BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG ---------o0o--------- Công trình tham dự Cuộc thi Sinh viên nghiên cứu khoa học trường Đại học Ngoại thương năm 2010

Tên công trình:

Một số vấn đề pháp lý trong quản lý và điều hành

công ty cổ phần tại Việt Nam, so sánh với pháp luật

Cộng hòa Pháp

Thuộc nhóm ngành : Khoa học xã hội 2b

Họ và tên sinh viên: Vũ Thị Phƣơng Liên Nam/nữ:…Nữ…. Dân tộc:..Kinh…. Lớp: Pháp 3… Khoá:…46… Khoa: Kinh tế đối ngoại.. Năm thứ : .3../ số năm đào tạo. Ngành học : ..Kinh tế đối ngoại..... Đỗ Thùy Dương Nam/nữ:…Nữ…. Dân tộc:..Kinh…. Lớp: Pháp 3… Khoá:…46… Khoa: Kinh tế đối ngoại.. Năm thứ : .3../ số năm đào tạo. Ngành học : ..Kinh tế đối ngoại.....

Người hướng dẫn : TS. Nguyễn Minh Hằng

Hà Nội – 2010

MỤC LỤC

Lời mở đầu ....................................................................................................................... 3 Chƣơng 1: Tổng quan về quản lý và điều hành công ty cổ phần ............................... 8 1.1. Khái quát chung về công ty cổ phần ........................................................... 8 1.1.1. Sự hình thành công ty cổ phần ..................................................................... 8 1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần trên thế giới .............. 18 1.1.1.2. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần tại Việt Nam ............ 12 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần ............................................... 16 1.1.3. Phân loại công ty cổ phần ............................................................................ 17 1.1.4. Sự khác biệt giữa các loại hình công ty cổ phần của Việt Nam và của Cộng hòa Pháp .................................................................................................................. 18 1.2. Quản lý và điều hành công ty cổ phần ........................................................ 21 1.2.1. Sự cần thiết của quản lý và điều hành công ty cổ phần ............................... 21 1.2.2. Nội dung của công tác quản lý và điều hành công ty cổ phần ..................... 22

http://svnckh.com.vn 2

Chƣơng 2: Thực trạng một số vấn đề pháp lý trong quản lý và điều hành công ty cổ phần tại Việt Nam trong thời gian qua ..................................................................................... 25 2.1. Cách thức triệu tập Đại hội đồng cổ đông .................................................. 25 2.1.1. Quy định của pháp luật về triệu tập Đại hội đồng cổ đông ......................... 25 2.1.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam .......................................................... 25 2.1.1.2. Quy định của pháp luật Pháp ................................................................. 29 2.1.2. Thực trạng về vấn đề triệu tập Đại hội đồng cổ đông tại Việt Nam ............ 33 2.1.3. Đánh giá về vấn đề triệu tập Đại hội đồng cổ đông tại Việt Nam và vận dụng kinh nghiệm của Pháp cho Việt Nam ....................................................................... 38 2.2. Quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông thiểu số ................................. 42 2.2.1. Quy định của pháp luật về quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông thiểu số .............................................................................................................................. 42 2.2.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam .......................................................... 42 2.2.1.2. Quy định của pháp luật Pháp ................................................................. 44 2.2.2. Thực trạng về vấn đề quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông thiểu số tại Việt Nam .................................................................................................................. 47 2.2.3. Đánh giá về vấn đề quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông thiểu số tại Việt Nam và vận dụng kinh nghiệm của Pháp cho Việt Nam ..................................... 50 2.3. Vai trò chức năng và trách nhiệm của Ban kiểm soát ............................... 52 2.3.1. Quy định của pháp luật về vai trò chức năng và trách nhiệm của Ban kiểm soát ........................................................................................................................... 52 2.3.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam .......................................................... 52 2.3.1.2. Quy định của pháp luật Pháp ................................................................. 54 2.3.2. Thực trạng hoạt động của Ban kiểm soát tại Việt Nam ............................... 56 2.3.3. Đánh giá về hoạt động của Ban kiểm soát tại Việt Nam và vận dụng kinh nghiệm của Pháp cho Việt Nam ................................................................................ 59 2.4. Sự minh bạch trong công bố thông tin ........................................................ 61 2.4.1. Quy định của pháp luật về vấn đề công bố thông tin ................................... 61 2.4.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam .......................................................... 61

2.4.1.2. Quy định của pháp luật Pháp ................................................................. 64 2.4.2. Thực trạng về vấn đề minh bạch trong công bố thông tin tại Việt Nam ..... 65 2.4.3. Đánh giá về vấn đề công bố thông tin tại Việt Nam và vận dụng kinh nghiệm của Pháp cho Việt Nam ........................................................................................ 68 Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý và điều hành công ty cổ phầnở Việt Nam .............................................................................................. 70 3.1. Định hƣớng hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý và điều hành công ty cổ phần ...................................................................................................... 70 3.2. Giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý và điều hành công ty cổ phần ở Việt Nam .................................................................... 72 3.2.1. Nhóm các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp lý ........................ 72 3.2.1.1. Về cách thức triệu tập Đại hội đông cổ đông .......................................... 72 3.2.1.2. Về quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ ............................... 73 3.2.1.3. Về vai trò chức năng và trách nhiệm của Ban kiểm soát ........................ 74 3.2.1.4. Về sự minh bạch trong công bố thông tin ............................................... 76 3.2.2. Nhóm các giải pháp nhằm thực hiện đúng luật ............................................ 78 3.2.2.1. Về cách thức triệu tập Đại hội đông cổ đông .......................................... 78 3.2.2.2. Về quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ ............................... 79 3.2.2.3. Về vai trò chức năng và trách nhiệm của Ban kiểm soát ........................ 80 3.2.2.4. Về sự minh bạch trong công bố thông tin ............................................... 81 3.3. Một số giải pháp khác .................................................................................... 83 3.3.1. Nhóm giải pháp vĩ mô ................................................................................... 83 3.3.2. Nhóm giải pháp vi mô ................................................................................... 85 Kết luận ............................................................................................................................ 87 Tài liệu tham khảo .......................................................................................................... 89 Phụ lục: Vụ án tranh chấp trong công ty cổ phần ....................................................... 94

http://svnckh.com.vn 3

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu và rộng với nền kinh tế khu vực

và thế giới. Đường lối phát triển kinh tế được Đảng và Nhà nước ta xác định là phát triển

nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thể hiện tính đúng đắn và sáng

suốt thông qua sự tăng trưởng của nền kinh tế, đời sống nhân dân được cải thiện và không

ngừng nâng cao. Tuy nhiên, trong tiến trình hội nhập và phát triển này chúng ta cũng còn

phải đương đầu và cần vượt qua những rào cản trước những yếu tố kinh tế cũ vẫn còn tính

bao cấp, lạc hậu và trước những yếu tố kinh tế mới còn mầy mò hoặc chưa có kinh nghiệm.

Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế tôn trọng sự tồn tại và phát triển của nhiều

thành phần kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết và giám sát của Nhà

nước thông qua các thế chế và hệ thống luật pháp kinh tế. Mặc dù vậy, để cho mọi thành

phần kinh tế nhận thức được đầy đủ hệ thống luật pháp nói chung cũng như những đạo luật

điều chỉnh hoạt động quản lý và điều hành doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh nói riêng

là điều không dễ dàng thực hiện ngay. Lẽ đương nhiên là trong thực tiễn đã nảy sinh nhiều

vụ tranh chấp, kiện tụng ở tất cả các loại hình doanh nghiệp chủ yếu xoay quanh những

vấn đề về nhận thức, tuân thủ trong pháp luật và thực tế quản lý điều hành sản xuất, kinh

doanh trong đó loại hình công ty cổ phần là một mẫu ví dụ rất điển hình.

Công ty cổ phần là một trong các loại hình doanh nghiệp đang phát triển và ngày

càng phổ biến ở nước ta hiện nay. Nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp luật điều

chỉnh hoạt động quản lý và điều hành của loại hình công ty này, trong đó văn bản cơ bản

nhất là Luật doanh nghiệp mới được chính thức áp dụng từ năm 2005 đến nay nên còn

nhiều điểm cần bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn phát triển mạnh mẽ của loại

hình doanh nghiệp này; bởi vì, so với các loại hình doanh nghiệp khác thì công ty cổ phần

thường có nhiều ưu thế trong việc huy động tiền nhàn rỗi công chúng; linh hoạt, năng động

trong quản lý, điều hành; và là loại hình doanh nghiệp chuyển đổi của các doanh nghiệp

nhà nước theo theo chủ trương của Chính phủ.

Trong thực tiễn, công tác quản lý và điều hành công ty cổ phần ở nước ta đã và đang

có nhiều vướng mắc về pháp lý tạo nên các vụ tranh chấp xuất phát chính từ sự không am

hiểu luật pháp hoặc lợi dụng sự chưa hoàn thiện của pháp luật để trục lợi. Một số vụ tranh

chấp được đề cập nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, thậm chí được coi là

http://svnckh.com.vn 4

những vụ án điển hình để đưa vào sách giáo khoa, sách tham khảo như: Vụ kiện họp Hội

đồng quản trị không đúng trình tự theo quy định của luật tại Công ty cổ phần Từ Liêm năm

2005; vụ kiện đòi hủy bỏ Bản điều lệ và việc tăng vốn tại Công ty cổ phần Nhiếp ảnh Hà Nội năm 20051; hoặc vụ việc phát hành 25.000 cổ phần không đúng quy định và xảy ra

tranh chấp giữa các cổ đông năm 2006 của Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân2... Trong các tranh chấp này, vấn đề quyền và nghĩa vụ của mỗi cơ quan quản lý hay

từng chức danh quản lý trong công ty cổ phần, pháp luật và Điều lệ công ty đều có những

quy định cụ thể nhưng đôi khi không được tôn trọng, bên cạnh đó các quy định của luật

pháp và Điều lệ công ty vẫn còn những kẽ hở hoặc không bao quát hết các vấn đề phát sinh

Thực tiễn này ở Việt Nam cũng là những vấn đề đã từng tồn tại của nhiều

nước trên thế giới có phát triển và phổ biến loại hình công ty cổ phần trong nền kinh

tế. Trong đó, Cộng hòa Pháp là quốc gia có hệ thống luật pháp điều chỉnh các hoạt

động quản lý và điều hành công ty cổ phần khá hoàn thiện nên có thể học tập và rút

ra được nhiều kinh nghiệm vận dụng cho Việt Nam trong quá trình hội nhập.

Xuất phát từ những lý do trên, nhóm đã lựa chọn đề tài “Một số vấn đề pháp

từ thực tiễn nên việc xảy ra tranh chấp và phát sinh kiện tụng là điều không tranh khỏi.

lý trong quản lý và điều hành công ty cổ phần tại Việt Nam - có so sánh với pháp

luật cộng hoà Pháp” làm công trình nghiên cứu khoa học của mình. Sở dĩ nhóm

chọn hệ thống luật pháp Cộng hoà Pháp mà cụ thể là Luật Công ty của Pháp bởi

nhiều điểm tương đồng mà từ đó nhóm hy vọng có thể rút ra những đề xuất nhằm

góp phần hoàn thiện một số quy định pháp lý trong Luật doanh nghiệp 2005.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Liên quan đến các vấn đề pháp lý trong quản lý và điều hành công ty cổ

phần, nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu một số công trình nghiên cứu của Việt Nam và

của Pháp.

Đối với các công trình nghiên cứu của Việt Nam, một số bài báo trong Tạp

chí “Pháp lý” (như bài “Những bất cập cần sửa đổi trong văn bản thi hành luật

Doanh nghiệp”, Thanh Nghị, 08/2008, Tạp chí Pháp lý, tr.9) đã phản ánh những bất

cập cần sửa đổi trong văn bản thi hành luật doanh nghiệp, các vi phạm pháp luật mà

http://svnckh.com.vn 5

1 Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung, Công ty: vốn , quản lý và tranh chấp theo Luật doanh nghiệp 2005, Nxb. Tri thức, 2009. 2 Xem tại Phụ lục của đề tài

doanh nghiệp thường mắc phải trong quản lý và điều hành công ty cổ phần. Một số

bài báo nghiên cứu của các tác giả như Trương Thanh Đức (“Những nhầm lẫn và

bất cập về thủ tục họp đại hội đồng cổ đông”, Tạp chí Nhà quản lý, số 73, tháng

07/2009), TS. Nguyễn Quốc Vinh (“Thỏa thuận cổ đông: Một nội dung mới cho

pháp luật doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số tháng 11/2009)

cũng đề cập tới những sai sót và nhầm lẫn về trình tự, thủ tục tiến hành việc quản lý

và điều hành công ty cổ phần. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng đã tham khảo trong

một số tài liệu chuyên khảo như Chuyên khảo luật kinh tế của PGS.TS. Phạm Duy

Nghĩa, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2004 hay Hỏi đáp Luật đầu tư và Luật

doanh nghiệp, của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW, NXB Tài chính, Hà Nội

2006 cũng đã rút ra được nhiều thông tin bổ sung cho vấn đề nghiên cứu.

Đối với các công trình nghiên cứu của Pháp, tác giả Francis Lemeunier trong

công trình nghiên cứu “Société anonyme, constitution-gestion” đã nêu lên các vấn

đề pháp lý trong việc hình thành, quản lý, điều hành công ty cổ phần. Các tác giả M.

Cozian – A.Viandier – F. Deboissy trong công trình nghiên cứu có tên “Droit des

sociétés” (2001, 4e édition, Édition Libraire de la Cour de Cassation 27 place

Dauphines, 75001 Paris) đã phân tích các quy định trong Luật công ty của Pháp

nhằm chỉ ra các quy định trong việc thành lập, quản lý và điều hành các loại hình

công ty ở Pháp.

Sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu khoa học, nhóm nghiên

cứu cho rằng chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào được tiến hành với nội

dung như đề tài đã chọn.

3. Đối tƣợng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu.

- Đối tượng nghiên cứu: Những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động

quản lý và điều hành công ty cổ phần

- Mục tiêu nghiên cứu: Các đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định pháp lý

điều chỉnh hoạt động quản lý và điều hành công ty cổ phầnở Việt Nam trên cơ sở

phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của các công ty cổ phầntiếp cận từ góc độ

pháp lý trong quản lý và điều hành, đồng thời nghiên cứu và vận dụng các kinh

nghiệm của Cộng hòa Pháp về các vấn đề có liên quan.

http://svnckh.com.vn 6

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận nghiên cứu: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích, tổng hợp, so sánh luật

học, điều tra xã hội học (sử dụng bảng hỏi, phỏng vấn chuyên gia).

5. Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian: từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 cho đến nay.

- Về không gian: Việt Nam và cộng hòa Pháp.

- Về nội dung: hoạt động quản lý và điều hành công ty cổ phầnhiện nay đặt

ra rất nhiều vấn đề pháp lý. Tuy nhiên, để có thể nghiên cứu sâu, nhóm nghiên cứu

chỉ giới hạn công trình nghiên cứu của mình ở bốn vấn đề sau đây: cách thức triệu

tập Đại hội đồng cổ đông, quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông thiểu số, vai

trò, chức năng và trách nhiệm của Ban kiểm soát, sự minh bạch trong công bố thông

tin.

6. Kết quả nghiên cứu dự kiến

Báo cáo khoa học với các đề xuất nhằm hoàn thiện một số quy định pháp lý

điều chỉnh hoạt động quản lý và điều hành công ty cổ phần ở Việt Nam.

7. Bố cục của đề tài nghiên cứu

Chương 1: Tổng quan về quản lý và điều hành công ty cổ phần

Chương 2: Thực trạng một số vấn đề pháp lý trong quản lý và điều hành công ty cổ

phần tại Việt Nam trong thời gian qua.

Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý và

http://svnckh.com.vn 7

điều hành công ty cổ phần ở Việt Nam.

CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH

CÔNG TY CỔ PHẦN

1.1. Khái quát chung về công ty cổ phần.

1.1.1. Sự hình thành công ty cổ phần

Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh ra đời, tồn tại và phát

triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Nó được xem là phương thức

phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh và

qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển. Sự hình thành và phát triển

của công ty cổ phầngắn liền với sự hình thành của thị trường vốn và thị trường tiền

tệ.

1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần trên thế giới

Ở các nước khác nhau, công ty cổ phần có thể có những tên gọi khác nhau. Ở Pháp

http://svnckh.com.vn 8

là công ty vô danh (Société Anonyme), ở Anh là công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn

(Company limited by shares), ở Mỹ nó được gọi là công ty kinh doanh (Corporation), và ở Nhật Bản gọi là công ty chung cổ phần (Kabushiki Kaisha)…3.

Từ thế kỷ XVIII, XIX đi cùng với sự phát triển mạnh mẽ của quá trình công nghiệp

hoá ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ là nhu cầu tích tụ vốn tái sản xuất của các nhà tư bản.

Sự phát triển vượt bậc của Chủ nghĩa Tư bản đòi hỏi phải có quy mô sản xuất kinh doanh

ngày càng lớn, cạnh tranh giữa các hãng sản xuất và độc quyền ở mức độ ngày càng gay

gắt. Các chủ tư bản đi đến thoả hiệp với nhau nhằm thu được lợi nhuận tối đa và bành

trướng hơn nữa thế lực kinh tế của mình. Công ty cổ phần là hình thức kinh doanh được ra

đời nhằm thoả mãn những nhu cầu này, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và tập

trung tư bản, như nhận định của Các Mác “Qua các công ty cổ phần, sự tập trung đã thực hiện được việc đó trong nháy mắt”4.

Về mặt lịch sử hình thành, tuy công ty cổ phần ra đời sau các loại công ty đối nhân

nhưng là hình thức đầu tiên của loại hình công ty đối vốn. Khác với sự ra đời của hình thức

công ty trách nhiệm hữu hạn – là sản phẩm của các nhà lập pháp xuất phát từ nhu cầu của

thực tiễn kinh doanh, công ty cổ phần được hình thành trong hoạt động kinh doanh và do

nhu cầu của các nhà kinh doanh rồi sau đó mới được pháp luật thừa nhận và được hoàn

thiện thành một chế định pháp lý. Đơn cử như ở Anh, Luật công ty được ban hành lần đầu

tiên năm 1844 nhưng trước đó hơn 100 năm đã có sự xuất hiện của các công ty cổ phần.

Và phải đến năm 1856, ở Anh mới có Luật về công ty cổ phần.

Việc doanh nghiệp bán cổ phiếu để gom vốn đã có từ thế kỷ XIII. Khắp châu Âu

người ta đã từng bán cổ phiếu của các doanh nghiệp khai mỏ và đóng tàu. Công ty Đông

Ấn (East India Company) của Anh (1600-1874) là công ty cổ phần xuất hiện đầu tiên trên

thế giới. Công ty này được thành lập ngày 31/10/1860 bởi một nhóm có 218 người, và

được cấp phép độc quyền kinh doanh trong vòng 15 năm ở vùng Đông Ấn, các quốc gia và

hải cảng ở châu Á, châu Phi và được đi lại từ tất cả các hải cảng của các đảo, thị trấn và địa

điểm ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ ngoài Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope) và Eo

biển Magellan. Sau khi được cấp phép, công ty đó đã cử một đoàn tàu gồm năm chiếc lên

đường, nó đã chinh phục được Ấn Độ. Ngày 01/6/1874, Công ty bị giải thể khi giấy phép

lần sau cùng không được gia hạn. Công ty đầu tiên này hoạt động hết sức lỏng lẻo: “Người

đầu tư góp vốn theo chuyến đi biển và sau mỗi chuyến đi biển nhận lại vốn cổ phần và tiền

http://svnckh.com.vn 9

3 Nguyễn Ngọc Bích, Luật Doanh nghiệp, vốn và quản lý trong công ty cổ phần, Nxb. Trẻ, 2003, tr.18. 4 Các Mác, Tư bản, quyển 1, tập III, Nxb. Sự thật, Hà Nội 1975, tr.199.

lãi”5. Đến năm 1602, ở Hà Lan xuất hiện các công ty cổ phần theo hình thức tương tự công

ty Đông Ấn của Anh, rồi lần lượt công ty cổ phần xuất hiện ở Thụy Điển, Đan Mạch,

Đức… Tuy nhiên các công ty cổ phần chỉ dành riêng cho lĩnh vực kinh doanh quốc tế, còn

ở Anh vào thời kỳ đó, những ngành hoạt động khác như buôn bán nô lệ, sản xuất các mặt

hàng công nghiệp bông, dệt, nguyên liệu… người ta vẫn sử dụng hình thức góp vốn, chịu

trách nhiệm liên đới. Hình thức này tuy có những bất tiện về trách nhiệm, về giải thể khi có

một thành viên chết đi, nhưng nó vẫn đảm bảo cho chủ nhân sáng lập có thể kiểm soát

được việc kinh doanh trọn vẹn. Do đó, nó vẫn được ưa dùng. Từ thực tế này số lượng các

công ty cổ phần được thành lập ở Anh đã giảm và các doanh nhân đã chuyển sang thành

lập công ty cổ phần ở Mỹ.

Công ty cổ phần ở Mỹ phát triển rất mạnh. Ban đầu là vì phải xây dựng đường xe

lửa, sau này là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên toàn lãnh thổ rộng lớn của

Mỹ. Chính do yêu cầu tài trợ cho các công ty làm đường xe lửa mà thị trường chứng khoán

ở NewYork phát triển. Năm 1811, bang NewYork ban bố luật về tính trách nhiệm hữu hạn

dành cho các công ty sản xuất. Nhờ có luật này, tiền ùn ùn đổ về NewYork và tính hữu hạn trở thành phổ biến vì bang nào không dùng đến nó là không thu hút được vốn6.

Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX ở các nước tư bản phát triển, công ty cổ

phần bắt đầu phát triển ở nhiều lĩnh vực khác nhau như giao thông, vận tải, xây dựng, các

ngành chế tạo cơ khí, ngân hàng, bảo hiểm… và đồng thời là sự phát triển rộng rãi của loại

hình công ty này ở các nơi khác trên thế giới. Đến những năm 20, 30 của thế kỷ XIX, với

sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, nền kinh tế thế giới có bước phát triển

mạnh mẽ, điều đó dẫn đến nhu cầu phải tập trung những nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sơ

hạ tầng kinh tế – xã hội. Công ty cổ phần là một trong những công cụ giúp thực hiện nhanh

chóng vấn đề tập trung vốn. Vì vậy, có ý kiến bình luận rằng: “Nếu như cứ phải chờ cho

đến khi tích luỹ làm cho số tư bản riêng lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế giới vẫn chưa có đường sắt”7. Sự ra đời của

công ty cổ phần đã giúp cho các nhà doanh nghiệp giải quyết được mâu thuẫn về tiền vốn

một cách sáng tạo.

http://svnckh.com.vn 10

5 Đoàn Văn Trường, Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt động công ty cổ phần, Nxb. KHKT, Hà Nội 1996, tr. 10. 6 Nguyễn Ngọc Bích, Luật Doanh nghiệp, vốn và quản lý trong công ty cổ phần, Nxb. Trẻ, 2003, tr.25. 7 Các Mác, Tư bản, quyển 1, tập III, Nxb. Sự thật, Hà Nội 1975, tr.199.

Tóm lại, trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, từ phạm vi ở một nước,

một khu vực nhất định công ty cổ phần đã phát triển thành những công ty đa quốc gia, hoạt

động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng như nhận định: “Công ty cổ phần đã phát triển

ở hầu hết các nước từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một ngành đến đa ngành, từ một quốc gia đến nhiều quốc gia thông qua các công ty siêu quốc gia”8.

Ở Mỹ, năm 1989, số lượng các công ty cổ phần chiếm 31,7% trong tổng số các xí

nghiệp công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản phẩm công nghiệp. Ngày nay, công ty

cổ phần đã chiếm vị trí thống lĩnh trong các ngành công nghiệp, dịch vụ công cộng và trong các ngành khác nhau của nền kinh tế Hoa Kỳ9.

Ở các nước phương Tây, công ty cổ phần là mô hình phổ biến nhất cho các doanh

nghiệp có quy mô lớn. Ở Đức, vốn cơ bản trung bình của các công ty cổ phần năm 1980 là

43 triệu DM, trong khi đó vốn trung bình của một công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ là 0,38

triệu DM. Trong 100 công ty lớn nhất của Đức năm 1980 có tới 66 công ty cổ phần. Ở

Pháp, vào năm 1986, có tới 123.303 công ty cổ phần, chiếm tới 15,22% tổng số các doanh nghiệp10.

Như đã phân tích ở trên công ty cổ phần ra đời từ nhu cầu khách quan phát triển

kinh tế – xã hội cần có sự liên kết hùn vốn, đồng thời về mặt chủ quan, các nhà đầu tư

muốn chia sẻ những gánh nặng rủi ro trong kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận cao hơn.

Cùng với sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần là nhu cầu cần phải có sự điều chỉnh

của pháp luật.

Ở Anh, Luật về công ty cổ phần được ban hành năm 1844. Theo đó, các công ty

muốn được thành lập không phải xin phép mà chỉ cần đăng ký. Tuy nhiên, luật này không

cho công ty được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Sự hạn chế này phản ánh sự nghi

ngờ của dư luận về công ty cổ phần lúc đó. Tuy nhiên, vào những năm 1850 có hơn 40

công ty Anh sang Pháp để thành lập dù chi phí thành lập công ty ở Pháp rất cao. Chính phủ

Anh sợ mất doanh nghiệp nên vào năm 1855 ban hành luật về tính trách nhiệm hữu hạn

(Limited Liability Act) dành cho các công ty đã được thành lập theo luật về công ty cổ

http://svnckh.com.vn 11

8 Đặng Cẩm Thúy, Bàn về con đường hình thành công ty cổ phần ở các nước Tư bản và vận dụng vào Việt Nam, Tạp chí NCKT, Số 225, 2/1997, tr. 35. 9 Từ Thảo, Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần trên thế giới và ở Việt Nam, ULR: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/05/03/4791/, truy cập ngày 6/4/2010 lúc 16:03 PM. 10 Từ Thảo, Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần trên thế giới và ở Việt Nam, ULR: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/05/03/4791/, truy cập ngày 6/4/2010 lúc 16:03 PM.

phần. Cuối cùng cả hai luật kia được sáp nhập thành một năm 1862 lấy tên là Luật về công

ty (Company Act).

Vào thời đó, Anh là đế quốc thống trị về hàng hải và là một cường quốc công

nghiệp hàng đầu thế giới. Luật công ty của Mỹ được ban hành năm 1881 ở NewYork chịu

sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ Luật Công ty của Anh. Các nước trong khối Thịnh Vượng

Chung (Australia, Hong Kong, Singapore, Ấn Độ) ngày nay có luật công ty giống của Anh.

Riêng Pháp và Đức đi theo con đường khác do những khác biệt về văn hoá và lịch

sử. Ở Đức, luật công ty cổ phần được ban hành năm 1870. Công ty cổ phần của Đức được

luật quy định chặt chẽ và không uyển chuyển như công ty của Anh và Mỹ. Ở Pháp, bộ luật

Napoleon năm 1807 đã thiết lập một nền tảng cho công ty bằng cách cho lập công ty giao vốn đơn giản (Société en commandite simple) 11.

1.1.1.2. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần tại Việt Nam

Tháng 12/1986 được coi là cột mốc khởi đầu cho quá trình đổi mới ở nước ta với

nghị quyết của Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà bản chất của nó là

chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Một trong những

điểm quan trọng của quá trình nói trên là phát triển các thành phần kinh tế, gồm kinh tế nhà

nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Trước thời kỳ này, do chiến tranh trong nhiều năm nên nền kinh tế của Việt Nam chưa

được tập trung phát triển, chính vì vậy việc hình thành nên các công ty vẫn còn rất hiếm và

chủ yếu ở những dạng rất đơn giản và sơ khai. Tuy nhiên, sau khi đất nước hoàn toàn được

giải phóng, bắt đầu hình thành một số xí nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp nhà nước nhà

nước thì pháp luật về doanh nghiệp bắt đầu đượ phát triển và từn bước hoàn thiện. Nhưng

cũng phải mất hơn 20 năm sau đó, nó mới được như ngày nay với hiệu lực thi hành của

Luật Doanh nghiệp 2005, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006.

Ở Việt Nam, các quy định về công ty lần đầu tiên được quy định là trong “Bộ Dân

luật Bắc Kỳ”, trong đó tiết thứ 5 (Chương IX) nói về hội buôn được chia thành hai loại là

hội đối nhân và hội đối vốn. Trong đó hội đối vốn được chia thành hai loại là hội vô danh

(công ty cổ phần) và hội hợp cổ (công ty hợp vốn đơn giản). Nhìn chung, các quy định này về công ty cổ phần còn rất sơ khai12. Đây thực chất là những quy định được lấy từ Bộ luật

Thương mại Pháp năm 1807. Đến năm 1944, chính quyền Bảo Đại ban hành Bộ luật

http://svnckh.com.vn 12

11 Nguyễn Ngọc Bích, Luật Doanh nghiệp, vốn và quản lý trong công ty cổ phần, Nxb. Trẻ, 2003, tr.26. 12 Lê Thị Châu, Quyền sở hữu tài sản của công ty, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1997, tr. 17.

thương mại Trung Kỳ có hiệu lực áp dụng tại Trung Kỳ, trong đó có quy định về công ty cổ phần (gọi là công ty vô danh) từ Điều 102 đến Điều 142 và từ Điều 159 đến Điều 17113.

Năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ban hành Bộ luật Thương mại, trong

đó công ty cổ phần được gọi là hội nặc danh với đặc điểm “gồm có các hội viên mệnh danh

cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm trong giới hạn phần hùn của mình dưới hình thức cổ phần”

(Điều 236) và “chỉ được thành lập nếu có số hội viên từ 7 người trở lên” (Điều 295). Các

vấn đề pháp lý liên quan đến hình thức hội nặc danh như thành lập, góp vốn, cơ cấu quản

lý … đã được quy định rất chi tiết trong Bộ luật này từ Điều 236 đến Điều 278 cũng như từ Điều 295 đến Điều 31414.

Ở miền Bắc, sau năm 1954 cho đến khi thống nhất đất nước vào năm 1975 và trên

phạm vi cả nước từ sau năm 1975 đến những năm 80 của thế kỷ 20, với chính sách kinh tế

kế hoạch hoá tập trung, các hình thức công ty nói chung và công ty cổ phần nói riêng hầu

như không được pháp luật thừa nhận. Khái niệm “công ty” trong giai đoạn này không được

hiểu đúng bản chất pháp lý mà chỉ được hiểu theo hình thức kinh doanh. Các hình thức tổ

chức sản xuất, kinh doanh trong giai đoạn này chủ yếu bao gồm các nhà máy, xí nghiệp

quốc doanh, hợp tác xã (đối với thành phần kinh tế tập thể) và công tư hợp danh (hình

thành từ quá trình cải tạo công thương nghiệp XHCN). Trong giai đoạn này, mặc dù Điều

lệ về đầu tư của nước ngoài ở nước CHXHCN Việt Nam (ban hành kèm theo Nghị định

115/CP của Chính phủ ngày 18/4/1977) có đề cập đến hình thức công ty cổ phần khi quy

định “xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp” có thể thành lập theo hình thức “công ty vô danh”

(một tên gọi khác của công ty cổ phần) nhưng lại không có văn bản pháp luật nào quy định

về tổ chức và hoạt động của hình thức công ty cổ phần này. Và trên thực tế, cũng không có

xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp nào được thành lập theo hình thức “công ty vô danh” theo

quy định của Điều lệ về đầu tư của nước ngoài năm 1977 kể trên.

Cho đến khi Luật công ty được ban hành ngày 21/12/1990, hình thức công ty cổ

phần mới chính thức được quy định cụ thể. Theo Luật Công ty 1990, công ty cổ phần được

xác định với các đặc điểm sau:

http://svnckh.com.vn 13

13Từ Thảo, Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần trên thế giới và ở Việt Nam, ULR: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/05/03/4791/, truy cập ngày 6/4/2010 lúc 16:03 PM. 14 Từ Thảo, Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần trên thế giới và ở Việt Nam, ULR: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/05/03/4791/, truy cập ngày 6/4/2010 lúc 16:03 PM.

- Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít

nhất là 7.

- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.

Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua 1 hoặc nhiều cổ

phiếu.

- Cổ phiếu được phát hành có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng lập

viên, của thành viên Hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có ghi tên.

- Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu ghi tên chỉ được

chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của Hội đồng quản trị, trừ trường hợp quy định tại

Điều 39 của Luật này.

Sau khi Luật Công ty ra đời, nhiều văn bản pháp luật khác nhau đã được ban hành

nhằm điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau

nhưng được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần. Hoạt động của các doanh nghiệp này

một mặt phải tuân thủ các quy định của Luật Công ty, mặt khác, do đặc thù riêng của các

ngành nghề kinh doanh, hoạt động của các doanh nghiệp này còn phải tuân thủ theo quy

định của các luật chuyên ngành. Chẳng hạn như trong Luật các tổ chức tín dụng có hiệu

lực từ ngày 01/10/1998 tại Điều 12 quy định về các loại hình tổ chức tín dụng có hình thức

tổ chức tín dụng cổ phần của Nhà nước và nhân dân, hay nói cách khác các Ngân hàng

thương mại cổ phần chính là các công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực tài chính – tiền

tệ. Trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, tại Điều 2.1 Quy chế về tổ chức và hoạt động

của công ty chứng khoán ban hành kem theo Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày

13/10/1998 quy định “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần thành lập hợp pháp tại Việt

Nam, được uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại

hình kinh doanh chứng khoán”.

Sau gần 10 năm thực hiện, Luật Công ty đã phát huy được tích cực vai trò của mình,

góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn các

quan hệ kinh doanh ở nước ta trong thời kỳ này liên tục biến đổi, Luật công ty đã bộc lộ rất

nhiều bất cập, nhất là trong vấn đề thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh. Các doanh

nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân chỉ được thành lập khi được Ủy ban nhân dân

tỉnh/thành phố cho phép. Công việc xin phép thành lập doanh nghiệp rất phức tạp, tốn kém

cả về thời gian và tiền bạc. Vào thời kỳ đó hoàn thành thủ tục thành lập một doanh nghiệp

http://svnckh.com.vn 14

trung bình mất khoảng sáu tháng và tốn hơn 1.000 USD, bằng khoảng ba – bốn lần thu

nhập bình quân đầu người. Sau khi thành lập, doanh nghiệp cũng chỉ được quyền kinh

doanh những gì mà cơ quan nhà nước cho phép. Vì vậy, mọi sự thay đổi liên quan đến

doanh nghiệp như thay đổi về vốn, ngành, nghề kinh doanh, người góp vốn, địa điểm đặt

trụ sở chính và phạm vi kinh doanh… đều phải được các ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho

phép hoặc chấp thuận. Kết quả là, trong gần 10 năm (1991 – 1999) có khoảng 45.000

doanh nghiệp thành lập; và đến ngày 31/12/1999 chỉ còn khoảng gần 30.000 doanh nghiệp

đang tồn tại, trong đó gần 2/3 là doanh nghiệp tư nhân, khoảng vài trăm công ty cổ phần và số còn lại là công ty trách nhiệm hữu hạn15. Chính vì thế, việc sửa đổi, thay thế luật này

được đặt ra như là một sự tất yếu khách quan. Luật Doanh nghiệp 1999 đã được ra đời

trong bối cảnh đó.

Những thay đổi trong Luật Doanh nghiệp 1999 đã thúc đẩy cho sự phát triển của

khu vực kinh tế tư nhân trong nước. Theo số liệu thống kê của Cục Phát triển Donah

nghiệp Nhỏ và Vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Từ đầu năm 2000 đến hết năm 2005, đã có

160.752 doanh nghiệp đăng ký thành lập, gấp 3,3 lần so với tổng số doanh nghiệp được

thành lập giai đoạn 1991 – 1999. Đã có sự thay đổi đáng kể về cơ cấu loại hình doanh

nghiệp, doanh nghiệp tư nhân giảm xuống đáng kể, từ khoảng 74% tổng số doanh nghiệp

thành lập năm 1991 xuống còn khoảng hơn 20% năm 2006. Công ty cổ phần tăng nhanh và

liên tục, đặc biệt năm 2000 chỉ chiếm khoảng 10% thì đến năm 2006 đã chiếm khoảng 20% tổng số doanh nghiệp.16

Sau hơn 5 năm đi vào hoạt động, Luật Doanh nghiệp 1999 đã được thay thế bằng

Luật Doanh nghiệp 2005. Trong các văn bản này, công ty cổ phần vẫn tiếp tục được ghi

nhận và được quy định theo hướng tiếp cận dần đến các chuẩn mực quốc tế về quản trị

công ty cổ phần.

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần

Công ty cổ phần là một trong những loại hình tổ chức kinh doanh phổ biến hiện nay,

đặc biệt trong nền kinh tế thị trường theo đinh hướng XHCN như ở nước ta. Theo Luật

Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam, công ty cổ phần được quy định như sau: công ty cổ

phần là doanh nghiệp, trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ

http://svnckh.com.vn 15

15 Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung, Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật doanh nghiệp 2005, Nxb. Tri Thức, 2008, tr.54 16 Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung, Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật doanh nghiệp 2005, Nxb. Tri Thức, 2008, tr.56

phần; cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế

số lượng tối đa; cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của

doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; cổ đông có quyền tự do

chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3

Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật Doanh nghiệp 2005. Công ty cổ phần có tư cách

pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Còn theo pháp luật của cộng hòa Pháp, trong bộ luật thương mại, các loại hình

công ty được chia làm hai dạng là công ty đối nhân (société de personnes) và công ty đối

vốn (société de capitaux). Khái niệm công ty cổ phần được quy định như sau: công ty cổ

phần là công ty mà vốn được chia thành các cổ phần và được hình thành giữa các cổ đông,

các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm đối với phần vốn mà họ đã góp vào công ty. Số lượng các cổ đông có thể dưới 7 người17

Từ góc độ pháp lý, có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần

như sau:

Một là, vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi

là cổ phần. Đây là đặc trưng rất cơ bản của công ty cổ phần. Trong quá trình hoạt động,

công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để công khai huy động

vốn. Việc chuyển nhượng cổ phần được thực hiện dễ dàng thông qua hành vi bán cổ phiếu

trên thị trường chứng khoán.

Hai là, công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm đối với mọi khoản nợ bằng tài sản

riêng của công ty. Điều đó có nghĩa là các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và nghĩa vụ

tài sản khác của công ty đối với phần vốn họ đã góp vào công ty.

Ba là, số lượng cổ đông phải lớn hơn hoặc bằng ba cổ đông. Đặc điểm đặc biệt nhất

là công ty cổ phần được quyền phát hành cổ phần để huy động vốn, đây là loại hình doanh

nghiệp duy nhất ở Việt Nam được quyền phát hành cổ phần.

Bốn là, công ty cổ phần là một tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập. Bản thân

công ty là một chủ thể pháp luật, là chủ sở hữu của tài sản công ty, là chủ và con nợ đối với

các khoản nợ của công ty. Các cổ đông được quyền chia lợi nhuận và phần tài sản còn lại

khi công ty giải thể, quyền mua cổ phần khi công ty phát hành thêm cổ phần.

http://svnckh.com.vn 16

17 Code de commerce, art. L225-1 . Nguyên văn trong tiếng Pháp:”La société anonyme est la société dont le capital est divisé en actions et qui est constituée entre des associés qui ne supportent les pertes qu'à concurrence de leurs apports. Le nombre des associés ne peut être inférieur à sept..”

1.1.3. Phân loại công ty cổ phần

Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam các công ty cổ phần chỉ có một loại hình duy

nhất gọi là công ty cổ phần.

Theo Luật Công ty của Pháp thì các công ty cổ phần gồm các loại hình sau:

- Công ty giao vốn cổ phần (Société en commandite par actions) là một hình thức

của công ty đối vốn được đặc trưng bởi sự hiện diện của hai loại cổ đông. Một mặt họ là

những người góp vốn, số lượng phải hơn ba người, họ chỉ chịu trách nhiệm với những thiệt

hại hay các khoản nợ của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trong phạm vi số vốn

mà họ đã đóng góp cho doanh nghiệp. Mặt khác, họ là những thành viên quản trị có năng

lực kinh doanh, họ có trách nhiệm liên đới và mãi mãi về các khoản nợ của doanh nghiệp.

Các thành viên quản trị không được tham gia vào Ban kiểm soát cũng không được tham gia bỏ phiếu hay chỉ định những thành viên của Hội đồng quản trị18.

- Công ty cổ phần giản đơn (Société par actions simplifiée) được hình thành bởi một

hay nhiều người, họ cũng chịu trách nhiệm về các khoản nợ tương ứng với phần vốn đã

góp. Điều đó có nghĩa một người cũng có thể thành lập loại hình công ty này : trong trường

hợp này, chúng ta sẽ có một công ty cổ phần giản đơn một thành viên (Société par actions simplifiée unipersonnelle - SASU)19.

- Công ty vô danh (Société anonyme) là công ty mà vốn được chia thành các cổ

phần và được hình thành giữa các cổ đông, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm đối với phần vốn mà họ đã góp vào công ty. Số lượng các cổ đông có thể dưới 7 người20.

1.1.4. Sự khác biệt giữa công ty cổ phần của Việt Nam và của Cộng hoà Pháp.

Công ty cổ phần là loại hình công ty có thể huy động vốn từ nhiều tổ chức và cá

nhân bằng cách phát hành và chào bán cổ phần. Ở Việt Nam, Luật công ty năm 1990 công

nhận hình thức công ty cổ phần, từ năm 1995, loại hình công ty này đã trở thành phổ biến

cùng với tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, công ty cổ phần là loại

http://svnckh.com.vn 17

18 Code de commerce, art. L222-1 à L222-12, et L222-1 à L222-12. Nguyên văn trong tiếng Pháp:”La société en commandite par actions est une forme de société de capitaux caractérisée par la présence de deux types d'associés, d'une part, les " commanditaires ", leur nombre ne peut être inférieur à trois, qui ne supportent les pertes de l'entreprise qu'à concurrence, chacun, de la valeur de leurs apports, et d'autre part, les "commandités" qui ont la qualité de commerçants et qui répondent indéfiniment et solidairement des dettes de la société. Les commandités ne peuvent, ni faire partie du conseil de surveillance, ni participer au vote pour la désignation des membres de ce conseil.” 19 Code de commerce, art. L227,1. Nguyên văn trong tiếng Pháp: ”Une société par actions simplifiée peut être instituée par une ou plusieurs personnes qui ne supportent les pertes qu'à concurrence de leur apport”. 20 Code de commerce, art. L225-1

hình doanh nghiệp có khả năng mở rộng qui mô vốn thông qua thị trường chứng khoán. Cổ

đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số

lượng tối đa, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác

của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp và có quyền tự do

chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật Doanh nghiệp 200521.

Ở Pháp, công ty cổ phần được coi là trụ cột của nền kinh tế. Luật thương mại 1807

của Pháp với bề dày lịch sử hàng trăm năm đã công nhận sự tồn tại của loại hình công ty

này.

Công ty giao vốn cổ phần ( SCA - Société en commandite par actions) được hình

thành bởi hai nhóm cổ đông. Thứ nhất là nhóm thành viên quản trị có năng lực quản lý

công ty, thứ hai là những người góp vốn, họ không được quản lý công ty và chỉ chịu trách

nhiệm với các khoản nợ của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trong phạm vi số vốn

mà họ đã đóng góp cho doanh nghiệp. Ngoại trừ giữa các cổ đông góp vốn, cổ phần của

các cố đông chị được chuyển nhượng dựa vào sự đồng ý của các cổ đông khác. Trong công

ty góp vốn cổ phần, những người góp vốn có quyền của cổ đông. Một hay nhiều nhà quản

lý được chỉ định bởi sự đồng thuận của tất cả các cổ đông, do đại hội đồng chỉ định để

quản lý và điều hành công ty. Việc quản lý này sẽ được kiểm soát bởi Bam kiểm soát gồm ba cổ đông hay bởi một hoặc nhiều kiểm toán viên22.

Công ty vô danh (SA - Société anonyme) đây là loại hình công ty tương đồng với

loại hình công ty cổ phần ở Việt Nam. Các điều luật về công ty vô danh được quy định

trong Bộ luật Thương mại 1807, chương V, mục thứ hai. Đây là một loại hình doanh

nghiệp bao gồm các đặc điểm sau : các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm trong giới hạn vốn mà

22 Code de commerce, art. L222-1 à L222-12, et L222-1 à L222-12. Nguyên văn trong tiếng Pháp:” La société en commandite est formée par deux groupes d'associés. Il faut distinguer, d'une part, les "commandités" qui en ont la gestion et qui sont tenus à l'égard des tiers comme les associés des sociétés en nom collectif, et d'autre part, les "commanditaires" qui ne peuvent s'immiscer dans la gestion de la société même en vertu d'un mandat et qui ne sont tenus chacun qu'à concurrence de la valeur de leurs apports. Sauf entre commanditaires, les parts d'un associé ne peuvent être cédées qu'en vertu d'un accord des autres associés. Dans la société en commandite par actions, les commanditaires ont la qualité d'actionnaires. Un ou plusieurs gérants désignés avec l'accord de tous les commandités, sont désignés par l'assemblée générale pour gérer la société qui est contrôlée par un Conseil de surveillance de trois associés, et par un ou plusieurs commissaires aux comptes”.

http://svnckh.com.vn 18

họ đóng góp cho công ty, một công ty vô danh phải bao gồm ít nhất 7 cổ đông (điều L.225- 21 Điều 77, Luật Doanh nghiệp 2005.

1 Bộ luật Thương mại 1807), vốn cổ phần phải được đăng ký đầy đủ, số lượng vốn pháp

định là 37.000 Euros ( điều L.224-2 Bộ luật Thương mại 1807), sự thay đổi về vốn không

thể thay đổi điều lệ của công ty, một hay nhiều kiểm toán viên được chỉ định để giám sát

việc quản lý kế toán, các cổ đông có thể tự do chuyển nhượng cổ phần. Tổng giám đốc

điều hành công ty dưới sự giám sát của Ban Kiểm soát. Có hai mô hình quản lý công ty vô

danh, thứ nhất là dạng cổ điển với Hội đồng quản trị, dạng thứ hai là một Hội đồng quản trị

và một Ban Kiểm soát.

Công ty cổ phần giản đơn (SAS - Société par actions simplifiée) là một mô hình

công ty mới xuất hiện ở Pháp và đã nhận được sự đón nhận nhiệt liệt từ các nhà đầu tư.

Công ty cổ phần giản đơn trước hết là công ty cổ phần và vì thế nó mang những đặc điểm

cơ bản của công ty cổ phần truyền thống. Tuy vậy, so với công ty cổ phần truyền thống,

công ty cổ phần giản đơn có rất nhiều ưu điểm, dù nhìn từ khía cạnh pháp lý hay nhìn từ

khía cạnh quản trị doanh nghiệp. Công ty cổ phần giản đơn có thể được thành lập chỉ với 2

người (cá nhân hay pháp nhân). Thậm chí một người cũng có thể thành lập loại hình công

ty này. Về mặt pháp lý, quy định này đã xóa bỏ ràng buộc số lượng thành viên tối thiểu đối

với công ty cổ phần (7 thành viên theo luật công ty của Pháp), đồng thời tạo ra một sự linh

hoạt cho việc tổ chức lại công ty : một công ty cổ phần giản đơn được thành lập với 2 hay

nhiều cổ đông nhưng sau đó một cổ đông mua lại 100% vốn của công ty thì công ty không

bị giải thể mà trở thành công ty cổ phần giản đơn một thành viên. Về khía cạnh quản trị,

quy định này cho phép một nhà đầu tư (dù là cá nhân hay pháp nhân) có nhiều lựa chọn

hơn khi quyết định khởi nghiệp kinh doanh một mình và tự mình nắm toàn quyền quản lý công ty23. Công ty cổ phần giản đơn chịu ít ràng buộc của pháp luật. Đó là những ràng buộc sau đây : số vốn pháp định để thành lập công ty cổ phần giản đơn là 37.000 euros24 ;

công ty không được phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng, không được niêm yết trên thị trường chứng khoán25. Mục đích của nhà lập pháp là nhằm đảm bảo tính đóng của công

ty. Tuy nhiên, các thành viên của công ty có thể phát hành chứng khoán giữa họ với nhau

hoặc cho nhân viên công ty hay cho một số lượng xác định các nhà đầu tư bên ngoài.

1.2. Quản lý và điều hành công ty cổ phần.

http://svnckh.com.vn 19

23 Trước khi mô hình công ty cổ phần giản đơn ra đời, một cá nhân trong trường hợp này chỉ có thể lựa chọn giữa doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH một thành viên, còn một pháp nhân chỉ có thể lựa chọn công ty TNHH một thành viên. 24 Số vốn này bằng số vốn pháp định để thành lập công ty cổ phần không phát hành chứng khoán rộng rãi ra công chúng. 25 Điều 227-2 Bộ luật Thương mại của Pháp năm 2005

1.2.1. Sự cần thiết của quản lý và điều hành công ty cổ phần.

Công ty cổ phần là một thực thể thống nhất có tổ chức chặt chẽ. Bản thân công ty

cổ phần là một pháp nhân độc lập với đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, bản

thân công ty không thể tự quyết định ý chí của mình hay tự mình hành động như một thể

nhân. Ý chí và hành vi của những thể nhân giữ cương vị nhất định trong công ty được xem

là ý chí và hành vi của công ty. Vì vậy, trong công ty cổ phần có sự tách biệt giữa quyền sở

hữu cổ phần và quyền quản lý kinh doanh. Sự tách biệt này giúp tiết kiệm chi phí của việc

ra quyết định và để đảm bảo rằng các nhà quản lý không đi ngược lại lợi ích của mình, các

cổ đông thành lập ra bộ máy, cơ chế để quản lý, kiểm soát những hành vi cơ hội chủ nghĩa

của các cổ đông nắm quyền kiểm soát hoặc là đối với các cổ đông khác hoặc là đối với các

đối tác khác liên quan đến công ty như chủ nợ hay người lao động.

Trước một vấn đề như vậy, nhiệm vụ của pháp luật công ty là đưa ra những hình

thức tổ chức hoạt động có thể tạo điều kiện bảo vệ những nhóm quyền lợi một cách hài hoà

và ổn định như nhóm quyền lợi của những người quản lý công ty, nhóm quyền lợi của

những cổ đông thiểu số, quyền lợi của những người cho vay. Trong nội bộ doanh nghiệp,

các nhóm trên đều mong muốn công ty kinh doanh có hiệu quả và phát triển bền vững. Tuy

nhiên, do sự tách biệt quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh đã làm nảy sinh những

rủi ro về sự khác nhau về lợi ích giữa các nhóm. Vậy vấn đề làm sao tạo ra sự tự do không

quá lớn, sự giám sát không quá quá yếu để những người có quyền quản lý và kiểm soát

công ty, thường là thành viên Ban giám đốc, Hội đồng quản trị hay những cổ đông chiếm

cổ phần chi phối trong công ty hành động một cách năng động, sáng tạo, linh hoạt vì lợi

ích của chủ sở hữu công ty. Chính vì thế, công tác quản lý và điều hành công ty ra đời

nhằm giải quyết vấn đề trên.

Tóm lại, trong một công ty có nhiều đối tượng hưởng lợi và những đối tượng này

được phân chia thành các nhóm có lợi ích xung đột với nhau thì việc quản lý và điều hành

công ty chính là giải pháp để cân bằng các ảnh hưởng đó một cách tối ưu nhằm phát huy

được tính hiệu quả, công khai, minh bạch, góp phần bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn và cải thiện

sức cạnh tranh cho chính bản thân doanh nghiệp.

1.2.2. Nội dung của công tác quản lý và điều hành công ty cổ phần

Công tác quản lý và điều hành công ty cổ phần bao gồm những cơ chế, quy định

thông qua đó công ty được điều hành và kiểm soát. Nội dung của công tác quản lý và điều

http://svnckh.com.vn 20

hành xác định cơ cấu tổ chức quản lý, xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa những

thành viên khác nhau trong cơ cấu quản lý công ty cổ phần, bao gồm Đại hội đồng cổ đông,

Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; đối với công ty cổ phầncó trên mười

một cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm soát26.

Như vậy, theo Luật doanh nghiệp 2005, cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần

được thiết kế theo một trong hai mô hình sau:

Mô hình 1: Mô hình (phải) có Ban kiểm soát

Mô hình 2: Mô hình không có (không bắt buộc) Ban kiểm soát

http://svnckh.com.vn 21

26 Điều 95, Luật doanh nghiệp 2005.

Đối với mô hình 1, việc tổ chức quản lý công ty có sự phân công, phân nhiệm và

chế ngự lẫn nhau giữa các cơ quan quản lý, điều hành và kiểm soát. Về mặt lý thuyết, đây

là mô hình truyền thống và điển hình của các công ty cổ phần. Đây là bộ máy tổ chức quản

lý phù hợp và hiệu quả trong trường hợp công ty cổ phần mang tính “đại chúng”, tức là có

sự tham gia đông đảo của các cổ đông khác nhau. Trong những trường hợp khác, bộ máy

này sẽ trở nên cồng kềnh, khiên cưỡng. Có lẽ xuất phát từ cách nhìn nhận đó mà Luật

Doanh nghiệp 2005 quy định đối với những công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân

phải có Ban kiểm soát. Tuy nhiên, cũng theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì cả trong trường

hợp công ty cổ phần có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty thì

cũng bắt buộc phải có Ban kiểm soát. Đây là một điểm mới và khác biệt của Luật Doanh

nghiệp 2005 so với Luật Doanh nghiệp 1999.

Theo Luật Doanh nghiệp 1999 (Điều 69), việc xác định công ty cổ phần có bắt

buộc phải có Ban kiểm soát hay không là căn cứ vào yếu tố “số lượng” cổ đông, theo đó

đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông thì phải có Ban kiểm soát. Tuy nhiên, trong

Luật Doanh nghiệp 2005 (Điều 95), việc xác định tính bắt buộc phải có Ban kiểm soát

trong công ty cổ phần phụ thuộc vào một trong hai yếu tố sau:

- Yếu tố số lượng, theo đó công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân phải có

Ban kiểm soát. Ở đây, cũng có điểm khác với luật Doanh nghiệp 1999, yếu tố số lượng chỉ

tính đối với cổ đông là cá nhân mà thôi.

- Yếu tố sở hữu cổ phần công ty, theo đó công ty cổ phần có cổ đông là tổ chức sở

hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm soát. Như vậy, yếu tố sở hữu

cổ phần công ty trong việc bắt buộc phải có Ban kiểm soát chỉ đặt ra đối với cổ đông là tổ

chức.

Chỉ cần công ty cổ phần có một trong hai yếu tố đó thì đã rơi vào trường hợp bắt

buộc phải có Ban kiểm soát mà không cần phải có cả hai yếu tố cùng một lúc.

Còn ở mô hình 2 thì không còn sự xuất hiện của Ban kiểm soát. Ở Pháp thì mô hình

này được gọi là cấu trúc đơn. Hội đồng quản trị có ít nhất ba người nhưng không được quá

12 người. Trên nguyên tắc thì những người này không được nắm chức vụ trong Ban Giám

http://svnckh.com.vn 22

đốc.

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ

TRONG QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN TẠI

VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

2.1. Cách thức triệu tập Đại hội đồng cổ đông

2.1.1. Quy định của pháp luật về triệu tập Đại hội đồng cổ đông

2.1.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam.

a. Chức năng và thành phần

Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định (cơ quan quyền lực) cao nhất của công

ty cổ phần bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết (cổ phiếu phổ thông và cổ

phiếu ưu đãi biểu quyết). Các cổ đông ưu đãi khác không thuộc Đại hội đồng cổ đông vì họ

không có quyền biểu quyết như cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại…

http://svnckh.com.vn 23

b. Thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông

Trong công ty cổ phần, Đại hội đồng cổ đông được xem là cơ quan đại diện quyền

lực của những người góp vốn, là nơi phản ánh tập trung nhất quyền lực của các cổ đông.

Với ý nghĩa đó, Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định hầu hết những vấn đề trọng đại

của công ty.

Có thể phân thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông thành các nhóm sau đây27:

- Thứ nhất, Đại hội đồng cổ đông có quyền thông qua định hướng phát triển công ty,

quyết định tổ chức lại, giải thể công ty. Đây là những vấn đề liên quan đến nền tảng của

công ty, nên chỉ có Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất mới có thẩm

quyền này.

- Thứ hai, Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định loại cổ phần và tổng số cổ

phần được quyền chào bán của từng loại. Cần chú ý rằng đây là thẩm quyền liên quan đến

việc phát hành cổ phần mới để tăng vốn điều lệ của công ty trong quá trình công ty hoạt

động.

- Thứ ba, Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định về mức cổ tức hàng năm của

từng loại cổ phần. Việc quyết định mức cổ tức hàng năm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền

lợi về vật chất của các cổ đông, do đó vấn đề này Luật doanh nghiệp 2005 trao thẩm quyền

cho Đại hội đồng cổ đông với tư cách là cơ quan có quyền lực cao nhất trong công ty.

- Thứ tư, Đại hội đồng cổ đông có thẩm quyền thông qua báo cáo tài chính hàng

năm của công ty. Báo cáo tài chính hàng năm của công ty do Hội đồng quản trị lập và gửi

Ban kiểm soát để thẩm định (Điều 128.1), sau đó Ban kiểm soát thẩm định và trình báo cáo

thẩm định lên Đại hội đồng cổ đông (Điều 123.3). Bên cạnh việc xem xét và thông qua báo

cáo tài chính, Đại hội đồng cổ đông còn xem xét báo cáo đánh giá công tác quản lý và điều

hành công ty.

- Thứ năm, Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ

phần đã bán của mỗi loại. Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định loại cổ phần và tổng

số cổ phần được quyền chào bán của từng loại, do đó khi công ty mua lại các cổ phần đã

bán, đặc biệt là khi mua lại với số lượng lớn (trên 10%) có khả năng ảnh hưởng đến cơ cấu

vốn điều lệ của công ty, do đó phải được chính Đại hội đồng cổ đông quyết định việc mua

lại.

http://svnckh.com.vn 24

27 Điều 96, Luật Doanh nghiệp 2005.

- Thứ sáu, quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50%

tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công

ty không quy định một tỷ lệ khác. Mặc dù đây là những vấn đề có tính chất quản lý (mang

tính chất kinh doanh đầu tư hoặc bán tài sản của công ty) nhưng với phạm vi đầu tư hoặc

bán này (hơn 50% tổng giá trị tài sản của công ty) có khả năng ảnh hưởng đến cơ cấu tài

chính và nền tảng chung của công ty, do đó quyết định này cần được giành cho cơ quan

quyền lực cao nhất của công ty là Đại hội cổ đông .

- Thứ bảy, Đại hội đồng cổ đông có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên

Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát; đồng thời có quyền xem xét và xử lý các vi

phạm của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát gây thiệt hại cho công ty và cổ đông.

- Thứ tám, Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung điều lệ

công ty. Có thể nói trong toàn bộ văn kiện pháp lý (hồ sơ) thành lập công ty, thì bản điều lệ

với tư cách là “bộ luật riêng” của công ty đóng vai trò quan trọng nhất trong toàn bộ quá

trình tồn tại và hoạt động của công ty.

c. Triệu tập và thể thức tiến hành cuộc họp Đại hội đồng cổ đông

* Kỳ họp của Đại hội đồng cổ đông

Đại hội đồng cổ đông họp thường niên hoặc bất thường, ít nhất mỗi năm họp 1 lần.

- Họp thường niên: Đại hội đồng cổ đông phải họp thường niên trong thời hạn 4

tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Tuy nhiên có thể gia hạn, nhưng không quá 6

tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính.

- Họp bất thường: Hội đồng quản trị phải triệu tập họp bất thường Đại hội đồng cổ

đông trong các trường hợp sau đây:

+ Hội đồng quản trị xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty.

+ Số thành viên Hội đồng quản trị còn lại ít hơn số thành viên theo quy định của

pháp luật;

+ Theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 79 của

Luật DN;

+ Theo yêu cầu của Ban kiểm soát;

+ Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.

http://svnckh.com.vn 25

* Thẩm quyền triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông:

- Hội đồng Quản trị: Hội đồng Quản trị được cho là đương nhiên có quyền triệu tập

họp Đại hội đồng cổ đông thường niên và bất thường.

- Ban kiểm soát: Ban kiểm soát có quyền triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong

trường hợp Hội đồng Quản trị không triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông theo quy định tại

điều 97.4, Luật Doanh nghiệp 2005.

- Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong

thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng (hoặc 1 tỷ lệ nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty) đã yêu

cầu Hội đồng Quản trị triệu tập họp có quyền thay thế Hội đồng Quản trị, Ban kiểm soát

triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp Hội đồng Quản trị và Ban kiểm soát

không triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông theo quy định.

* Chương trình và nội dung

Người triệu tập họp phải lập danh sách cổ đông có quyền dự họp và biểu quyết;

chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu cuộc họp và dự thảo nghị quyết đối với từng vấn

đề trong chương trình họp; xác định thời gian, địa điểm họp và gửi thông báo mời họp đến

các cổ đông có quyền dự họp. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông vốn ít mà nắm đến 10% vốn

góp có quyền kiến nghị vấn đề đưa vào chương trình họp.

* Mời họp Đại hội đồng cổ đông

Người triệu tập họp gửi thông báo mời họp đến tất cả cổ đông có quyền dự họp

chậm nhất bảy ngày làm việc trước ngày khai mạc hay ngắn hơn tùy theo bản điều lệ. Việc

thông báo được luật quy định chi tiết để bảo đảm cổ đông biết được và sử dụng quyền của

mình.

*Điều kiện tiến hành họp Đại Hội Đồng Cổ Đông28

- Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện

ít nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.

- Trường hợp cuộc họp lần thứ nhất không đủ điều kiện tiến hành theo quy định thì

được triệu tập họp lần thứ hai trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày dự định họp lần thứ

nhất. Cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông triệu tập lần thứ hai được tiến hành khi có số cổ

đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.

- Trường hợp cuộc họp triệu tập lần thứ hai không đủ điều kiện tiến hành theo quy

http://svnckh.com.vn 26

định thì được triệu tập họp lần thứ ba trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày dự định họp lần 28 Điều 102, Luật Doanh nghiệp 2005.

thứ hai. Cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông được tiến hành không phụ thuộc vào số cổ

đông dự họp và tỷ lệ số cổ phần có quyền biểu quyết của các cổ đông dự họp.

Người chủ tọa có quyền hoãn cuộc họp đến một thời điểm khác hoặc thay đổi địa

điểm họp khi không đủ điều kiện tiến hành họp như địa điểm họp không có đủ chỗ ngồi

thuận tiện, có người cản trở, gây rối trật tự… Thời gian hoãn tối đa không quá ba ngày, kể

từ ngày cuộc họp dự định khai mạc.

* Quyết định của Đại hội được thông qua tại cuộc họp khi có đủ các điều kiện

sau đây:

- Được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông

dự họp chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do bản điều lệ quy định.

- Đối với quyết định về loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền

chào bán; sửa đổi, bổ sung bản điều lệ; tổ chức lại, giải thể công ty; đầu tư hoặc bán tài sản

có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần

nhất của công ty nếu bản điều lệ không có quy định khác thì phải được số cổ đông đại diện

ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp thuận; tỷ lệ do bản

điều lệ quy định.

Khi thông qua quyết định dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản thì quyết định của

Đại hội đồng cổ đông được thông qua nếu được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số

phiếu biểu quyết chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do bản điều lệ quy định.

2.1.1.2. Quy định của pháp luật Pháp

Ở Pháp tồn tại ba hình thức họp Đại hội đồng cổ đông. Đầu tiên là Đại hội đồng cổ

đông thường niên (Assemblées Générales Ordinaires - AGO). Đại hội đồng cổ đông này

phải được triệu tập ít nhất một lần một năm, trong vòng 6 tháng sau khi kết thúc năm tài

chính. Đây là loại hình Đại hội đồng cổ đông bắt buộc. Nó cho phép công bố các bản báo

cáo của công ty, bổ nhiệm giám đốc và xác định số tiền cổ tức. Thứ hai là Đại hội đồng cổ

đông bất thường (Assemblée Générale Extraordinaire - AGE). Xảy ra hiếm hơn, nó chỉ bắt

buộc tiến hành trong một số trường hợp nhất định. Chẳng hạn như những sự thay đổi về

điều lệ công ty hay phát hành cổ phiếu mới mới phải cần tiến hành họp Đại hội đồng cổ

đông bất thường. Thứ ba là Đại hội đồng cổ đông hỗn hợp (Assemblées Générales Mixtes -

AGM). Loại hình họp Đại hội đồng cổ đông này cho phép đồng thời kết hợp các quyết

http://svnckh.com.vn 27

định được thông qua tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên và những quyết định

tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường. Vì thế các công ty có thể tiết kiệm được chi

phí thực hiện một cuộc họp Đại hội đồng cổ đông .

a. Đại hội đồng cổ đông thƣờng niên:

Là cuộc họp dành cho cho tất cả các cổ đông, không phân biệt số lượng cổ phiếu

mà họ nắm giữ. Nó phải được thực hiện ít nhất mỗi năm một lần (trong 6 tháng tiếp theo

sau khi kết thúc năm tài chính). Cổ đông có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua

người ủy quyền các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông.

Tại các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thông thường dành cho những nhà đầu tư

nắm giữ ít nhất một quyền bỏ phiếu. Quyền bỏ phiếu này thường được nhập vào trong cổ

phiếu. Cổ phiếu thường bao gồm quyền bỏ phiêu và quyền hưởng cổ tức. Một vài loại cổ

phiếu không bao gồm quyền bỏ phiếu đó là cổ phiếu ưu đãi. Những cổ đông sở hữu loại cổ

phiếu này có thể phát biểu ý kiến nhưng không được bỏ phiếu.

* Thẩm quyền (nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn)

Đại hội đồng cổ đông có trách nhiệm:

- Thông qua các báo cáo của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.

- Quyết định những vấn đề thuộc quá quyền hạn của Giám đốc.

- Bổ nhiệm và bổ nhiệm lại các thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và

kiểm toán viên.

- Quyết định việc mua bán tài sản có giá trị bằng vốn của công ty.

- Quyết định việc phát hành trái phiếu.

*

Việc triệu tập Đại hội đồng cổ đông thông thường là do Hội đồng quản trị hoặc

Ban kiểm soát. Trong một số trường hợp, việc triệu tập có thể được thực hiện bởi:

- Kiểm toán viên.

- Một người ủy quyền được chỉ định bởi thẩm phán theo yêu cầu của bất cứ bên

liên quan nào trong trường hợp khẩn cấp hoặc của cổ đông hay nhóm cổ đông nắm giữ

10% vốn góp.

- Người phụ trách việc giải thể hay phá sản công ty.

Người triệu tập họp gửi thông báo mời họp bằng văn bản (trong trường hợp công ty

http://svnckh.com.vn 28

không phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng) hoặc bằng cách đăng một thông báo trên

một tờ báo thông báo hợp pháp và thông báo chính thức (trong tường hợp công ty phát

hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng) trong thời hạn ít nhất là 15 ngày trước ngày bắt đấu

cuộc họp Đại hội đồng cổ đông .

* Điều kiện tiến hành họp

Để việc tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông thường niên một cách hợp pháp,

thường tuân theo những điều kiện của số cổ đông tham dự bầu tối thiểu của một hội

đồng (quorum) và cổ đông đa số (majorité).

- Số cổ đông tham dự tối thiểu của một hội đồng: Nó chỉ số lượng cổ phần có

quyền biểu quyết và nó cần thiết cho việc tổ chức cuộc họp Đại hội đồng cổ đông.

Trong trường hợp các cổ phiếu có mệnh giá khác nhau, thì sẽ xem xét số lượng các

cổ phiếu. Các đại biểu cần phải có mặt trong suốt thời gian diễn ra cuộc họp. Để

thảo luận trong cuộc họp đầu tiên, các cổ đông hay các đại diện của các cổ đông

phải có ít nhất ¼ số cổ phần có quyền biểu quyết. Nếu số cổ đông tối thiểu không

đạt được ¼ thì sẽ phải triệu tập ĐH lần thứ hai, và lần này thì cuộc họp sẽ được tiến

hành bất kể số cổ đông dự họp và tỷ lệ số cổ phần có quyền biểu quyết của họ.

Trên thực tế, trong những công ty lớn, số đại biểu cần thiết hiếm khi đạt

được ở lần triệu tập Đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất, vì những cổ đông nhỏ có

một xu hướng xấu đó là không quan tâm đến cuộc họp Đại hội đồng cổ đông.

- Biểu quyết đa số: cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên đưa ra quyết

định dựa vào đa số phiếu mà các cổ đông hay đại diện cổ đông nắm giữ.

Nghị quyết của cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên phải được ghi

thành biên bản, được lập bởi các thành viên của ban chỉ đạo hội đồng (một chủ tịch,

hai người kiểm phiếu và một thư ký)

b. Đại hội đồng cổ đông bất thƣờng

* Đặc điểm

Cũng giống như cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên, cuộc họp Đại

hội đồng cổ đông bất thường dành cho tất cả các cổ đông. Nó được triệu tập để

quyết định những thay đổi về điều lệ. Thông báo tiến hành phải được gửi ít nhất 15

ngày trước khi cuộc họp đầu tiên diễn ra

http://svnckh.com.vn 29

* Quyền quyết định

Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông có quyền sửa đổi mọi quy định trong điều lệ

của công ty. Từ việc tăng vốn, thay đổi trụ sở công ty đến việc hợp nhất công ty,…

Nó cũng có thể tăng nghĩa vụ của các cổ đông.

* Điều kiện tiến hành họp

Đại hội đồng cổ đông bất thường chỉ được tiến hành một cách hợp pháp nếu

các cổ đông hoặc đại diện của các cổ đông sở hữu ít nhất một nửa trong lần triệu tập

đầu tiên và ¼ trong lần triệu tập thứ hai số cổ phần có quyền biểu quyết.

Các nghị quyết được thông qua dựa vào 2/3 số phiếu bầu của các cổ đông

hoặc đại diện các cổ đông.

Thay vào số đại biểu cần thiết để ĐH có thể tiến hành, lần triệu tập Đại hội

đồng cổ đông lần thứ hai có thể được hoãn đến sau hai tháng kể từ ngày họp lần đầu

tiên.

* Công bố quyết định

Tất cả mọi hành động, tranh luận và quyết định dẫn đến việc sửa đổi điều lệ

được đệ trình theo thủ tục công bố bằng cách cung cấp cho Tòa án có thẩm quyền,

đăng một thông báo trên một tờ báo pháp lý, thông báo chính thức và đăng ký

thương mại.

2.1.2. Thực trạng về vấn đề triệu tập đại hội đồng cổ đông tại Việt Nam.

Họp Đại hội đồng cổ đông của phần lớn các công ty cổ phần (khoảng 96%) thường

họp thường niên mỗi năm một lần. Khoảng từ 30 đến 40% tổ chức họp Đại hội đồng cổ

đông mỗi quý một lần. Về việc triệu tập họp, đa số các công ty (khoảng 60%) nhìn chung

đều tuân thủ đúng trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông. Tại các cuộc họp

thường niên, các thành viên tham gia thường thảo luận và quyết định về ba vấn đề: (i) báo

cáo hàng năm tổng kết tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh; (ii) báo cáo kế hoạch sản

xuất kinh doanh của năm tiếp theo; (iii) mức cổ tức được chia. Ngoài ra, một số công ty

http://svnckh.com.vn 30

còn bầu Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát tại Đại hội đồng cổ đông thường niên. Như

vậy, Đại hội đồng cổ đông rất ít hoặc không bàn thảo và quyết định về định hướng chiến lược phát triển công ty29.

Trong phần lớn các công ty cổ phần (khoảng 85%), Chủ tịch Hội đồng quản trị

kiêm Giám đốc chuẩn bị chương trình, nội dung họp và tài liệu họp Đại hội đồng cổ đông

thường niên; và ở các công ty còn lại, Chủ tịch Hội đồng quản trị, hoặc thành viên thường

trực hoặc Giám đốc chuẩn bị. Các cuộc họp thường niên của Đại hội đồng cổ đông thường

kéo dài nửa ngày (hơn 52%), hoặc một ngày (khoảng 47%); số còn lại kéo dài hơn một ngày30.

Thực tế cũng cho thấy, ở một số không nhỏ các công ty cổ phần, trình tự và thủ tục

triệu tập Đại hội đồng cổ đông vẫn chưa được tuân thủ đúng. Cụ thể có một số sai sót và

nhầm lẫn thường gặp phải như sau:

a. Nhầm lẫn về tên gọi cuộc họp

Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định "Đại hội đổng cổ đông gổm tất cả cổ đông

có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần". Đại hội đổng cổ

đông là một cơ cấu tổ chức của công ty, luôn hiện hữu từ khi thành lập công ty cổ phầncho

đến khi chấm dứt hoạt động. Mọi cổ đông đều là thành viên đương nhiên cấu thành nên

Đại hội đồng cổ đông. Nhưng hầu hết các công ty, các phương tiện báo chí và cơ quan Nhà

nước đã sử dụng nhầm lẫn chữ "Đại hội" trong cụm từ này đổng nghĩa với cuộc họp, cho

nên viết là "mời dự Đại hội đồng cổ đông Tập đoàn Bảo Việt" hay "Đại hội đồng cổ đông

thường niên Ngân hàng TMCP Hàng Hải" hoặc "Đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất Ngân

hàng TCMP Công thương Việt Nam". Theo đúng ngữ nghĩa cũng như quy định của Luật

Doanh nghiệp, luôn luôn phải thêm từ cuộc họp hoặc từ khác tương đương vào cụm từ

"Đại hội đồng cổ đông" để chỉ một cuộc họp.

Ngay chính Luật Doanh nghiệp cũng một lần bị nhầm lẫn và đã diễn ra không ít lần

nhầm lẫn trong một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Gần đây nhất là Công văn số

3069/BKH-PTDN ngày 04-5-2009 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng không chính xác khi

viết câu trích yếu: "V/v Tỷ lệ tham dự Đại hội đồng cổ đông thường niên của công ty cổ

phần".

b. Nhầm lẫn về thời hạn mời họp

http://svnckh.com.vn 31

29 Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung, Công ty vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp 2005, 2009, Nxb. Tri thức, tr. 312. 30 Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung, Công ty vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp 2005, 2009, Nxb. Tri thức, tr. 313.

Khoản 2, Điều 97 của Luật Doanh nghiệp quy định Đại hội đồng cổ đông phải họp

thường niên trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Tuy nhiên, trên

thực tế, rất nhiều công ty đã kéo dài thời hạn họp đến tận tháng 5, tháng 6 năm sau. Ví dụ,

đến giữa tháng 6/2009 Ngân hàng TMCP Quân Đội mới tiến hành họp Đại hội đổng cổ

đông hay Công ty cổ phầnchứng khoán APEC họp vào cuối tháng 6-2009.

Khoản 1, Điều 100 của Luật Doanh nghiệp đã quy định rõ là thông báo mời họp

phải gửi đến tất cả cổ đông chậm nhất là bảy ngày làm việc trước ngày khai mạc. Quy định

này nhằm tạo điều kiện cho cổ đông có đủ thời gian bố trí và nghiên cứu tài liệu để tham

gia cuộc họp. Tuy nhiên, phổ biến là tình trạng gửi chậm hơn thời hạn luật định. Có thể

thông báo mời họp thì ghi đúng thời hạn, nhưng chỉ là thời hạn đối phó, chứ chưa thể gửi

đi đúng ngày hoặc gửi trước 7 ngày nhưng tính cả ngày nghỉ hay gửi tài liệu đến tay cổ

đông thì chỉ còn 1-2 ngày hoặc thậm chí đã quá ngày họp. Một trong những nguyên nhân

là luật không nói rõ thời hạn trên được tính theo ngày gửi "đi" hay ngày gửi "đến", không

những thế lại còn cho phép Điều lệ công ty có thể quy định thời hạn ngắn hơn nữa. Ví dụ

như trong vụ kiện ông Huỳnh Văn Quảng kiện Công ty cổ phần Từ Liêm (Án kinh tế số 39

ngày 04/03/2005, Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội), một trong những nguyên nhân dẫn

đến tranh chấp đó là do giấy mời họp gửi không đúng thời gian theo quy định của pháp

luật. Ông Quảng nhận được giấy mời họp chỉ trước ba ngày diễn ra họp Đại hội đồng cổ

đông vào ngày 30/12/2003. Việc này đã làm mất quyền lợi của ông Quảng và vi phạm

khoản 1 Điều 100 Luật Doanh nghiệp 2005, dẫn đến việc triệu tập Đại hội đồng cổ đông

của công ty cũng bị vi phạm Luật Doanh nghiệp 2005.

c. Nhầm lẫn về phƣơng thức gửi thông báo mời họp

Điều 100 của Luật Doanh nghiệp cũng quy định thông báo được gửi bằng phương

thức bảo đảm đến được địa chỉ thường trú của cổ đông. Điều đó có nghĩa là phải gửi bằng

phương thức mà có thể kiểm soát được kết quả gửi, chứ không thể gửi thư theo cách thức

thông thường, không có ký nhận, không có kết quả ảo đảm rằng

đến được địa chỉ thường trú của cổ đông.

Ngoài ra, trên thực tế, nhiều khi không thể gửi đúng địa chỉ "thường trú" như quy

định của luật mà sẽ gửi sai theo địa chỉ liên lạc do cổ đông đăng ký do các công ty cổ phần

lớn có thể lên đến hàng vạn, thậm chí hàng triệu cổ đông. Do đó việc gửi đúng địa chỉ đến

tất cả các cổ đông không phải là điều dễ dàng. Thực tế này được rút ra từ nhận định của

http://svnckh.com.vn 32

luật sư dày dạn kinh nghiệm Trương Thanh Đức – Chủ tịch công ty luật BASICO. Luật

còn quy định rõ công ty có trang thông tin điện tử thì thông báo mời họp và các tài liệu gửi

kèm theo phải được công bố trên trang thông tin điện tử đó đổng thời với việc gửi thông báo cho các cổ đông31. Việc công bố thông báo mời họp trên trang thông tin điện tử chính

thức của công ty không phải là việc khó tuy nhiên điều khó khăn ở đây là với một số lượng

cổ đông rất lớn thì không phải ai cũng truy cập lên trang thông tin của công ty để cập nhật

tình hình.

d. Nhầm lẫn về danh sách cổ đông có quyền dự họp

Khoản 1, Điều 98 của Luật Doanh nghiệp có quy định về danh sách cổ đông có

quyền dự họp Đại hội đổng cổ đông. Việc chốt danh sách này chỉ là để thuận tiện cho yêu

cầu phải gửi thông báo mời họp đến địa chỉ của tất cả cổ đông có quyền dự họp. Tuy nhiên,

nhiều công ty lại hiểu nhầm rằng, chỉ có những cổ đông có tên tại danh sách cổ đông vào

thời điểm lập danh sách mới có quyền dự họp. Đúng ra, thì tất cả cổ đông có tên trong

danh sách cổ đông đến ngày khai mạc cuộc họp đều được quyền dự họp. Quyền đương

nhiên này của các cổ đông đã được quy định rõ tại khoản 5, Điều 101 của Luật Doanh

nghiệp. Chỉ có khác là, công ty không bắt buộc phải gửi thông báo mời họp cho những cổ

đông sau thời điểm chốt danh sách mời họp. Tuy nhiên, nếu cổ đông nhận chuyển nhượng

cổ phần sau thời điểm này, thì công ty phải có nghĩa vụ thông báo và tạo điều kiện cho họ

thực hiện quyền dự họp. Điều này cũng tương tự như việc chia cổ tức, phải thông báo

trước để bảo đảm quyền lợi của các cổ đông đã có trong danh sách cổ đông, tránh tình

trạng chốt danh sách chia cổ tức lùi lại nhiều tháng, dẫn đến cổ đông đã bán cổ phần gần

một năm rổi vẫn được chia cổ tức, trong khi người mua thì lại mất quyền như đã từng xảy

ra tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Nam năm 2007-2008.

e. Nhầm lẫn về nội dung thông báo mời họp

Điều 100 của Luật Doanh nghiệp đã quy định rõ về mời họp Đại hội đổng cổ đông.

Nhưng còn nhiều công ty chỉ gửi một thông báo mời họp mà không gửi tài liệu kèm theo

hoặc chỉ gửi một số ít trong số những tài liệu nói trên, còn lại thì đề nghị xem tài liệu trên

trang web hoặc phát tại cuộc họp, thậm chí là không có. Những tài liệu thường hay thiếu

phải kể đến là: chương trình họp, phiếu biểu quyết, dự thảo nghị quyết đối với từng vấn đề trong chương trình họp32. Như trong vụ tranh chấp tại Công ty cổ phần Từ Liêm đã nói ở

http://svnckh.com.vn 33

31 LS. Trương Thanh Đức, Những nhầm lẫn và bất cập về thủ tục họp Đại hội đồng cổ đông. ULR: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/02/26/4726-2/ 32 LS. Trương Thanh Đức, Những nhầm lẫn và bất cập về thủ tục họp Đại hội đồng cổ đông.

phần trên, thì các tài liệu gửi kèm theo giấy mời họp chỉ gồm dự kiến các chỉ tiêu kinh tế

và tài chính năm 2003 không đúng với quy định. Nếu là báo cáo tài chính thì phải gồm ba

tài liệu kèm theo là Báo cáo tài chính, Bảng cân đối tài khoản, Báo cáo kết quả hoạt động

sản xuất kinh doanh.

f. Nhầm lẫn trong quá trình tiến hành cuộc họp

Về tiến hành cuộc họp Đại hội đổng cổ đông có lẽ cũng hiếm có công ty nào thực

hiện theo đúng trình tự biểu quyết. Đó là trường hợp của Công ty cổ phần vận tải hành

khách Thanh Xuân (xem thêm tại Phụ lục của đề tài). Ngày 21.4.2004, Đại hội đồng cổ

đông thường niên của Công ty lần thứ 4 đã thông qua nghị quyết số 04/Hội đồng quản trị

tăng vốn điều lệ từ 5,5 tỷ đồng lên 08 tỷ đồng. Thực hiện nghị quyết nêu trên, cuối năm

2004 đầu năm 2005 Giám đốc Công ty đã quyết định bán 25.000 cổ phần nhưng không

thông báo đến tất cả các cổ đông. Ngày 09.11.2006, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty đã

triệu tập Đại hội cổ đông bất thường để xem xét việc bán 25.000 cổ phần do Giám đốc tự ý

quyết định. Tại Đại hội này, các cổ đông đã nhất trí ra nghị quyết số 186/Hội đồng quản trị

ngày 09.11.2006 huỷ việc bán cổ phần trái quy định. Không đồng ý với nghị quyết 186/Hội

đồng quản trị ngày 09.11.2006, ngày 30.11.2006 các nguyên đơn đã có đơn khởi kiện đề

nghị Toà án huỷ bỏ nghị quyết số 186/Hội đồng quản trị nêu trên. Trong vụ án này, về

trình tự biểu quyết tại cuộc họp phải được tiến hành theo quy định tại khoản 5 Điều 103.

Căn cứ theo trình tự được quy định thì Đại hội đồng cổ đông ngày 09.11.2006 của Công ty

cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân không phát thẻ biểu quyết cho các cổ đông mà

việc bỏ phiếu được thực hiện theo thể thức gạch bỏ chữ tán thành hoặc không tán thành

quyết định huỷ bỏ kết quả bán cổ phần năm 2005 trong phiếu biểu quyết. Hội đồng xét xử

thấy việc biểu quyết này của Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân là không

thực hiện đúng cách thức đã được Luật Doanh nghiệp quy định.

Nhiều cuộc họp Đại hội đổng cổ đông việc chỉ định số lượng thư ký ghi biên bản

cũng còn nhiều sai phạm mặc dù pháp luật cũng đã quy định rõ "Chủ toạ cử một người làm

thư ký lập biên bản họp Đại hội đổng cổ đông". Như trong vụ án tại Công ty cổ phần vận

tải hành khách Thanh Xuân ở trên theo biên bản Đại hội thì ông Nguyễn Văn Huy - Chủ

tịch Hội đồng quản trị - chủ trì cuộc họp đã giới thiệu 2 thư ký ghi biên bản Đại hội là ông

http://svnckh.com.vn 34

ULR: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/02/26/4726-2/

Nguyễn Văn Khúc và bà Phạm Bích Liên. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 103 Luật Doanh

nghiệp thì việc cử 2 thư ký ghi biên bản tại cuộc họp ngày 09.11.2006 là không phù hợp.

Hơn nữa, tại Điều 14.8 Điều lệ Công ty quy định "… Những người tham gia họp cử một

thư ký ghi biên bản họp…". Do đó, Chủ tịch Hội đồng quản trị giới thiệu 2 người ghi biên

bản cuộc họp không được Đại hội thông qua là không tuân thủ Điều lệ Công ty và Luật

Doanh nghiệp.

g. Sai sót về thủ tục ảnh hƣởng đến nội dung

Thủ tục là điều kiện cần thiết để bảo đảm giải quyết đúng đắn về nội dung. Nếu

không thực hiện đúng những quy định về trình tự, thủ tục liên quan đến việc họp Đại hội

đồng cổ đông, thì có thể dẫn đến hậu quả là quyết định của Đại hội đổng cổ đông bị Toà án

hoặc Trọng tài huỷ bỏ theo yêu cầu của cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị , Giám đốc

hoặc Tổng giám đốc, Ban kiểm soát theo quy định tại Điều 107 của Luật Doanh nghiệp.

Một ví dụ đó là vụ án tại Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân nói trên, sau

những phân tích cụ thể có thể thấy trình tự tiến hành họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ

đông ngày 09.11.2006 của công ty không thực hiện đúng theo quy định của Luật Doanh

nghiệp năm 2005 và Điều lệ Công ty. Vì vậy, Toàn án quyết định cần huỷ bỏ kết quả Đại

hội ngày 09.11.2006 của Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân. Công ty cổ

phần vận tải hành khách Thanh Xuân phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Những nhầm lẫn, sai sót nói trên, ngoài việc do chưa hiểu rõ quy định của luật còn

là ý thức không muốn tuân thủ nghiêm chỉnh và một điều không kém phần quan trọng là

do những quy định bất cập, thiếu thực tế, thiếu thuyết phục của luật. Đành rằng việc quản

trị công ty cổ phần, trong đó có trình tự, thủ tục về cuộc họp Đại hội đổng cổ đông đòi hỏi

một sự chuyên nghiệp, bài bản, chặt chẽ, nhưng nếu như hầu như công ty nào cũng vi

phạm thì cũng cần xem lại yêu cầu của luật.

2.1.3. Đánh giá về vấn đề triệu tập đại hội đồng cổ đông tại Việt Nam và vận

dụng kinh nghiệm của Pháp cho Việt Nam.

Về thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông thì trong Luật Doanh nghiệp 2005 và

Luật Công ty của Pháp là cơ bản giống nhau. Tuy nhiên quyền quyết định sửa đổi, bổ sung

điều lệ công ty thì trong luật Công ty có nêu rõ là chỉ được thực hiện trong cuộc họp Đại

hội đồng bất thường, còn Luật Doanh nghiệp thì quy định có thể sửa đổi Điều lệ công ty tại

cả Đại hội đồng cổ đông thường niên. Về vấn đề này, có thể thấy quy định của Việt Nam là

http://svnckh.com.vn 35

hợp lý hơn.

Đại hội đồng cổ đông thường niên mỗi năm họp một lần và khi thấy cần thiết có thể

tổ chức những cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường ngoài các Đại hội đồng cổ đông

thường kỳ mỗi năm theo yêu cầu và trong các trường hợp nói trên. Đồng thời, Luật doanh

nghiệp 2005 không hạn chế số lần họp Đại hội đồng cổ đông bất thường là bao nhiêu trong

một năm. Quy định này mang tính mềm dẻo, thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho các

công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả, bởi lẽ trong quá trình kinh doanh, có những vấn đề

phát sinh đột xuất đòi hỏi cần được giải quyết kịp thời, mà vấn đề đó lại thuộc thẩm quyền

của Đại hội đồng cổ đông nên nếu không quy định cuộc họp bất thường thì không thể đáp

ứng được nhu cầu kinh doanh của công ty vì không thể cứ phải chờ đến cuộc họp thường

niên của Đại hội đồng cổ đông vốn mỗi năm chỉ họp một kỳ. Trên thực tế, để giải quyết

vấn đề này và cũng để không phải tiến hành Đại hội đồng cổ đông bất thường, các công ty

cổ phần thường quy định việc Đại hội đồng cổ đông uỷ quyền một số vấn đề cho Hội đồng

quản trị, theo đó trong thời gian giữa các kỳ Đại hội đồng cổ đông thường niên, thì các vấn

đề phát sinh thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông sẽ do Hội đồng quản trị quyết

định trên cơ sở sự uỷ quyền này. Đây là một cách “lách luật” thường thấy trên thực tế,

nhưng có lẽ đây là cách “lách luật không khôn ngoan” và cũng khó có thể đảm bảo được

quyền lợi của cổ đông. Chúng ta biết rằng việc thông qua các quyết định của Đại hội đồng

cổ đông là theo nguyên tắc “đa số phiếu” (có ấn định tỷ lệ cụ thể ví dụ 75%, 65%…), nghĩa

là việc biểu quyết là dựa vào số phiếu được tính trên cơ sở số cổ phần mà cổ đông sở hữu

tương ứng, còn việc thông qua quyết định của Hội đồng quản trị là dựa trên nguyên tắc

“đầu người”. Như vậy, bản chất của việc thông qua quyết định dựa trên số phiếu của cổ

đông có quyền biểu quyết và việc thông qua quyết định dựa trên đầu người là hoàn toàn

khác nhau. Mặt khác, việc thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông là do chính cổ

đông thể hiện ý chí của mình, còn việc thông qua quyết định của Hội đồng quản trị là nơi

thể hiện ý chí của các thành viên Hội đồng quản trị, và nhiều khi hai luồng ý chí này là

không phù hợp nhau. Do đó, việc uỷ quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông cho Hội

đồng quản trị là một cách làm đem lại sự “tiện lợi” (về mặt hình thức) cho các công ty cổ

phần nhằm tránh việc phải triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường vốn rất phức tạp

và tốn kiếm, nhưng rõ ràng việc uỷ quyền này là sai về mặt nguyên lý và bản chất hoạt

động của hai loại cơ quan này với hai cách thức ra quyết định hoàn toàn khác nhau.

Về thẩm quyền triệu tập họp, theo luật Công ty của Pháp thì do Hội đồng quản trị

http://svnckh.com.vn 36

hoặc Ban kiểm soát, tuy nhiên trong một số trường hợp thì có thể là kiểm toán viên, một

người ủy quyền được chỉ định bởi thẩm phán theo yêu cầu của bất cứ bên liên quan nào

trong trường hợp khẩn cấp hoặc của cổ đông hay nhóm cổ đông nắm giữ 10% vốn góp hay

người phụ trách việc giải thể hay phá sản công ty. Việc cho phép cổ đông hoặc nhóm cổ

đông nêu trên có quyền triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong một số trường hợp là

nhằm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số trong công ty, nhằm hạn chế sự lạm dụng

quyền lực kiểm soát công ty của các cổ đông lớn và những chủ thể quản lý công ty (Hội

đồng quản trị và Ban kiểm soát). Tuy nhiên, Điều 108.2.l Luật Doanh nghiệp lại cho phép

Hội đồng Quản trị có quyền duyệt chương trình, nội dung, tài liệu phục vụ họp Đại hội

đồng cổ đông. Như vậy, nếu cổ đông hoặc nhóm cổ đông nêu trên triệu tập họp Đại hội

đồng cổ đông mà Hội đồng Quản trị không thông qua chương trình, nội dung, tài liệu cuộc

họp thì Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp này có thể không tiến hành họp được. Điều

này rất dễ xảy ra trong trường hợp Hội đồng Quản trị lạm dụng quyền lực để tư lợi và

không thông qua chương trình, nội dung cuộc họp.

Cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông có thể được triệu tập đến lần thứ 3 (và chỉ có 3

lần) nhằm đảm bảo cho cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông có thể tiến hành được trong

mọi trường hợp, kể cả khi các cổ đông lớn trì hoàn không tham dự cuộc họp vì nhiều lý do

khác nhau. Cuộc họp lần thứ 3 của Đại hội đồng cổ đông được tiến hành không phụ thuộc

vào số cổ đông dự họp và tỷ lệ số cổ phần có quyền biểu quyết của các cổ đông dự họp.

Vậy nếu chỉ có 1 cổ đông thì cuộc họp có được tiến hành không? Câu trả lời là không, một

mặt đã là cuộc họp thì tối thiểu phải có 2 chủ thể trở lên, mặt khác từ “các cổ đông” nêu

trên đã chứng tỏ phải có tối thiểu 2 cổ đông trở lên thì mới có thể tiến hành cuộc họp của

Đại hội đồng cổ đông mà không kể số cổ phần có quyền biểu quyết do họ nắm giữ là bao

nhiêu.

Quyết định của Đại hội được thông qua dựa vào đa số phiếu bầu đối với Đại hội

đồng thường niên và 2/3 số phiếu bầu với Đại hội đồng bất thường, theo Luật Công ty của

Pháp. Còn Luật Doanh nghiệp quy định là quyết định được thông qua nếu được ít nhất

51% hoặc 65% tùy từng vấn đề. Rõ ràng, với tỷ lệ này có thể cho là thấp, khó có thể đảm

bảo quyền lợi của các cổ đông thiểu số. Vì nếu trường hợp điều lệ không có quy định khác

và cuộc họp có số cổ đông đại diện vừa đủ 51% tổng số cổ phần phổ thông thì chỉ cần một

cổ đông sở hữu 26,05% (51% x 51%) tổng số cổ phiếu phổ thông là có thể kiểm soát được

việc thông qua các quyết định thông thường, đối với các quyết định đặc biệt quan trọng

http://svnckh.com.vn 37

(Điều 77.2.b Luật Doanh nghiệp 1999) thì cổ đông chỉ cần sở hữu 33,15% (65% x 51%)

tổng số cổ phiếu phổ thông là có thể kiểm soát được việc thông qua các quyết định đó. Tỷ

lệ này sẽ thấp hơn nhiều nếu đó là cuộc họp được triệu tập lần thứ hai, và càng thấp hơn

nếu các cổ đông đó là cổ đông ưu đãi biểu quyết. Luật Doanh nghiệp 2005 đã nâng tỷ lệ

này lên lần lượt là 65% hoặc 75%.

Đối với việc lấy ý kiến bằng văn bản để thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ

đông trong trường hợp không tiến hành cuộc họp thì quyết định của Đại hội đồng cổ đông

được thông qua khi có số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết, tỷ lệ cụ

thể do điều lệ công ty quy định.

Quy định này có thể dẫn đến cách hiểu là trong trường hợp Điều lệ công ty không

có quy định về các trường hợp bắt buộc Đại hội đồng cổ đông phải thông qua bằng hình

thức biểu quyết thì các trường hợp nêu tại điểm a, b, c, d, đ, e, và g khoản 2 – Điều 104

phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua bằng hình thức biểu quyết. Còn nếu Điều lệ

công ty có quy định các trường hợp Đại hội đồng cổ đông phải thông qua quyết định bằng

hình thức biểu quyết (có thể giống hoặc khác với Điều 104.2) thì khi đó áp dụng theo Điều

lệ công ty. Cách quy định này là điểm mở của luật doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính tự chủ,

linh hoạt cho các công ty cổ phần. Bởi lẽ điều lệ công ty có thể quy định một số vấn đề

quan trọng phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua bằng hình thức lấy ý kiến bằng văn

bản nhằm giúp công ty tiết kiệm chi phí và giảm bớt khó khăn đối với các công ty có số

lượng cổ đông lớn khi phải triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông để thông qua quyết định

bằng hình thức biểu quyết. Tuy nhiên, trên thực tế quy định này có thể bị lạm dụng, theo

đó điều lệ công ty thường quy định quá nhiều trường hợp lấy ý kiến bằng văn bản nhằm

tránh phải triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông. Điều này có thể gây ảnh hưởng đến quyền

lợi của các cổ đông thiểu số. Bởi tỷ lệ thông qua các quyết định của Đại hội đồng cổ đông

bằng hình thức lấy ý kiến bằng văn bản trong mọi trường hợp không được thấp hơn 75%

tổng số phiếu biểu quyết, vì vậy các cổ đông nhỏ rất ít khả năng chi phối (dù có liên kết),

thêm nữa việc thông qua bằng hình thức lấy ý kiến bằng văn bản sẽ gây nhiều khó khăn

cho việc liên kết của các cổ đông, bởi lẽ các cổ đông thường ở mỗi nơi khác nhau, họ khó

có thể gặp nhau để lập nhóm liên kết.

2.2. Quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông thiểu số.

2.2.1. Quy định của pháp luật về quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ

đông thiểu số

http://svnckh.com.vn 38

2.2.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam

Cổ đông là những người góp vốn vào công ty. Muốn trở thành cổ đông công ty cổ

phần, cá nhân hoặc tổ chức hoặc góp vốn thành lập công ty hoặc mua cổ phần từ cổ đông

khác. Cổ đông có nhiều loại, tùy từng tiêu chí mà chúng ta có các loại cổ đông khác nhau.

Dựa vào khối lượng vốn góp, chúng ta có cổ đông thiểu số và cổ đông lớn. Việc xác định

cổ đông thiểu số hay cổ đông lớn không có ý nghĩa khi góp vốn, mà chỉ có ý nghĩa khi các

cổ đông thực hiện quyền, nghĩa vụ.

Luật Doanh nghiệp 2005 xác định cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu 10% tổng số

cổ phần trở lên sẽ có thêm một số quyền khác so với cổ đông phổ thông. Đồng thời, Luật

Doanh nghiệp cũng quy định mức cổ đông sở hữu 5% tổng số vốn điều lệ có thể tham gia

Hội đồng quản trị và mức này cũng là cơ sở để cổ đông phải đăng ký, báo cáo với cơ quan

đăng ký kinh doanh có thẩm quyền kể từ ngày có được tỷ lệ sở hữu đó.

Luật Chứng khoán 2007 quy định: Cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc

gián tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành. Theo quy

định của luật này, cổ đông thiểu số là cổ đông sở hữu dưới 5% tổng số cổ phần của công ty.

Như vậy, ở đây có sự chênh nhau giữa quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật

Chứng khoán. Nhưng xét về mặt thời gian ban hành luật và tính hợp lý, chúng ta thấy tỷ lệ

sở hữu 5% tổng số cổ phần là mốc hợp lý để xác định cổ đông nhỏ hay cổ đông lớn. Luật

Doanh nghiệp định tỷ lệ cổ phần sở hữu 10% (1/10 vốn điều lệ) là khá lớn, ngay cả tỷ lệ cổ

phần sở hữu 5% (1/20 vốn điều lệ) theo Luật Chứng khoán cũng không phải nhỏ trong

công ty cổ phần, đặc biệt là các công ty đại chúng. Bởi chúng ta thấy, các công ty cổ phần

hiện nay vốn điều lệ rất lớn. Ví dụ: tỷ lệ sở hữu 0,1% cổ phần trong công ty PVFC Land đã

là 500 triệu đồng và tỷ lệ 5% sẽ phải rất lớn; tỷ lệ 5% của công ty cổ phần nhựa Bình Minh

là hơn 7 tỷ đồng…

Do vậy, trong phạm vi đề tài này cổ đông thiểu số là cổ đông sở hữu tỷ lệ vốn góp

dưới 5% tổng số cổ phần của công ty cổ phần mà cổ đông là thành viên.

Luật Doanh nghiệp quy định quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông và một số

đặc thù của những cổ đông hoặc nhóm cổ đông phổ thông có tỷ lệ vốn góp trên 10%. Luật

không quy định cổ đông phổ thông nắm giữ bao nhiêu phần trăm tổng số cổ phần mà tất cả

http://svnckh.com.vn 39

các cổ đông không thuộc các cổ đông ưu đãi là cổ đông phổ thông có quyền biểu quyết. Do

vậy, cổ đông phổ thông sẽ bao gồm cả cổ đông nhỏ và cổ đông lớn. Các quyền và nghĩa vụ

của cổ đông phổ thông là như nhau, bất kể họ là cổ đông thiểu số hay lớn.

Cổ đông phổ thông có quyền tham gia và được cung cấp đầy đủ thông tin về các

quyết định liên quan đến những thay đổi căn bản của công ty. Những thay đổi căn bản bao

gồm: sửa đổi quy định, điều lệ công ty hay các văn bản tương đương điều chỉnh hoạt động

của công ty; cho phép phát hành thêm cổ phiếu; các giao dịch bất thường, bao gồm bán các

tài sản có giá trị lớn của công ty. Luật Doanh nghiệp quy định các vấn đề này thuộc thẩm

quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông, theo cách thức đó, cổ đông không chỉ được

biết mà còn được tham gia quyết định những thay đổi được coi là căn bản của công ty.

Về khả năng biểu quyết trực tiếp hoặc biểu quyết vắng mặt Luật Doanh nghiệp quy

định cổ đông có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham dự và

biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông. Cổ đông cũng có thể thay đổi việc ủy quyền nếu như

có thông báo kịp thời việc thay đổi đến công ty trước khi cuộc họp Đại hội đồng cổ đông diễn ra33.

Về việc thông qua quyết định của đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần,

khoản 3 Điều 104 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định quyết định của đại hội đồng cổ đông

được thông qua tại cuộc họp khi được số cổ đông đại diện ít nhất 65% tổng số phiếu biểu

quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận; đối với quyết định về loại cổ phần và tổng số

cổ phần của từng loại được quyền chào bán; sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty; tổ chức lại,

giải thể công ty... thì phải được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết

của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận.

Hiện nay, cổ đông có tỷ lệ vốn góp cổ phần nhỏ trong công ty cổ phần chiếm số

lượng rất lớn, đặc biệt là từ khi xuất hiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Song song

với mức phát triển về số lượng của cổ đông nhỏ là sự vi phạm quyền lợi của họ trong công

ty cổ phần, trong đó quan trọng là quyền dự họp Đại hội cổ đông.

2.2.1.2. Quy định của pháp luật Pháp

Tất cả các cổ đông hay nhóm cổ đông sở hữu dưới 10% vốn có thể:

- Yêu cầu một cách hợp pháp việc không thừa nhận hay cách chức các kiểm toán

viên.

http://svnckh.com.vn 40

33 Điều 101, Luật Doanh nghiệp 2005.

- Đặt ra cho giám đốc hai lần một năm, những câu hỏi về những nguy cơ có thể gây

hại cho doanh nghiệp.

- Yêu cầu chỉ định một chuyên gia có trách nhiệm thực hiện một bản báo cáo về

một hay nhiều hoạt động quản lý.

- Các cổ đông cũng có thể được bầu vào Hội đồng quản trị .

Họp Đại hội đồng cổ đông cho phép tất cả các cổ đông của một công ty họp lại để

Một trong những quyền cơ bản của các cổ đông là tham gia vào hoạt động

của công ty bằng cách biểu quyết trong cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên

và Đại hội đồng cổ đông bất thường, trừ những người sở hữu cổ phiếu ưu đãi hay

giấy chứng nhận đầu tư là không có quyền biểu quyết tại các cuộc họp Đại hội đồng

cổ đông.

Mặt khác, họ cũng có thể, với một vài trường hợp, yêu cầu sự chỉ định của

một người ủy quyền hợp pháp chịu trách nhiệm triệu tập cuộc họp Đại hội đồng cổ

đông.

bỏ phiếu thông qua các nghị quyết đã bàn bạc.

a. Quyền tham dự vào việc quản lý doanh nghiệp

Để có thể thực hiện điều này, họ cần phải tham gia vào Đại hội đồng cổ

đông.

Trong trường hợp quyền hưởng lợi (usufruit), quyền bỏ phiếu phụ thuộc vào

người hưởng lợi trong các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên và vào

quyền sở hữu trên giấy tờ (nu-propriétaire) trong các cuộc họp Đại hội đồng cổ

đông bất thường, nhưng những điều lệ thì có thể quy định khác (Điều L.163, Luật

Công ty Pháp)

Các đồng cổ đông sở hữu cổ phiếu không chia (actions indivises) hiện diện ở

cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bởi một trong số họ hay bởi một người ủy quyền

duy nhất. Trong trường hợp không thống nhất được người ủy quyền chung, thì

người đó sẽ được chỉ định bởi thẩm phán tòa án thương mại.

Ngoại lệ

http://svnckh.com.vn 41

Theo luật số 78-741 ngày 13/7/1978 và số 83-1 ngày 3/1/1983 đã cho các

công ty cổ phần có lợi tức phân chia trong hai năm tài chính cuối quyền được phát

hành cổ phiếu tên là “cổ phiếu có cổ tức ưu đãi nhưng không có quyền bầu cử”.

Những người sở hữu loại cổ phiếu này không có quyền tham gia vào cuộc

họp Đại hội đồng cổ đông, nhưng ngược lại họ lại có phần cổ tức ưu đãi. Họ cũng

được hoàn trả lại tiền trước những cổ đông khác sau khi kết toán nợ của công ty.

b. Quyền đƣợc thông tin, thông báo

Tất cả các cổ đông có quyền, trong vòng 15 ngày trước cuộc họp Đại hội

đồng cổ đông, được cung cấp nhiều tài liệu thông tin từ trụ sở công ty. Các cổ đông

sở hữu giấy chứng nhận quyền được bỏ phiếu hay đầu tư cũng có thể yêu cầu được

gửi các báo cáo theo điều 135 sắc lệnh ngày 23/3/1967.

Mặt khác, họ cũng có quyền được thông báo một cách thường xuyên về các

tài liệu của công ty theo điều 168 trong bộ luật Công ty của Pháp, bao gồm bản báo

cáo tài chính của ba năm gần nhất, biên bản cuộc họp Đại hội đồng cổ đông của ba

năm tài chính.

c. Quyền biểu quyết

Chỉ có các cổ đông và những người sở hữu giấy chứng nhận quyền được

biểu quyết mới có quyền hạn này. Mỗi cổ phiều tương ứng với một quyền biểu

quyết. Tuy nhiên, điều lệ công ty có thể dự kiến ba trường hợp hạn chế sau:

- Yêu cầu cho sự tham gia họp Đại hội đồng cổ đông thường niên một số

lượng cổ phiếu tối thiểu, mà không cần phải lớn hơn 10 (Đ 165, Luật Công ty

Pháp). Nhưng, trong trường hợp này, chỉ có những cổ đông sở hữu ít cổ phiếu mới

có thể kết hợp lại để chọn ra người được ủy quyền có 10 cổ phiếu hay là bội số của

10. Sự giới hạn này không bắt buộc với Đại hội đồng cổ đông bất thường.

- Giới hạn số lượng phiếu mà mỗi cổ đông sở hữu trong đại hội mà không có

sự phân biệt về loại hình, với điều kiện là sự giới hạn này phải được áp dụng với tất

cả các cổ đông không phân biệt loại cổ đông (Đ 177, Luật Công ty Pháp) ngoại trừ

các cổ phiếu có cổ tức ưu đãi thì không có quyền bỏ phiếu. Ngược lại, những cổ

http://svnckh.com.vn 42

phiếu thuộc loại được bỏ nhiều phiếu về cơ bản bị cấm; một cổ phiếu chỉ cho phép

bỏ một phiếu tương ứng với số vốn ghi trên đó.

- Phát hành cổ phiếu có cổ tức ưu đãi không có quyền bỏ phiếu trong cuộc

họp Đại hội đồng cổ đông thường niên.

d. Biểu quyết qua thƣ

Việc biểu quyết qua thư được quy định trong điều 25 của luật ngày 3/1/1983.

Tất cả các cổ đông có thể biểu quyết qua thư bằng cách điền vào một bản mẫu mà

các điều trong đó được xác định trong các điều 131 đến 133 của sắc lệnh. Những

quy định khác trong điều lệ không được tính.

* Yêu cầu biểu quyết qua thư

Biểu quyết qua thư không thể gửi đến công ty dưới một dạng nào bất kỳ. Cổ

đông phải sử dụng mẫu biểu quyết mà công ty phát hành. Mẫu thư biểu quyết cần

phải được yêu cầu đến công ty ít nhất 6 ngày trước ngày họp Đại hội đồng cổ đông

bởi thư bảo đảm và giấy báo đã nhận được. Sự yêu cầu này không cần phải gửi kèm

theo giấy chứng nhận tư cách của cổ đông.

* Nội dung của mẫu phiếu

Mẫu biểu quyết qua thư phải cho phép biểu quyết cho mỗi một nghị quyết,

theo trình tự được giới thiệu trong đại hội; nó cần phải giúp cho cổ đông có thể diễn

đạt được, đối với mỗi nghị quyết, một sự bỏ phiếu tán thành hay không tán thành

với sự lựa chọn của họ hay ý chí bỏ phiếu trắng. Nó phải cung cấp thông tin cho cổ

đông một cách rất rõ ràng rằng tất cả sự bỏ phiếu trắng sẽ được coi như là một phiếu

không tán thành cho nghị quyết.

* Gửi và kiểm kê phiếu

Gửi mẫu phiếu biểu quyết dưới dạng thư bình thường.

Việc biểu quyết qua thư được tính ngay khi nó được gửi đến công ty ít nhất

3 ngày trước ngày khai mạc cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, trừ khi trong điều lệ

quy định thời hạn ngắn hơn. Với tất cả những phiếu trắng sẽ được tính là một phiếu

không tán thành cho nghị quyết.

http://svnckh.com.vn 43

Khi đại hội yêu cầu bỏ phiếu cho một câu hỏi nêu ra trong cuộc họp, những

phiếu biểu quyết qua thư không được tính vào số đại biểu cần thiết và không được

tham gia bỏ phiếu.

2.2.2. Thực trạng về vấn đề quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông thiểu số

tại Việt Nam

Tuy pháp luật đã quy định quyền dự họp Đại hội cổ đông của các cổ đông thiểu số

cụ thể và chi tiết, nhưng việc thực hiện và đảm bảo thực hiện trên thực tế chưa được

nghiêm chỉnh. Những điều tưởng chừng như vô lý, thiếu công bằng đã và đang diễn ra, bất

chấp những quy định pháp luật và nỗi bức xúc của cổ đông nhỏ, trở thành những vấn đề

nổi cộm hiện nay.

Điều 78, Điều 101 Luật Doanh nghiệp quy định: Cổ đông phổ thông có quyền tham

dự và phát biểu trong các Đại hội cổ đông…; mỗi cổ phần phổ thông có một phiếu biểu

quyết. Pháp luật quy định rõ ràng như vậy nhưng không ít công ty cổ phần đưa ra các yêu

sách bắt buộc cổ đông phải có tỷ lệ sở hữu số cổ phần tối thiểu mới được tham gia Đại hội

cổ đông. Chẳng hạn như PVFC Land yêu cầu phải sở hữu từ 0,1% vốn điều lệ trở lên

(tương đương khoảng 500 triệu đồng) mới được tham dự. Một số đơn vị khác cũng yêu cầu

cổ đông phải sở hữu tối thiểu hàng trăm triệu đồng mệnh giá cổ phiếu mới được tham dự

Đại hội cổ đông thường niên như Công ty cổ phần Dược phẩm TW2 (hơn 5.000 cổ phần),

Licogi 18 (hơn 15.000 cổ phần), Lilama 18 (hơn 35.000 cổ phần), Công ty cổ phầnĐầu tư

PV-Inconess (hơn 100.000 cổ phần, tương đương gần 1 tỷ đồng), Công ty Bia Thanh Hóa

(hơn 5.000 cổ phần), Công ty cổ phần Thương mại Bia Hà Nội (hơn 20.000 cổ phần) .

Trường hợp gần đây nhất là Công ty cổ phần Chế biến Xuất khẩu Thuỷ sản Minh Hải yêu

cầu điều kiện tham dự Đại hội cổ đông phải sở hữu từ 5.000 cổ phần trở lên, các cổ đông sở hữu dưới 5.000 cổ phần phải tập hợp lại cử đại diện tham dự34.

Các cổ đông thiểu số không được chia sẻ ý kiến của mình đối với những người điều

hành công ty. Đặc biệt liên quan đến việc chào bán cổ phần, cổ phiếu. Nếu các cổ đông

thiểu số biết liên kết để hình thành nhóm cổ đông sở hữu đạt tỷ lệ 10% tổng số cổ phần, họ

có quyền cử người vào Hội đồng quản trị. Có người là thành viên hội đồng quản trị, họ

nắm bắt được thông tin và tham gia quyết định giá cổ phần chào bán ra bên ngoài – vấn đề

http://svnckh.com.vn 44

34 Hải Hoàng, Cần chế tài bảo vệ quyền lợi cổ đông nhỏ. URL: http://www.kinhtenongthon.com.vn/Story/kinhte- thitruong/thitruong/2009/6/18643.html, truy cập ngày 26/04/2010 lúc 20:05 PM

nổi cộm hiện nay. Giá cổ phần chào bán liên quan đến lợi ích kinh tế. Do đó, có rất nhiều

công ty quyết định giá cổ phần, cổ phiếu thấp hơn giá thị trường sao cho có lợi cho những

cổ đông lớn, thành viên Hội đồng quản trị… Ví dụ như trong các công ty công ty cổ phần

Giao nhận vận tải & thương mại (Vinalink), công ty cổ phần dịch vụ Sài Gòn – Savico

(SVC),… Liên quan đến giá cổ phần/cổ phiếu, một số công ty cho phép cổ đông nhỏ mua

cổ phần/cổ phiếu của công ty nhưng quy định giá mua của cổ đông nhỏ cao hơn nhiều lần

giá mua của cổ đông lớn như công ty cổ phần vận tải xăng dầu (VIPCO). Những cổ đông

thiểu số bị mất quyền lợi của mình ngay chính tại công ty mà mình là chủ sở hữu.

Ngược lại, một số công ty cổ phần như Ngân hàng Sacombank và Quỹ Đầu tư VF1

cho phép các cổ đông tham gia Đại hội cổ đông nhưng Ban điều hành hạn chế quyền chất

vấn dưới nhiều hình thức khác nhau như: hạn chế thời gian chất vấn, chất vấn bằng ghi câu

hỏi ra giấy và gửi lên bàn chủ toạ hoặc gửi và được trả lời công khai trên website của công

ty… Trong khi các công ty khác như ACB, PDM…với hàng nghìn cổ đông đã đến dự Đại

hội cổ đông đều được quyền chất vấn, trực tiếp đặt câu hỏi, không giới hạn thời gian. Bởi

thời gian chất vấn của cổ đông nhanh hay chậm phụ thuộc vào cách trả lời của lãnh đạo

doanh nghiệp có thuyết phục hay không và Ban lãnh đạo doanh nghiệp có tiếp thu ý kiến

cổ đông một cách dân chủ hay không. Không những thế, các cổ đông thường không yêu

cầu cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ sơ kế toán của công ty… hoặc cũng có thể họ chưa

biết mình có quyền đó.

Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo quy định của pháp luật tại Điều 79 Luật Doanh

nghiệp rất nhiều nội dung, nhưng quan trọng là quyền dự họp Đại hội cổ đông thường niên

của cổ đông. Bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số là quyền và nghĩa vụ của chính cổ

đông, và còn là nghĩa vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Không thực hiện tốt việc bảo vệ

quyền của cổ đông nhỏ ảnh hưởng đến uy tín của công ty đồng thời cũng có ảnh hưởng đến

nền kinh tế, trước hết là hạn chế nguồn vốn đầu tư của xã hội, quan trọng hơn, đây là một

trong mười tiêu chí mà World Bank đánh giá môi trường kinh doanh của Việt Nam. Bảo vệ

quyền lợi của cổ đông thiểu số là từng bước lành mạnh hoá môi trường kinh doanh ở Việt

Nam.

2.2.3. Đánh giá về vấn đề quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ tại

http://svnckh.com.vn 45

Việt Nam và vận dụng kinh nghiệm của Pháp cho Việt Nam

Các cổ đông thiểu số bị hạn chế họp Đại hội cổ đông đương nhiên bị tước đi quyền

cao quý nhất của cổ đông là quyết định một số nội dung Nghị quyết của Đại hội đồng cổ

đông. Dẫu biết rằng quyền tham gia đại hội cổ đông không đồng nhất với quyền biểu quyết

có tính chất quyết định. Biểu quyết thông qua có tính chất quyết định dựa trên tỷ lệ cổ phần

vốn góp. Nhưng đó là quyền theo quy định của pháp luật mà Hội đồng quản trị phải thực

hiện, để họ thấy mình cũng là thành viên công ty, thấy mình là chủ sở hữu. Dự họp Đại hội

cổ đông họ có quyền được nắm bắt thông tin, có ý kiến, có các quyền khác… và biểu quyết

góp phần hình thành quyết định trong công ty.

Cổ đông thiểu số bị hạn chế quyền tham dự đại hội cổ đông, đồng nghĩa với việc

mất đi quyền tiếp cận, trao đổi, chất vấn ban lãnh đạo thì không thể đảm bảo tính khách

quan, công bằng. Dự họp Đại hội cổ đông, chí ít cổ đông cũng được nghe báo cáo về hoạt

động hiện tại, nói lên nguyện vọng của cổ đông; đồng thời, những người điều hành công ty

sẽ nghe tâm tư nguyện vọng của những ông chủ để xây dựng kế hoạch hoạt động của công

ty. Không được quyền dự họp diễn ra thường xuyên sẽ làm cho các nhà đầu tư mất lòng tin

vào những quy định của pháp luật, ngần ngại khi có ý định đầu tư và dần dần làm cho

nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội.

Cả luật pháp hai nước đều có những quy định tương đồng nhau về quyền dự họp

Đại hội đồng cổ đông của cổ đông. Các quy định này đều rất chi tiết và có mục đích bảo vệ

quyền lợi của các cổ đông.

Luật công ty của Pháp còn quy định các cổ đông được đặt ra cho giám đốc hai lần

một năm, những câu hỏi về những nguy cơ có thể gây hại cho doanh nghiệp hay yêu cầu

cung cấp các thông tin, đề xuất các kiến nghị. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật

Việt Nam, các cổ đông có quyền đặt câu hỏi trong Đại hội đồng cổ đông, song chỉ những

kiến nghị của cổ đông, nhóm cổ đông đại diện ít nhất 10% cổ phần công ty trong 6 tháng

mới được đưa vào chương trình họp Đại hội đồng cổ đông. Kiến nghị phải bằng văn bản và gửi đến công ty chậm nhất 3 ngày làm việc trước ngày khai mạc35. Quy định này của Luật

Doanh nghiệp thực chất đã hạn chế cơ hội đặt câu hỏi cho Hội đồng quản trị của nhiều cổ

đông tại Đại hội đồng cổ đông. Vì vậy nên sửa đổi điều khoản này dựa vào Luật Công ty

của Pháp để có thể nâng cao vai trò của các cổ đông thiểu số.

http://svnckh.com.vn 46

35 Điều 99, Luật Doanh nghiệp 2005

Ngoài ra, theo sự quy định của pháp luật Pháp thì các cổ đông còn có thể biểu quyết

qua thư. Quy định này giúp cho các cổ đông có thể thuận tiện trong việc bỏ phiếu, bảo đảm

quyền lợi chính đáng của các cổ đông. Đây cũng là một quy định rất hay mà chúng ta có

thể vận dụng sao cho phù hợp với điều kiện Việt Nam

Quyền của cổ đông thiểu số hiện nay chưa được quan tâm, hoặc đôi khi bị vi phạm

nhưng luật không quy định quyền cổ đông trực tiếp khởi kiện Hội đồng quản trị – cơ quan

triệu tập Đại hội cổ đông, nếu xét thấy cần thiết; cũng không quy định quyền của cổ đông

yêu cầu Toà án xem xét miễn nhiệm thành viên Hội đồng quản trị hoặc Ban kiểm soát

trong trường hợp cần thiết. Luật hiện hành chỉ dành cho cổ đông phổ thông có 2 quyền tư

pháp liên quan là: (1) có quyền yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa

công ty với các thành viên của công ty,… liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể,

sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; và (2) quyền yêu

cầu Toà án hoặc Trọng tài xem xét, huỷ bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông trong một

số trường hợp. Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Doanh nghiệp quy định chỉ mang tính

chung chung, chưa cụ thể. Hoạt động của doanh nghiệp rất nhiều và phức tạp, có bao gồm

hoạt động triệu tập tham dự Đại hội cổ đông không? Quy định như vậy dẫn đến các cơ

quan tiến hành tố tụng gây khó khăn, trở ngại cho các cổ đông thiểu số khi thực hiện quyền

khởi kiện, khiếu nại.

Ở Việt Nam thì các điều trong luật quy định chưa được thực thi một cách nghiêm

túc. Còn ở Pháp, hầu như các cổ đông cũng không có vai trò gì trong cơ cấu quản lý công

ty. Hầu hết các cổ phiếu là vô danh nên cổ đông phải tự liên hệ với công ty để đề nghị cung

cấp thông tin và về các buổi họp đại hội hàng năm. Hậu quả là các cổ đông cá nhân ít ai dự

họp và Đại hội đồng cổ đông thường không có đủ túc số. Trước tình cảnh này, có một tổ

chức được lập ra từ năm 1991 đã tập họp những cổ đông ít vốn và bảo vệ quyền lợi cho

những cổ đông này. Đó là tổ chức Bảo vệ cho cổ đông thiểu số (Association de Défense

des Actionnaires Minoritaires - ADAM) do bà Colette Neuville làm chủ tịch.Trong quá

trình hoạt đông, tổ chức này đã bảo đảm quyền lợi cho nhiều cổ đông thiểu số. Tổ chức có

nguồn ngân sách lớn hơn nhiều so với các tổ chức khác nhờ việc thu hút được hơn 5000

thành viên và cả các nhà đầu tư trong toàn đất nước. Vậy Việt Nam cũng có thể học tập

cách làm này của Pháp để quyền lợi của các cổ đông có thể được đảm bảo hơn.

http://svnckh.com.vn 47

2.3. Vai trò, chức năng và trách nhiệm của Ban kiểm soát

2.3.1. Quy định của pháp luật về vai trò, chức năng và trách nhiệm của Ban

kiểm soát

2.3.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam

Theo điều 95 Luật doanh nghiệp năm 2005, đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ

đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty

thì Ban kiểm soát phải được thành lập.

a. Cơ cấu Ban kiểm soát

Cơ cấu Ban kiểm soát thường bao gồm:

- Thành viên Ban kiểm soát chuyên trách.

- Thành viên Ban kiểm soát không chuyên trách.

Ban kiểm soát gồm từ 3 đến 5 thành viên với các tiêu chuẩn và điều kiện

được quy định rõ ràng trong Luật Doanh nghiệp. Theo quy định của pháp luật,

thành viên Ban kiểm soát không được giữ các chức vụ quản lý công ty. Thành viên

Ban kiểm soát không nhất thiết phải là cổ đông hoặc người lao động của công ty.

- Trưởng ban Kiểm soát.

b. Việc bầu Ban kiểm soát

Với chức năng giám sát Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc, Ban kiểm soát

cần phải độc lập. Sự độc lập này cần được thể hiện trong việc thành lập và hoạt

động của Ban kiểm soát. Thông qua việc thực hiện chức năng của mình, Ban kiểm

soát sẽ đảm bảo rằng các quyết định của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc là phù

hợp với pháp luật, với các nghị quyết của Đại hội cổ đông và bảo vệ lợi ích của các

cổ đông. Chính vai trò bảo vệ cổ đông, bảo vệ nhà đầu tư là lý do cho sự ra đời, tồn

tại và hoạt động của Ban kiểm soát.

Các chức danh của Ban kiểm soát thường có nhiệm kỳ từ 3 - 5 năm trùng với

nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị và phải do Đại hội cổ đông bầu ra. Ban kiểm soát

bầu các chức danh cụ thể trong nội bộ ban. Thông thường, trong ban, dù ít người

cũng phải có ít nhất một thành viên có trình độ chuyên môn về kế toán, kiểm toán.

Thành viên Ban kiểm soát có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.

http://svnckh.com.vn 48

c. Các quyền hạn và nhiệm vụ của Ban kiểm soát

- Kiểm soát toàn bộ hệ thống tài chính và việc thực hiện các quy chế của

công ty: Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong

quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê

và lập báo cáo tài chính.Thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính

theo các định kỳ của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản

trị lên Đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên. Xem xét sổ kế toán và các tài

liệu khác của Công ty, các công việc quản lý, điều hành hoạt động của Công ty bất

cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông

theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông.

- Kiểm tra bất thường: Khi có yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông, Ban

kiểm soát thực hiện kiểm tra trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận

được yêu cầu. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm tra, Ban

kiểm soát phải báo cáo giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến Hội

đồng quản trị và cổ đông và nhóm cổ đông có yêu cầu .

- Can thiệp vào hoạt động công ty khi cần: Kiến nghị Hội đồng quản trị hoặc

Đại Hội đồng Cổ đông các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản

lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.

- Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng Cổ đông,

Tổng Giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty phải thông báo ngay

bằng văn bản với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt

hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả.

2.3.1.2. Quy định của pháp luật Cộng hoà Pháp

a. Bổ nhiệm

- Số lượng: Ban kiểm soát có từ 3 đến 12 thành viên (trừ trường hợp đặc biệt là sáp

nhập – 24 thành viên trong 3 năm sáp nhập).

- Phải là cổ đông của công ty. Những người không là cổ đông có thể có một phiếu

http://svnckh.com.vn 49

tư vấn, trừ khi Điều lệ có quy định khác.

- Những thành viên của Ban kiểm soát phải bổ nhiệm một đại diện thường trực.

Thành viên của Ban kiểm soát được bổ nhiệm trong Đại hội đồng cổ đông thường niên.

- Nhiệm kỳ của Ban kiểm soát được quy định trong điều lệ công ty, nhưng không

được quá 6 năm trong trường hợp bổ nhiệm trong đại hội cổ đông thường niên, và 3 năm

được quy định trong điều lệ. Tất cả sự bổ nhiệm trái với quy định trên là không được phép.

Ban kiểm soát có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế, trừ khi điều lệ có quy

định khác

- Trong trường hợp khuyết thành viên Ban kiểm soát, Ban kiểm soát có thể tiến

hành bổ nhiệm một chức vụ tạm thời với điều kiện sự bổ nhiệm này sẽ đươc thông qua

trong đại hội đồng cổ đông tiếp theo. Nếu số lượng thành viên của ban kiểm soát dưới mức

tối thiểu theo luật định thì chỉ ban giám đốc có thể (và phải) triệu tập đại hội đồng cổ đông

để bổ nhiệm những thành viên mới.

- Họ có thể được ràng buộc với công ty bởi một hợp đồng lao động ngoại trừ một

số trường hợp sau đây: phòng thí nghiệm phân tích dược phẩm, công ty nhà nước hoặc

công ty mà nhà nước sở hữu trên 50% vốn.

b. Miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Ban kiểm soát

Thành viên Ban kiểm soát bị miễn nhiệm, bãi nhiệm trong các trường hợp sau đây:

+ Có đơn xin từ chức

+Ngoài ra, thành viên Ban kiểm soát có thể bị miễn nhiệm bất cứ khi nào theo

quyết định của Đại hội đồng cổ đông

c. Quyền và nhiệm vụ của Ban kiểm soát

* Nhiệm vụ chung

- Nhiệm vụ chính của Ban kiểm soát: thực hiện giám sát thường xuyên Giám đốc

hoặc Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty.

- Thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hàng năm và tạm thời,

báo cáo đánh giá công tác quản lý của Giám đốc

- Trình báo cáo thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh hàng

http://svnckh.com.vn 50

năm của công ty và báo cáo đánh giá công tác quản lý của Giám đốc lên Đại hội cổ đông

* Nhiệm vụ cụ thể

- Ban kiểm soát ngoài quyền có thể bổ nhiệm và bãi nhiệm Giám đốc, họ còn có

thể thuyên chuyển trụ sở chính (với sự phê chuẩn của Đại hội đồng cổ đông thường niên),

họ cũng có thể triệu tập họp Đại hội cổ đông thường niên

- Trong năm, ban kiểm soát tiến hành những thay đổi và những kiểm tra mà họ

nhận định là tốt, lạc quan, và có thể được cung cấp những tài liệu mà họ thấy là có ích cho

việc hoàn thành nhiệm vụ của họ

- Ít nhất 1 lần trong nhiệm kỳ, ban giám đốc trình một báo cáo cho ban kiểm soát.

- Sau khi kết thúc mỗi công việc, ban giám đốc trình cho ban kiểm soát những báo

cáo tài chính khác nhau và ban kiểm soát trình cho đại hội đồng hàng năm những quan sát

của họ trong một báo cáo.

- Ban kiểm soát có thể can thiệp trong việc quản lý nội bộ công ty theo quy đinh

trong luật định, hoặc thông qua uỷ quyền. Trong trường hợp này, trách nhiệm của Ban

kiểm soát là lớn hơn

e. Trách nhiệm của Ban kiểm soát

- Ban kiểm soát phải chịu trách nhiệm pháp lý trong các trường hợp sau

+ có hành vi sai trái trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình

+ phát hiện hành vi vi phạm của Giám đốc, Tổng giám đốc mà không thông báo

cho Đại hội đồng cổ đông

- Tuy vậy, Ban kiểm soát không phải chịu trách nhiệm về hoạt động quản lý và kết

quả của hoạt động quản lý, trừ khi họ tham gia vào việc quản lý

2.3.2. Thực trạng hoạt động của Ban kiểm soát tại Việt Nam

Thực tế ở Việt Nam cho thấy Ban kiểm soát đã chưa thể hiện đầy đủ vai trò

bảo vệ cổ đông và nhà đầu tư. Do đó, rủi ro mà nhà đầu tư và cổ đông phải gánh

chịu từ sự lép vế của Ban kiểm soát là rất lớn.

Trong thời gian qua, có rất nhiều việc làm sai trái của Hội đồng quản trị và Ban

Giám đốc ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của cổ đông nhưng không hề có tiếng nói

cảnh báo nào từ Ban kiểm soát cho đến khi sự việc bị phát hiện. Với tư cách là chủ sở hữu

công ty và là người bầu ra Ban kiểm soát, chắc chắn cổ đông có lý do để bất bình về vai trò

http://svnckh.com.vn 51

và chức năng của Ban kiểm soát. Trong vụ Công ty Cổ phần Mía đường La Ngà, ông Phạm

Như Hóa, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc, sử dụng gần 18 tỉ đồng chơi

chứng khoán bắt đầu từ tháng 8/2007, nhưng mãi đến tháng 4/2008 các cổ đông, kể cả cổ

đông nhà nước (chiếm 51%) mới hay biết. Mà hay biết cũng không do kết quả của sự minh

bạch hay công phát hiện của hệ thống kiểm soát mà là do đại hội cổ đông thường niên bất ngờ bị hoãn, các cổ đông bàn tán xôn xao nên nội vụ mới vỡ lở36. Vai trò của hệ thống

kiểm soát ở đây nói chung và của ban kiểm soát nói riêng hầu như vắng bóng. Có thể có

mấy khả năng xảy ra với ban kiểm soát của công ty: một là, ban kiểm soát có phát hiện và

đã cảnh báo, đề xuất biện pháp ngăn chặn hành vi sai trái của ông chủ tịch; hai là, biết mà

để mặc; và ba là hoàn toàn không hay biết. Khả năng thứ nhất khó xảy ra vì nếu xảy ra vụ

việc đã được ngăn chặn. Như vậy, chỉ còn lại hai khả năng cuối và với khả năng nào đi

chăng nữa ban kiểm soát cũng sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới trong việc không làm tròn

nhiệm vụ giám sát, cảnh báo của mình.

Hiện tượng trên không chỉ xảy ở Công ty Cổ phần Mía đường La Ngà. Tại đại hội

cổ đông thường niên của Công ty Xuất nhập khẩu thủy sản Hà Nội (Seaprodex Hà Nội)

vào ngày 19/4 mới đây, các cổ đông cũng rất bất ngờ khi nhận được báo cáo tài chính cho

biết ban lãnh đạo công ty đã tự ý đưa trên 16 tỉ đồng để “đầu tư tài chính ngắn hạn”, mua

cổ phần của một ngân hàng cổ phần hóa. Theo tính toán, với thời giá trên thị trường OTC

hiện nay, khoản đầu tư này có thể gây lỗ tới 10 tỉ đồng. Các cổ đông - “ông chủ” của

Seaprodex Hà Nội đã rất bức xúc khi một chủ trương kinh doanh như thế đã không được

báo cáo công khai, giải trình rõ ràng. Trong vụ việc này, vai trò của ban kiểm soát cũng chẳng thấy đâu mặc dù nhìn vào điều lệ công ty họ có một vị trí rất quan trọng37.

Lập ra Ban kiểm soát để bảo vệ lợi ích cho mình nhưng đôi khi chính cổ đông lại

không hiểu đúng vai trò của họ. Đại hội đồng cổ đông chỉ họp một, hai lần trong một năm

và mỗi phiên họp thường diễn ra trong một ngày. Do đó, có trường hợp, do thời gian quá

gấp rút, Đại hội đồng cổ đông chỉ kịp bầu ra Ban kiểm soát, và trao quyền cho Chủ tịch

Hội đồng quản trị ban hành quy chế hoạt động của Ban kiểm soát. Được trao quyền này, lẽ

dĩ nhiên là Chủ tịch Hội đồng quản trị sẽ giới hạn quyền của Ban kiểm soát tới mức có thể

http://svnckh.com.vn 52

36 Theo ATPVietnam, Mía đường La Ngà kiện nguyên chủ tịch Hội đồng quản trị dùng 17,7 tỉ chơi chứng khoán. ULR: http://tintuc.xalo.vn/00962786922/mia_duong_la_nga_kien_nguyen_chu_tich_hdqt_dung_17_7_ty_choi_ chung_khoan.html 37 “Khi hệ thống kiểm soát chỉ là hình thức”. ULR: http://www.nasco.com.vn/?u=nws&su=d&cid=256&id=352. truy cập ngày 25/04/2010 lúc 21:20 PM..

nhằm mở rộng quyền của mình. Trong một nghiên cứu mới đây của mình, TS. Nguyễn

Đình Cung, Trưởng ban Kinh tế vĩ mô (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương), cho

rằng việc xem nhẹ vai trò giám sát đang làm cho nguy cơ lạm dụng quyền lực trong các

doanh nghiệp trở nên rất cao, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có tỷ lệ lớn sở hữu nhà nước38. Một trong những đặc điểm của các công ty cổ phần Việt Nam là quyền lực rất lớn

tập trung vào tay các thành viên hội đồng quản trị. Họ vừa là cổ đông sở hữu lớn, lại được

giao quyền quản lý, thậm chí chủ tịch hội đồng quản trị kiêm luôn giám đốc điều hành,

người đại diện theo pháp luật.“Quyền lực cực lớn nhưng thường thiếu một cơ chế giám sát

tương ứng”, ông Cung nhận xét. Thậm chí, theo quy định, vẫn cho phép tồn tại các công ty

nhà nước không có hội đồng quản trị, không có ban kiểm soát. Hệ quả là, theo ông Cung,

quyền lực trong các doanh nghiệp nói trên đang bị lạm dụng dưới nhiều hình thức để phục

vụ cho lợi ích riêng của một số người. Một số hành vi lạm dụng quyền lực điển hình hiện

nay tại các công ty cổ phần như: kiến nghị phát hành cổ phần ưu đãi cho thành viên hội

đồng quản trị, tức thành viên hội đồng quản trị tự mình kiến nghị, rồi bỏ phiếu ưu đãi cho

mình (đây thực chất là hành vi tước đoạt tài sản của công ty, của cổ đông thiểu số và cổ

đông nhà nước); giao dịch nội gián và giao dịch với các bên có liên quan mà không công

khai, minh bạch; lấy và sử dụng thông tin, cơ hội kinh doanh của công ty để tư lợi… Hàng

loạt vụ bê bối xảy ra trong các doanh nghiệp nhà nước như vụ Lã Thị Kim Oanh, Tổng

công ty Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Hàng không Việt Nam, Công ty Điện lực

Tp.HCM… chính là hệ lụy của sự thiếu vắng một cơ chế kiểm soát quyền lực thực chất,

Theo luật định, thành viên Ban kiểm soát không được giữ các chức vụ quản

lý công ty. Nghĩa là thành viên Ban kiểm soát sẽ chỉ là một người lao động bình

thường, một nhân viên cấp thấp trong công ty. Trong vai trò kiểm soát viên, họ cần

độc lập với Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc, còn trong vai trò người lao động,

họ chịu sự quản lý của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc. Một câu hỏi đơn giản là

trong hoàn cảnh này, Ban kiểm soát có thể độc lập kiểm soát hoạt động của công ty

được không? Chắc chắn là không. Chính mâu thuẫn giữa hai vai trò này khiến cho

thành viên Ban kiểm soát cùng lúc chịu nhiều áp lực và thông thường, họ sẽ chọn

hiệu quả.

http://svnckh.com.vn 53

38 “Khi hệ thống kiểm soát chỉ là hình thức”. ULR:http:/www.nasco.vn/index.aspx?u=nws&su=d&cid6&id=352 truy cập ngày 25/04/2010 lúc 21:45 PM..

lựa vai trò người lao động vì dẫu sao, hàng tháng họ vẫn phải nhận tiền lương của

công ty.

Vai trò của Ban kiểm soát chưa được các văn bản luật đề cao. Theo quy định

của Luật Doanh nghiệp, văn bản do Ban kiểm soát ban hành về việc kiểm tra, giám

sát chỉ có ý nghĩa cảnh báo. Ngay cả khi phát hiện hành vi vi phạm nghĩa vụ quản lý

công ty của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc, Ban kiểm soát chỉ có quyền yêu

cầu các cá nhân liên quan chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu

quả. Ban kiểm soát không có quyền sa thải người lao động nếu họ sai phạm.

Báo cáo của Ban kiểm soát thường được trình cho Đại hội cổ đông vào mỗi

kỳ họp. Thời gian giữa các kỳ họp lại quá xa và như vậy, báo cáo của Ban kiểm soát

không còn tính thời sự. Bên cạnh đó, các quy định hiện hành về chế độ kế toán, các

báo cáo hàng năm của công ty cổ phần phải nộp cho cơ quan thuế chỉ gồm bản cân

đối kế toán; báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; báo cáo lưu chuyển tiền tệ và

bản thuyết minh báo cáo tài chính.

2.3.3. Đánh giá về hoạt động của Ban kiểm soát và vận dụng kinh

nghiệm của Pháp cho Việt Nam

Ở Việt Nam, có thể thấy rằng hoạt động của Ban kiểm soát vẫn còn mang

tính hình thức và kém hiệu quả. Điều này có thể lý giải bởi sự quy định không rõ

ràng như nói ở trên và sự cố tình vi phạm của các công ty Việt Nam. Về hình thức,

Ban kiểm soát thực hiện vai trò giám soát và kiểm soát nội bộ; trực tiếp giám sát

Hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành. Ban kiểm soát có vai trò và địa vị ngang

hàng với Hội đồng quản trị, cùng chịu trách nhiệm trước cổ đông trong thực hiện

các quyền và nhiệm vụ của mình. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã bổ sung nhiều

quy định với nội dung tương đối chi tiết và rõ ràng về địa vị pháp lý, cơ cấu, quyền

và nhiệm vụ, cách thức hoạt động của Ban kiểm soát. Mục đích của sự thay đổi đó

là nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của Ban kiểm soát trong kiểm soát nội bộ

công ty. Tuy vậy, thực tế cho đến nay có thể nói, kiểm soát nội bộ trong các công ty

nói chung và công ty cổ phầnnói riêng vẫn còn hình thức và kém hiệu lực. Trước

hết, thành viên Ban kiểm soát vẫn thường do chính các thành viên Hội đồng quản trị

http://svnckh.com.vn 54

chỉ định. Như trên đã nói, thành viên Hội đồng quản trị thường cũng chính là các cổ

đông lớn, và họ tự bầu cho mình làm thành viên Hội đồng quản trị và đồng thời, có

ảnh hưởng quyết định đến việc lựa chọn và bầu thành viên Ban kiểm soát. Kiểu

quản lý theo thuận tiện nói trên có lẽ cũng ảnh hưởng đến cách lựa chọn và bổ

nhiệm thành viên Ban kiểm soát. Cho đến nay, thành viên Ban kiểm soát đều là

người lao động trong công ty. Như vậy, họ chỉ là kiểm soát viên kiêm nhiệm, và

nhiệm vụ chính của họ có lẽ không phải là thực hiện giám sát quản lý nội bộ công

ty, mà là thực hiện các công việc với vai trò là người lao động trong công ty.

Hơn nữa hiệu quả hoạt động chưa cao do làm việc không thường xuyên, đa số

thành viên Ban kiểm soát là kiêm nhiệm, có thể bao gồm cả những người không là

cổ đông, không làm việc tại doanh nghiệp nên khó nắm bắt, kiểm soát tình hình

kinh doanh của công ty.

Trách nhiệm pháp lý của Ban kiểm soát không được xác định rõ ràng: nếu

công ty vi phạm pháp luật mà Ban kiểm soát không phát hiện ra thì có phải chịu

trách nhiệm gì không? Hiện tại, không có qui định pháp luật nào buộc Ban kiểm

soát phải chịu trách nhiệm vì sự thiếu trách nhiệm trong thực hiện chức năng, nhiệm

vụ của mình.

Với các đặc điểm nói trên, Ban kiểm soát trên thực tế đã không làm được

chức năng, nhiệm vụ như luật định; và trở nên hình thức, thường chỉ là người “đóng

dấu” cho Hội đồng quản trị và Giám đốc điều hành mỗi khi cần thiết.

So sánh các quy định về Ban kiểm soát trong pháp luật về công ty cổ phần của

Pháp và của Việt Nam có thể thấy một số khác biệt như sau:

Về số lượng thành viên Ban kiểm soát, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định từ 3- 5

thành viên trong đó Luật Công ty Pháp quy định nhiều hơn, từ 3 – 12, trừ trường hợp sáp

nhập có thể lên tới 24 thành viên. Sự quy định của luật Pháp rõ ràng và cụ thể hơn khiến

cho việc áp dụng thuận lợi hơn. Hơn nữa, số thành viên Ban kiểm soát theo luật Pháp cũng

nhiều hơn cho thấy vai trò của Ban kiểm soát được đánh giá cao, nhiều thành viên Ban

kiểm soát có thể thực hiện các công việc được đảm bảo.

Luật Công ty của Pháp quy định Ban kiểm soát phải là cổ đông và sở hữu cổ phần

http://svnckh.com.vn 55

còn Luật Doanh nghiệp 2005 quy định họ có thể là cổ đông hoặc không. Việc quy định của

luật Pháp như vậy khiến cho thành viên Ban kiểm soát có trách nhiệm hơn trong việc giám

sát hoạt động của công ty vì công ty có hoạt động tốt hay không đều có thể ảnh hưởng đến

lợi ích của họ. Thiết nghĩ, Việt Nam cũng nên quy định như vậy.

Nhiệm kỳ của Ban kiểm soát, theo Luật công ty của Pháp, được quy định trong điều

lệ công ty, nhưng không được quá 6 năm trong trường hợp bổ nhiệm trong đại hội cổ đông

thường niên. Về vấn đề này, Luật doanh nghiệp 2005 quy định nhiệm kỳ từ 3-5 năm. Rõ

ràng, cũng như vấn đề số lượng thành viên, luật của Pháp quy định cụ thể hơn và rõ ràng

hơn. Luật Pháp cũng quy định cụ thể về vấn đề bầu thêm Ban kiểm soát trong trường hợp

thiếu thành viên hay công ty có nhiều trụ sở còn Việt Nam không có quy định về vấn đề

này. Điều này nên được thêm vào luật Việt Nam bởi nếu không, các công ty Việt Nam sẽ

áp dụng một cách khác nhau và dễ dẫn đến tranh chấp. Luật Việt Nam không quy định về

hợp đồng của Ban kiểm soát với công ty, Luật Pháp có quy định về vấn đề này. Đây là một

vấn đề quan trọng cần được quy định vì hợp đồng sẽ là một căn cứ quan trọng trong việc

xác định quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát.

2.4. Sự minh bạch trong công bố thông tin.

2.4.1. Quy định của pháp luật về công bố thông tin.

2.4.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam

Công ty cổ phần phải công bố thông tin về tình hình hoạt động làm ăn của công ty.

Công ty cổ phần khác với các công ty khác ở chỗ số lượng cổ đông (người góp tiền vào

công ty) không bị hạn chế. Công ty cổ phần chính là công cụ để huy động những đồng tiền

nhàn rỗi, nhỏ lẻ trong xã hội và giao nó cho người có tài kinh doanh để có thể sử dụng theo

cách có hiệu quả nhất. Ở Việt Nam, mệnh giá của một cổ phần theo Luật doanh nghiệp có

thể do Điều lệ qui định, hiện nay nhiều công ty lấy mệnh giá 100.000 VNĐ hay 1 triệu

VNĐ.

Như vậy, số tiền để có thể tham gia vào công ty cổ phần là không lớn. Nói cách

khác mọi người có thể tham gia vào công ty cổ phần một cách khá dễ dàng. Xuất phát từ

chỗ mỗi cổ phần để tham gia vào công ty giá trị không nhiều, do vậy để tạo nên dòng thác

tư bản lớn thì một cách tất yếu bản thân công ty phải có những cách để thu hút càng nhiều

người góp vốn càng tốt. Hơn nữa, với việc góp vốn vào công ty, bản thân người đầu tư đã

chấp nhận việc giao tiền của mình cho những người chuyên nghiệp quản lí và sử dụng số

http://svnckh.com.vn 56

tiền đó.

Công ty cổ phần với cơ chế tách bạch giữa sở hữu và quản lí đã khiến bản thân

người đã bỏ tiền vào công ty không biết được tiền của mình đang được sử dụng như thế

nào? Để tạo nên cơ chế bảo vệ cho người bỏ tiền ra đầu tư cũng như để họ có thể kiểm soát

được đồng vốn của mình pháp luật đòi hỏi công ty có nghĩa vụ phải công bố các thông tin

về hoạt động của mình. Việc công bố thông tin này nhằm hai mục đích:

Một là để người đã bỏ vốn vào công ty biết quá trình sử dụng vốn như thế nào?

Qua đó người bỏ vốn sẽ cân nhắc ra các quyết định tiếp tục để vốn cho công ty sử dụng

hay thu hồi vốn về.

Hai là việc công bố thông tin sẽ là cơ sở để cho những người có nhu cầu đầu tư biết

mà lựa chọn để ra quyết định đầu tư. Nếu thấy công ty nào làm ăn có lời thì nhà đầu tư lựa

chọn.

Từ những phân tích trên, chúng ta thấy đã có cơ sở để công ty thực hiện việc cung

cấp thông tin không trung thực. Việc cung cấp thông tin không trung thực có thể theo hai

cách: làm cho thông tin "đẹp" hơn hoặc cũng có thể làm thông tin "xấu" đi với những mục

Về vấn đề công bố thông tin, tình hình hoạt động của công ty cổ phần cho

các cổ đông, Luật Doanh nghiệp 2005 có một số quy định như sau:

Thứ nhất, về việc trình báo cáo hằng năm39

đích riêng.

1. Tại thời điểm kết thúc năm tài chính, Hội đồng quản trị phải chuẩn bị các báo

cáo và tài liệu sau đây:

a) Báo cáo về tình hình kinh doanh của công ty;

b) Báo cáo tài chính;

c) Báo cáo đánh giá công tác quản lý, điều hành công ty.

2. Đối với công ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải kiểm toán thì báo cáo tài

chính hằng năm của công ty cổ phầnđã phải được kiểm toán trước khi trình Đại hội đồng

cổ đông xem xét, thông qua.

3. Các báo cáo và tài liệu quy định tại khoản 1 Điều này phải được gửi đến Ban

kiểm soát để thẩm định chậm nhất ba mươi ngày trước ngày khai mạc cuộc họp thường

niên của Đại hội đồng cổ đông nếu Điều lệ công ty không có quy định khác.

http://svnckh.com.vn 57

39 Điều 128, Luật Doanh nghiệp 2005.

4. Báo cáo và tài liệu do Hội đồng quản trị chuẩn bị; báo cáo thẩm định của Ban

kiểm soát và báo cáo kiểm toán phải có ở trụ sở chính và chi nhánh của công ty chậm nhất

bảy ngày làm việc trước ngày khai mạc cuộc họp thường niên của Đại hội đồng cổ đông

nếu Điều lệ công ty không có quy định khác.

Cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục ít nhất một năm có quyền tự mình

hoặc cùng với luật sư hoặc kế toán và kiểm toán viên có chứng chỉ hành nghề trực tiếp xem

Thứ hai, về công khai thông tin về công ty cổ phần40

xét các báo cáo quy định tại Điều này trong thời gian hợp lý.

1. Công ty cổ phần phải gửi báo cáo tài chính hằng năm đã được Đại hội đồng cổ

đông thông qua đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về kế

toán và pháp luật có liên quan.

2. Tóm tắt nội dung báo cáo tài chính hằng năm phải được thông báo đến tất cả cổ

đông.

3. Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền xem hoặc sao chép báo cáo tài chính hằng

năm của công ty cổ phần tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền.

Pháp luật quy định công ty phải cáo bạch thông tin và thông tin này phải là thông

tin trung thực. Để tránh trường hợp gian lận luật yêu cầu phải có người kiểm tra lại thông

tin mà công ty cung cấp. Người có nhiệm vụ kiểm tra lại thông tin này là các công ty kiểm

toán độc lập. Tuy vậy trong trường hợp công ty vẫn cố tình vi phạm nghĩa vụ cung cấp

thông tin một cách trung thực thì tùy theo mức độ mà xử lí. Cụ thể công ty có hành vi gian

dối sẽ bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, buộc chấp hành đúng quy định của pháp luật về công bố

thông tin và bồi thường các thiệt hại (Điều 128 Luật chứng khoán 2006).

Ngoài ra, theo Quy chế quản trị công ty, ban hành theo Quyết định số 12 ngày

13/03/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc công bố thông tin và minh bạch thì công ty

phải công bố đầy đủ, chính xác và kịp thời thông tin định kỳ và bất thường về tình hình

hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính và quản trị công ty cho cổ đông và công chúng.

Thông tin và cách thức công bố thông tin được thực hiện theo quy định của pháp luật và

Điều lệ công ty. Ngoài ra, công ty cũng phải công bố kịp thời và đầy đủ các thông tin khác

nếu các thông tin đó có khả năng ảnh hưởng đến giá chứng khoán và đến quyết định của cổ

đông cũng như của các nhà đầu tư.

http://svnckh.com.vn 58

40 Điều 129, Luật Doanh nghiệp 2005.

Công ty phải công bố thông tin về tình hình quản trị công ty trong các kỳ Đại hội

đồng cổ đông hàng năm, trong báo cáo thường niên của công ty.

2.4.1.2. Quy định của pháp luật Pháp.

a. Thông tin cho cổ đông

Tất cả cổ đông đều có quyền được công bố thông tin về tình hình hoạt động của

công ty. Nhất là, ở mọi thời điểm, tất cả cổ đông có quyền được yêu cầu công bố thông tin

về:

- Kiểm kê, những chi tiêu hàng năm và danh sách những người quản lý hoặc những

thành viên của ban giám đốc và ban kiểm soát, và khi đến hạn là tình hình lỗ lãi trong tài

khoản của họ.

- Báo cáo của hội đồng quản trị và ban giám đốc và ban kiểm soát, và những kiểm

toán viên, với sự cho phép của đại hội, về kết quả tình hình của công ty trong 5 năm gần

nhất.

- Báo cáo về dự định những giải pháp được đề ra, cũng như những hướng dẫn liên

quan đến thành viên hội đồng quản trị hay ban kiểm soát, tuỳ từng trường hợp

- Tổng số tiền, chứng nhận chính xác bởi kiểm toán viên ; thù lao cho những người

được trả lương cao nhất - số lượng những người đựơc trả lương cao nhất có thể là 5 người

hoặc là 10 người, tuỳ theo số lượng hiện có của nhân viên, nhưng số lượng này không vượt

quá trong tổng số 200 người.

- Tổng số tiền, được chứng nhận bởi kiểm toán viên, những khoản tiền theo luật

được giảm thuế, danh sách những cổ phiếu được bảo lãnh hoặc được hỗ trợ tiến hành bởi

công ty ,cũng như danh sách là những tài liệu giúp cho thành viên trong việc bỏ phiếu bầu

chủ tịch hoặc bỏ phiếu theo luật định.

Các cổ đông có quyền được thông tin về những biên bản và giấy tờ: giấy bỏ phiếu

qua thư và giấy uỷ quyền, của những đại hội trong vòng 3 năm gần nhất.

Ngoài ra, trước mỗi đại hội đồng cổ đông thường niên, các cổ đông phải nhận được

thông tin về danh sách cổ đông

b. Thông tin cho nhân viên

Công đoàn phải được tham khảo, hỏi ý kiến trong trường hợp giải thể hay nhượng

http://svnckh.com.vn 59

chi nhánh hoặc có sự mua lại của 1 công ty khác.

Những người lãnh đạo phải báo trước cho công đoàn mọi giao dịch mua lại diễn ra

với công ty của họ.

c. Thông tin bên ngoài

- Thông tin về tình trạng tài chính của công ty cho những công ty khác biết khi tiết

kiệm hay gửi tiền vào ngân hàng ở phòng thư ký của toà án thương mại nhằm kiểm kê tài

chính.

- Thông tin cho Uỷ ban thị trường chứng khoán (La bourse des valeurs) đối với

những công ty niêm yết khi mua lại cổ phần của công ty khác

Có thể nói, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia mà sự thiếu minh bạch

xảy ra ở khắp nơi và trong rất nhiều trường hợp, không cần phải có học thức cao

hay dày công nghiên cứu, người dân bình thường cũng dễ dàng nhận thấy.

Trong một bộ phận doanh nghiệp, sự thiếu minh bạch cũng xảy ra nghiêm

trọng. Ở một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh, theo báo cáo tài chính thì doanh

nghiệp lỗ triền miên, thậm chí số lỗ cộng dồn sau 3 đến 5 năm lớn gấp 5 - 6 lần vốn

điều lệ, nhưng tài sản cá nhân của ông chủ doanh nghiệp thì tăng lên gấp nhiều lần

sau mỗi năm. Vì sao vậy? Ở khá nhiều doanh nghiệp tuy thua lỗ nặng nề và kéo dài

nhưng các báo cáo tài chính (đã được kiểm toán) lại cho thấy là doanh nghiệp đang

có lãi lớn và doanh nghiệp dễ dàng được vay vốn từ ngân hàng với số tiền hàng

trăm tỷ đồng, nhanh chóng được tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán…

Sự thật chỉ bị phơi bày khi khả năng thanh toán bị triệt tiêu. Đây là một hình thức

gian lận, đánh lừa nhà đầu tư nhằm trục lợi. Đó là trường hợp khai man báo cáo tài

chính của Công ty Bông Bạch Tuyết trong hơn 2 năm, hay một số công ty niêm yết

sử dụng thủ thuật kế toán để chuyển lỗ từ các quý trong năm vào thời điểm cuối

năm 2008…

Quyền lợi của nhà đầu tư, các cổ đông vẫn tiếp tục bị vi phạm khi việc công

bố thông tin về doanh nghiệp chưa kịp thời, chính xác, đầy đủ và thiếu minh bạch.

Một dạng thiếu minh bạch đang diễn ra rất phổ biến hiện nay là việc các doanh

nghiệp chậm nộp và công bố báo cáo tài chính. Nhìn từ góc độ thông tin, dù chậm

nộp báo cáo tài chính với lý do gì, thì việc xin gia hạn nộp báo cáo tài chính cũng

http://svnckh.com.vn 60

2.4.2. Thực trạng về vấn đề công bố thông tin tại Việt Nam

tạo ra sự hồ nghi nhất định của nhà đầu tư đối với sự minh bạch của doanh nghiệp.

Có nhà đầu tư đã thẳng thắn đặt câu hỏi rằng, liệu doanh nghiệp gặp những khó

khăn khách quan thực sự khi lập báo cáo tài chính hay có doanh nghiệp đang cần

thời gian để trau chuốt cho những báo cáo tài chính "đẹp" hơn? Báo cáo tài chính là

thông tin quan trọng để các nhà đầu tư ra các quyết định luân chuyển đồng vốn, cơ

cấu lại danh mục đầu tư. Chính vì vậy, dạng thiếu minh bạch này ảnh hưởng không

nhỏ đến quyền lợi của các nhà đầu tư.

Việc các doanh nghiệp công bố lợi nhuận lệch so với kết quả kiểm toán, thậm chí

từ lãi chuyển thành lỗ như trường hợp ở một số công ty như Công ty cổ phần Kinh Đô

(KDC), Công ty cổ phần Chế biến Thực phẩm Kinh Đô Miền Bắc (NKD), Ngân hàng

Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín (STB), Công ty cổ phần Phát triển đô thị Từ

Liêm (NTL)… cũng là một dạng thiếu minh bạch, mà hầu hết là không tính được các

khoản trích lập dự phòng từ đầu tư tài chính. Nhà đầu tư rất khó có thể đánh giá đúng tổn

thất của các khoản đầu tư tài chính của doanh nghiệp để từ đó định giá đúng giá trị cổ

phiếu của doanh nghiệp đó cho mỗi quyết định đầu tư.

Ngoài ra, sự thiếu minh bạch trong công bố thông tin còn thể hiện ở việc có trường

hợp công ty bán cổ phiếu ra thị trường nhưng không thông báo cho cổ đông dẫn tới xảy ra

tranh chấp. Đó là trường hợp của Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân đã nêu

ở phần trước. Cuối năm 2004 đầu năm 2005 Giám đốc Công ty đã quyết định bán 25.000

cổ phần nhưng không thông báo đến tất cả các cổ đông. Trong vụ án này, việc phát hành cổ

phần đã không được thông báo rộng rãi tới tất cả các cổ đông của công ty; thời hạn nộp

đơn quá ngắn, nên có thể ảnh hưởng tới việc các cổ đông thực hiện quyền mua cổ phần do

công ty phát hành. Như vậy, dù trên thực tế người có trách nhiệm trong việc phát hành cổ

phần hoàn toàn vô tư, không có ý định hạn chế số lượng người đăng ký mua, nhưng vẫn có

thể tạo ra sự hiểu lầm - một nguyên nhân chính dẫn tới sự mất đoàn kết, thậm chí dẫn tới

Theo một báo cáo do ông Behdad Nowroozi – đại diện của Ngân hàng Thế

giới tại khu vực Đông Á và Thái Bình Dương thực hiện, được Ủy ban Chứng khoán

Nhà nước chấp thuận cho công bố vào tháng 11/2006 thì chất lượng thông tin được

công bố theo nguyên tắc quản trị doanh nghiệp của OECD tại Việt Nam được đánh

http://svnckh.com.vn 61

tranh chấp trong doanh nghiệp.

giá là căn bản không được tuân thủ41. Có nghĩa là mặc dù khuôn khổ pháp lý có quy

định và việc thực thi đã có những tiến bộ song những khuyết điểm là đáng kể đủ để

gây nghi ngại về khả năng tuân thủ của người thực thi.

Còn có thể nêu ra rất nhiều ví dụ trong thực tiễn để chứng minh rằng, thiếu

minh bạch đã và đang là căn bệnh nan y trong quản lý, điều hành các công ty nói

chung và các công ty cổ phần nói riêng ở nước ta. Thiếu minh bạch gây hậu quả vô

cùng to lớn. Nó làm xói mòn lòng tin của cổ đông đối với sự điều hành, năng lực

kinh doanh của công ty; nó làm cho công ty mất đi thương hiệu của mình, nó là lực

cản cho sự phát triển lâu dài của công ty.

2.4.3. Đánh giá về vấn đề công bố thông tin tại Việt Nam và vận dụng

kinh nghiêm của Pháp cho Việt Nam.

Đánh giá chung về vấn đề công bố thông tin tại các công ty cổ phần tại Việt

Nam là chậm trễ, không rõ ràng và không minh bạch. Các công ty Việt Nam hoặc

không muốn hoặc không sẵn sàng chuẩn bị đầy đủ các thông tin khi có yêu cầu.

Điều này rất nguy hiểm, với nội bộ công ty, các cổ đông, nhân viên không năm

được tình hình tài chính, hoạt động quản lý của công ty, điều đó cũng có nghĩa họ

không nắm được lỗ lãi số tiền của họ và số tiền đó đang được dùng ở đâu, cho việc

gì. Cũng như vậy, với bên ngoài, thông tin của công ty không minh bạch, điều này

ảnh hưởng xấu đên tâm lý an tâm của nhà đầu tư, và tất nhiên, không an tâm các

nhà đầu tư sẽ không sẵn sàng khi đầu tư vào công ty

Luật công ty của Pháp quy định rất cụ thể về vấn đề này, điều đó giúp cho

hoạt động của công ty dễ dàng hơn. Thông tin đầy đủ sẽ giúp cho công ty có được

hình ảnh tốt với chính nhân viên của mình và với bên ngoài.

Theo luật của Pháp quy định cụ thể việc công khai thông tin cho nhiều đối

tượng đó là công bố thông tin cho cổ đông, cho nhân viên trong công ty và cho các

phương tiện thông tin đại chúng. Nên chăng, chúng ta cũng cần tham khảo cách làm

này của Pháp bằng việc quy định rõ ràng việc công khai thông tin cho nhiều đối

http://svnckh.com.vn 62

41Behdad Nowroozi, Đánh giá tình hình quản trị công ty tại Việt Nam. ULR: http://docs.google.com/viewer?a=v&q=cache:0_MdHQtRe4J:www.worldbank.org/ifa/rosc_cg_vietnam_vn m.pdf+sai+tr%C3, truy cập ngày 24/-3/2010 lúc 21:15PM

tượng khác nhau, ví dụ như ngoài cổ đông còn cung cấp thông tin cho các công

nhân viên, cơ quan quản lý…

Hơn nữa, tại Pháp liên quan đến việc cho phép doanh nghiệp huy đông vốn

từ công chúng là Cơ quan Quản lý các thị trường tài chính Pháp (Autorité des

marchés financiers – AMF – một tổ chức tài chính độc lập được thành lập vào tháng

8/2003) sẽ giám sát tất cả thông tin quảng cáo của doanh nghiệp liên quan đến hoạt

động chào bán trong thời hạn ba tháng kể từ ngày công bố bản cáo bạch. Theo ông

Bruno Gizard, Phó tổng thư ký của AMF, tại Pháp cũng có nhiều trường hợp doanh

nghiệp sử dụng phương tiện thông tin đại chúng chỉ để truyền tải những thông tin

tốt cho mình (tương tự như Việt Nam) vì thế AMF có trách nhiệm phải giám sát

thông tin của doanh nghiệp, để đảm bảo nhà đầu tư được nhận thông tin đầy đủ và

cân bằng trước khi doanh nghiệp được phép phát hành chứng khoán để huy động

vốn42.

Để đảm bảo tính chuẩn mực của cáo bạch, AMF quy định bản cáo bạch của

doanh nghiệp phải có 3 đối tượng cùng liên đới chịu trách nhiệm gồm: người công

bố thông tin (thông thường là người lãnh đạo doanh nghiệp), kiểm toán viên độc lập

và tổ chức cung cấp dịch vụ đầu tư. Ngoài ra, AMF cũng phải chịu trách nhiệm nếu

không phát hiện ra những sai sót cơ bản trong bản cáo bạch của doanh nghiệp mà

đáng ra phải phát hiện được. Sau khi phát hành chứng khoán ra công chún, doanh

nghiệp Pháp cũng phải thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin định kỳ hàng quý, 6

tháng và một năm. Những báo cáo này phải được gửi đồng thời đến cơ quan quản lý

và nhà đầu tư thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

Từ những kinh nghiệm minh bạch hóa thông tin tại Pháp đã trình bày ở trên,

chúng ta có thể tham khảo để cải thiện tốt hơn chất lượng thông tin công bố dựa trên

những giải pháp chung là hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường công tác giám sát

và tăng cường ý thức công bố thông tin của doanh nghiệp.

Trong giai đoạn hiện nay, sự công khai, minh bạch hoá các hoạt động của doanh

nghiệp nói chung, trong quản trị doanh nghiệp nói riêng, không còn là vấn đề nội bộ của

http://svnckh.com.vn 63

42 Học cách minh bạch thông tin của người Pháp. ULR: http://www.vinacorp.vn/news/hoc-cach-minh-bach- thong-tin-cua-nguoi-phap/ct-290907, truy cập ngày 25/04/2010 lúc 22:10 PM

doanh nghiệp mà đã thực sự trở thành nhu cầu, đòi hỏi bức xúc của toàn xã hội; là điều

kiện tiên quyết và mang tính quyết định tới việc phát triển và hội nhập của các doanh

nghiệp vào thị trường trong nước, khu vực và thế giới; là cơ chế hữu hiệu để doanh nghiệp

tự cải tổ, chỉnh đốn về tổ chức và hoạt động để tăng cường sức cạnh tranh trong cơ chế thị

trường. Chính vì vậy, hoạt động quản trị doanh nghiệp cần được công khai, minh bạch hoá.

Những người có trách nhiệm trong quản trị doanh nghiệp, cần tiến hành mọi hoạt động cần

thiết để bảo đảm công khai các thông tin về hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là những

thông tin có liên quan tới quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông trong doanh nghiệp.

CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN

CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG QUẢN

LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

3.1. Định hƣớng hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý và điều hành công

ty cổ phần.

Luật Doanh nghiệp năm 2005 là văn bản pháp lý quan trọng quy định một cách cụ

thể và chi tiết hoạt động quản lý và điều hành các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam trong

đó có công ty cổ phần. Để phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đối với hệ thống

các doanh nghiệp trên các mặt như: định hướng phát triển, xây dựng hệ thống pháp luật, cơ

chế chính sách quản lý trong nội bộ công ty, hệ thống thông tin trên thị trường chứng

khoán, đội ngũ cán bộ quản lý, kiểm tra, giám sát, bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông thiểu

số… Luật Doanh nghiệp năm 2005 nói chung, các quy định pháp lý (của Luật) điều chỉnh

hoạt động quản lý và điều hành công ty cổ phần nói riêng đã góp phần tạo ra sự

ại hình doanh nghiệp đang không ngừng phát triển này

trong thực tiễn. Tuy nhiên, các kết quả phân tích và đánh giá trong chương II đã chỉ ra rằng:

cùng với sự phát triển một cách sinh động và năng động của các công ty cổ phần đã khiến

cho một số quy định pháp lý về quản lý và điều hành loại công ty này còn có một số điểm

bất cập, cần được hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các quy định và toàn

bộ văn bản pháp lý quan trọng này. Nội dung và quá trình hoàn thiện các quy định pháp lý

điều chỉnh hoạt động quản lý và điều hành công ty cổ phần ở nước ta trong thời gian tới

http://svnckh.com.vn 64

cần đượ ự ịnh hướng chính sau đây:

công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật

doanh nghiệp năm 2005, do đó việc hoàn thiện các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động

quản lý và điều hành công ty cổ phần cần được tiến hành đồng bộ với các loại hình doanh

nghiệp khác, hay nói cách khác cần sửa đổi, bổ sung (tức hoàn thiện) Luật doanh nghiệp

một cách đồng bộ và tổng thể sau 5 năm thực hiện.

Thứ hai, Luật doanh nghiệp là một văn bản pháp lý bao trùm đối với mọi hoạt động

sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp. Do đó, sau khi văn bản luật này được

Quốc hội thông qua, Chính phủ cần ban hành các nghị định hướng dẫn tiêu chí tổ chức

quản lý, hoạt động củ ại hình doanh nghiệp, trong đó bao gồm cả các công ty hoạt

động theo mô hình công ty cổ phần.

Thứ ba, Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu và rộng với các nước trong khu

vực và trên thế giới, vì vậy hệ thống luật pháp Việt Nam nói chung, Luật doanh nghiệp

2005 riêng cần có sự nghiên cứu, tham khảo và kế thừa những quy định pháp lý tiến bộ,

tích cực của hệ thống luật pháp các nước phát triển, tiêu biểu như Anh, Mỹ, Pháp, Nhật

Bản…

Thứ tư, các quy định pháp lý điều chỉnh một loại hình doanh nghiệp là tập hợp hệ

thống các văn bản pháp lý từ các bộ luật được Quốc hội thông qua đến các văn bản dưới

luật do Chính phủ và các bộ, ngành có liên quan ban hành và cuối cùng là các quy định

trong điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần do Ban điều hành xây dựng và

được Đại hội cổ đông thông qua. Vì vậy, tùy theo tính đại diện và phổ biến của các hiện

tượng kinh tế phát sinh trong thực tiễn trong quá trình vận hành hoạt động loại hình doanh

nghiệp này để có hướng đề xuất hoàn thiện các quy định pháp lý ở cấp độ phù hợp.

Thứ năm, để các quy định pháp lý về quản lý và điều hành công ty cổ phần có hiệu

lực và hiệu quả thực thi cao trong thực tiễn, những người soạn thảo và xây dựng các quy

định pháp lý này cần tham khảo và tiếp thu ý kiến từ nhiều đối tượng khác nhau, đại diện

cho những quyền và lợi ích hợp pháp khác nhau của các nhóm đối tượng như các cổ đông,

các nhà quản lý, đại diện người lao động trong công ty, các nhà tư vấn pháp luật, các hiệp

hội, các nhà nghiên cứu…

Thứ sáu, hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý và điều hành công ty cổ phần

không chỉ dựa trên cơ sở luật gốc là Luật doanh nghiệp mà cần có sự tham chiếu các bộ

http://svnckh.com.vn 65

luật có liên quan khác của Việt Nam như Luật dân sự, Luật tố tụng dân sự, Luật đầu tư,

Luật lao động, Luật Thương mại… và các quy định của các định chế pháp lý quốc tế như:

Tổ chức thương mại thế giới, Tổ chức lao động thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế…

Đảng và Nhà nước đã và đang tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi

cho các loại hình doanh nghiệp phát triển không hạn chế về quy mô trong mọi ngành nghề,

lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật

không cấm, đồng thời hoàn thiện hệ thống quản lý để doanh nghiệp có thể vận hành một

cách tốt nhất, tránh được các tranh chấp nội bộ trong công ty.

3.2. Giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định pháp lý và nhằm thực

hiện đúng luật về quản lý và điều hành công ty cổ phần ở Việt Nam.

3.2.1. Nhóm các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp lý

3.2.1.1 Về cách thức triệu tập Đại hội đồng cổ đông

Thứ nhất, Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ

quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần. Đại hội đồng cổ đông gồm có đại hội

thường niên và đại hội bất thường. Đại hội thường niên họp mỗi năm một lần nhưng không

được quá 6 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính, người triệu tập họp đại hội đồng cổ

đông phải lập danh sách cổ đông có quyền dự họp, lập chương trình và nội dung cuộc họp,

chuẩn bị tài liệu, xác định thời gian và địa điểm họp, gửi thông báo mời họp tới từng cổ

đông có quyền dự họp. Công ty cổ phần luôn có một vấn đề nổi trội là sự tranh giành

quyền lực giữa các thành viên công ty, chỉ một sự không rõ ràng có thể dẫn đến tranh chấp,

kiện tụng. Luật doanh nghiệp lại quy định vấn đề triệu tập Đại hội đồng cổ đông nói riêng

và các vấn đề khác nói chung lại không rõ ràng, đôi khi giữa Luật và các văn bản dưới luật

lại có sự mâu thuẫn. Vì vậy, luật cần quy định rõ ràng hơn :

Có thể lấy ví dụ như về điều kiện tiến hành cuộc họp Đại hội đổng cổ đông, công

nhận cuộc họp Đại hội đổng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít

nhất 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, thay cho tỷ lệ tối thiểu 65% tuy nhiên,

nhiều công ty vẫn cho rằng phải đạt tỷ lệ 65% mới hợp pháp vì dựa theo cách hiểu tại một

số công văn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, của Hiệp hội

các nhà kinh doanh chứng khoán.Rõ ràng, tồn tại một sự không nhất quán trong Luật và

các văn bản dưới luật, do đó cần có sự xem xét điều chỉnh cho thống nhất, không gây sự

http://svnckh.com.vn 66

không rõ nghĩa hay không rõ ràng cho các công ty.

Thứ hai, nhiều công ty Việt Nam chỉ cho cổ đông đăng ký dự họp và chỉ tính số

lượng phiếu biểu quyết theo danh sách cổ đông tại thời điểm khai mạc cuộc họp. Điều này

đã tước bỏ quyền lợi chính đáng của cổ đông. Về điều này thì luật Công ty của Pháp còn

cho phép các cổ đông được biểu quyết qua thư, làm tăng vai trò và quyền lợi chính đáng

của cổ đông hơn.

Thứ ba, về việc thông báo mời họp Đại hội đồng cổ đông, luật Công ty của Pháp

quy định phải thông báo ít nhất trước 15 ngày, còn Luật Doanh nghiệp là chậm nhất là 7

ngày trước khi bắt đầu tiến hành họp. Việc luật quy định như vậy khiến cho các cổ đông có

ít thời gian tìm hiểu và nghiên cứu thông tin, nội dung buổi họp để có thể đưa ra các quyết

định sáng suốt. Hơn nữa các công ty ở Việt Nam thường xuyên chậm trễ trong việc gửi

thông báo mời họp. Vì thế, nên quy định thời hạn thông báo họp sớm hơn nhằm tạo điều

kiện cho các cổ đông có thời gian để nghiên cứu các thông tin cần thiết nhằm chuẩn bị tốt

cho cuộc họp.

3.2.1.2 Về quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ

Thứ nhất, về điều kiện tiến hành họp, luật Công ty của Pháp chỉ yêu cầu đối với

Đại hội đồng thường niên lần thứ nhất là 25% cổ phần có quyền biểu quyết, lần thứ hai bất

kể số cổ phần và số đại biểu tối thiểu như thế nào thì cuộc họp vẫn sẽ được tiến hành; đối

với Đại hội đồng bất thường thì lần họp thứ nhất yêu cầu 50% cổ phần có quyền biểu quyết

và lần thứ hai là 25%. Luật Doanh nghiệp chỉ quy định chung đối với cả Đại hội đồng cổ

đông thường niên và bất thường là 65% cổ phần có quyền biểu quyết, lần thứ hai là 51%

và lần thứ ba vẫn được tiến hành bất kể số cổ phần và số đại biểu. Có thể thấy Luật công ty

ở Pháp đã bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các cổ đông nhỏ. Bởi trên thực tế, nếu những người

nắm giữ nhiều cổ phần trong công ty, khi họ có sai phạm thì Luật Công ty ở Pháp sẽ cho

phép những cổ đông nhỏ có thể nói lên tiếng nói nhằm bảo vệ lợi ích của mình vì chỉ cần

25% cổ phần với Đại hội đồng cổ đông thường niên và 50% với Đại hội đồng bất thường.

Cũng như thế, Luật Doanh nghiệp yêu cầu 65% cổ phần, điều này rất khó để các cổ đông

nhỏ có thể tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông vì họ không nắm giữ số cổ phần lớn.

Thứ hai, về cơ cấu vốn cho phép một số cổ đông nắm giữ cổ phần, nhằm đảm bảo

tính khách quan, minh bạch, Luật Doanh nghiệp nên quy định tỉ lệ tối thiểu cổ phiếu phổ

thông do một công ty cổ phần phát hành. Về cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi biểu quyết,

Luật doanh nghiệp nên quy định mọi cổ phiếu ưu đãi biểu quyết sẽ chuyển đổi thành cổ

http://svnckh.com.vn 67

phiếu phổ thông sau thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký

kinh doanh. Việc bảo lưu quyền ưu đãi biểu quyết của cổ đông nhà nước (tổ chức do chính

phủ uỷ quyền ) như hiện nay là không cần thiết, thiếu minh bạch và tạo ra sự bất bình đẳng

giữa các cổ đông.

Tóm lại, khi chúng ta có những cơ chế đảm bảo quyền dự họp Đại hội cổ đông của

cổ đông nhỏ là chúng ta bước đầu thực hiện quyền của họ. Bởi quyền dự họp Đại hội cổ

đông là nền tảng để cổ đông nhỏ thực hiện các quyền khác của mình. Nhưng thực tế, quyền

dự họp đang trở thành vấn đề nóng bỏng do các công ty cổ phần đang vi phạm. Thiết nghĩ,

chúng ta cần chấn chỉnh lại việc thực thi Luật Doanh nghiệp, sau đó phải có định hướng

cho các cổ đông nhỏ biết liên kết, tự bảo vệ quyền của mình. Cuối cùng, quyền đó phải

được bảo đảm từ phía các cơ quan bảo vệ pháp luật. Như thế, môi trường kinh doanh của

Việt Nam chắc chắn sẽ được cải thiện trong thời gian tới.

3.2.1.3 Về vai trò, chức năng và trách nhiệm của Ban kiểm soát

Thứ nhất, về thủ tục đề xuất các kiến nghị của Ban kiểm soát đến đại hội đồng cổ

đông. Theo Luật Doanh nghiệp, Ban kiểm soát có thể tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên đại hội đồng cổ đông43. Theo điều lệ mẫu công ty cổ phần áp dụng cho công ty niêm yết44, mọi kiến nghị của Ban kiểm soát đều

chỉ được ban hành, đệ trình lên đại hội đồng cổ đông sau khi đã tham khảo ý kiến của Hội

đồng quản trị. Như vậy, quy định mềm dẻo của Luật Doanh nghiệp đã bị “ văn bản dưới

luật ” biến tấu, dẫn đến tình trạng không đảm bảo nguyên tắc hoạt động độc lập của Ban

kiểm soát trong công ty cổ phần. Các quy định mâu thuẫn với luật cần được bãi bỏ hoặc

Thứ hai, khoản 1 điều 123 Luật quy định Ban kiểm soát giám sát Hội đồng

quản trị, Ban giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công

ty, chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông trước việc thực hiện các nhiệm vụ

được giao. Nhưng nếu trong luật có quy định Ban kiểm soát hoạt động độc lập,

không phụ thuộc vào Hội đồng quản trị, Ban giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty

thì thực tế ở Việt Nam Ban kiểm soát chưa phát huy được vai trò cũng như trách

nhiệm của mình. Vì thế, Luật nên quy định rõ trách nhiệm cụ thể đối với Ban kiểm

soát thì việc này mới được thực thi.

sửa đổi cho phù hợp.

http://svnckh.com.vn 68

43 Khoản 9 điều 123, Luậtdoanh nghiệp năm 2005. 44 Ban hành kèm theo Quyết định của Bộ tài chính số 15/2007/QĐ – BTC ngày 19/3/2007 về việc ban hành điều lệ mẫu áp dụng cho công ty niêm yết sở giao dịch chứng khoán/ trung tâm giao dịch chứng khoán.

Thứ ba, trong quy định về công bố thông tin của công ty đại chúng, nội dung

công bố thông tin về báo cáo tài chính năm cũng chỉ bao gồm các tài liệu trên. Như

vậy, báo cáo của Ban kiểm soát không phải là tài liệu bắt buộc phải nộp cho cơ

quan quản lý hoặc công bố thông tin theo quy định. Như đã nêu ở trên, báo cáo của

Ban kiểm soát là một tài liệu quan trọng, giúp nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà

nước có được cái nhìn toàn diện về doanh nghiệp từ góc độ mà các bản báo cáo tài

chính không đề cập đến. Thông tin trong báo cáo của Ban kiểm soát có tầm quan

trọng không kém các báo cáo tài chính. Do đó, cần phải xem xét việc yêu cầu công

ty cổ phần, nhất là công ty đại chúng, phải công bố báo cáo của Ban kiểm soát cùng

với báo cáo tài chính.

Nếu toàn bộ quyền lực trong công ty cổ phần đều tập trung vào Hội đồng

quản trị và Ban Giám đốc, thì không ai dám khẳng định rằng họ không lạm quyền

và khi đó cổ đông sẽ không được bảo vệ. Ban kiểm soát là một cơ chế phù hợp để

cổ đông tự bảo vệ mình. Muốn như thế, hoạt động của Ban kiểm soát cần được điều

chỉnh bởi một khung pháp lý rõ ràng hơn, đồng thời chính cổ đông phải hiểu rõ và

sử dụng vai trò của Ban kiểm soát một cách thông minh và phù hợp. Ngoài ra, khi

được cổ đông tin tưởng và trao quyền, Ban kiểm soát phải có đủ khả năng và dũng

khí thực thi nhiệm vụ, các báo cáo của Ban kiểm soát phải thể hiện được tính độc

lập và chính xác. Chỉ có như vậy quyền lợi của cổ đông mới được bảo vệ và xã hội

mới tránh được những thiệt hại từ sự sụp đổ của các công ty cổ phần.

3.2.1.4 Về sự minh bạch trong công bố thông tin

Thứ nhất, quá trình phát triển quản lý và điều hành công ty cổ phần là một quá trình

lâu dài trong mối liên hệ giữa người ủy thác và việc quản lý tài sản cũng như các bên liên

quan, và lý do cho mối liên hệ này chính là do sự bất đối xứng trong công bố thông tin.

Giữ cải thiện tính minh bạch và công bố thông tin đã luôn luôn được yêu cầu trong suốt sự

phát triển của quản lý và điều hành công ty, vì thế đây sẽ là một chủ đề vĩnh cửu và luôn

nhận được sự chú ý.

Công bố thông tin là điểm chính cho quản lý và điều hành công ty hiện nay. Quản

lý và điều hành luôn phải đi kèm với sự kiểm tra và cân bằng giữa các bên liên quan, tập

http://svnckh.com.vn 69

trung vào lợi ích của cổ đông, hay nói một cách khác, nó là một tập hợp toàn bộ các cơ chế

bố trí các quyền của công ty, phân công trách nhiệm và hạn chế để bảo vệ các quyền lợi

của các cổ đông và các bên liên quan theo quy định của pháp luật . Công bố thông tin của

công ty cần chính xác, kịp thời và công khai cho các cổ đông và các bên liên quan nhằm

mục đích nâng cao sự tham gia của họ và bảo vệ lợi ích của họ.dựa trên những thông tin

được tiết lộ đúng sự thật.

Công bố cũng sẽ là một thách thức đối với công ty, nhưng nó có ý nghĩa quan trọng

đối với các cổ đông và các bên liên quan. Công bố thông tin không chỉ phản ánh quá trình

quản lý và điều hành công ty mà còn có đánh giá hiệu quả của sự quản lý này. "Đầy đủ" là

yêu cầu cơ bản để công bố thông tin và nó cũng có thể được bổ sung thêm với các yêu cầu

về nội dung. Do phát triển kinh tế, thông tin cần thiết cho quản lý và điều hành công ty cần

toàn diện. Mặc dù điểm chú ý của yêu cầu thông tin của các bên liên quan có thể được thay

đổi thì các yêu cầu về sự chính xác là cơ bản và cần đảm bảo nhất.

Thứ hai, nội dung của thông tin được tiết lộ bao gồm tài chính và thông tin không

tài chính. Thông tin tài chính hầu hết liên quan chặt chẽ đến công ty và các bên liên quan,

do đó thường xuyên là cần thiết nhất. Thông tin tài chính thường đề cập đến các báo cáo

hàng năm, trong khi thông tin phi tài chính có thể tập trung về môi trường kinh doanh, xã

hội,…

Thông tin liên quan đến các khía cạnh của Hội đồng quản trị bao gồm: cơ cấu và

thủ tục hoạt động, chi tiết của các ban đặc biệt hay cách bầu Ban giám đốc, bao gồm cả

phương thức giới thiệu và đề cử, tiền lương và chi phí cho việc quản lý cao nhất, kiểm soát

rủi ro, kiểm toán viên, và chi tiết các giao dịch liên quan.

Các khía cạnh của hoạt động công ty như: báo cáo tài chính, báo cáo của các giao

dịch quan trọng, mua bán, trọng điểm khách hàng…; trong khía cạnh của xã hội như: môi

trường, cộng đồng và nhân viên,…

Công bố thông tin không được giới hạn trong các sự kiện hiện tại, mà còn bao gồm

các dự báo và phân tích hoạt động trong tương lai và điều kiện tài chính, báo cáo tài chính

và báo cáo về công tác quản lý điều hành,…

Do đó, thông tin tiết được công bố là một biểu tượng quan trọng cho doanh nghiệp

để tạo ra một hình ảnh tốt với xã hội và cũng là cơ sở cho các nhà đầu tư tin tưởng trong

http://svnckh.com.vn 70

doanh nghiệp và sẵn sàng đóng bỏ tiền đầu tư.

Thứ ba, một điểm mà chúng ta cần tham khảo kinh nghiệp của Pháp đó là

trong hồ sơ huy động vốn của doanh nghiệp Pháp, phải có một bản cáo bạch tóm tắt

dưới 2.500 từ để giúp những người ít thời gian vẫn có thể tiếp cận thông tin chính

yếu về doanh nghiệp. Tại Pháp, nhiều doanh nghiệp có cáo bạch dài tới 500 trang,

nên việc yêu cầu phải có một bản cáo bạch tóm tắt là thủ tục bắt buộc và người thực

hiện bản tóm tắt này phải chịu trách nhiệm dân sự nếu tóm tắt có nội dung lừa dối,

không chính xác hoặc mâu thuẫn với các phần khác của cáo bạch.

Thứ tư, cũng có thể học tập từ các kinh nghiệm đã nêu ở chương hai của công hòa

Pháp. Đó là việc quy định cụ thể từng loại thông tin công bố cho từng đối tượng cụ thể, cần

cung cấp đầy đủ thông tin mà đối tượng đó cần. Nếu là thông tin cho các cổ đông thì cần

cung cấp các thông tin về tình hình hoạt động của công ty, doanh thu, chi phí, lỗ, lãi, cổ tức,

suất sinh lời… Nếu là thông tin cho các nhân viên trong công ty thì là thông tin về lương

bổng. Nếu là thông tin cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước là các thông tin về thuế,

doanh thu, chi phí sản xuất… Cũng cần quy định rõ thời gian và cách thức cung cấp các

thông tin, ví dụ như cung cấp thông tin cho cổ đông vào các cuộc họp đại hội đồng hoặc

trên trang web công ty, cung cấp thông tin cho cán bộ nhân viên thông tin lương bổng tại

cuộc họp tổng kết cuối năm nhằm tạo ra động lực làm việc và tăng sự gắn bó với công ty,

còn đối với các cơ quan quản lý hay các phương tiện truyền thông thì việc cung cấp thông

tin là theo nhu cầu của các đối tượng này được các hình thức như báo cáo tóm tắt cho cơ

quan quản lý, các bài phỏng vấn, giới thiệu công ty cho các phương tiện truyền thông.

Ngoài ra, còn cần phải có một bộ phận PR và duy trì một cách thường xuyên bộ phận này

để có thể cung cấp thông tin, giải đáp thắc mắc cho cách nhà đầu tư một cách kịp thời, đầy

đủ và chính xác nhất.

3.2.2. Nhóm các giải pháp nhằm thực hiện đúng luật.

3.2.2.1 Về cách thức triệu tập Đại hội đồng cổ đông

Cũng xuất phát từ sự không rõ ràng và đôi khi có sự mâu thuãn trong Luật và các

văn bản dưới luật quy định về vấn đề triệu tập Đại hội đồng cổ đông nói riêng và các vấn

đề khác nói chung nên thường dẫn đến thực tế là các thành viên công ty đã lợi dụng kẽ hở

đó và không tuân thủ đúng luật.

Thứ nhất, về trình tự và thủ tục triệu tập Đại hội đồng cổ đông cần phải được tuân

http://svnckh.com.vn 71

thủ đúng quy định. Có thể lấy ví dụ như: Đầu tiên, theo quy định của Luật Doanh nghiệp,

phải có sự chính xác về cách sử dụng từ, đó là luôn luôn phải thêm từ cuộc họp hoặc từ

khác tương đương vào cụm từ "Đại hội đổng cổ đông" để chỉ một cuộc họp.

Thứ hai, thông báo mời họp phải gửi đúng thời hạn quy định, đó là "đến tất cả cổ

đông chậm nhất là bảy ngày làm việc trước ngày khai mạc". Việc gửi thông báo mời họp

đến từng cổ đông hiện nay cũng gặp nhiều khó khăn do việc ghi địa chỉ của cổ đông không

được chính xác, vì thế các công ty có thể định kỳ gửi thông báo đến cho các cổ đông, một

mặt là cung cấp thông tin về tình hình hoạt động, mặt khác là để xác định xem cổ đông đó

có thay đổi địa chỉ hay không. Hơn nữa, cũng cần quy định rõ trong điều lệ đó là nếu cổ

đông tự ý thay đổi địa chỉ mà không thông báo cho công ty thì việc không nhận được thông

tin cũng như giấy thông báo mời họp công ty sẽ không chịu trách nhiệm.

Thứ ba, trong nội dung thông báo mời họp, các công ty cần chú ý không chỉ gửi

một thông báo mời họp mà còn gửi tài liệu kèm theo như: Chương trình họp, phiếu biểu

quyết, dự thảo nghị quyết đối với từng vấn đề trong chương trình họp.

Những nội dung phải được ghi trong Biên bản cũng được Luật Doanh nghiệp bắt

buộc một cách cụ thể, chặt chẽ. Tiếp đó, biên bản họp Đại hội đổng cổ đông phải được gửi

đến tất cả cổ đông trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày bế mạc cuộc họp. Trên thực tế

rất ít công ty thực hiện quy định về việc gửi Biên bản này hoặc nếu có gửi thì lại là gửi

Nghị quyết chứ không phải là Biên bản và thường cũng không đúng thời hạn 15 ngày. Vì

vậy, cần chú ý để không nhầm lẫn hai loại văn bản.

Thủ tục là điều kiện cần thiết để bảo đảm giải quyết đúng đắn về nội dung. Nếu

không thực hiện đúng những quy định về trình tự, thủ tục liên quan đến việc họp Đại hội

đồng cổ đông, thì có thể dẫn đến hậu quả là quyết định của Đại hội đổng cổ đông bị huỷ bỏ

theo yêu cầu của các bên liên quan.

Những nhầm lẫn, sai sót như trên, ngoài việc do chưa hiểu rõ quy định của Luật

còn là ý thức không muốn tuân thủ nghiêm chỉnh và một điều không kém phần quan trọng

là do những quy định bất cập, thiếu thực tế, thiếu thuyết phục của Luật. Do vậy, ngoài việc

đào tạo, giúp các công ty tăng cường hiểu biết về Luật doanh nghiệp và có những biện

pháp xử lý với các trường hợp vi phạm thì quan trọng hơn, cần có sự xem xét, bổ sung và

điều chỉnh những quy định trong Luật cho rõ ràng và chính xác. Không thể có sự mập mờ,

không rõ nghĩa vì nó có thể dẫn đến sự hiểu sai hay cố tình lợi dụng lỗ hổng của Luật để

http://svnckh.com.vn 72

trục lợi.

3.2.2.2 Về quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ

Về vấn đề quyền dự họp đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ, Luật Doanh nghiệp đã có

quy định để bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số, theo đó tất cả các cổ đông, không

phụ thuộc tỉ lệ sở hữu cổ phần đều có quyền tham dự đại hội đồng cổ đông. Tuy nhiên,

quyền này thường bị các công ty hạn chế bằng việc quy định tỉ lệ sở hữu nhất định mới

được tham dự đại hội đồng cổ đông.

Quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông của cổ đông nhỏ phải được đảm bảo bằng

những biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp tư pháp. Bộ luật Tố tụng dân sự 2003

quy định: Cổ đông có quyền yêu cầu toà án hoặc Trọng tài xem xét, huỷ bỏ quyết định của

Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp

(1) Trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông không thực hiện đúng

theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty

(2) Trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định vi phạm pháp luật hoặc

Điều lệ công ty. Cổ đông nhỏ sẽ khởi kiện đến Toà án có thẩm quyền nếu Hội đồng quản

trị không triệu tập họ dự họp. Nhưng các cơ quan có thẩm quyền phải hướng dẫn cụ thể để

Các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi quyền của cổ đông nhỏ.

Thực tế, các cổ đông được quy định trong khoản 2 điều 79 có rất nhiều quyền hạn

nhưng thực tế ở Việt Nam do không nắm được rõ luật như trên đã phân tích nên họ dễ bị

hạn chế những quyền lợi chính đáng của mình. Do đó, các cổ đông nhỏ tham gia công ty

cổ phần với vốn góp ít phải nghiên cứu kỹ càng về công ty, Bản điều lệ công ty và xác

định mục đích của mình (cổ tức và lãi vốn chẳng hạn). Cổ đông nhỏ được luật pháp trao

cho quyền nhất định để tự bảo vệ mình, nhưng cũng đừng quên quyền chỉ giới hạn trong số

vốn góp.

Hơn nữa, các cổ đông nhỏ có thể liên kết với nhau thành lập một tổ chức bảo vệ

quyền lợi của mình như tổ chức Bảo vệ cho cổ đông thiểu số của Pháp. Nhờ vào sự hoạt

động của tổ chức này, các cổ đông nhỏ có thể nắm bắt nhanh chóng các quyền lợi của mình

khi tham gia đầu tư, đồng thời tổ chức cũng có thể đứng ra làm người đại diện bảo vê cho

quyền lơi của thành viên trong trường hợp quyền của cổ đông bị vi phạm.

Thứ nhất, nếu như theo luật, Ban kiểm soát phải có ít nhất một thành viên là

kế toán hoặc kiểm soát viên để hàng năm thành viên Ban kiểm soát đó kiểm tra tính

http://svnckh.com.vn 73

3.2.2.3 Về vai trò, chức năng và trách nhiệm của Ban kiểm soát

hợp pháp, tính trung thực trong việc quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh trong

tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính. Thẩm định báo cáo tài

chính hàng năm và 6 tháng một lần của công ty nhưng tại Việt Nam hầu hết thành

viên Ban kiểm soát đó lại nằm trong phòng kế toán tài chính. Người lập ra báo cáo

quyết toán hàng năm của công ty song đồng thời cũng là người kiểm tra, người

giám sát nên việc giám sát, kiểm tra của công ty không được minh bạch và chính

xác. Do đó, thiết nghĩ luật nên quy định thành viên Ban kiểm soát, người được giao

nhiệm vụ thống kê, lập báo cáo tài chính phải là người có nghiệp vụ kế toán nhưng

không được nằm trong phòng kế toán. Có như thế, mới đảm bảo được lợi ích hợp

pháp tối đa của công ty và các cổ đông của công ty.

Thứ hai, lại nhắc đến một vấn đề hiện đang tồn tại , đó là một trong những

đặc điểm của các công ty cổ phần Việt Nam là quyền lực rất lớn tập trung vào tay

các thành viên hội đồng quản trị chính vì thế quyền lực trong các doanh nghiệp

đang bị lạm dụng dưới nhiều hình thức để phục vụ cho lợi ích riêng của một số

người. Như vậy, trong các công ty cổ phần, vai trò của Ban kiểm soát là thực sự

quan trọng. Họ không chỉ giám sát hoạt động của hội đồng quản trị , tổng giám

đốc/giám đốc , nhằm ngăn chặn và phát hiện những trường hợp sai phạm, thiếu sót,

bất minh, bất hợp lý, xung đột lợi ích… trong việc quản lý, điều hành công ty; mà

Ban kiểm soát còn đóng vai trò quan trọng trong việc đề xuất các biện pháp, giải

pháp khắc phục, cải tiến để hoạt động quản lý, điều hành công ty đạt được hiệu quả

cao nhất. Vì thế, chính Ban kiểm soát phải hiểu rõ hơn ai hết vai trò, trách nhiệm

cũng như nghĩa vụ của mình thì hoạt động quản lý điều hành công ty mới thực sự có

hiệu quả. Do đó, có lẽ cũng nên có những lớp tập huấn, đào tạo hay thông tin cho

thành viên Ban kiểm soát để họ nhận biết và phát huy tốt nhất vai trò của mình.

3.2.2.4 Về sự minh bạch trong công bố thông tin

Thứ nhất, nếu xét về quyền được công bố thông tin của các cổ đông, khoản 2

điều 79 Luật doanh nghiệp ghi rất rõ quyền của các cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở

hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng

hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có quyền xem xét và trích

http://svnckh.com.vn 74

lục sổ biên bản và các nghị quyết của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm

và hằng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm

soát; họ cũng có quyền yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan

đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty nếu xét thấy cần thiết. Tại Việt Nam,

rất ít các công ty làm được việc đó vì Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát không sẵn

sàng minh bạch hoá các thông tin cho các cổ đông. Thiết nghĩ nguyên nhân của vấn

đề trên là quyền lực của những người được giao trách nhiệm quản lý rất lớn, họ có

thể gây cản trở cho các cổ đông không được đảm bảo các quyền lợi như luật định.

Mặt khác, sự minh bạch hoá thông tin của công ty cổ phần còn liên quan chặt chẽ

đến việc tách bạch giữa quản lý và sở hữu trong công ty cổ phần. Một bên các cổ đông và

cả các nhà đầu tư luôn luôn muốn thông tin về tình hình hoạt động của công ty, họ muốn

biết xem đồng vốn họ bỏ ra đã được sử dụng như thế nào và hiệu quả ra sao. Nhưng khi

đồng vốn đó đến tay các nhà quản lý, họ kinh doanh trên số tiền mà các cổ đông bỏ ra.

Thực tế, nếu tình hình kinh doanh khả quan thì không sao nhưng nếu việc kinh doanh gặp

khó khăn thì các nhà quản lý lại không muốn công bố thông tin cho các cổ đông vì nếu biết

hoạt động của công ty bất lợi, cổ đông có thể bán cổ phần công ty để hạn chế tối đa các

thiệt hại cho mình. Các nhà quản lý trong trường hợp nào cũng không muốn điều đó. Vì

thế, thực tế là các cổ đông có nguy cơ là người cuối cùng biết thông tin khi công ty bị phá

sản. Do đó, các cổ đông cần chính bản thân họ tự bảo vệ quyền lợi cho chính mình bằng

cách yêu cầu công ty minh bạch hoá thông tin.

Thứ hai, minh bạch và công bố thông tin dựa trên quản lý và kiểm soát bên trong và

đồng thời là việc có thể để thúc đẩy việc cải thiện quản lý và kiểm soát bên trong. Doanh

nghiệp nhà nước cần đưa thêm các nỗ lực trong quản lý bên trong và kiểm soát để nâng cao

tính minh bạch và chất lượng công bố thông tin. Cần chú ý là phải chú ý đến các lĩnh vực.

Một là, tiêu chuẩn hóa quản trị nội bộ và thực hiện nghiêm chỉnh hệ thống. Thiết

lập cơ cấu quản trị mà các trung tâm về Hội đồng quản trị và tăng cường trách nhiệm của

Hội đồng quản trị với việc giám sát và kiểm soát rủi ro và kiểm soát nghiêm ngặt quản lý

và hệ thống nội bộ được thực hiện.

Hai là, việc kiến nghị sửa đổi Luật Doanh nghiệp là khá khó khăn và mất nhiều thời

gian, chính vì vậy các công ty có thể quy định rõ về việc công bố thông tin trong điều lệ

http://svnckh.com.vn 75

công ty.

Ba là, Hội đồng quản trị là cơ quan chính chịu trách nhiệm về tính minh bạch và

công bố thông tin.

Bốn là, tăng cường đào tạo nhân viên, cán bộ nhằm trau dồi nhận thức của họ về rủi

ro, kiểm soát và lưu lượng, và do đó để tạo thành một văn hóa doanh nghiệp của minh bạch

và thiện ý.

3.3. Một số giải pháp khác

3.3.1. Nhóm giải pháp vĩ mô

Nhìn chung, nếu so sánh với các chuẩn mực, nguyên tắc quản lý và điều hành của

các công ty cổ phần trên thế giới nói chung và Pháp nói riêng thì hầu hết các chuẩn mực,

các nguyên tắc ấy không được tuân thủ hoặc căn bản chỉ tuân thủ được một phần. Do đó,

cần có sự can thiệp trực tiếp của Nhà Nước mà trước hết là sự quy định rõ ràng và chặt chẽ

hơn để tránh sai sót đáng tiếc và cả sự lợi dụng những lỗ hổng của luật để mang lại lợi ích

cho một số người. Các văn bản luật và dưới luật cũng không được quy định mẫu thuẫn

nhau vì nếu không sẽ rất khó để các công ty đưa vào áp dụng. Cần phải tăng cường sự

tham gia, đánh giá và phối hợp giữa các cơ quan Chính phủ, khu vực tư nhân, viện nghiên

cứu nhằm hoàn thiện hơn hoạt động quản lý và điều hành công ty cổ phần

Tiếp theo, cần tăng cường đào tạo cán bộ có trình độ pháp luật cao, thường xuyên

cử người trong ban lãnh đạo tham gia các lớp tập huấn, rút kinh nghiệm về pháp luật để

nâng cao trình độ quản lý. Có thể tiến hành đào tạo bằng cách tổ chức nhiều hơn nữa các

buổi tọa đàm, hội thảo có sự tham gia của các chuyên gia pháp lý, đại diện các doanh

nghiệp, cơ quan lãnh đạo để trực tiếp trao đổi, tháo gỡ vướng mắc giúp các doanh nghiệp

trong quá trình thực hiện Luật Doanh nghiệp. Ngoài ra, cũng có thể nâng cao vai trò của

các hiệp hội doanh nghiệp trong việc tổ chức hội thảo, tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao

năng lực điều hành công ty, đặc biệt đối với loại hình công ty cổ phần; trao đổi kinh

nghiệm, phát hiện kịp thời những bất cập trong hệ thống luật pháp nói chung, luật doanh

nghiệp nói riêng để khiến nghị các cơ quan chức năng có thẩm quyền hoàn thiện sửa đổi.

Hơn thế nữa, cũng cần tuyên truyền, phổ biến tinh thần của Luật Doanh nghiệp một

cách sâu rộng và hiệu quả trong đội ngũ cán bộ, giúp họ nhận thức đúng và đầy đủ quyền

và nghĩa vụ của các bộ phận quản lý trong doanh nghiệp nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ

của mình. Trong một điều tra mới đây của Công ty truyền thông Việt Gate về Luật Doanh

http://svnckh.com.vn 76

nghiệp và Luật Đầu tư, 73% số cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia kinh tế được hỏi

cho rằng cần tiếp tục tuyên truyền về hai luật này. Tuy nhiên, có vẻ như lý do của quan

điểm này là việc nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ và làm theo đúng các quy định của các

luật này. Những căn cứ nêu ra phần lớn là: doanh nghiệp chưa quan tâm, chưa chủ động

vận dụng các quy định của pháp luật trong hoạt động của mình…

Cuối cùng, một kiến nghị mà nhóm nghiên cứu đề xuất chính là áp dụng mô hình

công ty cổ phần giản đơn vào Việt Nam. Theo đánh giá của các nhà chuyên môn, công ty

cổ phần giản đơn rất phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tiễn cũng đã chứng

minh điều đó. Sau khi mô hình công ty cổ phần giản đơn ra đời ở Pháp, nhiều doanh

nghiệp vừa và nhỏ đã chuyển đổi từ công ty cổ phần sang công ty cổ phần giản đơn. Nếu

như vào năm 2000, ở Pháp, có tới 40% các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập dưới

hình thức công ty cổ phần thì hiện nay, con số này chỉ còn là 10%, số còn lại được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần giản đơn45. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với một đất

nước mà đến 95% doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng số doanh nghiệp như ở Việt Nam ta.

Pháp luật cho phép các thành viên công ty có quyền tự do thỏa thuận trong điều lệ

công ty về hầu hết các vấn đề thành lập, quản lý, tổ chức hoạt động của công ty. Đây là

một trong những điểm mới có tính chất đột phá trong pháp luật về công ty của Pháp. Đây

cũng chính là ưu điểm mà các nhà đầu tư rất hưởng ứng. Khả năng chuyển đổi công ty cổ

phần giản đơn sang loại hình công ty khác rất dễ dàng, khiến cho công ty có thể linh hoạt

thay đổi trong môi trường kinh doanh biến động. Một công ty cổ phần giản đơn nhiều

thành viên sau một thời gian hoạt động, nếu số lượng thành viên giảm xuống chỉ còn một

người thì có thể chuyển thành công ty cổ phần giản đơn một thành viên ; nếu công việc

kinh doanh thuận lợi và muốn phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng thì sẽ chuyển

thành công ty cổ phần truyền thống một cách rất dễ dàng.

3.3.2. Nhóm giải pháp vi mô

Hoạt động quản trị doanh nghiệp giữ vai trò quyết định tới hiệu quả hoạt động sản

xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; có ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng của hoạt động

phòng ngừa tranh chấp phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp. Trong khi đó, chất

lượng của hoạt động quản trị doanh nghiệp lại lệ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, như: Cơ

chế quản lý trong doanh nghiệp có hợp lý hay không, trình độ về mọi mặt của những người

http://svnckh.com.vn 77

45Société par actions simplifié. ULR: http://fr.wikipedia.org/wiki/Soci%C3%A9t%C3%A9_par_actions_simplifi%C3%A9e, truy cập ngày 16/05/2010 lúc 22:15 PM.

có thẩm quyền trong quản trị doanh nghiệp… Do đó, để có thể nâng cao chất lượng của

hoạt động quản trị doanh nghiệp, cần quan tâm đúng mức tới mọi vấn đề có liên quan đến

hoạt động này, trong đó việc thực hiện đúng đắn, đầy đủ các quy định pháp luật hiện hành,

có vai trò đặc biệt quan trọng.

Do đó, trước tiên, cần đẩy mạnh hoạt động đào tạo cán bộ quản lý cao cấp cho

doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam chưa nắm vững luật, điều này

đặc biệt nghiêm trọng với các nhà quản lý vì họ là người chịu trách nhiệm về hoạt động

của công ty, sự không am tường luật có thể dẫn đến các sai phạm và tranh chấp giữa các

thành viên công ty. Ngoài ra, cần có nhiều cơ hội hơn nữa để những người làm kinh doanh

được học hỏi về những mô hình quản lý và điều hành công ty tiên tiến trên thế giới để vừa

nâng cao nhận thức và nâng cao trình độ quản lý. Nhà nước có thể tổ chức các khoá học,

các lớp đào tạo theo mô hình như trên.

Ngoài việc tham gia các khóa học, các doanh nghiệp Việt Nam có thể trực tiếp thuê

chuyên gia về quản lý và điều hành công ty để tư vấn riêng cho phù hợp với hoàn cảnh

riêng của công ty mình. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có nhiều chuyên gia giỏi trong lĩnh

vực còn mới mẻ này, vì thế những chương trình hỗ trợ kỹ thuật phù hợp của các tổ chức

quốc tế cho công ty sẽ rất hữu ích.

Tiếp theo, đó là vấn đề xây dựng niềm tin giữa các cổ đông trong công ty, các nhà

đầu tư với công ty. Thực trạng cho thấy vấn đề xây dựng lòng tin ở các công ty Việt Nam

chưa được coi trong. Trong khi đó, các cổ đông và nhà đầu tư nói chung là người sẵn sàng

bỏ tiền đầu tư giúp công ty thực hiện các dự án, kế hoạch kinh doanh và chia sẻ rủi ro cũng

như cùng phát triển; họ cũng là người tham gia vào việc ra các quyết định quan trọng, định

hướng cho sự phát triển lâu dài của công ty và cuối cùng nhà đầu tư nói riêng còn là yếu tố

vô cùng quan trọng giúp công ty quảng bá hình ảnh ra đại chúng, đóng góp vào sự phát

triển bền vững, quyết định yếu tố thành bại của công ty. Để làm tốt điều này, việc tạo dựng

niềm tin với họ dễ dàng nhất, có thể được giải quyết bằng cách làm tăng sự cân đối cung

cầu thông tin như: thông tin không đủ, thông tin không rõ ràng, thông tin tới sai đối tượng

mà điều kiện cần của hoạt động này là cam kết của Ban giám đốc doanh nghiệp, chiến lược

cổ đông và nhân sự. Kinh doanh tốt cũng quan trọng nhưng không quan trọng bằng quan

hệ tốt với nhà đầu tư.

Ngoài ra, cũng cần tăng cường sự tham gia của đội ngũ nhân viên, người lao động

http://svnckh.com.vn 78

trong các công ty cổ phần với vai trò là những người giám sát sự điều hành của hệ thống

lãnh đạo công ty thông qua hình thức thiết lập các hộp thư góp ý, thông qua tổ chức công

đoàn, thông qua các buổi tiếp người lao động của ban lãnh đạo công ty.

Tóm lại, việc hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý và điều hành công ty cổ

phần là vấn đề rất quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty. Điều đó có

ý nghĩ rất lớn đối với các doanh nghiệp, giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng tăng hiệu

quả hoạt động trên thương trường, tăng khả năng cạnh tranh trong thời kỳ kinh tế hội nhập

http://svnckh.com.vn 79

ở nước ta hiện nay.

KẾT LUẬN

Đối với công ty cổ phần khi nói đến quản lý là đề cập đến các trung tâm quyền lực

của loại hình công ty này đã được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005 bao gồm: Đại

hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và những cá nhân điều hành công việc

hàng ngày do Hội đồng quản trị bổ nhiệm, gọi là Giám đốc hay Tổng giám đốc. Để có một

cái nhìn rộng hơn về vấn đề này nhóm nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu thêm các điểm căn

bản về quản lý và điều hành các công ty cổ phần theo Luật Công ty và Bộ luật thương mại

của Cộng hòa Pháp bởi vì nhóm nghiên cứu cho rằng tổ chức công ty cổ phần ở Việt Nam

có nhiều điểm tương đồng với Pháp. Trên cơ sở phương pháp tiếp cận so sánh luật học, đề

tài nghiên cứu đã phân tích và chỉ ra một số điểm khác biệt giữa pháp luật hai nước như:

Quy định đối với Ban kiểm soát, sự minh bạch trong công bố các thông tin, cách thức triệu

tập đại hội cổ đông, quyền dự họp đại hội cổ đông của những cổ đông nhỏ, từ đó chỉ ra

những bất cập trong trong quá trình thực thi Luật Doanh nghiệptại các công ty cổ phần ở

Việt Nam mà một trong những lý do chính của những bất cập này là một số quy định pháp

lý có liên quan của Việt Nam chưa phù hợp hoặc chưa hoàn chỉnh.

Cụ thể, Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời đánh dấu một bước phát triển mới trong hệ

thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, các doanh nghiệp vẫn hay

mắc phải sai sót, nhầm lẫn ví dụ như công bố thông tin không minh bạch hay không đảm

bảo quyền lợi của cổ đông nhỏ… Nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu về một số vấn đề doanh

nghiệp hay mắc phải nhằm đề xuất hoàn thiện Luật doanh nghiệp để giúp các doanh nghiệp

dễ dàng hoạt động hơn trong thị trường cạnh tranh hiện nay.

Đề tài nghiên cứu đã đề xuất hoàn thiện Luật doanh nghiệp 2005 trên bốn khía

cạnh:Về cách thức triệu tập đại hội cổ đông; về quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông

nhỏ; về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Ban Kiểm soát và về sự minh bạch trong công bố

thông tin. Các đề xuất hoàn thiện này xuất phát từ những vướng mắc trong thực tiễn của

các công ty cổ phần ở Việt Nam và kết hợp tham khảo Luật công ty và Bộ luật thương mại

của Pháp. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu còn đề xuất một số giải pháp thực thi cụ thể khác và

những kiến nghị đối với Nhà nước và Chính phủ.

Do năng lực nghiên cứu có hạn trước một thực tiễn vô cùng phong phú và phức tạp

http://svnckh.com.vn 80

là các vấn đề pháp lý trong công tác quản lý, điều hành công ty cổ phần ở Việt Nam, nên

đề tài chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận

http://svnckh.com.vn 81

được sự chỉ bảo của các thầy cô, sự góp ý của các nhà khoa học và các bạn sinh viên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo tiếng Việt.

1. Luật Doanh nghiệp năm 2005 của Việt Nam.

2. Nghị định 139/2007/NĐ-CP về việc hướng dẫn thi hành một số điều của LDN.

3. Cao Đình Lành, “Tiếp cận quản trị công ty cổ phầntrên phương diện kết hợp hài hoà

lợi ích giữa các bên”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện nhà nước và pháp luật, Số

2/2008, tr. 35 – 40.

4. Dương Đức Chính, “Những nội dung chủ yếu của pháp luật hiện hành về cổ phần hoá

doanh nghiệp nhà nước”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện nhà nước và pháp luật,

Số 8/2008, tr. 11 - 13, 20.

5. Ths. Đoàn Trung Kiên, “Những điểm mới cơ bản của Luật doanh nghiệp và Luật đầu

tư”, Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 12/2006, tr. 12-16.

6. Ths. Hoàng Anh Tuấn, “Công ty cổ phần một cổ đông”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.

Văn phòng quốc hội, Số14(151) tháng7/2009, tr. 14 – 17.

7. Ths. Lê Đình Vinh, “Kiểm soát các giao dịch tư lợi trong công ti theo luật doanh

nghiệp”, Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 1/2004, tr. 54-58.

8. Ths. Lê Vệ Quốc, “Tìm hiểu khái niệm “Hợp đồng công ti” trong pháp luật Cộng hoà

Pháp”, Tạp chí Luật học. Trường Đại học luật Hà Nội, Số 2/2007, tr 66-71.

9. Ths. Lê Vệ Quốc, “Quyền thành lập các công ti trách nhiệm hữu hạn của người chưa

thành niên theo quy định của pháp luật Cộng hoà Pháp”, Tạp chí Luật học. Trường

Đại học Luật Hà Nội, Số 5/2008, tr. 60-65, 72.

10. Nguyễn Anh, “Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - những vấn đề cần quan tâm”,

Quản lý nhà nước. Học viện hành chính. Số168 tháng 1/2010, tr. 42 – 46.

11. Nguyễn Khắc Định, “Tìm hiểu pháp luật về kinh tế tư nhân”, Tạp chí Luật học.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 1/1996, tr 39-45.

12. Nguyễn Ngọc Bích, 2003, Luật Doanh nghiệp, vốn và quản lý trong công ty cổ phần,

Nxb. Trẻ.

13. Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung, 2009, Công ty vốn, quản lý và tranh chấp

http://svnckh.com.vn 82

theo Luật Doanh nghiệp 2005, NXB Tri thức.

14. TS. Nguyễn Thị Dung và Nguyễn Như Chính, “Đảm bảo quyền lợi của cổ đông công

ty cổ phầntheo các nguyên tắc quản trị công ty của OECD”, Tạp chí Luật học. Trường

Đại học Luật Hà Nội, Số10/2009, tr. 23 – 31.

15. Nguyễn Văn Phương, “Liệu có can thiệp quá sâu vào việc bán cổ phần, niêm yết cổ

phiếu của ngân hàng”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 3/ 2009, tr. 30 –

34.

16. Nguyễn Văn Phương, “Cần hoàn thiện một số quy định của luật doanh nghiệp”, Tạp

chí Dân chủ và pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 2/2008, tr. 31 – 36.

17. Phạm Duy Nghĩa, 2004, Chuyên khảo luật kinh tế, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.

18. TS. Phạm Thị Giang Nhu, “Một số vấn đề về pháp luật điều chỉnh hoạt động về chào

bán cổ phiếu của công ty cổ phầntại Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện

nhà nước và pháp luật, Số7/2009, tr. 24 – 28.

19. Phạm Thu Hương, “Một vài suy nghĩ về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước”, Thanh

Tra. Thanh tra chính phủ, Số8/2009, tr. 16 – 17

20. Thanh Nghị, 08/2008, “Những bất cập cần sửa đổi trong văn bản thi hành luật Doanh

nghiệp”, Tạp chí Pháp lý, tr.9.

21. Trần Quang Vũ, “Thay đổi bổ sung một số quy phạm pháp luật về cổ phần hoá doanh

nghiêp Nhà nước”, Tạp chí Pháp Lý, Số 8/1998, tr.8.

22. Trương Vĩnh Xuân, “Quyền dự họp đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ công ty cổ phần

hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng Quốc hội Số 5/2010, tr. 48 - 51,

59

23. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW, 2006, Hỏi đáp Luật đầu tư và Luật doanh

nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội.

Tài liệu tham khảo tiếng nƣớc ngoài.

1. André Jacquemont, 1995, Annales de droit des sociétés, Imprimerie Lussaud 85200

Fontenay-le-comte.

2. Francis Lemenier, 1993, Droit des sociétés, Principes et pratique, Éditions Belfond 216

boulevard Siant-Germain 75007 Paris.

3. Francis Lemeunier, 1995, Société anonyme, constitution-gestion, 16e édition, Édition

http://svnckh.com.vn 83

Belfond 216 boulevard Saint-Germain, 75007 Paris.

4. Geoges Ripert – René Roblot, 1996, Traité de Droit commercial, Tom 1, 16e édition,

Librairie Générale de Droit et de Jurisprudence, 14 rue Pierre et Marie Curie 75005 Paris.

5. M. Cozian – A.Viandier – F. Deboissy, 2001, Droit des sociétés, 4e édition, Édition

Libraire de la Cour de Cassation 27 place Dauphines, 75001 Paris.

Tài liệu tham khảo từ hệ thống Internet.

1. Lê Hoàng Tùng, “Thành viên hội đồng quản trị độc lập: quy định và thực tiễn”

URL: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/03/06/thnh-vin-

h%e1%bb%99i-d%e1%bb%93ng-qu%e1%ba%a3n-tr%e1%bb%8b-d%e1%bb%99c-

l%e1%ba%adp-qui-d%e1%bb%8bnh-v-th%e1%bb%b1c-ti%e1%bb%85n/ - Truy cập

ngày 23/03/2010 lúc 15 PM

2. Ly Nguyễn, “ Ban kiểm soát bị vô hiệu hóa như thế nào?”,

URL: http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/quantri/31719/ - Truy cập

ngày 7/4/2010 lúc 16:20 PM.

3. GS.TS Hồ Sĩ Thoảng, “Bàn về hội đồng quản trị trong doanh nghiệp nhà nước”

URL: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/05/27/bn-v%e1%bb%81-

h%e1%bb%99i-d%e1%bb%93ng-qu%e1%ba%a3n-tr%e1%bb%8b-trong-doanh-

nghi%e1%bb%87p-nh-n%c6%b0%e1%bb%9bc/ - Truy cập ngày 6/4/2010 lúc 14:45

PM.

4. Từ Thảo, “Cấu trúc quản trị công ty cổ phầntheo Luật Doanh nghiệp”

URL: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/05/05/4790/ - Truy cập ngày

6/4/2010 lúc 15:20 PM.

5. Từ Thảo, “Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phầntrên thế giới và ở Việt

Nam”

URL: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/05/03/4791/ - Truy cập ngày

6/4/2010 lúc 16:03 PM.

6. Trần Văn Trí, “Quy định của pháp luật về công ty cổ phần”

URL: http://saga.vn/Luatkinhdoanh/Luattrongnuoc/19402.saga - Truy cập ngày

7/4/2010 lúc 14:10 PM.

7. LS. Trương Thanh Đức, “Những nhầm lẫn và bất cập về thủ tục họp Đại hội đồng cổ

http://svnckh.com.vn 84

đông”

URL: http:// thongtinphapluatdansu.wordpress.com, Truy cập ngày 24/3/2010 lúc

15:15 PM.

8. Ths. Trương Vĩnh Xuân, “Quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ công ty cổ

phầnhiện nay”

URL: http://www.nclp.org.vn/thuc_tien_phap_luat/quyen-du-hop-111ai-hoi-co-

111ong-cua-co-111ong-nho-cong-ty-co-phan-hien-nay- Truy cập ngày 23/10/2010 lúc

14:17PM

9. LG. Vũ Xuân Tiền, “Bảo vệ cổ đông thiểu số: những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn”

URL: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/03/17/b%e1%ba%a3o-

v%e1%bb%87-c%e1%bb%95-dng-thi%e1%bb%83u-s%e1%bb%91-

nh%e1%bb%afng-v%c6%b0%e1%bb%9bng-m%e1%ba%afc-pht-sinh-t%e1%bb%ab-

10. Nhóm phóng viên báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, Thực tiễn áo dụng

Luật Doanh nghiệp: quy định chưa rõ, tòa lúng túng”,

URL:http://phapluattp.vn/20100301112832250p0c1063/quy-dinh-chua-ro-toa-

lung-tung.htm - Truy cập ngày 23/03/2010 lúc 15:29 PM.

th%e1%bb%b1c-ti%e1%bb%85n/ - Truy cập ngày 23/10/2010 lúc 14:09 PM

11. “Công ty hợp danh theo pháp luật Cộng hòa Pháp”

URL:http://www.haiphong.gov.vn/sotuphap/vn/index.asp?menuid=534&parent_menui

d=421&fuseaction=3&articleid=1838 - Truy cập ngày 6/4/2010 lúc 14:04 PM.

12. www.vibonline.com.vn

13. www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com

14. Droit commercial, URL : http://lexmercatoria.net - Truy cập ngày 28/02/2010.

15. Société anonyme

URL :http://fr.wikipedia.org/wiki/Soci%C3%A9t%C3%A9_anonyme - Truy cập ngày

http://svnckh.com.vn 85

28/02/2010

PHỤ LỤC: VỤ ÁN TRANH CHẤP TRONG CÔNG TY

CỔ PHẦN

I. Nội dung vụ án

Trong các ngày 10 và 15 tháng 5 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố

Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 122/2006/TLST-KDTM ngày 19 tháng

12 năm 2006 về Tranh chấp thành viên Công ty với nhau theo Quyết định đưa vụ án ra xét

xử số 46/2007/KDTM/QĐXX-ST ngày 05 tháng 4 năm 2007 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

1. Công ty công nghệ và thiết bị hàn

Trụ sở: 415 đường Giải Phóng, Phương Liệt, Thanh Xuân, Hà Nội.

2. Bà Bùi Thị Thanh Hà

Trú tại: 53 Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội.

Do ông Nguyễn Thế Quyền - đại diện theo uỷ quyền (vắng mặt khi tuyên án)

3. Ông Lê Huy Cẩm

Trú tại: số 22 ngách 518/6 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

Bị đơn:

Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân

Trụ sở: đường Nguyễn Huy Tưởng, Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân, Hà Nội.

http://svnckh.com.vn 86

Nhận thấy

Trong đơn khởi kiện ngày 30.11.2006, nguyên đơn là Công ty TNHH công nghệ và

thiết bị hàn do ông Nguyễn Nhâm - Giám đốc Công ty đại diện và bà Bùi Thanh Hà, ông

Lê Huy Cẩm là các cổ đông của Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh Xuân trình bày:

Trong đợt phát hành cổ phiếu của Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh Xuân

vào cuối tháng 12.2004 đầu tháng 01.2005, Công ty TNHH công nghệ và thiết bị hàn đã

mua 10.000 cổ phiếu (tương ứng với 01 tỷ đồng) tăng cổ phần lên 1.560.000.000 đồng, ông

Lê Huy Cẩm mua 4.000 cổ phiếu (tương ứng 400.000.000 đồng) tăng cổ phần lên

1.011.099.120 đồng, bà Bùi Thanh Hà mua 4.000 cổ phiếu (tương ứng 400.000.000 đồng)

tăng cổ phần lên 405.375.048đồng.

Kết quả việc bán cổ phiếu và tư cách của các nguyên đơn trong việc đại diện cho số

cổ phần tương ứng với số cổ phiếu đã mua đã được Đại hội đồng cổ đông của Công ty cổ

phầnvận tải hành khách Thanh Xuân công nhận trong nghị quyết số 11/Hội đồng quản trị

ngày 07.4.2005. Và như vậy, số cổ phần của các nguyên đơn đã được Công ty công nhận

về mặt pháp lý (thể hiện trên sổ sách của Công ty) để chia cổ tức của mỗi người.

Trong thời gian từ đó đến nay, các nguyên đơn tham gia vào việc biểu quyết, bổ

sung vào thêm Hội đồng quản trị Công ty với tư cách là người đại diện cho toàn bộ số vốn

của mỗi người (bao gồm vốn góp trước đó và vốn mua cổ phiếu nêu trên).

Ngày 09.11.2006, Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh Xuân đã tiến hành Đại

hội đồng cổ đông bất thường và ra nghị quyết số 186/Hội đồng quản trị có nội dung huỷ

bỏ kết quả bán 25.000 cổ phần năm 2004 - 2005 (trong đó có số cổ phiếu mà các nguyên

đơn đã mua).

Theo các nguyên đơn trình bày, việc tiến hành Đại hội đồng cổ đông bất thường

ngày 09.11.2006 không tuân thủ đúng Điều lệ Công ty và Luật Doanh nghiệp năm 2005,

gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các nguyên đơn. Chính vì vậy, nguyên đơn đề nghị Toà

án giải quyết các vấn đề sau:

1. Huỷ bỏ nghị quyết số 186/Hội đồng quản trị ngày 09.11.2006 của Đại hội đồng

cổ đông bất thường Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh Xuân.

2. Công nhận kết quả của việc bán 23.000 cổ phiếu (trị giá 2.300.000.000đồng) của

Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh Xuân.

Trong quá trình Toà án giải quyết vụ kiện, ngày 29.3.2007 các nguyên đơn xin rút

http://svnckh.com.vn 87

yêu cầu công nhận kết quả của việc bán 23.000 cổ phiếu. Chỉ đề nghị Toà án huỷ bỏ nghị

quyết số 186/Hội đồng quản trị ngày 09.11.2006 của Công ty cổ phầnvận tải hành khách

Thanh Xuân.

* Nguyên đơn trình bày

Tại phiên toà, các nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện nêu trên và cho

rằng Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh Xuân tiến hành ngày

09.11.2006 không đúng thể thức họp và biểu quyết theo quy định của Luật Doanh nghiệp

năm 2005 và Điều lệ Công ty. Cụ thể:

- Đại hội không thông qua việc bầu Ban Kiểm phiếu mà Ban Kiểm phiếu do Chủ

toạ Đại hội chỉ định.

- Số vốn của các nguyên đơn ghi trong phiếu biểu quyết không đúng với số vốn

được ghi trong danh sách cổ đông, như Công ty TNHH công nghệ và thiết bị hàn có số vốn

trong Công ty là 1.560.000.000 đồng, nhưng phiếu biểu quyết chỉ ghi 560.000.000 đồng.

Bà Bùi Thanh Hà có số vốn trong Công ty là 405.375.048 đồng, nhưng phiếu biểu quyết

chỉ ghi 5.375.048 đồng.

- Vào thời điểm này vốn điều lệ của Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh

Xuân là 8.000.000.000 đồng được thể hiện trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,

nhưng Ban Kiểm phiếu lại tính tỷ lệ biểu quyết trên số vốn cũ trước khi phát hành cổ phiếu

là 5.500.000.000 đồng.

- Thẩm quyền phán quyết về việc huỷ bỏ kết quả bán 25.000 cổ phần năm 2004 -

2005 không thuộc thẩm quyền Đại hội cổ đông.

* Bị đơn trình bày

Trong quá trình tiến hành tố tụng cũng như tại phiên toà, bị đơn trình bày:

Tại Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh Xuân ngày

21.4.2004 đã thông qua nghị quyết tăng vốn điều lệ từ 5,5 tỷ đồng lên 08 tỷ đồng nhưng

không quyết định loại cổ phần và số lượng cổ phần mỗi loại được quyền chào bán. Việc

Giám đốc Công ty tự ý quyết định việc bán 25.000 cổ phần phổ thông là không tuân thủ

đúng quy định tại Điều lệ Công ty cũng như Luật Doanh nghiệp. Chính vì vậy, việc tiến

hành Đại hội ngày 09.11.2006 để huỷ bỏ việc phát hành cổ phiếu là nhằm đảm bảo quyền

và lợi ích hợp pháp của các cổ đông. Trình tự, thủ tục tiến hành Đại hội này hoàn toàn phù

hợp với Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty. Danh sách Ban Kiểm phiếu do Chủ toạ đề

http://svnckh.com.vn 88

nghị và tổ chức bỏ phiếu biểu quyết. Kết quả số phiếu biểu quyết tán thành nghị quyết huỷ

kết quả bán 25.000 cổ phần đạt tỷ lệ 65%. Do điều lệ hiện hành chưa sửa đổi nên nó vẫn có

giá trị pháp lý cao nhất và mọi việc về tổ chức và hoạt động của Công ty vẫn phải tuân theo

điều lệ đó. Theo Điều 14.6.2 thì tỷ lệ thông qua chỉ cần 51% tổng số phiếu biểu quyết của

tất cả cổ đông dự họp chấp nhận. Chính vì vậy, nghị quyết số 186/Hội đồng quản trị ngày

09.11.2006 của Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh Xuân là hoàn toàn hợp pháp.

Xét thấy

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà

và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh Xuân được thành lập năm 1999 trên cơ sở cổ

phần hoá một bộ phận Công ty vận tải hành khách số 14 (doanh nghiệp Nhà nước). Vốn

điều lệ của Công ty khi thành lập là 5,5 tỷ đồng.Ngày 21.4.2004, Đại hội đồng cổ đông

thường niên của Công ty lần thứ 4 đã thông qua nghị quyết số 04/HĐQT tăng vốn điều lệ

từ 5,5 tỷ đồng lên 08 tỷ đồng.Thực hiện nghị quyết nêu trên, cuối năm 2004 đầu năm 2005

Giám đốc Công ty đã quyết định bán 25.000 cổ phần nhưng không thông báo đến tất cả các

cổ đông. Ngày 09.11.2006, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty đã triệu tập Đại hội cổ

đông bất thường để xem xét việc bán 25.000 cổ phần do Giám đốc tự ý quyết định. Tại Đại

hội này, các cổ đông đã nhất trí ra nghị quyết số 186/HĐQT ngày 09.11.2006 huỷ việc bán

cổ phần trái quy định.Không đồng ý với nghị quyết 186/HĐQT ngày 09.11.2006, ngày

30.11.2006 các nguyên đơn đã có đơn khởi kiện đề nghị Toà án huỷ bỏ nghị quyết số

186/HĐQT nêu trên. Căn cứ Điều 107 Luật Doanh nghiệp năm 2005, đơn khởi kiện của

các nguyên đơn nằm trong thời hiệu mà pháp luật quyết định, do vậy được Toà chấp nhận

xem xét. Xét yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy:

- Về thể thức tiến hành họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông ngày

09.11.2006, do Điều lệ công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân không quy định vì

vậy Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào quy định tại Điều 103 Luật Doanh nghiệp năm 2005 để

xem xét.

- Theo biên bản Đại hội thì ông Nguyễn Văn Huy - Chủ tịch Hội đồng quản trị -

chủ trì cuộc họp đã giới thiệu 02 Thư ký ghi biên bản Đại hội là ông Nguyễn Văn Khúc và

bà Phạm Bích Liên. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 103 Luật Doanh nghiệp thì Chủ toạ cử 01

người làm Thư ký lập biên bản họp Đại hội đồng cổ đông. Việc cử 02 Thư ký ghi biên bản

tại cuộc họp ngày 09.11.2006 là không phù hợp. Hơn nữa, tại Điều 14.8 Điều lệ Công ty

http://svnckh.com.vn 89

quy định "… Những người tham gia họp cử một Thư ký ghi biên bản họp…". Do đó, Chủ

tịch Hội đồng quản trị giới thiệu 02 người ghi biên bản cuộc họp không được Đại hội thông

qua là không tuân thủ Điều lệ Công ty và Luật Doanh nghiệp.

- Về bản kiểm phiếu: theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 103 thì Ban Kiểm

phiếu do Đại hội bầu theo đề nghị của Chủ toạ. Căn cứ biên bản Đại hội cũng như nghị

quyết số 186/HĐQT cho thấy Ban Kiểm phiếu do Chủ toạ đề nghị gồm Kiểm soát viên

trưởng, Ban Thư ký và 01 nhân viên phòng Tổ chức là không đúng với quy định. Hơn nữa,

theo kết quả kiểm phiếu xác định 07 cổ đông từ bỏ quyền biểu quyết. Tuy nhiên, tại phiên

toà hôm nay các nguyên đơn đã xuất trình cho Toà án bản gốc 11 phiếu biểu quyết chưa bỏ

vào hòm phiếu. Điều này khẳng định 11 cổ đông không tiến hành biểu quyết tại Đại hội

chứ không chỉ có 07 cổ đông như biên bản kiểm phiếu và nghị quyết số 186/HĐQT xác

nhận. Các nguyên đơn cho rằng kết quả kiểm phiếu tại Đại hội là thiếu chính xác là hoàn

toàn có cơ sở.

- Về trình tự biểu quyết tại cuộc họp phải được tiến hành theo quy định tại khoản 5

Điều 103, đó là "Đại hội đồng cổ đông thảo luận và biểu quyết theo từng vấn đề trong nội

dung chương trình. Việc biểu quyết được tiến hành bằng cách thu thẻ biểu quyết tán thành

nghị quyết, sau đó thu thẻ biểu quyết không tán thành, cuối cùng kiểm phiếu tập hợp số

phiếu biểu quyết tán thành, không tán thành, không có ý kiến…". Căn cứ theo trình tự trên

thì Đại hội đồng cổ đông ngày 09.11.2006 của Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh

Xuân không phát thẻ biểu quyết cho các cổ đông mà việc bỏ phiếu được thực hiện theo thể

thức gạch bỏ chữ tán thành hoặc không tán thành quyết định huỷ bỏ kết quả bán cổ phần

năm 2005 trong phiếu biểu quyết. Hội đồng xét xử thấy việc biểu quyết này của Công ty cổ

phầnvận tải hành khách Thanh Xuân là không thực hiện đúng cách thức đã được Luật

Doanh nghiệp quy định.

- Từ những phân tích nên trên có thể thấy trình tự tiến hành họp và biểu quyết tại

Đại hội đồng cổ đông ngày 09.11.2006 của Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh

Xuân không thực hiện đúng theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Điều lệ

Công ty. Vì vậy, cần huỷ bỏ kết quả Đại hội ngày 09.11.2006 của Công ty cổ phầnvận tải

hành khách Thanh Xuân. Do yêu cầu của các nguyên đơn được chấp nhận nên các nguyên

đơn không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm, được hoàn lại tiền tạm ứng án

phí đã nộp.Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh Xuân phải chịu án phí theo quy định

của pháp luật.

http://svnckh.com.vn 90

Từ những nhận định trên.

Quyết định

Căn cứ Điều 103, Điều 107 Luật Doanh nghiệp năm 2005.

Căn cứ Điều 14.8 Điều lệ Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh Xuân tháng

4.2003.

Căn cứ Điều 29 khoản 3; Điều 131; Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự.

Nghị định 70/CP ngày 12.6.1997 của Chính phủ về án phí.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH công nghệ và thiết bị hàn do

ông Nguyễn Nhâm - Giám đốc Công ty đại diện và bà Bùi Thị Thanh Hà, ông Lê Huy

Cẩm.

2. Huỷ bỏ nghị quyết số 186/Hội đồng quản trị ngày 09.11.2006 của Công ty cổ

phầnvận tải hành khách Thanh Xuân.

3. Bác các yêu cầu khác của đương sự.

4. Về án phí:

- Công ty cổ phầnvận tải hành khách Thanh Xuân phải chịu 500.000 đồng tiền án

phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

- Hoàn trả Công ty TNHH công nghệ và thiết bị hàn do ông Nguyễn Nhâm - Giám

đốc Công ty đại diện và bà Bùi Thị Thanh Hà, ông Lê Huy Cẩm 750.000 đồng (bảy trăm

năm mươi nghìn đồng chẵn) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 003519 ngày

15.12.2006 của Cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.

án xử công khai sơ thẩm. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ

ngày tuyên án.

Công ty TNHH công nghệ và thiết bị hàn, bà Bùi Thị Thanh Hà do ông Nguyễn

Thế Quyền đại diện có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt

http://svnckh.com.vn 91

bản án.

http://svnckh.com.vn 92