
1
CHƯƠNG 1. ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tầm quan trọng của năng lực toán học
Năng lực toán học (NLTH) được nhiều nhà nghiên cứu và các tổ chức giáo
dục quan tâm, phát triển trong suốt hai thập kỷ qua trên cả khía cạnh đánh giá và
chương trình đào tạo của các bậc học. Một số công trình liên quan có thể kể đến
như Chương trình Đánh giá Học sinh Quốc tế (Programme for International
Student Assessment: PISA) (OECD, 2003; 2009; 2013; 2017; 2018; 2019) của
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation
and Development: OECD); Dự án KOM của Đan Mạch (Competencies and the
Learning of Mathematics: KOM) (Niss & Højgaard, 2011, 2019); Hội đồng
Nghiên cứu Quốc gia của Mỹ (National Research Council: NRC) (Kilpatrick &
cộng sự, 2001) và Chương trình Giáo dục phổ thông năm 2018 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo Việt Nam.
Có nhiều tên gọi khác nhau cho năng lực toán học (mathematical
competence) như hiểu biết định lượng (quantitative literacy), năng lực tính toán
(numeracy), hiểu biết toán (mathematical literacy), thành thạo toán học
(mathematical proficiency). Mặc dù định nghĩa thuật ngữ năng lực toán học cũng
có sự khác nhau, song tất cả đều đề cập đến một phạm trù rộng hơn cả kiến thức,
kĩ năng của toán học lý thuyết, toán học thuần túy (Niss, 2015).
Có hai khuynh hướng để đưa ra quan niệm về NLTH. Quan niệm thứ nhất
dựa trên việc đưa ra định nghĩa NLTH và từ đó xác định các thành tố của NLTH
như Dự án KOM của Đan Mạch và Chương trình Đánh giá Học sinh Quốc tế
PISA. Quan niệm thứ hai là tiếp cận nghiên cứu các thành tố của NLTH với hai
đại diện là Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 và Hội đồng Nghiên cứu Quốc
gia Mỹ NRC. Nhìn chung các thành tố của NLTH theo KOM, PISA, Chương
trình Giáo dục phổ thông 2018 có sự tương đồng mặc dù vẫn có sự khác nhau
trong tên gọi và chúng được sắp xếp lại để thu được một tập hợp tổng quát nhất,
ít thành tố nhất mà vẫn hoàn toàn phủ được các hoạt động toán học. Các nhà giáo
dục toán đều thừa nhận NLTH ngoài việc bao gồm kiến thức, kĩ năng toán học,
còn có các yếu tố phi nhận thức như hứng thú, niềm tin, ý chí,… Mặc dù không
thể phủ nhận vai trò của các yếu tố phi nhận thức trong việc hình thành và phát
triển năng lực toán học, song để duy trì sự rõ ràng trong phân tích NLTH, dự án
KOM; PISA; Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 đã loại yếu tố này ra khỏi
định nghĩa về NLTH. Việc học cũng chịu ảnh hưởng bởi động cơ, thái độ, đó là
lý do NRC (Kilpatrick & cộng sự, 2001) đã đưa khuynh hướng hữu ích vào khung
NLTH (mathematical proficiency), tạo nên một cấu trúc đầy đủ kiến thức, kĩ
năng, thái độ, niềm tin của NLTH gồm năm thành tố: (a) hiểu khái niệm; (b)
thành thạo quy trình; (c) năng lực giải quyết vấn đề toán học; (d) suy luận; (e)
khuynh hướng hữu ích.