LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận án là
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
ThS. Trịnh Xuân Ngọc
3
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
5
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
10
1.1.
10
1.2.
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Những công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận án Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học tiêu biểu đã công bố và những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết
23
29
2.1.
29
2.2.
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI TRONG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG Thực chất phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Những nhân tố cơ bản quy định phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng 61
79
3.1.
79
3.2.
Chương 3 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI TRONG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG HIỆN NAY Thực trạng thực hiện vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay Những vấn đề đặt ra đối với phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay 104
4
Chương 4 GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC HỌC VIỆN,
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI TRONG BẢO VỆ NỀN
118
4.1.
118
4.2.
126
4.3.
133
4.4.
TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG HIỆN NAY Nâng cao nhận thức, trách nhiệm các chủ thể phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội Xây dựng môi trường sư phạm dân chủ, tạo động lực thúc đẩy giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội chủ động, tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Tích cực hóa nhân tố chủ quan của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
KẾT LUẬN
142 155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
158 159 172
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Nền tảng tư tưởng của Đảng là hệ thống lý luận khoa học hoàn chỉnh,
đã được thực tiễn kiểm nghiệm, do Đảng ta lựa chọn làm cơ sở lý luận,
phương pháp luận chủ yếu, trực tiếp và nhất quán. Bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng là nhiệm vụ vừa cấp bách, thường xuyên và lâu dài; là trách nhiệm
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị. Trong đó,
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Họ là những người được đào tạo cơ
bản, chuyên sâu về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; lực lượng
trực tiếp góp phần quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa
và đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Do vậy, phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng và cấp thiết hiện nay.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, sự
quan tâm chỉ đạo của người chỉ huy các cấp, đội ngũ giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội cơ bản khẳng định
được vị trí, vai trò là lực lượng nòng cốt, trực tiếp, quan trọng trong nghiên
cứu, bổ sung, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vai trò
của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vẫn còn những hạn chế
nhất định; một bộ phận giảng viên chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vị trí, vai
trò, trách nhiệm của mình trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nên chưa
phát huy hết vai trò người giảng viên trong đổi mới nội dung, hình thức giảng
dạy, nghiên cứu khoa học, tham gia đấu tranh; môi trường và công tác bảo
6
đảm nhất là con người và phương tiện, trang thiết bị máy móc góp phần tạo
động lực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chưa được đầu tư
đúng mức, v.v.. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trên đây là do một số
cấp ủy, tổ chức đảng và chỉ huy ở các học viện, trường sĩ quan quân đội chưa
thật sự coi trọng phát huy vai trò của giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên có nội dung chưa đạt hiệu quả cao; một bộ
phận giảng viên thiếu chủ động tự học, tự rèn, tự phát huy vai trò của mình
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang ra sức
chống phá nhằm phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, gây sự hoài nghi,
hoang mang, dao động, mất niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Do
đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ là đòi hỏi tất yếu khách
quan mà còn là mặt trận nóng bỏng, liên quan trực tiếp đến sinh mệnh của
Đảng, sự tồn vong của chế độ, vận mệnh và lợi ích của quốc gia - dân tộc, là
mệnh lệnh của cuộc sống.
Từ những lý do trên tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát huy vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay” làm đề tài luận án, có
ý nghĩa cấp thiết, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải một số vấn đề lý luận phát huy vai trò, đánh giá
thực trạng thực hiện vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
luận án khái quát vấn đề đặt ra và đề xuất giải pháp phát huy vai trò của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
7
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò và phát huy vai trò và nhân tố
quy định phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đánh giá thực trạng thực hiện vai trò và luận giải những vấn đề đặt ra
trong phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
Đề xuất giải pháp cơ bản phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về vai trò, phát huy vai
trò và thực tiễn thực hiện vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy và
tuyên truyền.
Về không gian: Nghiên cứu, khảo sát và sử dụng số liệu của các học
viện, trường sĩ quan quân đội: Học viện Quốc phòng, Học viện Lục quân, Học
viện Chính trị, Học viện Hậu cần, Học viện Kỹ thuật quân sự, Học viện Quân
y, Trường Sĩ quan Lục quân 2, Trường Sĩ quan Thông tin, Trường Sĩ quan
Chính trị. Tập trung vào giảng viên các chuyên ngành: Triết học Mác - Lênin,
Kinh tế chính trị học Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Hồ Chí Minh
học, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam để luận giải làm nổi bật vai trò của đội
ngũ này trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Về thời gian: Sử dụng các số liệu, tài liệu chủ yếu từ năm 2016 đến nay.
8
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về tư tưởng, lý luận, đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức hệ; quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh tư tưởng, lý luận bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng.
Cơ sở thực tiễn
Từ thực tiễn tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội. Dựa trên các báo cáo tổng kết các vấn đề lý luận và thực tiễn của các cơ
quan chức năng, các học viện, trường sĩ quan quân đội về nhiệm vụ, kết quả
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Sử dụng kết quả điều tra, khảo sát thực tế
của tác giả luận án liên quan đến vai trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành
như: Phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; hệ thống và cấu trúc; lịch
sử và lôgíc; thống kê và so sánh; điều tra xã hội học; tham vấn chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án đưa ra được quan niệm và những nhân tố cơ bản quy định phát
huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường
sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Xác định, luận giải những vấn đề đặt ra và đề xuất những giải pháp cơ bản
phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
9
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần bổ sung, phát triển một số vấn đề lý luận về vai trò
của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, giáo dục chính trị; góp phần tư vấn,
tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội và các
cơ quan chức năng về phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (10 tiết); kết luận; danh mục các
công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án; danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận án
1.1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng
Tác giả Nguyễn Hùng Hậu (2014) trong cuốn sách: Bản chất khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin [53], cho biết, trong chủ nghĩa Mác -
Lênin, tính khoa học và tính cách mạng không tách rời nhau, có mối quan hệ
biện chứng. Tính khoa học và tính cách mạng được biểu hiện rõ: “Một là, chủ
nghĩa Mác - Lênin kế thừa trực tiếp những thành tựu của khoa học xã hội, trên
tiền đề của khoa học tự nhiên; hai là, chủ nghĩa Mác - Lênin mang tính khách
quan, phản ánh đúng sự thật; ba là, sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin xuất
phát từ thực tiễn, phân tích xã hội trên cơ sở phương pháp khoa học” [53, tr. 34-
36]. Như vậy, có thể thấy rõ bản chất, nội dung và mối quan hệ của tính cách
mạng và tính khoa học trong chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là cơ sở quan trọng để
nghiên cứu sinh tiếp cận, luận giải nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
trước hết là bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tác giả Trương Giang Long (2017) trong cuốn sách: Đấu tranh chống các
quan điểm, luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
[75], đánh giá: “Tấn công vào nền tảng tư tưởng là một trong những hoạt động
trọng điểm mà các thế lực thù địch tập trung hướng tới; do đó, muốn bảo vệ
được nền tảng tư tưởng của Đảng, tất yếu phải đấu tranh phản bác lại các quan
điểm sai trái, thù địch, phủ nhận vai trò nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh” [75, tr. 7]. Các thế lực thù địch tập trung chống phá chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là “gốc” “rễ” bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa. Cần kiên
11
quyết đấu tranh, phê phán, phủ định những quan điểm, luận điệu xuyên tạc của
các thế lực thù địch, đồng thời khẳng định thế giới quan, phương pháp luận khoa
học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được
Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào thực tiễn nước ta.
Cuốn sách của Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị (2017) Bảo vệ và
phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới [27], đã chỉ rõ:
“Việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa thể nói
lên việc bảo vệ hệ tư tưởng đó đối với cách mạng Việt Nam; vấn đề cốt tử là
ở khả năng lan tỏa, chỉ đường, tính hấp dẫn, lôi cuốn của chủ nghĩa Mác -
Lênin” [27, tr. 58]. Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, đòi hỏi
cấp thiết đặt ra là phải kiên định, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, đồng thời khơi
dậy, phát triển và lan tỏa bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn; kịp thời đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch. Những nội dung trên là cơ sở để nghiên cứu sinh
hình thành quan niệm bảo vệ nền tảng tư tưởng trong luận án.
Tác giả Lê Hữu Nghĩa (2018) trong cuốn sách: Kiên định chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng
chính trị trong Đảng [105], khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là trung thành, không dao động trước âm mưu, thủ đoạn
chống phá của các thế lực thù địch” [105, tr. 40]. Kiên định và vận dụng, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là hai mặt của
một vấn đề thống nhất, có quan hệ biện chứng; kiên định phải trên cơ sở sáng
tạo và sáng tạo phải trên cơ sở kiên định. Muốn bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đòi hỏi phải giữ vững nguyên tắc: “Kiên định, vận dụng đúng đắn, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” [105, tr. 41],
trong bất kỳ tính huống nào cũng không được xa rời nguyên tắc ấy.
Tác giả Vũ Văn Hiền (2018) trong tác phẩm: Nhận rõ tình hình mới và
các dạng quan điểm sai trái, thù địch [55], cho biết có ba dạng quan điểm sai
12
trái, thù địch, đó là: “Những quan điểm của các thế lực thù địch; những quan
điểm sai trái do các phần tử phản động, thoái hóa, cơ hội chính trị, bất mãn
gây ra và những quan điểm sai trái hình thành do trình độ nhận thức chính trị
kém” [55, tr. 58]. Tác giả đã phân tích, làm rõ mối quan hệ giữa tình hình mới
với nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch. Phải nhận diện đúng các quan
điểm sai trái, thù địch mới có thể đưa ra những đối sách thích hợp đối với
từng đối tượng cụ thể. Trong điều kiện hiện nay, trước sự thay đổi về âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên cần
phải tích cực học tập lý luận, để có thể nhận rõ các quan điểm sai trái, thù
địch đang chống phá cách mạng nước ta.
Bài viết của Phạm Đức Kiên (2018) Nhận diện và đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam [69], đề cập đến âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, đó là: “Cố tình phủ nhận
tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, rêu rao quan điểm chủ
nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ
Chí Minh, v.v.” [69, tr. 25]. Những nội dung trong công trình đã chỉ rõ bản
chất phản cách mạng của các quan điểm sai trái, thù địch; chỉ ra mặt khoa
học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Những nội dung trên là cơ sở cho nghiên cứu sinh xây dựng, luận giải
nội dung quan niệm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong luận án.
Các tác giả: Tống Đức Thảo, Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2020) trong công
trình: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới [120], cho biết,
trong tình hình mới, có ba nhóm đối tượng chính đang chống phá nền tảng tư
tưởng của Đảng; một là, nhóm đối lập hệ tư tưởng; hai là, các thế lực thù địch
về chính trị luôn chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa; ba là, những người vốn là
đảng viên cộng sản nhưng tha hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống”
13
[120, tr. 47]. Nhận thức rõ các nhóm đối tượng chống phá nền tảng tư tưởng
của Đảng như trên là cơ sở để nghiên cứu sinh luận giải nội dung đấu tranh
thuộc nội hàm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong luận án.
Tác giả Trần Thị Anh Đào (2020) trong bài viết: Một số giải pháp bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái,
thù địch trên mạng xã hội [33], đánh giá: “Muốn bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân” [33, tr. 110]. Theo đó, để bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, đòi hỏi phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
các chủ thể; đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, nhất là
lực lượng làm công tác tư tưởng của Đảng. Trên cở sở đó, nghiên cứu sinh
tiếp cận xây dựng giải pháp nâng cao nhận thức, trách nhiệm các chủ thể
nhằm phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tác giả Nguyễn Trọng Phúc (2020) trong công trình: Xây dựng và bảo vệ
vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng - Lịch sử và nhiệm vụ hiện nay [111],
khẳng định: “Cho đến ngày nay, nhờ kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
không ngừng lớn mạnh, đưa cách mạng nước ta trên con đường mới” [111, tr. 27].
Qua đó cho thấy, cần tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, truyền bá,
vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong thực tiễn; có những công trình khoa học, bài viết đấu tranh, phán bác kịp
thời, có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, thù địch đang phủ nhận vai trò
nền tảng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tác giả Nguyễn Duy Bắc (2020) trong bài viết: Một số nội dung, phương
thức, hình thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các
quan điểm sai trái, thù địch [14], khẳng định: “Phải kết hợp chặt chẽ, đa dạng
14
các hình thức, phương pháp, tập trung tuyên truyền, giáo dục làm cho cán bộ và
nhân dân hiểu rõ thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” [14, tr. 85]. Muốn bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, cần phát huy sức mạnh tổng hợp, đa dạng hóa hình
thức trong đấu tranh; kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ xây và chống; có phương
thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Cuốn sách của Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương (2020)
Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội
XIII của Đảng, Tập 1 [67], nhận định: “Đảng ta luôn kiên quyết đấu tranh phê
phán các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, coi
đây là nhiêm vụ quan trọng, thường xuyên của cách mạng nước ta” [67, tr. 5].
Như vậy, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng bên cạnh việc khẳng định bản
chất khoa học, cách mạng, nghiên cứu, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì đấu tranh phản bác quan điểm sai trái,
thù địch là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Đây là cơ sở để nghiên cứu sinh tiếp
cận xem xét, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp cần bám sát thực tiễn,
hiểu rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lực thù
địch, có dũng khí, kỹ năng, phương pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả.
Trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp Quốc gia (2020) Bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch [11], tác
giả Tạ Ngọc Tấn khẳng định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận
khoa học mở, được phát triển không ngừng, có giá trị bền vững” [11, tr. 47].
Những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin là: Phương pháp biện
chứng duy vật; quan niệm duy vật về lịch sử; lý luận về hình thái kinh tế - xã
hội; lý luận về giá trị thặng dư; lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học gắn với
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Những luận cứ trên đây là cơ sở để
nghiên cứu sinh tiếp cận, hình thành nội dung bảo vệ bản chất khoa học cách
15
mạng của nền tảng tư tưởng, trong luận án: Phát huy vai trò của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Nguyễn Bá Dương (2021) trong cuốn sách: Bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng tiếng gọi từ trái tim, mệnh lệnh của cuộc sống [30], khẳng định:
“Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là phải
kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo; kiên định con đường độc lập dân
tộc, gắn với chủ nghĩa xã hội” [30, tr. 230]. Kiên định, vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính
nguyên tắc trong lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; muốn bảo vệ được
nền tảng tư tưởng của Đảng cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa kiên định và
vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam.
1.1.2. Những công trình khoa học tiêu biểu liên có quan đến vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ
Tác giả Nguyễn Mạnh Hưởng (2012) trong công trình: Xây dựng đội
ngũ trí thức quân đội trong thời kỳ mới [68], cho rằng giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội đảm nhiệm các
nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tham gia đấu tranh tư tưởng, lý
luận; truyền thụ cho người học tri thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Thông qua giảng dạy, nghiên cứu khoa học họ truyền bá,
khẳng định bản chất khoa học, cách mạng, nghiên cứu vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn hoạt
động sư phạm; tích cực trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.
Tác giả Trần Đình Thắng (2015) trong bài viết: Nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng giảng viên khoa học xã hội và nhân văn của các nhà trường
đại học trong quân đội hiện nay [121], đã luận giải tầm quan trọng của công
tác lý luận và việc bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
16
cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn; đây là vấn đề đặt ra cấp thiết.
Trong những năm qua, các nhà trường quân đội đã quan tâm đến công tác bồi
dưỡng nâng cao trình độ lý luận; nhờ đó, giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn đã phát triển nhận thức, nâng cao trình độ lý luận. Tuy nhiên, yêu cầu mới
hiện nay, một số giảng viên nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, tầm quan trọng của
công tác lý luận “thậm chí còn bộc lộ sự dao động về lập trường tư tưởng, thiếu
vững vàng về bản lĩnh chính trị, thoái hóa về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp
luật” [121, tr. 59]. Những vấn đề trên, đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải tiếp tục
nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là chất lượng bồi dưỡng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên ở các nhà trường quân đội.
Tác giả Doãn Thị Chín (2016) trong tác phẩm: Vai trò của đội ngũ giảng
viên lý luận chính trị với việc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh [26], khẳng định: “giảng viên lý luận, chính trị là các nhà nghiên
cứu, nhà giáo đang công tác tại các học viện, nhà trường có nhiệm vụ nghiên cứu
bổ sung, phát triển lý luận, trực tiếp giảng dạy, truyền bá lý luận; tham gia đấu
tranh, chống lại mọi sự xuyên tạc, chống phá của kẻ thù” [26, tr. 3]. Công trình
đã chỉ ra, giảng viên lý luận chính trị vừa là người làm công tác nghiên cứu vừa
làm công tác giảng dạy. Theo đó, qua giảng dạy, khẳng định bản chất khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; qua nghiên cứu
để vận dụng đúng đắn, sáng tạo trong thực tiễn. Từ đó, khẳng định giá trị lịch sử,
ý nghĩa thời đại, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay; đấu tranh vạch trần bản chất, tác hại các quan điểm sai
trái, thù địch phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tác giả Bùi Hải Dương (2017) trong bài viết: Vai trò của đội ngũ giảng
viên lý luận chính trị ở các trường chính trị trong công tác tư tưởng [31], cho
biết: “Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị có là lực lượng chủ yếu, trực tiếp
trong nghiên cứu, vận dụng phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh” [31, tr. 55]. Vai trò của giảng viên được biểu hiện thông qua giảng dạy,
17
nghiên cứu khoa học; thể hiện qua một số nội dung: một là, nghiên cứu, vận
dụng đúng đắn, sáng tạo và truyền bá bản chất khoa học, cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; hai là, trong xây dựng Đảng về tư tưởng,
chính trị và tổ chức; ba là, vai trò quan trọng trong đấu tranh tư tưởng, lý luận.
Tác giả Đỗ Văn Trường (2018) trong công trình: Vai trò của trí thức
khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt
Nam vững mạnh về chính trị hiện nay [132], chỉ rõ việc thực hiện vai trò của
giảng viên vẫn còn những hạn chế như: “Nghiên cứu khoa học, tổng kết thực
tiễn, bổ sung, phát triển tri thức, nhất là những tri thức lý luận Mác - Lênin
hiệu quả chưa cao. Việc đào tạo, bồi dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu” [132, tr. 103], ... Những
nội dung trên là cơ sở để tác giả luận án tiếp cận cách luận giải, đánh giá thực
trạng công tác bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong luận án.
Tác giả Trần Thanh Sơn (2019) trong bài viết: Mấy vấn đề về công tác
đạo tạo, bồi dưỡng giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội hiện nay [119], khẳng định đội ngũ giảng viên là lực
lượng quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo. Trong những năm qua, công tác
đào tạo, bồi dưỡng giảng viên luôn được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ
và đạt kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, để đáp ứng những đòi hỏi của thực
tiễn, cần tiếp tục có những giải pháp đồng bộ, khả thi. Tác giả cho rằng: “Phải
đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng giảng viên; chú trọng bồi
dưỡng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục, rèn luyện bản lĩnh
chính trị, các kỹ năng đấu tranh” [119, tr. 97]. Tập trung đổi mới nội dung bồi
dưỡng về lý luận chính trị theo đúng tinh thần Nghị quyết số 37/NQ-TƯ ngày
09 tháng 11 năm 2014 và Nghị quyết số 32/NQ-TƯ ngày 26 tháng 5 năm 2014
của Bộ Chính trị. Nội dung luận giải trên đây là cơ sở quan trọng để nghiên cứu
18
sinh tiếp cận hình thành giải pháp đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong luận án.
Tác giả Phạm Thanh Giang (2019) trong cuốn sách: Phát triển nguồn
lực giảng viên khoa học xã hội và nhân văn chất lượng cao trong các học viện
quân đội hiện nay [50], đã đề cập đến vai trò quan trọng của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Phát huy vai
trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có quan hệ chặt chẽ với việc
tạo động lực và tự phát huy của chính đội ngũ này. Công trình chỉ rõ: “Tự học
tập, tự rèn luyện, tự tu dưỡng để ngày càng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ
lý luận và kỹ năng đấu tranh là nhân tố quyết định suy đến cùng hiệu quả phát
huy” [50, tr. 51]. Trên cơ sở đánh giá vai trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn, tác giả cho rằng muốn phát triển nguồn nhân lực giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn chất lượng cao đòi hỏi phải phát triển nhân tố chủ quan của
họ. Đây là cơ sở để nghiên cứu sinh luận giải các nhân tố quy định phát huy
nhân tố chủ quan của đội ngũ này trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tác giả Nguyễn Thị Hạnh (2019) trong bài viết: Vai trò của đội ngũ
giảng viên lý luận chính trị trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt
Nam [52], cho rằng: “Giảng viên lý luận chính trị là lực lượng chủ yếu, trực
tiếp truyền bá bản chất khoa học, cách mạng, vận dụng phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” [52, tr. 131]. Biểu hiện cụ thể của
các vai trò là: “một là, định hướng nhận thức cho người học; hai là, kiểm
nghiệm và phát hiện mức độ đúng sai trong thực tiễn; từ đó chắt lọc, truyền thụ,
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Sự phát triển của khoa học, kỹ
thuật hiện đại đã mang lại hiệu quả cao góp phần phát huy tốt vai trò của giảng
viên lý luận trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Đây cũng là cơ sở, tiền đề
để tiếp tục khẳng định bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn hiện nay.
19
1.1.3. Những công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến phát huy vai
trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tác giả Lương Thương Quyến (2012) trong cuốn sách: Nâng cao hơn
nữa vai trò của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự
trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay [116], cho rằng: “Đội ngũ
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự có điều kiện và khả năng
tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận thông qua nghiên cứu,
giảng dạy” [57, tr. 54]. Để tham gia đấu tranh có chất lượng, hiệu quả đòi hỏi
mỗi giảng viên phải “hiểu rõ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có tư duy khoa học, sắc bén về lý luận,
có dũng khí đấu tranh” [57, tr. 55]. Vì vậy, cần phải kết hợp chặt chẽ hoạt
động giảng dạy, nghiên cứu khoa học với thực tiễn đấu tranh; đảm bảo thông
tin đầy đủ, nhiều chiều, kịp thời về những quan điểm, tư tưởng sai trái cho
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn biết để họ đấu tranh, phản bác.
Tác giả Nguyễn Đình Bắc (2013) trong công trình: Phát huy vai trò của
đội ngũ giảng viên ở Học viện Chính trị trong đấu tranh tư tưởng, lý luận
hiện nay [15], đã chỉ rõ nguyên nhân hạn chế trong phát huy vai trò của đội
ngũ giảng viên ở Học viện Chính trị trong đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện
nay đó là: “Do nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể; do năng lực đấu tranh
tư tưởng, lý luận của giảng viên chưa đáp ứng; do các chủ thể chưa xây dựng
được môi trường và điều kiện thực sự thuận lợi để phát huy vai trò của đội
ngũ này tích cực tham gia đấu tranh” [15, tr. 45-56]. Trên cơ sở đó, tác giả đã
đề ra hệ thống giải pháp phát đó là: Đổi mới tư duy, nâng cao trách nhiệm của
các chủ thể; tạo lập môi trường cho đấu tranh và giải pháp tích cực hóa vai trò
tự phát huy của chính giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong đấu tranh
tư tưởng, lý luận. Những luận giải trên là cơ sở quan trọng để nghiên cứu sinh
tiếp cận cách thức đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp trong luận án.
20
Tác giả Lê Thành Long (2015) trong cuốn sách: Vai trò của giảng viên
lý luận chính trị ở các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam trong phòng,
chống “diễn biến hòa bình” hiện nay [76], đã đề xuất các nhóm giải pháp cơ bản
phát huy vai trò của giảng viên lý luận chính trị, trong đó tập trung: “Nâng cao
nhận thức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ
phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các chủ thể; xây dựng môi trường thuận
lợi, đổi mới chế độ, chính sách; bồi dưỡng lý luận đối với giảng viên ở các nhà
trường quân đội” [76, tr. 147]. Điều đó cho thấy, để phát huy vai trò của giảng
viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, yếu tố tiên quyết là nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể lạnh đạo, chỉ huy nhà trường, các khoa
giáo viên; chú trọng đổi mới tư duy về phát huy vai trò của giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng là rất cần thiết; cần phải tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi
và động lực thúc đẩy giảng viên phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Tác giả Nguyễn Văn Bạo (2016) trong cuốn sách: Phát huy vai trò đội
ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị với đấu
tranh phòng, chống “tự diện biến”, “tự chuyển hóa” trong quân đội [12],
đánh giá quá trình đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
còn bộc lộ một số hạn chế chưa thực sự tương xứng với vị trí và tiềm năng
của họ. Chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tác giả cho rằng: “Xuất phát
từ sự tác động của các cơ chế, chính sách đãi ngộ chưa tương xứng; giảng
viên thiếu thông tin phản diện, thiếu cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật để
đấu tranh; chất lượng giáo dục, đào tạo còn có mặt hạn chế, một số giảng viên
thiếu nỗ lực trong học tập, rèn luyện…” [12, tr. 80 - 81]. Để phát huy vai trò
của giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cần phải tìm ra được
nguyên nhân đang chi phối hoạt động của họ; đồng thời phải có cơ chế, chính
sách, chủ động cung cấp thông tin; trang bị cơ sở vật chất, phương tiện kỹ
thuật và tạo động lực thúc đẩy giảng viên tham gia vào hoạt động này.
21
Các tác giả: Lê Anh Thơ, Nguyễn Sỹ Họa (2017) trong cuốn sách: Phát
huy vai trò đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn của các nhà
trường quân đội trong đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay [123], cho rằng:
Phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong
đấu tranh tư tưởng, lý luận “là tổng hợp cách thức, biện pháp tác động hợp
quy luật của các chủ thể nhằm làm cho những thế mạnh của giảng viên ngày
càng được nâng lên thành nhận thức, bản lĩnh chính trị, trách nhiệm, đấu tranh
phản bác, vạch trần những quan điểm, tư tưởng sai trái, giữ vững trận địa tư
tưởng của Đảng trong quân đội” [123, tr. 31]. Như vậy, phát huy vai trò của
giảng viên trong đấu tranh tư tưởng, lý luận thực chất là sự tác động của các
tổ chức, các lực lượng làm chuyển hóa các yếu tố thuộc chủ thể người giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn, lan tỏa thông tin, định hướng chính trị đến
người học, qua đó giúp họ chủ động, tích cực tham gia đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch một cách hiệu quả.
Tác giả Cao Văn Trọng (2017) trong công trình: Nâng cao năng lực đấu
tranh tư tưởng của giảng viên lý luận chính trị ở các nhà trường quân đội
hiện nay [130], đã đánh giá tổng quát về chủ thể, nội dung, phương thức đấu
tranh tư tưởng, lý luận của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn.
Tham gia đấu tranh tư tưởng là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân, trực tiếp là cơ quan chức năng và đội ngũ những người làm công tác
tư tưởng của Đảng, trong đó có giảng viên lý luận chính trị. Công trình đã chỉ ra
đấu tranh tư tưởng, lý luận của giảng viên “phụ thuộc vào chất lượng đào tạo tại
trường và chất lượng bồi dưỡng trong quá trình công tác; phụ thuộc vào môi
trường bảo đảm đấu tranh ở các nhà trường quân đội và phụ thuộc vào nỗ lực
phấn đấu tự học tập, tự rèn luyện của chính họ” [130, tr. 38-56]. Những nội
dung trên là những gợi mở khoa học, là cơ sở lý luận, thực tiễn để nghiên cứu
sinh tiếp cận, hình thành những nhân tố quy định phát huy vai trò của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
22
Tác giả Hoàng Anh (2017) trong bài viết: Phát huy vai trò của giảng viên
lý luận chính trị trong cuộc đấu tranh tư tưởng ở nước ta hiện nay [1], cho rằng:
“Giảng viên lý luận chính trị giữ vai trò nòng cốt trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần trang bị thế giới quan, phương
pháp luận khoa học và cách mạng cho người học” [1, tr. 44-45]. Như vậy, phát
huy vai trò của đội ngũ này trong đấu tranh tư tưởng một mặt là truyền bá thế
giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng, giá trị lịch
sử và ý nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư
tưởng của Đảng, trên cơ sở vận dụng đúng đắn, sáng tạo trong thực tiễn; mặt
khác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận, chia cắt các
các bộ phận, các thành tố cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng; xuyên tạc chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tác giả Nguyễn Văn Phương (2020) trong công trình: Phát huy vai trò
của đội ngũ cán bộ khoa học xã hội và nhân văn quân sự ở các học viện, trường
sĩ quan quân đội trong thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW của Bộ Chính trị [113],
khẳng định giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội có vai trò quan trọng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vai
trò đó được biểu hiện thông qua quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm là
giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận. Tác giả cho rằng:
“Thực chất phát huy vai trò của cán bộ khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng là phải làm phát triển, lan tỏa được bản chất khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, kiên
quyết đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch”, [113, tr. 36-37]. Những nội
dung luận giải trên đây là cơ sở để nghiên cứu sinh vận dụng xây dựng quan
niệm trung tâm của luận án, đồng thời là cơ sở để khảo sát, đánh giá thực trạng,
đề xuất giải pháp phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
Các tác giả: Đào Văn Mạc, Đỗ Quang Minh (2020) trong bài viết: Phát
huy vai trò của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong
23
đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng [77], đã khẳng định vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự; họ là lực lượng chủ yếu, trực
tiếp truyền thụ, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là
lực lượng chủ công, xung kích trong đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng. Từ đó, tác giả đã đề xuất hệ thống giải pháp phát huy
vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng: “Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, mọi
lực lượng. Hai là, đa dạng hóa các phương thức đấu tranh tư tưởng, lý luận và
tạo điều kiện thuận lợi về vật chất, tinh thần và động lực cho đội ngũ giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự. Ba là, đổi mới tư duy, nâng cao
nhận thức của các chủ thể về phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội
và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” [77, tr. 56-58]. Những
giải pháp trên đây là cơ sở quan trọng giúp nghiên cứu sinh tiếp cận hình
thành hệ thống giải pháp trong đề tài luận án.
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học tiêu
biểu đã công bố và những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết
1.2.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học tiêu
biểu đã công bố có liên quan đến đề tài luận án
Thứ nhất, xác định rõ sự cấu thành, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng
Các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án đã chỉ ra bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng ở các lát cắt, các khía cạnh khác nhau; song cơ
bản các công trình đều thống nhất cho rằng: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng là bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là học tập
nghiên cứu, truyền bá, phổ biến sâu rộng những giá trị khoa học, cách mạng,
làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần của xã hội ở nước ta.
Các công trình đều khẳng định bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên
những vấn đề cơ bản sau: Một là, giáo dục, truyền bá, khẳng định bản chất
24
khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai
là, nghiên cứu, vận dụng đúng đắn và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng
trong tình hình mới. Ba là, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng gắn chặt với
việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng, trong đời
sống tinh thần ở nước ta. Như vậy, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là
khẳng định bản chất khoa học, cách mạng và sự cần thiết phải nghiên cứu vận
dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam; kiên quyết đấu tranh phản bác quan điểm sai
trái, thù địch. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tác động trực
tiếp đến sự thành bại của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới.
Thứ hai, nhấn mạnh vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh phản bác các quan điểm
sai trái, thù địch
Các công trình khoa học đã luận giải và khẳng định vị trí vai trò quan
trọng, của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn đối với việc hình thành,
hoàn thiện và phát triển thế giới quan, nhân sinh quan phương pháp luận khoa
học, rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý thức chính trị và năng lực cho người học.
Là lực lượng chủ yếu trong phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ngay trong phạm
vi nhà trường và toàn xã hội.
Tiếp cận từ góc độ vai trò giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong
quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ; các công trình khoa học đều cho
rằng giảng viên khoa học xã hội và nhân văn là lực lượng chủ yếu, trực tiếp
tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận; đưa
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trang bị
thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho người học; đồng thời, họ là lực
lượng nòng cốt trong đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, bảo vệ nền
25
tảng tư tưởng của Đảng. Phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn là làm khơi dậy, phát triển nhân tố con người thông qua quá trình
thực hiện chức trách, nhiệm vụ của giảng viên, góp phần hoàn thành tốt
nhiệm vụ đào tạo nhân lực chất lượng cao cho quân đội và quốc gia.
Thứ ba, chỉ ra phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Các công trình khoa học đều khẳng định phát huy vai trò của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm
vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay; đó là quá trình tác động của các chủ
thể, làm cho vai trò của giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
này càng tốt hơn, được nhân lên, lan tỏa trong thực tiễn. Thể hiện chức năng,
nhiệm vụ của họ thông qua giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái, phản động, hình thành ở người học thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan của người cộng sản. Các công trình khoa học đều
thống nhất đánh giá: Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng còn bộc lộ một số mặt hạn chế. Trong đó, đáng chú ý
là nhận thức, trách nhiệm của một bộ phận giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn và điều kiện đảm bảo cho họ đấu tranh còn nhiều bất cập; một số
giảng viên chưa giám đấu tranh hoặc đấu tranh mang tính chất hình thức,
chiếu lệ. Đặc biệt, một bộ phận giảng viên, nhận thức chưa thật đầy đủ về vai
trò, trách nhiệm, chưa tâm huyết nhiệt tình với nhiệm vụ đấu tranh. Trên cơ
sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát huy vai trò của giảng
viên trong đấu tranh tư tưởng, lý luận; các công trình nghiên cứu liên quan
đến đề tài luận án dưới góc độ tiếp cận chuyên biệt của từng ngành khoa học
đã đề ra những giải pháp khác nhau nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng.
Các giải pháp cơ bản đều tập trung: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm
của các chủ thể; gắn đào tạo với sử dụng đội ngũ giảng viên khoa học xã hội
và nhân văn; quan tâm chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của giảng
26
viên; tạo cơ chế, chính sách và môi trường làm việc thuận lợi để giảng viên
phát huy vai trò của mình trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các công
trình khoa học là nguồn tài liệu quý giúp tác giả luận án tham khảo, kế thừa
và phát triển những vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp trong luận án.
Tóm lại, các công trình khoa học được tổng quan trên đây, dưới góc độ
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, đã đề cập đến nhiều khía cạnh có liên
quan đến đề tài luận án cả về lý luận và thực tiễn, mối liên hệ, tính mâu thuẫn,
và quá trình phát triển của vấn đề nghiên cứu. Cách tiếp cận của từng công
trình là khác nhau nhưng có ý nghĩa rất lớn đối với đề tài luận án trên các
phương diện, cả về lý luận, thực tiễn và giải pháp. Đó là cơ sở khoa học để tác
giả luận án kế thừa, vận dụng, nghiên cứu xây dựng luận án phát huy vai trò
của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Mặc dù đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đấu tranh
tư tưởng, lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nhưng chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống, chuyên sâu về
phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
hiện nay với tư cách là một lực lượng trực tiếp, nòng cốt, dưới góc độ
chuyên ngành triết học, lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên cơ sở kế thừa các kết quả của các công
trình khoa học đã công bố, với mục đích đã xác định, tác giả luận án tiếp
tục đi sâu nghiên cứu làm rõ dưới các vấn đề sau:
Thứ nhất, luận giải, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về vai trò và phát
huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường
sĩ quan quân đội trong bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh -
nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong đó, phân tích làm rõ quan niệm về nền
tảng tư tưởng của Đảng; những nội dung cơ bản về bảo vệ nền tảng tư tưởng
27
của Đảng; đặc điểm của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng;
quan niệm và những nội dung cốt lõi phát huy vai trò của giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng. Đồng thời, luận án, chỉ ra những nhân tố cơ bản quy
định phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ hai, luận án nghiên cứu, đánh giá, làm rõ thực trạng và nguyên
nhân thực hiện vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; từ đó
xác định và luận giải những vấn đề đặt ra đối với phát huy vai trò của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ ba, hệ thống giải pháp của luận án dựa trên cơ sở lý luận và thực trạng
vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Xây dựng hệ thống giải pháp
gồm: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể đối với phát huy vai trò
của lực lượng này. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn gắn với
phát huy vai trò của họ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Xây dựng môi
trường sư phạm dân chủ, tạo động lực thúc đẩy đội ngũ này chủ động, tích cực
tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và giải pháp tích cực hóa vai trò năng
động, sáng tạo của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Từ việc khảo cứu các công trình khoa học đã công bố trong thời gian
qua, có thể khẳng định rằng việc nghiên cứu đề tài “phát huy vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay” là một công trình
khoa học mới, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
28
Kết luận chương 1
Tổng quan những công trình khoa học cho thấy, các công trình đã tiếp
cận một cách khách quan, toàn diện vấn đề nghiên cứu với có nhiều khía cạnh
khác nhau về đối tượng, phạm vi, nội dung và phương thức thể hiện. Các công
trình đã tiếp cận và làm rõ góc độ của từng chuyên ngành có liên quan đến phát
huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng. Thành công nổi bật của các công trình là đã chỉ rõ vai trò của
đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, đánh giá được thực trạng và đề
xuất được các giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ này trong đấu tranh tư
tưởng, lý luận hiện nay ở các góc độ tiếp cận khác nhau, rất đa dạng, phong
phú, có tác dụng tham khảo rất tốt.
Thông qua việc tổng quan và nghiên cứu những công trình khoa học liên
quan đến đề tài luận án đã giúp nghiên cứu sinh kế thừa cả nội dung và phương
pháp, cách thức tiếp cận nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, vai trò và phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đồng thời, thấy được các nội
dung cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu luận giải, làm rõ trong luận án. Từ đó, xác
định được những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết.
Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã đạt được nhiều thành
tựu rất đáng trân trọng liên quan đến vai trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn trong đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ
bản, chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ chuyên ngành chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử về vấn đề: “Phát huy vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay”.
29
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIẢNG VIÊN
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN
QUÂN ĐỘI TRONG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG
2.1. Thực chất phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng
2.1.1. Quan niệm về nền tảng tư tưởng của Đảng và bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng
Tư tưởng và nền tảng tư tưởng
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng là kết quả của quá
trình nhận thức phản ánh hiện thực khách quan, vì lợi ích của con người và lợi
ích xã hội. Tư tưởng biểu hiện về mặt ý thức, nhận thức của con người đối với
thế giới xung quanh; do chế độ xã hội, điều kiện sinh hoạt vật chất quy định.
Theo đó, chỉ có thể tìm nguồn gốc, bản chất của xã hội trong tồn tại xã hội mà tư
tưởng phản ánh chứ không thể tìm trong bản thân tư tưởng. Khi chế độ xã hội và
những điều kiện sinh hoạt vật chất thay đổi thì tư tưởng cũng sẽ thay đổi theo.
Tư tưởng có mối quan hệ chặt chẽ với hành động của con người. Theo
Hồ Chí Minh “Tư tưởng có thống nhất thì hành động mới thống nhất. Tư
tưởng và hành động có thống nhất mới đánh thắng được giặc” [89, tr. 75].
Người cho rằng đối với xây dựng Đảng thì giáo dục tư tưởng là quan trọng
nhất, vì trong Đảng mà không có tư tưởng vững vàng thì không làm được gì
cho dân, cho nước. V.I. Lênin khẳng định: “Giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư
tưởng là việc quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem
nhẹ tư tưởng” [91, tr. 279]. Tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan trong
ý thức nhưng lại là kết quả của quá trình tư duy của con người, của xã hội nên
quá trình hình thành và phát triển chịu sự chi phối của nhiều yếu tố. Trong xã
hội có giai cấp, luôn có sự đấu tranh tư tưởng giữa các giai cấp; trong đó, tư
30
tưởng của giai cấp thống trị là tư tưởng thống trị xã hội. Do vậy, có thể hiểu:
Tư tưởng là hệ thống những quan điểm, quan niệm của con người (cộng đồng
người) về hiện thực khách quan, chỉ đạo mọi suy nghĩ, hành động của con
người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nền tảng là “phần vững chắc để các phần khác dựa vào mà tồn tại phát
triển” [131, tr. 986]. Có thể hiểu nền tảng chính là những giá trị cốt lõi, bền
vững, làm cơ sở cho các chủ thể dựa vào mà tồn tại, phát triển.
Nền tảng tư tưởng là những quan điểm, tư tưởng của cá nhân hay cộng đồng
xã hội nhất định, được cá nhân, xã hội lấy làm cơ sở để hành động, làm “ánh sáng”
soi đường cho hoạt động cải tạo hiện thực. Theo đó, nền tảng tư tưởng được khái
quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm tính đúng đắn, khẳng định giá trị
phổ quát của nó và được con người, cộng đồng đó chia sẻ, bảo vệ và phát triển.
Vì thế có thể quan niệm: Nền tảng tư tưởng là hệ thống những quan
điểm, quan niệm xuất phát, cơ bản và bền vững cấu thành, qui định bản chất,
vai trò của tư tưởng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người
(cộng đồng người) ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Quan niệm nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Dưới góc độ nghiên cứu của chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trên cơ sở khái niệm nền tảng, nền tảng tư
tưởng đã luận giải trên đây, tác giả quan niệm: Nền tảng tư tưởng của Đảng là
hệ thống lý luận khoa học, cách mạng, đã được thực tiễn kiểm nghiệm, được
Đảng ta lựa chọn, bổ sung và hoàn thiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
làm cơ sở lý luận, phương pháp luận chủ yếu, chỉ đạo mọi hoạt động của
Đảng và cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam mang đầy đủ đặc
điểm chung, phổ quát nền tảng tư tưởng của một chính đảng cộng sản chân chính
V.I. Lênin chỉ ra rằng Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân; Đảng Cộng sản ra đời đánh dấu sự
31
phát triển nhảy vọt của phong trào công nhân từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu
tranh vì lợi ích kinh tế trong giới hạn của chủ nghĩa tư bản cho phép chuyển
sang cuộc đấu tranh chính trị nhằm lật đổ giai cấp tư sản, xóa bỏ chủ nghĩa tư
bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Ở mỗi nước, sự kết hợp
ấy là sản phẩm của lịch sử, được thực hiện bằng những con đường đặc biệt,
tùy theo điều kiện lịch sử, cụ thể.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam, việc hình thành, khẳng định
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng, đánh dấu bước tiến mới về nhận thức và tư
duy lý luận của Đảng ta; tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt chẽ những
nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng đó không phải là nhất thành bất biến mà
luôn được bổ sung, phát triển trong thực tiễn cách mạng. Về điều này, V.I. Lênin
chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi
hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng
cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa
về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống” [72, tr. 232].
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng đối lập với
nền tảng tư tưởng của các đảng bóc lột, là nền tảng tư tưởng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, nền tảng tư tưởng của Đảng phản ánh bản chất của Đảng và
mục tiêu, con đường cách mạng Việt Nam
Tính đặc thù về bản chất của đảng cộng sản được biểu hiện ở bản chất
của Đảng; đó chính là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam. Đây là điểm khác biệt với các đảng phi mácxít khác. Tính đặc thù
32
về bản chất còn được biểu hiện ở quy luật mà nó ra đời; Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Chủ
nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”
[100, tr. 406]. Sự thống nhất của ý thức đấu tranh giai cấp với chủ nghĩa yêu
nước trong phong trào công nhân, sự thống nhất của phong trào công nhân với
phong trào yêu nước là một đặc điểm, giá trị nổi bật, mang tính đặc thù về bản
chất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nền tảng tư tưởng của Đảng thể hiện lợi ích mà Đảng ta là đại biểu
chân chính cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân
tộc Việt Nam. “Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác”
[102, tr. 271]. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp ứng kịp thời
những đòi hỏi bức thiết của lịch sử. Hơn 90 năm thực hiện sứ mệnh lịch sử
của Đảng Cộng sản Việt Nam, trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cùng các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới
phía Nam và phía Bắc của Tổ quốc; quãng thời gian chưa dài nhưng những gì
mà Đảng ta đã thực hiện được là phi thường; thể hiện rõ vai trò độc tôn lãnh
đạo, duy nhất phù hợp với cách mạng Việt Nam. Đặc điểm, mục tiêu con
đường cách mạng Việt Nam, vừa tuân thủ những quy luật phổ biến của cách
mạng xã hội chủ nghĩa vừa tuân thủ qui luật đặc thù tiến lên xã hội chủ nghĩa
bỏ qua chế độ phát triển tư bản ở một nước tiểu nông (chưa có tiền lệ trong
lịch sử). Luôn tuân thủ hệ thống qui luật khẳng định bản chất của chủ nghĩa
xã hội và tuân thủ hệ thống qui luật đổi mới toàn diện đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Để phản ánh đúng và phù hợp với thực tiễn nêu trên,
tất yếu phải lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng của Đảng. Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
33
mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta” [35, tr. 83].
Thứ ba, nền tảng tư tưởng của Đảng là hệ thống lý luận khoa học, cách
mạng đã được Đảng ta lựa chọn, bổ sung và hoàn thiện trong thực tiễn lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng
Trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Đảng ta đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tại Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó khẳng
định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [34, tr. 21]. Đại hội đã thống nhất và
bổ sung “tư tưởng Hồ Chí Minh” vào nền tảng tư tưởng của Đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động” [40, tr. 88]. Đây là một quyết định có tầm lịch sử quan trọng
thể hiện bước tiến trong tư duy lý luận của Đảng ta. Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, điểm 1 điều 4 khẳng định: “Đảng
Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đai biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [117].
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa XII khẳng định: “Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại
34
và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng
đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân” [44. tr. 4-5].
Nghị quyết số 35 của Bộ Chính trị Khóa XII chỉ rõ: “Đảng ta lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động” [18, tr.1]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn
Việt Nam” [46, tr. 231]. Những nội dung luận giải trên đây cho thấy, nền tảng
tư tưởng của Đảng hiện nay là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
được Đảng ta lựa chọn, bổ sung và hoàn thiện trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, làm cơ sở lý luận, phương pháp luận chủ yếu, trực tiếp và nhất quán,
chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Đó là kết quả của
quá trình nghiên cứu, tiếp thu, bổ sung, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng lấy đó làm tư tưởng nhất
quán, xuyên suốt trong nhận thức và hành động, phù hợp với bản chất của
Đảng và điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Quan niệm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Bảo vệ là thuật ngữ dùng để chỉ tổng thể các hoạt động của chủ thể
nhằm chống lại, ngăn ngừa, đẩy lùi và triệt tiêu các tác nhân khách quan hoặc
chủ quan gây ra ảnh hưởng tiêu cực hoặc hủy hoại, xâm phạm sự tồn tại của
sự vật; “bảo vệ là chống lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm để giữ vững sự tồn
tại của sự vật” [131, tr. 175]. Bảo vệ và đấu tranh có quan hệ biện chứng với
nhau, thống nhất ở mục tiêu đặt ra. Đấu tranh để bảo vệ mục tiêu và ngược lại
bảo vệ là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đấu tranh đạt kết quả cao. “Mặc dù
nội dung và hình thức của bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là hai phạm trù khác nhau, nhưng
thống nhất ở mục tiêu đạt được. Trong bảo vệ có đấu tranh và ngược lại đấu
tranh mục đích để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” [62, tr. 59].
35
Theo đó, có thể quan niệm: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là tổng
thể phương pháp và cách thức của các chủ thể nhằm giữ vững, tăng cường
bản chất khoa học, cách mạng, sức sống, giá trị bền vững nền tảng tư tưởng
của Đảng trước mọi thách thức; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mục tiêu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là giữ vẹn nguyên vai trò,
sức sống, giá trị bền vững, ý nghĩa lịch sử và thời đại nền tảng tư tưởng của
Đảng. Qua đó, giữ vững, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng
thuận của xã hội và niềm tin của nhân dân với Đảng. Bảo đảm nền tảng tư tưởng
của Đảng thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội; là
cơ sở lý luận, phương pháp luận, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; góp
phần nâng cao nhận thức về tư tưởng, lý luận cho toàn xã hội, trước hết là đội
ngũ cán bộ, đảng viên; thực hiện thắng lợi mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” [46, tr. 56]. Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của
Đảng là một nội dung cơ bản, sống còn của công tác xây dựng Đảng.
Chủ thể và lực lượng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị; phát huy vai trò của các tổ chức chính
trị, xã hội, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Mỗi chủ thể có vị trí, vai
trò, nhiệm vụ khác nhau. Lực lượng trực tiếp là những người hoạt động trên lĩnh
vực tư tưởng, lý luận; tạo ra môi trường đấu tranh rộng khắp dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Lực lượng gián tiếp là cán bộ, đảng viên và toàn thể quần chúng nhân
dân; trong đó, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội là lực lượng chủ yếu, trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được xác định trong luận
án là giữ vững, tăng cường bản chất khoa học, cách mạng; bổ sung, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
36
Chí Minh. Theo đó, nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được tiếp
cận trên một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng
Khi đã xác định lấy một học thuyết (chủ nghĩa) nào làm nền tảng tư
tưởng, đều phải xuất phát từ giá trị, bản chất khoa học, cách mạng của học
thuyết ấy. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng
mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn
chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” [82, tr. 289].
Trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tính khoa học và tính cách mạng là một
thể thống nhất. Tính khoa học bản thân nó đã bao hàm tính cách mạng; tính
khoa học đòi hỏi phải chỉ ra quy luật vận động, phát triển khách quan; đòi hỏi
phải đấu tranh chống lại mọi lạc hậu, phản động, bảo thủ, chống lại áp bức,
bất công, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đồng thời, tính cách mạng
trong chủ nghĩa Mác - Lênin cũng bao hàm tính khoa học, muốn xây dựng xã
hội mới đòi hỏi phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, tức là
phải dựa vào khoa học. Về vấn đề này, Ph. Ăngghen đã chỉ ra: “Lý luận của
chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà
người ta phải thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc” [3, tr.796]. Chủ nghĩa
Mác - Lênin đã kế thừa những thành tựu của khoa học xã hội trên tiền đề của
khoa học tự nhiên đương thời.
V.I. Lênin khẳng định: “Học thuyết của Mác ra đời là sự thừa kế thẳng
và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học,
trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội” [74, tr. 49-50]. Đó là, triết
học cổ điển Đức mà đại diện là G. Hegen, L. Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận
trực tiếp của triết học Mác. Kinh tế chính trị học cổ điển Anh mà đại biểu là A.
Xmit và Đ. Rcácdô, đã mở đầu lý luận về giá trị sức lao động. Học thuyết xã
37
hội chủ nghĩa không tưởng Pháp, mà đại diện là X. Ximông, S. Phuriê và Ôoen
đã chỉ trích, kết tội chủ nghĩa tư bản, ước mơ xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây
dựng xã hội tốt đẹp hơn. Khẳng định sự thay thế của chủ nghĩa xã hội đối với
chủ nghĩa tư bản là xu thế tất yếu; đồng thời phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của
gia cấp công nhân trong cuốc đấu tranh để hiện thực hóa xu thế đó.
Trước sự vận động của chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa đế quốc và sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học hiện đại, đặc biệt là khoa học vật lý cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đã khái quát những thành tựu của cách
mạng thế giới, qua đó phát triển chủ nghĩa Mác lên tầm cao mới và hiện thực
hóa lý luận đó thành phong trào cách mạng. Sau này, V.I. Lênin đã nghiên cứu
những thành tựu của khoa học, đặc biệt là những phát minh của khoa học tự
nhiên, cùng với tổng kết thực tiễn vận động của chủ nghĩa tư bản, đã phát triển
toàn diện chủ nghĩa Mác lên tầm cao mới. Tính khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin thể hiện ở sự thống nhất giữa nội dung của chân lý khách quan và hình
thức, đó là hệ thống lôgic chặt chẽ, hoàn thiện. Tính cách mạng thể hiện ở chỗ
chủ nghĩa Mác - Lênin được coi là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản, cung
cấp cho giai cấp vô sản một công cụ nhận thức khoa học; nhìn nhận sự vật,
hiện tượng trong sự vận động và phát triển. Tính khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin thống nhất với tính cách mạng nó được thể hiện rõ trong mối quan hệ
giữa triết học với khoa học tự nhiên.
Trước đây từng có khuynh hướng giáo điều dùng triết học Mác - Lênin
thay thế những kết quả nghiên cứu của khoa học tự nhiên, ngày nay lại có
khuynh hướng ngược lại, dùng những thành tựu mới của khoa học tự nhiên để
thay thế cho chủ nghĩa Mác - Lênin và cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi
thời. Những khuynh hướng giáo điều trên đây là sai lầm. Bởi vì, những thành
tựu mới nhất của khoa học tự nhiên không những chứng minh sự đúng đắn mà
còn là cơ sở để bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin thêm phong phú.
Như vậy, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết cần bảo vệ bản
38
chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khẳng định giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại, tính hoàn bị của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, nghiên cứu, bổ sung, vận dụng sáng tạo nền tảng tư tưởng của
Đảng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trang bị cho chúng ta thế
giới quan, phương pháp luận khoa học; khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa là
tương lai tốt đẹp của loài người. Thực tiễn đã chứng minh: “Đảng ta luôn vững
vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và không ngừng
vận dụng, phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam” [46, tr. 165].
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước hết cần kiên định chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin không có nghĩa là khư khư nắm giữ những câu chữ của C. Mác,
Ph. Ăngghen, V.I. Lênin. Kiên định là giữ vững ý chí, không giao động trước
những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Khẳng định những giá trị căn bản được thể hiện trong ba bộ phận cấu
thành chủ nghĩa Mác - Lênin và trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó,
việc nghiên cứu, bổ sung, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam là yếu tố
quan trọng, cấu thành nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh là hình mẫu tiêu biểu cho việc bổ sung và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tiếp nhận những
bài học sâu sắc từ C. Mác, V.I. Lênin và thực tiễn Cách mạng Tháng Mười
Nga, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam; Người cho rằng: “Chủ nghĩa Lênin cũng gần như cái cẩm nang
thần kỳ” [103, tr. 588]; nhưng luôn nhấn mạnh rằng cần phải vận dụng sáng
tạo “cái cẩm nang thần kỳ” đó.
39
Những luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp, v.v., trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam là những giá
trị cốt lõi trong tư tưởng của Người. Những giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
Minh được hiện thực hóa ở chủ trương, đường lối của Ðảng; thể hiện trong
suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam, từ thành công của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, giành độc lập dân tộc, kháng chiến thắng lợi, thống
nhất đất nước năm 1975, sau đó cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Kiên định, bổ sung, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hai mặt của một vấn đề thống nhất có mối
quan hệ biện chứng, kiên định phải trên cơ sở bổ sung, phát triển sáng tạo,
phù hợp. Bổ sung, phát triển sáng tạo phải trên cơ sở kiên định thế giới quan,
phương pháp luận khoa học, cách mạng. Việc nghiên cứu, bổ sung và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là
“xét lại” chủ nghĩa Mác - Lênin; cũng không phải làm lu mờ giá trị của nó mà
là làm cho những nội dung, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh có thêm sức sống mới; được hiện thực hóa, phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, qua đó đập tan những quan điểm, tư tưởng phản
động, xuyên tạc về nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ ba, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phủ nhận
nền tảng tư tưởng của Đảng
Bên cạnh việc bảo vệ giá trị bản chất khoa học, cách mạng, bổ sung,
phát triển sáng tạo nền tảng tư tưởng của Đảng trong thực tiễn, thì việc đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, là nội dung quan trọng trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong xã hội có giai cấp, tất yếu có đấu
tranh giai cấp; đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng ở nước ta cũng là một biểu hiện của đấu tranh giai cấp. Ph.
Ăngghen cho rằng: “Tất cả mọi cuộc đấu tranh trong lịch sử không kể nó diễn
40
ra trên địa hạt chính trị, tôn giáo, triết học, hay trên bất kỳ một địa hạt tư
tưởng nào khác thực ra chỉ là biểu hiện ít nhiều rõ rệt của cuộc đấu tranh của
các giai cấp trong xã hội” [2, tr. 373 - 374].
Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đòi hỏi phải nhận diện đúng
các tư tưởng phản động; từ đó, kịp thời vạch trần bản chất, âm mưu, thủ
đoạn, đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch. Nhận thức
rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam. Các thế lực thù địch đang ra
sức tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo phủ nhận nền tảng tư tưởng của
Đảng. Với những thủ đoạn: “Một là, xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đối lập C. Mác, Ph. Ăgghen với
V.I. Lênin để làm xói mòn sự thống nhất, biện chứng của một học thuyết
khoa học, cách mạng. Cố tình tạo sự khác biệt giữa tư tưởng Hồ Chí Minh
với chủ nghĩa Mác - Lênin. Muốn Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin,
duy trì tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, ca ngợi sự vĩnh hằng của chủ nghĩa
tư bản, cho rằng chủ nghĩa xã hội không có tương lai; tập trung xuyên tạc,
công kích, chống phá quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Ba là, bóp méo, hạ thấp, phủ nhận thành quả
đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng” [6, tr. 1 - 8].
Hiện nay, “có 300 tổ chức phản động lưu vong người Việt, trong đó có
khoảng 100 tổ chức có lực lượng, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta
một cách quyết liệt, trong đó có cả các tổ chức phi chính phủ như tổ chức:
Theo dõi nhân quyền (HRW), Phóng viên không biên giới (RSF), Việt Tân,
VOICE, Ủy ban cứu người vượt biển (BPSOS” [11, tr. 311]. Chúng phát tán
thông tin xấu độc, quan điểm sai trái nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của
Đảng thông qua các phương tiện truyền thông như: “VOA, RFI, RFA, AFP,
và các blog, twiter, facebook cá nhân” [11, tr. 408].
41
Chỉ khi nào nhận thức rõ tính chất nguy hiểm, phức tạp của cuộc đấu
tranh tư tưởng, lý luận, cập nhật thường xuyên tình hình và những âm mưu,
thủ đoạn, hoạt động của các thế lực thù địch; thì mọi người dân mới đề cao
cảnh giác, không bị động, lúng túng. Ðảng ta đã xác định: “Đấu tranh, phản
bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ cấp bách,
thường xuyên, cơ bản lâu dài của cả hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng
viên và toàn dân tộc” [18].
Chủ động đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục của các tổ chức,
đoàn thể là rất cần thiết, nhưng quan trọng và quyết định hơn vẫn là sự chủ
động trong rèn luyện bản lĩnh chính trị, tích cực học tập nâng cao trình độ lý
luận của mỗi cá nhân. Đó chính là yếu tố cơ sở, nền tảng vững chắc để mỗi
cán bộ, đảng viên và từng người dân, tích cực, tự giác tham gia có hiệu quả
vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
2.1.2. Vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội là một bộ phận nhà giáo quân đội, trực tiếp nghiên cứu,
giảng dạy, truyền thụ tri thức khoa học xã hội và nhân văn, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hình thành thế
giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, năng lực sáng tạo cho
người học. Chức năng, nhiệm vụ chính của họ là giảng dạy, nghiên cứu
khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận. Do tính chất, yêu cầu và chịu sự
quy định của các yếu tố mang tính đặc thù hoạt động quân sự, giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan có những đặc
điểm cơ bản sau đây.
42
Thứ nhất, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội được đào tạo cơ bản, chuyên sâu về chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có kiến thức, năng lực khá toàn diện, có bản
lĩnh chính trị vững vàng.
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội chủ yếu được đào tạo, trưởng thành ở các nhà trường quân đội. Trong
đó, cơ bản được đào tạo, bồi dưỡng, trưởng thành ở Học viện Chính trị, Trường
Sĩ quan Chính trị, Bộ Quốc phòng với nhiều cấp học khác nhau. Họ là những
người được tuyển chọn kỹ về lai lịch chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực,
tác phong và sức khỏe để phục vụ lâu dài trong quân đội. Yêu cầu khách quan
đòi hỏi họ phải luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần chịu đựng
khó khăn, gian khổ, ý thức tự giác, tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của cấp trên,
sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Ngay từ ngày đầu vào học ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn đã được giác ngộ cách mạng, rèn luyện bản lĩnh
chính trị, lập trường giai cấp. Quá trình giáo dục, đào tạo gắn chặt với rèn
luyện cả về trí lực, sức lực, bản lĩnh chính trị, lòng nhiệt tình, tâm huyết, tuyệt
đối trung thành với Tổ quốc, Đảng, Nhà nước và nhân dân quên mình. Họ
được tôi luyện qua môi trường khắc nghiệt, gian khổ, dần hình thành bản lĩnh
chính trị kiên cường, lập trường giai cấp rõ ràng, kiên định, có tác phong công
tác khoa học, cách mạng, đủ sức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Qua
nhiều bậc học, cấp học khác nhau (đào tạo sĩ quan cấp phân đội, đào tạo giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn cấp trung, sư đoàn, đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ).
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội là những người công tác trong môi trường quân sự, chịu sự chi phối
trực tiếp của quy luật quân sự, đấu tranh vũ trang, tính nguyên tắc, tính kỷ luật
cao. Hoạt động quân sự là lĩnh vực đặc thù, có tính kỷ luật cao, tự giác,
nghiêm minh, đòi hỏi phải tuân thủ kỷ luật, điều lệnh, điều lệ, chế độ quy
43
định, mệnh lệnh, chỉ thị của người chỉ huy. Giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội được đào tạo chuyên sâu về
lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng,
chức năng, nhiệm vụ của quân đội; có trình độ lý luận cao, đảm trách nhiệm
vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận góp phần
truyền bá, nghiên cứu, bổ sung, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được thực hiện trên cơ sở
hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn. Không trái với chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội; sẵn sàng
thực hiện nhiệm vụ trong mọi điều kiện hoàn cảnh, mọi thời gian, trong mọi
không gian khó khăn, phức tạp; phải đối diện với nhiều khó khăn, thử thách, có
thể đe dọa đến cả tính mạng của bản thân và gia đình. Họ luôn có bản lĩnh
chính trị vững vàng, tích cực đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ; không để tư tưởng dao động, hoài nghi về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội xâm nhập vào cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng nhân lực chất lượng cao cho quân
đội và quốc gia, phục vụ cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Do ưu thế chuyên biệt, chuyên giảng dạy, nghiên cứu về khoa học xã
hội và nhân văn, giảng viên ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là những
sĩ quan - nhà giáo - nhà khoa học - nhà hoạt động chính trị xã hội vừa cầm
bút, vừa cầm súng, có trình độ chuyên môn sâu về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, có hiểu biết về khoa học quân sự. Đào tạo, bồi dưỡng
nhân lực chất lượng cao cho quân đội và quốc gia, những người trực tiếp bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn đào
tạo, bồi dưỡng người học trở thành những nhà lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các cơ quan, đơn vị trong toàn quân trong
44
tương lai. Đây là đặc điểm khác biệt rõ nhất giữa họ với giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn trong hệ thống giáo dục quốc dân và cũng là khác biệt so
với đội ngũ giảng viên nói chung trong quân đội.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, họ giải quyết tốt mối quan hệ
“kép”: giữa thực hiện nhiệm vụ trung tâm là giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa
học về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ, bản chất,
truyền thống cách mạng của quân đội với xây dựng thế giới quan khoa học.
Đồng thời, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị, niềm tin cộng sản, góp phần
tạo khả năng miễn dịch với những quan điểm sai trái, thù địch cho người học;
giúp người học thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng ở các cơ quan, đơn vị sau khi ra trường.
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trực tiếp tuyên tuyền, giáo dục,
giúp người học nhận thức rõ cơ sở lý luận và thực tiễn tại sao Đảng ta xác
định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Qua nghiên cứu khoa học và hướng dẫn
học viên nghiên cứu khoa học, họ bồi dưỡng kỹ năng, cách thức đấu tranh,
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Bồi dưỡng cho học viên phương
pháp nghiên cứu khoa học; xây dựng đơn vị, có môi trường trong sạch, lành
mạnh, đủ sức chiến đấu, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Giải quyết tốt mối quan hệ này trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, họ
sẽ tạo ra lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng ở các cơ quan, đơn vị trong toàn quân. Bên cạnh đó, họ còn là người sĩ
quan chỉ huy, là cấp trên của người học; họ có nhiệm vụ chỉ huy, quản lý, duy
trì học viên chấp hành nghiêm chế độ quy định, điều lệnh, điều lệ của quân
đội và cả thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Không có
lực lượng nào lại giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa nhiệm vụ giáo
dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học với đào tạo người học trở thành những nhà
45
lãnh đạo, chỉ huy bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng như giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Đây là đặc điểm
biểu hiện rõ nhất của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ ba, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường
sĩ quan quân đội luôn chủ động, tích cực tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, với tính khoa học, tính học thuật và tính chiến đấu cao,
được tổ chức chặt chẽ
Các học viện, trường sĩ quan quân đội, mỗi nhà trường một môi trường,
một chuyên ngành đào tạo khác nhau. Tính học thuật trong giảng dạy, nghiên
cứu, gắn với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được biểu hiện rõ
nét trong mỗi nhiệm vụ đều có kế hoạch cụ thể, rõ ràng; tổ chức phân cấp
đánh giá, thông qua chất lượng bài giảng, chuyên đề, nghiên cứu đề tài khoa
học chặt chẽ, thống nhất, có sự lãnh đạo, chỉ huy, được phê duyệt theo phân
cấp, đúng quy định. Giảng viên ở mỗi khoa, bộ môn, có trình độ lý luận cơ
bản khác nhau, chuyên sâu theo từng ngành học; song, trong thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bên cạnh những yêu cầu chung, họ có
cách thức, điều kiện tiếp cận riêng, luôn sáng tạo, sát thực tiễn, kịp thời đấu
tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận vai trò nền tảng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đối tượng giảng dạy của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
học viện, trường sĩ quan là khác nhau, cụ thể như: Đối tượng nghiên cứu, ứng
dụng, phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự; khoa học xã hội và nhân văn
quân sự; khoa học kỹ thuật công nghệ quân sự; khoa học y, dược quân sự; đào
tạo học viên có trình độ đại học, sau đại học; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
cho đội ngũ cán bộ các cấp, v.v.. Do vậy, cách thức tiếp cận đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch cũng khác nhau nhằm mục đích bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, trên từng lĩnh vực, từng nhiệm vụ, cho từng đối tượng
học viên ở từng học viện, trường sĩ quan quân đội mà họ đang công tác.
46
Việc đào tạo, bồi dưỡng ý thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đối
với học viên sĩ quan chính trị khác với đối tượng là sĩ quan chỉ huy binh
chủng hợp thành, khác với sĩ quan chỉ huy chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ.
Giảng dạy, bồi dưỡng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cho cán bộ cấp chiến lược, chiến dịch, cấp trung đoàn, sư đoàn khác với
học viên cấp phân đội. Các bài giảng, chuyên đề, sản phẩm khoa học của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội đều có tính đấu tranh cao, mục đích cuối cùng là góp phần xây dựng quân
đội vững mạnh về chính trị, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ
vững trận địa tư tưởng, văn hóa của Đảng trong quân đội. Tính tổ chức chặt
chẽ biểu hiện ở đặc thù nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt đối với quân đội. Mọi hoạt động đấu tranh phản bác quan điểm sai trái,
thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội đều phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của cấp
ủy, tổ chức đảng các cấp; từ Quân ủy Trung ương đến cơ sở. Trên cơ sở có
nghị quyết, chỉ thị của trên, được tổ chức triển khai thực hiện, nghiêm túc, có
sự kiểm tra, đánh giá, sơ tổng kết, được đưa vào kết quả hoàn thành nhiệm vụ
của từng giảng viên trong tuần, trong tháng và cả năm. Những đặc điểm cơ
bản, nổi trội trên là cơ sở để phân biệt họ với các giảng viên nói chung, giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn ở các nhà trường khác nói riêng trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Quan niệm vai trò của giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Theo Từ điển tiếng Việt, vai trò “là chức năng, tác dụng của cái gì
hoặc của ai trong sự vận động phát triển của nhóm, của tập thể nói chung”
[131, tr. 954]. Thông thường, người ta hiểu: “Vai trò là tác dụng, chức năng
của ai hoặc cái gì trong sự hoạt động, sự phát triển chung của một tập thể,
một tổ chức” [131 tr. 1135].
47
Từ những luận giải trên đây, tác giả quan niệm: Vai trò của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng là tổng hợp các chức năng, nhiệm vụ, tạo thành hệ
thống giá trị, thể hiện vị trí, tầm quan trọng cùng các mối quan hệ của họ
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng là khách quan gắn liền với đặc điểm, năng lực phẩm
chất và chức năng, nhiệm vụ; được thể hiện qua vị thế, mối quan hệ của họ và
các yếu tố cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng. Vai trò của đó được thực
hiện thông qua nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư
tưởng, lý luận, biểu hiện trên một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn là lực lượng chủ yếu,
trực tiếp truyền thụ, khẳng định bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư
tưởng của Đảng cho người học
Ở các học viện, trường sĩ quan quân đội giảng viên nói chung là lực
lượng có vai trò quan trọng, trực tiếp giảng dạy, quyết định chất lượng, hiệu
quả giáo dục, đào tạo cán bộ. Nhiệm vụ chính trị trung tâm của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn chủ yếu là giảng dạy, nghiên cứu, xây dựng
khoa, bộ môn. Từ đó cho thấy, vai trò chủ yếu, trực tiếp là tuyên truyền,
truyền bá nền tảng tư tưởng của Đảng mà trực tiếp hiện nay là truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Muốn cho người học thấm
nhuần bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết mỗi giảng viên phải
hiểu rõ tầm quan trọng và vai trò to lớn của mình trong việc truyền bá, định
hướng nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối, của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong giảng dạy,
họ bồi dưỡng cho học viên thế giới quan, phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; qua đó giúp người học nhận
thức đúng đắn tri thức các môn học.
48
Cung cấp cho người học hệ thống lý luận chung nhất các quy luật vận
động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; trang bị phương pháp luận
khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực trong môi trường hoạt động quân
sự. Việc giáo dục, xây dựng, bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan và
phương pháp luận khoa học, cách mạng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là cơ sở để người học có phương pháp, cách thức xem xét đánh giá
hoạt động thực tiễn trên cơ sở khoa học. Đánh giá hoạt động đấu tranh phản
bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng một cách
khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Qua đó, họ nhận diện
được các quan điểm sai trái, thù địch, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ cơ quan, đơn vị được che đậy, ngụy trang dưới các
vỏ bọc khác nhau. Từ đó, người học có đủ trình độ và bản lĩnh để đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, tự bảo vệ mình, bảo vệ Đảng.
Trên cơ sở khẳng định bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng
của Đảng, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, xây dựng, bồi dưỡng cho
người học niềm tin cộng sản; tin vào vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Niềm tin đó được hình thành bởi các
yếu tố như: Tri thức về nền tảng tư tưởng của Đảng, niềm tin, tình cảm và ý trí
của người học; qua đó, biến những hành động thành hiện thực trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng. Họ là lực lượng chủ yếu, trực tiếp giáo dục, nâng cao
trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bản lĩnh
chính trị cho người học. Từng bước xây dựng, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý
luận chính trị, hiểu rõ giá trị, ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đây là vũ khí tư
tưởng, lý luận quan trọng, sắc bén giúp người học có bản lĩnh chính trị kiên
định, vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, có đủ bản lĩnh
để vượt qua những cám dỗ của mặt trái nền kinh tế thị trường và sự mua chuộc
của các thế lực thù địch, phản động. Có thể khẳng định giảng viên khoa học xã
49
hội và nhân văn là lực lượng chủ yếu, trực tiếp trang bị thế giới quan, phương
pháp luận, truyền bá, khẳng định bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư
tưởng của Đảng; xây dựng bản lĩnh chính trị, niềm tin cộng sản, nâng cao nhận
thức và bồi dưỡng kỹ năng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
cho người học - những cán bộ của Đảng, của quân đội.
Thứ hai, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội là lực lượng nòng cốt tham gia nghiên cứu, bổ sung,
vận dụng và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong thực tiễn
Vai trò quan trọng của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
biểu hiện ở sự kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa
học. Nếu giảng dạy là quá trình truyền thụ cho người học hiểu rõ bản chất
khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng thì nghiên cứu khoa học là
mấu chốt để bổ sung, phát triển sáng tạo nền tảng tư tưởng của Đảng phù hợp
với thực tiễn hoạt động sư phạm quân sự ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội. Với tư cách là nhà khoa học về tư tưởng, lý luận, giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn luôn luôn phát huy tốt vai trò nòng cốt, làm cơ sở, nền tảng
cho các lực lượng khác trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn; qua đó
vận dụng đúng đắn, sáng tạo và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, góp
phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn vấn đề tại sao Đảng Cộng sản Việt
Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Ở các học viện, trường sĩ quan quân đội đội ngũ giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn nghiên cứu chuyên sâu về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, phát hiện luận điểm mới của lý luận, sự lạc hậu mà lý luận
chưa theo kịp thực tiễn; từ đó bổ sung, phát triển cho phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ; góp phần làm sáng tỏ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ
50
nghĩa xã hội của Việt Nam. Qua đó, giúp đỡ, định hướng cho người học và
các đối tượng khác trong việc lựa chọn thông tin, tổng hợp, khái quát, các nội
dung liên quan về lý luận chính trị; lựa chọn thông tin, kết quả nghiên cứu
mới, vận dụng vào từng bài giảng, khắc phục tình trạng lạc hậu về kiến thức
lý luận, cung cấp cho người học tri thức mới để đủ sức phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn là lực lượng
nòng cốt, trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ học viên tiếp cận phương pháp, cách
thức nghiên cứu khoa học; làm rõ hơn vị trí, vai trò của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Nếu không làm
tốt vai trò này, họ sẽ không thể đổi mới tư duy, nhận thức trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng; không thể gắn lý luận với thực tiễn, lấy lý luận để
giải đáp những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra; làm cho người học hiểu biết,
nắm chắc và có đủ kiến thức lý luận để phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Bên cạnh đó, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn luôn thể hiện rõ
vai trò nòng cốt, giúp các lực lượng khác ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội cùng tham gia nghiên cứu khoa học; qua đó vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; cùng với các nhà khoa học
khác, họ cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn, tham mưu, đề xuất cho Quân ủy
Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là đảng ủy, ban giám đốc các học viện,
trường sĩ quan quân đội những luận cứ khoa học, những nội dung, biện pháp,
cách thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng mà trực tiếp là bảo vệ chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với tình hình mới.
Thứ ba, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn là lực lượng chủ
công, xung kích ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và công nghệ
thông tin, mạng xã hội phát triển ngày càng mạnh mẽ, các thế lực thù địch
51
đang tăng cường móc nối, cấu kết với những phần tử cơ hội chính trị, ra sức
xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng tung ra nhiều luận
điệu xuyên tạc hết sức tinh vi, xảo trá hòng làm lung lay nhận thức, tư tưởng,
niềm tin của quần chúng nhân dân vào nền tảng tư tưởng của Đảng, vào sự lãnh
đạo của Đảng. Trước đòi hỏi đó của thực tiễn, cần nhận diện rõ, bản chất, âm
mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và đề cao vai trò của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội, họ là lực lượng chủ công, xung kích đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bằng nhiều hình thức khác nhau,
họ có đủ trình độ, tri thức lý luận, kinh nghiệm thực tiễn để nghiên cứu chỉ ra sự
phi lý của những luận điệu sai trái, phủ nhận, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của
Đảng. Đồng thời, khẳng định bản chất nền tảng tư tưởng của Đảng là hệ thống
tri thức thuộc ngành khoa học xã hội và nhân văn. Vì thế, nó mang đặc trưng của
phủ định biện chứng. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn là lực lượng xung
kích đi đầu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng
xã hội, phương tiện truyền thông, blog cá nhân, Internet …, thông qua các bài
giảng, từng buổi xemina, sinh hoạt học thuật, qua từng sản phẩm khoa học. Bên
cạnh đó, họ người là sĩ quan quân đội, thực hiện tốt chức năng “là đội quân công
tác”, hoàn thành tốt nhiệm vụ đấu tranh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
Với vai trò đó, họ luôn đi đầu trong tuyên truyền, giáo dục, vận động
cán bộ, đảng viên, học viên và quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội có nhiều tổ chức, lực lượng tham gia; với vị
trí, vai trò của mình, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn đã khẳng định
được họ là lực lượng chủ công, xung kích, thường xuyên phối hợp chặt chẽ
với các lực lượng khác, nhất là đội ngũ cán bộ chính trị, cán bộ quân sự, cán
bộ nghiên cứu, phóng viên báo chí trong và ngoài quân đội trực tiếp đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần làm tốt nhiệm vụ bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng.
52
2.1.3. Quan niệm phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, phát huy là: “làm cho cái hay, cái tốt
được nảy nở, nhân lên, ảnh hưởng ngày càng lớn hơn trong môi trường”
[131, tr. 742]. Như vậy, phát huy là sự tác động của các chủ thể làm cho cái
hay, cái tốt được phát triển, tăng cường, lan tỏa, có chất lượng, hiệu quả. Điều
kiện để phát huy là phải có chủ thể cụ thể, có một tiền đề nhất định nào đó,
xuất hiện sự tác động của chủ thể. Đặc trưng cơ bản của phát huy là sự gia
tăng, nảy nở, lan tỏa cái hay, cái tốt, tạo ra sự lớn lên so với cái hiện có dưới
tác động, chuyển hóa của chủ thể.
Theo đó, có thể quan niệm: Phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng là tổng hợp các cách thức, biện pháp tác động của các chủ
thể làm cho vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn được khơi dậy,
lan tỏa và gia tăng trong quá trình bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Mục đích phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhằm giữ vững, bồi đắp, khơi dậy, phát
triển, lan tỏa chức năng, tác dụng của họ trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và
đấu tranh tư tưởng, lý luận; qua đó, tiếp tục khẳng định bản chất khoa học, cách
mạng nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền
tảng tư tưởng của Đảng; trên cơ sở vận dụng đúng đắn, sáng tạo trong thực tiễn để
đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch đạt mục tiêu, hiệu quả đã xác định.
Mục đích xuyên suốt, cao nhất của bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là không
ngừng làm gia tăng động lực cho giảng viên, giúp họ thẩm thấu vào nhận thức,
thái độ, trách nhiệm và trở thành ý chí quyết tâm bảo vệ vững chắc nền tảng tư
tưởng của Đảng trong điều kiện mới, có chất lượng, hiệu quả ngày càng cao.
53
Chủ thể phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo là Quân
ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị; trực tiếp là đảng ủy, ban
giám đốc (ban giám hiệu), cấp ủy, tổ chức đảng các khoa giáo viên ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội. Chủ thể hướng dẫn, tổ chức thực hiện là các cơ
quan chính trị và ban chỉ đạo 35 các cấp.
Các chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn có vai trò quyết định trong
việc đề ra chủ trương, biện pháp, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ; xác lập
kế hoạch, tổ chức quản lý, điều hành toàn bộ hoạt động phát huy vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, bảo đảm thống nhất, hiệu quả giữa các khâu, các bước, tạo thành sức
mạnh thúc đẩy, phát triển quá trình phát huy vai trò của đội ngũ này trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong quan hệ với giảng viên, các chủ thể có
chức năng, nhiệm vụ riêng, vừa trực tiếp tham gia bảo vệ, vừa tổ chức phát
huy các lực lượng tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đồng thời,
các chủ thể trên có vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng, quản lý, tạo môi
trường, bồi dưỡng khả năng, đánh giá, kiểm duyệt, kiểm soát số lượng, chất
lượng, hiệu quả phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Chủ thể trực tiếp thực hiện bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là đội
ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội. Họ vừa là chủ thể chịu sự tác động vừa là chủ thể thực hiện phát
huy vai trò của chính mình. Do đó, trình độ, mức độ phát huy phụ thuộc vào
vai trò năng động, tính tích cực, tính độc lập, sáng tạo trong tiếp nhận xử lý sự
tác động; qua đó, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình này;
biến quá trình phát huy thành quá trình tự phát huy vai trò giảng viên trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong quá trình phát huy, họ vừa đối
tượng trực tiếp nhận những tác động của các chủ thể khác, vừa là chủ thể tự
54
tiếp nhận và chuyển hóa những tác động đó thành động lực bên trong thúc
đẩy, gia tăng, lan tỏa vai trò của mình trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng lên tầm cao mới. Việc tiếp nhận có chọn lọc, mang tính sáng tạo sẽ bảo
đảm cho quá trình phát huy thực sự là quá trình tự thân và mang đậm tính
chuyên biệt, của mỗi giảng viên.
Nội dung phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
thể hiện qua các điểm sau đây.
Thứ nhất, khơi dậy và gia tăng vai trò chủ yếu, trực tiếp trong truyền
thụ, khẳng định bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng
cho người học
Sự chuyển biến tích cực vai trò chủ yếu, trực tiếp trong truyền bá giá trị
bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng cho giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn có sự tác động từ các chủ thể để chuyển hóa
thành các yếu tố bên trong của đội ngũ này. Tác động từ các chủ thể vừa có
tính bắt buộc, vừa có yếu tố động viên, khuyến khích.
Đối với giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng nếu tuân thủ đúng cách thức, lộ trình phù hợp thì động lực cho
phát huy của giảng viên càng lớn. Tiếp nhận sự tác động trên, mỗi giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn tự chuyển hóa thành nhận thức, động cơ, trách
nhiệm trong giảng dạy, tiếp tục khẳng định, truyền bá bản chất khoa học, cách
mạng nền tảng tư tưởng của Đảng đến người học. Biểu hiện của sự khơi dậy,
gia tăng thấy rõ ở mục đích, nội dung và hình thức truyền bá. Từ nhận thức tốt,
dưới sự tác động của các chủ thể, làm cho thái độ, động cơ, trách nhiệm của
giảng viên được nâng lên. Truyền bá, khẳng định bản chất khoa học, cách
mạng nền tảng tư tưởng của Đảng được lồng ghép, đan xen trong các hoạt động
giảng dạy, nghiên cứu khoa học… Mục đích làm cho thế giới quan, phương
pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
55
Minh được lan tỏa trong thực tiễn. Người học hiểu rõ hơn những giá trị và sức
sống nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong thực tiễn, sự chuyển hóa này thể hiện
ở giảng viên khoa học xã hội và nhân văn là sự nhận thức đúng đắn, truyền đạt
cho người học những giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh vào từng chuyên đề, bài giảng, từng nguyên lý, phạm
trù, quy luật, v.v., đồng thời thấm sâu vào học viên, tạo ra những bước chuyển
biến về tri thức, thái độ, động cơ, ý chí quyết tâm phấn đấu đối với học viên.
Giữa nhận thức và thái độ, động cơ, đến trách nhiệm luôn có khoảng
cách nhất định. Không phải cứ nhận thức được là có thái độ, động cơ, trách
nhiệm ngay. Điều đó đòi hỏi phải có sự tác động từ các chủ thể, để hoạt động
này thực sự đạt chất lượng, hiệu quả, lan tỏa được đến người học. Quá trình
chuyển hóa này luôn bao hàm nội dung giải quyết mâu thuẫn bên trong; giữa
sự hiểu biết, nhận thức đúng với những trở lực, cản lực khó khăn phải vượt
qua trong hình thành, củng cố thái độ, động cơ, ý chí, trách nhiệm của giảng
viên. Khi giải quyết tốt mâu thuẫn này, các chủ thể sẽ làm cho vai trò chủ yếu,
trực tiếp của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn phát huy sức mạnh
tuyên truyền, truyền bá bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của
Đảng trong thực tiễn.
Thứ hai, khẳng định và lan tỏa vai trò nòng cốt tham gia nghiên cứu,
bổ sung, vận dụng và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong thực tiễn
Cùng với giảng dạy, nghiên cứu khoa học là là một trong hai nhiệm vụ
chủ yếu của giảng viên; nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra tri thức mới, vận
dụng đúng đắn, sáng tạo nền tảng tư tưởng của Đảng trong thực tiễn. Qua hoạt
động nghiên cứu của các chủ thể, với những cách thức, biện pháp tác động một
cách khoa học, tích cực và chủ động, khơi dậy, nhân lên và lan tỏa vai trò nòng
cốt của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bổ sung, phát triển sáng
tạo nền tảng tư tưởng của Đảng. Do vậy, mỗi giảng viên khi có nhận thức tốt,
thái độ nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học sẽ hình thành động cơ đúng và ý
56
chí cao trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nhận thức được vai trò của
mình, nhưng không có ý chí vươn lên để vượt qua được sức ỳ của trạng thái
tâm lý, sự e dè sẽ làm mất động lực trong quá trình nghiên cứu, phát triển sáng
tạo nền tảng tư tưởng của Đảng. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn cần
tìm thấy niềm tin, sự hăng say, nhiệt tình trong quá trình nghiên cứu bổ sung,
phát triển sáng tạo nền tảng tư tưởng của Đảng. Biểu hiện cụ thể của việc giải
quyết mâu thuẫn này là sự trăn trở, đào sâu suy nghĩ, tìm tòi, nắm bắt những
thông tin, cập nhật các văn kiện, nghị quyết của Đảng, từ thực tiễn hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch; tích cực dung nạp vấn đề đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch vào trong từng công trình khoa học.
Trên cơ sở nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được giao, mỗi giảng viên tự
phấn đấu khắc phục khó khăn, phấn đấu vượt chỉ tiêu về số lượng, nâng cao
chất lượng, đồng thời xã hội hóa các sản phẩm nghiên cứu một cách sâu rộng là
một trong yếu tố cấu thành nội hàm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Số
lượng, chất lượng và sự xã hội hóa, hiện đại hóa, chuẩn hóa các sản phẩm khoa
học càng gia tăng thì hiệu quả phát huy vai trò càng lớn. Ở phương diện này,
phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn gắn liền với sự
đấu tranh với chính bản thân họ; đó là quá trình vượt qua những biểu hiện của
sức ỳ, sự thơ ơ, thiếu trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học, trong kết quả
từng sản phẩm khoa học.
Theo đó, qua thực tiễn nghiên cứu khoa học, giảng viên tiếp tục làm rõ
hơn, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm về phép biện chứng duy vật, sự
vận động, phát triển của xã hội loài người, quan niệm duy vật về lịch sử của
Mác - Lênin; quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện
đại và của xã hội tư sản do phương thức đó sinh ra. Làm sáng rõ học thuyết về
chủ nghĩa xã hội khoa học; lý giải sự vận động, phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn còn nguyên giá trị trong giai
đoạn cách mạng hiện nay; luận giải những giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
57
Minh, trên ở góc độ tư duy khoa học, phù hợp với tình hình mới, điều kiện
mới và thực tiễn đang diễn ra. Tạo động lực, thúc đẩy sự chuyển biến tích cực,
lan tỏa vai trò nòng cốt của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong nghiên cứu khoa học. Qua đó, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn
hoạt động sư phạm một cách hiệu quả. Tiếp tục gia tăng, phát huy sức sáng tạo
của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong tổng kết những vấn đề lý luận,
thực tiễn; gắn với việc tìm ra những mâu thuẫn nội tại, những vấn đề lý luận
chưa theo kịp với thực tiễn để lý giải một cách hợp lý nhất. Những sản phẩm
khoa học, những luận cứ đấu tranh của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
cung cấp cho lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội và Quân
ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng làm cơ sở lý luận quan trọng để lãnh đạo, chỉ
đạo, xây dựng cơ quan, đơn vị trong tình hình mới.
Thứ ba, phát huy vai trò chủ công, xung kích của giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Thực chất đây là những tác động hợp quy luật của các chủ thể nhằm
khơi dậy, gia tăng và lan tỏa vai trò chủ công, xung kích của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn vào các quan điểm sai trái, thù địch. Hiện nay, các thế
lực thù địch đang ra sức xuyên tạc lý luận mácxít, chống phá Đảng, phủ nhận
vai trò nền tảng tư tưởng của Đảng. Để đạt được mục tiêu đó, chúng sử dụng
các thủ đoạn vô cùng tinh vi, xảo quyệt, thậm chí cả mua chuộc, răn đe, đe
dọa bằng các hành vi bạo lực. Kết quả là hướng lái đất nước ta theo hệ tư
tưởng tư sản, theo chủ nghĩa tư bản. Lợi dụng Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, các thế lực thù địch sử dụng những âm mưu, thủ đoạn
tinh vi nhằm che giấu bản chất phản khoa học, phản động, phản cách mạng,
làm cho chúng ta khó nhận biết đâu là “địch”, đâu là ta. Điều đó làm cho cuộc
đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên khó khăn, phức tạp hơn.
58
Ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn là người thẩm thấu các nguyên lý, quy luật, phạm trù của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt vận dụng linh
hoạt, sáng tạo chủ trương, đương lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, gắn tính chiến đấu trong từng bài giảng, từng sản phẩm khoa học. Qua
đó, chuyển hóa vào người học, tạo ra sự chuyển biến về nhận thức lý luận,
thái độ, động cơ, trách nhiệm trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Như vậy, “cái cốt vật chất” để
nắm và hiểu rõ bản chất khoa học, cách mạng và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã có; quan trọng là các chủ thể tác động,
chuyển hóa nó như thế nào để thông qua đó, gia tăng, phát thuy được vai trò
của họ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Quá trình tác động của các
chủ thể, từng bước giải quyết các mâu thuẫn bên trong; giữa nhận thức tốt, tư
duy sắc sảo với biểu hiện chưa năng nổ, tích cực trong đấu tranh; mâu thuẫn
giữa đòi hỏi cao về bản lĩnh chính trị, kỹ năng đấu tranh với trách nhiệm trong
tự học, tự rèn của chính bản thân mỗi giảng viên…
Hiện nay, để giải quyết các mâu thuẫn ấy, đòi hỏi mỗi giảng viên nâng
cao hơn nữa ý thức, tự gia tăng trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ đấu
tranh, vạch trần những quan điểm sai trái, chỉ ra những khía cạnh phản khoa
học, phản động, xuyên tạc, phá hoại chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Qua quá trình giải quyết các mâu thuẫn, giảng
viên tự hình thành cho mình phương pháp đấu tranh một cách khoa học.
Những tác động của các chủ thể được tuân thủ theo một cách thức, lộ trình khoa
học, phù hợp với nhu cầu của giảng viên và người học thì động lực phát huy, sự
phát triển, lan tỏa phương pháp, cách thức, kỹ năng đấu tranh của họ càng lớn;
nhận thức đối với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng càng cao; khẳng
định rõ hơn giảng viên khoa học xã hội và nhân văn luôn là lực lượng nòng cốt
trong đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
59
Phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là quá
trình các chủ thể sử dụng tổng hợp các phương thức tác động, trên cơ sở nhận
thức rõ và hành động theo một hệ thống quy luật khách quan đó là quy luật về
mối liên hệ biện chứng giữa nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể; giữa chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng với khả năng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng;
giữa môi trường dân chủ và chưa dân chủ và giữa điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn. Phát huy vai trò
của đội ngũ này trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là quá trình phát triển
từ thấp lên cao gắn với tinh thần cốt lõi là sự chuyển hóa từ yêu cầu khách quan
thành nhân tố chủ quan bên trong; từ tính chất có tính hành chính, chỉ tiêu đánh
giá đến sự say mê có tính chuyên môn, chuyên sâu nghề nghiệp của chính giảng
viên. Mỗi bước, mỗi khâu thực chất là giải quyết các mâu thuẫn một cách liên
tục, hướng đến gia tăng nhận thức, trách nhiệm tự ý thức của giảng viên. Quá
trình phát huy chỉ đạt hiệu quả khi có sự tác động của các chủ thể khách quan
nhưng cơ bản nhất vẫn là nhân tố chủ quan, tự giác của chính giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn.
Phương thức phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng là tổng thể các hoạt động chủ động, tích cực của các chủ thể trên cơ
sở khơi dậy, lan tỏa, phát triển vai trò giảng viên với những cách thức, biện
pháp tác động một cách khoa học, được hiện thực hóa trong thực tiễn; thể
hiện vai trò giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng một cách tích cực, tự giác, năng động, sáng tạo; đồng thời
hạn chế những nhân tố cản trở, trở lực việc phát huy, nhằm đạt được chất
lượng, hiệu quả cao nhất. Phương thức phát huy vai trò giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư
60
tưởng của Đảng rất phong phú, đa dạng; được thực hiện qua hoạt động lãnh đạo,
chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp; qua hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức cách mạng cho giảng viên. Qua việc tổ chức các hoạt động thực
tiễn, như tạo môi trường dân chủ, bảo đảm cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện
kỹ thuật để phát huy vai trò của họ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng. Đây là hình thức, biện pháp đặc biệt quan trọng, trực tiếp
quyết định kết quả phát huy. Vai trò của giảng viên sẽ không được phát huy
nếu thiếu đi hoạt động tích cực, tự giác, sáng tạo của chính họ. Qua các hoạt
động tự phát huy, họ tự xem xét, đánh giá ưu điểm, hạn chế của bản thân trong
thực hiện nhiệm vụ. Trên cơ sở đó, điều chỉnh để phát huy vai trò của chính
mình trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phù hợp, hiệu quả.
Như vậy, phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
chính là quá trình các chủ thể sử dụng tổng hợp các phương thức tác động, trên
cơ sở nhận thức rõ và hành động theo một hệ thống quy luật khách quan đang
chi phối quá trình này. Hệ thống quy luật ấy chính là quy luật về mối liên hệ
biện chứng giữa nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể; giữa chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng với khả năng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; giữa môi
trường dân chủ và chưa dân chủ và giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn. Từ đó, có thể lôgíc hóa phát
huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng như một quá trình phát triển từ thấp lên cao gắn với tinh
thần cốt lõi là sự chuyển hóa từ yêu cầu khách quan thành nhân tố chủ quan
bên trong; từ tính chất có tính hành chính, chỉ tiêu đánh giá đến sự say mê có
61
tính chuyên môn, chuyên sâu nghề nghiệp của chính giảng viên. Mỗi bước,
mỗi khâu thực chất là giải quyết các mâu thuẫn một cách liên tục, hướng đến
gia tăng nhận thức, trách nhiệm đến tự ý thức của giảng viên. Mặc dù quá
trình phát huy này có sự tác động của các chủ thể, là khách quan nhưng cơ
bản nhất vẫn là yếu tố chủ quan, tự giác, bên trong của chính giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn.
2.2. Những nhân tố cơ bản quy định phát huy vai trò của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
2.2.1. Nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy, các cơ quan chức
năng đối với phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chịu
sự quy định bởi nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy, cac cơ quan
chức năng. Đây là nhân tố chủ đạo, giữ vai trò quan trọng hàng đầu; quyết
định hiệu quả việc phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chỉ có nhận thức đúng, trách
nhiệm cao của các chủ thể này, thì mới khơi dậy, nhân lên và lan tỏa được vai
trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng; từ đó, mới bảo đảm cho nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng được tiến hành một cách chủ động, tích cực và chất lượng, khắc
phục được những khó khăn, vướng mắc đang diễn ra trong thực tiễn.
Về nhận thức, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là hoạt động phức tạp
và nhạy cảm. Việc phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo và có hiệu
quả của lãnh đạo, chỉ huy, các cơ quan chức năng đối với phát huy vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
62
đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vừa là khoa học, vừa là một
“nghệ thuật”, đòi hỏi phải được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ
trên cơ sở sự nhận thức đầy đủ, sâu sắc của mọi tổ chức, lực lượng, trước hết
là cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo và chỉ huy các cấp.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp từ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc
phòng, Tổng cục Chính trị đến lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan,
các khoa giáo viên, tổ bộ môn quy định hiệu quả việc phát huy vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Biểu hiện đó được thể hiện thông qua chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng
về công tác nhà trường quân đội; thông qua hệ thống điều lệ công tác khoa
học và công nghệ, hệ thống tổ chức quản lý khoa học xã hội và nhân văn
trong quân đội nhằm bảo đảm cho giảng viên thực hiện tốt nhất vai trò của
mình, đúng định hướng, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.
Biểu hiện thông qua hệ thống các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về đấu tranh tư
tưởng, lý luận nói chung và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói riêng.
Thể hiện rõ ở sự tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng; qua
đó, làm cho mỗi tổ chức, mỗi lực lượng và bản thân giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn nhận thức rõ hơn mục tiêu, nội dung, tính chất, nhiệm vụ bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Nhận thức của lãnh đạo,
chỉ huy, các cơ quan chức năng đối với phát huy vai trò của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được biểu
hiện ở việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa giảng dạy, nghiên cứu
khoa học với đấu tranh. Tuy giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh
phản bác quan điểm sai trái, thù địch là hai lĩnh vực hoạt động có nội dung,
hình thức, biện pháp và quy luật vận động không giống nhau, nhưng đều có
chung mục tiêu là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nếu lãnh đạo, chỉ huy,
63
các cơ quan chức năng không nắm chắc, vận dụng quy luật tác động của hai
nhiệm vụ này, sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình phát huy vai trò của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Giảng dạy, nghiên cứu khoa học có kết hợp chặt chẽ với đấu tranh phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch mới nhìn thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu;
mới bổ sung kịp thời những nội dung, hình thức, phương pháp nghiên cứu
tiếp cận phù hợp qua đó thúc đẩy hơn nữa vai trò của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Kết hợp chặt chẽ,
hài hòa giữa giảng dạy, nghiên khoa học với đấu tranh, chính là một trong
những phương thức hữu hiệu và thiết thực để bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Muốn vậy, phải nâng cao nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy, các cơ quan
chức năng về phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Về trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp được thể hiện ở vai trò
lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng các cấp. Đảng thống nhất lãnh đạo công
tác tư tưởng, lý luận và đấu tranh tư tưởng, lý luận. Do vậy, hoạt động phát
huy vai trò và phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng tất yếu phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng các cấp, là
trách nhiệm, nhiệm vụ tổ chức đảng. Để hoạt động này có chất lượng và hiệu
quả cao, cấp ủy, tổ chức đảng ở các học viện, trường sĩ quan (cao nhất là đảng
ủy, ban giám đốc ban giám hiệu), trực tiếp, chủ yếu là cấp ủy, chỉ huy các
khoa giáo viên thường xuyên quán triệt các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, kế hoạch, hướng dẫn của
Tổng cục Chính trị về nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Từ đó,
xác định chủ trương, biện pháp phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn phù hợp, sát thực; trong đó, cần xác định rõ vai trò, vị trí của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong thực hiện nhiệm vụ này.
64
Trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy, các cơ quan chức năng quy định việc
phát huy vai trò của đội ngũ này trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được
biểu hiện thông qua sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ huy, tạo điều kiện về mọi mặt
cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đảm bảo
cho họ có môi trường, điều kiện tốt nhất để giảng dạy, nghiên cứu khoa học, vận
dụng đúng đắn, sáng tạo nền tảng tư tưởng của Đảng trong thực tiễn. Sự quy
định ấy thể hiện qua những định hướng chỉ đạo, đấu tranh phản bác quan điểm
sai trái, thù địch. Thể hiện ở việc chủ động dự báo, nắm bắt, theo dõi, kịp thời
phát hiện những quan điểm sai trái, thù địch, những tư tưởng lệch lạc, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ở các cơ quan, đơn vị;
tổng hợp, phân tích, cung cấp những thông tin cần thiết, kịp thời, cho giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn làm tư liệu, trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học.
Đây là cơ sở giúp giảng viên có phương hướng rõ ràng để thực hiện
nhiệm vụ; là cơ sở, luận điểm, luận cứ quan trọng để họ đưa vào bài giảng,
truyền thụ trực tiếp cho người học, thông qua hoạt động giảng dạy, nghiên
cứu khoa học, các bài viết đấu tranh, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Trên cơ sở những định hướng, có sự lãnh đạo, chỉ đạo, giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn cần lựa chọn nội dung đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch, phù hợp với từng chủ đề, chuyên đề giảng dạy, công
trình khoa học; những vấn đề nhạy cảm về chính trị cần phải được thông qua
sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy cơ sở; phải hết sức thận trọng, bảo
đảm chặt chẽ về quan điểm chính trị, gắn với thực tiễn hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu khoa học, xây dựng khoa và các bộ môn.
Quy định về nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy, các cơ quan
chức năng đối với phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng diễn ra theo hai chiều hướng.
Nếu lãnh đạo, chỉ huy, các cơ quan chức năng có nhận thức đúng, trách
65
nhiệm cao, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, phù hợp thì vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng được phát huy có hiệu quả trong hoạt động sư phạm; việc
truyền bá, bản chất khoa học cách mạng, nghiên cứu, phát triển sáng tạo
nền tảng tư tưởng của Đảng được nâng lên.
Ngược lại, nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy, các cơ quan
chức năng chưa tương xứng với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
tất yếu giảng viên khoa học xã hội và nhân văn thiếu hệ thống tri thức, tư duy
khoa học, yếu về nhận thức, thái độ, thiếu bản lĩnh chính trị, phẩm chất năng
lực, kém về kỹ năng đấu tranh dẫn đến việc phát huy vai trò của họ trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng sẽ yếu kém, chất lượng, hiệu quả không cao.
2.2.2. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội
Đây là nhân tố quy định trực tiếp hiệu quả phát huy vai trò của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nếu như “đào tạo” được hiểu là
một quá trình dài, khép kín nhằm trang bị và xây dựng cho người học các tố
chất mà trước đó giảng viên khoa học xã hội và nhân văn đó không có; thì
“bồi dưỡng” được coi là một giai đoạn ngắn, bổ trợ nhằm bổ sung thêm, làm
tốt thêm và nâng cao hơn các tố chất vốn đã có sẵn của đội ngũ này. Tính quy
định của chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường
sĩ quan quân đội được thể hiện ở một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, chất lượng đào tạo giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội
Chất lượng đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định kết quả của
người học; chất lượng đào tạo tốt của các học viện, trường sĩ quan quân đội sẽ
66
cho ra sản phẩm là những giảng viên ưu tú. Đào tạo giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là một quá trình dài,
bao gồm các yếu tố tác động biện chứng, làm cho họ có được những phẩm
chất, năng lực và tâm thế cần thiết; trang bị cho họ kiến thức chuyên môn, kỹ
năng, kỹ xảo, làm tăng thêm tình cảm nghề nghiệp để họ có tâm huyết, nhiệt
tình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đây là quá trình chuyển hóa có hệ
thống, có phương pháp những tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo nghề
nghiệp chuyên môn của người thầy cho người học, dần hình thành nên giá trị
của người giảng viên khoa học xã hội và nhân văn.
Công tác tuyển chọn nguồn đầu vào đối với học viên đào tạo giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn và nguồn đầu vào đào tạo sau đại học là yếu tố
cần thiết để có chất lượng đội ngũ tốt. Đây là bước khởi đầu nhằm xây dựng
nền móng, xây dựng đội ngũ đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, có tri thức, có
bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, có năng lực đấu tranh; sẵn sàng nhận
và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; là một trong những khâu quan trọng
nhất. Chất lượng tuyển chọn đầu vào như thế nào sẽ quy định chất lượng đầu
ra. Tuyển chọn đầu vào có chất lượng tốt, có tiêu chí tuyển chọn rõ ràng, bước
đầu sẽ có số lượng học viên có trình độ, tiếp cận với các kiến thức về chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thuận lợi hơn; về lâu dài sẽ đào tạo
ra được một đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có đủ phẩm chất,
năng lực; khẳng định được vai trò quan trọng trong truyền bá, nghiên cứu,
vậng dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.
Ngược lại, nếu trong quá trình tuyển chọn đầu vào chưa tốt, sẽ ảnh
hưởng không tốt đến sản phẩm đầu ra. Trong quá trình đào tạo, giảng viên là
nhân tố quyết định chất lượng đào tạo; bởi họ giữ vai trò chủ yếu, trực tiếp,
trong giảng dạy, là người tổ chức, thực hiện hoạt động đào tạo và điều khiển,
67
kích thích hoạt động nhận thức tích cực của người học. Điều đó tất yếu dẫn
đến chất lượng đội ngũ giảng viên trực tiếp quy định chất lượng đào tạo của
nhà trường. Nếu có sản phẩm đầu vào tốt, người dạy có năng lực tốt thì sản
phẩm đào tạo của họ sẽ đạt được yêu cầu như mong muốn.
Trong đào tạo cần trang bị cho giảng viên trong tương lai có phẩm chất
đạo đức, năng lực, trí tuệ, kiến thức đa ngành, đặc biệt là nắm vững những tri
thức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; có năng lực,
kỹ năng đấu tranh, phê phán những quan điểm sai trái, thù địch. Điều đó,
không chỉ là trang bị, nâng cao cho người học tri thức, khả năng tư duy khoa
học, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm, mà còn trang bị cho
người học kỹ năng đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trong thực
tiễn, thông qua từng bài giảng, từng sản phẩm khoa học.
Nội dung, chương trình đào tạo quy định phát huy vai trò của đội ngũ
này trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng biểu hiện cụ thể ở việc đổi mới
nội dung, chương trình đào tạo, phù hợp với sự phát triển của thực tiễn; bảo
đảm tính đảng, tính khoa học, tính giáo dục sâu sắc; phương pháp đào tạo tiên
tiến, sẽ mang lại kết quả cao, chất lượng đội ngũ giảng viên tốt. Đồng thời,
người học sẽ có được hệ thống tri thức toàn diện, sâu sắc, trong đó có hệ
thống tri thức khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cao hơn là sự
chuyển hóa những tri thức ấy thành bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực,
kỹ năng đấu tranh trong thực tiễn từ đó, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng mang lại kết quả tốt nhất.
Hai là, chất lượng bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội
Chất lượng bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong quá trình công tác quyết định trực tiếp hệ thống tri thức của giảng viên
68
khoa học xã hội và nhân văn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát huy
vai trò của họ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Hoạt động bồi dưỡng
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội là quá trình giúp cho đội ngũ này hiểu rõ, nắm chắc hơn bản chất khoa
học, cách mạng, giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại và sức sống của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó, vận dụng đúng đắn, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn giảng
dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội.
Hàng năm, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị xây dựng kế
hoạch, tổ chức bồi dưỡng lý luận, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, sĩ quan
trong toàn quân ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Đây là việc làm
thường xuyên, bắt buộc của các chủ thể phải nâng cao chất lượng, giáo dục,
đào tạo. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn là đối tượng quan trọng, cần
thiết cần được bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn nói chung và bồi dưỡng lý
luận nói riêng hằng năm nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ. Bồi dưỡng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm bổ sung, phát triển tư duy,
nhận thức, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực, kỹ năng đấu
tranh, củng cố tri thức, khẳng định bản chất khoa học, cách mạng, giá trị lịch
sử, ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trước sự tác động của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẳng định thế giới quan khoa học, phương
pháp luận biện chứng duy vật, ý nghĩa trong nhận thức và cải tạo hiện thực;
chứng minh tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong điều kiện mới hiện nay. Về điều này, V.I. Lênin khẳng định “Phép biện
chứng duy vật đã cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân
những công cụ nhận thức vĩ đại” [74, tr. 54].
69
Do đó, nhận thức đúng và đề cao trách nhiệm của các chủ thể trong bồi
dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quy định hiệu quả phát
huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng. Bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, nhận thức và trách
nhiệm cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội. Qua bồi dưỡng, rèn luyện, xây dựng đội ngũ giảng viên có đủ
phẩm chất đạo đức, năng lực để tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Hoạt động này được tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài, phù hợp sẽ làm
cho vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng ngày càng được phát huy hiệu quả.
Ngược lại, nếu giải quyết mối quan hệ giữa nội dung, hình thức bồi
dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không tốt, thiếu toàn
diện, hoặc quá thiên lệch về một yếu tố nào đó hoặc cứng nhắc, tách biệt các
nội dung, thiếu tính đồng bộ, không hợp quy luật thì trình độ, năng lực của
người giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội sẽ không được nâng lên; tất yếu hiệu quả phát huy vai trò của họ
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng sẽ không đạt được như mong muốn.
2.2.3. Môi trường sư phạm ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Môi trường sư phạm ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là nhân tố
thường xuyên, quan trọng quy định hiệu quả phát huy vai trò của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn, trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội.
Thứ nhất, môi trường dân chủ trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và
đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch
Môi trường sư phạm ở các học viện, trường sĩ quan quân đội không chỉ
là nơi giảng viên khoa học xã hội và nhân văn công tác, học tập và rèn luyện
70
mà còn là nơi họ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học,
đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Ở đó, dân chủ là môi trường
có ý nghĩa quyết định hiệu quả phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Hồ Chí Minh
khẳng định: “Trong trường, cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò
cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông
suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải
quý trò, chứ không phải là cá đối bằng đầu” [94, tr. 266].
Môi trường dân chủ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là môi
trường sư phạm ảnh hưởng tích cực đến quá trình phát huy vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Môi trường dân chủ tạo nhu cầu và điều kiện thuận lợi để phát huy
tính tích cực và tiềm năng sáng tạo của đội ngũ này trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng. Đó là nơi có bầu không khí lao động khoa học lành
mạnh, tôn trọng và tin cậy lẫn nhau, đoàn kết, thân ái, hợp tác, tương trợ
giúp đỡ nhau, có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, động viên, ủng hộ thường
xuyên của cán bộ các cấp và đồng nghiệp cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Môi trường dân chủ là nơi tạo ra bầu không khí say mê giảng
dạy, học tập, nghiên cứu khoa học, xây dựng khoa, tổ bộ môn; mỗi giảng
viên được bày tỏ quan điểm, kết quả nghiên cứu của mình với tâm trạng
vui vẻ, dân chủ, tự do; tiếp nhận được thông tin nhiều chiều; “vừa đảm bảo
phát huy dân chủ, vừa đảm bảo tính kỷ luật trong thảo luận, phát ngôn khoa
học; những biểu hiện quy chụp, áp đặt về quan điểm chính trị, phải từng
bước được khắc phục” [106, tr. 4].
Về thực chất, đây là quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa hai mặt đối
lập ở phương diện môi trường; đó là môi trường có dân chủ và thiếu dân
chủ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nếu không có môi trường
71
dân chủ, tự do, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn sẽ thiếu yên tâm
làm việc, có khi chán nản, dễ dẫn đến suy nghĩ tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”. Khi giải quyết mâu thuẫn này không theo hướng phát triển sẽ
không chuyển hóa, khơi dậy ở giảng viên trí tuệ, tài đức, lòng nhiệt tình,
tinh thần trách nhiệm, lòng say mê nghề nghiệp, tất yếu sẽ ảnh hưởng lớn
đến chất lượng, hiệu quả bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Ngược lại, ở
học viện, trường sĩ quan quân đội nào có môi trường dân chủ tốt sẽ làm cho
giảng viên có động lực, có niềm tin và tất yếu hiệu quả phát huy vai trò của
họ trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh phản bác quan điểm
sai trái, thù địch ngày càng cao.
Thứ hai, các động lực thúc đẩy việc phát huy vai trò của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Cơ chế, chính sách và điều kiện bảo đảm về phương tiện kỹ thuật
để phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là yếu tố cơ bản, tạo động lực phát triển,
tác động mạnh mẽ giúp đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy, nghiên
cứu khoa học và đấu tranh. Bởi vì, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
thực chất là cuộc đấu tranh phi vũ trang, không có tiếng súng, rất khó
khăn, quyết liệt và phức tạp. Họ luôn phải đối mặt với những thách thức,
có cả sự hiểm nguy trước sự tấn công của các thế lực thù địch. Vì vậy, để
thúc đẩy, chuyển hóa tính tích cực, sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm của
giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; vấn đề tạo động lực
như: Cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm đối với hoạt động này là yếu
tố rất cần thiết và quan trọng.
Nếu cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm tốt, thì nó khuyến khích,
động viên giảng viên tích cực, say mê, toàn tâm, toàn ý thực hiện nhiệm vụ.
Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai bảo đảm các chế độ, chính sách đãi
72
ngộ về vật chất, tinh thần là động lực quan trọng kích thích, thúc đẩy, động
viên và khơi dậy những hành vi tiến bộ, tích cực của giảng viên. Nó không chỉ
là yếu tố tác động, ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện vai trò, mà còn là
nhân tố quyết định trực tiếp đến hiệu quả phát huy vai trò của giảng viên
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chính sách tốt sẽ tạo ra động lực tốt
để cho họ tâm huyết, nhiệt tình, trách nhiệm trong bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng. Bởi vì: “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là
động lực mạnh mẽ phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [40, tr. 79].
Cơ chế, chính sách hạn chế, bất cập, đãi ngộ không thỏa đáng với lao
động trí tuệ và những đóng góp của giảng viên trong giảng dạy, nghiên cứu
khoa học và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch dẫn đến hiệu quả
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không thu được như mong muốn; không
thu hút được “hiền tài”, mà có thể còn triệt tiêu động lực, làm cho giảng viên
không cống hiến hết toàn bộ sức lực, trí tuệ; thậm chí còn dẫn đến tình trạng
chảy máu chất xám, lãng phí tài năng. Tính quy định của cơ chế, chính sách
phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng với các cơ chế, chính sách khác
như: Chính sách pháp luật, chính sách phát triển kinh tế, chính sách xã hội,
quốc phòng, an ninh, chính sách dân tộc, tôn giáo… Do vậy, không thể đòi
hỏi chế độ, chính sách quá cao trong khi đất nước, quân đội còn nhiều khó
khăn. Điều kiện bảo đảm vật chất, phương tiện kỹ thuật, quy định hiệu quả
phát huy vai trò của họ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; là yếu tố
thường xuyên, quan trọng, không thể thiếu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
này, nó quy định chất lượng, hiệu quả, là điều kiện cơ bản để họ có thể tiếp
cận, tiếp thu và ứng dụng tri thức nhanh chóng, chính xác trong giảng dạy,
nghiên cứu khoa học và tham gia đấu tranh. Thực tế ở những học viện, trường
sĩ quan quân đội có điều kiện bảo đảm về vật chất, phương tiện kỹ thuật tốt
73
thì việc phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được thuận lợi, chất lượng, hiệu quả không
ngừng được nâng lên.
Ngược lại, nếu học viện, trường sĩ quan quân đội nào không tạo lập
được các điều kiện bảo đảm về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật; các thông
tin về hoạt động chống phá của các thế lực thù địch không được cung cấp đầy
đủ cho giảng viên kịp thời thì ở đó, dù giảng viên có trình độ học vấn cao, am
hiểu sâu, rộng về đời sống xã hội cũng không trở thành một chủ thể có kỹ
năng đấu tranh tốt, một tập thể mạnh về đấu tranh và càng không thể phát huy
có hiệu quả tài năng, sáng tạo, tâm huyết, nhiệt tình trách nhiệm của họ trong
từng bài giảng, giờ giảng, trong từng sản phẩm khoa học, mà trực tiếp là các
bài đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch góp phần bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng.
2.2.4. Nhân tố chủ quan của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một
quá trình chịu sự tác động, quy định của những điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan; trong đó, nhân tố chủ quan của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn có vai trò đặc biệt quan trọng. Nhân tố chủ quan đó bao gồm toàn bộ
phẩm chất, năng lực, trình độ, phương pháp, tác phong công tác; sự nỗ lực cố
gắng, tích cực, tự giác của đội ngũ này; được các chủ thể huy động, nhằm phát
huy hiệu quả vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, nhân
tố chủ quan chính là sức mạnh của chủ thể được huy động vào trong quá trình
nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo hiện thực khách quan, thoả mãn
nhu cầu của mình. Mọi hoạt động quản lý, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, rèn
74
luyện của các chủ thể, cùng với hoạt động tạo lập môi trường và các động lực
thúc đẩy giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng là những tác động khách quan đối với đội ngũ giảng viên.
Song, nhân tố chủ quan trong quá trình tự phát huy vai trò của họ tác động trở
lại cải biến khách quan trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo đó, tính
quy định của nhân tố chủ quan phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội
và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng được biểu hiện trên một số nội dung cơ bản sau đây.
Thứ nhất, bản lĩnh chính trị của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Bản lĩnh chính trị là điều kiện cơ bản cần phải có để mỗi giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Trong quá trình tham gia nhiệm vụ này, họ phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thử thách, thậm chí cả những nguy hiểm. Hồ Chí Minh khẳng định: “Mỗi khi
gặp tình hình mới, công tác mới phải kiên định về lập trường, sáng suốt về tư
tưởng, thống nhất về nhận thức” [93, tr. 8]. Do đó, đòi hỏi giảng viên phải có
bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định về lập trường, sáng suốt lựa chọn
đúng đắn trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Để vượt qua
khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ, đòi hỏi giảng viên
phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, lối sống trong
sáng, lành mạnh, tâm huyết với nghề, gắn bó với đơn vị, tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tự hào với
truyền thống cách mạng của dân tộc. Những hạn chế về bản lĩnh, năng lực,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống sẽ ảnh hưởng, tác động tiêu
cực đến phát huy vai trò bảo vệ nên tảng tư tưởng của Đảng và ảnh hưởng
nghiêm trọng đến thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội.
75
Đây là điểm yếu để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, tuyên
truyền, kích động, chống phá cách mạng nước ta. Những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ở một số cán bộ, giảng viên ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội trong thực tiễn cho thấy, vai trò và
tầm quan trọng của bản lĩnh chính trị của người sĩ quan nói chung và của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng.
Thứ hai, năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phụ thuộc trực tiếp vào
sự nỗ lực phấn đấu tự học tập, tự rèn luyện của mỗi giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn. Rèn luyện, nâng cao năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng cho đội ngũ giảng viên là quá trình giải quyết mối quan hệ giữa
sự tác động của chủ thể lãnh đạo, chỉ huy với nỗ lực phấn đấu của chính
họ. Đây là mối quan hệ giữa tác động khách quan với nỗ lực chủ quan diễn
ra theo cơ chế “hướng nội”; tác động làm biến đổi các quá trình nhận thức
của giảng viên. Là quá trình tự giác cao, thể hiện trình độ tự ý thức, bản
lĩnh, lý trí của đội ngũ này. Từ đó, đề ra cho giảng viên những mục tiêu
nhất định và thực hiện bằng được mục đích đó. Tính quy định bồi dưỡng
năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được biểu hiện
sự nỗ lực phấn đấu tự học tập, tự rèn luyện của đội ngũ giảng viên mức nào
thì năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng của họ được nâng cao
tương xứng ở mức độ đó, thể hiện trong cả nhận thức và hành động. Nếu
không có ý thức và hành động cụ thể trong tự học tập, tự rèn luyện thì
không thể rèn luyện, nâng cao năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đây là vấn đề có tính quy luật về chuyển hóa yêu cầu khách quan thành
76
chủ quan; chủ quan hóa cái khách quan trong quá trình rèn luyện, bồi
dưỡng năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Năng lực của người không phải hoàn toàn do tự nhiên
mà có mà một phần lớn do công tác, do tập luyện” [84, tr. 320].
Rèn luyện, bồi dưỡng, nâng cao năng lực của giảng viên trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết là tính tích cực tự học tập, tự
rèn luyện của giảng viên. Ở đây, tính “tích cực” được thể hiện ở khía
cạnh tinh thần, đó là trạng thái hăng hái, lòng nhiệt tình và ý chí phấn
đấu, quyết tâm để thúc đẩy hoạt động tự học tập, tự rèn luyện, đem lại
kết quả nhất định. Tính “tích cực” là điểm “nút” của động lực, sẽ biến
thành sức mạnh nội lực, giúp họ vượt qua những khó khăn, thách thức,
luôn chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện nâng cao trình độ tri
thức, tư duy khoa học, phẩm chất chính trị, đạo đức và kỹ năng bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng. Hoạt động sư phạm là một phương thức cơ
bản để nâng cao năng lực, là điều kiện để giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội củng cố, bổ sung, rèn
luyện năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nếu giảng viên hăng
say, nhiệt huyết trong thực tiễn thì mức độ trưởng thành về năng lực
ngày càng phát triển.
Thứ ba, kỹ năng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phụ thuộc việc bản thân giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn nắm chắc, hiểu rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch đang chống phá. Hồ Chí Minh chỉ ra: “Nguyên tắc đánh giặc là:
biết địch, biết ta, trăm trận trăm thắng” [92, tr. 387].
77
Việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, nắm chắc thông tin, dự báo đúng
tình hình, tự giác học tập, nâng cao trình độ; có biện pháp tối ưu trong giải
quyết tốt mối quan hệ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa với kiên định ý
chí tiến công là những yếu tố quy định giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hình thành và phát triển các kỹ
năng trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.
Tự bồi dưỡng, hình thành các kỹ năng đấu tranh là nhân tố quan
trọng, quy định phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Kỹ năng đấu tranh bao
gồm: Kỹ năng nắm địch, kỹ năng đọc sách, phát hiện vấn đề để đấu tranh,
kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, xử lý thông tin xấu độc; trình độ
ngoại ngữ, bút pháp, bút chiến đấu tranh phù hợp, sắc sảo để có tư duy lý
luận phù hợp, sâu sắc. Đây là những kỹ năng quan trọng mà giảng viên
cần phải rèn luyện, học tập mới có được. Các kỹ năng là chỗ dựa cho
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn nhanh chóng nhận diện những
quan điểm sai trái, thù địch đang núp bóng dưới dạng “kiến nghị”, “đề
xuất”, dưới các chiêu bài dân chủ, nhân quyền. Từ đó, tiến công, phản bác
quan điểm sai trái, thù địch, đập tan luận điệu sai trái, phản động, góp
phần bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
78
Kết luận chương 2
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một yêu cầu khách quan, đòi hỏi
các chủ thể phải có nhận thức đúng, phương pháp và cách thức phù hợp với
thực tiễn nhằm khẳng định sức sống và giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn là lực lượng nòng cốt trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Họ là chủ thể chủ yếu, trực tiếp tuyên truyền, truyền bá, bản chất khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đến người học;
trong quá trình nghiên cứu khoa học, không ngừng bổ sung, phát triển, vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn.
Mặt khác, giảng viên chính là lực lượng xung kích đi đầu trong đấu tranh
chống lại các quan điểm sai trái, thù địch một cách bài bản và trí tuệ.
Để nâng cao hiệu quả bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội tất yếu, cần thiết phải phát huy vai trò của đội
ngũ này. Việc phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng chịu sự quy định của các nhân tố cơ bản như: Nhận thức, trách nhiệm
của các chủ thể; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; môi trường sư phạm ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội và chịu sự quy định của nhân tố chủ quan của chính giảng viên trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ này.
Làm rõ lý luận cơ bản về phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là cơ sở quan trọng
để tác giả luận án đánh giá thực trạng thực hiện vai trò, đề xuất giải pháp phát
huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường
sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở hiện nay.
79
Chương 3
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
ĐỐI VỚI PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI TRONG
BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG HIỆN NAY
3.1. Thực trạng thực hiện vài trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng hiện nay
3.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân
Ưu điểm
Thứ nhất, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội cơ bản khẳng định được họ là lực lượng chủ yếu,
trực tiếp trong truyền thụ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội xác định nhiệm vụ chính trị trung tâm là giảng dạy, nghiên cứu khoa
học và đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; coi đó là nhiệm vụ
thường xuyên, cơ bản lâu dài; có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, lòng trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà
nước và nhân dân; xây dựng thế giới quan khoa học, cách mạng cho người học.
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn là lực lượng chủ yếu, trực tiếp
truyền bá bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Vai trò đó được khẳng
định trong từng bài giảng, từng sản phẩm nghiên cứu khoa học, trong các luận
điểm đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Kết quả điều tra,
khảo sát cho biết: “Có 75,26% nội dung bài giảng của bộ môn Triết học Mác -
Lênin; 73,68% nội dung bài giảng của bộ môn Kinh tế chính trị học Mác -
80
Lênin; 72,63% nội dung bài giảng môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, 74,21%
nội dung bài giảng của bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh và 72,10% nội dung
của bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, lan tỏa được
bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đến người học [Phụ lục 1].
Số lượng bài giảng của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội liên quan đến bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Nếu như năm 2017 (số
liệu ở 09 học viện, trường sĩ quan) cho thấy chỉ có 6.042 bài giảng liên quan
đến bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, thì đến năm 2021 số lượng các bài
giảng liên quan đến nội dung này đã là 6.611 bài [Phụ lục 5]. Qua đó cho
thấy, vai trò vai trò chủ yếu, trực tiếp trong thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền,
truyền thụ, khẳng định bản chất khoa học, cách mạng chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, gần như không có ai thay thế được đội ngũ này.
Chỉ tính riêng Học viện Chính trị từ năm 2019 đến năm 2020, “Học
viện đã triển khai biên soạn 14 giáo trình, 21 tài liệu dạy học, 100% các
chuyên đề được cập nhật, bổ sung các nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng; có 60 bài giảng chuyên sâu về bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh được giảng viên đăng ký giảng dạy” [8, tr. 69-70].
Học viện Quốc phòng: “Thường xuyên đưa nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng vào trong nội dung các bài giảng; đã nghiệm thu 108 tài liệu
liên quan đến giáo dục, đào tạo gắn bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh” [8, tr. 55]. Qua đó, cho thấy, vai trò quan trọng của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn trong thực hiện nhiệm vụ này. Giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn là chủ thể chủ yếu, trực tiếp ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội trong tuyên truyền, truyền thụ, khẳng định bản chất khoa học, cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó góp phần bảo
81
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy: “Có
83,15% ý kiến lãnh đạo, chỉ huy ở và trợ lý cơ quan ở đơn vị cơ sở cho rằng,
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn là lực lượng chủ yếu, trực tiếp, quyết
định đến chất lượng truyền bá bản chất khoa học, cách mạng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đến người học” [Phụ lục 2].
Bản thân những người được hỏi, cho biết sau khi học tập, về đơn vị công
tác, họ đã biết vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, trực tiếp là tính khoa học và cách mạng vào hoạt động thực tiễn hoạt
động ở các đơn vị cơ sở. Từ đó, biết luận giải những vấn đề thực tiễn đang đặt
ra một cách khoa học, đúng đắn, sáng tạo; vận dụng, giải đáp cho cán bộ,
chiến sĩ trong đơn vị hiểu rõ, biết cách đấu tranh, phản biện những quan điểm
sai trái, thù địch, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Điều đó cho thấy vai
trò chủ yếu, trực tiếp của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong việc
truyền bá bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh đã được khẳng định, đạt hiệu quả, chất lượng tốt.
Để đảm bảo cho đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn thực
hiện tốt vai trò của mình, các học viện, trường sĩ quan quân đội thường xuyên
tổ chức tập huấn, bồi dưỡng vào đầu năm học các nội dung liên quan đến giáo
dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, gắn với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng. Đánh giá hoạt động này, Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung
ương khẳng định: “Các học viện, trường sĩ quan quân đội đã nâng cao hiệu
quả hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng tương đối tốt” [5, tr. 6]. Chỉ
tính trong năm 2020, các học viện, trường sĩ quan quân đội đã “tổ chức 48 hội
nghị báo cáo viên, 02 hội nghị tuyên truyền; biên tập 112 chuyên đề thời sự,
48 tài liệu tổng hợp tin; 525.600 cuốn bản tin thông báo nội bộ; 3.200 bản tin
thông báo kết quả tham gia đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch,
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” [5, tr. 7].
82
Lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội đều nhận thức
việc nâng cao hiệu quả, tổ chức thực hiện tốt vai trò của giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có ý nghĩa thiết
thực, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học.
Nhận thức đúng về vai trò của giảng viên trong thực hiện nhiệm vụ này, chính
là tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
phấn đấu, rèn luyện, trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư
tưởng, lý luận. Lãnh đạo, chỉ huy, trực tiếp là đảng ủy, ban giám đốc (ban
giám hiệu) các học viện, trường sĩ quan quân đội có thái độ tốt, thật sự coi
trọng vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng; kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, tổ chức triển khai
thực hiện có nền nếp, phân công lực lượng một cách hợp lý trong thực hiện
nhiệm vụ. Kết quả khảo sát cho thấy, có 88,42% ý kiến được hỏi cho biết,
lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội đã có nhận thức đúng,
thái độ tốt đối với thực hiện vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng [Phụ lục 1].
Đội ngũ giảng viên khoa học xă hội và nhân văn ở các học viện, trường
sĩ quan quân đội đã thể hiện trách nhiệm trong tiếp nhận định hướng nghiên
cứu, tổ chức đánh giá các sản phẩm nghiên cứu khoa học; trong các bài viết
trên báo, tạp chí; định hướng chính trị sát đúng, trong chương trình trả lời nhận
diện sự thật, hướng vào vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.
Thứ hai, vai trò nòng cốt trong tham gia nghiên cứu, bổ sung, vận dụng
và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn ngày càng chuyển biến tích cực
Thông qua nghiên cứu khoa học giảng viên đã thực hiện tốt vai trò là
lực lượng nòng cốt cho các bộ phận khác cùng nghiên cứu, phát hiện những
83
luận điểm mới trong công tác tư tưởng, lý luận; kịp thời luận giải những
vướng mắc về lý luận từ thực tiễn đang đặt ra; qua đó, vận dụng đúng đắn,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực
hiện chức trách, nhiệm vụ của giảng viên. Vai trò nòng cốt của đội ngũ này
trong nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được khẳng định qua thực tiễn; các sản phẩm
nghiên cứu khoa học đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh
phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Học viện Quốc phòng trong năm 2020 đã: “Thông qua và nghiệm thu 18 đề
tài các cấp, 01 đề tài quốc gia, 05 đề tài cấp Bộ, 07 đề tài cấp cơ sở, 06 đề tài
cấp Học viện liên quan đến đấu tranh tư tưởng, lý luận, liên quan đến vai trò
của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng” [8, tr. 55].
Lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội thường xuyên
quan tâm tạo điều kiện cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn tham gia
nghiên cứu đề tài khoa học các cấp. Qua đó, trực tiếp vận dụng kết quả nghiên
cứu vào giảng dạy và đấu tranh tư tưởng, lý luận; khẳng định vai trò nòng cốt
của đội ngũ giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. “Học viện
Chính trị trong năm 2019 đã triển khai nghiên cứu 02 đề tài cấp Bộ Quốc
phòng, 10 đề tài cấp Tổng cục Chính trị, 23 đề tài cấp Học viện, 31 đề tài cấp
phòng, khoa, ban và hàng trăm đề tài cấp hệ; trong đó có 26 đề tài liên quan
đến vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, vận dụng, phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” [7, tr. 161].
Năm 2020 Học viện Chính trị “nghiên cứu 01 đề tài cấp Bộ Quốc
phòng, 08 đề tài cấp ngành, 47 đề tài cấp học viện, 15 sách chuyên khảo và 16
đề tài tham gia Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội; trong đó có 34 đề tài liên
quan đến vai trò của đội ngũ giảng viên trong bổ sung, vận dụng và phát triển
84
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” [8, tr. 70]. Trường Sĩ
quan Chính trị “tham gia góp ý 04 chuyên đề, biên soạn 10 chuyên đề theo chỉ
đạo của Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương; tổ chức thành công 02 hội thảo
khoa học cấp trường, 114 buổi tọa đàm khoa học, sinh hoạt học thuật cấp cơ sở
có liên quan đến vai trò và phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn trong vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh” [8, tr. 75]. Kết quả khảo sát vấn đề này cho biết: “Có 85,26%
cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và trợ lý cơ quan ở đơn vị cơ sở cho rằng giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là lực
lượng quan trọng, nòng cốt trong nghiên cứu vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh sát với thực tiễn”. [Phụ lục 2].
Từ đó cho thấy, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn không những
thể hiện năng lực lý luận khá tốt, mà còn chứng tỏ vai trò nòng cốt, nhạy bén,
ngày càng chuyển biến tích cực trong nghiên cứu lý luận, vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn. Qua
thống số liệu thống kê từ phòng (ban) khoa học quân sự ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội [Phụ lục 3], cho thấy, số lượng đề tài khoa học, giáo
trình, tài liệu dạy học của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn liên quan
đến bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, ngày càng tăng cả về số lượng và
chất lượng. Với trí tuệ, niềm tin và kinh nghiệm được tích lũy giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội đã vượt qua
những khó khăn, thử thách để vươn lên; bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định; nhiệt tình, tâm huyết trách nhiệm với Đảng, Nhà nước và nhân dân
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Kết quả đó được biểu hiện cụ thể ở
chất lượng các bài giảng, giờ giảng, chất lượng các sản phẩm nghiên cứu khoa
học. Đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn nỗ lực tự học tập, tự tu
dưỡng, rèn luyện, ngày càng hoàn thiện bản thân.
85
Thứ ba, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường
sĩ quan quân đội cơ bản đã thể hiện tốt họ là chủ thể xung kích, đi đầu trong
đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng,
Tổng cục Chính trị, trực tiếp là đảng ủy, ban giám đốc (ban giám hiệu), cơ
quan chức năng và lãnh đạo, chỉ huy các khoa giáo viên; giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn đã được quan tâm, bồi dưỡng về trách nhiệm, năng
lực và kỹ năng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Số
lượng các bài viết tham gia đấu tranh của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ngày càng tăng, chất lượng và hiệu quả hoạt động đấu tranh ngày
càng tiến bộ. Qua đó, thể hiện vai trò là chủ thể xung kích, đi đầu trong đấu
tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Số liệu điều tra xã hội học cho
thấy: “Có 66,31% ý kiến khẳng định kỹ năng đấu tranh tư tưởng, lý luận của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện ở mức tốt, vượt trội so
với các đối tượng khác” [Phụ lục 1].
Nhìn chung, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn đều có năng lực tư
duy khoa học, có định hướng hoạt động sư phạm rõ ràng, đúng quy luật nhận
thức; vận dụng tương đối thành thạo các thao tác tư duy vào xem xét, đánh
giá tình hình, đề ra phương hướng, biện pháp đấu tranh phù hợp. Biết vận
dụng kiến thức lý luận và kỹ năng đấu tranh, phê phán đúng góc độ bài giảng,
môn học sát chuyên ngành bộ môn. Trong năm 2020, Học viện Chính trị: “Có
16 đề tài đạt giải tham gia dự thi Tuổi trẻ sáng tạo toàn quân; trong đó có 03
đề tài đạt giải cao liên quan đến đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng” [8, tr. 70].
Nếu như năm 2017 (09 học viện, trường sĩ quan quân đội) chỉ có 36 bài
báo của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn được công bố trên báo, tạp chí
liên quan đến đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo
86
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thì chỉ tính đến tháng 10 năm 2021, số lượng bài
báo liên quan đến vấn đề này đã là 82 bài, gần gấp 3 lần so với năm 2017. Điều
đó cho thấy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch. Những đóng góp của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay là rất quan trọng [Phụ lục 4].
Lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội đã thường
xuyên quan tâm, tạo điều kiện, động viên giảng viên tham gia bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng. Những vấn đề nổi cộm mà các thế lực thù địch lợi dụng
chống phá đều được phân tích, chứng minh, phản biện khoa học; được lồng
ghép, đan xen tương đối linh hoạt trong từng chuyên đề, bài giảng và trong
từng sẩn phẩm khoa học. Để giúp đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn thực hiện tốt vai trò trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù
địch, các cơ quan chức năng đã quan tâm, chỉ đạo hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu khoa học của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn phù hợp với
nhiệm vụ đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.
Chỉ tính từ cuối năm 2018 đến năm 2020, ban chỉ đạo 35 cùng với
các cơ quan chức năng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội đã chỉ đạo,
hướng dẫn các khoa giáo viên và các bộ phận liên quan, xây dựng, tổ chức
nghiệm thu và triển khai sử dụng 600 ngân hàng dữ liệu thông tin (đấu
tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch), được phiên dịch sang
tiếng nước ngoài (tiếng Anh) phục vụ nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng. Trong đó “Học viện Khoa học quân sự 4 tình huống với 29 ngân
hàng dữ liệu thông tin; Trường sĩ quan thông tin xây dựng 10 video clip;
Học viện Chính trị 13 video clip; Trường Sĩ quan Chính trị 09 videoclip
xây dựng trên nền tảng 156 nguồn dữ liệu phiên dịch sang tiếng Anh, tiếng
Trung để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” [5, tr. 5].
87
Các cơ quan chức năng đã bám sát sự chỉ đạo, định hướng của trên,
tình hình thực tiễn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội; tích cực chủ động
tham mưu, đề xuất các biện pháp chỉ đạo nhằm thực hiện tốt vai trò của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
“Có 86,84% người được hỏi, cho biết các cơ quan chức năng đã có nhận thức
đúng, thái độ tốt, trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ này” [Phụ lục 1].
Vai trò xung kích trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch
được lan tỏa rộng khắp; giảng viên tham gia đấu tranh trên các phương tiện
thông tin đại chúng như: Chương trình “Đối diện” được phát sóng trên VTV1,
“Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” trên VOV, “Nhận diện sự thật” trên
Kênh Quốc phòng Việt Nam; chuyên mục “Làm thất bại chiến lược “diễn biến
hòa bình” trên Báo Quân đội nhân dân; đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng trên các tạp chí trong và ngoài quân đội, v.v.. Kết quả khảo sát ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội cho thấy số lượng giảng viên tham gia đấu tranh
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên Đài phát thanh, truyền hình trung
ương và địa phương, tăng dần theo từng năm. Năm 2017 chỉ có 17 lượt giảng
viên (trong tổng số 9 học viện, nhà trường) tham gia, nhưng tính đến tháng 10
năm 2021 số lượng giảng viên tham gia đấu tranh đã 50 lượt, gấp gần 4 lần so
với năm 2017 [Phụ lục 4].
Những luận cứ đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch của giảng
viên được phân tích, lập luận, chứng minh rõ ràng, lột tả rõ bản chất, phân biệt
rõ đúng sai, thể hiện tính luận chiến, bút chiến khá sâu sắc. Qua đó, tiếp tục
khẳng định bản chất khoa học, cách mạng và sức sống của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn; vạch trần bản chất phản động,
phản khoa học, phân biệt rõ đúng sai, thể hiện tính luận chiến, bút chiến khá
sâu sắc; đập tan những âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.
88
Nguyên nhân của những ưu điểm
Thứ nhất, nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức
năng các cấp về vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ngày càng toàn diện
Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính
trị, cơ quan chức năng các cấp đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và
khẳng định: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và
thường xuyên đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ
trọng yếu, thường xuyên của quân đội ta” [46, tr. 183]. Đảng ủy, ban giám
đốc (ban giám hiệu) các học viện, trường sĩ quan quân đội luôn luôn định
hướng đúng đắn về nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho cả thời
kỳ dài và phương hướng cụ thể của từng giai đoạn.
Nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp. “Lãnh đạo, chỉ
huy các cấp thường xuyên nâng cao trách nhiệm, đẩy mạnh tuyên truyền, đấu
tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, trên cơ sở triển khai thực hiện có
hiệu quả Đề án Quân đội phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong tình hình
mới” [5, tr. 5]. Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò, vị trí của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội, lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan
quân đội đã thường xuyên quan tâm đến vai trò của giảng viên trong bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng. “Lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã chủ động đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch;
hoạt động của 325 ban chỉ đạo 35 các cấp trong toàn quân (trong đó có 18 ban
chỉ đạo 35 ở các học viện, trường sĩ quan) đạt kết quả cao” [5, tr. 4-5]. Lãnh đạo,
chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội quan tâm, triển khai thực tổ
chức các hoạt động thực tiễn giúp giảng viên khoa học xã hội và nhân văn thể
hiện vai trò của mình trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong đó:
89
“Chủ yếu và phổ biến chiếm 89,74% là lồng ghép hoạt động bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng qua giảng dạy, 79,47% qua nghiên cứu khoa học, 52,10%
qua truyền thông đa phương tiện, Internet, phương tiện thông tin đại chúng,
mạng xã hội” [Phụ lục 1].
Từ nhận thức đúng, thái độ tốt, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã nâng cao
trách nhiệm; chú trọng quán triệt, triển khai đầy đủ và nghiêm túc, nghị quyết,
chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về vai trò của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích
cực, chủ động đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; thường xuyên
tổ chức bồi dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị cho giảng viên. Từ đó, làm cho
họ nhận thức rõ đặc điểm, nội dung, tính chất của nhiệm vụ bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Trách nhiệm đó được thể hiện ở việc
định hướng cho giảng viên chuẩn bị và giảng dạy các chuyên đề, bài giảng lý
luận, mục đích là tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên thể hiện vai trò trong
truyền bá, khẳng định bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhận thức, trách nhiệm của ban chỉ đạo 35 và các cơ quan chức năng
ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung
ương và cơ quan thường trực đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong toàn quân
nói chung và các học viện, trường sĩ quan quân đội nói riêng thường xuyên
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn các khoa giáo viên, tổ bộ môn,
tạo điều kiện cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn thực hiện tốt vai trò
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. “Nhận thức, trách nhiệm của ban
chỉ đạo 35 ở các học viện, trường sĩ quan quân đội tương đối tốt; chỉ đạo định
hướng đấu tranh tư tưởng cho cán bộ, giảng viên, học viên trước các sự việc,
vụ việc nhạy cảm, phức tạp ” [5, tr. 5]. Từ đó, tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy
các học viện, trường sĩ quan quân đội nâng cao hiệu quả thực hiện vai trò của
90
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong giảng dạy, nghiên cứu khoa
học, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Lãnh đạo, chỉ huy các học
viện, trường sĩ quan quân đội và các cơ quan chức năng thường xuyên quan
tâm, chỉ đạo sâu sát việc thực hiện vai trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nguyên nhân cơ bản để
giảng viên hoàn thành tốt vai trò, trách nhiệm với Đảng, Nhà nước, quân đội,
làm tròn nghĩa vụ của người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận đấu tranh tư
tưởng, lý luận trong tình hình mới. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
những thành công của giảng viên ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ hai, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn được quan
tâm đúng mức
Đảng ta xác định: “Đổi mới căn bản chương trình nội dung, phương
pháp giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị theo phương châm khoa học, thực
tiễn, sáng tạo và hiện đại; đưa việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới
đi vào nề nếp, nhất quán, từ trung ương đến cơ sở, phù hơp với từng đối
tượng, chú trọng chất lượng, hiệu quả” [46, tr. 182 - 183]. Trên tinh thần quán
triệt tư tưởng đó, lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội đã
quan tâm, đầu tư, có nhiều giải pháp thiết thực đổi mới, nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nền tảng tư tưởng của Đảng cho giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn.
Giải quyết hài hòa giữa trang bị tri thức lý luận, chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội với phát
triển tư duy, phẩm chất chính trị, nâng cao năng lực, kỹ năng đấu tranh phản
bác quan điểm sai trái, thù địch cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn.
Chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo thường xuyên được cập nhật những
91
tri thức mới nhất về mặt lý luận, những định hướng trong đấu tranh phản bác
quan điểm sai trái, thù địch gắn sát với thực tiễn giáo dục, đào tạo, thực hiện
nhiệm vụ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Phương pháp giáo dục, đào tạo được các học viện, trường sĩ quan quân
đội không ngừng quan tâm, đổi mới, cải tiến gắn với yêu cầu là tăng cường
tính đảng, tính khoa học, cách mạng tính thực tiễn, tính chiến đấu trong mỗi
bài giảng, mỗi công trình khoa học. Hiện nay, sau 2 năm, chương trình, nội
dung đào tạo đại học và sau đại học đều được cập nhật, có điều chỉnh, bổ
sung, bảo đảm cập nhật được những thành tựu nghiên cứu, phát triển mới nhất
về mặt lý luận.
Đánh giá vấn đề này, Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương cho biết:
“Các học viện, trường sĩ quan đã tiến hành rà soát, cập nhật, điều chỉnh, bổ
sung hoàn thiện chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng khoa học xã hội và
nhân văn cho các giảng viên theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa”; thực hiện
khâu đột phá “nâng cao chất lượng giáo áo, bài giảng, đổi mới phương pháp
dạy học” [8, tr. 69]. “Hoạt động giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên được các học viện, trường sĩ quan quân
đội thường xuyên quan tâm nhằm nâng cao trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị,
lập trường tư tưởng cho đội ngũ này” [8, tr. 67].
Đổi mới, nâng cao chất lượng đạo tạo, bồi dưỡng, đặc biệt là chất
lượng, hiệu quả bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội đã được lãnh đạo, chỉ huy các cấp quan tâm đúng mức; đây là một trong
những nguyên nhân quan trọng quyết định đến nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
thực hiên vai trò của đội ngũ này trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay.
92
Thứ ba, môi trường sư phạm ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
có những mặt thuận lợi cho bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Môi trường dân chủ trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh
tư tưởng, lý luận được phát huy, tăng cường và mở rộng. Lãnh đạo, chỉ huy các
cơ quan, đơn vị đã quan tâm đến vấn đề phát huy dân chủ, tạo điều kiện tốt
nhất cho giảng viên giảng dạy, nghiên cứu khoa học. “Thực hiện nghiêm Quy
định dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị, tạo môi trường dân chủ,
khuyến khích tìm tòi, sáng tạo” [46, tr. 182]. Đây là điều kiện căn bản, đảm bảo
cho giảng viên được quyền tiếp cận thông tin, tư liệu; lựa chọn phương pháp
giảng dạy phù hợp với từng đối tượng; lựa chọn vấn đề nghiên cứu, trao đổi,
trình bày ý kiến về những điều chưa biết, chưa sâu, chưa rõ; bảo vệ những ý
tưởng, những vấn đề mới nảy sinh, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng mà không bị áp đặt, không bị “quy chụp”, trù dập, định kiến hẹp hòi.
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, trực tiếp là
lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội đã thường xuyên, kịp
thời động viên, khen thưởng cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. “Trong năm
2020 có 82 tập thể (trong đó có 11 học viện, trường sĩ quan), 124 cá nhân
(trong đó có 36 giảng viên khoa học xã hội và nhân văn) trong Quân đội đã
được Ban Tuyên giáo Trung ương và Thủ trưởng Bộ Quốc phòng khen
thưởng vì có thành tích xuất sắc trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”
[5, tr. 6]. Cùng với việc tạo lập môi trường dân chủ, lãnh đạo, chỉ huy các học
viện, trường sĩ quan quân đội đã từng bước xây dựng và triển khai thực hiện
đổi mới và vận dụng các cơ chế, chính sách đãi ngộ về vật chất, tinh thần, tạo
lập các động lực thuận lợi phù hợp với điều kiện, khả năng của từng đơn vị
qua đó động viên, khuyến khích, thực hiện tốt vai trò của giảng viên trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
93
Thứ tư, cơ bản giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội đã nỗ lực tự học, tự rèn, phấn đấu nâng cao trình độ mọi
mặt, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Nhận thức, thái độ và ý thức trách nhiệm của giảng viên đối với việc thực
hiện vai trò trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong những năm qua đã
có sự chuyển biến quan trọng. Kết quả điều tra khảo sát cho thấy: “Có 82,10%
lực lượng được hỏi khẳng định giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có nhận
thức, thái độ, trách nhiệm khá tích cực về thực hiện vai trò của mình trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” [Phụ lục 1]. Nhận thức đúng vai trò trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và xuất phát từ sự tự giác, tâm huyết, nhiệt
tình, trách nhiệm với Đảng, Nhà nước và Quân đội, họ luôn tích cực, chủ
động, tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng với tinh thần cảnh giác cao
độ, với sự nhạy bén về chính trị, không bị động, bất ngờ; sẵn sàng đương đầu
với sự căng thẳng và phức tạp, thậm chí cả sự hiểm nguy. Nhận thức, thái độ,
trách nhiệm đó đã thấm sâu vào từng trang giáo án, chuyên đề, bài giảng, sản
phẩm khoa học. Từ đó, lan tỏa vào tư tưởng, nhận thức và hành động của các
thế hệ học viên, góp phần làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của quân đội và xã hội.
Cùng với bản lĩnh chính trị vững vàng, giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn tích cực học tập, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao năng
lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tự rèn luyện các kỹ năng trong đấu
tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch; vận dụng linh hoạt các kỹ năng
đấu tranh trong từng bài giảng, giờ giảng, trong từng sản phẩm khoa học.
Cùng với đó, giảng viên nhận diện đúng và xử lý kịp thời hiệu quả các thông
tin xấu, độc, thông tin giả trên không gian mạng, trở thành những tuyên
truyền viên tích cực, khuyến khích mọi người sử dụng không gian mạng để
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
94
3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Thứ nhất, một bộ phận giảng viên khoa học xã hội và nhân văn chưa
khẳng định được họ là lực lượng chủ yếu, trực tiếp trong truyền bá bản chất
khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn là lực lượng chủ yếu, trực tiếp giảng dạy, truyền thụ đến người học
kiến thức lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, truyền thống, bản chất, nhiệm
vụ của quân đội. Tuy nhiên, nhiệm vụ này, có thời điểm chưa đạt hiệu quả cao;
cá biệt có giảng viên còn dao động về tư tưởng, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”. Đánh giá vấn đề này, Đảng ta khẳng định: “Công tác tư tưởng có lúc, có
việc thiếu kịp thời, chưa sắc bén, tính thuyết phục chưa cao… Đấu tranh, bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có lúc, có nơi vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, còn bị
động, lúng túng, định hướng dư luận xã hội có lúc còn chậm” [9, tr. 262].
Thực trạng còn tồn tại hạn chế, khẳng định vai trò chủ yếu, trực tiếp
của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong truyền bá, khẳng định bản
chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
thể hiện ở việc người học còn ngại học các môn lý luận, chính trị, họ chưa
xem học các môn lý luận, chính trị là ham muốn; biểu hiện đó là ở việc: “Số
lượng và chất lượng các giờ học nghiên cứu tác phẩm kinh điển còn ít; tình
trạng lười học, ngại học lý luận, chính trị vẫn còn trong đội ngũ cán bộ, giảng
viên; nhiều người học lý luận mà không nắm được “hồn cốt” của lý luận cho
nên không biến lý luận thành phương pháp nhận thức, phương pháp hành
động, phương pháp công tác” [106, tr. 5]. Qua khảo sát thực tế cho thấy: “Còn
24,73% số bài giảng ở bộ môn Triết học Mác - Lênin; 24,21% chuyên đề của
bộ môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin; 23,68% bài giảng ở bộ môn Chủ nghĩa
95
xã hội khoa học; 25,79% nội dung chương trình của bộ môn tư tưởng Hồ Chí
Minh và 26,31% bài giảng của bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
chưa lồng ghép việc truyền bá bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với đấu tranh phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch [Phụ lục 1].
Hiện nay, một số giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội chưa khẳng định rõ vai trò là chủ thể chủ yếu, trực tiếp
trong truyền thụ giá trị, bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong giảng dạy, có thời điểm một số giảng viên
chưa kịp thời cập nhật âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá nền tảng tư
tưởng của Đảng từ các thế lực thù địch. Việc vận dụng kiến thức khoa học tự
nhiên, thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ vào giảng dạy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có thời điểm chưa kịp thời, hiệu quả
chưa cao. Thực trạng này được Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương đánh giá:
“Việc cập nhật tình hình, âm mưu, thủ đoạn của cá thế lực thù địch t rong nội
dung bài giảng, trong huấn luyện, diễn tập có nội dung chưa sâu” [8, tr. 60].
Từ kết quả điều tra xã hội học cho thấy: “Có 16,85% ý kiến của lãnh đạo,
chỉ huy và trợ lý cơ quan ở đơn vị cơ sở cho rằng vai trò của giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn trong truyền bá bản chất khoa học, cách mạng chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đạt hiệu quả chưa cao”. [Phụ lục 2]. Họ cho rằng
quá trình học tập tại trường, có nội dung liên quan đến lý luận Mác - Lênin
còn trừu tượng; vai trò của giảng viên trong truyền bá, nâng cao nhận thức
cho người học hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn
mức độ. Do vậy, học viên khó khăn trong việc vận dụng lý luận vào thực tiễn
hoạt động ở đơn vị cơ sở. Từ đó, cho thấy một số giảng viên chưa khẳng định
được vai trò là chủ thể chủ yếu, trực tiếp trong truyền bá bản chất khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
96
Thứ hai, một số giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có thời điểm
chưa thể hiện rõ họ là lực lượng nòng cốt tham gia nghiên cứu, bổ sung, vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Nghiên cứu bổ sung, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn vào thực tiễn
có thời điểm còn bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của yêu cầu nhiệm vụ
xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. “Một số cấp ủy, chỉ huy, cơ quan
chức năng chưa quan tâm đúng mức tới nghiên cứu công tác lý luận và gắn lý
luận với thực tiễn” [8, tr. 71]. Trong nghiên cứu lý luận, một số giảng viên
chưa đi sâu nghiên cứu những vấn đề cấp bách của lý luận và thực tiễn; còn
có biểu hiện né tránh sự thật, nhất là những vấn đề nhạy cảm do sợ “đụng
chạm”. Vì vậy, vấn đề được nghiên cứu nhưng không triệt để, hiệu quả thấp.
Hiện nay, vẫn còn tình trạng “khuôn sáo” trong những lý luận đã có,
trong sách vở, trong nghị quyết. Nhiều vấn đề lý luận tuy được các đề tài
nghiên cứu nhưng kết quả lại ít có cái mới, ít có những điểm sáng tạo; trong
nghiệm thu đề tài còn biểu hiện nể nang. Khảo sát thực tiễn vấn đề này của tác
giả luận án cho thấy, số lượng các đề tài khoa học, các bài báo liên quan đến
vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
được đăng tải trên các tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng còn ít. “Có
43,68% người được hỏi cho biết, họ chưa có bài báo tham gia bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng được đăng trên các tạp chí chuyên ngành [Phụ lục 1].
Các sản phẩm khoa học của giảng viên liên quan đến việc nghiên cứu
tác phẩm kinh điển còn rất hạn chế; các công trình là sách tham khảo, chuyên
khảo về sức sống và hiện thực hóa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh chưa đến được với cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân. Nội dung trong các
sản phẩm khoa học liên quan đến lý luận Mác - Lênin chưa thu hút được
người đọc. Thực tiễn này cho thấy, việc xã hội hóa các sản phẩm khoa học,
97
lan tỏa vai trò nòng cốt của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong
nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh còn nhiều vấn đề bất cập, cần tiếp tục bổ sung, sửa chữa, có giải pháp
khắc phục triệt để trong thời gian tới.
Thực tế cho thấy, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có lập trường
tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương
mẫu, năng động, sáng tạo, đi đầu trong mọi lĩnh vực, dám nghĩ, dám làm và
dám chịu trách nhiệm với những công việc khó, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn
tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực chuyên môn hoàn thành mọi nhiệm vụ
được giao. Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận giảng viên có biểu hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa vào
chủ nghĩa cá nhân; không chủ động, tự giác, tích cực kiên quyết đấu tranh với
những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản
động; cá biệt có giảng viên còn cổ súy, phụ họa chiêu trò “té nước theo mưa”
cho một số quan điểm sai trái, lệch lạc; thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách
mạng; lập trường tư tưởng không vững vàng nên dao động trước những tác
động từ bên ngoài; giảm sút ý chí, niềm tin về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta đã vi phạm pháp luật. Trong thực tế, đã có giảng viên thoái thác
nhiệm vụ, xin phục viên, ra quân, chuyển ngành, v.v..
Thứ ba, vai trò chủ công, xung kích, đi đầu trong đấu tranh phản bác
quan điểm sai trái, thù địch của một bộ phận giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở chưa thật chủ động, tích cực
Tham gia vào cuộc đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là
nhiệm vụ đặc biệt và mang tính chuyên sâu, đòi hỏi yêu cầu cao cả về phẩm
chất, năng lực, tri thức, nhiệt huyết, tinh thần trách nhiệm. Qua khảo sát thực
tế cho thầy, “có 10,53% ý kiến cho rằng giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn có vai trò bình thường trong cuộc đấu tranh phản bác quan điểm sai trái,
98
thù địch” [Phụ lục 1]. Một số giảng viên cho rằng, nhiệm vụ của họ là giảng
dạy, nghiên cứu khoa học, việc có tham gia vào đấu tranh phản bác quan điểm
sai trái, thù địch hay không cũng không ảnh hưởng nhiều đến việc hoàn thành
nhiệm vụ; họ chỉ thực hiện nhiệm vụ đấu tranh do sự phân công, giao nhiệm
vụ, theo yêu cầu chỉ đạo của trên.
Số giảng viên tham gia đấu tranh công khai, trực diện trên các phương
tiện thông tin đại chúng vẫn còn giới hạn trong phạm vi hẹp, đôi lúc còn bị
động. “Có 81,58% giảng viên khoa học xã hội và nhân văn được hỏi cho biết
họ chưa tham gia các chương trình bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên
các kênh, đài VOV, VTV, Quốc phòng Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân
Việt Nam” [Phụ lục 1]. Thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chưa thật sự trở thành
nhu cầu tự thân, chưa trở thành nhiệm vụ thường trực và việc làm mang tính
thường xuyên. Cá biệt có “một số cán bộ, giảng viên chưa thực sự tự giác tu
dưỡng, học tập, rèn luyện còn vi phạm kỷ luật, làm ảnh hưởng đến bản chất,
truyền thống của Quân đội” [5, tr. 9]. Từ đó, làm xuất hiện ở một số giảng
viên tư tưởng thụ động hoặc e dè, thiếu tự tin vào khả năng của mình, dẫn đến
sự coi nhẹ, né tránh nhiệm vụ chính trị quan trọng này, nên tham gia đấu tranh
chỉ mang tính hình thức; do vậy, không khơi dậy và phát huy được vai trò
xung kích trong đấu tranh. Kết quả diều tra, khảo sát cho thấy, vẫn “còn
25,27% ý kiến cho rằng, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội chưa tích cực, chủ động, xung kích trong đấu
tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch” [Phụ lục 1].
Việc “Thực hiện cơ chế phối hợp hoạt động, đổi mới nội dung, hình
thức, phương pháp đấu tranh còn lúng túng; kinh nghiệm tổ chức đấu tranh ở
một số cơ quan, đơn vị, nhà trường còn hạn chế” [5, tr. 9]. “Đấu tranh trên
không gian mạng chưa thường xuyên, chất lượng bài viết chưa tốt; sức lan tỏa
các bài đấu tranh trên các blog còn ít; cá hình thức đấu tranh khác (facebook,
99
youtube, zalo, viber, twitter, instagram…), tốc độ phát triển chậm” [8, tr. 71].
“Đấu tranh ẩn danh trên máy tính ảo của một số cơ quan, đơn vị có thời điểm
kết quả chưa hiệu quả” [8, tr. 16]. Việc kiểm tra, sơ tổng kết, đánh giá mạnh,
yếu, tìm ra nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm về bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng ở một số cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong nhà trường
chưa kịp thời, dẫn đến việc tổ chức thực hiện vai trò của giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng chưa đạt chất lượng, hiệu quả cao.
Nguyên nhân hạn chế
Thứ nhất, một số lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp chưa
thật sự coi trọng phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Nhìn nhận thực tiễn vấn đề này ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
cho thấy nhận thức, trách nhiệm của một số lãnh đạo, chỉ huy đối với thực
hiện vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng vẫn còn những hạn chế, thiếu sót. Báo cáo kết quả đấu
tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của Học viện Quốc phòng năm 2019
chỉ rõ: “Một số cấp ủy, chỉ huy đơn vị, khoa giáo viên trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng chưa chủ động chưa xem xét cụ thể vai trò của giảng viên
trong thực hiện nhiệm vụ này” [8, tr. 60].
Việc tổ chức quán triệt, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên về
đấu tranh tư tưởng, lý luận có mặt chưa sâu, do đó chưa phát huy đầy đủ vai
trò của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng. Kết quả điều tra xã hội học cho thấy: “Có 22,63% ý kiến
cho rằng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy đối với việc phát huy vai trò
của đội ngũ giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chưa
thường xuyên và sâu sát” [Phụ lục 1].
100
Hiện nay, ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, lãnh đạo, chỉ huy
các khoa giáo viên, tổ bộ môn có thời điểm chưa thực sự coi trọng đổi mới
phương pháp và hình thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; các hình thức
tổ chức hoạt động này còn giản đơn, thiếu sinh động. Biểu hiện rõ nhất là
công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện vai trò của giảng viên trong thực hiện
nhiệm vụ có lúc chưa được quan tâm đúng mức, chưa kịp thời. “Nhận thức,
trách nhiệm của một số cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai nhiệm vụ
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là đấu tranh trên không gian mạng
chưa cao, có lúc chưa chặt chẽ, toàn diện” [5, tr. 9].
Trên bình diện công tác tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ đấu tranh
cho thấy hoạt động của ban chỉ đạo 35, cơ quan thường trực của một số học
viện, trường sĩ quan quân đội có thời điểm còn thiếu những chủ trương, kế
hoạch khả thi, mang tính định hướng dài hạn; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa
các lực lượng đấu tranh; việc chỉ đạo tổ chức thành lập các nhóm chuyên gia,
chuyên trách, lực lượng nòng cốt trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở
một số khoa, tổ bộ môn chưa kịp thời. “Một số cấp ủy, chỉ huy cơ quan, khoa
giáo viên, đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng trên không gian mạng; sự đầu tư cả về nhân lực, vật lực chưa
nhiều; chạy theo số lượng, chưa động viên, khuyến khích và có biện pháp
quyết liệt để huy động lực lượng tham gia” [8, tr. 71].
Thứ hai, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội có nội dung hiệu quả chưa cao
Chất lượng đào tạo giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ngay từ khâu
tuyển chọn đầu vào có mặt còn bất cập; ở đơn vị cơ sở vẫn có tình trạng một số
sĩ quan không đủ tiêu chí cử đi đào tạo cán bộ chính trị cấp trung đoàn, sư đoàn
thì chuyển đi đào tạo giảng viên; đa số sĩ quan ở các đơn vị không muốn đi đào
101
tạo trở thành giảng viên… Từ đó, dẫn đến chất lượng tuyển chọn giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Bên cạnh đó, việc
chậm đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và bồi dưỡng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn cũng
là nguyên nhân dẫn đến hiệu quả bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chưa cao.
Báo cáo số 13866/BC-BQP ngày 11 tháng 12 năm 2019 về tổng kết công
tác quân sự, quốc phòng năm 2019, đã chỉ rõ: “Chương trình giáo dục, đào tạo
khoa học xã hội và nhân văn có nội dung trùng lắp, chưa sát thực tiễn đơn vị” [23,
tr. 10]. Một số học viện, trường sĩ quan quân đội chưa quan tâm, đầu tư đúng mức
cho việc nghiên cứu, giảng dạy các tác phẩm kinh điển Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Từ đó, không có tri thức của lý luận gốc; không nắm rõ bản chất khoa
học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để luận giải,
giải thích cho sự phát triển của thực tiễn hiện nay. “Đội ngũ giảng viên lý luận
trong những năm qua có tăng về số lượng, nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế,
chưa đồng đều, thiếu các chuyên gia đầu ngành, khả năng vận dụng các công trình
nghiên cứu khoa học và thực tiễn còn hạn chế” [106, tr. 5].
Chất lượng bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cho giảng viên còn bất cập; đào tạo, bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị còn
có lúc chồng tréo, đan xen với nội khác, trùng lặp nội dung. Dường như có
khoa, tổ bộ môn chỉ tập trung bồi dưỡng nâng cao chất lượng giảng dạy,
nghiên cứu khoa học, chưa chú trọng gắn bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; chưa gắn với đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù
địch, nâng cao trình độ nhận thức, kỹ năng đấu tranh cho giảng viên.
Thứ ba, môi trường sư phạm ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn tham gia bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng có mặt chưa thuận lợi
Nguyên nhân này biểu hiện ở rất nhiều khía cạnh; xây dựng môi trường
dân chủ trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận
102
có mặt chưa thuận lợi, vẫn còn hiện tượng quy chụp, đánh giá thiếu khách
quan. Việc bảo đảm kinh phí, phương tiện vật chất kỹ thuật, cung cấp thông
tin, tư liệu và tài liệu, cho hoạt động đấu tranh phản bác quan điểm sai trái,
thù địch còn hạn chế. Phương tiện kỹ thuật hiện đại đảm bảo cho giảng viên
nghiên cứu, tiếp xúc với các nguồn thông tin còn khó khăn. Các máy tính ảo
được cấp trên trang bị cho các cơ quan, đơn vị tham gia đấu tranh bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng hoạt động chưa hiệu quả.
Việc cung cấp thông tin, nhất là thông tin phản diện từ phía các thế lực
thù địch, cơ hội chính trị đến giảng viên còn rất hạn hẹp, chỉ giới hạn trong
phạm vi một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, dù một số học viện, trường sĩ
quan quân đội có “phòng đọc hạn chế”. Một số giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn có nhu cầu nghiên cứu thực sự lại chưa được tiếp cận thông tin,
sách, báo chuyên phục vụ nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cơ
chế, chính sách bảo đảm tạo điều kiện vật chất và tinh thần, khuyến khích
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn tham gia đấu tranh phản bác quan
điểm sai trái, thù địch ở một số học viện, trường sĩ quan quân đội chưa toàn
diện, chưa đồng bộ, chưa thể hiện rõ sự đãi ngộ thoả đáng cả về vật chất và
tinh thần tạo động lực thúc đẩy, khuyến khích giảng viên tham gia bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng một cách tích cực, tự giác và hiệu quả.
Thứ tư, một bộ phận giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội chưa chủ động, tích cực tự học, tự rèn, phát huy
vai trò của mình trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những hạn chế của quá trình thực hiện
vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng bắt nguồn từ những
hạn chế trong việc tự phát huy vai trò của chính họ trong thực hiện nhiệm vụ
này; cụ thể như việc học tập nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện, bồi dưỡng
103
năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và nâng cao kỹ năng đấu tranh
phản bác quan điểm sai trái, thù địch của một bộ phận giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn chưa chủ động, tích cực. Do vậy, giảng viên chưa đủ tri thức,
kinh nghiệm để đấu tranh phản bác có hiệu quả với các quan điểm sai trái từ
các thế lực thù địch.
Hiện nay, vẫn còn “một số giảng viên chưa tích cực tự học, tự rèn
luyện; cá biệt còn có trường hợp lợi dụng các sự kiện trọng đại của đất
nước để gửi đơn thư tố cáo, phản ánh không đúng sự thật” [8, tr. 90]. Việc
tự học tập, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ sử dụng phương tiện, công cụ
kỹ thuật lại chưa say mê, quyết tâm; còn biểu hiện ngại khó; “một số cán
bộ, giảng viên tham gia mạng xã hội còn sơ hở trong nói và viết, để các thế
lực phản động, thù địch lợi dụng chống phá [5, tr. 9]. “Một số khoa, tổ bộ
môn, trực tiếp là giảng viên khoa học xã hội và nhân văn chưa phát huy
được kỹ năng đấu tranh trong viết bài chuyên sâu tham gia bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng; chưa tạo được sự lan tỏa, chia sẻ thông tin chính thống,
tích cực” [8, tr. 78].
Giảng viên còn hạn chế về khả năng sử dụng công nghệ thông tin,
chưa sử dụng thành thạo máy tính, mạng xã hội, Internet vẫn còn; “trình
độ, khả năng khai thác sử dụng phương tiện công nghệ thông tin của
giảng viên còn hạn chế; thiếu nhiệt huyết khi tham gia các hoạt động đấu
tranh” [8, tr. 71]. Từ đó, dẫn đến việc thu thập, xử lý thông tin còn gặp
nhiều vướng mắc; gây khó khăn cho việc lĩnh hội, ghi nhớ và sử dụng
phương tiện kỹ thuật; khả năng phân tích, xử lý thông tin thiếu độ khái
quát, còn biểu hiện lúng túng trước những thông tin xấu độc. Khả năng
ngoại ngữ, (sử dụng tiếng Anh) của một bộ phận không nhỏ giảng viên
chưa thành thạo; cơ bản giảng viên chưa nghe, chưa nói được tiếng Anh
theo quy định. “Có đến 34,30% giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
104
được hỏi cho biết, họ không có khả năng đọc và dịch được tài liệu từ tiếng
nước ngoài” [Phụ lục 1]. Điều này đã hạn chế việc đọc, nghe tin tức, tìm
thông tin từ tài liệu bằng tiếng nước ngoài. Do vậy, giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn không có khả năng khai thác tài liệu, thông tin trên
internet, các trang mạng xã hội.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội có học hàm, học vị, có kinh nghiệm trong
giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng ngày càng ít đi vì đến tuổi nghỉ hưu; các giảng viên
trẻ chưa có điều kiện trải nghiệm thực tiễn, ít kinh nghiệm còn mỏng nên họ
gặp không ít khó khăn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, hiệu
quả đấu tranh có mặt chưa cao. Đây là những nguyên nhân rất cơ bản, đòi hỏi
phải có giải pháp khắc phục nhanh chóng. Muốn vậy, cần xem xét phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo, tâm huyết, nhiệt tình trách nhiệm của chính giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội.
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với phát huy vai trò của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay
3.2.1. Vấn đề đặt ra đối với nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ
huy các học viện, trường sĩ quan quân đội, các khoa giáo viên
Thực tiễn kiểm nghiệm tính đúng đắn, khoa học của lý luận, đồng thời,
là điểm xuất phát để bổ sung, phát triển lý luận, nâng lý luận lên tầm cao mới.
Những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam tiếp tục khẳng
định nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể trong bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng đang đặt ra những vấn đề mới. Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi
mới lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
105
hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đảng ta khẳng định: “Chúng ta
đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; phát triển mạnh mẽ,
toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [46, tr. 25].
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 35 năm đổi mới là sản
phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền
bỉ, liên tục của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Điều đó, khẳng định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng. Thực
tiễn đó đặt ra yêu cầu trực tiếp từ nhận thức đến trách nhiệm cho lãnh đạo, chỉ
huy các cấp ở các học viện, trường sĩ quan quân đội đối với thực hiện vai trò
của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Nhằm khắc phục hạn chế, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn, Đảng ta chỉ rõ: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
chưa được quan tâm đúng mức, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; một số
vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được làm sáng tỏ” [46, tr. 90].
Bên cạnh những thành tựu đạt được đối với thực hiện vai trò của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thì những tồn tại, yếu kém được chỉ
ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do nhận thức và trách
nhiệm của lãnh đạo chỉ huy về tổ chức thực hiện nhiệm vụ chưa cao. Đổi mới
tư duy về thực hiện vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có ý nghĩa quan trọng. Việc một số lãnh
đạo, chỉ huy chưa chú trọng đến nhiệm vụ này, làm cho quá trình triển khai
thực hiện nhiệm vụ đấu tranh trong thực tiễn gặp không ít khó khăn. Nhận
thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy biểu hiện qua việc tổ chức hoạt động
thực hiện vai trò của giảng viên góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
đó là: “Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch bảo vệ nền tảng tư tưởng của
106
Đảng; tổ chức tổng kết nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đánh
giá, sử dụng đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng”. Tuy nhiên, những vấn đề này chưa được tổ chức
thực hiện thường xuyên, nền nếp ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội còn nhiều bất cập; khả năng vận dụng những công trình nghiên
cứu về đấu tranh tư tưởng, lý luận nói chung, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng nói riêng của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn vào thực tiễn hiệu
quả chưa đạt cao. Các công trình nghiên cứu về nền tảng tư tưởng của Đảng
chỉ mới dừng lại ở những vấn đề chung; “những nguyên tắc, nguyên lý chưa
đi sâu vào những vấn đề gay cấn của thực tiễn bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, còn né tránh sự thật, nhất là những sự thật gai góc, yếu kém, khuyết
điểm, lảng tránh những vấn đề “nhạy cảm”, sợ đụng chạm [106, tr. 5].
Vì vậy, nhiều vấn đề nghiên cứu chưa đến nơi, đến chốn, không triệt để
chưa góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Điều
đó, đặt ra cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải có nhận thức đúng, hành động
đúng để lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng kế hoạch, chương
trình và tổ chức thực hiện đúng theo tinh thần của Nghị quyết số 35/NQ-TW
của Bộ Chính trị khóa XII và những hướng dẫn của Quân ủy Trung ương, Bộ
Quốc phòng về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Xây
dựng, triển khai kế hoạch tổng kết một số vấn đề lý luận, thực tiễn phát huy
vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; kịp thời khen
thưởng, biểu dương những cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc; đồng thời,
phê bình, kiểm điểm những bộ phận chưa hoàn thành nhiệm vụ; có như vậy
với tạo được động lực thúc đẩy đội ngũ giảng viên thực hiện tốt vai trò của
mình trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
107
3.2.2. Vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên khoa học xã hội
và nhân văn hiện nay
Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung, chương trình đào tạo với chất
lượng sản phẩm đầu ra trong quá trình đào tạo là tất yếu khách quan. Trong
những năm qua, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã quan tâm đến chất lượng đào tạo
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn. Song, để họ có đủ bản lĩnh chính trị,
trình độ lý luận, năng lực và kỹ năng tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng một cách vững chắc đòi hỏi phải nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội; đặc biệt chú trọng, nâng cao chất lượng
đào tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn. Về phương pháp giảng dạy cũng cần được quan tâm đổi
mới. Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Bởi lẽ, “Phương pháp giảng dạy, học tập chậm được đổi mới, nặng về
truyền đạt kiến thức, chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học viên.
Thiếu sự liên thông giữa các cấp học, các hệ đào tạo dẫn đến việc cán bộ phải
học nhiều lần một số chuyên đề, học phần” [16, tr. 1]. Trong quá trình đào tạo,
một số học viện, trường sĩ quan quân đội chưa quan tâm đến việc phát huy tính
tự chủ, năng lực sáng tạo của học viên đào tạo giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn. Hệ quả là năng lực sáng tạo, tư duy lý luận, tư duy phản biện của
giảng viên nhìn chung còn ở mức trung bình. Quan tâm, đổi mới cách thức
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập đối với từng đối tượng đào tạo giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn một cách cụ thể, sát với thực tiễn học tập. Vấn
đề đặt ra là phải tạo sự thống nhất cao trong nhận thức, trách nhiệm của các tổ
108
chức, các lực lượng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội để đổi mới, nâng
cao chất lượng đào tạo giảng viên khoa học xã hội và nhân văn; chú trọng hơn
nữa việc phát huy vai trò của giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Học viện Chính trị và Trường Sĩ quan Chính trị, hai trung tâm đào tạo
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn của quân đội, cần xem xét, phân tích,
đánh giá những ưu điểm và hạn chế từ các khâu, các bước trong quá trình đào
tạo đại học và sau đại học cho lực lượng này. Đánh giá đúng công tác tuyển
chọn đầu vào; mô hình, mục tiêu đào tạo, chương trình, nội dung, phương pháp
đào tạo, chất lượng đội ngũ cán bộ. Những ưu điểm của các khâu, các bước cần
được khẳng định rõ hơn. Mọi biểu hiện xem xét, đánh giá thiếu khách quan, chỉ
nhấn mạnh một chiều phải được chấn chỉnh kịp thời.
Đối với việc nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
V.I. Lênin khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong
trào cách mạng”, “chỉ có đảng nào có lý luận tiên phong thời mới làm tròn vai
trò người chiến sĩ tiên phong” [73, tr. 30, 32]. Điều đó cho thấy, vai trò quan
trọng của công tác lý luận và việc bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn. Đây là nhiệm
vụ cấp thiết để phát huy vai trò nòng cốt của giảng viên trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng hiện nay. Trong những năm qua, công tác bồi dưỡng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được lãnh đạo, chỉ huy các học
viện, trường sĩ quan quân đội quan tâm, kịp thời bồi dưỡng cho giảng viên có
đủ phẩm chất, năng lực, trình độ lý luận, năng lực, kỹ năng, tư duy khoa học,
để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế trong bồi
dưỡng nền tảng tư tưởng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bởi phần lớn
dành cho các đối tượng là lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chuyên môn; giảng viên
chưa được quan tâm đúng mức; số đông họ chưa được đi học cao cấp lý luận
109
chính trị. Các sản phẩm khoa học, trực tiếp các bài viết đăng tải trên các tạp chí
in và tạp chí điện tử vẫn phổ biến là lối viết xuôi chiều, chủ yếu là khẳng định
phía ta, rất ít bài viết đấu tranh trực tiếp, trực diện với các tư tưởng sai trái, thù
địch. Bên cạnh đó vẫn còn tình trạng nhận xét, đánh giá mang tính chủ quan, áp
đặt cho đội ngũ cán bộ, giảng viên khi tham gia đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng. “Vẫn còn tình trạng quy chụp về về tư tưởng, quan điểm, áp
đặt ý kiến cá nhân trong nghiên cứu lý luận, chính trị; thiếu cơ chế bảo vệ
những người nghiên cứu, giảng dạy có tư duy đổi mới, dám nói, dám đột phá;
thiếu cơ chế đãi ngộ xứng đáng để phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng
dạy về lý luận chính trị” [106, tr. 6].
Bên cạnh đó, số lượng giảng viên có chức danh, học vị cao, tri thức lý
luận tốt đều cao tuổi, phần lớn đã và sắp chuẩn bị nghỉ hưu; trong khi đó đội
ngũ kế cận, kế tiếp khá mỏng, trình độ, năng lực cũng như bản lĩnh chính trị
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng còn mức độ. Sự “khan hiếm” giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn đầu ngành, “đầu tàu” đang là trở ngại rất
lớn. Từ đó, đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi cần phải có chương trình, kế hoạch dài
hạn trong bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Vai trò của công tác bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn là rất quan trọng trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Mức độ, kết quả đạt được trình độ cao
hay thấp phụ thuộc phần lớn vào việc bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Vấn đề đặt ra
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này cần nghiên cứu, có giải pháp khắc
phục, để nâng cao trình độ lý luận của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn, nhất là khắc phục mặt chưa tốt như nhận thức về lý luận và công tác lý
luận của Đảng chưa sâu, trách nhiệm chưa cao.
110
3.2.3. Vấn đề đặt ra đối với việc tạo lập môi trường sư phạm trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Thứ nhất, đối với việc tạo lập môi trường dân chủ trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng
Môi trường dân chủ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội có vai trò to
lớn, tác động thường xuyên, liên tục tới hoạt động sư phạm của giảng viên. Đây
là sự tác động biện chứng, giữa môi trường dân chủ, thuận lợi và môi trường
chưa dân chủ, còn khó khăn cho giảng viên trong giảng dạy, nghiên cứu khoa
học, đấu tranh tư tưởng, lý luận. Xuất phát lao động đặc thù của người giảng
viên là hoạt động mang tính quân sự - chính trị, giai cấp; giảng viên rất cần bầu
không khí dân chủ, khoa học để lao động sáng tạo và cống hiến. Nhưng trên
thực tế, tại một số học viện, trường sĩ quan quân đội, một số lãnh đạo, chỉ huy
ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, khoa giáo viên vẫn chưa nhận thức
một cách đầy đủ, sâu sắc vấn đề này nên có lúc chưa tạo lập được môi trường
dân chủ thuận lợi để bảo đảm cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn thực
hiện tốt vai trò của mình trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Vấn đề đặt ra ở đây là một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy còn có tâm lý
“lo sợ”, hay ngại tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe các ý kiến đóng góp của giảng
viên; một số cán bộ chưa thực sự cầu thị, thậm chí có lúc, có nơi còn có hiện
tượng quy chụp, nâng cao quan điểm chính trị một cách thái quá. Có thể nói,
những bất cập đó đã ảnh hưởng rất lớn đến thái độ, tâm lý của giảng viên khi
tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Hệ quả là nguồn lực trí tuệ của
giảng viên chưa được phát huy đúng mức, một số chủ trương, chính sách, đề
án đổi mới giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học còn bị để lại trong “tiềm
thức”, chưa được thực hiện trong thực tiễn; gây ra sự lãng phí về thời gian,
tiền của, công sức của đội ngũ giảng viên. Nghiêm túc nhìn nhận đánh giá
111
một cách khách quan, khoa học về thực tiễn môi trường dân chủ ở mỗi học
viện, trường sĩ quan, để tạo điều kiện cho giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đúng như Đảng ta khẳng
định: “Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích
tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý
luận” [40, tr. 256]. Bên cạnh đó, cũng cần nghiêm túc đánh giá việc thực hiện
những quy định về việc giảng viên nói và làm theo nghị quyết, thể hiện trong
quá trình giảng dạy, nghiên cứu khoa học, trong đấu tranh phản bác quan
điểm sai trái, thù địch và cả trong sinh hoạt, học tập của mỗi giảng viên.
Thứ hai, đối với việc bảo đảm thông tin, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ
thuật để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Hiện nay, việc lợi dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, trào lưu tư tưởng cổ vũ cho sự tồn tại, phát triển của chủ
nghĩa tư bản đang trỗi dậy; thuyết kỹ trị, thuyết hội tụ, thuyết ba nền văn
minh… được tung hô với nhiều sắc màu mới. Đồng thời, các thế lực thù địch
triệt để lợi dụng những phương tiện mới nhằm quảng bá sức mạnh của chủ
nghĩa tư bản; xuyên tạc, bóp méo sự thật, tuyên truyền chống phá nền tảng tư
tưởng của Đảng. Các thế lực thù địch xác định khoa học và công nghệ hiện đại
là mũi nhọn được ưu tiên sử dụng làm phương tiện để chống phá cách mạng.
Tình hình đó, đặt ra nhiều khó khăn hơn trong việc đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch; dẫn đến tình trạng: “Công tác đấu tranh phản
bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có
nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư
luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời” [46, tr. 91].
Tất nhiên, trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch không được
nóng vội, võ đoán; đòi hỏi phải thận trọng suy xét, thấu đáo quan điểm, tư
tưởng của đối phương. Thực tế này đồng nghĩa với việc giảng viên còn bị
112
động, luôn ở thế phải chống đỡ và phải phản công... Vấn đề đặt ra là giải
quyết mối quan hệ biện chứng giữa đòi hỏi tính nhanh chóng, nhạy bén, kịp
thời nhận dạng, đấu tranh bác bỏ các tư tưởng sai trái, thù địch, những nhận
thức mơ hồ, lệch lạc, sai lầm, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
với điều kiện đảm bảo thông tin cả chính diện và phản diện.
Do đó, việc nắm và cung cấp thông tin cho giảng viên, nhất là thông tin có
định hướng, thông tin cụ thể về các đối tượng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì
vậy, đánh giá, xem xét một cách khách quan về công tác tổ chức và cơ chế
cung cấp thông tin hiện nay ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, nhất là
những thông tin mật, thông tin hẹp, thông tin chuyên đề, phục vụ một cách
nhanh chóng, kịp thời, chính xác cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn,
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch thông qua thực hiện nhiệm
vụ của giảng viên là rất cần thiết.
Bảo đảm cơ sở, vật chất, phương tiện kỹ thuật cho nhiệm vụ bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng đang đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết.
Trong những năm qua, các học viện, trường sĩ quan quân đội đã được đầu tư,
nâng cấp về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật; tạo nhiều thuận lợi cho
giảng viên thực hiện nhiệm vụ gắn với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Bộ
Quốc phòng đã quan tâm, chỉ đạo, đầu tư cho các học viện, trường sĩ quan
quân đội “hoàn thành, triển khai 2000 máy tính ảo (giai đoạn 2); nâng cấp 186
tài khoản người dùng thuộc lực lượng 47 giúp theo dõi thông tin trên diện
rộng” [8, tr. 89]. Song, hiện nay quân đội còn nhiều khó khăn nên không thể
đáp ứng đầy đủ yêu cầu cao về tính hiện đại, đồng bộ về cơ sở, vật chất,
phương tiện kỹ thuật phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, góp phần bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nhận thức đúng mâu thuẫn này để có những
giải pháp cụ thể, sát thực nhằm phát huy tốt hơn nội lực của các học viện,
trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
113
Thứ ba, đối với cơ chế, chính sách cho giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Trong những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, ban giám
đốc, (ban giám hiệu) các học viện trường sĩ quan quân đội đã có nhiều chính
sách đãi ngộ đối với đội ngũ nhà giáo quân đội. Tuy nhiên, trước sự biến đổi
nhanh chóng của đời sống kinh tế, xã hội, nhu cầu vật chất và tinh thần của con
người nói chung, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn nói riêng ngày càng
cao, đã làm cho một số chính sách trở nên lạc hậu, bất cập, không theo kịp.
Do đặc thù hoạt động của các học viện, trường sĩ quan quân đội nên
việc xác định giá trị sức lao động của giảng viên còn có những điểm chưa
thực sự phù hợp đã ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò của họ trong bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, bổ sung, hoàn thiện chính sách đãi ngộ
cũng là vấn đề đặt ra cần được quan tâm giải quyết. Bên cạnh đó, chính sách
khen thưởng, tôn vinh nhà giáo quân đội có thành tích xuất sắc trong đấu
tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng còn có những bất cập cần tháo gỡ
để tạo ra động lực phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Bởi lẽ, giảng viên tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một
hoạt động chính trị - xã hội, nó mang tính vật chất, cần được thực hiện thông
qua các công cụ, phương tiện, cơ chế, chính sách. Chính vì vậy, việc bảo đảm
cơ chế, chính sách đãi ngộ hợp lý là đòi hỏi tất yếu, khách quan đặt ra cần
quan tâm giải quyết. Cơ chế, chính sách phù hợp là sự động viên, khích lệ,
thừa nhận của tổ chức đối với vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nếu chính sách khen thưởng,
tôn vinh thiếu công bằng, không thực chất, khách quan, thù không thể khuyến
khích giảng viên nhiệt tình, trách nhiệm, tâm huyết trong thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
114
3.2.4. Vấn đề đặt ra đối với việc phát huy tính tích cực, chủ động của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Thứ nhất, đối với việc rèn luyện bản lĩnh chính trị của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Bản lĩnh chính trị là sự tổng hợp biện chứng của lập trường chính trị,
phẩm chất chính trị và năng lực chính trị; là điều kiện cần thiết để đảm bảo
cho mỗi giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Bản lĩnh chính
trị vững vàng là vấn đề quyết định sự sống còn và thành công của mỗi giảng
viên. Đó là kết quả của một quá trình giáo dục, bồi dưỡng, học tập và rèn
luyện thường xuyên, kiên trì, bền bỉ trong thực tiễn. Bản lĩnh chính trị là phần
cốt lõi, cơ bản nhất, là phẩm chất quan trọng hàng đầu của mỗi giảng viên.
Đó là sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với lợi ích
của Tổ quốc với Đảng, Nhà nước và nhân dân; là tinh thần, ý chí, quyết tâm
phấn đấu, vượt mọi khó khăn, gian khổ, không dao động trước thử thách, áp
lực để hoàn thành nhiệm vụ. Cấp ủy, chỉ huy các cấp ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội quan tâm, tạo điều kiện cho giảng viên tự học tự rèn, nâng cao
bản lĩnh chính trị; coi đó là yêu cầu bức thiết, thường xuyên của công tác xây
dựng Đảng nói chung và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói riêng.
Bên cạnh đó, nâng cao hiệu quả việc tự học tập, tự quán triệt, tự bồi
dưỡng và tu dưỡng về mọi mặt, tự nâng cao năng lực nhận thức, trình độ hiểu
biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý
tưởng của Đảng. Gắn việc tích cực, chủ động rèn luyện với tự rèn luyện qua
đó, phát huy tính tiền phong, gương mẫu của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong giảng dạy, nghiên cứu
khoa học và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.
115
Thứ hai, đối với việc nâng cao năng lực, kỹ năng đấu tranh của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Trên thực tế, dưới tác động của các chủ thể cùng với quá trình tự phát huy
vai trò trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn có nhận thức và hành động tích cực, tự giác, chủ động tự học tập, tự
rèn luyện nâng cao năng lực. Tuy nhiên, những ưu điểm, hạn chế, bất cập đã và
đang đặt ra những vấn đề cần nghiên cứu để có những biện pháp cụ thể phát huy
hơn nữa vai trò của đội ngũ giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Trước hết, phải làm rõ và thống nhất quan điểm nâng cao nhận thức,
trách nhiệm và hoạt động của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong tự
phát huy, tự học tập, tự rèn luyện nâng cao năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng; đi liền với đó là khắc phục
những nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về vấn đề này. Mặt khác, vấn đề đặt
ra là lãnh đạo, chỉ huy ở các học viện, trường sĩ quan quân đội có vai trò như
thế nào đối với tự học tập, tự rèn luyện để nâng cao năng lực bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn hiện nay.
Vai trò của giảng viên sẽ được phát huy như thế nào trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng nếu giảng viên còn có mặt yếu kém trong giảng dạy,
nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận. Biểu hiện rõ nhất là các
bài viết tham luận hội thảo, công bố trên các tạp chí tính là chiến đấu, khả
năng phản biện khoa học còn mức độ. Không ít giảng viên lý luận chính trị
sau khi nhận bằng thạc sĩ, tiến sĩ và có nhiều năm công tác nhưng năng lực
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chưa tốt; chưa có các công trình, bài viết
có sức thuyết phục người đọc, người nghe khi đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch. Kỹ năng đấu tranh là yếu tố góp phần phát huy vai trò
của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; trong đó, các kỹ năng
116
nhận diện và xử lý các thông tin xấu, độc, thông tin giả trên không gian mạng,
kỹ năng phán bác trực tiếp các thông tin xấu, độc hiện hay kỹ năng phát hiện
vấn đề, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đã được quan tâm
thường xuyên bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên. Tuy nhiên bên cạnh đó,
giảng viên còn bộc lộ những yếu kém về kỹ năng đấu tranh phản bác luận
điệu sai trái của các thế lực thù địch, dẫn đến thụ động trong đấu tranh, lúng
túng khi xử lý các tình huống phức tạp.
Trong khi đó, các thế lực thù địch, nhất là tổ chức khủng bố Việt Tân sử
dụng nhiều phương thức đa dạng, thủ đoạn chống phá hết sức tinh vi, thâm độc,
quyết liệt. Chúng sử dụng nhiều trang web, diễn đàn, blog cá nhân, kênh truyền
hình trực tuyến, báo, đài nước ngoài như VOA, BBC, RFI, RFA để xuyên tạc,
chống phá; đăng tải hàng nghìn bài viết, bài phỏng vấn với thủ đoạn sử dụng
thông tin thật giả lẫn lộn, bịa đặt để bôi nhọ, hạ thấp uy tín các đồng chí lãnh
đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội. Một số ít cán bộ, giảng viên nhận thức chưa
đầy đủ, lại thiếu thông tin, thiếu kỹ năng, có biểu hiện mất cảnh giác, bị thế lực
thù địch tiêm nhiễm, lôi kéo nên đã không giữ vững lập trường, chính kiến nên
đã có những hành vi sai trái; nói, viết, phát tán thông tin, tài liệu sai quy định.
Những vấn đề đặt ra trên đây cần phải xem xét ở nhiều góc độ, nhiều
khía cạnh; để phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cung với đó các kỹ năng sử dụng
phương tiện kỹ thuật, phương tiện công nghệ thông tin, khả năng ngoại
ngữ; kỹ năng đọc sách, phát hiện vấn đề cần cũng cần được lãnh đạo, chỉ
huy các học viện, trường sĩ quan quân đội thật sự quan tâm hơn nữa. Tạo
điều kiện mọi mặt cho giảng viên tự học, tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ
mọi mặt góp phần thực hiện tốt vai trò là chủ thể quan trọng, chủ yếu, trực
tiếp, xung kích trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội hiện nay.
117
Kết luận chương 3
Việc thực hiện vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng thời gian qua đã đạt được những thành tựu quan trọng. Bên cạnh những
kết quả đạt được, vẫn còn có mặt hạn chế, bất cập cần nhận thức đúng và có
biện pháp tháo gỡ. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế xuất phát từ:
Nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể trong lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức thực
hiện; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; môi trường sư phạm ở các học viện, trường sĩ quan quân đội và nguyên
nhân từ nhân tố chủ quan của chính chủ thể này trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Từ thực trạng trên, có thể nhận thấy một số vấn đề đặt ra đối với việc
phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay là
nội dung cấp bách. Đó là: về nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các
cấp trong tổ chức phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn; môi
trường sư phạm cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn thực hiện tốt vai
trò của mình trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; nhân tố chủ quan của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng là những vấn đề nổi cộm cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kịp thời có các
biện pháp khả thi để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm. Đồng thời, đó là
cơ sở thực tiễn để luận án đề xuất những giải pháp phát huy vai trò của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
118
Chương 4
GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIẢNG VIÊN KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
TRONG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG HIỆN NAY
4.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm các chủ thể phát huy vai trò
của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Đây là giải pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm thống nhất ý chí
và hành động của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Kết quả phát huy vai trò của giảng viên
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đạt được cao hay thấp đều bắt nguồn
từ nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể lãnh đạo, chỉ huy các cấp. Chỉ có
nhận thức đúng, trách nhiệm cao mới tạo cơ sở khoa học để giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hành động
đúng, mang lại hiệu quả thiết thực trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Vì vậy, muốn phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng đạt hiệu quả cao, đòi hỏi tất yếu cần nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp.
4.1.1. Nâng cao nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy các cấp về phát huy
vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường
sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về sự cần thiết và yêu cầu phát huy vai
trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng
Xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn, hoạt động và tác hại chống phá của các
thế lực thù địch; từ yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
119
nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ là tất yếu, mà còn là
một mặt trận nóng bỏng, liên quan trực tiếp đến việc khẳng định vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới.
“Trước đây có quan điểm cho rằng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là
công việc mang tính trừu tượng, là nhiệm vụ của các giáo sư, phó giáo sư, cơ
quan chuyên trách của Hội đồng lý luận Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung
ương, tỉnh, thành phố …” [11, tr. 661]. Nghị quyết số 35 của Bộ Chính trị
khóa XII đã khẳng định: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị” [18, tr. 2].
Qua đó cho thấy, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không phải là việc
làm của riêng ai, của một cá nhân, tổ chức nào mà đòi hỏi toàn hệ thống chính
trị phải vào cuộc; trong đó có giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội. Hiệu quả phát huy vai trò của giảng viên
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phụ thuộc rất lớn vào nhận thức của
lãnh đạo, chỉ huy các cấp ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Theo đó,
cần phải đổi mới tư duy về vấn đề này, triển khai thực hiện hiệu quả Nghị
quyết số 35 của Bộ Chính trị khóa XII; đưa nghị quyết vào thực tiễn.
Vì vậy, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo đối với hoạt động của các học viện, trường sĩ quan quân đội, nhằm
xây dựng các tổ chức, các lực lượng tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng hiệu quả nhất. Lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội
cần quan tâm hơn đến vị trí, vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn trong bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn là một bộ phận quan trọng trong thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội. Đội ngũ này có đầy đủ những phẩm chất, năng lực và sức mạnh để truyền
bá, lan tỏa bản chất khoa học, cách mạng, nghiên cứu, vận dụng đúng đắn,
120
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh phản bác
quan điểm sai trái, thù địch. Giảng viên vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu của
quá trình phát huy; vai trò của giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng là khách quan, song chịu sự chi phối rất lớn từ nhận thức của các chủ
thể là lãnh đạo, chỉ huy. Sự chi phối, quyết định được biểu hiện ở kết quả,
hiệu quả hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng của giảng viên trong
từng học kỳ, từng năm học.
Đổi mới nhận thức của cấp ủy, chỉ huy ở các khoa giáo viên, bộ môn về
việc phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước sự
tác động đa chiều trong điều kiện hiện nay là một biện pháp quan trọng. Trên
cơ sở sự nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của nhiệm
vụ này, lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội, khoa giáo viên
có thái độ đúng và trách nhiệm cao trong tiến hành đấu tranh,một cách chủ
động, tích cực, khắc phục được những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Vì
lẽ đó, nhận thức đúng ý nghĩa và tầm quan trọng, vị trí, vai trò, sự cần thiết phải
phát huy vai trò của giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng để
nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ này ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội hiện nay.
Thứ hai, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng
Đảng ta chỉ rõ: “Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho lãnh đạo, chỉ huy. Tích cực
đổi mới, nội dung, chương trình giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong hệ thống giáo dục quốc dân, phù hợp với đối tượng học, bậc
học trong từng thời kỳ phát triển của đất nước” [18, tr. 3] là biện pháp quan
trọng. Thông qua công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, lãnh đạo, chỉ huy các
cấp nhận thức rõ hơn mục tiêu, tính chất, nội dung, mối quan hệ, sự vận động,
121
biến đổi và phương thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; qua đó, đổi mới
tư duy về lãnh đạo, chỉ huy. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đang diễn ra
gay go, phức tạp, là mặt trận đấu tranh đang nóng bỏng; nó liên quan đến mục
tiêu, lý tưởng của Đảng, đến sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa, đến
vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Vì thế, tăng cường công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng làm cho các tổ chức, các lực lượng thấy rõ hơn, nhận thức đúng
hơn về vị trí, vai trò và tầm quan trọng việc phát huy vai trò của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội. Phát huy vai trò của giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là phát huy vai
trò của một lực lượng đông đảo, trực tiếp hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng, lý
luận ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Họ không chỉ trực tiếp bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn có vai trò to lớn trong giáo dục, đào tạo
cán bộ quân đội, bổ sung lực lượng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng ở các đơn vị trong tương lai.
Do vậy, cần tiếp tục đổi mới, nội dung, chương trình, phương pháp giáo
dục chính trị, tư tưởng; kịp thời bổ sung, cập nhật những nội dung mới trong
lãnh đạo, chỉ huy về vấn đề này. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cần giải
quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng, chất lượng, giữa lý luận và thực tiễn;
chủ động định hướng giá trị đúng đắn nhằm nâng cao bản lĩnh và trí tuệ, vốn
sống và kinh nghiệm của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, tăng cường
sức đề kháng và khả năng miễn dịch của giảng viên để vô hiệu hóa mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực phản động, thù địch.
Nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng cần tập trung vào việc học tập,
quán triệt sâu sắc, đầy đủ các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, như: Nghị quyết
số 09-NQ/TW ngày 18 tháng 2 năm 1995 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VII “Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay”;
122
Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý
luận trong tình hình mới”; Nghị quyết số 32/NQ-TW ngày 26 tháng 5 năm
2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về tiếp tục đổi mới,
nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý”; Nghị quyết số 37/NQ-TW ngày 09 tháng 10 năm 2014
của của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về công tác lý luận và
định hướng nghiên cứu đến năm 2030”; Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22
tháng 10 năm 2018 của Bộ Chính trị khóa XII “Về tăng cường bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
trong tình hình mới”. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cần định hướng
vào giáo dục, khắc phục những biểu hiện tuyệt đối hóa, đề cao thái quá vai trò
của giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hoặc hạ thấp, phủ
nhận vai trò của giảng viên, thiếu niềm tin vào khả năng của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là biện
pháp để lãnh đạo, chỉ huy các cấp có tư duy mới, nhận thức tốt hơn về vị trí
vai trò và phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhờ đó mà tổ chức thực hiện nhiệm vụ ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội đạt kết quả tốt hơn.
4.1.2. Nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các học viện,
trường sĩ quan quân đội trong phát huy vai trò giảng viên khoa học xã hội
và nhân văn góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Đây là giải pháp tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về trách nhiệm của lãnh
đạo, chỉ huy và các cơ quan chức năng trực tiếp tham gia vào quá trình phát
huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng. Ngoài nhận thức tốt, cần phải có trách nhiệm cao thì mới
mang lại hiệu quả thiết thực trong thực hiện nhiệm vụ; từ đó, bảo đảm cho các
123
nhiệm vụ được tiến hành thường xuyên đạt chất lượng tốt, khắc phục được
những khó khăn. Nếu các chủ thể không đề cao trách nhiệm của mình sẽ dẫn
đến sự đùn đẩy trách nhiệm; thậm chí có thể “buông lỏng”, “phó mặc” việc
phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, dẫn đến thực hiện nhiệm vụ này hiệu quả không cao.
Do vậy, cần đề cao trách nhiệm; phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể với nhau.
Để thực hiện tốt giải pháp này cần tập trung vào một số biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp là chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai
trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, cần xác định rõ đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên
gắn sát với nhiệm vụ chính trị trung tâm của giảng viên là giảng dạy, nghiên
cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, người chỉ huy ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội tiếp tục nâng cao trách nhiệm phát huy vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Thường xuyên quán triệt các nghị quyết, chỉ thị; thực hiện nghiêm túc,
có hiệu quả kế hoạch, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về nhiệm vụ đấu
tranh tư tưởng, lý luận.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần coi trọng, đổi mới phương thức lãnh
đạo đối với việc phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Hoàn thiện cơ chế phối hợp đấu
tranh giữa các cơ quan chức năng, với cấp ủy, tổ chức đảng ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội. Đồng thời, có phương châm, phương hướng, nghị
quyết, chương trình hành động, định hướng cho các cấp, đặc biệt là cho giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
124
Tùy theo tình hình cụ thể, cấp ủy, tổ chức đảng tiến hành ra nghị quyết
chuyên đề về lãnh đạo nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; trong đó
xác định rõ vị trí, vai trò của lực lượng này trong thực hiện nhiệm vụ. Gắn
chất lượng, hiệu quả hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng với đánh
giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ của giảng viên và nhận xét, đánh giá, phân
loại cán bộ hàng năm.
Chỉ huy ở các học viện, trường sĩ quan quân đội cần nêu gương trong
thực hiện chức trách, nhiệm vụ và rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống để
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn noi theo. Cán bộ phải là người có trách
nhiệm cao trong việc cụ thể hóa kế hoạch, chương trình hành động và trực tiếp tổ
chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; cùng với đó là giải
đáp những vấn đề tư tưởng, chính trị đang đặt ra ở từng đơn vị; tổ chức
phối hợp giữa các lực lượng thuộc quyền với các cơ quan Đảng, Nhà nước
có liên quan trên địa bàn… Có các biện pháp cụ thể nhằm lan tỏa vai trò
của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng. Tổ chức các hội nghị, các lớp tập huấn để kịp thời bổ sung kiến
thức, nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bồi
dưỡng khả năng, kinh nghiệm đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù
địch cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn. Tổ chức tổng kết rút kinh
nghiệm về phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng; qua đó, đánh giá hiệu quả quá trình thực hiện nhiệm vụ này, để đề
xuất chủ trương, biện pháp mới cho phù hợp.
Tạo bầu không khí dân chủ, phát huy tính tích cực, chủ động của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn trong thực hiện nhiệm vụ của các học viện,
trường sĩ quan quân đội. Xây dựng quy chế, quy định tổ chức thực hiện, tạo
điều kiện cung cấp thông tin, nhất là thông tin liên quan đến âm mưu, thủ
125
đoạn chống phá của các thế lực thù địch cho giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn. Đảm bảo cho giảng viên các phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật
hiện đại phục vụ nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Có cơ chế,
chính sách ưu tiên, chế độ đãi ngộ xứng đáng và có quy định về bảo mật
nhằm bảo vệ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn tham gia đấu tranh bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Lãnh đạo, chỉ huy các khoa, bộ môn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội là người trực tiếp, thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng về phẩm chất, năng
lực toàn diện nhằm phát huy vai trò của giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng. Vì vậy, lãnh đạo, chỉ huy các khoa giáo viên, bộ môn cần
quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của trên về đấu tranh tư
tưởng, lý luận nói chung và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói riêng để
định hướng cho giảng viên xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ. Kịp thời
phát hiện và biểu dương những giảng viên có số lượng, chất lượng bài viết,
bài giảng tốt về vận dụng đúng đắn, sáng tạo, phát triển, lan tỏa được chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, nhắc nhở, uốn nắn
những hạn chế về nhận thức, trách nhiệm, năng lực và phương pháp đấu tranh
của giảng viên chưa thực hiện tốt nhiệm vụ. Tạo điều kiện thuận lợi cho giảng
viên tích cực tham gia đấu tranh; kịp thời định hướng nghiên cứu, trực tiếp
chọn lọc và bồi dưỡng, xây dựng những giảng viên giỏi, có kinh nghiệm,
thành tích tham gia vào lực lượng chuyên gia (blogger) ở các học viện, trường
sĩ quan quân đội và đề xuất cho họ tham gia vào lực lượng chuyên trách của
quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan chức năng
Để phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, các cơ quan chức năng cùng với ban chỉ
đạo 35 của các học viện, trường sĩ quan quân đội cần tiếp tục kiện toàn tổ chức,
126
bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất và hoạt động thường xuyên, có hiệu quả của
bộ máy. Có các biện pháp cụ thể, thiết thực trong việc cung cấp thông tin, luận
cứ, chứng cứ, phương thức đấu tranh. Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
có có định hướng, chỉ đạo của các cơ quan chức năng; giảng viên lấy đó làm cơ
sở để dẫn chứng, chứng minh lồng vào các bài giảng, các sản phẩm khoa học.
Các vấn đề có tính chất nhạy cảm, phức tạp cần thận trọng, bảo đảm
chặt chẽ về quan điểm chính trị, khoa học; phải được thông qua sự lãnh đạo
của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp với tổ chức thực hiện. Các cơ quan chức
năng và ban chỉ đạo 35 ở các học viện, trường sĩ quan quân đội căn cứ vào
sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, của cấp trên về nhiệm vụ bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng; căn cứ vào tình hình của các khoa giáo viên, bộ môn và
khả năng tham gia đấu tranh tư tưởng, lý luận của giảng viên, đề xuất với
đảng ủy, ban giám đốc (ban giám hiệu), những chủ trương, biện pháp lãnh
đạo, chỉ đạo sát, đúng, phù hợp với từng khoa trong từng giai đoạn cụ thể.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, nhất là kiểm tra việc giảng viên vận
dụng, định hướng đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong các bài
giảng và trong các sản phẩm nghiên cứu khoa học. Tổ chức rút kinh nghiệm,
biểu dương, khen thưởng, nhân rộng gương điển hình tiên tiến, có thành tích
tốt, đạt hiệu quả cao trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
4.2. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội
4.2.1. Nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Đây là giải pháp có ý nghĩa quyết định đến việc phát huy vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội cả trước mắt và lâu dài, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ nền tảng
127
tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Thông qua đào tạo giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn hình thành cho họ hệ thống kiến thức về chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; hình thành bản lĩnh chính trị kiên định,
vững vàng, hình thành năng lực chuyên môn nghiệp vụ, năng lực tổ chức thực
tiễn hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, để nâng cao chất
lượng đào tạo giảng viên khoa học xã hội và nhân văn góp phần bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng cần thực hiện tốt những nội dung, biện pháp sau đây:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng tuyển chọn nguồn đào tạo giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn có trình độ đại học, sau đại học
Đây là vấn đề cơ bản, có ý nghĩa chiến lược đối với việc nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội; do vậy, lãnh
đạo, chỉ huy các nhà trường xem xét, tổ chức thực hiện tốt giải pháp này.
Trước hết nâng cao nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp về
vấn đề này; coi đây là biện pháp quan trọng, đầu tiên trong thực hiện các
khâu, các bước của quá trình đào tạo.
Tiếp tục đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn nâng cao chất
lượng tuyển chọn đầu vào đào tạo giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có
trình độ đại học, sau đại học ở các học viện, trường sĩ quan quân đội một cách
căn bản, toàn diện cả về mục đích, động cơ, nguyện vọng, năng khiếu sư
phạm, nghề nghiệp, chuyên môn. Đây là nội dung bắt buộc đối với nhiệm vụ
dạy người, “trồng người”, đào tạo ra các thế hệ cán bộ, sĩ quan quân đội,
giảng viên, nhà khoa học, cho nên bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tính
đảng, tính chiến đấu và năng lực sư phạm là những tiêu chuẩn hàng đầu.
Tuyển chọn cán bộ để đào tạo họ trở thành giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn là những cán bộ, sĩ quan có đặc điểm tâm lý ổn định, bền vững,
thể trạng, thể hình không dị tật; có tư duy nhanh nhạy, mềm dẻo, sắc sảo,
khả năng ứng xử, diễn đạt lưu loát, rõ ràng, mạch lạc, không nói ngọng,
128
nói lắp, nét chữ không quá xấu; có phong cách, lối sống, lao động và học
tập chăm chỉ, kiên trì, giản dị, khiêm tốn, gần gũi mọi người, quan hệ,
giao tiếp tốt... Tất cả những yếu tố trên là điều kiện cần thiết để học viên
có thể rèn luyện, phấn đấu, tu dưỡng trở thành giảng viên khoa học xã hội
và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Tuyển chọn đầu vào
nhằm tuyển chọn những người ưu tú nhất, có đủ điều kiện, tiểu chuẩn để
trở thành một giảng viên; là cơ sở, điều kiện để đào tạo được đội ngũ
giảng viên có trình độ, phẩm chất, năng lực tương xứng; kiên trung, hoàn
thành tốt chức trách nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Thường xuyên quán triệt, cụ thể hóa các nghị quyết, quyết định của cấp
trên về công tác giáo dục, đào tạo, như Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4 tháng
11 năm 2013, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo”; Quyết định số 2523/QĐ-BQP ngày 15 tháng 7 năm 2013
thực hiện “Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong quân đội giai đoạn
2011 - 2020”; thông tư Điều lệ Công tác nhà trường Quân đội nhân dân Việt
Nam và các chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về nâng cao chất lượng dạy
và học, chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, đào tạo,
v.v.. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung, chuẩn hóa theo hướng đổi mới quy trình,
chương trình, nội dung đào tạo giảng viên sát với yêu cầu đổi mới, nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo trong các nhà trường quân đội hiện nay. Quá trình
đổi mới, nâng cao cần được đặt trong mối quan hệ biện chứng với kế thừa và
phát triển; trên nền tảng những thành quả của công tác đào tạo. Các học viện,
trường sĩ quan quân đội cần đổi mới theo hướng tinh giản, khắc phục sự trùng
lặp các môn học ở các cấp học, sự quá tải, lạc hậu của nội dung, chương trình.
Cần thực hiện có kế hoạch, nền nếp nhiệm vụ nghiên cứu, biên tập, bổ sung,
129
cập nhật, chuẩn hóa chương trình đào tạo sau đại học 2 năm một lần như Học
viện Chính trị đang thực hiện. Lấy chất lượng, hiệu quả đào tạo làm mục tiêu
của đổi mới; hình thành hệ thống các chuyên đề phản ánh sự phát triển lý luận
và thực tiễn hoạt động quân sự. Tăng thời gian tự học, tự nghiên cứu; chú
trọng, nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu các tác phẩm kinh điển; gắn
việc thu hoạch kết quả nghiên cứu tác phẩm với việc đánh giá kết quả học tập.
Định hình, hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho học viên đào tạo giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn; qua đó, giúp giảng viên tương lai vừa có khả
năng truyền thụ, phát triển, lan tỏa bản chất khoa học cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tốt, vừa có năng lực nghiên cứu, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo trong thực tiễn.
Khắc phục kịp thời những hạn chế của phương pháp giảng dạy cũ, đã lạc
hậu; tăng cường các phương pháp giảng dạy gợi mở, phát huy tính sáng tạo của
người học; tăng thời lượng các chuyên đề nghiên cứu, đọc tác phẩm kinh điển,
để tìm ra lý luận gốc trong hoạt động đào tạo giảng viên hiện nay. Phương pháp
giảng dạy cần sinh động, phù hợp với từng bậc học, cấp học; tạo ra sự hứng thú,
trách nhiệm cho cả người dạy và người học. Đổi mới các tiêu chí đánh giá kết
quả học tập theo hướng toàn diện: Đánh giá kiến thức môn học, rèn luyện phát
triển các kỹ năng, năng lực tư duy sáng tạo, kỹ năng sư phạm. Phương pháp
kiểm tra, đánh giá kết quả người học có thể theo hướng ra đề mở, tăng tính khái
quát, tổng kết hơn là kiểm tra theo kiểu tái hiện lại những nội dung đã ghi chép.
4.2.2. Đổi mới chất lượng bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội
Vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không phải là
bất biến mà luôn vận động, phát triển theo yêu cầu của thực tiễn. Do đó, cùng
130
với nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên, thì việc bồi dưỡng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong quá trình công tác là việc làm có ý nghĩa quyết định hiệu quả phát huy
vai trò của họ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Để thực hiện tốt giải
pháp này, cần chú trọng thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới nội dung và phương pháp bồi dưỡng chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Nghị quyết số 32-NQ/TW
ngày 26 tháng 5 năm 2014 của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục đổi mới, nâng
cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh
đạo, quản lý và Nghị quyết số 37/NQ-TW ngày 09 tháng 10 năm 2014 về
công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030. Theo đó, bồi
dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là nhiệm vụ
bắt buộc để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo đi đôi với nâng cao hiệu
quả thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Bồi dưỡng toàn diện nhằm bổ sung, nâng cao các yếu tố về trình độ tri
thức, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác cho giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn; bồi dưỡng để giảng viên hiểu rõ, nắm chắc chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bản chất, truyền thống, sức
mạnh, kỷ luật của Quân đội. Trong đó, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là trọng điểm, là cái “cốt vật chất” không
thể thiếu trong tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Hiện nay, ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội mặc dù số lượng, cơ cấu đội ngũ giảng viên
ngày càng được nâng lên nhưng chất lượng đội ngũ nói chung và tri thức lý
luận về Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng (đặc biệt là giảng viên
mới) vẫn còn có những hạn chế, bất cập. Để công tác bồi dưỡng lý luận đạt
131
được mục đích lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần coi trọng đổi mới nội dung, hình
thức bồi dưỡng. Tập trung làm sáng tỏ bản chất khoa học, cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiếp tục trang bị cho giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn lập trường, quan điểm, hiểu rõ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân trong giai đoạn cách mạng mới. Phương pháp tiếp cận
trong xem xét, phân tích có căn cứ khoa học về nguồn gốc ra đời, bản chất, xu
hướng vận động, phát triển của các trào lưu tư tưởng, quan điểm sai trái, thù
địch, chống phá cách mạng nước ta. Qua đó, bảo đảm cho giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn luôn kiên định, vững vàng, không giao động, hoang mang
trong mọi điều kiện hoàn cảnh.
Bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn hiểu rõ bản chất nhiệm vụ của công tác lý
luận là soi đường cho thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định
đường lối chính trị. Cần lấy thực tiễn là điểm xuất phát và cũng là điểm đến
của quá trình bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn; chú trọng bồi dưỡng phù hợp với sự
biến đổi của thực tiễn, chú ý đến lợi ích và hiệu quả mà thực tiễn yêu cầu. Bồi
dưỡng, nâng cao năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng gắn chặt với
nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện. Nếu xa rời hoạt động thực tiễn giảng dạy và nghiên cứu khoa học thì
không thể nâng cao năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có chất
lượng, hiệu quả. Vì vậy, mỗi giảng viên lý luận chính trị cần tận dụng triệt để
môi trường thực tiễn đấu tranh phản bác quan điểm sai trái trong giảng dạy và
nghiên cứu khoa học để tích cực, chủ động, tự giác tự học tập, tự rèn luyện
nâng cao năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Lãnh đạo, chỉ huy các cấp ở các học viện, trường sĩ quan quân đội linh
hoạt, sáng tạo sử dụng các hình thức, biện pháp bồi dưỡng đó là: Tổ chức các
132
lớp tập huấn, tọa đàm, cấp trên bồi dưỡng trực tiếp cho cấp dưới, tự bồi dưỡng,
thông qua nghiên cứu khoa hoc, sinh hoạt học thuật, trao đổi, tọa đàm và đi
nghiên cứu thực tế đề bồi dưỡng đội ngũ, v.v., với sự tham gia có trách nhiệm
của các giảng viên “gạo cội” có kinh nghiệm để tạo cơ hội cho giảng viên giao
lưu, học hỏi. Tổ chức tốt các hình thức nghiên cứu chuyên đề, giáo dục lý luận
chính trị hàng năm, kết hợp với tăng cường các buổi thông tin thời sự.
Tổ chức các chương trình phối hợp hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng giữa các học viện, trường sĩ quan quân đội với các cơ quan, đơn vị,
nhà trường ngoài quân đội như mô hình Trường sĩ quan Chính trị phối hợp
thực hiện cùng với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đổi mới hình
thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả bồi dưỡng lý luận, bảo
đảm thực chất. Tiếp tục xây dựng hệ thống kiểm định đánh giá chất lượng các
cơ sở đào tạo, các chương trình đào tạo lý luận chính trị, quy trình và tiêu chí
đánh giá cán bộ, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội.
Thứ hai, thường xuyên tổ chức kiểm tra, rút kinh nghiệm bồi dưỡng chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Một trong những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Đảng là lãnh đạo cần đi đôi với kiểm tra, giám sát. Kết
quả thực hiện thế nào phụ thuộc một phần lớn vào công tác kiểm tra. Kết quả
không tốt là do lãnh đạo, đôn đốc, kiểm tra không chặt chẽ. Có kiểm tra mới
huy động được tinh thần tích cực và năng lực của giảng viên khoa học xã hội
và nhân văn, mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của họ, rút kinh nghiệm và
sửa chữa kịp thời. Lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội
cần nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện, lịch sử và cụ thể ưu điểm,
khuyết điểm, hạn chế, tìm ra nguyên nhân trong quá trình tổ chức bồi dưỡng
lý luận cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn.
133
Trên cơ sở đó, xác định phương hướng, nội dung, phương thức bồi
dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với phát huy vai trò
của giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Thông qua đó để
thấy rõ ưu, khuyết điểm của từng cá nhân, bộ phận, xác định rõ vai trò trách
nhiệm thuộc về ai, tổ chức nào; đổi mới về nhận thức cũng như phương pháp
bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm thực hiện tốt
nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Chấn chỉnh,
kịp thời khắc phục tình trạng “trên nóng dưới lạnh” trong quá trình kiểm tra; rút
kinh nghiệm bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tránh
hiện tượng kiểm tra, rút kinh nghiệm sơ sài, làm cho xong, mang tính hình
thức; nặng về biểu dương, khen thưởng, đánh giá thấp hoặc xem nhẹ những
khuyết điểm, hạn chế hoặc đổ lỗi cho tập thể, cho hoàn cảnh khách quan.
4.3. Xây dựng môi trường sư phạm dân chủ, tạo động lực thúc đẩy
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội chủ động, chủ động, tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
4.3.1. Môi trường dân chủ trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Đây là giải pháp cơ bản, lâu dài nhằm phát huy hiệu quả vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Đảng ta khẳng định: “Phải tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận
khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập
thể” [40, tr. 256]. Môi trường dân chủ là cơ sở, là động lực cho giảng viên
phát huy tốt vai trò của mình, tìm tòi, sáng tạo, cống hiến. Do vậy, tạo lập
được môi trường dân chủ cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và
môi trường dân chủ trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội có ý nghĩa rất quan trọng.
134
Thứ nhất, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững
mạnh toàn diện
Xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên ở các học viện, trường
sĩ quan quân đội, trong sạch, vững mạnh là cơ sở để có môi trường dân
chủ trong cơ quan, đơn vị. Xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên
có bản lĩnh chính trị, không sợ hy sinh, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao. Duy trì và thực hiện nghiêm nguyên tắc
tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; thực hiện có nền
nếp chế độ tự phê bình và phê bình; chế độ kiểm tra, giám sát; thường
xuyên củng cố kiện toàn cấp ủy, bảo đảm cho cấp ủy thật sự tiêu biểu cho
trí tuệ của Đảng bộ nhà trường, các khoa giáo viên; luôn giữ vững sự đoàn
kết, thống nhất, giữ vững kỷ luật Đảng. Xây dựng đảng ủy, chi bộ khoa,
bộ môn vững mạnh toàn diện, trong đó, trú trọng xây dựng cấp ủy trong
sạch vững mạnh, chi bộ tốt, gắn với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng là khâu then chốt.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp thường xuyên nghiên cứu nắm chắc
Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của trên về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong tình hình hiện nay, các học viện, trường
sĩ quan quân đội cần tiếp tục thực hiện nghiêm Chỉ thị số 917/1999/CT-QT
ngày 22 tháng 9 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về xây dựng đơn
vị vững mạnh toàn diện. Cụ thể hóa và triển khai tổ chức thực hiện có hiệu
quả 5 tiêu chuẩn xây dựng đơn vị vững mạnh, toàn diện vào xây dựng nhà
trường chính quy, tiên tiến, mẫu mực; trong đó, đặc biệt chú trọng tiêu
chuẩn vững mạnh về chính trị, bảo đảm mọi giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn có bản lĩnh chính trị vững vàng, quyết tâm chiến đấu cao, sẵn
sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Kết hợp giữa xây dựng
các học viện, trường sĩ quan quân đội vững mạnh toàn diện với xây dựng
135
môi trường sư phạm dân chủ mẫu mực ở các khoa, bộ môn. Đây là một bộ
phận của môi trường sống ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả phát huy vai
trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng và cũng là cơ sở quan trọng để phòng, chống và có biện
pháp ngăn ngừa những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, xây dựng môi trường dân chủ trong giáo dục, đào tạo, nghiên
cứu khoa học và trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch
Môi trường dân chủ trong giáo dục, đào tạo là điều kiện quan trọng
để phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Môi trường dân chủ tốt sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho họ phát huy dân chủ, trí tuệ, phát triển lý luận trong quá trình
giáo dục, đào tạo. Cần có cơ chế quản lý thống nhất, chặt chẽ sao cho vừa
phát huy tối đa trí tuệ của giảng viên vừa giữ vững định hướng chính trị
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó là nơi thật sự dân chủ, phát
huy tối đa sự sáng tạo trong trình bày quan điểm, chính kiến của mình;
không phân biệt chức vụ quản lý, trình độ học vấn hay tuổi đời. Đó là môi
trường mà giảng viên luôn có thái độ tôn trọng những ý kiến khác nhau,
thận trọng lắng nghe, đề cao tự phê bình và phê bình, khuyến khích tự do
tư tưởng, tránh quy chụp, thành kiến với những giảng viên nêu ra những
vấn đề mới, những vấn đề nhạy cảm.
Dân chủ trong giáo dục, đào tạo biểu hiện trong tất cả các mối quan hệ:
giảng viên - học viên; giảng viên với giảng viên hoặc giữa giảng viên với cán
bộ quản lý với lãnh đạo, chỉ huy, v.v.. Biểu hiện trực tiếp là khi thảo luận một
vấn đề, họ phải được trình bày chính kiến, quan điểm của mình; nhất là trong
điều kiện hiện nay thực hiện chủ trương “lấy người học làm trung tâm”, để
khơi dậy, phát huy tính độc lập, sáng tạo của người học, tạo không gian mở để
136
giảng viên, học viên cùng tiệm cận đến chân lý. Môi trường dân chủ trong giáo
dục, đào tạo còn là môi trường yêu cầu cao đối với người giảng viên để có thể
đảm đương tốt nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư
tưởng, lý luận. Yêu cầu này, đòi hỏi người giảng viên không ngừng tu dưỡng,
hoàn thiện cả về phẩm chất và năng lực; trong đó đặc biệt chú ý tới tri thức về
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự hiểu biết thấu đáo về chủ
trương, đường lối của Đảng để vận dụng vào quá trình thực hiện chức trách,
nhiệm vụ được giao.
Phát huy dân chủ cần được thể hiện trong mọi cấp; từ cấp cao nhất ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội, đến các khoa giáo viên, bộ môn, từng bộ
phận. Vì vậy, ở tất cả các khoa, bộ môn cần thường xuyên duy trì các nền nếp
sinh hoạt học thuật như trao đổi, sinh hoạt học thuật, giải quyết những vướng
mắc trong giảng dạy. Định kỳ tổ chức trao đổi rút kinh nghiệm đấu tranh ở
những phạm vi, lực lượng khác nhau. Tổ chức những hoạt động đó cần mở
rộng thành phần tham gia có cả giảng viên, cán bộ các cơ quan chức năng,
học viên ở các cấp học, bậc học để các đối tượng bổ sung cho nhau những nội
dung cần thiết về lý luận, thực tiễn.
Dân chủ trong nghiên cứu khoa học góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, biểu hiện ở việc lãnh đạo, chỉ huy tạo điều kiện cho giảng viên có
các công trình nghiên cứu chuyên sâu về mục tiêu, nội dung, tính chất, yêu
cầu, phương pháp đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tăng cường
tổ chức các hội thảo khoa học, trao đổi, rút kinh nghiệm, những vấn đề lý luận
và thực tiễn cấp bách... Thông qua các hình thức sinh hoạt khoa học, phải tạo
điều kiện cho họ tham gia viết bài, trình bày diễn thuyết quan điểm, ý tưởng
của mình trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Phát huy vai trò của các chuyên gia, nhà
khoa học giỏi đầu ngành làm nòng cốt trong bồi dưỡng, hướng dẫn giảng viên
137
nhằm tìm ra cái mới, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi giảng viên khoa học xã hội và nhân văn cần
phấn đấu trở thành tấm gương trong xây dựng môi trường dân chủ, lành
mạnh; xây dựng học viện, trường sĩ quan quân đội, các khoa giáo viên trở
thành nơi đoàn kết, gắn bó mọi người với nhau trên tình thương yêu đồng
chí, đồng đội. Coi xây dựng môi trường dân chủ vừa là mục tiêu vừa là
động lực để phát huy tốt vai trò của giảng viên trong nghiên cứu khoa học,
góp phần đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc
nền tảng tư tưởng của Đảng.
Môi trường dân chủ trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch. Trên cơ sở Quy định số 285-QĐ/TW, ngày 25 tháng 5 năm 2015 của
Bộ Chính trị khóa XI về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị và đấu
tranh tư tưởng, lý luận; cấp ủy, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội
xây dựng môi trường dân chủ trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù
địch ở đơn vị. Có môi trường dân chủ trong đấu tranh, giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội mới mạnh dạn thảo
luận, tranh luận cởi mở, dám nghĩ, dám làm, dám đấu tranh.
Khắc phục ngay những biểu hiện quy chụp, áp đặt về quan điểm chính
trị; mạnh dạn ứng dụng các sản phẩm nghiên cứu khoa học và hoạt động thực
tiễn đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Xây dựng môi trường dân
chủ trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội, cần phê phán quan điểm tự ti, ngại phê bình của
một bộ phận giảng viên khoa học xã hội và nhân văn tự cho mình là không
có học hàm, học vị; không đảm nhiệm cương vị lãnh đạo, quản lý nên e
ngại, không muốn tham gia vào những hoạt động đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch. Từ đó, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
không tích cực tích lũy kiến thức chuyên môn, không đi sâu nghiên cứu,
138
phát triển tư duy lý luận và tích lũy tri thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Làm cho trình độ tri thức khoa học không theo kịp yêu
cầu đổi mới toàn diện và đồng bộ nội dung, phương pháp giảng dạy và yêu
cầu chung của nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh hiện nay.
4.3.2. Tạo động lực thúc đẩy giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
chủ động, tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Thứ nhất, bảo đảm thông tin, tư liệu, phương tiện làm việc và các điều
kiện cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng
Công tác thông tin tư liệu là điều kiện quan trọng, phục vụ trực tiếp cho
nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Kịp thời cung cấp thông tin chính diện, phản diện; xây dựng môi
trường thông tin thật sự hấp dẫn, đầy đủ, kịp thời và giữ vững định hướng
chính trị trong cung cấp nguồn thông tin, tư liệu. Đây là kênh thông tin chính
thức và chủ yếu để giảng viên khoa học xã hội và nhân văn tiếp cận, phát hiện
vấn đề cần đấu tranh, cần bảo vệ. Do đó, thông tin thường xuyên cập nhật,
chính thống và có chất lượng cao, tạo khả năng cho giảng viên có thêm những
luận cứ, luận chứng khoa học để khẳng định hay phủ định một nội dung luận
điểm nào đó của các thế lực thù địch.
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn cần cần tiếp cận nhiều nguồn
tài liệu cả chính thống và không chính thống; cập nhật, bổ sung, cấp phát các
loại sách, báo, tạp chí, tài liệu, cả những tài liệu, bản tin đặc biệt hàng ngày
dành cho cán bộ lãnh đạo các khoa, các bộ môn. Quá trình tiếp cận thông tin,
nhất là thông tin phản diện, trái chiều đòi hỏi giảng viên tỏ rõ bản lĩnh chính
trị, khả năng tự định hướng tư tưởng; từ đó, có quan điểm đúng, với lý lẽ
thuyết phục, kiên quyết đấu tranh bác bỏ những cách biện giải vô lý, sai trái
của các thế lực thù địch.
139
Đảng ủy, ban giám đốc (ban giám hiệu), các khoa giáo viên, trực tiếp là
giảng viên cần đầu tư, nghiên cứu, bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch qua các kênh thông tin khác nhau. Có kế hoạch bám sát các cơ quan
nghiệp vụ thuộc Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương, Tổng cục II, Bộ Tư
lệnh 86, Cục Tuyên huấn, Cục Bảo vệ An ninh quân đội Tổng cục Chính trị,
các cơ quan chức năng thuộc Hội đồng Lý luận Trung ương, Tổng cục Chính
trị để phổ biến thông tin chuyên đề cho các đối tượng, đặc biệt là giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn. Có kế hoạch mời các chuyên gia cao cấp đến
thông tin, thông báo tình hình về những vấn đề mà các thế lực thù địch đang
tập trung chống phá; tổ chức tập huấn, giới thiệu nội dung, phương pháp viết
bài đấu tranh để từng bước bổ sung kỹ năng, phương pháp cho giảng viên biết
cách vận dụng vào từng hình thức, phương pháp cụ thể trong đấu tranh; tổ
chức giới thiệu sách, tài liệu theo chuyên đề, tạo điều kiện cho giảng viên
thuận lợi trong khai thác, tiếp thu và xử lý thông tin.
Phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của ban chỉ đạo 35 các cấp trong
quân đội, cơ quan chức năng của các học viện, trường sĩ quan quân đội. Các
cơ quan này là nòng cốt trong bảo đảm thông tin và định hướng chính trị cho
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Thông tin cần bảo đảm sâu sắc, hệ thống, chất lượng, thiết thực, kịp
thời và hiệu quả ngày càng cao, cần nâng cao chất lượng hệ thống mạng, thư
viện điện tử. Cùng với cung cấp thông tin, tư liệu, tài liệu đầy đủ, cần bảo
đảm cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho giảng viên. Tiếp tục trang bị
thêm các phương tiện nghe nhìn, khai thác thông tin hiện đại (hệ thống
mạng, máy tính…) để tra cứu, lấy thông tin phục vụ giảng viên làm việc. Có
quy chế sử dụng, phương tiện kỹ thuật phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phù hợp,
sát với đặc điểm tình hình, bảo đảm tính nguyên tắc trong quản lý, khai thác
các nguồn tư liệu mật; bảo đảm những thông tin cần thiết, tạo điều kiện giúp
140
giảng viên tham gia đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Bản thân
giảng viên cần chủ động, tự giác học tập nâng cao khả năng, kỹ năng sử
dụng các phương tiện thông tin; đẩy mạnh các hoạt động tra cứu tài liệu
bằng nhiều hình thức. Mua sắm bảo đảm phương tiện, máy tính, trang thiết
bị kỹ thuật, phục vụ, mở các phòng đọc chuyên dùng, phòng đọc hạn chế,
máy chiếu, Internet. Xây dựng thư viện phần mềm, kết nối với thư viện của
các cơ quan dân chính Đảng, thư viện Quốc gia..., phục vụ giáo dục, đào tạo,
nghiên cứu khoa học gắn với đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch. Tổ chức khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin của các
trung tâm thông tin thư viện lớn của Nhà nước, Bộ Quốc phòng, thư viện các
học viện, trường sĩ quan, viện nghiên cứu, thông qua các mạng nội bộ, tuân
thủ nguyên tắc về giữ bí mật quân sự, bí mật quốc gia.
Thứ hai, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ đối với
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Cơ chế, chính sách đối với nhà giáo quân đội nói chung và giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội nói riêng
có một vị trí đặc biệt quan trọng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quân đội mạnh là nhờ
giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm” [90, tr. 483].
Muốn phát huy vai trò của giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng cần đổi mới, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách. Chính sách nào
chưa rõ ràng, chưa phù hợp với sự phát triển của tình hình thực tiễn, cần điều
chỉnh, sửa đổi; nội dung nào còn thiếu bổ sung cho đủ, đúng và phù hợp. Đó
là hành lang pháp lý; là động lực giúp giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
yên tâm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Phát huy tối
đa năng lực, trí tuệ tâm huyết, nhiệt tình, trách nhiệm của giảng viên trong
đấu tranh chống những quan điểm phản động, thù địch, góp phần bảo vệ vững
chắc hệ tư tưởng của Đảng.
141
Các học viện, trường sĩ quan quân đội cần cụ thể hóa những chính sách,
chế độ đãi ngộ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; quan tâm tạo điều
kiện mọi mặt để động viên, khuyến khích giảng viên tham gia tích cực vào
nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Quân đội kịp thời bổ sung, điều
chỉnh, hoàn thiện chế độ tiền lương, tiền phụ cấp đứng lớp, phụ cấp vượt giờ,
tiền nước uống, tiền phục vụ thông tin, tiền nghiên cứu khoa học, viết tài liệu,
giáo trình, cho phù hợp với tình hình mới. Ngoài các chính sách mang tính
đặc thù trên, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn cần được quan tâm hơn
các chính sách về nhà ở, chính sách hậu phương quân đội, chính sách phục
viên, nghỉ hưu (nhưng vẫn là cộng tác viên cho các học viện, trường sĩ quan
quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng).
Các chính sách được đề cập trên có nội dung đã được Nhà nước ban
hành, đã được triển khai thực hiện, nhưng có những chính sách trong quân đội
chưa áp dụng hoặc có loại chưa nằm trong hệ thống chính sách chung, song vì
mục đích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quân đội vẫn cần các học
viện, trường sĩ quan quân đội nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện. Bên cạnh các
chính sách nêu trên, cần quan tâm đến chính sách bảo đảm điều kiện làm việc,
sinh hoạt học tập, nghiên cứu riêng đặc thù cho giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn tham gia đấu tranh phản bác cac quan điểm sai trái, thù địch, góp
phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng (tài liệu; tham quan trao đổi học
thuật với đồng nghiệp trong và ngoài nước). Nghiên cứu thực hiện tốt các
chính sách về đào tạo, bồi dưỡng trong nước và nước ngoài.
Có chính sách ưu đãi nâng lương, kéo dài tuổi phục vụ tại ngũ; tặng
thưởng các danh hiệu; thăng quân hàm trước niên hạn, vận dụng đề bạt quân
hàm cao hơn so với trần quân hàm theo chức danh giảng viên đối với những
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có thành tích đặc biệt xuất sắc trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; nghiên cứu đổi mới chế độ phụ cấp trong
142
thực hiện nhiệm vụ này. Quan tâm đúng mức việc đầu tư kinh phí cho việc
biên soạn giáo trình, tài liệu giảng dạy liên quan đến bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng. Có chính sách phù hợp để tập hợp, thu hút giảng viên đã nghỉ hưu,
nhất là các chuyên gia trên lĩnh vực này tham gia cộng tác viên, bổ sung lực
lượng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
4.4. Tích cực hóa nhân tố chủ quan của giảng viên khoa học xã hội
và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng
Nhóm giải pháp này có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm khơi dậy,
chuyển hóa những yêu cầu khách quan của các chủ thể thành nhu cầu tự thân,
tự phát huy vai trò của mình trong tự học, tự rèn của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội; sử dụng những tiềm
năng về nhận thức, trách nhiệm, phẩm chất, năng lực, bản lĩnh chính trị, trình
độ lý luận và kỹ năng đấu tranh vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây
là giải pháp quyết định, suy đến cùng, đối với việc phát huy vai trò của đội
ngũ này trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
4.4.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Thứ nhất, xác định rõ mục đích, động cơ và thái độ, trách nhiệm trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu, quyết định hiệu quả nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn. Bởi lẽ
mục đích, động cơ và thái độ, trách nhiệm đúng đắn là điều kiện quan trọng
để giảng viên khoa học xã hội và nhân văn phát huy tính tích cực, chủ động
và sáng tạo cũng như lòng say mê trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và
trong đấu tranh. Từ nhận thức tốt sẽ xác định rõ mục đích trong đấu tranh; tạo
động lực, động cơ, thái độ tốt, từ đó chuyển hóa thành ý chí quyết tâm cao,
143
khắc phục mọi khó khăn, thử thách kiên quyết đấu tranh phản bác quan điểm
sai trái, thù địch. Mỗi giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội cần xác định rõ việc tham gia bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng vừa là nhiệm vụ; vừa là vinh dự, trách nhiệm lớn lao
của mình đối với sự nghiệp xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, đối
với Tổ quốc, Đảng, Nhà nước và nhân dân. Để góp phần bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn không đơn thuần
chỉ là có mục đích, động cơ và thái độ đúng đắn, quan trọng hơn là chuyển
hóa nó thành nhận thức tốt, trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ
giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đấu tranh tư tưởng, lý luận. Mỗi giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn cần đặt ra những yêu cầu cụ thể cho bản
thân, xây dựng thành kế hoạch làm việc có nền nếp, biến những yêu cầu
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tiềm thức, trong tâm thế thành
nhu cầu nội tại trong mỗi người; thành lòng đam mê đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm kế hoạch giảng
dạy, nghiên cứu khoa học gắn với đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch
Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt kế hoạch giảng dạy, nghiên cứu khoa
học và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là khâu quyết định chất
lượng, hiệu quả hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do vậy, giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn cần có kế hoạch bồi dưỡng, tự bồi dưỡng,
thực hiện các nhiệm vụ này theo từng giai đoạn, từng chủ đề, từng nội dung
do các học viện, trường sĩ quan quân đội đặt ra. Kế hoạch giảng dạy, nghiên
cứu khoa học và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch cần cụ thể,
thiết thực, bao gồm mục tiêu, yêu cầu, nội dung và biện pháp cụ thể; mục tiêu
yêu cầu đề ra sát thực, có cơ sở khoa học, chỉ tiêu phấn đấu toàn diện nhưng
có trọng tâm, trọng điểm, bám sát nhiệm vụ đơn vị và vai trò, chức trách,
144
nhiệm vụ của người giảng viên khoa học xã hội và nhân văn. Nội dung kế
hoạch cần tập trung nâng cao nhận thức, trách nhiệm; đảm bảo thiết thực, hiệu
quả; trong đó cần tập trung vào mục đích, động cơ và thái độ đúng đắn trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ. Việc xác định thời gian, nội dung trong kế
hoạch cần cụ thể, tránh tình trạng xây dựng kế hoạch một cách chung chung,
mang tính hình thức, làm cho xong, cho có để đối phó.
Lãnh đạo, chỉ huy ở các học viện, trường sĩ quan quân đội cần thường
xuyên kiểm tra, đánh giá quá trình xây dựng và thực hiện nội dung, chương
trình trong kế hoạch giảng dạy, nghiên cứu khoa học gắn với đấu tranh phản
bác quan điểm sai trái, thù địch của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn.
Mục đích là để tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, củng cố
thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng trong xem xét và
thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, góp phần bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng.
4.4.2. Nâng cao bản lĩnh chính trị của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Thứ nhất, nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng bản lĩnh chính
trị của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng
Bản lĩnh chính trị của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn là kết
quả của một quá trình trải nghiệm, rèn luyện và sự tự nhận thức đúng vai trò
của mình trong hoạt động sư phạm. Nếu bản lĩnh chính trị không kiên định,
vững vàng, giảng viên sẽ dễ bị dao động, hoặc bị cám dỗ bởi mặt trái của nền
kinh tế thị trường, bị mua chuộc, đe dọa của các thế lực thù địch, phản động;
sự lôi kéo của các đối tượng dẫn đến “tự diễn biến”, “tư chuyển hóa”. Do đó,
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn không chỉ cần có trình độ tri thức lý
luận, năng lực, phương pháp tư duy khoa học tốt mà còn phải có bản lĩnh chính
145
trị vững vàng để tích cực tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn cần chủ, động tích cực tu
dưỡng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, nhiệt tình, tâm huyết, trách
nhiệm đối công việc được giao. Tự rèn luyện để có niềm tin vững chắc, có
tầm quan trọng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; tin vào khả năng
vượt qua khó khăn, gian khổ, vươn lên hoàn thành nhiệm vụ, góp phần xây
dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Mỗi giảng viên cần biến quá trình tự giáo
dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, thành hoạt động tự giác
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Bản lĩnh chính trị được biểu hiện ở
ý trí quyết tâm, sự tâm huyết, nhiệt tình, trách nhiệm của giảng viên trong
giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng. Nếu giảng viên nhận thức đúng vai trò của bản lĩnh chính trị thì
tính chủ động, tích cực trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch
được nâng cao. Điều đó sẽ góp phần đầy lùi các nguy cơ “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong đội ngũ. Bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng là cơ sở,
nền tảng tạo nên sức mạnh, giúp họ vượt qua khó khăn, vất vả trong cuộc
sống để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ hai, phát huy tính tích cực, sáng tạo trong tự học, tự rèn của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn để nắm chắc, hiểu rõ giá trị, bản chất khoa
học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng luôn
chịu sự tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong tự học, tự rèn để hiểu rõ bản chất khoa
học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là quá
trình nhận thức đúng và giải quyết hài hòa, hiệu quả các mâu thuẫn đang tồn
tại trong mỗi giảng viên.
146
Đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về lý luận cách mạng với thực tiễn
nhận thức, trình độ tư duy, thói quen của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn còn có mặt hạn chế, bất cập. Tự học tập, tự rèn luyện là phương thức chủ
yếu và trực tiếp để giảng viên tự nâng cao trình độ lý luận, năng lực công tác
đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi trong thực hiện nhiệm vụ hiện nay. Tính tự
giác trong tự học là điều kiện quan trọng hàng đầu giúp giảng viên rèn luyện
nâng cao sự hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Muốn vậy, giảng viên cần có môi trường tự học tập, rèn luyện gắn với các chỉ
tiêu phấn đấu, động lực, quyết tâm và tích cực, sáng tạo trong tự học. Tự học,
tự rèn nâng cao hiểu biết, nắm vững bản chất khoa học, cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một quá trình nghiêm túc, công
phu và lâu dài; giảng viên khoa học xã hội và nhân văn cần chuyển hóa những
yêu cầu khách quan thành nhu cầu chủ quan đề điều chỉnh các hành vi nhằm
nâng cao trình độ lý luận. Nhận thức đúng bản chất của tự học, tự rèn nâng
cao hiểu biết, nắm vững bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cần có nhận thức tốt, trách nhiệm cao, hành
động cương quyết trong tự học, tự rèn.
Học tập lý luận chính trị là một yêu cầu tất yếu khách quan giảng viên
mới có ý thức, trách nhiệm trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận luôn luôn
thay đổi để phản ánh đúng thực tiễn; do đó, để hiểu biết, nắm chắc bản chất
khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giảng
viên nhất thiết phải chủ động, tự học, tự rèn, là người đi đầu trong nghiên cứu,
học tập lý luận chính trị. Luôn có ý thức nắm bắt tình hình thực tiễn của đất
nước, quân đội để cập nhật thông tin gắn chặt lý luận với thực tiễn bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng. Điều này cấu thành bởi: “Học để làm việc, để làm
người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc
và nhân loại” [86, tr. 208].
147
Thứ ba, phát huy tính tích cực, chủ động của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn trong nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh
Sức thuyết phục, tính chiến đấu và giá trị của mỗi bài giảng, mỗi
sản phẩm khoa học phụ thuộc trực tiếp vào trình độ tư duy lý luận của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn. Do đó, cần kiên quyết khắc phục
các biểu hiện “xem thường” lý luận, “dị ứng” lý luận, cũng như kịp thời
đẩy lùi bệnh lười học lý luận, tâm lý ngại nghiên cứu lý luận ở một số
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn. Khắc phục tình trạng “lười học,
ngại nghiên cứu lý luận chính trị vẫn còn trong đội ngũ cán bộ, lãnh đạo,
quản lý và ngay cả giảng viên lý luận. Nhiều người học lý luận mà không
hiểu, không nắm được hồn cốt của lý luận, cho nên không biến lý luận
thành phương pháp nhận thức, phương pháp hành động, phương pháp
công tác” [106, tr. 5].
Muốn vậy, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn đối với việc học tập lý luận và giúp họ thấy được giá
trị, ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Từ đó, biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh phản
bác quan điểm sai trái, thù địch. Tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá
trình nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh có ý nghĩa quan trọng đối với giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn. Tính chủ động giúp giảng viên sắp xếp công việc, có kế hoạch thực hiện
bài bản, nền nếp. Giảng viên cần chủ động nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không xem lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh nhất thành bất biến, mà luôn vận động, phát triển, cần
được bổ sung phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
148
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh
thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập
những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng
tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với
thực tiễn” [97, tr. 611]. Thường xuyên cập nhật kết quả nghiên cứu mới về lý
luận, vận dụng kết quả nghiên cứu trong các đề tài khoa học để tăng tính
thuyết phục trong bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cập
nhật thông tin về mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là những thành tựu
mới nhất của khoa học, kỹ thuật hiện đại; liên hệ, vận dụng trong giảng dạy,
nghiên cứu, làm sáng tỏ, bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
4.4.3. Nắm vững bản chất, âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá
của các thế lực thù địch, rèn luyện kỹ năng, phương pháp đấu tranh bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng phù hợp, hiệu quả
Thứ nhất, bám sát thực tiễn giảng dạy, nghiên cứu khoa học
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn tham gia đấu tranh bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng thông qua giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Nếu xa
rời hoạt động thực tiễn thì giảng viên không thể có nội dung, hình thức,
phương pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng, đạt chất lượng, hiệu quả. Vì vậy, mỗi
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn cần tận dụng triệt để hoạt động giảng
dạy, nghiên cứu khoa học để đẩy mạnh đấu tranh phản bác các quan điể sai
trái, thù địch. Tri thức khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, đường lối của Đảng, bản chất, truyền thống và nhiệm vụ của quân đội
chỉ có thể thấm sâu vào bài giảng, thuyết phục người học khi giảng viên vận
dụng sát thực tiễn, chứng minh bằng thực tiễn sinh động.
Do đó, trong giảng dạy, giảng viên cần thống nhất lý luận và thực tiễn;
khẳng định cái đúng luôn đi đôi với phê phán cái sai và đặt mục đích tạo sự
149
đồng thuận, nhất trí cao với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn cần
đầu tư nhiều hơn thời gian, công sức, trí tuệ để có được những bài viết, công trình
nghiên cứu khoa học chuyên sâu, đấu tranh trực diện, trực tiếp với những tư tưởng
sai trái, thù địch. Khẳng định cái đúng, phê phán cái sai, trên cơ sở khoa học.
Thường xuyên rèn luyện tư duy khoa học, tinh thần say mê nghiên cứu, tích cực
tìm tòi, kiên trì, độc lập sáng tạo, dám nghĩ dám làm, vượt khó khăn, gian khổ tích
cực, hăng say lao động sáng tạo trong thực tiễn nghiên cứu khoa học. Khắc phục
khuynh hướng tách rời lý luận với thực tiễn, thoát ly thực tiễn.
Gắn nghiên cứu thực tế ở các đơn vị cơ sở, với giảng dạy, nghiên cứu
khoa học; xem xét những vẫn đề cấp thiết trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng; từ đó, kịp thời giải đáp những vấn đề đặt ra từ thực tiễn. Nếu không
gắn lý luận trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học với thực tiễn thì không thể
đào tạo, bồi dưỡng những con người dám nghĩ, dám làm; giảng viên sẽ thiếu
niềm tin, thiếu năng lực hành động độc lập, chủ động, sáng tạo; rơi vào giáo
điều, sách vở, tất yếu họ không thể bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ hai, hiểu rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của
các thế lực thù địch
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn cần nhận diện đúng bản chất,
âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội trong
phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Điểm mới trong âm mưu, thủ đoạn
chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, của các thế lực thù địch là “chúng
chuyển từ việc công khai nói xấu Đảng sang công khai đòi từ bỏ Đảng, thực
hiện nền tảng tư tưởng mới, kim chỉ nam mới, hệ tư tưởng mới, thực chất là
hệ thư tưởng tư sản” [6, tr. 2]. Chúng cho rằng: “Có những việc 100 máy bay
chiến đấu không thực hiện được, nhưng chỉ cần 10 sứ giả lại có thể hoàn
thành” [6, tr. 8]; “Một đô la chi cho tuyên truyền, có tác dụng ngang với 5 đô
la chi cho quốc phòng” [6, tr. 9].
150
Mặt trận tư tưởng, lý luận rất rộng lớn, sự tấn công, chống phá của các
thế lực thù địch rất đa dạng, tinh vi, nhiều thủ đoạn nên đòi hỏi kinh nghiệm,
bản lĩnh chính trị, chuyên môn và thế mạnh của từng giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn. Thủ đoạn mới chống phá của các thế lực thù địch hiện nay là:
“Tấn công, công khai, liên kết với nhau, thành phong trào, hoạt động liên tục
với cường độ mạnh; thiết kế, xây dựng các video clip, phát tán, triệt để lợi
dụng hình thức live stream trực tiếp trên các tài khoản cá nhân, thông qua các
phương tiện truyền thông để tăng tính tương tác…” [6, tr. 1-5].
Phương thức chống phá là: “Tuyên truyền, truyền đơn, biểu ngữ; phát
hành sách báo; sử dụng phương tiện truyền thông; thông qua hoạt động giáo dục,
khoa học, diễn đàn để phát tán quan điểm sai trái, phản động; thông qua hỗ trợ
nhân đạo, đầu tư kinh phí để cho đối tượng chống phá; tổ chức truyền đạo, lập
đạo trái phép, tuyên truyền mê tín, dị đoan; mua chuộc cán bộ dưới nhiều hình
thức, xây dựng lực lượng ngầm trong đội ngũ cán bộ; tăng cường hoạt động xâm
nhập, móc nối, xây dựng nhân tố bên trong để tác động, phá hoại bản sắc văn
hóa dân tộc.. [6, tr. 9]. Thông qua hoạt động thực tiễn hoạt động sư phạm,
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn bằng trí tuệ và tâm huyết, nhiệt tình
và trách nhiệm với Đảng, Nhà nước, nhân dân, kịp thời cập nhật thông tin,
hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của địch; có các bài viết đấu tranh vạch
trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản
động, giúp học viên nâng cao cảnh giác, quyết tâm đấu tranh bảo vệ Đảng,
Nhà nước, Quân đội, bảo vệ thành quả cách mạng.
Thứ ba, mài sắc ý chí, có dũng khí, kỹ năng, phương pháp đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tri thức lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng, bản chất, truyền thống và nhiệm vụ của quân đội chỉ
có thể truyền thụ cho người học khi giảng viên phân tích, làm rõ cái đúng,
151
cái sai. Việc khẳng định cái đúng có tác dụng phê phán cái sai, luận chứng
làm rõ sai lầm, phản động về chính trị của các tư tưởng sai trái, thù địch
là con đường, biện pháp rèn luyện dũng khí, kỹ năng bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội.
Cần nâng cao khả năng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho
giảng viên bằng tính sắc sảo, sự thuyết phục trong mỗi bài giảng, bài viết,
mỗi công trình nghiên cứu khoa học, khắc phục “lối” đấu tranh xuôi
chiều, chủ yếu là khẳng định từ phía ta. Giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn cần tích cực, chủ động, tự giác tự học tập, tự rèn luyện nâng cao
năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thực tiễn hoạt động sư
phạm; cần đề phòng khuynh hướng tách rời lý luận với thực tiễn, thoát ly
thực tiễn. Hồ Chí Minh đã dạy: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt
đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự
cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân
dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để
tiến bộ kịp nhân dân” [95, tr. 377], có như vậy giảng viên khoa học xã hội
và nhân văn mới nâng cao được năng lực, hiệu quả bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng.
Xây dựng đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có dũng khí,
kỹ năng trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là một trong
những nhân tố biểu hiện tập trung của tính đảng, tính khoa học, là ý thức trách
nhiệm của giảng viên và là biểu hiện của bản lĩnh chính trị và năng lực đấu
tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch của giảng viên. Dũng khí đấu tranh
được biểu hiện ở tính chủ động, kiên quyết, gan dạ, không ngại khó khăn,
gian khổ, không run sợ trước sức mạnh của kẻ thù, không bị mua chuộc, lôi
kéo; mạnh dạn phê bình, tự phê bình trong tập thể, đơn vị. Thực tiễn cho thấy
152
có nhiều giảng viên có trình độ chuyên môn, năng lực công tác tốt, nhưng lại
thiếu dũng khí trong đấu tranh, cần phải khắc phục điểm yếu này.
Bồi dưỡng, nâng cao dũng khí cho giảng viên trong đấu tranh phản bác
quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng của cấp ủy, tổ chức đảng,
người chỉ huy các cấp; là trách nhiệm của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn. Muốn có dũng khí, kỹ năng, phương pháp trong đấu tranh, đòi hỏi cấp ủy,
người chỉ huy ở các học viện, trường sĩ quan quân đội cần quan tâm, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học của giảng
viên; thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng lý luận để bồi dưỡng kỹ năng, dũng khí
đấu tranh cho đội ngũ giảng viên. Trong đó, tập trung bồi dưỡng các kỹ năng
Đọc sách, phát hiện vấn đề, phát hiện vấn đề trong tác phẩm đã đọc. Bồi dưỡng
kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, cách thức xử lý các thông tin xấu, độc;
lấy kết quả kiểm tra, đánh giá tiêu chí về sử dụng công nghệ thông tin để đưa
vào bình xét, đánh giá cán bộ hằng năm. Bồi dưỡng về kỹ năng viết bài đấu
tranh; nhằm nâng cao khả năng luận chiến, đấu tranh phù hợp, sắc sảo để bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Tăng cường bồi dưỡng trình độ ngoại ngữ cho giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn; lấy tiêu chí kiểm tra, đánh giá trình độ ngoại ngữ
của giảng viên vào bình xét, cán bộ, đảng viên hằng năm. Giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn luôn là lực lượng xung kích đi đầu về kỹ
năng và dũng khí đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội; có ý chí quyết tâm cao, không ngại
khó khăn, gian khổ, không sợ nguy hiểm, biết dùng trí tuệ, tư duy lý luận
sắc bén để vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù
địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Bồi dưỡng kỹ năng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua các
bài giảng, các sản phẩm khoa học. Qua đó đấu tranh với các quan điểm sai
153
trái, phản động. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức đấu tranh trong
thực tiễn, đòi hỏi giảng viên phải có “nghệ thuật” đấu tranh, phản bác với sự
đa dạng, phong phú, linh hoạt và sáng tạo trong sử dụng các hình thức. Tiến
hành bồi dưỡng phương pháp đấu tranh qua tập huấn chuyên đề, thông qua
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; truyền đạt kinh nghiệm và thông qua các
hoạt động thực tiễn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Qua đó, bổ sung,
hoàn thiện tri thức, kỹ năng tay nghề, phán ánh sự kết hợp chặt chẽ, lôgíc,
khoa học giữa lý luận và thực tiễn; giúp cho giảng viên tiếp thu những kinh
nghiệm hay, cách làm tốt, khắc phục những sơ hở, thiếu sót, hoàn thiện kỹ
năng đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Coi trọng cách thức,
phương pháp phổ biến kinh nghiệm đấu tranh của cấp trên đối với cấp dưới,
kinh nghiệm của những cán bộ, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, nhà
khoa học chuyên gia giỏi, đầu ngành có phương pháp, kỹ năng đấu tranh tốt,
hiệu quả cao trong họat động thực tiễn để truyền đạt cho giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn những kỹ năng, phương pháp hiệu quả nhất. Làm phong
phú phương pháp bồi dưỡng, bổ sung, phát triển lý luận về phát huy vai trò
của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
154
Kết luận chương 4
Vấn đề cốt lõi để phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng là tìm ra cơ chế tác động, phương thức giải quyết các mối quan
hệ. Trên cơ sở đó, tận dụng có hiệu quả sự tác động có chủ ý của các chủ thể
nhằm khõi dậy, gia tãng, lan tỏa vai trò của giảng viên trong quá trình giảng
dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.
Đó là mục đích cuối cùng để phát huy tốt vai trò của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đấu tranh phản bác
quan điểm sai trái, thù địch.
Phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ dựa trên cơ sở phương pháp luận
khoa học và thực tiễn hoạt động sư phạm của giảng viên. Vấn đề quan trọng
là thực hiện hiệu quả các giải pháp phù hợp, thiết thực và khả thi để nâng cao
chất lượng, hiệu quả đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng với ý nghĩa đó tác giả luận án đề xuất bốn nhóm
giải pháp cơ bản là: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể; nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; xây dựng môi trường sư phạm thuận lợi cho giảng viên tham gia bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng; tích cực hóa nhân tố chủ quan của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Những giải pháp này có mối quan hệ biện chứng, gắn bó với nhau, tạo
thành thể thống nhất. Thực hiện giải pháp này là cơ sở, tiền đề vững chắc để
tiến hành giải pháp tiếp theo. Việc thực hiện đồng bộ, toàn diện, thống nhất
các giải pháp có ý nghĩa quyết định chất lượng đấu tranh phản bác quan điểm
sai trái, thù địch, hiệu quả phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
155
KẾT LUẬN
1. Trên cơ sở tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan, đề tài luận
án tiếp cận một cách hệ thống, dưới góc độ triết học, xác định những vấn đề
lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đây là vấn đề mới, không trùng lặp với các công trình khoa học, đề tài, luận
văn, luận án đã được công bố; có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là tổng hợp
các chức năng, nhiệm vụ, tạo thành hệ thống giá trị, thể hiện vị trí, tầm quan
trọng cùng các mối quan hệ của họ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Luận án tập trung nghiên cứu và luận giải phát huy vai trò của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn thông qua thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên
cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận của giảng viên. Họ là chủ thể chủ
yếu, trực tiếp truyền thụ và khẳng định bản chất khoa học, cách mạng nền
tảng tư tưởng của Đảng cho người học; là lực lượng nòng cốt trong nghiên
cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và là chủ thể chủ công, xung kích trong đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch.
Vai trò của giảng viên là khách quan gắn với đặc điểm, năng lực, phẩm
chất, chức năng, nhiệm vụ và hoạt động sư phạm của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn. Theo đó, phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng là tổng hợp cách thức, biện pháp tác động hợp quy luật của
các chủ thể làm cho vai trò của giảng viên được khơi dậy, gia tăng và lan tỏa
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Việc phát huy vai trò của đội ngũ
này chịu sự quy định của các nhân tố cơ bản mà trước hết là nhận thức, trách
156
nhiệm của các chủ thể; tiếp đến là chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và môi trường sư phạm ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội chi phối quá trình bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng; cùng với đó là nhân tố chủ quan của chính đội ngũ này trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
3. Khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng cho thấy bên cạnh những kết quả đã đạt được
còn những hạn chế, yếu kém nhất định. Những thiếu sót, khuyết điểm đó có
nguyên nhân từ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các chủ thể lãnh đạo, chỉ huy ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội nhất là mặt chưa đầy đủ trong tổ chức
triển khai thực hiện nhiệm vụ đấu tranh; chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi
dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn có thời điểm chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ, đòi
hỏi của thực tiễn. Một số đơn vị chưa xây dựng được môi trường sư phạm
thuận lợi cho bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và nguyên nhân chủ yếu từ
tính năng động, sáng tạo trong tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
của bản thân giảng viên khoa học xã hội và nhân văn.
Từ đó, đặt ra những vấn đề cần phải được tháo gỡ, giải quyết đó là: Về
nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể là lãnh đạo, chỉ huy; công tác đào tạo,
bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn; vấn đề về môi trường sư phạm cho giảng viên tham
gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và việc phát huy nhân tố chủ quan của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
4. Tiến hành thường xuyên, toàn diện, đồng bộ các giải pháp sẽ khắc
phục được những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình tổ chức phát huy vai
157
trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các giải pháp cơ bản cần
tập trung vào việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể. Xây dựng
đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có đủ phẩm chất, năng lực
hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao thông qua việc làm tốt công
tác đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngay từ
khi họ còn ngồi trên ghế nhà trường và trên cương vị là người giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn. Mặt khác, tạo ra được một môi trường sư phạm thật
sự dân chủ trong quá trình tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích
cực hóa nhân tố chủ quan của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo mọi điều kiện thuận lợi để giảng viên
thực sự là lực lượng xung kích, đi đầu; luôn là lực lượng nòng cốt, có uy tín ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội trong tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng hiện nay.
158
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Trịnh Xuân Ngọc (2017) “Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ chính trị cấp
phân đội trong đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên không
gian mạng”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 5, tr. 50 - 52.
2. Trịnh Xuân Ngọc (2018), “Giải pháp phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “phi
chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch”; Tạp chí Giáo dục lý
luận chính trị quân sự, số 4, tr. 23 - 25.
3. Trịnh Xuân Ngọc (2018), “Một số yêu cầu trong phòng, chống “phi chính
trị hóa” quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới”; Tạp chí
Giáo dục và Xã hội, số đặc biệt, tr. 296 - 299.
4. Trịnh Xuân Ngọc (2020), “Bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới”; Tạp chí Triết học, số 348,
tháng 5, tr. 74 - 81.
5. Trịnh Xuân Ngọc (2020), “Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
tính cách mạng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng - Vận dụng cho hiện
nay”; Tạp chí Cộng sản, số 946, tháng 7, tr. 34 - 38.
6. Trịnh Xuân Ngọc (2020), “Âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế
lực thù địch và vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội
hiện nay; Tạp chí Giáo duc lý luận chính trị quân sự, số 4, tr. 31 - 33.
7. Trịnh Xuân Ngọc (2020), “Bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong bối cảnh hiện nay”; Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam; số
10, tr. 89 - 97.
8. Trịnh Xuân Ngọc (2021), “Vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn ở các nhà trường quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng”; Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 2, tr. 30-33.
9. Trịnh Xuân Ngọc (2021), “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình
mới”; Tạp chí Cộng sản điện tử; số ra ngày 03 tháng 6 năm 2021.
159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh (2017), “Phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên lý luận chính
trị trong cuộc đấu tranh tư tưởng ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận
chính trị và Truyền thông, số 10, tr. 43-47.
2. Ph. Ănghen (1885), “Lời tựa cho lần xuất bản thứ ba bằng tiếng Đức tác
phẩm của C.Mác “Ngày mười tám tháng sương mù của Lu-i Bô-na-pác-
tơ”, C. Mác và Ph. Ănghen toàn tập, Tập 21, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 372 - 374.
3. Ph. Ăngghen (1887), “Thư gửi bà Phlo-ren-xơ Ken-li-vi-sne-vét-xcai-a ở
Niu Ooc”, C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, Tập 36, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 795 - 797.
4. Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương (2019), Báo cáo Kết quả thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan
điểm sai trái, thù địch, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa trong Đảng
bộ Quân đội năm 2019, (Lưu hành nội bộ), Hà Nội.
5. Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương (2020), Báo cáo Kết quả thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan
điểm sai trái, thù địch, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa trong Đảng
bộ Quân đội năm 2020, (Lưu hành nội bộ), Hà Nội.
6. Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương (2020), Nhận diện âm mưu, thủ đoạn
chống phá của các thế lực thù địch và một số giải pháp phòng chống
của Ban Chỉ đạo 35 các cấp, (lưu hành nội bộ).
7. Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương (2019), Kỷ yếu Hội nghị Ban Chỉ đao 35 Quân
ủy Trung ương, tổng kết nhiệm vụ năm 2019, (Lưu hành nội bộ), Hà Nội.
8. Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương (2020), Kỷ yếu Hội nghị Ban Chỉ đạo
35 Quân ủy Trung ương, tổng kết nhiệm vụ năm 2020, (Lưu hành nội
bộ), Hà Nội.
160
9. Ban Tuyên giáo Trung ương (2020), Những nội dung cốt lõi trong các văn
kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự
thật, Hà Nội.
10. Ban Tuyên giáo Trung ương (2020), Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
trong tình hình mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Nhà xuất
bản trẻ, Hà Nội.
11. Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Công an, Hội đồng lý luận Trung ương
(2020), Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan
điểm sai trái, thù địch trong tinh hình mới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
cấp Quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Bạo (2016), Phát huy vai trò đội ngũ giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn ở Học viện Chính trị với đấu tranh phòng chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong quân đội, Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, Hà nội.
13. Hoàng Chí Bảo (2010), Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Duy Bắc (2020), “Về một số nội dung, phương thức, hình thức
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm
sai trái, thù địch”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, tr. 85-89.
15. Nguyễn Đình Bắc (2015), Phát huy vai trò đội ngũ giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị trong cuộc đấu tranh tư tưởng,
lý luận hiện nay, đề tài cấp Học viện, Hà Nội.
16. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 32-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, nâng
cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán
bộ, đảng viên, Hà Nội.
17. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 37-NQ/TW về công tác lý luận và
định hướng nghiên cứu đến năm 2030, Hà Nội.
161
18. Bộ Chính trị (2018), Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch trong tình hình mới, Hà Nội.
19. Bộ Quốc phòng (2000), Điều lệ công tác Nhà trường Quân đội nhân dân
Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
20. Bộ Quốc phòng (2003), Quyết định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban
hành Quy định về tổ chức dạy học các môn khoa học xã hội và nhân
văn trong nhà trường quân đội, Hà Nội.
21. Bộ Quốc phòng (2013), Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong quân
đội giai đoạn 2011 - 2020, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
22. Bộ Quốc phòng (2016), Thông tư số 51/2016/TT-BQP ban hành Điều lệ
Công tác nhà trường quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội
23. Bộ Quốc phòng (2019), Báo cáo số 13866/BC-BQP ngày 11 tháng 12 năm
2019 về tổng kết công tác quân sự, quốc phòng năm 2019, Hà Nội.
24. Nguyễn Trọng Chuẩn (2016), “Khẳng định những giá trị đúng đắn của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin trong bối cảnh hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 3, tr. 4-10.
25. Lê Văn Cương (2020), Nghiên cứu phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình
hình mới, Đề tài cấp nhà nước, Hà Nội.
26. Đoàn Thị Chín, Nguyễn Trọng Phán (2016), “Vai trò của đội ngũ giảng viên lý
luận chính trị với việc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục, lý luận, tháng 10, số 251, tr. 3-5.
27. Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị (2017), Bảo vệ và phát triển nền
tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
28. Điền Tâm Danh (2010), “Tại sao phải kiên trì vai trò chỉ đạo của chủ
nghĩa Mác”, Tạp chí Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, số 1, tr. 34-36.
162
29. Nguyễn Bá Dương (2017), Phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh - Một đòi hỏi phi lý, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 5, tr. 17-21.
30. Nguyễn Bá Dương (2021) Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tiếng gọi
từ trái tim, mệnh lệnh của cuộc sống, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
31. Bùi Hải Dương (2017), “Vai trò đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở các
trường chính trị trong công tác tư tưởng”, Tạp chí Giáo dục lý luận,
tháng 10, số 257, tr. 55-58.
32. Trần Thị Anh Đào (2010), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ
làm công tác tư tưởng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Trần Thị Anh Đào (2020), “Một số giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng
xã hội”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10, tr. 110-116.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Đảng về công tác Tuyên giáo
trong thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
163
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng
kết (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm
đổi mới (1986-2016), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 196.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa
XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Đảng ủy Quân sự Trung ương (2010), Tổng kết một số vấn đề lý luận -
thực tiễn qua 20 năm thực hiện cương lĩnh năm 1991 của Bộ Quốc
phòng (1991 - 2011), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
48. Lương Văn Đồng, Tân Trọng Cần, Vương Triều Văn, Vương Hạnh
Phương (1993), Chiến lược diễn biến hòa bình của Mỹ, (Tổng cục II Bộ
Quốc phòng Việt Nam dịch), Hà Nội.
49. Giắc cơ Đêriđa (1994), Những bóng ma của Mác, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
50. Phạm Thanh Giang (2019), Phát triển nguồn lực giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn chất lượng cao trong các học viện quân đội hiện nay,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
51. Ngô Văn Hà (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng đội
ngũ giảng viên đại học hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Nguyễn Thị Hạnh (2019), “Vai trò của đội ngũ giảng viên lư luận chính
trị trong cách mạng Công nghiệp 4.0 ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên, tháng 12, tr. 129-133.
164
53. Nguyễn Hùng Hậu (2014), Bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11, tr. 32-37.
54. Phạm Ngọc Hiền (2010), Phòng, chống “diễn biến hòa bình” và “cách
mạng màu” ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Vũ Văn Hiền (2018), “Nhận rõ tình hình mới và các dạng quan điểm sai
trái, thù địch”, Tạp chí Cộng sản, số 908, tr. 55-62.
56. Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2020), “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong
tình hình mới”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 2, tr. 45-48.
57. Học viện Chính trị (2003), Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội
trước tình hình mới, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
58. Học viện Chính trị (2010), Tiến bước dưới cờ Đảng quang vinh, Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
59. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Vai trò của đội ngũ cán
bộ khoa học ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong cuộc
đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận
hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
60. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Giữ vững nền tảng tư
tưởng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Vững bước trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà
xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
62. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2020), Phương thức, hình thức
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai
trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
63. Hội đồng Lý luận Trung ương (2004), Vững bước trên con đường đã
chọn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
165
64. Hội đồng Lý luận Trung ương (2015), Phê phán các quan điểm sai trái,
bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Hội đồng Lý luận Trung ương (2017), Phê phán các quan điểm sai trái,
xuyên tạc, cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị trong Đảng,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Hội đồng Lý luận Trung ương (2020), 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
67. Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương (2020), Một số luận cứ
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của
Đảng Tâp 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
68. Nguyễn Mạnh Hưởng (2012), Xây dựng đội ngũ trí thức quân đội trong
thời kỳ mới, Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng, Viện Khoa học Xã
hội và Nhân văn quân sự, Hà Nội.
69. Phạm Đức Kiên (2018), “Nhận diện, đấu tranh phản bác các quan điểm
sai trái, thù địch phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong cộng cuộc
đổi mới ở Việt Nam”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 2, tr. 23-26.
70. Nguyễn Anh Lân (1993), Chiến lược diễn biến hòa bình của đế quốc Mỹ và
các thế lực phản động quốc tế chống chủ nghĩa xã hội và chống Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, Tổng cục II phát hành nội bộ, Hà Nội.
71. V.I. Lênin (1894), “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống
những người dân chủ - xã hội ra sao”, V.I. Lênin toàn tập, Tập 1 Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 149 - 427.
72. V.I. Lênin (1899), “Cương lĩnh của chúng ta”, V.I. Lênin toàn tập, Tập 4
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 230 - 235.
166
73. V.I. Lênin (1902), “Làm gì”, V.I. Lênin toàn tập, Tập 6, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr. 01 - 245.
74. V.I. Lênin (1913), “Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác”, V.I. Lênin toàn tập, Tập 23, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự
thật, 2005, tr. 49 - 58.
75. Trương Giang Long (2017), Đấu tranh chống các quan điểm, luận điệu
xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Lê Thành Long (2015), Vai trò của giảng viên lý luận chính trị ở các nhà
trường Quân đội nhân dân Việt Nam trong phòng, chống “diễn biến
hòa bình” hiện nay, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
77. Đào Văn Mạc, Đỗ Quang Minh (2020), “Phát huy vai trò của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn quân sự trong đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng hiện nay”, Tạp chí Tổ chức, nhà nước, số 3, tr. 56-58.
78. C. Mác và Ph. Ăngghen (1845 - 1846), “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph.
Ăngghen toàn tập, Tập 3, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, tr. 114 - 779.
79. C. Mác và Ph. Ănghen (1848), “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”C. Mác và
Ph. Ănghen toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995, tr. 595 - 646.
80. C. Mác và Ph. Ăngghen (1857-1858), “Phê phán khoa kinh tế chính trị”,
C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, Tập 46, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999, tr. 85 - 827.
81. Phạm Ngọc Minh (2006), Nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan: một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
82. Hồ Chí Minh (1927), “Đường Cách mệnh” Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 2,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 279-347.
167
83. Hồ Chí Minh (1945), “Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và
làng ” Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tr. 64 - 66.
84. Hồ Chí Minh (1947), “Sửa đổi lề lối làm việc”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập
5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 284, 292, 269 - 346.
85. Hồ Chí Minh (1949), “Thư gửi Hội nghị tình báo”, Hồ Chí Minh toàn tập,
Tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 191 - 192.
86. Hồ Chí Minh (1949), “Lời ghi ở trang đầu Quyển sổ vàng của trường
Nguyễn Ái Quốc Trung ương”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 208.
87. Hồ Chí Minh (1950), “Nói chuyện tại hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về
công tác huấn luyện và học tập”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 355 - 363.
88. Hồ Chí Minh (1950), “Thư gửi đồng bào liên khu IV”, Hồ Chí Minh toàn tập,
Tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 396 - 397.
89. Hồ Chí Minh (2011), “Lời giới thiệu”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 13, 318.
90. Hồ Chí Minh (1952), “Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ chuẩn bị chiến
dịch”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tr. 481 - 485.
91. Hồ Chí Minh (1953), “Thường thức chính trị”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập
8, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 247 - 296.
92. Hồ Chí Minh (1954), “Đẩy mạnh phong trào du kích”, Hồ Chí Minh toàn tập,
Tập 8, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 387 - 390.
93. Hồ Chí Minh (2011), “Lời giới thiệu”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 9, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 8.
94. Hồ Chí Minh (1955), “Bài nói chuyện tại Lễ khai mạc trường đại học
nhân dân Việt Nam”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 9, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 264 - 267.
168
95. Hồ Chí Minh (1956), “Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I,
Trường đại học nhân dân Việt Nam”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 376 - 380.
96. Hồ Chí Minh (1957), “Bài nói chuyện với hội nghị cán bộ toàn tỉnh Nghệ
An”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tr. 605 - 614.
97. Hồ Chí Minh (1958), “Đạo đức cách mạng trong Tạp chí học tập số 12”,
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 11, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, tr. 600 - 612.
98. Hồ Chí Minh (1959), “ Bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên”, Hồ Chí Minh
toàn tập, Tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 266 - 271.
99. Hồ Chí Minh (1959), “Bài nói tại hội nghị nghiên cứu lịch sử Đảng của
Ban Tuyên giáo Trung ương”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 12, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 331 - 336.
100. Hồ Chí Minh (1959), “Ba mươi năm hoạt động của Đảng” bài đăng trên
Báo nhân dân, số 2120, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 12, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 405 - 420.
101. Hồ Chí Minh (1961), “Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa”, Hồ Chí Minh
toàn tập, Tập 13, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 65 - 72.
102. Hồ Chí Minh (1961), “Bài nói chuyện với những cán bộ, đảng viên ở
Nghệ An hoạt động lâu năm”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 13, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 271 - 278.
103. Hồ Chí Minh (1969), “Bài trả lời phỏng vấn của Sáclơ Phuốcniô, phóng
viên báo L’Humanité (Pháp)”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 583 - 590.
104. Nguyễn Thị Nga (2018), “Phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn ở các trường đại học trong quá trình xây dựng đội ngũ
trí thức hiện nay ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái Bình
Dương, tháng 10, tr. 15-17.
169
105. Lê Hữu Nghĩa (2018), “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kiên quyết đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị
trong Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 910, tr. 40-45.
106. Lê Hữu Nghĩa (2021), “Đảng lãnh đạo phát huy dân chủ trong nhiên cứu
lý luận chính trị”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, tr. 3-9.
107. Trần Nhâm (2011), Chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết về sự phát triển và
sáng tạo không ngừng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
108. Nguyễn Huy Phòng (2020), “Xây dựng đội ngũ cán bộ trên lĩnh vực đấu
tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay”, Tạp
chí Cộng sản, số 937, tr. 23-28.
109. Trần Văn Phòng (2021), “Quan hệ giữa kiên định và bổ sung, phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, tr. 30-35
110. Nguyễn Trọng Phúc (2018), “Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù
địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, thực tiễn và kinh nghiệm”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, số tháng 6, tr. 50-56.
111. Nguyễn Trọng Phúc (2020), “Xây dựng, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của
Đảng, lịch sử và nhiệm vụ hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số tháng 1, tr. 23-29.
112. Vũ Văn Phúc (Chủ biên), (2013), Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
113. Nguyễn Văn Phương (2020), “Vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học xã
hội và nhân văn quân sự ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong
thực hiện Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị”, Tạp chí giáo dục lý luận,
chính trị quân sự; số 3, tr. 35-37.
114. Nguyễn Thị Quế (2020), “Nhận thức về cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng trên lĩnh vực lý luận hiện nay”, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 2, tr. 107-113.
170
115. Nguyễn Tiến Quốc (2010), Giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng trong
tình hình mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
116. Lương Thương Quyến (2012), Nâng cao hơn nữa vai trò của đội ngũ
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong cuộc đấu tranh tư
tưởng, lý luận hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
118. Quốc hội (2019), Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
119. Trần Thanh Sơn (2019), Mấy vấn đề về công tác đào tạo, bồi dưỡng
giảng viên ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, số 1, tr. 97-99
120. Tống Đức Thảo, Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2020), “Bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng trong tình hình mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 2, tr. 45-48.
121. Trần Đình Thắng (2015), “Nâng cao phẩm chất, năng lực đội ngũ giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn các trường đại học trong quân đội
hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 1, tr. 58-61
122. Nguyễn Xuân Thắng (2021): “Nghiên cứu đề xuất định hướng bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai
trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận và văn học nghệ thuật”,
Chủ nhiệm chương trình khoa học cấp bộ trọng điểm Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
123. Lê Anh Thơ, Nguyễn Sỹ Họa, (2016), Phát huy vai trò đội ngũ giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn của các nhà trường quân đội trong đấu tranh tư
tưởng, lý luận hiện nay, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
124. Ngô Huy Tiếp, (2011), Những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng của
Đảng hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Từ điển Triết học, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva. 1975.
126. Tổng cục Chính trị (2012), Đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên
lĩnh vực chính trị - tư tưởng trong quân đội hiện nay, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
171
127. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Cục Tuyên huấn
(2017), Bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình
hình mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
128. Nguyễn Phú Trọng (2018), Xây dựng, chính đốn Đảng là nhiệm vụ then
chốt để phát triển đất nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
129. Nguyễn Phú Trọng “Bài phát biểu trong Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam”, ngày 03 tháng 02 năm 2020.
130. Cao Văn Trọng (2017), Nâng cao năng lực đấu tranh tư tưởng của giảng
viên lý luận chính trị ở các nhà trường quân đội hiện nay, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
131. Trung tâm Từ điển học, Nguyễn Như Ý (Chủ biên), (2010), Đại từ điển
Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia - Tp Hồ Chí Minh.
132. Đỗ Văn Trường (2018), Vai trò của trí thức khoa học xã hội và nhân văn
quân sự trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về
chính trị hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị.
133. Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự (2020), Đấu tranh phản bác
các quan điểm phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
134. Nguyễn Hồng Vinh (Chủ biên), (2007), Phê phán, bác bỏ các quan điểm
sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
135. Lê Quý Vương (2019), “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nhiệm vụ
chính trị quan trọng, thường xuyên của lực lượng công an nhân dân”,
Tạp chí Công an nhân dân, số 2, tr. 3-6.
172
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
(Đối với giảng viên khoa học xã hội và nhân văn)
Tác giả điều tra 200 phiếu đối với giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
ở: Học viện Quốc phòng, Học viện Chính trị, Học viện lục quân, Trường Sĩ quan
Chính trị, vào tháng 12 năm 2019. Số phiếu điều tra thu về 193 phiếu; trong đó có
190 phiếu hợp lệ bằng 95%; có 03 phiếu không hợp lệ. Kết quả cụ thể như sau:
1. Mức độ chi phối của các chủ thể đến phát huy vai trò của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Rất quan trọng 115 60,53%
2 Quan trọng 40 21,05%
3 Không quan trọng 15 7,89%
2. Vị trí, vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Là lực lượng chủ yếu, trực tiếp truyền bá chủ 165 86,84% nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
2 Là lực lượng chủ yếu nghiên cứu, vận dụng và 160 84,21% phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
3 Là lực lượng nòng cốt tiên phong trong đấu 155 81,58% tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
173
3. Các chuyên đề, bài giảng của lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh gắn với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Các khoa chuyên ngành, Mức độ đánh giá
tổ bộ môn Có Không Ý kiến khác
Triết học Mác - Lênin 143(75,26%) 47(24,73%) 0%
Kinh tế Chính trị Mác - Lênin 140(73,68%) 46(24,21%) 4(02,10%)
7(03,69%)
Chủ nghĩa xã hội khoa học 138(72,63%) 45(23,68%)
0%
Hồ Chí Minh học 141(74,21%) 49(25,79%)
3(01,58%)
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 137(72,10%) 50(26,31%)
4. Trình độ, năng lực của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Có tri thức toàn diện về khoa học xã hội và nhân văn 150 78,94%
2 Có hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin 155 81,58%
3 Có hiểu biết sâu sắc về tư tưởng Hồ Chí Minh 155 81,58%
4 Nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, truyền 170 89,47%
thống, kỷ luật của Quân đội
5 Có năng lực phán đoán thông tin tốt 120 63,15%
6 Có khả năng miễn dịch với các thông tin sai 158 83.16% trái, xuyên tạc, của các thế lực thù địch
5. Đặc điểm giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Luôn gắn chặt nhiệm vụ giáo dục, đào tạo với
bồi dưỡng học viên trở thành người lãnh đạo, 170 89,47% chỉ huy tổ chức bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng ở các cơ quan, đơn vị trong toàn quân
174
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
2 Chức năng, nhiệm vụ và đặc thù hoạt động quân
sự của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở 164 86,31% các học viện, trường sĩ quan quân đội gắn với
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
3 Tính đa dạng, phong phú, tổ chức chặt chẽ trong
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù 159 83,68%
địch ở cách học viện, trường sĩ quan quân đội
6. Mục đích phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Làm gia tăng, tạo ra sự chuyển hóa các nhân
tố từ dạng tiềm năng thành hiện thực, lan tỏa 124 65,26%
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
2 Bảo đảm chất lượng, hiệu quả trong truyền bá 154 81,05% chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
3 Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù 189 99,47% địch trong thực tiễn có chất lượng, hiệu quả
4 Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của giảng 179 94,21% viên khoa học xã hội và nhân văn
7. Nội dung phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở
các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Khơi dậy, phát triển và lan tỏa quá trình
truyền bá bản chất khoa học, cách mạng của 168 88,42%
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
175
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
2 Khơi dậy, phát triển và lan tỏa hoạt động
nghiên cứu vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ 161 84,73%
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
3 Phát huy vai trò nòng cốt trong đấu tranh phản 165 86,84% bác quan điểm sai trái, thù địch
8. Phương thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Thông qua giảng dạy truyền bá chủ nghĩa Mác 170 89,47% - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
2 Thông qua nghiên cứu khoa học 151 79.47%
3 Thông qua tổng kết thực tiễn phát triển lý luận 156 82,10% Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
4 Thông qua các phong trào thi đua ở các học 105 55,26% viện, trường sĩ quan quân đội phát động
5 Sử dụng truyền thông đa phương tiện 99 52,10%
6 Phương thức khác 76 40,00%
9. Những nhân tố cơ bản quy định phát huy vai trò của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy 164 86,31%
2 Trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy 161 84,74%
3 Nhận thức, trách nhiệm của giảng viên khoa 153 80,52% học xã hội và nhân văn
176
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
4 Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho giảng viên 158 83,16%
khoa học xã hội và nhân văn
5 Môi trường và các động lực thúc đẩy 162 85,26%
6 Bản lĩnh chính trị kiên định, nhiệt tình, trách nhiệm 171 90,00% của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
7 Sự hiểu biết sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư 151 79,47% tưởng Hồ Chí Minh
8 Nắm và hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá 168 88,42% của các thế lực thù địch
9 Có kỹ năng đấu tranh, bút pháp, bút chiến sắc sảo 148 77,89%
10. Thành tựu cơ bản thực hiện vai trò của giảng viên khoa học xã hội
và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
TT Phương án trả lời Kết quả
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Nhận thức đúng, thái độ tốt của các chủ thể 168 88,42%
2 Sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy, chỉ huy 167 87,89%
3 Quan tâm đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng 154 81,05% giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
4 Có môi trường dân chủ đồng thuận thuận lợi 175 92,10%
5 Có chính sách khuyến khích giảng viên tham gia 165 86,84% đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
6 Sự nỗ lực chủ động, tích cực phấn đấu vươn lên 156 82,10% của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
7 Các cơ quan chức năng đã có nhận thức đúng, thái 172 90,52% độ tốt, trách nhiệm cao
8 Nhận thức, thái độ, trách nhiệm khá tích cực, 156 82,10% chủ động và sáng tạo của giảng viên
177
TT Phương án trả lời Kết quả
Số lượng Tỷ lệ (%)
9 Giảng viên đã làm tốt công tác truyền bá,
nghiên cứu, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ 168 88,42%
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
10 Giảng viên tích cực, chủ động tham gia đấu
tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, 142 74,73%
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
11. Nguyên nhân hạn chế thực hiện vai trò của giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Công tác lãnh đạo, chỉ đạo có mặt chưa đầy 143 75,26% đủ, toàn diện trên các mặt
2 Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giảng viên có 151 79,47% thời điểm chưa tốt
3 Có thời điểm, có khoa, tổ bộ môn chưa xây dựng 132 69,47% được môi trường dân chủ
4 Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có
thời điểm chưa tích cực bồi dưỡng, tự bồi 168 88,42% dưỡng nâng cao nhận thức, nhiệt tình, trách
nhiệm trong đấu tranh
5 Nguyên nhân khác 87 45,79%
178
12. Khả năng viết báo khoa học, liên quan đến bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng đăng trên các tạp chí chuyên ngành (từ năm 2016 đến nay)
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
107 56,32% 1 Có
83 43,68% 2 Không
13. Tham gia các chương trình đấu tranh phản bác các quan điểm
sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên các kênh VOV,
VTV và Kênh QPVN (tính từ năm 2016 đến nay)
TT Phương án trả lời
Kết quả Số lượng Tỷ lệ (%) 18,42% 81,58% 35 155 1 Có 2 Không
14. Đề xuất các giải pháp phát huy vai trò của giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
TT Phương án trả lời Kết quả
Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của lãnh 132 69,74%
đạo, chỉ huy các cấp
2 Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, nâng 113 59,47%
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giảng viên
3 Tạo môi trường dân chủ, tự do trong giảng 124 65,26%
dạy, nghiên cứu khoa học
4 Làm tốt công tác chính sách và điều kiện bảo 115 60,52%
đảm cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
5 Phát huy nhân tố chủ quan của giảng viên khoa 121 63,68%
học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng
179
15. Kết quả một số thông tin liên quan đến giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội (chọn 1 phương án)
STT Câu hỏi và các phương án trả lời Số lượng Tỉ lệ %
1 - Trình độ học vấn:
+ Đại học 90 47,40%
+ Thạc sĩ 70 36,80%
+ Tiến sĩ 30 15,80%
- Khả năng ngoại ngữ:
+ Sử dụng tốt các kỹ năng nghe, nói, đọc, 30 15,70%
viết tiếng nước ngoài
+ Đọc và dịch được một số tài liệu bằng 75 39,47%
tiếng nước ngoài
+ Nghe và viết được một số ít tiếng nước ngoài 20 10,53
+ Không đọc và dịch được 65 34,30%
- Khả năng sử dụng tin học:
+ Sử dụng thành thạo 28,94% 55
+ Mức độ khá 63,16% 120
+ Còn hạn chế 05,26% 10
+ Không có khả năng 02,63% 05
180
Phụ lục 2 KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC (Đối với cán bộ, sĩ quan ở đơn vị cơ sở)
Tác giả điều tra 100 phiếu đối với cán bộ, sĩ quan ở Sư đoàn 301, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội vào tháng 4 năm 2021. Số phiếu điều tra thu về 95 phiếu bằng 95%. Kết quả cụ thể như sau:
1. Theo đồng chí hiểu, nền tảng tư tưởng của Đảng là gì
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Chủ nghĩa Mác - Lênin 0
2 Tư tưởng Hồ Chí Minh 0
3 Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh 90 94,73%
4 Cương lĩnh của Đảng 05 05,27%
2. Tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
hiện nay
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Rất quan trọng 15 15,79%
2 Quan trọng 67 70,53%
3 Bình thường 8 08,42%
4 Không quan trọng 5 05,26%
3. Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội cần phải làm gì?
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
79 83,15%
1 Truyền bá bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
81 85,26%
2 Nghiên cứu vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
3 Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch 69 72,63%
181
4. Đồng chí có nắm và hiểu rõ thế giới quan, phương pháp luận khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là gì hay không?
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Có 85 89,47%
2 Không 10 10,53%
5. Việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở
đơn vị đồng chí như thế nào
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Linh hoạt, phù hợp với thực tiễn đơn vị 88 92,63%
2 Vận dụng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với 88 92,63%
thực tiễn đơn vị
3 Không cần lý luận trong hoạt động thực tiễn 7 07,37%
6. Nhân tố nào chi phối đến hiệu quả bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Kết quả TT Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy 71 74,74%
2 Trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy 68 71,58%
3 Môi trường dân chủ ở đơn vị 73 76,84%
4 Điều kiện đảm bảo ở đơn vị 77 81,05%
5 Bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, tâm 81 85,26%
huyết, nhiệt tình, trách nhiệm
6 Sự hiểu biết sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư 80 84,21%
tưởng Hồ Chí Minh
7 Quá trình đào tạo tại trường 67 70,52%
8 Quá trình bồi dưỡng lý luận trong công tác 69 72,63%
9 Nắm chắc, hiểu rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn 72 75,79%
của các thế lực thù địch
10 Có kỹ năng đấu tranh 76 80,00%
182
7. Kỹ năng đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội mà đồng chí đã từng học
TT Phương án trả lời
1 Có kỹ năng tốt 2 Có kỹ năng khá 3 Có kỹ năng trung bình 4 Còn hạn chế Kết quả Số lượng Tỷ lệ (%) 48,42% 33,68% 10,53% 07,37% 46 32 10 7
8. Phương thức phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
TT Phương án trả lời
1 Qua giảng dạy 2 Qua nghiên cứu khoa học 3 Qua các phong trào thi đua 4 Sử dụng phương tiện truyền thông, mạng xã Kết quả Số lượng Tỷ lệ (%) 80,00% 78,95% 53,68% 93,68% 76 75 51 89
hội, Internet 9. Ở đơn vị, đồng chí có tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không?
TT Phương án trả lời
Kết quả Số lượng Tỷ lệ (%) 96,84% 03,16% 92 03
1 Có 2 Không
183
Phụ lục 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ VIẾT GIÁO TRÌNH, TÀI LIỆU
CỦA GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LIÊN QUAN
ĐẾN BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG Ở MỘT SỐ HỌC VIỆN,
TRƯỜNG SĨ QUAN TỪ NĂM 2016 ĐẾN NAY
GIÁO TRÌNH,
ĐỀ TÀI KHOA HỌC
TÀI LIỆU
STT
ĐƠN VỊ
C.Bộ C.Ngành C.Csở C.Khoa C.Bộ C.Ngành C.Khoa
1 Học viện Quốc phòng 4 7 9 15 15 5 13
2 Học viện Lục quân 3 4 3 12 17 7 8
9 39 29 375 3 Học viện Chính trị 21 54 247
4 Học viện Quân y 3 2 4 18 14 6 3
5 Học viện KTQS 2 3 5 12 6 12 4
6 Học viện Hậu cần 3 3 7 16 11 9 3
4 28 24 7 Trường SQCT 17 46 178 189
8 Trường Sĩ quan LQ I 2 4 7 14 13 14 9
9 Trường Sĩ quan LQ II 2 4 2 16 11 12 7
Cộng 32 65 137 547 154 118 611
Nguồn: Phòng (ban) khoa học quân sự ở một số học viện, trường sĩ quan
quân đội, tháng 10 năm 2021
184
Phụ lục 4
KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRÊN ĐÀI PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH,
BÁO, TẠP CHÍ CỦA GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở MỘT SỐ HỌC VIỆN,
TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI TỪ NĂM 2017 ĐẾN NAY
STT
QUA ĐÀI PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH
SỐ LƯỢNG BÀI BÁO/TẠP CHÍ
ĐƠN VỊ
2017 2018 2019 2020 10/2021 2017 2018 2019 2020 10/2021
1 Học viện Quốc phòng 3 5 6 8 10 5 7 9 12 11
2 Học viện Lục quân 2 2 3 3 4 2 2 2 3 4
3 Học viện Chính trị 12 12 14 3 6 9 11 12 20 26
4 Học viện Quân y 1 1 2 3 4 2 2 3 3 3
5 Học viện KTQS 1 2 2 3 3 2 4 4 6 6
6 Học viện Hậu cần 1 1 2 2 3 1 2 3 3 2
Trường SQCT 7 3 4 5 6 6 8 11 11 17 22
Trường Sĩ quan LQ I 8 1 1 2 3 4 2 3 4 4 4
Trường Sĩ quan LQ II 9 2 2 3 3 4 2 2 3 4 4
Cộng 17 24 34 42 50 36 45 53 72 82
Nguồn: Phòng (ban) khoa học quân sự ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, tháng 10/22021
185
Phụ lục 5
THỐNG KÊ CÁC CHUYÊN ĐỀ, BÀI GIẢNG CỦA GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở
CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI LIÊN QUAN ĐẾN ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN
ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TỪ NĂM 2017 ĐẾN NAY
STT
ĐỐI TƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
ĐỐI TƯỢNG SAU ĐẠI HỌC, BỒI DƯỠNG
ĐƠN VỊ
2017 2018 2019 2020 2021 2017 2018 2019 2020 2021
1 Học viện Quốc phòng 230 237 235 340 243 220 235 240 255 256
2 Học viện Lục quân 237 240 242 250 254 125 130 133 135 140
3 Học viện Chính trị 947 964 971 993 1.036 535 550 575 575 600
4 Học viện Quân y 86 88 90 91 95 30 32 34 34 35
5 Học viện KTQS 85 90 91 96 98 29 32 35 37 38
6 Học viện Hậu cần 85 85 89 90 94 21 23 23 24 25
Trường SQCT 7 850 875 990 990 1.005 401 420 420 435 450
Trường Sĩ quan LQ I 8 840 843 848 850 865 244 245 250 251 256
Trường Sĩ quan LQ II 9 840 843 848 850 865 244 245 250 251 256
Cộng 4.200 4.265 4.404 4.550 4.555 1.849 1.912 1.950 1.997 2.056
Nguồn: Phòng đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, tháng 10 năm 2021
186
Phụ lục 6
TỐP 10 BLOG HOẠT ĐỘNG TỐT NHẤT TRONG QUÂN ĐỘI NĂM 2019
Tên Blog
STT 1 2 3 4
5 6 7 8 9 10 Gió lộng (Học viện Chính trị) Đấu trường dân chủ (Trường sĩ quan Lục quân 1) Phượng Hồng đất Cảng (Quân chủng Hải Quân) Thế sự và thời cuộc (Học viện Chính trị) Việt Nam ngày nay (Học viện Quốc phòng) Nhân văn Việt (Học viện Chính trị) Trọng An (Học viện Chính trị) Quang Hiền (Học viện Chính trị) Quan họ áo xanh Bình minh trên biển (Học viện Chính trị) Số bài đăng 1.872 1.852 1.535 1.039 1.200 1.165 1.137 1.136 888 688 Bình luận 99 65 11 36 26 54 24 11 14 21
Nguồn: Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương
(Năm 2019)
187
Phụ lục 7
TỐP 10 BLOG HOẠT ĐỘNG TỐT NHẤT CỦA CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI, NĂM 2020
Tên Blog
Đấu trường dân chủ (Trường sĩ quan Lục quân 1) Việt Nam ngày nay (Học viện Quốc phòng) Phượng Hồng đất Cảng (Quân chủng Hải Quân) Gió Lộng (Học viện Chính trị) Biên kia Sông Đuống (Học viện Hậu cần) Thế sự và thời cuộc (Học viện Chính trị) Tre làng (Ban chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương) Quan họ áo xanh (Trường sĩ quan Chính trị) Bình minh trên biển (Khoa Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị)
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Mùa xuân mãi mãi (Khoa sư phạm quân sự, Học viện Chính trị) Số bài đăng 4.109 2.432 1.901 1.290 1.104 1.039 915 910 680 651 Bình luận 107 78 11 10 17 436 4.239 250 14 10
Nguồn: Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương
(Năm 2020)
188
Phụ lục 8 KẾT QUẢ ĐẤU TRANH NĂM 2019
Tổng số bài: 8.733 bài Bài có bình luận: 1.361 bài Tỉ lệ bài có bình luận đạt 16%
Nguồn: Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương
(Năm 2019)
189
Phụ lục 9 KẾT QUẢ ĐẤU TRANH 6 THÁNG CUỐI NĂM, NĂM 2018
Tổng số bài: 10.035 bài Bài có bình luận: 277 bài Tỉ lệ bài có bình luận đạt 3%
Nguồn: Ban chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương
(Năm 2018)
190
Phụ lục 10 KẾT QUẢ ĐẤU TRANH CỦA LỰC LƯỢNG 47 NĂM 2019
Đơn vị tham gia: 70 Loại blog: 30; Group khác: 40 Blog đang hoạt động: 50 Tổng số tin bài đấu tranh trên Blog từ năm 2016 - 2019 Tổng số tin, bài đấu tranh trên Blog năm 2019: 18.768
BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ KẾT QUẢ ĐẤU TRANH TRONG 4 NĂM GẦN NHẤT
Nguồn: Ban chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương (Năm 2019)
191
Phụ lục 11 KẾT QUẢ ĐẤU TRANH CỦA LỰC LƯỢNG 47 NĂM 2020
Đơn vị tham gia: 70 Loại blog: 67 Blog đang hoạt động: 67 Tổng số tin bài đấu tranh trên blog từ năm 2017 - 2020 Kết quả hoạt đông năm 2020: Số bài đăng: 25.580; số bình luận: 2.311; số không bình luận: 22.649
BIỂU ĐỒ THỐNG KÊ KẾT QUẢ ĐẤU TRANH TRONG 4 NĂM GẦN NHẤT
Nguồn: Ban chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương (Năm 2020)
192
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Đối với giảng viên khoa học xã hội và nhân văn)
Đồng chí thân mến!
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân, là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Rất
mong nhận được ý kiến trả lời của đồng chí trên một số nội dung. Đồng chí đồng
ý với phương án nào hãy đánh dấu (x) vào ô vuông bên phải phương án trả lời
đó. Đồng chí không phải ghi và ký tên mình vào phiếu này.
Xin chân thành cảm ơn đồng chí!
Câu 1. Theo đồng chí, mức độ chi phối của các chủ thể đến phát huy vai
trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng như thế nào?
1. Rất quan trọng
2. Quan trọng
3. Không quan trọng
Câu 2. Hiện nay vị trí, vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng như thế nào?
1. Là lực lực lượng tiên phong, nòng cốt trong đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
2. Là lực lượng chủ yếu, trực tiếp truyền bá bản chất khoa học, cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
3. Là lực lượng chủ yếu, tích cực nghiên cứu, vận dụng đúng đắn, sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
193
Câu 3. Theo đồng chí, nội dung trong các chuyên đề, bài giảng của
bộ môn Triết học Mác - Lênin có gắn với bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng hay không?
Các khoa chuyên ngành, Mức độ đánh giá
tổ bộ môn Có Không Ý kiến khác
Triết học Mác - Lênin
Kinh tế Chính trị Mác - Lênin
Chủ nghĩa xã hội khoa học
Hồ Chí Minh học
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Câu 4. Để phát huy vai trò bảo về nền tảng tư tưởng, giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn cần phải có các trình độ, năng lực thế nào?
1. Có tri thức toàn diện về khoa học xã hội và nhân văn
2. Có hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin
3. Có hiểu biết sâu sắc về tư tưởng Hồ Chí Minh
4. Có hiểu biết sâu sắc về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, truyền thống, kỷ luật của quân đội
5. Có năng lực phán đoán nhận biết thông tin đúng
6. Có khả năng miễn dịch với các thông tin sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch
Câu 5. Theo đồng chí, trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có những đặc điểm nào?
1. Luôn gắn chặt nhiệm vụ giáo dục, đào tạo với bồi dưỡng học viên trở thành
người lãnh đạo, chỉ huy tổ chức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các cơ
quan, đơn vị trong toàn quân
2. Chức năng, nhiệm vụ và đặc thù hoạt động quân sự của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội gắn với bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
4. Tính đa dạng, phong phú, tổ chức chặt chẽ trong đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch ở cách học viện, trường sĩ quan quân đội
194
Câu 6. Đồng chí cho biết, mục đích phát huy vai trò của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng hiện nay? 1. Làm gia tăng, tạo ra sự chuyển hóa các nhân tố từ dạng tiềm năng thành
hiện thực, lan tỏa trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
2. Nâng lên tầm cao mới, đảm bảo chất lượng và hiệu quả trong quá trình
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
3. Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trong thực tiễn thực hiện có chất
lượng, hiệu quả
4. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
Câu 7. Để phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, cần tập trung vào những
nội dung nào?
1. Khơi dậy, phát triển và lan tỏa hoạt động truyền bá bản chất khoa học, cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Khơi dậy, phát triển và lan tỏa hoạt động nghiên cứu vận dụng đúng đắn,
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
3. Khơi dậy, phát triển và lan tỏa vai trò nòng cốt trong đấu tranh phản bác
quan điểm sai trái, thù địch
Câu 8. Theo đồng chí, phương thức nào được giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn vận dụng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng?
1. Thông qua giảng dạy, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Thông qua nghiên cứu khoa học
3. Thông qua tổng kết thực tiễn phát triển lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
4. Thông qua các phong trào thi đua ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
phát động
5. Sử dụng tối đa hiệu quả của truyền thông đa phương tiện, mạng xã hội,
Internet trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
6. Phương thức khác: ………………………………………………………….
195
Câu 9. Theo đồng chí, nhân tố nào qui định phát huy vai trò của giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng? 1. Nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy 2. Trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy 3. Nhận thức, trách nhiệm của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội 4. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giảng viên khoa học xã hội và nhân văn 5. Môi trường và các động lực ở các học viện, trường sĩ quan quân đội 6. Bản lĩnh chính trị, kiên định, vững vàng, tâm huyết, nhiệt tình, trách nhiệm cao của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn 7. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn hiểu biết sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng 8. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn nắm chắc, hiểu rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch 9. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có kỹ năng, bút pháp, bút chiến sắc sảo để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Câu 10. Những yếu tố tạo nên thành tựu trong thực hiện vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng? 1. Nhận thức đúng, thái độ tốt, trách nhiệm cao của các chủ thể 2. Sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy, chỉ huy 3. Quan tâm đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giảng viên 4. Có môi trường dân chủ thuận lợi 5. Có chính sách khuyến khích giảng viên tham gia đấu tranh 6. Sự nỗ lực chủ động, tích cực phấn đấu vươn lên của giảng viên 7. Các cơ quan chức năng đã có nhận thức đúng, thái độ tốt, trách nhiệm cao 8. Nhận thức, thái độ, trách nhiệm khá tích cực, chủ động và sáng tạo của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn 9. Làm tốt công tác truyền bá, nghiên cứu, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh 10. Giảng viên tích cực, chủ động tham gia đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
196
Câu 11. Đâu là nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong thực hiện vai
trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ
quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng?
1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo có mặt chưa đầy đủ, toàn diện trên các mặt 2. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giảng viên có thời điểm chưa tốt
3. Có thời điểm chưa xây dựng được môi trường dân chủ ở khoa, tổ bộ môn
4. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
có thời điểm chưa tích cực bồi dưỡng, tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức, nhiệt tình,
trách nhiệm trong đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
5. Nguyên nhân khác
Câu 12. Đồng chí đã viết được báo khoa học liên quan đến bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, đăng trên Tạp chí chuyên ngành, trong thời
gian 5 năm vừa qua (từ 2016 đến nay) chưa?
1. Có
2. Không
Câu 13. Đồng chí đã bao giờ tham gia đấu tranh phản bác quan
điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên các kênh
VOV, VTV và Kênh QPVN chưa?
1. Có
2. Không
Câu 14. Để góp phần phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, đồng chí có đề xuất giải pháp nào?
1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể
2. Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng
3. Tạo môi trường dân chủ, tự do trong giảng dạy, nghiên cứu
4. Phát huy nhân tố chủ quan của chính giảng viên
197
Câu 15. Đồng chí cho biết trình độ ngoại ngữ của đồng chí hiện nay?
1. Sử dụng tốt các kỹ năng, nghe, nói, đọc, viết
2. Đọc và dịch được một số nội dung cơ bản theo chuyên ngành
3. Còn hạn chế các kỹ năng
4. Không có khả năng nghe, nói, đọc, viết
Câu 17. Đồng chí cho biết khả năng tin học của đồng chí hiện nay?
1. Sử dụng tốt
2. Mức độ khá
3. Trung bình
4. Còn hạn chế
Câu 18. Cuối cùng, xin đồng chí cho biết đôi nét về bản thân
- Cấp bậc:
1. Thiếu úy, trung úy
2. Thượng úy, đại úy
3. Thiếu tá, trung tá
4. Thượng tá, đại tá
- Chức vụ cán bộ:
1. Giảng viên
2. Cán bộ bộ nôn
3. Cán bộ khoa
- Trình độ chuyên môn:
1. Đại học
2. Thạc sĩ
3. Tiến sĩ
Một lần nữa, xin trân trọng cảm ơn đồng chí!
198
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Đối với cán bộ, sĩ quan ở đơn vị cơ sở)
Đồng chí thân mến!
Để phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; rất mong nhận được ý kiến trả lời của đồng chí
trên một số nội dung sau đây. Đồng chí đồng ý với phương án nào hãy đánh dấu
(x) vào ô vuông bên phải phương án trả lời đó. Đồng chí không phải ghi và ký
tên mình vào phiếu này.
Xin cảm ơn đồng chí
Câu 1. Theo đồng chí nền tảng tư tưởng của Đảng là gì?
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
3. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
4. Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam
Câu 2. Đồng chí cho biết, tầm quan trọng của việc bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng hiện nay?
1. Rất quan trọng
3. Bình thường
2. Quan trọng
4. Không quan trọng
Câu 3. Theo đồng chí, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện
nay, giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan
quân đội cần phải làm gì?
1. Truyền bá bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh
2. Nghiên cứu, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh
3. Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch
Câu 4. Đồng chí có nắm và hiểu rõ thế giới quan, phương pháp
luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là gì hay không?
1. Có 2. Không
199
Câu 5. Đồng chí vận dụng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh ở trường học vào thực tiễn đơn vị cơ sở như thế nào?
1. Linh hoạt, phù hợp với thực tiễn đơn vị
2. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn đơn vị
3. Không cần lý luận trong hoạt động thực tiễn ở đơn vị cơ sở
Câu 6. Theo đồng chí, nhân tố nào chi phối đến hiệu quả bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
ở các học viện, trường sĩ quan quân đội?
1. Nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy
2. Trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy
3. Môi trường dân chủ ở đơn vị
4. Điều kiện đảm bảo
5. Bản lĩnh chính trị, kiên định, vững vàng, tâm huyết, nhiệt tình, trách nhiệm
cao của cán bộ sĩ quan đơn vị
6. Sự hiểu biết sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chủ trương của Đảng của của cán bộ sĩ quan đơn vị
7. Quá trình đào tạo tại các học viện, trường sĩ quan
8. Việc bồi dưỡng lý luận trong quá trình công tác
9. Nắm chắc, hiểu rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của
các thế lực thù địch
10. Có kỹ năng đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Câu 7. Đồng chí cho biết kỹ năng đấu tranh phản bác các quan điểm
sai trái thù địch của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội hiện nay?
1. Có kỹ năng tốt
2. Kỹ năng khá
3. Kỹ năng trung bình
4. Còn hạn chế về kỹ năng
200
Câu 8. Những phương thức nào để phát huy vai trò của giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng?
1. Thông qua giảng dạy các bài giảng chính trị, từ đó truyền bá bản chất khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Thông qua hoạt động thực tiễn, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
3. Thông qua các phong trào thi đua
4. Sử dụng tối đa hiệu quả của truyền thông đa phương tiện, mạng xã hội,
Internet trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Câu 9. Ở đơn vị, đồng chí có tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng không?
1. Có 2. Không
Câu 10. Đồng chí cho biết đôi nét về bản thân?
1. Đồng chí là sĩ quan: Cấp úy Cấp tá 2. Đồng chí là sĩ quan: Chính trị Chỉ huy tham mưu Hậu cần, kĩ thuật
Xin trân trọng cảm ơn đồng chí!
201
PHIẾU PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA
Để phụ vụ nghiên cứu đề tài “Phát huy vai trò của giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay” Tôi
xin ý kiến đồng chí về một số vấn đề sau đây:
1. Đồng chí cho biết ý kiến của mình về những biểu hiện vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng?
2. Đồng chí cho biết ý kiến của mình về những nhân tố tác động đến
Phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện,
trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng?
3. Đồng chí đánh giá như thế nào về thực trạng Phát huy vai trò của
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân
đội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay?
4. Theo đồng chí để Phát huy vai trò của giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng hiện nay, chúng ta cần phải thực hiện những giải pháp nào?
Trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của đồng chí