VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN ĐÌNH HƯNG
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
TRONG NỀN KINH TẾ ĐỨC NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 9 31 01 06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN THANH ĐỨC
2. PGS.TS. ĐẶNG MINH ĐỨC
HÀ NỘI-2020
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu của mình và không trùng lặp
với bất cứ công trình nào của các tác giả khác. Các số liệu được sử dụng trong
luận án có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận án
Trần Đình Hưng
i
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG.............................................................................. vii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ....................................................................... viii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................. 9
1.1. Những công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến luận án .............. 9
1.1.1. Nhóm công trình đề cập khuôn khổ lý thuyết của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ................................................................................................................ 9
1.1.2. Nhóm công trình đề cập đến vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ......................................................................................................................... 13
1.1.3. Nhóm công trình đề cập đến các nhân tố tác động và chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ............................................ 15
1.1.4. Nhóm công trình đề cập những vấn đề tồn tại của doanh nghiệp vừa và nhỏ ................................................................................................................... 23
1.2. Khoảng trống nghiên cứu và hướng nghiên cứu của đề tài ..................... 24
1.2.1. Đóng góp của của các công trình đi trước: .......................................... 24
1.2.2. Một số vấn đề các công trình trên còn bỏ ngỏ, cần tiếp tục nghiên cứu: ......................................................................................................................... 25
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ ................................................................................ 27
2.1. Lý luận về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ........................... 27
2.1.1. Lý thuyết của Penrose về sự phát triển doanh nghiệp: ......................... 27
2.1.2. Lý thuyết nguồn lực doanh nghiệp và năng lực động của doanh nghiệp ......................................................................................................................... 28
2.1.3. Lý thuyết phát triển theo giai đoạn ....................................................... 30
2.1.4. Chiến lược cạnh tranh phổ quát của Michael Porter: ......................... 34
ii
2.2. Một số vấn đề chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ .................................. 36
2.2.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ .................................................... 36
2.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ ............................................... 48
2.2.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế ....................... 51
2.3. Khái niệm, các tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ .......................................................................... 56
2.3.1. Khái niệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ............................... 56
2.3.2. Tiêu chí đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế .............................................................................................................. 57
2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ 60
2.4. Khung phân tích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Đức .............................................................................................................. 70
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ ĐỨC NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 72
3.1. Tổng quan tình hình về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Đức ............................................................................................... 72
3.1.1. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức đầu những năm 2000 ....... 74
3.1.2. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới ................................................................................................. 88
3.1.3. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức trong những năm gần đây 106
3.2. Đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức ................. 120
3.2.1. Ưu điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức ............................. 120
3.2.2. Một số vấn đề tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức......... 126
3.3. Những bài học kinh nghiệm từ thực tế phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức ............................................................................................................. 129
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH............................................................................................... 137
4.1. Thực trạng phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Việt Nam ............................................................................................................... 137
iii
4.2. Sự tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đức .............................. 147
4.3. Một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam ...................................... 161
KẾT LUẬN ................................................................................................... 168
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................... 171
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 172
iv
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển châu Á
Asian Infrastructure Investment Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ AIIB Bank tầng châu Á
Asia-Pacific Economic Diễn đàn Hợp tác Kinh tế APEC Cooperation châu Á
Association of Southeast Asian Hiệp hội các quốc gia Đông ASEAN Nations Nam Á
ASEM Asia-Europe Meeting Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu
Federal Ministry of Economics Bộ Kinh tế và Công nghệ BMWi and Technology Liên bang
CMCN Industrial Revolution Cách mạng công nghiệp
Comprehensive and Progressive Hiệp định Đối tác Toàn diện
CPTPP Agreement for Trans-Pacific và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Partnership Dương
Small and Medium-sized DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ Enterprises
DtA German Equalisation Bank Ngân hàng Đền bù Đức
EC European Commission Ủy ban châu Âu
EU European Union Liên minh châu Âu
Eurostat European Statistics Cơ quan Thống kê Châu Âu
EU-Vietnam Free Trade Hiệp định Thương mại Tự do EVFTA Agreement Việt Nam-EU
FDI Foregin Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA Free Trade Agreement Hiệp định Thương mại Tự do
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
v
Deutsche Gesellschaft für Tổ chức Hợp tác và Phát triển GIZ Internationale Zusammenarbeit Đức
IFC International Finance Corporation Tổ chức Tài chính quốc tế
International Labour ILO Tổ chức Lao động Quốc tế Organization
KtW Kreditanstalt für Wiederaufbau Ngân hàng Tái thiết Đức
Multilateral Investment Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa MIGA Guarantee Agency phương
Organization for Economic Tổ chức Hợp tác và Phát triển OECD Cooperation and Development Kinh tế
Chỉ số năng lực cạnh tranh PCI Provincial Competitiveness Index cấp tỉnh
R&D Research and Development Nghiên cứu và Phát triển
SBA Small Business Act Đạo luật Doanh nghiệp nhỏ
Vietnam Chamber of Commerce Phòng Thương mại và Công VCCI and Industry nghiệp Việt Nam
WB World Bank Ngân hàng Thế giới
WBG World Bank Group Nhóm Ngân hàng Thế giới
WEF World Economic Forum Diễn đàn Kinh tế Thế giới
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
Chương trình Đổi mới sáng Zentrales Innovations programm ZIM tạo Trung ương dành cho Mittelstand doanh nghiệp vừa và nhỏ
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tiêu chí định lượng xác định doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ Bảng 2.1 39 và vừa của IFC và MIGA thuộc Nhóm Ngân hàng Thế giới
Xác định DNVVN theo tiêu chí định lượng của Liên minh Bảng 2.2 42 châu Âu
Bảng 2.3 Bảng tham chiếu xếp loại DNVVN 43
Bảng 2.4 Tiêu chí xác định DNVVN ở Đức 45
Bảng 2.5 Đặc điểm của DNVVN so sánh với doanh nghiệp lớn 48
Bảng 2.6 Phân loại Hiệp hội/tổ chức theo các tiêu chí 66
Bảng 4.1 Tiêu chí xác định DNVVN của Việt Nam 2018 139
Thống kê số lượng doanh nghiệp (dựa theo tiêu chí quy Bảng 4.2 140 mô lao động) từ 2005-2015
Bảng 4.3 Một số tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đức 148
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 2.1 Mô hình phát triển sáu giai đoạn của Greiner 31
Hình 2.2 Tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo khu vực (%) 55
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp Hình 2.3 69 vừa và nhỏ
Hình 3.1 Đóng góp của DNVVN trong nền kinh tế Đức (2003) 74
Các loại hình DNVVN và tỷ trọng doanh thu DNVVN ở Hình 3.2 75 Đức
Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp tại Đức từ Hình 3.3 76 2000-2005
Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp tại Đức từ Hình 3.4 86 2003-2009
Hình 3.5 Vai trò của DNVVN ở Đức trong nền kinh tế vĩ mô 87
Giá trị xuất khẩu hàng năm và tỷ trọng giá trị xuất khẩu Hình 3.6 88 trong GDP của Đức
Tỷ trọng các nguồn tài chính DNVVN sử dụng trong hoạt Hình 3.7 93 động đổi mới sáng tạo (2010)
Doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp giải thể và cán Hình 3.8 94 cân doanh nghiệp mới ở Đức từ 2007-2010
So sánh kết quả thực hiện theo bộ tiêu chí 10 điểm của
Hình 3.9 Đạo luật doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2010/2011 giữa 97
Đức và mức trung bình của EU
Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp tại Đức từ Hình 3.10 99 2007-2012
Doanh thu xuất khẩu của DNVVN năm 2000, 2005, 2010 Hình 3.11 100 (đơn vị: tỷ euro)
viii
Vị trí của DNVVN trong nền kinh tế Đức 2010/2011 (đơn Hình 3.12 101 vị: %)
Hình 3.13 Số lượng DNVVN dẫn đầu thế giới ở các quốc gia (2012) 103
Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp ở Đức so với mức trung bình Hình 3.14 104 của EU (đơn vị: %)
Hình 3.15 Số lượng người tự làm chủ ở Đức từ 2000-2012 105
Số lượng lao động trong DNVVN và tỷ lệ lao động của Hình 3.16 110 DNVVN trong nền kinh tế
Hình 3.17 Khởi nghiệp trong các doanh nghiệp sáng chế đột phá 114
Hình 3.18 Tỷ lệ khởi nghiệp theo các ngành nghề ở Đức (2019) 116
Sự thay đổi trong cơ cấu ngành của DNVVN từ 2006- Hình 3.19 118 2018
Tỷ lệ tăng trưởng lao động và tăng trưởng doanh thu ở Hình 3.20 119 DNVVN Đức từ 2012-2018 (đơn vị: %)
Tỷ lệ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp ở Đức từ 2012- Hình 3.21 120 2018 (đơn vị: %)
Hình 4.1 Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam qua các năm 146
ix
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) từ lâu đã được xem là có vị trí rất
quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, dù là quốc gia phát triển hay
đang phát triển. Tại Việt Nam, phát triển DNVVN đã trở thành một trong những
ưu tiên hàng đầu của Chính phủ trong những năm gần đây. Theo kết quả “Tổng
điều tra kinh tế năm 2017” của Tổng cục Thống kê, cả nước có 507,86 nghìn
DVVVN đang hoạt động, tăng 52,1% so với thời điểm 01/01/2012, chiếm
khoảng 98,1% tổng số doanh nghiệp cả nước, sử dụng tới khoảng 44,5% lao
động xã hội [34]. Bên cạnh đó, DNVVN ở Việt Nam cũng đã đóng góp khoảng
40% GDP cho nền kinh tế [15]. Có thể thấy rằng, sự đóng góp của khối
DNVVN Việt Nam trong nền kinh tế là đáng kể. Tuy nhiên, so với tiềm năng
thực sự, khối doanh nghiệp này vẫn chưa nhận được sự quan tâm tương xứng
và vẫn còn rất nhiều dư địa cho sự phát triển. Xét một cách tổng thế, DNVVN
ở Việt Nam được nhìn nhận là “tuy đông nhưng không mạnh”. Nhìn chung,
khối doanh nghiệp này năng lực cạnh tranh còn yếu kém, trình độ công nghệ
lạc hậu, nguồn nhân lực ít được đào tạo nâng cao, nguồn vốn nhỏ, tỷ lệ tiếp cận
vốn ngân hàng của các DNVVN cũng thấp hơn đáng kể so với doanh nghiệp
lớn. Bên cạnh đó, những khó khăn đến từ chính việc nhận thức về vai trò và vị
thế của khối doanh nghiệp này trong nước (sự đối xử bất bình đẳng, ít chính
sách ưu đãi), tình trạng thiếu minh bạch và cơ chế quan liêu đang cản trở sự
phát triển của các DNVVN.
Như vậy, việc xác định đúng vai trò và hiểu đúng về tầm quan trọng của
DNVVN trong nền kinh tế là vô cùng quan trọng để có những chính sách hỗ
trợ đúng và kịp thời, giúp Việt Nam có thể khai thác được tối đa nguồn nội lực
1
từ trong nước, giúp tạo ra nhiều công ăn việc làm, thúc đẩy kinh tế - xã hội và
đóng góp vào tăng trưởng GDP một cách bền vững hơn. Vì thế, câu hỏi được
đặt ra là làm thế nào để có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh và phát huy
được tối đa tiềm năng phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế Việt Nam
trong thời gian tới? Để trả lời câu hỏi này, cần phải tổng kết được kinh nghiệm
thực tiễn phát triển của chính các DNVVN trong nước trong thời gian qua, đồng
thời phải nghiên cứu về sự phát triển của các DNVVN từ bài học của những
quốc gia thành công trên Thế giới, từ đó mới có thể đúc kết được các kinh
nghiệm thiết thực vào thực tiễn Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu về sự phát triển của DNVVN ở các quốc gia
có kinh nghiệm thành công trên Thế giới, tác giả luận án đánh giá Cộng Hòa
Liên Bang Đức là một trong những nước có khối DNVVN phát triển, được xem
là có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế
- xã hội mà Việt Nam hoàn toàn có thể học tập. Thứ nhất, các DNVVN ở Đức
(hay còn được biết đến với tên gọi chung là Mittelstand) chiếm vị trí lớn trong
nền kinh tế với hơn 99% số doanh nghiệp, sử dụng khoảng 60% lực lượng lao
động. Đây chủ yếu là các công ty gia đình, hoặc sở hữu gia đình trên 50%,
thường chuyên sâu vào một loại sản phẩm. Thứ hai, các DNVVN được xem là
xương sống, đóng góp lớn cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế Đức, chiếm
khoảng 52% tổng GDP, tạo việc làm và giải quyết thất nghiệp, giúp tăng cường
tính cạnh tranh, năng động của nền kinh tế. Bên cạnh đó, môi trường làm việc
tại các DNVVN ở Đức cũng được đánh giá cao với sự thoải mái cho nhân viên
cùng văn hóa tin tưởng, có tính cam kết cao [100]. Thứ ba, Chính phủ Đức cam
kết rất lớn với khối DNVVN thông qua rất nhiều công cụ hữu hiệu nhằm đảm
bảo quyền lợi của khối doanh nghiệp này, từ các chính sách hỗ trợ phát triển
nguồn nhân lực, tăng khả năng tiếp cận tín dụng, đến các trợ giúp trong vấn đề
trao đổi thương mại, quảng bá sản phẩm tại nước ngoài từ Bộ Kinh tế nói chung.
2
Cùng với sự phát triển chung của Liên minh châu Âu, sự lớn mạnh của
DNVVN ở Đức luôn phải điều chỉnh sao cho phù hợp với chính sách chung
của khối và làm sao có thể tận dụng được tối đa mọi nguồn lực mà Liên minh
mang lại, đặc biệt, trước bối cảnh Thế giới đang đứng trước ngưỡng cửa của
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, khối DNVVN ở Đức được dự báo là sẽ chứng
kiến một sự thay đổi lớn cả về lượng lẫn về chất, tạo ra nhiều cơ hội cũng như
thách thức trong việc duy trì sự ổn định và phát triển trong nền kinh tế những
năm tới[158].
Như vậy, việc nghiên cứu về sự phát triển của các DNVVN ở Đức là cần
thiết và được xem là cơ hội để mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam có thể đúc
rút được những bài học kinh nghiệm cả lý luận lẫn thực tiễn; đặc biệt là việc
xác định đúng vị trí, đánh giá đúng vai trò cũng như nhìn nhận đúng tiềm năng
của DNVVN trong nền kinh tế Việt Nam để từ đó đề xuất được những giải
pháp thiết thực trong quá trình triển khai các chương trình, chính sách hỗ trợ
phát triển DNVVN trong nền kinh tế. Từ tất cả những lý do nêu trên, tác giả
luận án đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Sự phát triển của doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong nền kinh tế Đức những năm gần đây” để bảo vệ luận án tiến sĩ Kinh
tế quốc tế của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu: hệ thống hóa các vấn đề lý luận về sự phát triển
của DNVVN, phân tích và đánh giá sự phát triển của DNVVN trong nền kinh
tế Đức từ đầu những năm 2000 trở lại đây (trong bối cảnh mà nền kinh tế - xã
hội Đức có nhiều biến động) để từ đó chỉ ra những ưu điểm và những vấn đề
còn tồn tại trong quá trình phát triển của khối DNVVN ở Đức cũng như rút ra
những bài học quan trọng để từ đó có những khuyến nghị chính sách hữu ích
cho Việt Nam thời gian tới.
3
Nhiệm vụ nghiên cứu: luận án tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về sự phát triển của DNVVN nói chung;
Thứ hai, phân tích thực trạng sự phát triển của DNVVN trong nền kinh
tế Đức (thông qua phân tích bối cảnh của nền kinh tế trong từng mốc giai đoạn
cụ thể, các nhân tố tác động đến sự phát triển và vai trò của DNVVN trong việc
ổn định và phát triển nền kinh tế Đức); đánh giá ưu điểm và những mặt còn tổn
tại, cũng như chỉ ra những bài học kinh nghiệm từ thực tế phát triển các
DNVVN trong nền kinh tế Đức;
Thứ ba, so sánh sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế giữa Đức
và Việt Nam, qua đó rút ra những khuyến nghị chính sách hữu ích cho Việt
Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: luận án tập trung nghiên cứu về sự phát triển
của DNVVN trong nền kinh tế Đức và sự phát triển của DNVVN ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian: luận án tập trung sâu vào phân tích sự phát triển
của các DNVVN trong nền kinh tế của Cộng hòa Liên bang Đức.
Phạm vi về thời gian: luận án tập trung phân tích sâu sự phát triển của
DNVVN trong nền kinh tế Đức từ đầu những năm 2000 trở lại đây. Cụ thể,
luận án phân chia phạm vi về thời gian thành ba mốc quan trọng là (1) giai đoạn
đầu những năm 2000 đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, khi mà nền
kinh tế Đức phải đối mặt với cuộc khủng hoảng lao động dưới thời cựu Thủ
tướng Gerhard Schröder, tình trạng thất nghiệp tăng cao; (2) giai đoạn diễn ra
cuộc khủng hoảng kinh tế Thế giới, khi mà Đức là một trong những quốc gia
4
phải chịu ảnh hưởng nặng nề đến mọi mặt kinh tế - xã hội; và (3) giai đoạn
những năm gần đây khi mà nền kinh tế Đức quay trở lại quỹ đạo phát triển.
Song song với đó là sự ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, và Đức là một trong những nước tiên
phong trong quá trình đổi mới.
Bên cạnh đó, luận án cũng sẽ khái quát bối cảnh sự phát triển của
DNVVN trước năm 2000 ở Đức để tạo thành một chỉnh thể xuyên suốt, nhằm
nhấn mạnh sự nhất quán về vai trò và tầm quan trọng của khối doanh nghiệp
này trong nền kinh tế.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cách tiếp cận:
Tiếp cận hệ thống: việc phân tích và đánh giá các vấn đề ở đây được đặt
trong một chỉnh thể thống nhất, nghiên cứu đi từ lý luận đến thực tiễn. Cụ thể,
phân tích hệ thống về các DNVVN xuất phát từ bối cảnh chung đến tình hình
vận động và phát triển của các doanh nghiệp đó trong nền kinh tế. Các tác động
của DNVVN đối với nền kinh tế cũng được xem xét và đánh giá một cách toàn
diện, nhiều chiều, cả mặt tích cực và tiêu cực.
Tiếp cận liên ngành: sự phát triển của DNVVN được xem xét và phân
tích theo cách tiếp cận liên ngành bao gồm: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu khoa học như
phương pháp logic-lịch sử, phân tích-tổng hợp trong quá trình phân tích và đánh
giá sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế Đức qua từng mốc giai đoạn
kể trên, cũng như phân tích tốc độ phát triển, tỷ lệ đóng góp của DNVVN trong
5
nền kinh tế quốc dân (về tỷ lệ sử dụng lao động, đóng góp trong GDP, trong
giá trị xuất nhập khẩu v.v). Bên cạnh đó, phương pháp so sánh, thống kê,
phương pháp phân tích mô tả cũng được luận án áp dụng hiệu quả trong việc
so sánh sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế giữa Việt Nam và Đức và
làm nổi bật các vấn đề cần nghiên cứu.
Luận án tiếp cận và sử dụng những số liệu từ tài liệu thứ cấp có tính hệ
thống và từ các nguồn dữ liệu đáng tin cậy của các cơ quan có uy tín ở trong
nước cũng như quốc tế, các tài liệu từ các tổ chức quốc tế như Ủy ban châu Âu
(EC), Ngân hàng Thế giới, Bộ Kinh tế và Công nghiệp Đức, Bộ Lao động và
Xã hôi Đức, các thông tin trên sách báo điện tử, các số liệu của các cơ quan hữu
quan của một số nước châu Âu. Ngoài ra, luận án cũng sử dụng các ấn phẩm
trong nước chủ yếu là những số liệu chính thức của các cơ quan có uy tín như
Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI), Viện Kinh tế và Chính trị thế giới, Viện nghiên cứu
châu Âu, Viện quản lý kinh tế trung ương, v.v. Luận án cũng sử dụng các sách
báo cũng như các tài liệu nghiên cứu của các chuyên gia có tên tuổi trong và
ngoài nước.
Phương pháp xử lý số liệu của luận án cũng được thực hiện một cách
khoa học. Các tài liệu được tập hợp, sắp xếp và phân loại theo từng vấn đề
nghiên cứu. Các tài liệu là tiếng nước ngoài được dịch và trích dẫn rõ ràng. Các
số liệu được thống kê và xử lý kỹ càng trước khi xuất thành các bảng biểu, đồ
thị, hình vẽ trong luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án đã hệ thống hóa được những vấn đề lý luận về sự phát
triển của các DNVVN. Bên cạnh đó, luận án đã chỉ ra những khác biệt về định
6
nghĩa DNVVN giữa các tổ chức, quốc gia cũng như đưa ra quan điểm riêng của
luận án về khái niệm DNVVN.
Thứ hai, luận án đã chứng minh được vai trò là xương sống nền kinh tế
Đức của khối DNVVN thông qua việc phân tích và đánh giá thực trạng sự phát
triển của DNVVN trong nền kinh tế Đức qua từng mốc giai đoạn, đặc biệt là
qua những giai đoạn mà nền kinh tế - xã hội gặp khủng hoảng. Từ đó, đánh giá
được những ưu điểm và mặt hạn chế trong quá trình phát triển DNVVN ở Đức.
Thứ ba, luận án đã rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tế phát triển
DNVVN trong nền kinh tế Đức. Luận án đã đưa ra những so sánh về sự phát
triển của DNVVN giữa Việt Nam và Đức để từ đó rút ra được những bài học
kinh nghiệm hữu ích cho quá trình phát triển DNVVN ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận của luận án:
Luận án đã trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về sự
phát triển của DNVVN trong nền kinh tế, làm rõ định nghĩa về DNVVN vốn
còn gây nhiều tranh cãi, chỉ rõ vai trò của các DNVVN và xác định rõ những
nhân tố tác động cũng như xây dựng tiêu chí đánh giá sự phát triển của DNVVN
trong nền kinh tế quốc gia.
Ý nghĩa thực tiễn của luận án:
Luận án đã đánh giá được thực trạng về sự phát triển của DNVVN ở Đức
từ năm 2000 trở lại đây qua từng mốc giai đoạn. Từ đó, phân tích những ưu
điểm và mặt hạn chế trong quá trình phát triển DNVVN ở Đức cũng như đúc
rút được những bài học kinh nghiệm từ thực tế phát triển các DNVVN trong
nền kinh tế Đức.
7
Luận án có sự so sánh những mặt tương đồng và khác biệt giữa hai quốc
gia Việt Nam và Đức trong quá trình phát triển khối DNVVN của riêng mình.
Khái quát được quá trình phát triển DNVVN ở Việt Nam từ khi công cuộc “Đổi
mới” năm 1986 diễn ra đến nay cũng như đúc rút được những khuyến nghị
chính sách hữu ích cho Việt Nam trong quá trình phát triển DNVVN.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, các danh mục hình vẽ, bảng
biểu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án bao gồm bốn
chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 3: Thực trạng sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
nền kinh tế Đức những năm gần đây.
Chương 4: Thực trạng phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền
kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị chính sách.
8
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến luận án
1.1.1. Nhóm công trình đề cập khuôn khổ lý thuyết của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ
Việc đưa ra một khái niệm chính xác, thống nhất về DNVVN có vai trò
quan trọng trong việc xác định rõ đối tượng cần nghiên cứu. Mặc dù vậy, tiêu
chí để đưa ra một định nghĩa chính xác giữa các quốc gia đôi khi vẫn còn nhiều
khác biệt. Về lý thuyết, có thể xác định DNVVN dựa trên tiêu chuẩn định tính
và định lượng. Tuy vậy, về mặt thực tế, xác định theo tiêu chuẩn định tính là
khá khó khăn; vì vậy, các quốc gia thường chọn tiêu chuẩn định lượng để có
thể xác định được các DNVVN.
Stokes và Wilson (2010) trong cuốn “Entrepreneurship and Small
Business Management” cho rằng xét theo các tiêu chuẩn định tính, DNVVN có
các hoạt động và cấu trúc đơn giản hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp lớn,
mức độ phức tạp của quản lý không cao cũng như số đầu mối quản lý ít [163].
Cũng trong tác phẩm này, các tác giả đã trích lại báo cáo của Bolton (1971) khi
chỉ ra ba tiêu chí cơ bản giúp phân biệt DNVVN với doanh nghiệp lớn. Theo
đó, DNVVN thường được quản lý bởi chính chủ sở hữu doanh nghiệp và doanh
nghiệp có thị phần nhỏ trên thị trường. Ngoài ra, DNVVN có tính độc lập cao,
cũng như không phải là công ty con hay chịu chi phối bởi các doanh nghiệp lớn
khác [64]. Còn tác giả Yon và Evans (2011) trong bài viết “The role of small
and medium enterprises in Frontier Capital Markets” đã tổng hợp các yếu tố
định tính giúp phân biệt DNVVN với doanh nghiệp lớn, bao gồm: yếu tố về
đặc điểm quản lý doanh nghiệp, bằng cấp của nhân viên, vị trí cạnh tranh của
9
doanh nghiệp trên thị trường, mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng,
khả năng nghiên cứu và phát triển và khả năng tài chính [184].
Về cách định nghĩa DNVVN dựa trên tiêu chuẩn định lượng, báo cáo
“How Do Economies Define Micro, Small and Medium Enterprises
(MSMEs)?” của nhóm tác giả Khrystyna Kushnir, Melina Laura Mirmulstein
và Rita Ramalho năm 2010 thuộc Ngân hàng thế giới đã tổng hợp thông tin từ
120 nền kinh tế về tiêu chí để phân loại doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa.
Theo đó các tiêu chí định lượng được các nước sử dụng nhiều nhất để phân biệt
bao gồm: số lao động sử dụng, tài sản/ doanh thu/ vốn/ đầu tư và ngành công
nghiệp mà doanh nghiệp đó hoạt động. Mặc dù vậy, giữa các quốc gia và khu
vực khác nhau trên thế giới vẫn còn nhiều khác biệt trong việc đưa ra tiêu chí
để phân loại các mức độ doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa [128].
Tác giả Buculescu, M. với bài viết “Harmonization process in defining
small and medium-sized enterprises. Argument for a quantitative definition
versus a qualitative one” đăng trên tạp chí Theoretical and Applied Economics”
năm 2013 nhận xét rằng việc thống nhất định nghĩa về DNVVN vẫn là một thách
thức đối với các thể chế, tổ chức quốc tế. Nghiên cứu về định nghĩa DNVVN
được ban hành bởi Liên minh châu Âu, Ngân hàng thế giới, OECD hay các định
nghĩa được sử dụng ở một số quốc gia khác nhau cho thấy rằng vẫn chưa có một
sự đồng thuận về việc tìm đến một định nghĩa chung. Sự không thống nhất về
các tiêu chí dùng để phân loại, sự khác biệt về các hoạt động kinh tế và bối cảnh
kinh tế của mỗi quốc gia là những yêu tố chính cản trở sự tồn tại của một định
nghĩa chung dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ [67].
Báo cáo của OECD xuất bản năm 2001 và được cập nhật vào 2005 cho
rằng, quy định phân loại nhóm DNVVN là chưa thống nhất ở nhiều quốc gia và
khu vực. OECD cũng viện dẫn rằng tại các nước EU, tiêu chuẩn để được nhìn
10
nhận là DNVVN nếu các doanh nghiệp này có dưới 250 nhân viên. Tuy vậy, ở
một số quốc gia khác lại đặt giới hạn ở mức thấp hơn là dưới 200 nhân viên;
trong khi ở Hoa Kỳ coi DNVVN bao gồm các doanh nghiệp có dưới 500 nhân
viên. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhỏ nói chung là những doanh nghiệp có ít
hơn 50 nhân viên, trong khi các doanh nghiệp siêu nhỏ có nhiều nhất là 10 nhân
viên, hoặc trong một số trường hợp là 5 nhân viên. Ngoài ra OECD cũng cho
rằng doanh thu cũng là một trong những tiêu chỉ dùng để phân loại xem doanh
nghiệp đó có thuộc vào nhóm vừa và nhỏ hay không, tương tự như cách phân
loại của các nước EU [143]. Theo báo cáo của Cơ quan thống kê châu Âu
(Eurostat) năm 2011, một doanh nghiệp được xếp vào nhóm vừa và nhỏ ở châu
Âu nếu như doanh nghiệp đó sở hữu dưới 250 lao động và có doanh thu hàng
năm đạt bằng hoặc dưới 50 triệu euro. Báo cáo cũng phân biệt DNVVN với
doanh nghiệp siêu nhỏ khi có dưới 10 lao động và doanh thu từ dưới 2 triệu euro
trở xuống, doanh nghiệp lớn khi có từ 250 lao động trở lên và doanh thu đạt trên
50 triệu euro. Những tiêu chi này là vô cùng quan trọng khi có thể giúp phân loại
các doanh nghiệp với nhau và đặc biệt là sự phân loại này còn ảnh hưởng đến
những chính sách hỗ trợ từ EU với đối tượng là các DNVVN trong khối [92].
Mặc dù vây, là một quốc gia thuộc EU, nhưng Đức lại có cách phân loại khác
với khu vực, cụ thể, theo Nils Dahne thuộc Đại học Khoa học Ứng dụng với báo
cáo “Introducing German Mittelstand”, Doanh nghiệp được xếp vào nhóm nhỏ
và vừa ở Đức hay còn có tên gọi khác là các Mittelstand nếu doanh nghiệp đó có
dưới 500 lao động và doanh thu đạt dưới hoặc bằng 50 triệu EUR [142].
Tại Việt Nam, kể từ khi chuyển từ nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, cụm từ doanh nghiệp vừa và nhỏ đã dần
được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế. Tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày
23/11/2001 của Chính Phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, định
nghĩa có tính pháp lý về doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được đưa ra. Theo đó,
11
“doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đăng ký kinh
doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số
lao động trung bình hàng năm không quá 300 người” [13]. Tại Nghị định số
56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ, định nghĩa về doanh nghiệp
vừa và nhỏ đã được quy định cụ thể và chi tiết hơn, vừa theo quy mô tổng nguồn
vốn hoặc số lao động bình quân năm. Theo đó, doanh nghiệp vừa vả nhỏ trong
lĩnh vực “Nông, lâm nghiệp và thủy sản” và “Công nghiệp và xây dựng” có
tổng nguồn vốn từ 100 tỷ đồng trở xuống và số lao động từ trên 10 người đến
300 người. Còn trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, doanh nghiệp vừa và
nhỏ được quy định có tổng nguồn vốn từ 50 tỷ đồng trở xuống và số lao động
đến hoặc dưới 100 người [7].
Gần đây nhất, ngày 11 tháng 03 năm 2018, Chính phủ đã ban hành Nghị
định 39/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thay thế
Nghị định 56/2009/NĐ-CP trên. Theo đó, các tiêu chí để xác định DNVVN là:
“Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh
vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân
năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng
hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp
siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực
thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm
không quá 50 người và tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ đồng hoặc
tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu
nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động
tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và tổng doanh
thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ
đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy
12
định tại khoản 1, khoản 2 Điều này. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương
mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không
quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng
nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ,
doanh nghiệp nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này” [8].
1.1.2. Nhóm công trình đề cập đến vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Báo cáo “SME Promotion and Development in Germany: The Role of
Business Membership Organizations” của tác giả Albert Over và Jurgen
Henkel, xuất bản năm 2013 bởi Tổ chức Sequa gGmbH Đức đã đề cập về vai
trò của DNVVN trong nền kinh tế Đức. Theo đó, riêng số lượng đã chiếm tới
99% tổng số doanh nghiệp toàn nước Đức, sử dụng khoảng 80% lao động
thường xuyên và là đối tượng đóng góp chính cho GDP quốc gia. Vì vậy, không
quá ngạc nhiên khi Đức trong các chính sách kinh tế của mình đều có rất nhiều
chương trình hỗ trợ và biện pháp để thúc đẩy phát triển mạnh khối doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Báo cáo cũng nhấn mạnh vai trò của tổ chức thành viên doanh
nghiệp (BMOs) ở Đức khi nó đại diện cho lợi ích của doanh nghiệp vừa và nhỏ
trước các cơ quan nhà nước trong việc thúc đẩy khối này phát triển [53].
Trong báo cáo của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) tại Hội nghị Bộ
trưởng lần thứ 11, tổ chức tại Argentina năm 2017 đã nhấn mạnh vai trò và
đóng góp của các DNVVN đối với nền kinh tế quốc dân. Tại đa số các quốc
gia, các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa chiếm một tỷ trọng đáng kể trong
nền kinh tế. Dù ở các quốc gia phát triển hay đang phát triển, các doanh nghiệp
này cũng chiếm khoảng hai phần ba tỷ lệ lao động toàn xã hội. Đặc biệt các
quốc gia đang phát triển thì các công ty nhỏ còn có thể là phương tiện quan
trọng để giúp hòa nhập xã hội, bao gồm cả việc tạo nhiều cơ hội hơn cho phụ
nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế. Mặc dù vậy, báo cáo đưa ra nhận xét
13
rằng tuy chiếm tỷ lệ lao động lớn trong nền kinh tế nhưng đóng góp của khối
DNVVN vào GDP vẫn chưa tương xứng, chưa hiệu quả bằng các doanh nghiệp
lớn, đạt khoảng 35% tại các nước đang phát triển và 50% tại các nước phát
triển. Đóng góp của các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa vào thương mại
quốc tế còn hạn chế và báo cáo cũng dẫn một vài nghiên cứu chỉ ra rằng các
doanh nghiệp này dễ bị ảnh hưởng hơn bởi các rào cản thương mại so với doanh
nghiệp lớn. Ngoài ra, báo cáo cũng đưa ra một vài tiêu chí giúp phân loại các
doanh nghiệp vừa và nhỏ như dựa trên số lượng người lao động tương tự như
Liên minh châu Âu [183].
Báo cáo “SMEs are driving economic success Facts and figures about
German SMEs” 2017 của Bộ Kinh tế và Năng lượng Đức nhấn mạnh về vai trò
của các DNVVN qua số liệu thống kê cụ thể; đặc biệt trong năm 2017, khi đóng
vai trò dẫn dắt nền kinh tế. Theo đó, sự phát triển của khối doanh nghiệp này
giúp nền kinh tế Đức duy trì được sự phát triển ổn định, đóng góp khoảng 35%
tổng doanh thu của các doanh nghiệp Đức và chiếm tới gần 55% trong GDP,
giúp tăng xuất khẩu, thúc đẩy chi tiêu trong nghiên cứu và phát triển (R&D).
Tỉ lệ lao động có việc làm tiếp túc tăng cao đạt mức 21,6 điểm năm 2017 so
với 12,2 điểm năm 2016 (được đánh giá bởi ngân hàng KfW Đức) [97].
Tại Việt Nam, nghiên cứu về vai trò của các DNVVN cũng được nhiều
học giả đề cập đến. Tác phẩm “Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Hương xuất bản năm 2002 bởi Nhà Xuất Bản
Chính Trị Quốc Gia đã khẳng định tầm quan trọng của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong nền kinh tế và ngày càng gắn bó chặt chẽ với doanh nghiệp lớn,
hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy doanh nghiệp lớn phát triển. Bên cạnh đó, tác giả cũng
đưa ra một định nghĩa tương đối toàn diện về doanh nghiệp vừa và nhỏ: “Doanh
nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân
14
kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới
hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng
thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia” [23].
Bài viết “Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa: khái niệm, đặc điểm, hạn
chế và lựa chọn chính sách” của tác giả Lương Văn Khôi đăng trên Tạp chí
Kinh tế và Dự báo số 03/2003 đã đề cập về khái niệm DNVVN, đặc điểm, lợi
thế tiềm năng cũng như hạn chế của khối doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, tác
giả cũng khẳng định vai trò quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc
đóng góp phát triển kinh tế quốc gia [25]. Tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh với bài
viết “Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa với tăng trưởng kinh tế Việt Nam”
đăng trên tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới đã khẳng định vai
trò và tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tăng trưởng kinh tế.
Tác giả cũng đề xuất giải pháp nói chung nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho
giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu xã hội, góp phần nâng
cao chất lượng, năng suất lao động của các doanh nghiệp [33].
1.1.3. Nhóm công trình đề cập đến các nhân tố tác động và chính sách hỗ trợ
của Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Bàn về các nhân tố tác động đến sự phát triển của DNVVN có thể thấy
rằng đầu tiên, các doanh nghiệp cần có một tiềm lực nội tại tốt, bao gồm các
yếu tố: vốn, công nghệ, trình độ nguồn nhân lực, trình độ marketing. Tiếp đó,
các DNVVN cần phải nhận được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua các
chính sách, cơ chế thông thoáng, môi trường thân thiện để phát triển, và một
phần không nhỏ khác là sự hỗ trợ từ phía các hiệp hội DNVVN. Trong tất cả
các yếu tố trên thì chính sách hỗ trợ của nhà nước được xem là có vai trò quan
trong nhất đối với sự phát triển của các DNVVN.
15
Với việc đánh giá vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như xương
sống của nền kinh tế, đảm bảo sự tăng trưởng, sáng tạo, tạo công ăn việc làm
và các gắn kết trong xã hội, Liên minh châu Âu đã xác định việc xây dựng các
chính sách giúp phát triển khối doanh nghiệp này một cách nhanh và bền vững;
bao gồm: tạo một môi trường kinh doanh thân thiện; khuyến khích các doanh
nghiệp thông qua các “Chương trình hành động vì doanh nghiệp”, giúp tiếp cận
các nguồn tài chính trên thị trường, tiếp cận các thị trường mới, đặc biệt là thị
trường ngoài khối; cung cấp các mạng lưới hộ trợ và thông tin kịp thời, đặc biệt
là các doanh nghiệp đang trong quá trình khởi nghiệp, ví dụ “Cổng kết nối
nguồn vốn”, “Mạng lưới doanh nghiệp châu Âu”, “Cổng kết nối doanh nghiệp
châu Âu”, “Kênh hỗ trợ doanh nghiệp quốc tế hóa” [1].
Bài viết “Alternative Approaches in Evaluating the EU SME Policy:
Answers to the Question of Impact and Legitimization” của tác giả Robert K.
Gruenwald đăng trên tạp chí Entrepreneurial Business and Economics Review
tháng 01 năm 2014 với mục tiêu nhằm đánh giá các chính sách hiện hành hỗ
trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước EU và các giải pháp giúp
cải tiến tình hình. Nghiên cứu sử dụng các phương pháp đánh giá khác nhau,
được áp dụng rộng rãi bởi OECD, EU và các chương trình được tài trợ, cung
cấp bởi KfW và Bộ Kinh tế Đức nhằm đánh giá mối quan hệ nhân quả giữa sự
phân bổ và hiệu quả tài trợ trong các chính sách hỗ trợ khối doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở EU [107].
Báo cáo của Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên bang Đức xuất bản năm
2016 với tiêu đề “Future of the German Mittelstand: Action Programme” trình
bày 10 vấn đề trong chương trình hành động giúp thúc đẩy sự phát triển
DNVVN ở Đức trong tương lai; cụ thể bao gồm: (1) Thúc đẩy tinh thần khởi
nghiệp, (2) Tăng cường và đảm bảo quyền tiếp cận tài chính của doanh nghiệp,
16
(3) Hỗ trợ giải quyết sự thiếu hụt kỹ năng trong công việc, tăng cường đào tạo
tay nghề, (4) Xóa bỏ rào cản thể chế, quan liêu, (5) Sử dụng số hóa, (6) Tăng
cường năng lực sáng tạo, (7) Tận dụng cơ hội từ toàn cầu hóa, (8) Giúp định
hình chính sách doanh nghiệp vừa và nhỏ ở châu Âu, (9) Tăng cường hỗ trợ
các doanh nghiệp còn yếu về mặt cấu trúc, (10) Hỗ trợ phát triển các lĩnh vực
kinh doanh mới xuất phát từ quá trình chuyển đổi năng lượng [96].
Báo cáo “The role of small and medium-sized enterprises in
development: What can be learned from the German experience?” của tác giả
Hansjörg Herr và Zeynep M. Nettekoven, xuất bản năm 2017 tại Berlin nhận
định rằng Đức là một hình mẫu lý tưởng trong chính sách hỗ trợ và phát triển
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó, sự hỗ trợ thông qua các chính sách của
chính phủ như hỗ trợ vay vốn không vì mục đích lợi nhuận, hệ thống dạy nghề
tốt, kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn; sự hoạt động sôi nổi của các Hiệp hội
và công đoàn…là những yếu tố chính giúp khối doanh nghiệp này phát triển.
Tất cả những điều này đều là bài học cho các quốc gia đang phát triển có thể
học hỏi [110].
Báo cáo “The German Mittelstand – an Overview” của Tổ chức hợp tác
quốc tế Đức (GIZ) xuất bản năm 2012 đã cung cấp một cái nhìn tổng quan,
ngắn gọn bức tranh về quá trình phát triển của các Mittelstand – các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Đức trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của nền kinh tế
Đức, đặc biệt kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 kết thúc. Chính phủ Đức
đã đánh giá cao vai trò của khối doanh nghiệp này trong phát triển kinh tế và
đề xuất những chính sách thiết thực trực tiếp và cụ thể như “chính sách
Mittelstand” năm 1970 nhằm tạo ra một hành lang điều kiện phát triển cho các
doanh nghiệp. Ngày nay, khi gia nhập Liên minh châu Âu, chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức được thực hiện theo “Đạo luật doanh nghiệp
17
nhỏ” của EU với những quy định và chế tài chung của Liên minh. Bên cạnh đó,
Đức vẫn có các tổ chức riêng đại diện cho quyền lợi của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, sự hỗ trợ của các ngân hàng như KfW và các cơ quan chuyên trách
riêng giúp định hướng và thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp [105].
Tại Việt Nam, rất nhiều các học giả đã nghiên cứu về những nhân tố tác
động và chính sách hỗ trợ của nhà nước đến DNVVN. Nghiên cứu về các công
trình đề cập đến chính sách hỗ trợ của nhà nước dối với DNVVN ở Việt Nam,
bài viết “Một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển trong nền
kinh tế hiện nay” của Tô Thị Thùy Trang – Viện Nghiên cứu Phát triển TP. Hồ
Chí Minh trên Tạp chí Nghiên cứu Phát triển đã đề xuất sáu giải pháp chính
nhằm giúp khắc phục những khó khăn, vướng mắc và hỗ trợ khối doanh nghiệp
vừa và nhỏ phát triển. Theo đó, tác giả đề xuất cần có định hướng chiến lược,
cơ chế chính sách phù hợp, đặc biệt là xây dựng hệ thống các tổ chức tài chính
nhằm phục vụ cho nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh
đó, tích cực nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tận dụng tốt các chính sách
ưu tiên về thuế đang được Nhà nước hỗ trợ; ngoài ra cần nâng cao ý thức về
vai trò, tầm quan trọng của ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động
sản xuất kinh doanh [37].
Bài viết “Tác động hỗ trợ chính phủ đến hoạt động cải tiến của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam” của Trần Quang Tuyến và Vũ Văn Hưởng
đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQHGN: Kinh tế và Kinh doanh Tập 34, Số 4
(2018) đã đánh giá tác động hỗ trợ của chính phủ đến hoạt động cải tiến của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Sử dụng bộ số liệu mảng trong
giai đoạn 2007-2015, nghiên cứu chỉ ra rằng hỗ trợ chính phủ có ảnh hưởng
tích cực đến hoạt động cải tiến, đổi mới sản phẩm và ứng dụng công nghệ mới
của các doanh nghiệp. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hỗ trợ chính phủ duy nhất
18
có ảnh hưởng tích cực đến khả năng sáng tạo, đổi mới sản phẩm hiện có và đổi
mới quy trình đối với các doanh nghiệp chính thức. Kết quả hàm ý rằng chính
phủ đã đầu tư một cách đáng kể vào việc hỗ trợ hoạt động cải tiến. Để các chính
sách này thực sự hiệu quả thì cần đi cùng với các chính sách khác nhằm thúc
đẩy doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa chuyển đổi từ hình thức phi chính thức
sang chính thức [42].
Bài viết “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế” của Phạm Xuân Giang – Khoa Quản trị kinh doanh – Trường
ĐH Công nghiệp TP.HCM đăng trên Tạp chí Công nghiệp năm 2009 đã chỉ ra
những khó khăn từ chính bản thân các DNVVN là chậm đổi mới và cũng từ sự
thiếu vắng một khung pháp lý hoàn chỉnh cho sự phát triển của nhóm doanh
nghiệp này. Qua đó, tác giả đã đưa ra bốn giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ những
khó khăn: (1) Liên kết với các cơ sở đào tạo để cung ứng nguồn nhân lực cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ (2) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải nhanh
chóng đổi mới công nghệ (3) Giải quyết các khó khăn liên quan đến vốn (4)
Trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có đủ các thông tin cần thiết [19].
Tác phẩm “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa – kinh nghiệm Việt nam
và Đức” của Hội đồng lý luận Trung Ương, xuất bản năm 2017 bởi Nhà xuất
bản Chính Trị Quốc Gia là tập hợp những bài viết chuyên sâu của các học giả,
các nhà quản lý Việt Nam và Đức đề cập sâu rộng những vấn đề xung quanh
sự phát triển của DNVVN như: vai trò, tầm quan trọng của DNVVN trong nền
kinh tế, kinh nghiệm phát triển của Việt Nam và Đức; cơ hội và thách thức đối
với DNVVN cùng các chủ trương, chính sách của Đảng Cộng Sản Việt nam và
Đảng Dân chủ xã hội Đức để hỗ trợ DNVVN phát triển; biện pháp thiết thực
để đổi mới, sáng tạo và phát triển DNVVN trong giai đoạn mới [22].
19
Trong quá trình nghiên cứu các công trình đi trước, tác giả luận án nhận
thấy có rất nhiều các công trình đề cập đến các nhân tố tác động và chính sách
hỗ trợ đối với các DNVVN; tuy vậy, các công trình này chủ yếu tập trung vào
nghiên cứu đối tượng là khối các DNVVN ở Liên minh châu Âu nói chung mà
đối tượng là các DNVVN ở Đức chưa được chú ý nhiều. Cụ thể, bài viết của
tác giả Đặng Minh Đức đăng trên Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 02/2003 về
“Chính sách về doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 2001-2005 ở Liên minh
châu Âu” đã trình bày một cách tổng thể về chính sách chung của Liên minh
trong giai đoạn 05 năm này. Cụ thể mục tiêu nhằm tạo ra khung pháp lý khuyến
khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động và thích ứng trong bối cảnh cạnh
tranh thời điểm hiện tại, bao gồm: (1) Thúc đẩy các hoạt động kinh doanh, đặc
biệt trong định hướng người tiêu dùng và trao đổi mạnh hơn nữa trong lĩnh vực
dịch vụ; (2) Khuyến khích một môi trường kinh doanh phát triển bền vững
trong đó việc nghiên cứu, sự đổi mới và hoạt động kinh doanh có thể phát huy
được hiệu quả cao nhất; (3) Cải thiện môi trường tài chính cho doanh nghiệp
vừa và nhỏ; (4) Nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nền kinh tế tri thức và quá trình quốc tế hóa đang diễn ra mạnh mẽ; (5)
Đảm bảo cho hệ thống trợ giúp trong kinh doanh và dịch vụ cho doanh nghiệp
được cung cấp và được điều phối một cách có hiệu quả [18]. Bài viết “Chính
sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số quốc gia và bài học
cho Việt Nam” của Phạm Thái Hà đăng trên Tạp chí tài chính, số 675, 02/2018
đã nghiên cứu về chính sách phát triển nói chung và hỗ trợ tài chính doanh
nghiệp vừa và nhỏ nói riêng của một số quốc gia có nền kinh tế phát triển. Qua
đó rút ra bài học và kinh nghiệm cho Việt Nam [20].
Bài viết “Chính sách của EU đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm
ứng phó khủng hoảng và suy thoái” của tác giả Đinh Mạnh Tuấn, đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 10 năm 2013 đã tóm lược khái quát những
20
chính sách của EU đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trước khủng hoảng (kể từ
những năm 1990 trở đi). Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích những điều chỉnh
về mặt chiến lược của EU, đặc biệt kể từ khi ban hành “Đạo luật về doanh
nghiệp nhỏ - Small Business Act” năm 2008 nhằm ứng phó với cuộc khủng
hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu. Kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra,
EU đã có những hỗ trợ cần thiết để đảm bảo khối doanh nghiệp này được ổn
định hoạt động; ví dụ như cung cấp các khoản vay ưu đãi khi thị trường tài
chính thiếu ổn định; Cung cấp các khoản tài trợ củng cố (mezzanine financing);
Cải cách cơ cấu các khoản vay; Giảm bớt những gánh nặng xã hội và hạ tỉ lệ
thuế VAT [39].
Bài viết của tác giả Nguyễn Như Đến đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Châu
Âu số 02/2007 về “Những định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của
EU hiện nay” đã trình bày một cách khái quát về những vấn đề mà EU quan
tâm nhằm định hình khối DNVVN phát triển, trong đó bao gồm mười mục tiêu:
(1) Giáo dục và đào tạo về kinh doanh; (2) Hoàn thiện hệ thống pháp luật; (3)
Nâng cao đào tạo kỹ năng; (4) Rút ngắn quá trình và hạ chi phí thành lập doanh
nghiệp; (5) Đẩy mạnh cách tiếp cận trực tuyến; (6) Nhanh chóng thoát khỏi tình
trạng thị trường đơn lẻ; (7) Các vấn đề về thuế và tài chính; (8) Nâng cao khả
năng công nghệ cho các DNVVN; (9) Xây dựng mô hình thương mại điện tử
và khuyến khích doanh nghiệp nhỏ mũi nhọn; (10) Phát triển mạnh mẽ và đại
diện hiệu quả hơn nữa quyền lợi của doanh nghiệp nhỏ ở cấp Liên minh và
quốc gia [17].
Bài viết của tác giả Trần Thị Thu Huyền đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
Châu Âu số 10/2016 với tiêu đề “Các hình thức trợ cấp nhà nước đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Liên minh châu Âu” đã chia các hình thức trợ cấp của Nhà
nước nói chung thành hai nhóm cơ bản: (1) Các hỗ trợ tài chính cho DNVVN;
21
(2) Các biện pháp hỗ trợ cho sự tăng trưởng và phát triển của các DNVVN.
Những biện pháp trợ cấp cụ thể này giải quyết những vấn đề khác nhau kết hợp
với những Quy định ngoại lệ chung (GBER) tạo nên một khuôn khổ toàn diện
cho chính sách trợ cấp Nhà nước của EU hiện nay [24].
Bài viết “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: cơ hội, thách thức đối với
khởi sự doanh nghiệp và doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Liên minh châu Âu” của
tác giả Đinh Mạnh Tuấn – Viện Nghiên cứu Châu Âu, đăng trong Hội thảo
Khoa học Quốc Gia “Khởi nghiệp và đổi mới trong kinh doanh” tháng 11 năm
2018 đã phân tích về cơ hội của các DNVVN châu Âu trong bối cảnh mới nếu
tận dụng được lợi thế của khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, tác giả cùng đề
cập về những chính sách mà EU đã ban hành nhằm tạo điều kiện hỗ trợ, khuyến
khích các DNVVN chuyển mình, bao gồm việc chuyển dịch sang nền kinh tế
số, tạo lập tinh thần kinh doanh kỹ thuật số, thu hút nhân lực tài năng và có kỹ
năng về công nghệ cao, tạo thuận lợi cho tiếp cận tài chính và tận dụng các cơ
hội của thị trường đơn nhất về kỹ thuật số [41].
Bài viết của tác giả Hoàng Xuân Trung, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
châu Âu số 08/2016 về “Trợ cấp nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
Pháp, Đức và gợi mở kinh nghiệm cho Việt Nam” đã xem xét quá trình hỗ trợ
từ Nhà nước đối với các DNVVN. Trong đó tại Đức, ngoài vấn đề hỗ trợ về
vốn, tài chính, Nhà nước còn tạo ra môi trường hành lang pháp lý, những quy
định chặt chẽ được quy định cụ thể trong luật. Ở Đức có hai cơ quan phụ trách
cơ bản dành cho khối doanh nghiệp này là Ngân hàng Đền bù Đức (DtA) với
mục tiêu chung cấp các khoản vốn đầu tư khởi nghiệp cho doanh nghiệp, và
Ngân hàng Tái thiết Đức (KtW) chuyên cung cấp các khoản vay vốn cho các
doanh nghiệp đang hoạt động. Tuy nhiên do hoạt động có sự chồng chéo nên
22
Chính phủ Đức đã hợp nhất hai ngân hàng này thành một ngân hàng mới KtW
với nhiệm vụ chính vẫn là hỗ trợ cho các DNVVN về mặt tài chính [38].
Đặc biệt phải kể đến Luận văn tiến sĩ “Chính sách của EU đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ từ năm 2000 đến nay” của tác giả Đinh Mạnh Tuấn
[40, Viện Nghiên cứu châu Âu và đề tài cấp Bộ “Khuôn khổ pháp lý của Liên
minh châu Âu về trợ cấp nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa và gợi mở
chính sách cho Việt Nam” của tác Nguyễn Đức Minh, Viện Nghiên cứu châu
Âu [28]. Đây là hai trong nhiều công trình trình bày rõ nét về chính sách pháp
luật và khuôn khổ pháp lý của châu Âu nói chung trong việc hỗ trợ thúc đẩy và
phát triển các DNVVN trong Liên minh. Mặc dù vậy, đối tượng DNVVN ở
Đức lại không được đề cập đến.
1.1.4. Nhóm công trình đề cập những vấn đề tồn tại của doanh nghiệp vừa
và nhỏ
Bên cạnh những thuận lợi mà các DNVVN có được, những rào cản mà
các DNVVN đang gặp phải cũng được các nghiên cứu chỉ ra như: khả năng
tiếp cận nguồn vốn, nguồn nhân lực.v.v. Bàn về vấn đề tiếp cận nguồn vốn, bài
viết “Thinking small: EU SME Policy” của tác giả Jean-Marie Avezou năm
2015 đã đề cập về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Liên minh
châu Âu. Theo đó, khối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước EU nói chung vẫn
gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài chính, các cơ hội xâm
nhập thị trường, đặc biệt thị trường mới bên ngoài EU; ngoài ra sự quan liêu,
cứng nhắc trong việc thực thi chính sách cũng là một trong những rào cản cho
khối doanh nghiệp này phát triển. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất các ưu tiên
trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, giúp tạo nhiều việc
làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung [117].
23
Đề cập về những rào cản liên quan đến nguồn nhân lực, bài viết của Olaf
Storbeck trên Financial Times năm 2018 đã chỉ ra một thực tế đáng lo ngại mà
các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức đang phải đối mặt đó là “cuộc khủng hoảng
thế hệ” đang âm thầm diễn ra khi mà trong vòng năm năm tới, có hơn 840,000
người chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức sẽ nghỉ hưu và chưa tìm được thế
hệ kế cận và đây là rào cản rất lớn cho các Mittelstands ở Đức duy trì được sự
phát triển [146].
Ngoài ra, tác phẩm “The Challenges of Industry 4.0 for Small and
Medium-sized Enterprises” của tác giả Christian Schroder xuất bản bởi
Friedrich-Ebert-Stiftung năm 2016 đã trình bày những khó khăn của các
DNVVN ở Đức trong cuộc đua của cách mạng công nghệ 4.0. Theo tác giả, các
DNVVN thiếu một chiến lược công nghiệp 4.0 toàn diện so với các công ty
lớn. Các doanh nghiệp lớn với lợi thế về quy mô, vốn, công nghệ, con người,
có nhiều lợi thế hơn trong việc áp dụng các công nghệ mới. Hiện tại, các
DNVVN ở Đức mới chỉ dừng ở mức thích nghi với các tiêu chuẩn của các công
ty lớn mà họ cung cấp. Và với tốc độ phát triển của khoa học-kỹ thuật như hiện
tại, nếu không bắt kịp xu hướng và tích hợp các công nghệ mới, các thành tựu
của khoa học hiện đại thì các DNVVN ở Đức sẽ gặp nhiều bất lợi trong việc
cạnh tranh với các đối thủ từ bên ngoài [71].
1.2. Khoảng trống nghiên cứu và hướng nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Đóng góp của của các công trình đi trước:
Điểm lại các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về sự phát triển
của DNVVN có thể thấy rằng khái niệm “doanh nghiệp vừa và nhỏ” là khái
niệm còn gây nhiều tranh cãi và chưa có được sự đồng nhất trong việc áp dụng
chung giữa các quốc gia. Tuy có sự khác biệt nhưng các nghiên cứu trên cũng
đã đưa ra được một số định nghĩa khá rõ ràng, cung cấp những tiêu chí đánh
24
giá, phân loại DNVVN với doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế. Bên cạnh đó,
các nghiên cứu cũng khẳng định vai trò quan trọng của các DNVVN trong phát
triển kinh tế ở cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Thêm vào đó, các
công trình đi trước cũng đề cập đến một số chính sách Nhà nước hỗ trợ các
DNVVN, cả về mặt vĩ mô và vi mô.
Ngoài ra, các nghiên cứu cũng đồng ý rằng để phát triển DNVVN cần
đòi hỏi một chiến lược tổng thể, xuyên suốt, liên quan đến nhiều khía cạnh,
trong đó Nhà nước đóng vai trò là người điều tiết, tạo ra một môi trường thuận
lợi để khối doanh nghiệp này có thể lớn mạnh. Cụ thể, Nhà nước cần duy trì
được các chính sách kinh tế vĩ mô ổn định, lành mạnh, môi trường kinh doanh
thuận lợi; đơn giản hóa các khung pháp lý, thủ tục hành chính; đảm bảo cơ sở
hạ tầng; hỗ trợ giáo dục, đào tạo tay nghề cho người lao động với đủ sức khỏe
và kỹ năng; hỗ trợ tín dụng cần thiết và xây dựng được các liên kết thương mại
và đầu tư trong nền kinh tế.
1.2.2. Một số vấn đề các công trình trên còn bỏ ngỏ, cần tiếp tục nghiên cứu:
Thứ nhất, trong quá trình rà soát các công trình nghiên cứu đi trước, tác
giả luận án nhận thấy chưa có nhiều công trình hệ thống hóa được đầy đủ các
vấn đề từ lý thuyết như khái niệm, phân loại, vai trò đến các nhân tố tác động,
tiêu chí đánh giá sự phát triển của các DNVVN. Các công trình nghiên cứu
trước đây chủ yếu tập trung đề cập đến một hoặc vài khía cạnh riêng lẻ của hệ
thống lý thuyết. Theo đó, đây được xem là nhiệm vụ mà luận án tiếp tục nghiên
cứu và hoàn thiện.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu trước đây chủ yếu phân tích về đối
tượng là khối DNVVN ở châu Âu nói chung, ít công trình nghiên cứu, phân
tích và đánh giá về sự phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế Đức. Những
công trình có nghiên cứu thì thường chủ yếu đề cập đến những tác động tích
25
cực, mặt ưu điểm của các DNVVN, còn những khó khăn và thách thức mà các
DNVVN đang và sẽ phải đối mặt thì vẫn ít được nhắc tới. Ưu điểm và những
vấn đề còn tồn tại trong quá trình phát triển DNVVN ở Đức vẫn chưa được đề
cập nhiều.
Thứ ba, trong quá trình tìm kiếm tài liệu, tác giả luận án nhận thấy vẫn
còn thiếu những đề tài nghiên cứu riêng giai đoạn từ năm 2000 đến nay về kinh
nghiệm phát triển DNVVN ở Đức để từ đó rút ra các bài học thực tiễn cho Việt
Nam, như phân tích cụ thể quá trình các DNVVN ở Đức thích nghi với sự thay
đổi từ các chính sách chung của Liên minh châu Âu như thế nào; ví dụ việc
Liên minh châu Âu liên tục đổi mới và đưa ra các chiến lược như “Chiến lược
Lisbon về tăng trường việc làm” năm 2000 hay việc ban hành “Chính sách hiện
đại đối với DNVVN” năm 2005, và đặc biệt sự ra đời của “Đạo luật doanh
nghiệp nhỏ” năm 2008 trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
đang diễn ra. Ngoài ra, một loạt những khó khăn trong tương lai mà các
DNVVN ở Đức đang phải đối mặt như “cuộc khủng hoảng thế hệ” đang âm
thầm diễn ra, các DNVVN ở Đức đang phải tìm kiếm những thế hệ kế cận tiếp
nối công việc của doanh nghiệp; hay cuộc đua trong Cách mạng công nghiệp
4.0 đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ mà nếu không bắt kịp thì các DNVVN ở
Đức có nguy cơ bị tụt hậu vẫn chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến.
Do vậy, nhiệm vụ của Luận án là tiếp tục kế thừa những kết quả nghiên
cứu của các tác giả đi trước, đồng thời cố gắng nghiên cứu, giải quyết những
vấn đề còn bỏ ngỏ.
26
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
2.1. Lý luận về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.1.1. Lý thuyết của Penrose về sự phát triển doanh nghiệp:
Penrose đã tham gia nghiên cứu về sự phát triển của các doanh nghiệp
và đặc biệt tập trung phân tích về nguồn lực tạo ra sự tăng trưởng cũng như các
nhân tố cản trở đến sự tăng trưởng thông qua nghiên cứu quá trình sản xuất và
cạnh tranh của doanh nghiệp. Lý thuyết về sự phát triển doanh nghiệp được tác
giả hoàn thành vào năm 1959, trong đó tác giả đề cập đến mối quan hệ giữa
nguồn lực và quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tác giả nhận
định bản thân các nguồn lực chưa thể được xem là yếu tố đầu vào cho quá trình
sản xuất kinh doanh mà tùy thuộc vào từng doanh nghiệp sử dụng các nguồn
lực đó theo những cách thức như thế nào dựa trên kinh nghiệm, trình độ của
người lao động, năng lực của quản lý thì các nguồn lực đó mới trở thành nhân
tố giúp doanh nghiệp tăng trưởng [151]. Tác giả cho rằng kết quả mà các nguồn
lực mang lại thể hiện cách thức và mục đích mà các doanh nghiệp sử dụng
nguồn lực đó như thế nào, và các kết quả đạt được sẽ khác nhau nếu cách thức,
mục đích sử dụng các nguồn lực là khác nhau. Penrose cũng khẳng định năng
lực quản lý có tác động không nhỏ đến sự tăng trưởng và phát triển của doanh
nghiệp. Năng lực quản lý là sự đúc kết từ kinh nghiệm, kiến thức của người
quản lý và sẽ giúp doanh nghiệp tăng trưởng trong một giai đoạn nhất định.
Đến một thời điểm nào đó, đội ngũ quản lý cũ sẽ không còn đủ khả năng để
duy trì tiếp tục sự phát triển của doanh nghiệp nên sẽ cần bổ sung và thay thế
bởi đội ngũ quản lý mới [151]. Quan điểm về phát triển doanh nghiệp dựa trên
27
nguồn lực của Penrose là tiền đề cho rất nhiều tài liệu về quản trị chiến lược
sau này.
Trong khuôn khổ của luận án, lý thuyết của Penrose về sự phát triển của
doanh nghiệp sẽ giúp giải thích quá trình mà các DNVVN ở Đức vận dụng các
nguồn lực nội tại của doanh nghiệp, kết hợp với năng lực quản lý của người
chủ doanh nghiệp cùng đội ngũ người lao động giàu kinh nghiệm, gắn bó, có
tính cam kết cao trong công việc giúp doanh nghiệp tăng trưởng và luôn duy trì
vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia.
2.1.2. Lý thuyết nguồn lực doanh nghiệp và năng lực động của doanh nghiệp
Để có thể phát triển, doanh nghiệp cần phải tạo ra được lợi thế cạnh tranh
trên thị trường và muốn vậy thì phải có những nguồn lực phù hợp để tạo ra sự
khác biệt đó. Điều này càng đúng hơn với đối tượng là các DNVVN khi mà
nguồn lực sẵn có rất hạn chế nên các doanh nghiệp phải tự tìm kiếm và xác
định các nguồn lực để có thể tạo nên lợi thế cạnh tranh bền vững cho riêng
mình trong một môi trường nhiều biến động.
Quan điểm của một số lý thuyết cạnh tranh truyền thống dường như
không còn phù hợp khi mà Barney (1991) cho rằng lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp nếu không được xây dựng dựa trên nền tảng nguồn lực bên trong của
doanh nghiệp đó thì sẽ không thể tạo được ưu thế lâu dài vì hoàn toàn có thể bị
bắt chước [58]. Đây được xem là cơ sở để cho lý thuyết nguồn lực của doanh
nghiệp (resource-based view of the firm) ra đời. Theo đó, lý thuyết nguồn lực
của doanh nghiệp do Wernerfelt đề xuất năm 1984 được xây dựng dựa trên tiền
đề là các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một lĩnh vực nhưng có những
chiến lược kinh doanh khác nhau. Và các chiến lược kinh doanh này không thể
sao chép vì nó được xây dựng dựa trên đặc tính về nguồn lực sẵn có của doanh
nghiệp ấy [174]. Rindova và Fombrun (1999) [156] cho rằng các nguồn lực và
28
năng lực cốt lõi của doanh nghiệp là nhân tố chính giúp doanh nghiệp có thể có
được lợi thế cạnh tranh. Vì vậy, khi phân tích lợi thế cạnh tranh thì phải dựa
vào phân tích nguồn lực. Có thể thấy rằng, việc hỗ trợ các nguồn lực phù hợp
và chính sách kịp thời đóng vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát
triển của DNVVN vì các doanh nghiệp này vốn gặp nhiều bất lợi về nguồn lực
(vốn, lao động, quy mô…) và luôn cần nhận sự hỗ trợ. Lý thuyết nguồn lực
cung cấp một cơ chế giúp các doanh nghiệp có thể tìm ra giải pháp phù hợp cho
từng hoàn cảnh để vượt qua các trở ngại về sự tăng trưởng, tiếp cận tốt hơn với
các nguồn lực như công nghệ, lao động, tài chính, cơ sở hạ tầng và tiếp cận thị
trường. Theo Barney (1991) [59] và Grant (1991) [106], bốn nguồn lực hữu
hình ở đây là nguồn lực tài chính, nguồn lực tổ chức, nguồn lực vật chất và
nguồn lực công nghệ và ba nguồn lực vô hình là nguồn nhân lực, nguồn lực đổi
mới và sự uy tín/danh tiếng. Nếu kết hợp nhuần nhuyễn các nguồn lực này với
sự hỗ trợ kịp thời thì DNVVN sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
trong nền kinh tế.
Theo thời gian, lý thuyết nguồn lực cũng được phát triển và được mở
rộng trong một môi trường động, nhằm đáp ứng với sự thay đổi của môi trường
kinh doanh. Đây là cơ sở để hình thành nên lý thuyết năng lực động (dynamic
capabilities theory). Ambrosini và Bowman (2009) cho rằng, lý thuyết năng lực
động giúp giải thích được việc làm thế nào mà các doanh nghiệp có thể tạo ra
được lợi thế cạnh tranh trong một môi trường có sự biến đổi nhanh chóng. Lợi
thế cạnh tranh này cũng sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo ra nhiều lợi nhuận hơn,
giúp doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển [54]. Tổng hợp lại, theo Teece và
cộng sự (1997), năng lực động được thể hiện ở khả năng tích hợp và xác định
những tiềm năng cả bên trong và ngoài của doanh nghiệp để đáp ứng với sự
biến động của môi trường [165]. Và những nguồn lực để có thể trở thành năng
lực động và giúp doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh phải đáp ứng được các
29
tiêu chí: giá trị, hiếm, khó thay thế và khó bị bắt chước [81]. Và sáu thành phần
chính của năng lực động bao gồm: năng lực nhận thức, năng lực tiếp thu, năng
lực thích nghi, năng lực sáng tạo, năng lực kết nối và năng lực tích hợp [65].
Trong khuôn khổ của luận án, lý thuyết nguồn lực doanh nghiệp và năng
lực động của doanh nghiệp sẽ giúp luận án giải thích rằng những nguồn lực và
năng lực cốt lõi của DNVVN ở Đức chính là tiền đề giúp khối doanh nghiệp
này có thể tạo ra một lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh môi trường trong nước
và quốc tế có nhiều biến động, bên cạnh sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ thông
qua các chính sách giúp các doanh nghiệp tăng khả năng tiếp cận tín dụng, đổi
mới công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhận lực và tiếp cận các thị trường
mới trên phạm vi toàn cầu thông qua vai trò của các Hiệp hội v.v.
2.1.3. Lý thuyết phát triển theo giai đoạn
Nhiều học giả đồng tình rằng, vòng đời tăng trưởng và phát triển của
doanh nghiệp thường được chia thành nhiều mốc giai đoạn và mỗi giai đoạn lại
có những đặc tính biểu thị khác nhau. Mặc dù vậy, các học giả chưa có sự thống
nhất trong việc phân chia số giai đoạn trong vòng đời phát triển của doanh
nghiệp. Trong khi Cooper (1979) cho rằng sự phát triển của doanh nghiệp
thường trải qua ba giai đoạn [75] thì Flamholtz (1986) lại cho rằng có thể chia
thành bảy giai đoạn [103]. Thậm chí Adizes (1989) đề xuất mô hình với 10 giai
đoạn phát triển của doanh nghiệp [51]. Dường như, không có sự thống nhất
giữa các nhà nghiên cứu về việc xác định chính xác các giai đoạn tăng trưởng
và phát triển của doanh nghiệp. Tuy vậy, một trong những công bố nổi tiếng
nhất, được nghiên cứu tỉ mỉ và nhắc đến rộng rãi nhất là lý thuyết của Greiner
về “mô hình phát triển sáu giai đoạn” [137].
Mô hình này được ông đề xuất năm 1972 (mới đầu ông chỉ chia thành
năm giai đoạn). Quan điểm của ông là các doanh nghiệp luôn vận động và thay
30
đổi, giống như các sinh vật trong quá trình sinh trưởng và phát triển của mình
thường trải qua các giai đoạn khác nhau. Ông cho rằng mỗi khi doanh nghiệp
chuyển sang một giai đoạn tăng trưởng mới thì sẽ gắn với một “cuộc khủng
khoảng ngắn” chuyển giao [131]. Mô hình này cũng giúp giải đáp các câu hỏi
rằng giai đoạn nào thì tương ứng với cách quản lý và chiến lược phát triển nào
của doanh nghiệp, từ đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát hơn về quá trình
tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp đó.
Hình 2.1: Mô hình phát triển sáu giai đoạn của Greiner
Nguồn: Mella, Piero & Pellicelli, Michela. (2008).
Giai đoạn một: “Phát triển thông qua sự sáng tạo”
Đây là giai đoạn đầu tiên của doanh nghiệp. Doanh nghiệp vừa mới thành
lập nên quá trình chính của giai đoạn này là sản xuất sản phẩm và đưa ra thị
31
trường. Doanh nghiệp chưa có nhiều nhân viên cũng như những nội quy doanh
nghiệp chưa quy định chặt chẽ. Trong giai đoạn này, doanh nghiệp phát triển
rất nhanh và người lãnh đạo doanh nghiệp khó có thể kiểm soát mọi tình hình.
Cuối giai đoạn này sẽ là “cuộc khủng hoảng lãnh đạo” khi mà yêu cầu về sự
quản lý chuyên nghiệp được đặt ra. Doanh nghiệp cần có sự cải tiến về cơ cấu
tổ chức của mình.
Giai đoạn hai: “Phát triển thông qua sự định hướng”
Trong giai đoạn này, doanh nghiệp tiếp tục phát triển và các quy trình và
hệ thống quản lý dần được chuyên nghiệp hóa. Một số vị trí lãnh đạo trung gian
được thành lập để hỗ trợ điều hành công việc. Tuy nhiên, việc điều hành chính
vẫn thuộc về người sáng lập doanh nghiệp và công tác điều hành có thể gây quá
tải với người lãnh đạo. Cuộc “khủng hoảng về sự tự quản” sẽ xuất hiện ở cuối
giai đoạn này.
Giai đoạn ba: “Phát triển thông qua sự ủy quyền”
Doanh nghiệp tiếp tục phát triển và người sáng lập sẽ trao quyền cho các
vị trí quản lý cấp trung gian với sự tự chủ nhất định. Người sáng lập/lãnh đạo
cao nhất sẽ chỉ giám sát các công việc và xử lý các vấn đề lớn. Mặc dù vậy, sự
lúng túng sẽ xuất hiện giữa các vị trí quản lý trong giai đoạn này vì bộ máy hoạt
động sẽ gặp khó khăn bước đầu trong giai đoạn phối hợp tất cả các vị trí với
nhau. Cuộc “khủng hoảng về quản lý” sẽ xuất hiện ở cuối giai đoạn.
Giai đoạn bốn: “Phát triển thông qua sự phối hợp & giám sát”
Trong giai đoạn này, các chính sách và thủ tục hành chính sẽ được chuẩn
hóa và áp dụng trong toàn doanh nghiệp. Việc chuẩn hóa này bước đầu sẽ mang
lại hiệu quả tốt vì giúp doanh nghiệp hoạt động bài bản, chặt chẽ hơn. Tuy
nhiên, một cuộc “khủng hoảng về quan liêu” sẽ phát sinh ở cuối giai đoạn này
32
và các quy định sẽ khiến cho doanh nghiệp hoạt động một cách cứng nhắc thiếu
linh hoạt.
Giai đoạn năm: “Phát triển thông qua hợp tác”
Giai đoạn này sẽ chứng kiến sự phá vỡ cấu trúc truyền thống (phối hợp
phân tầng) trong doanh nghiệp bằng việc xây dựng những mối liên kết linh hoạt
hơn (loại bỏ sự quan liêu) bằng sự hợp tác giữa nhân viên các bộ phận với người
quản lý thông qua một hình thái mới như cấu trúc ma trận hay cấu trúc dự án.
Điều này dẫn đến các hoạt động kiểm soát và giám sát nội bộ sẽ bị suy yếu,
doanh nghiệp sẽ gặp cuộc “khủng hoảng tăng trưởng” và cần tìm kiếm động
lực phát triển mới bằng việc phát triển thông qua liên minh với bên ngoài.
Giai đoạn sáu: “Phát triển thông qua sự liên minh”
Trong giai đoạn này, doanh nghiệp duy trì sự phát triển bằng cách liên
minh với bên ngoài thông qua các vụ sát nhập, tạo nên các mạng lưới liên kết
khác. Mặc dù vậy, hoạt động kinh doanh riêng của doanh nghiệp có thể bị ảnh
hưởng và doanh nghiệp có thể bị rơi vào một cuộc “khủng hoảng danh tính” khi
doanh nghiệp hoàn toàn có thể bị kiểm soát bởi các doanh nghiệp liên minh khác.
Như vậy, bằng cách cung cấp một mô hình trực quan về các giai đoạn
phát triển của một doanh nghiệp, Greiner giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp mới thành lập có thể hình dung được những khó khăn trong quá
trình hoạt động và có được sự chuẩn bị tốt nhất. Các cuộc khủng hoảng trong
mỗi giai đoạn mà doanh nghiệp gặp phải khó có thể dự báo chính xác thời điểm
xảy ra và cũng không thể tránh được trong một vòng đời phát triển, tuy nhiên,
nhìn một cách tích cực thì đây cũng là cơ hội để mỗi doanh nghiệp có một động
lực nhằm cải tổ bộ máy hoạt động của mình sao cho hiệu quả hơn, đáp ứng
được nhu cầu ngày càng cao của sự phát triển.
33
2.1.4. Chiến lược cạnh tranh phổ quát của Michael Porter:
Chiến lược cạnh tranh phổ quát (Generic strategies) là bộ ba chiến lược
được Michael Porter đề cập lần đầu tiên trong tác phẩm “Competitive
Advantage: Creating and Sustaining Superior Performance” vào năm 1985.
Theo đó, ba chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp được ông đề xuất lần lượt
là chiến lược dựa trên chi phí thấp (Cost leadership), chiến lược dựa trên sự
khác biệt hóa (Differentiation) và chiến lược tập trung (Focus). Mỗi chiến lược
phù với một hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp với mục đích cuối
cùng là tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị trường [138]. Cụ thể:
Chiến lược chi phí thấp (cost leadership) là chiến lược mà doanh nghiệp
dùng để duy trì sản phẩm của mình ở mức chi phí thấp nhất trong ngành/lĩnh
vực đó. Những doanh nghiệp theo đuổi chiến lược này cần phải có nguồn lực
về vốn để đầu tư cho hệ thống công nghệ, máy móc, giúp làm giảm chi phí sản
xuất sản phẩm, bên cạnh đó phải tiếp cận được nguồn nhân công, thiết bị, nguồn
nguyên liệu đầu vào giá rẻ cũng như phải có quy trình vận hành đạt hiệu suất
cao. Mặc dù vậy, rủi ro cho các doanh nghiệp áp dụng chiến lược này là các
đối thủ hoàn toàn có thể sao chép và tiếp cận được các nguồn lực giá rẻ tương
tự và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ bị đe dọa, đặc biệt trong một cuộc
cạnh tranh đường dài trên thị trường, những doanh nghiệp có nguồn lực yếu
hơn sẽ bị thua cuộc.
Chiến lược khác biệt hóa (Differentitation) là chiến lược mà doanh
nghiệp sẽ tạo sự khác biệt cho sản phẩm của doanh nghiệp mình so với các đối
thủ cạnh tranh khác trên thị trường, như khác biệt về mẫu mã, tính năng, chất
lượng, thương hiệu, tạo sự hấp dẫn, độc đáo hơn và giúp doanh nghiệp có được
lợi thế cạnh tranh nhờ sự khác biệt. Mặc dù vậy, để áp dụng được chiến lược
này, doanh nghiệp cần có khả năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm tốt, khả
34
năng hoàn thiện, cung ứng sản phẩm ở chất lượng cao cũng như phải có hoạt
động bán hàng, quảng cáo sản phẩm hiệu quả để tiếp cận khách hàng; nếu
không, lợi thế của doanh nghiệp hoàn toàn có thể bị đối thủ đe dọa.
Chiến lược tập trung (Focus) là chiến lược giúp doanh nghiệp chỉ tập
trung vào một phân khúc sản phẩm/thị trường ngách. Đây là phân khúc thị
trường nhỏ với đặc điểm riêng biệt. Các doanh nghiệp áp dụng chiến lược tập
trung thường hiểu rất sâu những đặc thù của thị trường mà mình hướng tới cũng
như cung cấp được các sản phẩm/dịch vụ đáp ứng được các nhu cầu của thị
trường. Bên cạnh đó, để đảm bảo đạt được lợi thế cạnh tranh tối đa, chiến lược
tập trung còn được chia thành hai chiến lược nhỏ hơn gồm: chiến lược tập trung
dựa trên nền tảng chi phí thấp (Cost Focus) và chiến lược tập trung dựa trên
nền tảng khác biệt hóa (Differentiation Focus) [135]. Việc sử dụng hợp lý các
chiến lược trong kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp phát huy được tối đa nguồn
lực của mình và đạt được lợi thế cạnh tranh tốt nhất. Theo đó, chiến lược tập
trung trên nền tảng khác biệt hóa được xem là phù hợp với các doanh nghiệp
nhỏ. Theo khảo sát 1500 doanh nghiệp nhỏ ở Châu Âu, Trung tâm Doanh
nghiệp Châu Âu 3i (1994) đã chỉ ra rằng các công ty áp dụng chiến lược này
đều đạt được sự tăng trưởng về doanh số và lợi nhuận tốt [50]. Một cuộc khảo
sát 3500 doanh nghiệp tại Anh cũng cho thấy hầu hết các công ty tăng trưởng
cao đều áp dụng chiến lược tập trung vào thị trường ngách dựa trên sự khác biệt
hóa sản phẩm của mình với sản phẩm chất lượng cao hơn và luôn đổi mới [120].
Có thể nói rằng, Michael Porter đã phân loại các chiến lược cạnh tranh
một cách rõ ràng nhằm giúp các doanh nghiệp có thể lựa chọn chiến lược một
cách phù hợp trên cơ sở nguồn lực và điều kiện sẵn có của mình. Trong khuôn
khổ của luận án, việc phân tích các chiến lược cạnh tranh sẽ giúp luận án hiểu
35
rõ hơn cách thức tiếp cận và giúp các DNVVN ở Đức có thể trở thành những
“nhà vô địch” trên toàn cầu trong lĩnh vực kinh doanh của mình.
2.2. Một số vấn đề chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.2.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việc đưa ra một khái niệm chung, thống nhất về DNVVN có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc giúp các quốc gia có thể thống kê, xác định đúng
đối tượng, đánh giá đúng vai trò, nhận định đúng tiềm năng để xây dựng các
chương trình, chính sách hỗ trợ, giúp cho khối DNVVN có thể phát triển trong
nền kinh tế. Hiện trên thế giới tồn tại hai trường phái quan điểm xác định
DNVVN, một là xác định dựa trên tiêu chuẩn định tính, hai là xác định dựa trên
tiêu chuẩn định lượng.
2.2.1.1. Xác định khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên tiêu chuẩn định
tính
Nhiều học giả cho rằng có thể xác định được DNVVN thông qua đánh giá
quá trình hoạt động của doanh nghiệp đó. Stokes và Wilson (2010) cho rằng
DNVVN có các hoạt động và cấu trúc đơn giản hơn rất nhiều so với doanh
nghiệp lớn, mức độ phức tạp của quản lý không cao cũng như số đầu mối quản
lý ít [163]. Theo đó, Loecher (2000) cho rằng các DNVVN thường có phương
thức hoạt động theo “nguyên tắc cá nhân” và “nguyên tắc thống nhất giữa lãnh
đạo và vốn sở hữu”. Cụ thể “nguyên tắc cá nhân” thể hiện rằng người quản lý
doanh nghiệp là người có vai trò chủ chốt trong việc ra quyết định mọi hoạt động
của doanh nghiệp, họ liên hệ trực tiếp và mật thiết với nhân viên, với khách hàng
và với nhà cung cấp. Họ thường gắn bó cả sự nghiệp của mình với doanh nghiệp
đó. Ngoài ra, “nguyên tắc thống nhất giữa lãnh đạo và chủ sở hữu” có nghĩa là
người chủ sở hữu và người lãnh đạo doanh nghiệp đều là một người [132].
36
Cũng theo quan điểm có thể xác định các DNVVN thông qua các yếu tố
định tính, báo cáo của Bolton (1971) đưa ra ba đặc điểm cơ bản là: (1) doanh
nghiệp được quản lý bởi chính chủ sở hữu và theo nguyên tắc cá nhân hóa, (2)
thị phần của doanh nghiệp tương đối nhỏ trên thị trường, (3) doanh nghiệp có
tính độc lập theo nghĩa nó không phải là công ty con của một doanh nghiệp lớn
hơn nào đó và cũng không có sự kiểm soát bởi bên ngoài, độc lập trong các
quyết định của doanh nghiệp [64]. Decker (2006) cũng dựa trên các khía cạnh
định tính khác như hình thức pháp lý của doanh nghiệp, vai trò của chủ sở hữu
doanh nghiệp, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường và cơ cấu tổ chức hoặc
tính tự chủ về mặt kinh tế và pháp lý để xác định các DNVVN [77].
Có thể thấy rằng, trường phái sử dụng các yếu tố định tính để xác định
DNVVN cũng được nhiều học giả ủng hộ và sử dụng. Ưu điểm của trường phái
này là có tính phổ quát, cùng sử dụng chung các yếu tố/đặc điểm trên để có thể
xác định được các DNVVN trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, thậm
chí ở nhiều quốc gia khác nhau. Các DNVVN tuy ở các nền kinh tế khác nhau
nhưng vẫn có xu hướng hiển thị các đặc điểm tổ chức, văn hóa và chiến lược
tương tự nhau nên các tiêu chí định tính trên hoàn toàn có thể áp dụng chung
cho nhiều quốc gia. Tuy nhiên trên thực tế, trường phái này cũng gặp nhiều rào
cản vì ranh giới để xác định chính xác một doanh nghiệp có thuộc nhóm
DNVVN hay không là không rõ ràng, có thể gây khó khăn cho các Chính phủ
khi đưa ra các chính sách hỗ trợ.
2.2.1.2. Xác định khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên tiêu chuẩn định
lượng
Trong thực tiễn, việc xác định DNVVN theo tiêu chuẩn định tính là khá
khó khăn nên các tổ chức quốc tế, các quốc gia hiện tại chủ yếu sử dụng các
tiêu chí định lượng để thống kê, phân loại và xác định đúng đối tượng DNVVN.
37
Nhìn chung, có nhiều tiêu chí có thể sử dụng để phân loại các DNVVN; tuy
nhiên, ba tiêu chí được các quốc gia sử dụng nhiều nhất là dựa trên bảng cân
đối tài sản hàng năm của doanh nghiệp, doanh thu hàng năm và số lượng lao
động của doanh nghiệp. Mặc dù vậy trên thực tế, giữa các khu vực và quốc gia
khác nhau, quy định cụ thể của mỗi tổ chức, quốc gia lại chưa có sự thống nhất
trong việc đưa ra một định mức chung trong ba tiêu chí kể trên khi phân loại
các DNVVN. Sự khác biệt này có thể được lý giải do sự khác biệt giữa trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi khu vực, mỗi quốc gia và cũng tùy thuộc vào
từng thời kỳ của sự phát triển, từng bối cảnh cụ thể mà các quy định này cũng
có thể thay đổi theo. Thậm chí giữa các ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu độ
lớn của các tiêu thức cũng khác nhau.
Tiêu chí xác định DNVVN của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD):
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) định nghĩa rằng các
DNVVN trước hết là các doanh nghiệp độc lập mà có số lượng lao động thấp
hơn một định mức nhất định được đưa ra. OECD cũng thừa nhận rằng định
mức này ở mỗi quốc gia là khác nhau và mức giới hạn trần phổ biến được sử
dụng là 250 lao động như ở các nước châu Âu. Tuy nhiên con số này ở nhiều
nước mức trần chỉ là 200 trong khi ở Mỹ thì định mức cho các DNVVN là có
dưới 500 lao động (không có định mức cụ thể để phân biệt doanh nghiệp nhỏ
và doanh nghiệp vừa). Các doanh nghiệp nhỏ nói chung là những doanh nghiệp
có ít hơn 50 lao động, trong khi các doanh nghiệp siêu nhỏ thì có nhiều nhất là
10, hoặc một số trường hợp chỉ là 5 lao động. OECD cũng cho rằng tài sản tài
chính, cụ thể là doanh thu hàng năm của các doanh nghiệp cũng như tài sản
doanh nghiệp là hai tiêu chí quan trọng khác được sử dụng để xác định DNVVN
[143]. Từ quan điểm trên của OECD có thể thấy rằng, OECD chưa có được
38
định nghĩa riêng và thống nhất của tổ chức để phân loại các doanh nghiệp mà
mới chỉ thừa nhận ba tiêu chí phổ biến được sử dụng để phân loại DNVVN.
Bản thân các thành viên của OECD (như các nước châu Âu hay Mỹ) cũng có
quan điểm khác nhau về định mức trần lao động về các doanh nghiệp của mình.
Điều này sẽ gây rất nhiều khó khăn trong công tác thống kê của tổ chức cũng
như trong việc đề xuất các chính sách hỗ trợ chung trong khi con số DNVVN
ở các nước OECD là chiếm hơn 99%, cung cấp hơn một nửa số việc làm và
chiếm tới hơn một nửa GDP của khu vực kinh doanh nói chung.
Tiêu chí xác định DNVVN của Ngân hàng Thế giới
Ngân hàng Thế giới (WB) cũng không có một định nghĩa chung thống
nhất về DNVVN. Tổ chức này cho rằng việc định nghĩa DNVVN là tùy thuộc
vào tiêu chí từng quốc gia, và rất đa dạng ở các nền kinh tế khác nhau. Tổ chức
Tài chính Quốc tế (IFC) và Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa phương (MIGA) thuộc
Nhóm Ngân hàng Thế giới (WBG) thì có đưa ra một định nghĩa với tiêu chuẩn
chung, theo đó, một doanh nghiệp đủ điều kiện để xác định là doanh nghiệp
siêu nhỏ, nhỏ và vừa nếu đáp ứng được hai trong ba tiêu chí về số lượng lao
động, tổng tài sản và doanh thu hàng năm hoặc nếu khoản vay của doanh nghiệp
đó nằm trong định mức được bảo lãnh khoản vay của doanh nghiệp siêu nhỏ,
nhỏ và vừa được quy định bởi IFC [182]. Cụ thể:
Bảng 2.1: Tiêu chí định lượng xác định doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và
vừa của IFC và MIGA thuộc Nhóm Ngân hàng Thế giới
Loại Số lượng Tổng tài sản Doanh thu Định mức khoản
doanh lao động (đô la Mỹ) hàng năm (đô vay (đô la Mỹ)
nghiệp (người) la Mỹ)
Siêu nhỏ <10 <100.000 100.000 <10.000
39
Nhỏ 10-49 100.000- 100.000- <100.000
3.000.000 3.000.000
Vừa 50-300 3.000.000- 3.000.000- <1.000.000 hoặc
15.000.000 15.000.000 2.000.000*
*Mức 2.000.000 đô la Mỹ dành cho các quốc gia như: Argentina, Brazil, Chile,
Trung Quốc, Colombia, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mexico, Morocco, Peru, Liên bang
Nga, Nam Phi, Thái Lan, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan, Hungary, Cộng hòa
Séc, Baltics và Slovenia.
Nguồn: Tổ chức Tài chính Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới (2019).
Các nghiên cứu của Nhóm Ngân hàng Thế giới cũng không có định nghĩa
tiêu chuẩn về DNVVN. Hầu hết các nghiên cứu của WBG đều gộp chung các
DNVVN với doanh nghiệp siêu nhỏ hoặc sử dụng các tiêu chí không trùng
khớp với các ngưỡng tiêu chí xác định của IFC và MIGA hoặc sử dụng định
nghĩa từ đại diện Ngân hàng Thế giới tại từng quốc gia cụ thể. Điều này gây
khó khăn cho WBG trong việc đánh giá mức độ phù hợp của các kết quả nghiên
cứu đối với các doanh nghiệp nhỏ và làm giảm đi tính khái quát của kết quả
nghiên cứu khi xét trên các bối cảnh khác nhau.
Tiêu chí xác định DNVVN của Liên minh châu Âu:
Còn tại Liên minh châu Âu, DNVVN được xem là động lực để phát triển
nền kinh tế của toàn khối. Tuy nhiên, trong môi trường kinh doanh phức tạp ngày
nay, mối quan hệ chặt chẽ về mặt tài chính, tổ chức hoạt động hay phương thức
quản trị giữa các doanh nghiệp lẫn nhau ngày càng khăng khít và đôi khi khó có
thể vạch ra một ranh giới chính xác để phân biệt giữa DNVVN và doanh nghiệp
lớn. Mặc dù vậy, việc đưa ra một định nghĩa cụ thể, mang tính phổ quát là vô
cùng quan trọng trong việc giúp chính các DNVVN của Liên minh có thể tự nhận
40
biết để các doanh nghiệp này nhận được sự hỗ trợ đầy đủ của khối và các quốc
gia thành viên, thông qua các chính sách, chương trình hỗ trợ với mục đích:
- Phát triển kỹ năng và thúc đẩy hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp, tăng khả
năng tăng trưởng.
- Giúp xóa bỏ tình trạng quan liêu.
- Giúp tăng cường đối thoại và tham vấn với các bên liên quan của doanh
nghiệp [88].
Khuyến nghị số 2003/361/EC của Cộng đồng châu Âu được đưa ra ngày
06/05/2003 (cập nhật và chỉnh sửa dựa trên khuyến nghị đầu tiên số 96/280/EC
ngày 03/04/1996) đã định nghĩa cụ thể về doanh nghiệp nói chung và DNVVN
nói riêng [89]. Theo đó, trong Điều 3 của Khuyến nghị cũng làm rõ quan điểm
về doanh nghiệp nói chung dựa trên nội dung của Hiệp ước thành lập Cộng
đồng châu Âu, được giải thích bởi Tòa án Công lý rằng: doanh nghiệp là bất kỳ
thực thể nào tham gia vào các hoạt động kinh tế dù ở dưới các hình thức pháp
lý nào, bao gồm cả trong ngành nghề thủ công hoặc trong các hoạt động khác.
Các thực thể đó có thể ở dưới dạng cá nhân, hộ gia đình, các hợp doanh hoặc
các hiệp hội. Bên cạnh đó, Khuyến nghị cũng đưa ra các tiêu chí định lượng cụ
thể để giúp xác định, so sánh các doanh nghiệp về mặt quy mô thực tế và hiệu
suất của một doanh nghiệp, cũng như vị thế của nó so với các doanh nghiệp
khác. Đây là tiền đề Cộng đồng châu Âu chính thức đưa định nghĩa về DNVVN
vào thực tiễn, có hiệu lực từ 01/01/2005 [85]. Theo đó, bộ tiêu chí định lượng
cụ thể để xác định DNVVN gồm:
- Tiêu chí về số lượng lao động,
- Tiêu chí về tài chính (so sánh về doanh thu hàng năm hoặc so sánh về
tổng tài sản của doanh nghiệp dựa trên bảng cân đối kế toàn hàng năm).
41
Trong hai tiêu chí trên thì tiêu chí về số lượng lao động được xem là tiêu
chí quan trọng nhất trong việc xác định DNVVN (số lượng lao động được tính
dựa trên số lượng người làm việc toàn thời gian, người làm việc bán thời gian,
người làm việc tạm thời trong năm được lấy số liệu, không bao gồm người học
nghề, sinh viên thực tập, người nghỉ chế độ thai sản…). Tiêu chí thứ hai gồm
có lựa chọn so sánh giữa doanh thu hàng năm (là thu nhập của doanh nghiệp
nhận được trong một năm từ hoạt động bán các sản phẩm, dịch vụ, sau khi trừ
đi các khoản khấu trừ, không bao gồm thuế giá trị gia tăng hay các khoản thuế
gián thu khác) và tổng tài sản của doanh nghiệp được xem là tiêu chí bổ trợ
giúp xác định DNVVN được chính xác hơn và cũng công bằng hơn cho chính
các doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ cần thỏa mãn một trong hai yêu cầu trên
vì trên thực tế, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại thường
có báo cáo doanh thu hàng năm cao hơn so với doanh nghiệp sản xuất. Vì vậy
việc đưa ra hai lựa chọn (doanh thu hàng năm hoặc tổng tài sản doanh nghiệp)
để đánh giá trong tiêu chí tài chính sẽ phản ánh đúng tình trạng tài chính tổng
thể của doanh nghiệp đó và sẽ đảm bảo công bằng hơn.
Bảng 2.2: Xác định DNVVN theo tiêu chí định lượng của Liên minh châu Âu
Phân loại doanh Số lượng lao Doanh thu Hoặc Tài sản (Euro)
nghiệp động (Euro)
Vừa < 250 ≤ 50 triệu ≤ 43 triệu
Nhỏ < 50 ≤ 10 triệu ≤ 10 triệu
Siêu nhỏ < 10 ≤ 2 triệu ≤ 2 triệu
Nguồn: Ủy ban châu Âu [89]
Theo đó, doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến dưới 250 lao
động, có doanh thu hàng năm đạt trên 10 triệu euro đến 50 triệu euro hoặc có
tài sản báo cáo hàng năm từ trên 10 triệu euro đến 43 triệu euro. Doanh nghiệp
42
nhỏ là doanh nghiệp có từ 10 đến dưới 50 lao động, có doanh hàng năm đạt trên
2 triệu euro đến 10 triệu euro hoặc có tài sản báo cáo hàng năm từ trên 2 triệu
euro đến 10 triệu euro. Còn doanh nghiệp được xác định là siêu nhỏ nếu có
dưới 10 lao động, doanh thu hàng năm hoặc tài sản báo cáo hàng năm chỉ đạt
từ 2 triệu euro trở xuống. Tất cả các đánh giá này được Ủy ban châu Âu tiến
hành hàng năm, đối với những doanh nghiệp có các tiêu chí vượt ngưỡng quy
định trong hai kỳ đánh giá liên tiếp thì sẽ bị loại khỏi xếp hạng DNVVN và
không được tiếp tục nhận các chính sách hỗ trợ từ khối. Trong trường hợp
doanh nghiệp mới thành lập và chưa có báo cáo ghi nhận thì số liệu được sử
dụng để đánh giá được lấy từ số liệu ước tính trong năm tài chính.
Bảng 2.3: Bảng tham chiếu xếp loại DNVVN
STT Năm 1 Năm 2 Xếp loại
Năm tham chiếu DNVVN 1
DNVVN Không là DNVVN DNVVN Không là DNVVN DNVVN 2
3
DNVVN DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN DNVVN DNVVN DNVVN DNVVN 4
DNVVN Không là DNVVN DNVVN DNVVN DNVVN 5
DNVVN 6
Không là DNVVN DNVVN 7
8 Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN
Nguồn: Sổ tay hướng dẫn định nghĩa DNVVN (2015) [85]
43
Trong trường hợp doanh nghiệp thuộc sở hữu hoặc có liên kết với một
doanh nghiệp lớn hơn khác thì doanh nghiệp đó sẽ không được xếp loại là
DNVVN dù có đáp ứng đủ các tiêu chí trên. Vì vậy, trong quá trình thu thập số
liệu và đánh giá xếp loại, Ủy ban châu Âu thường xem xét rất cặn kẽ cách thức
thành lập của doanh nghiệp và các mối liên kết nếu có để từ đó xử lý số liệu
một cách công bằng và khách quan nhất. Theo đó, doanh nghiệp khi thành lập
được phân thành ba loại và có tiêu chí đánh giá cụ thể:
- Doanh nghiệp tự chủ: nếu doanh nghiệp hoàn toàn độc lập và không có
mối liên hệ nào với doanh nghiệp khác.
- Doanh nghiệp đối tác: doanh nghiệp có mối liên hệ tài chính với các
doanh nghiệp khác nhưng không chịu sự ràng buộc kiểm soát trực tiếp
hay gián tiếp.
- Doanh nghiệp liên kết: là các doanh nghiệp hình thành nên một nhóm,
thông qua đó gây ảnh hưởng chi phối đến doanh nghiệp bằng cách kiểm
soát đa số quyền biểu quyết của doanh nghiệp đó.
Việc Ủy ban châu Âu đưa ra được một khái niệm mang tính phổ quát
cho tất cả các DNVVN trong khối với các tiêu chí định lượng cụ thể được xem
là bước tiến quan trọng trong việc giúp Ủy ban xác định được đúng đối tượng
doanh nghiệp cần hỗ trợ, tạo điều kiện cho các DNVVN thuận lợi hơn trong
việc tiếp cận các nguồn lực, thông qua các chính sách ưu đãi về thuế, vốn và
thị trường.
Tiêu chí xác định DNVVN của Đức:
Là một quốc gia phát triển ở Liên minh châu Âu, Đức được xem là nền
kinh tế có khối DNVVN rất phát triển. Ở Đức, các DNVVN được gọi chung là
“Mittelstand” và được xem là xương sống, là bệ đỡ của nền kinh tế với hơn
99% các doanh nghiệp Đức thuộc về khối này [102]. So sánh với định nghĩa về
44
DNVVN của Ủy ban châu Âu thì định nghĩa về DNVVN ở Đức có sự khác
biệt. Theo đó, DNVVN ở Đức được xác định dựa trên hai tiêu chí trụ cột là số
lượng lao động và doanh thu hàng năm của doanh nghiệp đó (khác với lựa chọn
ba tiêu chí của Ủy ban châu Âu là so sánh số lượng lao động và doanh thu hàng
năm/hoặc tổng tài sản doanh nghiệp). Trong khi các định mức về doanh thu
hàng năm của doanh nghiệp giữ nguyên theo tiêu chuẩn chung của Ủy ban châu
Âu thì định mức về số lượng lao động được nâng lên ở mức giới hạn trên là
500 lao động. Cụ thể, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có dưới 10 lao
động và doanh thu hàng năm tối đa là 2 triệu euro, doanh nghiệp nhỏ là doanh
nghiệp có dưới 50 lao động và doanh thu hàng năm tối đa là 10 triệu euro, còn
doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến dưới 500 lao động và doanh
thu hàng năm tối đa là 50 triệu euro.
Bảng 2.4: Tiêu chí xác định DNVVN ở Đức
Phân loại doanh nghiệp Số lượng lao động Doanh thu (Euro)
Vừa < 500 ≤ 50 triệu
Nhỏ < 50 ≤ 10 triệu
Siêu nhỏ <10 ≤ 2 triệu
Nguồn: Viện nghiên cứu doanh nghiệp vừa và nhỏ, Đức (IfM) [114]
Sự khác biệt về giới hạn trên của số lượng lao động trong DNVVN ở
Đức được giải thích là do khối doanh nghiệp này ở Đức có những đặc thù riêng,
khác biệt với đa số các nước châu Âu khác, phần lớn các doanh nghiệp này là
thuộc sở hữu gia đình và trực tiếp điều hành.
Xét về góc độ định nghĩa DNVVN theo trường phái định tính ở Đức có
thể thấy rằng, sự nhấn mạnh đặc biệt về mối liên kết giữa doanh nghiệp và chủ
sở hữu là yếu tố quan trọng nhất để đánh giá một doanh nghiệp có phải là
Mittelstand hay không, nó được thể hiện ở: danh tính của người chủ sở hữu và
45
trách nhiệm pháp lý của họ đối với hoạt động của doanh nghiệp cũng như trách
nhiệm cá nhân của người chủ sở hữu khi đưa ra các quyết định đối với doanh
nghiệp. Chủ yếu các Mittelstand ở Đức là công ty gia đình, hoạt động trong
lĩnh vực công nghiệp nhỏ và tiểu thủ công nghiệp. Nhiều công ty cỡ vừa thậm
chí còn được thành lập từ đầu thế kỷ trước hoặc sau thế Chiến tranh Thế giới
thứ 2 và sự thành công của họ đều gắn liền với dấu ấn của người đứng đầu lãnh
đạo, cụ thể:
- Họ đều được xem là những doanh nhân tài ba với tư duy đổi mới, liên
tục tìm cách để cải thiện sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới ra thị trường.
- Các doanh nghiệp luôn tự hào về phong cách lãnh đạo của doanh nghiệp,
đặc biệt họ có trách nhiệm xã hội cao; có mối quan hệ gần gũi và chặt
chẽ với nhân viên, hướng tới các giá trị bền vững, lâu dài.
Cho đến nay, cấu trúc hoạt động này phần lớn vẫn là điển hình của các
Mittelstand. Nhiều tiêu chí định tính vẫn có thể dùng để đánh giá các DNVVN
và yếu tố về nguồn gốc văn hóa của doanh nghiệp được đặt lên hàng đầu [139].
Và về nghĩa nào đó, thậm chí một số doanh nghiệp sản xuất với hơn 500 lao
động vẫn có thể được định nghĩa là Mittelstand theo các tiêu chí định tính ở
Đức [112]. Mặc dù vậy, hình thức pháp lý của doanh nghiệp dưới dạng Công
ty trách nhiệm hữu hạn cũng đang dần phổ biến, đặc biệt là ở trong các doanh
nghiệp vừa [129]. Theo đó, tính bản sắc về quyền sở hữu và trách nhiệm pháp
lý của các doanh nhân với doanh nghiệp của mình trở nên ít rõ ràng hơn nhằm
giảm thiểu những hạn chế rủi ro về tài chính cho người chủ. Và trong tương lai,
các công ty thành công hơn sẽ có xu hướng chuyển đổi thành công ty cổ phần.
Vì vậy mà các tiêu chí định tính định nghĩa về Mittelstand có thể cũng sẽ không
còn phù hợp.
46
2.2.1.3. Quan điểm của luận án về xác định khái niệm doanh nghiệp vừa và
nhỏ
Trước hết, quan điểm của luận án về việc đưa ra một khái niệm nhằm
xác định DNVVN có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp các quốc gia
có thể thống kê hiệu quả, nhằm xác định đúng đối tượng, đánh giá đúng vai trò
và nhận định đúng tiềm năng của khối doanh nghiệp này; từ đó xây dựng được
các chương trình, chính sách cụ thể, giúp cho khối DNVVN có thể nhận được
sự hỗ trợ kịp thời, tạo thêm nhiều động lực cho sự phát triển.
Trong quá trình phân tích các khái niệm về DNVVN của các tổ chức và
quốc gia trên thế giới, đặc biệt là của Liên minh châu Âu và Đức, luận án rút ra
kết luận rằng, trên thế giới hiện đã thống nhất về cách thức để xác định được
các DNVVN, nhưng chưa đi đến một sự đồng thuận để tồn tại một khái niệm
chung, mang tính phổ quát, áp dụng cho tất cả các quốc gia. Có trường phái
theo tiêu chuẩn định tính, có trường phái theo tiêu chuẩn định lượng, và mỗi
quốc gia, mỗi tổ chức lại có các tiêu thức và mức độ đo lường các tiêu thức cụ
thể khác nhau. Điểm chung của các tiêu thức này là đều được lựa chọn với định
lượng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội – văn hóa – chính trị cụ thể của
mỗi quốc gia, tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Vì vậy,
khái niệm về DNVVN ít mang tính chất cố định, bắt buộc lâu dài mà thường
thay đổi tùy điều kiện, nhằm phản ảnh khách quan nhất thực trạng của khối
DNVVN trong nền kinh tế của mỗi nước. Do đó, để tồn tại được một định nghĩa
chung về DNVVN mang tính toàn cầu, áp dụng được cho các quốc gia thì chỉ
có thể tồn tại định nghĩa theo trường phái định tính (vì các DNVVN tuy ở các
nền kinh tế khác nhau, ngành nghề lĩnh vực khác nhau, nhưng vẫn có xu hướng
hiển thị các đặc điểm về tổ chức, văn hóa và chiến lược tương tự nhau) và không
thể có được một định nghĩa phổ quát như vậy theo trường phái định lượng.
47
Có thể nói, trường phái định tính hay định lượng đều có những mặt hạn
chế trong quá trình sử dụng để đánh giá. Vậy nên, quan điểm của luận án là một
định nghĩa về DNVVN để được thừa nhận rộng rãi và mang tính thống nhất
cao giữa các quốc gia, cần phải được hài hòa kết hợp cả hai yếu tố định tính và
định lượng trong việc đưa ra khái niệm. Theo đó, khái niệm chung về DNVVN
có thể được diễn giải như sau: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có
tính độc lập, đáp ứng các tiêu chí mang tính định tính như vận hành trên nguyên
tắc cá nhân hóa, có cấu trúc hoạt động đơn giản với thị phần tương đối nhỏ trên
thị trường; ngoài ra còn thỏa mãn các tiêu chí định lượng gồm có số lượng lao
động, tài sản và doanh thu. Mặc dù vậy, trong khuôn khổ thực hiện luận án với
đối tượng là các DNVVN ở Đức và Việt Nam, luận án sẽ tôn trọng tuyệt đối
cách định nghĩa DNVVN của mỗi quốc gia khi nghiên cứu để bảo đảm tính
chất khách quan, trung thực trong quá trình thống kê, phân tích và đánh giá,
phù hợp với điều kiện kinh tế, hoàn cảnh xã hội của từng quốc gia, giúp luận
án thu được kết quả tốt nhất.
2.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Yon và Evans (2011) dựa trên thống kê của Tổ chức Phát triển Công
nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO) đã tổng hợp các yếu tố thể hiện đặc điểm của
DNVVN khi so sánh với doanh nghiệp lớn:
Bảng 2.5: Đặc điểm của DNVVN so sánh với doanh nghiệp lớn
Đặc điểm DNVVN Doanh nghiệp lớn
Quản lý Chủ sở hữu quản lý trực Phân chia lao động theo chức
tiếp năng rõ ràng
Cá nhân Nhân viên thường không Nhân viên thường có bằng
có bằng cấp cao cao, qua giáo dục đại học
48
Tổ chức Mối quan hệ giữa các cá Giao tiếp thường theo nghi
nhân trực tiếp, gần gũi thức, nội quy
Vị trí cạnh tranh Không rõ ràng Định hình rõ ràng và mạnh
trên thị trường
Mối quan hệ với Mang tính thời điểm, Dựa trên hợp đồng ký kết dài
khách hàng không ổn định hạn
Sản xuất Thâm dụng lao động Chuyên nghiệp hóa, quy mô
lớn
Nghiên cứu và Thường chạy theo thị Định hướng thị trường
phát triển trường
Tài chính Tự cấp tài chính bởi chủ Cơ cấu sở hữu đa dạng, có thể
sở hữu tiếp cận các thị trường vốn
Nguồn: Yon và Evans (2011) tổng hợp, theo thống kê của UNIDO [184]
Xét về cơ cấu tổ chức và cách thức quản lý có thể thấy rằng, các DNVVN
thường có cấu trúc hoạt động và phương thức điều hành đơn giản và linh hoạt
hơn các doanh nghiệp lớn rất nhiều. DNVVN thường là các doanh nghiệp gia
đình, người chủ doanh nghiệp cũng thường là người trực tiếp điều hành doanh
nghiệp, các quyết định của doanh nghiệp mang đậm dấu ấn của người chủ. Mặc
dù vậy, mối quan hệ giữa người chủ và người lao động thường ít có khoảng
cách cứng nhắc, mang tính nội quy, nghi thức như các doanh nghiệp lớn.
Về vị trí trên thị trường, trong khi các doanh nghiệp lớn thường được
định hình rõ ràng và mạnh, tên tuổi cũng như thương hiệu của doanh nghiệp
lớn cũng được thừa nhận một cách rộng rãi thì vị trí cạnh tranh trên thị trường
của các DNVVN thường không rõ ràng. Mối quan hệ với khách hàng của các
DNVVN cũng mang tính thời điểm và thường không ổn định, khác với doanh
nghiệp lớn có mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng, dựa trên các hợp đồng
49
được ký kết dài hạn, tính cam kết lớn. Doanh nghiệp lớn với thị phần lớn trên
thị trường, nguồn lực dồi dào thường là người định hướng cho thị trường, trong
khi đó, DNVVN thường chạy theo thị trường để đáp ứng các nhu cầu đó. Doanh
nghiệp lớn thường tập trung đầu tư tại các trung tâm, thành phố lớn, nơi có điều
kiện thuận tiện cho việc sản xuất và giao thương, còn DNVVN với lợi thế quy
mô vốn nhỏ, tổ chức bộ máy hoạt động đơn giản thường dễ dàng tiếp cận hơn
đến các lĩnh vực, ngành nghề mà các doanh nghiệp lớn không chú trọng đến,
thậm chí ở những vùng nông thôn.
Các đặc điểm của DNVVN về nguồn lực doanh nghiệp cũng được nhìn
thấy một cách rõ nét. DNVVN thường có nguồn lực về vốn hạn chế, thường
dựa chủ yếu vào nguồn lực vốn tự có của người chủ doanh nghiệp. Khả năng
tiếp cận các nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng của DNVVN cũng yếu hơn
rất nhiều so với doanh nghiệp lớn, do thiếu uy tín, thương hiệu và khả năng đáp
ứng các điều kiện ngặt nghèo từ phía các ngân hàng thường không cao. Đây là
rào cản lớn cho các DNVVN trong việc huy động nguồn lực vốn để phục vụ
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nguồn lực về công nghệ của các
DNVVN cũng hạn chế. Mặc dù vai trò của công nghệ là rất lớn, quyết định đến
năng suất và chất lượng của sản phẩm nhưng do những thiếu hụt về vốn,
DNVVN thường không có những cải tiến mạnh mẽ về công nghệ như doanh
nghiệp lớn. Các hoạt động sản xuất của DNVVN thường thâm dụng lao động
trong khi hoạt động của doanh nghiệp lớn thì chuyên môn hóa, quy mô hơn.
Bên cạnh đó, một bộ phận DNVVN thiếu tầm nhìn dài hạn, kế hoạch manh
mún nên không sẵn sàng đầu tư, nâng cấp công nghệ, máy móc sản xuất, dẫn
đến sự yếu kém về cạnh tranh trên thị trường [16]. Nguồn nhân lực của DNVVN
so với doanh nghiệp lớn cũng hạn chế hơn rất nhiều. Lao động trong các doanh
nghiệp lớn thường có bằng cấp cao, qua đào tạo đại học, trong khi tại DNVVN
thì lao động ít được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao. So với các doanh nghiệp lớn,
50
lãnh đạo DNVVN thường ít được đào bài bản hơn [164]. Mặc dù vậy, do tính
chất của DNVVN có quy mô nhỏ, mối quan hệ giữa người chủ doanh nghiệp
và người lao động thường gắn kết chặt chẽ nên lao động tại đây thường gắn bó
lâu dài với doanh nghiệp.
2.2.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
2.2.3.1. Tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
Với một số lượng áp đảo, chiếm khoảng 90% số lượng doanh nghiệp và
tạo hơn 50% việc làm trên toàn thế giới, các DNVVN đã đóng góp tới 40%
GDP tại các nền kinh tế mới nổi. Ngoài ra, theo Ngân hàng Thế giới ước tính,
đến năm 2030, cần đến 600 triệu việc làm mới để có thể hấp thụ được lực lượng
lao động toàn cầu, vốn đang phát triển mạnh mẽ [169]. Điều này càng cho thấy
sự phát triển của các DNVVN được xem là ưu tiên cao đối với nhiều Chính phủ
trên Thế giới. Đặc biệt, từ sau cuộc khủng hoàng kinh tế năm 2008, khối
DNVVN đã thể hiện vai trò lớn của mình trong việc giúp tái tạo lại công ăn
việc làm cho hàng triệu lao động trên toàn cầu, trong khi đó đa số daonh nghiệp
lớn bị phá sản và phải cắt giảm lao động [150].
Tại các nước châu Âu, vai trò của DNVVN trong việc tạo việc làm, giảm
tỉ lệ thất nghiệp cũng được công nhận. Trong những năm gần đây, môi trường
kinh tế vĩ mô đã thuận lợi hơn cho các DNVVN tăng trưởng. Số lượng các
DNVVN ở châu Âu chiếm hơn 99% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế,
trong đó 93% là doanh nghiệp siêu nhỏ, gần 6% là doanh nghiệp nhỏ và gần
1% là doanh nghiệp vừa. Các doanh nghiệp siêu nhỏ đóng góp khoảng 30%
tổng số việc làm, trong khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp tương
ứng khoảng 20% và 17% tổng số việc làm trong nền kinh tế. Tổng cộng,
DNVVN ở châu Âu đóng góp hơn 66% tổng số việc làm trong khối [131].
51
Trên thực tế, DNVVN tham gia hoạt động ở hầu hết các lĩnh vực của nền
kinh tế, và với đặc điểm sản xuất kinh doanh không cần yêu cầu trình độ cao,
khối doanh nghiệp này luôn đảm bảo có thể cung cấp cơ hội việc làm cho nhiều
đối tượng lao động khác nhau, ở nhiều vùng miền khác nhau. Với tính chất linh
hoạt trong hoạt động sản xuất, các DNVVN thường thích ứng nhanh với các
biến đổi thị trường mà không phải cắt giảm lao động để tồn tại khi kinh tế đi
vào suy thoái, hay cũng có thể nhanh chóng tuyển dụng lại được lao động khi
cần thiết. DNVVN trong nhiều hoàn cảnh được xem là bệ đỡ, giúp hấp thụ
những cú sốc của nền kinh tế. Đây là một lợi thế không nhỏ của các DNVVN
khi so sánh với các doanh nghiệp lớn.
2.2.3.2. Bệ đỡ của nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
Có thể nói rằng, DNVVN đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền
kinh tế của mỗi quốc gia, cả ở quốc gia phát triển và đang phát triển. Peter
Drucker (2009) nhận định rằng DNVVN là chất xúc tác chính cho sự phát triển
kinh tế, đóng góp mạnh mẽ giúp các nền kinh tế hoàn thành được các mục tiêu
cơ bản của sự phát triển, trở thành xương sống, bệ đỡ của kinh tế - xã hội của
các quốc gia [79]. Sự đóng góp của DNVVN đối với tăng trưởng tổng sản phẩm
quốc nội (GDP), giúp tạo ra nhiều việc làm và góp phần giảm nghèo cũng đã
được công nhận ở mức độ toàn cầu [70]. Tại các quốc gia đang phát triển, vai
trò này còn đặc biệt quan trọng hơn khi mà số lượng các doanh nghiệp, tập đoàn
lớn tương đối ít, dẫn đến các tác động của khối DNVVN trở nên rõ ràng hơn
trong việc giúp giảm nghèo và góp phần giúp phân phối thu nhập cân bằng
[140]. Còn ở các khu vực phát triển, đóng góp của DNVVN cũng chiếm hơn
50% GDP. Tại châu Âu, 99,8% các doanh nghiệp phi tài chính là DNVVN, cung
cấp 58% tổng giá trị gia tăng và 66,8% tổng số việc làm, khiến DNVVN trở
thành trụ cột của nền kinh tế châu Âu [66]. Hay tại Nhật Bản, một quốc gia phát
52
triển tại châu Á thì DNVVN cũng chiếm 99,7% tổng số doanh nghiệp, chiếm
70% tổng số lao động và hơn 50% tổng số giá trị của ngành sản xuất [72].
Ngoài ra, DNVVN cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các
doanh nghiệp lớn hoạt động ổn định và hiệu quả. Trên thực tế, nhiều DNVVN
giữ một mối liên kết quan trọng, đóng vai trò như một “nhà thầu phụ” của các
doanh nghiệp lớn. Nhiều DNVVN cung cấp các nguyên liệu thô, hoặc các cấu
kiện của sản phẩm để phục vụ cho các doanh nghiệp lớn. Nếu không có các
DNVVN “hỗ trợ”, các doanh nghiệp lớn buộc phải tự tìm kiếm hoặc tự sản xuất
các cấu kiện (làm tăng thêm chi phí đầu tư và bộ máy hoạt động sẽ không hiệu
quả, phân tán nguồn lực) [113]. Vì vậy, ở nhiều quốc gia, vai trò của DNVVN
đối với sự ổn định hoạt động của các doanh nghiệp lớn là không thể tách rời.
Bên cạnh đó, các DNVVN đóng góp mạnh mẽ vào quá trình sản xuất
hàng hóa và dịch vụ, hoạt động ổn định, hiệu quả. Có thể thấy rằng, việc các
DNVVN tiếp tục tồn tại trong một môi trường kinh tế cạnh tranh như hiện nay
là bằng chứng cho thấy họ hoạt động rất hiệu quả. Vì nếu không, các DNVVN
đã hoàn toàn bị các đối thủ mạnh hơn, lớn hơn nuốt chửng. Thống kê tại Mỹ
cho thấy, lợi nhuận của các DNVVN trên một đô la đầu tư cao gấp bốn lần các
doanh nghiệp lớn [73]. Trên thực tế, các DNVVN được quản lý và điều hành
trực tiếp bởi chủ sở hữu doanh nghiệp, điều đó giúp cho hệ thống hoạt động trở
nên đơn giản hơn, và linh hoạt thích ứng hơn khi thị trường thay đổi. Điều này
cũng giải thích khi kinh tế suy thoái, DNVVN có thể có những giải pháp tức
thời giúp giảm tác động tiêu cực lên hoạt động sản xuất, và cũng nhanh chóng
quay trở lại hoạt động bình thường khi kinh tế phục hồi, không làm gián đoạn
chuỗi cung ứng trong nền kinh tế.
53
2.2.3.3. Bù đắp thiếu hụt, phát huy các nguồn lực còn hạn chế trong nền kinh
tế
Theo báo cáo mới nhất của ILO (2019), trong số 99 quốc gia đại diện
được thống kê từ các khu vực trên thế giới, thì DNVVN thậm chí đóng góp hơn
70% tổng số việc làm trong nhóm này [115]. Trong đó, 62% số lượng việc làm
này thuộc khu vực phi chính thức, thuộc những nơi ở xa trung tâm, có điều kiện
làm việc kém hơn (như thiếu hệ thống an sinh xã hội, lương thấp, điều kiện
không đảm bảo…). Điều đó cho thấy rằng, DNVVN còn đóng một vai trò vô
cùng quan trọng trong việc khai thác và phát huy các nguồn lực vốn dễ bị bỏ
quên. Trên thực tế, các doanh nghiệp lớn thường tập trung đầu tư tại các trung
tâm, thành phố lớn, nơi có điều kiện thuận tiện cho việc sản xuất và giao thương,
nên nếu không có các DNVVN bổ sung, bù đắp cho những khoảng trống này
thì nền kinh tế sẽ phát triển mất cân đối, không tận dụng được hết nguồn lực
quốc gia. Với lợi thế quy mô vốn nhỏ, tổ chức bộ máy hoạt động đơn giản, hiệu
quả, các DNVVN dễ dàng tiếp cận đến các lĩnh vực, ngành nghề mà các doanh
nghiệp lớn không chú trọng đến, thậm chí ở những vùng nông thôn. Điều này
giúp nền kinh tế phát triển hiệu quả hơn, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các vùng miền, các ngành nghề khác nhau.
Tại các khu vực ít phát triển hơn trên thế giới, các khu vực như Trung
Đông, Bắc Phi, Nam Á, Châu Phi cận Sahara, số lượng các DNVVN chiếm đa
số trong tổng số các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp siêu nhỏ có
dưới 10 lao động. Trong khi những khu vực này còn thiếu rất nhiều nguồn lực
để hình thành nên các doanh nghiệp lớn, tập đoàn mạnh, thì DNVVN được xem
là động lực để duy trì sự ổn định kinh tế, tạo nhiều việc làm và sự ổn định trong
xã hội.
54
*Chú thích: EAP = Đông Á và Thái Bình Dương; ECA = Châu Âu và Trung
Á; LAC = Mỹ La tinh và Caribê; MENA = Trung Đông và Bắc Phi; SA = Nam
Á; SSA = Châu Phi cận Sahara.
Hình 2.2: Tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo khu vực (%)
Nguồn: Tổ chức Lao động quốc tế (2019) [115]
2.2.3.4. Tiềm năng to lớn trong đổi mới sáng tạo
Avasilicai (2009) nhận định rằng, khối DNVVN đóng vai trò cực kỳ
quan trọng trong nền kinh tế hiện đại, với hệ thống đổi mới sáng tạo, đóng góp
hiệu quả cho các hoạt động kinh tế - xã hội, DNVVN là một đối tượng nhận
được sự quan tâm chiến lược của các nền kinh tế [56]. Cibela Neagu (2016)
cũng cho rằng, DNVVN có sự linh hoạt trong sản xuất và hướng tới sự đổi mới
[73]. Nhiều sản phẩm mới và quy trình công nghệ được sản xuất trong các
DNVVN vì các doanh nghiệp lớn thường có xu hướng tập trung nỗ lực cải tiến
các sản phẩm hiện có, mặc dù họ có bộ phận nghiên cứu và phát triển mạnh
mẽ, tuy nhiên đặc tính chung là họ thường sản xuất với số lượng lớn để có được
ưu thế hơn trên thị trường, nên sẽ không có sự linh hoạt như các DNVVN với
khả năng thích ứng sản xuất nhanh hơn khi nhu cầu của thị trường thay đổi.
55
Bên cạnh đó, các DNVVN có vai trò tích cực trong việc tạo ra một nền
kinh tế với tính linh hoạt hơn và cạnh tranh hơn. Các sản phẩm của DNVVN
khi đưa ra thị trường thường rất cạnh tranh về giá cả, thiết kế mẫu mã sản phẩm.
Nếu không có DNVVN thì các doanh nghiệp lớn sẽ nắm giữ độc quyền trên
hầu hết các lĩnh vực hoạt động.
2.3. Khái niệm, các tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến sự phát
triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.3.1. Khái niệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Theo OECD (2004), khái niệm về phát triển DNVVN đã được phổ biến
ngay từ cuối những năm 1940 với việc đề xuất những chính sách mục tiêu bao
gồm trợ cấp tín dụng, hỗ trợ về thuế…cũng như thành lập các cơ quan chuyên
trách thuộc chính phủ nhằm hỗ trợ các DNVVN thành lập và phát triển [145].
Theo đó, với số lượng doanh nghiệp chiếm áp đảo trong nền kinh tế, phát triển
DNVVN thông qua các hỗ trợ tiếp cận về vốn, công nghệ, thị trường… giúp
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đóng góp tốt hơn vào kinh tế, xã
hội quốc gia. Steel (1993) cũng cho rằng, sự không hoàn hảo của thị trường có
thể làm cản trở các DNVVN tiếp cận đến các nguồn lực cần thiết để phát triển.
Do vậy, để tạo ra một khuôn khổ thuận lợi cho khối doanh nghiệp này, Chính
phủ cần phải sẵn sàng xây dựng lại môt sân chơi minh bạch, công bằng hơn cho
mọi thành phần kinh tế [161]. Theo JICA (2004), có hai vấn đề chính liên quan
đến phát triển DNVVN: thứ nhất là các vấn đề về tạo dựng môi trường kinh
doanh thuận lợi cho sự phát triển doanh nghiệp và thứ hai là các vấn đề nội bộ
của các DNVVN. Để xây dựng được môi trường kinh doanh thuận lợi thì cần
phải hoạch định chính sách, xây dựng một khung pháp lý hỗ trợ nền kinh tế thị
trường, tạo điều kiện tiếp cận về vốn, cơ sở hạ tầng cho doanh nghiệp, phát
triển hệ thống thương mại và đầu tư. Ngoài ra phải cải thiện vấn đề nội tại của
56
chính các DNVVN như vấn đề về nguồn lực doanh nghiệp (nguồn nhân lực,
nguồn vốn, thông tin thị trường…), hình thành mối liên kết giữa các doanh
nghiệp với nhau [118].
Từ những nhận định trên, tác giả luận án cho rằng, phát triển DNVVN là
quá trình nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc cải thiện hoạt động sản xuất
kinh doanh thông qua tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực còn thiếu cho doanh
nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, giúp doanh nghiệp trẻ dễ dàng gia
nhập thị trường, doanh nghiệp đang hoạt động nhận được những điều kiện thuận
lợi để phát triển, qua đó tái đóng góp tốt hơn vào nền kinh tế - xã hội quốc gia.
2.3.2. Tiêu chí đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
nền kinh tế
- Tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
Tỷ lệ DNVVN trong nền kinh tế là một tiêu chí dùng để phản ánh mối
tương quan về số lượng của các DNVVN so với doanh nghiệp lớn hoặc so với
tổng số lượng doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế. Công thức tính tỷ lệ
Số lượng DNVVN trong nền kinh tế
DNVVN trong nền kinh tế:
Tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế
Tỷ lệ DNVVN trong nền kinh tế= ×100%
Sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế có thể được đánh giá thông
qua số lượng các DNVVN gia tăng qua các năm, hoặc tỷ lệ DNVVN trong nền
kinh tế gia tăng qua các năm. Một nền kinh tế có tỷ lệ DNVVN cao và gia tăng
hàng năm thể hiện rằng ở môi trường đó đang có nhiều chính sách thuận lợi hỗ
trợ cho sự gia nhập mới và sự phát triển của khối DNVVN.
- Tỷ lệ đóng góp của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
57
Bên cạnh đánh giá sự phát triển của DNVVN thông qua tiêu chí về tỷ lệ
DNVVN trong nền kinh tế, thì sự đóng góp của các DNVVN vào tổng sản
phẩm quốc nội GDP nói chung được xem là tiêu chí quan trọng trong việc đánh
giá vai trò cũng như sự lớn mạnh về thực lực của các DNVVN trong nền kinh
tế quốc dân.
Theo đó, GDP là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng của một quốc
gia, được tính bằng tổng giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất ra (thường tính trong một năm) trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia đó. Có nhiều phương pháp tính GDP trong đó, phương pháp tiêu dùng được
sử dụng nhiều nhất:
Công thức: GDP = C + I + G + (X – M)
Trong đó: C: tổng giá trị tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của các hộ gia đình
trong nước
I: tổng giá trị đầu tư ở trong nước của khối tư nhân (mua sắm trang
thiết bị máy móc, nhà xưởng…)
G: tổng giá trị chi tiêu của Chính phủ
(X – M): giá trị xuất khẩu ròng [Giá trị xuất khẩu - Giá trị nhập khẩu]
Từ công thức trên có thể thấy rằng, khối DNVVN có thể đóng góp vào
nền kinh tế thông qua chỉ số (I) và (X-M). Cụ thể, nếu khối DNVVN phát triển,
đầu tư mới của các doanh nghiệp tăng (mở rộng mạng lưới, xây dựng nhà
xưởng, mua sắm trang thiết bị…) sẽ làm tăng tổng giá trị đầu tư trong nước, từ
đó giúp kích thích nền kinh tế, tăng giá trị tổng sản phẩm quốc nội GDP. Bên
cạnh đó, doanh nghiệp phát triển, xuất khẩu của doanh nghiệp ra nước ngoài
tăng cao sẽ giúp cán cân xuất nhập khẩu tăng (giá trị xuất khẩu ròng tăng), từ
đó cũng đóng góp trực tiếp vào sự lớn mạnh của nền kinh tế. Vì vậy, một trong
58
những vai trò lớn của DNVVN chính là bệ đỡ của nền kinh tế, thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng (như đã trình bày ở mục 2.3.2) và đây cũng là tiêu chí quan
trọng, đánh giá sự phát triển của DNVVN trong một nền kinh tế.
- Tỷ lệ lao động sử dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thị trường lao động có ổn định thì nền kinh tế - xã hội mới vững mạnh.
Theo đó, vai trò giúp tạo ra nhiều việc làm và góp phần ổn định thị trường lao
động của DNVVN đã được công nhận ở mức độ toàn cầu. Báo cáo của ILO
(2019) cho thấy, trong số 99 quốc gia đại diện được thống kê từ các khu vực
trên thế giới thì DNVVN thậm chí đóng góp hơn 70% tổng số việc làm [115].
Vai trò sử dụng lao động trong khối DNVVN còn có vai trò đặc biệt quan trọng
hơn tại những nơi ở xa trung tâm, có điều kiện làm việc kém hơn, nơi các doanh
nghiệp lớn ít để ý phát triển đến. Trên thực tế, các doanh nghiệp lớn thường tập
trung đầu tư tại các trung tâm, thành phố lớn, nơi có điều kiện thuận tiện cho
việc sản xuất và giao thương, nên nếu không có các DNVVN bổ sung, bù đắp
cho những khoảng trống này thì nền kinh tế sẽ phát triển mất cân đối, không
tận dụng được hết nguồn lực quốc gia, thị trường lao động khó phát triển.
- Tỷ lệ đào tạo nghề trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tỷ lệ đào tạo nghề trong các DNVVN thể hiện mức độ đóng góp của
khối doanh nghiệp này trong việc phát triển chất lượng thị trường lao động,
trực tiếp giúp nền kinh tế duy trì được sự phát triển bền vững. Đặc biệt trong
bối cảnh cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ thì việc đào tạo nguồn nhân
lực, nâng cao trình độ chất lượng người lao động là một trong những ưu tiên
hàng đầu giúp khối doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung tiếp cận,
chuyển giao được các kỹ thuật, công nghệ mới.
59
2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Demlar và Wiklund (2008) cho rằng, môi trường doanh nghiệp, bao gồm
cả các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển và thành công của doanh nghiệp đó [78].
2.3.3.1. Các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến sự phát triển
- Nguồn lực doanh nghiệp
Purwanti (2012) cho rằng, nguồn lực của doanh nghiệp được xem là nhân
tố tiên quyết quyết định việc một doanh nghiệp có thể hoạt động và phát triển
tốt hay không. Nguồn lực của doanh nghiệp ở đây được thể hiện ở sự quyết
tâm, lòng can đảm, kinh nghiệm, kiến thức, đặc biệt là nguồn lực về vốn con
người, tài chính và công nghệ. Theo đó, nguồn lực của doanh nghiệp là nền
tảng cho các hoạt động của doanh nghiệp. Nền tảng càng mạnh, thì hoạt động
kinh doanh càng vững chắc [153]. Vốn con người ở đây có thể được định nghĩa
là thái độ làm việc, tính cam kết trong công việc, kinh nghiệm, và năng lực giúp
điều hành phát triển doanh nghiệp [154]. Vốn con người được xem là có vai trò
quan trọng trong việc xây dựng nền tảng để doanh nghiệp tồn tại và lớn mạnh
[134]. Nguồn lực về tài chính cũng là nhân tố quan trọng trong việc tạo nền
tảng để doanh nghiệp phát triển. Yếu tố này phản ánh quy mô và sức mạnh của
doanh nghiệp thông qua khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động và
kinh doanh. Về yếu tố công nghệ, theo Cohen (1995), các doanh nghiệp tích
cực cập nhật công nghệ mới, hiện đại sẽ giúp nâng cao quá trình sản xuất, tăng
chất lượng và giảm giá thành sản phẩm, từ đó giúp phát triển hơn [74].
- Năng lực quản lý doanh nghiệp
Macpherson và Holt (2007) cho rằng, sự phát triển của doanh nghiệp phụ
thuộc vào kiến thức quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp đó [133]. So với các
60
doanh nghiệp lớn, lãnh đạo của các DNVVN thường ít được đào tạo bài bản
hơn (Tannock, 2001) [164]. Vì đặc tính của DNVVN là người chủ thường là
người quản lý trực tiếp doanh nghiệp nên hoạt động của các DNVVN thường
mang đậm dấu ấn của người lãnh đạo. Olawale và Garwe (2010) cho rằng, năng
lực quản lý ở đây là tập hợp những kiến thức, kỹ năng và khả năng xử lý của
người lãnh đạo giúp cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả [147].
Trên thực tế, trong bất kỳ một nền kinh tế phát triển hay đang phát triển
nào, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp luôn diễn ra mạnh mẽ. Để đáp ứng
được nhu cầu ngày càng cao từ thị trường, doanh nghiệp luôn phải không ngừng
thay đổi chiến lược, tối ưu hóa mọi nguồn lực để có thể thích nghi với mọi điều
kiện đặt ra. Sự cạnh tranh đôi khi đến từ chính các DNVVN lẫn nhau, và đôi
khi là diễn ra với các doanh nghiệp lớn. Với nguồn lực hạn chế về nhiều mặt
(vốn, quy mô, lao động), nếu không có năng lực quản lý tốt từ lãnh đạo, đưa ra
các quyết sách kịp thời thì doanh nghiệp khó có thể trụ vững trước những biến
động từ các nhân tố môi trường bên ngoài. Đồng tình với quan điểm này, Aylin
và các cộng sự (2013) cho rằng kỹ năng quản lý là một nhân tố quan trọng giúp
cho các DNVVN phát triển. Việc thiếu kỹ năng quản lý có thể dẫn đến việc
doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả và dẫn đến thất bại [57].
- Văn hóa doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp được xem là một trong những nhân tố quan trọng,
ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của một doanh nghiệp. Rejnald. M và
Gerdi (2011) cho rằng, văn hóa doanh nghiệp là tổng hợp các giá trị, chuẩn mực,
tiêu chuẩn hành vi và những kỳ vọng chung kiểm soát cách thức các cá nhân/hội
nhóm trong doanh nghiệp đó giao tiếp và làm việc với nhau để thực hiên công
việc [155]. Theo Kotter, J.P. và Heskett, J.L (1992), văn hóa doanh nghiệp biểu
thị các giá trị và cách hành xử phụ thuộc lẫn nhau phổ biến trong một doanh
61
nghiệp và nó thường có xu hướng lưu truyền lâu dài [127]. Có thể nói rằng, một
doanh nghiệp có nền tảng văn hóa gắn kết, với những giá trị truyền thống quý
báu được duy trì sẽ giúp cho doanh nghiệp đó luôn giữ được bản sắc, phong độ
ổn định và vị thế chắc chắn trên thị trường. Đối với các DNVVN ở Đức, điều
này càng đúng khi chủ yếu đây là các doanh nghiệp gia đình, đã tiếp nối qua
nhiều thế hệ duy trì hoạt động sản xuất và có nền văn hóa, bản sắc riêng. Tinh
thần kỷ luật cũng như tính trung thành của nhân viên rất cao. Đặc tính này giúp
các DNVVN ở Đức có thể giữ vững được những bí quyết kinh doanh riêng cũng
như nền văn hóa doanh nghiệp đặc trưng được tiếp nối qua nhiều thế hệ lãnh
đạo, luôn giúp doanh nghiệp phát triển bền vững.
- Chiến lược phát triển doanh nghiệp
Mọi doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều cần một chiến lược phát triển rõ
ràng. Việc có một chiến lược phát triển phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp đi đúng
hướng và có nhiều cơ hội thành công hơn. Guffey (2008) cũng đồng tình khi
cho rằng, xây dựng chiến lược phát triển là vô cùng quan trọng khi bắt đầu
thành lập một doanh nghiệp [108]. Khác với các doanh nghiệp lớn, McCarthy
(2003) cho rằng chiến lược phát triển doanh nghiệp của DNVVN thường xuất
phát và ảnh hưởng trực tiếp từ người lãnh đạo/ người chủ sở hữu doanh nghiệp
đó [136]. Điều này cũng phù hợp khi phân tích về cấu trúc của DNVVN vì các
doanh nghiệp này được quản lý bởi chính chủ sở hữu và thường có phương
thức hoạt động theo “nguyên tắc cá nhân hóa” và “nguyên tắc thống nhất giữa
lãnh đạo và vốn sở hữu” [132]. Burns và Myers (1994) cũng đưa ra kết quả sau
khi nghiên cứu 1.350 DNVVN ở Đức và một số nước châu Âu rằng một trong
những yếu tố giúp doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển là doanh nghiệp đó
thường có chiến lược kinh doanh ít nhất cho ba năm liên tục [69].
2.3.3.2. Các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến sự phát triển
62
- Môi trường pháp lý
Ngân hàng Thế giới thừa nhận rằng, môi trường pháp lý là một trong
những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp. Các luật
và đạo luật về DNVVN đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các DNVVN hoạt
động. Chúng quy định nội dung và phạm vi hoạt động của các DNVVN. Tại
các quốc gia đang phát triển, theo tính toán, các cải cách pháp lý có thể giúp
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các DNVVN và có thể đóng góp vào GDP
trung bình hàng năm ở các quốc gia này thêm 1,4% [148].
Với các quốc gia nền kinh tế có độ mở cao như trong Liên minh châu
Âu, hệ thống pháp lý hỗ trợ cho các DNVVN đã được hoàn thiện chặt chẽ, môi
trường đầu tư minh bạch, công bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi doanh
nghiệp có thể tham gia và phát triển bình đẳng. Tuy nhiên, tại các khu vực đang
phát triển, nhân tố này dường như vẫn chưa được quan tâm đúng mức, mặc dù
các Chính phủ đều hiểu rằng, chỉ có cách tạo ra một “môi trường sạch” với
những chính sách tốt mới có thể giúp cho khối DNVVN phát triển khỏe mạnh.
Nghiên cứu của Tổ chức Tài chính Quốc tế dựa trên phản hồi của hơn 45.000
doanh nghiệp ở các nước đang phát triển cho thấy, những trở ngại hàng đầu đối
với hoạt động của DNVVN nơi đây là môi trường đầu tư kém, đặc biệt là tình
trạng quan liêu, thuế suất cao [170]. St-Jean và cộng sự (2008) cũng đồng tình
với nhận định này khi cho rằng cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt từ khu
vực phi chính thức, với các quy định và thủ tục rườm rà, thuế suất không ưu
đãi là những trở ngại chính ảnh hưởng đến sự phát triển của DNVVN [162]. Vì
vậy, nếu không có một quan điểm nhất quán và định hướng rõ ràng về việc khơi
thông những rào cản về chính sách, môi trường pháp lý thì DNVVN khó có thể
vươn lên phát triển.
- Môi trường chính sách
63
Môi trường chính sách ở đây được thể hiện thông qua chính các chính
sách hỗ trợ của Nhà nước đối với DNVVN. Theo đó, các chính sách hỗ trợ của
Nhà nước là vô cùng quan trọng và có tác động trực tiếp đến quá trình hoạt
động của doanh nghiệp. Việc nhận được những chính sách hỗ trợ đúng và kịp
thời chắc chắn sẽ giúp doanh nghiệp có nhiều lợi thế để phát triển. Cụ thể, Nhà
nước cần xây dựng một môi trường chính sách hiệu quả, tích cực, hướng đến
doanh nghiệp. Trong đó, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhằm tiếp cận với
các nguồn lực xã hội như tiếp cận nguồn tài chính (vốn), hệ thống cơ sở hạ
tầng, tiếp cận công nghệ, tiếp cận nguồn lực lao động… có tác động vô cùng
lớn tới thành công trong quả trình phát triển của DNVVN trong nền kinh tế.
Harvie (2005) cho rằng hạn chế về tài chính, khó tiếp cận nguồn vốn là
một rào cản không nhỏ đối với các DNVVN khi mà những người chủ doanh
nghiệp thường phải huy động nguồn lực tự có của mình để thành lập doanh
nghiệp hoặc mở rộng kinh doanh. Ở các quốc gia đang phát triển, các DNVVN
thậm chí còn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tiếp cận các khoản vay của
ngân hàng vì bị đánh giá là có nguy cơ nợ xấu cao, lợi nhuận thấp và các doanh
nghiệp này ít có tài sản thế chấp đáp ứng theo yêu cầu của ngân hàng [111].
Ngân hàng thế giới cũng thừa nhận rằng, việc tiếp cận các nguồn tài chính từ
ngân hàng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của DNVVN,
tuy nhiên trên thực tế, việc hỗ trợ này khó triển khai đôi khi vì chính sự yếu
kém của các tổ chức ngân hàng, không sẵn có nguồn lực và khung pháp lý liên
quan đến các công tác đánh giá tín dụng cũng như tài sản thế chấp của doanh
nghiệp không đảm bảo [181].
Cùng với đó, trong quá trình toàn cầu hóa, việc DNVVN có thể tiếp cận
được các nguồn lực về công nghệ sẽ giúp ích rất nhiều cho doanh nghiệp trong
quá trình phát triển, tăng lợi thế cạnh tranh. Markman và Baron (2003) cho
rằng, việc tiếp cận các nguồn lực công nghệ đã giúp cho số lượng các doanh
64
nghiệp được xây dựng dựa trên việc đảm bảo chất lượng, đổi mới sáng tạo và
sở hữu trí tuệ được nâng lên [134]. Ngoài ra, các nguồn lực khác về cơ sở hạ
tầng (điện, nước, viễn thông…) hay nguồn lực về lao động đóng vai trò tiên
quyết trong việc giúp các DNVVN phát triển thành công. Darroch và Cover
(2005) cho rằng, việc không thể tiếp cận các nguồn lực về cơ sở hạ tầng ảnh
hưởng lớn tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp [76]. Còn Thornhill và
Armit (2003) cho rằng, tiếp cận nguồn lực lao động là nhân tố chính giúp doanh
nghiệp thành công, doanh nghiệp sẽ có nhiều lao động chất lượng cao và chuyên
gia để phát triển doanh nghiệp [171]. Đối với các DNVVN, việc được cung cấp
nguồn lực xã hội là vô cùng cần thiết, đặc biệt là trong quá trình xây dựng doanh
nghiệp và mở rộng kinh doanh. DNVVN vốn đã có nhiều hạn chế về quy mô,
về thị trường nên nếu không nhận được sự hỗ trợ đúng lúc, hoạt động của các
doanh nghiệp nói chung sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động lớn,
ảnh hưởng đến sự ổn định và kìm hãm sự tăng trưởng, giảm tinh thần kinh
doanh. Quan điểm này cũng được đồng tình bởi các các học giả Nasser và cộng
sự (2003) [141] và Pretorius & Shaw (2004) [152].
- Vai trò của các Hiệp hội
Nhà nước cần tạo điều kiện để xây dựng các tổ chức trung gian, thành
lập các Hiệp hội doanh nghiệp nhằm tư vấn, trợ giúp cho sự phát triển của các
DNVVN: các Hiệp hội giới chủ, Hiệp hội thương mại, các Phòng thương mại
và công nghiệp nhằm đại diện và bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp, kết
nối và giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp trong
khuôn khổ pháp luật quy định. Theo Buholzer (1998) [68], Hiệp hội được hiểu
ở đây là các tổ chức được thành lập nhằm giữ vai trò trung gian giữa các doanh
nghiệp với nhà lập pháp, đại diện và có lợi ích về mặt kinh tế và chính trị. Theo
đó, có ba loại Hiệp hội/tổ chức được phân biệt theo chức năng, đặc điểm và
nguồn gốc:
65
Bảng 2.6: Phân loại Hiệp hội/tổ chức theo các tiêu chí
Hiệp hội giới Hiệp hội thương Phòng thương mại
chủ mại & công nghiệp
*Thương lượng *Hòa giải lợi ích: đại *Nhiệm vụ công: vai
tập thể: đàm diện cho lợi ích của trò pháp lý và giám
phán với tổ chức ngành đối với cơ quan sát được giao bởi cơ
công đoàn nhà nước và thông tin quan nhà nước trong
*Hòa giải lợi ích: của các thành viên về các lĩnh vực như đào
đại diện cho lợi sự phát triển trong các tạo nghề, cấp giấy
ích của chủ lao vấn đề chính sách. chứng nhận…
động đối với cơ *Hòa giải lợi ích: đại
quan nhà nước diện cho lợi ích của
và thông tin của toàn bộ ngành công
i à o g n n ê B
các thành viên về nghiệp và thương
sự phát triển mại đối với các cơ
trong các vấn đề quan nhà nước và
g n ă n c ứ h C
chính sách. thông tin của các
thành viên về sự phát
triển trong các vấn
đề chính sách.
Hỗ trợ cho thành Hỗ trợ cho thành viên Hỗ trợ cho thành
viên: hỗ trợ về viên: dịch vụ tư vấn,
mặt pháp lý và đào tạo, cung cấp
tài chính khi mâu thông tin, xúc tiến
g n o r t n ê B
thuẫn xảy ra thương mại, trọng
tài…
66
*Định hướng thị *Định hướng thị *Định hướng theo
trường lao động trường sản phẩm: đại khu vực và địa
(thương lượng diện cho lợi ích kinh phương rất mạnh
và chính sách xã tế (chính sách doanh *Định hướng phi
hội) nghiệp…) ngành
*Định hướng *Định hướng ngành *Ở hầu hết các nước
ngành và/hoặc và/hoặc khu vực châu Âu, hoạt động
khu vực *Thành viên không theo luật riêng biệt
*Đứng trong mối bắt buộc *Ở hầu hết các nước
quan hệ chặt chẽ *Do định hướng thị châu Âu, các thành
h n í h c m ể i đ c ặ Đ
với tổ chức công trường sản phẩm nền viên là bắt buộc
đoàn thường tồn tại sự *Tập trung vào các
*Thành viên không đồng nhất về DNVVN
không có tính bắt lợi ích
buộc *Tổ chức theo luật tư
(private law)
Xuất hiện từ cuối Từ đầu thế kỷ 19 và Xuất hiện từ đầu thế
thế kỷ 19 và sinh gắn chặt chẽ với quá kỷ 17 và được thành
ra cùng với việc trình công nghiệp hóa lập bởi cơ quan nhà
thành lập tổ chức nước. Mục tiêu ban
công đoàn đầu nhằm thúc đẩy
thương mại và giới
c ố g n ồ u g N
thiệu cho giới lãnh
đạo các chuyên gia
kinh tế
Nguồn: Buholzer, René P. (1998) [68]
67
- Bối cảnh kinh tế toàn cầu
Bối cảnh kinh tế toàn cầu ở đây được hiểu là những yếu tố bên ngoài bao
gồm quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia, khu
vực, quá trình cạnh tranh trên thị trường ngày một lớn hay tác động tiêu cực
của các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đến sự phát triển của các DNVVN.
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 là một minh chứng rõ nét về tác
động của bối cảnh kinh tế toàn cầu đến các doanh nghiệp nói chung và DNVVN
nói riêng. Chowdhury (2011) [70] cho rằng cuộc khủng hoảng đã làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến mọi nền kinh tế, vượt xa mọi sự tính toán, sự sụp đổ
mang hiệu ứng domino đã nhanh chóng gây ra tình trạng phá sản của nhiều
doanh nghiệp. Kossyva và cộng sự (2014) [126] cũng nhận định rằng DNVVN
đã phải chịu áp lực rất lớn, doanh thu sụt giảm nghiêm trọng, hoạt động sản
xuất đình trệ, sa thải người lao động. Ngoài ra, trong bối cảnh nền kinh tế càng
phát triển, số lượng các doanh nghiệp gia nhập thị trường ngày càng tăng. Các
DNVVN không chỉ cạnh tranh lẫn nhau mà còn phải đối mặt với các doanh
nghiệp lớn với nguồn lực vô tận (áp đảo về vốn, quy mô, công nghệ…). Quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ khiến cho DNVVN
không chỉ phải cạnh tranh trong nước mà còn trên toàn cầu. Walley và cộng sự
(1998) cho rằng, sự cạnh tranh ngày nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm
cho mình được lợi thế vượt trội để có thể tồn tại trên thị trường [80]. Ngày nay,
biến động của thị trường ngày càng đa dạng khiến cho sự nhạy bén về thông
tin, sự linh hoạt trong hoạt động sản xuất sẽ ảnh hưởng lớn đến thành công của
doanh nghiệp. Những biến động này thường diễn ra do ảnh hưởng chung của
nền kinh tế (tài chính, thương mại), hoặc do những biến động chính trị (chiến
tranh, can thiệp vũ trang trên toàn cầu). Các biến động kinh tế do các yếu tố về
kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất ngân hàng, tỷ giá hội đoái, tỷ lệ thất
nghiệp…đều là những nhân tố ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát
68
triển của DNVVN. Wilkinson (2002) cho rằng, các DNVVN sẽ phát triển ổn
định hơn nếu như các yếu tố về kinh tế vĩ mô được quản lý tốt, môi trường ổn
định và thị trường có thể dự đoán được [175]. Ngày nay, trong bối cảnh quá
trình toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng nhanh và mạnh mẽ, sự ra đời của các
Hiệp định thương mại làm cho ranh giới giữa các quốc gia mờ đi, thì sự cạnh
tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt. Nếu doanh nghiệp không có sự thích
ứng nhanh và linh hoạt trong sản xuất, họ hoàn toàn có thể bị đánh bại trên sân
nhà bởi các doanh nghiệp đến từ một quốc gia khác [149]. Tuy vậy, Ngân hàng
Thế giới (2012) cho rằng, sự cạnh tranh này cũng thúc đẩy các doanh nghiệp
hướng tới năng suất cao hơn, hoạt động hiệu quả hơn, và điều này dẫn tới sự
phát triển hiệu quả hơn của chính các doanh nghiệp trong nền kinh tế [181].
Hình 2.3: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh
nghiệp vừa và nhỏ
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
69
2.4. Khung phân tích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền
kinh tế Đức
Xuất phát từ bối cảnh chung nền kinh tế Đức trong từng giai đoạn
( Xác định rõ vị trí/vai trò và sự cần thiết phải thúc đẩy phát triển DNVVN)
Các nhân tố ảnh hưởng bên ngoài: + Môi trường pháp lý + Môi trường chính sách + Vai trò của các Hiệp hội + Bối cảnh kinh tế toàn cầu
Các nhân tố ảnh hưởng bên trong: + Nguồn lực doanh nghiệp + Năng lực quản lý doanh nghiệp + Văn hóa doanh nghiệp + Chiến lược phát triển doanh nghiệp
Phân tích thực trạng sự phát triển của DNVVN qua từng mốc giai đoạn biến động của nền kinh tế Đức
Sự phát triển của DNVVN trước năm 2000 Sự phát triển của DNVVN từ năm 2000 trở lại đây - DNVVN dưới thời Thủ tướng Gerhard Schröder - DNVVN trong cuộc khủng hoảng kinh tế - DNVVN từ năm 2010 trở lại đây
Vai trò và vị trí của DNVVN trong nền kinh tế
Phát huy các nguồn lực còn hạn chế trong nền kinh tế
Tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế
Thúc đẩy kinh tế tăng trưởng (đóng góp vào GDP, giá trị xuất nhập khẩu…)
Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo ra nền kinh tế linh hoạt, cạnh tranh hơn
Đánh giá ưu điểm/mặt hạn chế của DNVVN ở Đức Rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tế phát triển DNVVN ở Đức
So sánh, đánh giá điểm tương đồng/khác biệt trong phát triển DNVVN giữa
Việt Nam và Đức
Khuyến nghị chính sách cho Việt Nam
70
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Việc định nghĩa các DNVVN có vai trò rất quan trọng trong việc giúp
các quốc gia xác định đúng đối tượng, nhận định đúng vai trò và tiềm năng của
khối doanh nghiệp này. Nhìn chung, DNVVN có tính độc lập, đáp ứng các tiêu
chí mang tính định tính như vận hành trên nguyên tắc cá nhân hóa, cấu trúc
hoạt động đơn giản với thị phần tương đối nhỏ trên thị trường; ngoài ra còn
thỏa mãn các tiêu chí định lượng về lao động, tài sản và doanh thu. Mặc dù
chưa có thống nhất chung về khái niệm nhưng vai trò của các DNVVN trong
nền kinh tế thì đã được khẳng định và thừa nhận rộng rãi. Thứ nhất, DNVVN
có vai trò to lớn trong tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Xét một cách tổng
thể thì DNVVN được xem là bệ đỡ của nền kinh tế, giúp thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng. Bên cạnh đó, khối DNVVN giúp bù đắp thiếu hụt và phát huy các
nguồn lực còn hạn chế trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Cuối cùng, DNVVN
có tiềm năng to lớn trong đổi mới sáng tạo, thúc đẩy nền kinh tế chuyển đổi.
Sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế cũng bị tác động trực tiếp
và gián tiếp bởi các yếu tố bên trong như nguồn lực doanh nghiệp, năng lực
quản lý doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp hay chiến lược phát triển doanh
nghiệp và các yếu tố tác động bên ngoài như môi trường pháp lý, môi trường
chính sách, vai trò của các hiệp hội hay bối cảnh kinh tế toàn cầu. Tại Đức, sự
phát triển của DNVVN trong nền kinh tế được xem là bài học thành công cho
nhiều quốc gia học tập. Nghiên cứu về sự phát triển các DNVVN ở Đức với
cách tiếp cận xuất phát từ bối cảnh chung của nền kinh tế Đức trong từng giai
đoạn để hiểu rõ vị trí/vai trò và sự cần thiết phải thúc đẩy phát triển DNVVN
trong nền kinh tế, thông qua việc phân tích thực trạng sự phát triển, từ đó đánh
giá được ưu điểm/mặt hạn chế của các DNVVN ở Đức cũng như rút ra được
những đặc điểm chung trong quá trình phát triển các DNVVN để chỉ ra những
bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể học tập.
71
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ ĐỨC NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
3.1. Tổng quan tình hình về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nền kinh tế Đức
Là nước có nền kinh tế lớn thứ tư trên thế giới và lớn nhất châu Âu, khi
nói về Đức, người ta thường nhắc đến những thương hiệu “tỷ đô” nằm trong
bảng xếp hạng toàn cầu như Volkswagen, Daimler, BMW, Siemens hay Bosch,
mà trên thực tế, chính những DNVVN (hay còn gọi là các Mittelstand) mới là
bệ đỡ của nền kinh tế Đức, giúp Đức vượt qua những cuộc khủng hoảng kinh
tế toàn cầu, nhanh chóng ổn định nền kinh tế và tiếp đà phát triển. Quá trình
phát triển DNVVN ở Đức có thể thấy rõ sự khác biệt giữa hai mốc thời gian:
(1) giai đoạn trước năm 2000, đặc biệt trong thời kỳ chuyển tiếp thống nhất
giữa Đông Đức và Tây Đức đầu những năm 1990 và (2) giai đoạn sau năm
2000 khi nước Đức đã thành một khối thống nhất và có những chương trình,
chính sách tổng thể của quốc gia, gắn chặt với sự phát triển chung của Liên
minh châu Âu nhằm thúc đẩy sự phát triển của khối DNVVN.
Trước những năm 1990 khi Đông Đức và Tây Đức vẫn bị chia tách, chỉ
có Tây Đức mới có sự phát triển mạnh mẽ của khối DNVVN khi nền kinh tế
thị trường được thiết lập và cổ vũ phát triển ở nơi đây. Ngay từ những thập niên
70 của thế kỷ XX, Chính phủ Tây Đức đã đề cao và dành sự quan tâm lớn cho
khối DNVVN khi mà thời điểm này, các doanh nghiệp lớn tại Tây Đức đang
thực hiện quá trình tái cấu trúc hoạt động mạnh mẽ, dẫn đến cắt giảm việc làm,
tiềm ẩn nhiều rủi ro gây mất ổn định thị trường lao động nói chung. Trong khi
đó tại Đông Đức, nền kinh tế kế hoạch đã kìm hãm sự phát triển của các
72
DNVVN, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân. Sự phát triển của khối DNVVN ở
Đông Đức chỉ thực sự được diễn ra khi sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ, nước
Đức chính thức thống nhất thành một khối, hình thành nên Cộng hòa Liên bang
Đức như ngày nay. Vai trò của DNVVN chính thức được thể hiện rõ ràng, đặc
biệt trong việc giúp ổn định nền kinh tế - xã hội hậu thống nhất.
Các đơn vị bang được phục hồi tại khu vực thuộc Đông Đức cũ. Các
doanh nghiệp lớn được thành lập trong nền kinh tế kế hoạch trước đây cũng bị
giải thể hoặc bị tách ra và tư nhân hóa. Song song với quá trình này, nhiều
DNVVN đã xuất hiện trong nền kinh tế để bù đắp lại sự thiếu hụt việc làm cũng
như do mong muốn được hoạt động tự do bị kìm kẹp quá lâu của nhiều công
dân muốn tham gia vào các hoạt động kinh doanh độc lập. Tỷ lệ tự kinh doanh
ở khu vực này tăng từ 4.6% năm 1991 lên 7.5% năm 1997. Sự phát triển của
DNVVN trong thời kỳ này cũng nhận được những hỗ trợ chính trị mạnh mẽ.
Trong đó, doanh nghiệp nhỏ phát triển mạnh trong lĩnh vực dịch vụ và thương
mại bán lẻ, còn các doanh nghiệp cỡ vừa đóng vai trò lớn hơn trong lĩnh vực
công nghiệp, xây dựng và thương mại bán buôn. Năm 1994, chỉ có ngành năng
lượng bị chi phối bởi các doanh nghiệp lớn [130].
Năm 1998, giá trị xuất khẩu của Đức đạt 950 tỷ Mác (đơn vị tiền tệ cũ ở
Đức) thì trong đó, DNVVN đã đóng góp 30% giá trị xuất khẩu trực tiếp (chưa
tính đến đóng góp của họ với vai trò là nhà thầu phụ, cung cấp phụ kiện cho
các doanh nghiệp lớn sản xuất). Nhiều Mittelstand trong nền kinh tế Đức được
gọi là “các nhà vô địch ẩn danh” [159]. Theo đó, nhiều doanh nghiệp tuy nhỏ
hoặc vừa ở thị trường trong nước nhưng lại là những doanh nghiệp hoạt động
toàn cầu, thậm chí chiếm đến 90% thị phần thế giới trong lĩnh vực của họ.
Tuy nhiên, mặc dù là thành viên sáng lập của Liên minh châu Âu (EU)
và đồng sáng lập của Khu vực đồng Euro năm 1999, nhưng sự phát triển của
73
DNVVN trong nền kinh tế Đức mới thực sự được khởi sắc từ những năm 2000
trở đi, sau một loạt những điều chỉnh và chính sách được ban hành bởi Liên
minh châu Âu nói chung và Đức nói riêng, cụ thể là: “Chính sách cải cách lao
động của Thủ tướng Đức Gerhard Schröder (2003)”, “Đạo luật doanh nghiệp
nhỏ (2008)” và ban hành “Chiến lược châu Âu 2020” của Liên minh châu Âu.
3.1.1. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức đầu những năm 2000
3.1.1.1. Bối cảnh chung nền kinh tế
Tính đến năm 2003, tại Đức có 3,38 triệu DNVVN (chiếm 99,7% tổng
số doanh nghiệp cả nước), sử dụng 19,98 triệu lao động (chiếm 70,2% tổng số
lao động), đóng góp 41,2% tổng doanh thu trong nền kinh tế và cung cấp các
chương trình đào tạo nghề cho 81,9% tổng số lao động học việc [109].
Hình 3.1: Đóng góp của DNVVN trong nền kinh tế Đức (2003)
Nguồn: Günterberg, B.; Kayser, G. (2004) [109]
74
Trong tổng số các DNVVN thì số lượng doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ
trọng lớn nhất với 69,9%, tỷ lệ doanh thu đạt 27,3% tổng doanh thu của các
DNVVN. Số lượng các doanh nghiệp đăng ký dưới dạng Công ty trách nhiệm
hữu hạn chiếm 15,4% nhưng lại tạo ra doanh thu lớn nhất, chiếm 37,6% tổng
doanh thu của các DNVVN. Các doanh nghiệp dưới dạng hợp danh chiếm
12,6% số lượng và chiếm 29,5% tổng doanh thu [109].
Hình 3.2: Các loại hình DNVVN và tỷ trọng doanh thu DNVVN ở Đức
Nguồn: Günterberg, B.; Kayser, G. (2004) [109]
Đầu những năm 2000, dưới thời Thủ tướng Đức Gerhard Schröder, bối
cảnh nền kinh tế Đức lúc này gặp nhiều khó khăn. Tốc độ tăng trưởng giảm
sâu, đặc biệt vào năm 2002 và 2003 khi mà mức tăng trưởng GDP lần lượt là
(-0,198%) và (-0,714%). Đây cũng là mức thấp nhất kể từ thời kỳ suy thoái
năm 1993. Tiêu dùng trong nước giảm sút, nền kinh tế toàn cầu bộc lộ nhiều
khó khăn, mọi yếu tố kinh tế vi mô và vĩ mô đều bất lợi, đặc biệt là gánh nặng
tài chính trong việc tái cân bằng nền kinh tế sau khi thống nhất Đông Đức và
Tây Đức. Ngoài ra, ảnh hưởng của tình trạng lũ lụt vào mùa thu năm 2002 đã
tạo thêm nhiều gánh nặng trong chi tiêu công của Đức [91].
75
11.167
12
10.727
9.779
10
8.482
7.917
7.773
8
6
4
2.895
1.698
1.19
2
0.722
-0.198
-0.714
0
2000 2001 2002 2003 2004 2005
-2
Tăng trưởng GDP (%)
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
Hình 3.3: Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp tại Đức từ 2000-
2005
Nguồn: Ngân hàng Thế giới [179] [180]
Thị trường lao động Đức giai đoạn này cũng trải qua nhiều sóng gió. Tỷ
lệ thất nghiệp có xu hướng tăng. Đến tháng 12 năm 2002, số đơn đăng ký thất
nghiệp đạt mức 4,16 triệu đơn, tăng 197.000 đơn so với năm trước [91]. Tỷ lệ
thất nghiệp ở mức 9,779% vào năm 2003 và đạt đỉnh ở mức 11,167% năm
2005. Kinh tế ảm đạm, tỷ lệ thất nghiệp tăng, gánh nặng chi tiêu xã hội lớn đòi
hỏi Đức phải có những cải cách kịp thời nhằm ổn định lại tình hình.
3.1.1.2. Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ dưới thời Thủ
tướng Đức Gerhard Schröder
Trong bối cảnh này, dưới thời Thủ tướng Đức Gerhard Schröder, Chính
phủ đã công bố “Chương trình nghị sự 2010” trong bản tường trình của Chính
phủ Liên bang vào ngày 14 tháng 03 năm 2003; trong đó sẽ thực hiện một loạt
các giải pháp toàn diện nhằm cải cách sâu rộng thị trường lao động Đức và hệ
thống phúc lợi xã hội Đức vốn đang gặp nhiều khó khăn.
76
Cốt lõi của chương trình này là “cải cách Hartz”, được đặt theo tên của
giám đốc nhân sự của Volkswagen, Peter Hartz, người đứng đầu một ủy ban
cải cách thị trường lao động, với mục đích là nhanh chóng giúp giảm tỷ lệ thất
nghiệp trong nền kinh tế. Các cải cách của Hartz thông qua bốn đạo luật mới
được ban hành trong các giai đoạn từ tháng 01 năm 2003 đến tháng 01 năm
2005 [119]. Nội dung của các điều luật này bao gồm:
- Hartz I và II (có hiệu lực từ 01/01/2003): quy định hướng dẫn, hỗ trợ, tạo
điều kiện cho người lao động thoát khỏi tình trạng thất nghiệp thông qua
các chương trình trợ cấp học nghề, giới thiệu việc làm mới, hỗ trợ khởi
nghiệp, tạo các cơ hội việc làm bán thời gian với mức lương ở ngưỡng
thấp vừa đủ hay các hình thức làm việc linh hoạt hơn như hợp đồng có
thời hạn…;
- Hartz III (có hiệu lực từ 23/12/2003): tái cấu trúc các Cơ quan làm việc
cấp Liên bang (Cục quản lý lao động Liên bang, Cục tuyển dụng lao
động Liên bang) và cấp bang (Sở quản lý lao động Bang, Cơ quan tuyển
dụng lao động Bang), nhằm giúp ngăn chặn tình trạng quan liêu trong cơ
quan nhà nước;
- Hartz IV (có hiệu lực từ 09/07/2004): thay đổi cơ bản việc tính toán các
khoản trợ cấp xã hội (tiền lương thất nghiệp, các trợ cấp xã hội cho người
thất nghiệp khác) giúp chính sách chuyển đổi phù hợp hơn với tình hình
thực tế.
Các cải cách này được kỳ vọng sẽ giúp giải quyết các vấn đề về việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp, cải thiện hệ thống trợ cấp xã hội, giúp nền kinh tế vận
hành linh hoạt và phát triển bền vững hơn. Và để đạt được những mục tiêu này,
Chính phủ của Thủ tướng Gerhard Schröder đã nhìn nhận khối DNVVN là chìa
khóa giúp duy trì sự ổn định trong nền kinh tế, là động lực chính tạo ra nhiều
77
việc làm. Cụ thể, Bộ Kinh tế và Lao động Đức đã ban hành “Sáng kiến doanh
nghiệp vừa và nhỏ” vào tháng 01 năm 2003 để hỗ trợ riêng cho khối doanh
nghiệp này phát triển. Sáng kiến này cũng là một phần trong Chương trình nghị
sự 2010 của Chính phủ Đức với sáu vấn đề được tập trung [143]:
- Thúc đẩy tinh thần kinh doanh.
- Đảm bảo hỗ trợ tài chính.
- Thúc đẩy đào tạo nghề đặc biệt là lao động có tay nghề cao.
- Giảm các rào cản từ thủ tục hành chính quan liêu.
- Thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo doanh nghiệp.
- Đẩy mạnh đầu tư và trao đổi ngoại thương.
Để hoàn thành được các mục tiêu trên, Chính phủ Đức triển khai một loạt
các giải pháp, thông qua chương trình và chính sách cụ thể hỗ trợ DNVVN [143]:
Điều tiết môi trường kinh doanh:
Để cải thiện khung pháp lý và các điều kiện giúp doanh nhân khởi nghiệp
được thuận lợi, Chính phủ Liên bang ban hành “Sáng kiến giảm thiểu tình trạng
quan liêu” được thông qua vào tháng 07 năm 2003. Một loạt các hành động cụ
thể được triển khai, bao gồm:
- Rút ngắn thời gian xử lý thủ tục hành chính, thời gian chờ đăng ký kinh
doanh từ hai tháng xuống còn tối đa một tháng. Bên cạnh đó, sẽ giới thiệu
cổng đăng ký trực tuyến toàn quốc vào năm 2007, giúp rút ngắn thời gian
đăng ký tiêu chuẩn xuống còn một ngày.
- Giảm các gánh nặng thống kê cho các doanh nghiệp.
- Đơn giản hóa các điều kiện tiêu chuẩn nơi làm việc.
- Tự do hóa hơn nữa ngành nghề thủ công.
78
Ngoài ra, Chính phủ cũng nới lỏng các điều kiện về lao động trong các
DNVVN, các doanh nghiệp khởi nghiệp như cho phép ký các hợp đồng lao
động ngắn hạn hay nới lỏng các ngưỡng quy định của Đạo luật chống lại sự sa
thải không công bằng trong các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng
áp dụng các chiến lược về chính sách giảm thuế cho các cá nhân và công ty
giúp giảm gánh nặng hoạt động với tổng mức hỗ trợ năm 2005 là hơn 50 tỷ
euro. Đây được xem là những điều chỉnh tích cực, giúp cải thiện môi trường
pháp lý và môi trường chính sách, những nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của các DNVVN.
Kiến tạo một xã hội khởi nghiệp:
Thúc đẩy tinh thần kinh doanh là một trong những yếu tố chính của
“Sáng kiến doanh nghiệp vừa và nhỏ” năm 2003. Một loạt các điều chỉnh được
áp dụng để cải thiện điều kiện khởi nghiệp cho các doanh nhân trẻ và doanh
nghiệp nhỏ:
- Ngưỡng quy định về doanh thu được nâng lên mức 17,500 euro và các
yêu cầu về sổ sách kế toán được nới lỏng.
- Bộ luật về các ngành nghề Thủ công được sửa đổi theo hướng nới lỏng
các quy định thành lập doanh nghiệp mới và chuyển giao doanh nghiệp
cho người kế nhiệm.
- Vận hành dự án “Dịch vụ dành cho các nhà sáng lập Đức” dưới sự bảo
trợ của Bộ Kinh tế và Lao động Liên bang, Phòng Thương mại và Thủ
công mỹ nghệ, nhóm Ngân hàng KfW nhằm cung cấp thông tin và dịch
vụ tư vấn cho các doanh nhân khởi nghiệp.
Chính sách thúc đẩy tinh thần kinh doanh của phụ nữ:
Phụ nữ chiếm khoảng 28% số doanh nhân tự làm chủ ở Đức. Mặc dù con
số này đã tăng mạnh mẽ trong vài thập kỳ gần đây nhưng nó vẫn chưa tương
79
xứng với tỷ lệ so với đàn ông mặc dù giáo dục giữa phụ nữ và đàn ông là bình
đẳng. Vì vậy, năm 2004, Chính phủ Liên bang đã thành lập một “Tổ chức khởi
nghiệp ở phụ nữ”. Tổ chức này đặt tại Stuttgart và hệ thống của nó kết nối với
tất cả phụ nữ khởi nghiệp trên toàn quốc, hỗ trợ qua một số điện thoại đường
dây nóng và qua mạng internet. Tổ chức này hỗ trợ các phụ nữ đang hoặc mới
có ý định khởi nghiệp với những lời khuyên hữu ích từ các chuyên gia. Chính
phủ cũng khuyến khích các phụ nữ tự làm chủ bằng việc cải thiện các điều kiện
hiện tại trong việc tạo ra những việc làm thời vụ, ngắn hạn.
Việc kiến tạo một xã hội khởi nghiệp hay áp dụng các chính sách khuyến
khích tinh thần kinh doanh của phụ nữ được xem là góp phần quan trọng trong
việc tạo ra một môi trường thuận lợi để mọi thành phần trong xã hội có điều
kiện phát triển bình đẳng, tận dụng được mọi nguồn lực xã hội. Đây đều là
những nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nói chung của khối
DNVVN.
Tiếp cận thị trường quốc tế:
Một phần thiết yếu của Chương trình nghị sự 2010 và Sáng kiến DNVVN
là chương trình “Hoạt động tích cực trên toàn thế giới”. Đây là sự kết hợp của
một chương trình mười điểm, với mục tiêu trọng tâm là chính sách tự do hóa
thị trường trong các cuộc đàm phán thương mại thế giới hiện nay. Mục đích
của chương trình này là giúp tăng cường mạng lưới các Phòng thương mại Đức
trên toàn thế giới, hỗ trợ về mặt chính trị chuyên sâu hơn cho các công ty Đức
ở nước ngoài, hỗ trợ tối đa cho các hội chợ thương mại tổ chức ở nước ngoài
đặc biệt cho đối tượng là các DNVVN.
Để phục vụ cho các hoạt động thương mại quốc tế, tạo điều kiện tuân thủ
các quy tắc và yêu cầu trong lĩnh vực bảo vệ sở hữu trí tuệ, các thông tin liên
quan được cung cấp cho các DNVVN thông qua hơn 20 trung tâm thông tin về
80
bằng sáng chế ở Đức. Ngoài ra, các thông tin về cách bảo vệ sở hữu trí tuệ, các
thông tin hữu ích cho khối DNVVN cung cấp bởi Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế
giới (WIPO) được cung cấp sẵn trên trang web của Bộ Giáo dục và Nghiên cứu
Liên bang và Văn phòng Bằng sáng chế và Thương hiệu Đức. Ba hiệp hội kinh
doanh lớn ở Đức cũng đã thành lập “Nhóm hành động của các doanh nghiệp
Đức trong việc chống làm giả và vi phạm bản quyền sản phẩm” vào năm 1997.
Nhóm này cũng phối hợp chặt chẽ với Bộ Kinh tế và Lao động Liên bang trong
việc thường xuyên tổ chức các hội thảo nhằm phổ biến các thông tin, trao đổi
kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp Đức trong việc hoạt động thương mại quốc
tế liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Việc thúc đẩy hoạt động tại thị trường quốc tế giúp tăng tính cạnh tranh
cho các DNVVN Đức trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, vai trò của các hiệp
hội kinh doanh lớn ở Đức có tác động trực tiếp trong việc giúp khối DNVVN
được dẫn dắt và đi đúng hướng hơn. Đây đều là những nhân tố bên ngoài có tác
động trực tiếp và gián tiếp đến sự phát triển của các DNVVN ở Đức.
Thương mại điện tử:
Chính phủ Liên bang Đức hỗ trợ 24 trung tâm chuyên môn trong lĩnh
vực thương mại điện tử nhằm cung cấp cho các DNVVN một loạt thông tin, tư
vấn và đào đạo cho khối doanh nghiệp này để sử dụng internet hiệu quả hơn.
Dự án PROZEUS cũng được vận hành nhằm giúp nâng cao năng lực kinh
doanh điện tử cho các DNVVN để tham gia vào thị trường mua sắm và bán
hàng toàn cầu. Đây được xem là bước đi kịp thời của Chính phủ Liên bang
trong việc giúp nền kinh tế Đức từng bước vận hành năng động hơn. Nhiều
cuộc thi “khởi nghiệp đa phương tiện” cũng được tổ chức tạo động lực biến
những ý tưởng kinh doanh sáng tạo thành hiện thực trong thời kỳ công nghệ số.
Có thể nói rằng, thương mại điện tử cũng là một trong những cầu nối giúp các
81
DNVVN ở Đức tiếp cận mạnh mẽ hơn trên phạm vi toàn thế giới, ngoài ra giúp
củng cố và định hình chiến lược phát triển doanh nghiệp trong kỷ nguyên số.
Tiếp cận nguồn tài chính
Một trong những thách thức lớn nhất của các nhà hoạch định chính sách
Đức là làm thế nào có thể đảm bảo các DNVVN có cơ hội tiếp cận đến thị
trường tài chính. Để giải quyết khó khăn này, Chính phủ Liên bang đã đưa ra
quyết định sát nhập Ngân hàng đền bù Đức (DtA) vốn chuyên cung cấp các
khoản vốn đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp và Ngân hàng tái xây dựng và
phát triển (KfW) chuyên cung cấp các khoản vay vốn cho các doanh nghiệp
đang hoạt động để thành lập Ngân hàng KfW mới vào năm 2003, với nhiệm vụ
chính vẫn là hỗ trợ tài chính cho các DNVVN. Và để tạo điều kiện cho các
DNVVN tiếp cận đến các khoản vay, tất cả các khoản vay trước đây dành cho
doanh nhân trẻ và các DNVVN được kết hợp với nhau thành một sản phẩm cho
vay thống nhất mới có tên gọi là “Cho vay khởi nghiệp”. Năm 2004, một khoản
vay lên đến 5,7 tỷ euro đã được phê duyệt và ban hành.
Cơ chế cho vay đối với các DNVVN của Ngân hàng trung ương KfW
mới vẫn dựa trên cơ chế cũ là họ sẽ ủy quyền cho một bên trung gian (House
bank) chịu trách nhiệm thẩm tra hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp đó và quyết
định xem doanh nghiệp nào đủ điều kiện được vay vốn. Khách hàng làm việc
với House bank, House bank làm việc với Ngân hàng trung ương KfW. House
bank phải chịu trách nhiệm hoàn trả các khoản vay của khách hàng cho KfW
và lợi nhuận mà House bank có được chính là từ phần chênh lệch lãi suất cho
khách hàng và lãi suất mà House bank phải trả cho KfW [172]. Việc sử dụng
bên trung gian thứ ba là House bank sẽ giúp cho Ngân hàng trung ương KfW
giảm được gánh nặng rủi ro trong việc xét duyệt hồ sơ và giảm chi phí hoạt
động. Các doanh nghiệp đã là khách hàng của House bank thì sẽ được đơn giản
82
thủ tục vay vốn hơn rất nhiều ở những lần vay sau, giúp tiết kiệm thời gian và
tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn vay.
Có thể nói rằng, đây là một cải cách phù hợp từ Chính phủ Đức trong
việc cung cấp nguồn lực về tài chính cho DNVVN, ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình phát triển của doanh nghiệp.
Đổi mới và công nghệ
Năm 2004, Chính phủ Đức đã triển khai một sáng kiến đổi mới toàn diện,
trong đó có một kế hoạch tổng thể về công nghệ cao, ưu tiên cho các DNVVN.
Sáng kiến này được xem là giúp củng cố nguồn lực về công nghệ cho các
DNVVN, giúp nâng cao quá trình nghiên cứu, sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến
sự lớn mạnh của doanh nghiệp. Trên thực tế, các DNVVN thường có năng lực
nghiên cứu và phát triển (R&D) hạn chế nên sẽ cần sự hỗ trợ đặc biệt, bao gồm:
- Đầu tiên là một giải pháp hỗ trợ tài chính cho các công ty công nghệ trẻ.
Trong đó, các quỹ đầu tư ở châu Âu đã dành trung bình khoảng 30%
ngân sách để tham gia đầu tư cho các doanh nghiệp công nghệ. Các quỹ
này thường tham gia từ giai đoạn rất sớm đồng hành cùng doanh nghiệp
trong cả giai đoạn sơ khai và giai đoạn phát triển sau này. Bên cạnh đó,
việc ra mắt Quỹ đầu tư mạo hiểm từ ngày 01/11/2004 cũng giúp rất nhiều
công ty công nghệ trẻ được hưởng lợi trong việc tiếp cận các nguồn vốn
đầu tư.
- Ngoài các nhà đầu tư cá nhân, Chính phủ Đức cũng có kế hoạch thành
lập một quỹ khởi nghiệp công nghệ cao đặc biệt trong những năm tiếp
theo như là một trụ cột thứ ba trong cấu trúc hỗ trợ các công ty công nghệ
trẻ. Quỹ này cam kết sẽ hỗ trợ các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực
nghiên cứu và phát triển bằng cách cung cấp vốn đầu tư mạo hiểm trong
những năm đầu công ty hoạt động.
83
Lĩnh vực đầu tư mạo hiểm cũng trở nên hấp dẫn hơn khi có Đạo luật thúc
đẩy đầu tư mạo hiểm. Đạo luật này giúp cải thiện các điều kiện về thuế cho việc
thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm mới ở Đức. Ngoài ra, Chính phủ Đức cũng
mong muốn sự tăng cường hợp tác giữa các DNVVN và các trung tâm nghiên
cứu và phát triển. Theo đó, chương trình PRO INNO II, chương trình InnoNet
và chương trình INNO-WATT được đưa vào hoạt động nhằm hình thành mạng
lưới sáng tạo giữa các DNVVN, hỗ trợ sự hợp tác nghiên cứu và phát triển
xuyên quốc gia giữa các DNVVN và các trung tâm nghiên cứu. Nghiên cứu và
phát triển ngày càng được định hướng là động lực đổi mới tăng trưởng kinh tế
quốc gia.
Trau dồi kỹ năng và phát triển (bao gồm cả đào tạo quản lý)
Nâng cao năng lực quản lý doanh nghiệp là nhân tố bên trong ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển của doanh nghiệp và đây cũng là một trong những
ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Đức nhằm giúp DNVVN củng cố nguồn lực
để phát triển. Theo đó, “Học tập suốt đời” được xem là tâm điểm ở Đức trong
suốt thời gian này. Chính phủ Đức đã phát động một chương trình mở rộng
nhằm thúc đẩy việc “học trong quá trình làm việc”, “học trong môi trường xã
hội”, “học trong các cơ sở đào tạo giáo dục” và “học trên mạng”. Một khoản
tài trợ trị giá khoảng 130 triệu euro đã được Chính phủ Liên bang và Quỹ xã
hội châu Âu cung cấp cho chương trình suốt giai đoạn từ 2001 đến 2007.
Một dự án khác liên quan đến đào tạo kỹ năng là chương trình Cung cấp
hỗ trợ - Đào tạo theo khu vực được thông qua năm 2001 bởi Bộ Giáo dục và
Nghiên cứu Liên bang Đức hợp tác với các bang và được Quỹ xã hội châu Âu
đồng tài trợ với kinh phí 118 triệu euro, hỗ trợ 73 mạng lưới khu vực cung cấp
dịch vụ giáo dục, đào tạo, góp phần giảm thiểu sự thiếu hụt nguồn nhân lực
lành nghề cho các DNVVN.
84
3.1.1.3. Những kết quả đạt được
Có thể nói rằng trong giai đoạn này, Chính phủ Đức đã nhìn nhận đúng
vai trò và vị trí của khối DNVVN trong nền kinh tế cùng sự kỳ vọng thông qua
một loạt cải cách mang tính thực chất, tiếp tục giúp khối DNVVN có nhiều thuận
lợi phát triển. Bên cạnh lợi thế sẵn có của các DNVVN là cơ cấu tổ chức đơn
giản, văn hóa doanh nghiệp đặc trưng, sự gắn kết và tương tác giữa các vị trí
trong doanh nghiệp cao, cùng đội ngũ lao động trung thành, tiếp nối truyền thống
qua nhiều thế hệ với một tầm nhìn dài hạn, khối DNVVN đã được tiếp thêm sức
mạnh bằng một loạt các cải cách môi trường pháp lý đến môi trường chính sách
của Chính phủ, tăng khả năng tiếp cận các nguồn tài chính, giảm rào cản thủ tục
hành chính, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy các DNVVN
đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Theo đó, lý
thuyết của Penrose về phát triển doanh nghiệp cũng khẳng định “bản thân các
nguồn lực chưa thể được xem là yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất kinh
doanh mà tùy thuộc vào từng doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực đó theo những
cách thức như thế nào dựa trên kinh nghiệm, trình độ của người lao động, năng
lực của quản lý thì nguồn lực đó mới trở thành nhân tố giúp doanh nghiệp tăng
trưởng”. Để đạt được những kết quả tích cực, DNVVN ở Đức đã khẳng định
được nội lực và năng lực quản lý, vận hành, định hướng của mỗi doanh nghiệp
là rất lớn. Bên cạnh đó, vai trò của các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp cũng rất
quan trọng trong việc cung cấp thông tin và định hướng các doanh nghiệp phát
triển đúng lộ trình, mở rộng mạng lưới kết nối quốc tế thông qua các Phòng
Thương mại Đức trên toàn thế giới. Trên bình diện này, DNVVN ở Đức đã có
những lợi thế cạnh tranh nhất định và được thừa nhận là những “nhà vô địch ẩn
danh toàn cầu”. Những lợi thế này vốn được xây dựng dựa trên nền tảng nguồn
lực mạnh mẽ của từng doanh nghiệp, được đúc kết và xây dựng qua nhiều thế
hệ, là đặc trưng riêng của các DNVVN ở Đức. Điều này cũng phù hợp với lý
85
thuyết về nguồn lực doanh nghiệp và năng lực động của doanh nghiệp. Theo đó,
Wernerfelt (1984) cho rằng các doanh nghiệp có thể hoạt động trong cùng một
lĩnh vực nhưng có những chiến lược kinh doanh khác nhau và các chiến lược này
không thể sao chép vì nó được xây dựng dựa trên đặc tính về nguồn lực sẵn có
của doanh nghiệp ấy [174]. Các nguồn lực và năng lực cốt lõi của doanh nghiệp
cũng là nhân tố chính giúp doanh nghiệp có thể có được lợi thế cạnh tranh [151].
Bằng một loạt các giải pháp đồng bộ, Chính phủ Liên bang Đức thông
qua sự đóng góp của các DNVVN đã đạt được nhiều kết quả tích cực, giúp nền
kinh tế dần quay ngược trở lại quỹ đạo khi tăng trưởng GDP từ mức thấp nhất
là -0,714% vào năm 2003 đã tăng trở lại đạt 1,19% năm 2004, 0,722% năm
2005 và đạt đỉnh ở mức 3,815% vào năm 2006 trước khi có dấu hiệu giảm sút
do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008. Thị trường lao
động Đức được hưởng lợi khi đầu những năm 2000, tỷ lệ thất nghiệp mặc dù
đạt đỉnh ở mức 11,167% vào năm 2005 đã có xu hướng giảm trong những năm
sau đó. Điều này cho thấy các bộ giải pháp của Chính phủ Đức đã phát huy
hiệu quả và đặc biệt khối DNVVN đã thể hiện được vai trò của mình trong việc
góp phần giúp ổn định lại thị trường lao động.
15
11.167
10.727
10.25
9.779
8.658
10
7.742
7.524
3.815
5
2.984
1.19
0.722
0.962
-0.714
0
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
-5
-5.697
-10
Tăng trưởng GDP (%)
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
Hình 3.4: Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp tại Đức từ 2003-2009
Nguồn: Ngân hàng Thế giới [179] [180]
86
Vị trí của DNVVN ở Đức được khẳng định trong nền kinh tế khi nó vẫn
giữ vai trò là bệ đỡ của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và có vai trò to lớn
trong tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp với tỷ lệ doanh nghiệp chiếm 99,27%
trong tổng số lượng doanh nghiệp cả nước, trong đó chiếm hơn 58% tỷ lệ lao
động quốc gia. Ngoài ra, tỷ lệ doanh thu hàng năm đóng góp cho nền kinh tế vẫn
duy trì thị phần không nhỏ ở mức 33,64%, đặc biệt là vai trò trong dạy nghề, đào
tạo lao động được khẳng định với 82,94%, giúp duy trì tĩnh bền vững của thị
trường lao động [105]. Bên cạnh đó, DNVVN cũng giúp phát huy các nguồn lực
còn hạn chế trong nền kinh tế và có tiềm năng lớn trong đổi mới sáng tạo.
*: Số liệu tính dựa trên phân loại DNVVN của EU, 2007
**: Số liệu tính dựa trên phân loại DNVVN của IfM Đức, 2009
Hình 3.5: Vai trò của DNVVN ở Đức trong nền kinh tế vĩ mô
Nguồn: Giz (2012) [105].
87
3.1.2. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức trong giai đoạn khủng
hoảng kinh tế thế giới
3.1.2.1. Bối cảnh chung nền kinh tế
Sau khi đạt được những thành quả dưới thời Thủ tướng Đức Gerhard
Schröder với tăng trưởng GDP ở Đức đạt đỉnh ở mức 3,815% vào năm 2006
thì nền kinh tế Đức đã có dấu hiệu giảm tốc do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu.
Chính phủ Đức lúc này lại đối mặt với nhiều khó khăn hơn trong tình
cảnh mọi yếu tố vĩ mô trên thế giới đều bất lợi. Tốc độ tăng trưởng GDP năm
2008 của Đức chỉ còn 0,962% và năm 2009 đã chạm đáy ở mức -5,697%. Xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ sụt giảm từ 1.163 tỷ euro, chiếm 43,799% tỷ trọng
GDP năm 2008 xuống còn 996,946 tỷ euro, chỉ chiếm còn 38,12% tỷ trọng
GDP năm 2009.
1,400
1,272
1,236
1,163
1,141
1,141
1,200
1,048
997
933
1,000
875
784
800
46.3
45
44
43
600
43
41
38
38
36
33
400
200
0
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Giá trị xuất khẩu hàng hóa & dịch vụ (đơn vị: tỷ euro)
Tỷ trọng giá trị xuất khẩu hàng hóa & dịch vụ trong GDP (đơn vị: %)
Hình 3.6: Giá trị xuất khẩu hàng năm và tỷ trọng giá trị xuất khẩu trong
GDP của Đức
Nguồn: Ngân hàng thế giới [176] [177]
88
Bối cảnh kinh tế Đức lúc này đối mặt với nhiều bất lợi hơn khi hàng loạt
các doanh nghiệp lớn và cả các DNVVN hoạt động sản xuất kinh doanh gặp
nhiều khó khăn. Trong năm 2009, hơn 60% các DNVVN đã báo cáo tình hình
hoạt động kinh doanh sụt giảm [157], đứng trước nguy cơ phải sa thải lượng
lớn người lao động, khiến tỷ lệ thất nghiệp có thể tăng cao. Điều này nếu xảy
ra sẽ để lại hậu quả vô cùng to lớn về mặt xã hội. Đứng trước tình cảnh cần
phải tiếp tục và mạnh mẽ cải tổ mọi hoạt động, một lần nữa, khối DNVVN lại
được nhìn nhận là bệ đỡ của nền kinh tế, tiềm năng giúp nền kinh tế Đức phục
hồi khi mà các doanh nghiệp lớn đang phải chịu đựng những tổn thất hết sức
nặng nề.
Với hơn 99% là các DNVVN, sử dụng một lượng lớn lao động trong nền
kinh tế, Chính phủ Đức hiểu rằng, vai trò của các DNVVN là vô cùng quan
trọng trong việc tiếp tục giữ nền kinh tế duy trì sự ổn định. Những lợi thế sẵn
có của khối doanh nghiệp này như quy mô nhỏ, linh hoạt thích ứng trong điều
kiện kinh tế có nhiều biến động, lao động có tay nghề cao và nền tảng là các
công ty gia đình hoạt động qua nhiều thế hệ, truyền thống lâu đời, Chính phủ
Đức thông qua các chính sách hỗ trợ về nhiều mặt đã ưu tiên giúp cho các
DNVVN ở Đức có thể nhanh chóng phục hồi hoạt động sản xuất trong khủng
hoảng để giúp ổn định trật tự kinh tế xã hội.
3.1.2.2. Chính sách hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở Đức
Những hỗ trợ từ Chính phủ Đức
Áp lực đầu tiên của các doanh nghiệp khi chịu ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế là kết quả kinh doanh giảm sút, đòi hỏi phải cắt giảm lực lượng
lao động. Tuy vậy, đây là điều mà không một doanh nghiệp nào mong muốn
khi mà phải mất rất nhiều nguồn lực để có thể đào tạo được một lao động có
89
tay nghề cao, gắn bó với doanh nghiệp, đặc biệt tại các DNVVN vốn mối quan
hệ giữa người lao động và doanh nghiệp còn mật thiết hơn. Để giải quyết bài
toán này, một trong những cơ chế chính mà các doanh nghiệp lựa chọn áp dụng
là giảm số giờ làm việc thay vì cắt giảm nhân công. Tính từ 2007 đến 2009, số
giờ làm việc trung bình của mỗi lao động làm công ăn lương đã giảm khoảng
3,3%. Về cơ bản, chi phí để sa thải một công nhân là tương đối cao khi so với
việc giữ lại công nhân đó nhưng giảm giờ làm việc trung bình. Ngoài ra, không
ai chắc chắn được rằng thời gian của cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ kéo dài bao
lâu nên các doanh nghiệp không muốn bị mất đi những lao động lành nghề, vốn
đã gắn bó lâu dài với doanh nghiệp mà rất khó có thể đào tạo hay tuyển dụng
lại được.
Và để tăng tính cam kết hỗ trợ cho doanh nghiệp, Chính phủ Đức đã vận
hành lại chương trình “Kurzarbeit” với mục đích hỗ trợ giảm giờ làm cho người
lao động. Bằng cách này, doanh nghiệp sẽ vẫn duy trì được hoạt động mà không
cần cắt giảm nhân công, giảm rủi ro gánh nặng thất nghiệp cho xã hội. Cùng
với đó, Chính phủ cũng thông qua các kênh truyền thông và công đoàn, quảng
bá rộng rãi chiến dịch này đến người lao động để tăng cường sự nhận thức và
ý thức hợp tác của người lao động với doanh nghiệp [83]. Theo đó, Cơ quan
Việc làm Liên bang sẽ chi trả cho người lao động tối đa hai phần ba mức tiền
lương bị tổn thất trong quá trình giảm giờ làm so với trước đây và sẽ bồi thường
từ 50% đến 100% các khoản đóng góp an sinh xã hội khác mà người chủ doanh
nghiệp phải chi trả. Chỉ trong vòng một năm kể từ khi cuộc khủng hoảng xảy
ra, số người tham gia vào chương trình Kurzarbeit này đã tăng đột biến từ
50.000 người năm 2008 (với chỉ khoảng 5.000 doanh nghiệp tham gia) lên 1,5
triệu người vào năm 2009 (với trên 60.000 doanh nghiệp tham gia vào chương
trình). Trong năm 2009, chương trình đã chi khoảng 4,5 tỷ euro trợ cấp cho hơn
90
500 triệu giờ làm, chiếm khoảng 1,5% tổng chi ngân sách [144]. Sự trợ giúp
của chương trình Kurzarbeit đã đạt được một số thành công vào thời kỳ này:
- Ổn định việc làm và giảm thiểu tổn thất: Trong giai đoạn khủng hoảng,
năng suất lao động trên mỗi lao động và trên mỗi giờ làm việc đều giảm
đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất. Tuy vậy, với các ưu đãi mà
chương trình hỗ trợ mang lại, các DNVVN ở Đức đã tận dụng cơ chế
làm việc linh hoạt cho phép người lao động làm việc ít giờ hơn mà không
bị giảm lương. Nhưng bù lại, các lao động cũng phải cam kết sẽ phải làm
thêm giờ mà không được tăng lương khi hoạt động sản xuất ổn định trở
lại. Bằng cách này, doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng ở Đức
đã giữ lại được các lao động tay nghề cao của mình và giảm thiểu những
tổn thất liên quan đến tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
- Hỗ trợ thu nhập: Mặc dù việc cắt giảm giờ lao động khiến cho mức lương
người lao động nhận được không còn cao như trước kia nhưng thu nhập
của người lao động về mặt tổng thể vẫn được đảm bảo và vẫn duy trì
được các chế độ đãi ngột tốt đối với người lao động. Điều này đóng vai
trò quan trọng trong việc giúp người lao động và doanh nghiệp có niềm
tin để cùng vượt qua khủng hoảng.
- Giải pháp ba bên: Một tính năng độc đáo của chương trình này là chi phí
và lợi ích được chia sẻ giữa người lao động, người sử dụng lao động và
Chính phủ. Doanh nghiệp vẫn là bên chịu trách nhiệm về chi phí tiền
lương, nhưng được giảm gánh nặng nhờ sự chia sẻ từ Chính phủ với hỗ
trợ các khoản trợ cấp khác cho người lao động. Bù lại, doanh nghiệp giữ
được lao động có tay nghề và Chính phủ giảm rủi ro gánh nặng thất
nghiệp nếu người lao động bị sa thải. Về phía người lao động thì vẫn có
thể duy trì được công việc nhưng phải chia sẻ với doanh nghiệp bằng
cách chấp nhận giảm số giờ làm việc và có thu nhập thấp hơn trước kia.
91
Thứ ba, cùng với các giải pháp củng cố thị trường lao động trên, Chính
phủ Đức cũng thông qua các chương trình xã hội để giảm thiểu các tác động
của cuộc khủng hoảng đối với đối tượng người lao động dễ bị tổn thương [116].
Cụ thể:
- Cải thiện trợ cấp thất nghiệp: trợ cấp thất nghiệp hàng tháng đã được
tăng từ 351 euro lên 359 euro mỗi tháng, mang lại lợi ích cho khoảng 4,9
triệu người trong suốt năm 2009
- Giảm đóng góp an sinh xã hội: là một phần của gói kích thích thứ hai,
đóng góp an sinh xã hội cho trợ cấp thất nghiệp tạm thời giảm từ 3,3%
trong năm 2008 xuống còn 2,8% trong năm 2009 và 2010.
- Cải thiện Dịch vụ việc làm công: Trong nỗ lực cải thiện tỷ lệ người thất
nghiệp, hai gói kích cầu đầu tiên đã được công bố với mục đích tuyển
dụng ngắn hạn 1.000 và 4.000 lao động bổ sung. Dịch vụ việc làm công
đã phân bổ 1,12 tỷ euro trong năm 2009 cho mục đích đào tạo, trong đó
200 triệu euro được sử dụng để tuyển dụng lao động tạm thời và 770
triệu euro khác để kéo dài các chương trình đào tạo cho người lớn tuổi
và các lao động có trình độ tay nghề thấp.
- Bảo lãnh hưu trí và các lợi ích xã hội khác.
Thứ tư, Chính phủ đã có các biện pháp hỗ trợ nền kinh tế vĩ mô. Cụ thể,
Chính phủ đã giới thiệu một loạt các sáng kiến mới để kích thích hoạt động
kinh tế trong một số lĩnh vực, bao gồm hỗ trợ tín dụng trực tiếp cho các doanh
nghiệp: tháng 03/2009, Chính phủ đã thành lập một quỹ trị giá 115 tỷ euro để
bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ cho các doanh nghiệp nói chung, trong đó 15 tỷ
euro được dành riêng cho các DNVVN. Chương trình đặc biệt này được tài trợ
bởi Ngân hàng trung ương KfW, nhằm duy trì nguồn lực tài chính và tính thanh
khoản của các DNVVN, được hỗ trợ đến cuối năm 2010. Ngoài ra, Chính phủ
92
cũng cải thiện các điều kiện tài trợ cho các DNVVN. Quỹ tín dụng
(Wirtschaftsfonds Deutschland) do Chính phủ thành lập đã rất thành công trong
việc hỗ trợ các doanh nghiệp cỡ vừa. Hơn 95% đơn xin tài trợ là của nhóm
doanh nghiệp này. Quỹ đã giúp cho gần 20.000 doanh nghiệp được hưởng lợi
trước khi tạm dừng hoạt động vào tháng 12/2010. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng
không ngừng đổi mới và thúc đẩy tinh thần sáng tạo, kinh doanh của các doanh
nghiệp, khởi nghiệp của các doanh nhân [116]. Việc cam kết hỗ trợ vốn là vô
cùng quan trọng trong việc giúp các DNVVN trong hoạt động đổi mới sáng
tạo. Theo đó, vay vốn qua kênh ngân hàng là thứ tự ưu tiên thứ hai trong các
nguồn tài chính DNVVN tiếp cận để sử dụng trong hoạt động đổi mới sáng tạo.
Vốn tự có
71%
Tài khoản vãng lai
4%
Vay ngân hàng
12%
Trợ cấp thuế/tài trợ
7%
Quỹ đầu tư mạo hiểm
2%
Tài trợ hạng hai
1%
Các nguồn khác
3%
0%
10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80%
Hình 3.7: Tỷ trọng các nguồn tài chính DNVVN sử dụng trong hoạt động
đổi mới sáng tạo (2010)
Nguồn: Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang (BMWi) [99]
Với những hỗ trợ kịp thời của Chính phủ Đức, các DNVVN trong nền
kinh tế đã dần ổn định hoạt động sản xuất và góp phần ổn định thị trường lao
động. Sự tự tin và lạc quan đến từ DNVVN là rất đáng lưu ý. Theo đó, trong
93
khảo sát được thực hiện bởi Ngân hàng Commberzbank năm 2011, có 68%
DNVVN cho rằng họ sẽ trỗi dậy trở lại mạnh mẽ hơn từ sau cuộc khủng hoảng
và chỉ có 12% cho rằng hoạt động doanh nghiệp của họ sẽ yếu kém đi nhiều và
27% cảm thấy mọi hoạt động vẫn duy trì như cũ [157]. Điều này cũng được
phản ánh đúng trong thời kỳ khủng hoảng. Trong năm 2009, chỉ có 90.000
trường hợp mất việc, một con số chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với lực lượng lao động
của DNVVN. Trong năm 2010, xu hướng tích cực về việc thành lập mới các
doanh nghiệp được ghi nhận. Nếu trong năm 2009, con số này tăng lên 412.600
doanh nghiệp thì năm 2010 đã đạt tới 417.600 doanh nghiệp, tăng 1,2% so với
năm trước [166]. Đối với số lượng công ty giải thể trong năm 2010 cũng giảm
khoảng 2,3% so với năm 2009, ở mức 384.200 doanh nghiệp. Do vậy, về mặt
bằng chung của nền kinh tế, số lượng DNVVN trong năm 2010 đã tăng thêm
426000
33.400 doanh nghiệp.
450000
418000
415000
413000
412000
399000
393000
384000
400000
350000
300000
250000
200000
150000
100000
11000
19000
33400
-12000
50000
0
-50000
2007 2008 2009 2010
Doanh nghiệp mới thành lập
Doanh nghiệp giải thể
Cán cân doanh nghiệp mới
Hình 3.8: Doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp giải thể và cán cân
doanh nghiệp mới ở Đức từ 2007-2010
Nguồn: Viện Nghiên cứu DNVVN Bonn [166]
94
Hỗ trợ từ Ủy ban châu Âu thông qua việc ban hành Đạo luật doanh
nghiệp vừa và nhỏ (Small Business Act – SBA):
Đạo luật doanh nghiệp vừa và nhỏ được Ủy ban châu Âu thông qua vào
tháng 06/2008, thể hiện sự kỳ vọng và phản ánh ý chí chính trị của Ủy ban châu
Âu về việc xác định vị trí và vai trò quan trọng của các DNVVN trong nền kinh
tế EU. Lần đầu tiên một Đạo luật dành riêng cho khối DNVVN được ra đời với
kỳ vọng khối doanh nghiệp này sẽ nhận được sự quan tâm đúng đắn, được đánh
giá đúng vai trò và tiềm năng, để từ đó xây dựng các chương trình, chính sách
hỗ trợ, giúp cho khối DNVVN có thể phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế. Sự
ra đời của Đạo luật doanh nghiệp vừa vừa nhỏ vào thời điểm này còn có ý nghĩa
quan trọng hơn nữa khi mà cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang diễn ra, kéo
đến vô vàn mối lo cho Chính phủ các quốc gia, đòi hỏi cần phải có những chính
sách hỗ trợ nền kinh tế kịp thời và hiệu quả. Trong đó, DNVVN được xem là
xương sống, là đối tượng để giúp nền kinh tế sớm ổn định và tăng trưởng trở lại.
Đạo luật ra đời với mục đích cải thiện cách tiếp cận tổng thể với tinh thần
kinh doanh, với nguyên tắc “Nghĩ nhỏ trước tiên” trong hoạch định chính sách
nhằm thúc đẩy sự phát triển của DNVVN thông qua việc tháo gỡ những cản trở
vốn là rào cản cho sự phát triển. Đây cũng là lần đầu tiên một khung chính sách
toàn diện dành cho khối DNVVN được triển khai ở cả cấp độ Liên minh châu
Âu và cả các quốc gia thành viên, thông qua một bộ nguyên tắc gồm mười điểm
giúp hướng dẫn việc thực thi chính sách được cụ thể, minh bạch [82].
I. EU và các quốc gia thành viên cần tạo một môi trường trong đó các
doanh nhân và doanh nghiệp gia đình có thể phát triển mạnh mẽ với
tinh thần kinh doanh được cổ vũ.
95
II. EU và các quốc gia thành viên cần đảm bảo rằng các doanh nhân
trong trường hợp bị phá sản sẽ mau chóng nhận được hỗ trợ bằng cơ
hội thứ hai.
III. EU và các quốc gia thành viên nên thiết kế các quy tắc theo nguyên
tắc “Nghĩ nhỏ trước tiên” bằng việc tính đến các đặc điểm của
DNVVN khi xây dựng chính sách, và đơn giản hóa môi trường pháp
lý hiện tại.
IV. Các cơ quan hành chính nhà nước của EU và các quốc gia thành viên
phải đáp ứng được các nhu cầu của DNVVN, đơn giản hóa các thủ
tục và thúc đẩy giải pháp Chính phủ điện tử và một cửa.
V. EU và các quốc gia thành viên nên điều chỉnh các công cụ chính sách
công sao cho phù hợp với nhu cầu của các DNVVN. Tạo điều kiện
cho các DNVVN tham gia các chương trình mua sắm công và sử dụng
tốt hơn Trợ cấp nhà nước cho các DNVVN.
VI. EU và các quốc gia thành viên cần tạo điều kiện cho các DNVVN
tiếp cận các nguồn tài chính và phát triển môi trường pháp lý, môi
trường kinh doanh nhằm hỗ trợ thanh toán kịp thời trong các giao dịch
thương mại.
VII. EU và các quốc gia thành viên phải khuyến khích các DNVVN được
hưởng lợi nhiều hơn từ các cơ hội do Thị trường đơn nhất mang lại;
đặc biệt thông qua việc cải thiện về mặt quản trị và thông tin về chính
sách Thị trường đơn nhất. Tạo điều kiện cho các DNVVN có được
các bằng sáng chế và nhãn hiệu thương mại.
VIII. EU và các quốc gia thành viên phải thúc đẩy nâng cao các kỹ năng và
mọi sự đổi mới trong các DNVVN.
IX. EU và các quốc gia thành viên cần giúp các DNVVN biến các thách
thức môi trường thành cơ hội.
96
X. EU và các quốc gia thành viên cần khuyến khích và hỗ trợ các
DNVVN được hưởng lợi từ sự tăng trưởng của các thị trường bên
ngoài EU, đặc biệt thông qua đặc thù thị trường và các hoạt động đào
tạo kinh doanh.
Hình 3.9: So sánh kết quả thực hiện theo bộ tiêu chí 10 điểm của Đạo luật
doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2010/2011 giữa Đức và mức trung bình
của EU
Nguồn: Ủy ban châu Âu [86]
(*: Điểm IX - yếu tố môi trường không đủ dữ liệu để thống kê)
Có thể thấy rằng, ở trong hầu hết các lĩnh vực, kết quả thực hiện của Đức
đều nằm trong mức trung bình của các nước EU, đặc biệt trong đó “Điểm II –
97
trao cơ hội thức hai”, “Điểm IV – đáp ứng về mặt hành chính nhà nước”, “Điểm
VIII – kỹ năng và đổi mới” và “Điểm X – quốc tế hóa” là vượt mức trung bình
của EU.
Mặc dù ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng Đức vẫn thực
hiện tốt công tác hỗ trợ các DNVVN thông qua việc cải thiện hệ thống hành
chính nhà nước, xóa bỏ những rào cản và hỗ trợ sự đổi mới sáng tạo cho các
doanh nghiệp. Theo thống kê, năm 2008 có 53,61% DNVVN ở Đức giới thiệu
sản phẩm và quy trình công nghệ mới và 68,18% DNVVN có sự đổi mới về
mặt tổ chức và quảng cáo, trong khi con số trung bình ở các nước EU lần lượt
chỉ là 34,18% và 39,09%. Năm 2010, có 21% DNVVN ở Đức bán hàng qua
mạng và 42% DNVVN thanh toán qua mạng internet; con số trung bình ở các
nước EU chỉ lần lượt đạt 13% và 28% [86]. Đây là một trong những minh chứng
rõ nét nhất trong việc các DNVVN ở Đức thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo ra
nền kinh tế linh hoạt, cạnh tranh hơn.
3.1.2.3. Những kết quả đạt được
Tổng kết trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới, nền kinh Đức đã
gặp nhiều khó khăn, phải đối mặt với những nguy cơ về tốc độ tăng trưởng
GDP sụt giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các doanh nghiệp giải thể tiềm ẩn
nhiều rủi ro về mặt kinh tế - xã hội. Mặc dù vậy, với một loạt các giải pháp
chính sách đồng bộ, kịp thời từ trước và trong khi khủng hoảng diễn ra, nền
kinh tế Đức với xương sống là các DNVVN đã nhanh chóng lấy lại đà tăng
trưởng, ổn định sản xuất. Chính phủ Đức đã tập trung giữ ổn định thị trường
lao động, tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho các doanh nghiệp bên cạnh việc
không ngừng thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và cải thiện môi trường
pháp lý lẫn môi trường chính sách. Đây đều là những nhân tố quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phục hồi phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế.
98
Ngoài ra, chính các DNVVN với tư duy dài hạn, chú trọng nâng cao chất lượng,
không ngừng đổi mới về công nghệ đã giúp tình hình sản xuất và kinh doanh
doanh nghiệp không bị gián đoạn, giúp nền kinh tế duy trì ổn định lực lượng
lao động và có phản ứng nhanh hơn khi nền kinh tế thế giới phục hồi. Các
DNVVN ở Đức vốn là các công ty gia đình, từ xưa đến nay thường có xu hướng
vay vốn từ các ngân hàng hơn là đưa công ty của mình ra đại chúng (phát hành
cổ phiếu trái phiếu). Điều này cũng giúp các công ty này không phải chịu áp
lực từ các nhà đầu tư tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy mà
sự cam kết hỗ trợ vốn từ các Ngân hàng thương mại Đức, đặc biệt là cam kết
từ Ngân hàng trung ương KfW đảm bảo cho các DNVVN được tiếp cận nguồn
vốn để hoạt động cũng trực tiếp giúp các DNVVN đề kháng tốt hơn trong cuộc
khủng hoảng tín dụng này.
10
8.658
6.966
8
7.742
7.524
5.824
5.379
6
4.179
3.924
4
2.984
2
0.962
0
2007 2008 2009 2010 2011
0.42 2012
-2
-4
-5.697
-6
-8
Tăng trưởng GDP (%)
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
Hình 3.10: Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp tại Đức từ 2007-2012
Nguồn: Ngân hàng Thế giới [179] [180]
99
Tốc độ tăng trưởng GDP sau khi chạm đáy ở mức -5,697% vào năm 2009
đã bật tăng vào năm 2010 khi đạt mức 4,179% và duy trì cao ở mức 3,924%
vào năm 2011. Tỷ lệ thất nghiệp ở Đức giảm đều qua các năm, chỉ tăng nhẹ ở
mức 7,742% vào 2009 so với mức cũ là 7,524% vào năm 2008. Điều này phản
ánh hoạt động sản xuất kinh doanh của Đức nói chung được đảm bảo và chính
sách bảo vệ thị trường lao động đã phát huy tác dụng. Năm 2010, tỷ lệ thất
nghiệp giảm xuống ở mức dưới 7% và chỉ còn 5,379% vào năm 2012. Giá trị
xuất khẩu hàng năm của Đức cũng bật tăng từ đáy 2009 là khoảng 997 nghìn
tỷ euro (chiếm 38,12% tổng GDP) lên mức 1.272 tỷ euro (chiếm 46,3% tổng
GDP) năm 2012 [176] [177]. Trong đó, doanh thu xuất khẩu của riêng khối
DNVVN ở Đức cũng tăng đều qua các mốc thời gian. Năm 2005, giá trị xuất
khẩu của DNVVN đạt 173,5 tỷ euro và tăng lên 186,1 tỷ euro vào năm 2010
(chiếm khoảng gần 20% tổng giá trị xuất khẩu cả nước), bất chấp ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng kinh tế.
200
186.1
173.5
180
160
143.7
140
120
100
80
60
40
20
0
2000
2005
2010
Hình 3.11: Doanh thu xuất khẩu của DNVVN năm 2000, 2005, 2010
(đơn vị: tỷ euro)
Nguồn: Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang (BMWi) [100]
100
Xét một cách tổng thể, vai trò và vị trí của DNVVN trong nền kinh tế
Đức vẫn luôn được khẳng định từ số lượng doanh nghiệp, tỷ lệ lao động sử
dụng và doanh thu đóng góp cho nền kinh tế. DNVVN vẫn luôn là động lực
chính giúp đảm bảo ổn định thị trường lao động. Từ 2005 đến 2010, tổng số lao
động làm việc trong khối DNVVN đã tăng thêm 1,8 triệu người. Tính riêng
năm 2010, khu vực DNVVN đã tạo ra 670.000 việc làm mới trong khi có đến
170.000 lao động bị mất việc làm trong khu vực công và các doanh nghiệp quy
mô lớn [121].
120
99.6
100
83.2
80
60.2
60
51.8
37
40
20
0
Tỷ lệ lao động Giá trị gia tăng
Doanh thu
Tỷ lệ doanh nghiệp
Đào tạo dạy nghề
Hình 3.12: Vị trí DNVVN trong nền kinh tế Đức 2010/2011 (đơn vị: %)
Nguồn: Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang (BMWi) [100]
Cụ thể, tính đến 2011, tỷ lệ DNVVN vẫn chiếm hơn 99,6% tổng số doanh
nghiệp và sử dụng khoảng 60,2% tổng số lao động quốc gia. Ngoài ra, vai trò
trong đào tạo, dạy nghề vẫn chiếm ở mức cao, tới 83,2% . Khối DNVVN cũng
đóng góp tới 37% tổng doanh thu trong nền kinh tế và chiếm 51,8% tổng đóng
góp vào giá trị gia tăng.
101
Có thể thấy rằng, các DNVVN trong nền kinh tế Đức vẫn duy trì hoạt
động hiệu quả bất chấp khủng hoảng kinh tế kéo dài. Sự sụt giảm tương đối
nhỏ (giảm 0,5 điểm phần trăm) trong tổng doanh thu năm 2009 đã được bù đắp
lại trong năm 2010. Ngoài ra, sự ổn định về lợi nhuận trên tổng doanh thu trong
nhiều năm trước đó đã giúp ổn định tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong khu vực
DNVVN, đạt trung bình từ 22,4% đến 26,6% từ năm 2005 đến năm 2010. Bên
cạnh đó, các DNVVN cũng rất lạc quan khi 46% số doanh nghiệp tin rằng
doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp mình sẽ tăng trưởng mạnh so với năm
2010 khi mà khủng hoảng kinh tế kết thúc [121].
So sánh vị trí của DNVVN ở các quốc gia khác nhau càng cho thấy sự
đóng góp vượt trội của khối DNVVN trong nền kinh tế Đức. Theo đó, trong
năm 2012, chỉ riêng trong lĩnh vực công nghiệp, số lượng lao động làm việc
trong các DNVVN ở Đức đã chiếm tới 20% tổng lao động của nền kinh tế,
trong khi có số này chỉ đạt 16,9% ở Pháp, 14,7% ở Anh và 13,8% ở Mỹ [100].
Trên phạm vi toàn cầu, các DNVVN ở Đức cũng được xem là những “nhà vô
địch ẩn danh” khi có tới 1.307 doanh nghiệp từ Đức đứng đầu thế giới trong
lĩnh vực sản xuất của họ. Những “nhà vô địch ẩn danh” này đặc biệt mạnh trong
các lĩnh vực liên quan đến kỹ thuật điện và các sản phẩm công nghiệp. Số lượng
những “nhà vô địch ẩn danh” này của Đức cũng gấp khoảng 3,5 lần số lượng
của nước đứng thứ hai là Mỹ với 366 doanh nghiệp.
102
1400
1307
1200
1000
800
600
366
400
293
220
128
200
110
76
75
68
67
0
Đức
Mỹ
Áo
Thụy sĩ
Ý
Pháp
Anh
Nhật Bản
Trung Quốc
Các nước còn lại
Hình 3.13: Số lượng DNVVN dẫn đầu thế giới ở các quốc gia (2012)
Nguồn: Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang (BMWi) [100]
Để có thể đạt được những thành tựu trên toàn cầu, các DNVVN với
nguồn nội lực lớn cùng sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ Đức đã mở rộng mạng
lưới ra nhiều thị trường trên thế giới. Chiến lược mà các doanh nghiệp này theo
đuổi là chỉ tập trung vào một phân khúc sản phẩm/thị trường ngách nơi họ có
nhiều lợi thế phát triển sản phẩm với uy tín cao trong ngành (đặc biệt là về kỹ
thuật điện và các sản phẩm công nghiệp). Đây là phân khúc thị trường nhỏ với
đặc điểm riêng biệt và các DNVVN ở Đức am hiểu rất sâu sắc. Ngoài ra, họ
không cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn mà cộng tác, đóng vai trò là nhà
thầu phụ, cung cấp linh kiện, máy móc chất lượng cao cho các doanh nghiệp
lớn, hoàn thiện mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng giúp các doanh
nghiệp lớn hoạt động hiệu quả. Chiến lược chọn thị trường ngách để cạnh tranh
cùng lợi thế về sự khác biệt sản phẩm trên thị trường với chất lượng cao, uy tín
đã giúp các DNVVN ở Đức gặt hái được nhiều thành công. Chiến lược này
cũng đã được Michael Porter tổng hợp trong bộ Chiến lược cạnh tranh phổ
quát, đề cập trong tác phẩm “Competitive Advantage: Creating and Sustaining
103
Superior Performance” vào năm 1985. Trong đó, ông mô tả đây là “chiến lược
tập trung dựa trên nền tảng khác biệt hóa - Differentiation Focus”, và được
xem là chiến lược phù hợp cho các DNVVN có thể áp dụng [135].
DNVVN phát triển ở Đức cũng thu hút rất nhiều lao động, đặc biệt là các
lao động trẻ tham gia, giúp ổn định thị trường lao động quốc gia. Vì vậy mà tỷ
lệ thất nghiệp trong khu vực thanh niên ở Đức luôn thấp hơn rất nhiều so với
mức trung bình của các nước EU. Hệ thống đào tạo nghề ở Đức cũng được coi
là mô hình mẫu trên toàn thế giới vì nó đảm bảo chất lượng đào tạo cao và giúp
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lao động lành nghề ở Đức. Theo đó, năm
2011 có khoảng 1,29 triệu lao động học nghề (trong tổng số 1,56 triệu lao động
học nghề) đang được đào tạo dạy nghề tại các DNVVN.
25
21.4
21.1
20.1
22.8
20
15.8
15.7
15
9.9
8.6
7.9
10
11.9
11.2
10.6
5
0
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Đức
EU-27
Hình 3.14: Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp ở Đức so với mức trung bình của
EU (đơn vị: %)
Nguồn: Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang (BMWi) [100]
Trong suốt thời kỳ khủng hoảng kinh tế, tỷ lệ thanh niên thất nghiệp ở
Đức không những không tăng mạnh như các nước EU khác mà có xu hướng ổn
104
định và giảm dần đều kể từ sau 2009. Thành công này phải kể đến vai trò của
các DNVVN đã giữ vững được hoạt động sản xuất thông qua các chính sách
hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ và một loạt những giải pháp khuyến khích phong
trào khởi nghiệp, tự làm chủ trong nền kinh tế.
Tỷ lệ lao động tự làm chủ trong nền kinh tế cũng tăng đều qua các năm
ở cả nam và nữ. Tính từ năm 2000 đến 2012, số lượng người tự làm chủ đã tăng
thêm gần 780.000 người lên mức 4,4 triệu người, tương đương với mức tăng
trung bình hàng năm đạt 1,6%. Sự gia tăng này có được nhờ xu hướng làm việc
một mình (solo self-employed) tăng lên (tăng 37% kể từ năm 2000), và đặc biệt
là con số này ở nữ giới tăng trung bình 4% mỗi năm. Đây là một trong những
thành quả của việc phát triển các DNVVN, thúc đẩy tinh thần kinh doanh, phát
huy được những nguồn lực còn hạn chế trong nền kinh tế mà Chính phủ Đức
thông qua các DNVVN đã làm rất tốt trong giai đoạn này.
Hình 3.15: Số lượng người tự làm chủ ở Đức từ 2000-2012
Nguồn: Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang (BMWi) [101]
105
Tỷ lệ tự làm chủ ở nam giới cũng tăng từ mốc 2,6 triệu người năm 2000
lên mức 3 triệu người năm 2012. Và ở nữ giới tăng từ 1 triệu người lên khoảng
1,4 triệu người trong cùng thời kỳ.
3.1.3. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức trong những năm gần đây
Trong những năm trở lại đây, nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế
Đức nói riêng từng bước phục hồi sau khủng hoảng, có nhiều dấu hiệu khởi
sắc. DNVVN ở Đức trong suốt những cuộc khủng hoảng đã qua luôn khẳng
định được vị trí và vai trò là bệ đỡ của nền kinh tế và được thừa nhận. Sự phát
triển của khối DNVVN không những giúp tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
mà còn trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế (thông qua đóng góp mạnh mẽ vào GDP,
giá trị xuất nhập khẩu), giúp phát huy các nguồn lực còn hạn chế trong nền kinh
tế và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo ra nền kinh tế linh hoạt, cạnh tranh hơn. Sự
phát triển của DNVVN trong giai đoạn từ 2010 đến nay chủ yếu nằm trong định
hướng và sự phát triển chung của toàn khối EU. Theo đó, tháng 06/2010, tại
Brussels (Bỉ), Hội đồng châu Âu đã thông qua “Chiến lược châu Âu 2020”,
thay thế cho “Chiến lược Lisbon về tăng trưởng việc làm” vốn không gặt hái
được nhiều thành công như mong đợi. Chiến lược châu Âu 2020 được kỳ vọng
sẽ giúp Liên minh châu Âu nói chung và các quốc gia thành viên nói riêng giải
quyết được những vấn đề mà toàn Khối đang phải đối mặt, với năm mục tiêu
chính được triển khai trong 10 năm giai đoạn 2010-2020 [84], cụ thể:
- Đảm bảo việc làm (tăng tỷ lệ người có việc làm lên mức 75% trong độ
tuổi từ 20 đến 64 tuổi);
- Tăng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển lên mức 3% tổng sản phẩm
quốc nội (GDP)
106
- Giảm 20% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính (so với năm 1990); tăng
20% sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo và cải thiện 20% hiệu quả
năng lượng;
- Giảm tỷ lệ bỏ học sớm dưới 10%, và đạt ít nhất 40% số người từ 30-34
tuổi hoàn thành chương trình giáo dục đại học hoặc tương đương;
- Giảm ít nhất 20 triệu người có nguy cơ đói nghèo hoặc bị tách biệt khỏi
xã hội.
Tại Đức, bên cạnh các mục tiêu được giữ nguyên theo chuẩn chung của
Liên minnh châu Âu (như phấn đấu dành 3% GDP đầu tư cho nghiên cứu và
phát triển), một vài tiêu chí đã được Đức chỉnh sửa để phù hợp hơn với tình
hình và điều kiện thực tế của đất nước. Tuy vậy, riêng tiêu chí đảm bảo việc
làm, tăng tỷ lệ có việc làm ở người từ 20-64 tuổi lên mức 75% đã được Đức
điều chỉnh ở mức cao hơn là 77% [87]. Điều này thể hiện sự quyết tâm của Đức
trong việc phát triển thị trường lao động khi mà cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới đã qua đi.
Trong bối cảnh mới, để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của Chiến
lược châu Âu 2020 và đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo phát triển, Chính phủ
Liên bang Đức đã xác định DNVVN là đối tượng được ưu tiên hàng đầu. Cụ
thể, Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên Bang (tiền thân là Bộ Kinh tế
và Công nghệ Liên bang) Peter Altmaier đã khẳng định: “Vai trò của các
DNVVN trong nền kinh tế Đức là vô cùng quan trọng với hơn 99% tổng số
doanh nghiệp, cung cấp hơn 80% cơ sở đào tạo lao động và sử dụng gần 60%
lực lượng lao động. Khu vực DNVVN ở Đức cũng vô cùng đa dạng, vận hành
theo mô hình từ doanh nghiệp gia đình lớn được thành lập và chuyển giao qua
nhiều thế hệ ở các vùng nông thôn, hoạt động trong các ngành nghề thủ công,
kinh doanh buôn bán, đến những lao động làm các ngành nghề tự do, hay những
107
người tự làm chủ, khởi nghiệp và một lượng lớn các doanh nghiệp là các “nhà
vô địch ẩn danh” trên toàn cầu. Sự đa dạng này là một trong những tài sản của
khối DNVVN ở Đức, giúp đóng góp cho khả năng phục hồi nhanh chóng của
nền kinh tế Đức. Một khu vực DNVVN mạnh cũng có nghĩa là một nền kinh tế
mạnh” [98]. Với nhận định như vậy, Chính phủ Liên bang Đức đã triển khai
một loạt các giải pháp cải cách chính sách nhằm thúc đẩy khu vực DNVVN
tiếp tục phát triển thuận lợi trong nền kinh tế, cụ thể:
Xóa bỏ tình trạng quan liêu:
Xóa bỏ tình trạng quan liêu là một trong những mục tiêu hàng đầu của
Chính phủ Liên bang Đức trong việc thúc đẩy khối DNVVN phát triển. Từ năm
2015, một kế hoạch “Xóa bỏ tình trạng quan liêu” đã được thông qua nhằm hạn
chế việc ban hành các quy tắc mới một cách không cần thiết. Kế hoạch này bao
gồm nguyên tắc “một vào, một ra: Nếu một Bộ muốn ban hành một quy tắc
mới áp dụng đối với các doanh nghiệp thì trước hết phải xóa bỏ đi một quy tắc
cũ”. Ngoài ra, Luật đấu thầu cũng được sửa đổi nhằm giúp các DNVVN xóa
bỏ các chi phí không cần thiết trong việc thực hiện các hợp đồng công [61].
Cụ thể, Đạo luật thứ nhất về “Xóa bỏ tình trạng quan liêu” được thông
qua vào năm 2016 nhằm giảm bớt nhanh chóng các gánh nặng ảnh hưởng trực
tiếp đến doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp trẻ, mới khởi nghiệp và đang
trong giai đoạn phát triển. Dưới Đạo luật này, một số lượng lớn các doanh
nghiệp nhỏ được miễn trừ các nghĩa vụ kế toán và lưu trữ hồ sơ vốn được quy
định trong bộ luật thương mại và luật tài chính. Các công ty mới thành lập cũng
có nhiều thời gian hơn để nộp các báo cáo về số liệu thống kê chính thức của
công ty mình. Đạo luật này cũng sửa đổi luật thuế cho ba đối tượng: (1) Giảm
nghĩa vụ cho những người phải chịu đóng thuế nhà thờ; (2) Tăng ngưỡng áp
dụng đóng thuế thu nhập cố định đối với những lao động có hợp đồng làm việc
108
ngắn hạn lên mức 68 euro và (3) Phương pháp tính toán được sử dụng để xác
định mức thuế thu nhập được khấu trừ vào thu nhập của vợ/chồng cũng được
đơn giản hóa. Theo thống kê, Đạo luật thứ nhất được thực hiện đã giúp gánh
nặng tài chính ở khu vực tư nhân giảm khoảng 705 triệu euro mỗi năm [61].
Đạo luật thứ hai về “Xóa bỏ tình trạng quan liêu” cũng được thông qua
nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, đặc
biệt là những doanh nghiệp chỉ có hai hoặc ba nhân viên và thúc đẩy quá trình
ứng dụng công nghệ số trong mọi hoạt động. Đạo luật này giúp đẩy mạnh sự
phát triển của Chính phủ điện tử bằng cách đảm bảo mọi thông tin về các quy
định pháp luật đều công khai đầy đủ trên internet. Các nguyên tắc đóng góp an
sinh xã hội cũng được đơn giản hóa, cụ thể hóa. Đạo luật thứ hai đã giúp khu
vực tư nhân giảm các chi phí không cần thiết khoảng 360 triệu euro mỗi năm.
Đạo luật thứ ba về “Xóa bỏ tình trạng quan liêu” được thông qua vào
ngày 18/09/2019 nhằm thực hiện các giải pháp chiến lược để cải thiện tình hình
quan liêu, thông qua một khoản ngân sách trị giá khoảng 1,1 tỷ euro được kích
hoạt. Cụ thể, việc lưu trữ các tài liệu thuế sẽ được thực hiện số hóa (lưu trữ điện
tử), cũng như một số biểu mẫu đăng ký bằng giấy trong ngành dịch vụ khách
sạn sẽ được thay thế và doanh nghiệp sẽ chỉ cần kê khai thuế doanh thu sơ bộ
hàng quý thay vì mỗi tháng trong hai năm đầu hoạt động. Bên cạnh đó, một gói
các biện pháp khác được ban hành như tăng ngưỡng phải thu thuế thu nhập cho
doanh nghiệp nhỏ từ 17.500 euro lên 22.000 euro, tăng giới hạn tiền lương cho
lao động thời vụ, đưa ra mức thuế nhu nhập cố định cho những lao động ít có
nghĩa vụ phải đóng thuế, bỏ yêu cầu phải đăng ký bảo hiểm tai nạn cho các
doanh nghiệp đã đăng ký giấy phép kinh doanh [63].
Thu hút và đào tạo các lao động lành nghề:
109
Một trong những thách thức lớn nhất với các DNVVN ở Đức nói chung
là phải đảm bảo được nguồn lao động lành nghề. Nguồn nhân lực lành nghề sẽ
giúp doanh nghiệp đối mặt với những cạnh tranh và đòi hỏi ngày một lớn trên
phạm vi toàn cầu. Theo đó, Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên bang đã hợp tác
với các Cơ quan Việc làm Liên bang, các doanh nghiệp, các đoàn thể để tham
gia vào Liên minh Đào tạo lao động nhằm tăng cường sự thu hút của các
Chương trình đào tạo nghề kép tới người dân. Các DNVVN được tư vấn về
cách họ có thể tìm được đối tượng học nghề phù hợp với nhu cầu và công việc
với doanh nghiệp của họ. Những lao động học nghề thì sẽ thường xuyên được
cập nhật các quy định cũng như các kỹ năng cần thiết cho công việc mà họ sẽ
làm trong tương lai. Mục tiêu của chương trình là nhằm khai thác nguồn lao
động lành nghề trong nước và giúp cho hệ thống đào tạo và giáo dục nghề
31.70
nghiệp trở nên hấp dẫn hơn.
32.00
31.30
31.00
68.50
68.70
68.30
70.30
70.40
30.00
29.50
28.60
29.00
28.10
28.00
27.00
26.00
100.00 90.00 80.00 70.00 60.00 50.00 40.00 30.00 20.00 10.00 0.00
2011
2013
2015
2017
2018
Số lượng lao động trong DNVVN (đơn vị: triệu người)
Tỷ lệ lao động của DNVVN trong nền kinh tế (đơn vị: %)
Hình 3.16: Số lượng lao động trong DNVVN và tỷ lệ lao động của
DNVVN trong nền kinh tế
Nguồn: Ngân hàng KfW (số liệu tính dựa trên định nghĩa về DNVVN của
Đức) [124]
110
Có thể thấy rằng, tỷ lệ lao động trong DNVVN trong một thập kỷ lại đây
tăng đều qua các năm. Số lao động làm việc trong các DNVVN từ 28,1 triệu
lao động, chiếm 68,5% tổng số lao động trong nền kinh tế vào năm 2011 đã
tăng lên mức 31,7 triệu lao động, chiếm 70,3% tổng lao động vào năm 2018.
Đây là một bước tiến rõ rệt, thể hiện sự ổn định của thị trường lao động và hoạt
động sản xuất được duy trì và phát triển trong các DNVVN ở Đức. Và cũng
theo thống kê của Ngân hàng KfW (2018), doanh nghiệp siêu nhỏ (doanh
nghiệp có dưới 10 nhân viên) sử dụng tới 90% lượng lao động; doanh nghiệp
nhỏ (có từ 10-49 nhân viên) sử dụng 7% lượng lao động và doanh nghiệp cỡ
vừa chỉ sử dụng khoảng 2% lượng lao động trong tổng số lao động làm việc
trong các DNVVN [124]. Ngoài ra, có một số chương trình được thiết kế riêng
nhằm thu hút các chuyên gia và sinh viên chất lượng cao từ nước ngoài cũng
như cung cấp các thông tin về cuộc sống và việc làm ở Đức nhằm tuyển dụng
những lao động chất lượng cao trên quốc tế. Đạo luật Di trú lành nghề vừa có
hiệu lực vào ngày 01/03/2020 là một trong những cột mốc quan trọng trong
chính sách tuyển dụng lao động lành nghề ở Đức.
Nâng cao khả năng tiếp cận nguồn tài chính:
Việc tiếp cận nguồn tài chính là một yêu cầu quan trọng để giúp các
DNVVN có đủ nguồn lực để đầu tư và duy trì sự đổi mới, tăng cường tính cạnh
tranh và phát triển ổn định. Đức vốn có một nền văn hóa mạnh mẽ về việc hỗ
trợ các DNVVN thông qua kênh vốn vay ngân hàng, phụ trách chính bởi Ngân
hàng KfW. Tuy vậy, những năm gần đây, Chính phủ Liên bang đã bổ sung một
số công cụ mới cho phép một lượng vốn đầu tư mạo hiểm khoảng 2 tỷ euro vào
thị trường (từ các Quỹ nội địa của Đức cũng như cả tài trợ từ Quỹ Thiên thần
của châu Âu), nhằm giúp sức cho các doanh nghiệp khởi nghiệp mới ở cả giai
đoạn đầu và giai đoạn phát triển sau này [62]. Mạng lưới Thiên thần kinh doanh
111
Đức (BAND) cũng cho phép các DNVVN thiết lập hồ sơ để tìm kiếm các nhà
đầu tư Thiên thần cho mình. BAND cam kết sẽ hợp tác và thúc đẩy mạng lưới
doanh nhân ở Đức để kết nối với các DNVVN cần vốn tài trợ một cách công
bằng trong tất cả các lĩnh vực. Bên cạnh đó, một loạt các quỹ hỗ trợ, nguồn vốn
vay được cung cấp cho các doanh nghiệp trong cả giai doạn mới khởi nghiệp
(Khoản vay khởi nghiệp ERP; Khoản vay đổi mới và số hóa ERP; Tài trợ khởi
nghiệp EXIST; Quỹ khởi nghiệp công nghệ cao..) và trong giai đoạn phát triển
(Khoản vay doanh nghiệp KfW; Tài chính đổi mới ERP; Quỹ Thiên thần châu
Âu; Quỹ tăng trưởng công nghệ…) [60].
Thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua các chương trình tài trợ cho nghiên
cứu và phát triển:
Chương trình “Đổi mới sáng tạo trung ương dành cho doanh nghiệp vừa
và nhỏ” (ZIM: Zentrales Innovations programm Mittelstand) được khởi xướng
bởi Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên bang, nhằm tài trợ trên quy mô toàn quốc
cho các công nghệ định hướng thị trường của các DNVVN trong lĩnh vực khởi
nghiệp sáng tạo. Các hướng dẫn của ZIM có hiệu lực từ ngày 15/04/2015 nhằm
hướng dẫn khối DNVVN ở Đức nâng cao khả năng đổi mới sáng tạo, đáp ứng
nhu cầu cạnh tranh ngày càng lớn trong tương lai cũng như đón được các làn
sóng đổi mới công nghệ trong cuộc đua Cách mạng công nghiệp mới. ZIM cung
cấp cho các DNVVN các gói tài trợ dựa trên sự minh bạch và các điều khoản
chặt chẽ. Các gói tài trợ cũng không giới hạn trong một ngành công nghệ cụ
thể nào và việc phê duyệt tài trợ cũng phụ thuộc vào mức độ đổi mới cũng như
tính thực tiễn của dự án đó. Theo đó, chi phí cho một dự án tối đa đủ điều kiện
để nhận được tài trợ lên đến 380.000 euro cho mỗi công ty và 190.000 euro cho
một viện nghiên cứu [93]. Riêng năm 2017, ZIM đã cấp một khoản ngân sách
trị giá 548 triệu euro phục vụ cho các chương trình hỗ trợ đổi mới sáng tạo của
112
các DNVVN và trở thành chương trình hỗ trợ lớn nhất ở Đức. Từ ngày
01/01/2018, chương trình “Đổi mới sáng tạo DNVVN – ZIM” đã chính thức
được kết nối với mạng lưới hợp tác quốc tế để có thể hỗ trợ các DNVVN tiếp
cận các lợi thế tốt hơn, giúp các doanh nghiệp nâng cao vị thế trên toàn cầu và
thuận lợi hơn trong việc tiếp cận các thị trường mới ngoài Đức [94].
Bên cạnh chương trình ZIM mới được giới thiệu, các chương trình tài trợ
khác từ Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Liên bang Đức như chương trình “Đổi mới
DNVVN: KMU-Innovativ” – Ưu tiên nghiên cứu cấp cao tại các DNVVN vẫn
đang tiếp tục và gặt hái được các kết quả tốt trong quá trình triển khai. Cụ thể,
KMU-Innovativ tập trung hỗ trợ các DNVVN nghiên cứu các lĩnh vực công
nghệ có tầm quan trọng chiến lược với tương lai quốc gia, phù hợp với xu thế
phát triển chung của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như: lĩnh vực điện tử (xe
ô tô tự lái), công nghệ thông tin – truyền thông, khả năng giao tiếp/tương tác
của con người thông qua mạng lưới vạn vật kết nối, công nghệ quan học và
lượng tử, an ninh dân sự, dược liệu, chống biến đổi khí hậu…Bên cạnh đó,
KMU-Innovativ cũng tạo điều kiện tối đa cho các DNVVN có thể tham gia
bằng việc đơn giản hóa các bước xin và phê duyệt tài trợ cũng như các thủ tục
yêu cầu chứng minh về vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Cụ thể, doanh nghiệp
sẽ mất khoảng 02 tháng để nộp đề xuất xin tài trợ và 02 tháng để quá trình phê
duyệt được xử lý và thông qua. Số tiền tài trợ cho các dự án được phê duyệt
đến nay đã vượt 1 tỷ euro và hơn 1.700 cá nhân và đơn vị đã được hỗ trợ [95].
Thúc đẩy tinh thần kinh doanh:
Chính phủ Liên bang Đức khẳng định các công ty khởi nghiệp, các
DNVVN được chuyển giao qua thế hệ và các doanh nghiệp thành lập mới nói
chung có tầm quan trọng to lớn đối với nền kinh tế Đức với hơn 300.000 doanh
nghiệp được thành lập mới mỗi năm. Các doanh nghiệp này tạo thêm động lực
113
thúc đẩy nền kinh tế và việc làm mới. Đây cũng sẽ là một bộ phận không thể
tách rời của khối Mittelstand Đức trong tương lai. Chiến dịch “GO! Start-up”
cũng đã được vận hành nhằm tạo động lực khơi dậy tinh thần khởi nghiệp ở
Đức, đặc biệt là hướng tới các nhóm đối tượng ít có lợi thế khởi nghiệp như
phụ nữ và đối tượng là những người nhập cư có nhiều tiềm năng. Chiến dịch
triển khai gồm mười điểm cụ thể: (1) Tăng cường tinh thần kinh doanh, truyền
đạt kỹ năng; (2) Cải thiện môi trường khởi nghiệp; (3) Tạo điều kiện hỗ trợ cho
sự thành công của các công ty; (4) Giúp phụ nữ khởi nghiệp nhiều hơn; (5)
Cung cấp các công cụ tài chính phù hợp; (6) Cung cấp các nguồn vốn đầu tư
mạo hiểm cho các công ty khởi nghiệp; (7) Kết nối chặt chẽ mạng lưới công ty
khởi nghiệp với các công ty đang hoạt động; (8) Thúc đẩy hợp tác quốc tế đối
với các công ty khởi nghiệp; (9) Tăng cường kỹ năng kinh doanh cho người
nhập cư; (10) Thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp xã hội nhiều hơn. Bên cạnh đó,
chương trình “EXIST” với mục tiêu nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp tại
các trường đại học cũng được triển khai trên cả nước thông qua việc cung cấp
học bổng cho các nhà khởi nghiệp trẻ trong lĩnh vực khoa học. Ngoài ra, tất cả
các thông tin liên quan đến việc thành lập doanh nghiệp mới đều được công
khai và hỗ trợ cung cấp bởi Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên bang.
75000
70000
70000
65000
60000
60000
54000
55000
50000
45000
40000
2016
2017
2018
Hình 3.17: Khởi nghiệp trong các doanh nghiệp sáng chế đột phá
Nguồn: Ngân hàng Liên bang Đức [125]
114
Theo đó, nhờ sự thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp từ Chính phủ, khối các
doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực sáng chế đột phá (khởi nghiệp dựa trên
nền tảng công nghệ, quy trình, mô hình kinh doanh hoặc sáng kiến mới) đã tăng
đều trong những năm gần đây. Đây đều là những doanh nghiệp trẻ, của người
trẻ, với khao khát vươn xa ra thị trường toàn cầu. Riêng trong năm 2018 đã có
khoảng 70.000 doanh nghiệp được thành lập. So với các DNVVN truyền thống,
những doanh nghiệp dựa trên sáng chế đột phá này thường có giai đoạn đầu phát
triển chậm hơn nhưng họ sẽ đạt được tăng trưởng theo cấp số nhân khi họ thu
hút được khách hàng, và họ thường chấp nhận có nhiều người đồng sở hữu, kiểm
soát công ty để tìm kiếm sự tăng trưởng (thông qua các cuộc gọi vốn).
Trong bối cảnh mà cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan tỏa trên
phạm vi toàn cầu, tạo nhiều điều kiện cho các doanh nghiệp trẻ phát triển thì
khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ đang trở thành một trong những mũi nhọn
của nhiều quốc gia. Tại Đức, năm 2019, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp
trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông chiếm nhiều nhất, với 30,2%
tổng số doanh nghiệp mới của cả nước. Theo sau là doanh nghiệp thành lập
trong lĩnh vực thực phẩm/hàng tiêu dùng, chiếm 10,6%. Lĩnh vực chăm sóc sức
khỏe/thuốc chiếm 8,5% doanh nghiệp mới và lĩnh vực vận tải/dịch vụ hậu cần
(logistic) chiếm 6,7%. Điều này cũng được xem là dễ hiểu khi mà cụm từ “Cách
mạng công nghiệp 4.0” được xem là xuất hiện lần đầu tiên trong một báo cáo
của Chính phủ Liên bang Đức vào năm 2011 và đến năm 2013 một khuyến
nghị về “Các sáng kiến chiến lược trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0” đã
được đề xuất bởi Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Liên bang Đức nhằm tìm kiếm
sự phát triển trong kỷ nguyên mới [52].
115
Công nghệ thông tin & Truyền thông
30.20%
Thực phẩm/ hàng tiêu dùng
10.60%
Thuốc/ chăm sóc sức khỏe
8.50%
Ô tô/ vận tải/ dịch vụ hậu cần
6.70%
Nguồn nhân lực
4.20%
Tài chính ngân hàng/ bảo hiểm
4.20%
Giáo dục
4.10%
Thể thao và giải trí/ trò chơi online
3.90%
Hóa học và dược liệu/ sinh học
3%
Xây dựng và bất động sản
2.90%
Truyền thông và kinh tế sáng tạo
2.60%
2.60%
Công nghệ công nghiệp/ sản xuất phần cứng
Dệt may
2.60%
Năng lượng/ điện
2.50%
Tư vấn doanh nghiệp
2.50%
Nông nghiệp/ nông trại
1.90%
Các ngành nghề khác
4.60%
0.00%
10.00%
20.00%
30.00%
40.00%
Hình 3.18: Tỷ lệ khởi nghiệp theo các ngành nghề ở Đức (2019)
Nguồn: Statista (2020) [160]
Có thể thấy rằng, kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đến
nay, Chính phủ Liên bang Đức đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhằm đưa
nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng và mọi định hướng, hoạt động đều nằm
trong định hướng phát triển chung của Liên minh châu Âu. Một loạt các chính
116
sách, chương trình kích thích nền kinh tế, trong đó, trọng tâm là tạo điều kiện
cho khối DNVVN phát triển đã được triển khai.
Cùng với “Chiến lược châu Âu 2020” của Liên minh châu Âu và nhằm
thực hiện các mục tiêu chung của Khối, Chính phủ Đức đã có nhiều giải pháp
chính sách nhằm cải thiện môi trường doanh nghiệp trong nước, đặc biệt bằng
nhiều biện pháp nhằm xóa bỏ tình trạng quan liêu, vốn là một trong những rào
cản cản trở sự phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN. Bên cạnh
đó, thông qua nhiều giải pháp phát triển thị trường vốn, Chính phủ đã giúp các
DNVVN ở Đức tiếp cận tốt hơn với các nguồn tài chính thông qua các giải
pháp vay vốn truyền thống từ ngân hàng, các Quỹ đầu tư mạo hiểm, các Nhà
đầu tư Thiên thần, đa dạng các nguồn hỗ trợ nhằm cung cấp tối đa nguồn lực
cho các DNVVN phát triển. Các chính sách thu hút và đào tạo lao động lành
nghề cũng được quan tâm, giúp cho lực lượng lao động tay nghề cao cho khối
DNVVN luôn được đảm bảo. Cuối cùng là những giải pháp nhằm thúc đẩy tinh
thần kinh doanh, tinh thần khởi nghiệp ở Đức, đặc biệt trong bối cảnh mà cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan tỏa trên phạm vi toàn cầu.
Theo đó, đến năm 2018, có khoảng 3,81 triệu DNVVN ở Đức (thống kê
dựa trên định nghĩa về DNVVN của Đức), chiếm khoảng 99,95% tổng số doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Trong đó có khoảng 3,1 triệu doanh nghiệp có trụ sở
tại Tây Đức (chiếm 82% tổng số DNVVN) và 698.000 doanh nghiệp có trụ sở
ở Đông Đức (chiếm 18%). Trong đó, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực dịch vụ ngày càng chiếm đa số trong nền kinh tế. Theo đó, có khoảng 2,87
triệu doanh nghiệp (chiếm 76% tổng số DNVVN) hoạt động trong lĩnh vực
cung cấp dịch vụ, trong đó có 1,51 triệu trong số này (chiếm khoảng 40%) cung
cấp các dịch vụ tập trung tri thức, và xu hướng này vẫn đang gia tăng. Có 1,4%
DNVVN (khoảng 52.000 doanh nghiệp) hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu
117
& phát triển – sản xuất chuyên sâu). Ngoài ra các lĩnh vực sản xuất khác chiếm
khoảng 6,7% tổng số DNVVN mặc dù vậy lại sử dụng tới 16% tổng số lao động.
Hình 3.19: Sự thay đổi trong cơ cấu ngành của DNVVN từ 2006-2018
Nguồn: Ngân hàng KfW (2019) [124]
Xuyên suốt từ năm 2006 đến 2018 có thể thấy rằng, tỷ trọng các DNVVN
hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ nói chung luôn chiếm đa số, khoảng gần 50%
tổng số DNVVN hoạt động trong nền kinh tế. Lĩnh vực sản xuất, chế tạo vốn
là một trong những điểm mạnh của các DNVVN Đức có xu hướng giảm từ
8,4% vào năm 2006 còn chỉ chiếm 6,7% vào năm 2018.
118
6
4.9
4.7
5
3.9
4
3.3
3.3
3.3
3
2.4
1.9
2.7
2.8
2.7
2
2.3
2.1
2
1
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
Tỷ lệ tăng trưởng lao động
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu
Hình 3.20: Tỷ lệ tăng trưởng lao động và tăng trưởng doanh thu ở
DNVVN Đức từ 2012-2018 (đơn vị: %)
Nguồn: Ngân hàng KfW (2019) [124]
Có thể thấy rằng, tỷ lệ tăng trưởng lao động ở các DNVVN luôn ở mức
ổn định và có xu hướng tăng mạnh trong những năm gần đây, đạt 3,3% vào
năm 2018. Xu hướng này được xem là thành quả của một chuỗi những giải
pháp chính sách mà Chính phủ Đức đã triển khai nhằm hỗ trợ các DNVVN ổn
định hoạt động sản xuất và tạo nền tảng vững chắc cho thị trường lao động quốc
gia. Trong suốt từ năm 2012 đến 2018, doanh thu ghi nhận của khối này tăng
trưởng qua các năm, đạt 4,9% vào năm 2018, hơn gấp đôi con số tăng trưởng
ở mức 2,4% vào năm 2012 khi mà nền kinh tế trong nước và thế giới mới phục
hồi. Hai kết quả này của khối DNVVN đã đóng góp mạnh mẽ vào tăng trưởng
chung GDP của Đức trong suốt những năm qua, cũng như giúp cho tỷ lệ thất
nghiệp ở Đức giảm dần qua các năm.
119
6
5.231
5.379
4.981
4.624
5
4.122
3.746
4
3.425
3
2.465
2
2.23
2.226
1.527
1.74
1
0.42
0.428
0
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
Tỷ lệ tăng trưởng GDP
Tỷ lệ thất nghiệp
Hình 3.21: Tỷ lệ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp ở Đức từ 2012-
2018 (đơn vị: %)
Nguồn: Ngân hàng Thế giới [179] [180]
Theo đó, tỷ lệ tăng trưởng GDP từ 2012 đến 2018 luôn duy trì ổn định ở
mức tăng trưởng dương, đạt 1,527% vào năm 2018. Cùng với đó, tỷ lệ thất
nghiệp trong nền kinh tế cũng giảm dần đều qua các năm; từ đỉnh 5,379% vào
năm 2012 giảm xuống còn 3,425% vào năm 2018. Nền kinh tế Đức đã đi vào ổn
định với mọi hoạt động diễn ra trong nền kinh tế đều được kiểm soát chặt chẽ.
3.2. Đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức
3.2.1. Ưu điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức
Tổng kết lại trong suốt giai đoạn từ đầu những năm 2000 trở về đây, nền
kinh tế Đức đã trải qua nhiều biến động từ giai đoạn mất cân bằng của thị trường
lao động đầu những năm 2000, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và
nhu cầu tìm kiếm động lực cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế từ sau những
năm 2010 trở lại đây, đặc biệt khi mà cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã diễn
120
ra, hứa hẹn sẽ có những tác động không nhỏ đến các nền kinh tế và nhu cầu về
sự đổi mới sáng tạo đang đặt ra những thách thức về tương lai cho tất cả các
quốc gia trên thế giới. Xuyên suốt những biến động ấy, DNVVN vẫn luôn là
một trong những trụ cột, được xem là xương sống của nền kinh tế Đức, giúp
Đức vượt qua những cuộc khủng hoảng, đảm bảo sự an tâm cho nền kinh tế -
xã hội của quốc gia. Sự phát triển của DNVVN ở Đức không chỉ thể hiện về
mặt số lượng các doanh nghiệp chiếm trong nền kinh tế mà đặc biệt, vị thế và
vai trò của khối doanh nghiệp này ngày càng lớn mạnh và luôn được khẳng
định và thừa nhận là một trụ cột vững chắc trong sự phát triển kinh tế Đức trong
việc cung cấp việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp; đào tạo nghề cho lượng lớn lao
động Đức và quan trọng hơn là đóng góp mạnh mẽ cho sự phát triển của nền
kinh tế Đức (thông qua đóng góp vào GDP, giá trị xuất nhập khẩu...). Để đạt
được những thành tựu như vậy, bên cạnh sự hỗ trợ kịp thời của Chính phủ Liên
bang Đức thông qua việc xây dựng một môi trường pháp lý, môi trường chính
sách thuận lợi, kiến tạo, cùng với sự định hướng, hỗ trợ về mặt thông tin, chuyên
môn từ các tổ chức, Hiệp hội doanh nhân, doanh nghiệp trung gian, Phòng
thương mại Đức tại các quốc gia trên toàn cầu (trong việc thúc đẩy xuất nhập
khẩu) thì không thể phủ nhận được rằng nội lực của các DNVVV ở Đức (vốn
là các công ty gia đình) là rất lớn, cụ thể:
Văn hóa tổ chức doanh nghiệp chặt chẽ và tính linh hoạt cao:
Xuất phát từ đặc tính của các DNVVN thường có phương thức hoạt động
theo “nguyên tắc cá nhân” và “nguyên tắc thống nhất giữa lãnh đạo và vốn sở
hữu”. Cụ thể “nguyên tắc cá nhân” thể hiện rằng người quản lý doanh nghiệp
là người có vai trò chủ chốt trong việc ra quyết định trong mọi hoạt động của
doanh nghiệp, họ liên hệ trực tiếp và mật thiết với nhân viên, với khách hàng
và với nhà cung cấp. Họ thường gắn bó cả sự nghiệp của mình với doanh nghiệp
121
đó. Ngoài ra, “nguyên tắc thống nhất giữa lãnh đạo và chủ sở hữu” có nghĩa là
người chủ sở hữu và người lãnh đạo doanh nghiệp đều là một người [132]. Điều
này giúp cho các doanh nghiệp quản lý được hoạt động sản xuất kinh doanh
một cách chặt chẽ. Sự tương tác gần gũi và thấu hiểu giữa các cấp bậc trong
doanh nghiệp giúp người chủ doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt và đưa ra
quyết định kịp thời với những thay đổi cả từ các yếu tố bên trong và bên ngoài.
Bên cạnh đó, phần nhiều các DNVVN ở Đức là các doanh nghiệp gia đình, và
những doanh nghiệp này có tính truyền thống, tiếp nối qua nhiều thế hệ duy trì
hoạt động sản xuất. Đặc tính này giúp các Mittelstand có thể giữ vững được
những bí quyết kinh doanh riêng cũng như tinh thần, văn hóa nền tảng được
tiếp nối qua nhiều thế hệ của gia đình, giúp doanh nghiệp giữ vững được phong
độ ổn định và vị thế chắc chắn trên thị trường. Nhờ sự gắn bó chặt chẽ và gắn
kết giữa các thành viên mà tỷ lệ lao động nghỉ việc (rời khỏi công ty) là rất
thấp. Tinh thần kỷ luật cũng như tính trung thành của nhân viên rất cao. Đây
cũng là một trong những lý do mà trong các cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua,
sự thấu hiểu giữa người chủ và người lao động giúp cho các DNVVN có thể
nhanh chóng thích nghi, dễ dàng chia sẻ rủi ro về mặt tiền lương, giờ làm, chế
độ lao động, thích ứng nhanh chóng với chính sách mới của Chính phủ và qua
đó giúp các DNVVN linh hoạt thích ứng, duy trì được hoạt động sản xuất ổn
định. Các doanh nghiệp giữ được lao động lành nghề của mình còn người lao
động thì giữ được việc làm.
Chiến lược doanh nghiệp dựa trên tầm nhìn dài hạn:
Xuất phát từ văn hóa doanh nghiệp có tính chất kế thừa, tiếp nối qua
nhiều thế hệ các quyết định, chiến lược của DNVVN ở Đức thường dựa trên
một tầm nhìn dài hạn, mang tính xuyên suốt, thống nhất trong sự phát triển
chung của doanh nghiệp và ít mang tính thời điểm, tư duy phục vụ lợi nhuận
122
ngắn hạn, không bền vững. Điều này cũng được thể hiện thông qua những cam
kết của doanh nghiệp với người lao động. Đội ngũ lao động của các DNVVN
được đào tạo và nuôi dưỡng song song với sự phát triển của doanh nghiệp đó,
từ đối tượng học nghề đến lao động chính thức và trở thành lao động có tay
nghề cao. Đây là quá trình đào tạo bài bản, xuyên suốt và thể hiện sự gắn kết
giữa người lao động và doanh nghiệp.
Nhiều lãnh đạo điều hành các hoạt động ở nước ngoài của các DNVVN
Đức đã có thời gian phụ trách đơn vị hơn mười năm và thậm chí lâu hơn. Điều
này giúp cho các hợp đồng kinh doanh được duy trì và mối quan hệ giữa doanh
nghiệp và khách hàng cũng rất gần gũi. Theo thống kê, hơn 44% nhân viên tại
các Mittelstand của Đức có thời gian gắn bó với doanh nghiệp họ đang làm việc
từ hơn mười năm trở lên và họ có động lực rất lớn để cống hiến cho công ty,
rất hiếm khi xảy ra các cuộc đình công hay mâu thuẫn lao động. Hơn 80% số
doanh nghiệp có chính sách thưởng cho người lao động khi đóng góp các sáng
kiến, ý tưởng mới; hơn 50% số doanh nghiệp áp dụng mô hình “nhóm quản lý
chất lượng (quality circles)” và khoảng 40% doanh nghiệp có chính sách chia
sẻ lợi nhuận với người lao động [104]. Với tư duy dựa trên tầm nhìn dài hạn
mà các DNVVN ở Đức hoạt động nhất quán và bền vững.
Nguồn lực doanh nghiệp, năng lực quản lý doanh nghiệp tốt. Xây dựng
lợi thế cạnh tranh và mạng lưới khách hàng toàn cầu:
Có thể nói rằng, các DNVVN ở Đức có nguồn lực tốt và được tiếp nối
qua nhiều thế hệ. Các DNVVN ở Đức luôn có sự quyết tâm, kinh nghiệm và
kiến thức trải qua nhiều năm phát triển cùng với nguồn lực về vốn con người
mạnh mẽ. Năng lực quản lý của các DNVVN ở Đức cũng luôn được đánh giá
cao. Với đặc tính là người chủ thường là người quản lý trực tiếp doanh nghiệp
nên hoạt động của các DNVVN thường mang đậm dấu ấn của người lãnh đạo
123
và sự gắn kết giữa người chủ và nhân viên thường rất mật thiết. Ngoài ra, tận
dụng được những lợi thế từ nguồn lực sẵn có, với tấm nhìn chiến lược dài hạn,
DNVVN ở Đức luôn biết cách xây dựng những lợi thế cạnh tranh cho riêng
mình để vươn lên trở thành những “chiến binh” trên toàn cầu, xây dựng mạng
lưới khách hàng rộng khắp.
Chiến lược mà các DNVVN ở Đức theo đuổi để có lợi thế cạnh tranh là
“chiến lược tập trung dựa trên nền tảng khác biệt hóa - Differentiation Focus”
đã được Michael Porter đề cập lần đầu vào năm 1985. Theo đó, chất lượng,
dịch vụ và độ tin cậy cao là ba yếu tố chiến lược mà các DNVVN ở Đức tập
trung xây dựng trên thị trường. Các DNVVN ở Đức tập trung vào các thị trường
ngách, những thị trường mà họ nắm rất sâu sắc. Theo đánh giá từ các doanh
nghiệp thì tầm quan trọng của ba tiêu chí trên lần lượt chiếm 77%, 71% và 66%
khi được khảo sát [122]. Với lợi thế quy mô nhỏ và vừa, lao động có tay nghề
kỹ thuật cao, tập trung sản xuất chuyên sâu vào thế mạnh của mình (tính chuyên
môn hóa cao), các sản phẩm của DNVVN ở Đức được xem là có tiêu chuẩn
chất lượng hàng đầu thế giới, đặc biệt là các lĩnh vực sản xuất liên quan đến kỹ
thuật điện và sản phẩm công nghiệp. Bên cạnh đó, quy trình về tư vấn, dịch vụ
được các doanh nghiệp này quan tâm và chú trọng; và hơn hết, uy tín/ độ tin
cậy là một trong những nguyên nhân giúp cho các DNVVN ở Đức khẳng định
được vị thế của mình trên trường quốc tế. Trên phạm vi toàn cầu, các DNVVN
ở Đức được xem là những “nhà vô địch ẩn danh” và có tới 1.307 doanh nghiệp
từ Đức đứng đầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất của mình.
Ngoài ra, các DNVVN ở Đức không ngừng xây dựng mạng lưới khách
hàng toàn cầu. Bên cạnh nhóm khách hàng truyền thống là các nước thành viên
trong Liên minh châu Âu và Mỹ thì một trong những nhóm khách hàng mới
nổi mà các Mittelstand hướng tới là các quốc gia đang phát triển, những quốc
124
gia mà quá trình công nghiệp hóa đang diễn ra mạnh mẽ và các doanh nghiệp
Đức đã tiếp thị các sản phẩm của mình một cách thành công dựa trên những thế
mạnh mà mình có. Các Mittelstand ở Đức cũng là các nhà thầu phụ cho các
doanh nghiệp lớn toàn cầu trong việc gia công, cung cấp các trang thiết bị, dụng
cụ phục vụ cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp lớn. Việc luôn tìm kiếm và
tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu giúp cho các DNVVN ở Đức luôn ổn
định sản xuất và đóng góp mạnh mẽ cho quá trình phát triển nền kinh tế Đức.
Phân tích về đặc tính văn hóa tổ chức doanh nghiệp, các nguồn lực doanh
nghiệp và năng lực quản lý của các DNVVN ở Đức đã soi sáng và làm rõ hơn
nội dung “Lý thuyết của Penrose về phát triển doanh nghiệp”. Theo đó tác giả
đã nhận định “bản thân các nguồn lực chưa thể được xem là yếu tố đầu vào cho
quá trình sản xuất kinh doanh mà tùy thuộc vào từng doanh nghiệp sử dụng các
nguồn lực đó theo những cách thức như thế nào dựa trên kinh nghiệm, trình độ
của người lao động, năng lực của quản lý thì các nguồn lực đó mới trở thành
nhân tố giúp doanh nghiệp tăng trưởng. Penrose cũng khẳng định năng lực quản
lý có tác động không nhỏ đến sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp”
[151]. Đối với các DNVVN ở Đức, sự kết hợp hiệu quả và sử dụng các nguồn
lực hợp lý với kinh nghiệm dạn dầy của người lãnh đạo vốn có sự đúc kết từ
truyền thống và tiếp nối qua nhiều thế hệ đã giúp khối DNVVN đạt được những
thành quả đang ghi nhận. Bên cạnh đó, tận dụng được những lợi thế từ nguồn
lực sẵn có, cùng tầm nhìn chiến lược dài hạn, DNVVN ở Đức luôn biết cách
xây dựng những lợi thế cạnh tranh cho riêng mình để vươn lên trở thành những
“chiến binh” trên toàn cầu, xây dựng mạng lưới khách hàng rộng khắp. Điều
này cũng bổ trợ cho lý thuyết tiếp theo là “Lý thuyết nguồn lực doanh nghiệp
và năng lực động của doanh nghiệp”. Theo đó, Barney (1991) cho rằng lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp nếu không được xây dựng dựa trên nền tảng nguồn
lực bên trong của doanh nghiệp đó thì sẽ không thể tạo được ưu thế lâu dài vì
125
hoàn toàn có thể bị bắt chước [58] hay Rindova và Fombrun (1999) [156] cho
rằng các nguồn lực và năng lực cốt lõi của doanh nghiệp là nhân tố chính giúp
doanh nghiệp có thể có được lợi thế cạnh tranh. Chính những đặc trưng, những
giá trị cốt lõi của khối DNVVN ở Đức vốn được đúc kết và xây dựng qua nhiều
thế hệ đã tạo ra cho doanh nghiệp những lợi thế cạnh tranh mà đối thủ không
thể sao chép hoặc dễ dàng học theo. Điều đó đã giúp cho các DNVVN ở Đức
được ví như những “nhà vô địch ẩn danh”, chiếm thị phần lớn trên toàn cầu.
3.2.2. Một số vấn đề tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức
Mặc dù được xem là xương sống của nền kinh tế, giúp nền kinh tế Đức
vượt qua nhiều cuộc khủng hoảng cũng như được kỳ vọng sẽ một lần nữa giúp
Đức gặt hái được những thành công trong kỷ nguyên của cuộc CMCN 4.0
nhưng những Mittelstand – những DNVVN ở Đức cũng đang phải đối mặt với
nhiều thách thức không nhỏ, cụ thể:
DNVVN ở Đức đối diện cuộc khủng hoảng thế hệ:
Một đặc trưng của các Mittelstand, các doanh nghiệp gia đình ở Đức là
việc chuyển giao giữa các thế hệ lãnh đạo doanh nghiệp thường là sự kế thừa
trong gia đình. Điều này giúp đảm bảo tính tiếp nối các truyền thống, nền tảng
văn hóa doanh nghiệp vốn được xây dựng qua nhiều đời. Những thế hệ kế thừa
là người trong gia đình cũng sẽ giúp doanh nghiệp cảm thấy yên tâm về tính
cam kết gắn bó lâu dài và tâm huyết của người lãnh đạo mới với doanh nghiệp.
Các thế hệ trẻ này cũng ý thức được rằng việc gìn giữ những giá trị mà cha ông
họ đã tạo ra đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định hoạt động
của doanh nghiệp và tiếp nối sự thành công đó. Mặc dù vậy, từ những năm
1975 trở lại đây, tỷ lệ sinh ở Đức luôn ở mức thấp, chỉ đạt xấp xỉ trung bình từ
1,3 đến 1,5 lần sinh trên mỗi phụ nữ [178]. Điều này dẫn đến hậu quả là các gia
đình ở Đức có ít con và khiến các doanh nghiệp khó khăn trong việc tìm kiếm
126
thế hệ kế cận trong gia đình. Tính đến 2020, có khoảng 227.000 DNVVN ở
Đức mong muốn chuyển giao doanh nghiệp cho người kế cận. Độ tuổi lãnh đạo
các DNVVN trong những năm gần đây tại Đức đã tăng rất cao. Theo đó, tính
đến 2016, độ tuổi lãnh đạo nhiều nhất là từ 50 tuổi trở lên chiếm hơn 60% và
trong đó, nhóm tuổi từ 60 trở lên chiếm khoảng 22%. Nhóm tuổi lãnh đạo dưới
40 tuổi chỉ chiếm 15% và từ 40-49 tuổi chiếm khoảng gần 25%. Có thể thấy
rằng, độ tuổi lãnh đạo/ chủ sở hữu DNVVN ở Đức đang già đi nhanh chóng.
Theo thống kê có khoảng 20% số doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với bài toán
tìm người thay thế hoặc nếu không các doanh nghiệp sẽ phải ngừng hoạt động
vào năm 2022. Tính trung bình hiện tại thì chủ sở hữu của các Mittelstand Đức
đang có xu hướng nghỉ hưu muộn khi mà độ tuổi nghỉ làm việc trung bình của
nhóm này là ở tuổi 68 còn các nhân viên làm công ăn lương bình thường của
doanh nghiệp thì nghỉ ở tuổi 62 [146]. Những năm trước đây, các cuộc khảo sát
luôn cho thấy rằng các Mittelstand luôn mong muốn và ưu tiên cho sự kế thừa
trong gia đình, và không sẵn sàng chuyển giao nó cho người ngoài. Tuy nhiên
giờ đây, có khoảng 45% số doanh nghiệp được khảo sát đã chấp nhận với
phương án bán lại cho các nhà đầu tư hoặc các doanh nghiệp khác [123]. Đây
cũng có thể được xem là một trong những giai đoạn chuyển giao mang tính đặc
trưng của các DNVVN ở Đức. Quá trình chuyển giao sẽ ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động và định hướng phát triển tương lai của doanh nghiệp. Mặc dù
vậy, giai đoạn này ở các DNVVN ở Đức là không thể tránh khỏi trong quá trình
phát triển, giống như Greiner đã đề cập trong “Mô hình phát triển sáu giai
đoạn”. Quan điểm của ông là các doanh nghiệp luôn vận động và thay đổi,
giống như các sinh vật trong quá trình sinh trưởng và phát triển của mình
thường trải qua các giai đoạn khác nhau và mỗi giai đoạn sẽ tương ứng với cách
quản lý và phát triển riêng biệt ]137].
127
Có thể thấy rằng, đây là một thách thức không nhỏ cho các DNVVN nói
riêng và nền kinh tế Đức nói chung khi mà khối này đóng góp khoảng 70%
lượng việc làm và 35% doanh thu cho nền kinh tế. Dù muốn hay không thì các
doanh nghiệp này vẫn luôn phải đảm bảo sự ổn định hoạt động vì nó được xem
là xương sống, là trụ cột giúp cho nền kinh tế - xã hội Đức phát triển bền vững.
Thách thức trong công cuộc đổi mới sáng tạo, Cách mạng công nghiệp 4.0:
Khái niệm về Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã được đề cập ở Đức từ
năm 2012 và những năm gần đây, một loạt các sáng kiến, chương trình hỗ trợ
DNVVN được Chính phủ cấp vốn nhằm giúp khối doanh nghiệp này triển khai
hiệu quả quá trình đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và ứng dụng các lĩnh vực công
nghệ có tầm quan trọng chiến lược, phù hợp với xu thế phát triển chung của
cuộc Cách mạng công nghiêp 4.0, thông qua Chương trình “Đổi mới sáng tạo
trung ương dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ - ZIM” được cấp ngân sách 548
triệu euro năm 2017 hay Chương trình “Đối mới DNVVN: KMU-Innovativ”.
Tại Đức, năm 2019, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực công
nghệ thông tin và truyền thông chiếm nhiều nhất, với 30,2% tổng số doanh
nghiệp mới của cả nước.
Có thể nói rằng, trong giai đoạn đầu triển khai, các DNVVN đã nhận
được sự hỗ trợ nhất định để có thể tiếp cận tích cực trong công cuộc đổi mới
sáng tạo. Mặc dù vậy, một trong những thách thức hiện tại cũng là rào cản của
các doanh nghiệp là sự thiếu hụt lao động có kỹ năng trong lĩnh vực chuyển đổi
kỹ thuật số. Theo thống kê, khoảng 80% các DNVVN ở Đức có nhu cầu lớn về
lao động có kỹ năng kỹ thuật số cơ bản như khả năng sử dụng các phần mềm
tiêu chuẩn và các thiết bị kỹ thuật số. Chỉ khoảng 24% các doanh nghiệp có
nhu cầu cao hơn về lao động có kỹ năng tiên tiến như lập trình và phân tích số
liệu thống kê. Và một phần ba số doanh nghiệp là không thể đáp ứng các yêu
128
cầu về kỹ năng số [55]. Theo đó, có ba cách mà các doanh nghiệp có thể có
được các lao động đáp ứng được kỹ năng là: thông qua tuyển dụng mới, thuê
ngoài hoặc tự đào tạo nâng cao. Trong đó, phương án tự đào tạo nâng cao kỹ
năng cho người lao động được xem là chiến lược phổ biến nhất của các
DNVVN. Mặc dù vậy, với đặc tính của DNVVN có ít nhân viên, việc sắp xếp
thời gian cũng như chương trình học để không ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất hàng ngày của doanh nghiệp cũng là một thách thức lớn. Bên cạnh đó, chi
phí cho việc đào tạo thường do doanh nghiệp hoặc người lao động tự chi trả
nên đây cũng là một rào cản đối với các doanh nghiệp trẻ, các doanh nghiệp
nhỏ ít hơn 50 lao động vì nhiều doanh nghiệp trong số này ít có tín dụng tốt để
vay vốn ngân hàng và nguồn vốn tự lực thì còn khiêm tốn [173]. Kết quả là
nhiều doanh nghiệp sẽ không có đủ tiềm lực để thực hiện việc đào tạo số hóa,
nâng cao trình độ cho người lao động, giảm cơ hội thực hiện chuyển đổi số.
3.3. Những bài học kinh nghiệm từ thực tế phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Đức
Xuyên suốt quá trình phát triển DNVVN ở Đức, đặc biệt là từ những
năm 2000 trở về đây, khối DNVVN đã chứng minh được sự phát triển hiệu quả
cả về mặt số lượng và chất lượng. Các DNVVN trong nền kinh tế Đức đã được
nhìn nhận đúng vai trò, đánh giá đúng tiềm năng và từ đó Chính phủ Đức đã
xây dựng các chương trình, chính sách phù hợp giúp cho khối này phát huy tối
đa tiềm lực phát triển. Có thể dễ dàng nhận ra rằng, trải qua các sự kiện biến
động kinh tế - xã hội, các chính sách được Chính phủ Đức ban hành và triển
khai đều đặt trọng tâm là sự ổn định của các DNVVN và lấy đó là nền tảng tạo
sự ổn định trong nền kinh tế. Qua đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm
từ thực tế phát triển DNVVN ở Đức, cụ thể:
Đổi mới nhận thức về các DNVVN trong nền kinh tế:
129
Việc đổi mới nhận thức, nhằm có một cái nhìn chính xác hơn về vị trí,
tầm quan trọng của các DNVVN trong nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong
việc giúp Chính phủ của các quốc gia có thể xây dựng được các chương trình,
chính sách phù hợp cho khối DNVVN có thể phát huy tối đa tiềm lực để phát
triển. Có thể nói rằng, nếu không có một nhận thức đúng đắn từ Chính phủ đến
doanh nghiệp, người dân, DNVVN sẽ không thể được đặt trong ưu tiên phát
triển của các quốc gia, đặc biệt với các nền kinh tế vốn đã và đang bị ảnh hưởng
mạnh mẽ bởi sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp lớn. Việc xác định
được một quan điểm, tư tưởng rõ ràng về sự phát triển của khối DNVVN thông
qua các chính sách hỗ trợ kịp thời sẽ giúp nguồn lực trong nền kinh tế được
phân bổ đồng đều hơn, nền kinh tế sẽ phát triển với sự ổn định và tính bền vững
cao hơn.
Xây dựng môi trường chính sách thuận lợi, hệ thống pháp lý hoàn thiện:
Cần phải xác định rằng, để có được một khối DNVVN phát triển trong
nền kinh tế thì trước hết khối doanh nghiệp đó phải được nuôi dưỡng trong một
môi trường có các yếu tố hỗ trợ thuận lợi để phát triển. Chính phủ phải là đầu
mối tiên phong trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch, công
bằng, thông qua một hệ thống pháp lý hoàn thiện với cơ chế chính sách tích
cực, thông thoáng. Tất cả các đạo luật, chính sách nhằm hỗ trợ các DNVVN
phải được Chính phủ xây dựng dựa trên một tầm nhìn dài hạn, nhất quán, gắn
chặt với những định hướng, mục tiêu chung của quốc gia. Xây dựng chính sách
phải dựa trên nền tảng từ các DNVVN, tránh ban hành các chính sách manh
mún, tầm nhìn ngắn hạn, thừa thãi. Bên cạnh đó, phải xóa bỏ tình trạng quan
liêu trong các cơ quan nhà nước, loại bỏ những quy tắc, điều kiện không cần
thiết, các gánh nặng về mặt thủ tục hành chính vốn kìm hãm sự phát triển của
doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho các DNVVN tham gia vào thực hiện các hợp
130
đồng công. Có lộ trình xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử (e-Government),
tăng sự minh bạch và thuận tiện cho cả doanh nghiệp và Chính phủ.
Thúc đẩy tinh thần kinh doanh, hỗ trợ đổi mới sáng tạo:
Xây dựng một xã hội khởi nghiệp, một xã hội mà tinh thần kinh doanh
được cổ vũ và hỗ trợ kịp thời thông qua các chính sách ưu đãi, cơ chế đặc thù
cho các doanh nghiệp trẻ, doanh nghiệp mới thành lập, đặc biệt là doanh nghiệp
khởi nghiệp trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo, kỹ thuật cao, sử dụng tri thức, phù
hợp với xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, đơn giản
hóa các thủ tục cấp phép doanh nghiệp mới, cũng như có ưu đãi về thuế, nới
lỏng một số điều kiện không cần thiết cho doanh nghiệp trong giai đoạn đầu
thành lập. Một xã hội có lực lượng DNVVN vững mạnh là xã hội đó có tinh
thần kinh doanh, tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ. Tinh thần kinh doanh, khởi
nghiệp cần được lan tỏa đến mọi đối tượng trong xã hội, tầng lớp trong xã hội.
Hỗ trợ đổi mới sáng tạo cũng là một trong những ưu tiên hàng đầu của
tất cả các quốc gia, đặc biệt khi mà cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và
đang diễn ra và tác động đến mọi ngành nghề trong nền kinh tế. Chính phủ Đức
đã dành riêng một Chương trình “Đổi mới sáng tạo trung ương dành cho
DNVVN - ZIM” nhằm tài trợ trên quy mô toàn quốc cho các công nghệ định
hướng thị trường của các doanh nghiệp. Riêng năm 2017, ZIM đã cấp một
khoản ngân sách trị giá 548 triệu euro và trở thành chương trình hỗ trợ lớn nhất
ở Đức. Có thể thấy rằng, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc kích
thích làn sóng đổi mới sáng tạo thông qua các hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp
đến các DNVVN.
Tăng khả năng tiếp cận nguồn tài chính của DNVVN:
131
Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các DNVVN tháo gỡ
khó khăn về mặt tiếp cận các nguồn tài chính. Tại Đức, Ngân hàng Tái thiết
KfW đóng vai trò là đơn vị hỗ trợ tài chính truyền thống cho các DNVVN thông
qua quỹ “Cho vay khởi nghiệp” được thiết kế dành riêng cho khối này. Bên
cạnh đó, Chính phủ cũng ban hành Đạo luật thúc đẩy đầu tư mạo hiểm khiến
cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm ở Đức trở nên hấp dẫn hơn. Chính phủ Liên bang
đã bổ sung một số công cụ mới cho phép một lượng vốn đầu tư mạo hiểm
khoảng 2 tỷ euro vào thị trường (từ các Quỹ nội địa của Đức cũng như các Quỹ
Thiên thần của châu Âu), nhằm giúp sức cho các doanh nghiệp khởi nghiệp
mới ở cả giai đoạn đầu và giai đoạn phát triển sau này. Việc xây dựng các chính
sách nhằm tháo gỡ rào cản tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp
nhỏ mới thành lập sẽ giúp các doanh nghiệp có nhiều nguồn lực hơn để đảm
bảo ổn định sản xuất, phục vụ cho hoạt động đổi mới sáng tạo và phát triển. Vì
vậy, vai trò của Chính phủ trong việc xây dựng chính sách nhằm giúp DNVVN
tiếp cận các nguồn tài chính là vô cùng quan trọng.
Đào tạo nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu tạo nên thành công cho một doanh
nghiệp, đặc biệt là các DNVVN vốn ít nhân viên và hoạt động sản xuất thường
có tính chuyên môn hóa cao. Tại Đức, hệ thống đào tạo nghề kép được xem là
nền tảng cung cấp nguồn nhân lực có tay nghề cho các doanh nghiệp, lý thuyết
được giảng dạy trong trường học và đào tạo thực tế diễn ra song song ở công
ty. Chính phủ Đức đặc biệt tập trung chú trọng đào tạo nghề và đây là yếu tố
then chốt giúp các DNVVN luôn duy trì được hoạt động sản xuất ổn định. Ở
Đức, đào tạo nghề trong các DNVVN chiếm tới 81,9% tổng lao động học nghề
trong nền kinh tế.
132
Việc chú trọng đào tạo nguồn nhân lực giúp cho người lao động được
trang bị những kỹ năng cần thiết, nâng cao tính chuyên nghiệp và đáp ứng được
nhu cầu ngày càng cao mà công việc đặt ra.
Mở rộng thị trường, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu:
Các DNVVN ở Đức không ngừng mở rộng thị trường, tiếp cận các đối
tác tiềm năng mới cả trong và ngoài nước. Các Mittelstand cũng là nhà thầu
phụ cho các doanh nghiệp lớn toàn cầu trong việc gia công, cung cấp các trang
thiết bị, dụng cụ phục vụ cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp lớn. Việc
luôn tìm kiếm và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu giúp cho các DNVVN
ở Đức luôn ổn định sản xuất và đóng góp mạnh mẽ cho quá trình phát triển nền
kinh tế Đức.
Về mặt Chính phủ, Đức cũng xây dựng một sáng kiến “Hoạt động tích
cực trên toàn thế giới” nhằm hỗ trợ các DNVVN. Đây là sự kết hợp của một
chương trình mười điểm, với mục tiêu trọng tâm là chính sách tự do hóa thị
trường trong các cuộc đàm phán thương mại thế giới hiện nay. Mục đích của
chương trình này là giúp tăng cường mạng lưới các Phòng thương mại Đức trên
toàn thế giới, hỗ trợ về mặt chính trị chuyên sâu hơn cho các công ty Đức ở
nước ngoài, hỗ trợ tối đa cho các hội chợ thương mại tổ chức ở nước ngoài đặc
biệt cho đối tượng là các DNVVN.
Xây dựng nền tảng văn hóa doanh nghiệp:
Một trong những điểm đặc trưng trong việc phát triển các DNVVN ở
Đức là xã hội Đức có “văn hóa DNVVN riêng”. Các Mittelstand ở Đức chủ
yếu là các doanh nghiệp gia đình, đã tiếp nối qua nhiều thế hệ duy trì hoạt động
sản xuất và nền có văn hóa, bản sắc riêng. Đặc tính này giúp các Mittelstand có
thể giữ vững được những bí quyết kinh doanh riêng cũng như tinh thần, văn
133
hóa nền tảng được tiếp nối qua nhiều thế hệ của gia đình, giúp doanh nghiệp
giữ vững được phong độ ổn định và vị thế chắc chắn trên thị trường. Tình thần
kỷ luật cũng như tính trung thành của nhân viên rất cao. “Văn hóa DNVVN”
này được xem là đặc trưng được xây dựng trong suốt chiều dài lịch sử phát triển
DNVVN trong nền kinh tế Đức. Chính phủ Đức cũng coi đây như một giá trị
cốt lõi để xây dựng khối doanh nghiệp này ngày càng phát triển.
Đề cao vai trò của các hiệp hội:
Nhà nước cần tạo điều kiện để xây dựng các tổ chức trung gian, thành
lập các Hiệp hội nhằm tư vấn, trợ giúp cho sự phát triển của các DNVVN. Kinh
nghiệm từ Đức cho thấy vai trò của các hiệp hội trong việc cung cấp thông tin,
bảo vệ lợi ích và định hướng doanh nghiệp phát triển đúng lộ trình, mở rộng
mạng lưới kết nối trên toàn cầu là rất rõ ràng.
Tận dụng cơ hội, nắm bắt thời cơ:
Một điều dễ dàng nhận ra trong quá trình phát triển DNVVN ở Đức là
bản thân nội lực các doanh nghiệp Đức rất mạnh. Có lẽ dù Chính phủ có triển
khai các gói hỗ trợ và kích thích DNVVN phát triển đến đâu mà chính các
DNVVN không tận dụng được cơ hội đó để vươn lên nắm bắt thời cơ và bổ
sung những nguồn lực còn thiếu của mình để phát triển thì DNVVN ở Đức sẽ
không có được những thành tựu như thời gian vừa qua. Việc tận dụng cơ hội,
nắm bắt thời cơ này còn thể hiện rằng nền tảng nội lực của các DNVVN là rất
lớn với truyền thống phát triển và văn hóa doanh nghiệp vững mạnh, trải qua
nhiều thế hệ được vun đắp và bồi dưỡng. Đây là một đặc điểm của các DNVVN
ở Đức nhưng cũng sẽ là bài học chung cho tất cả khối DNVVN ở các quốc gia
nếu muốn vươn lên phát triển trong nền kinh tế.
134
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Có thể nói rằng, sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế Đức được
xem là hình mẫu thành công cho nhiều quốc gia học tập. Vị trí và vai trò của
các DNVVN Đức luôn được khẳng định. Trong suốt quá trình phát triển, đặc
biệt từ đầu những năm 2000 trở lại đây, nền kinh tế Đức đã trải qua nhiều biến
động từ giai đoạn mất cân bằng của thị trường lao động đầu những năm 2000,
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và nhu cầu tìm kiếm động lực cho
sự ổn định và tăng trưởng kinh tế từ sau những năm 2010 trở lại đây, đặc biệt
khi mà cuộc CMCN 4.0 đã diễn ra, hứa hẹn sẽ có những tác động không nhỏ
đến các nền kinh tế và nhu cầu về sự đổi mới sáng tạo đang đặt ra những thách
thức về tương lai cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Xuyên suốt những biến
động ấy, DNVVN vẫn luôn là một trong những trụ cột, được xem là xương
sống của nền kinh tế Đức, giúp Đức vượt qua những cuộc khủng hoảng, đảm
bảo sự an tâm cho nền kinh tế - xã hội của quốc gia. Sự phát triển của DNVVN
ở Đức không chỉ thể hiện về mặt số lượng các doanh nghiệp chiếm trong nền
kinh tế mà đặc biệt, vị thế và vai trò của khối doanh nghiệp này ngày càng lớn
mạnh và luôn được khẳng định và thừa nhận là một trụ cột vững chắc trong sự
phát triển kinh tế Đức trong việc cung cấp việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp; đào
tạo nghề cho lượng lớn lao động Đức và quan trọng hơn là đóng góp mạnh mẽ
cho sự phát triển của nền kinh tế Đức (thông qua đóng góp vào GDP, giá trị
xuất nhập khẩu...). Để đạt được những thành tựu như vậy, bên cạnh sự hỗ trợ
kịp thời của Chính phủ Liên bang Đức thông qua việc xây dựng một môi trường
pháp lý, môi trường chính sách thuận lợi, kiến tạo, cùng sự định hướng dài hạn
thì không thể phủ nhận rằng nội lực của chính các DNVVN ở Đức là rất lớn.
Phân tích về sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế Đức giúp đúc
rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng, trong đó nổi bật lên những nội
135
dung chính: đổi mới nhận thức về các DNVVN trong nền kinh tế; Xây dựng hệ
thống pháp lý hoàn thiện, cơ chế chính sách tích cực, xóa bỏ nạn quan liêu;
Thúc đẩy tinh thần kinh doanh, hỗ trợ đổi mới sáng tạo; Nâng cao khả năng
tiếp cận nguồn tài chính của DNVVN; Đào tạo nguồn nhân lực; Mở rộng thị
trường, giúp doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; Xây dựng nền
tảng văn hóa doanh nghiệp; Tận dụng cơ hội và nắm bắt thời cơ. Những kinh
nghiệm này có giá trị rất lớn trong việc giúp những quốc gia đang phát triển,
trong đó có Việt Nam có thể học tập và áp dụng trong quá trình phát triển khổi
DNVVN trong nền kinh tế của mình.
136
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ
KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
4.1. Thực trạng phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
Việt Nam
Kể từ khi công cuộc “Đổi mới” diễn ra sau Đại hội lần thứ VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), Việt Nam đã chứng kiến một sự cải cách
toàn diện nền kinh tế. Từ một nền kinh tế kém phát triển về mọi mặt, cơ chế
kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, các xí nghiệp quốc doanh
(doanh nghiệp nhà nước) nắm giữ phần lớn tài sản cố định và hoạt động yếu
kém, gặp nhiều khó khăn, Nhà nước đã từng bước cải tổ bộ máy và sắp xếp lại
hệ thống doanh nghiệp. Theo đó, từng bước mở rộng quyền tự chủ cho doanh
nghiệp nhà nước đi đôi với xóa bỏ dần chế độ bao cấp, giải thể các doanh nghiệp
hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài cũng như thực hiện thí điểm việc cổ
phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước bên cạnh việc nới lỏng những hạn chế
trong việc thành lập các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài [14].
Có thể nói rằng trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, lực lượng
doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn “thiếu và yếu”, thiếu về sự đa dạng trong
cơ cấu doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN, và yếu
về nguồn lực doanh nghiệp (thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực, thiếu công
nghệ…), năng lực quản lý của doanh nghiệp còn rất hạn chế cũng như chưa có
chiến lược phát triển doanh nghiệp dài hạn, bài bản. Vì số lượng doanh nghiệp
còn ít nên chưa hình thành được một nền văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh
137
nhân rõ ràng. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý, chính sách cho các doanh
nghiệp vẫn chưa hoàn thiện, khối doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng
còn nhiều rào cản gia nhập thị trường cũng như thiếu sự định hướng, dẫn dắt
đúng đắn. Mặc dù vậy, nắm bắt được xu hướng phát triển chung của các quốc
gia trên thế giới cũng như nhận định được vai trò và tầm quan trọng của khối
doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng trong việc thúc đẩy nền kinh tế
trong nước phát triển, nhiều bộ luật đã được thông qua và nhiều nghị định,
chính sách hỗ trợ đã được ban hành nhằm giúp cho khối doanh nghiệp nói
chung và DNVVN nói riêng được tiếp thêm sức mạnh để phát triển.
Cụ thể, Công văn 681/CP-KTN được ban hành ngày 20 tháng 06 năm
1998 về việc định hướng chiến lược và chính sách phát triển các DNVVN, đặt
nền móng cho việc hình thành nên khái niệm về DNVVN của Việt Nam như
ngày nay [4]. Đây được xem là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Luật doanh
nghiệp vào ngày 12/06/1999 với các chương trình, chính sách hỗ trợ, ưu đãi
cho doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, là cú hích cho các DNVVN
ở Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng
[31]. Trải qua nhiều điều chỉnh về nội dung, định nghĩa về DNVVN đã dần
được hình thành rõ nét hơn qua Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ban hành ngày
23/11/2001 [5], Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN
ban hành vào ngày 30/06/2009 [6], đặc biệt với việc Quốc hội thông qua và ban
hành Luật Doanh nghiệp 2014 (Luật số 68/2014/QH13) và Luật Đầu tư (Luật
số 67/2014/QH13) vào ngày 26/11/2014 [2] hay Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa vào ngày 12/06/2017 đã thể hiện sự thừa nhận về tầm quan trọng của
các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng trong nền kinh tế [32].
Đến ngày 11/03/2018, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số
39/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp
138
nhỏ và vừa. Theo đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân theo quy mô bao
gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa [9]. Cụ thể:
Bảng 4.1: Tiêu chí xác định DNVVN của Việt Nam 2018
Doanh nghiệp Doanh nghiệp Doanh nghiệp Quy mô
siêu nhỏ nhỏ vừa Khu vực
Nông, lâm Số lao động tham Số lao động tham Số lao động tham
nghiệp, thủy sản gia BHXH bình gia BHXH bình gia BHXH bình
và Công nghiệp, quân ≤ quân ≤ quân ≤
xây dựng 10người/năm 100người/năm 200người/năm
Tổng doanh thu ≤ Tổng doanh thu ≤ Tổng doanh thu ≤
3 tỷ/năm 50 tỷ/năm 200 tỷ/năm
Hoặc tổng nguồn Hoặc tổng nguồn Hoặc tổng nguồn
vốn ≤ 3 tỷ vốn ≤ 20 tỷ vốn ≤ 100 tỷ
Thương mại và Số lao động tham Số lao động tham Số lao động tham
dịch vụ gia BHXH bình gia BHXH bình gia BHXH bình
quân ≤ quân ≤ quân ≤
10người/năm 50người/năm 100người/năm
Tổng doanh thu ≤ Tổng doanh thu ≤ Tổng doanh thu ≤
10 tỷ/năm 100 tỷ/năm 300 tỷ/năm
Hoặc tổng nguồn Hoặc tổng nguồn Hoặc tổng nguồn
vốn ≤ 3 tỷ vốn ≤ 50 tỷ vốn ≤ 100 tỷ
Nguồn: Nghị định số 39/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật
hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa [9]
Có thể nói rằng, đây là định nghĩa hoàn chỉnh nhất nhằm xác định các
DNVVN trong thời điểm hiện tại. Theo đó, Nghị định đã chi tiết hóa các tiêu
chí xác định theo quy mô về lao động hoặc tổng nguồn vốn, hoặc tổng doanh
139
thu của doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa trong tất cả các lĩnh vực nông
nghiệp/lâm nghiệp/thủy sản, công nghiệp/xây dựng và thương mại/dịch vụ.
Giúp thống nhất các tiêu chí, dễ dàng hơn trong việc tổng hợp thống kê, qua đó
đề xuất các chương trình, chính sách phù hợp nhằm hỗ trợ khối DNVVN sát
với điều kiện thực tế nhất. Các phân loại này cũng tiệm cận và phù hợp với
phân loại của nhiều quốc gia trên thế giới, và cũng phù hợp trong điều kiện kinh
tế mới khi mà cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang diễn ra và có ảnh
hưởng trực tiếp đến đối tượng là các DNVVN.
Thông qua những quyết sách về kinh tế xã hội sau hơn 30 năm đổi mới,
Việt Nam từ một nước nghèo nàn lạc hậu đã vươn lên trở thành một trong
những quốc gia năng động, kinh tế trên đà phát triển, từng bước hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam
nói chung và đặc biệt là các DNVVN nói riêng đã chứng kiến sự phát triển
nhanh chóng cả về số lượng, quy mô, phạm vi hoạt động và vị thế, vai trò của
khối DNVVN trong nền kinh tế những năm gần đây ngày càng được nâng cao
và khẳng định.
Bảng 4.2: Thống kê số lượng doanh nghiệp (dựa theo tiêu chí quy mô lao
động) từ 2005-2015 (*)
Năm 2005 2010 2014 2015
Tổng số doanh nghiệp 106.616 279.360 402.326 442.486
Doanh nghiệp siêu nhỏ 59.730 187.580 288.480 322.236
Doanh nghiệp nhỏ 38.506 79.085 98.169 103.753
Doanh nghiệp vừa 3.443 5.618 7.266 7.685
140
Doanh nghiệp lớn 4.937 7.077 8.411 8.812
Doanh nghiệp nhà nước 4.086 3.281 3.048 2.835
Doanh nghiệp siêu nhỏ 54 103 114 90
Doanh nghiệp nhỏ 1.468 1.256 1.234 1.139
Doanh nghiệp vừa 666 539 449 407
Doanh nghiệp lớn 1.898 1.383 1.251 1.199
Doanh nghiệp ngoài 98.833 268.831 388.232 427.709
nhà nước
Doanh nghiệp siêu nhỏ 59.280 186.061 285.532 319.097
Doanh nghiệp nhỏ 35.083 74.218 91.942 97.105
Doanh nghiệp vừa 2.399 4.440 5.880 6.304
Doanh nghiệp lớn 2.071 4.112 4.878 5.203
Doanh nghiệp FDI 3.697 7.248 11.046 11.942
Doanh nghiệp siêu nhỏ 396 1.416 2.834 3.049
Doanh nghiệp nhỏ 1.955 3.611 4.993 5.509
Doanh nghiệp vừa 639 937 974 378
Doanh nghiệp lớn 1.582 2.282 2.410 968
Nguồn: Sách trắng Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam 2017 [2]
(*) Thống kê dựa trên tiêu chí phân loại tại khoản 1 điều 3 Nghị định số
56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009
141
Có thể thấy rằng, trong một thập kỷ từ 2005 đến 2015, nền kinh tế Việt
Nam đã chứng kiến sự tăng nhanh về số lượng các DNVVN từ chỉ có 101.679
doanh nghiệp vào năm 2005 (chiếm 95% tổng số doanh nghiệp) đã tăng hơn
gấp bốn lần, đạt 433.674 doanh nghiệp, chiếm hơn 98% tổng số lượng doanh
nghiệp trong nền kinh tế vào năm 2015. Trong đó, doanh nghiệp ngoài nhà
nước chiếm nhiều nhất với 422.506 doanh nghiệp (chiếm 97,4% tổng số
DNVVN). Số doanh nghiệp siêu nhỏ (doanh nghiệp có dưới 10 lao động) chiếm
đa số với tổng số 322.236 doanh nghiệp (tương ứng với 74,3% tổng số
DNVVN).
Cũng theo Bộ Kế hoạch Đầu tư [2], các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực thương mại và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế với
68,34% vào năm 2014; theo sau là ngành công nghiệp và xây dựng chiếm
30,7% và ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng nhỏ nhất với chỉ
0,96% (giảm đáng kể nếu so với năm 2010 khi còn chiếm 3,05%). Điểm quan
trọng là số lượng doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ luôn chiếm hơn 90% tỷ trọng
doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực, ngành nghề trong nền kinh tế. Điều
đó thể hiện rằng, nền kinh tế càng phát triển, cơ chế chính sách thông thoáng
sẽ giúp tạo điều kiện cho mọi đối tượng có thể tham gia vào nền kinh tế, khai
thác được tối đa mọi nguồn lực đất nước ở tất cả các ngành nghề. Góp phần
thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập phát triển.
Về phân loại theo vùng kinh tế, số doanh nghiệp có cơ cấu vốn lớn (từ
50 tỷ đồng trở lên) có tỷ trọng lớn nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng (8,3%),
Trung du và miền núi phía Bắc (7,5%) và khu vực Đông Nam Bộ (7,2%). Khu
vực Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long có
tỷ trọng doanh nghiệp có cơ cấu vốn nhỏ (dưới 5 tỷ đồng) lớn nhất với lần lượt
là 65,2% và 65% [2]. Với lợi thế của các DNVVN là mô hình hoạt động nhỏ,
142
quy mô vốn đầu tư không lớn, tính linh động cao, nên vai trò của khối doanh
nghiệp này là đặc biệt quan trọng tại các khu vực vùng sâu, vùng xa, những
vùng ít phát triển và có hạ tầng chưa thuận lợi. Sự phát triển của DNVVN tại
các vùng này sẽ bù đắp cho sự thiếu hụt đầu tư, vốn gây ra tình trạng mất cân
bằng giữa các vùng miền, tạo sự ổn định kinh tế-xã hội, thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa thành thị và nông thôn, khi mà các doanh nghiệp lớn thường chỉ
tập trung tại các đô thị, thành phố phát triển mà ít triển khai hoạt động tại những
vùng nguồn lực còn hạn chế.
Xét theo tiêu chí quy mô về vốn, đa số DNVVN ở Việt Nam có quy mô
vốn nhỏ với 306.735 doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng 69,3% tổng số doanh nghiệp
trong nền kinh tế (năm 2015), 108.108 doanh nghiệp có quy mô vốn vừa, chiếm
24,4% tổng số doanh nghiệp và chỉ có 6,3% số doanh nghiệp có quy mô vốn
lớn. Khối doanh nghiệp ngoài nhà nước vẫn có tổng số lượng doanh nghiệp
chiếm tỷ trọng cao nhất tương ứng với 96,5% tổng số doanh nghiệp cả nước và
khối này cũng chứng kiến số lượng các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn
tăng lên mạnh mẽ trong suốt thời gian qua. Trong khi đó, số lượng các doanh
nghiệp nhà nước giảm đi khoảng 25%, cụ thể là số lượng các DNVVN trong
nhóm này giảm đi và có sự tăng nhẹ số lượng các doanh nghiệp có quy mô vốn
lớn từ 1.397 doanh nghiệp lên 1.770 doanh nghiệp [2].
Có thể thấy rằng, trong suốt thời gian từ những năm 2005 đến 2015,
thông qua các chính sách và chương trình hỗ trợ từ Chính phủ, khối DNVVN
đã chứng kiến một sự thay đổi lớn về số lượng các doanh nghiệp, quy mô doanh
nghiệp và đặc biệt vị trí của DNVVN trong nền kinh tế đã dần được khẳng định.
Theo thống kê, từ năm 2005 đến 2015, tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp bình
quân trong giai đoạn này khoảng trên 10%/năm. Tổng nguồn vốn của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế tăng trưởng bình quân đạt 24,3%/năm, lên mức 22
143
triệu tỷ đồng vào năm 2014. Tốc độ tăng doanh thu bình quân hàng năm cũng
đạt khoảng 22%/năm. Số lượng DNVVN ngày càng tăng và hoạt động sản xuất
kinh doanh ghi nhận nhiều kết quả tích cực. Theo đó, DNVVN đóng góp mức
trung bình hàng năm khoảng 40% GDP và 30% tổng giá trị xuất khẩu của nền
kinh tế. Con số này vào năm 2014 lần lượt là 43,2% và 31%. Tính trung bình
giai đoạn từ 2007 đến 2014, các DNVVN đóng góp khoảng một phần ba mức
thu ngân sách chung của cả nước (tương ứng khoảng 33%). Mức vốn đầu tư
dành riêng cho các DNVVN cũng chiếm khoảng 38% tổng nguồn vốn toàn xã
hội. Các DNVVN cũng sử dụng trên 5 triệu lao động trong nền kinh tế, chiếm
khoảng 45% tổng số việc làm trong khối các doanh nghiệp nói chung. Bên cạnh
việc tạo ra nhiều việc làm, thu nhập của các lao động trong khối DNVVN cũng
chứng kiến sự cải thiện tích cực, theo đó năm 2010 mức thu nhập trung bình
chỉ đạt 42 triệu đồng/năm thì năm 2015 con số này đã tăng lên ở mức khoảng
60 triệu đồng/năm (trung bình đạt khoảng 5 triệu đồng/tháng) [22].
Tính đến 01/01/2017, theo Tổng cục Thống kê, cả nước có 517,9 nghìn
doanh nghiệp, trong đó số DNVVN là 507.860 doanh nghiệp, tương ứng với
98,1%. Số doanh nghiệp này đã tăng thêm hơn 17% so với mức 433.674
DNVVN vào năm 2015. Trong tổng số các DNVVN có 8,5 nghìn doanh nghiệp
cỡ vừa, chiếm 1,6%, có 114,1 nghìn doanh nghiệp cỡ nhỏ, chiếm khoảng 22%
và số doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm áp đảo nhất với 385,3 nghìn doanh nghiệp,
tương ứng với 74,4% [35].
Đến hết 31/12/2018, thống kê cả nước đã có 714.755 doanh nghiệp, tăng
9,2% so với cùng thời điểm năm 2017. Theo đó trong ba năm gần nhất thì mỗi
năm cả nước có thêm hơn 100.000 doanh nghiệp mới được thành lập, cao nhất
từ trước tới nay (năm 2016 có 110.100 doanh nghiệp mới, năm 2017 có 126.859
doanh nghiệp mới và năm 2018 có 131.275 doanh nghiệp mới thành lập) [3].
144
Trong 714.755 doanh nghiệp thì số lượng doanh nghiệp tư nhân chiếm tới
96,66%. Số lượng các DNVVN trong khu vực kinh tế tư nhân chiếm khoảng
98% còn lại là doanh nghiệp quy mô lớn, sử dụng tới 51% số lượng lao động
trong tổng khối doanh nghiệp nói chung và tạo ra 43% GDP cho nền kinh tế.
Khối DNVVN cũng đóng góp khoảng 30% ngân sách nhà nước [30].
Tổng kết sự phát triển nhanh của các DNVVN trong nền kinh tế Việt
Nam trong suốt thời gian qua có được là nhờ những nhân tố thúc đẩy cụ thể.
Theo đó, sự gia tăng nhanh về số lượng các DNVVN tỷ lệ thuận với tốc độ phát
triển kinh tế Việt Nam và phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ trong giai đoạn này. Tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân qua các năm của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao ổn
định, đạt cao nhất ở mức 8,23% năm 2006 và 8,46% năm 2007, tuy sau đó do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên những năm 2008 và 2009
có sự sụt giảm nhẹ. Mặc dù vậy, mức tăng trưởng vẫn luôn duy trì ở mức trên
5%, thấp nhất đạt 5,32% vào năm 2009 và 5,03% vào năm 2012 do dư âm của
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Từ năm 2015 trở đi, tốc độ tăng trưởng
GDP đều đạt trên 6%, năm 2018 và 2019 đều đạt trên 7%. Động lực phát triển
kinh tế trong thời gian này đóng góp chủ đạo nhờ khu vực công nghiệp và xây
dựng tăng trưởng mạnh. Đây cũng một phần lý giải cho nguyên nhân số lượng
DNVVN tăng mạnh trong giai đoạn này, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, thương mại và dịch vụ với số lượng
doanh nghiệp chiếm hơn 99% tổng số doanh nghiệp cả nước [36].
145
9.00
8.46
8.00
8.23
6.81
6.78
6.68
7.00
7.02
5.42
7.08
5.89
6.00
6.31
5.98
6.21
5.00
5.32
5.03
4.00
3.00
2.00
1.00
0.00
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Tốc độ tăng trưởng GDP (tỷ lệ: %)
Hình 4.1: Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam qua các năm
Nguồn: Tổng hợp dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê [36]
Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã có một số chính sách hỗ trợ kịp
thời đối với các DNVVN. Trong bối cảnh Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ
hội phát triển, và đặc biệt nền kinh tế đang hội nhập với Thế giới ngày càng sâu
rộng, để phát huy hiệu quả mọi nguồn lực, trong đó khối DNVVN được xem là
một trong những ưu tiên cần được hỗ trợ kịp thời và tháo bỏ các rào cản để phát
triển, ngày 12/06/2017, tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã
chính thức thông qua Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là một cơ sở
pháp lý quan trọng, mở ra một chương mới trong việc hỗ trợ các DNVVN phát
triển. Luật Hỗ trợ DNVVN gồm 4 chương với 36 điều và chính thức có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/2018 [32].
Có thể thấy rằng, lần đầu tiên, các hoạt động hỗ trợ khối DNVVN được
quy định ở một văn bản pháp quy ở mức độ cao nhất. Đây cũng là tiền đề quan
trọng để giúp hiện thức hóa các chương trình, chính sách hỗ trợ cụ thể đến các
DNVVN trên phạm vi toàn quốc. Đến ngày 11/03/2018, Chính phủ tiếp tục ban
146
hành Nghị định số 39/2018/NĐ-CP quy định chi tiết hơn nữa một số điều của
Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa [9]. Quy định lần này được xem là có
nhiều sự cải thiện sát với tình hình thực tế so với Nghị định số 56/2009/NĐ-CP
được ban hành cách đó gần 10 năm. Ngoài ra, Nghị định đã cụ thể hóa các hỗ
trợ DNVVN chuyển đổi từ hộ kinh doanh (thông qua các hương dẫn về trình
tự, thủ tục, hồ sơ đăng ký), hỗ trợ DNVVN trong khởi nghiệp sáng tạo, tham
gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị khi sử dụng ngân sách nhà nước. Bên cạnh
đó, Nghị định cũng quy định cụ thể các nguyên tắc ưu tiên đối với đối tượng là
các DNVVN có sử dụng nhiều lao động nữ hoặc do phụ nữ làm chủ, các hoạt
động hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn viên, hỗ trợ
phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp bằng các chương trình đào tạo hoặc
hỗ trợ kinh phí đào tạo cho người lao động.
4.2. Sự tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đức
Có thể nói rằng, khi so sánh giữa Việt Nam và Đức, những điểm dễ nhận
thấy nhất là hai quốc gia này ở hai khu vực địa lý hoàn toàn khác nhau, có nhiều
sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, con người. Hai quốc gia cũng có thể chế
chính trị khác nhau, quy mô, sức mạnh và độ mở của nền kinh tế cũng khác
nhau. Theo đó, Cộng hòa Liên bang Đức là quốc gia có vị trí địa lý ở Trung
Âu, gồm có 16 bang với diện tích là 357.021 km² và quốc gia này theo chế độ
Cộng hòa nghị viện liên bang. Nền kinh tế Đức là nền kinh tế lớn thứ tư trên
thế giới và lớn nhất châu Âu với GDP đạt 3.947.620 USD năm 2018 và thu
nhập đầu người đạt 47.662 USD. Đây là một nước phát triển trên thế giới với
nền kinh tế thị trường xã hội có độ mở lớn, lực lượng lao động có trình độ cao,
mức độ sáng tạo cao và đặc biệt là tỷ lệ tham nhũng thấp. Còn Việt Nam là
nước có vị trí địa lý nằm tại Đông Nam Á, gồm có 63 đơn vị hành chính cấp
Tỉnh và tương đương, theo chế độ Xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản Việt
147
Nam lãnh đạo tuyệt đối. Việt Nam là một nước đang phát triển và đang trên đà
hội nhập nhanh với nền kinh tế toàn cầu. Theo đó, GDP Việt Nam năm 2018
đạt 245,215 triệu USD (đứng thứ 46 trên thế giới) và thu nhập bình quân đầu
người Việt Nam đạt 2.525 USD. So với Đức, nền kinh tế của Việt Nam nhỏ
hơn rất nhiều lần và lực lượng lao động có trình độ cao vẫn còn ở mức thấp
cũng như tình trạng quan liêu và vấn đề tham nhũng cũng là những rào cản của
Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế.
Bảng 4.3: Một số tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đức
Quốc gia Cộng hòa Xã hội Cộng hòa Liên bang
Tiêu chí Chủ nghĩa Việt Nam Đức
Vị trí địa lý Đông Nam Á Trung Âu
Diện tích 331.212 km² 357.021 km²
63 đơn vị hành chính cấp Phân cấp hành chính 16 bang Tỉnh và tương đương
Xã hội chủ nghĩa. Cộng hòa nghị viện liên Mô hình nhà nước Một đảng lãnh đạo bang
GDP (2018) 245,214 triệu USD 3.947,620 triệu USD
Dân số (2018) ~97 triệu người ~80,4 triệu người
Độ tuổi trung bình (2018) 32,5 tuổi 47,1 tuổi
Thu nhập đầu người (2018) 2.525 USD 47.662 USD
Số lượng doanh nghiệp 714.755 nghìn 3,81 triệu (2018)
Tỷ trọng DNVVN ~98% ~99,95%
Nguồn: tổng hợp theo số liệu của Ngân hàng Thế giới [167] [168]
Mặc dù vậy, bên cạnh những điểm khác biệt kể trên, giữa Việt Nam và
Đức vẫn tồn tại một số điểm tương đồng.
148
Thứ nhất, về mặt lịch sử, Việt Nam và Đức có sự giống nhau nhất định.
Từ năm 1986, với công cuộc “Đổi mới”, Việt nam chính thức thực hiện quá
trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Còn tại Đức, sự kiện Bức tường
Berlin sụp đổ và sự thống nhất nước Đức vào những năm 90 của Thế kỷ trước
đã làm cho nền kinh tế Đông Đức bắt đầu quá trình chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường. Sự phát triển kinh tế Đức nói chung và sự phát triển các DNVVN
ở vùng Đông Đức nói riêng sẽ có nhiều bài học mà Việt Nam có thể học tập.
Thứ hai, mô hình phát triển chủ yếu của Đức là mô hình nền kinh tế thị
trường xã hội, trong khi đó ở Việt nam là mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hai
mô hình này có những điểm khá tương đồng trong phát triển xã hội.
Thứ ba, nền kinh tế Đức là nền kinh tế năng động và hiệu quả, với độ mở
cửa lớn trong liên kết EU cũng như trong liên kết toàn cầu. Việt nam cũng là một
nước có độ mở cửa lớn, Việt nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh
tế toàn cầu và khu vực. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ với 230 nước trên thế
giới; trở thành thành viên chính thức của các thể chế đa phương trên mọi cấp độ,
như thể chế toàn cầu WTO, WB, WEF; liên khu vực như ASEM; khu vực như
ASEAN, APEC, ADB, AIIB… Đến nay ta đã thực hiện 11 FTA, và chuẩn bị ký
kết 6 FTA nữa. Trong đó có 2 FTA thế hệ mới là CPTPP (ký kết chính thức
tháng 12/2018) và EVFTA (ký kết chính thức cuối tháng 6/2019). Sự tương đồng
này có thể giúp Việt Nam học hỏi ở Đức trong việc mở rộng mạng lưới bạn hàng,
kích thích xuất khẩu của DNVVN trên phạm vi toàn cầu.
Thứ tư, Đức và Việt Nam đều có dân số đông, đạt lần lượt 80,4 triệu
người và 97 triệu người (năm 2018). Đây là một thuận lợi cho việc phát triển
thị trường trong nước của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Đức còn có một thị
trường khu vực với hơn 500 triệu người dân thuộc khu vực tự do Liên minh
châu Âu và Việt Nam cũng có một thị trường tiềm năng là khu vực các nước
149
ASEAN với hơn 600 triệu dân, hứa hẹn là một thị trường tiêu thụ mầu mỡ cho
các doanh nghiệp khai thác.
Thứ năm, giữa Đức và Việt nam có quan hệ hợp tác rất tốt đẹp từ trước
đến nay. Hai nước đã có quan hệ truyền thống phát triển từ những năm 1990.
Đến nay, quan hệ này đã phát triển ngày càng mạnh mẽ, Đức đã trở thành đối
tác kinh tế lớn nhất của Việt nam trong EU, trong EVFTA. Do vậy, Việt nam
có những cơ hội thuận lợi học tập tiếp thu một số kinh nghiệm trong phát triển
nền kinh tế Đức.
Có thể thấy rằng, đặc điểm về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội cũng
như những khác biệt nhất định về lịch sử, văn hóa là dễ nhận thấy nhất khi so
sánh giữa Việt Nam và Đức. Còn về sự tương đồng và khác biệt trong quá trình
phát triển DNVVN giữa hai quốc gia có thể nhận thấy ở Việt Nam, quá trình
này mới chỉ ở giai đoạn khởi đầu. Nghiên cứu về sự phát triển của DNVVN ở
Việt Nam trong những năm gần đây có thể thấy rằng, vai trò và tầm quan trọng
của các DNVVN trong nền kinh tế là không thể phủ nhận từ đóng góp vào tăng
trưởng GDP, đóng góp vào thu ngân sách nhà nước, đóng góp vào tỷ trọng xuất
khẩu cả nước cũng như giải quyết vấn đề về việc làm cho người lao động, giảm
tỷ lệ thất nghiệp, giữ vai trò ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt
là những khu vực vùng sâu, vùng xa mà các doanh nghiệp lớn bỏ ngỏ, giúp phát
huy các nguồn lực địa phương và góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Số lượng các DNVVN ngày càng tăng và vị trí của khối doanh nghiệp này
trong nền kinh tế đã và đang được nhìn nhận một cách toàn diện, được đánh giá
đúng tiềm năng và thế mạnh để qua đó xây dựng các chương trình, chính sách
hỗ trợ đúng và kịp thời. So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa hai quốc gia
trong sự phát triển DNVVN có thể giúp chỉ ra nhiều bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam. Cụ thể:
150
Số lượng và chất lượng của DNVVN:
Mặc dù có sự chênh lệch về số lượng các doanh nghiệp nói chung trong
nền kinh tế khi mà Việt Nam mới chỉ có 714.755 doanh nghiệp (tính đến
31/12/2018), so với 3,81 triệu doanh nghiệp trong nền kinh tế Đức, nhưng tỷ lệ
các DNVVN trong nền kinh tế của cả hai nước đều chiếm rất cao, lần lượt đạt
khoảng 98% và 99,95%. Mặc dù vậy, so với Đức thì sự phát triển của khối
DNVVN ở Việt Nam mới chỉ là sự khởi đầu. Các DNVVN ở Việt Nam được
nhận xét là tuy đông nhưng chưa mạnh. Bằng chứng là các doanh nghiệp này
đa phần hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, số doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực công nghiệp, sản xuất là chưa nhiều. Về doanh thu có tới
53% số DNVVN có doanh thu hàng năm dưới 5 tỷ đồng (năm 2014). Các
DNVVN nói chung do nguồn lực còn hạn chế nên gặp nhiều khó khăn trong
việc tìm kiếm nguồn khách hàng, tiếp cận các nguồn vốn vay cũng như mặt
bằng kinh doanh. Ngoài ra, khó khăn trong tuyển dụng lao động và ứng biến
trước những biến động về kinh tế, xã hội cũng là những thách thức mà các
DNVVN ở Việt Nam phải đối mặt. Trên thực tế, số lượng doanh nghiệp tư nhân
tuy tăng hàng năm nhưng quy mô bình quân của mỗi doanh nghiệp là không
lớn. Ngoài ra, so với các nước trong khu vực và trên thế giới, tỷ lệ doanh nghiệp
nói chung trên dân số trung bình còn thấp. Theo đó, Việt Nam mới đạt tỷ lệ 140
người dân/doanh nghiệp còn các nước trong khu vực ASEAN đạt trung bình là
80 đến 100 người dân/doanh nghiệp. Ở Liên minh châu Âu (EU), tỷ lệ này chỉ
là 10-12 người dân/doanh nghiệp [48].
Hệ thống pháp lý và cơ chế chính sách:
Tại Đức, Chính phủ là đầu mối tiên phong trong việc tạo ra một môi
trường kinh doanh minh bạch, công bằng, thông qua một hệ thống pháp lý hoàn
thiện với cơ chế chính sách tích cực, thông thoáng. Tất cả các đạo luật, chính
151
sách nhằm hỗ trợ các DNVVN đều được Chính phủ xây dựng dựa trên một tầm
nhìn dài hạn, nhất quán, gắn chặt với những định hướng, mục tiêu chung của
quốc gia, tránh ban hành các chính sách manh mún, tầm nhìn ngắn hạn, thừa
thãi. Bên cạnh đó, mặc dù là một quốc gia có sự minh bạch cao, nhưng Chính
phủ Đức không ngừng tiếp tục tìm kiếm và xóa bỏ tình trạng quan liêu trong
các cơ quan nhà nước, loại bỏ những quy tắc, điều kiện không cần thiết, các
gánh nặng về mặt thủ tục hành chính vốn kìm hãm sự phát triển của doanh
nghiệp. Tạo điều kiện cho các DNVVN tham gia vào thực hiện các hợp đồng
công. Có lộ trình xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử (e-Government),
tăng sự minh bạch và thuận tiện cho cả doanh nghiệp và Chính phủ.
Có thể nói rằng, để xây dựng được một khối DNVVN phát triển cần đảm
bảo rằng các doanh nghiệp đó được nuôi dưỡng trong một môi trường minh
bạch, công bằng, thông thoáng, thông qua những chương trình, chính sách hỗ
trợ tích cực từ Chính phủ. Mặc dù vậy tại Việt Nam, việc chưa hoàn thiện về
môi trường thể chế, chính sách pháp lý, tình trạng quan liêu, tham nhũng vặt
vẫn thường xuyên xảy ra đã tạo ra những rào cản vô hình, ngăn chặn sự phát
triển của các DNVVN trong nước. Ngày 16/5/2016, Thủ tướng Chính phủ đã
ký ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến
năm 2020. Theo đó, Chính phủ quyết liệt đổi mới môi trường kinh doanh cũng
như đặt ra những mục tiêu rất cụ thể: (1) phấn đấu đến 2020 cả nước có ít nhất
một triệu doanh nghiệp, (2) tăng cường sự đóng góp của doanh nghiệp nói
chung vào tăng trưởng kinh tế, (3) năng suất lao động tăng khoảng 5%, (4) giảm
chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp [10]. Tuy vậy, sự bất cập trong tình hình
thực tế vẫn còn tồn tại và đòi hỏi cần thời gian để các Nghị quyết trên triển khai
đạt kết quả.
152
Báo cáo PCI năm 2018 của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt
Nam (VCCI) cho thấy, mặc dù “tham nhũng lớn” có dấu hiệu giảm bớt nhưng
hiện tượng nhũng nhiễu và làm phát sinh các chi phí không cần thiết vẫn là vấn
đề nhức nhối. Theo đó, có 58,2% số doanh nghiệp cho rằng vẫn còn tồn tại tình
trạng tham nhũng vặt tại nhiều cơ quan nhà nước đặc biệt tại các địa phương
trong quá trình xử lý hồ sơ cho doanh nghiệp và 54,8% số doanh nghiệp vẫn
phải chi trả các chi phí không chính thức khác. Các cải cách về thủ tục hành
chính tuy có nhiều cải thiện nhưng vẫn cần phải tiếp tục giảm bớt các khâu thủ
tục giấy tờ không cần thiết, giảm gánh nặng cho doanh nghiệp. Trong năm 2018
có 30,7% doanh nghiệp phải dành hơn 10% quỹ thời gian để tìm hiểu và thực
hiện đúng và đủ các thủ tục giấy tờ theo quy định của Nhà nước [46]. Các thủ
tục đăng ký doanh nghiệp, gia nhập thị trường, đặc biệt là “hậu đăng ký doanh
nghiệp” vẫn là những rào cản lớn với doanh nghiệp. Theo đó, 15,8% doanh
nghiệp phải chờ hơn một tháng mới có đủ tất cả các giấy tờ cần thiết để doanh
nghiệp của mình đi vào hoạt động chính thức, và con số này có chiều hướng
tăng trong những năm trở lại đây. Có 34% doanh nghiệp gặp khó khăn trong
việc xin các giấy xác nhận đủ điều kiện kinh doanh các ngành nghề có điều
kiện, hay các thủ tục giấy tờ về chứng nhận phòng cháy chữa cháy và các giấy
tờ khác. Quá trình minh bạch thông tin vẫn chưa có nhiều cải thiện. Rất nhiều
doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn thông tin phục vụ
cho doanh nghiệp.
Khả năng tiếp cận nguồn tài chính của DNVVN:
Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các DNVVN tháo gỡ
khó khăn về mặt tiếp cận các nguồn tài chính. Tại Đức, Ngân hàng Tái thiết
KfW đóng vai trò là đơn vị hỗ trợ tài chính truyền thống cho các DNVVN thông
qua quỹ “cho vay khởi nghiệp” được thiết kế dành riêng cho khối này. Bên
153
cạnh đó, Chính phủ Đức cũng ban hành Đạo luật thúc đẩy đầu tư mạo hiểm
khiến cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm ở Đức trở nên hấp dẫn hơn. Việc xây dựng
các chính sách nhằm tháo gỡ rào cản tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp nhỏ mới thành lập ở Đức được đặc biệt quang tâm vì nó giúp các
doanh nghiệp có nhiều nguồn lực hơn để đảm bảo ổn định sản xuất, phục vụ
cho hoạt động đổi mới sáng tạo và phát triển. Trong khi đó tại Việt Nam, khả
năng tiếp cận nguồn tài chính/tín dụng của các DNVVN vẫn là một rào cản lớn,
cản trở sự phát triển.
Theo báo cáo của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI),
tỷ lệ tiếp cận vốn ngân hàng của các DNVVN thấp hơn đáng kể so với doanh
nghiệp lớn. Trung bình 40% doanh nghiệp siêu nhỏ, 62% doanh nghiệp nhỏ và
74% doanh nghiệp quy mô vừa có khoản vay ngân hàng trong khi con số này
ở doanh nghiệp lớn là 81% [45]. Mặc dù vậy, nguyên tắc hoạt động của các
ngân hàng nói chung là phải đảm bảo tính an toàn của khoản vay thông qua các
hoạt động kiểm soát rủi ro ngặt nghèo. Trong khi đó, các DNVVN ở Việt Nam
phần lớn là các doanh nghiệp có kích cỡ nhỏ và siêu nhỏ (ít lao động và vốn
chủ sở hữu nhỏ), năng lực và kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh
chưa nhiều, nhiều doanh nghiệp có cung cách làm việc chưa chuyên nghiệp,
vẫn thể hiện tư duy manh mún, thiếu sự minh bạch và năng lực quản trị chưa
cao, vì vậy ít tạo được niềm tin đối với các tổ chức tín dụng. Các yêu cầu cho
vay đến từ các ngân hàng thương mại cũng đòi hỏi những điều kiện khắt khe
như doanh nghiệp vay phải có tài sản bảo đảm hay năng lực tài chính tốt và dự
án sản xuất kinh doanh cần vay vốn phải có tính khả thi, mà điều này ở các
DNVVN thường rất khó đáp ứng. Chưa kể các DNVVN thường có thời gian
thành lập và hoạt động ngắn, trong khi tiêu chí của các ngân hàng cho vay là
doanh nghiệp đó đã phải có thời gian hoạt động từ hai đến ba năm trở lên và
phải có lợi nhuận trong suốt những năm đó [27]. Phần lớn các DNVVN phải
154
phụ thuộc nhiều vào tài sản ngắn hạn, dựa vào vốn tích tụ sau lợi nhuận và vốn
vay người thân. Việc khó tiếp cận các nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng
khiến cho DNVVN không có đủ nguồn lực để duy trì các hoạt động sản xuất
kinh doanh, thiếu vốn để triển khai các dự án mới cũng như các hoạt động đổi
mới công nghệ, ứng dụng công nghệ cao. Để tháo gỡ vấn đề này, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/03/2018 về việc thành lập, tổ
chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN [11], Nghị định số
39/2019/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển
doanh nghiệp nhỏ chính thức có hiệu lực từ 01/07/2019 [12]. Tuy vậy, vẫn cần
chờ thêm thời gian để thống kê kết quả của việc triển khai các chính sách trên
vào thực tiễn.
Chất lượng nguồn nhân lực trong DNVVN:
Nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu tạo nên sự thành công của một doanh
nghiệp, đặc biệt là các DNVVN vốn ít nhân viên và hoạt động sản xuất thường
có tính chuyên môn hóa cao. Tại Đức, hệ thống đào nghề kép được xem là nền
tảng cung cấp nguồn nhân lực có tay nghề cho các doanh nghiệp, lý thuyết được
giảng dạy trong trường học và đào tạo thực tế diễn ra song song ở công ty.
Chính phủ Đức đặc biệt tập trung chú trọng đào tạo nghề và đây là yếu tố then
chốt giúp các DNVVN luôn duy trì được hoạt động sản xuất ổn định. Ở Đức,
đào tạo nghề trong các DNVVN chiếm tới 81,9% tổng lao động học nghề trong
nền kinh tế [109]. Còn tại Việt Nam, mặc dù nhận thức được tầm quan trọng
của chất lượng nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu
trong việc tạo nên thành công cho doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh mà “yếu
tố con người” đã được nhấn mạnh trong “Chiến lược Phát triển bền vững Việt
Nam giai đoạn 2011-2020” theo quyết định số 432/QĐ-Ttg của Thủ tướng
Chính phủ [49], nhưng các DNVVN với tính chất quy mô nhỏ, thiếu vốn, hoạt
155
động sản xuất còn manh mún, chưa bài bản nên việc đào tạo, nâng cao tay nghề
người lao động chưa thực sự được chú ý. Bên cạnh đó, chất lượng của người
lao động nói chung trong các doanh nghiệp còn thiếu và yếu, phần lớn chưa
đáp ứng được ngay nhu cầu của công việc khi được tuyển dụng. Theo đó, lao
động đã qua đào tạo ở các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động nhất là nông
nghiệp/lâm nghiệp/thủy sản và công nghiệp chế biến/chế tạo còn rất thấp, chỉ
đạt lần lượt 4,1% và 18,5%. Ở ngành xây dựng con số này cũng chỉ đạt 14%.
Các ngành nghề liên quan đến kỹ thuật-công nghệ hay cơ khí, điện tử, kỹ thuật
điện nguồn nhân lực qua đào tạo còn nhiều thiếu hụt [49]. Điều này khiến cho
các DNVVN ở Việt Nam nói chung có năng suất lao động và sức cạnh tranh
yếu hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn.
Mở rộng thị trường, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu:
Các DNVVN ở Đức không ngừng mở rộng thị trường, tiếp cận các đối
tác tiềm năng mới cả trong và ngoài nước. Các Mittelstand cũng là nhà thầu
phụ cho các doanh nghiệp lớn toàn cầu trong việc gia công, cung cấp các trang
thiết bị, dụng cụ phục vụ cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp lớn. Việc
luôn tìm kiếm và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu giúp cho các DNVVN
ở Đức luôn ổn định sản xuất và đóng góp mạnh mẽ cho quá trình phát triển nền
kinh tế Đức. Về mặt Chính phủ, Đức cũng xây dựng một sáng kiến “Hoạt động
tích cực trên toàn thế giới” nhằm hỗ trợ các DNVVN. Đây là sự kết hợp của
một chương trình mười điểm, với mục tiêu trọng tâm là chính sách tự do hóa
thị trường trong các cuộc đàm phán thương mại thế giới hiện nay. Mục đích
của chương trình này là giúp tăng cường mạng lưới các Phòng thương mại Đức
trên toàn thế giới, hỗ trợ về mặt chính trị chuyên sâu hơn cho các công ty Đức
ở nước ngoài, hỗ trợ tối đa cho các hội chợ thương mại tổ chức ở nước ngoài
đặc biệt cho đối tượng là các DNVVN.
156
Tại Việt Nam, việc giúp các DNVVN có thể tham gia sâu vào chuỗi cung
ứng sản xuất của các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất
toàn cầu được xem là cơ hội nhưng cũng sẽ là thách thức vô cùng lớn đối với
các doanh nghiệp Việt Nam khi phải nhanh chóng nâng tầm và đáp ứng được
không chỉ là chất lượng mà còn là giá cả của các sản phẩm theo yêu cầu của
các đối tác. So với các nước trong khu vực, hiện tại chỉ có khoảng 21% DNVVN
Việt Nam đã và đang tham gia vào trong chuỗi giá trị toàn cầu, trong khi con
số này tại một số nước trong khu vực ASEAN là 46% [21]. Đặc biệt là các
doanh nghiệp Việt Nam chỉ tham gia ở các khâu đơn giản như lắp ráp, đóng gói
sản phẩm, những khâu không có giá trị cao trong chuỗi giá trị và thiếu tính bền
vững. Có thể nói, dư địa của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tham gia
vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là đối với các DNVVN là rất lớn khi Việt
Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế quốc tế, là điểm đến
của nhiều tập đoàn toàn cầu, của các doanh nghiệp FDI.
Xây dựng nền tảng văn hóa doanh nghiệp, hỗ trợ đổi mới sáng tạo, hướng
tới cuộc CMCN 4.0:
Một trong những điểm đặc trưng trong việc phát triển các DNVVN ở
Đức là xã hội Đức có “văn hóa DNVVN riêng”. Các Mittelstand ở Đức chủ
yếu là các doanh nghiệp gia đình, đã tiếp nối qua nhiều thế hệ duy trì hoạt động
sản xuất và nền có văn hóa, bản sắc riêng. Đặc tính này giúp các Mittelstand có
thể giữ vững được những bí quyết kinh doanh riêng cũng như tinh thần, văn
hóa nền tảng được tiếp nối qua nhiều thế hệ của gia đình, giúp doanh nghiệp
giữ vững được phong độ ổn định và vị thế chắc chắn trên thị trường. Tình thần
kỷ luật cũng như tính trung thành của nhân viên rất cao. “Văn hóa DNVVN”
này được xem là đặc trưng được xây dựng trong suốt chiều dài lịch sử phát triển
DNVVN trong nền kinh tế Đức. Chính phủ Đức cũng coi đây như một giá trị
157
cốt lõi để xây dựng khối doanh nghiệp này ngày càng phát triển. Nhờ nội lực
mạnh mà các DNVVN ở Đức luôn tận dụng và nắm bắt thời cơ rất tốt, vươn
lên trở thành những nhà sản xuất hàng đầu thế giới. Có lẽ dù Chính phủ có triển
khai các gói hỗ trợ và kích thích DNVVN phát triển đến đâu mà nếu chính các
DNVVN không tận dụng được cơ hội đó để vươn lên nắm bắt thời cơ và bổ
sung những nguồn lực còn thiếu của mình để phát triển thì DNVVN ở Đức sẽ
không có được những thành tựu như thời gian vừa qua.
Trong khi đó tại Việt Nam, sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế
mới chỉ trong giai đoạn khởi đầu. Lực lượng DNVVN còn nhỏ, chưa tương
xứng với tiềm năng và vị thế của nền kinh tế. Các DNVVN hoạt động chưa
chuyên nghiệp, vẫn còn tư duy nhỏ, manh mún, thiếu kế hoạch dài hạn và sự
đầu tư bài bản cũng như kỹ năng lãnh đạo, quản lý của người đứng đầu chưa
thực sự chuyên nghiệp khiến cho Việt Nam chưa thể hình thành được một nền
tảng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân bài bản như Đức.
Trong hoạt động đổi mới sáng tạo, hướng tới cuộc CMCN 4.0, các
DNVVN ở Đức tuy còn tồn tại một số khó khăn những cũng đang là một trong
những quốc gia dẫn đầu. Khái niệm về Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã
được đề cập ở Đức từ năm 2012 và những năm gần đây, một loạt các sáng kiến,
chương trình hỗ trợ DNVVN được Chính phủ cấp vốn nhằm giúp khối doanh
nghiệp này triển khai hiệu quả quá trình đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và ứng
dụng các lĩnh vực công nghệ có tầm quan trọng chiến lược, phù hợp với xu thế
phát triển chung của cuộc Cách mạng công nghiêp 4.0, thông qua Chương trình
“Đổi mới sáng tạo trung ương dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ - ZIM” được
cấp ngân sách 548 triệu euro năm 2017 hay Chương trình “Đối mới DNVVN:
KMU-Innovativ”. Tại Đức, năm 2019, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp
158
trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông chiếm nhiều nhất, với 30,2%
tổng số doanh nghiệp mới của cả nước.
Tại Việt Nam, làn sóng khởi nghiệp cũng đang diễn ra mạnh mẽ. Đặc
biệt với mục tiêu hướng đến một triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2020
theo Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ, Việt Nam cần nhiều hỗ trợ hơn
nữa thông qua các chương trình, chính sách nhằm tạo ra một môi trường kinh
doanh pháp lý thống nhất, minh bạch và thực thi; môi trường chính sách thuận
lợi nhằm giảm các thủ tục hành chính, giảm tình trạng quan liêu trong cơ quan
nhà nước, giúp cải thiện niềm tin của người làm kinh doanh, tạo thuận lợi cho
việc gia nhập thị trường mới của các DNVVN. Theo đó, tỷ lệ người lo sợ thất
bại trong kinh doanh ở Việt Nam cũng tương đối cao (ở mức 46,6% năm 2017)
so với các quốc gia có cùng trình độ phát triển trong khu vực như Malaysia
(45%), cao hơn mức chung của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (40,4%).
Và tỷ lệ người từ bỏ kinh doanh ở Việt Nam năm 2017 được thống kê ở mức
18% (nghĩa là cứ 100 người tham gia vào khởi nghiệp thì sẽ có 18 người từ bỏ
kinh doanh). Theo đó, lý do lớn nhất khiến các hoạt động kinh doanh bị dừng
lại là gặp vấn đề về tài chính (chiếm 26,3%) [47].
Ngoài ra, vấn đề khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay hay
Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN chưa thể hiện hiệu quả cũng làm cản
trở quá trình đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp đang
hoạt động. Thực thế thấy rõ rằng, nếu doanh nghiệp không thích ứng nhanh và
tận dụng những nền tảng công nghệ hiện đại để đổi mới công nghệ và tối ưu
hóa sản xuất, đặc biệt là các DNVVN với sức cạnh tranh không đủ lớn trên thị
trường thì sẽ rất dễ bị tụt hậu lại phía sau và không thể tồn tại. Theo báo cáo
của VCCI năm 2015, các DNVVN ở Việt Nam vẫn đang sử dụng máy móc và
công nghệ lạc hậu từ hai đến ba thế hệ so với thế giới, trong đó 75% dây chuyền
159
công nghệ nhập từ nước ngoài thuộc thế hệ những năm 70 của thế kỷ XX. Chỉ
có khoảng 8% số DNVVN (chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)
là đạt trình độ công nghệ tiên tiến [44]. Bên cạnh đó, việc thúc đẩy tinh thần
kinh doanh và đào tạo nguồn nhân lực được xem là những hỗ trợ cần thiết trong
việc giúp các DNVVN bắt kịp làn sóng đổi mới sáng tạo, hướng tới hội nhập
với cuộc CMCN 4.0.
Có thể nói rằng so với Đức thì sự phát triển của khối DNVVN ở Việt
Nam mới chỉ là sự khởi đầu. Nguồn lực về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực của
các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Năng lực quản lý doanh nghiệp chưa thực
sự chuyên nghiệp, vẫn còn tồn tại tâm lý manh mún, phát triển doanh nghiệp
chưa theo chiến lược dài hạn và đặc biệt khối DNVVN nói chung chưa hình
thành được một nền tảng văn hóa doanh nghiệp đủ mạnh và có bản sắc. Bên
cạnh đó, môi trường pháp lý và môi trường chính sách mặc dù có những cải
thiện nhưng vẫn chưa thực sự thông thoáng, tồn tại nhiều bất cập, là rào cản
cho các doanh nghiệp tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ. Sự cạnh tranh trên thị
trường ngày một khốc liệt khi mà Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế quốc tế, các DNVVN ở Việt Nam sẽ không chỉ phải cạnh tranh với
những doanh nghiệp trong nước mà đối thủ cạnh tranh sẽ là những doanh
nghiệp toàn cầu, và cạnh tranh ngay tại chính thị trường Việt Nam. Vai trò của
các Hiệp hội trung gian, các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp, Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam tuy đã bước đầu phát huy được vai trò là người định
hướng, kết nối khối DNVVN với doanh nghiệp lớn, với thị trường nước ngoài,
tham gia vào chuỗi cung ứng, song vẫn cần nhiều hỗ trợ mang tính thực chất
hơn nữa. Những nhân tố cả chủ quan lẫn khách quan trên đang là những trở
ngại trong sự phát triển các DNVVN ở Việt Nam.
160
4.3. Một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam
Từ nghiên cứu về kinh nghiệm sự phát triển của các DNVVN trong nền
kinh tế Đức, đánh giá thực trạng sự phát triển của các DNVVN ở Việt Nam
những năm gần đây cũng như thực tiễn chỉ ra trong quá trình so sánh giữa hai
quốc gia, Luận án rút ra một số khuyến nghị cho Việt Nam trong việc đề xuất
và triển khai các chương trình, chính sách hỗ trợ cho khối DNVVN phát triển
trong thời gian tới.
Thứ nhất, cần thống nhất về mặt nhận thức, tăng cường công tác thông
tin truyền thông:
Việt Nam cần nhất quán xác định rõ vị trí và vai trò của các DNVVN
trong nền kinh tế. Kinh nghiệm từ Đức cho thấy, trải qua nhiều biến động trong
chiều dài phát triển thì Đức nói riêng và Liên minh châu Âu nói chung luôn
nhất quán với việc xác định DNVVN là xương sống của nền kinh tế, đóng vai
trò then chốt trong việc giữ ổn định nền kinh tế xã hội thông qua những đóng
góp của khối này, không có sự phân biệt giữa DNVVN với doanh nghiệp lớn
và nhận thức về tầm quan trọng của DNVVN ngày càng tăng lên. Việc nhận
định đúng đắn và xuyên suốt này giúp cho những chính sách hỗ trợ từ phía
chính phủ luôn chính xác và đến đúng đối tượng, đảm bảo tính kế thừa qua
nhiều giai đoạn phát triển.
Tại Việt Nam, nhận thức về vị trí và vai trò của DNVVN bước đầu đã có
sự thay đổi, như trong Nghị quyết 10-NQ/TW cũng đã nhấn mạnh việc phải đối
xử công bằng, không phân biệt khu vực kinh thế nhà nước hay tư nhân hay việc
ban hành những Luật hỗ trợ riêng cho đối tượng là DNVVN đã thể hiện sự thay
đổi tư duy lớn ở phía các cơ quan quản lý nhà nước. Mặc dù vậy, nhận thức này
cần phải được thừa nhận và phổ biến rộng rãi trong toàn xã hội, đến chính các
doanh nghiệp và người dân nói chung trong thời gian tới nếu không DNVVN
161
sẽ khó có thể được đặt trong ưu tiên phát triển quốc gia, đặc biệt khi nền kinh
tế vốn đã và đang bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi sự ổn định và phát triển của các
doanh nghiệp lớn. Việc xác định được một quan điểm, tư tưởng rõ ràng sẽ giúp
nguồn lực trong nền kinh tế được phân bổ đồng đều hơn, nền kinh tế sẽ phát
triển với sự ổn định và tính bền vững cao hơn.
Để làm được điều này, công tác truyền thông đóng vai trò vô cùng quan
trọng. Truyền thông ở đây không chỉ hiểu đơn giản là qua các phương tiện
thông tin đại chúng mà còn là các Hiệp hội DNVVN, các Trung tâm hỗ trợ
DNVVN thuộc các tỉnh thành hay chính các cơ quan nhà nước phải chủ động
thiết lập kênh truyền thông trực tiếp đến doanh nghiệp và người dân, thông báo
về những thay đổi, chính sách mới được cập nhật. Sẽ rất khó cho doanh nghiệp
và người dân có thể tận dụng được các cơ hội khi mà họ không nắm được thông
tin gì về những nỗ lực thay đổi của Chính phủ hay những cơ hội từ hội nhập
quốc tế mà cả bộ máy Chính phủ đã dày công đạt được suốt thời gian qua. Theo
khảo sát của VCCI năm 2019 cho thấy, có đến 63% doanh nghiệp dân doanh
không biết hoặc lần đầu nghe về cộng đồng kinh tế ASEAN hay đến 77% con
số khảo sát lần đầu biết về Hiệp định Thương mại tự do EVFTA [26] trong khi
đó chỉ một năm sau, Hiệp định EVFTA đã được ký kết và có hiệu lực.
Thứ hai, phải thúc đẩy tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp; xây dựng được
nền văn hóa doanh nhân, doanh nghiệp mạnh mẽ ở Việt Nam:
Với mục tiêu sớm đạt được một triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả
trong nền kinh tế, Việt Nam cần kiến tạo nên một xã hội khởi nghiệp, một xã
hội mà tinh thần kinh doanh được cổ vũ và hỗ trợ kịp thời thông qua các chính
sách ưu đãi, các cơ chế đặc thù cho các doanh nghiệp trẻ, doanh nghiệp mới
thành lập, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực đổi mới sáng
tạo, phù hợp với xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới. Kinh nghiệm
từ sự phát triển của Đức cho thấy quốc gia này có khối DNVVN phát triển vì ở
162
đó xã hội luôn cổ vũ cho tinh thần khởi nghiệp, nền tảng văn hóa doanh nhân,
doanh nghiệp được xây dựng một cách bền vững, có tính kế thừa qua nhiều thế
hệ. Đây là những giá trị vô hình của doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh mà
Việt Nam đang phải hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Văn hóa doanh
nghiệp Việt Nam tương tự cần phải được xây dựng dựa trên nền tảng truyền
thống tốt đẹp của dân tộc như lao động nhiệt huyết sáng tạo, trọng chữ tín, xây
dựng đoàn kết, tôn trọng luật pháp quốc tế. Người doanh nhân phải năng động,
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, ứng xử chuyên nghiệp và quan trọng nhất phải
có đạo đức và thượng tôn pháp luật.
Ngoài ra, để thúc đẩy tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp, Việt Nam phải
hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia, trong đó phát triển mô hình “Vườn
ươm khởi nghiệp” ngay từ trong các trường đại học giúp sinh viên tiếp cận
được văn hóa khởi nghiệp từ sớm. Bên cạnh đó, phải hoàn thiện hành lang pháp
lý cho các hoạt động đầu tư mạo hiểm vốn còn bỏ ngỏ tại Việt Nam. Đây được
xem là một kênh huy động nguồn lực từ xã hội hiệu quả, kết nối trực tiếp những
ý tưởng kinh doanh với các nhà đầu tư trên thị trường, đặc biệt phù hợp cho các
doanh nghiệp có mô hình hoạt động đổi mới sáng tạo hoặc có ý tưởng đột phá.
Thứ ba, xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi, xóa bỏ nạn quan liêu:
Đây là một nội dung rộng và Việt Nam đã nhận thức được vấn đề này từ
rất sớm. Để có được một khối DNVVN phát triển trong nền kinh tế thì trước
hết khối doanh nghiệp đó phải được nuôi dưỡng trong một môi trường có các
yếu tố hỗ trợ thuận lợi. Chính phủ phải là đầu mối tiên phong trong việc tạo ra
một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, thông qua một hệ thống
pháp lý hoàn thiện với cơ chế chính sách tích cực, thông thoáng.
Theo đó, cải cách thủ tục hành chính tiếp tục phải là mục tiêu quan trọng
thực hiện. Nghiên cứu áp dụng nguyên tắc “một vào, một ra: nếu một Bộ muốn
163
ban hành một quy tắc mới áp dụng đối với các doanh nghiệp thì trước hết phải
xóa bỏ đi một quy tắc cũ”. Bên cạnh đó, loại bỏ tối đa những tiêu cực phát sinh
trong quá trình xử lý hồ sơ, giấy tờ của doanh nghiệp thông qua việc tăng cường
thực thi pháp luật, kỷ luật đối với cán bộ, công chức khi để xảy ra vi phạm.
Kiên quyết thực hiện cơ chế một cửa, áp dụng tối đa công nghệ thông tin vào
quản lý và giải quyết các thủ tục hành chính, giảm thiểu tối đa tình trạng ”xin-
cho”, giảm đến mức thấp nhất các loại thuế phí cho doanh nghiệp. Bỏ thế độc
quyền của Nhà nước trong những lĩnh vực không thực sự cần thiết vì điều này
sẽ hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Tạo điều kiện thuận lợi cho
các DNVVN được tham gia vào các hợp đồng đầu tư công. Tiếp tục thực hiện
hiệu quả việc đánh giá Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Cần phê bình
kịp thời các đơn vị nằm trong danh sách 10 tỉnh, thành có chỉ số PCI thấp nhất
trong ba năm liên tiếp mà không có cải thiện.
Thứ tư, đổi mới chính sách tín dụng theo hướng tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho các DNVVN dễ dàng tiếp cận:
Về phía Nhà nước, cần tạo điều kiện tốt hơn cho hoạt động Quỹ bảo lãnh
tín dụng DNVVN ở các địa phương, vì đây được xem là chìa khóa giúp tháo
gỡ rào cản tiếp cận nguồn vốn vay cho các doanh nghiệp. Hiện sau gần 20 năm
triển khai, cả nước mới có 28 tỉnh, thành phố thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng
và 90% nguồn vốn (tương đương với 1.450,6 tỷ đồng) là vẫn do Nhà nước hỗ
trợ [1]. Đây là con số khiêm tốn so với hơn bảy trăm nghìn DNVVN đang hoạt
động trong nền kinh tế. Ngoài ra, cơ cấu cán bộ quản lý Quỹ vẫn chủ yếu là cán
bộ kiêm nhiệm thuộc Ủy ban Nhân dân Tỉnh, thuộc các Sở ngành như hiện nay
cũng cần nghiên cứu kỹ vì các hoạt động của Quỹ cần rất nhiều thời gian cũng
như tính chuyên môn hóa cao. Đề xuất Chính phủ nghiên cứu, cho phép bổ
sung thêm mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng do các Hiệp hội/tổ chức tư nhân
164
trong nước thành lập, vốn hoạt động do các thành viên tự đóng góp hoặc kêu
gọi tài trợ với mục tiêu phi lợi nhuận. Điều này sẽ giúp tăng thêm cơ hội tiếp
cận nguồn tín dụng cho doanh nghiệp cũng như huy động được tối đa các nguồn
lực trong xã hội. Mặc dù vậy, việc thực hiện phải đảm bảo sự minh bạch, khách
quan trên tinh thần xem xét cấp bảo lãnh tín dụng theo đúng quy định, mang lại
quyền lợi cho doanh nghiệp nhưng phải đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân
hàng. Bên cạnh đó, thường xuyên rà soát tính hiệu quả các khoản vay để kịp
thời tháo gỡ khó khăn trong quá trình thực hiện.
Đối với ngân hàng Nhà nước là đơn vị đóng vai trò điều tiết, hỗ trợ các
tổ chức tín dụng triển khai các chương trình hỗ trợ tín dụng theo đúng quy định,
cần ưu tiên những lĩnh vực sản xuất kinh doanh đóng vai trò là mũi nhọn phát
triển kinh tế-xã hội địa phương trong tùy từng thời kỳ. Đối với chính quyền địa
phương, cần đẩy nhanh quá trình cải cách thủ tục hành chính, đảm bảo linh
hoạt, hỗ trợ tối đa trong việc xử lý hồ sơ, giấy tờ cho doanh nghiệp, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng hoàn thiện hồ sơ thủ tục vay vốn.
Thứ năm, hỗ trợ tích cực các DNVVN trong đào tạo nguồn nhân lực:
Về phía Nhà nước, phải thực hiện đa dạng các chương trình hỗ trợ giúp
đào tạo nguồn nhân lực cho DNVVN thông qua tổ chức các khóa đào tạo (hỗ
trợ ngân sách tối thiểu 50%). Tuy nhiên, cần thường xuyên kiểm tra, rà soát và
đánh giá lại các chương trình triển khai để đo lường mức độ hiệu quả thực hiện
của dự án. Bên cạnh đó, tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa: Nhà nước
– Nhà trường – Nhà doanh nghiệp. Trong đó phải thúc đẩy gắn kết giữa cơ sở
dạy nghề với doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề sát với thực
tế. Cần chuyển mô hình dạy nghề từ hướng “cung” sang hướng “cầu” của thị
trường, đào tạo theo “đơn đặt hàng”, theo nhu cầu của doanh nghiệp. Từ kinh
nghiệm của Đức, cần áp dụng một cách linh hoạt “hệ thống đào tạo nghề kép”,
165
theo đó lý thuyết được giảng dạy trong trường học và đào tạo thực tế diễn ra
song song ở công ty, tăng cường thời gian thực tập, thực hành trong thực tế.
Về phía doanh nghiệp, chủ các doanh nghiệp cần phải tự nhận thức được
vai trò của người chủ trong việc phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp
mình. Xây dựng chính sách thu hút lao động có tay nghề cao song song với việc
thường xuyên rà soát, đánh giá nguồn nhân lực nội bộ để đào tạo, nâng cao tay
nghề lao động sẵn có. Bên cạnh đó, cần tích cực liên kết với các cơ sở đào tạo
nghề, xây dựng chương trình học, tham gia trực tiếp vào công tác giảng dạy để
giúp đào tạo được nguồn nhân lực phù hợp, đáp ứng được ngay nhu cầu làm
việc thực tế sau khi tốt nghiệp.
Thứ sáu, xây dựng chính sách hỗ trợ DNVVN xuất khẩu, tham gia sâu
vào chuỗi giá trị toàn cầu, phát huy tối đa vai trò các hiệp hội doanh nghiệp:
Các DNVVN Việt Nam có thể sẽ bỏ lỡ cơ hội vô cùng lớn trong việc
phát triển trở thành đối tác của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cũng như
tham gia sâu vào chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu. Việt Nam đang từng bước
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thông qua rất nhiều các Hiệp định
thương mại tự do song phương và đa phương. Thực tế chỉ ra rằng chúng ta
không thể phát triển nếu đứng ngoài cuộc chơi, không thể tồn tại nếu không tự
gắn mình với chuỗi giá trị toàn cầu và các DNVVN cũng không phải ngoại lệ.
Để giải quyết bài toán này, đối với các doanh nghiệp cần tự nâng tầm mình lên
ngang hàng với chuẩn mực chung của khu vực và thế giới. Đối với các hộ kinh
doanh cá thể cần tự cân nhắc để chuyển đổi sang mô hình hoạt động doanh
nghiệp, hướng tới sự chuyên nghiệp và minh bạch. Đây cũng là điều kiện tiên
quyết để các doanh nghiệp có thể hội nhập. Hiện cả nước có hơn 5,6 triệu hộ
kinh doanh cá thể, gấp nhiều lần số lượng doanh nghiệp trong nền kinh tế [29].
Nếu khuyến khích được các hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi thành công thì số
166
lượng doanh nghiệp hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế sẽ tăng lên rõ rệt.
Mặc dù vậy, con số chuyển đổi vẫn là rất khiêm tốn. Rào cản lớn nhất của các
hộ kinh doanh khi chuyển đổi chính là tâm lý lo ngại sự phức tạp về hồ sơ thủ
tục cũng như những vấn đề hành chính rườm rà phải thực hiện sau này với tư
cách là doanh nghiệp và bản thân các chủ hộ cũng chưa nhận thức được những
lợi ích mang lại [43]. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng phải tích cực đổi
mới sáng tạo, chịu khó tìm tòi và ứng dụng các công nghệ mới, mô hình tiến
tiến hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của các chuỗi giá trị toàn cầu. Ngoài ra Nhà nước cần thường xuyên tổ chức
các “Hội chợ thương mại” ở trong và ngoài nước nhằm kết nối các DNVVN
Việt Nam với các công ty đa quốc gia trong phát triển chuỗi cung ứng sản xuất,
đồng thời nâng cao vai trò các đơn vị trung gian như các Hiệp hội doanh nghiệp
nhằm kết nối DNVVN trong nước với các doanh nghiệp FDI đang sản xuất tại
Việt Nam. Hiệp hội doanh nghiệp phải đóng vai trò là trung tâm cung cấp thông
tin và định hướng cho doanh nghiệp phát triển đúng lộ trình.
Thứ bảy, về phía các doanh nghiệp, cần chủ động nâng cao nguồn lực
của mình về vốn, công nghệ, trình độ đào tạo, quản lý. Đặc biệt các DNVVN
cần tự đổi mới, áp dụng các mô hình hoạt động mới, tinh gọn bộ máy, nâng cao
năng lực quản trị doanh nghiệp hiệu quả, hướng tới sự minh bạch, chuyên
nghiệp, thường xuyên rà soát, đánh giá tình hình tài chính công ty (khả năng
sinh lời, khả năng thanh toán, hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh).
Doanh nghiệp cần nhanh chóng khắc phục những hạn chế trong quá trình hoạt
động, sử dụng mọi nguồn lực một cách hiệu quả. Đạt được những điều trên,
niềm tin của doanh nghiệp với ngân hàng sẽ được chứng minh và xây dựng.
Khi mọi hoạt động minh bạch, rõ ràng sẽ giúp quá trình thẩm định hồ sơ doanh
nghiệp được rút ngắn và việc ra quyết định cho vay vốn từ ngân hàng sẽ dễ
dàng hơn.
167
KẾT LUẬN
Trên cơ sở làm rõ những nội dung về khái niệm DNVVN, đưa đến một
định nghĩa chung mang tính thống nhất, song song với việc nghiên cứu những
lý thuyết về phát triển doanh nghiệp đã và đang được các quốc gia áp dụng
trong quá trình triển khai các chính sách, chương trình nhằm phát triển khối
doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng, luận án đã hình thành một trình
tự phân tích dựa vào việc làm rõ hơn những đặc điểm và nội dung về sự phát
triển DNVVN, cũng như những nhân tố tác động cả bên trong (nguồn lực doanh
nghiệp, năng lực quản lý doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp, chiến lược phát
triển doanh nghiệp) và bên ngoài (môi trường pháp lý, môi trường chính sách,
vai trò của các Hiệp hội, bối cảnh kinh tế toàn cầu), luận án đã phân tích thực
trạng sự phát triển của DNVVN qua từng mốc giai đoạn biến động của nền kinh
tế Đức, trước và sau những năm 2000. Qua những giai đoạn đó, vị trí và vai trò
của DNVVN ở Đức càng được khẳng định và nâng cao.
Trước những năm 2000, DNVVN ở Đức đóng vai trò quan trọng trong
việc giúp ổn định nền kinh tế - xã hội quốc gia hậu thống nhất, đặc biệt khôi
phục và phát triển nền kinh tế Đông Đức khi mà các doanh nghiệp lớn được
thành lập trong nền kinh tế kế hoạch trước đây bị giải thể hoặc bị tách ra và tư
nhân hóa. Phân tích sự phát triển của DNVVN ở Đức được luận án đặc biệt chú
trọng từ sau những năm 2000. Cụ thể, luận án phân tích sự phát triển qua ba
mốc giai đoạn của nền kinh tế Đức: từ đầu những năm 2000 (dưới thời Thủ
tướng Gerhard Schröder), khi mà nền kinh tế đứng trước cuộc khủng hoảng lao
động và hệ thống phúc lợi xã hội Đức gặp nhiều khó khăn; Giai đoạn khủng
hoảng kinh tế Thế giới 2008, nền kinh tế Đức nói riêng và kinh tế toàn cầu nói
chung chịu tác động mạnh mẽ và giai đoạn những năm gần đây khi cuộc Cách
168
mạng công nghiệp 4.0 đã và đang lan tỏa sâu rộng đến mọi mặt của nền kinh
tế, đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng chuyển đổi.
Sau mỗi cuộc khủng hoảng, vai trò và vị trí của các DNVVN ở Đức càng
được củng cố và khẳng định, được xem là xương sống, là bệ đỡ của nền kinh
tế, giúp nền kinh tế Đức tránh lụt sâu vào khủng hoảng, ổn định tình hình kinh
tế - xã hội và phát triển trở lại. Các DNVVN luôn chứng minh được vai trò của
mình trong việc tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế; Thúc
đẩy kinh tế tăng trưởng (đóng góp vào GDP, giá trị xuất nhập khẩu); Phát huy
các nguồn lực còn hạn chế trong nền kinh tế và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo
ra nền kinh tế linh hoạt, cạnh tranh hơn. DNVVN ở Đức qua các mốc giai đoạn
được luận án tổng hợp và đánh giá ưu điểm/ mặt hạn chế trong quá trình phát
triển, từ đó đúc rút ra được những đặc điểm chung, mang tính quy luật trong
quá trình phát triển DNVVN, làm bài học cho các quốc gia đi sau.
Tại Việt Nam, sự phát triển của DNVVN mới chỉ ở giai đoạn khởi đầu,
dấu mốc chính từ năm 1986 trở lại đây khi công cuộc “Đổi mới” diễn ra sau
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặc dù đạt được một số thành
tựu nhất định nhưng quá trình phát triển DNVVN trong nền kinh tế vẫn còn tồn
tại nhiều hạn chế. Xuất phát từ kinh nghiệm phát triển DNVVN tại Đức, luận
án đã tiến hành so sánh những tương đồng và khác biệt giữa hai quốc gia, từ
điều kiện kinh tế - xã hội đến thực trạng quá trình triển khai các chương trình,
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp của mỗi nước, cũng như phân tích so sánh nội
lực của khối DNVVN hai quốc gia. Từ những kinh nghiệm thành công, những
đặc điểm chung mang tính quy luật rút ra trong quá trình phát triển DNVVN ở
Đức cùng những đúc rút qua phân tích thực trạng phát triển DNVVN ở Việt
Nam, những tồn tại, vấn đề còn hạn chế, luận án đã rút ra những bài học kinh
169
nghiệm, gợi mở chính sách cho Việt Nam có thể áp dụng cho quá trình phát
triển DNVVN trong nền kinh tế.
Mặc dù vậy, trong quá trình nghiên cứu, luận án cũng gặp một số hạn
chế nhất định trong việc tiếp cận các nguồn tại liệu, đặc biệt là chưa có đủ điều
kiện để tiếp cận với các nhà hoạch định chính sách trong các cơ quan, tổ chức
tại Đức cũng như chưa có điều kiện để nghiên cứu một số trường hợp thành
công cụ thể là các Mittelstand – các DNVVN tại Đức trong quá trình điều hành
và phát triển doanh nghiệp để có những kết luận và bài học kinh nghiệm thực
tiễn hơn. Tuy vậy, những hạn chế trong luận án cũng là hướng mở ra cho những
nghiên cứu tiếp theo về chủ đề này của tác giả để có thể nhìn nhận rõ hơn về
sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế Đức dưới góc nhìn của nhà hoạch
định chính sách, người chủ doanh nghiệp và chính những người lao động trong
xã hội Đức.
170
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Tran Dinh Hung (2019) “Current situation and solutions for small
and medium-sized enterprises development in Vietnam”, European Studies
Review – 2019.
2. Trần Đình Hưng (2020) “Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức
những năm gần đây”. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu – số 05, 2020.
171
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu Tiếng Việt:
1. Minh Anh (2020), “Địa phương cần tăng nguồn lực cho quỹ bảo lãnh
tín dụng”, Thời báo tài chính Việt Nam [online] Xem tại:
http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2020-03-08/dia-
phuong-can-tang-nguon-luc-cho-quy-bao-lanh-tin-dung-83480.aspx [Truy cập
ngày 03 tháng 12 năm 2020].
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2017), Sách trắng doanh nghiệp nhỏ và vừa
Việt Nam 2017, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam
2019, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
4. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1998), Công
văn của Chính phủ số 681/CP-KTN ngày 20 tháng 06 năm 1998 về việc định
hướng chiến lược và chính sách phát triển các doah nghiệp vừa và nhỏ, [online]
Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/cong-van/Doanh-nghiep/Cong-van-681-
CP-KTN-dinh-huong-chien-luoc-va-chinh-sach-phat-trien-cac-doanh-nghiep-
vua-va-nho/41746/ noi-dung.aspx [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].
5. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2001), Nghị
định của Chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/doanh-nghiep/Nghi-dinh-90-2001-ND-
CP-tro-giup-phat-trien-doanh-nghiep-nho-va-vua-48600.aspx [Truy cập 15
tháng 05 năm 2019].
172
6. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị
định về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại:
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_
id=1&_page=1&mode=detail&document_id=88612 [Truy cập 15 tháng 05
năm 2019].
7. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị
định của Chính phủ số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 Về trợ giúp phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Doanh-nghiep/Nghi-dinh-56-2009-ND-CP-tro-giup-phat-trien-doanh-
nghiep-nho-vua-90635.aspx [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].
8. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị
định của Chính phủ số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/03/2018 Quy định chi tiết một
số điều luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Doanh-nghiep/Nghi-dinh-39-2018-ND-
CP-huong-dan-Luat-Ho-tro-doanh-nghiep-nho-va-vua-366561.aspx [Truy cập
15 tháng 05 năm 2019].
9. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị
định Quy định chi tiết một số điều của luật hỗ trợ doanh nhgiệp nhỏ và vừa.
[online] Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/doanh-nghiep/Nghi-
dinh-39-2018-ND-CP-huong-dan -Luat-Ho-tro-doanh-nghiep-nho-va-vua-
366561.aspx [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].
10. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị
quyết về Hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, [online] Xem tại:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/doanh-nghiep/Nghi-quyet-35-NQ-CP-ho-
tro-phat-trien-doanh-nghiep-2020-2016-311331.aspx [Truy cập 15 tháng 03
năm 2020].
173
11. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị
định về việc Thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/doanh-nghiep/Nghi-dinh-34-2018-ND-CP-to-chuc-hoat-dong-Quy-bao-
lanh-tin-dung-cho-doanh-nghiep-nho-va-vua-378399.aspx [Truy cập 15 tháng
03 năm 2020].
12. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị
định về Tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa,
[online] Xem tại: https://luatvietnam.vn/doanh-nghiep/nghi-dinh-39-2019-nd-
cp-ve-quy-phat-trien-doanh-nghiep-nho-va-vua-172694-d1.html [Truy cập 15
tháng 03 năm 2020].
13. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2001), Nghị
định của Chính phủ 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 Về trợ giúp phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Doanh-nghiep/Nghi-dinh-90-2001-ND-CP-tro-giup-phat-trien-doanh-
nghiep-nho-va-vua-48600.aspx [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].
14. Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương (2020), Giai đoạn 1986-
2006, [online] Xem tại: http://moit.gov.vn/web/guest/lanh-dao-bo, [Truy cập
15 tháng 05 năm 2019].
15. Công ty Tài chính Quốc tế IFC (2017), Doanh nghiệp do phụ nữ làm
chủ tại Việt Nam: Nhận thức và Tiềm năng, Ngân hàng Thế giới, Thủ đô
Washington.
16. Vũ Hùng Cường (2016), Kinh tế tư nhân - Một động lực cơ bản cho
phát triển, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
174
17. Nguyễn Như Đến (2007), “Những định hướng phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ của EU hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, 2007, số
02.
18. Đặng Minh Đức (2003), “Chính sách về doanh nghiệp vừa và nhỏ
giai đoạn 2001-2005 ở Liên minh châu Âu”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, 2003,
số 02.
19. Phạm Xuân Giang (2009), “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”. Tạp chí Công nghiệp, 2009.
20. Phạm Thái Hà (2018), “Chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, 2018,
số 675
21. Thy Hằng (2018), Doanh nghiệp Việt trong chuỗi giá trị toàn cầu,
Tạp chí Diễn đàn doanh nghiệp, [online] Xem tại: https://enternews.vn/doanh-
nghiep-viet-trong-chuoi-gia-tri-toan-cau-136028.html, [Truy cập 15 tháng 05
năm 2019].
22. Hội đồng Lý luận Trung ương (2017), Phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa: Kinh nghiệm Việt Nam và Đức, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự
thật, Hà Nội: 2017.
23. Nguyễn Đình Hương (2002), Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
24. Trần Thị Thu Huyền (2016), “Các hình thức trợ cấp Nhà nước đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Liên minh châu Âu”, Tạp chí Nghiên cứu châu
Âu, 2016, số 10
175
25. Lương Văn Khôi (2003), “Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa: khái
niệm, đặc điểm, hạn chế và lựa chọn chính sách”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo,
số 03/2003
26. Vũ Tiến Lộc (2019). Hơn 70% doanh nghiệp dân doanh Việt Nam
“mù thông tin” về CPTPP và EVFTA, [online] Xem tại:
https://dantri.com.vn/kinh-doanh/chu-tich-vcci-hon-70-doanh-nghiep-viet-
lan-dau-nghe-den-evfta-20190626092529415.htm [Truy cập 15 tháng 12 năm
2020].
27. Trần Thị Lương (2019), Nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng ngân
hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tạp chí Tài chính, [online] Xem tại:
http://tapchitaichinh.vn/ngan-hang/nang-cao-kha-nang-tiep-can-tin-dung-
ngan-hang-cua-doanh-nghiep-nho-va-vua-306222.html, [Truy cập 15 tháng 05
năm 2019].
28. Nguyễn Đức Minh (2016), Khuôn khổ pháp lý của Liên minh châu
Âu về trợ cấp nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa và gợi mở chính sách
cho Việt Nam , Đề tài cấp Bộ, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
29. Hàn Ni (2019), Thất thu thuế khoán. Bài 1: Hộ kinh doanh: đông
nhất, nộp thuế ít nhất, Sài Gòn Giải phóng online, TP. Hồ Chí Minh.
30. Nguyễn Minh Phong và Nguyễn Trần Minh Trí (2019), Tạo động lực
thể chế cho phát triển cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tạp chí Ngân hàng,
Số đặc biệt, 2019.
31. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1999), Luật
doanh nghiệp số 13/1999/QH10 ngày 12 tháng 06 năm 1999, [online] Xem tại:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/doanh-nghiep/Luat-Doanh-nghiep-1999-
13-1999-QH10-45375.aspx [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].
176
32. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật
hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/doanh-nghiep/Luat-Ho-tro-doanh-nghiep-
nho-va-vua-2017-320905.aspx [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].
33. Nguyễn Thúy Quỳnh (2018), “Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa
với tăng trưởng kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị
Thế giới, 2019.
34. Tổng Cục Thống Kê (2017), Kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2017.
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
35. Tổng cục Thống kê (2018), Thông cáo báo chí Kết quả chính thức
Tổng điều tra Kinh tế năm 2017, [online] Xem
tại:https://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=382&idmid =&ItemID
=18945, [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].
36. Tổng cục thống kê (n.d), Thông cáo báo chí tình hình kinh tế xã hội,
[online] Xem tại: http://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=512, [Truy cập
15 tháng 05 năm 2019].
37. Tô Thị Thùy Trang (n.d), Một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa phát triển trong nền kinh tế hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Phát triển,
[online] Xem tại:
http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn/c/document_library/get_file?
uuid=40c42031-316e-4dc9-aa8f-21feb30b8843&groupId=13025 [Truy cập 15
tháng 05 năm 2019].
38. Hoàng Xuân Trung (2016), “Trợ cấp Nhà nước đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở Pháp, Đức và gợi mở kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên
cứu châu Âu, 2016, số 08.
177
39. Đinh Mạnh Tuấn (2013), “Chính sách của EU đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ nhằm ứng phó khủng hoảng và suy thoái”, Tạp chí Nghiên cứu châu
Âu, 2013, số 10.
40. Đinh Mạnh Tuấn (2014), Chính sách của EU đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ từ năm 2000 đến nay, Tiến sĩ kinh tế, Học viện Khoa học
Xã hội.
41. Đinh Mạnh Tuấn (2018), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: cơ hội,
thách thức đối với khởi sự doanh nghiệp và doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Liên
minh Châu Âu, Hội thảo Khoa học Quốc Gia: Khởi nghiệp và đổi mới trong
kinh doanh, Hà Nội.
42. Trần Quang Tuyến và Vũ Văn Hưởng (2018), Tác động hỗ trợ chính
phủ đến hoạt động cải tiến của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Tạp
chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, 34(4).
43. Tố Uyên (2019), Nan giải việc chuyển hộ kinh doanh lên doanh
nghiệp, Thời báo Tài chính Việt Nam, Hà Nội.
44. VCCI (2015). Doanh nghiệp nhỏ đổi mới công nghệ: Khó đủ đường,
Bộ Kế hoạch Đầu tư, [online] Xem tại: https://baodauthau.vn/doanh-
nghiep/doanh-nghiep-nho-doi-moi-cong-nghe-kho-du-duong-85758.html,
[Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].
45. VCCI (2016), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam
2015, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hà Nội, 2016.
46. VCCI (2018), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của việt Nam
2018, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hà Nội, 2018.
178
47. VCCI (2019), Báo cáo Chỉ số khởi nghiệp Việt Nam 2017/2018, Nhà
xuất bản Thanh Niên, Hà Nội.
48. VCCI (2019), VBF 2019: Cộng đồng doanh nghiệp là động lực cho
tăng trưởng, [online] Xem tại:http://www.trungtamwto.vn/hiep-dinh-
khac/13446-vbf-2019-cong-dong-doanh-nghiep-la-dong-luc-cho-tang-truong,
[Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].
49. Viện Năng suất Việt Nam (2018), Báo cáo Năng suất Việt Nam 2017,
Viện Năng suất Việt Nam, Hà Nội. [online] Xem tại: http://vnpi.vn/bao-cao-
nang-suat-viet-nam-2017.htm. [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].
II. Tài liệu Tiếng Anh:
50. 3i European Enterprise Center (1994), Report 12: Winners and
Losers in the 1990s.
51. Adizes, I. (1989), Corporate lifecycles: How and why corporations
grow and die and what to do about it, Prentice Hall, Englewood Cliffs, NJ.
52. Alan Earls (2015), From Germany to the World: Industry 4.0.
Available at: https://www.smartindustry.com/blog/smart-industry-
connect/from-germany-to-the-world-industry-4-0/, [Accessed 10 Feb. 2020].
53. Albert Over, Jurgen Henkel (2013), SME Promotion and
Development in Germany: The Role of Business Membership Organizations,
[online] New Delhi: Sequa gGmbH. Available at:
https://www.giz.de/de/downloads/giz2013-en-sme-promotion-and-
development-germany.pdf [Accessed 17 Jun. 2019].
179
54. Ambrosini V, Bowman C (2009), “What are dynamic capabilities
and are they a useful construct in strategic management?”, Int. J. Manage.
Rev., 11(1): 29-49.
55. Arne Leifels (2020), Digital skills shortage is hampering German
SMEs’ digital transformation – is upskilling the answer? KfW Group,
Frankfurt.
56. Avasilicai, S. (2009), Entrepreneurship: applied research, Cluj-
Napoca: Tedosco.
57. Aylin, A,Garango, P., Cocca,P. &Bititchi, U. (2013), The
development of SME managerial practice for effective performance
management, Journal of small business and enterprise development, Vol. 20
(1). PP. 2854.
58. Barney J, Wright M & Ketchen DJ (2001), The resource-based view
of the firm: ten years after 1991, Journal of Management 27:625-41.
59. Barney, J. (1991), Firm resources and sustained competitive
advantage, Journal of Management, 17 (1): pp 99120.
60. BMWi (2019). Financing start-ups and growth: Overview of funding
instruments [online] Available at:
https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Downloads/financing-start-ups-and-
growth-overview-of-funding-instruments.pdf?__blob=publicationFile&v=9,
[Accessed 10 Feb. 2020].
61. BMWi (2019), Making our everyday life easier and reducing the
burden on business, [online] Available at: https://www.bmwi.de/Redaktion/
EN/Dossier/cutting-bureaucracy.html, [Accessed 10 Feb. 2020].
180
62. BMWi (2019), The German Mittelstand as a model for success,
[online] Available at: https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Dossier/sme-
policy.html, [Accessed 10 Feb. 2020].
63. BMWi (2019), The German SME strategy, Available at:
https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Publikationen/Mittelstand/german-sme-
strategy.pdf?__blob=publicationFile&v=3, [Accessed 10 Feb. 2020].
64. Bolton (1971), cited in the publication of Stokes, D., Wilson, N.
(2010), Entrepreneurship and Small Business Management (6th ed.).Andover:
Cengage Learning EMEA.
65. Breznik, Lidija & Hisrich, Robert (2014), Dynamic capabilities vs
innovation capability: Are they related?. Journal of Small Business and
Enterprise Development, 21. 368-384.
66. Briozzo, A. & Cardone-Riportella, C. (2012), Evaluating the Impact
of Public Programs of Financial Aid to SMEs during times of crisis: The
Spanish Experience (No. 12.04).
67. Buculescu, M. (2013), Harmonization process in defining small and
medium-sized enterprises. Argument for a quantitative definition versus a
qualitative one. Theoretical and Applied Economics. The Bucharest University
of Economic Studies. Vol. XX, № 9, 103–114.
68. Buholzer, René P. (1998), Legislatives Lobbying in der
Europäischen Union, Ein Konzept für Interessengruppen. Bern/Stuttgart/Wien:
Paul Haupt.
69. Burns, P. and Myers, A. (1994), Growth In The 1990’s: Winners And
Losers - 3i/Cranfield European Enterprise Centre, Report No.12, May,
Cranfield
181
70. Chowdhury, S. R. (2011), Impact of global crisis on small and
medium enterprises, Global Business Review, 12(3), 377-399.
71. Christian Schroder (2016), The Challenges of Industry 4.0 for Small
and Medium-sized Enterprises. Friedrich-Ebert-Stiftung [online] Available at:
https://www.researchgate.net/publication/305789672_The_Challenges_of_Ind
ustry_40_for_Small_and_Medium-sized_Enterprises [Accessed 15 Feb.
2020].
72. Chusho Meti (2013), Japan’s Policy on Small and Medium
Enterprises (SMEs) and Micro Enterprises [online] Available at:
http://www.chusho.meti.go.jp/sme _english /outline/ 04/ 2013100 7. pdf
[Accessed 15 Feb. 2020].
73. Cibela NEAGU (2016), The importance and role of small and
medium-sized businesses. Theoretical and Applied Economics, [online]
XXIII(No. 3(608). Available at: http://store.ectap.ro/articole/1217.pdf
[Accessed 15 Feb. 2020].
74. Cohen. (1995), Innovation, Firm size and Market Structure (pp. 42),
London School of Economics.
75. Cooper, A. C. (1979), Strategic management: New ventures and
small business. In D. E. Schendel & C. W. Hofer (eds) Strategic management:
A new view of business policy and planning, Little, Brown & Co, Canada.
76. Darroch, Mark & Clover, T.A. (2005), The effects of entrepreneurial
quality on the success of small, medium and micro agri-businesses in KwaZulu-
Natal, South Africa, Agrekon.
77. Decker, M., Schiefer, G., Bulander, R.(2006), Specific Challenges
for small and medium-Sized Enterprises (SMEs) in m-business, in: Filipe, J.,
182
Greene, T.(Publisher): Proceedings of the International Conference on e-
business, Setubal: INSTICC Press.169-174.
78. Delmar, F, & Wiklund,J. (2008), The effect of small business
managers' growth motivation on firm growth: A longitudinal study.
Entrepreneurship Theory and Practice, 32 (3), 437-457.
79. Druker, P.F., 2009. Innovation and Entrepreneurship, New York:
Harper Collins.
80. Duberley, J. and P. Walley (1995), 'Assessing the adoption of HRM
by small and medium sized manufacturing organizations', International
Journal of Human Resource Management, 6, 891-909.
81. Eisenhardt KM, Martin JA (2000), Dynamic capabilities: what are
they?, Strat. Manage. J., 21(10/11): 1105- 1121
82. EUR-Lex (2016), A small business act for European SMEs, [online]
Available at: https://eur-lex.europa.eu/legal-
content/EN/TXT/?uri=CELEX:52008DC0394. [Accessed 10 Feb. 2020].
83. European Commission (2010). Short time working arragements as
response to cyclical fluctuations, Brussels.
84. European Commission (2011), Europe 2020 – Overview, Brussels,
[online] Available at: https://ec.europa.eu/eurostat/web/europe-2020-
indicators, [Accessed 10 Feb. 2020].
85. European Commission (2015), User guide to the SME Definition,
Publications Office of the European Union, Luxembourg.
86. European Commission (2016), SBA Fact Sheet: Germany
(2010/2011), [online] Available
183
at:http://ec.europa.eu/DocsRoom/documents/15770/
attachments/15/translations/en/renditions/pdf. [Accessed 10 Feb. 2020].
87. European Commission (2017), Europe 2020 Targets, [online]
Available
at:https://ec.europa.eu/eurostat/documents/4411192/4411431/Europe_2020_T
argets.pdf. [Accessed 10 Feb. 2020].
88. European Commission (2020), Small and Medium-sized enterprises
(SMEs), [online] Brussels: Eurostat. Available at:
https://ec.europa.eu/eurostat/web/structural-business-statistics/structural-
business-statistics/sme [Accessed 10 Feb. 2020].
89. European Commission(2003).Commission Recommendation of 6
May 2003 concerning the definition of micro, small and medium-sized
Enterprises. Official Journal of the European Union.
90. European Commission. (2019), Entrepreneurship and Small and
medium-sized enterprises (SMEs) - Internal Market, Industry,
Entrepreneurship and SMEs - European Commission, [online] Available at:
https://ec.europa.eu/growth/smes_en [Accessed 11 Apr. 2019]
91. European Parliament (2003), The German economy. European
Parliament, Luxembourg: 2003.
92. Eurostat. (2011), Key figures on European business with a special
feature on SMEs, Luxembourg: Publications Office of the European Union.
93. Federal Ministry for Economic Affairs and Energy – BMWi (2015),
Central Innovation Programme for SMEs, BMWi, Berlin.
184
94. Federal Ministry for Economic Affairs and Energy – BMWi (2019),
Central Innovation Programme for SMEs (ZIM), Available at:
https://www.zim.de/ZIM/Redaktion/DE/Publikationen/Publikationen/informa
tionsbroschuere-zim englisch.pdf?__blob= publicationFile&v=11, [Accessed
10 Feb. 2020].
95. Federal Ministry for Economic Affairs and Energy – BMWi (2019),
KMU-innovativ, [online] Available at: https://www.bmbf.de/de/kmu-
innovativ-561.html. [Accessed 10 Feb. 2020].
96. Federal Ministry for Economic Affairs and Energy (2017), Future of
the German Mittelstand: Action Programme, Berlin, [online] Available at:
https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Publikationen/aktionsprogramm-
zukunft-mittelstand.pdf?__blob=publicationFile&v=7 [Accessed 17 Jun.
2019]
97. Federal Ministry for Economic Affairs and Energy (2017). “SMEs
are driving economic success Facts and figures about German SMEs”. [online]
Available at: https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Publikationen/Mittelstand/
driving-economic-success-sme.pdf?__blob=publicationFile&v=4 [Accessed
17 Jun. 2019].
98. Federal Ministry of Economic Affairs and Energy (2019), The
German SME strategy, Berlin, [online] Available
at:https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Publikationen/ Mittelstand/ german-
sme-strategy.pdf?blob=publicationFile&v=3. [Accessed 10 Feb. 2020].
99. Federal Ministry of Economics and Technology (2011), Building on
SMEs: Greater Responsibility – Greater Freedom, Berlin.
185
100. Federal Ministry of Economics and Technology (2012), German
Mittelstand: Engine of the German economy: Facts and figures about small
and medium-sized German firms, Berlin.
101. Federal Ministry of Economics and Technology (2013), The
German Mittelstand: Facts and figures about German SMEs: Current
Economic Climate, Berlin. Available
at:https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Publikationen /wirtschaftsmotor-
mittelstand-zahlen-und-fakten-zu-den-deutschen-kmu.pdf?
blob=publicationFile&v=4, [Accessed 10 Feb. 2020].
102. Federal Ministry of Economics and Technology (n.d.), German
Mittelstand: Engine of the German economy, Berlin: Federal Ministry of
Economics and Technology (BMWi), Public Relations Division.
103. Flamholtz, E. G. 1986, Managing the transition from an
entrepreneurship to a professionally managed firm, Jossey-Bass, San
Francisco.
104. Franch Parella, J. and Carmona Hernández, G., (2018), The German
Business Model: The Role of the Mittelstand. Journal of Management Policies
and Practices, [online] 6(1). Available at:
https://www.researchgate.net/publication/327322119_The_German_Business
_Model_the_role_of_the_Mittelstand [Accessed 28 March 2020].
105. GIZ (2012), The German Mittelstand – an Overview, [online]
Available
at:http://www.dcmsme.gov.in/Policies/International%20Policies/The%20Ger
man%20Mittelstand_An%20Overview.pdf [Accessed 17 Jun. 2019]
186
106. Grant, R.M. (1991), The resource based theory of competitive
advantage: Implications for strategy formulation, California Management
Review 33 (3): pp 114.
107. Gruenwald, R. (2014), Alternative Approaches in Evaluating the
EU SME Policy: Answers to the Question of Impact and Legitimization,
Entrepreneurial Business and Economics Review, [online] Available at:
https://eber.uek.krakow.pl/index.php/eber/article/view/45 [Accessed 17 Jun.
2019]
108. Guffey, Mary Ellen (2008), Business Communication: Process &
Product 6th Edition.
109. Günterberg, B.; Kayser, G. (2004) SMEs in Germany - Facts and
Figures 2004, in: Institut für Mittelstandsforschung Bonn (Hrsg.): IfM-
Materialien Nr. 161, Bonn.
110. Hansjörg Herr và Zeynep M. Nettekoven (2017), The role of small
and medium-sized enterprises in development: What can be learned from the
German experience? Berlin: Friedrich-Ebert-Stiftung, Department for Asia and
the Pacific. Available at: https://www.giz.de/de/downloads/giz2013-en-sme-
promotion-and-development-germany.pdf [Accessed 17 Jun. 2019]
111. Harvie, C. and Lee, B.C. (2005), ‘Introduction: the Role of Small
and Medium-sized Enterprises in Achieving and Sustaining Growth and
Performance (with B.C. Lee)’, in C.Harvie and B.C. Lee (eds.), Sustaining
Growth and Performance in East Asia: the Role of Small and Medium Sized
Enterprises, Studies of Small and Medium sized Enterprises in East Asia,
Volume III, Chapter 1, pp. 3-27, Cheltenham, UK.
187
112. Hauser, Hans-Eduard (1998), SME in Germany, Facts and Figures
1998, Bonn: Institut für Mittelstandsforschung (IFM).
113. Hong, P. and Jeong, J. (2006), "Supply chain management practices
of SMEs: from a business growth perspective", Journal of Enterprise
Information Management, Vol. 19 No. 3, pp. 292-302.
114. IfM – Institut für Mittelstandsforschung (2016b), The definition of
the Mittelstand by IfM, Bonn, [online] Available at: https://www.ifm-
bonn.org/definitionen/kmu-definition-des-ifm-bonn/, [Accessed 11 Apr.
2019].
115. ILO (2019), Small Matters: Global evidence on the contribution to
employment by the self-employed, micro-enterprises and SMEs, Geneva:
International Labour Office.
116. International Institute for Labour Studies (2011), Germany: A Job-
centred approach, Studies on growth with equity, Geneva, ILO.
117. Jean-Marie Avezou (2015), Thinking small: EU SME Policy,
EURObiz-Journal of the European Union Chamber of Commerce in China
[online] Available at: https://www.eurobiz.com.cn/thinking-small-eu-sme-
policy/ [Accessed 11 Apr. 2019]
118. JICA (2004). Approaches for Systematic Planning of Development
Projects. JICA, Tokyo.
119. Johanna Hopp (2019), The Hartz employment reforms in Germany,
Centre for Public Impact: A BCG Foundation, [online] Available at:
https://www.centreforpublicimpact.org/ case-study/hartz-employment-
reforms-germany/. [Accessed 10 Feb. 2020].
188
120. Jones O. and Tilley (2003), Competitive Advantage in SMEs:
organizing for innovation and change, Willey.
121. KfW (2011), Mittelstands panel, [online] Available at:
https://www.kfw.de/Download-Center/Konzernthemen/Research/Research-
englisch/ PDF-Dateien-Mittelstandspanel/Mittelstandspanel-2011-Englisch-
KF.pdf, [Accessed 10 Feb. 2020].
122. KfW (2013), KfW Economic Research: Focus on economics, KfW
Group, Frankfurt.
123. KfW (2019), 227,000 SMEs want to transfer owership by the end
of 2020, [online] Available at: https://www.kfw.de/KfW-
Group/Newsroom/Latest-News/ Pressemitteilungen-Details 505088.html,
[Accessed 10 Feb. 2020].
124. KfW (2019), KfW SME Panel 2019: After a record year, dark
clouds are gathering – SMEs between all-time highs and recession fears, KfW
Group, Frankfurt.
125. KfW (2020), KfW Start-up Report 2019: Number of start-ups in
Germany continues to grow, KfW Group, Frankfurt.
126. Kossyva, D., K. Sarri, and N. Georgopoulos. 2014. Coopetition: A
business strategy for SME in times of economic crisis. South-Eastern Europe
Journal of Economics 1: 89–106.
127. Kotter, J. P., and J. L. Heskett (1992), Corporate Culture and
Performance. New York: Free Press, 1992.
128. Kushnir, Khrystyna, Melina Laura Mirmulstein and Rita Ramalho
(2010), How Do Economies Define Micro, Small and Medium Enterprises
(MSMEs)?, IFC and the World Bank.
189
129. Lageman et al. (1999: 82) observe that the number of GmbHs rose
from 122,000 to 513,000 between 1974 and 1998. This applied especially to
medium-sized and large enterprises.
130. Lageman, Bernhard, et al. (1999), Kleine und mittlere Unternehmen
im sektoralen Strukturwandel, Essen.
131. Laura Južnik Rotar, Roberta Kontošić Pamić & Štefan Bojnec
(2019), Contributions of small and medium enterprises to employment in the
European Union countries, Economic Research-Ekonomska Istraživanja, 32:1,
3296-3308.
132. Loecher, U.(2000), Small and medium-sized Enterprises:
delimitation and the European definition in the area of industrial business,
European Business Review,12 (5), 261-264.
133. Macpherson, A. and Holt, R. (2007), Knowledge, learning and
small firm growth: A systematic review of the evidence, Research Policy, Vol.
36, pp. 172–192.
134. Markman, G. D., & Baron, R. A. (2003), Person-entrepreneurship
fit: why some people are more successful as entrepreneurs than others, Human
Resource Management Review, 13(2), 281–301
135. Matthias Zoephel (2008), Michael Porter's Competitive Advantage
Theory: Focus Strategy for SMEs, Norderstedt.
136. McCarthy, B. (2003), The impact of the entrepreneur's personality
on the strategy-formation and planning process in SMEs, Irish Journal of
Management, 24(1), 154.
190
137. Mella, Piero & Pellicelli, Michela. (2008), The Origin of Value
Based Management: Five Interpretative Models of an Unavoidable Evolution,
International Journal of Knowledge, Culture and Change Management.
138. Michael Porter (1985), Competitive Advantage: Creating and
Sustaining Superior Performance, NewYork: Free Press.
139. Muzyka, Daniel, Breuninger, Hans, & Rossell, Gerda (1997), The
Secret of New Growth in Old German Mittelstand Companies, European
Management Journal, Vol.15, No. 2, pp.147- 157.
140. Narteh, B. (2013), SME bank selection and patronage behaviour in
the Ghanaian banking industry, Management Research Review, 36(11), 1061-
1080.
141. Nasser, M. E., du Preez, J. and Herrmann, K. (2003), Flight of the
young flamingos: alternative futures for young entrepreneurs in South Africa,
in Futures. Vol. 35.
142. Nils Dahne (2018), Introducing German Mittelstand, Dresden:
University of Applied Sciences [online]. Available at:
http://nilsdaehne.com/downloads/20180108_IGM_ Lecture_WS1718.pdf.
[Accessed 16th Jan 2019].
143. OECD (2005), OECD SME and Entrepreneurship Outlook 2005,
OECD, Paris.
144. OECD (2009), Employment Outlook, OECD, Paris
145. OECD (2014). Promoting SMEs for development. OECD, Istanbul.
191
146. Olaf Storbeck (2018), German Mittelstand faces generational crisi,
[online] Available at: https://www.ft.com/content/739b698e-292c-11e8-b27e-
cc62a39d57a0. [Accessed 10 Feb. 2020].
147. Olawale, F.,&Garwe,D (2010), Obstacles to the growth of new
SMEs in South Africa: A principle component analysis approach, African
journal f business and management, Vol. 4 (5). PP 729-738.
148. Orford, J., Goldstuck, A., Shay,D., Wood, E. , Herrington, M. and
Hudson, J. (2004), Global Entrepreneurship Monitor: 2004 Executive Report.
Graduate School of Business, University of Cape Town.
149. OSMEP, (2008), Situation and Structural Indicators of SMEs in
2008 and 5-Year Changes, White Paper on SMEs 2008 and Trends 2009.
150. Pasnicu, Daniela. (2018), Supporting SMEs in creating jobs,
Journal of Economic Development, Environment and People. 7. 15.
10.26458/jedep.v7i1.575.
151. Penrose, E (2013), The Theory Of The Growth Of The Firm, Oxford:
Oxford University Press.
152. Pretorius, M., & Shaw, G. (2004), Business plan in bank-decision
making when financing new ventures in South Africa, South African Journal
of Economics and Management Science, 7(2), 221-242.
153. Purwanti, E. (2012), Pengaruh karakteristik wirausaha, modal
usaha, strategi pemasaran terhadap perkembangan UMKM di Desa Dayaan dan
Kalilondo Salatiga, Among Makarti. Vol. 5, No. 9
192
154. Rauch, A., & Frese, M. (2000), Psychological approaches to
entrepreneurial success: A general model and an overview of findings,
International Review of Industrial and Organizational Psychology, 15.
155. Rejnald. M & Gerdi (2011), Risks with which face Albanian
business and their managing, Finance Department, Economic Faculty,
University of Tirana.
156. Rindova, V.P. and Fombrun, C.J. (1999), Constructing competitive
advantage: The role of firm-constituent interactions, Strategic Management
Journal, 20 (8): pp 691-710.
157. Roxana Gabriela Hodorogel (2011), German SMEs Affected by the
World Crisis. Theoretical and Applied Economics, [online] Available at:
http://store.ectap.ro/articole/642.pdf. [Accessed 10 Feb. 2020].
158. Schröder, Christian (2016), The Challenges of Industry 4.0 for
Small and Medium-sized Enterprises, Friedrich-Ebert-Stiftung, Bonn.
159. Simon, Hermann (1996), Hidden Champions, The Lessons from 500
of the World’s best unknown Companies, London: Harvard Business School
Press.
160. Statista (2020), Distribution of startups in Germany in 2019, by
industry, [online] Available at:
https://www.statista.com/statistics/883498/start-up-distribution-by-industry-
germany/. [Accessed 10 Feb. 2020].
161. Steel,W.F. 1993. ‘Analysing the policy framework for small
enterprise development’. In Helmsing,A.H.J. and Kolstee,T. (eds.) Small
Enterprises and Changing Policies. London: IT Publications.
193
162. St-Jean, E., Julien, P., and Jos´ee, A. (2008), Factors associated with
growth changes in gazelles, Journal of Enterprising Culture, 16, 161–188.
163. Stokes, D., Wilson, N.(2010), Entrepreneurship and Small Business
Management (6th ed.), Andover: Cengage Learning EMEA
164. Tannock, J., Krasachol, L. and Ruangpermpool, S. (2002), The
development of total quality management in Thai manufacturing SMEs: A case
study approach, International Journal of Quality & Reliability Management,
Vol. 19, No. 4, pp. 380-395.
165. Teece DJ, Pisano G & Shuen A (1997), Dynamic capabilities and
strategic management, Strategic Management Journal 18(7):509-33.
166. The Institute for SMEs Research Bonn (n.d); cited in report of
Roxana Gabriela Hodorogel (2011),German SMEs Affected by the World
Crisis. Theoretical and Applied Economics, [online] Available at:
http://store.ectap.ro/articole/642.pdf. [Accessed 10 Feb. 2020].
167. The World Bank (2020), Germany At-A-Glance, [online] Available
at: https://www.worldbank.org/en/country/germany/overview, [Accessed 10
Feb. 2020].
168. The World Bank (2020), Vietnam At-A-Glance, [online] Available
at: https://www.worldbank.org/en/country/vietnam/overview, [Accessed 10
Feb. 2020].
169. The World Bank (n.d.), Small and medium enterprises (SMEs)
finance: Improving SMEs’ access to finance and finding innovative solutions
to unlock sources of capital, [online] Available at:
https://www.worldbank.org/en/topic/smefinance [Accessed 14 Feb. 2020].
194
170. The World Bank (2013), IFC jobs study: Assessing private sector
contributions to job creation and poverty reduction, Washington, DC: World
Bank Group.
171. Thornhill, S., & Amit, R. (2003), Learning about Failure:
Bankruptcy, Firm Age, and the Resource-Based View, Organization
Science, 14 (5), 497-509.
172. Tony Dolphin & David Nash (2012), Report Investing for the
future: Why we need a British investment bank, Institute for Public Policy
Research, London: 2012.
173. Volker Zimmermann (2020), Financing of digitalisation and
capital expenditure in SMEs – a comparison, KfW Group, Frankfurt.
174. Wernerfelt B (1984), A resource-based view of the firm, Strategic
Management Journal 5:171-80.
175. Wilkinson, B., (2002), Small, Micro, and Medium Enterprise
Development: Expanding the Options for Debt and Equity Finance, Financial
Sector Workshop, National Economic Development and Labour Council
(NEDLAC), Johannesburg, South Africa, Iris, April 6
176. World Bank (n.d), Exports of goods and services (% of GDP) –
Germany, [online] Available at:
https://data.worldbank.org/indicator/NE.EXP.GNFS.ZS?locations=DE.
[Accessed 10 Feb. 2020].
177. World Bank (n.d), Exports of goods and services (constant LCU) –
Germany, Available at:
https://data.worldbank.org/indicator/NE.EXP.GNFS.KN?end=2012&
locations=DE&start=2003&view=chart. [Accessed 10 Feb. 2020].
195
178. World Bank (n.d), Fertility rate, total (births per woman) –
Germany [online] Available at:
https://data.worldbank.org/indicator/SP.DYN.TFRT.IN?end=2017&
locations=DE&start=1975. [Accessed 10 Feb. 2020].
179. World Bank (n.d), GDP growth (annual %) – Germany, [online]
Available at:
https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.KD.ZG?end=2018&loc
ations=DE&most_recent_year_desc=false&start=1990&view=chart.
[Accessed 10 Feb. 2020].
180. World Bank (n.d), Unemployment, total (% of total labor force)
(modeled ILO estimate) – Germany, [online] Available at:
https://data.worldbank.org/indicator/SL.UEM.TOTL.ZS?end=2019&locations
=DE&most_recent_year_desc=false&start=1991&view=chart. [Accessed 10
Feb. 2020].
181. World Bank, (2012), Doing business in a more transparent world.
WB, Washington.
182. World Bank Group (2019), World Bank Group Support for Small
and Medium Enterprises A Synthesis of Evaluative Findings, WorldBank
Publications, Washington DC.
183. WTO (2017), Micro, small and medium-sized enterprises” WTO
Buenos Aires [online]. Available at:
https://www.wto.org/english/thewto_e/minist_e/mc11_e/briefing_notes_e/bf
msmes_e.htm. [Accessed 16th Jan 2019].
184. Yon, R., Evans, D (2011), The role of small and medium enterprises
in Frontier Capital Markets, Network Science Center, West Point.
196