VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN ĐÌNH HƯNG

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

TRONG NỀN KINH TẾ ĐỨC NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế

Mã số: 9 31 01 06

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. NGUYỄN THANH ĐỨC

2. PGS.TS. ĐẶNG MINH ĐỨC

HÀ NỘI-2020

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu của mình và không trùng lặp

với bất cứ công trình nào của các tác giả khác. Các số liệu được sử dụng trong

luận án có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận án

Trần Đình Hưng

i

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................... v

DANH MỤC CÁC BẢNG.............................................................................. vii

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ....................................................................... viii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................. 9

1.1. Những công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến luận án .............. 9

1.1.1. Nhóm công trình đề cập khuôn khổ lý thuyết của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ................................................................................................................ 9

1.1.2. Nhóm công trình đề cập đến vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ......................................................................................................................... 13

1.1.3. Nhóm công trình đề cập đến các nhân tố tác động và chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ............................................ 15

1.1.4. Nhóm công trình đề cập những vấn đề tồn tại của doanh nghiệp vừa và nhỏ ................................................................................................................... 23

1.2. Khoảng trống nghiên cứu và hướng nghiên cứu của đề tài ..................... 24

1.2.1. Đóng góp của của các công trình đi trước: .......................................... 24

1.2.2. Một số vấn đề các công trình trên còn bỏ ngỏ, cần tiếp tục nghiên cứu: ......................................................................................................................... 25

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ ................................................................................ 27

2.1. Lý luận về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ........................... 27

2.1.1. Lý thuyết của Penrose về sự phát triển doanh nghiệp: ......................... 27

2.1.2. Lý thuyết nguồn lực doanh nghiệp và năng lực động của doanh nghiệp ......................................................................................................................... 28

2.1.3. Lý thuyết phát triển theo giai đoạn ....................................................... 30

2.1.4. Chiến lược cạnh tranh phổ quát của Michael Porter: ......................... 34

ii

2.2. Một số vấn đề chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ .................................. 36

2.2.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ .................................................... 36

2.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ ............................................... 48

2.2.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế ....................... 51

2.3. Khái niệm, các tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ .......................................................................... 56

2.3.1. Khái niệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ............................... 56

2.3.2. Tiêu chí đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế .............................................................................................................. 57

2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ 60

2.4. Khung phân tích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Đức .............................................................................................................. 70

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ ĐỨC NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 72

3.1. Tổng quan tình hình về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Đức ............................................................................................... 72

3.1.1. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức đầu những năm 2000 ....... 74

3.1.2. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới ................................................................................................. 88

3.1.3. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức trong những năm gần đây 106

3.2. Đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức ................. 120

3.2.1. Ưu điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức ............................. 120

3.2.2. Một số vấn đề tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức......... 126

3.3. Những bài học kinh nghiệm từ thực tế phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức ............................................................................................................. 129

CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH............................................................................................... 137

4.1. Thực trạng phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Việt Nam ............................................................................................................... 137

iii

4.2. Sự tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đức .............................. 147

4.3. Một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam ...................................... 161

KẾT LUẬN ................................................................................................... 168

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................... 171

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 172

iv

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển châu Á

Asian Infrastructure Investment Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ AIIB Bank tầng châu Á

Asia-Pacific Economic Diễn đàn Hợp tác Kinh tế APEC Cooperation châu Á

Association of Southeast Asian Hiệp hội các quốc gia Đông ASEAN Nations Nam Á

ASEM Asia-Europe Meeting Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu

Federal Ministry of Economics Bộ Kinh tế và Công nghệ BMWi and Technology Liên bang

CMCN Industrial Revolution Cách mạng công nghiệp

Comprehensive and Progressive Hiệp định Đối tác Toàn diện

CPTPP Agreement for Trans-Pacific và Tiến bộ xuyên Thái Bình

Partnership Dương

Small and Medium-sized DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ Enterprises

DtA German Equalisation Bank Ngân hàng Đền bù Đức

EC European Commission Ủy ban châu Âu

EU European Union Liên minh châu Âu

Eurostat European Statistics Cơ quan Thống kê Châu Âu

EU-Vietnam Free Trade Hiệp định Thương mại Tự do EVFTA Agreement Việt Nam-EU

FDI Foregin Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FTA Free Trade Agreement Hiệp định Thương mại Tự do

GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội

v

Deutsche Gesellschaft für Tổ chức Hợp tác và Phát triển GIZ Internationale Zusammenarbeit Đức

IFC International Finance Corporation Tổ chức Tài chính quốc tế

International Labour ILO Tổ chức Lao động Quốc tế Organization

KtW Kreditanstalt für Wiederaufbau Ngân hàng Tái thiết Đức

Multilateral Investment Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa MIGA Guarantee Agency phương

Organization for Economic Tổ chức Hợp tác và Phát triển OECD Cooperation and Development Kinh tế

Chỉ số năng lực cạnh tranh PCI Provincial Competitiveness Index cấp tỉnh

R&D Research and Development Nghiên cứu và Phát triển

SBA Small Business Act Đạo luật Doanh nghiệp nhỏ

Vietnam Chamber of Commerce Phòng Thương mại và Công VCCI and Industry nghiệp Việt Nam

WB World Bank Ngân hàng Thế giới

WBG World Bank Group Nhóm Ngân hàng Thế giới

WEF World Economic Forum Diễn đàn Kinh tế Thế giới

WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới

Chương trình Đổi mới sáng Zentrales Innovations programm ZIM tạo Trung ương dành cho Mittelstand doanh nghiệp vừa và nhỏ

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Tiêu chí định lượng xác định doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ Bảng 2.1 39 và vừa của IFC và MIGA thuộc Nhóm Ngân hàng Thế giới

Xác định DNVVN theo tiêu chí định lượng của Liên minh Bảng 2.2 42 châu Âu

Bảng 2.3 Bảng tham chiếu xếp loại DNVVN 43

Bảng 2.4 Tiêu chí xác định DNVVN ở Đức 45

Bảng 2.5 Đặc điểm của DNVVN so sánh với doanh nghiệp lớn 48

Bảng 2.6 Phân loại Hiệp hội/tổ chức theo các tiêu chí 66

Bảng 4.1 Tiêu chí xác định DNVVN của Việt Nam 2018 139

Thống kê số lượng doanh nghiệp (dựa theo tiêu chí quy Bảng 4.2 140 mô lao động) từ 2005-2015

Bảng 4.3 Một số tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đức 148

vii

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 2.1 Mô hình phát triển sáu giai đoạn của Greiner 31

Hình 2.2 Tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo khu vực (%) 55

Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp Hình 2.3 69 vừa và nhỏ

Hình 3.1 Đóng góp của DNVVN trong nền kinh tế Đức (2003) 74

Các loại hình DNVVN và tỷ trọng doanh thu DNVVN ở Hình 3.2 75 Đức

Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp tại Đức từ Hình 3.3 76 2000-2005

Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp tại Đức từ Hình 3.4 86 2003-2009

Hình 3.5 Vai trò của DNVVN ở Đức trong nền kinh tế vĩ mô 87

Giá trị xuất khẩu hàng năm và tỷ trọng giá trị xuất khẩu Hình 3.6 88 trong GDP của Đức

Tỷ trọng các nguồn tài chính DNVVN sử dụng trong hoạt Hình 3.7 93 động đổi mới sáng tạo (2010)

Doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp giải thể và cán Hình 3.8 94 cân doanh nghiệp mới ở Đức từ 2007-2010

So sánh kết quả thực hiện theo bộ tiêu chí 10 điểm của

Hình 3.9 Đạo luật doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2010/2011 giữa 97

Đức và mức trung bình của EU

Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp tại Đức từ Hình 3.10 99 2007-2012

Doanh thu xuất khẩu của DNVVN năm 2000, 2005, 2010 Hình 3.11 100 (đơn vị: tỷ euro)

viii

Vị trí của DNVVN trong nền kinh tế Đức 2010/2011 (đơn Hình 3.12 101 vị: %)

Hình 3.13 Số lượng DNVVN dẫn đầu thế giới ở các quốc gia (2012) 103

Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp ở Đức so với mức trung bình Hình 3.14 104 của EU (đơn vị: %)

Hình 3.15 Số lượng người tự làm chủ ở Đức từ 2000-2012 105

Số lượng lao động trong DNVVN và tỷ lệ lao động của Hình 3.16 110 DNVVN trong nền kinh tế

Hình 3.17 Khởi nghiệp trong các doanh nghiệp sáng chế đột phá 114

Hình 3.18 Tỷ lệ khởi nghiệp theo các ngành nghề ở Đức (2019) 116

Sự thay đổi trong cơ cấu ngành của DNVVN từ 2006- Hình 3.19 118 2018

Tỷ lệ tăng trưởng lao động và tăng trưởng doanh thu ở Hình 3.20 119 DNVVN Đức từ 2012-2018 (đơn vị: %)

Tỷ lệ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp ở Đức từ 2012- Hình 3.21 120 2018 (đơn vị: %)

Hình 4.1 Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam qua các năm 146

ix

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) từ lâu đã được xem là có vị trí rất

quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, dù là quốc gia phát triển hay

đang phát triển. Tại Việt Nam, phát triển DNVVN đã trở thành một trong những

ưu tiên hàng đầu của Chính phủ trong những năm gần đây. Theo kết quả “Tổng

điều tra kinh tế năm 2017” của Tổng cục Thống kê, cả nước có 507,86 nghìn

DVVVN đang hoạt động, tăng 52,1% so với thời điểm 01/01/2012, chiếm

khoảng 98,1% tổng số doanh nghiệp cả nước, sử dụng tới khoảng 44,5% lao

động xã hội [34]. Bên cạnh đó, DNVVN ở Việt Nam cũng đã đóng góp khoảng

40% GDP cho nền kinh tế [15]. Có thể thấy rằng, sự đóng góp của khối

DNVVN Việt Nam trong nền kinh tế là đáng kể. Tuy nhiên, so với tiềm năng

thực sự, khối doanh nghiệp này vẫn chưa nhận được sự quan tâm tương xứng

và vẫn còn rất nhiều dư địa cho sự phát triển. Xét một cách tổng thế, DNVVN

ở Việt Nam được nhìn nhận là “tuy đông nhưng không mạnh”. Nhìn chung,

khối doanh nghiệp này năng lực cạnh tranh còn yếu kém, trình độ công nghệ

lạc hậu, nguồn nhân lực ít được đào tạo nâng cao, nguồn vốn nhỏ, tỷ lệ tiếp cận

vốn ngân hàng của các DNVVN cũng thấp hơn đáng kể so với doanh nghiệp

lớn. Bên cạnh đó, những khó khăn đến từ chính việc nhận thức về vai trò và vị

thế của khối doanh nghiệp này trong nước (sự đối xử bất bình đẳng, ít chính

sách ưu đãi), tình trạng thiếu minh bạch và cơ chế quan liêu đang cản trở sự

phát triển của các DNVVN.

Như vậy, việc xác định đúng vai trò và hiểu đúng về tầm quan trọng của

DNVVN trong nền kinh tế là vô cùng quan trọng để có những chính sách hỗ

trợ đúng và kịp thời, giúp Việt Nam có thể khai thác được tối đa nguồn nội lực

1

từ trong nước, giúp tạo ra nhiều công ăn việc làm, thúc đẩy kinh tế - xã hội và

đóng góp vào tăng trưởng GDP một cách bền vững hơn. Vì thế, câu hỏi được

đặt ra là làm thế nào để có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh và phát huy

được tối đa tiềm năng phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế Việt Nam

trong thời gian tới? Để trả lời câu hỏi này, cần phải tổng kết được kinh nghiệm

thực tiễn phát triển của chính các DNVVN trong nước trong thời gian qua, đồng

thời phải nghiên cứu về sự phát triển của các DNVVN từ bài học của những

quốc gia thành công trên Thế giới, từ đó mới có thể đúc kết được các kinh

nghiệm thiết thực vào thực tiễn Việt Nam.

Trong quá trình nghiên cứu về sự phát triển của DNVVN ở các quốc gia

có kinh nghiệm thành công trên Thế giới, tác giả luận án đánh giá Cộng Hòa

Liên Bang Đức là một trong những nước có khối DNVVN phát triển, được xem

là có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế

- xã hội mà Việt Nam hoàn toàn có thể học tập. Thứ nhất, các DNVVN ở Đức

(hay còn được biết đến với tên gọi chung là Mittelstand) chiếm vị trí lớn trong

nền kinh tế với hơn 99% số doanh nghiệp, sử dụng khoảng 60% lực lượng lao

động. Đây chủ yếu là các công ty gia đình, hoặc sở hữu gia đình trên 50%,

thường chuyên sâu vào một loại sản phẩm. Thứ hai, các DNVVN được xem là

xương sống, đóng góp lớn cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế Đức, chiếm

khoảng 52% tổng GDP, tạo việc làm và giải quyết thất nghiệp, giúp tăng cường

tính cạnh tranh, năng động của nền kinh tế. Bên cạnh đó, môi trường làm việc

tại các DNVVN ở Đức cũng được đánh giá cao với sự thoải mái cho nhân viên

cùng văn hóa tin tưởng, có tính cam kết cao [100]. Thứ ba, Chính phủ Đức cam

kết rất lớn với khối DNVVN thông qua rất nhiều công cụ hữu hiệu nhằm đảm

bảo quyền lợi của khối doanh nghiệp này, từ các chính sách hỗ trợ phát triển

nguồn nhân lực, tăng khả năng tiếp cận tín dụng, đến các trợ giúp trong vấn đề

trao đổi thương mại, quảng bá sản phẩm tại nước ngoài từ Bộ Kinh tế nói chung.

2

Cùng với sự phát triển chung của Liên minh châu Âu, sự lớn mạnh của

DNVVN ở Đức luôn phải điều chỉnh sao cho phù hợp với chính sách chung

của khối và làm sao có thể tận dụng được tối đa mọi nguồn lực mà Liên minh

mang lại, đặc biệt, trước bối cảnh Thế giới đang đứng trước ngưỡng cửa của

cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, khối DNVVN ở Đức được dự báo là sẽ chứng

kiến một sự thay đổi lớn cả về lượng lẫn về chất, tạo ra nhiều cơ hội cũng như

thách thức trong việc duy trì sự ổn định và phát triển trong nền kinh tế những

năm tới[158].

Như vậy, việc nghiên cứu về sự phát triển của các DNVVN ở Đức là cần

thiết và được xem là cơ hội để mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam có thể đúc

rút được những bài học kinh nghiệm cả lý luận lẫn thực tiễn; đặc biệt là việc

xác định đúng vị trí, đánh giá đúng vai trò cũng như nhìn nhận đúng tiềm năng

của DNVVN trong nền kinh tế Việt Nam để từ đó đề xuất được những giải

pháp thiết thực trong quá trình triển khai các chương trình, chính sách hỗ trợ

phát triển DNVVN trong nền kinh tế. Từ tất cả những lý do nêu trên, tác giả

luận án đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Sự phát triển của doanh nghiệp vừa và

nhỏ trong nền kinh tế Đức những năm gần đây” để bảo vệ luận án tiến sĩ Kinh

tế quốc tế của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Mục đích nghiên cứu: hệ thống hóa các vấn đề lý luận về sự phát triển

của DNVVN, phân tích và đánh giá sự phát triển của DNVVN trong nền kinh

tế Đức từ đầu những năm 2000 trở lại đây (trong bối cảnh mà nền kinh tế - xã

hội Đức có nhiều biến động) để từ đó chỉ ra những ưu điểm và những vấn đề

còn tồn tại trong quá trình phát triển của khối DNVVN ở Đức cũng như rút ra

những bài học quan trọng để từ đó có những khuyến nghị chính sách hữu ích

cho Việt Nam thời gian tới.

3

Nhiệm vụ nghiên cứu: luận án tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về sự phát triển của DNVVN nói chung;

Thứ hai, phân tích thực trạng sự phát triển của DNVVN trong nền kinh

tế Đức (thông qua phân tích bối cảnh của nền kinh tế trong từng mốc giai đoạn

cụ thể, các nhân tố tác động đến sự phát triển và vai trò của DNVVN trong việc

ổn định và phát triển nền kinh tế Đức); đánh giá ưu điểm và những mặt còn tổn

tại, cũng như chỉ ra những bài học kinh nghiệm từ thực tế phát triển các

DNVVN trong nền kinh tế Đức;

Thứ ba, so sánh sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế giữa Đức

và Việt Nam, qua đó rút ra những khuyến nghị chính sách hữu ích cho Việt

Nam trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu: luận án tập trung nghiên cứu về sự phát triển

của DNVVN trong nền kinh tế Đức và sự phát triển của DNVVN ở Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi về không gian: luận án tập trung sâu vào phân tích sự phát triển

của các DNVVN trong nền kinh tế của Cộng hòa Liên bang Đức.

Phạm vi về thời gian: luận án tập trung phân tích sâu sự phát triển của

DNVVN trong nền kinh tế Đức từ đầu những năm 2000 trở lại đây. Cụ thể,

luận án phân chia phạm vi về thời gian thành ba mốc quan trọng là (1) giai đoạn

đầu những năm 2000 đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, khi mà nền

kinh tế Đức phải đối mặt với cuộc khủng hoảng lao động dưới thời cựu Thủ

tướng Gerhard Schröder, tình trạng thất nghiệp tăng cao; (2) giai đoạn diễn ra

cuộc khủng hoảng kinh tế Thế giới, khi mà Đức là một trong những quốc gia

4

phải chịu ảnh hưởng nặng nề đến mọi mặt kinh tế - xã hội; và (3) giai đoạn

những năm gần đây khi mà nền kinh tế Đức quay trở lại quỹ đạo phát triển.

Song song với đó là sự ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của cuộc Cách mạng

công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, và Đức là một trong những nước tiên

phong trong quá trình đổi mới.

Bên cạnh đó, luận án cũng sẽ khái quát bối cảnh sự phát triển của

DNVVN trước năm 2000 ở Đức để tạo thành một chỉnh thể xuyên suốt, nhằm

nhấn mạnh sự nhất quán về vai trò và tầm quan trọng của khối doanh nghiệp

này trong nền kinh tế.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

Cách tiếp cận:

Tiếp cận hệ thống: việc phân tích và đánh giá các vấn đề ở đây được đặt

trong một chỉnh thể thống nhất, nghiên cứu đi từ lý luận đến thực tiễn. Cụ thể,

phân tích hệ thống về các DNVVN xuất phát từ bối cảnh chung đến tình hình

vận động và phát triển của các doanh nghiệp đó trong nền kinh tế. Các tác động

của DNVVN đối với nền kinh tế cũng được xem xét và đánh giá một cách toàn

diện, nhiều chiều, cả mặt tích cực và tiêu cực.

Tiếp cận liên ngành: sự phát triển của DNVVN được xem xét và phân

tích theo cách tiếp cận liên ngành bao gồm: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Phương pháp nghiên cứu:

Luận án sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu khoa học như

phương pháp logic-lịch sử, phân tích-tổng hợp trong quá trình phân tích và đánh

giá sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế Đức qua từng mốc giai đoạn

kể trên, cũng như phân tích tốc độ phát triển, tỷ lệ đóng góp của DNVVN trong

5

nền kinh tế quốc dân (về tỷ lệ sử dụng lao động, đóng góp trong GDP, trong

giá trị xuất nhập khẩu v.v). Bên cạnh đó, phương pháp so sánh, thống kê,

phương pháp phân tích mô tả cũng được luận án áp dụng hiệu quả trong việc

so sánh sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế giữa Việt Nam và Đức và

làm nổi bật các vấn đề cần nghiên cứu.

Luận án tiếp cận và sử dụng những số liệu từ tài liệu thứ cấp có tính hệ

thống và từ các nguồn dữ liệu đáng tin cậy của các cơ quan có uy tín ở trong

nước cũng như quốc tế, các tài liệu từ các tổ chức quốc tế như Ủy ban châu Âu

(EC), Ngân hàng Thế giới, Bộ Kinh tế và Công nghiệp Đức, Bộ Lao động và

Xã hôi Đức, các thông tin trên sách báo điện tử, các số liệu của các cơ quan hữu

quan của một số nước châu Âu. Ngoài ra, luận án cũng sử dụng các ấn phẩm

trong nước chủ yếu là những số liệu chính thức của các cơ quan có uy tín như

Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Phòng Thương mại và Công

nghiệp Việt Nam (VCCI), Viện Kinh tế và Chính trị thế giới, Viện nghiên cứu

châu Âu, Viện quản lý kinh tế trung ương, v.v. Luận án cũng sử dụng các sách

báo cũng như các tài liệu nghiên cứu của các chuyên gia có tên tuổi trong và

ngoài nước.

Phương pháp xử lý số liệu của luận án cũng được thực hiện một cách

khoa học. Các tài liệu được tập hợp, sắp xếp và phân loại theo từng vấn đề

nghiên cứu. Các tài liệu là tiếng nước ngoài được dịch và trích dẫn rõ ràng. Các

số liệu được thống kê và xử lý kỹ càng trước khi xuất thành các bảng biểu, đồ

thị, hình vẽ trong luận án.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Thứ nhất, luận án đã hệ thống hóa được những vấn đề lý luận về sự phát

triển của các DNVVN. Bên cạnh đó, luận án đã chỉ ra những khác biệt về định

6

nghĩa DNVVN giữa các tổ chức, quốc gia cũng như đưa ra quan điểm riêng của

luận án về khái niệm DNVVN.

Thứ hai, luận án đã chứng minh được vai trò là xương sống nền kinh tế

Đức của khối DNVVN thông qua việc phân tích và đánh giá thực trạng sự phát

triển của DNVVN trong nền kinh tế Đức qua từng mốc giai đoạn, đặc biệt là

qua những giai đoạn mà nền kinh tế - xã hội gặp khủng hoảng. Từ đó, đánh giá

được những ưu điểm và mặt hạn chế trong quá trình phát triển DNVVN ở Đức.

Thứ ba, luận án đã rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tế phát triển

DNVVN trong nền kinh tế Đức. Luận án đã đưa ra những so sánh về sự phát

triển của DNVVN giữa Việt Nam và Đức để từ đó rút ra được những bài học

kinh nghiệm hữu ích cho quá trình phát triển DNVVN ở Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

 Ý nghĩa lý luận của luận án:

Luận án đã trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về sự

phát triển của DNVVN trong nền kinh tế, làm rõ định nghĩa về DNVVN vốn

còn gây nhiều tranh cãi, chỉ rõ vai trò của các DNVVN và xác định rõ những

nhân tố tác động cũng như xây dựng tiêu chí đánh giá sự phát triển của DNVVN

trong nền kinh tế quốc gia.

 Ý nghĩa thực tiễn của luận án:

Luận án đã đánh giá được thực trạng về sự phát triển của DNVVN ở Đức

từ năm 2000 trở lại đây qua từng mốc giai đoạn. Từ đó, phân tích những ưu

điểm và mặt hạn chế trong quá trình phát triển DNVVN ở Đức cũng như đúc

rút được những bài học kinh nghiệm từ thực tế phát triển các DNVVN trong

nền kinh tế Đức.

7

Luận án có sự so sánh những mặt tương đồng và khác biệt giữa hai quốc

gia Việt Nam và Đức trong quá trình phát triển khối DNVVN của riêng mình.

Khái quát được quá trình phát triển DNVVN ở Việt Nam từ khi công cuộc “Đổi

mới” năm 1986 diễn ra đến nay cũng như đúc rút được những khuyến nghị

chính sách hữu ích cho Việt Nam trong quá trình phát triển DNVVN.

7. Cơ cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, các danh mục hình vẽ, bảng

biểu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án bao gồm bốn

chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.

Chương 2: Cơ sở lý luận về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Chương 3: Thực trạng sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong

nền kinh tế Đức những năm gần đây.

Chương 4: Thực trạng phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền

kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị chính sách.

8

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Những công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến luận án

1.1.1. Nhóm công trình đề cập khuôn khổ lý thuyết của các doanh nghiệp

vừa và nhỏ

Việc đưa ra một khái niệm chính xác, thống nhất về DNVVN có vai trò

quan trọng trong việc xác định rõ đối tượng cần nghiên cứu. Mặc dù vậy, tiêu

chí để đưa ra một định nghĩa chính xác giữa các quốc gia đôi khi vẫn còn nhiều

khác biệt. Về lý thuyết, có thể xác định DNVVN dựa trên tiêu chuẩn định tính

và định lượng. Tuy vậy, về mặt thực tế, xác định theo tiêu chuẩn định tính là

khá khó khăn; vì vậy, các quốc gia thường chọn tiêu chuẩn định lượng để có

thể xác định được các DNVVN.

Stokes và Wilson (2010) trong cuốn “Entrepreneurship and Small

Business Management” cho rằng xét theo các tiêu chuẩn định tính, DNVVN có

các hoạt động và cấu trúc đơn giản hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp lớn,

mức độ phức tạp của quản lý không cao cũng như số đầu mối quản lý ít [163].

Cũng trong tác phẩm này, các tác giả đã trích lại báo cáo của Bolton (1971) khi

chỉ ra ba tiêu chí cơ bản giúp phân biệt DNVVN với doanh nghiệp lớn. Theo

đó, DNVVN thường được quản lý bởi chính chủ sở hữu doanh nghiệp và doanh

nghiệp có thị phần nhỏ trên thị trường. Ngoài ra, DNVVN có tính độc lập cao,

cũng như không phải là công ty con hay chịu chi phối bởi các doanh nghiệp lớn

khác [64]. Còn tác giả Yon và Evans (2011) trong bài viết “The role of small

and medium enterprises in Frontier Capital Markets” đã tổng hợp các yếu tố

định tính giúp phân biệt DNVVN với doanh nghiệp lớn, bao gồm: yếu tố về

đặc điểm quản lý doanh nghiệp, bằng cấp của nhân viên, vị trí cạnh tranh của

9

doanh nghiệp trên thị trường, mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng,

khả năng nghiên cứu và phát triển và khả năng tài chính [184].

Về cách định nghĩa DNVVN dựa trên tiêu chuẩn định lượng, báo cáo

“How Do Economies Define Micro, Small and Medium Enterprises

(MSMEs)?” của nhóm tác giả Khrystyna Kushnir, Melina Laura Mirmulstein

và Rita Ramalho năm 2010 thuộc Ngân hàng thế giới đã tổng hợp thông tin từ

120 nền kinh tế về tiêu chí để phân loại doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa.

Theo đó các tiêu chí định lượng được các nước sử dụng nhiều nhất để phân biệt

bao gồm: số lao động sử dụng, tài sản/ doanh thu/ vốn/ đầu tư và ngành công

nghiệp mà doanh nghiệp đó hoạt động. Mặc dù vậy, giữa các quốc gia và khu

vực khác nhau trên thế giới vẫn còn nhiều khác biệt trong việc đưa ra tiêu chí

để phân loại các mức độ doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa [128].

Tác giả Buculescu, M. với bài viết “Harmonization process in defining

small and medium-sized enterprises. Argument for a quantitative definition

versus a qualitative one” đăng trên tạp chí Theoretical and Applied Economics”

năm 2013 nhận xét rằng việc thống nhất định nghĩa về DNVVN vẫn là một thách

thức đối với các thể chế, tổ chức quốc tế. Nghiên cứu về định nghĩa DNVVN

được ban hành bởi Liên minh châu Âu, Ngân hàng thế giới, OECD hay các định

nghĩa được sử dụng ở một số quốc gia khác nhau cho thấy rằng vẫn chưa có một

sự đồng thuận về việc tìm đến một định nghĩa chung. Sự không thống nhất về

các tiêu chí dùng để phân loại, sự khác biệt về các hoạt động kinh tế và bối cảnh

kinh tế của mỗi quốc gia là những yêu tố chính cản trở sự tồn tại của một định

nghĩa chung dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ [67].

Báo cáo của OECD xuất bản năm 2001 và được cập nhật vào 2005 cho

rằng, quy định phân loại nhóm DNVVN là chưa thống nhất ở nhiều quốc gia và

khu vực. OECD cũng viện dẫn rằng tại các nước EU, tiêu chuẩn để được nhìn

10

nhận là DNVVN nếu các doanh nghiệp này có dưới 250 nhân viên. Tuy vậy, ở

một số quốc gia khác lại đặt giới hạn ở mức thấp hơn là dưới 200 nhân viên;

trong khi ở Hoa Kỳ coi DNVVN bao gồm các doanh nghiệp có dưới 500 nhân

viên. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhỏ nói chung là những doanh nghiệp có ít

hơn 50 nhân viên, trong khi các doanh nghiệp siêu nhỏ có nhiều nhất là 10 nhân

viên, hoặc trong một số trường hợp là 5 nhân viên. Ngoài ra OECD cũng cho

rằng doanh thu cũng là một trong những tiêu chỉ dùng để phân loại xem doanh

nghiệp đó có thuộc vào nhóm vừa và nhỏ hay không, tương tự như cách phân

loại của các nước EU [143]. Theo báo cáo của Cơ quan thống kê châu Âu

(Eurostat) năm 2011, một doanh nghiệp được xếp vào nhóm vừa và nhỏ ở châu

Âu nếu như doanh nghiệp đó sở hữu dưới 250 lao động và có doanh thu hàng

năm đạt bằng hoặc dưới 50 triệu euro. Báo cáo cũng phân biệt DNVVN với

doanh nghiệp siêu nhỏ khi có dưới 10 lao động và doanh thu từ dưới 2 triệu euro

trở xuống, doanh nghiệp lớn khi có từ 250 lao động trở lên và doanh thu đạt trên

50 triệu euro. Những tiêu chi này là vô cùng quan trọng khi có thể giúp phân loại

các doanh nghiệp với nhau và đặc biệt là sự phân loại này còn ảnh hưởng đến

những chính sách hỗ trợ từ EU với đối tượng là các DNVVN trong khối [92].

Mặc dù vây, là một quốc gia thuộc EU, nhưng Đức lại có cách phân loại khác

với khu vực, cụ thể, theo Nils Dahne thuộc Đại học Khoa học Ứng dụng với báo

cáo “Introducing German Mittelstand”, Doanh nghiệp được xếp vào nhóm nhỏ

và vừa ở Đức hay còn có tên gọi khác là các Mittelstand nếu doanh nghiệp đó có

dưới 500 lao động và doanh thu đạt dưới hoặc bằng 50 triệu EUR [142].

Tại Việt Nam, kể từ khi chuyển từ nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị

trường có sự quản lý của Nhà nước, cụm từ doanh nghiệp vừa và nhỏ đã dần

được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế. Tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày

23/11/2001 của Chính Phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, định

nghĩa có tính pháp lý về doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được đưa ra. Theo đó,

11

“doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đăng ký kinh

doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số

lao động trung bình hàng năm không quá 300 người” [13]. Tại Nghị định số

56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ, định nghĩa về doanh nghiệp

vừa và nhỏ đã được quy định cụ thể và chi tiết hơn, vừa theo quy mô tổng nguồn

vốn hoặc số lao động bình quân năm. Theo đó, doanh nghiệp vừa vả nhỏ trong

lĩnh vực “Nông, lâm nghiệp và thủy sản” và “Công nghiệp và xây dựng” có

tổng nguồn vốn từ 100 tỷ đồng trở xuống và số lao động từ trên 10 người đến

300 người. Còn trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, doanh nghiệp vừa và

nhỏ được quy định có tổng nguồn vốn từ 50 tỷ đồng trở xuống và số lao động

đến hoặc dưới 100 người [7].

Gần đây nhất, ngày 11 tháng 03 năm 2018, Chính phủ đã ban hành Nghị

định 39/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thay thế

Nghị định 56/2009/NĐ-CP trên. Theo đó, các tiêu chí để xác định DNVVN là:

“Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh

vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân

năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng

hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp

siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực

thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm

không quá 50 người và tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ đồng hoặc

tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu

nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông

nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động

tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và tổng doanh

thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ

đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy

12

định tại khoản 1, khoản 2 Điều này. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương

mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không

quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng

nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ,

doanh nghiệp nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này” [8].

1.1.2. Nhóm công trình đề cập đến vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Báo cáo “SME Promotion and Development in Germany: The Role of

Business Membership Organizations” của tác giả Albert Over và Jurgen

Henkel, xuất bản năm 2013 bởi Tổ chức Sequa gGmbH Đức đã đề cập về vai

trò của DNVVN trong nền kinh tế Đức. Theo đó, riêng số lượng đã chiếm tới

99% tổng số doanh nghiệp toàn nước Đức, sử dụng khoảng 80% lao động

thường xuyên và là đối tượng đóng góp chính cho GDP quốc gia. Vì vậy, không

quá ngạc nhiên khi Đức trong các chính sách kinh tế của mình đều có rất nhiều

chương trình hỗ trợ và biện pháp để thúc đẩy phát triển mạnh khối doanh nghiệp

vừa và nhỏ. Báo cáo cũng nhấn mạnh vai trò của tổ chức thành viên doanh

nghiệp (BMOs) ở Đức khi nó đại diện cho lợi ích của doanh nghiệp vừa và nhỏ

trước các cơ quan nhà nước trong việc thúc đẩy khối này phát triển [53].

Trong báo cáo của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) tại Hội nghị Bộ

trưởng lần thứ 11, tổ chức tại Argentina năm 2017 đã nhấn mạnh vai trò và

đóng góp của các DNVVN đối với nền kinh tế quốc dân. Tại đa số các quốc

gia, các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa chiếm một tỷ trọng đáng kể trong

nền kinh tế. Dù ở các quốc gia phát triển hay đang phát triển, các doanh nghiệp

này cũng chiếm khoảng hai phần ba tỷ lệ lao động toàn xã hội. Đặc biệt các

quốc gia đang phát triển thì các công ty nhỏ còn có thể là phương tiện quan

trọng để giúp hòa nhập xã hội, bao gồm cả việc tạo nhiều cơ hội hơn cho phụ

nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế. Mặc dù vậy, báo cáo đưa ra nhận xét

13

rằng tuy chiếm tỷ lệ lao động lớn trong nền kinh tế nhưng đóng góp của khối

DNVVN vào GDP vẫn chưa tương xứng, chưa hiệu quả bằng các doanh nghiệp

lớn, đạt khoảng 35% tại các nước đang phát triển và 50% tại các nước phát

triển. Đóng góp của các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa vào thương mại

quốc tế còn hạn chế và báo cáo cũng dẫn một vài nghiên cứu chỉ ra rằng các

doanh nghiệp này dễ bị ảnh hưởng hơn bởi các rào cản thương mại so với doanh

nghiệp lớn. Ngoài ra, báo cáo cũng đưa ra một vài tiêu chí giúp phân loại các

doanh nghiệp vừa và nhỏ như dựa trên số lượng người lao động tương tự như

Liên minh châu Âu [183].

Báo cáo “SMEs are driving economic success Facts and figures about

German SMEs” 2017 của Bộ Kinh tế và Năng lượng Đức nhấn mạnh về vai trò

của các DNVVN qua số liệu thống kê cụ thể; đặc biệt trong năm 2017, khi đóng

vai trò dẫn dắt nền kinh tế. Theo đó, sự phát triển của khối doanh nghiệp này

giúp nền kinh tế Đức duy trì được sự phát triển ổn định, đóng góp khoảng 35%

tổng doanh thu của các doanh nghiệp Đức và chiếm tới gần 55% trong GDP,

giúp tăng xuất khẩu, thúc đẩy chi tiêu trong nghiên cứu và phát triển (R&D).

Tỉ lệ lao động có việc làm tiếp túc tăng cao đạt mức 21,6 điểm năm 2017 so

với 12,2 điểm năm 2016 (được đánh giá bởi ngân hàng KfW Đức) [97].

Tại Việt Nam, nghiên cứu về vai trò của các DNVVN cũng được nhiều

học giả đề cập đến. Tác phẩm “Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ

ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Hương xuất bản năm 2002 bởi Nhà Xuất Bản

Chính Trị Quốc Gia đã khẳng định tầm quan trọng của các doanh nghiệp vừa

và nhỏ trong nền kinh tế và ngày càng gắn bó chặt chẽ với doanh nghiệp lớn,

hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy doanh nghiệp lớn phát triển. Bên cạnh đó, tác giả cũng

đưa ra một định nghĩa tương đối toàn diện về doanh nghiệp vừa và nhỏ: “Doanh

nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân

14

kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới

hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng

thu được trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia” [23].

Bài viết “Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa: khái niệm, đặc điểm, hạn

chế và lựa chọn chính sách” của tác giả Lương Văn Khôi đăng trên Tạp chí

Kinh tế và Dự báo số 03/2003 đã đề cập về khái niệm DNVVN, đặc điểm, lợi

thế tiềm năng cũng như hạn chế của khối doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, tác

giả cũng khẳng định vai trò quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc

đóng góp phát triển kinh tế quốc gia [25]. Tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh với bài

viết “Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa với tăng trưởng kinh tế Việt Nam”

đăng trên tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới đã khẳng định vai

trò và tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tăng trưởng kinh tế.

Tác giả cũng đề xuất giải pháp nói chung nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư cho

giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu xã hội, góp phần nâng

cao chất lượng, năng suất lao động của các doanh nghiệp [33].

1.1.3. Nhóm công trình đề cập đến các nhân tố tác động và chính sách hỗ trợ

của Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

Bàn về các nhân tố tác động đến sự phát triển của DNVVN có thể thấy

rằng đầu tiên, các doanh nghiệp cần có một tiềm lực nội tại tốt, bao gồm các

yếu tố: vốn, công nghệ, trình độ nguồn nhân lực, trình độ marketing. Tiếp đó,

các DNVVN cần phải nhận được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua các

chính sách, cơ chế thông thoáng, môi trường thân thiện để phát triển, và một

phần không nhỏ khác là sự hỗ trợ từ phía các hiệp hội DNVVN. Trong tất cả

các yếu tố trên thì chính sách hỗ trợ của nhà nước được xem là có vai trò quan

trong nhất đối với sự phát triển của các DNVVN.

15

Với việc đánh giá vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như xương

sống của nền kinh tế, đảm bảo sự tăng trưởng, sáng tạo, tạo công ăn việc làm

và các gắn kết trong xã hội, Liên minh châu Âu đã xác định việc xây dựng các

chính sách giúp phát triển khối doanh nghiệp này một cách nhanh và bền vững;

bao gồm: tạo một môi trường kinh doanh thân thiện; khuyến khích các doanh

nghiệp thông qua các “Chương trình hành động vì doanh nghiệp”, giúp tiếp cận

các nguồn tài chính trên thị trường, tiếp cận các thị trường mới, đặc biệt là thị

trường ngoài khối; cung cấp các mạng lưới hộ trợ và thông tin kịp thời, đặc biệt

là các doanh nghiệp đang trong quá trình khởi nghiệp, ví dụ “Cổng kết nối

nguồn vốn”, “Mạng lưới doanh nghiệp châu Âu”, “Cổng kết nối doanh nghiệp

châu Âu”, “Kênh hỗ trợ doanh nghiệp quốc tế hóa” [1].

Bài viết “Alternative Approaches in Evaluating the EU SME Policy:

Answers to the Question of Impact and Legitimization” của tác giả Robert K.

Gruenwald đăng trên tạp chí Entrepreneurial Business and Economics Review

tháng 01 năm 2014 với mục tiêu nhằm đánh giá các chính sách hiện hành hỗ

trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước EU và các giải pháp giúp

cải tiến tình hình. Nghiên cứu sử dụng các phương pháp đánh giá khác nhau,

được áp dụng rộng rãi bởi OECD, EU và các chương trình được tài trợ, cung

cấp bởi KfW và Bộ Kinh tế Đức nhằm đánh giá mối quan hệ nhân quả giữa sự

phân bổ và hiệu quả tài trợ trong các chính sách hỗ trợ khối doanh nghiệp vừa

và nhỏ ở EU [107].

Báo cáo của Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên bang Đức xuất bản năm

2016 với tiêu đề “Future of the German Mittelstand: Action Programme” trình

bày 10 vấn đề trong chương trình hành động giúp thúc đẩy sự phát triển

DNVVN ở Đức trong tương lai; cụ thể bao gồm: (1) Thúc đẩy tinh thần khởi

nghiệp, (2) Tăng cường và đảm bảo quyền tiếp cận tài chính của doanh nghiệp,

16

(3) Hỗ trợ giải quyết sự thiếu hụt kỹ năng trong công việc, tăng cường đào tạo

tay nghề, (4) Xóa bỏ rào cản thể chế, quan liêu, (5) Sử dụng số hóa, (6) Tăng

cường năng lực sáng tạo, (7) Tận dụng cơ hội từ toàn cầu hóa, (8) Giúp định

hình chính sách doanh nghiệp vừa và nhỏ ở châu Âu, (9) Tăng cường hỗ trợ

các doanh nghiệp còn yếu về mặt cấu trúc, (10) Hỗ trợ phát triển các lĩnh vực

kinh doanh mới xuất phát từ quá trình chuyển đổi năng lượng [96].

Báo cáo “The role of small and medium-sized enterprises in

development: What can be learned from the German experience?” của tác giả

Hansjörg Herr và Zeynep M. Nettekoven, xuất bản năm 2017 tại Berlin nhận

định rằng Đức là một hình mẫu lý tưởng trong chính sách hỗ trợ và phát triển

các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó, sự hỗ trợ thông qua các chính sách của

chính phủ như hỗ trợ vay vốn không vì mục đích lợi nhuận, hệ thống dạy nghề

tốt, kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn; sự hoạt động sôi nổi của các Hiệp hội

và công đoàn…là những yếu tố chính giúp khối doanh nghiệp này phát triển.

Tất cả những điều này đều là bài học cho các quốc gia đang phát triển có thể

học hỏi [110].

Báo cáo “The German Mittelstand – an Overview” của Tổ chức hợp tác

quốc tế Đức (GIZ) xuất bản năm 2012 đã cung cấp một cái nhìn tổng quan,

ngắn gọn bức tranh về quá trình phát triển của các Mittelstand – các doanh

nghiệp vừa và nhỏ ở Đức trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của nền kinh tế

Đức, đặc biệt kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 kết thúc. Chính phủ Đức

đã đánh giá cao vai trò của khối doanh nghiệp này trong phát triển kinh tế và

đề xuất những chính sách thiết thực trực tiếp và cụ thể như “chính sách

Mittelstand” năm 1970 nhằm tạo ra một hành lang điều kiện phát triển cho các

doanh nghiệp. Ngày nay, khi gia nhập Liên minh châu Âu, chính sách hỗ trợ

doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức được thực hiện theo “Đạo luật doanh nghiệp

17

nhỏ” của EU với những quy định và chế tài chung của Liên minh. Bên cạnh đó,

Đức vẫn có các tổ chức riêng đại diện cho quyền lợi của các doanh nghiệp vừa

và nhỏ, sự hỗ trợ của các ngân hàng như KfW và các cơ quan chuyên trách

riêng giúp định hướng và thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp [105].

Tại Việt Nam, rất nhiều các học giả đã nghiên cứu về những nhân tố tác

động và chính sách hỗ trợ của nhà nước đến DNVVN. Nghiên cứu về các công

trình đề cập đến chính sách hỗ trợ của nhà nước dối với DNVVN ở Việt Nam,

bài viết “Một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển trong nền

kinh tế hiện nay” của Tô Thị Thùy Trang – Viện Nghiên cứu Phát triển TP. Hồ

Chí Minh trên Tạp chí Nghiên cứu Phát triển đã đề xuất sáu giải pháp chính

nhằm giúp khắc phục những khó khăn, vướng mắc và hỗ trợ khối doanh nghiệp

vừa và nhỏ phát triển. Theo đó, tác giả đề xuất cần có định hướng chiến lược,

cơ chế chính sách phù hợp, đặc biệt là xây dựng hệ thống các tổ chức tài chính

nhằm phục vụ cho nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh

đó, tích cực nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tận dụng tốt các chính sách

ưu tiên về thuế đang được Nhà nước hỗ trợ; ngoài ra cần nâng cao ý thức về

vai trò, tầm quan trọng của ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động

sản xuất kinh doanh [37].

Bài viết “Tác động hỗ trợ chính phủ đến hoạt động cải tiến của các

doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam” của Trần Quang Tuyến và Vũ Văn Hưởng

đăng trên Tạp chí Khoa học ĐHQHGN: Kinh tế và Kinh doanh Tập 34, Số 4

(2018) đã đánh giá tác động hỗ trợ của chính phủ đến hoạt động cải tiến của

các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Sử dụng bộ số liệu mảng trong

giai đoạn 2007-2015, nghiên cứu chỉ ra rằng hỗ trợ chính phủ có ảnh hưởng

tích cực đến hoạt động cải tiến, đổi mới sản phẩm và ứng dụng công nghệ mới

của các doanh nghiệp. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hỗ trợ chính phủ duy nhất

18

có ảnh hưởng tích cực đến khả năng sáng tạo, đổi mới sản phẩm hiện có và đổi

mới quy trình đối với các doanh nghiệp chính thức. Kết quả hàm ý rằng chính

phủ đã đầu tư một cách đáng kể vào việc hỗ trợ hoạt động cải tiến. Để các chính

sách này thực sự hiệu quả thì cần đi cùng với các chính sách khác nhằm thúc

đẩy doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa chuyển đổi từ hình thức phi chính thức

sang chính thức [42].

Bài viết “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tiến trình hội nhập

kinh tế quốc tế” của Phạm Xuân Giang – Khoa Quản trị kinh doanh – Trường

ĐH Công nghiệp TP.HCM đăng trên Tạp chí Công nghiệp năm 2009 đã chỉ ra

những khó khăn từ chính bản thân các DNVVN là chậm đổi mới và cũng từ sự

thiếu vắng một khung pháp lý hoàn chỉnh cho sự phát triển của nhóm doanh

nghiệp này. Qua đó, tác giả đã đưa ra bốn giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ những

khó khăn: (1) Liên kết với các cơ sở đào tạo để cung ứng nguồn nhân lực cho

các doanh nghiệp vừa và nhỏ (2) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải nhanh

chóng đổi mới công nghệ (3) Giải quyết các khó khăn liên quan đến vốn (4)

Trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có đủ các thông tin cần thiết [19].

Tác phẩm “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa – kinh nghiệm Việt nam

và Đức” của Hội đồng lý luận Trung Ương, xuất bản năm 2017 bởi Nhà xuất

bản Chính Trị Quốc Gia là tập hợp những bài viết chuyên sâu của các học giả,

các nhà quản lý Việt Nam và Đức đề cập sâu rộng những vấn đề xung quanh

sự phát triển của DNVVN như: vai trò, tầm quan trọng của DNVVN trong nền

kinh tế, kinh nghiệm phát triển của Việt Nam và Đức; cơ hội và thách thức đối

với DNVVN cùng các chủ trương, chính sách của Đảng Cộng Sản Việt nam và

Đảng Dân chủ xã hội Đức để hỗ trợ DNVVN phát triển; biện pháp thiết thực

để đổi mới, sáng tạo và phát triển DNVVN trong giai đoạn mới [22].

19

Trong quá trình nghiên cứu các công trình đi trước, tác giả luận án nhận

thấy có rất nhiều các công trình đề cập đến các nhân tố tác động và chính sách

hỗ trợ đối với các DNVVN; tuy vậy, các công trình này chủ yếu tập trung vào

nghiên cứu đối tượng là khối các DNVVN ở Liên minh châu Âu nói chung mà

đối tượng là các DNVVN ở Đức chưa được chú ý nhiều. Cụ thể, bài viết của

tác giả Đặng Minh Đức đăng trên Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 02/2003 về

“Chính sách về doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 2001-2005 ở Liên minh

châu Âu” đã trình bày một cách tổng thể về chính sách chung của Liên minh

trong giai đoạn 05 năm này. Cụ thể mục tiêu nhằm tạo ra khung pháp lý khuyến

khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động và thích ứng trong bối cảnh cạnh

tranh thời điểm hiện tại, bao gồm: (1) Thúc đẩy các hoạt động kinh doanh, đặc

biệt trong định hướng người tiêu dùng và trao đổi mạnh hơn nữa trong lĩnh vực

dịch vụ; (2) Khuyến khích một môi trường kinh doanh phát triển bền vững

trong đó việc nghiên cứu, sự đổi mới và hoạt động kinh doanh có thể phát huy

được hiệu quả cao nhất; (3) Cải thiện môi trường tài chính cho doanh nghiệp

vừa và nhỏ; (4) Nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

trong nền kinh tế tri thức và quá trình quốc tế hóa đang diễn ra mạnh mẽ; (5)

Đảm bảo cho hệ thống trợ giúp trong kinh doanh và dịch vụ cho doanh nghiệp

được cung cấp và được điều phối một cách có hiệu quả [18]. Bài viết “Chính

sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số quốc gia và bài học

cho Việt Nam” của Phạm Thái Hà đăng trên Tạp chí tài chính, số 675, 02/2018

đã nghiên cứu về chính sách phát triển nói chung và hỗ trợ tài chính doanh

nghiệp vừa và nhỏ nói riêng của một số quốc gia có nền kinh tế phát triển. Qua

đó rút ra bài học và kinh nghiệm cho Việt Nam [20].

Bài viết “Chính sách của EU đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm

ứng phó khủng hoảng và suy thoái” của tác giả Đinh Mạnh Tuấn, đăng trên

Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 10 năm 2013 đã tóm lược khái quát những

20

chính sách của EU đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trước khủng hoảng (kể từ

những năm 1990 trở đi). Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích những điều chỉnh

về mặt chiến lược của EU, đặc biệt kể từ khi ban hành “Đạo luật về doanh

nghiệp nhỏ - Small Business Act” năm 2008 nhằm ứng phó với cuộc khủng

hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu. Kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra,

EU đã có những hỗ trợ cần thiết để đảm bảo khối doanh nghiệp này được ổn

định hoạt động; ví dụ như cung cấp các khoản vay ưu đãi khi thị trường tài

chính thiếu ổn định; Cung cấp các khoản tài trợ củng cố (mezzanine financing);

Cải cách cơ cấu các khoản vay; Giảm bớt những gánh nặng xã hội và hạ tỉ lệ

thuế VAT [39].

Bài viết của tác giả Nguyễn Như Đến đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Châu

Âu số 02/2007 về “Những định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của

EU hiện nay” đã trình bày một cách khái quát về những vấn đề mà EU quan

tâm nhằm định hình khối DNVVN phát triển, trong đó bao gồm mười mục tiêu:

(1) Giáo dục và đào tạo về kinh doanh; (2) Hoàn thiện hệ thống pháp luật; (3)

Nâng cao đào tạo kỹ năng; (4) Rút ngắn quá trình và hạ chi phí thành lập doanh

nghiệp; (5) Đẩy mạnh cách tiếp cận trực tuyến; (6) Nhanh chóng thoát khỏi tình

trạng thị trường đơn lẻ; (7) Các vấn đề về thuế và tài chính; (8) Nâng cao khả

năng công nghệ cho các DNVVN; (9) Xây dựng mô hình thương mại điện tử

và khuyến khích doanh nghiệp nhỏ mũi nhọn; (10) Phát triển mạnh mẽ và đại

diện hiệu quả hơn nữa quyền lợi của doanh nghiệp nhỏ ở cấp Liên minh và

quốc gia [17].

Bài viết của tác giả Trần Thị Thu Huyền đăng trên Tạp chí Nghiên cứu

Châu Âu số 10/2016 với tiêu đề “Các hình thức trợ cấp nhà nước đối với doanh

nghiệp nhỏ và vừa ở Liên minh châu Âu” đã chia các hình thức trợ cấp của Nhà

nước nói chung thành hai nhóm cơ bản: (1) Các hỗ trợ tài chính cho DNVVN;

21

(2) Các biện pháp hỗ trợ cho sự tăng trưởng và phát triển của các DNVVN.

Những biện pháp trợ cấp cụ thể này giải quyết những vấn đề khác nhau kết hợp

với những Quy định ngoại lệ chung (GBER) tạo nên một khuôn khổ toàn diện

cho chính sách trợ cấp Nhà nước của EU hiện nay [24].

Bài viết “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: cơ hội, thách thức đối với

khởi sự doanh nghiệp và doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Liên minh châu Âu” của

tác giả Đinh Mạnh Tuấn – Viện Nghiên cứu Châu Âu, đăng trong Hội thảo

Khoa học Quốc Gia “Khởi nghiệp và đổi mới trong kinh doanh” tháng 11 năm

2018 đã phân tích về cơ hội của các DNVVN châu Âu trong bối cảnh mới nếu

tận dụng được lợi thế của khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, tác giả cùng đề

cập về những chính sách mà EU đã ban hành nhằm tạo điều kiện hỗ trợ, khuyến

khích các DNVVN chuyển mình, bao gồm việc chuyển dịch sang nền kinh tế

số, tạo lập tinh thần kinh doanh kỹ thuật số, thu hút nhân lực tài năng và có kỹ

năng về công nghệ cao, tạo thuận lợi cho tiếp cận tài chính và tận dụng các cơ

hội của thị trường đơn nhất về kỹ thuật số [41].

Bài viết của tác giả Hoàng Xuân Trung, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu

châu Âu số 08/2016 về “Trợ cấp nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở

Pháp, Đức và gợi mở kinh nghiệm cho Việt Nam” đã xem xét quá trình hỗ trợ

từ Nhà nước đối với các DNVVN. Trong đó tại Đức, ngoài vấn đề hỗ trợ về

vốn, tài chính, Nhà nước còn tạo ra môi trường hành lang pháp lý, những quy

định chặt chẽ được quy định cụ thể trong luật. Ở Đức có hai cơ quan phụ trách

cơ bản dành cho khối doanh nghiệp này là Ngân hàng Đền bù Đức (DtA) với

mục tiêu chung cấp các khoản vốn đầu tư khởi nghiệp cho doanh nghiệp, và

Ngân hàng Tái thiết Đức (KtW) chuyên cung cấp các khoản vay vốn cho các

doanh nghiệp đang hoạt động. Tuy nhiên do hoạt động có sự chồng chéo nên

22

Chính phủ Đức đã hợp nhất hai ngân hàng này thành một ngân hàng mới KtW

với nhiệm vụ chính vẫn là hỗ trợ cho các DNVVN về mặt tài chính [38].

Đặc biệt phải kể đến Luận văn tiến sĩ “Chính sách của EU đối với các

doanh nghiệp vừa và nhỏ từ năm 2000 đến nay” của tác giả Đinh Mạnh Tuấn

[40, Viện Nghiên cứu châu Âu và đề tài cấp Bộ “Khuôn khổ pháp lý của Liên

minh châu Âu về trợ cấp nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa và gợi mở

chính sách cho Việt Nam” của tác Nguyễn Đức Minh, Viện Nghiên cứu châu

Âu [28]. Đây là hai trong nhiều công trình trình bày rõ nét về chính sách pháp

luật và khuôn khổ pháp lý của châu Âu nói chung trong việc hỗ trợ thúc đẩy và

phát triển các DNVVN trong Liên minh. Mặc dù vậy, đối tượng DNVVN ở

Đức lại không được đề cập đến.

1.1.4. Nhóm công trình đề cập những vấn đề tồn tại của doanh nghiệp vừa

và nhỏ

Bên cạnh những thuận lợi mà các DNVVN có được, những rào cản mà

các DNVVN đang gặp phải cũng được các nghiên cứu chỉ ra như: khả năng

tiếp cận nguồn vốn, nguồn nhân lực.v.v. Bàn về vấn đề tiếp cận nguồn vốn, bài

viết “Thinking small: EU SME Policy” của tác giả Jean-Marie Avezou năm

2015 đã đề cập về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của Liên minh

châu Âu. Theo đó, khối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước EU nói chung vẫn

gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài chính, các cơ hội xâm

nhập thị trường, đặc biệt thị trường mới bên ngoài EU; ngoài ra sự quan liêu,

cứng nhắc trong việc thực thi chính sách cũng là một trong những rào cản cho

khối doanh nghiệp này phát triển. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề xuất các ưu tiên

trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, giúp tạo nhiều việc

làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung [117].

23

Đề cập về những rào cản liên quan đến nguồn nhân lực, bài viết của Olaf

Storbeck trên Financial Times năm 2018 đã chỉ ra một thực tế đáng lo ngại mà

các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức đang phải đối mặt đó là “cuộc khủng hoảng

thế hệ” đang âm thầm diễn ra khi mà trong vòng năm năm tới, có hơn 840,000

người chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức sẽ nghỉ hưu và chưa tìm được thế

hệ kế cận và đây là rào cản rất lớn cho các Mittelstands ở Đức duy trì được sự

phát triển [146].

Ngoài ra, tác phẩm “The Challenges of Industry 4.0 for Small and

Medium-sized Enterprises” của tác giả Christian Schroder xuất bản bởi

Friedrich-Ebert-Stiftung năm 2016 đã trình bày những khó khăn của các

DNVVN ở Đức trong cuộc đua của cách mạng công nghệ 4.0. Theo tác giả, các

DNVVN thiếu một chiến lược công nghiệp 4.0 toàn diện so với các công ty

lớn. Các doanh nghiệp lớn với lợi thế về quy mô, vốn, công nghệ, con người,

có nhiều lợi thế hơn trong việc áp dụng các công nghệ mới. Hiện tại, các

DNVVN ở Đức mới chỉ dừng ở mức thích nghi với các tiêu chuẩn của các công

ty lớn mà họ cung cấp. Và với tốc độ phát triển của khoa học-kỹ thuật như hiện

tại, nếu không bắt kịp xu hướng và tích hợp các công nghệ mới, các thành tựu

của khoa học hiện đại thì các DNVVN ở Đức sẽ gặp nhiều bất lợi trong việc

cạnh tranh với các đối thủ từ bên ngoài [71].

1.2. Khoảng trống nghiên cứu và hướng nghiên cứu của đề tài

1.2.1. Đóng góp của của các công trình đi trước:

Điểm lại các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về sự phát triển

của DNVVN có thể thấy rằng khái niệm “doanh nghiệp vừa và nhỏ” là khái

niệm còn gây nhiều tranh cãi và chưa có được sự đồng nhất trong việc áp dụng

chung giữa các quốc gia. Tuy có sự khác biệt nhưng các nghiên cứu trên cũng

đã đưa ra được một số định nghĩa khá rõ ràng, cung cấp những tiêu chí đánh

24

giá, phân loại DNVVN với doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế. Bên cạnh đó,

các nghiên cứu cũng khẳng định vai trò quan trọng của các DNVVN trong phát

triển kinh tế ở cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Thêm vào đó, các

công trình đi trước cũng đề cập đến một số chính sách Nhà nước hỗ trợ các

DNVVN, cả về mặt vĩ mô và vi mô.

Ngoài ra, các nghiên cứu cũng đồng ý rằng để phát triển DNVVN cần

đòi hỏi một chiến lược tổng thể, xuyên suốt, liên quan đến nhiều khía cạnh,

trong đó Nhà nước đóng vai trò là người điều tiết, tạo ra một môi trường thuận

lợi để khối doanh nghiệp này có thể lớn mạnh. Cụ thể, Nhà nước cần duy trì

được các chính sách kinh tế vĩ mô ổn định, lành mạnh, môi trường kinh doanh

thuận lợi; đơn giản hóa các khung pháp lý, thủ tục hành chính; đảm bảo cơ sở

hạ tầng; hỗ trợ giáo dục, đào tạo tay nghề cho người lao động với đủ sức khỏe

và kỹ năng; hỗ trợ tín dụng cần thiết và xây dựng được các liên kết thương mại

và đầu tư trong nền kinh tế.

1.2.2. Một số vấn đề các công trình trên còn bỏ ngỏ, cần tiếp tục nghiên cứu:

Thứ nhất, trong quá trình rà soát các công trình nghiên cứu đi trước, tác

giả luận án nhận thấy chưa có nhiều công trình hệ thống hóa được đầy đủ các

vấn đề từ lý thuyết như khái niệm, phân loại, vai trò đến các nhân tố tác động,

tiêu chí đánh giá sự phát triển của các DNVVN. Các công trình nghiên cứu

trước đây chủ yếu tập trung đề cập đến một hoặc vài khía cạnh riêng lẻ của hệ

thống lý thuyết. Theo đó, đây được xem là nhiệm vụ mà luận án tiếp tục nghiên

cứu và hoàn thiện.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu trước đây chủ yếu phân tích về đối

tượng là khối DNVVN ở châu Âu nói chung, ít công trình nghiên cứu, phân

tích và đánh giá về sự phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế Đức. Những

công trình có nghiên cứu thì thường chủ yếu đề cập đến những tác động tích

25

cực, mặt ưu điểm của các DNVVN, còn những khó khăn và thách thức mà các

DNVVN đang và sẽ phải đối mặt thì vẫn ít được nhắc tới. Ưu điểm và những

vấn đề còn tồn tại trong quá trình phát triển DNVVN ở Đức vẫn chưa được đề

cập nhiều.

Thứ ba, trong quá trình tìm kiếm tài liệu, tác giả luận án nhận thấy vẫn

còn thiếu những đề tài nghiên cứu riêng giai đoạn từ năm 2000 đến nay về kinh

nghiệm phát triển DNVVN ở Đức để từ đó rút ra các bài học thực tiễn cho Việt

Nam, như phân tích cụ thể quá trình các DNVVN ở Đức thích nghi với sự thay

đổi từ các chính sách chung của Liên minh châu Âu như thế nào; ví dụ việc

Liên minh châu Âu liên tục đổi mới và đưa ra các chiến lược như “Chiến lược

Lisbon về tăng trường việc làm” năm 2000 hay việc ban hành “Chính sách hiện

đại đối với DNVVN” năm 2005, và đặc biệt sự ra đời của “Đạo luật doanh

nghiệp nhỏ” năm 2008 trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu

đang diễn ra. Ngoài ra, một loạt những khó khăn trong tương lai mà các

DNVVN ở Đức đang phải đối mặt như “cuộc khủng hoảng thế hệ” đang âm

thầm diễn ra, các DNVVN ở Đức đang phải tìm kiếm những thế hệ kế cận tiếp

nối công việc của doanh nghiệp; hay cuộc đua trong Cách mạng công nghiệp

4.0 đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ mà nếu không bắt kịp thì các DNVVN ở

Đức có nguy cơ bị tụt hậu vẫn chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến.

Do vậy, nhiệm vụ của Luận án là tiếp tục kế thừa những kết quả nghiên

cứu của các tác giả đi trước, đồng thời cố gắng nghiên cứu, giải quyết những

vấn đề còn bỏ ngỏ.

26

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH

NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

2.1. Lý luận về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ

2.1.1. Lý thuyết của Penrose về sự phát triển doanh nghiệp:

Penrose đã tham gia nghiên cứu về sự phát triển của các doanh nghiệp

và đặc biệt tập trung phân tích về nguồn lực tạo ra sự tăng trưởng cũng như các

nhân tố cản trở đến sự tăng trưởng thông qua nghiên cứu quá trình sản xuất và

cạnh tranh của doanh nghiệp. Lý thuyết về sự phát triển doanh nghiệp được tác

giả hoàn thành vào năm 1959, trong đó tác giả đề cập đến mối quan hệ giữa

nguồn lực và quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tác giả nhận

định bản thân các nguồn lực chưa thể được xem là yếu tố đầu vào cho quá trình

sản xuất kinh doanh mà tùy thuộc vào từng doanh nghiệp sử dụng các nguồn

lực đó theo những cách thức như thế nào dựa trên kinh nghiệm, trình độ của

người lao động, năng lực của quản lý thì các nguồn lực đó mới trở thành nhân

tố giúp doanh nghiệp tăng trưởng [151]. Tác giả cho rằng kết quả mà các nguồn

lực mang lại thể hiện cách thức và mục đích mà các doanh nghiệp sử dụng

nguồn lực đó như thế nào, và các kết quả đạt được sẽ khác nhau nếu cách thức,

mục đích sử dụng các nguồn lực là khác nhau. Penrose cũng khẳng định năng

lực quản lý có tác động không nhỏ đến sự tăng trưởng và phát triển của doanh

nghiệp. Năng lực quản lý là sự đúc kết từ kinh nghiệm, kiến thức của người

quản lý và sẽ giúp doanh nghiệp tăng trưởng trong một giai đoạn nhất định.

Đến một thời điểm nào đó, đội ngũ quản lý cũ sẽ không còn đủ khả năng để

duy trì tiếp tục sự phát triển của doanh nghiệp nên sẽ cần bổ sung và thay thế

bởi đội ngũ quản lý mới [151]. Quan điểm về phát triển doanh nghiệp dựa trên

27

nguồn lực của Penrose là tiền đề cho rất nhiều tài liệu về quản trị chiến lược

sau này.

Trong khuôn khổ của luận án, lý thuyết của Penrose về sự phát triển của

doanh nghiệp sẽ giúp giải thích quá trình mà các DNVVN ở Đức vận dụng các

nguồn lực nội tại của doanh nghiệp, kết hợp với năng lực quản lý của người

chủ doanh nghiệp cùng đội ngũ người lao động giàu kinh nghiệm, gắn bó, có

tính cam kết cao trong công việc giúp doanh nghiệp tăng trưởng và luôn duy trì

vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia.

2.1.2. Lý thuyết nguồn lực doanh nghiệp và năng lực động của doanh nghiệp

Để có thể phát triển, doanh nghiệp cần phải tạo ra được lợi thế cạnh tranh

trên thị trường và muốn vậy thì phải có những nguồn lực phù hợp để tạo ra sự

khác biệt đó. Điều này càng đúng hơn với đối tượng là các DNVVN khi mà

nguồn lực sẵn có rất hạn chế nên các doanh nghiệp phải tự tìm kiếm và xác

định các nguồn lực để có thể tạo nên lợi thế cạnh tranh bền vững cho riêng

mình trong một môi trường nhiều biến động.

Quan điểm của một số lý thuyết cạnh tranh truyền thống dường như

không còn phù hợp khi mà Barney (1991) cho rằng lợi thế cạnh tranh của doanh

nghiệp nếu không được xây dựng dựa trên nền tảng nguồn lực bên trong của

doanh nghiệp đó thì sẽ không thể tạo được ưu thế lâu dài vì hoàn toàn có thể bị

bắt chước [58]. Đây được xem là cơ sở để cho lý thuyết nguồn lực của doanh

nghiệp (resource-based view of the firm) ra đời. Theo đó, lý thuyết nguồn lực

của doanh nghiệp do Wernerfelt đề xuất năm 1984 được xây dựng dựa trên tiền

đề là các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một lĩnh vực nhưng có những

chiến lược kinh doanh khác nhau. Và các chiến lược kinh doanh này không thể

sao chép vì nó được xây dựng dựa trên đặc tính về nguồn lực sẵn có của doanh

nghiệp ấy [174]. Rindova và Fombrun (1999) [156] cho rằng các nguồn lực và

28

năng lực cốt lõi của doanh nghiệp là nhân tố chính giúp doanh nghiệp có thể có

được lợi thế cạnh tranh. Vì vậy, khi phân tích lợi thế cạnh tranh thì phải dựa

vào phân tích nguồn lực. Có thể thấy rằng, việc hỗ trợ các nguồn lực phù hợp

và chính sách kịp thời đóng vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát

triển của DNVVN vì các doanh nghiệp này vốn gặp nhiều bất lợi về nguồn lực

(vốn, lao động, quy mô…) và luôn cần nhận sự hỗ trợ. Lý thuyết nguồn lực

cung cấp một cơ chế giúp các doanh nghiệp có thể tìm ra giải pháp phù hợp cho

từng hoàn cảnh để vượt qua các trở ngại về sự tăng trưởng, tiếp cận tốt hơn với

các nguồn lực như công nghệ, lao động, tài chính, cơ sở hạ tầng và tiếp cận thị

trường. Theo Barney (1991) [59] và Grant (1991) [106], bốn nguồn lực hữu

hình ở đây là nguồn lực tài chính, nguồn lực tổ chức, nguồn lực vật chất và

nguồn lực công nghệ và ba nguồn lực vô hình là nguồn nhân lực, nguồn lực đổi

mới và sự uy tín/danh tiếng. Nếu kết hợp nhuần nhuyễn các nguồn lực này với

sự hỗ trợ kịp thời thì DNVVN sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển

trong nền kinh tế.

Theo thời gian, lý thuyết nguồn lực cũng được phát triển và được mở

rộng trong một môi trường động, nhằm đáp ứng với sự thay đổi của môi trường

kinh doanh. Đây là cơ sở để hình thành nên lý thuyết năng lực động (dynamic

capabilities theory). Ambrosini và Bowman (2009) cho rằng, lý thuyết năng lực

động giúp giải thích được việc làm thế nào mà các doanh nghiệp có thể tạo ra

được lợi thế cạnh tranh trong một môi trường có sự biến đổi nhanh chóng. Lợi

thế cạnh tranh này cũng sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo ra nhiều lợi nhuận hơn,

giúp doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển [54]. Tổng hợp lại, theo Teece và

cộng sự (1997), năng lực động được thể hiện ở khả năng tích hợp và xác định

những tiềm năng cả bên trong và ngoài của doanh nghiệp để đáp ứng với sự

biến động của môi trường [165]. Và những nguồn lực để có thể trở thành năng

lực động và giúp doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh phải đáp ứng được các

29

tiêu chí: giá trị, hiếm, khó thay thế và khó bị bắt chước [81]. Và sáu thành phần

chính của năng lực động bao gồm: năng lực nhận thức, năng lực tiếp thu, năng

lực thích nghi, năng lực sáng tạo, năng lực kết nối và năng lực tích hợp [65].

Trong khuôn khổ của luận án, lý thuyết nguồn lực doanh nghiệp và năng

lực động của doanh nghiệp sẽ giúp luận án giải thích rằng những nguồn lực và

năng lực cốt lõi của DNVVN ở Đức chính là tiền đề giúp khối doanh nghiệp

này có thể tạo ra một lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh môi trường trong nước

và quốc tế có nhiều biến động, bên cạnh sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ thông

qua các chính sách giúp các doanh nghiệp tăng khả năng tiếp cận tín dụng, đổi

mới công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhận lực và tiếp cận các thị trường

mới trên phạm vi toàn cầu thông qua vai trò của các Hiệp hội v.v.

2.1.3. Lý thuyết phát triển theo giai đoạn

Nhiều học giả đồng tình rằng, vòng đời tăng trưởng và phát triển của

doanh nghiệp thường được chia thành nhiều mốc giai đoạn và mỗi giai đoạn lại

có những đặc tính biểu thị khác nhau. Mặc dù vậy, các học giả chưa có sự thống

nhất trong việc phân chia số giai đoạn trong vòng đời phát triển của doanh

nghiệp. Trong khi Cooper (1979) cho rằng sự phát triển của doanh nghiệp

thường trải qua ba giai đoạn [75] thì Flamholtz (1986) lại cho rằng có thể chia

thành bảy giai đoạn [103]. Thậm chí Adizes (1989) đề xuất mô hình với 10 giai

đoạn phát triển của doanh nghiệp [51]. Dường như, không có sự thống nhất

giữa các nhà nghiên cứu về việc xác định chính xác các giai đoạn tăng trưởng

và phát triển của doanh nghiệp. Tuy vậy, một trong những công bố nổi tiếng

nhất, được nghiên cứu tỉ mỉ và nhắc đến rộng rãi nhất là lý thuyết của Greiner

về “mô hình phát triển sáu giai đoạn” [137].

Mô hình này được ông đề xuất năm 1972 (mới đầu ông chỉ chia thành

năm giai đoạn). Quan điểm của ông là các doanh nghiệp luôn vận động và thay

30

đổi, giống như các sinh vật trong quá trình sinh trưởng và phát triển của mình

thường trải qua các giai đoạn khác nhau. Ông cho rằng mỗi khi doanh nghiệp

chuyển sang một giai đoạn tăng trưởng mới thì sẽ gắn với một “cuộc khủng

khoảng ngắn” chuyển giao [131]. Mô hình này cũng giúp giải đáp các câu hỏi

rằng giai đoạn nào thì tương ứng với cách quản lý và chiến lược phát triển nào

của doanh nghiệp, từ đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát hơn về quá trình

tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp đó.

Hình 2.1: Mô hình phát triển sáu giai đoạn của Greiner

Nguồn: Mella, Piero & Pellicelli, Michela. (2008).

 Giai đoạn một: “Phát triển thông qua sự sáng tạo”

Đây là giai đoạn đầu tiên của doanh nghiệp. Doanh nghiệp vừa mới thành

lập nên quá trình chính của giai đoạn này là sản xuất sản phẩm và đưa ra thị

31

trường. Doanh nghiệp chưa có nhiều nhân viên cũng như những nội quy doanh

nghiệp chưa quy định chặt chẽ. Trong giai đoạn này, doanh nghiệp phát triển

rất nhanh và người lãnh đạo doanh nghiệp khó có thể kiểm soát mọi tình hình.

Cuối giai đoạn này sẽ là “cuộc khủng hoảng lãnh đạo” khi mà yêu cầu về sự

quản lý chuyên nghiệp được đặt ra. Doanh nghiệp cần có sự cải tiến về cơ cấu

tổ chức của mình.

 Giai đoạn hai: “Phát triển thông qua sự định hướng”

Trong giai đoạn này, doanh nghiệp tiếp tục phát triển và các quy trình và

hệ thống quản lý dần được chuyên nghiệp hóa. Một số vị trí lãnh đạo trung gian

được thành lập để hỗ trợ điều hành công việc. Tuy nhiên, việc điều hành chính

vẫn thuộc về người sáng lập doanh nghiệp và công tác điều hành có thể gây quá

tải với người lãnh đạo. Cuộc “khủng hoảng về sự tự quản” sẽ xuất hiện ở cuối

giai đoạn này.

 Giai đoạn ba: “Phát triển thông qua sự ủy quyền”

Doanh nghiệp tiếp tục phát triển và người sáng lập sẽ trao quyền cho các

vị trí quản lý cấp trung gian với sự tự chủ nhất định. Người sáng lập/lãnh đạo

cao nhất sẽ chỉ giám sát các công việc và xử lý các vấn đề lớn. Mặc dù vậy, sự

lúng túng sẽ xuất hiện giữa các vị trí quản lý trong giai đoạn này vì bộ máy hoạt

động sẽ gặp khó khăn bước đầu trong giai đoạn phối hợp tất cả các vị trí với

nhau. Cuộc “khủng hoảng về quản lý” sẽ xuất hiện ở cuối giai đoạn.

 Giai đoạn bốn: “Phát triển thông qua sự phối hợp & giám sát”

Trong giai đoạn này, các chính sách và thủ tục hành chính sẽ được chuẩn

hóa và áp dụng trong toàn doanh nghiệp. Việc chuẩn hóa này bước đầu sẽ mang

lại hiệu quả tốt vì giúp doanh nghiệp hoạt động bài bản, chặt chẽ hơn. Tuy

nhiên, một cuộc “khủng hoảng về quan liêu” sẽ phát sinh ở cuối giai đoạn này

32

và các quy định sẽ khiến cho doanh nghiệp hoạt động một cách cứng nhắc thiếu

linh hoạt.

 Giai đoạn năm: “Phát triển thông qua hợp tác”

Giai đoạn này sẽ chứng kiến sự phá vỡ cấu trúc truyền thống (phối hợp

phân tầng) trong doanh nghiệp bằng việc xây dựng những mối liên kết linh hoạt

hơn (loại bỏ sự quan liêu) bằng sự hợp tác giữa nhân viên các bộ phận với người

quản lý thông qua một hình thái mới như cấu trúc ma trận hay cấu trúc dự án.

Điều này dẫn đến các hoạt động kiểm soát và giám sát nội bộ sẽ bị suy yếu,

doanh nghiệp sẽ gặp cuộc “khủng hoảng tăng trưởng” và cần tìm kiếm động

lực phát triển mới bằng việc phát triển thông qua liên minh với bên ngoài.

 Giai đoạn sáu: “Phát triển thông qua sự liên minh”

Trong giai đoạn này, doanh nghiệp duy trì sự phát triển bằng cách liên

minh với bên ngoài thông qua các vụ sát nhập, tạo nên các mạng lưới liên kết

khác. Mặc dù vậy, hoạt động kinh doanh riêng của doanh nghiệp có thể bị ảnh

hưởng và doanh nghiệp có thể bị rơi vào một cuộc “khủng hoảng danh tính” khi

doanh nghiệp hoàn toàn có thể bị kiểm soát bởi các doanh nghiệp liên minh khác.

Như vậy, bằng cách cung cấp một mô hình trực quan về các giai đoạn

phát triển của một doanh nghiệp, Greiner giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các

doanh nghiệp mới thành lập có thể hình dung được những khó khăn trong quá

trình hoạt động và có được sự chuẩn bị tốt nhất. Các cuộc khủng hoảng trong

mỗi giai đoạn mà doanh nghiệp gặp phải khó có thể dự báo chính xác thời điểm

xảy ra và cũng không thể tránh được trong một vòng đời phát triển, tuy nhiên,

nhìn một cách tích cực thì đây cũng là cơ hội để mỗi doanh nghiệp có một động

lực nhằm cải tổ bộ máy hoạt động của mình sao cho hiệu quả hơn, đáp ứng

được nhu cầu ngày càng cao của sự phát triển.

33

2.1.4. Chiến lược cạnh tranh phổ quát của Michael Porter:

Chiến lược cạnh tranh phổ quát (Generic strategies) là bộ ba chiến lược

được Michael Porter đề cập lần đầu tiên trong tác phẩm “Competitive

Advantage: Creating and Sustaining Superior Performance” vào năm 1985.

Theo đó, ba chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp được ông đề xuất lần lượt

là chiến lược dựa trên chi phí thấp (Cost leadership), chiến lược dựa trên sự

khác biệt hóa (Differentiation) và chiến lược tập trung (Focus). Mỗi chiến lược

phù với một hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp với mục đích cuối

cùng là tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị trường [138]. Cụ thể:

Chiến lược chi phí thấp (cost leadership) là chiến lược mà doanh nghiệp

dùng để duy trì sản phẩm của mình ở mức chi phí thấp nhất trong ngành/lĩnh

vực đó. Những doanh nghiệp theo đuổi chiến lược này cần phải có nguồn lực

về vốn để đầu tư cho hệ thống công nghệ, máy móc, giúp làm giảm chi phí sản

xuất sản phẩm, bên cạnh đó phải tiếp cận được nguồn nhân công, thiết bị, nguồn

nguyên liệu đầu vào giá rẻ cũng như phải có quy trình vận hành đạt hiệu suất

cao. Mặc dù vậy, rủi ro cho các doanh nghiệp áp dụng chiến lược này là các

đối thủ hoàn toàn có thể sao chép và tiếp cận được các nguồn lực giá rẻ tương

tự và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ bị đe dọa, đặc biệt trong một cuộc

cạnh tranh đường dài trên thị trường, những doanh nghiệp có nguồn lực yếu

hơn sẽ bị thua cuộc.

Chiến lược khác biệt hóa (Differentitation) là chiến lược mà doanh

nghiệp sẽ tạo sự khác biệt cho sản phẩm của doanh nghiệp mình so với các đối

thủ cạnh tranh khác trên thị trường, như khác biệt về mẫu mã, tính năng, chất

lượng, thương hiệu, tạo sự hấp dẫn, độc đáo hơn và giúp doanh nghiệp có được

lợi thế cạnh tranh nhờ sự khác biệt. Mặc dù vậy, để áp dụng được chiến lược

này, doanh nghiệp cần có khả năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm tốt, khả

34

năng hoàn thiện, cung ứng sản phẩm ở chất lượng cao cũng như phải có hoạt

động bán hàng, quảng cáo sản phẩm hiệu quả để tiếp cận khách hàng; nếu

không, lợi thế của doanh nghiệp hoàn toàn có thể bị đối thủ đe dọa.

Chiến lược tập trung (Focus) là chiến lược giúp doanh nghiệp chỉ tập

trung vào một phân khúc sản phẩm/thị trường ngách. Đây là phân khúc thị

trường nhỏ với đặc điểm riêng biệt. Các doanh nghiệp áp dụng chiến lược tập

trung thường hiểu rất sâu những đặc thù của thị trường mà mình hướng tới cũng

như cung cấp được các sản phẩm/dịch vụ đáp ứng được các nhu cầu của thị

trường. Bên cạnh đó, để đảm bảo đạt được lợi thế cạnh tranh tối đa, chiến lược

tập trung còn được chia thành hai chiến lược nhỏ hơn gồm: chiến lược tập trung

dựa trên nền tảng chi phí thấp (Cost Focus) và chiến lược tập trung dựa trên

nền tảng khác biệt hóa (Differentiation Focus) [135]. Việc sử dụng hợp lý các

chiến lược trong kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp phát huy được tối đa nguồn

lực của mình và đạt được lợi thế cạnh tranh tốt nhất. Theo đó, chiến lược tập

trung trên nền tảng khác biệt hóa được xem là phù hợp với các doanh nghiệp

nhỏ. Theo khảo sát 1500 doanh nghiệp nhỏ ở Châu Âu, Trung tâm Doanh

nghiệp Châu Âu 3i (1994) đã chỉ ra rằng các công ty áp dụng chiến lược này

đều đạt được sự tăng trưởng về doanh số và lợi nhuận tốt [50]. Một cuộc khảo

sát 3500 doanh nghiệp tại Anh cũng cho thấy hầu hết các công ty tăng trưởng

cao đều áp dụng chiến lược tập trung vào thị trường ngách dựa trên sự khác biệt

hóa sản phẩm của mình với sản phẩm chất lượng cao hơn và luôn đổi mới [120].

Có thể nói rằng, Michael Porter đã phân loại các chiến lược cạnh tranh

một cách rõ ràng nhằm giúp các doanh nghiệp có thể lựa chọn chiến lược một

cách phù hợp trên cơ sở nguồn lực và điều kiện sẵn có của mình. Trong khuôn

khổ của luận án, việc phân tích các chiến lược cạnh tranh sẽ giúp luận án hiểu

35

rõ hơn cách thức tiếp cận và giúp các DNVVN ở Đức có thể trở thành những

“nhà vô địch” trên toàn cầu trong lĩnh vực kinh doanh của mình.

2.2. Một số vấn đề chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ

2.2.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ

Việc đưa ra một khái niệm chung, thống nhất về DNVVN có ý nghĩa vô

cùng quan trọng trong việc giúp các quốc gia có thể thống kê, xác định đúng

đối tượng, đánh giá đúng vai trò, nhận định đúng tiềm năng để xây dựng các

chương trình, chính sách hỗ trợ, giúp cho khối DNVVN có thể phát triển trong

nền kinh tế. Hiện trên thế giới tồn tại hai trường phái quan điểm xác định

DNVVN, một là xác định dựa trên tiêu chuẩn định tính, hai là xác định dựa trên

tiêu chuẩn định lượng.

2.2.1.1. Xác định khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên tiêu chuẩn định

tính

Nhiều học giả cho rằng có thể xác định được DNVVN thông qua đánh giá

quá trình hoạt động của doanh nghiệp đó. Stokes và Wilson (2010) cho rằng

DNVVN có các hoạt động và cấu trúc đơn giản hơn rất nhiều so với doanh

nghiệp lớn, mức độ phức tạp của quản lý không cao cũng như số đầu mối quản

lý ít [163]. Theo đó, Loecher (2000) cho rằng các DNVVN thường có phương

thức hoạt động theo “nguyên tắc cá nhân” và “nguyên tắc thống nhất giữa lãnh

đạo và vốn sở hữu”. Cụ thể “nguyên tắc cá nhân” thể hiện rằng người quản lý

doanh nghiệp là người có vai trò chủ chốt trong việc ra quyết định mọi hoạt động

của doanh nghiệp, họ liên hệ trực tiếp và mật thiết với nhân viên, với khách hàng

và với nhà cung cấp. Họ thường gắn bó cả sự nghiệp của mình với doanh nghiệp

đó. Ngoài ra, “nguyên tắc thống nhất giữa lãnh đạo và chủ sở hữu” có nghĩa là

người chủ sở hữu và người lãnh đạo doanh nghiệp đều là một người [132].

36

Cũng theo quan điểm có thể xác định các DNVVN thông qua các yếu tố

định tính, báo cáo của Bolton (1971) đưa ra ba đặc điểm cơ bản là: (1) doanh

nghiệp được quản lý bởi chính chủ sở hữu và theo nguyên tắc cá nhân hóa, (2)

thị phần của doanh nghiệp tương đối nhỏ trên thị trường, (3) doanh nghiệp có

tính độc lập theo nghĩa nó không phải là công ty con của một doanh nghiệp lớn

hơn nào đó và cũng không có sự kiểm soát bởi bên ngoài, độc lập trong các

quyết định của doanh nghiệp [64]. Decker (2006) cũng dựa trên các khía cạnh

định tính khác như hình thức pháp lý của doanh nghiệp, vai trò của chủ sở hữu

doanh nghiệp, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường và cơ cấu tổ chức hoặc

tính tự chủ về mặt kinh tế và pháp lý để xác định các DNVVN [77].

Có thể thấy rằng, trường phái sử dụng các yếu tố định tính để xác định

DNVVN cũng được nhiều học giả ủng hộ và sử dụng. Ưu điểm của trường phái

này là có tính phổ quát, cùng sử dụng chung các yếu tố/đặc điểm trên để có thể

xác định được các DNVVN trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, thậm

chí ở nhiều quốc gia khác nhau. Các DNVVN tuy ở các nền kinh tế khác nhau

nhưng vẫn có xu hướng hiển thị các đặc điểm tổ chức, văn hóa và chiến lược

tương tự nhau nên các tiêu chí định tính trên hoàn toàn có thể áp dụng chung

cho nhiều quốc gia. Tuy nhiên trên thực tế, trường phái này cũng gặp nhiều rào

cản vì ranh giới để xác định chính xác một doanh nghiệp có thuộc nhóm

DNVVN hay không là không rõ ràng, có thể gây khó khăn cho các Chính phủ

khi đưa ra các chính sách hỗ trợ.

2.2.1.2. Xác định khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên tiêu chuẩn định

lượng

Trong thực tiễn, việc xác định DNVVN theo tiêu chuẩn định tính là khá

khó khăn nên các tổ chức quốc tế, các quốc gia hiện tại chủ yếu sử dụng các

tiêu chí định lượng để thống kê, phân loại và xác định đúng đối tượng DNVVN.

37

Nhìn chung, có nhiều tiêu chí có thể sử dụng để phân loại các DNVVN; tuy

nhiên, ba tiêu chí được các quốc gia sử dụng nhiều nhất là dựa trên bảng cân

đối tài sản hàng năm của doanh nghiệp, doanh thu hàng năm và số lượng lao

động của doanh nghiệp. Mặc dù vậy trên thực tế, giữa các khu vực và quốc gia

khác nhau, quy định cụ thể của mỗi tổ chức, quốc gia lại chưa có sự thống nhất

trong việc đưa ra một định mức chung trong ba tiêu chí kể trên khi phân loại

các DNVVN. Sự khác biệt này có thể được lý giải do sự khác biệt giữa trình độ

phát triển kinh tế - xã hội của mỗi khu vực, mỗi quốc gia và cũng tùy thuộc vào

từng thời kỳ của sự phát triển, từng bối cảnh cụ thể mà các quy định này cũng

có thể thay đổi theo. Thậm chí giữa các ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu độ

lớn của các tiêu thức cũng khác nhau.

 Tiêu chí xác định DNVVN của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

(OECD):

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) định nghĩa rằng các

DNVVN trước hết là các doanh nghiệp độc lập mà có số lượng lao động thấp

hơn một định mức nhất định được đưa ra. OECD cũng thừa nhận rằng định

mức này ở mỗi quốc gia là khác nhau và mức giới hạn trần phổ biến được sử

dụng là 250 lao động như ở các nước châu Âu. Tuy nhiên con số này ở nhiều

nước mức trần chỉ là 200 trong khi ở Mỹ thì định mức cho các DNVVN là có

dưới 500 lao động (không có định mức cụ thể để phân biệt doanh nghiệp nhỏ

và doanh nghiệp vừa). Các doanh nghiệp nhỏ nói chung là những doanh nghiệp

có ít hơn 50 lao động, trong khi các doanh nghiệp siêu nhỏ thì có nhiều nhất là

10, hoặc một số trường hợp chỉ là 5 lao động. OECD cũng cho rằng tài sản tài

chính, cụ thể là doanh thu hàng năm của các doanh nghiệp cũng như tài sản

doanh nghiệp là hai tiêu chí quan trọng khác được sử dụng để xác định DNVVN

[143]. Từ quan điểm trên của OECD có thể thấy rằng, OECD chưa có được

38

định nghĩa riêng và thống nhất của tổ chức để phân loại các doanh nghiệp mà

mới chỉ thừa nhận ba tiêu chí phổ biến được sử dụng để phân loại DNVVN.

Bản thân các thành viên của OECD (như các nước châu Âu hay Mỹ) cũng có

quan điểm khác nhau về định mức trần lao động về các doanh nghiệp của mình.

Điều này sẽ gây rất nhiều khó khăn trong công tác thống kê của tổ chức cũng

như trong việc đề xuất các chính sách hỗ trợ chung trong khi con số DNVVN

ở các nước OECD là chiếm hơn 99%, cung cấp hơn một nửa số việc làm và

chiếm tới hơn một nửa GDP của khu vực kinh doanh nói chung.

 Tiêu chí xác định DNVVN của Ngân hàng Thế giới

Ngân hàng Thế giới (WB) cũng không có một định nghĩa chung thống

nhất về DNVVN. Tổ chức này cho rằng việc định nghĩa DNVVN là tùy thuộc

vào tiêu chí từng quốc gia, và rất đa dạng ở các nền kinh tế khác nhau. Tổ chức

Tài chính Quốc tế (IFC) và Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa phương (MIGA) thuộc

Nhóm Ngân hàng Thế giới (WBG) thì có đưa ra một định nghĩa với tiêu chuẩn

chung, theo đó, một doanh nghiệp đủ điều kiện để xác định là doanh nghiệp

siêu nhỏ, nhỏ và vừa nếu đáp ứng được hai trong ba tiêu chí về số lượng lao

động, tổng tài sản và doanh thu hàng năm hoặc nếu khoản vay của doanh nghiệp

đó nằm trong định mức được bảo lãnh khoản vay của doanh nghiệp siêu nhỏ,

nhỏ và vừa được quy định bởi IFC [182]. Cụ thể:

Bảng 2.1: Tiêu chí định lượng xác định doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và

vừa của IFC và MIGA thuộc Nhóm Ngân hàng Thế giới

Loại Số lượng Tổng tài sản Doanh thu Định mức khoản

doanh lao động (đô la Mỹ) hàng năm (đô vay (đô la Mỹ)

nghiệp (người) la Mỹ)

Siêu nhỏ <10 <100.000 100.000 <10.000

39

Nhỏ 10-49 100.000- 100.000- <100.000

3.000.000 3.000.000

Vừa 50-300 3.000.000- 3.000.000- <1.000.000 hoặc

15.000.000 15.000.000 2.000.000*

*Mức 2.000.000 đô la Mỹ dành cho các quốc gia như: Argentina, Brazil, Chile,

Trung Quốc, Colombia, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mexico, Morocco, Peru, Liên bang

Nga, Nam Phi, Thái Lan, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan, Hungary, Cộng hòa

Séc, Baltics và Slovenia.

Nguồn: Tổ chức Tài chính Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới (2019).

Các nghiên cứu của Nhóm Ngân hàng Thế giới cũng không có định nghĩa

tiêu chuẩn về DNVVN. Hầu hết các nghiên cứu của WBG đều gộp chung các

DNVVN với doanh nghiệp siêu nhỏ hoặc sử dụng các tiêu chí không trùng

khớp với các ngưỡng tiêu chí xác định của IFC và MIGA hoặc sử dụng định

nghĩa từ đại diện Ngân hàng Thế giới tại từng quốc gia cụ thể. Điều này gây

khó khăn cho WBG trong việc đánh giá mức độ phù hợp của các kết quả nghiên

cứu đối với các doanh nghiệp nhỏ và làm giảm đi tính khái quát của kết quả

nghiên cứu khi xét trên các bối cảnh khác nhau.

 Tiêu chí xác định DNVVN của Liên minh châu Âu:

Còn tại Liên minh châu Âu, DNVVN được xem là động lực để phát triển

nền kinh tế của toàn khối. Tuy nhiên, trong môi trường kinh doanh phức tạp ngày

nay, mối quan hệ chặt chẽ về mặt tài chính, tổ chức hoạt động hay phương thức

quản trị giữa các doanh nghiệp lẫn nhau ngày càng khăng khít và đôi khi khó có

thể vạch ra một ranh giới chính xác để phân biệt giữa DNVVN và doanh nghiệp

lớn. Mặc dù vậy, việc đưa ra một định nghĩa cụ thể, mang tính phổ quát là vô

cùng quan trọng trong việc giúp chính các DNVVN của Liên minh có thể tự nhận

40

biết để các doanh nghiệp này nhận được sự hỗ trợ đầy đủ của khối và các quốc

gia thành viên, thông qua các chính sách, chương trình hỗ trợ với mục đích:

- Phát triển kỹ năng và thúc đẩy hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

- Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp, tăng khả

năng tăng trưởng.

- Giúp xóa bỏ tình trạng quan liêu.

- Giúp tăng cường đối thoại và tham vấn với các bên liên quan của doanh

nghiệp [88].

Khuyến nghị số 2003/361/EC của Cộng đồng châu Âu được đưa ra ngày

06/05/2003 (cập nhật và chỉnh sửa dựa trên khuyến nghị đầu tiên số 96/280/EC

ngày 03/04/1996) đã định nghĩa cụ thể về doanh nghiệp nói chung và DNVVN

nói riêng [89]. Theo đó, trong Điều 3 của Khuyến nghị cũng làm rõ quan điểm

về doanh nghiệp nói chung dựa trên nội dung của Hiệp ước thành lập Cộng

đồng châu Âu, được giải thích bởi Tòa án Công lý rằng: doanh nghiệp là bất kỳ

thực thể nào tham gia vào các hoạt động kinh tế dù ở dưới các hình thức pháp

lý nào, bao gồm cả trong ngành nghề thủ công hoặc trong các hoạt động khác.

Các thực thể đó có thể ở dưới dạng cá nhân, hộ gia đình, các hợp doanh hoặc

các hiệp hội. Bên cạnh đó, Khuyến nghị cũng đưa ra các tiêu chí định lượng cụ

thể để giúp xác định, so sánh các doanh nghiệp về mặt quy mô thực tế và hiệu

suất của một doanh nghiệp, cũng như vị thế của nó so với các doanh nghiệp

khác. Đây là tiền đề Cộng đồng châu Âu chính thức đưa định nghĩa về DNVVN

vào thực tiễn, có hiệu lực từ 01/01/2005 [85]. Theo đó, bộ tiêu chí định lượng

cụ thể để xác định DNVVN gồm:

- Tiêu chí về số lượng lao động,

- Tiêu chí về tài chính (so sánh về doanh thu hàng năm hoặc so sánh về

tổng tài sản của doanh nghiệp dựa trên bảng cân đối kế toàn hàng năm).

41

Trong hai tiêu chí trên thì tiêu chí về số lượng lao động được xem là tiêu

chí quan trọng nhất trong việc xác định DNVVN (số lượng lao động được tính

dựa trên số lượng người làm việc toàn thời gian, người làm việc bán thời gian,

người làm việc tạm thời trong năm được lấy số liệu, không bao gồm người học

nghề, sinh viên thực tập, người nghỉ chế độ thai sản…). Tiêu chí thứ hai gồm

có lựa chọn so sánh giữa doanh thu hàng năm (là thu nhập của doanh nghiệp

nhận được trong một năm từ hoạt động bán các sản phẩm, dịch vụ, sau khi trừ

đi các khoản khấu trừ, không bao gồm thuế giá trị gia tăng hay các khoản thuế

gián thu khác) và tổng tài sản của doanh nghiệp được xem là tiêu chí bổ trợ

giúp xác định DNVVN được chính xác hơn và cũng công bằng hơn cho chính

các doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ cần thỏa mãn một trong hai yêu cầu trên

vì trên thực tế, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại thường

có báo cáo doanh thu hàng năm cao hơn so với doanh nghiệp sản xuất. Vì vậy

việc đưa ra hai lựa chọn (doanh thu hàng năm hoặc tổng tài sản doanh nghiệp)

để đánh giá trong tiêu chí tài chính sẽ phản ánh đúng tình trạng tài chính tổng

thể của doanh nghiệp đó và sẽ đảm bảo công bằng hơn.

Bảng 2.2: Xác định DNVVN theo tiêu chí định lượng của Liên minh châu Âu

Phân loại doanh Số lượng lao Doanh thu Hoặc Tài sản (Euro)

nghiệp động (Euro)

Vừa < 250 ≤ 50 triệu ≤ 43 triệu

Nhỏ < 50 ≤ 10 triệu ≤ 10 triệu

Siêu nhỏ < 10 ≤ 2 triệu ≤ 2 triệu

Nguồn: Ủy ban châu Âu [89]

Theo đó, doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến dưới 250 lao

động, có doanh thu hàng năm đạt trên 10 triệu euro đến 50 triệu euro hoặc có

tài sản báo cáo hàng năm từ trên 10 triệu euro đến 43 triệu euro. Doanh nghiệp

42

nhỏ là doanh nghiệp có từ 10 đến dưới 50 lao động, có doanh hàng năm đạt trên

2 triệu euro đến 10 triệu euro hoặc có tài sản báo cáo hàng năm từ trên 2 triệu

euro đến 10 triệu euro. Còn doanh nghiệp được xác định là siêu nhỏ nếu có

dưới 10 lao động, doanh thu hàng năm hoặc tài sản báo cáo hàng năm chỉ đạt

từ 2 triệu euro trở xuống. Tất cả các đánh giá này được Ủy ban châu Âu tiến

hành hàng năm, đối với những doanh nghiệp có các tiêu chí vượt ngưỡng quy

định trong hai kỳ đánh giá liên tiếp thì sẽ bị loại khỏi xếp hạng DNVVN và

không được tiếp tục nhận các chính sách hỗ trợ từ khối. Trong trường hợp

doanh nghiệp mới thành lập và chưa có báo cáo ghi nhận thì số liệu được sử

dụng để đánh giá được lấy từ số liệu ước tính trong năm tài chính.

Bảng 2.3: Bảng tham chiếu xếp loại DNVVN

STT Năm 1 Năm 2 Xếp loại

Năm tham chiếu DNVVN 1

DNVVN Không là DNVVN DNVVN Không là DNVVN DNVVN 2

3

DNVVN DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN DNVVN DNVVN DNVVN DNVVN 4

DNVVN Không là DNVVN DNVVN DNVVN DNVVN 5

DNVVN 6

Không là DNVVN DNVVN 7

8 Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN Không là DNVVN

Nguồn: Sổ tay hướng dẫn định nghĩa DNVVN (2015) [85]

43

Trong trường hợp doanh nghiệp thuộc sở hữu hoặc có liên kết với một

doanh nghiệp lớn hơn khác thì doanh nghiệp đó sẽ không được xếp loại là

DNVVN dù có đáp ứng đủ các tiêu chí trên. Vì vậy, trong quá trình thu thập số

liệu và đánh giá xếp loại, Ủy ban châu Âu thường xem xét rất cặn kẽ cách thức

thành lập của doanh nghiệp và các mối liên kết nếu có để từ đó xử lý số liệu

một cách công bằng và khách quan nhất. Theo đó, doanh nghiệp khi thành lập

được phân thành ba loại và có tiêu chí đánh giá cụ thể:

- Doanh nghiệp tự chủ: nếu doanh nghiệp hoàn toàn độc lập và không có

mối liên hệ nào với doanh nghiệp khác.

- Doanh nghiệp đối tác: doanh nghiệp có mối liên hệ tài chính với các

doanh nghiệp khác nhưng không chịu sự ràng buộc kiểm soát trực tiếp

hay gián tiếp.

- Doanh nghiệp liên kết: là các doanh nghiệp hình thành nên một nhóm,

thông qua đó gây ảnh hưởng chi phối đến doanh nghiệp bằng cách kiểm

soát đa số quyền biểu quyết của doanh nghiệp đó.

Việc Ủy ban châu Âu đưa ra được một khái niệm mang tính phổ quát

cho tất cả các DNVVN trong khối với các tiêu chí định lượng cụ thể được xem

là bước tiến quan trọng trong việc giúp Ủy ban xác định được đúng đối tượng

doanh nghiệp cần hỗ trợ, tạo điều kiện cho các DNVVN thuận lợi hơn trong

việc tiếp cận các nguồn lực, thông qua các chính sách ưu đãi về thuế, vốn và

thị trường.

 Tiêu chí xác định DNVVN của Đức:

Là một quốc gia phát triển ở Liên minh châu Âu, Đức được xem là nền

kinh tế có khối DNVVN rất phát triển. Ở Đức, các DNVVN được gọi chung là

“Mittelstand” và được xem là xương sống, là bệ đỡ của nền kinh tế với hơn

99% các doanh nghiệp Đức thuộc về khối này [102]. So sánh với định nghĩa về

44

DNVVN của Ủy ban châu Âu thì định nghĩa về DNVVN ở Đức có sự khác

biệt. Theo đó, DNVVN ở Đức được xác định dựa trên hai tiêu chí trụ cột là số

lượng lao động và doanh thu hàng năm của doanh nghiệp đó (khác với lựa chọn

ba tiêu chí của Ủy ban châu Âu là so sánh số lượng lao động và doanh thu hàng

năm/hoặc tổng tài sản doanh nghiệp). Trong khi các định mức về doanh thu

hàng năm của doanh nghiệp giữ nguyên theo tiêu chuẩn chung của Ủy ban châu

Âu thì định mức về số lượng lao động được nâng lên ở mức giới hạn trên là

500 lao động. Cụ thể, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có dưới 10 lao

động và doanh thu hàng năm tối đa là 2 triệu euro, doanh nghiệp nhỏ là doanh

nghiệp có dưới 50 lao động và doanh thu hàng năm tối đa là 10 triệu euro, còn

doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến dưới 500 lao động và doanh

thu hàng năm tối đa là 50 triệu euro.

Bảng 2.4: Tiêu chí xác định DNVVN ở Đức

Phân loại doanh nghiệp Số lượng lao động Doanh thu (Euro)

Vừa < 500 ≤ 50 triệu

Nhỏ < 50 ≤ 10 triệu

Siêu nhỏ <10 ≤ 2 triệu

Nguồn: Viện nghiên cứu doanh nghiệp vừa và nhỏ, Đức (IfM) [114]

Sự khác biệt về giới hạn trên của số lượng lao động trong DNVVN ở

Đức được giải thích là do khối doanh nghiệp này ở Đức có những đặc thù riêng,

khác biệt với đa số các nước châu Âu khác, phần lớn các doanh nghiệp này là

thuộc sở hữu gia đình và trực tiếp điều hành.

Xét về góc độ định nghĩa DNVVN theo trường phái định tính ở Đức có

thể thấy rằng, sự nhấn mạnh đặc biệt về mối liên kết giữa doanh nghiệp và chủ

sở hữu là yếu tố quan trọng nhất để đánh giá một doanh nghiệp có phải là

Mittelstand hay không, nó được thể hiện ở: danh tính của người chủ sở hữu và

45

trách nhiệm pháp lý của họ đối với hoạt động của doanh nghiệp cũng như trách

nhiệm cá nhân của người chủ sở hữu khi đưa ra các quyết định đối với doanh

nghiệp. Chủ yếu các Mittelstand ở Đức là công ty gia đình, hoạt động trong

lĩnh vực công nghiệp nhỏ và tiểu thủ công nghiệp. Nhiều công ty cỡ vừa thậm

chí còn được thành lập từ đầu thế kỷ trước hoặc sau thế Chiến tranh Thế giới

thứ 2 và sự thành công của họ đều gắn liền với dấu ấn của người đứng đầu lãnh

đạo, cụ thể:

- Họ đều được xem là những doanh nhân tài ba với tư duy đổi mới, liên

tục tìm cách để cải thiện sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới ra thị trường.

- Các doanh nghiệp luôn tự hào về phong cách lãnh đạo của doanh nghiệp,

đặc biệt họ có trách nhiệm xã hội cao; có mối quan hệ gần gũi và chặt

chẽ với nhân viên, hướng tới các giá trị bền vững, lâu dài.

Cho đến nay, cấu trúc hoạt động này phần lớn vẫn là điển hình của các

Mittelstand. Nhiều tiêu chí định tính vẫn có thể dùng để đánh giá các DNVVN

và yếu tố về nguồn gốc văn hóa của doanh nghiệp được đặt lên hàng đầu [139].

Và về nghĩa nào đó, thậm chí một số doanh nghiệp sản xuất với hơn 500 lao

động vẫn có thể được định nghĩa là Mittelstand theo các tiêu chí định tính ở

Đức [112]. Mặc dù vậy, hình thức pháp lý của doanh nghiệp dưới dạng Công

ty trách nhiệm hữu hạn cũng đang dần phổ biến, đặc biệt là ở trong các doanh

nghiệp vừa [129]. Theo đó, tính bản sắc về quyền sở hữu và trách nhiệm pháp

lý của các doanh nhân với doanh nghiệp của mình trở nên ít rõ ràng hơn nhằm

giảm thiểu những hạn chế rủi ro về tài chính cho người chủ. Và trong tương lai,

các công ty thành công hơn sẽ có xu hướng chuyển đổi thành công ty cổ phần.

Vì vậy mà các tiêu chí định tính định nghĩa về Mittelstand có thể cũng sẽ không

còn phù hợp.

46

2.2.1.3. Quan điểm của luận án về xác định khái niệm doanh nghiệp vừa và

nhỏ

Trước hết, quan điểm của luận án về việc đưa ra một khái niệm nhằm

xác định DNVVN có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp các quốc gia

có thể thống kê hiệu quả, nhằm xác định đúng đối tượng, đánh giá đúng vai trò

và nhận định đúng tiềm năng của khối doanh nghiệp này; từ đó xây dựng được

các chương trình, chính sách cụ thể, giúp cho khối DNVVN có thể nhận được

sự hỗ trợ kịp thời, tạo thêm nhiều động lực cho sự phát triển.

Trong quá trình phân tích các khái niệm về DNVVN của các tổ chức và

quốc gia trên thế giới, đặc biệt là của Liên minh châu Âu và Đức, luận án rút ra

kết luận rằng, trên thế giới hiện đã thống nhất về cách thức để xác định được

các DNVVN, nhưng chưa đi đến một sự đồng thuận để tồn tại một khái niệm

chung, mang tính phổ quát, áp dụng cho tất cả các quốc gia. Có trường phái

theo tiêu chuẩn định tính, có trường phái theo tiêu chuẩn định lượng, và mỗi

quốc gia, mỗi tổ chức lại có các tiêu thức và mức độ đo lường các tiêu thức cụ

thể khác nhau. Điểm chung của các tiêu thức này là đều được lựa chọn với định

lượng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội – văn hóa – chính trị cụ thể của

mỗi quốc gia, tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Vì vậy,

khái niệm về DNVVN ít mang tính chất cố định, bắt buộc lâu dài mà thường

thay đổi tùy điều kiện, nhằm phản ảnh khách quan nhất thực trạng của khối

DNVVN trong nền kinh tế của mỗi nước. Do đó, để tồn tại được một định nghĩa

chung về DNVVN mang tính toàn cầu, áp dụng được cho các quốc gia thì chỉ

có thể tồn tại định nghĩa theo trường phái định tính (vì các DNVVN tuy ở các

nền kinh tế khác nhau, ngành nghề lĩnh vực khác nhau, nhưng vẫn có xu hướng

hiển thị các đặc điểm về tổ chức, văn hóa và chiến lược tương tự nhau) và không

thể có được một định nghĩa phổ quát như vậy theo trường phái định lượng.

47

Có thể nói, trường phái định tính hay định lượng đều có những mặt hạn

chế trong quá trình sử dụng để đánh giá. Vậy nên, quan điểm của luận án là một

định nghĩa về DNVVN để được thừa nhận rộng rãi và mang tính thống nhất

cao giữa các quốc gia, cần phải được hài hòa kết hợp cả hai yếu tố định tính và

định lượng trong việc đưa ra khái niệm. Theo đó, khái niệm chung về DNVVN

có thể được diễn giải như sau: Doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có

tính độc lập, đáp ứng các tiêu chí mang tính định tính như vận hành trên nguyên

tắc cá nhân hóa, có cấu trúc hoạt động đơn giản với thị phần tương đối nhỏ trên

thị trường; ngoài ra còn thỏa mãn các tiêu chí định lượng gồm có số lượng lao

động, tài sản và doanh thu. Mặc dù vậy, trong khuôn khổ thực hiện luận án với

đối tượng là các DNVVN ở Đức và Việt Nam, luận án sẽ tôn trọng tuyệt đối

cách định nghĩa DNVVN của mỗi quốc gia khi nghiên cứu để bảo đảm tính

chất khách quan, trung thực trong quá trình thống kê, phân tích và đánh giá,

phù hợp với điều kiện kinh tế, hoàn cảnh xã hội của từng quốc gia, giúp luận

án thu được kết quả tốt nhất.

2.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ

Yon và Evans (2011) dựa trên thống kê của Tổ chức Phát triển Công

nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO) đã tổng hợp các yếu tố thể hiện đặc điểm của

DNVVN khi so sánh với doanh nghiệp lớn:

Bảng 2.5: Đặc điểm của DNVVN so sánh với doanh nghiệp lớn

Đặc điểm DNVVN Doanh nghiệp lớn

Quản lý Chủ sở hữu quản lý trực Phân chia lao động theo chức

tiếp năng rõ ràng

Cá nhân Nhân viên thường không Nhân viên thường có bằng

có bằng cấp cao cao, qua giáo dục đại học

48

Tổ chức Mối quan hệ giữa các cá Giao tiếp thường theo nghi

nhân trực tiếp, gần gũi thức, nội quy

Vị trí cạnh tranh Không rõ ràng Định hình rõ ràng và mạnh

trên thị trường

Mối quan hệ với Mang tính thời điểm, Dựa trên hợp đồng ký kết dài

khách hàng không ổn định hạn

Sản xuất Thâm dụng lao động Chuyên nghiệp hóa, quy mô

lớn

Nghiên cứu và Thường chạy theo thị Định hướng thị trường

phát triển trường

Tài chính Tự cấp tài chính bởi chủ Cơ cấu sở hữu đa dạng, có thể

sở hữu tiếp cận các thị trường vốn

Nguồn: Yon và Evans (2011) tổng hợp, theo thống kê của UNIDO [184]

Xét về cơ cấu tổ chức và cách thức quản lý có thể thấy rằng, các DNVVN

thường có cấu trúc hoạt động và phương thức điều hành đơn giản và linh hoạt

hơn các doanh nghiệp lớn rất nhiều. DNVVN thường là các doanh nghiệp gia

đình, người chủ doanh nghiệp cũng thường là người trực tiếp điều hành doanh

nghiệp, các quyết định của doanh nghiệp mang đậm dấu ấn của người chủ. Mặc

dù vậy, mối quan hệ giữa người chủ và người lao động thường ít có khoảng

cách cứng nhắc, mang tính nội quy, nghi thức như các doanh nghiệp lớn.

Về vị trí trên thị trường, trong khi các doanh nghiệp lớn thường được

định hình rõ ràng và mạnh, tên tuổi cũng như thương hiệu của doanh nghiệp

lớn cũng được thừa nhận một cách rộng rãi thì vị trí cạnh tranh trên thị trường

của các DNVVN thường không rõ ràng. Mối quan hệ với khách hàng của các

DNVVN cũng mang tính thời điểm và thường không ổn định, khác với doanh

nghiệp lớn có mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng, dựa trên các hợp đồng

49

được ký kết dài hạn, tính cam kết lớn. Doanh nghiệp lớn với thị phần lớn trên

thị trường, nguồn lực dồi dào thường là người định hướng cho thị trường, trong

khi đó, DNVVN thường chạy theo thị trường để đáp ứng các nhu cầu đó. Doanh

nghiệp lớn thường tập trung đầu tư tại các trung tâm, thành phố lớn, nơi có điều

kiện thuận tiện cho việc sản xuất và giao thương, còn DNVVN với lợi thế quy

mô vốn nhỏ, tổ chức bộ máy hoạt động đơn giản thường dễ dàng tiếp cận hơn

đến các lĩnh vực, ngành nghề mà các doanh nghiệp lớn không chú trọng đến,

thậm chí ở những vùng nông thôn.

Các đặc điểm của DNVVN về nguồn lực doanh nghiệp cũng được nhìn

thấy một cách rõ nét. DNVVN thường có nguồn lực về vốn hạn chế, thường

dựa chủ yếu vào nguồn lực vốn tự có của người chủ doanh nghiệp. Khả năng

tiếp cận các nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng của DNVVN cũng yếu hơn

rất nhiều so với doanh nghiệp lớn, do thiếu uy tín, thương hiệu và khả năng đáp

ứng các điều kiện ngặt nghèo từ phía các ngân hàng thường không cao. Đây là

rào cản lớn cho các DNVVN trong việc huy động nguồn lực vốn để phục vụ

cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nguồn lực về công nghệ của các

DNVVN cũng hạn chế. Mặc dù vai trò của công nghệ là rất lớn, quyết định đến

năng suất và chất lượng của sản phẩm nhưng do những thiếu hụt về vốn,

DNVVN thường không có những cải tiến mạnh mẽ về công nghệ như doanh

nghiệp lớn. Các hoạt động sản xuất của DNVVN thường thâm dụng lao động

trong khi hoạt động của doanh nghiệp lớn thì chuyên môn hóa, quy mô hơn.

Bên cạnh đó, một bộ phận DNVVN thiếu tầm nhìn dài hạn, kế hoạch manh

mún nên không sẵn sàng đầu tư, nâng cấp công nghệ, máy móc sản xuất, dẫn

đến sự yếu kém về cạnh tranh trên thị trường [16]. Nguồn nhân lực của DNVVN

so với doanh nghiệp lớn cũng hạn chế hơn rất nhiều. Lao động trong các doanh

nghiệp lớn thường có bằng cấp cao, qua đào tạo đại học, trong khi tại DNVVN

thì lao động ít được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao. So với các doanh nghiệp lớn,

50

lãnh đạo DNVVN thường ít được đào bài bản hơn [164]. Mặc dù vậy, do tính

chất của DNVVN có quy mô nhỏ, mối quan hệ giữa người chủ doanh nghiệp

và người lao động thường gắn kết chặt chẽ nên lao động tại đây thường gắn bó

lâu dài với doanh nghiệp.

2.2.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế

2.2.3.1. Tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp

Với một số lượng áp đảo, chiếm khoảng 90% số lượng doanh nghiệp và

tạo hơn 50% việc làm trên toàn thế giới, các DNVVN đã đóng góp tới 40%

GDP tại các nền kinh tế mới nổi. Ngoài ra, theo Ngân hàng Thế giới ước tính,

đến năm 2030, cần đến 600 triệu việc làm mới để có thể hấp thụ được lực lượng

lao động toàn cầu, vốn đang phát triển mạnh mẽ [169]. Điều này càng cho thấy

sự phát triển của các DNVVN được xem là ưu tiên cao đối với nhiều Chính phủ

trên Thế giới. Đặc biệt, từ sau cuộc khủng hoàng kinh tế năm 2008, khối

DNVVN đã thể hiện vai trò lớn của mình trong việc giúp tái tạo lại công ăn

việc làm cho hàng triệu lao động trên toàn cầu, trong khi đó đa số daonh nghiệp

lớn bị phá sản và phải cắt giảm lao động [150].

Tại các nước châu Âu, vai trò của DNVVN trong việc tạo việc làm, giảm

tỉ lệ thất nghiệp cũng được công nhận. Trong những năm gần đây, môi trường

kinh tế vĩ mô đã thuận lợi hơn cho các DNVVN tăng trưởng. Số lượng các

DNVVN ở châu Âu chiếm hơn 99% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế,

trong đó 93% là doanh nghiệp siêu nhỏ, gần 6% là doanh nghiệp nhỏ và gần

1% là doanh nghiệp vừa. Các doanh nghiệp siêu nhỏ đóng góp khoảng 30%

tổng số việc làm, trong khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp tương

ứng khoảng 20% và 17% tổng số việc làm trong nền kinh tế. Tổng cộng,

DNVVN ở châu Âu đóng góp hơn 66% tổng số việc làm trong khối [131].

51

Trên thực tế, DNVVN tham gia hoạt động ở hầu hết các lĩnh vực của nền

kinh tế, và với đặc điểm sản xuất kinh doanh không cần yêu cầu trình độ cao,

khối doanh nghiệp này luôn đảm bảo có thể cung cấp cơ hội việc làm cho nhiều

đối tượng lao động khác nhau, ở nhiều vùng miền khác nhau. Với tính chất linh

hoạt trong hoạt động sản xuất, các DNVVN thường thích ứng nhanh với các

biến đổi thị trường mà không phải cắt giảm lao động để tồn tại khi kinh tế đi

vào suy thoái, hay cũng có thể nhanh chóng tuyển dụng lại được lao động khi

cần thiết. DNVVN trong nhiều hoàn cảnh được xem là bệ đỡ, giúp hấp thụ

những cú sốc của nền kinh tế. Đây là một lợi thế không nhỏ của các DNVVN

khi so sánh với các doanh nghiệp lớn.

2.2.3.2. Bệ đỡ của nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng

Có thể nói rằng, DNVVN đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền

kinh tế của mỗi quốc gia, cả ở quốc gia phát triển và đang phát triển. Peter

Drucker (2009) nhận định rằng DNVVN là chất xúc tác chính cho sự phát triển

kinh tế, đóng góp mạnh mẽ giúp các nền kinh tế hoàn thành được các mục tiêu

cơ bản của sự phát triển, trở thành xương sống, bệ đỡ của kinh tế - xã hội của

các quốc gia [79]. Sự đóng góp của DNVVN đối với tăng trưởng tổng sản phẩm

quốc nội (GDP), giúp tạo ra nhiều việc làm và góp phần giảm nghèo cũng đã

được công nhận ở mức độ toàn cầu [70]. Tại các quốc gia đang phát triển, vai

trò này còn đặc biệt quan trọng hơn khi mà số lượng các doanh nghiệp, tập đoàn

lớn tương đối ít, dẫn đến các tác động của khối DNVVN trở nên rõ ràng hơn

trong việc giúp giảm nghèo và góp phần giúp phân phối thu nhập cân bằng

[140]. Còn ở các khu vực phát triển, đóng góp của DNVVN cũng chiếm hơn

50% GDP. Tại châu Âu, 99,8% các doanh nghiệp phi tài chính là DNVVN, cung

cấp 58% tổng giá trị gia tăng và 66,8% tổng số việc làm, khiến DNVVN trở

thành trụ cột của nền kinh tế châu Âu [66]. Hay tại Nhật Bản, một quốc gia phát

52

triển tại châu Á thì DNVVN cũng chiếm 99,7% tổng số doanh nghiệp, chiếm

70% tổng số lao động và hơn 50% tổng số giá trị của ngành sản xuất [72].

Ngoài ra, DNVVN cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các

doanh nghiệp lớn hoạt động ổn định và hiệu quả. Trên thực tế, nhiều DNVVN

giữ một mối liên kết quan trọng, đóng vai trò như một “nhà thầu phụ” của các

doanh nghiệp lớn. Nhiều DNVVN cung cấp các nguyên liệu thô, hoặc các cấu

kiện của sản phẩm để phục vụ cho các doanh nghiệp lớn. Nếu không có các

DNVVN “hỗ trợ”, các doanh nghiệp lớn buộc phải tự tìm kiếm hoặc tự sản xuất

các cấu kiện (làm tăng thêm chi phí đầu tư và bộ máy hoạt động sẽ không hiệu

quả, phân tán nguồn lực) [113]. Vì vậy, ở nhiều quốc gia, vai trò của DNVVN

đối với sự ổn định hoạt động của các doanh nghiệp lớn là không thể tách rời.

Bên cạnh đó, các DNVVN đóng góp mạnh mẽ vào quá trình sản xuất

hàng hóa và dịch vụ, hoạt động ổn định, hiệu quả. Có thể thấy rằng, việc các

DNVVN tiếp tục tồn tại trong một môi trường kinh tế cạnh tranh như hiện nay

là bằng chứng cho thấy họ hoạt động rất hiệu quả. Vì nếu không, các DNVVN

đã hoàn toàn bị các đối thủ mạnh hơn, lớn hơn nuốt chửng. Thống kê tại Mỹ

cho thấy, lợi nhuận của các DNVVN trên một đô la đầu tư cao gấp bốn lần các

doanh nghiệp lớn [73]. Trên thực tế, các DNVVN được quản lý và điều hành

trực tiếp bởi chủ sở hữu doanh nghiệp, điều đó giúp cho hệ thống hoạt động trở

nên đơn giản hơn, và linh hoạt thích ứng hơn khi thị trường thay đổi. Điều này

cũng giải thích khi kinh tế suy thoái, DNVVN có thể có những giải pháp tức

thời giúp giảm tác động tiêu cực lên hoạt động sản xuất, và cũng nhanh chóng

quay trở lại hoạt động bình thường khi kinh tế phục hồi, không làm gián đoạn

chuỗi cung ứng trong nền kinh tế.

53

2.2.3.3. Bù đắp thiếu hụt, phát huy các nguồn lực còn hạn chế trong nền kinh

tế

Theo báo cáo mới nhất của ILO (2019), trong số 99 quốc gia đại diện

được thống kê từ các khu vực trên thế giới, thì DNVVN thậm chí đóng góp hơn

70% tổng số việc làm trong nhóm này [115]. Trong đó, 62% số lượng việc làm

này thuộc khu vực phi chính thức, thuộc những nơi ở xa trung tâm, có điều kiện

làm việc kém hơn (như thiếu hệ thống an sinh xã hội, lương thấp, điều kiện

không đảm bảo…). Điều đó cho thấy rằng, DNVVN còn đóng một vai trò vô

cùng quan trọng trong việc khai thác và phát huy các nguồn lực vốn dễ bị bỏ

quên. Trên thực tế, các doanh nghiệp lớn thường tập trung đầu tư tại các trung

tâm, thành phố lớn, nơi có điều kiện thuận tiện cho việc sản xuất và giao thương,

nên nếu không có các DNVVN bổ sung, bù đắp cho những khoảng trống này

thì nền kinh tế sẽ phát triển mất cân đối, không tận dụng được hết nguồn lực

quốc gia. Với lợi thế quy mô vốn nhỏ, tổ chức bộ máy hoạt động đơn giản, hiệu

quả, các DNVVN dễ dàng tiếp cận đến các lĩnh vực, ngành nghề mà các doanh

nghiệp lớn không chú trọng đến, thậm chí ở những vùng nông thôn. Điều này

giúp nền kinh tế phát triển hiệu quả hơn, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa

các vùng miền, các ngành nghề khác nhau.

Tại các khu vực ít phát triển hơn trên thế giới, các khu vực như Trung

Đông, Bắc Phi, Nam Á, Châu Phi cận Sahara, số lượng các DNVVN chiếm đa

số trong tổng số các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp siêu nhỏ có

dưới 10 lao động. Trong khi những khu vực này còn thiếu rất nhiều nguồn lực

để hình thành nên các doanh nghiệp lớn, tập đoàn mạnh, thì DNVVN được xem

là động lực để duy trì sự ổn định kinh tế, tạo nhiều việc làm và sự ổn định trong

xã hội.

54

*Chú thích: EAP = Đông Á và Thái Bình Dương; ECA = Châu Âu và Trung

Á; LAC = Mỹ La tinh và Caribê; MENA = Trung Đông và Bắc Phi; SA = Nam

Á; SSA = Châu Phi cận Sahara.

Hình 2.2: Tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo khu vực (%)

Nguồn: Tổ chức Lao động quốc tế (2019) [115]

2.2.3.4. Tiềm năng to lớn trong đổi mới sáng tạo

Avasilicai (2009) nhận định rằng, khối DNVVN đóng vai trò cực kỳ

quan trọng trong nền kinh tế hiện đại, với hệ thống đổi mới sáng tạo, đóng góp

hiệu quả cho các hoạt động kinh tế - xã hội, DNVVN là một đối tượng nhận

được sự quan tâm chiến lược của các nền kinh tế [56]. Cibela Neagu (2016)

cũng cho rằng, DNVVN có sự linh hoạt trong sản xuất và hướng tới sự đổi mới

[73]. Nhiều sản phẩm mới và quy trình công nghệ được sản xuất trong các

DNVVN vì các doanh nghiệp lớn thường có xu hướng tập trung nỗ lực cải tiến

các sản phẩm hiện có, mặc dù họ có bộ phận nghiên cứu và phát triển mạnh

mẽ, tuy nhiên đặc tính chung là họ thường sản xuất với số lượng lớn để có được

ưu thế hơn trên thị trường, nên sẽ không có sự linh hoạt như các DNVVN với

khả năng thích ứng sản xuất nhanh hơn khi nhu cầu của thị trường thay đổi.

55

Bên cạnh đó, các DNVVN có vai trò tích cực trong việc tạo ra một nền

kinh tế với tính linh hoạt hơn và cạnh tranh hơn. Các sản phẩm của DNVVN

khi đưa ra thị trường thường rất cạnh tranh về giá cả, thiết kế mẫu mã sản phẩm.

Nếu không có DNVVN thì các doanh nghiệp lớn sẽ nắm giữ độc quyền trên

hầu hết các lĩnh vực hoạt động.

2.3. Khái niệm, các tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến sự phát

triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ

2.3.1. Khái niệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ

Theo OECD (2004), khái niệm về phát triển DNVVN đã được phổ biến

ngay từ cuối những năm 1940 với việc đề xuất những chính sách mục tiêu bao

gồm trợ cấp tín dụng, hỗ trợ về thuế…cũng như thành lập các cơ quan chuyên

trách thuộc chính phủ nhằm hỗ trợ các DNVVN thành lập và phát triển [145].

Theo đó, với số lượng doanh nghiệp chiếm áp đảo trong nền kinh tế, phát triển

DNVVN thông qua các hỗ trợ tiếp cận về vốn, công nghệ, thị trường… giúp

nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đóng góp tốt hơn vào kinh tế, xã

hội quốc gia. Steel (1993) cũng cho rằng, sự không hoàn hảo của thị trường có

thể làm cản trở các DNVVN tiếp cận đến các nguồn lực cần thiết để phát triển.

Do vậy, để tạo ra một khuôn khổ thuận lợi cho khối doanh nghiệp này, Chính

phủ cần phải sẵn sàng xây dựng lại môt sân chơi minh bạch, công bằng hơn cho

mọi thành phần kinh tế [161]. Theo JICA (2004), có hai vấn đề chính liên quan

đến phát triển DNVVN: thứ nhất là các vấn đề về tạo dựng môi trường kinh

doanh thuận lợi cho sự phát triển doanh nghiệp và thứ hai là các vấn đề nội bộ

của các DNVVN. Để xây dựng được môi trường kinh doanh thuận lợi thì cần

phải hoạch định chính sách, xây dựng một khung pháp lý hỗ trợ nền kinh tế thị

trường, tạo điều kiện tiếp cận về vốn, cơ sở hạ tầng cho doanh nghiệp, phát

triển hệ thống thương mại và đầu tư. Ngoài ra phải cải thiện vấn đề nội tại của

56

chính các DNVVN như vấn đề về nguồn lực doanh nghiệp (nguồn nhân lực,

nguồn vốn, thông tin thị trường…), hình thành mối liên kết giữa các doanh

nghiệp với nhau [118].

Từ những nhận định trên, tác giả luận án cho rằng, phát triển DNVVN là

quá trình nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc cải thiện hoạt động sản xuất

kinh doanh thông qua tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực còn thiếu cho doanh

nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, giúp doanh nghiệp trẻ dễ dàng gia

nhập thị trường, doanh nghiệp đang hoạt động nhận được những điều kiện thuận

lợi để phát triển, qua đó tái đóng góp tốt hơn vào nền kinh tế - xã hội quốc gia.

2.3.2. Tiêu chí đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong

nền kinh tế

- Tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế

Tỷ lệ DNVVN trong nền kinh tế là một tiêu chí dùng để phản ánh mối

tương quan về số lượng của các DNVVN so với doanh nghiệp lớn hoặc so với

tổng số lượng doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế. Công thức tính tỷ lệ

Số lượng DNVVN trong nền kinh tế

DNVVN trong nền kinh tế:

Tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế

Tỷ lệ DNVVN trong nền kinh tế= ×100%

Sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế có thể được đánh giá thông

qua số lượng các DNVVN gia tăng qua các năm, hoặc tỷ lệ DNVVN trong nền

kinh tế gia tăng qua các năm. Một nền kinh tế có tỷ lệ DNVVN cao và gia tăng

hàng năm thể hiện rằng ở môi trường đó đang có nhiều chính sách thuận lợi hỗ

trợ cho sự gia nhập mới và sự phát triển của khối DNVVN.

- Tỷ lệ đóng góp của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế

57

Bên cạnh đánh giá sự phát triển của DNVVN thông qua tiêu chí về tỷ lệ

DNVVN trong nền kinh tế, thì sự đóng góp của các DNVVN vào tổng sản

phẩm quốc nội GDP nói chung được xem là tiêu chí quan trọng trong việc đánh

giá vai trò cũng như sự lớn mạnh về thực lực của các DNVVN trong nền kinh

tế quốc dân.

Theo đó, GDP là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng của một quốc

gia, được tính bằng tổng giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối

cùng được sản xuất ra (thường tính trong một năm) trong phạm vi lãnh thổ quốc

gia đó. Có nhiều phương pháp tính GDP trong đó, phương pháp tiêu dùng được

sử dụng nhiều nhất:

Công thức: GDP = C + I + G + (X – M)

Trong đó: C: tổng giá trị tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của các hộ gia đình

trong nước

I: tổng giá trị đầu tư ở trong nước của khối tư nhân (mua sắm trang

thiết bị máy móc, nhà xưởng…)

G: tổng giá trị chi tiêu của Chính phủ

(X – M): giá trị xuất khẩu ròng [Giá trị xuất khẩu - Giá trị nhập khẩu]

Từ công thức trên có thể thấy rằng, khối DNVVN có thể đóng góp vào

nền kinh tế thông qua chỉ số (I) và (X-M). Cụ thể, nếu khối DNVVN phát triển,

đầu tư mới của các doanh nghiệp tăng (mở rộng mạng lưới, xây dựng nhà

xưởng, mua sắm trang thiết bị…) sẽ làm tăng tổng giá trị đầu tư trong nước, từ

đó giúp kích thích nền kinh tế, tăng giá trị tổng sản phẩm quốc nội GDP. Bên

cạnh đó, doanh nghiệp phát triển, xuất khẩu của doanh nghiệp ra nước ngoài

tăng cao sẽ giúp cán cân xuất nhập khẩu tăng (giá trị xuất khẩu ròng tăng), từ

đó cũng đóng góp trực tiếp vào sự lớn mạnh của nền kinh tế. Vì vậy, một trong

58

những vai trò lớn của DNVVN chính là bệ đỡ của nền kinh tế, thúc đẩy nền

kinh tế tăng trưởng (như đã trình bày ở mục 2.3.2) và đây cũng là tiêu chí quan

trọng, đánh giá sự phát triển của DNVVN trong một nền kinh tế.

- Tỷ lệ lao động sử dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Thị trường lao động có ổn định thì nền kinh tế - xã hội mới vững mạnh.

Theo đó, vai trò giúp tạo ra nhiều việc làm và góp phần ổn định thị trường lao

động của DNVVN đã được công nhận ở mức độ toàn cầu. Báo cáo của ILO

(2019) cho thấy, trong số 99 quốc gia đại diện được thống kê từ các khu vực

trên thế giới thì DNVVN thậm chí đóng góp hơn 70% tổng số việc làm [115].

Vai trò sử dụng lao động trong khối DNVVN còn có vai trò đặc biệt quan trọng

hơn tại những nơi ở xa trung tâm, có điều kiện làm việc kém hơn, nơi các doanh

nghiệp lớn ít để ý phát triển đến. Trên thực tế, các doanh nghiệp lớn thường tập

trung đầu tư tại các trung tâm, thành phố lớn, nơi có điều kiện thuận tiện cho

việc sản xuất và giao thương, nên nếu không có các DNVVN bổ sung, bù đắp

cho những khoảng trống này thì nền kinh tế sẽ phát triển mất cân đối, không

tận dụng được hết nguồn lực quốc gia, thị trường lao động khó phát triển.

- Tỷ lệ đào tạo nghề trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Tỷ lệ đào tạo nghề trong các DNVVN thể hiện mức độ đóng góp của

khối doanh nghiệp này trong việc phát triển chất lượng thị trường lao động,

trực tiếp giúp nền kinh tế duy trì được sự phát triển bền vững. Đặc biệt trong

bối cảnh cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ thì việc đào tạo nguồn nhân

lực, nâng cao trình độ chất lượng người lao động là một trong những ưu tiên

hàng đầu giúp khối doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung tiếp cận,

chuyển giao được các kỹ thuật, công nghệ mới.

59

2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ

Demlar và Wiklund (2008) cho rằng, môi trường doanh nghiệp, bao gồm

cả các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến sự

phát triển và thành công của doanh nghiệp đó [78].

2.3.3.1. Các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến sự phát triển

- Nguồn lực doanh nghiệp

Purwanti (2012) cho rằng, nguồn lực của doanh nghiệp được xem là nhân

tố tiên quyết quyết định việc một doanh nghiệp có thể hoạt động và phát triển

tốt hay không. Nguồn lực của doanh nghiệp ở đây được thể hiện ở sự quyết

tâm, lòng can đảm, kinh nghiệm, kiến thức, đặc biệt là nguồn lực về vốn con

người, tài chính và công nghệ. Theo đó, nguồn lực của doanh nghiệp là nền

tảng cho các hoạt động của doanh nghiệp. Nền tảng càng mạnh, thì hoạt động

kinh doanh càng vững chắc [153]. Vốn con người ở đây có thể được định nghĩa

là thái độ làm việc, tính cam kết trong công việc, kinh nghiệm, và năng lực giúp

điều hành phát triển doanh nghiệp [154]. Vốn con người được xem là có vai trò

quan trọng trong việc xây dựng nền tảng để doanh nghiệp tồn tại và lớn mạnh

[134]. Nguồn lực về tài chính cũng là nhân tố quan trọng trong việc tạo nền

tảng để doanh nghiệp phát triển. Yếu tố này phản ánh quy mô và sức mạnh của

doanh nghiệp thông qua khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động và

kinh doanh. Về yếu tố công nghệ, theo Cohen (1995), các doanh nghiệp tích

cực cập nhật công nghệ mới, hiện đại sẽ giúp nâng cao quá trình sản xuất, tăng

chất lượng và giảm giá thành sản phẩm, từ đó giúp phát triển hơn [74].

- Năng lực quản lý doanh nghiệp

Macpherson và Holt (2007) cho rằng, sự phát triển của doanh nghiệp phụ

thuộc vào kiến thức quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp đó [133]. So với các

60

doanh nghiệp lớn, lãnh đạo của các DNVVN thường ít được đào tạo bài bản

hơn (Tannock, 2001) [164]. Vì đặc tính của DNVVN là người chủ thường là

người quản lý trực tiếp doanh nghiệp nên hoạt động của các DNVVN thường

mang đậm dấu ấn của người lãnh đạo. Olawale và Garwe (2010) cho rằng, năng

lực quản lý ở đây là tập hợp những kiến thức, kỹ năng và khả năng xử lý của

người lãnh đạo giúp cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả [147].

Trên thực tế, trong bất kỳ một nền kinh tế phát triển hay đang phát triển

nào, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp luôn diễn ra mạnh mẽ. Để đáp ứng

được nhu cầu ngày càng cao từ thị trường, doanh nghiệp luôn phải không ngừng

thay đổi chiến lược, tối ưu hóa mọi nguồn lực để có thể thích nghi với mọi điều

kiện đặt ra. Sự cạnh tranh đôi khi đến từ chính các DNVVN lẫn nhau, và đôi

khi là diễn ra với các doanh nghiệp lớn. Với nguồn lực hạn chế về nhiều mặt

(vốn, quy mô, lao động), nếu không có năng lực quản lý tốt từ lãnh đạo, đưa ra

các quyết sách kịp thời thì doanh nghiệp khó có thể trụ vững trước những biến

động từ các nhân tố môi trường bên ngoài. Đồng tình với quan điểm này, Aylin

và các cộng sự (2013) cho rằng kỹ năng quản lý là một nhân tố quan trọng giúp

cho các DNVVN phát triển. Việc thiếu kỹ năng quản lý có thể dẫn đến việc

doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả và dẫn đến thất bại [57].

- Văn hóa doanh nghiệp

Văn hóa doanh nghiệp được xem là một trong những nhân tố quan trọng,

ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của một doanh nghiệp. Rejnald. M và

Gerdi (2011) cho rằng, văn hóa doanh nghiệp là tổng hợp các giá trị, chuẩn mực,

tiêu chuẩn hành vi và những kỳ vọng chung kiểm soát cách thức các cá nhân/hội

nhóm trong doanh nghiệp đó giao tiếp và làm việc với nhau để thực hiên công

việc [155]. Theo Kotter, J.P. và Heskett, J.L (1992), văn hóa doanh nghiệp biểu

thị các giá trị và cách hành xử phụ thuộc lẫn nhau phổ biến trong một doanh

61

nghiệp và nó thường có xu hướng lưu truyền lâu dài [127]. Có thể nói rằng, một

doanh nghiệp có nền tảng văn hóa gắn kết, với những giá trị truyền thống quý

báu được duy trì sẽ giúp cho doanh nghiệp đó luôn giữ được bản sắc, phong độ

ổn định và vị thế chắc chắn trên thị trường. Đối với các DNVVN ở Đức, điều

này càng đúng khi chủ yếu đây là các doanh nghiệp gia đình, đã tiếp nối qua

nhiều thế hệ duy trì hoạt động sản xuất và có nền văn hóa, bản sắc riêng. Tinh

thần kỷ luật cũng như tính trung thành của nhân viên rất cao. Đặc tính này giúp

các DNVVN ở Đức có thể giữ vững được những bí quyết kinh doanh riêng cũng

như nền văn hóa doanh nghiệp đặc trưng được tiếp nối qua nhiều thế hệ lãnh

đạo, luôn giúp doanh nghiệp phát triển bền vững.

- Chiến lược phát triển doanh nghiệp

Mọi doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều cần một chiến lược phát triển rõ

ràng. Việc có một chiến lược phát triển phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp đi đúng

hướng và có nhiều cơ hội thành công hơn. Guffey (2008) cũng đồng tình khi

cho rằng, xây dựng chiến lược phát triển là vô cùng quan trọng khi bắt đầu

thành lập một doanh nghiệp [108]. Khác với các doanh nghiệp lớn, McCarthy

(2003) cho rằng chiến lược phát triển doanh nghiệp của DNVVN thường xuất

phát và ảnh hưởng trực tiếp từ người lãnh đạo/ người chủ sở hữu doanh nghiệp

đó [136]. Điều này cũng phù hợp khi phân tích về cấu trúc của DNVVN vì các

doanh nghiệp này được quản lý bởi chính chủ sở hữu và thường có phương

thức hoạt động theo “nguyên tắc cá nhân hóa” và “nguyên tắc thống nhất giữa

lãnh đạo và vốn sở hữu” [132]. Burns và Myers (1994) cũng đưa ra kết quả sau

khi nghiên cứu 1.350 DNVVN ở Đức và một số nước châu Âu rằng một trong

những yếu tố giúp doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển là doanh nghiệp đó

thường có chiến lược kinh doanh ít nhất cho ba năm liên tục [69].

2.3.3.2. Các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến sự phát triển

62

- Môi trường pháp lý

Ngân hàng Thế giới thừa nhận rằng, môi trường pháp lý là một trong

những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp. Các luật

và đạo luật về DNVVN đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các DNVVN hoạt

động. Chúng quy định nội dung và phạm vi hoạt động của các DNVVN. Tại

các quốc gia đang phát triển, theo tính toán, các cải cách pháp lý có thể giúp

thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các DNVVN và có thể đóng góp vào GDP

trung bình hàng năm ở các quốc gia này thêm 1,4% [148].

Với các quốc gia nền kinh tế có độ mở cao như trong Liên minh châu

Âu, hệ thống pháp lý hỗ trợ cho các DNVVN đã được hoàn thiện chặt chẽ, môi

trường đầu tư minh bạch, công bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi doanh

nghiệp có thể tham gia và phát triển bình đẳng. Tuy nhiên, tại các khu vực đang

phát triển, nhân tố này dường như vẫn chưa được quan tâm đúng mức, mặc dù

các Chính phủ đều hiểu rằng, chỉ có cách tạo ra một “môi trường sạch” với

những chính sách tốt mới có thể giúp cho khối DNVVN phát triển khỏe mạnh.

Nghiên cứu của Tổ chức Tài chính Quốc tế dựa trên phản hồi của hơn 45.000

doanh nghiệp ở các nước đang phát triển cho thấy, những trở ngại hàng đầu đối

với hoạt động của DNVVN nơi đây là môi trường đầu tư kém, đặc biệt là tình

trạng quan liêu, thuế suất cao [170]. St-Jean và cộng sự (2008) cũng đồng tình

với nhận định này khi cho rằng cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt từ khu

vực phi chính thức, với các quy định và thủ tục rườm rà, thuế suất không ưu

đãi là những trở ngại chính ảnh hưởng đến sự phát triển của DNVVN [162]. Vì

vậy, nếu không có một quan điểm nhất quán và định hướng rõ ràng về việc khơi

thông những rào cản về chính sách, môi trường pháp lý thì DNVVN khó có thể

vươn lên phát triển.

- Môi trường chính sách

63

Môi trường chính sách ở đây được thể hiện thông qua chính các chính

sách hỗ trợ của Nhà nước đối với DNVVN. Theo đó, các chính sách hỗ trợ của

Nhà nước là vô cùng quan trọng và có tác động trực tiếp đến quá trình hoạt

động của doanh nghiệp. Việc nhận được những chính sách hỗ trợ đúng và kịp

thời chắc chắn sẽ giúp doanh nghiệp có nhiều lợi thế để phát triển. Cụ thể, Nhà

nước cần xây dựng một môi trường chính sách hiệu quả, tích cực, hướng đến

doanh nghiệp. Trong đó, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhằm tiếp cận với

các nguồn lực xã hội như tiếp cận nguồn tài chính (vốn), hệ thống cơ sở hạ

tầng, tiếp cận công nghệ, tiếp cận nguồn lực lao động… có tác động vô cùng

lớn tới thành công trong quả trình phát triển của DNVVN trong nền kinh tế.

Harvie (2005) cho rằng hạn chế về tài chính, khó tiếp cận nguồn vốn là

một rào cản không nhỏ đối với các DNVVN khi mà những người chủ doanh

nghiệp thường phải huy động nguồn lực tự có của mình để thành lập doanh

nghiệp hoặc mở rộng kinh doanh. Ở các quốc gia đang phát triển, các DNVVN

thậm chí còn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tiếp cận các khoản vay của

ngân hàng vì bị đánh giá là có nguy cơ nợ xấu cao, lợi nhuận thấp và các doanh

nghiệp này ít có tài sản thế chấp đáp ứng theo yêu cầu của ngân hàng [111].

Ngân hàng thế giới cũng thừa nhận rằng, việc tiếp cận các nguồn tài chính từ

ngân hàng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của DNVVN,

tuy nhiên trên thực tế, việc hỗ trợ này khó triển khai đôi khi vì chính sự yếu

kém của các tổ chức ngân hàng, không sẵn có nguồn lực và khung pháp lý liên

quan đến các công tác đánh giá tín dụng cũng như tài sản thế chấp của doanh

nghiệp không đảm bảo [181].

Cùng với đó, trong quá trình toàn cầu hóa, việc DNVVN có thể tiếp cận

được các nguồn lực về công nghệ sẽ giúp ích rất nhiều cho doanh nghiệp trong

quá trình phát triển, tăng lợi thế cạnh tranh. Markman và Baron (2003) cho

rằng, việc tiếp cận các nguồn lực công nghệ đã giúp cho số lượng các doanh

64

nghiệp được xây dựng dựa trên việc đảm bảo chất lượng, đổi mới sáng tạo và

sở hữu trí tuệ được nâng lên [134]. Ngoài ra, các nguồn lực khác về cơ sở hạ

tầng (điện, nước, viễn thông…) hay nguồn lực về lao động đóng vai trò tiên

quyết trong việc giúp các DNVVN phát triển thành công. Darroch và Cover

(2005) cho rằng, việc không thể tiếp cận các nguồn lực về cơ sở hạ tầng ảnh

hưởng lớn tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp [76]. Còn Thornhill và

Armit (2003) cho rằng, tiếp cận nguồn lực lao động là nhân tố chính giúp doanh

nghiệp thành công, doanh nghiệp sẽ có nhiều lao động chất lượng cao và chuyên

gia để phát triển doanh nghiệp [171]. Đối với các DNVVN, việc được cung cấp

nguồn lực xã hội là vô cùng cần thiết, đặc biệt là trong quá trình xây dựng doanh

nghiệp và mở rộng kinh doanh. DNVVN vốn đã có nhiều hạn chế về quy mô,

về thị trường nên nếu không nhận được sự hỗ trợ đúng lúc, hoạt động của các

doanh nghiệp nói chung sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động lớn,

ảnh hưởng đến sự ổn định và kìm hãm sự tăng trưởng, giảm tinh thần kinh

doanh. Quan điểm này cũng được đồng tình bởi các các học giả Nasser và cộng

sự (2003) [141] và Pretorius & Shaw (2004) [152].

- Vai trò của các Hiệp hội

Nhà nước cần tạo điều kiện để xây dựng các tổ chức trung gian, thành

lập các Hiệp hội doanh nghiệp nhằm tư vấn, trợ giúp cho sự phát triển của các

DNVVN: các Hiệp hội giới chủ, Hiệp hội thương mại, các Phòng thương mại

và công nghiệp nhằm đại diện và bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp, kết

nối và giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp trong

khuôn khổ pháp luật quy định. Theo Buholzer (1998) [68], Hiệp hội được hiểu

ở đây là các tổ chức được thành lập nhằm giữ vai trò trung gian giữa các doanh

nghiệp với nhà lập pháp, đại diện và có lợi ích về mặt kinh tế và chính trị. Theo

đó, có ba loại Hiệp hội/tổ chức được phân biệt theo chức năng, đặc điểm và

nguồn gốc:

65

Bảng 2.6: Phân loại Hiệp hội/tổ chức theo các tiêu chí

Hiệp hội giới Hiệp hội thương Phòng thương mại

chủ mại & công nghiệp

*Thương lượng *Hòa giải lợi ích: đại *Nhiệm vụ công: vai

tập thể: đàm diện cho lợi ích của trò pháp lý và giám

phán với tổ chức ngành đối với cơ quan sát được giao bởi cơ

công đoàn nhà nước và thông tin quan nhà nước trong

*Hòa giải lợi ích: của các thành viên về các lĩnh vực như đào

đại diện cho lợi sự phát triển trong các tạo nghề, cấp giấy

ích của chủ lao vấn đề chính sách. chứng nhận…

động đối với cơ *Hòa giải lợi ích: đại

quan nhà nước diện cho lợi ích của

và thông tin của toàn bộ ngành công

i à o g n n ê B

các thành viên về nghiệp và thương

sự phát triển mại đối với các cơ

trong các vấn đề quan nhà nước và

g n ă n c ứ h C

chính sách. thông tin của các

thành viên về sự phát

triển trong các vấn

đề chính sách.

Hỗ trợ cho thành Hỗ trợ cho thành viên Hỗ trợ cho thành

viên: hỗ trợ về viên: dịch vụ tư vấn,

mặt pháp lý và đào tạo, cung cấp

tài chính khi mâu thông tin, xúc tiến

g n o r t n ê B

thuẫn xảy ra thương mại, trọng

tài…

66

*Định hướng thị *Định hướng thị *Định hướng theo

trường lao động trường sản phẩm: đại khu vực và địa

(thương lượng diện cho lợi ích kinh phương rất mạnh

và chính sách xã tế (chính sách doanh *Định hướng phi

hội) nghiệp…) ngành

*Định hướng *Định hướng ngành *Ở hầu hết các nước

ngành và/hoặc và/hoặc khu vực châu Âu, hoạt động

khu vực *Thành viên không theo luật riêng biệt

*Đứng trong mối bắt buộc *Ở hầu hết các nước

quan hệ chặt chẽ *Do định hướng thị châu Âu, các thành

h n í h c m ể i đ c ặ Đ

với tổ chức công trường sản phẩm nền viên là bắt buộc

đoàn thường tồn tại sự *Tập trung vào các

*Thành viên không đồng nhất về DNVVN

không có tính bắt lợi ích

buộc *Tổ chức theo luật tư

(private law)

Xuất hiện từ cuối Từ đầu thế kỷ 19 và Xuất hiện từ đầu thế

thế kỷ 19 và sinh gắn chặt chẽ với quá kỷ 17 và được thành

ra cùng với việc trình công nghiệp hóa lập bởi cơ quan nhà

thành lập tổ chức nước. Mục tiêu ban

công đoàn đầu nhằm thúc đẩy

thương mại và giới

c ố g n ồ u g N

thiệu cho giới lãnh

đạo các chuyên gia

kinh tế

Nguồn: Buholzer, René P. (1998) [68]

67

- Bối cảnh kinh tế toàn cầu

Bối cảnh kinh tế toàn cầu ở đây được hiểu là những yếu tố bên ngoài bao

gồm quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế giữa các quốc gia, khu

vực, quá trình cạnh tranh trên thị trường ngày một lớn hay tác động tiêu cực

của các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đến sự phát triển của các DNVVN.

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 là một minh chứng rõ nét về tác

động của bối cảnh kinh tế toàn cầu đến các doanh nghiệp nói chung và DNVVN

nói riêng. Chowdhury (2011) [70] cho rằng cuộc khủng hoảng đã làm ảnh

hưởng nghiêm trọng đến mọi nền kinh tế, vượt xa mọi sự tính toán, sự sụp đổ

mang hiệu ứng domino đã nhanh chóng gây ra tình trạng phá sản của nhiều

doanh nghiệp. Kossyva và cộng sự (2014) [126] cũng nhận định rằng DNVVN

đã phải chịu áp lực rất lớn, doanh thu sụt giảm nghiêm trọng, hoạt động sản

xuất đình trệ, sa thải người lao động. Ngoài ra, trong bối cảnh nền kinh tế càng

phát triển, số lượng các doanh nghiệp gia nhập thị trường ngày càng tăng. Các

DNVVN không chỉ cạnh tranh lẫn nhau mà còn phải đối mặt với các doanh

nghiệp lớn với nguồn lực vô tận (áp đảo về vốn, quy mô, công nghệ…). Quá

trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ khiến cho DNVVN

không chỉ phải cạnh tranh trong nước mà còn trên toàn cầu. Walley và cộng sự

(1998) cho rằng, sự cạnh tranh ngày nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm

cho mình được lợi thế vượt trội để có thể tồn tại trên thị trường [80]. Ngày nay,

biến động của thị trường ngày càng đa dạng khiến cho sự nhạy bén về thông

tin, sự linh hoạt trong hoạt động sản xuất sẽ ảnh hưởng lớn đến thành công của

doanh nghiệp. Những biến động này thường diễn ra do ảnh hưởng chung của

nền kinh tế (tài chính, thương mại), hoặc do những biến động chính trị (chiến

tranh, can thiệp vũ trang trên toàn cầu). Các biến động kinh tế do các yếu tố về

kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất ngân hàng, tỷ giá hội đoái, tỷ lệ thất

nghiệp…đều là những nhân tố ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát

68

triển của DNVVN. Wilkinson (2002) cho rằng, các DNVVN sẽ phát triển ổn

định hơn nếu như các yếu tố về kinh tế vĩ mô được quản lý tốt, môi trường ổn

định và thị trường có thể dự đoán được [175]. Ngày nay, trong bối cảnh quá

trình toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng nhanh và mạnh mẽ, sự ra đời của các

Hiệp định thương mại làm cho ranh giới giữa các quốc gia mờ đi, thì sự cạnh

tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt. Nếu doanh nghiệp không có sự thích

ứng nhanh và linh hoạt trong sản xuất, họ hoàn toàn có thể bị đánh bại trên sân

nhà bởi các doanh nghiệp đến từ một quốc gia khác [149]. Tuy vậy, Ngân hàng

Thế giới (2012) cho rằng, sự cạnh tranh này cũng thúc đẩy các doanh nghiệp

hướng tới năng suất cao hơn, hoạt động hiệu quả hơn, và điều này dẫn tới sự

phát triển hiệu quả hơn của chính các doanh nghiệp trong nền kinh tế [181].

Hình 2.3: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh

nghiệp vừa và nhỏ

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

69

2.4. Khung phân tích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền

kinh tế Đức

Xuất phát từ bối cảnh chung nền kinh tế Đức trong từng giai đoạn

( Xác định rõ vị trí/vai trò và sự cần thiết phải thúc đẩy phát triển DNVVN)

Các nhân tố ảnh hưởng bên ngoài: + Môi trường pháp lý + Môi trường chính sách + Vai trò của các Hiệp hội + Bối cảnh kinh tế toàn cầu

Các nhân tố ảnh hưởng bên trong: + Nguồn lực doanh nghiệp + Năng lực quản lý doanh nghiệp + Văn hóa doanh nghiệp + Chiến lược phát triển doanh nghiệp

Phân tích thực trạng sự phát triển của DNVVN qua từng mốc giai đoạn biến động của nền kinh tế Đức

 Sự phát triển của DNVVN trước năm 2000  Sự phát triển của DNVVN từ năm 2000 trở lại đây - DNVVN dưới thời Thủ tướng Gerhard Schröder - DNVVN trong cuộc khủng hoảng kinh tế - DNVVN từ năm 2010 trở lại đây

 Vai trò và vị trí của DNVVN trong nền kinh tế

Phát huy các nguồn lực còn hạn chế trong nền kinh tế

Tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế

Thúc đẩy kinh tế tăng trưởng (đóng góp vào GDP, giá trị xuất nhập khẩu…)

Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo ra nền kinh tế linh hoạt, cạnh tranh hơn

 Đánh giá ưu điểm/mặt hạn chế của DNVVN ở Đức  Rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tế phát triển DNVVN ở Đức

So sánh, đánh giá điểm tương đồng/khác biệt trong phát triển DNVVN giữa

Việt Nam và Đức

Khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

70

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Việc định nghĩa các DNVVN có vai trò rất quan trọng trong việc giúp

các quốc gia xác định đúng đối tượng, nhận định đúng vai trò và tiềm năng của

khối doanh nghiệp này. Nhìn chung, DNVVN có tính độc lập, đáp ứng các tiêu

chí mang tính định tính như vận hành trên nguyên tắc cá nhân hóa, cấu trúc

hoạt động đơn giản với thị phần tương đối nhỏ trên thị trường; ngoài ra còn

thỏa mãn các tiêu chí định lượng về lao động, tài sản và doanh thu. Mặc dù

chưa có thống nhất chung về khái niệm nhưng vai trò của các DNVVN trong

nền kinh tế thì đã được khẳng định và thừa nhận rộng rãi. Thứ nhất, DNVVN

có vai trò to lớn trong tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Xét một cách tổng

thể thì DNVVN được xem là bệ đỡ của nền kinh tế, giúp thúc đẩy nền kinh tế

tăng trưởng. Bên cạnh đó, khối DNVVN giúp bù đắp thiếu hụt và phát huy các

nguồn lực còn hạn chế trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Cuối cùng, DNVVN

có tiềm năng to lớn trong đổi mới sáng tạo, thúc đẩy nền kinh tế chuyển đổi.

Sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế cũng bị tác động trực tiếp

và gián tiếp bởi các yếu tố bên trong như nguồn lực doanh nghiệp, năng lực

quản lý doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp hay chiến lược phát triển doanh

nghiệp và các yếu tố tác động bên ngoài như môi trường pháp lý, môi trường

chính sách, vai trò của các hiệp hội hay bối cảnh kinh tế toàn cầu. Tại Đức, sự

phát triển của DNVVN trong nền kinh tế được xem là bài học thành công cho

nhiều quốc gia học tập. Nghiên cứu về sự phát triển các DNVVN ở Đức với

cách tiếp cận xuất phát từ bối cảnh chung của nền kinh tế Đức trong từng giai

đoạn để hiểu rõ vị trí/vai trò và sự cần thiết phải thúc đẩy phát triển DNVVN

trong nền kinh tế, thông qua việc phân tích thực trạng sự phát triển, từ đó đánh

giá được ưu điểm/mặt hạn chế của các DNVVN ở Đức cũng như rút ra được

những đặc điểm chung trong quá trình phát triển các DNVVN để chỉ ra những

bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể học tập.

71

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP

VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ ĐỨC NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

3.1. Tổng quan tình hình về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ

trong nền kinh tế Đức

Là nước có nền kinh tế lớn thứ tư trên thế giới và lớn nhất châu Âu, khi

nói về Đức, người ta thường nhắc đến những thương hiệu “tỷ đô” nằm trong

bảng xếp hạng toàn cầu như Volkswagen, Daimler, BMW, Siemens hay Bosch,

mà trên thực tế, chính những DNVVN (hay còn gọi là các Mittelstand) mới là

bệ đỡ của nền kinh tế Đức, giúp Đức vượt qua những cuộc khủng hoảng kinh

tế toàn cầu, nhanh chóng ổn định nền kinh tế và tiếp đà phát triển. Quá trình

phát triển DNVVN ở Đức có thể thấy rõ sự khác biệt giữa hai mốc thời gian:

(1) giai đoạn trước năm 2000, đặc biệt trong thời kỳ chuyển tiếp thống nhất

giữa Đông Đức và Tây Đức đầu những năm 1990 và (2) giai đoạn sau năm

2000 khi nước Đức đã thành một khối thống nhất và có những chương trình,

chính sách tổng thể của quốc gia, gắn chặt với sự phát triển chung của Liên

minh châu Âu nhằm thúc đẩy sự phát triển của khối DNVVN.

Trước những năm 1990 khi Đông Đức và Tây Đức vẫn bị chia tách, chỉ

có Tây Đức mới có sự phát triển mạnh mẽ của khối DNVVN khi nền kinh tế

thị trường được thiết lập và cổ vũ phát triển ở nơi đây. Ngay từ những thập niên

70 của thế kỷ XX, Chính phủ Tây Đức đã đề cao và dành sự quan tâm lớn cho

khối DNVVN khi mà thời điểm này, các doanh nghiệp lớn tại Tây Đức đang

thực hiện quá trình tái cấu trúc hoạt động mạnh mẽ, dẫn đến cắt giảm việc làm,

tiềm ẩn nhiều rủi ro gây mất ổn định thị trường lao động nói chung. Trong khi

đó tại Đông Đức, nền kinh tế kế hoạch đã kìm hãm sự phát triển của các

72

DNVVN, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân. Sự phát triển của khối DNVVN ở

Đông Đức chỉ thực sự được diễn ra khi sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ, nước

Đức chính thức thống nhất thành một khối, hình thành nên Cộng hòa Liên bang

Đức như ngày nay. Vai trò của DNVVN chính thức được thể hiện rõ ràng, đặc

biệt trong việc giúp ổn định nền kinh tế - xã hội hậu thống nhất.

Các đơn vị bang được phục hồi tại khu vực thuộc Đông Đức cũ. Các

doanh nghiệp lớn được thành lập trong nền kinh tế kế hoạch trước đây cũng bị

giải thể hoặc bị tách ra và tư nhân hóa. Song song với quá trình này, nhiều

DNVVN đã xuất hiện trong nền kinh tế để bù đắp lại sự thiếu hụt việc làm cũng

như do mong muốn được hoạt động tự do bị kìm kẹp quá lâu của nhiều công

dân muốn tham gia vào các hoạt động kinh doanh độc lập. Tỷ lệ tự kinh doanh

ở khu vực này tăng từ 4.6% năm 1991 lên 7.5% năm 1997. Sự phát triển của

DNVVN trong thời kỳ này cũng nhận được những hỗ trợ chính trị mạnh mẽ.

Trong đó, doanh nghiệp nhỏ phát triển mạnh trong lĩnh vực dịch vụ và thương

mại bán lẻ, còn các doanh nghiệp cỡ vừa đóng vai trò lớn hơn trong lĩnh vực

công nghiệp, xây dựng và thương mại bán buôn. Năm 1994, chỉ có ngành năng

lượng bị chi phối bởi các doanh nghiệp lớn [130].

Năm 1998, giá trị xuất khẩu của Đức đạt 950 tỷ Mác (đơn vị tiền tệ cũ ở

Đức) thì trong đó, DNVVN đã đóng góp 30% giá trị xuất khẩu trực tiếp (chưa

tính đến đóng góp của họ với vai trò là nhà thầu phụ, cung cấp phụ kiện cho

các doanh nghiệp lớn sản xuất). Nhiều Mittelstand trong nền kinh tế Đức được

gọi là “các nhà vô địch ẩn danh” [159]. Theo đó, nhiều doanh nghiệp tuy nhỏ

hoặc vừa ở thị trường trong nước nhưng lại là những doanh nghiệp hoạt động

toàn cầu, thậm chí chiếm đến 90% thị phần thế giới trong lĩnh vực của họ.

Tuy nhiên, mặc dù là thành viên sáng lập của Liên minh châu Âu (EU)

và đồng sáng lập của Khu vực đồng Euro năm 1999, nhưng sự phát triển của

73

DNVVN trong nền kinh tế Đức mới thực sự được khởi sắc từ những năm 2000

trở đi, sau một loạt những điều chỉnh và chính sách được ban hành bởi Liên

minh châu Âu nói chung và Đức nói riêng, cụ thể là: “Chính sách cải cách lao

động của Thủ tướng Đức Gerhard Schröder (2003)”, “Đạo luật doanh nghiệp

nhỏ (2008)” và ban hành “Chiến lược châu Âu 2020” của Liên minh châu Âu.

3.1.1. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức đầu những năm 2000

3.1.1.1. Bối cảnh chung nền kinh tế

Tính đến năm 2003, tại Đức có 3,38 triệu DNVVN (chiếm 99,7% tổng

số doanh nghiệp cả nước), sử dụng 19,98 triệu lao động (chiếm 70,2% tổng số

lao động), đóng góp 41,2% tổng doanh thu trong nền kinh tế và cung cấp các

chương trình đào tạo nghề cho 81,9% tổng số lao động học việc [109].

Hình 3.1: Đóng góp của DNVVN trong nền kinh tế Đức (2003)

Nguồn: Günterberg, B.; Kayser, G. (2004) [109]

74

Trong tổng số các DNVVN thì số lượng doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ

trọng lớn nhất với 69,9%, tỷ lệ doanh thu đạt 27,3% tổng doanh thu của các

DNVVN. Số lượng các doanh nghiệp đăng ký dưới dạng Công ty trách nhiệm

hữu hạn chiếm 15,4% nhưng lại tạo ra doanh thu lớn nhất, chiếm 37,6% tổng

doanh thu của các DNVVN. Các doanh nghiệp dưới dạng hợp danh chiếm

12,6% số lượng và chiếm 29,5% tổng doanh thu [109].

Hình 3.2: Các loại hình DNVVN và tỷ trọng doanh thu DNVVN ở Đức

Nguồn: Günterberg, B.; Kayser, G. (2004) [109]

Đầu những năm 2000, dưới thời Thủ tướng Đức Gerhard Schröder, bối

cảnh nền kinh tế Đức lúc này gặp nhiều khó khăn. Tốc độ tăng trưởng giảm

sâu, đặc biệt vào năm 2002 và 2003 khi mà mức tăng trưởng GDP lần lượt là

(-0,198%) và (-0,714%). Đây cũng là mức thấp nhất kể từ thời kỳ suy thoái

năm 1993. Tiêu dùng trong nước giảm sút, nền kinh tế toàn cầu bộc lộ nhiều

khó khăn, mọi yếu tố kinh tế vi mô và vĩ mô đều bất lợi, đặc biệt là gánh nặng

tài chính trong việc tái cân bằng nền kinh tế sau khi thống nhất Đông Đức và

Tây Đức. Ngoài ra, ảnh hưởng của tình trạng lũ lụt vào mùa thu năm 2002 đã

tạo thêm nhiều gánh nặng trong chi tiêu công của Đức [91].

75

11.167

12

10.727

9.779

10

8.482

7.917

7.773

8

6

4

2.895

1.698

1.19

2

0.722

-0.198

-0.714

0

2000 2001 2002 2003 2004 2005

-2

Tăng trưởng GDP (%)

Tỷ lệ thất nghiệp (%)

Hình 3.3: Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp tại Đức từ 2000-

2005

Nguồn: Ngân hàng Thế giới [179] [180]

Thị trường lao động Đức giai đoạn này cũng trải qua nhiều sóng gió. Tỷ

lệ thất nghiệp có xu hướng tăng. Đến tháng 12 năm 2002, số đơn đăng ký thất

nghiệp đạt mức 4,16 triệu đơn, tăng 197.000 đơn so với năm trước [91]. Tỷ lệ

thất nghiệp ở mức 9,779% vào năm 2003 và đạt đỉnh ở mức 11,167% năm

2005. Kinh tế ảm đạm, tỷ lệ thất nghiệp tăng, gánh nặng chi tiêu xã hội lớn đòi

hỏi Đức phải có những cải cách kịp thời nhằm ổn định lại tình hình.

3.1.1.2. Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ dưới thời Thủ

tướng Đức Gerhard Schröder

Trong bối cảnh này, dưới thời Thủ tướng Đức Gerhard Schröder, Chính

phủ đã công bố “Chương trình nghị sự 2010” trong bản tường trình của Chính

phủ Liên bang vào ngày 14 tháng 03 năm 2003; trong đó sẽ thực hiện một loạt

các giải pháp toàn diện nhằm cải cách sâu rộng thị trường lao động Đức và hệ

thống phúc lợi xã hội Đức vốn đang gặp nhiều khó khăn.

76

Cốt lõi của chương trình này là “cải cách Hartz”, được đặt theo tên của

giám đốc nhân sự của Volkswagen, Peter Hartz, người đứng đầu một ủy ban

cải cách thị trường lao động, với mục đích là nhanh chóng giúp giảm tỷ lệ thất

nghiệp trong nền kinh tế. Các cải cách của Hartz thông qua bốn đạo luật mới

được ban hành trong các giai đoạn từ tháng 01 năm 2003 đến tháng 01 năm

2005 [119]. Nội dung của các điều luật này bao gồm:

- Hartz I và II (có hiệu lực từ 01/01/2003): quy định hướng dẫn, hỗ trợ, tạo

điều kiện cho người lao động thoát khỏi tình trạng thất nghiệp thông qua

các chương trình trợ cấp học nghề, giới thiệu việc làm mới, hỗ trợ khởi

nghiệp, tạo các cơ hội việc làm bán thời gian với mức lương ở ngưỡng

thấp vừa đủ hay các hình thức làm việc linh hoạt hơn như hợp đồng có

thời hạn…;

- Hartz III (có hiệu lực từ 23/12/2003): tái cấu trúc các Cơ quan làm việc

cấp Liên bang (Cục quản lý lao động Liên bang, Cục tuyển dụng lao

động Liên bang) và cấp bang (Sở quản lý lao động Bang, Cơ quan tuyển

dụng lao động Bang), nhằm giúp ngăn chặn tình trạng quan liêu trong cơ

quan nhà nước;

- Hartz IV (có hiệu lực từ 09/07/2004): thay đổi cơ bản việc tính toán các

khoản trợ cấp xã hội (tiền lương thất nghiệp, các trợ cấp xã hội cho người

thất nghiệp khác) giúp chính sách chuyển đổi phù hợp hơn với tình hình

thực tế.

Các cải cách này được kỳ vọng sẽ giúp giải quyết các vấn đề về việc làm,

giảm tỷ lệ thất nghiệp, cải thiện hệ thống trợ cấp xã hội, giúp nền kinh tế vận

hành linh hoạt và phát triển bền vững hơn. Và để đạt được những mục tiêu này,

Chính phủ của Thủ tướng Gerhard Schröder đã nhìn nhận khối DNVVN là chìa

khóa giúp duy trì sự ổn định trong nền kinh tế, là động lực chính tạo ra nhiều

77

việc làm. Cụ thể, Bộ Kinh tế và Lao động Đức đã ban hành “Sáng kiến doanh

nghiệp vừa và nhỏ” vào tháng 01 năm 2003 để hỗ trợ riêng cho khối doanh

nghiệp này phát triển. Sáng kiến này cũng là một phần trong Chương trình nghị

sự 2010 của Chính phủ Đức với sáu vấn đề được tập trung [143]:

- Thúc đẩy tinh thần kinh doanh.

- Đảm bảo hỗ trợ tài chính.

- Thúc đẩy đào tạo nghề đặc biệt là lao động có tay nghề cao.

- Giảm các rào cản từ thủ tục hành chính quan liêu.

- Thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo doanh nghiệp.

- Đẩy mạnh đầu tư và trao đổi ngoại thương.

Để hoàn thành được các mục tiêu trên, Chính phủ Đức triển khai một loạt

các giải pháp, thông qua chương trình và chính sách cụ thể hỗ trợ DNVVN [143]:

 Điều tiết môi trường kinh doanh:

Để cải thiện khung pháp lý và các điều kiện giúp doanh nhân khởi nghiệp

được thuận lợi, Chính phủ Liên bang ban hành “Sáng kiến giảm thiểu tình trạng

quan liêu” được thông qua vào tháng 07 năm 2003. Một loạt các hành động cụ

thể được triển khai, bao gồm:

- Rút ngắn thời gian xử lý thủ tục hành chính, thời gian chờ đăng ký kinh

doanh từ hai tháng xuống còn tối đa một tháng. Bên cạnh đó, sẽ giới thiệu

cổng đăng ký trực tuyến toàn quốc vào năm 2007, giúp rút ngắn thời gian

đăng ký tiêu chuẩn xuống còn một ngày.

- Giảm các gánh nặng thống kê cho các doanh nghiệp.

- Đơn giản hóa các điều kiện tiêu chuẩn nơi làm việc.

- Tự do hóa hơn nữa ngành nghề thủ công.

78

Ngoài ra, Chính phủ cũng nới lỏng các điều kiện về lao động trong các

DNVVN, các doanh nghiệp khởi nghiệp như cho phép ký các hợp đồng lao

động ngắn hạn hay nới lỏng các ngưỡng quy định của Đạo luật chống lại sự sa

thải không công bằng trong các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng

áp dụng các chiến lược về chính sách giảm thuế cho các cá nhân và công ty

giúp giảm gánh nặng hoạt động với tổng mức hỗ trợ năm 2005 là hơn 50 tỷ

euro. Đây được xem là những điều chỉnh tích cực, giúp cải thiện môi trường

pháp lý và môi trường chính sách, những nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng trực

tiếp đến sự phát triển của các DNVVN.

 Kiến tạo một xã hội khởi nghiệp:

Thúc đẩy tinh thần kinh doanh là một trong những yếu tố chính của

“Sáng kiến doanh nghiệp vừa và nhỏ” năm 2003. Một loạt các điều chỉnh được

áp dụng để cải thiện điều kiện khởi nghiệp cho các doanh nhân trẻ và doanh

nghiệp nhỏ:

- Ngưỡng quy định về doanh thu được nâng lên mức 17,500 euro và các

yêu cầu về sổ sách kế toán được nới lỏng.

- Bộ luật về các ngành nghề Thủ công được sửa đổi theo hướng nới lỏng

các quy định thành lập doanh nghiệp mới và chuyển giao doanh nghiệp

cho người kế nhiệm.

- Vận hành dự án “Dịch vụ dành cho các nhà sáng lập Đức” dưới sự bảo

trợ của Bộ Kinh tế và Lao động Liên bang, Phòng Thương mại và Thủ

công mỹ nghệ, nhóm Ngân hàng KfW nhằm cung cấp thông tin và dịch

vụ tư vấn cho các doanh nhân khởi nghiệp.

 Chính sách thúc đẩy tinh thần kinh doanh của phụ nữ:

Phụ nữ chiếm khoảng 28% số doanh nhân tự làm chủ ở Đức. Mặc dù con

số này đã tăng mạnh mẽ trong vài thập kỳ gần đây nhưng nó vẫn chưa tương

79

xứng với tỷ lệ so với đàn ông mặc dù giáo dục giữa phụ nữ và đàn ông là bình

đẳng. Vì vậy, năm 2004, Chính phủ Liên bang đã thành lập một “Tổ chức khởi

nghiệp ở phụ nữ”. Tổ chức này đặt tại Stuttgart và hệ thống của nó kết nối với

tất cả phụ nữ khởi nghiệp trên toàn quốc, hỗ trợ qua một số điện thoại đường

dây nóng và qua mạng internet. Tổ chức này hỗ trợ các phụ nữ đang hoặc mới

có ý định khởi nghiệp với những lời khuyên hữu ích từ các chuyên gia. Chính

phủ cũng khuyến khích các phụ nữ tự làm chủ bằng việc cải thiện các điều kiện

hiện tại trong việc tạo ra những việc làm thời vụ, ngắn hạn.

Việc kiến tạo một xã hội khởi nghiệp hay áp dụng các chính sách khuyến

khích tinh thần kinh doanh của phụ nữ được xem là góp phần quan trọng trong

việc tạo ra một môi trường thuận lợi để mọi thành phần trong xã hội có điều

kiện phát triển bình đẳng, tận dụng được mọi nguồn lực xã hội. Đây đều là

những nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nói chung của khối

DNVVN.

 Tiếp cận thị trường quốc tế:

Một phần thiết yếu của Chương trình nghị sự 2010 và Sáng kiến DNVVN

là chương trình “Hoạt động tích cực trên toàn thế giới”. Đây là sự kết hợp của

một chương trình mười điểm, với mục tiêu trọng tâm là chính sách tự do hóa

thị trường trong các cuộc đàm phán thương mại thế giới hiện nay. Mục đích

của chương trình này là giúp tăng cường mạng lưới các Phòng thương mại Đức

trên toàn thế giới, hỗ trợ về mặt chính trị chuyên sâu hơn cho các công ty Đức

ở nước ngoài, hỗ trợ tối đa cho các hội chợ thương mại tổ chức ở nước ngoài

đặc biệt cho đối tượng là các DNVVN.

Để phục vụ cho các hoạt động thương mại quốc tế, tạo điều kiện tuân thủ

các quy tắc và yêu cầu trong lĩnh vực bảo vệ sở hữu trí tuệ, các thông tin liên

quan được cung cấp cho các DNVVN thông qua hơn 20 trung tâm thông tin về

80

bằng sáng chế ở Đức. Ngoài ra, các thông tin về cách bảo vệ sở hữu trí tuệ, các

thông tin hữu ích cho khối DNVVN cung cấp bởi Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế

giới (WIPO) được cung cấp sẵn trên trang web của Bộ Giáo dục và Nghiên cứu

Liên bang và Văn phòng Bằng sáng chế và Thương hiệu Đức. Ba hiệp hội kinh

doanh lớn ở Đức cũng đã thành lập “Nhóm hành động của các doanh nghiệp

Đức trong việc chống làm giả và vi phạm bản quyền sản phẩm” vào năm 1997.

Nhóm này cũng phối hợp chặt chẽ với Bộ Kinh tế và Lao động Liên bang trong

việc thường xuyên tổ chức các hội thảo nhằm phổ biến các thông tin, trao đổi

kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp Đức trong việc hoạt động thương mại quốc

tế liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ.

Việc thúc đẩy hoạt động tại thị trường quốc tế giúp tăng tính cạnh tranh

cho các DNVVN Đức trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, vai trò của các hiệp

hội kinh doanh lớn ở Đức có tác động trực tiếp trong việc giúp khối DNVVN

được dẫn dắt và đi đúng hướng hơn. Đây đều là những nhân tố bên ngoài có tác

động trực tiếp và gián tiếp đến sự phát triển của các DNVVN ở Đức.

 Thương mại điện tử:

Chính phủ Liên bang Đức hỗ trợ 24 trung tâm chuyên môn trong lĩnh

vực thương mại điện tử nhằm cung cấp cho các DNVVN một loạt thông tin, tư

vấn và đào đạo cho khối doanh nghiệp này để sử dụng internet hiệu quả hơn.

Dự án PROZEUS cũng được vận hành nhằm giúp nâng cao năng lực kinh

doanh điện tử cho các DNVVN để tham gia vào thị trường mua sắm và bán

hàng toàn cầu. Đây được xem là bước đi kịp thời của Chính phủ Liên bang

trong việc giúp nền kinh tế Đức từng bước vận hành năng động hơn. Nhiều

cuộc thi “khởi nghiệp đa phương tiện” cũng được tổ chức tạo động lực biến

những ý tưởng kinh doanh sáng tạo thành hiện thực trong thời kỳ công nghệ số.

Có thể nói rằng, thương mại điện tử cũng là một trong những cầu nối giúp các

81

DNVVN ở Đức tiếp cận mạnh mẽ hơn trên phạm vi toàn thế giới, ngoài ra giúp

củng cố và định hình chiến lược phát triển doanh nghiệp trong kỷ nguyên số.

 Tiếp cận nguồn tài chính

Một trong những thách thức lớn nhất của các nhà hoạch định chính sách

Đức là làm thế nào có thể đảm bảo các DNVVN có cơ hội tiếp cận đến thị

trường tài chính. Để giải quyết khó khăn này, Chính phủ Liên bang đã đưa ra

quyết định sát nhập Ngân hàng đền bù Đức (DtA) vốn chuyên cung cấp các

khoản vốn đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp và Ngân hàng tái xây dựng và

phát triển (KfW) chuyên cung cấp các khoản vay vốn cho các doanh nghiệp

đang hoạt động để thành lập Ngân hàng KfW mới vào năm 2003, với nhiệm vụ

chính vẫn là hỗ trợ tài chính cho các DNVVN. Và để tạo điều kiện cho các

DNVVN tiếp cận đến các khoản vay, tất cả các khoản vay trước đây dành cho

doanh nhân trẻ và các DNVVN được kết hợp với nhau thành một sản phẩm cho

vay thống nhất mới có tên gọi là “Cho vay khởi nghiệp”. Năm 2004, một khoản

vay lên đến 5,7 tỷ euro đã được phê duyệt và ban hành.

Cơ chế cho vay đối với các DNVVN của Ngân hàng trung ương KfW

mới vẫn dựa trên cơ chế cũ là họ sẽ ủy quyền cho một bên trung gian (House

bank) chịu trách nhiệm thẩm tra hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp đó và quyết

định xem doanh nghiệp nào đủ điều kiện được vay vốn. Khách hàng làm việc

với House bank, House bank làm việc với Ngân hàng trung ương KfW. House

bank phải chịu trách nhiệm hoàn trả các khoản vay của khách hàng cho KfW

và lợi nhuận mà House bank có được chính là từ phần chênh lệch lãi suất cho

khách hàng và lãi suất mà House bank phải trả cho KfW [172]. Việc sử dụng

bên trung gian thứ ba là House bank sẽ giúp cho Ngân hàng trung ương KfW

giảm được gánh nặng rủi ro trong việc xét duyệt hồ sơ và giảm chi phí hoạt

động. Các doanh nghiệp đã là khách hàng của House bank thì sẽ được đơn giản

82

thủ tục vay vốn hơn rất nhiều ở những lần vay sau, giúp tiết kiệm thời gian và

tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn vay.

Có thể nói rằng, đây là một cải cách phù hợp từ Chính phủ Đức trong

việc cung cấp nguồn lực về tài chính cho DNVVN, ảnh hưởng trực tiếp đến

quá trình phát triển của doanh nghiệp.

 Đổi mới và công nghệ

Năm 2004, Chính phủ Đức đã triển khai một sáng kiến đổi mới toàn diện,

trong đó có một kế hoạch tổng thể về công nghệ cao, ưu tiên cho các DNVVN.

Sáng kiến này được xem là giúp củng cố nguồn lực về công nghệ cho các

DNVVN, giúp nâng cao quá trình nghiên cứu, sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến

sự lớn mạnh của doanh nghiệp. Trên thực tế, các DNVVN thường có năng lực

nghiên cứu và phát triển (R&D) hạn chế nên sẽ cần sự hỗ trợ đặc biệt, bao gồm:

- Đầu tiên là một giải pháp hỗ trợ tài chính cho các công ty công nghệ trẻ.

Trong đó, các quỹ đầu tư ở châu Âu đã dành trung bình khoảng 30%

ngân sách để tham gia đầu tư cho các doanh nghiệp công nghệ. Các quỹ

này thường tham gia từ giai đoạn rất sớm đồng hành cùng doanh nghiệp

trong cả giai đoạn sơ khai và giai đoạn phát triển sau này. Bên cạnh đó,

việc ra mắt Quỹ đầu tư mạo hiểm từ ngày 01/11/2004 cũng giúp rất nhiều

công ty công nghệ trẻ được hưởng lợi trong việc tiếp cận các nguồn vốn

đầu tư.

- Ngoài các nhà đầu tư cá nhân, Chính phủ Đức cũng có kế hoạch thành

lập một quỹ khởi nghiệp công nghệ cao đặc biệt trong những năm tiếp

theo như là một trụ cột thứ ba trong cấu trúc hỗ trợ các công ty công nghệ

trẻ. Quỹ này cam kết sẽ hỗ trợ các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực

nghiên cứu và phát triển bằng cách cung cấp vốn đầu tư mạo hiểm trong

những năm đầu công ty hoạt động.

83

Lĩnh vực đầu tư mạo hiểm cũng trở nên hấp dẫn hơn khi có Đạo luật thúc

đẩy đầu tư mạo hiểm. Đạo luật này giúp cải thiện các điều kiện về thuế cho việc

thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm mới ở Đức. Ngoài ra, Chính phủ Đức cũng

mong muốn sự tăng cường hợp tác giữa các DNVVN và các trung tâm nghiên

cứu và phát triển. Theo đó, chương trình PRO INNO II, chương trình InnoNet

và chương trình INNO-WATT được đưa vào hoạt động nhằm hình thành mạng

lưới sáng tạo giữa các DNVVN, hỗ trợ sự hợp tác nghiên cứu và phát triển

xuyên quốc gia giữa các DNVVN và các trung tâm nghiên cứu. Nghiên cứu và

phát triển ngày càng được định hướng là động lực đổi mới tăng trưởng kinh tế

quốc gia.

 Trau dồi kỹ năng và phát triển (bao gồm cả đào tạo quản lý)

Nâng cao năng lực quản lý doanh nghiệp là nhân tố bên trong ảnh hưởng

trực tiếp đến sự phát triển của doanh nghiệp và đây cũng là một trong những

ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Đức nhằm giúp DNVVN củng cố nguồn lực

để phát triển. Theo đó, “Học tập suốt đời” được xem là tâm điểm ở Đức trong

suốt thời gian này. Chính phủ Đức đã phát động một chương trình mở rộng

nhằm thúc đẩy việc “học trong quá trình làm việc”, “học trong môi trường xã

hội”, “học trong các cơ sở đào tạo giáo dục” và “học trên mạng”. Một khoản

tài trợ trị giá khoảng 130 triệu euro đã được Chính phủ Liên bang và Quỹ xã

hội châu Âu cung cấp cho chương trình suốt giai đoạn từ 2001 đến 2007.

Một dự án khác liên quan đến đào tạo kỹ năng là chương trình Cung cấp

hỗ trợ - Đào tạo theo khu vực được thông qua năm 2001 bởi Bộ Giáo dục và

Nghiên cứu Liên bang Đức hợp tác với các bang và được Quỹ xã hội châu Âu

đồng tài trợ với kinh phí 118 triệu euro, hỗ trợ 73 mạng lưới khu vực cung cấp

dịch vụ giáo dục, đào tạo, góp phần giảm thiểu sự thiếu hụt nguồn nhân lực

lành nghề cho các DNVVN.

84

3.1.1.3. Những kết quả đạt được

Có thể nói rằng trong giai đoạn này, Chính phủ Đức đã nhìn nhận đúng

vai trò và vị trí của khối DNVVN trong nền kinh tế cùng sự kỳ vọng thông qua

một loạt cải cách mang tính thực chất, tiếp tục giúp khối DNVVN có nhiều thuận

lợi phát triển. Bên cạnh lợi thế sẵn có của các DNVVN là cơ cấu tổ chức đơn

giản, văn hóa doanh nghiệp đặc trưng, sự gắn kết và tương tác giữa các vị trí

trong doanh nghiệp cao, cùng đội ngũ lao động trung thành, tiếp nối truyền thống

qua nhiều thế hệ với một tầm nhìn dài hạn, khối DNVVN đã được tiếp thêm sức

mạnh bằng một loạt các cải cách môi trường pháp lý đến môi trường chính sách

của Chính phủ, tăng khả năng tiếp cận các nguồn tài chính, giảm rào cản thủ tục

hành chính, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy các DNVVN

đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Theo đó, lý

thuyết của Penrose về phát triển doanh nghiệp cũng khẳng định “bản thân các

nguồn lực chưa thể được xem là yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất kinh

doanh mà tùy thuộc vào từng doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực đó theo những

cách thức như thế nào dựa trên kinh nghiệm, trình độ của người lao động, năng

lực của quản lý thì nguồn lực đó mới trở thành nhân tố giúp doanh nghiệp tăng

trưởng”. Để đạt được những kết quả tích cực, DNVVN ở Đức đã khẳng định

được nội lực và năng lực quản lý, vận hành, định hướng của mỗi doanh nghiệp

là rất lớn. Bên cạnh đó, vai trò của các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp cũng rất

quan trọng trong việc cung cấp thông tin và định hướng các doanh nghiệp phát

triển đúng lộ trình, mở rộng mạng lưới kết nối quốc tế thông qua các Phòng

Thương mại Đức trên toàn thế giới. Trên bình diện này, DNVVN ở Đức đã có

những lợi thế cạnh tranh nhất định và được thừa nhận là những “nhà vô địch ẩn

danh toàn cầu”. Những lợi thế này vốn được xây dựng dựa trên nền tảng nguồn

lực mạnh mẽ của từng doanh nghiệp, được đúc kết và xây dựng qua nhiều thế

hệ, là đặc trưng riêng của các DNVVN ở Đức. Điều này cũng phù hợp với lý

85

thuyết về nguồn lực doanh nghiệp và năng lực động của doanh nghiệp. Theo đó,

Wernerfelt (1984) cho rằng các doanh nghiệp có thể hoạt động trong cùng một

lĩnh vực nhưng có những chiến lược kinh doanh khác nhau và các chiến lược này

không thể sao chép vì nó được xây dựng dựa trên đặc tính về nguồn lực sẵn có

của doanh nghiệp ấy [174]. Các nguồn lực và năng lực cốt lõi của doanh nghiệp

cũng là nhân tố chính giúp doanh nghiệp có thể có được lợi thế cạnh tranh [151].

Bằng một loạt các giải pháp đồng bộ, Chính phủ Liên bang Đức thông

qua sự đóng góp của các DNVVN đã đạt được nhiều kết quả tích cực, giúp nền

kinh tế dần quay ngược trở lại quỹ đạo khi tăng trưởng GDP từ mức thấp nhất

là -0,714% vào năm 2003 đã tăng trở lại đạt 1,19% năm 2004, 0,722% năm

2005 và đạt đỉnh ở mức 3,815% vào năm 2006 trước khi có dấu hiệu giảm sút

do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008. Thị trường lao

động Đức được hưởng lợi khi đầu những năm 2000, tỷ lệ thất nghiệp mặc dù

đạt đỉnh ở mức 11,167% vào năm 2005 đã có xu hướng giảm trong những năm

sau đó. Điều này cho thấy các bộ giải pháp của Chính phủ Đức đã phát huy

hiệu quả và đặc biệt khối DNVVN đã thể hiện được vai trò của mình trong việc

góp phần giúp ổn định lại thị trường lao động.

15

11.167

10.727

10.25

9.779

8.658

10

7.742

7.524

3.815

5

2.984

1.19

0.722

0.962

-0.714

0

2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

-5

-5.697

-10

Tăng trưởng GDP (%)

Tỷ lệ thất nghiệp (%)

Hình 3.4: Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp tại Đức từ 2003-2009

Nguồn: Ngân hàng Thế giới [179] [180]

86

Vị trí của DNVVN ở Đức được khẳng định trong nền kinh tế khi nó vẫn

giữ vai trò là bệ đỡ của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và có vai trò to lớn

trong tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp với tỷ lệ doanh nghiệp chiếm 99,27%

trong tổng số lượng doanh nghiệp cả nước, trong đó chiếm hơn 58% tỷ lệ lao

động quốc gia. Ngoài ra, tỷ lệ doanh thu hàng năm đóng góp cho nền kinh tế vẫn

duy trì thị phần không nhỏ ở mức 33,64%, đặc biệt là vai trò trong dạy nghề, đào

tạo lao động được khẳng định với 82,94%, giúp duy trì tĩnh bền vững của thị

trường lao động [105]. Bên cạnh đó, DNVVN cũng giúp phát huy các nguồn lực

còn hạn chế trong nền kinh tế và có tiềm năng lớn trong đổi mới sáng tạo.

*: Số liệu tính dựa trên phân loại DNVVN của EU, 2007

**: Số liệu tính dựa trên phân loại DNVVN của IfM Đức, 2009

Hình 3.5: Vai trò của DNVVN ở Đức trong nền kinh tế vĩ mô

Nguồn: Giz (2012) [105].

87

3.1.2. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức trong giai đoạn khủng

hoảng kinh tế thế giới

3.1.2.1. Bối cảnh chung nền kinh tế

Sau khi đạt được những thành quả dưới thời Thủ tướng Đức Gerhard

Schröder với tăng trưởng GDP ở Đức đạt đỉnh ở mức 3,815% vào năm 2006

thì nền kinh tế Đức đã có dấu hiệu giảm tốc do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng

hoảng kinh tế toàn cầu.

Chính phủ Đức lúc này lại đối mặt với nhiều khó khăn hơn trong tình

cảnh mọi yếu tố vĩ mô trên thế giới đều bất lợi. Tốc độ tăng trưởng GDP năm

2008 của Đức chỉ còn 0,962% và năm 2009 đã chạm đáy ở mức -5,697%. Xuất

khẩu hàng hóa và dịch vụ sụt giảm từ 1.163 tỷ euro, chiếm 43,799% tỷ trọng

GDP năm 2008 xuống còn 996,946 tỷ euro, chỉ chiếm còn 38,12% tỷ trọng

GDP năm 2009.

1,400

1,272

1,236

1,163

1,141

1,141

1,200

1,048

997

933

1,000

875

784

800

46.3

45

44

43

600

43

41

38

38

36

33

400

200

0

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Giá trị xuất khẩu hàng hóa & dịch vụ (đơn vị: tỷ euro)

Tỷ trọng giá trị xuất khẩu hàng hóa & dịch vụ trong GDP (đơn vị: %)

Hình 3.6: Giá trị xuất khẩu hàng năm và tỷ trọng giá trị xuất khẩu trong

GDP của Đức

Nguồn: Ngân hàng thế giới [176] [177]

88

Bối cảnh kinh tế Đức lúc này đối mặt với nhiều bất lợi hơn khi hàng loạt

các doanh nghiệp lớn và cả các DNVVN hoạt động sản xuất kinh doanh gặp

nhiều khó khăn. Trong năm 2009, hơn 60% các DNVVN đã báo cáo tình hình

hoạt động kinh doanh sụt giảm [157], đứng trước nguy cơ phải sa thải lượng

lớn người lao động, khiến tỷ lệ thất nghiệp có thể tăng cao. Điều này nếu xảy

ra sẽ để lại hậu quả vô cùng to lớn về mặt xã hội. Đứng trước tình cảnh cần

phải tiếp tục và mạnh mẽ cải tổ mọi hoạt động, một lần nữa, khối DNVVN lại

được nhìn nhận là bệ đỡ của nền kinh tế, tiềm năng giúp nền kinh tế Đức phục

hồi khi mà các doanh nghiệp lớn đang phải chịu đựng những tổn thất hết sức

nặng nề.

Với hơn 99% là các DNVVN, sử dụng một lượng lớn lao động trong nền

kinh tế, Chính phủ Đức hiểu rằng, vai trò của các DNVVN là vô cùng quan

trọng trong việc tiếp tục giữ nền kinh tế duy trì sự ổn định. Những lợi thế sẵn

có của khối doanh nghiệp này như quy mô nhỏ, linh hoạt thích ứng trong điều

kiện kinh tế có nhiều biến động, lao động có tay nghề cao và nền tảng là các

công ty gia đình hoạt động qua nhiều thế hệ, truyền thống lâu đời, Chính phủ

Đức thông qua các chính sách hỗ trợ về nhiều mặt đã ưu tiên giúp cho các

DNVVN ở Đức có thể nhanh chóng phục hồi hoạt động sản xuất trong khủng

hoảng để giúp ổn định trật tự kinh tế xã hội.

3.1.2.2. Chính sách hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ

ở Đức

 Những hỗ trợ từ Chính phủ Đức

Áp lực đầu tiên của các doanh nghiệp khi chịu ảnh hưởng của khủng

hoảng kinh tế là kết quả kinh doanh giảm sút, đòi hỏi phải cắt giảm lực lượng

lao động. Tuy vậy, đây là điều mà không một doanh nghiệp nào mong muốn

khi mà phải mất rất nhiều nguồn lực để có thể đào tạo được một lao động có

89

tay nghề cao, gắn bó với doanh nghiệp, đặc biệt tại các DNVVN vốn mối quan

hệ giữa người lao động và doanh nghiệp còn mật thiết hơn. Để giải quyết bài

toán này, một trong những cơ chế chính mà các doanh nghiệp lựa chọn áp dụng

là giảm số giờ làm việc thay vì cắt giảm nhân công. Tính từ 2007 đến 2009, số

giờ làm việc trung bình của mỗi lao động làm công ăn lương đã giảm khoảng

3,3%. Về cơ bản, chi phí để sa thải một công nhân là tương đối cao khi so với

việc giữ lại công nhân đó nhưng giảm giờ làm việc trung bình. Ngoài ra, không

ai chắc chắn được rằng thời gian của cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ kéo dài bao

lâu nên các doanh nghiệp không muốn bị mất đi những lao động lành nghề, vốn

đã gắn bó lâu dài với doanh nghiệp mà rất khó có thể đào tạo hay tuyển dụng

lại được.

Và để tăng tính cam kết hỗ trợ cho doanh nghiệp, Chính phủ Đức đã vận

hành lại chương trình “Kurzarbeit” với mục đích hỗ trợ giảm giờ làm cho người

lao động. Bằng cách này, doanh nghiệp sẽ vẫn duy trì được hoạt động mà không

cần cắt giảm nhân công, giảm rủi ro gánh nặng thất nghiệp cho xã hội. Cùng

với đó, Chính phủ cũng thông qua các kênh truyền thông và công đoàn, quảng

bá rộng rãi chiến dịch này đến người lao động để tăng cường sự nhận thức và

ý thức hợp tác của người lao động với doanh nghiệp [83]. Theo đó, Cơ quan

Việc làm Liên bang sẽ chi trả cho người lao động tối đa hai phần ba mức tiền

lương bị tổn thất trong quá trình giảm giờ làm so với trước đây và sẽ bồi thường

từ 50% đến 100% các khoản đóng góp an sinh xã hội khác mà người chủ doanh

nghiệp phải chi trả. Chỉ trong vòng một năm kể từ khi cuộc khủng hoảng xảy

ra, số người tham gia vào chương trình Kurzarbeit này đã tăng đột biến từ

50.000 người năm 2008 (với chỉ khoảng 5.000 doanh nghiệp tham gia) lên 1,5

triệu người vào năm 2009 (với trên 60.000 doanh nghiệp tham gia vào chương

trình). Trong năm 2009, chương trình đã chi khoảng 4,5 tỷ euro trợ cấp cho hơn

90

500 triệu giờ làm, chiếm khoảng 1,5% tổng chi ngân sách [144]. Sự trợ giúp

của chương trình Kurzarbeit đã đạt được một số thành công vào thời kỳ này:

- Ổn định việc làm và giảm thiểu tổn thất: Trong giai đoạn khủng hoảng,

năng suất lao động trên mỗi lao động và trên mỗi giờ làm việc đều giảm

đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất. Tuy vậy, với các ưu đãi mà

chương trình hỗ trợ mang lại, các DNVVN ở Đức đã tận dụng cơ chế

làm việc linh hoạt cho phép người lao động làm việc ít giờ hơn mà không

bị giảm lương. Nhưng bù lại, các lao động cũng phải cam kết sẽ phải làm

thêm giờ mà không được tăng lương khi hoạt động sản xuất ổn định trở

lại. Bằng cách này, doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng ở Đức

đã giữ lại được các lao động tay nghề cao của mình và giảm thiểu những

tổn thất liên quan đến tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.

- Hỗ trợ thu nhập: Mặc dù việc cắt giảm giờ lao động khiến cho mức lương

người lao động nhận được không còn cao như trước kia nhưng thu nhập

của người lao động về mặt tổng thể vẫn được đảm bảo và vẫn duy trì

được các chế độ đãi ngột tốt đối với người lao động. Điều này đóng vai

trò quan trọng trong việc giúp người lao động và doanh nghiệp có niềm

tin để cùng vượt qua khủng hoảng.

- Giải pháp ba bên: Một tính năng độc đáo của chương trình này là chi phí

và lợi ích được chia sẻ giữa người lao động, người sử dụng lao động và

Chính phủ. Doanh nghiệp vẫn là bên chịu trách nhiệm về chi phí tiền

lương, nhưng được giảm gánh nặng nhờ sự chia sẻ từ Chính phủ với hỗ

trợ các khoản trợ cấp khác cho người lao động. Bù lại, doanh nghiệp giữ

được lao động có tay nghề và Chính phủ giảm rủi ro gánh nặng thất

nghiệp nếu người lao động bị sa thải. Về phía người lao động thì vẫn có

thể duy trì được công việc nhưng phải chia sẻ với doanh nghiệp bằng

cách chấp nhận giảm số giờ làm việc và có thu nhập thấp hơn trước kia.

91

Thứ ba, cùng với các giải pháp củng cố thị trường lao động trên, Chính

phủ Đức cũng thông qua các chương trình xã hội để giảm thiểu các tác động

của cuộc khủng hoảng đối với đối tượng người lao động dễ bị tổn thương [116].

Cụ thể:

- Cải thiện trợ cấp thất nghiệp: trợ cấp thất nghiệp hàng tháng đã được

tăng từ 351 euro lên 359 euro mỗi tháng, mang lại lợi ích cho khoảng 4,9

triệu người trong suốt năm 2009

- Giảm đóng góp an sinh xã hội: là một phần của gói kích thích thứ hai,

đóng góp an sinh xã hội cho trợ cấp thất nghiệp tạm thời giảm từ 3,3%

trong năm 2008 xuống còn 2,8% trong năm 2009 và 2010.

- Cải thiện Dịch vụ việc làm công: Trong nỗ lực cải thiện tỷ lệ người thất

nghiệp, hai gói kích cầu đầu tiên đã được công bố với mục đích tuyển

dụng ngắn hạn 1.000 và 4.000 lao động bổ sung. Dịch vụ việc làm công

đã phân bổ 1,12 tỷ euro trong năm 2009 cho mục đích đào tạo, trong đó

200 triệu euro được sử dụng để tuyển dụng lao động tạm thời và 770

triệu euro khác để kéo dài các chương trình đào tạo cho người lớn tuổi

và các lao động có trình độ tay nghề thấp.

- Bảo lãnh hưu trí và các lợi ích xã hội khác.

Thứ tư, Chính phủ đã có các biện pháp hỗ trợ nền kinh tế vĩ mô. Cụ thể,

Chính phủ đã giới thiệu một loạt các sáng kiến mới để kích thích hoạt động

kinh tế trong một số lĩnh vực, bao gồm hỗ trợ tín dụng trực tiếp cho các doanh

nghiệp: tháng 03/2009, Chính phủ đã thành lập một quỹ trị giá 115 tỷ euro để

bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ cho các doanh nghiệp nói chung, trong đó 15 tỷ

euro được dành riêng cho các DNVVN. Chương trình đặc biệt này được tài trợ

bởi Ngân hàng trung ương KfW, nhằm duy trì nguồn lực tài chính và tính thanh

khoản của các DNVVN, được hỗ trợ đến cuối năm 2010. Ngoài ra, Chính phủ

92

cũng cải thiện các điều kiện tài trợ cho các DNVVN. Quỹ tín dụng

(Wirtschaftsfonds Deutschland) do Chính phủ thành lập đã rất thành công trong

việc hỗ trợ các doanh nghiệp cỡ vừa. Hơn 95% đơn xin tài trợ là của nhóm

doanh nghiệp này. Quỹ đã giúp cho gần 20.000 doanh nghiệp được hưởng lợi

trước khi tạm dừng hoạt động vào tháng 12/2010. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng

không ngừng đổi mới và thúc đẩy tinh thần sáng tạo, kinh doanh của các doanh

nghiệp, khởi nghiệp của các doanh nhân [116]. Việc cam kết hỗ trợ vốn là vô

cùng quan trọng trong việc giúp các DNVVN trong hoạt động đổi mới sáng

tạo. Theo đó, vay vốn qua kênh ngân hàng là thứ tự ưu tiên thứ hai trong các

nguồn tài chính DNVVN tiếp cận để sử dụng trong hoạt động đổi mới sáng tạo.

Vốn tự có

71%

Tài khoản vãng lai

4%

Vay ngân hàng

12%

Trợ cấp thuế/tài trợ

7%

Quỹ đầu tư mạo hiểm

2%

Tài trợ hạng hai

1%

Các nguồn khác

3%

0%

10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80%

Hình 3.7: Tỷ trọng các nguồn tài chính DNVVN sử dụng trong hoạt động

đổi mới sáng tạo (2010)

Nguồn: Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang (BMWi) [99]

Với những hỗ trợ kịp thời của Chính phủ Đức, các DNVVN trong nền

kinh tế đã dần ổn định hoạt động sản xuất và góp phần ổn định thị trường lao

động. Sự tự tin và lạc quan đến từ DNVVN là rất đáng lưu ý. Theo đó, trong

93

khảo sát được thực hiện bởi Ngân hàng Commberzbank năm 2011, có 68%

DNVVN cho rằng họ sẽ trỗi dậy trở lại mạnh mẽ hơn từ sau cuộc khủng hoảng

và chỉ có 12% cho rằng hoạt động doanh nghiệp của họ sẽ yếu kém đi nhiều và

27% cảm thấy mọi hoạt động vẫn duy trì như cũ [157]. Điều này cũng được

phản ánh đúng trong thời kỳ khủng hoảng. Trong năm 2009, chỉ có 90.000

trường hợp mất việc, một con số chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với lực lượng lao động

của DNVVN. Trong năm 2010, xu hướng tích cực về việc thành lập mới các

doanh nghiệp được ghi nhận. Nếu trong năm 2009, con số này tăng lên 412.600

doanh nghiệp thì năm 2010 đã đạt tới 417.600 doanh nghiệp, tăng 1,2% so với

năm trước [166]. Đối với số lượng công ty giải thể trong năm 2010 cũng giảm

khoảng 2,3% so với năm 2009, ở mức 384.200 doanh nghiệp. Do vậy, về mặt

bằng chung của nền kinh tế, số lượng DNVVN trong năm 2010 đã tăng thêm

426000

33.400 doanh nghiệp.

450000

418000

415000

413000

412000

399000

393000

384000

400000

350000

300000

250000

200000

150000

100000

11000

19000

33400

-12000

50000

0

-50000

2007 2008 2009 2010

Doanh nghiệp mới thành lập

Doanh nghiệp giải thể

Cán cân doanh nghiệp mới

Hình 3.8: Doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp giải thể và cán cân

doanh nghiệp mới ở Đức từ 2007-2010

Nguồn: Viện Nghiên cứu DNVVN Bonn [166]

94

 Hỗ trợ từ Ủy ban châu Âu thông qua việc ban hành Đạo luật doanh

nghiệp vừa và nhỏ (Small Business Act – SBA):

Đạo luật doanh nghiệp vừa và nhỏ được Ủy ban châu Âu thông qua vào

tháng 06/2008, thể hiện sự kỳ vọng và phản ánh ý chí chính trị của Ủy ban châu

Âu về việc xác định vị trí và vai trò quan trọng của các DNVVN trong nền kinh

tế EU. Lần đầu tiên một Đạo luật dành riêng cho khối DNVVN được ra đời với

kỳ vọng khối doanh nghiệp này sẽ nhận được sự quan tâm đúng đắn, được đánh

giá đúng vai trò và tiềm năng, để từ đó xây dựng các chương trình, chính sách

hỗ trợ, giúp cho khối DNVVN có thể phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế. Sự

ra đời của Đạo luật doanh nghiệp vừa vừa nhỏ vào thời điểm này còn có ý nghĩa

quan trọng hơn nữa khi mà cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang diễn ra, kéo

đến vô vàn mối lo cho Chính phủ các quốc gia, đòi hỏi cần phải có những chính

sách hỗ trợ nền kinh tế kịp thời và hiệu quả. Trong đó, DNVVN được xem là

xương sống, là đối tượng để giúp nền kinh tế sớm ổn định và tăng trưởng trở lại.

Đạo luật ra đời với mục đích cải thiện cách tiếp cận tổng thể với tinh thần

kinh doanh, với nguyên tắc “Nghĩ nhỏ trước tiên” trong hoạch định chính sách

nhằm thúc đẩy sự phát triển của DNVVN thông qua việc tháo gỡ những cản trở

vốn là rào cản cho sự phát triển. Đây cũng là lần đầu tiên một khung chính sách

toàn diện dành cho khối DNVVN được triển khai ở cả cấp độ Liên minh châu

Âu và cả các quốc gia thành viên, thông qua một bộ nguyên tắc gồm mười điểm

giúp hướng dẫn việc thực thi chính sách được cụ thể, minh bạch [82].

I. EU và các quốc gia thành viên cần tạo một môi trường trong đó các

doanh nhân và doanh nghiệp gia đình có thể phát triển mạnh mẽ với

tinh thần kinh doanh được cổ vũ.

95

II. EU và các quốc gia thành viên cần đảm bảo rằng các doanh nhân

trong trường hợp bị phá sản sẽ mau chóng nhận được hỗ trợ bằng cơ

hội thứ hai.

III. EU và các quốc gia thành viên nên thiết kế các quy tắc theo nguyên

tắc “Nghĩ nhỏ trước tiên” bằng việc tính đến các đặc điểm của

DNVVN khi xây dựng chính sách, và đơn giản hóa môi trường pháp

lý hiện tại.

IV. Các cơ quan hành chính nhà nước của EU và các quốc gia thành viên

phải đáp ứng được các nhu cầu của DNVVN, đơn giản hóa các thủ

tục và thúc đẩy giải pháp Chính phủ điện tử và một cửa.

V. EU và các quốc gia thành viên nên điều chỉnh các công cụ chính sách

công sao cho phù hợp với nhu cầu của các DNVVN. Tạo điều kiện

cho các DNVVN tham gia các chương trình mua sắm công và sử dụng

tốt hơn Trợ cấp nhà nước cho các DNVVN.

VI. EU và các quốc gia thành viên cần tạo điều kiện cho các DNVVN

tiếp cận các nguồn tài chính và phát triển môi trường pháp lý, môi

trường kinh doanh nhằm hỗ trợ thanh toán kịp thời trong các giao dịch

thương mại.

VII. EU và các quốc gia thành viên phải khuyến khích các DNVVN được

hưởng lợi nhiều hơn từ các cơ hội do Thị trường đơn nhất mang lại;

đặc biệt thông qua việc cải thiện về mặt quản trị và thông tin về chính

sách Thị trường đơn nhất. Tạo điều kiện cho các DNVVN có được

các bằng sáng chế và nhãn hiệu thương mại.

VIII. EU và các quốc gia thành viên phải thúc đẩy nâng cao các kỹ năng và

mọi sự đổi mới trong các DNVVN.

IX. EU và các quốc gia thành viên cần giúp các DNVVN biến các thách

thức môi trường thành cơ hội.

96

X. EU và các quốc gia thành viên cần khuyến khích và hỗ trợ các

DNVVN được hưởng lợi từ sự tăng trưởng của các thị trường bên

ngoài EU, đặc biệt thông qua đặc thù thị trường và các hoạt động đào

tạo kinh doanh.

Hình 3.9: So sánh kết quả thực hiện theo bộ tiêu chí 10 điểm của Đạo luật

doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2010/2011 giữa Đức và mức trung bình

của EU

Nguồn: Ủy ban châu Âu [86]

(*: Điểm IX - yếu tố môi trường không đủ dữ liệu để thống kê)

Có thể thấy rằng, ở trong hầu hết các lĩnh vực, kết quả thực hiện của Đức

đều nằm trong mức trung bình của các nước EU, đặc biệt trong đó “Điểm II –

97

trao cơ hội thức hai”, “Điểm IV – đáp ứng về mặt hành chính nhà nước”, “Điểm

VIII – kỹ năng và đổi mới” và “Điểm X – quốc tế hóa” là vượt mức trung bình

của EU.

Mặc dù ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng Đức vẫn thực

hiện tốt công tác hỗ trợ các DNVVN thông qua việc cải thiện hệ thống hành

chính nhà nước, xóa bỏ những rào cản và hỗ trợ sự đổi mới sáng tạo cho các

doanh nghiệp. Theo thống kê, năm 2008 có 53,61% DNVVN ở Đức giới thiệu

sản phẩm và quy trình công nghệ mới và 68,18% DNVVN có sự đổi mới về

mặt tổ chức và quảng cáo, trong khi con số trung bình ở các nước EU lần lượt

chỉ là 34,18% và 39,09%. Năm 2010, có 21% DNVVN ở Đức bán hàng qua

mạng và 42% DNVVN thanh toán qua mạng internet; con số trung bình ở các

nước EU chỉ lần lượt đạt 13% và 28% [86]. Đây là một trong những minh chứng

rõ nét nhất trong việc các DNVVN ở Đức thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo ra

nền kinh tế linh hoạt, cạnh tranh hơn.

3.1.2.3. Những kết quả đạt được

Tổng kết trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới, nền kinh Đức đã

gặp nhiều khó khăn, phải đối mặt với những nguy cơ về tốc độ tăng trưởng

GDP sụt giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các doanh nghiệp giải thể tiềm ẩn

nhiều rủi ro về mặt kinh tế - xã hội. Mặc dù vậy, với một loạt các giải pháp

chính sách đồng bộ, kịp thời từ trước và trong khi khủng hoảng diễn ra, nền

kinh tế Đức với xương sống là các DNVVN đã nhanh chóng lấy lại đà tăng

trưởng, ổn định sản xuất. Chính phủ Đức đã tập trung giữ ổn định thị trường

lao động, tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho các doanh nghiệp bên cạnh việc

không ngừng thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và cải thiện môi trường

pháp lý lẫn môi trường chính sách. Đây đều là những nhân tố quan trọng ảnh

hưởng trực tiếp đến sự phục hồi phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế.

98

Ngoài ra, chính các DNVVN với tư duy dài hạn, chú trọng nâng cao chất lượng,

không ngừng đổi mới về công nghệ đã giúp tình hình sản xuất và kinh doanh

doanh nghiệp không bị gián đoạn, giúp nền kinh tế duy trì ổn định lực lượng

lao động và có phản ứng nhanh hơn khi nền kinh tế thế giới phục hồi. Các

DNVVN ở Đức vốn là các công ty gia đình, từ xưa đến nay thường có xu hướng

vay vốn từ các ngân hàng hơn là đưa công ty của mình ra đại chúng (phát hành

cổ phiếu trái phiếu). Điều này cũng giúp các công ty này không phải chịu áp

lực từ các nhà đầu tư tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy mà

sự cam kết hỗ trợ vốn từ các Ngân hàng thương mại Đức, đặc biệt là cam kết

từ Ngân hàng trung ương KfW đảm bảo cho các DNVVN được tiếp cận nguồn

vốn để hoạt động cũng trực tiếp giúp các DNVVN đề kháng tốt hơn trong cuộc

khủng hoảng tín dụng này.

10

8.658

6.966

8

7.742

7.524

5.824

5.379

6

4.179

3.924

4

2.984

2

0.962

0

2007 2008 2009 2010 2011

0.42 2012

-2

-4

-5.697

-6

-8

Tăng trưởng GDP (%)

Tỷ lệ thất nghiệp (%)

Hình 3.10: Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp tại Đức từ 2007-2012

Nguồn: Ngân hàng Thế giới [179] [180]

99

Tốc độ tăng trưởng GDP sau khi chạm đáy ở mức -5,697% vào năm 2009

đã bật tăng vào năm 2010 khi đạt mức 4,179% và duy trì cao ở mức 3,924%

vào năm 2011. Tỷ lệ thất nghiệp ở Đức giảm đều qua các năm, chỉ tăng nhẹ ở

mức 7,742% vào 2009 so với mức cũ là 7,524% vào năm 2008. Điều này phản

ánh hoạt động sản xuất kinh doanh của Đức nói chung được đảm bảo và chính

sách bảo vệ thị trường lao động đã phát huy tác dụng. Năm 2010, tỷ lệ thất

nghiệp giảm xuống ở mức dưới 7% và chỉ còn 5,379% vào năm 2012. Giá trị

xuất khẩu hàng năm của Đức cũng bật tăng từ đáy 2009 là khoảng 997 nghìn

tỷ euro (chiếm 38,12% tổng GDP) lên mức 1.272 tỷ euro (chiếm 46,3% tổng

GDP) năm 2012 [176] [177]. Trong đó, doanh thu xuất khẩu của riêng khối

DNVVN ở Đức cũng tăng đều qua các mốc thời gian. Năm 2005, giá trị xuất

khẩu của DNVVN đạt 173,5 tỷ euro và tăng lên 186,1 tỷ euro vào năm 2010

(chiếm khoảng gần 20% tổng giá trị xuất khẩu cả nước), bất chấp ảnh hưởng

của cuộc khủng hoảng kinh tế.

200

186.1

173.5

180

160

143.7

140

120

100

80

60

40

20

0

2000

2005

2010

Hình 3.11: Doanh thu xuất khẩu của DNVVN năm 2000, 2005, 2010

(đơn vị: tỷ euro)

Nguồn: Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang (BMWi) [100]

100

Xét một cách tổng thể, vai trò và vị trí của DNVVN trong nền kinh tế

Đức vẫn luôn được khẳng định từ số lượng doanh nghiệp, tỷ lệ lao động sử

dụng và doanh thu đóng góp cho nền kinh tế. DNVVN vẫn luôn là động lực

chính giúp đảm bảo ổn định thị trường lao động. Từ 2005 đến 2010, tổng số lao

động làm việc trong khối DNVVN đã tăng thêm 1,8 triệu người. Tính riêng

năm 2010, khu vực DNVVN đã tạo ra 670.000 việc làm mới trong khi có đến

170.000 lao động bị mất việc làm trong khu vực công và các doanh nghiệp quy

mô lớn [121].

120

99.6

100

83.2

80

60.2

60

51.8

37

40

20

0

Tỷ lệ lao động Giá trị gia tăng

Doanh thu

Tỷ lệ doanh nghiệp

Đào tạo dạy nghề

Hình 3.12: Vị trí DNVVN trong nền kinh tế Đức 2010/2011 (đơn vị: %)

Nguồn: Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang (BMWi) [100]

Cụ thể, tính đến 2011, tỷ lệ DNVVN vẫn chiếm hơn 99,6% tổng số doanh

nghiệp và sử dụng khoảng 60,2% tổng số lao động quốc gia. Ngoài ra, vai trò

trong đào tạo, dạy nghề vẫn chiếm ở mức cao, tới 83,2% . Khối DNVVN cũng

đóng góp tới 37% tổng doanh thu trong nền kinh tế và chiếm 51,8% tổng đóng

góp vào giá trị gia tăng.

101

Có thể thấy rằng, các DNVVN trong nền kinh tế Đức vẫn duy trì hoạt

động hiệu quả bất chấp khủng hoảng kinh tế kéo dài. Sự sụt giảm tương đối

nhỏ (giảm 0,5 điểm phần trăm) trong tổng doanh thu năm 2009 đã được bù đắp

lại trong năm 2010. Ngoài ra, sự ổn định về lợi nhuận trên tổng doanh thu trong

nhiều năm trước đó đã giúp ổn định tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong khu vực

DNVVN, đạt trung bình từ 22,4% đến 26,6% từ năm 2005 đến năm 2010. Bên

cạnh đó, các DNVVN cũng rất lạc quan khi 46% số doanh nghiệp tin rằng

doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp mình sẽ tăng trưởng mạnh so với năm

2010 khi mà khủng hoảng kinh tế kết thúc [121].

So sánh vị trí của DNVVN ở các quốc gia khác nhau càng cho thấy sự

đóng góp vượt trội của khối DNVVN trong nền kinh tế Đức. Theo đó, trong

năm 2012, chỉ riêng trong lĩnh vực công nghiệp, số lượng lao động làm việc

trong các DNVVN ở Đức đã chiếm tới 20% tổng lao động của nền kinh tế,

trong khi có số này chỉ đạt 16,9% ở Pháp, 14,7% ở Anh và 13,8% ở Mỹ [100].

Trên phạm vi toàn cầu, các DNVVN ở Đức cũng được xem là những “nhà vô

địch ẩn danh” khi có tới 1.307 doanh nghiệp từ Đức đứng đầu thế giới trong

lĩnh vực sản xuất của họ. Những “nhà vô địch ẩn danh” này đặc biệt mạnh trong

các lĩnh vực liên quan đến kỹ thuật điện và các sản phẩm công nghiệp. Số lượng

những “nhà vô địch ẩn danh” này của Đức cũng gấp khoảng 3,5 lần số lượng

của nước đứng thứ hai là Mỹ với 366 doanh nghiệp.

102

1400

1307

1200

1000

800

600

366

400

293

220

128

200

110

76

75

68

67

0

Đức

Mỹ

Áo

Thụy sĩ

Ý

Pháp

Anh

Nhật Bản

Trung Quốc

Các nước còn lại

Hình 3.13: Số lượng DNVVN dẫn đầu thế giới ở các quốc gia (2012)

Nguồn: Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang (BMWi) [100]

Để có thể đạt được những thành tựu trên toàn cầu, các DNVVN với

nguồn nội lực lớn cùng sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ Đức đã mở rộng mạng

lưới ra nhiều thị trường trên thế giới. Chiến lược mà các doanh nghiệp này theo

đuổi là chỉ tập trung vào một phân khúc sản phẩm/thị trường ngách nơi họ có

nhiều lợi thế phát triển sản phẩm với uy tín cao trong ngành (đặc biệt là về kỹ

thuật điện và các sản phẩm công nghiệp). Đây là phân khúc thị trường nhỏ với

đặc điểm riêng biệt và các DNVVN ở Đức am hiểu rất sâu sắc. Ngoài ra, họ

không cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn mà cộng tác, đóng vai trò là nhà

thầu phụ, cung cấp linh kiện, máy móc chất lượng cao cho các doanh nghiệp

lớn, hoàn thiện mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng giúp các doanh

nghiệp lớn hoạt động hiệu quả. Chiến lược chọn thị trường ngách để cạnh tranh

cùng lợi thế về sự khác biệt sản phẩm trên thị trường với chất lượng cao, uy tín

đã giúp các DNVVN ở Đức gặt hái được nhiều thành công. Chiến lược này

cũng đã được Michael Porter tổng hợp trong bộ Chiến lược cạnh tranh phổ

quát, đề cập trong tác phẩm “Competitive Advantage: Creating and Sustaining

103

Superior Performance” vào năm 1985. Trong đó, ông mô tả đây là “chiến lược

tập trung dựa trên nền tảng khác biệt hóa - Differentiation Focus”, và được

xem là chiến lược phù hợp cho các DNVVN có thể áp dụng [135].

DNVVN phát triển ở Đức cũng thu hút rất nhiều lao động, đặc biệt là các

lao động trẻ tham gia, giúp ổn định thị trường lao động quốc gia. Vì vậy mà tỷ

lệ thất nghiệp trong khu vực thanh niên ở Đức luôn thấp hơn rất nhiều so với

mức trung bình của các nước EU. Hệ thống đào tạo nghề ở Đức cũng được coi

là mô hình mẫu trên toàn thế giới vì nó đảm bảo chất lượng đào tạo cao và giúp

đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lao động lành nghề ở Đức. Theo đó, năm

2011 có khoảng 1,29 triệu lao động học nghề (trong tổng số 1,56 triệu lao động

học nghề) đang được đào tạo dạy nghề tại các DNVVN.

25

21.4

21.1

20.1

22.8

20

15.8

15.7

15

9.9

8.6

7.9

10

11.9

11.2

10.6

5

0

2007

2008

2009

2010

2011

2012

Đức

EU-27

Hình 3.14: Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp ở Đức so với mức trung bình của

EU (đơn vị: %)

Nguồn: Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang (BMWi) [100]

Trong suốt thời kỳ khủng hoảng kinh tế, tỷ lệ thanh niên thất nghiệp ở

Đức không những không tăng mạnh như các nước EU khác mà có xu hướng ổn

104

định và giảm dần đều kể từ sau 2009. Thành công này phải kể đến vai trò của

các DNVVN đã giữ vững được hoạt động sản xuất thông qua các chính sách

hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ và một loạt những giải pháp khuyến khích phong

trào khởi nghiệp, tự làm chủ trong nền kinh tế.

Tỷ lệ lao động tự làm chủ trong nền kinh tế cũng tăng đều qua các năm

ở cả nam và nữ. Tính từ năm 2000 đến 2012, số lượng người tự làm chủ đã tăng

thêm gần 780.000 người lên mức 4,4 triệu người, tương đương với mức tăng

trung bình hàng năm đạt 1,6%. Sự gia tăng này có được nhờ xu hướng làm việc

một mình (solo self-employed) tăng lên (tăng 37% kể từ năm 2000), và đặc biệt

là con số này ở nữ giới tăng trung bình 4% mỗi năm. Đây là một trong những

thành quả của việc phát triển các DNVVN, thúc đẩy tinh thần kinh doanh, phát

huy được những nguồn lực còn hạn chế trong nền kinh tế mà Chính phủ Đức

thông qua các DNVVN đã làm rất tốt trong giai đoạn này.

Hình 3.15: Số lượng người tự làm chủ ở Đức từ 2000-2012

Nguồn: Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang (BMWi) [101]

105

Tỷ lệ tự làm chủ ở nam giới cũng tăng từ mốc 2,6 triệu người năm 2000

lên mức 3 triệu người năm 2012. Và ở nữ giới tăng từ 1 triệu người lên khoảng

1,4 triệu người trong cùng thời kỳ.

3.1.3. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức trong những năm gần đây

Trong những năm trở lại đây, nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế

Đức nói riêng từng bước phục hồi sau khủng hoảng, có nhiều dấu hiệu khởi

sắc. DNVVN ở Đức trong suốt những cuộc khủng hoảng đã qua luôn khẳng

định được vị trí và vai trò là bệ đỡ của nền kinh tế và được thừa nhận. Sự phát

triển của khối DNVVN không những giúp tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp

mà còn trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế (thông qua đóng góp mạnh mẽ vào GDP,

giá trị xuất nhập khẩu), giúp phát huy các nguồn lực còn hạn chế trong nền kinh

tế và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo ra nền kinh tế linh hoạt, cạnh tranh hơn. Sự

phát triển của DNVVN trong giai đoạn từ 2010 đến nay chủ yếu nằm trong định

hướng và sự phát triển chung của toàn khối EU. Theo đó, tháng 06/2010, tại

Brussels (Bỉ), Hội đồng châu Âu đã thông qua “Chiến lược châu Âu 2020”,

thay thế cho “Chiến lược Lisbon về tăng trưởng việc làm” vốn không gặt hái

được nhiều thành công như mong đợi. Chiến lược châu Âu 2020 được kỳ vọng

sẽ giúp Liên minh châu Âu nói chung và các quốc gia thành viên nói riêng giải

quyết được những vấn đề mà toàn Khối đang phải đối mặt, với năm mục tiêu

chính được triển khai trong 10 năm giai đoạn 2010-2020 [84], cụ thể:

- Đảm bảo việc làm (tăng tỷ lệ người có việc làm lên mức 75% trong độ

tuổi từ 20 đến 64 tuổi);

- Tăng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển lên mức 3% tổng sản phẩm

quốc nội (GDP)

106

- Giảm 20% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính (so với năm 1990); tăng

20% sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo và cải thiện 20% hiệu quả

năng lượng;

- Giảm tỷ lệ bỏ học sớm dưới 10%, và đạt ít nhất 40% số người từ 30-34

tuổi hoàn thành chương trình giáo dục đại học hoặc tương đương;

- Giảm ít nhất 20 triệu người có nguy cơ đói nghèo hoặc bị tách biệt khỏi

xã hội.

Tại Đức, bên cạnh các mục tiêu được giữ nguyên theo chuẩn chung của

Liên minnh châu Âu (như phấn đấu dành 3% GDP đầu tư cho nghiên cứu và

phát triển), một vài tiêu chí đã được Đức chỉnh sửa để phù hợp hơn với tình

hình và điều kiện thực tế của đất nước. Tuy vậy, riêng tiêu chí đảm bảo việc

làm, tăng tỷ lệ có việc làm ở người từ 20-64 tuổi lên mức 75% đã được Đức

điều chỉnh ở mức cao hơn là 77% [87]. Điều này thể hiện sự quyết tâm của Đức

trong việc phát triển thị trường lao động khi mà cuộc khủng hoảng kinh tế thế

giới đã qua đi.

Trong bối cảnh mới, để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của Chiến

lược châu Âu 2020 và đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo phát triển, Chính phủ

Liên bang Đức đã xác định DNVVN là đối tượng được ưu tiên hàng đầu. Cụ

thể, Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên Bang (tiền thân là Bộ Kinh tế

và Công nghệ Liên bang) Peter Altmaier đã khẳng định: “Vai trò của các

DNVVN trong nền kinh tế Đức là vô cùng quan trọng với hơn 99% tổng số

doanh nghiệp, cung cấp hơn 80% cơ sở đào tạo lao động và sử dụng gần 60%

lực lượng lao động. Khu vực DNVVN ở Đức cũng vô cùng đa dạng, vận hành

theo mô hình từ doanh nghiệp gia đình lớn được thành lập và chuyển giao qua

nhiều thế hệ ở các vùng nông thôn, hoạt động trong các ngành nghề thủ công,

kinh doanh buôn bán, đến những lao động làm các ngành nghề tự do, hay những

107

người tự làm chủ, khởi nghiệp và một lượng lớn các doanh nghiệp là các “nhà

vô địch ẩn danh” trên toàn cầu. Sự đa dạng này là một trong những tài sản của

khối DNVVN ở Đức, giúp đóng góp cho khả năng phục hồi nhanh chóng của

nền kinh tế Đức. Một khu vực DNVVN mạnh cũng có nghĩa là một nền kinh tế

mạnh” [98]. Với nhận định như vậy, Chính phủ Liên bang Đức đã triển khai

một loạt các giải pháp cải cách chính sách nhằm thúc đẩy khu vực DNVVN

tiếp tục phát triển thuận lợi trong nền kinh tế, cụ thể:

 Xóa bỏ tình trạng quan liêu:

Xóa bỏ tình trạng quan liêu là một trong những mục tiêu hàng đầu của

Chính phủ Liên bang Đức trong việc thúc đẩy khối DNVVN phát triển. Từ năm

2015, một kế hoạch “Xóa bỏ tình trạng quan liêu” đã được thông qua nhằm hạn

chế việc ban hành các quy tắc mới một cách không cần thiết. Kế hoạch này bao

gồm nguyên tắc “một vào, một ra: Nếu một Bộ muốn ban hành một quy tắc

mới áp dụng đối với các doanh nghiệp thì trước hết phải xóa bỏ đi một quy tắc

cũ”. Ngoài ra, Luật đấu thầu cũng được sửa đổi nhằm giúp các DNVVN xóa

bỏ các chi phí không cần thiết trong việc thực hiện các hợp đồng công [61].

Cụ thể, Đạo luật thứ nhất về “Xóa bỏ tình trạng quan liêu” được thông

qua vào năm 2016 nhằm giảm bớt nhanh chóng các gánh nặng ảnh hưởng trực

tiếp đến doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp trẻ, mới khởi nghiệp và đang

trong giai đoạn phát triển. Dưới Đạo luật này, một số lượng lớn các doanh

nghiệp nhỏ được miễn trừ các nghĩa vụ kế toán và lưu trữ hồ sơ vốn được quy

định trong bộ luật thương mại và luật tài chính. Các công ty mới thành lập cũng

có nhiều thời gian hơn để nộp các báo cáo về số liệu thống kê chính thức của

công ty mình. Đạo luật này cũng sửa đổi luật thuế cho ba đối tượng: (1) Giảm

nghĩa vụ cho những người phải chịu đóng thuế nhà thờ; (2) Tăng ngưỡng áp

dụng đóng thuế thu nhập cố định đối với những lao động có hợp đồng làm việc

108

ngắn hạn lên mức 68 euro và (3) Phương pháp tính toán được sử dụng để xác

định mức thuế thu nhập được khấu trừ vào thu nhập của vợ/chồng cũng được

đơn giản hóa. Theo thống kê, Đạo luật thứ nhất được thực hiện đã giúp gánh

nặng tài chính ở khu vực tư nhân giảm khoảng 705 triệu euro mỗi năm [61].

Đạo luật thứ hai về “Xóa bỏ tình trạng quan liêu” cũng được thông qua

nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, đặc

biệt là những doanh nghiệp chỉ có hai hoặc ba nhân viên và thúc đẩy quá trình

ứng dụng công nghệ số trong mọi hoạt động. Đạo luật này giúp đẩy mạnh sự

phát triển của Chính phủ điện tử bằng cách đảm bảo mọi thông tin về các quy

định pháp luật đều công khai đầy đủ trên internet. Các nguyên tắc đóng góp an

sinh xã hội cũng được đơn giản hóa, cụ thể hóa. Đạo luật thứ hai đã giúp khu

vực tư nhân giảm các chi phí không cần thiết khoảng 360 triệu euro mỗi năm.

Đạo luật thứ ba về “Xóa bỏ tình trạng quan liêu” được thông qua vào

ngày 18/09/2019 nhằm thực hiện các giải pháp chiến lược để cải thiện tình hình

quan liêu, thông qua một khoản ngân sách trị giá khoảng 1,1 tỷ euro được kích

hoạt. Cụ thể, việc lưu trữ các tài liệu thuế sẽ được thực hiện số hóa (lưu trữ điện

tử), cũng như một số biểu mẫu đăng ký bằng giấy trong ngành dịch vụ khách

sạn sẽ được thay thế và doanh nghiệp sẽ chỉ cần kê khai thuế doanh thu sơ bộ

hàng quý thay vì mỗi tháng trong hai năm đầu hoạt động. Bên cạnh đó, một gói

các biện pháp khác được ban hành như tăng ngưỡng phải thu thuế thu nhập cho

doanh nghiệp nhỏ từ 17.500 euro lên 22.000 euro, tăng giới hạn tiền lương cho

lao động thời vụ, đưa ra mức thuế nhu nhập cố định cho những lao động ít có

nghĩa vụ phải đóng thuế, bỏ yêu cầu phải đăng ký bảo hiểm tai nạn cho các

doanh nghiệp đã đăng ký giấy phép kinh doanh [63].

 Thu hút và đào tạo các lao động lành nghề:

109

Một trong những thách thức lớn nhất với các DNVVN ở Đức nói chung

là phải đảm bảo được nguồn lao động lành nghề. Nguồn nhân lực lành nghề sẽ

giúp doanh nghiệp đối mặt với những cạnh tranh và đòi hỏi ngày một lớn trên

phạm vi toàn cầu. Theo đó, Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên bang đã hợp tác

với các Cơ quan Việc làm Liên bang, các doanh nghiệp, các đoàn thể để tham

gia vào Liên minh Đào tạo lao động nhằm tăng cường sự thu hút của các

Chương trình đào tạo nghề kép tới người dân. Các DNVVN được tư vấn về

cách họ có thể tìm được đối tượng học nghề phù hợp với nhu cầu và công việc

với doanh nghiệp của họ. Những lao động học nghề thì sẽ thường xuyên được

cập nhật các quy định cũng như các kỹ năng cần thiết cho công việc mà họ sẽ

làm trong tương lai. Mục tiêu của chương trình là nhằm khai thác nguồn lao

động lành nghề trong nước và giúp cho hệ thống đào tạo và giáo dục nghề

31.70

nghiệp trở nên hấp dẫn hơn.

32.00

31.30

31.00

68.50

68.70

68.30

70.30

70.40

30.00

29.50

28.60

29.00

28.10

28.00

27.00

26.00

100.00 90.00 80.00 70.00 60.00 50.00 40.00 30.00 20.00 10.00 0.00

2011

2013

2015

2017

2018

Số lượng lao động trong DNVVN (đơn vị: triệu người)

Tỷ lệ lao động của DNVVN trong nền kinh tế (đơn vị: %)

Hình 3.16: Số lượng lao động trong DNVVN và tỷ lệ lao động của

DNVVN trong nền kinh tế

Nguồn: Ngân hàng KfW (số liệu tính dựa trên định nghĩa về DNVVN của

Đức) [124]

110

Có thể thấy rằng, tỷ lệ lao động trong DNVVN trong một thập kỷ lại đây

tăng đều qua các năm. Số lao động làm việc trong các DNVVN từ 28,1 triệu

lao động, chiếm 68,5% tổng số lao động trong nền kinh tế vào năm 2011 đã

tăng lên mức 31,7 triệu lao động, chiếm 70,3% tổng lao động vào năm 2018.

Đây là một bước tiến rõ rệt, thể hiện sự ổn định của thị trường lao động và hoạt

động sản xuất được duy trì và phát triển trong các DNVVN ở Đức. Và cũng

theo thống kê của Ngân hàng KfW (2018), doanh nghiệp siêu nhỏ (doanh

nghiệp có dưới 10 nhân viên) sử dụng tới 90% lượng lao động; doanh nghiệp

nhỏ (có từ 10-49 nhân viên) sử dụng 7% lượng lao động và doanh nghiệp cỡ

vừa chỉ sử dụng khoảng 2% lượng lao động trong tổng số lao động làm việc

trong các DNVVN [124]. Ngoài ra, có một số chương trình được thiết kế riêng

nhằm thu hút các chuyên gia và sinh viên chất lượng cao từ nước ngoài cũng

như cung cấp các thông tin về cuộc sống và việc làm ở Đức nhằm tuyển dụng

những lao động chất lượng cao trên quốc tế. Đạo luật Di trú lành nghề vừa có

hiệu lực vào ngày 01/03/2020 là một trong những cột mốc quan trọng trong

chính sách tuyển dụng lao động lành nghề ở Đức.

 Nâng cao khả năng tiếp cận nguồn tài chính:

Việc tiếp cận nguồn tài chính là một yêu cầu quan trọng để giúp các

DNVVN có đủ nguồn lực để đầu tư và duy trì sự đổi mới, tăng cường tính cạnh

tranh và phát triển ổn định. Đức vốn có một nền văn hóa mạnh mẽ về việc hỗ

trợ các DNVVN thông qua kênh vốn vay ngân hàng, phụ trách chính bởi Ngân

hàng KfW. Tuy vậy, những năm gần đây, Chính phủ Liên bang đã bổ sung một

số công cụ mới cho phép một lượng vốn đầu tư mạo hiểm khoảng 2 tỷ euro vào

thị trường (từ các Quỹ nội địa của Đức cũng như cả tài trợ từ Quỹ Thiên thần

của châu Âu), nhằm giúp sức cho các doanh nghiệp khởi nghiệp mới ở cả giai

đoạn đầu và giai đoạn phát triển sau này [62]. Mạng lưới Thiên thần kinh doanh

111

Đức (BAND) cũng cho phép các DNVVN thiết lập hồ sơ để tìm kiếm các nhà

đầu tư Thiên thần cho mình. BAND cam kết sẽ hợp tác và thúc đẩy mạng lưới

doanh nhân ở Đức để kết nối với các DNVVN cần vốn tài trợ một cách công

bằng trong tất cả các lĩnh vực. Bên cạnh đó, một loạt các quỹ hỗ trợ, nguồn vốn

vay được cung cấp cho các doanh nghiệp trong cả giai doạn mới khởi nghiệp

(Khoản vay khởi nghiệp ERP; Khoản vay đổi mới và số hóa ERP; Tài trợ khởi

nghiệp EXIST; Quỹ khởi nghiệp công nghệ cao..) và trong giai đoạn phát triển

(Khoản vay doanh nghiệp KfW; Tài chính đổi mới ERP; Quỹ Thiên thần châu

Âu; Quỹ tăng trưởng công nghệ…) [60].

 Thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua các chương trình tài trợ cho nghiên

cứu và phát triển:

Chương trình “Đổi mới sáng tạo trung ương dành cho doanh nghiệp vừa

và nhỏ” (ZIM: Zentrales Innovations programm Mittelstand) được khởi xướng

bởi Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên bang, nhằm tài trợ trên quy mô toàn quốc

cho các công nghệ định hướng thị trường của các DNVVN trong lĩnh vực khởi

nghiệp sáng tạo. Các hướng dẫn của ZIM có hiệu lực từ ngày 15/04/2015 nhằm

hướng dẫn khối DNVVN ở Đức nâng cao khả năng đổi mới sáng tạo, đáp ứng

nhu cầu cạnh tranh ngày càng lớn trong tương lai cũng như đón được các làn

sóng đổi mới công nghệ trong cuộc đua Cách mạng công nghiệp mới. ZIM cung

cấp cho các DNVVN các gói tài trợ dựa trên sự minh bạch và các điều khoản

chặt chẽ. Các gói tài trợ cũng không giới hạn trong một ngành công nghệ cụ

thể nào và việc phê duyệt tài trợ cũng phụ thuộc vào mức độ đổi mới cũng như

tính thực tiễn của dự án đó. Theo đó, chi phí cho một dự án tối đa đủ điều kiện

để nhận được tài trợ lên đến 380.000 euro cho mỗi công ty và 190.000 euro cho

một viện nghiên cứu [93]. Riêng năm 2017, ZIM đã cấp một khoản ngân sách

trị giá 548 triệu euro phục vụ cho các chương trình hỗ trợ đổi mới sáng tạo của

112

các DNVVN và trở thành chương trình hỗ trợ lớn nhất ở Đức. Từ ngày

01/01/2018, chương trình “Đổi mới sáng tạo DNVVN – ZIM” đã chính thức

được kết nối với mạng lưới hợp tác quốc tế để có thể hỗ trợ các DNVVN tiếp

cận các lợi thế tốt hơn, giúp các doanh nghiệp nâng cao vị thế trên toàn cầu và

thuận lợi hơn trong việc tiếp cận các thị trường mới ngoài Đức [94].

Bên cạnh chương trình ZIM mới được giới thiệu, các chương trình tài trợ

khác từ Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Liên bang Đức như chương trình “Đổi mới

DNVVN: KMU-Innovativ” – Ưu tiên nghiên cứu cấp cao tại các DNVVN vẫn

đang tiếp tục và gặt hái được các kết quả tốt trong quá trình triển khai. Cụ thể,

KMU-Innovativ tập trung hỗ trợ các DNVVN nghiên cứu các lĩnh vực công

nghệ có tầm quan trọng chiến lược với tương lai quốc gia, phù hợp với xu thế

phát triển chung của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như: lĩnh vực điện tử (xe

ô tô tự lái), công nghệ thông tin – truyền thông, khả năng giao tiếp/tương tác

của con người thông qua mạng lưới vạn vật kết nối, công nghệ quan học và

lượng tử, an ninh dân sự, dược liệu, chống biến đổi khí hậu…Bên cạnh đó,

KMU-Innovativ cũng tạo điều kiện tối đa cho các DNVVN có thể tham gia

bằng việc đơn giản hóa các bước xin và phê duyệt tài trợ cũng như các thủ tục

yêu cầu chứng minh về vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Cụ thể, doanh nghiệp

sẽ mất khoảng 02 tháng để nộp đề xuất xin tài trợ và 02 tháng để quá trình phê

duyệt được xử lý và thông qua. Số tiền tài trợ cho các dự án được phê duyệt

đến nay đã vượt 1 tỷ euro và hơn 1.700 cá nhân và đơn vị đã được hỗ trợ [95].

 Thúc đẩy tinh thần kinh doanh:

Chính phủ Liên bang Đức khẳng định các công ty khởi nghiệp, các

DNVVN được chuyển giao qua thế hệ và các doanh nghiệp thành lập mới nói

chung có tầm quan trọng to lớn đối với nền kinh tế Đức với hơn 300.000 doanh

nghiệp được thành lập mới mỗi năm. Các doanh nghiệp này tạo thêm động lực

113

thúc đẩy nền kinh tế và việc làm mới. Đây cũng sẽ là một bộ phận không thể

tách rời của khối Mittelstand Đức trong tương lai. Chiến dịch “GO! Start-up”

cũng đã được vận hành nhằm tạo động lực khơi dậy tinh thần khởi nghiệp ở

Đức, đặc biệt là hướng tới các nhóm đối tượng ít có lợi thế khởi nghiệp như

phụ nữ và đối tượng là những người nhập cư có nhiều tiềm năng. Chiến dịch

triển khai gồm mười điểm cụ thể: (1) Tăng cường tinh thần kinh doanh, truyền

đạt kỹ năng; (2) Cải thiện môi trường khởi nghiệp; (3) Tạo điều kiện hỗ trợ cho

sự thành công của các công ty; (4) Giúp phụ nữ khởi nghiệp nhiều hơn; (5)

Cung cấp các công cụ tài chính phù hợp; (6) Cung cấp các nguồn vốn đầu tư

mạo hiểm cho các công ty khởi nghiệp; (7) Kết nối chặt chẽ mạng lưới công ty

khởi nghiệp với các công ty đang hoạt động; (8) Thúc đẩy hợp tác quốc tế đối

với các công ty khởi nghiệp; (9) Tăng cường kỹ năng kinh doanh cho người

nhập cư; (10) Thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp xã hội nhiều hơn. Bên cạnh đó,

chương trình “EXIST” với mục tiêu nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp tại

các trường đại học cũng được triển khai trên cả nước thông qua việc cung cấp

học bổng cho các nhà khởi nghiệp trẻ trong lĩnh vực khoa học. Ngoài ra, tất cả

các thông tin liên quan đến việc thành lập doanh nghiệp mới đều được công

khai và hỗ trợ cung cấp bởi Bộ Kinh tế và Năng lượng Liên bang.

75000

70000

70000

65000

60000

60000

54000

55000

50000

45000

40000

2016

2017

2018

Hình 3.17: Khởi nghiệp trong các doanh nghiệp sáng chế đột phá

Nguồn: Ngân hàng Liên bang Đức [125]

114

Theo đó, nhờ sự thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp từ Chính phủ, khối các

doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực sáng chế đột phá (khởi nghiệp dựa trên

nền tảng công nghệ, quy trình, mô hình kinh doanh hoặc sáng kiến mới) đã tăng

đều trong những năm gần đây. Đây đều là những doanh nghiệp trẻ, của người

trẻ, với khao khát vươn xa ra thị trường toàn cầu. Riêng trong năm 2018 đã có

khoảng 70.000 doanh nghiệp được thành lập. So với các DNVVN truyền thống,

những doanh nghiệp dựa trên sáng chế đột phá này thường có giai đoạn đầu phát

triển chậm hơn nhưng họ sẽ đạt được tăng trưởng theo cấp số nhân khi họ thu

hút được khách hàng, và họ thường chấp nhận có nhiều người đồng sở hữu, kiểm

soát công ty để tìm kiếm sự tăng trưởng (thông qua các cuộc gọi vốn).

Trong bối cảnh mà cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan tỏa trên

phạm vi toàn cầu, tạo nhiều điều kiện cho các doanh nghiệp trẻ phát triển thì

khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ đang trở thành một trong những mũi nhọn

của nhiều quốc gia. Tại Đức, năm 2019, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp

trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông chiếm nhiều nhất, với 30,2%

tổng số doanh nghiệp mới của cả nước. Theo sau là doanh nghiệp thành lập

trong lĩnh vực thực phẩm/hàng tiêu dùng, chiếm 10,6%. Lĩnh vực chăm sóc sức

khỏe/thuốc chiếm 8,5% doanh nghiệp mới và lĩnh vực vận tải/dịch vụ hậu cần

(logistic) chiếm 6,7%. Điều này cũng được xem là dễ hiểu khi mà cụm từ “Cách

mạng công nghiệp 4.0” được xem là xuất hiện lần đầu tiên trong một báo cáo

của Chính phủ Liên bang Đức vào năm 2011 và đến năm 2013 một khuyến

nghị về “Các sáng kiến chiến lược trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0” đã

được đề xuất bởi Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Liên bang Đức nhằm tìm kiếm

sự phát triển trong kỷ nguyên mới [52].

115

Công nghệ thông tin & Truyền thông

30.20%

Thực phẩm/ hàng tiêu dùng

10.60%

Thuốc/ chăm sóc sức khỏe

8.50%

Ô tô/ vận tải/ dịch vụ hậu cần

6.70%

Nguồn nhân lực

4.20%

Tài chính ngân hàng/ bảo hiểm

4.20%

Giáo dục

4.10%

Thể thao và giải trí/ trò chơi online

3.90%

Hóa học và dược liệu/ sinh học

3%

Xây dựng và bất động sản

2.90%

Truyền thông và kinh tế sáng tạo

2.60%

2.60%

Công nghệ công nghiệp/ sản xuất phần cứng

Dệt may

2.60%

Năng lượng/ điện

2.50%

Tư vấn doanh nghiệp

2.50%

Nông nghiệp/ nông trại

1.90%

Các ngành nghề khác

4.60%

0.00%

10.00%

20.00%

30.00%

40.00%

Hình 3.18: Tỷ lệ khởi nghiệp theo các ngành nghề ở Đức (2019)

Nguồn: Statista (2020) [160]

Có thể thấy rằng, kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đến

nay, Chính phủ Liên bang Đức đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhằm đưa

nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng và mọi định hướng, hoạt động đều nằm

trong định hướng phát triển chung của Liên minh châu Âu. Một loạt các chính

116

sách, chương trình kích thích nền kinh tế, trong đó, trọng tâm là tạo điều kiện

cho khối DNVVN phát triển đã được triển khai.

Cùng với “Chiến lược châu Âu 2020” của Liên minh châu Âu và nhằm

thực hiện các mục tiêu chung của Khối, Chính phủ Đức đã có nhiều giải pháp

chính sách nhằm cải thiện môi trường doanh nghiệp trong nước, đặc biệt bằng

nhiều biện pháp nhằm xóa bỏ tình trạng quan liêu, vốn là một trong những rào

cản cản trở sự phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN. Bên cạnh

đó, thông qua nhiều giải pháp phát triển thị trường vốn, Chính phủ đã giúp các

DNVVN ở Đức tiếp cận tốt hơn với các nguồn tài chính thông qua các giải

pháp vay vốn truyền thống từ ngân hàng, các Quỹ đầu tư mạo hiểm, các Nhà

đầu tư Thiên thần, đa dạng các nguồn hỗ trợ nhằm cung cấp tối đa nguồn lực

cho các DNVVN phát triển. Các chính sách thu hút và đào tạo lao động lành

nghề cũng được quan tâm, giúp cho lực lượng lao động tay nghề cao cho khối

DNVVN luôn được đảm bảo. Cuối cùng là những giải pháp nhằm thúc đẩy tinh

thần kinh doanh, tinh thần khởi nghiệp ở Đức, đặc biệt trong bối cảnh mà cuộc

Cách mạng công nghiệp 4.0 đang lan tỏa trên phạm vi toàn cầu.

Theo đó, đến năm 2018, có khoảng 3,81 triệu DNVVN ở Đức (thống kê

dựa trên định nghĩa về DNVVN của Đức), chiếm khoảng 99,95% tổng số doanh

nghiệp trong nền kinh tế. Trong đó có khoảng 3,1 triệu doanh nghiệp có trụ sở

tại Tây Đức (chiếm 82% tổng số DNVVN) và 698.000 doanh nghiệp có trụ sở

ở Đông Đức (chiếm 18%). Trong đó, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh

vực dịch vụ ngày càng chiếm đa số trong nền kinh tế. Theo đó, có khoảng 2,87

triệu doanh nghiệp (chiếm 76% tổng số DNVVN) hoạt động trong lĩnh vực

cung cấp dịch vụ, trong đó có 1,51 triệu trong số này (chiếm khoảng 40%) cung

cấp các dịch vụ tập trung tri thức, và xu hướng này vẫn đang gia tăng. Có 1,4%

DNVVN (khoảng 52.000 doanh nghiệp) hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu

117

& phát triển – sản xuất chuyên sâu). Ngoài ra các lĩnh vực sản xuất khác chiếm

khoảng 6,7% tổng số DNVVN mặc dù vậy lại sử dụng tới 16% tổng số lao động.

Hình 3.19: Sự thay đổi trong cơ cấu ngành của DNVVN từ 2006-2018

Nguồn: Ngân hàng KfW (2019) [124]

Xuyên suốt từ năm 2006 đến 2018 có thể thấy rằng, tỷ trọng các DNVVN

hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ nói chung luôn chiếm đa số, khoảng gần 50%

tổng số DNVVN hoạt động trong nền kinh tế. Lĩnh vực sản xuất, chế tạo vốn

là một trong những điểm mạnh của các DNVVN Đức có xu hướng giảm từ

8,4% vào năm 2006 còn chỉ chiếm 6,7% vào năm 2018.

118

6

4.9

4.7

5

3.9

4

3.3

3.3

3.3

3

2.4

1.9

2.7

2.8

2.7

2

2.3

2.1

2

1

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Tỷ lệ tăng trưởng lao động

Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu

Hình 3.20: Tỷ lệ tăng trưởng lao động và tăng trưởng doanh thu ở

DNVVN Đức từ 2012-2018 (đơn vị: %)

Nguồn: Ngân hàng KfW (2019) [124]

Có thể thấy rằng, tỷ lệ tăng trưởng lao động ở các DNVVN luôn ở mức

ổn định và có xu hướng tăng mạnh trong những năm gần đây, đạt 3,3% vào

năm 2018. Xu hướng này được xem là thành quả của một chuỗi những giải

pháp chính sách mà Chính phủ Đức đã triển khai nhằm hỗ trợ các DNVVN ổn

định hoạt động sản xuất và tạo nền tảng vững chắc cho thị trường lao động quốc

gia. Trong suốt từ năm 2012 đến 2018, doanh thu ghi nhận của khối này tăng

trưởng qua các năm, đạt 4,9% vào năm 2018, hơn gấp đôi con số tăng trưởng

ở mức 2,4% vào năm 2012 khi mà nền kinh tế trong nước và thế giới mới phục

hồi. Hai kết quả này của khối DNVVN đã đóng góp mạnh mẽ vào tăng trưởng

chung GDP của Đức trong suốt những năm qua, cũng như giúp cho tỷ lệ thất

nghiệp ở Đức giảm dần qua các năm.

119

6

5.231

5.379

4.981

4.624

5

4.122

3.746

4

3.425

3

2.465

2

2.23

2.226

1.527

1.74

1

0.42

0.428

0

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Tỷ lệ tăng trưởng GDP

Tỷ lệ thất nghiệp

Hình 3.21: Tỷ lệ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp ở Đức từ 2012-

2018 (đơn vị: %)

Nguồn: Ngân hàng Thế giới [179] [180]

Theo đó, tỷ lệ tăng trưởng GDP từ 2012 đến 2018 luôn duy trì ổn định ở

mức tăng trưởng dương, đạt 1,527% vào năm 2018. Cùng với đó, tỷ lệ thất

nghiệp trong nền kinh tế cũng giảm dần đều qua các năm; từ đỉnh 5,379% vào

năm 2012 giảm xuống còn 3,425% vào năm 2018. Nền kinh tế Đức đã đi vào ổn

định với mọi hoạt động diễn ra trong nền kinh tế đều được kiểm soát chặt chẽ.

3.2. Đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức

3.2.1. Ưu điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức

Tổng kết lại trong suốt giai đoạn từ đầu những năm 2000 trở về đây, nền

kinh tế Đức đã trải qua nhiều biến động từ giai đoạn mất cân bằng của thị trường

lao động đầu những năm 2000, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và

nhu cầu tìm kiếm động lực cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế từ sau những

năm 2010 trở lại đây, đặc biệt khi mà cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã diễn

120

ra, hứa hẹn sẽ có những tác động không nhỏ đến các nền kinh tế và nhu cầu về

sự đổi mới sáng tạo đang đặt ra những thách thức về tương lai cho tất cả các

quốc gia trên thế giới. Xuyên suốt những biến động ấy, DNVVN vẫn luôn là

một trong những trụ cột, được xem là xương sống của nền kinh tế Đức, giúp

Đức vượt qua những cuộc khủng hoảng, đảm bảo sự an tâm cho nền kinh tế -

xã hội của quốc gia. Sự phát triển của DNVVN ở Đức không chỉ thể hiện về

mặt số lượng các doanh nghiệp chiếm trong nền kinh tế mà đặc biệt, vị thế và

vai trò của khối doanh nghiệp này ngày càng lớn mạnh và luôn được khẳng

định và thừa nhận là một trụ cột vững chắc trong sự phát triển kinh tế Đức trong

việc cung cấp việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp; đào tạo nghề cho lượng lớn lao

động Đức và quan trọng hơn là đóng góp mạnh mẽ cho sự phát triển của nền

kinh tế Đức (thông qua đóng góp vào GDP, giá trị xuất nhập khẩu...). Để đạt

được những thành tựu như vậy, bên cạnh sự hỗ trợ kịp thời của Chính phủ Liên

bang Đức thông qua việc xây dựng một môi trường pháp lý, môi trường chính

sách thuận lợi, kiến tạo, cùng với sự định hướng, hỗ trợ về mặt thông tin, chuyên

môn từ các tổ chức, Hiệp hội doanh nhân, doanh nghiệp trung gian, Phòng

thương mại Đức tại các quốc gia trên toàn cầu (trong việc thúc đẩy xuất nhập

khẩu) thì không thể phủ nhận được rằng nội lực của các DNVVV ở Đức (vốn

là các công ty gia đình) là rất lớn, cụ thể:

 Văn hóa tổ chức doanh nghiệp chặt chẽ và tính linh hoạt cao:

Xuất phát từ đặc tính của các DNVVN thường có phương thức hoạt động

theo “nguyên tắc cá nhân” và “nguyên tắc thống nhất giữa lãnh đạo và vốn sở

hữu”. Cụ thể “nguyên tắc cá nhân” thể hiện rằng người quản lý doanh nghiệp

là người có vai trò chủ chốt trong việc ra quyết định trong mọi hoạt động của

doanh nghiệp, họ liên hệ trực tiếp và mật thiết với nhân viên, với khách hàng

và với nhà cung cấp. Họ thường gắn bó cả sự nghiệp của mình với doanh nghiệp

121

đó. Ngoài ra, “nguyên tắc thống nhất giữa lãnh đạo và chủ sở hữu” có nghĩa là

người chủ sở hữu và người lãnh đạo doanh nghiệp đều là một người [132]. Điều

này giúp cho các doanh nghiệp quản lý được hoạt động sản xuất kinh doanh

một cách chặt chẽ. Sự tương tác gần gũi và thấu hiểu giữa các cấp bậc trong

doanh nghiệp giúp người chủ doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt và đưa ra

quyết định kịp thời với những thay đổi cả từ các yếu tố bên trong và bên ngoài.

Bên cạnh đó, phần nhiều các DNVVN ở Đức là các doanh nghiệp gia đình, và

những doanh nghiệp này có tính truyền thống, tiếp nối qua nhiều thế hệ duy trì

hoạt động sản xuất. Đặc tính này giúp các Mittelstand có thể giữ vững được

những bí quyết kinh doanh riêng cũng như tinh thần, văn hóa nền tảng được

tiếp nối qua nhiều thế hệ của gia đình, giúp doanh nghiệp giữ vững được phong

độ ổn định và vị thế chắc chắn trên thị trường. Nhờ sự gắn bó chặt chẽ và gắn

kết giữa các thành viên mà tỷ lệ lao động nghỉ việc (rời khỏi công ty) là rất

thấp. Tinh thần kỷ luật cũng như tính trung thành của nhân viên rất cao. Đây

cũng là một trong những lý do mà trong các cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua,

sự thấu hiểu giữa người chủ và người lao động giúp cho các DNVVN có thể

nhanh chóng thích nghi, dễ dàng chia sẻ rủi ro về mặt tiền lương, giờ làm, chế

độ lao động, thích ứng nhanh chóng với chính sách mới của Chính phủ và qua

đó giúp các DNVVN linh hoạt thích ứng, duy trì được hoạt động sản xuất ổn

định. Các doanh nghiệp giữ được lao động lành nghề của mình còn người lao

động thì giữ được việc làm.

 Chiến lược doanh nghiệp dựa trên tầm nhìn dài hạn:

Xuất phát từ văn hóa doanh nghiệp có tính chất kế thừa, tiếp nối qua

nhiều thế hệ các quyết định, chiến lược của DNVVN ở Đức thường dựa trên

một tầm nhìn dài hạn, mang tính xuyên suốt, thống nhất trong sự phát triển

chung của doanh nghiệp và ít mang tính thời điểm, tư duy phục vụ lợi nhuận

122

ngắn hạn, không bền vững. Điều này cũng được thể hiện thông qua những cam

kết của doanh nghiệp với người lao động. Đội ngũ lao động của các DNVVN

được đào tạo và nuôi dưỡng song song với sự phát triển của doanh nghiệp đó,

từ đối tượng học nghề đến lao động chính thức và trở thành lao động có tay

nghề cao. Đây là quá trình đào tạo bài bản, xuyên suốt và thể hiện sự gắn kết

giữa người lao động và doanh nghiệp.

Nhiều lãnh đạo điều hành các hoạt động ở nước ngoài của các DNVVN

Đức đã có thời gian phụ trách đơn vị hơn mười năm và thậm chí lâu hơn. Điều

này giúp cho các hợp đồng kinh doanh được duy trì và mối quan hệ giữa doanh

nghiệp và khách hàng cũng rất gần gũi. Theo thống kê, hơn 44% nhân viên tại

các Mittelstand của Đức có thời gian gắn bó với doanh nghiệp họ đang làm việc

từ hơn mười năm trở lên và họ có động lực rất lớn để cống hiến cho công ty,

rất hiếm khi xảy ra các cuộc đình công hay mâu thuẫn lao động. Hơn 80% số

doanh nghiệp có chính sách thưởng cho người lao động khi đóng góp các sáng

kiến, ý tưởng mới; hơn 50% số doanh nghiệp áp dụng mô hình “nhóm quản lý

chất lượng (quality circles)” và khoảng 40% doanh nghiệp có chính sách chia

sẻ lợi nhuận với người lao động [104]. Với tư duy dựa trên tầm nhìn dài hạn

mà các DNVVN ở Đức hoạt động nhất quán và bền vững.

 Nguồn lực doanh nghiệp, năng lực quản lý doanh nghiệp tốt. Xây dựng

lợi thế cạnh tranh và mạng lưới khách hàng toàn cầu:

Có thể nói rằng, các DNVVN ở Đức có nguồn lực tốt và được tiếp nối

qua nhiều thế hệ. Các DNVVN ở Đức luôn có sự quyết tâm, kinh nghiệm và

kiến thức trải qua nhiều năm phát triển cùng với nguồn lực về vốn con người

mạnh mẽ. Năng lực quản lý của các DNVVN ở Đức cũng luôn được đánh giá

cao. Với đặc tính là người chủ thường là người quản lý trực tiếp doanh nghiệp

nên hoạt động của các DNVVN thường mang đậm dấu ấn của người lãnh đạo

123

và sự gắn kết giữa người chủ và nhân viên thường rất mật thiết. Ngoài ra, tận

dụng được những lợi thế từ nguồn lực sẵn có, với tấm nhìn chiến lược dài hạn,

DNVVN ở Đức luôn biết cách xây dựng những lợi thế cạnh tranh cho riêng

mình để vươn lên trở thành những “chiến binh” trên toàn cầu, xây dựng mạng

lưới khách hàng rộng khắp.

Chiến lược mà các DNVVN ở Đức theo đuổi để có lợi thế cạnh tranh là

“chiến lược tập trung dựa trên nền tảng khác biệt hóa - Differentiation Focus”

đã được Michael Porter đề cập lần đầu vào năm 1985. Theo đó, chất lượng,

dịch vụ và độ tin cậy cao là ba yếu tố chiến lược mà các DNVVN ở Đức tập

trung xây dựng trên thị trường. Các DNVVN ở Đức tập trung vào các thị trường

ngách, những thị trường mà họ nắm rất sâu sắc. Theo đánh giá từ các doanh

nghiệp thì tầm quan trọng của ba tiêu chí trên lần lượt chiếm 77%, 71% và 66%

khi được khảo sát [122]. Với lợi thế quy mô nhỏ và vừa, lao động có tay nghề

kỹ thuật cao, tập trung sản xuất chuyên sâu vào thế mạnh của mình (tính chuyên

môn hóa cao), các sản phẩm của DNVVN ở Đức được xem là có tiêu chuẩn

chất lượng hàng đầu thế giới, đặc biệt là các lĩnh vực sản xuất liên quan đến kỹ

thuật điện và sản phẩm công nghiệp. Bên cạnh đó, quy trình về tư vấn, dịch vụ

được các doanh nghiệp này quan tâm và chú trọng; và hơn hết, uy tín/ độ tin

cậy là một trong những nguyên nhân giúp cho các DNVVN ở Đức khẳng định

được vị thế của mình trên trường quốc tế. Trên phạm vi toàn cầu, các DNVVN

ở Đức được xem là những “nhà vô địch ẩn danh” và có tới 1.307 doanh nghiệp

từ Đức đứng đầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất của mình.

Ngoài ra, các DNVVN ở Đức không ngừng xây dựng mạng lưới khách

hàng toàn cầu. Bên cạnh nhóm khách hàng truyền thống là các nước thành viên

trong Liên minh châu Âu và Mỹ thì một trong những nhóm khách hàng mới

nổi mà các Mittelstand hướng tới là các quốc gia đang phát triển, những quốc

124

gia mà quá trình công nghiệp hóa đang diễn ra mạnh mẽ và các doanh nghiệp

Đức đã tiếp thị các sản phẩm của mình một cách thành công dựa trên những thế

mạnh mà mình có. Các Mittelstand ở Đức cũng là các nhà thầu phụ cho các

doanh nghiệp lớn toàn cầu trong việc gia công, cung cấp các trang thiết bị, dụng

cụ phục vụ cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp lớn. Việc luôn tìm kiếm và

tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu giúp cho các DNVVN ở Đức luôn ổn

định sản xuất và đóng góp mạnh mẽ cho quá trình phát triển nền kinh tế Đức.

Phân tích về đặc tính văn hóa tổ chức doanh nghiệp, các nguồn lực doanh

nghiệp và năng lực quản lý của các DNVVN ở Đức đã soi sáng và làm rõ hơn

nội dung “Lý thuyết của Penrose về phát triển doanh nghiệp”. Theo đó tác giả

đã nhận định “bản thân các nguồn lực chưa thể được xem là yếu tố đầu vào cho

quá trình sản xuất kinh doanh mà tùy thuộc vào từng doanh nghiệp sử dụng các

nguồn lực đó theo những cách thức như thế nào dựa trên kinh nghiệm, trình độ

của người lao động, năng lực của quản lý thì các nguồn lực đó mới trở thành

nhân tố giúp doanh nghiệp tăng trưởng. Penrose cũng khẳng định năng lực quản

lý có tác động không nhỏ đến sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp”

[151]. Đối với các DNVVN ở Đức, sự kết hợp hiệu quả và sử dụng các nguồn

lực hợp lý với kinh nghiệm dạn dầy của người lãnh đạo vốn có sự đúc kết từ

truyền thống và tiếp nối qua nhiều thế hệ đã giúp khối DNVVN đạt được những

thành quả đang ghi nhận. Bên cạnh đó, tận dụng được những lợi thế từ nguồn

lực sẵn có, cùng tầm nhìn chiến lược dài hạn, DNVVN ở Đức luôn biết cách

xây dựng những lợi thế cạnh tranh cho riêng mình để vươn lên trở thành những

“chiến binh” trên toàn cầu, xây dựng mạng lưới khách hàng rộng khắp. Điều

này cũng bổ trợ cho lý thuyết tiếp theo là “Lý thuyết nguồn lực doanh nghiệp

và năng lực động của doanh nghiệp”. Theo đó, Barney (1991) cho rằng lợi thế

cạnh tranh của doanh nghiệp nếu không được xây dựng dựa trên nền tảng nguồn

lực bên trong của doanh nghiệp đó thì sẽ không thể tạo được ưu thế lâu dài vì

125

hoàn toàn có thể bị bắt chước [58] hay Rindova và Fombrun (1999) [156] cho

rằng các nguồn lực và năng lực cốt lõi của doanh nghiệp là nhân tố chính giúp

doanh nghiệp có thể có được lợi thế cạnh tranh. Chính những đặc trưng, những

giá trị cốt lõi của khối DNVVN ở Đức vốn được đúc kết và xây dựng qua nhiều

thế hệ đã tạo ra cho doanh nghiệp những lợi thế cạnh tranh mà đối thủ không

thể sao chép hoặc dễ dàng học theo. Điều đó đã giúp cho các DNVVN ở Đức

được ví như những “nhà vô địch ẩn danh”, chiếm thị phần lớn trên toàn cầu.

3.2.2. Một số vấn đề tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức

Mặc dù được xem là xương sống của nền kinh tế, giúp nền kinh tế Đức

vượt qua nhiều cuộc khủng hoảng cũng như được kỳ vọng sẽ một lần nữa giúp

Đức gặt hái được những thành công trong kỷ nguyên của cuộc CMCN 4.0

nhưng những Mittelstand – những DNVVN ở Đức cũng đang phải đối mặt với

nhiều thách thức không nhỏ, cụ thể:

 DNVVN ở Đức đối diện cuộc khủng hoảng thế hệ:

Một đặc trưng của các Mittelstand, các doanh nghiệp gia đình ở Đức là

việc chuyển giao giữa các thế hệ lãnh đạo doanh nghiệp thường là sự kế thừa

trong gia đình. Điều này giúp đảm bảo tính tiếp nối các truyền thống, nền tảng

văn hóa doanh nghiệp vốn được xây dựng qua nhiều đời. Những thế hệ kế thừa

là người trong gia đình cũng sẽ giúp doanh nghiệp cảm thấy yên tâm về tính

cam kết gắn bó lâu dài và tâm huyết của người lãnh đạo mới với doanh nghiệp.

Các thế hệ trẻ này cũng ý thức được rằng việc gìn giữ những giá trị mà cha ông

họ đã tạo ra đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định hoạt động

của doanh nghiệp và tiếp nối sự thành công đó. Mặc dù vậy, từ những năm

1975 trở lại đây, tỷ lệ sinh ở Đức luôn ở mức thấp, chỉ đạt xấp xỉ trung bình từ

1,3 đến 1,5 lần sinh trên mỗi phụ nữ [178]. Điều này dẫn đến hậu quả là các gia

đình ở Đức có ít con và khiến các doanh nghiệp khó khăn trong việc tìm kiếm

126

thế hệ kế cận trong gia đình. Tính đến 2020, có khoảng 227.000 DNVVN ở

Đức mong muốn chuyển giao doanh nghiệp cho người kế cận. Độ tuổi lãnh đạo

các DNVVN trong những năm gần đây tại Đức đã tăng rất cao. Theo đó, tính

đến 2016, độ tuổi lãnh đạo nhiều nhất là từ 50 tuổi trở lên chiếm hơn 60% và

trong đó, nhóm tuổi từ 60 trở lên chiếm khoảng 22%. Nhóm tuổi lãnh đạo dưới

40 tuổi chỉ chiếm 15% và từ 40-49 tuổi chiếm khoảng gần 25%. Có thể thấy

rằng, độ tuổi lãnh đạo/ chủ sở hữu DNVVN ở Đức đang già đi nhanh chóng.

Theo thống kê có khoảng 20% số doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với bài toán

tìm người thay thế hoặc nếu không các doanh nghiệp sẽ phải ngừng hoạt động

vào năm 2022. Tính trung bình hiện tại thì chủ sở hữu của các Mittelstand Đức

đang có xu hướng nghỉ hưu muộn khi mà độ tuổi nghỉ làm việc trung bình của

nhóm này là ở tuổi 68 còn các nhân viên làm công ăn lương bình thường của

doanh nghiệp thì nghỉ ở tuổi 62 [146]. Những năm trước đây, các cuộc khảo sát

luôn cho thấy rằng các Mittelstand luôn mong muốn và ưu tiên cho sự kế thừa

trong gia đình, và không sẵn sàng chuyển giao nó cho người ngoài. Tuy nhiên

giờ đây, có khoảng 45% số doanh nghiệp được khảo sát đã chấp nhận với

phương án bán lại cho các nhà đầu tư hoặc các doanh nghiệp khác [123]. Đây

cũng có thể được xem là một trong những giai đoạn chuyển giao mang tính đặc

trưng của các DNVVN ở Đức. Quá trình chuyển giao sẽ ảnh hưởng không nhỏ

đến hoạt động và định hướng phát triển tương lai của doanh nghiệp. Mặc dù

vậy, giai đoạn này ở các DNVVN ở Đức là không thể tránh khỏi trong quá trình

phát triển, giống như Greiner đã đề cập trong “Mô hình phát triển sáu giai

đoạn”. Quan điểm của ông là các doanh nghiệp luôn vận động và thay đổi,

giống như các sinh vật trong quá trình sinh trưởng và phát triển của mình

thường trải qua các giai đoạn khác nhau và mỗi giai đoạn sẽ tương ứng với cách

quản lý và phát triển riêng biệt ]137].

127

Có thể thấy rằng, đây là một thách thức không nhỏ cho các DNVVN nói

riêng và nền kinh tế Đức nói chung khi mà khối này đóng góp khoảng 70%

lượng việc làm và 35% doanh thu cho nền kinh tế. Dù muốn hay không thì các

doanh nghiệp này vẫn luôn phải đảm bảo sự ổn định hoạt động vì nó được xem

là xương sống, là trụ cột giúp cho nền kinh tế - xã hội Đức phát triển bền vững.

 Thách thức trong công cuộc đổi mới sáng tạo, Cách mạng công nghiệp 4.0:

Khái niệm về Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã được đề cập ở Đức từ

năm 2012 và những năm gần đây, một loạt các sáng kiến, chương trình hỗ trợ

DNVVN được Chính phủ cấp vốn nhằm giúp khối doanh nghiệp này triển khai

hiệu quả quá trình đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và ứng dụng các lĩnh vực công

nghệ có tầm quan trọng chiến lược, phù hợp với xu thế phát triển chung của

cuộc Cách mạng công nghiêp 4.0, thông qua Chương trình “Đổi mới sáng tạo

trung ương dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ - ZIM” được cấp ngân sách 548

triệu euro năm 2017 hay Chương trình “Đối mới DNVVN: KMU-Innovativ”.

Tại Đức, năm 2019, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực công

nghệ thông tin và truyền thông chiếm nhiều nhất, với 30,2% tổng số doanh

nghiệp mới của cả nước.

Có thể nói rằng, trong giai đoạn đầu triển khai, các DNVVN đã nhận

được sự hỗ trợ nhất định để có thể tiếp cận tích cực trong công cuộc đổi mới

sáng tạo. Mặc dù vậy, một trong những thách thức hiện tại cũng là rào cản của

các doanh nghiệp là sự thiếu hụt lao động có kỹ năng trong lĩnh vực chuyển đổi

kỹ thuật số. Theo thống kê, khoảng 80% các DNVVN ở Đức có nhu cầu lớn về

lao động có kỹ năng kỹ thuật số cơ bản như khả năng sử dụng các phần mềm

tiêu chuẩn và các thiết bị kỹ thuật số. Chỉ khoảng 24% các doanh nghiệp có

nhu cầu cao hơn về lao động có kỹ năng tiên tiến như lập trình và phân tích số

liệu thống kê. Và một phần ba số doanh nghiệp là không thể đáp ứng các yêu

128

cầu về kỹ năng số [55]. Theo đó, có ba cách mà các doanh nghiệp có thể có

được các lao động đáp ứng được kỹ năng là: thông qua tuyển dụng mới, thuê

ngoài hoặc tự đào tạo nâng cao. Trong đó, phương án tự đào tạo nâng cao kỹ

năng cho người lao động được xem là chiến lược phổ biến nhất của các

DNVVN. Mặc dù vậy, với đặc tính của DNVVN có ít nhân viên, việc sắp xếp

thời gian cũng như chương trình học để không ảnh hưởng đến hoạt động sản

xuất hàng ngày của doanh nghiệp cũng là một thách thức lớn. Bên cạnh đó, chi

phí cho việc đào tạo thường do doanh nghiệp hoặc người lao động tự chi trả

nên đây cũng là một rào cản đối với các doanh nghiệp trẻ, các doanh nghiệp

nhỏ ít hơn 50 lao động vì nhiều doanh nghiệp trong số này ít có tín dụng tốt để

vay vốn ngân hàng và nguồn vốn tự lực thì còn khiêm tốn [173]. Kết quả là

nhiều doanh nghiệp sẽ không có đủ tiềm lực để thực hiện việc đào tạo số hóa,

nâng cao trình độ cho người lao động, giảm cơ hội thực hiện chuyển đổi số.

3.3. Những bài học kinh nghiệm từ thực tế phát triển doanh nghiệp vừa và

nhỏ ở Đức

Xuyên suốt quá trình phát triển DNVVN ở Đức, đặc biệt là từ những

năm 2000 trở về đây, khối DNVVN đã chứng minh được sự phát triển hiệu quả

cả về mặt số lượng và chất lượng. Các DNVVN trong nền kinh tế Đức đã được

nhìn nhận đúng vai trò, đánh giá đúng tiềm năng và từ đó Chính phủ Đức đã

xây dựng các chương trình, chính sách phù hợp giúp cho khối này phát huy tối

đa tiềm lực phát triển. Có thể dễ dàng nhận ra rằng, trải qua các sự kiện biến

động kinh tế - xã hội, các chính sách được Chính phủ Đức ban hành và triển

khai đều đặt trọng tâm là sự ổn định của các DNVVN và lấy đó là nền tảng tạo

sự ổn định trong nền kinh tế. Qua đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm

từ thực tế phát triển DNVVN ở Đức, cụ thể:

 Đổi mới nhận thức về các DNVVN trong nền kinh tế:

129

Việc đổi mới nhận thức, nhằm có một cái nhìn chính xác hơn về vị trí,

tầm quan trọng của các DNVVN trong nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong

việc giúp Chính phủ của các quốc gia có thể xây dựng được các chương trình,

chính sách phù hợp cho khối DNVVN có thể phát huy tối đa tiềm lực để phát

triển. Có thể nói rằng, nếu không có một nhận thức đúng đắn từ Chính phủ đến

doanh nghiệp, người dân, DNVVN sẽ không thể được đặt trong ưu tiên phát

triển của các quốc gia, đặc biệt với các nền kinh tế vốn đã và đang bị ảnh hưởng

mạnh mẽ bởi sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp lớn. Việc xác định

được một quan điểm, tư tưởng rõ ràng về sự phát triển của khối DNVVN thông

qua các chính sách hỗ trợ kịp thời sẽ giúp nguồn lực trong nền kinh tế được

phân bổ đồng đều hơn, nền kinh tế sẽ phát triển với sự ổn định và tính bền vững

cao hơn.

 Xây dựng môi trường chính sách thuận lợi, hệ thống pháp lý hoàn thiện:

Cần phải xác định rằng, để có được một khối DNVVN phát triển trong

nền kinh tế thì trước hết khối doanh nghiệp đó phải được nuôi dưỡng trong một

môi trường có các yếu tố hỗ trợ thuận lợi để phát triển. Chính phủ phải là đầu

mối tiên phong trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch, công

bằng, thông qua một hệ thống pháp lý hoàn thiện với cơ chế chính sách tích

cực, thông thoáng. Tất cả các đạo luật, chính sách nhằm hỗ trợ các DNVVN

phải được Chính phủ xây dựng dựa trên một tầm nhìn dài hạn, nhất quán, gắn

chặt với những định hướng, mục tiêu chung của quốc gia. Xây dựng chính sách

phải dựa trên nền tảng từ các DNVVN, tránh ban hành các chính sách manh

mún, tầm nhìn ngắn hạn, thừa thãi. Bên cạnh đó, phải xóa bỏ tình trạng quan

liêu trong các cơ quan nhà nước, loại bỏ những quy tắc, điều kiện không cần

thiết, các gánh nặng về mặt thủ tục hành chính vốn kìm hãm sự phát triển của

doanh nghiệp. Tạo điều kiện cho các DNVVN tham gia vào thực hiện các hợp

130

đồng công. Có lộ trình xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử (e-Government),

tăng sự minh bạch và thuận tiện cho cả doanh nghiệp và Chính phủ.

 Thúc đẩy tinh thần kinh doanh, hỗ trợ đổi mới sáng tạo:

Xây dựng một xã hội khởi nghiệp, một xã hội mà tinh thần kinh doanh

được cổ vũ và hỗ trợ kịp thời thông qua các chính sách ưu đãi, cơ chế đặc thù

cho các doanh nghiệp trẻ, doanh nghiệp mới thành lập, đặc biệt là doanh nghiệp

khởi nghiệp trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo, kỹ thuật cao, sử dụng tri thức, phù

hợp với xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, đơn giản

hóa các thủ tục cấp phép doanh nghiệp mới, cũng như có ưu đãi về thuế, nới

lỏng một số điều kiện không cần thiết cho doanh nghiệp trong giai đoạn đầu

thành lập. Một xã hội có lực lượng DNVVN vững mạnh là xã hội đó có tinh

thần kinh doanh, tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ. Tinh thần kinh doanh, khởi

nghiệp cần được lan tỏa đến mọi đối tượng trong xã hội, tầng lớp trong xã hội.

Hỗ trợ đổi mới sáng tạo cũng là một trong những ưu tiên hàng đầu của

tất cả các quốc gia, đặc biệt khi mà cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và

đang diễn ra và tác động đến mọi ngành nghề trong nền kinh tế. Chính phủ Đức

đã dành riêng một Chương trình “Đổi mới sáng tạo trung ương dành cho

DNVVN - ZIM” nhằm tài trợ trên quy mô toàn quốc cho các công nghệ định

hướng thị trường của các doanh nghiệp. Riêng năm 2017, ZIM đã cấp một

khoản ngân sách trị giá 548 triệu euro và trở thành chương trình hỗ trợ lớn nhất

ở Đức. Có thể thấy rằng, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc kích

thích làn sóng đổi mới sáng tạo thông qua các hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp

đến các DNVVN.

 Tăng khả năng tiếp cận nguồn tài chính của DNVVN:

131

Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các DNVVN tháo gỡ

khó khăn về mặt tiếp cận các nguồn tài chính. Tại Đức, Ngân hàng Tái thiết

KfW đóng vai trò là đơn vị hỗ trợ tài chính truyền thống cho các DNVVN thông

qua quỹ “Cho vay khởi nghiệp” được thiết kế dành riêng cho khối này. Bên

cạnh đó, Chính phủ cũng ban hành Đạo luật thúc đẩy đầu tư mạo hiểm khiến

cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm ở Đức trở nên hấp dẫn hơn. Chính phủ Liên bang

đã bổ sung một số công cụ mới cho phép một lượng vốn đầu tư mạo hiểm

khoảng 2 tỷ euro vào thị trường (từ các Quỹ nội địa của Đức cũng như các Quỹ

Thiên thần của châu Âu), nhằm giúp sức cho các doanh nghiệp khởi nghiệp

mới ở cả giai đoạn đầu và giai đoạn phát triển sau này. Việc xây dựng các chính

sách nhằm tháo gỡ rào cản tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp

nhỏ mới thành lập sẽ giúp các doanh nghiệp có nhiều nguồn lực hơn để đảm

bảo ổn định sản xuất, phục vụ cho hoạt động đổi mới sáng tạo và phát triển. Vì

vậy, vai trò của Chính phủ trong việc xây dựng chính sách nhằm giúp DNVVN

tiếp cận các nguồn tài chính là vô cùng quan trọng.

 Đào tạo nguồn nhân lực:

Nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu tạo nên thành công cho một doanh

nghiệp, đặc biệt là các DNVVN vốn ít nhân viên và hoạt động sản xuất thường

có tính chuyên môn hóa cao. Tại Đức, hệ thống đào tạo nghề kép được xem là

nền tảng cung cấp nguồn nhân lực có tay nghề cho các doanh nghiệp, lý thuyết

được giảng dạy trong trường học và đào tạo thực tế diễn ra song song ở công

ty. Chính phủ Đức đặc biệt tập trung chú trọng đào tạo nghề và đây là yếu tố

then chốt giúp các DNVVN luôn duy trì được hoạt động sản xuất ổn định. Ở

Đức, đào tạo nghề trong các DNVVN chiếm tới 81,9% tổng lao động học nghề

trong nền kinh tế.

132

Việc chú trọng đào tạo nguồn nhân lực giúp cho người lao động được

trang bị những kỹ năng cần thiết, nâng cao tính chuyên nghiệp và đáp ứng được

nhu cầu ngày càng cao mà công việc đặt ra.

 Mở rộng thị trường, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu:

Các DNVVN ở Đức không ngừng mở rộng thị trường, tiếp cận các đối

tác tiềm năng mới cả trong và ngoài nước. Các Mittelstand cũng là nhà thầu

phụ cho các doanh nghiệp lớn toàn cầu trong việc gia công, cung cấp các trang

thiết bị, dụng cụ phục vụ cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp lớn. Việc

luôn tìm kiếm và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu giúp cho các DNVVN

ở Đức luôn ổn định sản xuất và đóng góp mạnh mẽ cho quá trình phát triển nền

kinh tế Đức.

Về mặt Chính phủ, Đức cũng xây dựng một sáng kiến “Hoạt động tích

cực trên toàn thế giới” nhằm hỗ trợ các DNVVN. Đây là sự kết hợp của một

chương trình mười điểm, với mục tiêu trọng tâm là chính sách tự do hóa thị

trường trong các cuộc đàm phán thương mại thế giới hiện nay. Mục đích của

chương trình này là giúp tăng cường mạng lưới các Phòng thương mại Đức trên

toàn thế giới, hỗ trợ về mặt chính trị chuyên sâu hơn cho các công ty Đức ở

nước ngoài, hỗ trợ tối đa cho các hội chợ thương mại tổ chức ở nước ngoài đặc

biệt cho đối tượng là các DNVVN.

 Xây dựng nền tảng văn hóa doanh nghiệp:

Một trong những điểm đặc trưng trong việc phát triển các DNVVN ở

Đức là xã hội Đức có “văn hóa DNVVN riêng”. Các Mittelstand ở Đức chủ

yếu là các doanh nghiệp gia đình, đã tiếp nối qua nhiều thế hệ duy trì hoạt động

sản xuất và nền có văn hóa, bản sắc riêng. Đặc tính này giúp các Mittelstand có

thể giữ vững được những bí quyết kinh doanh riêng cũng như tinh thần, văn

133

hóa nền tảng được tiếp nối qua nhiều thế hệ của gia đình, giúp doanh nghiệp

giữ vững được phong độ ổn định và vị thế chắc chắn trên thị trường. Tình thần

kỷ luật cũng như tính trung thành của nhân viên rất cao. “Văn hóa DNVVN”

này được xem là đặc trưng được xây dựng trong suốt chiều dài lịch sử phát triển

DNVVN trong nền kinh tế Đức. Chính phủ Đức cũng coi đây như một giá trị

cốt lõi để xây dựng khối doanh nghiệp này ngày càng phát triển.

 Đề cao vai trò của các hiệp hội:

Nhà nước cần tạo điều kiện để xây dựng các tổ chức trung gian, thành

lập các Hiệp hội nhằm tư vấn, trợ giúp cho sự phát triển của các DNVVN. Kinh

nghiệm từ Đức cho thấy vai trò của các hiệp hội trong việc cung cấp thông tin,

bảo vệ lợi ích và định hướng doanh nghiệp phát triển đúng lộ trình, mở rộng

mạng lưới kết nối trên toàn cầu là rất rõ ràng.

 Tận dụng cơ hội, nắm bắt thời cơ:

Một điều dễ dàng nhận ra trong quá trình phát triển DNVVN ở Đức là

bản thân nội lực các doanh nghiệp Đức rất mạnh. Có lẽ dù Chính phủ có triển

khai các gói hỗ trợ và kích thích DNVVN phát triển đến đâu mà chính các

DNVVN không tận dụng được cơ hội đó để vươn lên nắm bắt thời cơ và bổ

sung những nguồn lực còn thiếu của mình để phát triển thì DNVVN ở Đức sẽ

không có được những thành tựu như thời gian vừa qua. Việc tận dụng cơ hội,

nắm bắt thời cơ này còn thể hiện rằng nền tảng nội lực của các DNVVN là rất

lớn với truyền thống phát triển và văn hóa doanh nghiệp vững mạnh, trải qua

nhiều thế hệ được vun đắp và bồi dưỡng. Đây là một đặc điểm của các DNVVN

ở Đức nhưng cũng sẽ là bài học chung cho tất cả khối DNVVN ở các quốc gia

nếu muốn vươn lên phát triển trong nền kinh tế.

134

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Có thể nói rằng, sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế Đức được

xem là hình mẫu thành công cho nhiều quốc gia học tập. Vị trí và vai trò của

các DNVVN Đức luôn được khẳng định. Trong suốt quá trình phát triển, đặc

biệt từ đầu những năm 2000 trở lại đây, nền kinh tế Đức đã trải qua nhiều biến

động từ giai đoạn mất cân bằng của thị trường lao động đầu những năm 2000,

cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và nhu cầu tìm kiếm động lực cho

sự ổn định và tăng trưởng kinh tế từ sau những năm 2010 trở lại đây, đặc biệt

khi mà cuộc CMCN 4.0 đã diễn ra, hứa hẹn sẽ có những tác động không nhỏ

đến các nền kinh tế và nhu cầu về sự đổi mới sáng tạo đang đặt ra những thách

thức về tương lai cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Xuyên suốt những biến

động ấy, DNVVN vẫn luôn là một trong những trụ cột, được xem là xương

sống của nền kinh tế Đức, giúp Đức vượt qua những cuộc khủng hoảng, đảm

bảo sự an tâm cho nền kinh tế - xã hội của quốc gia. Sự phát triển của DNVVN

ở Đức không chỉ thể hiện về mặt số lượng các doanh nghiệp chiếm trong nền

kinh tế mà đặc biệt, vị thế và vai trò của khối doanh nghiệp này ngày càng lớn

mạnh và luôn được khẳng định và thừa nhận là một trụ cột vững chắc trong sự

phát triển kinh tế Đức trong việc cung cấp việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp; đào

tạo nghề cho lượng lớn lao động Đức và quan trọng hơn là đóng góp mạnh mẽ

cho sự phát triển của nền kinh tế Đức (thông qua đóng góp vào GDP, giá trị

xuất nhập khẩu...). Để đạt được những thành tựu như vậy, bên cạnh sự hỗ trợ

kịp thời của Chính phủ Liên bang Đức thông qua việc xây dựng một môi trường

pháp lý, môi trường chính sách thuận lợi, kiến tạo, cùng sự định hướng dài hạn

thì không thể phủ nhận rằng nội lực của chính các DNVVN ở Đức là rất lớn.

Phân tích về sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế Đức giúp đúc

rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng, trong đó nổi bật lên những nội

135

dung chính: đổi mới nhận thức về các DNVVN trong nền kinh tế; Xây dựng hệ

thống pháp lý hoàn thiện, cơ chế chính sách tích cực, xóa bỏ nạn quan liêu;

Thúc đẩy tinh thần kinh doanh, hỗ trợ đổi mới sáng tạo; Nâng cao khả năng

tiếp cận nguồn tài chính của DNVVN; Đào tạo nguồn nhân lực; Mở rộng thị

trường, giúp doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; Xây dựng nền

tảng văn hóa doanh nghiệp; Tận dụng cơ hội và nắm bắt thời cơ. Những kinh

nghiệm này có giá trị rất lớn trong việc giúp những quốc gia đang phát triển,

trong đó có Việt Nam có thể học tập và áp dụng trong quá trình phát triển khổi

DNVVN trong nền kinh tế của mình.

136

CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP

VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ

KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

4.1. Thực trạng phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế

Việt Nam

Kể từ khi công cuộc “Đổi mới” diễn ra sau Đại hội lần thứ VI của Đảng

Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), Việt Nam đã chứng kiến một sự cải cách

toàn diện nền kinh tế. Từ một nền kinh tế kém phát triển về mọi mặt, cơ chế

kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, các xí nghiệp quốc doanh

(doanh nghiệp nhà nước) nắm giữ phần lớn tài sản cố định và hoạt động yếu

kém, gặp nhiều khó khăn, Nhà nước đã từng bước cải tổ bộ máy và sắp xếp lại

hệ thống doanh nghiệp. Theo đó, từng bước mở rộng quyền tự chủ cho doanh

nghiệp nhà nước đi đôi với xóa bỏ dần chế độ bao cấp, giải thể các doanh nghiệp

hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài cũng như thực hiện thí điểm việc cổ

phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước bên cạnh việc nới lỏng những hạn chế

trong việc thành lập các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài [14].

Có thể nói rằng trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, lực lượng

doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn “thiếu và yếu”, thiếu về sự đa dạng trong

cơ cấu doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN, và yếu

về nguồn lực doanh nghiệp (thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực, thiếu công

nghệ…), năng lực quản lý của doanh nghiệp còn rất hạn chế cũng như chưa có

chiến lược phát triển doanh nghiệp dài hạn, bài bản. Vì số lượng doanh nghiệp

còn ít nên chưa hình thành được một nền văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh

137

nhân rõ ràng. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý, chính sách cho các doanh

nghiệp vẫn chưa hoàn thiện, khối doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng

còn nhiều rào cản gia nhập thị trường cũng như thiếu sự định hướng, dẫn dắt

đúng đắn. Mặc dù vậy, nắm bắt được xu hướng phát triển chung của các quốc

gia trên thế giới cũng như nhận định được vai trò và tầm quan trọng của khối

doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng trong việc thúc đẩy nền kinh tế

trong nước phát triển, nhiều bộ luật đã được thông qua và nhiều nghị định,

chính sách hỗ trợ đã được ban hành nhằm giúp cho khối doanh nghiệp nói

chung và DNVVN nói riêng được tiếp thêm sức mạnh để phát triển.

Cụ thể, Công văn 681/CP-KTN được ban hành ngày 20 tháng 06 năm

1998 về việc định hướng chiến lược và chính sách phát triển các DNVVN, đặt

nền móng cho việc hình thành nên khái niệm về DNVVN của Việt Nam như

ngày nay [4]. Đây được xem là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Luật doanh

nghiệp vào ngày 12/06/1999 với các chương trình, chính sách hỗ trợ, ưu đãi

cho doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, là cú hích cho các DNVVN

ở Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng

[31]. Trải qua nhiều điều chỉnh về nội dung, định nghĩa về DNVVN đã dần

được hình thành rõ nét hơn qua Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ban hành ngày

23/11/2001 [5], Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN

ban hành vào ngày 30/06/2009 [6], đặc biệt với việc Quốc hội thông qua và ban

hành Luật Doanh nghiệp 2014 (Luật số 68/2014/QH13) và Luật Đầu tư (Luật

số 67/2014/QH13) vào ngày 26/11/2014 [2] hay Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ

và vừa vào ngày 12/06/2017 đã thể hiện sự thừa nhận về tầm quan trọng của

các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng trong nền kinh tế [32].

Đến ngày 11/03/2018, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số

39/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp

138

nhỏ và vừa. Theo đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân theo quy mô bao

gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa [9]. Cụ thể:

Bảng 4.1: Tiêu chí xác định DNVVN của Việt Nam 2018

Doanh nghiệp Doanh nghiệp Doanh nghiệp Quy mô

siêu nhỏ nhỏ vừa Khu vực

Nông, lâm Số lao động tham Số lao động tham Số lao động tham

nghiệp, thủy sản gia BHXH bình gia BHXH bình gia BHXH bình

và Công nghiệp, quân ≤ quân ≤ quân ≤

xây dựng 10người/năm 100người/năm 200người/năm

Tổng doanh thu ≤ Tổng doanh thu ≤ Tổng doanh thu ≤

3 tỷ/năm 50 tỷ/năm 200 tỷ/năm

Hoặc tổng nguồn Hoặc tổng nguồn Hoặc tổng nguồn

vốn ≤ 3 tỷ vốn ≤ 20 tỷ vốn ≤ 100 tỷ

Thương mại và Số lao động tham Số lao động tham Số lao động tham

dịch vụ gia BHXH bình gia BHXH bình gia BHXH bình

quân ≤ quân ≤ quân ≤

10người/năm 50người/năm 100người/năm

Tổng doanh thu ≤ Tổng doanh thu ≤ Tổng doanh thu ≤

10 tỷ/năm 100 tỷ/năm 300 tỷ/năm

Hoặc tổng nguồn Hoặc tổng nguồn Hoặc tổng nguồn

vốn ≤ 3 tỷ vốn ≤ 50 tỷ vốn ≤ 100 tỷ

Nguồn: Nghị định số 39/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật

hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa [9]

Có thể nói rằng, đây là định nghĩa hoàn chỉnh nhất nhằm xác định các

DNVVN trong thời điểm hiện tại. Theo đó, Nghị định đã chi tiết hóa các tiêu

chí xác định theo quy mô về lao động hoặc tổng nguồn vốn, hoặc tổng doanh

139

thu của doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa trong tất cả các lĩnh vực nông

nghiệp/lâm nghiệp/thủy sản, công nghiệp/xây dựng và thương mại/dịch vụ.

Giúp thống nhất các tiêu chí, dễ dàng hơn trong việc tổng hợp thống kê, qua đó

đề xuất các chương trình, chính sách phù hợp nhằm hỗ trợ khối DNVVN sát

với điều kiện thực tế nhất. Các phân loại này cũng tiệm cận và phù hợp với

phân loại của nhiều quốc gia trên thế giới, và cũng phù hợp trong điều kiện kinh

tế mới khi mà cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang diễn ra và có ảnh

hưởng trực tiếp đến đối tượng là các DNVVN.

Thông qua những quyết sách về kinh tế xã hội sau hơn 30 năm đổi mới,

Việt Nam từ một nước nghèo nàn lạc hậu đã vươn lên trở thành một trong

những quốc gia năng động, kinh tế trên đà phát triển, từng bước hội nhập sâu

rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam

nói chung và đặc biệt là các DNVVN nói riêng đã chứng kiến sự phát triển

nhanh chóng cả về số lượng, quy mô, phạm vi hoạt động và vị thế, vai trò của

khối DNVVN trong nền kinh tế những năm gần đây ngày càng được nâng cao

và khẳng định.

Bảng 4.2: Thống kê số lượng doanh nghiệp (dựa theo tiêu chí quy mô lao

động) từ 2005-2015 (*)

Năm 2005 2010 2014 2015

Tổng số doanh nghiệp 106.616 279.360 402.326 442.486

Doanh nghiệp siêu nhỏ 59.730 187.580 288.480 322.236

Doanh nghiệp nhỏ 38.506 79.085 98.169 103.753

Doanh nghiệp vừa 3.443 5.618 7.266 7.685

140

Doanh nghiệp lớn 4.937 7.077 8.411 8.812

Doanh nghiệp nhà nước 4.086 3.281 3.048 2.835

Doanh nghiệp siêu nhỏ 54 103 114 90

Doanh nghiệp nhỏ 1.468 1.256 1.234 1.139

Doanh nghiệp vừa 666 539 449 407

Doanh nghiệp lớn 1.898 1.383 1.251 1.199

Doanh nghiệp ngoài 98.833 268.831 388.232 427.709

nhà nước

Doanh nghiệp siêu nhỏ 59.280 186.061 285.532 319.097

Doanh nghiệp nhỏ 35.083 74.218 91.942 97.105

Doanh nghiệp vừa 2.399 4.440 5.880 6.304

Doanh nghiệp lớn 2.071 4.112 4.878 5.203

Doanh nghiệp FDI 3.697 7.248 11.046 11.942

Doanh nghiệp siêu nhỏ 396 1.416 2.834 3.049

Doanh nghiệp nhỏ 1.955 3.611 4.993 5.509

Doanh nghiệp vừa 639 937 974 378

Doanh nghiệp lớn 1.582 2.282 2.410 968

Nguồn: Sách trắng Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam 2017 [2]

(*) Thống kê dựa trên tiêu chí phân loại tại khoản 1 điều 3 Nghị định số

56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009

141

Có thể thấy rằng, trong một thập kỷ từ 2005 đến 2015, nền kinh tế Việt

Nam đã chứng kiến sự tăng nhanh về số lượng các DNVVN từ chỉ có 101.679

doanh nghiệp vào năm 2005 (chiếm 95% tổng số doanh nghiệp) đã tăng hơn

gấp bốn lần, đạt 433.674 doanh nghiệp, chiếm hơn 98% tổng số lượng doanh

nghiệp trong nền kinh tế vào năm 2015. Trong đó, doanh nghiệp ngoài nhà

nước chiếm nhiều nhất với 422.506 doanh nghiệp (chiếm 97,4% tổng số

DNVVN). Số doanh nghiệp siêu nhỏ (doanh nghiệp có dưới 10 lao động) chiếm

đa số với tổng số 322.236 doanh nghiệp (tương ứng với 74,3% tổng số

DNVVN).

Cũng theo Bộ Kế hoạch Đầu tư [2], các doanh nghiệp hoạt động trong

lĩnh vực thương mại và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế với

68,34% vào năm 2014; theo sau là ngành công nghiệp và xây dựng chiếm

30,7% và ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng nhỏ nhất với chỉ

0,96% (giảm đáng kể nếu so với năm 2010 khi còn chiếm 3,05%). Điểm quan

trọng là số lượng doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ luôn chiếm hơn 90% tỷ trọng

doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực, ngành nghề trong nền kinh tế. Điều

đó thể hiện rằng, nền kinh tế càng phát triển, cơ chế chính sách thông thoáng

sẽ giúp tạo điều kiện cho mọi đối tượng có thể tham gia vào nền kinh tế, khai

thác được tối đa mọi nguồn lực đất nước ở tất cả các ngành nghề. Góp phần

thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập phát triển.

Về phân loại theo vùng kinh tế, số doanh nghiệp có cơ cấu vốn lớn (từ

50 tỷ đồng trở lên) có tỷ trọng lớn nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng (8,3%),

Trung du và miền núi phía Bắc (7,5%) và khu vực Đông Nam Bộ (7,2%). Khu

vực Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long có

tỷ trọng doanh nghiệp có cơ cấu vốn nhỏ (dưới 5 tỷ đồng) lớn nhất với lần lượt

là 65,2% và 65% [2]. Với lợi thế của các DNVVN là mô hình hoạt động nhỏ,

142

quy mô vốn đầu tư không lớn, tính linh động cao, nên vai trò của khối doanh

nghiệp này là đặc biệt quan trọng tại các khu vực vùng sâu, vùng xa, những

vùng ít phát triển và có hạ tầng chưa thuận lợi. Sự phát triển của DNVVN tại

các vùng này sẽ bù đắp cho sự thiếu hụt đầu tư, vốn gây ra tình trạng mất cân

bằng giữa các vùng miền, tạo sự ổn định kinh tế-xã hội, thu hẹp khoảng cách

phát triển giữa thành thị và nông thôn, khi mà các doanh nghiệp lớn thường chỉ

tập trung tại các đô thị, thành phố phát triển mà ít triển khai hoạt động tại những

vùng nguồn lực còn hạn chế.

Xét theo tiêu chí quy mô về vốn, đa số DNVVN ở Việt Nam có quy mô

vốn nhỏ với 306.735 doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng 69,3% tổng số doanh nghiệp

trong nền kinh tế (năm 2015), 108.108 doanh nghiệp có quy mô vốn vừa, chiếm

24,4% tổng số doanh nghiệp và chỉ có 6,3% số doanh nghiệp có quy mô vốn

lớn. Khối doanh nghiệp ngoài nhà nước vẫn có tổng số lượng doanh nghiệp

chiếm tỷ trọng cao nhất tương ứng với 96,5% tổng số doanh nghiệp cả nước và

khối này cũng chứng kiến số lượng các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn

tăng lên mạnh mẽ trong suốt thời gian qua. Trong khi đó, số lượng các doanh

nghiệp nhà nước giảm đi khoảng 25%, cụ thể là số lượng các DNVVN trong

nhóm này giảm đi và có sự tăng nhẹ số lượng các doanh nghiệp có quy mô vốn

lớn từ 1.397 doanh nghiệp lên 1.770 doanh nghiệp [2].

Có thể thấy rằng, trong suốt thời gian từ những năm 2005 đến 2015,

thông qua các chính sách và chương trình hỗ trợ từ Chính phủ, khối DNVVN

đã chứng kiến một sự thay đổi lớn về số lượng các doanh nghiệp, quy mô doanh

nghiệp và đặc biệt vị trí của DNVVN trong nền kinh tế đã dần được khẳng định.

Theo thống kê, từ năm 2005 đến 2015, tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp bình

quân trong giai đoạn này khoảng trên 10%/năm. Tổng nguồn vốn của các doanh

nghiệp trong nền kinh tế tăng trưởng bình quân đạt 24,3%/năm, lên mức 22

143

triệu tỷ đồng vào năm 2014. Tốc độ tăng doanh thu bình quân hàng năm cũng

đạt khoảng 22%/năm. Số lượng DNVVN ngày càng tăng và hoạt động sản xuất

kinh doanh ghi nhận nhiều kết quả tích cực. Theo đó, DNVVN đóng góp mức

trung bình hàng năm khoảng 40% GDP và 30% tổng giá trị xuất khẩu của nền

kinh tế. Con số này vào năm 2014 lần lượt là 43,2% và 31%. Tính trung bình

giai đoạn từ 2007 đến 2014, các DNVVN đóng góp khoảng một phần ba mức

thu ngân sách chung của cả nước (tương ứng khoảng 33%). Mức vốn đầu tư

dành riêng cho các DNVVN cũng chiếm khoảng 38% tổng nguồn vốn toàn xã

hội. Các DNVVN cũng sử dụng trên 5 triệu lao động trong nền kinh tế, chiếm

khoảng 45% tổng số việc làm trong khối các doanh nghiệp nói chung. Bên cạnh

việc tạo ra nhiều việc làm, thu nhập của các lao động trong khối DNVVN cũng

chứng kiến sự cải thiện tích cực, theo đó năm 2010 mức thu nhập trung bình

chỉ đạt 42 triệu đồng/năm thì năm 2015 con số này đã tăng lên ở mức khoảng

60 triệu đồng/năm (trung bình đạt khoảng 5 triệu đồng/tháng) [22].

Tính đến 01/01/2017, theo Tổng cục Thống kê, cả nước có 517,9 nghìn

doanh nghiệp, trong đó số DNVVN là 507.860 doanh nghiệp, tương ứng với

98,1%. Số doanh nghiệp này đã tăng thêm hơn 17% so với mức 433.674

DNVVN vào năm 2015. Trong tổng số các DNVVN có 8,5 nghìn doanh nghiệp

cỡ vừa, chiếm 1,6%, có 114,1 nghìn doanh nghiệp cỡ nhỏ, chiếm khoảng 22%

và số doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm áp đảo nhất với 385,3 nghìn doanh nghiệp,

tương ứng với 74,4% [35].

Đến hết 31/12/2018, thống kê cả nước đã có 714.755 doanh nghiệp, tăng

9,2% so với cùng thời điểm năm 2017. Theo đó trong ba năm gần nhất thì mỗi

năm cả nước có thêm hơn 100.000 doanh nghiệp mới được thành lập, cao nhất

từ trước tới nay (năm 2016 có 110.100 doanh nghiệp mới, năm 2017 có 126.859

doanh nghiệp mới và năm 2018 có 131.275 doanh nghiệp mới thành lập) [3].

144

Trong 714.755 doanh nghiệp thì số lượng doanh nghiệp tư nhân chiếm tới

96,66%. Số lượng các DNVVN trong khu vực kinh tế tư nhân chiếm khoảng

98% còn lại là doanh nghiệp quy mô lớn, sử dụng tới 51% số lượng lao động

trong tổng khối doanh nghiệp nói chung và tạo ra 43% GDP cho nền kinh tế.

Khối DNVVN cũng đóng góp khoảng 30% ngân sách nhà nước [30].

Tổng kết sự phát triển nhanh của các DNVVN trong nền kinh tế Việt

Nam trong suốt thời gian qua có được là nhờ những nhân tố thúc đẩy cụ thể.

Theo đó, sự gia tăng nhanh về số lượng các DNVVN tỷ lệ thuận với tốc độ phát

triển kinh tế Việt Nam và phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ

nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ trong giai đoạn này. Tốc độ tăng

trưởng GDP bình quân qua các năm của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao ổn

định, đạt cao nhất ở mức 8,23% năm 2006 và 8,46% năm 2007, tuy sau đó do

ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên những năm 2008 và 2009

có sự sụt giảm nhẹ. Mặc dù vậy, mức tăng trưởng vẫn luôn duy trì ở mức trên

5%, thấp nhất đạt 5,32% vào năm 2009 và 5,03% vào năm 2012 do dư âm của

cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Từ năm 2015 trở đi, tốc độ tăng trưởng

GDP đều đạt trên 6%, năm 2018 và 2019 đều đạt trên 7%. Động lực phát triển

kinh tế trong thời gian này đóng góp chủ đạo nhờ khu vực công nghiệp và xây

dựng tăng trưởng mạnh. Đây cũng một phần lý giải cho nguyên nhân số lượng

DNVVN tăng mạnh trong giai đoạn này, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, thương mại và dịch vụ với số lượng

doanh nghiệp chiếm hơn 99% tổng số doanh nghiệp cả nước [36].

145

9.00

8.46

8.00

8.23

6.81

6.78

6.68

7.00

7.02

5.42

7.08

5.89

6.00

6.31

5.98

6.21

5.00

5.32

5.03

4.00

3.00

2.00

1.00

0.00

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Tốc độ tăng trưởng GDP (tỷ lệ: %)

Hình 4.1: Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam qua các năm

Nguồn: Tổng hợp dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê [36]

Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã có một số chính sách hỗ trợ kịp

thời đối với các DNVVN. Trong bối cảnh Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ

hội phát triển, và đặc biệt nền kinh tế đang hội nhập với Thế giới ngày càng sâu

rộng, để phát huy hiệu quả mọi nguồn lực, trong đó khối DNVVN được xem là

một trong những ưu tiên cần được hỗ trợ kịp thời và tháo bỏ các rào cản để phát

triển, ngày 12/06/2017, tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã

chính thức thông qua Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là một cơ sở

pháp lý quan trọng, mở ra một chương mới trong việc hỗ trợ các DNVVN phát

triển. Luật Hỗ trợ DNVVN gồm 4 chương với 36 điều và chính thức có hiệu

lực thi hành từ ngày 01/01/2018 [32].

Có thể thấy rằng, lần đầu tiên, các hoạt động hỗ trợ khối DNVVN được

quy định ở một văn bản pháp quy ở mức độ cao nhất. Đây cũng là tiền đề quan

trọng để giúp hiện thức hóa các chương trình, chính sách hỗ trợ cụ thể đến các

DNVVN trên phạm vi toàn quốc. Đến ngày 11/03/2018, Chính phủ tiếp tục ban

146

hành Nghị định số 39/2018/NĐ-CP quy định chi tiết hơn nữa một số điều của

Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa [9]. Quy định lần này được xem là có

nhiều sự cải thiện sát với tình hình thực tế so với Nghị định số 56/2009/NĐ-CP

được ban hành cách đó gần 10 năm. Ngoài ra, Nghị định đã cụ thể hóa các hỗ

trợ DNVVN chuyển đổi từ hộ kinh doanh (thông qua các hương dẫn về trình

tự, thủ tục, hồ sơ đăng ký), hỗ trợ DNVVN trong khởi nghiệp sáng tạo, tham

gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị khi sử dụng ngân sách nhà nước. Bên cạnh

đó, Nghị định cũng quy định cụ thể các nguyên tắc ưu tiên đối với đối tượng là

các DNVVN có sử dụng nhiều lao động nữ hoặc do phụ nữ làm chủ, các hoạt

động hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn viên, hỗ trợ

phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp bằng các chương trình đào tạo hoặc

hỗ trợ kinh phí đào tạo cho người lao động.

4.2. Sự tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đức

Có thể nói rằng, khi so sánh giữa Việt Nam và Đức, những điểm dễ nhận

thấy nhất là hai quốc gia này ở hai khu vực địa lý hoàn toàn khác nhau, có nhiều

sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, con người. Hai quốc gia cũng có thể chế

chính trị khác nhau, quy mô, sức mạnh và độ mở của nền kinh tế cũng khác

nhau. Theo đó, Cộng hòa Liên bang Đức là quốc gia có vị trí địa lý ở Trung

Âu, gồm có 16 bang với diện tích là 357.021 km² và quốc gia này theo chế độ

Cộng hòa nghị viện liên bang. Nền kinh tế Đức là nền kinh tế lớn thứ tư trên

thế giới và lớn nhất châu Âu với GDP đạt 3.947.620 USD năm 2018 và thu

nhập đầu người đạt 47.662 USD. Đây là một nước phát triển trên thế giới với

nền kinh tế thị trường xã hội có độ mở lớn, lực lượng lao động có trình độ cao,

mức độ sáng tạo cao và đặc biệt là tỷ lệ tham nhũng thấp. Còn Việt Nam là

nước có vị trí địa lý nằm tại Đông Nam Á, gồm có 63 đơn vị hành chính cấp

Tỉnh và tương đương, theo chế độ Xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản Việt

147

Nam lãnh đạo tuyệt đối. Việt Nam là một nước đang phát triển và đang trên đà

hội nhập nhanh với nền kinh tế toàn cầu. Theo đó, GDP Việt Nam năm 2018

đạt 245,215 triệu USD (đứng thứ 46 trên thế giới) và thu nhập bình quân đầu

người Việt Nam đạt 2.525 USD. So với Đức, nền kinh tế của Việt Nam nhỏ

hơn rất nhiều lần và lực lượng lao động có trình độ cao vẫn còn ở mức thấp

cũng như tình trạng quan liêu và vấn đề tham nhũng cũng là những rào cản của

Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế.

Bảng 4.3: Một số tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đức

Quốc gia Cộng hòa Xã hội Cộng hòa Liên bang

Tiêu chí Chủ nghĩa Việt Nam Đức

Vị trí địa lý Đông Nam Á Trung Âu

Diện tích 331.212 km² 357.021 km²

63 đơn vị hành chính cấp Phân cấp hành chính 16 bang Tỉnh và tương đương

Xã hội chủ nghĩa. Cộng hòa nghị viện liên Mô hình nhà nước Một đảng lãnh đạo bang

GDP (2018) 245,214 triệu USD 3.947,620 triệu USD

Dân số (2018) ~97 triệu người ~80,4 triệu người

Độ tuổi trung bình (2018) 32,5 tuổi 47,1 tuổi

Thu nhập đầu người (2018) 2.525 USD 47.662 USD

Số lượng doanh nghiệp 714.755 nghìn 3,81 triệu (2018)

Tỷ trọng DNVVN ~98% ~99,95%

Nguồn: tổng hợp theo số liệu của Ngân hàng Thế giới [167] [168]

Mặc dù vậy, bên cạnh những điểm khác biệt kể trên, giữa Việt Nam và

Đức vẫn tồn tại một số điểm tương đồng.

148

Thứ nhất, về mặt lịch sử, Việt Nam và Đức có sự giống nhau nhất định.

Từ năm 1986, với công cuộc “Đổi mới”, Việt nam chính thức thực hiện quá

trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Còn tại Đức, sự kiện Bức tường

Berlin sụp đổ và sự thống nhất nước Đức vào những năm 90 của Thế kỷ trước

đã làm cho nền kinh tế Đông Đức bắt đầu quá trình chuyển đổi sang nền kinh

tế thị trường. Sự phát triển kinh tế Đức nói chung và sự phát triển các DNVVN

ở vùng Đông Đức nói riêng sẽ có nhiều bài học mà Việt Nam có thể học tập.

Thứ hai, mô hình phát triển chủ yếu của Đức là mô hình nền kinh tế thị

trường xã hội, trong khi đó ở Việt nam là mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hai

mô hình này có những điểm khá tương đồng trong phát triển xã hội.

Thứ ba, nền kinh tế Đức là nền kinh tế năng động và hiệu quả, với độ mở

cửa lớn trong liên kết EU cũng như trong liên kết toàn cầu. Việt nam cũng là một

nước có độ mở cửa lớn, Việt nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh

tế toàn cầu và khu vực. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ với 230 nước trên thế

giới; trở thành thành viên chính thức của các thể chế đa phương trên mọi cấp độ,

như thể chế toàn cầu WTO, WB, WEF; liên khu vực như ASEM; khu vực như

ASEAN, APEC, ADB, AIIB… Đến nay ta đã thực hiện 11 FTA, và chuẩn bị ký

kết 6 FTA nữa. Trong đó có 2 FTA thế hệ mới là CPTPP (ký kết chính thức

tháng 12/2018) và EVFTA (ký kết chính thức cuối tháng 6/2019). Sự tương đồng

này có thể giúp Việt Nam học hỏi ở Đức trong việc mở rộng mạng lưới bạn hàng,

kích thích xuất khẩu của DNVVN trên phạm vi toàn cầu.

Thứ tư, Đức và Việt Nam đều có dân số đông, đạt lần lượt 80,4 triệu

người và 97 triệu người (năm 2018). Đây là một thuận lợi cho việc phát triển

thị trường trong nước của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Đức còn có một thị

trường khu vực với hơn 500 triệu người dân thuộc khu vực tự do Liên minh

châu Âu và Việt Nam cũng có một thị trường tiềm năng là khu vực các nước

149

ASEAN với hơn 600 triệu dân, hứa hẹn là một thị trường tiêu thụ mầu mỡ cho

các doanh nghiệp khai thác.

Thứ năm, giữa Đức và Việt nam có quan hệ hợp tác rất tốt đẹp từ trước

đến nay. Hai nước đã có quan hệ truyền thống phát triển từ những năm 1990.

Đến nay, quan hệ này đã phát triển ngày càng mạnh mẽ, Đức đã trở thành đối

tác kinh tế lớn nhất của Việt nam trong EU, trong EVFTA. Do vậy, Việt nam

có những cơ hội thuận lợi học tập tiếp thu một số kinh nghiệm trong phát triển

nền kinh tế Đức.

Có thể thấy rằng, đặc điểm về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội cũng

như những khác biệt nhất định về lịch sử, văn hóa là dễ nhận thấy nhất khi so

sánh giữa Việt Nam và Đức. Còn về sự tương đồng và khác biệt trong quá trình

phát triển DNVVN giữa hai quốc gia có thể nhận thấy ở Việt Nam, quá trình

này mới chỉ ở giai đoạn khởi đầu. Nghiên cứu về sự phát triển của DNVVN ở

Việt Nam trong những năm gần đây có thể thấy rằng, vai trò và tầm quan trọng

của các DNVVN trong nền kinh tế là không thể phủ nhận từ đóng góp vào tăng

trưởng GDP, đóng góp vào thu ngân sách nhà nước, đóng góp vào tỷ trọng xuất

khẩu cả nước cũng như giải quyết vấn đề về việc làm cho người lao động, giảm

tỷ lệ thất nghiệp, giữ vai trò ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt

là những khu vực vùng sâu, vùng xa mà các doanh nghiệp lớn bỏ ngỏ, giúp phát

huy các nguồn lực địa phương và góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh

tế. Số lượng các DNVVN ngày càng tăng và vị trí của khối doanh nghiệp này

trong nền kinh tế đã và đang được nhìn nhận một cách toàn diện, được đánh giá

đúng tiềm năng và thế mạnh để qua đó xây dựng các chương trình, chính sách

hỗ trợ đúng và kịp thời. So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa hai quốc gia

trong sự phát triển DNVVN có thể giúp chỉ ra nhiều bài học kinh nghiệm cho

Việt Nam. Cụ thể:

150

 Số lượng và chất lượng của DNVVN:

Mặc dù có sự chênh lệch về số lượng các doanh nghiệp nói chung trong

nền kinh tế khi mà Việt Nam mới chỉ có 714.755 doanh nghiệp (tính đến

31/12/2018), so với 3,81 triệu doanh nghiệp trong nền kinh tế Đức, nhưng tỷ lệ

các DNVVN trong nền kinh tế của cả hai nước đều chiếm rất cao, lần lượt đạt

khoảng 98% và 99,95%. Mặc dù vậy, so với Đức thì sự phát triển của khối

DNVVN ở Việt Nam mới chỉ là sự khởi đầu. Các DNVVN ở Việt Nam được

nhận xét là tuy đông nhưng chưa mạnh. Bằng chứng là các doanh nghiệp này

đa phần hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, số doanh nghiệp hoạt

động trong lĩnh vực công nghiệp, sản xuất là chưa nhiều. Về doanh thu có tới

53% số DNVVN có doanh thu hàng năm dưới 5 tỷ đồng (năm 2014). Các

DNVVN nói chung do nguồn lực còn hạn chế nên gặp nhiều khó khăn trong

việc tìm kiếm nguồn khách hàng, tiếp cận các nguồn vốn vay cũng như mặt

bằng kinh doanh. Ngoài ra, khó khăn trong tuyển dụng lao động và ứng biến

trước những biến động về kinh tế, xã hội cũng là những thách thức mà các

DNVVN ở Việt Nam phải đối mặt. Trên thực tế, số lượng doanh nghiệp tư nhân

tuy tăng hàng năm nhưng quy mô bình quân của mỗi doanh nghiệp là không

lớn. Ngoài ra, so với các nước trong khu vực và trên thế giới, tỷ lệ doanh nghiệp

nói chung trên dân số trung bình còn thấp. Theo đó, Việt Nam mới đạt tỷ lệ 140

người dân/doanh nghiệp còn các nước trong khu vực ASEAN đạt trung bình là

80 đến 100 người dân/doanh nghiệp. Ở Liên minh châu Âu (EU), tỷ lệ này chỉ

là 10-12 người dân/doanh nghiệp [48].

 Hệ thống pháp lý và cơ chế chính sách:

Tại Đức, Chính phủ là đầu mối tiên phong trong việc tạo ra một môi

trường kinh doanh minh bạch, công bằng, thông qua một hệ thống pháp lý hoàn

thiện với cơ chế chính sách tích cực, thông thoáng. Tất cả các đạo luật, chính

151

sách nhằm hỗ trợ các DNVVN đều được Chính phủ xây dựng dựa trên một tầm

nhìn dài hạn, nhất quán, gắn chặt với những định hướng, mục tiêu chung của

quốc gia, tránh ban hành các chính sách manh mún, tầm nhìn ngắn hạn, thừa

thãi. Bên cạnh đó, mặc dù là một quốc gia có sự minh bạch cao, nhưng Chính

phủ Đức không ngừng tiếp tục tìm kiếm và xóa bỏ tình trạng quan liêu trong

các cơ quan nhà nước, loại bỏ những quy tắc, điều kiện không cần thiết, các

gánh nặng về mặt thủ tục hành chính vốn kìm hãm sự phát triển của doanh

nghiệp. Tạo điều kiện cho các DNVVN tham gia vào thực hiện các hợp đồng

công. Có lộ trình xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử (e-Government),

tăng sự minh bạch và thuận tiện cho cả doanh nghiệp và Chính phủ.

Có thể nói rằng, để xây dựng được một khối DNVVN phát triển cần đảm

bảo rằng các doanh nghiệp đó được nuôi dưỡng trong một môi trường minh

bạch, công bằng, thông thoáng, thông qua những chương trình, chính sách hỗ

trợ tích cực từ Chính phủ. Mặc dù vậy tại Việt Nam, việc chưa hoàn thiện về

môi trường thể chế, chính sách pháp lý, tình trạng quan liêu, tham nhũng vặt

vẫn thường xuyên xảy ra đã tạo ra những rào cản vô hình, ngăn chặn sự phát

triển của các DNVVN trong nước. Ngày 16/5/2016, Thủ tướng Chính phủ đã

ký ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến

năm 2020. Theo đó, Chính phủ quyết liệt đổi mới môi trường kinh doanh cũng

như đặt ra những mục tiêu rất cụ thể: (1) phấn đấu đến 2020 cả nước có ít nhất

một triệu doanh nghiệp, (2) tăng cường sự đóng góp của doanh nghiệp nói

chung vào tăng trưởng kinh tế, (3) năng suất lao động tăng khoảng 5%, (4) giảm

chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp [10]. Tuy vậy, sự bất cập trong tình hình

thực tế vẫn còn tồn tại và đòi hỏi cần thời gian để các Nghị quyết trên triển khai

đạt kết quả.

152

Báo cáo PCI năm 2018 của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt

Nam (VCCI) cho thấy, mặc dù “tham nhũng lớn” có dấu hiệu giảm bớt nhưng

hiện tượng nhũng nhiễu và làm phát sinh các chi phí không cần thiết vẫn là vấn

đề nhức nhối. Theo đó, có 58,2% số doanh nghiệp cho rằng vẫn còn tồn tại tình

trạng tham nhũng vặt tại nhiều cơ quan nhà nước đặc biệt tại các địa phương

trong quá trình xử lý hồ sơ cho doanh nghiệp và 54,8% số doanh nghiệp vẫn

phải chi trả các chi phí không chính thức khác. Các cải cách về thủ tục hành

chính tuy có nhiều cải thiện nhưng vẫn cần phải tiếp tục giảm bớt các khâu thủ

tục giấy tờ không cần thiết, giảm gánh nặng cho doanh nghiệp. Trong năm 2018

có 30,7% doanh nghiệp phải dành hơn 10% quỹ thời gian để tìm hiểu và thực

hiện đúng và đủ các thủ tục giấy tờ theo quy định của Nhà nước [46]. Các thủ

tục đăng ký doanh nghiệp, gia nhập thị trường, đặc biệt là “hậu đăng ký doanh

nghiệp” vẫn là những rào cản lớn với doanh nghiệp. Theo đó, 15,8% doanh

nghiệp phải chờ hơn một tháng mới có đủ tất cả các giấy tờ cần thiết để doanh

nghiệp của mình đi vào hoạt động chính thức, và con số này có chiều hướng

tăng trong những năm trở lại đây. Có 34% doanh nghiệp gặp khó khăn trong

việc xin các giấy xác nhận đủ điều kiện kinh doanh các ngành nghề có điều

kiện, hay các thủ tục giấy tờ về chứng nhận phòng cháy chữa cháy và các giấy

tờ khác. Quá trình minh bạch thông tin vẫn chưa có nhiều cải thiện. Rất nhiều

doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn thông tin phục vụ

cho doanh nghiệp.

 Khả năng tiếp cận nguồn tài chính của DNVVN:

Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các DNVVN tháo gỡ

khó khăn về mặt tiếp cận các nguồn tài chính. Tại Đức, Ngân hàng Tái thiết

KfW đóng vai trò là đơn vị hỗ trợ tài chính truyền thống cho các DNVVN thông

qua quỹ “cho vay khởi nghiệp” được thiết kế dành riêng cho khối này. Bên

153

cạnh đó, Chính phủ Đức cũng ban hành Đạo luật thúc đẩy đầu tư mạo hiểm

khiến cho lĩnh vực đầu tư mạo hiểm ở Đức trở nên hấp dẫn hơn. Việc xây dựng

các chính sách nhằm tháo gỡ rào cản tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là

doanh nghiệp nhỏ mới thành lập ở Đức được đặc biệt quang tâm vì nó giúp các

doanh nghiệp có nhiều nguồn lực hơn để đảm bảo ổn định sản xuất, phục vụ

cho hoạt động đổi mới sáng tạo và phát triển. Trong khi đó tại Việt Nam, khả

năng tiếp cận nguồn tài chính/tín dụng của các DNVVN vẫn là một rào cản lớn,

cản trở sự phát triển.

Theo báo cáo của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI),

tỷ lệ tiếp cận vốn ngân hàng của các DNVVN thấp hơn đáng kể so với doanh

nghiệp lớn. Trung bình 40% doanh nghiệp siêu nhỏ, 62% doanh nghiệp nhỏ và

74% doanh nghiệp quy mô vừa có khoản vay ngân hàng trong khi con số này

ở doanh nghiệp lớn là 81% [45]. Mặc dù vậy, nguyên tắc hoạt động của các

ngân hàng nói chung là phải đảm bảo tính an toàn của khoản vay thông qua các

hoạt động kiểm soát rủi ro ngặt nghèo. Trong khi đó, các DNVVN ở Việt Nam

phần lớn là các doanh nghiệp có kích cỡ nhỏ và siêu nhỏ (ít lao động và vốn

chủ sở hữu nhỏ), năng lực và kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh

chưa nhiều, nhiều doanh nghiệp có cung cách làm việc chưa chuyên nghiệp,

vẫn thể hiện tư duy manh mún, thiếu sự minh bạch và năng lực quản trị chưa

cao, vì vậy ít tạo được niềm tin đối với các tổ chức tín dụng. Các yêu cầu cho

vay đến từ các ngân hàng thương mại cũng đòi hỏi những điều kiện khắt khe

như doanh nghiệp vay phải có tài sản bảo đảm hay năng lực tài chính tốt và dự

án sản xuất kinh doanh cần vay vốn phải có tính khả thi, mà điều này ở các

DNVVN thường rất khó đáp ứng. Chưa kể các DNVVN thường có thời gian

thành lập và hoạt động ngắn, trong khi tiêu chí của các ngân hàng cho vay là

doanh nghiệp đó đã phải có thời gian hoạt động từ hai đến ba năm trở lên và

phải có lợi nhuận trong suốt những năm đó [27]. Phần lớn các DNVVN phải

154

phụ thuộc nhiều vào tài sản ngắn hạn, dựa vào vốn tích tụ sau lợi nhuận và vốn

vay người thân. Việc khó tiếp cận các nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng

khiến cho DNVVN không có đủ nguồn lực để duy trì các hoạt động sản xuất

kinh doanh, thiếu vốn để triển khai các dự án mới cũng như các hoạt động đổi

mới công nghệ, ứng dụng công nghệ cao. Để tháo gỡ vấn đề này, Chính phủ đã

ban hành Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/03/2018 về việc thành lập, tổ

chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN [11], Nghị định số

39/2019/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển

doanh nghiệp nhỏ chính thức có hiệu lực từ 01/07/2019 [12]. Tuy vậy, vẫn cần

chờ thêm thời gian để thống kê kết quả của việc triển khai các chính sách trên

vào thực tiễn.

 Chất lượng nguồn nhân lực trong DNVVN:

Nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu tạo nên sự thành công của một doanh

nghiệp, đặc biệt là các DNVVN vốn ít nhân viên và hoạt động sản xuất thường

có tính chuyên môn hóa cao. Tại Đức, hệ thống đào nghề kép được xem là nền

tảng cung cấp nguồn nhân lực có tay nghề cho các doanh nghiệp, lý thuyết được

giảng dạy trong trường học và đào tạo thực tế diễn ra song song ở công ty.

Chính phủ Đức đặc biệt tập trung chú trọng đào tạo nghề và đây là yếu tố then

chốt giúp các DNVVN luôn duy trì được hoạt động sản xuất ổn định. Ở Đức,

đào tạo nghề trong các DNVVN chiếm tới 81,9% tổng lao động học nghề trong

nền kinh tế [109]. Còn tại Việt Nam, mặc dù nhận thức được tầm quan trọng

của chất lượng nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu

trong việc tạo nên thành công cho doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh mà “yếu

tố con người” đã được nhấn mạnh trong “Chiến lược Phát triển bền vững Việt

Nam giai đoạn 2011-2020” theo quyết định số 432/QĐ-Ttg của Thủ tướng

Chính phủ [49], nhưng các DNVVN với tính chất quy mô nhỏ, thiếu vốn, hoạt

155

động sản xuất còn manh mún, chưa bài bản nên việc đào tạo, nâng cao tay nghề

người lao động chưa thực sự được chú ý. Bên cạnh đó, chất lượng của người

lao động nói chung trong các doanh nghiệp còn thiếu và yếu, phần lớn chưa

đáp ứng được ngay nhu cầu của công việc khi được tuyển dụng. Theo đó, lao

động đã qua đào tạo ở các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động nhất là nông

nghiệp/lâm nghiệp/thủy sản và công nghiệp chế biến/chế tạo còn rất thấp, chỉ

đạt lần lượt 4,1% và 18,5%. Ở ngành xây dựng con số này cũng chỉ đạt 14%.

Các ngành nghề liên quan đến kỹ thuật-công nghệ hay cơ khí, điện tử, kỹ thuật

điện nguồn nhân lực qua đào tạo còn nhiều thiếu hụt [49]. Điều này khiến cho

các DNVVN ở Việt Nam nói chung có năng suất lao động và sức cạnh tranh

yếu hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn.

 Mở rộng thị trường, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu:

Các DNVVN ở Đức không ngừng mở rộng thị trường, tiếp cận các đối

tác tiềm năng mới cả trong và ngoài nước. Các Mittelstand cũng là nhà thầu

phụ cho các doanh nghiệp lớn toàn cầu trong việc gia công, cung cấp các trang

thiết bị, dụng cụ phục vụ cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp lớn. Việc

luôn tìm kiếm và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu giúp cho các DNVVN

ở Đức luôn ổn định sản xuất và đóng góp mạnh mẽ cho quá trình phát triển nền

kinh tế Đức. Về mặt Chính phủ, Đức cũng xây dựng một sáng kiến “Hoạt động

tích cực trên toàn thế giới” nhằm hỗ trợ các DNVVN. Đây là sự kết hợp của

một chương trình mười điểm, với mục tiêu trọng tâm là chính sách tự do hóa

thị trường trong các cuộc đàm phán thương mại thế giới hiện nay. Mục đích

của chương trình này là giúp tăng cường mạng lưới các Phòng thương mại Đức

trên toàn thế giới, hỗ trợ về mặt chính trị chuyên sâu hơn cho các công ty Đức

ở nước ngoài, hỗ trợ tối đa cho các hội chợ thương mại tổ chức ở nước ngoài

đặc biệt cho đối tượng là các DNVVN.

156

Tại Việt Nam, việc giúp các DNVVN có thể tham gia sâu vào chuỗi cung

ứng sản xuất của các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất

toàn cầu được xem là cơ hội nhưng cũng sẽ là thách thức vô cùng lớn đối với

các doanh nghiệp Việt Nam khi phải nhanh chóng nâng tầm và đáp ứng được

không chỉ là chất lượng mà còn là giá cả của các sản phẩm theo yêu cầu của

các đối tác. So với các nước trong khu vực, hiện tại chỉ có khoảng 21% DNVVN

Việt Nam đã và đang tham gia vào trong chuỗi giá trị toàn cầu, trong khi con

số này tại một số nước trong khu vực ASEAN là 46% [21]. Đặc biệt là các

doanh nghiệp Việt Nam chỉ tham gia ở các khâu đơn giản như lắp ráp, đóng gói

sản phẩm, những khâu không có giá trị cao trong chuỗi giá trị và thiếu tính bền

vững. Có thể nói, dư địa của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tham gia

vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là đối với các DNVVN là rất lớn khi Việt

Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế quốc tế, là điểm đến

của nhiều tập đoàn toàn cầu, của các doanh nghiệp FDI.

 Xây dựng nền tảng văn hóa doanh nghiệp, hỗ trợ đổi mới sáng tạo, hướng

tới cuộc CMCN 4.0:

Một trong những điểm đặc trưng trong việc phát triển các DNVVN ở

Đức là xã hội Đức có “văn hóa DNVVN riêng”. Các Mittelstand ở Đức chủ

yếu là các doanh nghiệp gia đình, đã tiếp nối qua nhiều thế hệ duy trì hoạt động

sản xuất và nền có văn hóa, bản sắc riêng. Đặc tính này giúp các Mittelstand có

thể giữ vững được những bí quyết kinh doanh riêng cũng như tinh thần, văn

hóa nền tảng được tiếp nối qua nhiều thế hệ của gia đình, giúp doanh nghiệp

giữ vững được phong độ ổn định và vị thế chắc chắn trên thị trường. Tình thần

kỷ luật cũng như tính trung thành của nhân viên rất cao. “Văn hóa DNVVN”

này được xem là đặc trưng được xây dựng trong suốt chiều dài lịch sử phát triển

DNVVN trong nền kinh tế Đức. Chính phủ Đức cũng coi đây như một giá trị

157

cốt lõi để xây dựng khối doanh nghiệp này ngày càng phát triển. Nhờ nội lực

mạnh mà các DNVVN ở Đức luôn tận dụng và nắm bắt thời cơ rất tốt, vươn

lên trở thành những nhà sản xuất hàng đầu thế giới. Có lẽ dù Chính phủ có triển

khai các gói hỗ trợ và kích thích DNVVN phát triển đến đâu mà nếu chính các

DNVVN không tận dụng được cơ hội đó để vươn lên nắm bắt thời cơ và bổ

sung những nguồn lực còn thiếu của mình để phát triển thì DNVVN ở Đức sẽ

không có được những thành tựu như thời gian vừa qua.

Trong khi đó tại Việt Nam, sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế

mới chỉ trong giai đoạn khởi đầu. Lực lượng DNVVN còn nhỏ, chưa tương

xứng với tiềm năng và vị thế của nền kinh tế. Các DNVVN hoạt động chưa

chuyên nghiệp, vẫn còn tư duy nhỏ, manh mún, thiếu kế hoạch dài hạn và sự

đầu tư bài bản cũng như kỹ năng lãnh đạo, quản lý của người đứng đầu chưa

thực sự chuyên nghiệp khiến cho Việt Nam chưa thể hình thành được một nền

tảng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân bài bản như Đức.

Trong hoạt động đổi mới sáng tạo, hướng tới cuộc CMCN 4.0, các

DNVVN ở Đức tuy còn tồn tại một số khó khăn những cũng đang là một trong

những quốc gia dẫn đầu. Khái niệm về Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã

được đề cập ở Đức từ năm 2012 và những năm gần đây, một loạt các sáng kiến,

chương trình hỗ trợ DNVVN được Chính phủ cấp vốn nhằm giúp khối doanh

nghiệp này triển khai hiệu quả quá trình đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và ứng

dụng các lĩnh vực công nghệ có tầm quan trọng chiến lược, phù hợp với xu thế

phát triển chung của cuộc Cách mạng công nghiêp 4.0, thông qua Chương trình

“Đổi mới sáng tạo trung ương dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ - ZIM” được

cấp ngân sách 548 triệu euro năm 2017 hay Chương trình “Đối mới DNVVN:

KMU-Innovativ”. Tại Đức, năm 2019, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp

158

trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông chiếm nhiều nhất, với 30,2%

tổng số doanh nghiệp mới của cả nước.

Tại Việt Nam, làn sóng khởi nghiệp cũng đang diễn ra mạnh mẽ. Đặc

biệt với mục tiêu hướng đến một triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2020

theo Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ, Việt Nam cần nhiều hỗ trợ hơn

nữa thông qua các chương trình, chính sách nhằm tạo ra một môi trường kinh

doanh pháp lý thống nhất, minh bạch và thực thi; môi trường chính sách thuận

lợi nhằm giảm các thủ tục hành chính, giảm tình trạng quan liêu trong cơ quan

nhà nước, giúp cải thiện niềm tin của người làm kinh doanh, tạo thuận lợi cho

việc gia nhập thị trường mới của các DNVVN. Theo đó, tỷ lệ người lo sợ thất

bại trong kinh doanh ở Việt Nam cũng tương đối cao (ở mức 46,6% năm 2017)

so với các quốc gia có cùng trình độ phát triển trong khu vực như Malaysia

(45%), cao hơn mức chung của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (40,4%).

Và tỷ lệ người từ bỏ kinh doanh ở Việt Nam năm 2017 được thống kê ở mức

18% (nghĩa là cứ 100 người tham gia vào khởi nghiệp thì sẽ có 18 người từ bỏ

kinh doanh). Theo đó, lý do lớn nhất khiến các hoạt động kinh doanh bị dừng

lại là gặp vấn đề về tài chính (chiếm 26,3%) [47].

Ngoài ra, vấn đề khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay hay

Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN chưa thể hiện hiệu quả cũng làm cản

trở quá trình đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp đang

hoạt động. Thực thế thấy rõ rằng, nếu doanh nghiệp không thích ứng nhanh và

tận dụng những nền tảng công nghệ hiện đại để đổi mới công nghệ và tối ưu

hóa sản xuất, đặc biệt là các DNVVN với sức cạnh tranh không đủ lớn trên thị

trường thì sẽ rất dễ bị tụt hậu lại phía sau và không thể tồn tại. Theo báo cáo

của VCCI năm 2015, các DNVVN ở Việt Nam vẫn đang sử dụng máy móc và

công nghệ lạc hậu từ hai đến ba thế hệ so với thế giới, trong đó 75% dây chuyền

159

công nghệ nhập từ nước ngoài thuộc thế hệ những năm 70 của thế kỷ XX. Chỉ

có khoảng 8% số DNVVN (chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

là đạt trình độ công nghệ tiên tiến [44]. Bên cạnh đó, việc thúc đẩy tinh thần

kinh doanh và đào tạo nguồn nhân lực được xem là những hỗ trợ cần thiết trong

việc giúp các DNVVN bắt kịp làn sóng đổi mới sáng tạo, hướng tới hội nhập

với cuộc CMCN 4.0.

Có thể nói rằng so với Đức thì sự phát triển của khối DNVVN ở Việt

Nam mới chỉ là sự khởi đầu. Nguồn lực về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực của

các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Năng lực quản lý doanh nghiệp chưa thực

sự chuyên nghiệp, vẫn còn tồn tại tâm lý manh mún, phát triển doanh nghiệp

chưa theo chiến lược dài hạn và đặc biệt khối DNVVN nói chung chưa hình

thành được một nền tảng văn hóa doanh nghiệp đủ mạnh và có bản sắc. Bên

cạnh đó, môi trường pháp lý và môi trường chính sách mặc dù có những cải

thiện nhưng vẫn chưa thực sự thông thoáng, tồn tại nhiều bất cập, là rào cản

cho các doanh nghiệp tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ. Sự cạnh tranh trên thị

trường ngày một khốc liệt khi mà Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền

kinh tế quốc tế, các DNVVN ở Việt Nam sẽ không chỉ phải cạnh tranh với

những doanh nghiệp trong nước mà đối thủ cạnh tranh sẽ là những doanh

nghiệp toàn cầu, và cạnh tranh ngay tại chính thị trường Việt Nam. Vai trò của

các Hiệp hội trung gian, các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp, Phòng Thương mại

và Công nghiệp Việt Nam tuy đã bước đầu phát huy được vai trò là người định

hướng, kết nối khối DNVVN với doanh nghiệp lớn, với thị trường nước ngoài,

tham gia vào chuỗi cung ứng, song vẫn cần nhiều hỗ trợ mang tính thực chất

hơn nữa. Những nhân tố cả chủ quan lẫn khách quan trên đang là những trở

ngại trong sự phát triển các DNVVN ở Việt Nam.

160

4.3. Một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

Từ nghiên cứu về kinh nghiệm sự phát triển của các DNVVN trong nền

kinh tế Đức, đánh giá thực trạng sự phát triển của các DNVVN ở Việt Nam

những năm gần đây cũng như thực tiễn chỉ ra trong quá trình so sánh giữa hai

quốc gia, Luận án rút ra một số khuyến nghị cho Việt Nam trong việc đề xuất

và triển khai các chương trình, chính sách hỗ trợ cho khối DNVVN phát triển

trong thời gian tới.

Thứ nhất, cần thống nhất về mặt nhận thức, tăng cường công tác thông

tin truyền thông:

Việt Nam cần nhất quán xác định rõ vị trí và vai trò của các DNVVN

trong nền kinh tế. Kinh nghiệm từ Đức cho thấy, trải qua nhiều biến động trong

chiều dài phát triển thì Đức nói riêng và Liên minh châu Âu nói chung luôn

nhất quán với việc xác định DNVVN là xương sống của nền kinh tế, đóng vai

trò then chốt trong việc giữ ổn định nền kinh tế xã hội thông qua những đóng

góp của khối này, không có sự phân biệt giữa DNVVN với doanh nghiệp lớn

và nhận thức về tầm quan trọng của DNVVN ngày càng tăng lên. Việc nhận

định đúng đắn và xuyên suốt này giúp cho những chính sách hỗ trợ từ phía

chính phủ luôn chính xác và đến đúng đối tượng, đảm bảo tính kế thừa qua

nhiều giai đoạn phát triển.

Tại Việt Nam, nhận thức về vị trí và vai trò của DNVVN bước đầu đã có

sự thay đổi, như trong Nghị quyết 10-NQ/TW cũng đã nhấn mạnh việc phải đối

xử công bằng, không phân biệt khu vực kinh thế nhà nước hay tư nhân hay việc

ban hành những Luật hỗ trợ riêng cho đối tượng là DNVVN đã thể hiện sự thay

đổi tư duy lớn ở phía các cơ quan quản lý nhà nước. Mặc dù vậy, nhận thức này

cần phải được thừa nhận và phổ biến rộng rãi trong toàn xã hội, đến chính các

doanh nghiệp và người dân nói chung trong thời gian tới nếu không DNVVN

161

sẽ khó có thể được đặt trong ưu tiên phát triển quốc gia, đặc biệt khi nền kinh

tế vốn đã và đang bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi sự ổn định và phát triển của các

doanh nghiệp lớn. Việc xác định được một quan điểm, tư tưởng rõ ràng sẽ giúp

nguồn lực trong nền kinh tế được phân bổ đồng đều hơn, nền kinh tế sẽ phát

triển với sự ổn định và tính bền vững cao hơn.

Để làm được điều này, công tác truyền thông đóng vai trò vô cùng quan

trọng. Truyền thông ở đây không chỉ hiểu đơn giản là qua các phương tiện

thông tin đại chúng mà còn là các Hiệp hội DNVVN, các Trung tâm hỗ trợ

DNVVN thuộc các tỉnh thành hay chính các cơ quan nhà nước phải chủ động

thiết lập kênh truyền thông trực tiếp đến doanh nghiệp và người dân, thông báo

về những thay đổi, chính sách mới được cập nhật. Sẽ rất khó cho doanh nghiệp

và người dân có thể tận dụng được các cơ hội khi mà họ không nắm được thông

tin gì về những nỗ lực thay đổi của Chính phủ hay những cơ hội từ hội nhập

quốc tế mà cả bộ máy Chính phủ đã dày công đạt được suốt thời gian qua. Theo

khảo sát của VCCI năm 2019 cho thấy, có đến 63% doanh nghiệp dân doanh

không biết hoặc lần đầu nghe về cộng đồng kinh tế ASEAN hay đến 77% con

số khảo sát lần đầu biết về Hiệp định Thương mại tự do EVFTA [26] trong khi

đó chỉ một năm sau, Hiệp định EVFTA đã được ký kết và có hiệu lực.

Thứ hai, phải thúc đẩy tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp; xây dựng được

nền văn hóa doanh nhân, doanh nghiệp mạnh mẽ ở Việt Nam:

Với mục tiêu sớm đạt được một triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả

trong nền kinh tế, Việt Nam cần kiến tạo nên một xã hội khởi nghiệp, một xã

hội mà tinh thần kinh doanh được cổ vũ và hỗ trợ kịp thời thông qua các chính

sách ưu đãi, các cơ chế đặc thù cho các doanh nghiệp trẻ, doanh nghiệp mới

thành lập, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực đổi mới sáng

tạo, phù hợp với xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới. Kinh nghiệm

từ sự phát triển của Đức cho thấy quốc gia này có khối DNVVN phát triển vì ở

162

đó xã hội luôn cổ vũ cho tinh thần khởi nghiệp, nền tảng văn hóa doanh nhân,

doanh nghiệp được xây dựng một cách bền vững, có tính kế thừa qua nhiều thế

hệ. Đây là những giá trị vô hình của doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh mà

Việt Nam đang phải hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Văn hóa doanh

nghiệp Việt Nam tương tự cần phải được xây dựng dựa trên nền tảng truyền

thống tốt đẹp của dân tộc như lao động nhiệt huyết sáng tạo, trọng chữ tín, xây

dựng đoàn kết, tôn trọng luật pháp quốc tế. Người doanh nhân phải năng động,

sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, ứng xử chuyên nghiệp và quan trọng nhất phải

có đạo đức và thượng tôn pháp luật.

Ngoài ra, để thúc đẩy tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp, Việt Nam phải

hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia, trong đó phát triển mô hình “Vườn

ươm khởi nghiệp” ngay từ trong các trường đại học giúp sinh viên tiếp cận

được văn hóa khởi nghiệp từ sớm. Bên cạnh đó, phải hoàn thiện hành lang pháp

lý cho các hoạt động đầu tư mạo hiểm vốn còn bỏ ngỏ tại Việt Nam. Đây được

xem là một kênh huy động nguồn lực từ xã hội hiệu quả, kết nối trực tiếp những

ý tưởng kinh doanh với các nhà đầu tư trên thị trường, đặc biệt phù hợp cho các

doanh nghiệp có mô hình hoạt động đổi mới sáng tạo hoặc có ý tưởng đột phá.

Thứ ba, xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi, xóa bỏ nạn quan liêu:

Đây là một nội dung rộng và Việt Nam đã nhận thức được vấn đề này từ

rất sớm. Để có được một khối DNVVN phát triển trong nền kinh tế thì trước

hết khối doanh nghiệp đó phải được nuôi dưỡng trong một môi trường có các

yếu tố hỗ trợ thuận lợi. Chính phủ phải là đầu mối tiên phong trong việc tạo ra

một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, thông qua một hệ thống

pháp lý hoàn thiện với cơ chế chính sách tích cực, thông thoáng.

Theo đó, cải cách thủ tục hành chính tiếp tục phải là mục tiêu quan trọng

thực hiện. Nghiên cứu áp dụng nguyên tắc “một vào, một ra: nếu một Bộ muốn

163

ban hành một quy tắc mới áp dụng đối với các doanh nghiệp thì trước hết phải

xóa bỏ đi một quy tắc cũ”. Bên cạnh đó, loại bỏ tối đa những tiêu cực phát sinh

trong quá trình xử lý hồ sơ, giấy tờ của doanh nghiệp thông qua việc tăng cường

thực thi pháp luật, kỷ luật đối với cán bộ, công chức khi để xảy ra vi phạm.

Kiên quyết thực hiện cơ chế một cửa, áp dụng tối đa công nghệ thông tin vào

quản lý và giải quyết các thủ tục hành chính, giảm thiểu tối đa tình trạng ”xin-

cho”, giảm đến mức thấp nhất các loại thuế phí cho doanh nghiệp. Bỏ thế độc

quyền của Nhà nước trong những lĩnh vực không thực sự cần thiết vì điều này

sẽ hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. Tạo điều kiện thuận lợi cho

các DNVVN được tham gia vào các hợp đồng đầu tư công. Tiếp tục thực hiện

hiệu quả việc đánh giá Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Cần phê bình

kịp thời các đơn vị nằm trong danh sách 10 tỉnh, thành có chỉ số PCI thấp nhất

trong ba năm liên tiếp mà không có cải thiện.

Thứ tư, đổi mới chính sách tín dụng theo hướng tạo điều kiện thuận lợi

nhất cho các DNVVN dễ dàng tiếp cận:

Về phía Nhà nước, cần tạo điều kiện tốt hơn cho hoạt động Quỹ bảo lãnh

tín dụng DNVVN ở các địa phương, vì đây được xem là chìa khóa giúp tháo

gỡ rào cản tiếp cận nguồn vốn vay cho các doanh nghiệp. Hiện sau gần 20 năm

triển khai, cả nước mới có 28 tỉnh, thành phố thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng

và 90% nguồn vốn (tương đương với 1.450,6 tỷ đồng) là vẫn do Nhà nước hỗ

trợ [1]. Đây là con số khiêm tốn so với hơn bảy trăm nghìn DNVVN đang hoạt

động trong nền kinh tế. Ngoài ra, cơ cấu cán bộ quản lý Quỹ vẫn chủ yếu là cán

bộ kiêm nhiệm thuộc Ủy ban Nhân dân Tỉnh, thuộc các Sở ngành như hiện nay

cũng cần nghiên cứu kỹ vì các hoạt động của Quỹ cần rất nhiều thời gian cũng

như tính chuyên môn hóa cao. Đề xuất Chính phủ nghiên cứu, cho phép bổ

sung thêm mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng do các Hiệp hội/tổ chức tư nhân

164

trong nước thành lập, vốn hoạt động do các thành viên tự đóng góp hoặc kêu

gọi tài trợ với mục tiêu phi lợi nhuận. Điều này sẽ giúp tăng thêm cơ hội tiếp

cận nguồn tín dụng cho doanh nghiệp cũng như huy động được tối đa các nguồn

lực trong xã hội. Mặc dù vậy, việc thực hiện phải đảm bảo sự minh bạch, khách

quan trên tinh thần xem xét cấp bảo lãnh tín dụng theo đúng quy định, mang lại

quyền lợi cho doanh nghiệp nhưng phải đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân

hàng. Bên cạnh đó, thường xuyên rà soát tính hiệu quả các khoản vay để kịp

thời tháo gỡ khó khăn trong quá trình thực hiện.

Đối với ngân hàng Nhà nước là đơn vị đóng vai trò điều tiết, hỗ trợ các

tổ chức tín dụng triển khai các chương trình hỗ trợ tín dụng theo đúng quy định,

cần ưu tiên những lĩnh vực sản xuất kinh doanh đóng vai trò là mũi nhọn phát

triển kinh tế-xã hội địa phương trong tùy từng thời kỳ. Đối với chính quyền địa

phương, cần đẩy nhanh quá trình cải cách thủ tục hành chính, đảm bảo linh

hoạt, hỗ trợ tối đa trong việc xử lý hồ sơ, giấy tờ cho doanh nghiệp, tạo điều

kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng hoàn thiện hồ sơ thủ tục vay vốn.

Thứ năm, hỗ trợ tích cực các DNVVN trong đào tạo nguồn nhân lực:

Về phía Nhà nước, phải thực hiện đa dạng các chương trình hỗ trợ giúp

đào tạo nguồn nhân lực cho DNVVN thông qua tổ chức các khóa đào tạo (hỗ

trợ ngân sách tối thiểu 50%). Tuy nhiên, cần thường xuyên kiểm tra, rà soát và

đánh giá lại các chương trình triển khai để đo lường mức độ hiệu quả thực hiện

của dự án. Bên cạnh đó, tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa: Nhà nước

– Nhà trường – Nhà doanh nghiệp. Trong đó phải thúc đẩy gắn kết giữa cơ sở

dạy nghề với doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề sát với thực

tế. Cần chuyển mô hình dạy nghề từ hướng “cung” sang hướng “cầu” của thị

trường, đào tạo theo “đơn đặt hàng”, theo nhu cầu của doanh nghiệp. Từ kinh

nghiệm của Đức, cần áp dụng một cách linh hoạt “hệ thống đào tạo nghề kép”,

165

theo đó lý thuyết được giảng dạy trong trường học và đào tạo thực tế diễn ra

song song ở công ty, tăng cường thời gian thực tập, thực hành trong thực tế.

Về phía doanh nghiệp, chủ các doanh nghiệp cần phải tự nhận thức được

vai trò của người chủ trong việc phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp

mình. Xây dựng chính sách thu hút lao động có tay nghề cao song song với việc

thường xuyên rà soát, đánh giá nguồn nhân lực nội bộ để đào tạo, nâng cao tay

nghề lao động sẵn có. Bên cạnh đó, cần tích cực liên kết với các cơ sở đào tạo

nghề, xây dựng chương trình học, tham gia trực tiếp vào công tác giảng dạy để

giúp đào tạo được nguồn nhân lực phù hợp, đáp ứng được ngay nhu cầu làm

việc thực tế sau khi tốt nghiệp.

Thứ sáu, xây dựng chính sách hỗ trợ DNVVN xuất khẩu, tham gia sâu

vào chuỗi giá trị toàn cầu, phát huy tối đa vai trò các hiệp hội doanh nghiệp:

Các DNVVN Việt Nam có thể sẽ bỏ lỡ cơ hội vô cùng lớn trong việc

phát triển trở thành đối tác của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cũng như

tham gia sâu vào chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu. Việt Nam đang từng bước

hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thông qua rất nhiều các Hiệp định

thương mại tự do song phương và đa phương. Thực tế chỉ ra rằng chúng ta

không thể phát triển nếu đứng ngoài cuộc chơi, không thể tồn tại nếu không tự

gắn mình với chuỗi giá trị toàn cầu và các DNVVN cũng không phải ngoại lệ.

Để giải quyết bài toán này, đối với các doanh nghiệp cần tự nâng tầm mình lên

ngang hàng với chuẩn mực chung của khu vực và thế giới. Đối với các hộ kinh

doanh cá thể cần tự cân nhắc để chuyển đổi sang mô hình hoạt động doanh

nghiệp, hướng tới sự chuyên nghiệp và minh bạch. Đây cũng là điều kiện tiên

quyết để các doanh nghiệp có thể hội nhập. Hiện cả nước có hơn 5,6 triệu hộ

kinh doanh cá thể, gấp nhiều lần số lượng doanh nghiệp trong nền kinh tế [29].

Nếu khuyến khích được các hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi thành công thì số

166

lượng doanh nghiệp hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế sẽ tăng lên rõ rệt.

Mặc dù vậy, con số chuyển đổi vẫn là rất khiêm tốn. Rào cản lớn nhất của các

hộ kinh doanh khi chuyển đổi chính là tâm lý lo ngại sự phức tạp về hồ sơ thủ

tục cũng như những vấn đề hành chính rườm rà phải thực hiện sau này với tư

cách là doanh nghiệp và bản thân các chủ hộ cũng chưa nhận thức được những

lợi ích mang lại [43]. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng phải tích cực đổi

mới sáng tạo, chịu khó tìm tòi và ứng dụng các công nghệ mới, mô hình tiến

tiến hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng yêu cầu ngày càng

cao của các chuỗi giá trị toàn cầu. Ngoài ra Nhà nước cần thường xuyên tổ chức

các “Hội chợ thương mại” ở trong và ngoài nước nhằm kết nối các DNVVN

Việt Nam với các công ty đa quốc gia trong phát triển chuỗi cung ứng sản xuất,

đồng thời nâng cao vai trò các đơn vị trung gian như các Hiệp hội doanh nghiệp

nhằm kết nối DNVVN trong nước với các doanh nghiệp FDI đang sản xuất tại

Việt Nam. Hiệp hội doanh nghiệp phải đóng vai trò là trung tâm cung cấp thông

tin và định hướng cho doanh nghiệp phát triển đúng lộ trình.

Thứ bảy, về phía các doanh nghiệp, cần chủ động nâng cao nguồn lực

của mình về vốn, công nghệ, trình độ đào tạo, quản lý. Đặc biệt các DNVVN

cần tự đổi mới, áp dụng các mô hình hoạt động mới, tinh gọn bộ máy, nâng cao

năng lực quản trị doanh nghiệp hiệu quả, hướng tới sự minh bạch, chuyên

nghiệp, thường xuyên rà soát, đánh giá tình hình tài chính công ty (khả năng

sinh lời, khả năng thanh toán, hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh).

Doanh nghiệp cần nhanh chóng khắc phục những hạn chế trong quá trình hoạt

động, sử dụng mọi nguồn lực một cách hiệu quả. Đạt được những điều trên,

niềm tin của doanh nghiệp với ngân hàng sẽ được chứng minh và xây dựng.

Khi mọi hoạt động minh bạch, rõ ràng sẽ giúp quá trình thẩm định hồ sơ doanh

nghiệp được rút ngắn và việc ra quyết định cho vay vốn từ ngân hàng sẽ dễ

dàng hơn.

167

KẾT LUẬN

Trên cơ sở làm rõ những nội dung về khái niệm DNVVN, đưa đến một

định nghĩa chung mang tính thống nhất, song song với việc nghiên cứu những

lý thuyết về phát triển doanh nghiệp đã và đang được các quốc gia áp dụng

trong quá trình triển khai các chính sách, chương trình nhằm phát triển khối

doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng, luận án đã hình thành một trình

tự phân tích dựa vào việc làm rõ hơn những đặc điểm và nội dung về sự phát

triển DNVVN, cũng như những nhân tố tác động cả bên trong (nguồn lực doanh

nghiệp, năng lực quản lý doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp, chiến lược phát

triển doanh nghiệp) và bên ngoài (môi trường pháp lý, môi trường chính sách,

vai trò của các Hiệp hội, bối cảnh kinh tế toàn cầu), luận án đã phân tích thực

trạng sự phát triển của DNVVN qua từng mốc giai đoạn biến động của nền kinh

tế Đức, trước và sau những năm 2000. Qua những giai đoạn đó, vị trí và vai trò

của DNVVN ở Đức càng được khẳng định và nâng cao.

Trước những năm 2000, DNVVN ở Đức đóng vai trò quan trọng trong

việc giúp ổn định nền kinh tế - xã hội quốc gia hậu thống nhất, đặc biệt khôi

phục và phát triển nền kinh tế Đông Đức khi mà các doanh nghiệp lớn được

thành lập trong nền kinh tế kế hoạch trước đây bị giải thể hoặc bị tách ra và tư

nhân hóa. Phân tích sự phát triển của DNVVN ở Đức được luận án đặc biệt chú

trọng từ sau những năm 2000. Cụ thể, luận án phân tích sự phát triển qua ba

mốc giai đoạn của nền kinh tế Đức: từ đầu những năm 2000 (dưới thời Thủ

tướng Gerhard Schröder), khi mà nền kinh tế đứng trước cuộc khủng hoảng lao

động và hệ thống phúc lợi xã hội Đức gặp nhiều khó khăn; Giai đoạn khủng

hoảng kinh tế Thế giới 2008, nền kinh tế Đức nói riêng và kinh tế toàn cầu nói

chung chịu tác động mạnh mẽ và giai đoạn những năm gần đây khi cuộc Cách

168

mạng công nghiệp 4.0 đã và đang lan tỏa sâu rộng đến mọi mặt của nền kinh

tế, đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng chuyển đổi.

Sau mỗi cuộc khủng hoảng, vai trò và vị trí của các DNVVN ở Đức càng

được củng cố và khẳng định, được xem là xương sống, là bệ đỡ của nền kinh

tế, giúp nền kinh tế Đức tránh lụt sâu vào khủng hoảng, ổn định tình hình kinh

tế - xã hội và phát triển trở lại. Các DNVVN luôn chứng minh được vai trò của

mình trong việc tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế; Thúc

đẩy kinh tế tăng trưởng (đóng góp vào GDP, giá trị xuất nhập khẩu); Phát huy

các nguồn lực còn hạn chế trong nền kinh tế và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo

ra nền kinh tế linh hoạt, cạnh tranh hơn. DNVVN ở Đức qua các mốc giai đoạn

được luận án tổng hợp và đánh giá ưu điểm/ mặt hạn chế trong quá trình phát

triển, từ đó đúc rút ra được những đặc điểm chung, mang tính quy luật trong

quá trình phát triển DNVVN, làm bài học cho các quốc gia đi sau.

Tại Việt Nam, sự phát triển của DNVVN mới chỉ ở giai đoạn khởi đầu,

dấu mốc chính từ năm 1986 trở lại đây khi công cuộc “Đổi mới” diễn ra sau

Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặc dù đạt được một số thành

tựu nhất định nhưng quá trình phát triển DNVVN trong nền kinh tế vẫn còn tồn

tại nhiều hạn chế. Xuất phát từ kinh nghiệm phát triển DNVVN tại Đức, luận

án đã tiến hành so sánh những tương đồng và khác biệt giữa hai quốc gia, từ

điều kiện kinh tế - xã hội đến thực trạng quá trình triển khai các chương trình,

chính sách hỗ trợ doanh nghiệp của mỗi nước, cũng như phân tích so sánh nội

lực của khối DNVVN hai quốc gia. Từ những kinh nghiệm thành công, những

đặc điểm chung mang tính quy luật rút ra trong quá trình phát triển DNVVN ở

Đức cùng những đúc rút qua phân tích thực trạng phát triển DNVVN ở Việt

Nam, những tồn tại, vấn đề còn hạn chế, luận án đã rút ra những bài học kinh

169

nghiệm, gợi mở chính sách cho Việt Nam có thể áp dụng cho quá trình phát

triển DNVVN trong nền kinh tế.

Mặc dù vậy, trong quá trình nghiên cứu, luận án cũng gặp một số hạn

chế nhất định trong việc tiếp cận các nguồn tại liệu, đặc biệt là chưa có đủ điều

kiện để tiếp cận với các nhà hoạch định chính sách trong các cơ quan, tổ chức

tại Đức cũng như chưa có điều kiện để nghiên cứu một số trường hợp thành

công cụ thể là các Mittelstand – các DNVVN tại Đức trong quá trình điều hành

và phát triển doanh nghiệp để có những kết luận và bài học kinh nghiệm thực

tiễn hơn. Tuy vậy, những hạn chế trong luận án cũng là hướng mở ra cho những

nghiên cứu tiếp theo về chủ đề này của tác giả để có thể nhìn nhận rõ hơn về

sự phát triển của DNVVN trong nền kinh tế Đức dưới góc nhìn của nhà hoạch

định chính sách, người chủ doanh nghiệp và chính những người lao động trong

xã hội Đức.

170

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Tran Dinh Hung (2019) “Current situation and solutions for small

and medium-sized enterprises development in Vietnam”, European Studies

Review – 2019.

2. Trần Đình Hưng (2020) “Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đức

những năm gần đây”. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu – số 05, 2020.

171

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu Tiếng Việt:

1. Minh Anh (2020), “Địa phương cần tăng nguồn lực cho quỹ bảo lãnh

tín dụng”, Thời báo tài chính Việt Nam [online] Xem tại:

http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2020-03-08/dia-

phuong-can-tang-nguon-luc-cho-quy-bao-lanh-tin-dung-83480.aspx [Truy cập

ngày 03 tháng 12 năm 2020].

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2017), Sách trắng doanh nghiệp nhỏ và vừa

Việt Nam 2017, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam

2019, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

4. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1998), Công

văn của Chính phủ số 681/CP-KTN ngày 20 tháng 06 năm 1998 về việc định

hướng chiến lược và chính sách phát triển các doah nghiệp vừa và nhỏ, [online]

Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/cong-van/Doanh-nghiep/Cong-van-681-

CP-KTN-dinh-huong-chien-luoc-va-chinh-sach-phat-trien-cac-doanh-nghiep-

vua-va-nho/41746/ noi-dung.aspx [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].

5. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2001), Nghị

định của Chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp

phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại:

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/doanh-nghiep/Nghi-dinh-90-2001-ND-

CP-tro-giup-phat-trien-doanh-nghiep-nho-va-vua-48600.aspx [Truy cập 15

tháng 05 năm 2019].

172

6. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị

định về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại:

http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_

id=1&_page=1&mode=detail&document_id=88612 [Truy cập 15 tháng 05

năm 2019].

7. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị

định của Chính phủ số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 Về trợ giúp phát triển

doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/van-

ban/Doanh-nghiep/Nghi-dinh-56-2009-ND-CP-tro-giup-phat-trien-doanh-

nghiep-nho-vua-90635.aspx [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].

8. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị

định của Chính phủ số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/03/2018 Quy định chi tiết một

số điều luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại:

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Doanh-nghiep/Nghi-dinh-39-2018-ND-

CP-huong-dan-Luat-Ho-tro-doanh-nghiep-nho-va-vua-366561.aspx [Truy cập

15 tháng 05 năm 2019].

9. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị

định Quy định chi tiết một số điều của luật hỗ trợ doanh nhgiệp nhỏ và vừa.

[online] Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/doanh-nghiep/Nghi-

dinh-39-2018-ND-CP-huong-dan -Luat-Ho-tro-doanh-nghiep-nho-va-vua-

366561.aspx [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].

10. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị

quyết về Hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, [online] Xem tại:

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/doanh-nghiep/Nghi-quyet-35-NQ-CP-ho-

tro-phat-trien-doanh-nghiep-2020-2016-311331.aspx [Truy cập 15 tháng 03

năm 2020].

173

11. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị

định về việc Thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho

doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/van-

ban/doanh-nghiep/Nghi-dinh-34-2018-ND-CP-to-chuc-hoat-dong-Quy-bao-

lanh-tin-dung-cho-doanh-nghiep-nho-va-vua-378399.aspx [Truy cập 15 tháng

03 năm 2020].

12. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2018), Nghị

định về Tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa,

[online] Xem tại: https://luatvietnam.vn/doanh-nghiep/nghi-dinh-39-2019-nd-

cp-ve-quy-phat-trien-doanh-nghiep-nho-va-vua-172694-d1.html [Truy cập 15

tháng 03 năm 2020].

13. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2001), Nghị

định của Chính phủ 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 Về trợ giúp phát triển

doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại: https://thuvienphapluat.vn/van-

ban/Doanh-nghiep/Nghi-dinh-90-2001-ND-CP-tro-giup-phat-trien-doanh-

nghiep-nho-va-vua-48600.aspx [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].

14. Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương (2020), Giai đoạn 1986-

2006, [online] Xem tại: http://moit.gov.vn/web/guest/lanh-dao-bo, [Truy cập

15 tháng 05 năm 2019].

15. Công ty Tài chính Quốc tế IFC (2017), Doanh nghiệp do phụ nữ làm

chủ tại Việt Nam: Nhận thức và Tiềm năng, Ngân hàng Thế giới, Thủ đô

Washington.

16. Vũ Hùng Cường (2016), Kinh tế tư nhân - Một động lực cơ bản cho

phát triển, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

174

17. Nguyễn Như Đến (2007), “Những định hướng phát triển doanh

nghiệp vừa và nhỏ của EU hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, 2007, số

02.

18. Đặng Minh Đức (2003), “Chính sách về doanh nghiệp vừa và nhỏ

giai đoạn 2001-2005 ở Liên minh châu Âu”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, 2003,

số 02.

19. Phạm Xuân Giang (2009), “Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong

tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”. Tạp chí Công nghiệp, 2009.

20. Phạm Thái Hà (2018), “Chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ

và vừa ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, 2018,

số 675

21. Thy Hằng (2018), Doanh nghiệp Việt trong chuỗi giá trị toàn cầu,

Tạp chí Diễn đàn doanh nghiệp, [online] Xem tại: https://enternews.vn/doanh-

nghiep-viet-trong-chuoi-gia-tri-toan-cau-136028.html, [Truy cập 15 tháng 05

năm 2019].

22. Hội đồng Lý luận Trung ương (2017), Phát triển doanh nghiệp nhỏ

và vừa: Kinh nghiệm Việt Nam và Đức, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự

thật, Hà Nội: 2017.

23. Nguyễn Đình Hương (2002), Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa

và nhỏ ở Việt Nam, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

24. Trần Thị Thu Huyền (2016), “Các hình thức trợ cấp Nhà nước đối

với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Liên minh châu Âu”, Tạp chí Nghiên cứu châu

Âu, 2016, số 10

175

25. Lương Văn Khôi (2003), “Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa: khái

niệm, đặc điểm, hạn chế và lựa chọn chính sách”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo,

số 03/2003

26. Vũ Tiến Lộc (2019). Hơn 70% doanh nghiệp dân doanh Việt Nam

“mù thông tin” về CPTPP và EVFTA, [online] Xem tại:

https://dantri.com.vn/kinh-doanh/chu-tich-vcci-hon-70-doanh-nghiep-viet-

lan-dau-nghe-den-evfta-20190626092529415.htm [Truy cập 15 tháng 12 năm

2020].

27. Trần Thị Lương (2019), Nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng ngân

hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tạp chí Tài chính, [online] Xem tại:

http://tapchitaichinh.vn/ngan-hang/nang-cao-kha-nang-tiep-can-tin-dung-

ngan-hang-cua-doanh-nghiep-nho-va-vua-306222.html, [Truy cập 15 tháng 05

năm 2019].

28. Nguyễn Đức Minh (2016), Khuôn khổ pháp lý của Liên minh châu

Âu về trợ cấp nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa và gợi mở chính sách

cho Việt Nam , Đề tài cấp Bộ, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.

29. Hàn Ni (2019), Thất thu thuế khoán. Bài 1: Hộ kinh doanh: đông

nhất, nộp thuế ít nhất, Sài Gòn Giải phóng online, TP. Hồ Chí Minh.

30. Nguyễn Minh Phong và Nguyễn Trần Minh Trí (2019), Tạo động lực

thể chế cho phát triển cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tạp chí Ngân hàng,

Số đặc biệt, 2019.

31. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1999), Luật

doanh nghiệp số 13/1999/QH10 ngày 12 tháng 06 năm 1999, [online] Xem tại:

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/doanh-nghiep/Luat-Doanh-nghiep-1999-

13-1999-QH10-45375.aspx [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].

176

32. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật

hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, [online] Xem tại:

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/doanh-nghiep/Luat-Ho-tro-doanh-nghiep-

nho-va-vua-2017-320905.aspx [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].

33. Nguyễn Thúy Quỳnh (2018), “Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa

với tăng trưởng kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị

Thế giới, 2019.

34. Tổng Cục Thống Kê (2017), Kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2017.

Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

35. Tổng cục Thống kê (2018), Thông cáo báo chí Kết quả chính thức

Tổng điều tra Kinh tế năm 2017, [online] Xem

tại:https://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=382&idmid =&ItemID

=18945, [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].

36. Tổng cục thống kê (n.d), Thông cáo báo chí tình hình kinh tế xã hội,

[online] Xem tại: http://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=512, [Truy cập

15 tháng 05 năm 2019].

37. Tô Thị Thùy Trang (n.d), Một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ

và vừa phát triển trong nền kinh tế hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Phát triển,

[online] Xem tại:

http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn/c/document_library/get_file?

uuid=40c42031-316e-4dc9-aa8f-21feb30b8843&groupId=13025 [Truy cập 15

tháng 05 năm 2019].

38. Hoàng Xuân Trung (2016), “Trợ cấp Nhà nước đối với doanh nghiệp

nhỏ và vừa ở Pháp, Đức và gợi mở kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên

cứu châu Âu, 2016, số 08.

177

39. Đinh Mạnh Tuấn (2013), “Chính sách của EU đối với doanh nghiệp

vừa và nhỏ nhằm ứng phó khủng hoảng và suy thoái”, Tạp chí Nghiên cứu châu

Âu, 2013, số 10.

40. Đinh Mạnh Tuấn (2014), Chính sách của EU đối với các doanh

nghiệp vừa và nhỏ từ năm 2000 đến nay, Tiến sĩ kinh tế, Học viện Khoa học

Xã hội.

41. Đinh Mạnh Tuấn (2018), Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: cơ hội,

thách thức đối với khởi sự doanh nghiệp và doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Liên

minh Châu Âu, Hội thảo Khoa học Quốc Gia: Khởi nghiệp và đổi mới trong

kinh doanh, Hà Nội.

42. Trần Quang Tuyến và Vũ Văn Hưởng (2018), Tác động hỗ trợ chính

phủ đến hoạt động cải tiến của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Tạp

chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, 34(4).

43. Tố Uyên (2019), Nan giải việc chuyển hộ kinh doanh lên doanh

nghiệp, Thời báo Tài chính Việt Nam, Hà Nội.

44. VCCI (2015). Doanh nghiệp nhỏ đổi mới công nghệ: Khó đủ đường,

Bộ Kế hoạch Đầu tư, [online] Xem tại: https://baodauthau.vn/doanh-

nghiep/doanh-nghiep-nho-doi-moi-cong-nghe-kho-du-duong-85758.html,

[Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].

45. VCCI (2016), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam

2015, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hà Nội, 2016.

46. VCCI (2018), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của việt Nam

2018, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hà Nội, 2018.

178

47. VCCI (2019), Báo cáo Chỉ số khởi nghiệp Việt Nam 2017/2018, Nhà

xuất bản Thanh Niên, Hà Nội.

48. VCCI (2019), VBF 2019: Cộng đồng doanh nghiệp là động lực cho

tăng trưởng, [online] Xem tại:http://www.trungtamwto.vn/hiep-dinh-

khac/13446-vbf-2019-cong-dong-doanh-nghiep-la-dong-luc-cho-tang-truong,

[Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].

49. Viện Năng suất Việt Nam (2018), Báo cáo Năng suất Việt Nam 2017,

Viện Năng suất Việt Nam, Hà Nội. [online] Xem tại: http://vnpi.vn/bao-cao-

nang-suat-viet-nam-2017.htm. [Truy cập 15 tháng 05 năm 2019].

II. Tài liệu Tiếng Anh:

50. 3i European Enterprise Center (1994), Report 12: Winners and

Losers in the 1990s.

51. Adizes, I. (1989), Corporate lifecycles: How and why corporations

grow and die and what to do about it, Prentice Hall, Englewood Cliffs, NJ.

52. Alan Earls (2015), From Germany to the World: Industry 4.0.

Available at: https://www.smartindustry.com/blog/smart-industry-

connect/from-germany-to-the-world-industry-4-0/, [Accessed 10 Feb. 2020].

53. Albert Over, Jurgen Henkel (2013), SME Promotion and

Development in Germany: The Role of Business Membership Organizations,

[online] New Delhi: Sequa gGmbH. Available at:

https://www.giz.de/de/downloads/giz2013-en-sme-promotion-and-

development-germany.pdf [Accessed 17 Jun. 2019].

179

54. Ambrosini V, Bowman C (2009), “What are dynamic capabilities

and are they a useful construct in strategic management?”, Int. J. Manage.

Rev., 11(1): 29-49.

55. Arne Leifels (2020), Digital skills shortage is hampering German

SMEs’ digital transformation – is upskilling the answer? KfW Group,

Frankfurt.

56. Avasilicai, S. (2009), Entrepreneurship: applied research, Cluj-

Napoca: Tedosco.

57. Aylin, A,Garango, P., Cocca,P. &Bititchi, U. (2013), The

development of SME managerial practice for effective performance

management, Journal of small business and enterprise development, Vol. 20

(1). PP. 2854.

58. Barney J, Wright M & Ketchen DJ (2001), The resource-based view

of the firm: ten years after 1991, Journal of Management 27:625-41.

59. Barney, J. (1991), Firm resources and sustained competitive

advantage, Journal of Management, 17 (1): pp 99120.

60. BMWi (2019). Financing start-ups and growth: Overview of funding

instruments [online] Available at:

https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Downloads/financing-start-ups-and-

growth-overview-of-funding-instruments.pdf?__blob=publicationFile&v=9,

[Accessed 10 Feb. 2020].

61. BMWi (2019), Making our everyday life easier and reducing the

burden on business, [online] Available at: https://www.bmwi.de/Redaktion/

EN/Dossier/cutting-bureaucracy.html, [Accessed 10 Feb. 2020].

180

62. BMWi (2019), The German Mittelstand as a model for success,

[online] Available at: https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Dossier/sme-

policy.html, [Accessed 10 Feb. 2020].

63. BMWi (2019), The German SME strategy, Available at:

https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Publikationen/Mittelstand/german-sme-

strategy.pdf?__blob=publicationFile&v=3, [Accessed 10 Feb. 2020].

64. Bolton (1971), cited in the publication of Stokes, D., Wilson, N.

(2010), Entrepreneurship and Small Business Management (6th ed.).Andover:

Cengage Learning EMEA.

65. Breznik, Lidija & Hisrich, Robert (2014), Dynamic capabilities vs

innovation capability: Are they related?. Journal of Small Business and

Enterprise Development, 21. 368-384.

66. Briozzo, A. & Cardone-Riportella, C. (2012), Evaluating the Impact

of Public Programs of Financial Aid to SMEs during times of crisis: The

Spanish Experience (No. 12.04).

67. Buculescu, M. (2013), Harmonization process in defining small and

medium-sized enterprises. Argument for a quantitative definition versus a

qualitative one. Theoretical and Applied Economics. The Bucharest University

of Economic Studies. Vol. XX, № 9, 103–114.

68. Buholzer, René P. (1998), Legislatives Lobbying in der

Europäischen Union, Ein Konzept für Interessengruppen. Bern/Stuttgart/Wien:

Paul Haupt.

69. Burns, P. and Myers, A. (1994), Growth In The 1990’s: Winners And

Losers - 3i/Cranfield European Enterprise Centre, Report No.12, May,

Cranfield

181

70. Chowdhury, S. R. (2011), Impact of global crisis on small and

medium enterprises, Global Business Review, 12(3), 377-399.

71. Christian Schroder (2016), The Challenges of Industry 4.0 for Small

and Medium-sized Enterprises. Friedrich-Ebert-Stiftung [online] Available at:

https://www.researchgate.net/publication/305789672_The_Challenges_of_Ind

ustry_40_for_Small_and_Medium-sized_Enterprises [Accessed 15 Feb.

2020].

72. Chusho Meti (2013), Japan’s Policy on Small and Medium

Enterprises (SMEs) and Micro Enterprises [online] Available at:

http://www.chusho.meti.go.jp/sme _english /outline/ 04/ 2013100 7. pdf

[Accessed 15 Feb. 2020].

73. Cibela NEAGU (2016), The importance and role of small and

medium-sized businesses. Theoretical and Applied Economics, [online]

XXIII(No. 3(608). Available at: http://store.ectap.ro/articole/1217.pdf

[Accessed 15 Feb. 2020].

74. Cohen. (1995), Innovation, Firm size and Market Structure (pp. 42),

London School of Economics.

75. Cooper, A. C. (1979), Strategic management: New ventures and

small business. In D. E. Schendel & C. W. Hofer (eds) Strategic management:

A new view of business policy and planning, Little, Brown & Co, Canada.

76. Darroch, Mark & Clover, T.A. (2005), The effects of entrepreneurial

quality on the success of small, medium and micro agri-businesses in KwaZulu-

Natal, South Africa, Agrekon.

77. Decker, M., Schiefer, G., Bulander, R.(2006), Specific Challenges

for small and medium-Sized Enterprises (SMEs) in m-business, in: Filipe, J.,

182

Greene, T.(Publisher): Proceedings of the International Conference on e-

business, Setubal: INSTICC Press.169-174.

78. Delmar, F, & Wiklund,J. (2008), The effect of small business

managers' growth motivation on firm growth: A longitudinal study.

Entrepreneurship Theory and Practice, 32 (3), 437-457.

79. Druker, P.F., 2009. Innovation and Entrepreneurship, New York:

Harper Collins.

80. Duberley, J. and P. Walley (1995), 'Assessing the adoption of HRM

by small and medium sized manufacturing organizations', International

Journal of Human Resource Management, 6, 891-909.

81. Eisenhardt KM, Martin JA (2000), Dynamic capabilities: what are

they?, Strat. Manage. J., 21(10/11): 1105- 1121

82. EUR-Lex (2016), A small business act for European SMEs, [online]

Available at: https://eur-lex.europa.eu/legal-

content/EN/TXT/?uri=CELEX:52008DC0394. [Accessed 10 Feb. 2020].

83. European Commission (2010). Short time working arragements as

response to cyclical fluctuations, Brussels.

84. European Commission (2011), Europe 2020 – Overview, Brussels,

[online] Available at: https://ec.europa.eu/eurostat/web/europe-2020-

indicators, [Accessed 10 Feb. 2020].

85. European Commission (2015), User guide to the SME Definition,

Publications Office of the European Union, Luxembourg.

86. European Commission (2016), SBA Fact Sheet: Germany

(2010/2011), [online] Available

183

at:http://ec.europa.eu/DocsRoom/documents/15770/

attachments/15/translations/en/renditions/pdf. [Accessed 10 Feb. 2020].

87. European Commission (2017), Europe 2020 Targets, [online]

Available

at:https://ec.europa.eu/eurostat/documents/4411192/4411431/Europe_2020_T

argets.pdf. [Accessed 10 Feb. 2020].

88. European Commission (2020), Small and Medium-sized enterprises

(SMEs), [online] Brussels: Eurostat. Available at:

https://ec.europa.eu/eurostat/web/structural-business-statistics/structural-

business-statistics/sme [Accessed 10 Feb. 2020].

89. European Commission(2003).Commission Recommendation of 6

May 2003 concerning the definition of micro, small and medium-sized

Enterprises. Official Journal of the European Union.

90. European Commission. (2019), Entrepreneurship and Small and

medium-sized enterprises (SMEs) - Internal Market, Industry,

Entrepreneurship and SMEs - European Commission, [online] Available at:

https://ec.europa.eu/growth/smes_en [Accessed 11 Apr. 2019]

91. European Parliament (2003), The German economy. European

Parliament, Luxembourg: 2003.

92. Eurostat. (2011), Key figures on European business with a special

feature on SMEs, Luxembourg: Publications Office of the European Union.

93. Federal Ministry for Economic Affairs and Energy – BMWi (2015),

Central Innovation Programme for SMEs, BMWi, Berlin.

184

94. Federal Ministry for Economic Affairs and Energy – BMWi (2019),

Central Innovation Programme for SMEs (ZIM), Available at:

https://www.zim.de/ZIM/Redaktion/DE/Publikationen/Publikationen/informa

tionsbroschuere-zim englisch.pdf?__blob= publicationFile&v=11, [Accessed

10 Feb. 2020].

95. Federal Ministry for Economic Affairs and Energy – BMWi (2019),

KMU-innovativ, [online] Available at: https://www.bmbf.de/de/kmu-

innovativ-561.html. [Accessed 10 Feb. 2020].

96. Federal Ministry for Economic Affairs and Energy (2017), Future of

the German Mittelstand: Action Programme, Berlin, [online] Available at:

https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Publikationen/aktionsprogramm-

zukunft-mittelstand.pdf?__blob=publicationFile&v=7 [Accessed 17 Jun.

2019]

97. Federal Ministry for Economic Affairs and Energy (2017). “SMEs

are driving economic success Facts and figures about German SMEs”. [online]

Available at: https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Publikationen/Mittelstand/

driving-economic-success-sme.pdf?__blob=publicationFile&v=4 [Accessed

17 Jun. 2019].

98. Federal Ministry of Economic Affairs and Energy (2019), The

German SME strategy, Berlin, [online] Available

at:https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Publikationen/ Mittelstand/ german-

sme-strategy.pdf?blob=publicationFile&v=3. [Accessed 10 Feb. 2020].

99. Federal Ministry of Economics and Technology (2011), Building on

SMEs: Greater Responsibility – Greater Freedom, Berlin.

185

100. Federal Ministry of Economics and Technology (2012), German

Mittelstand: Engine of the German economy: Facts and figures about small

and medium-sized German firms, Berlin.

101. Federal Ministry of Economics and Technology (2013), The

German Mittelstand: Facts and figures about German SMEs: Current

Economic Climate, Berlin. Available

at:https://www.bmwi.de/Redaktion/EN/Publikationen /wirtschaftsmotor-

mittelstand-zahlen-und-fakten-zu-den-deutschen-kmu.pdf?

blob=publicationFile&v=4, [Accessed 10 Feb. 2020].

102. Federal Ministry of Economics and Technology (n.d.), German

Mittelstand: Engine of the German economy, Berlin: Federal Ministry of

Economics and Technology (BMWi), Public Relations Division.

103. Flamholtz, E. G. 1986, Managing the transition from an

entrepreneurship to a professionally managed firm, Jossey-Bass, San

Francisco.

104. Franch Parella, J. and Carmona Hernández, G., (2018), The German

Business Model: The Role of the Mittelstand. Journal of Management Policies

and Practices, [online] 6(1). Available at:

https://www.researchgate.net/publication/327322119_The_German_Business

_Model_the_role_of_the_Mittelstand [Accessed 28 March 2020].

105. GIZ (2012), The German Mittelstand – an Overview, [online]

Available

at:http://www.dcmsme.gov.in/Policies/International%20Policies/The%20Ger

man%20Mittelstand_An%20Overview.pdf [Accessed 17 Jun. 2019]

186

106. Grant, R.M. (1991), The resource based theory of competitive

advantage: Implications for strategy formulation, California Management

Review 33 (3): pp 114.

107. Gruenwald, R. (2014), Alternative Approaches in Evaluating the

EU SME Policy: Answers to the Question of Impact and Legitimization,

Entrepreneurial Business and Economics Review, [online] Available at:

https://eber.uek.krakow.pl/index.php/eber/article/view/45 [Accessed 17 Jun.

2019]

108. Guffey, Mary Ellen (2008), Business Communication: Process &

Product 6th Edition.

109. Günterberg, B.; Kayser, G. (2004) SMEs in Germany - Facts and

Figures 2004, in: Institut für Mittelstandsforschung Bonn (Hrsg.): IfM-

Materialien Nr. 161, Bonn.

110. Hansjörg Herr và Zeynep M. Nettekoven (2017), The role of small

and medium-sized enterprises in development: What can be learned from the

German experience? Berlin: Friedrich-Ebert-Stiftung, Department for Asia and

the Pacific. Available at: https://www.giz.de/de/downloads/giz2013-en-sme-

promotion-and-development-germany.pdf [Accessed 17 Jun. 2019]

111. Harvie, C. and Lee, B.C. (2005), ‘Introduction: the Role of Small

and Medium-sized Enterprises in Achieving and Sustaining Growth and

Performance (with B.C. Lee)’, in C.Harvie and B.C. Lee (eds.), Sustaining

Growth and Performance in East Asia: the Role of Small and Medium Sized

Enterprises, Studies of Small and Medium sized Enterprises in East Asia,

Volume III, Chapter 1, pp. 3-27, Cheltenham, UK.

187

112. Hauser, Hans-Eduard (1998), SME in Germany, Facts and Figures

1998, Bonn: Institut für Mittelstandsforschung (IFM).

113. Hong, P. and Jeong, J. (2006), "Supply chain management practices

of SMEs: from a business growth perspective", Journal of Enterprise

Information Management, Vol. 19 No. 3, pp. 292-302.

114. IfM – Institut für Mittelstandsforschung (2016b), The definition of

the Mittelstand by IfM, Bonn, [online] Available at: https://www.ifm-

bonn.org/definitionen/kmu-definition-des-ifm-bonn/, [Accessed 11 Apr.

2019].

115. ILO (2019), Small Matters: Global evidence on the contribution to

employment by the self-employed, micro-enterprises and SMEs, Geneva:

International Labour Office.

116. International Institute for Labour Studies (2011), Germany: A Job-

centred approach, Studies on growth with equity, Geneva, ILO.

117. Jean-Marie Avezou (2015), Thinking small: EU SME Policy,

EURObiz-Journal of the European Union Chamber of Commerce in China

[online] Available at: https://www.eurobiz.com.cn/thinking-small-eu-sme-

policy/ [Accessed 11 Apr. 2019]

118. JICA (2004). Approaches for Systematic Planning of Development

Projects. JICA, Tokyo.

119. Johanna Hopp (2019), The Hartz employment reforms in Germany,

Centre for Public Impact: A BCG Foundation, [online] Available at:

https://www.centreforpublicimpact.org/ case-study/hartz-employment-

reforms-germany/. [Accessed 10 Feb. 2020].

188

120. Jones O. and Tilley (2003), Competitive Advantage in SMEs:

organizing for innovation and change, Willey.

121. KfW (2011), Mittelstands panel, [online] Available at:

https://www.kfw.de/Download-Center/Konzernthemen/Research/Research-

englisch/ PDF-Dateien-Mittelstandspanel/Mittelstandspanel-2011-Englisch-

KF.pdf, [Accessed 10 Feb. 2020].

122. KfW (2013), KfW Economic Research: Focus on economics, KfW

Group, Frankfurt.

123. KfW (2019), 227,000 SMEs want to transfer owership by the end

of 2020, [online] Available at: https://www.kfw.de/KfW-

Group/Newsroom/Latest-News/ Pressemitteilungen-Details 505088.html,

[Accessed 10 Feb. 2020].

124. KfW (2019), KfW SME Panel 2019: After a record year, dark

clouds are gathering – SMEs between all-time highs and recession fears, KfW

Group, Frankfurt.

125. KfW (2020), KfW Start-up Report 2019: Number of start-ups in

Germany continues to grow, KfW Group, Frankfurt.

126. Kossyva, D., K. Sarri, and N. Georgopoulos. 2014. Coopetition: A

business strategy for SME in times of economic crisis. South-Eastern Europe

Journal of Economics 1: 89–106.

127. Kotter, J. P., and J. L. Heskett (1992), Corporate Culture and

Performance. New York: Free Press, 1992.

128. Kushnir, Khrystyna, Melina Laura Mirmulstein and Rita Ramalho

(2010), How Do Economies Define Micro, Small and Medium Enterprises

(MSMEs)?, IFC and the World Bank.

189

129. Lageman et al. (1999: 82) observe that the number of GmbHs rose

from 122,000 to 513,000 between 1974 and 1998. This applied especially to

medium-sized and large enterprises.

130. Lageman, Bernhard, et al. (1999), Kleine und mittlere Unternehmen

im sektoralen Strukturwandel, Essen.

131. Laura Južnik Rotar, Roberta Kontošić Pamić & Štefan Bojnec

(2019), Contributions of small and medium enterprises to employment in the

European Union countries, Economic Research-Ekonomska Istraživanja, 32:1,

3296-3308.

132. Loecher, U.(2000), Small and medium-sized Enterprises:

delimitation and the European definition in the area of industrial business,

European Business Review,12 (5), 261-264.

133. Macpherson, A. and Holt, R. (2007), Knowledge, learning and

small firm growth: A systematic review of the evidence, Research Policy, Vol.

36, pp. 172–192.

134. Markman, G. D., & Baron, R. A. (2003), Person-entrepreneurship

fit: why some people are more successful as entrepreneurs than others, Human

Resource Management Review, 13(2), 281–301

135. Matthias Zoephel (2008), Michael Porter's Competitive Advantage

Theory: Focus Strategy for SMEs, Norderstedt.

136. McCarthy, B. (2003), The impact of the entrepreneur's personality

on the strategy-formation and planning process in SMEs, Irish Journal of

Management, 24(1), 154.

190

137. Mella, Piero & Pellicelli, Michela. (2008), The Origin of Value

Based Management: Five Interpretative Models of an Unavoidable Evolution,

International Journal of Knowledge, Culture and Change Management.

138. Michael Porter (1985), Competitive Advantage: Creating and

Sustaining Superior Performance, NewYork: Free Press.

139. Muzyka, Daniel, Breuninger, Hans, & Rossell, Gerda (1997), The

Secret of New Growth in Old German Mittelstand Companies, European

Management Journal, Vol.15, No. 2, pp.147- 157.

140. Narteh, B. (2013), SME bank selection and patronage behaviour in

the Ghanaian banking industry, Management Research Review, 36(11), 1061-

1080.

141. Nasser, M. E., du Preez, J. and Herrmann, K. (2003), Flight of the

young flamingos: alternative futures for young entrepreneurs in South Africa,

in Futures. Vol. 35.

142. Nils Dahne (2018), Introducing German Mittelstand, Dresden:

University of Applied Sciences [online]. Available at:

http://nilsdaehne.com/downloads/20180108_IGM_ Lecture_WS1718.pdf.

[Accessed 16th Jan 2019].

143. OECD (2005), OECD SME and Entrepreneurship Outlook 2005,

OECD, Paris.

144. OECD (2009), Employment Outlook, OECD, Paris

145. OECD (2014). Promoting SMEs for development. OECD, Istanbul.

191

146. Olaf Storbeck (2018), German Mittelstand faces generational crisi,

[online] Available at: https://www.ft.com/content/739b698e-292c-11e8-b27e-

cc62a39d57a0. [Accessed 10 Feb. 2020].

147. Olawale, F.,&Garwe,D (2010), Obstacles to the growth of new

SMEs in South Africa: A principle component analysis approach, African

journal f business and management, Vol. 4 (5). PP 729-738.

148. Orford, J., Goldstuck, A., Shay,D., Wood, E. , Herrington, M. and

Hudson, J. (2004), Global Entrepreneurship Monitor: 2004 Executive Report.

Graduate School of Business, University of Cape Town.

149. OSMEP, (2008), Situation and Structural Indicators of SMEs in

2008 and 5-Year Changes, White Paper on SMEs 2008 and Trends 2009.

150. Pasnicu, Daniela. (2018), Supporting SMEs in creating jobs,

Journal of Economic Development, Environment and People. 7. 15.

10.26458/jedep.v7i1.575.

151. Penrose, E (2013), The Theory Of The Growth Of The Firm, Oxford:

Oxford University Press.

152. Pretorius, M., & Shaw, G. (2004), Business plan in bank-decision

making when financing new ventures in South Africa, South African Journal

of Economics and Management Science, 7(2), 221-242.

153. Purwanti, E. (2012), Pengaruh karakteristik wirausaha, modal

usaha, strategi pemasaran terhadap perkembangan UMKM di Desa Dayaan dan

Kalilondo Salatiga, Among Makarti. Vol. 5, No. 9

192

154. Rauch, A., & Frese, M. (2000), Psychological approaches to

entrepreneurial success: A general model and an overview of findings,

International Review of Industrial and Organizational Psychology, 15.

155. Rejnald. M & Gerdi (2011), Risks with which face Albanian

business and their managing, Finance Department, Economic Faculty,

University of Tirana.

156. Rindova, V.P. and Fombrun, C.J. (1999), Constructing competitive

advantage: The role of firm-constituent interactions, Strategic Management

Journal, 20 (8): pp 691-710.

157. Roxana Gabriela Hodorogel (2011), German SMEs Affected by the

World Crisis. Theoretical and Applied Economics, [online] Available at:

http://store.ectap.ro/articole/642.pdf. [Accessed 10 Feb. 2020].

158. Schröder, Christian (2016), The Challenges of Industry 4.0 for

Small and Medium-sized Enterprises, Friedrich-Ebert-Stiftung, Bonn.

159. Simon, Hermann (1996), Hidden Champions, The Lessons from 500

of the World’s best unknown Companies, London: Harvard Business School

Press.

160. Statista (2020), Distribution of startups in Germany in 2019, by

industry, [online] Available at:

https://www.statista.com/statistics/883498/start-up-distribution-by-industry-

germany/. [Accessed 10 Feb. 2020].

161. Steel,W.F. 1993. ‘Analysing the policy framework for small

enterprise development’. In Helmsing,A.H.J. and Kolstee,T. (eds.) Small

Enterprises and Changing Policies. London: IT Publications.

193

162. St-Jean, E., Julien, P., and Jos´ee, A. (2008), Factors associated with

growth changes in gazelles, Journal of Enterprising Culture, 16, 161–188.

163. Stokes, D., Wilson, N.(2010), Entrepreneurship and Small Business

Management (6th ed.), Andover: Cengage Learning EMEA

164. Tannock, J., Krasachol, L. and Ruangpermpool, S. (2002), The

development of total quality management in Thai manufacturing SMEs: A case

study approach, International Journal of Quality & Reliability Management,

Vol. 19, No. 4, pp. 380-395.

165. Teece DJ, Pisano G & Shuen A (1997), Dynamic capabilities and

strategic management, Strategic Management Journal 18(7):509-33.

166. The Institute for SMEs Research Bonn (n.d); cited in report of

Roxana Gabriela Hodorogel (2011),German SMEs Affected by the World

Crisis. Theoretical and Applied Economics, [online] Available at:

http://store.ectap.ro/articole/642.pdf. [Accessed 10 Feb. 2020].

167. The World Bank (2020), Germany At-A-Glance, [online] Available

at: https://www.worldbank.org/en/country/germany/overview, [Accessed 10

Feb. 2020].

168. The World Bank (2020), Vietnam At-A-Glance, [online] Available

at: https://www.worldbank.org/en/country/vietnam/overview, [Accessed 10

Feb. 2020].

169. The World Bank (n.d.), Small and medium enterprises (SMEs)

finance: Improving SMEs’ access to finance and finding innovative solutions

to unlock sources of capital, [online] Available at:

https://www.worldbank.org/en/topic/smefinance [Accessed 14 Feb. 2020].

194

170. The World Bank (2013), IFC jobs study: Assessing private sector

contributions to job creation and poverty reduction, Washington, DC: World

Bank Group.

171. Thornhill, S., & Amit, R. (2003), Learning about Failure:

Bankruptcy, Firm Age, and the Resource-Based View, Organization

Science, 14 (5), 497-509.

172. Tony Dolphin & David Nash (2012), Report Investing for the

future: Why we need a British investment bank, Institute for Public Policy

Research, London: 2012.

173. Volker Zimmermann (2020), Financing of digitalisation and

capital expenditure in SMEs – a comparison, KfW Group, Frankfurt.

174. Wernerfelt B (1984), A resource-based view of the firm, Strategic

Management Journal 5:171-80.

175. Wilkinson, B., (2002), Small, Micro, and Medium Enterprise

Development: Expanding the Options for Debt and Equity Finance, Financial

Sector Workshop, National Economic Development and Labour Council

(NEDLAC), Johannesburg, South Africa, Iris, April 6

176. World Bank (n.d), Exports of goods and services (% of GDP) –

Germany, [online] Available at:

https://data.worldbank.org/indicator/NE.EXP.GNFS.ZS?locations=DE.

[Accessed 10 Feb. 2020].

177. World Bank (n.d), Exports of goods and services (constant LCU) –

Germany, Available at:

https://data.worldbank.org/indicator/NE.EXP.GNFS.KN?end=2012&

locations=DE&start=2003&view=chart. [Accessed 10 Feb. 2020].

195

178. World Bank (n.d), Fertility rate, total (births per woman) –

Germany [online] Available at:

https://data.worldbank.org/indicator/SP.DYN.TFRT.IN?end=2017&

locations=DE&start=1975. [Accessed 10 Feb. 2020].

179. World Bank (n.d), GDP growth (annual %) – Germany, [online]

Available at:

https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.KD.ZG?end=2018&loc

ations=DE&most_recent_year_desc=false&start=1990&view=chart.

[Accessed 10 Feb. 2020].

180. World Bank (n.d), Unemployment, total (% of total labor force)

(modeled ILO estimate) – Germany, [online] Available at:

https://data.worldbank.org/indicator/SL.UEM.TOTL.ZS?end=2019&locations

=DE&most_recent_year_desc=false&start=1991&view=chart. [Accessed 10

Feb. 2020].

181. World Bank, (2012), Doing business in a more transparent world.

WB, Washington.

182. World Bank Group (2019), World Bank Group Support for Small

and Medium Enterprises A Synthesis of Evaluative Findings, WorldBank

Publications, Washington DC.

183. WTO (2017), Micro, small and medium-sized enterprises” WTO

Buenos Aires [online]. Available at:

https://www.wto.org/english/thewto_e/minist_e/mc11_e/briefing_notes_e/bf

msmes_e.htm. [Accessed 16th Jan 2019].

184. Yon, R., Evans, D (2011), The role of small and medium enterprises

in Frontier Capital Markets, Network Science Center, West Point.

196