực hiện tốt khâu kiểm tra giám sát cần nâng cao

tình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra đồng thời có cơ chế

chế tài chặt chẽ kiểm tra, giám sát ngay cả các hành vi hoạt động của các cơ quan

thanh tra.

Bên cạnh đó, các cơ quan dân cử (Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp) tổ

chức các đoàn giám sát việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I

để xem xét tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và tính khả thi của hệ thống pháp

luật về đảm bảo TTATXH và thông qua hoạt động tổ chức kiểm tra việc thực hiện

văn bản quy phạm pháp luật sẽ đánh giá mức độ hoàn thiện của các văn bản pháp

luật đồng thời đánh giá được mực độ hiểu quả của việc thực hiện pháp luật trong

150

đời sống từ đó khắc phục những vướng mắc, sửa chữa những bất hợp lý của văn

bản pháp luật cũng như của quá trình thực hiện pháp luật.

Trong bối cảnh hiện nay, các cơ quan thanh tra, kiểm tra chuyên trách, các

cơ quan dân cử, các tổ chức chính trị - xã hội và thông tấn, báo chí và nhân dân

phải tích cực, chủ động và nâng cao tinh thần trách nhiệm trong phòng chống

dịch Covid-19, trong đó thực hiện theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính

phủ, đó là:

Phòng, chống dịch Covid-19 với mức độ cảnh giác cao nhất, không được

chủ quan, lơ là. Đề cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu, thực

hiện nghiêm phương châm “bốn tại chỗ” và các biện pháp chiến lược

“kiểm soát chặt chẽ từ bên ngoài, khoanh vùng dập dịch triệt để từ bên

trong, chữa trị hiệu quả, có trách nhiệm” để phòng dịch trong giai đoạn

mới, đồng thời thực hiện tốt mục tiêu kép về phòng, chống dịch gắn với

phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh trật tự trên địa bàn... Các cơ

sở lưu trú, trường học, khám, chữa bệnh thường xuyên tự đánh giá việc

thực hiện các yêu cầu, hướng dẫn phòng, chống dịch, công khai kết quả tự

đánh giá trên hệ thống bản đồ chống dịch. Tăng cường cảnh giác với nguy

cơ dịch bệnh, thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các biện pháp phòng,

chống dịch đã đề ra; dừng các hoạt động, sự kiện tập trung đông người khi

không cần thiết; trường hợp tổ chức phải bảo đảm các hoạt động phòng

dịch như đeo khẩu trang, sát khuẩn... theo quy định [16].

Thứ hai, kết hợp sử dụng các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác để hỗ trợ

cho THPL về bảo đảm TTATXH của các nhóm chủ thể trên địa bàn các đô thị loại I

ở Việt Nam hiện nay.

Trong xã hội Việt Nam hiện nay, cùng với pháp luật còn có những công cụ

khác như: đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo, hương ước, v.v. tham gia quản lý

xã hội. Các thể chế chính thức và phi chính thức này có mối liên hệ mật thiết với

nhau, luôn dựa vào nhau, hỗ trợ nhau để cùng tồn tại, phát triển vì sự ổn định và

TTATXH, do vậy để hỗ trợ cho các quy định pháp luật, mỗi cộng đồng, mỗi địa

phương cần phát huy tốt vai trò của các thể chế xã hội khác trong xây dựng cộng

đồng. Với các lĩnh vực cụ thể mà pháp luật chưa quy định hoặc điều chỉnh chưa

151

hiệu quả cần phát huy chuẩn mực đạo đức, các quy phạm văn hoá, các quy định

tại tổ dân phố, nhằm điều chính hành vi của cá nhân và tổ chức, như: xây dựng và

thực hiện các quy chế văn hoá khu phố; tiếp tục phát huy quy chế gia đình văn hoá

kiểu mẫu; v.v...

Chính vì thế, chính quyền địa phương và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể

chính trị - xã hội trên địa bàn các đô thị loại I tiếp tục phát huy tối đa vai trò của

cộng đồng trong việc xây dựng các nội quy, quy chế của các tổ dân phố nhằm

hướng đến xây dựng khu phố văn minh, khu phố tự quản, từ đó phát huy vai trò

chủ động, tích cực của mỗi người dân, mỗi cơ quan, tổ chức trong khu dân phố

thực hiện tốt nội quy, quy chế, các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật

Nhà nước; đồng thời giám sát chặt chẽ hành vi của người dân trong khu phố, phối

hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để giám sát các chủ thể pháp luật trển

địa thực hiện các quy định pháp luật về TTATXH, từ đó hướng đến việc xây dựng

xã hội trật tự, kỷ cương.

Tiểu kết chương 4

Trong chương 4 đã đề ra quan điểm phương hướng và các nhóm giải pháp

nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả việc thực hiện các quy định pháp luật về đảm

bảo TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam trong thời gian tới. Theo đó

để nâng cao mức độ tuân thủ, chấp hành và sử dụng pháp luật của các cá nhân và tổ

chức cũng như nâng cao chất lượng việc áp dụng quy định pháp luật của các cơ

quan nhà nước cần phát huy vai trò của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn dân

thực hiện đồng bộ, hiệu quả.

Để giải quyết những hạn chế trong thực trạng THPL về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt Nam, các cấp chính quyền cần thực hiện đồng

bộ các nhóm giải pháp sau: Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện pháp

luật của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức trên địa bàn các đô thị loại I;

Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên

địa bàn đô thị loại I; Nhóm giải pháp nâng cao năng lực thực hiện pháp luật về bảo

đảm trật tự an toàn xã hội cho cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền trên địa bàn đô thị loại I; Nhóm các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiện

pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I.

152

KẾT LUẬN

1. Việc đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật đảm bảo TTATXH có ý nghĩa

vô cùng quan trọng trong việc xây dựng trạng thái xã hội an toàn, ổn định, các

quyền cơ bản của nhân dân được bảo vệ. Những năm qua đã có những công trình

nghiên cứu về từng khía cạnh của việc thực hiện pháp luật đảm bảo TTATXH, tuy

nhiên hầu hết các công trình chưa đi sâu mô tả, đánh giá một cách đầy đủ rõ nét về

từng loại hình của việc thực hiện pháp luật cũng như không chỉ ra được sự tác động

qua lại giữa bốn hình thức thực hiện pháp luật liên quan đến đảm bảo TTATXH

trên địa bàn các đô thị loại I. Do đó luận án này hướng đến khái quát những vấn lý

luận nhằm tạo ra bộ công cụ cho việc đánh giá thực trạng tuân thủ chấp hành, sử

dụng pháp luật về đảm bảo TTATXH của người dân, doanh nghiệp, các cơ quan, tổ

chức cũng như đánh giá việc áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền nhằm đề xuất giải pháp thúc đẩy việc THPL về bảo đảm TTATXH trên địa

bàn các đô thị loại I của Việt Nam.

2. Trong phạm vi luận án này, TTATXH được xác định là trạng thái xã hội có

trật tự, kỷ cương, trong đó mọi người có cuộc sống yên ổn, các quyền và lợi ích

chính đáng của mọi người dân được đảm bảo trên cơ sở thực hiện các quy phạm

pháp luật và chuẩn mực đạo đức do xã hội đặt ra. Theo đó việc đánh giá mức độ trật

tự, an toàn của một xã hội nhất định sẽ dựa trên các chỉ số, chỉ báo liên quan đến tỷ

lệ tội phạm, tệ nạn xã hội cũng như việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của

người dân.

Các hoạt động liên quan đến bảo đảm TTATXH được luận án xác định là tất

cả các hoạt động nhằm giữ gìn trạng thái bình yên, an toàn, có trật tự kỷ cương của

xã hội. Chủ thể tham gia vào đảm bảo TTATXH ngoài lực lượng nòng cốt là công

an nhân nhân với nhiệm vụ phòng chống các loại tội phạm, tệ nạn xã hội thì còn có

sự tham gia của các cơ quan công quyền khác như hệ thống các cơ quan tư pháp,

các tổ chức chính trị xã hội và lực lượng toàn dân.

Khái niệm pháp luật về bảo đảm TTATXH được hiểu là là hệ thống các quy

tắc xử sự chung, do nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành, đảm

bảo thực hiện, thể hiện ý chí nhà nước, của nhân dân nhằm điều chỉnh các quan hệ

xã hội, hướng xã hội đến trạng thái ổn định, cuộc sống của mọi người dân được

153

đảm bảo an toàn, không bị đe dọa hay gặp nguy hiểm, các quyền và lợi ích chính

đáng của người dân được bảo vệ.

Thực hiện pháp luật bảo đảm TTATXH trên địa bàn đô thị loại I chính là

hoạt động thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo TTATXH trên địa bàn cụ thể

là đô thị loại I. Thực hiện pháp luật được hiểu là việc các chủ thể pháp luật thông

qua quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về trật

tự an toàn xã hội đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của

các chủ thể pháp luật. Có bốn hình thức cơ bản của thực hiện pháp luật là tuân thủ

pháp luật; chấp hành pháp luật (hay còn gọi thi hành pháp luật); sử dụng pháp luật

và áp dụng pháp luật. Mỗi hình thức thực hiện pháp luật sẽ có các tiêu chí đánh

khác nhau để đánh giá mức độ tuân thủ, chấp hành, sử dụng hay áp dụng pháp luật

của các nhóm chủ thể.

3. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số người dân và doanh nghiệp trên địa

bàn các đô thị loại I đều có ý thức thực hiện các quy định pháp luật về đảm bảo

TTATXH. Tuy nhiên số đối tượng và số vụ việc vi phạm pháp luật đảm bảo

TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I có xu hướng tăng trong giai đoạn 2012 -

2020. Việc vi phạm pháp luật diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống đây là chỉ

báo cho thấy người dân và doanh nghiệp chưa tuân thủ, chấp hành nghiêm minh các

quy định của pháp luật. Khi xảy ra tranh chấp, hay mâu thuẫn đa số người dân và

doanh nghiệp đều sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình thông

qua các cơ chế chính thức tuy nhiên vẫn còn tình trạng người dân không tin vào

hiệu quả thực thi pháp luật của các cơ quan công quyền; họ cũng không hiểu biết

hết các quy định của luật nên không sử dụng luật nhằm bảo vệ quyền lợi của mình

khi xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn.

Các cơ quan quản lý nhà nước về bảo đảm TTATXH đã thực hiện tốt vai

trò của mình trong việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tổ

chức tuyên truyền phổ biến pháp luật đến cán bộ công chức và người dân cũng

như thường xuyên tổ chức kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện pháp luật của cá

nhân và tổ chức trên đại bàn. Tuy nhiên việc thực hiện pháp luật của cơ quan quản

lý nhà nước về đảm bảo TTATXH vẫn còn những hạn chế như: (1) Một số địa

phương đã ghi nhận hiện tượng các thủ trưởng một số Sở, ngành và địa phương

154

chưa quan tâm, chỉ đạo và xây dựng kế hoạch để triển khai việc thi hành pháp

luật; (2) Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy và biên chế làm công tác theo dõi thi hành

pháp luật chưa phù hợp; (3) Hoạt động kiểm tra công tác theo dõi tình hình thực

hiện pháp luật chưa được thực hiện thường xuyên, hoạt động kiểm tra theo dõi

chưa bao quát, toàn diện và chưa kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tất

cả các lĩnh vực theo dõi tình hình thực hiện pháp luật trên đại bàn. Khi triển khai

một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn lúng túng và chưa thực hiện đồng bộ hoạt

động theo dõi thi hành pháp luật.

Việc thực hiện pháp luật của cơ quan tư pháp: cơ quan điều tra, viện kiểm

sát, tòa án, cơ quan thi hành án có nhiều ưu điểm như: Tòa cán các cấp trên địa

bàn các đô thị loại I đều tuân thủ, chấp hành tốt các quy định pháp luật trong thực

hiện nhiệm vụ xét xử. việc xét xử các vụ án đặc biệt các vụ án hình sự bảo đảm

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chưa phát hiện trường hợp nào kết án oan

người không có tội. Viện kiểm sát chấp hành tương đối tốt các quy định pháp luật

trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Điều này phản ánh thông qua

hoạt động truy tố đạt tỷ lệ rất cao, giảm đáng kể các trường hợp Viện kiểm sát truy

tố nhưng Tòa án tuyên không phạm tội, cũng như giảm các trường hợp oan, sai

thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát. Việc thi hành án luôn được các cơ quan thi

hành án thực hiện kịp thời; đảm bảo tính khách quan, chính xác, đúng các quy

định của pháp luật.

Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện pháp luật của các cơ quan tư pháp

còn tồn tại nhiều hạn chế thiếu sót như: Tòa án không tuân thủ, chấp hành các quy

định trong xét xử, việc áp dụng pháp luật còn nhiều sai xót dấn đến tỷ lệ án bị hủy,

sửa cao. Một số viện kiểm sát vẫn còn vi phạm các quy định pháp luật trong quá

trình thực thi nhiệm vụ. Các cơ quan nhận tin báo, tố giác tội phạm không chấp

hành nghiêm các quy định về lập hồ sơ tiếp nhận tin báo tội phạm. Các cơ quan thi

hành án còn không tuân thủ, chấp hành hay áp dụng sai các quy định luật khi thực

hiện nhiệm vụ.

4. Những ưu điểm và hạn chế của việc thực hiện pháp luật về bảo đảm

TTATXH trên địa bàn đô thị loại I xuất phát từ các điều kiện liên quan đến mức độ

hoàn thiện của hệ thống pháp luật, năng lực thực thi công vụ các cơ quan công

155

quyền, trình độ ý thức tuân thủ chấp hành pháp luật của người dân cũng như các

điều kiện liên quan đến trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội trên đại

bàn các đô thị loại I. Do đó muốn nâng cao chất lượng hiệu quả việc thực hiện pháp

luật đảm bảo TTATXH trên địa bàn đô thị loại I, luận án đưa ra các giải pháp nhằm

tác động làm thay đổi các điều kiện liên quan đến việc THPL về bảo đảm TTATXH

trên địa bàn các đô thị loại I, như: nhóm giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện

pháp luật của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức trên địa bàn các đô thị loại I;

nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên

địa bàn đô thị loại I; nhóm giải pháp nâng cao năng lực thực hiện pháp luật về bảo

đảm trật tự an toàn xã hội cho cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền trên địa bàn đô thị loại I; giải pháp tăng cường chức năng kiểm tra, giám sát

đối với công tác THPL về bảo đảm TTATXH trên địa bàn các đô thị loại I ở Việt

Nam; giải pháp kết hợp sử dụng các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác để hỗ

trợ cho THPL về bảo đảm TTATXH của các nhóm chủ thể trên địa bàn các đô thị

loại I ở Việt Nam hiện nay.

156

CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Hữu Mạnh (2016), “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong phát huy sức

mạnh đại đoàn kết toàn dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh

Thanh Hóa”, Tạp chí Khoa học và Chiến lược, (5), tr.49-52.

2. Nguyễn Hữu Mạnh (2016), “Huy động các cấp, các ngành tham gia công tác

bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, Tạp chí Khoa học và

Chiến lược, (9), tr.54-57.

3. Nguyễn Hữu Mạnh (2016), “Công an tỉnh Thanh Hóa tham mưu cấp ủy,

chính quyền huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị tham gia bảo

đảm an ninh, trật tự trên địa bàn”, Tạp chí Công an nhân dân, Kỳ 2, (7),

tr.103-107.

4. Nguyễn Hữu Mạnh (2016), “Vai trò của cấp ủy đảng, chính quyền trong lãnh

đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, đoàn thể tham gia đảm bảo an ninh trật tự

trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (245), tr.149-151.

5. Nguyễn Hữu Mạnh (2019), “Phòng ngừa tội phạm xâm phạm danh dự, nhân

phẩm của con người nhằm bảo đảm trật tự, an toàn xã hội theo tinh thần Hiến

pháp 2013”, tại trang htt://csnd.vn, ngày 5/3.

6. Nguyễn Hữu Mạnh (2020), “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phòng, chống

tội phạm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, (4),

tr.76-79.

7. Nguyễn Hữu Mạnh (2020), “Nâng cao hiệu quả tuân thủ và áp dụng pháp luật

trong xét xử các vụ án vi phạm trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đô thị loại I

ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học chính trị, (10), tr.53-57.

157

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Tâm An, Đảm bảo tòa án là chỗ dựa tin cậy của nhân dân, tại trang

https://plo.vn/phap-luat/dam-bao-toa-an-la-cho-dua-tin-cay-cua-nhan-dan-

814256.html, [truy cập ngày 12/12/2020]

2. Vũ Hồng Anh, Chính quyền đô thị: kinh nghiệm gì từ Hàn Quốc, Thái Lan,

Nhật Bản: Chính quyền đô thị giúp Thành phố Hồ Chí Minh phát triển

nhanh, tại trang https://tcnn.vn/news/detail/5262/Chinh_quyen_do_tall.html,

[truy cập ngày 27/5/2021]

3. Huyền Anh, Hoạt động mại dâm đều dưới dạng trá hình, tại trang

https://infonet.vn/hoat-dong-mai-dam-deu-duoi-dang-tra-hinh-

post248354.info, [truy cập ngày 3/4/2021]

4. Minh Anh, Khắc phục những hạn chế để làm tốt công tác thi hành án, từ

trang http://thanglong.chinhphu.vn/khac-phuc-nhung-han-che-de-lam-tot-

cong-tac-thi-hanh-an, [truy cập ngày 25/6/2020]

5. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Cần hoàn thiện chính sách, pháp luật

về phòng, chống mại dâm, từ trang http://www.dangcongsan.vn/day-manh-

cai-cach-tu-phap-va-hoat-dong-tu-phap/duong-loi-chinh-sach/can-hoan-

thien-chinh-sach-phap-luat-ve-phong-chong-mai-dam-348815.html,

[truy cập ngày 22/3/2021]

6. Bảo đảm trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường cho sự phát triển ổn định,

bền vững, truy cập từ trang http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Quan-

triet-thuc-hien-nghi-quyet-dai-hoi-dang-XII/2017/45621/Bao-dam-trat-tu-an-

toan-xa-hoi-tao-moi-truong-cho.aspx, [truy cập ngày 5/12/2020]

7. Bảo vệ pháp luật, Tội phạm có xu hướng ngày càng trẻ hóa, số vụ thanh,

thiếu niên phạm tội tăng, tại trang https://baovephapluat.vn/kiem-sat-

24h/van-de-su-kien/toi-pham-co-xu-huong-ngay-cang-tre-hoa-so-vu-thanh-

thieu-nien-pham-toi-tang-58911.html, [truy cập ngày 3/5/2019]

158

8. Better work Vietnam, (2016), Báo cáo tổng hợp về tuân thủ trong ngành

may mặc.

9. Lê Thị Thúy Bình, (2016), Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất

ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

10. Bộ Công an (2000), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân.

11. Bộ Công an - Thành ủy - UBND TP HCM (2015), Vai trò của lực lượng

Công an nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng

và bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hồ

Chí Minh (1945-2015), NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

12. Bộ Công an đánh giá công tác bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an

toàn xã hội tháng 5, triển khai nhiệm vụ trọng tâm tháng 6/2018, tại trang

http://bocongan.gov.vn/botruong/tin-

tuc/Pages/default.aspx?CateID=4&ItemID=1376, [truy cập ngày 3/4/2019]

13. Bộ Giao thông Vận tải, Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm trật tự ATGT đáp

ứng yêu cầu của tình hình mới, từ trang http://mt.gov.vn/vn/tin-

tuc/48297/hoan-thien-phap-luat-ve-bao-dam-trat-tu-atgt-dap-ung-yeu-cau-

cua-tinh-hinh-moi.aspx, [truy cập ngày 26/3/2021]

14. Bộ Nội vụ, Báo cáo chỉ số cải cách hành chính Par Index 2012, 2013, 2014,

2015, 2016, 2017, 2018, 2019, tr.135-140, 150-154, 161-164, 182-185, 185-

247, 168-230, 160-222, 154-216.

15. Bộ Nội vụ, Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ

quan hành chính nhà nước (SIPAS) năm 2017, 2018, 2019,

16. Các địa phương thực hiện biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, tại trang

https://nhandan.com.vn/tin-tuc-y-te/cac-dia-phuong-thuc-hien-bien-phap-

phong-chong-dich-covid-19-627063/, [truy cập ngày 21/01/2021]

17. CECODES, UNDP và VFF-CRT, Chỉ số hiệu quả Quản trị và Hành chính

công cấp tỉnh tại Việt Nam, tại trang https://papi.org.vn/du-lieu-papi/, [truy

cập ngày 28/3/2021]

159

18. Chỉnh phủ, Nghị định số 97/2016/NĐ-CP quy định nội dung chỉ tiêu thống

kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia, tại trang

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/Nghi-dinh-97-2016-

ND-CP-noi-dung-chi-tieu-thong-ke-thuoc-he-thong-chi-tieu-thong-ke-quoc-

gia-319022.aspx, [truy cập ngày 17/3/2020]

19. Nguyễn Văn Chuyên (2014) “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác

phòng ngừa tội phạm trong tình hình mới”, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 2,

tháng 4/2014.

20. Codbra N.I và tập thể tác giả (1986), Những vấn đề cơ bản về nhà nước và

pháp luật xã hội chủ nghĩa, (sách dịch của Liên Xô), NXB Sự Thật.

21. Bun Phêng Khiếm Ma Na (2001), Sử dụng biện pháp phát động quần chúng

tham gia hoạt động điều tra vụ án hình sự của lực lượng Cảnh sát điều tra

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Luận văn Thạc sỹ luật học.

22. Chính sách pháp luật về phòng chống mại dâm còn nhiều bất cập, tại trang

http://www.qdnd.vn/xa-hoi/y-te/chinh-sach-phap-luat-ve-phong-chong-mai-

dam-con-nhieu-bat-cap-535221, [truy cập ngày 24/3/20201]

23. Cục thống kê Hải Phòng, tại trang https://thongkehaiphong.gov.vn/nien-

giam-thong-ke/, [truy cập 12/3/2021]

24. Cục Thống kê Hải Phòng, Kinh tế - xã hội Hải Phòng sau 8 năm thực hiện

Cương lĩnh 2011, từ trang https://thongkehaiphong.gov.vn/thong-tin-kinh-te-

xa-hoi/kinh-te-xa-hoi-hai-phong-sau-8-nam-thuc-hien-cuong-linh-2011-

142.html, truy cập ngày 11/12/2020]

25. Cục thống kê tỉnh Khánh Hoà, tại trang http://khso.gov.vn/tin_tuc.aspx?

chuyenmuc=SP&demuc=SPPH, [truy cập ngày 12/3/2021]

26. Lê Văn Cương (2006), Những giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo an

ninh, trật tự ở các thành phố lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế

mở, Viện nghiên cứu chiến lược và khoa học Công an, Bộ Công an.

27. Dasetakob (2006), Tội phạm học, NXB Trung tâm pháp lý.

160

28. Lê Thị Thu Dung, Nghiên cứu nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa

bàn thành phố Hải Phòng, tại trang http://vienkiemsathaiphong.gov.vn/

vks/132/3105/4273/15208/Nghien-cuu-phap-luat/Nghien-cuu-nhan-than-

nguoi-pham-toi-ve-ma-tuy-tren-dia-ban-thanh-pho-Hai-Phong.aspx,

[truy cập ngày 21/2/2021]

29. Ngô Quang Dũng, Triệt phá đường dây ma túy lớn ở Hải Phòng, tại trang

https://nhandan.vn/thoi-su-phap-luat/triet-pha-duong-day-ma-tuy-lon-o-hai-

phong-474786/, [truy cập ngày 23/5/2021]

30. Đại biểu nhân dân, Báo cáo đánh giá tác động môi trường đã chuẩn chưa?,

từ trang http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=222797,

[truy cập ngày 10/11/2020]

31. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lí luận nhà nước và pháp luật,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

32. Linh Đan, Chi phí tuân thủ pháp luật làm gia tăng áp lực lên doanh nghiệp,

tại trang http://vneconomy.vn/chi-phi-tuan-thu-phap-luat-lam-gia-tang-ap-

luc-len-doanh-nghiep-20190426101039456.htm, [truy cập ngày 25/2/2021]

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 2.

37. Đặng Viết Đạt (2021), Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền tiếp cận công lý của

nạn nhân nữ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

38. Nguyễn Minh Đoan, (2009), Chất lượng của hệ thống pháp luật thực định

đảm bảo quan trọng của thực hiện pháp luật, Tạp chí Luật học số 3/2009.

161

39. Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Minh Đức (2019), Thực hiện, áp dụng và giải

thích pháp luật ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

40. Nguyễn Thanh Hải, (2010), Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự

việt nam, luận văn thạc sỹ khoa luật, đại học quốc gia Hà Nội.

41. Trương Hồ Hải (2020), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học

“Nghiên cứu tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề nhà nước

và đề xuất bổ sung, phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới”,

Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020,

KX.02.11/16-20.

42. Nguyễn Hằng, Thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi

hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự, từ trang

http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/tuthuctien/view_detail.aspx?item

id=554, [truy cập ngày 13/2/2021]

43. Nguyễn Huy Hoàng, Nhận diện một số thủ đoạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản

qua mạng xã hội và giải pháp nâng cao chất lượng công tác đấu tranh đối

với loại tội phạm này, tại trang https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-

sat/nhan-dien-mot-so-thu-doan-lua-dao-chiem-doat-tai-s-d10-t9002.html,

[truy cập ngày 20/3/2021]

44. Hoạt động áp dụng pháp luật nội dung trong giải quyết các khiếu kiện hành

chính ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, truy cập từ trang

http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/120/354

45. Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Hội thảo khoa học về “Bảo đảm trật tự,

an toàn xã hội trong chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới” (2013).

46. Học viện Cảnh sát nhân dân, Khoa học Công an Việt Nam, NXB Công an

nhân dân.

47. Học viện Cảnh sát nhân dân, Tổng Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm - Bộ

Công an, Viện Kinh tế Việt Nam - thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt

Nam tổ chức Hội thảo Khoa học “Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với

phòng, chống tội phạm góp phần đảm bảo an ninh, trật tự” (2014).

162

48. Học viện Cảnh sát nhân dân phối hợp với Công an thành phố Hải Phòng tổ

chức Hội thảo “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý cư trú và dữ liệu quốc

gia về dân cư đáp ứng yêu cầu củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự

an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hải Phòng” (2015).

49. Hội luật gia Việt Nam, Cử tri cả nước đi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV

và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021, tại trang

http://hoiluatgiavn.org.vn:8080/cu-tri-ca-nuoc-di-bau-cu-dai-bieu-quoc-hoi-

khoa-xiv-va-dai-bieu-hdnd-cac-cap-nhiem-ky-2016---2021-d1027.html,

[truy cập ngày 14/2/2021]

50. Xuân Hùng, Vụ 4 người cùng một nhà chết ở Thanh Hóa: “Sao lại bắt bạn

con đi như thế?“, tại trang https://laodong.vn/phong-su/vu-4-nguoi-cung-

mot-nha-chet-o-thanh-hoa-sao-lai-bat-ban-con-di-nhu-the-526087.ldo, [truy

cập ngày 12/4/2020]

51. Nguyễn Thị Hồng Huệ, (2014), Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện

pháp luật, luận văn thạc sỹ luật học - khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.

52. Cao Quang Hưng, Hoạt động của lực lượng cảnh sát khu vực trong phòng

ngừa tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận án Tiến sỹ, Học viện

Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an.

53. Đặng Hương, Hải Phòng tăng tốc thu hút đầu tư FDI, tại trang

https://vneconomy.vn/hai-phong-tang-toc-thu-hut-dau-tu-fdi-646321.htm,

[truy cập ngày 12/3/2021]

54. Đỗ Thị Hường (2020), Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường nước ở

Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh.

55. Irène Salenson,(2014), Thách thức đô thị tương lai và quy hoạch lãnh thổ,

trong phát triển đô thị bền vững, NXB Tri thức.

56. La Quốc Khánh, Đường dây mối giới mại dâm qua mạng, tại trang

http://vkscantho.vn/vkscantho/index.php/news/VKSND-TP-Can-Tho/

Duong-day-moi-gioi-mai-dam-qua-mang-2887/, [truy cập ngày 17/12/2020]

163

57. Nguyễn Đức Khiêm, Tổ chức điều khiển giao thông đô thị của lực lượng

Cảnh sát giao thông Công an thành phố Hà Nội, Luận án Tiến sỹ, Học viện

Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an.

58. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận chung về

nhà nước và pháp luật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

59. Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Tuyển tập Hiến pháp của một số

quốc gia, NXB Hồng Đức.

60. Mai Phương Lan, (2013) Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực phòng cháy

chữa cháy trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ luật học khoa

luật đại học quốc gia Hà Nội\

61. Tô Lâm, “Lực lượng Công an nhân dân với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong

tình hình hiện nay”, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 2, tháng 6/2014.

62. Đàm Cảnh Long, (2012), Áp dụng pháp luật hình sự của tòa án nhân dân

qua thực tiến tỉnh Thanh Hóa, tại trang http://repository.vnu.edu.vn/

bitstream/VNU_123/6125/1/00050001286.pdf, [truy cập 4/7/2020]

63. Đồng Đại Lộc (2015), “Nâng cao hiệu quả công tác đảm bảo trật tự, an toàn

xã hội trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc”, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 2,

tháng 4/2015.

64. Minkovskij G.M; Moskva, jurid. Literature (1987), Cơ sở lý luận của việc

phòng ngừa tội phạm.

65. Dương Tuyết Miên và các cộng sự, (2010), Giáo trình tội phạm học, NXB

Giáo dục Việt Nam.

66. Một số bất cập chính khi thực hiện luật phòng chống tham nhũng, taiij trang

http://mt.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/1108/41849/mot-so-bat-cap-chinh-khi-thuc-

thi-luat-pctn-trong-10-nam-qua.aspx, [truy cập ngày 20/3/2020]

67. Một số khó khăn, vướng mắc và kinh nghiệm, giải pháp trong thực hiện công

tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Công an Hà Tĩnh,

truy cập từ trang tại trang http://conganhatinh.gov.vn/tin-chi-tiet/-/chi-

tiet/mot-so-kho-khan-vuong-mac-va-kinh-nghiem-giai-phap-trong-thuc-

hien-cong-tac-thi-hanh-phap-luat-ve-xu-ly-vi-pham-hanh-chinh-cua-cong-

an-ha-tinh-15528-1811.html, [truy cập ngày 20/5/2020]

164

68. Dương Thị Phương Nam,(2014), Hoạt động điều tra về trật tự xã hội của cơ

quan điều tra trong công an nhân dân (trên cơ sở nghiên cứu ở Hà Tĩnh),

Luận văn thạc sỹ chuyên ngành luật, khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội.

69. Bùi Thiện Ngộ (1993), “Làm tốt công tác giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong

tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản, số 10.

70. Hồ Trọng Ngũ (1996), “Về khái niệm trật tự, an toàn xã hội”, Tạp chí Trật tự

an toàn xã hội, số 1.

71. Hạnh Nguyên, Các giải pháp cơ bản cần áp dụng ngay để giảm án tồn đọng

hiệu quả trong thời gian tới, tại trang http://thads.moj.gov.vn/danang/

noidung/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi/View_Detail.aspx?ItemID=8, [truy

cập tại trang 23/5/2020]

72. Quý Nguyễn, Thực trạng phí 'bôi trơn' tại Việt Nam, tại trang

https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/xoa-bo-phi-boi-tron/34980/thuc-trang-

phi-boi-tron-tai-viet-nam, [truy cập ngày 24/3/2021]

73. Trần Long Nhi, (2015), Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự

công cộng và thực tiễn xét xử trên đại bàn tỉnh Đồng Tháp, Luận văn thạc sỹ

luật học, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội.

74. Phạm Thị Yến Nhi (2011), Tình hình tội phạm trật tự xã hội ở đô thị Việt

Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn tốt nghiệp khoa luật Đại học

Cần Thơ.

75. Đỗ Thị Oanh, (2014), Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam

hiện nay, luận văn thạc sỹ khoa luật đại học quốc gia Hà Nội.

76. Pháp luật về bảo vệ môi trường ở Singapore, tại trang https://tks.edu.vn/

thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/120/331, [truy cập ngày 14/3/2021]

77. T.Phong, Mại dâm tại Cần Thơ đang có xu hướng trẻ hóa, tại trang

https://www.tinmoi.vn/mai-dam-tai-can-tho-dang-co-xu-huong-tre-hoa-

011385570.html, [truy cập ngày 24/3/2021]

78. Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, (2017), Báo cáo về mức độ

tuân thủ các quy định pháp luật về minh bạch trong lĩnh vực khoáng sản.

165

79. Phòng, chống tội phạm: Sửa luật để tăng hiệu quả, tại trang

http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/80/14, [truy cập ngày 20/4/2020]

80. Nguyễn Thị Hoài Phương, (2009), Thực hiện pháp luật môi trường ở Việt

Nam giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sỹ chuyên ngành luật, khoa luật Đại

học quốc gia Hà Nội.

81. Prokopenko Vladimia Nikolaievich (2002), Các cơ sở về pháp luật và tổ

chức cho hoạt động phòng ngừa của Cảnh sát khu vực.

82. Trần Đại Quang và các cộng sự, (2015), Khoa học công an Việt Nam, tập 2

Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, NXB Công an

nhân dân.

83. Trần Đại Quang và các cộng sự (2015), Khoa học Công an Việt Nam, Tập 5-

Lý luận về đảm bảo trật tự an toàn xã hội, NXB Công an nhân dân.

84. Trần Đại Quang, Tăng cường công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật

tự an toàn xã hội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

85. Hoàng Thị Kim Quế, (2015), “Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật

của công dân ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học,

Tập 31, Số 3 (2015)

86. Ricky Storm Braskov (2010), Phương pháp phòng, chống tội phạm dựa vào

cộng đồng, Trung tâm Nghiên cứu phát triển quốc tế và truyền thông Đại học

Roskilde, Đan Mạch.

87. Số liệu báo động về chi phí “ngầm” trong hoạt động doanh nghiệp, tại trang

http://baophapluat.vn/kinh-te/so-lieu-bao-dong-ve-chi-phi-ngam-trong-hoat-

dong-doanh-nghiep-441795.html, [truy cập ngày 3/4/2020]

88. Lê Văn Sua (2019), Một vài bất cập từ thực tiễn áp dụng Điều 260 và khoản

3 Điều 29 BLHS năm 2015, từ trang https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/

nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2444, [truy cập ngày 26/12/2019]

89. Sửa đổi Luật phòng chống tham nhũng: Phải giải trình nguồn gốc tài sản

tăng thêm, từ trang http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_

TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?ItemID=611, [truy cập ngày 23/1/2021]

166

90. Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu (2009), Lý luận nhà nước và pháp luật,

NXB Giao thông vận tải, Hà Nội

91. Thanh tra Việt Nam, Một số bất cập chính khi thực hiện luật phòng chống

tham nhũng, tại trang http://mt.gov.vn/thanhtra/tin-tuc/1108/41849/mot-so-

bat-cap-chinh-khi-thuc-thi-luat-pctn-trong-10-nam-qua.aspx, [truy cập ngày

25/8/2019]

92. Nguyễn Trung Thành (2008), Các biện pháp công tác Công an những vấn đề

lý luận và thực tiễn, Viện chiến lược và khoa học Công an, Bộ Công an.

93. Đoàn Thảo, Ma túy và tệ nạn xã hội ngày càng phức tạp, tại trang

http://www.vnpost.vn/vi-vn/bai-viet/chi-tiet/id/83318/key/ma-tuy-va-te-nan-

xa-hoi-ngay-cang-phuc-tap, [truy cập ngày 30/4/2021]

94. Trần Quyết Thắng (2013), Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công

tác tiếp nhận và xử lý tin báo tố giác tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn

quận Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội, Đề tài khoa học

95. Đỗ Cảnh Thìn, Nền tảng pháp lý quan trọng đảm bảo an ninh, trật tự của

đất nước trong tình hình mới, từ trang http://hvcsnd.edu.vn/tin-tuc-su-

kien/tieu-diem/nen-tang-phap-ly-quan-trong-dam-bao-an-ninh-trat-tu-cua-

dat-nuoc-trong-tinh-hinh-moi-4515, [truy cập ngày 25/2/2021]

96. Phạm Thị Thoa, Điều tra tra tội phạm cướp giật tài sản theo chức năng của

lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Luận án Tiến sỹ, Học

viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an.

97. Nguyễn Văn Thương (2014), “Bảo đảm an ninh, trật tự tại các công trình

kinh tế trọng điểm ở thành phố Cần Thơ”, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 2,

tháng 4/2014.

98. Nhật Thy, Những tồn tại, hạn chế trong phòng, chống mại dâm, cai nghiện

ma túy, tại trang http://tiengchuong.vn/Nghien-cuu-Chuyen-de/Nhung-ton-

tai-han-che-trong-phong-chong-mai-dam-cai-nghien-ma-tuy/25733.vgp,

[truy cập ngày 20/4/2019]

167

99. Lê Thế Tiệm và tập thể tác giả (1995), Luận cứ khoa học đổi mới chính sách

xã hội nhằm đảm bảo ANXH và khắc phục tệ nạn xã hội, Đề tài nghiên cứu

khoa học cấp Nhà nước KX. 04.14.

100. Toà án nhân dân tỉnh Đaklak, Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật

hình sự về những hành vi phạm tội liên quan đến tội hành nghề mê tín, dị

đoan và các tội phạm khác có liên quan đến mê tín, dị đoan, từ trang

http://toaandaklak.gov.vn/trao-doi-nghiep-vu/e-xuat-kien-nghi-hoan-thien-

phap-luat-hinh-su-ve-nhung-hanh-vi-pham-toi-lien-quan-en-toi-hanh-nghe-

me-tin-di-oan-va-cac-toi-pham-khac-co-lien-quan-en-me-tin-di-oan-

377.html l, [truy cập ngày 23/8/2020]

101. Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng triển khai công tác năm 2019, tại

trang https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tatc/chi-tiet-tin?dDocName=

TAND059548, [truy cập ngày 14/2/2020]

102. Trần Quốc Toàn, (2015), Hoàn thiện pháp luật về trật tự, an toàn xã hội ở

nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

103. Tổng cục thống kê (2017), Kết quả chủ yếu điều tra dân số và kế hoạch hoá

gia đình thời điểm 1/4/2016, NXB Thống kê, Hà Nội.

104. Tổng Cục thống kê (2018), Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và

thuỷ sản năm 2016, NXB Thống kê, Hà Nội.

105. Tổng cục thống kê (2020), Kết quả toàn bộ tổng điều tra dân số và nhà ở

năm 2019, NXB Thống kê, Hà Nội.

106. Tổng quan về mức độ của tình hình tội phạm ở Việt Nam qua số liệu thống

kê từ năm 1986 - 2008, truy cập từ http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-

tiet/80/5, [truy cập ngày 12/3/2020]

107. Trần Minh Tơn, Quan điểm và giải pháp chiến lược phòng, chống tội phạm

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từ trang

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2014/29352/

Quan-diem-va-giai-phap-chien-luoc-phong-chong-toi-pham-thoi.aspx.,

[truy cập ngày 20/3/2021]

168

108. Cù Ngọc Trang, Trao đổi về một số vướng mắc, bất cập trong các quy định

về xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực an ninh, trật tự an toàn xã hội,

tại trang http://csnd.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/260/Trao-doi-ve-mot-

so-vuong-mac-bat-cap-trong-cac-quy-dinh-ve-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-

tren-linh-vuc-an-ninh-trat-tu-an-toan-xa-hoi, [truy cập ngày 23/3/2019]

109. Bảo Trân, Việt Nam có 15.000 hay 300.000 người bán dâm?, tại trang

https://nld.com.vn/thoi-su/viet-nam-co-15000-hay-300000-nguoi-ban-dam-

20171102065231077.htm, [truy cập ngày 11/2/2021]

110. Bùi Quang Trung, (2011), Các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông

đường bộ theo luật hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật-

Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội

111. Mai Thế Trung, “Tăng cường lãnh đạo công tác bảo đảm ANTT, phòng,

chống tội phạm, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở Bình

Dương”, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 1, tháng 7 năm 2013.

112. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Hoạt động áp dụng pháp luật nội dung

trong giải quyết các khiếu kiện hành chính ở Việt Nam. Thực trạng và giải

pháp, tại trang http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/120/354, [truy

cập 04/9/2019]

113. Tổng Cục thống kê (2018), Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp

và thuỷ sản năm 2016, NXB Thống kê, Hà Nội.

114. TTX, Toàn quốc xảy ra hơn 25.800 vụ phạm pháp hình sự trong 6 tháng,

tại trang http://tuyengiao.vn/thoi-su/toan-quoc-xay-ra-hon-25-800-vu-

pham-phap-hinh-su-trong-6-thang-113731, [truy cập ngày 20/12/2019]

115. Nguyễn Xuân Tùng, Độc lập tư pháp là điều kiện tiên quyết để bảo vệ công

lý, tại trang http://ttpc.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=c1b0aa3a-38a2-4856-

82fd-5fd554f8c7c6, [truy cập ngày 20/3/2019]

116. Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giải quyết tin báo, tố giác tội

phạm thực trạng và một số giải pháp, từ trang https://vksbinhphuoc.gov.vn/

news/KIEM-SAT-VIEN-CAN-BIET/Vai-tro-trach-nhiem-cua-Vien-kiem-

sat-trong-giai-quyet-tin-bao-to-giac-toi-pham-thuc-trang-va-mot-so-giai-

phap-365/, [truy cập ngày 11/3/2020]

169

117. VCCI, Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, tại trang https://pcivietnam.vn/

du-lieu-pci, [truy cập ngày 12/3/2021]

118. VCCI (2017), Chỉ số năng lực canh tranh cấp tỉnh năm 2017, NB.

119. VCCI (2017), Báo cáo về mức độ tuân thủ các quy định pháp luật về minh

bạch trong lĩnh vực khoáng sản.

120. VCCI (2018), Chỉ số năng lực canh tranh cấp tỉnh năm 2018, NB.

121. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thông báo số 50/TB-VKSTC ngày 29 tháng

01 năm 2019 về Kinh nghiệm và rút kinh nghiệm 06 tháng cuối năm về công

tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định

giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh

thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, tại

trang http://www.vksndtc.gov.vn/khac-1022, [truy cập ngày 23/9/2020]

122. Vũ Đức Vinh, Pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh tại Singapore, tại

trang https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/tin-tuc/600/4871/phap-luat-ve-

dieu-kien-dau-tu-kinh-doanh-tai-singapore.aspx, [truy cập ngày 24/5/2021]

123. VTCNews, Một người đi bỏ phiếu thay cả nhà: Vô trách nhiệm với bản

thân, đất nước, tại trang https://vtc.vn/mot-nguoi-di-bo-phieu-thay-ca-nha-

vo-trach-nhiem-voi-ban-than-dat-nuoc-ar613233.html, [truy cập ngày

24/5/2021]

124. Nguyễn Xuân Yêm, Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới,

Đề tài cấp quốc gia.

125. Nguyễn Xuân Yêm (2011), Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội

trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, NXB Thông tin và truyền

thông, Hà Nội.

126. Nguyễn Xuân Yêm (1999), Một số vấn đề quản lý nhà nước về an ninh

quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, NXB Công an nhân dân.

127. WB (2011), Đánh giá đô thị hóa ở Việt Nam: Báo cáo hỗ trợ kỹ thuật,

Hà Nội

170

II. Tài liệu Tiếng Anh

128. Crime Index for Country 2019, tại trang https://www.numbeo.com/crime/

rankings_by_country.jsp [truy cập ngày 25/12/2019]

129. Crime Index for Country 2021, tại trang https://www.numbeo.com/crime/

rankings_by_country.jsp [truy cập ngày 25/4/2021]

130. Cambridge English Dictionary, tại trang https://dictionary.cambridge.org/

vi/dictionary/english/compliance, [truy cập ngày 12/3/2019]

131. Tan Tam Mei, Singapore tops global ranking for order and security, tại

trang https://www.straitstimes.com/singapore/spore-tops-global-ranking-

for-order-and-security,[truy cập ngày 21/5/2021]

132. “My Life is Not Your Porn”: Digital Sex Crimes in South Korea, tại trang

https://www.hrw.org/report/2021/06/16/my-life-not-your-porn/digital-sex-

crimes-south-korea, [truy cập ngày 20/6/2021]

133. Singapore's crime rate up in 2020 amid rise in scam cases, tại trang

https://www.channelnewsasia.com/news/singapore/mha-scam-cases-

increase-2020-physical-crime-decrease-accidents-14096118, [truy cập ngày

17/5/2021]

134. Singapore's Constitution of 1963 with Amendments through 2016, tại trang

https://constituteproject.org/constitution/Singapore_2016.pdf?lang=en,

tr.16-20, [truy cập ngày 25/5/2021]

135. South Korea Crime Rate & Statistics 1990-2021, https://www.

macrotrends.net/ countries/KOR/south-korea/crime-rate-statistics, [truy cập

ngày 20/6/2021]

136. Overall crime rate in Singapore from 2011 to 2020, https://www.

statista.com/statistics/628339/crime-rates-in-singapore/, [truy cập ngày

20/6/2021]

171

137. WJP (2011), Rule of Law Index 2011, p 105; WJP (2013), Rule of Law Index

2012-2013, p 154; WJP (2014), Rule of Law Index 2014, p 158; WJP (2015),

Rule of Law Index 2015, p.156; WJP (2016), Rule of Law Index 2016, p 157;

WJP (2018), Rule of Law Index 2017-2018, p 157; WJP (2019), Rule of Law

Index 2019, p 156, tại trang https://worldjusticeproject.org/, [truy cập ngày

25/9/2020]

138. World Wide Governance Indicators, tại trang https://info.worldbank.org/

governance/wgi/, [truy cập ngày 25/9/2020]

139. World Wide Governance Indicators tại trang https://info.worldbank.org/

governance/wgi/ [truy cập ngày 25/5/2021

172

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

TIÊU CHUẨN CỦA CÁC TIÊU CHÍ PHÂN LOẠI ĐÔ THỊ VÀ

PHƯƠNG PHÁP TÍNH ĐIỂM; CÁC TIÊU CHUẨN VỀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG ÁP DỤNG ĐỐI VỚI KHU VỰC DỰ KIẾN THÀNH LẬP PHƯỜNG, QUẬN (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 ngày 25 tháng 5 năm 2016)

1. Tiêu chí 1: Vị trí, chức năng, vai trò, cơ cấu và trình độ phát triển kinh

tế - xã hội (tối thiểu đạt 15 điểm, tối đa đạt 20 điểm)

Bảng 1.1: Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò đô thị loại I

(tối thiểu đạt 3,75 điểm, tối đa đạt 5,0 điểm)

TT

Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò

Điểm

1

5,0

Là trung tâm tổng hợp cấp quốc gia về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng liên tỉnh hoặc cả nước.

2

3,75

Là trung tâm tổng hợp cấp vùng hoặc cấp tỉnh về kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch, khoa học và công nghệ, đầu mối giao thông, giao lưu trong nước và quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của một vùng liên tỉnh.

Bảng 1.2: Nhóm tiêu chuẩn cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội

(tối thiểu đạt 11,25 điểm, tối đa đạt 15 điểm)

TT

Tiêu chuẩn

Đô thị loại I

Điểm

Đơn vị tính

1 Cân đối thu chi ngân

2,0

sách

Đủ

1,5

2 Thu nhập bình quân

≥ 2,1

3,0

lần

1,75

2,25

đầu người năm so với cả nước

173

3

3,0

Tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông lâm thủy sản theo mục tiêu đề ra

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế(1)

2,25

Tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng hoặc tăng tỷ trọng dịch vụ, giảm tỷ trọng nông lâm thủy sản theo mục tiêu đề ra

≥ 9

2,0

%

7

1,5

4 Mức tăng trưởng kinh tế trung bình 3 năm gần nhất

5 Tỷ lệ hộ nghèo

≤ 5,5

2,0

%

6,0

1,5

6 Tỷ lệ tăng dân số

≥ 2,0

3,0

1,6

2,25

%

hàng năm (bao gồm tăng tự nhiên và tăng cơ học)

(1) Mục tiêu phát triển kinh tế của đô thị được xác định trong Nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội.

2. Tiêu chí 2: Quy mô dân số (tối thiểu đạt 6,0 điểm, tối đa đạt 8,0 điểm)

Bảng 2: Quy mô dân số (tối thiểu đạt 6,0 điểm, tối đa đạt 8,0 điểm)

Loại đô thị

TT

Tiêu chuẩn

Điểm

I

Đơn vị tính

TW

Tỉnh

≥ 5.000

≥ 1.000

2,0

1 Dân số toàn đô thị

1.000 người

1.000

500

1,5

≥ 3.000

≥ 500

6,0

2

Dân số khu vực nội thành, nội thị

1.000 người

500

200

4,5

174

3. Tiêu chí 3: Mật độ dân số (tối thiểu đạt 4,5 điểm, tối đa đạt 6,0 điểm)

Bảng 3: Mật độ dân số (tối thiểu đạt 4,5 điểm, tối đa đạt 6,0 điểm)

Tiêu chuẩn

Đơn vị tính

Đô thị loại I Điểm

TT

Mật độ dân số toàn đô thị

≥ 3.000

1,5

người/km2

1

2.000

1,0

≥ 12.000

4,5

2

người/km2

10.000

3,5

Mật độ dân số khu vực nội thành, nội thị tính trên diện tích đất xây dựng đô thị (đối với thành phố loại đặc biệt, I, II, III; thị xã loại III, IV); mật độ dân số trên diện tích đất xây dựng (đối với thị trấn loại IV hoặc loại V) (2)

(2) Nếu mật độ dân số vượt quá 20.000 người/km2 thì đánh giá đạt 3,0 điểm.

4. Tiêu chí 4: Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp (tối thiểu đạt 4,5 điểm, tối đa

đạt 6,0 điểm)

Bảng 4: Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp (tối thiểu đạt 4,5 điểm, tối đa

đạt 6,0 điểm)

TT

Tiêu chuẩn

Điểm

Đơn vị tính

Đô thị loại I

≥ 75

1,5

1

%

Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp toàn đô thị

65

1,0

≥ 90

4,5

2

%

Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thành, nội thị

85

3,5

175

5. Tiêu chí 5: Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan

đô thị (tối thiểu đạt 45 điểm, tối đa đạt 60 điểm)

Bảng 5. A: Nhóm các tiêu chuẩn về trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan khu vực nội thành, nội thị(3) (tối thiểu đạt 36 điểm, tối đa đạt 48,0 điểm)

Loại đô thị

TT

Đơn vị tính

Điểm

Tiêu chuẩn

I

I Nhóm các tiêu chuẩn về hạ tầng xã hội

7,5 - 10,0

I.1 Các tiêu chuẩn về nhà ở

1,5 -2,0

1,0

≥ 29

m2 sàn/người

1

Diện tích sàn nhà ở bình quân

0,75

26,5

1,0

≥ 95

%

2

Tỷ lệ nhà ở kiên cố, bán kiên cố

0,75

90

I.2 Các tiêu chuẩn về công trình công cộng

6,0 - 8,0

1,0

61

1 Đất dân dụng(4)

m2 /người

0,75

54

1,0

≥ 5

m2 /người

2

Đất xây dựng các công trình dịch vụ công cộng đô thị

0,75

4

1,0

≥ 2,0

m2 /người

3

Đất xây dựng công trình công cộng cấp đơn vị ở

0,75

1,5

1,0

≥ 2,8

4 Cơ sở y tế cấp đô thị

giường/1.000 dân

0,75

2,4

1,0

≥ 30

5

cơ sở

Cơ sở giáo dục, đào tạo cấp đô thị

0,75

20

1,0

≥ 14

6 Công trình văn hóa cấp đô thị

công trình

0,75

10

1,0

≥ 10

công trình

7

Công trình thể dục, thể thao cấp đô thị

0,75

7

1,0

≥ 14

công trình

8

Công trình thương mại, dịch vụ cấp đô thị

0,75

10

176

II Nhóm các tiêu chuẩn về hạ tầng kỹ thuật

10,5-14,0

II.1 Các tiêu chuẩn về giao thông

4,5 - 6,0

Quốc tế

2,0

cấp

1

Quốc gia

1,5

Đầu mối giao thông (cảng biển, cảng hàng không, cảng đường thủy nội địa, ga đường sắt, bến xe ô tô)

≥ 24

1,0

%

2

Tỷ lệ đất giao thông so với đất xây dựng

16

0,75

≥ 13

1,0

km/km2

3

10

0,75

Mật độ đường giao thông (tính đến đường có chiều rộng phần xe chạy ≥ 7,5m)

≥ 15

1,0

m2/người

4

Diện tích đất giao thông tính trên dân số

13

0,75

≥ 20

1,0

%

5

Tỷ lệ vận tải hành khách công cộng

15

0,75

II.2 Các tiêu chuẩn về cấp điện và chiếu sáng công cộng

2,25 - 3,0

1,0

≥ 1.000

1 Cấp điện sinh hoạt

kwh/người/năm

850

0,75

100

1,0

%

2

Tỷ lệ đường phố chính được chiếu sáng

95

0,75

≥ 85

1,0

%

3

Tỷ lệ đường khu nhà ở, ngõ xóm được chiếu sáng

60

0,75

II.3 Các tiêu chuẩn về cấp nước

2,25 - 3

≥ 130

1,0

1 Cấp nước sinh hoạt

lít/người/ngày đêm

120

0,75

100

2,0

%

2

Tỷ lệ hộ dân được cấp nước sạch, hợp vệ sinh

95

1,5

II.4 Các tiêu chuẩn về hệ thống viễn thông

1,5 - 2,0

≥ 30

1,0

1

25

0,75

Số thuê bao internet (băng rộng cố định và băng rộng di động)

Số thuê bao internet/100 dân

100

1,0

%

2

Tỷ lệ phủ sóng thông tin di động trên dân số

95

0,75

177

III Nhóm các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường

10,5 - 14

III.1 Các tiêu chuẩn về hệ thống thoát nước mưa và chống ngập úng

2,25 - 3,0

≥ 4,5

2,0

1

km/km

Mật độ đường cống thoát nước chính

4

1,5

≥ 50

1,0

2

%

pháp

20

0,75

Tỷ lệ các khu vực ngập úng có giải phòng chống, giảm ngập úng

III.2 Các tiêu chuẩn về thu gom, xử lý nước thải, chất thải

3,75 - 5,0

≥ 85

1,0

1

%

70

0,75

Tỷ lệ chất thải nguy hại được xử lý, tiêu hủy, chôn lấp an toàn sau xử lý, tiêu hủy

≥ 50

1,0

2

%

Tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật

40

0,75

100

1,0

3

%

Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom

90

0,75

≥ 90

1,0

4

%

80

0,75

Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lý tại khu chôn lấp hợp vệ sinh hoặc tại các nhà máy đốt, nhà máy chế biến rác thải

100

1,0

5

%

90

0,75

Tỷ lệ chất thải y tế được xử lý, tiêu hủy, chôn lấp an toàn sau xử lý, tiêu hủy

III.3 Các tiêu chuẩn về nhà tang lễ

1,5 -2,0

≥ 4

1,0

1 Nhà tang lễ

cơ sở

2

0,75

≥ 25

1,0

2

%

Tỷ lệ sử dụng hình thức hỏa táng

20

0,75

III.4 Các tiêu chuẩn về cây xanh đô thị

3,0 - 4,0

≥ 15

2,0

1 Đất cây xanh toàn đô thị

m2/người

10

1,5

≥ 6

2,0

2

m2/người

Đất cây xanh công cộng khu vực nội thành, nội thị

5

1,5

178

IV Nhóm các tiêu chuẩn về kiến trúc, cảnh quan đô thị

7,5 - 10,0

Đã có quy chế

được ban hành

tối thiểu 2 năm,

2,0

Quy chế quản lý quy hoạch

IV.1

Quy chế

thực hiện tốt

kiến trúc đô thị

quy chế

Đã có quy chế

1,5

Tỷ lệ tuyến phố văn minh đô

≥ 60

2,0

IV.2

%

thị tính trên tổng số trục phố

50

1,5

chính

≥ 6

2,0

Số lượng dự án cải tạo,

IV.3

Dự án

chỉnh trang đô thị

4

1,5

≥ 7

2,0

Số lượng không gian công

IV.4

Khu

cộng của đô thị

5

1,5

Có công trình

2,0

cấp quốc gia

IV.5 Công trình kiến trúc tiêu biểu

Cấp

Có công trình

1,5

cấp tỉnh

(3) Đối với đô thị không có khu vực ngoại thành, ngoại thị: các tiêu chuẩn về trình

độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan đô thị được đánh giá trên toàn

đô thị. (4) Nếu tiêu chuẩn đất dân dụng vượt mức tối đa thì đánh giá đạt 0,75 điểm

179

Bảng 5.B: Nhóm các tiêu chuẩn về trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan khu vực ngoại thành, ngoại thị(5) (tối thiểu đạt 9,0 điểm, tối đa đạt 12,0 điểm)

TT

Tiêu chuẩn

Đô thị loại I

Điểm

Đơn vị tính

I Nhóm các tiêu chuẩn về hạ tầng xã hội

3,0 - 4,0

1 Trường học

%

≥ 60

1,0

50

0,75

2 Cơ sở vật chất văn hóa

%

≥ 60

1,0

45

0,75

3 Chợ nông thôn

%

≥ 80

1,0

70

0,75

4 Nhà ở dân cư

%

≥ 90

1,0

80

0,75

II Nhóm các tiêu chuẩn về hạ tầng kỹ thuật

3,0 - 4,0

1 Giao thông

%

≥ 60

3,0

50

2,25

2 Điện

%

≥ 90

1,0

85

0,75

III Nhóm các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường

1,5 - 2,0

Môi trường

%

≥ 70

2,0

65

1,5

IV Nhóm các tiêu chuẩn về kiến trúc, cảnh quan

1,5 - 2,0

≥ 90

2,0

%

80

1,5

Quỹ đất nông nghiệp, vùng cảnh quan sinh thái được phục hồi, bảo vệ

(5) Đối với đô thị không có khu vực ngoại thành, ngoại thị: nhóm tiêu chuẩn về trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan khu vực ngoại thành, ngoại thị đạt 12 điểm.

180

Phụ lục 2 CÁC TIÊU CHUẨN VỀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG ÁP DỤNG ĐỐI VỚI KHU VỰC DỰ KIẾN THÀNH LẬP PHƯỜNG, QUẬN

Bảng 2.1: Các tiêu chuẩn về trình độ phát triển cơ sở hạ tầng đô thị áp

dụng đối với khu vực dự kiến thành lập phường

TT

Tiêu chuẩn

Đơn vị tính

Đô thị loại I

1

≥ 2,7

m2/người

Đất công trình giáo dục mầm non và phổ thông cơ sở

2 Trạm y tế (≥ 500 m2/trạm)

≥ 1

trạm/5.000 người

3 Sân luyện tập (≥ 3.000 m2)

m2/người

≥ 0,5

4 Chợ hoặc siêu thị

Công trình

≥ 1

5 Đất cây xanh sử dụng công cộng

m2/người

≥ 2

6

≥ 13

km/km2

Diện tích đất giao thông tỉnh trên dân số

7 Cấp điện sinh hoạt

kwh/người/năm

≥ 850

8

%

≥ 95

Tỷ lệ đường phố chính được chiếu sáng

9

%

≥ 95

Tỷ lệ hộ dân được cấp nước sạch, hợp vệ sinh

10

≥ 4

km/km2

Mật độ đường cống thoát nước chính

11

%

≥ 40

Tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật

12

%

≥ 90

Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom

181

Bảng 2.2: Các tiêu chuẩn về trình độ phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị áp dụng đối với khu vực dự kiến thành lập quận

Tiêu chuẩn

Đơn vị tính Đô thị loại I

Nhóm các tiêu chuẩn về hệ thống công trình hạ tầng xã hội ≥ 90

%

TT I 1 Tỷ lệ nhà ở kiên cố, bán kiên cố 2 Đất xây dựng các công trình dịch vụ công

m2 /người

≥ 4

cộng

3 Đất xây dựng công trình công cộng cấp

m2 /người

≥ 1,5

đơn vị ở

4

≥ 2,4

Cơ sở y tế cấp đô thị

giường/1.000 dân cơ sở công trình công trình công trình

≥ 2 ≥ 1 ≥ 1 ≥1

km/km2 %

≥ 10 ≥ 95

5 Cơ sở giáo dục, đào tạo cấp đô thị 6 Công trình văn hóa cấp đô thị 7 Công trình thể dục, thể thao cấp đô thị 8 Công trình thương mại, dịch vụ cấp đô thị II Nhóm các tiêu chuẩn về hạ tầng kỹ thuật đô thị 1 Mật độ đường giao thông đô thị 2 Tỷ lệ đường đô thị được chiếu sáng 3 Tỷ lệ đường khu nhà ở, ngõ xóm được

%

≥ 60

chiếu sáng

4 Tỷ lệ hộ dân được cấp nước sạch, hợp vệ

%

≥ 95

sinh

III Nhóm các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường 1 Tỷ lệ các khu vực ngập úng có giải pháp

%

≥ 20

phòng chống, giảm ngập úng

2 Tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý đạt quy

%

≥ 40

chuẩn kỹ thuật

3 Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu

%

≥ 90

gom

≥ 20 ≥ 5

% 4 Tỷ lệ sử dụng hình thức hỏa táng m2/người 5 Đất cây xanh công cộng trên địa bàn quận IV Nhóm các tiêu chuẩn về kiến trúc, cảnh quan đô thị; 1 Tỷ lệ tuyến phố văn minh đô thị tính trên

%

≥ 40

tổng số trục phố chính

Dự án

≥ 2

2 Số lượng dự án cải tạo, chỉnh trang đô thị 3 Số lượng không gian công cộng của đô

Khu

≥ 1

thị

4

Công trình kiến trúc tiêu biểu

Cấp

Có công trình cấp tỉnh

182

Bảng 2.3

Vị trí

STT

Tên thành phố

Dân số (triệu người)

Mật độ dân số (nghìn người/km2)

Dân số thành thị (triệu người)

trung tâm của vùng

1

Hải Phòng

2.03

0.92

1.3

Duyên hải Bắc Bộ

trung tâm của miền

2

Đà Nẵng

1.13

0.99

0.83

Trung

3

Cần Thơ

1.24

0.86

0.89

trung tâm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long

4

Thái Nguyên

0.36

0.36

1.63

trung tâm của vùng Trung du và miền núi phía Bắc

5

Việt Trì

0.21

0.14

1.92

thành phố du lịch về với cội nguồn dân tộc Việt Nam và là trung tâm của liên tỉnh phía Bắc

thành phố

6

Bắc Ninh

0.52

0.52

6.29

công nghiệp công nghệ cao của vùng Đồng bằng sông Hồng.

thành phố

7

Hải Dương

0.51

0.51

4.55

công nghiệp sản xuất, chế tạo, lắp ráp, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng Thủ đô Hà Nội, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng.

8

Hạ Long

0.3

0.3

0.27

thành phố dịch vụ, du lịch biển quốc tế; nơi có kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long.

183

trung tâm của vùng bằng

9

Nam Định

0.24

0.24

5.09

Nam Đồng sông Hồng

10

Thanh Hoá

0.5

0.5

3.41

hai trung tâm của

vùng Bắc Trung Bộ.

11

Vinh

0.55

0.55

5.19

12

Huế

0.46

0.46

6.33

trung tâm du lịch di sản quốc gia, nơi có hai di sản văn hóa thế giới là Cố đô Huế và Nhã nhạc cung đình Huế

13

Quy Nhơn

0.48

0.48

1.68

14

Nha Trang

0.42

0.29

1.68

hai trung tâm công nghiệp, dịch vụ, du lịch của vùng Nam Trung Bộ

15

Pleiku

0.5

0.41

1.94

trung tâm, đô thị quan trọng nhất của tiểu vùng Bắc Tây Nguyên

Ma

16

0.5

0.5

1.33

Buôn Thuật

17

Đà Lạt

0.43

0.35

1.08

hai trung tâm công nghiệp, dịch vụ, giáo dục, khoa học công nghệ, du lịch của vùng Tây Nguyên

18

Thủ Dầu Một

0.33

0.33

2.74

19

Biên Hoà

1.06

1.06

3.99

ba trung tâm công nghiệp, dịch vụ của vùng Đông Nam Bộ

20

Vũng Tàu

0.53

0.53

3.74

trung tâm của vùng

21 Mỹ Tho

0.23

0.23

2.79

Bắc Sông Tiền.

22

Long Xuyên

0.5

0.46

4.38

trung tâm của vùng Tứ giác Long Xuyên.

Tổng

13.03

10.99

Cả nước

96.48

33.82

Nguồn: Tổng hợp từ Tổng Cục thống kê (2020)

184

Phụ lục 3

Hộp 1: Vụ 4 người cùng một nhà chết ở Thanh Hóa năm 2015

Sáng 3.11, hàng trăm người tập trung tại nhà tang lễ tiễn đưa 4 người trong gia

đình anh Ngô Lê Hà (số 218, Trần Phú, TP. Thanh Hoá) về cõi vĩnh hằng. Trong

dòng người đẫm nước mắt ấy có hàng chục học sinh cùng lớp, cùng trường với Ngô

Quang Ninh - học sinh lớp 7A, người con út trong gia đình tang tóc. Các em khóc

nức nở tiếc thương người bạn ngồi bàn đầu ít nói, hiền lành, dễ mến. “Tại sao bố

bạn ấy lại làm như thế chứ?”; “Bạn ấy có biết gì đâu?”; “bạn ấy đâu có lỗi lầm gì”;

“Sao người lớn làm sai lại bắt trẻ con cùng gánh chịu”…

Ngô Quang Ninh là con út của anh Ngô Lê Hà và chị Trần Thị Nhung. Nhà

anh Hà có 2 con trai: Ngô Duy Tân (23 tuổi) và Ngô Quang Ninh (13 tuổi). Cả hai

đều được phát hiện trong tư thế đang ngủ. Em Ngô Quang Ninh chết ở phòng ngủ

tầng lửng, em Ngô Duy Tân chết ở phòng ngủ tầng 3. Chị Nhung chết ở phòng ngủ

tầng hai còn anh Hà chết treo cổ ở tầng 1. Khi người thân phát hiện, em Ngô Quang

Ninh vẫn trong tư thế ôm gối ngủ. Khi người bác chạy lên, hét lên đau đớn thì Ninh

hộc máu oan khuất.

Vụ án nhanh chóng được Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận là

vụ tự tử. Không có dấu hiệu của việc tàn sát cả gia đình do kẻ xấu bên ngoài. Theo

đó, người cha - anh Ngô Lê Hà vì túng quẫn nợ nần trong kinh doanh, làm ăn đã

quyết đinh tìm đến cái chết. Nhưng đau đớn thay, anh còn lên kế hoạch cho cả gia

đình cùng chết. Anh đã mua thuốc mê, thuốc độc chuẩn bị cho cuộc ra đi của cả gia

đình. Anh Hà đã tiêm thuốc độc cho hai cậu con trai đẹp như tranh vào khoảng 3h

sáng, khi các con đang say ngủ để mãi mãi hai em không còn thức dậy. Sau khi tiêm

thuốc độc cho vợ và hai con, Ngô Lê Hà còn quay lại hình ảnh, ghi âm lời trăn trối

rồi mới treo cổ tự vẫn lúc 4h15 phút.

Nguồn: Xuân Hùng (2015) [50]

185

Hộp 2: Triệt phá đường dây ma túy lớn ở Hải Phòng năm 2020

Sáng 16-6, Công an TP Hải Phòng cho hay, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm

ma túy vừa bắt giữ Trần Thị Thanh Nga (SN 1979), đăng ký hộ khẩu tại số 73/414

đường Tô Hiệu, phường Hồ Nam (quận Lê Chân), hiện ở tại Venice 17-12 khu đô

thị Vinhomes Imperia, phường Thượng Lý (quận Hồng Bàng). Nga chính là đối

tượng cầm đầu đường dây mua bán ma túy với số lượng lớn và chỉ chuyên cung cấp

cho các đối tượng sử dụng giàu có. Từng có tiền án 15 năm tù về tội mua bán trái

phép chất ma túy, nhưng Nga vẫn tổ chức đường dây mua bán, vận chuyển ma túy,

đặc biệt là các loại thuốc lắc có mẫu mã mới, giá cao.

Trưa 9-6, mắt xích đầu tiên của đường dây đã bị lực lượng công an đột kích

với việc bắt quả tang Nguyễn Thành Long (SN 1990), hiện ở tổ 3, khu 7, Bãi Cháy,

TP Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh) và Phạm Văn Dương (SN 1990), trú tại xóm 1,

Kinh Giao, xã Tân Tiến (huyện An Dương) có hành vi tàng trữ trái phép chất ma

túy. Tang vật thu giữ 5,86 gam ketamine, 13,52 gam MDMA, một xe ô-tô, ba điện

thoại di động và một số tang vật khác có liên quan. Đây là hai đối tượng giúp sức

đắc lực cho Trần Thị Thanh Nga. Tiến hành khám xét khẩn cấp, bắt giữ đối với

Trần Thị Thanh Nga tại nơi ở của Nga tại Venice 17-12 khu đô thị Vinhomes

Imperia, công an thu giữ 3,19477 kg ma túy (trong đó gồm 93,49 gam ketamine,

1.356,85 gam MDMA, 1.551,25 gam methamphetamine, 193,18 gam heroin), cùng

cân điện tử và nhiều tang vật khác có liên quan. Tổng số ma túy thu giữ trong vụ án

là 3,21415 kg ma túy các loại, cùng nhiều tang vật khác có liên quan.

Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC04) đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nga

và đồng bọn về tội mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy, đồng thời tiếp tục điều

tra mở rộng vụ án.

Nguồn: Ngô Quang Dũng (2020) [29]

186

Hộp 3: Vụ án môi giới mại dâm qua mạng

Ngày 11/6/2019, Tòa án nhân dân TP Cần Thơ xét xử phúc thẩm theo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của Tống Thanh Hiền (Tuấn) (sinh năm: 1986, ngụ quận Cái Răng); Nguyễn Thị Thùy Trang (My) (sinh năm: 11/11/2000, ngụ quận Cái Răng) và Trương Hoàng Vũ (sinh năm: 1991, ngụ quận Ninh Kiều) về tội “Môi giới mại dâm”.

lập

ra nhóm

trên Zalo

Theo hồ sơ vụ án, từ tháng 2/2018 đến tháng 6/2018, Tống Thanh Hiền, Nguyễn Thị Thùy Trang lập trang Web khiêu dâm, tạo tài khoản Zalo và trang Facebook làm môi giới nhiều người bán dâm cho khách nhằm thu lợi bất chính. Hiền và Trang tìm các cô gái có nhu cầu bán dâm, nếu đồng ý Hiền và Trang hẹn lại nhà nghỉ để chụp hình khỏa thân nhiều tư thế, sau đó đăng lên trang Web khiêu dâm “gaigoizalo.com”, “tinhmotgio.com”; Hiền là “Tuấncheckergroup” và đưa tài khoản zalo của gái mại dâm vào để quản lý và điều hành. Ngoài ra Hiền và Trang lập Facebook có tên “Đặng Diễm My” để tiếp tục đăng tin tuyển nhân viên công việc “nhạy cảm”, mục đích tìm kiếm các cô gái có nhu cầu bán dâm. Đường dây mua bán dâm của Hiền và Trang có khoảng 26 người bán dâm với các độ tuổi khác nhau từ khoảng 14 tuổi đến 23 tuổi. Trong quá trình hoạt động, Hiền đặt ra nội quy cho các cô gái bán dâm thực hiện, nếu vi phạm thì bị Hiền phạt từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, khi khách có nhu cầu mua dâm thì liên hệ qua zalo của Hiền, Hiền gửi ảnh các gái bán dâm cho khách lựa chọn, khi lựa chọn xong thì chọn địa điểm là các khách sạn hoặc nhà nghỉ rồi báo thời gian và số phòng cho Hiền, Hiền điều gái bán dâm đến để bán dâm, gái bán dâm tự di chuyển đến hoặc Trương Hoàng Vũ đưa đón, khi bán dâm xong Vũ thu tiền từ gái bán dâm về đưa cho Hiền một khoản tiền từ tiền bán dâm, Hiền thu từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng, tùy theo giá bán dâm, ngoài ra gái bán dâm còn trả cho Vũ 100.000 đồng tiền đưa rước.Trong số gái bán dâm mà các bị cáo đã thực hiện hành vi môi giới bán dâm có Nguyễn Trần Phương Uyên ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi.

Sau khi bị Toà án nhân dân quận Cái Răng tuyên phạt Hiền 10 năm tù; Trang 07 năm và Vũ 07 năm tù, các bị báo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với lí do hoàn cảnh gia đình khó khăn, Tuy nhiên xét thấy các bị cáo không có tình tiết mới để xem xét nên Hội đồng xét xử tuyên y án sơ thẩm.

Nguồn: La Quốc Khánh (2020) [56]

Phụ lục 4 Bảng 1: Tổng số vụ, số đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm bị phát hiện, xử lý trên địa bàn các đô thị loại I, giai đoạn 2012-2020

Đô thị loại I

Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội

Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy

Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường

Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm phát hiện, xử lý

Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực QLHC về TTATXH

Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Đối tượng

Vụ

Đối tượng 3542 1362 1469 183 451 172 328 82 334 1140 1281 335 357

Hải Phòng Đà Nẵng Cần Thơ Huế Đà Lạt Nha Trang Quy Nhơn Thái Nguyên Vũng Tàu Hạ Long Biên Hòa Mỹ Tho Thanh Hóa Tổng Tỷ lệ %

6697 4740 3306 3524 1603 2915 2357 3791 3092 1426 6659 1321 4653 46084 4.0

Đối tượng 10170 6159 4432 3683 2758 3273 2595 4267 2758 1451 6402 539 5850 54337 4.6

3869 1141 2280 645 366 591 141 1574 2024 1425 2164 159 1629 18008 1.6

Đối tượng 7970 1595 4449 1257 536 831 338 1757 3815 1709 7586 397 2097 34337 2.9

1452 1236 3349 489 846 240 696 288 216 804 822 173 306 10917 0.9

3527 1356 1454 170 432 162 318 75 328 1130 1271 318 324 10865 0.9

Đối tượng 12106 12106 486407 482825 2316 2316 17569 17569 173502 173502 5716 5716 23745 23745 281073 281056 2246 737 1773 1662 13226 13226 7823 5914 52209 52209 11036 1072583 1079711 92.6

90.7

0.9

27651 491298 12705 22397 176749 9624 27257 286784 6397 6447 24142 7885 59121 1158457 100

35278 496957 16053 23186 178128 10222 27838 287521 9386 6963 29315 9124 60864 1190835 100

Đối tượng 1490 1434 3387 494 881 230 832 342 233 890 820 30 351 11414 1.0

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an các đô thị loại I (2021)

187

Bảng 2: Tổng số vụ, số đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm bị phát hiện, xử lý

trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, giai đoạn 2012-2020

Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội

Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy

Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường

NĂM

Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm phát hiện, xử lý

Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu

Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực QLHC về TTATXH

Vụ

Vụ

Đối tượng

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

547

92

719

119

78

86

87

54906

55117

55709

56163

121

2012

484

99

703

148

97

93

93

62857

62857

63630

63912

111

2013

527

117

663

170

144

74

75

39764

39714

40626

40779

157

2014

546

115

687

166

196

141

141

44338

44855

45336

46069

220

2015

558

145

702

196

150

229

231

58623

59287

59705

60602

186

2016

531

165

677

231

158

255

256

58065

59087

59174

60429

178

2017

523

142

657

183

137

172

173

54159

54426

55133

55591

152

2018

516

135

692

197

145

164

164

55137

55732

56097

56940

155

2019

508

131

659

185

131

142

142

54976

55332

55888

56472

154

4740

6159

1141

1595

1236

1434

1356

1362

482825 486407

491298

496957

2020 Tổng số

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an thành phố Đà Nẵng (2021)

188

Bảng 3: Tổng số vụ, số đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm bị phát hiện, xử lý

trên địa bàn thành phố Huế, giai đoạn 2012-2020

Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội

Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy

Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường

NĂM

Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm phát hiện, xử lý

Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu

Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực QLHC về TTATXH

Vụ

Đối tượng

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

419

384

79

143

42

14

484

484

15

1038

1064

38

2012

401

390

97

195

56

24

2555

2555

25

3133

3216

51

2013

419

419

89

198

49

15

1732

1732

16

2304

2415

50

2014

348

437

45

105

47

16

1433

1433

17

1889

2048

56

2015

348

442

47

84

61

15

3218

3218

15

3689

3823

64

2016

417

419

67

106

70

26

2381

2381

27

2961

3004

71

2017

410

425

72

134

52

19

1879

1879

23

2432

2513

52

2018

387

391

71

137

61

21

1934

1934

24

2474

2547

61

2019

375

376

78

155

51

20

1953

1953

21

2477

2556

51

3524

3683

645

1257

489

494

170

183

17569

17569

22397

23186

2020 Tổng số

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an tỉnh Thừa Thiên - Huế (2021)

189

Bảng 4: Tổng số vụ, số đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm bị phát hiện, xử lý

trên địa bàn thành phố Hạ Long, giai đoạn 2012-2020

Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội

Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy

Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường

NĂM

Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm phát hiện, xử lý

Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu

Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực QLHC về TTATXH

Vụ

Đối tượng

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

210

199

225

220

265

61

61

245

245

935

1079

283

2012

150

183

205

126

152

203

203

119

125

781

801

116

2013

134

163

186

65

121

111

111

267

267

740

748

63

2014

133

95

122

65

130

155

155

244

244

692

729

78

2015

153

161

210

59

146

154

154

162

162

689

731

59

2016

147

150

192

32

139

116

116

112

112

557

589

30

2017

175

157

183

79

179

127

131

165

195

703

775

87

2018

165

162

194

73

171

109

115

176

207

685

770

83

2019

159

155

192

85

148

94

94

172

216

665

741

91

1426

1451

1425

1709

804

890

1130

1140

1662

1773

6447

6963

2020 Tổng số

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an tỉnh Quảng Ninh (2021)

190

Bảng 5: Tổng số vụ, số đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm bị phát hiện, xử lý

trên địa bàn thành phố Đà Lạt, giai đoạn 2012-2020

Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội

Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy

Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường

NĂM

Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm phát hiện, xử lý

Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu

Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực QLHC về TTATXH

Vụ

Vụ

Đối tượng

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

192

327

24

206

40

29

29

36811

36811

37262

37416

209

2012

189

266

39

99

61

46

46

24134

24134

24507

24609

102

2013

197

316

44

92

52

47

47

2085

2085

2465

2594

94

2014

170

298

34

68

55

58

58

18423

18423

18753

18902

68

2015

166

343

45

78

72

39

39

17656

17656

17984

18189

79

2016

170

284

49

56

57

57

57

15066

15066

15398

15521

57

2017

178

337

47

87

71

56

56

18192

18192

18560

18754

98

2018

172

295

45

81

59

48

48

19554

19554

19900

20041

85

2019

169

292

39

79

69

52

52

21581

21581

21920

22083

89

1603

2758

366

536

846

881

432

432

173502

173502

176749

178109

2020 Tổng số

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an tỉnh Lâm Đồng (2021)

191

Bảng 6: Tổng số vụ, số đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm bị phát hiện, xử lý

trên địa bàn thành phố Biên Hoà, giai đoạn 2012-2020

Tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội

Tội phạm và vi phạm pháp luật về ma túy

Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường

NĂM

Tổng số vụ, đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm phát hiện, xử lý

Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng, buôn lậu

Vi phạm pháp luật trên lĩnh vực QLHC về TTATXH

Vụ

Đối tượng

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Vụ

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

Đối tượng

899

300

821

858

112

119

119

541

541

1971

2452

113

2012

889

282

763

712

105

115

115

1561

1561

2952

3252

101

2013

817

213

828

659

72

122

122

1382

1382

2606

3060

69

2014

755

206

583

734

96

204

204

416

416

1677

2041

104

2015

714

189

678

664

69

166

166

995

995

2133

2567

64

2016

678

225

668

1037

102

162

162

3874

3874

5041

5842

101

2017

654

247

691

986

89

137

139

1459

1459

2586

3364

89

2018

632

259

662

954

93

121

126

1537

1537

2642

3372

93

2019

621

243

708

982

84

125

128

1461

1461

2534

3365

86

6659

6402

2164

7586

822

820

1271

1281

13226

13226

24142

29315

2020 Tổng số

Nguồn: Xử lý từ báo cáo của công an tỉnh Đồng Nai (2021)

192