
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
TRƯỜNG THPT LƯU HOÀNG
----------------------------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VẬN DỤNG KIẾN THỨC CHO HỌC
SINH QUA CÁC CÂU HỎI THỰC TIỄN PHẦN “THÀNH PHẦN HÓA
HỌC CỦA TẾ BÀO” – SINH HỌC 10, CƠ BẢN”
Lĩnh vực/ Môn: Sinh học
Cấp học: THPT
Tác giả: Đỗ Thị Hương
Đơn vị công tác: Trường THPT Lưu Hoàng
Chức vụ: Tổ phó chuyên môn
NĂM HỌC 2019 – 2020

Đỗ Thị Hương – THPT Lưu Hoàng - Ứng Hòa – Hà Nội
1/15
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, khoa học kĩ thuật có tốc độ phát triển cực kì nhanh chóng. Nền
kinh tế trí thức có tính toàn cầu đã đặt ra cho ngành giáo dục một nhiệm vụ vô
cùng to lớn: Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải
giúp học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, vừa mang tính giáo
dục, vừa mang tính hướng thiện khoa học.
Với bộ môn sinh học mà tính thực nghiệm được gắn liền với các bài giảng
hàng ngày thì việc định hướng đổi mới phương pháp dạy học cũng phải có sự
khác biệt nhiều so với các môn học khác. Để giúp học sinh lĩnh hội được kiến
thức sinh học cho đúng với bản chất của nó thì giáo viên cần tích cực thực hiện
phương pháp dạy học tích hợp các kiến thức lý thuyết với thực tiễn đời sống hay
“học đi đôi với hành”. Có như vậy mới phát huy tính tích cực, chủ động sáng
tạo, phát huy năng lực nhận thức và tư duy khoa học của học sinh, đồng thời bài
giảng mới trở nên sinh động, hấp dẫn được học trò.
Tuy nhiên, thực tế giảng dạy ở nhiều trường THPT hiện nay có nhiều giáo
viên còn chưa quan tâm đến vấn đề này, giảng dạy còn quá coi trọng kiến thức
lý thuyết. Nhiều giáo viên khi tổ chức các hoạt động dạy - học còn thiên về cung
cấp kiến thức giáo khoa một cách thuần túy, giảng dạy chủ yếu theo lối “thông
báo - tái hiện” khiến cho tiết học trở nên nhàm chán. Nghiêm trọng hơn là với
cách dạy - học đó sẽ làm cho học sinh trở nên thụ động tiếp nhận kiến thức, sẽ
lúng túng khi xử lý các vấn đề mang tính thực tiễn đời sống.
Vì vậy, tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến: “Phát triển năng lực vận dụng
kiến thức cho học sinh qua các câu hỏi thực tiễn phần: “Thành phần hoá học
của tế bào” - Sinh học 10, cơ bản”
2. Phạm vi, thời gian và đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi: Đề tài nghiên cứu về vấn đề sử dụng kiến thức bộ môn gắn với
thực tiễn để dạy phần “Thành phần hoá học của tế bào” sinh học 10.
- Thời gian, đối tượng nghiên cứu: Từ tháng 01 năm 2019 và được áp
dụng thực nghiệm với đối tượng là học sinh lớp 10 (A1, A2, A4, A7) trường
THPT Lưu Hoàng, trong năm học 2019 – 2020.
3. Mục đích của đề tài
Đề tài nghiên cứu về vấn đề ứng dụng thực nghiệm khi dạy các bài học về
“Thành phần hoá học của tế bào” - sinh học 10, ban cơ bản, trên các mặt:
- Lý luận về phương pháp.
- Hệ thống câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống được khai thác
nhằm phát triển năng lực vận dụng kiến thức cho học sinh.

Đỗ Thị Hương – THPT Lưu Hoàng - Ứng Hòa – Hà Nội
2/15
PHẦN 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận của việc dạy học phát triển năng lực vận dụng kiến thức
cho học sinh
1.1. Khái niệm năng lực vận dụng kiến thức (NLVDKT)
Theo Từ điển Tiếng việt, vận dụng là đem tri thức vận dụng vào thực
tiễn.
Theo tác giả Phan Thị Thanh Hội và Nguyễn Thị Tuyết Mai: “Vận dụng
kiến thức vào thực tiễn là quá trình đem tri thức áp dụng vào những hoạt động
của con người nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội”.
Theo tác giả Nguyễn Công Khanh, Đào Thị Oanh: “NLVDKT là khả
năng của bản thân người học tự giải quyết những vấn đề đặt ra một cách nhanh
chóng và hiệu quả bằng cách áp dụng kiến thức đã lĩnh hội vào những tình
huống, những hoạt động thực tiễn để tìm hiểu thế giới xung quanh và có khả
năng biến đổi nó. NLVDKT thể hiện phẩm chất, nhân cách của con người trong
quá trình hoạt động để thoả mãn nhu cầu chiếm lĩnh tri thức”.
Như vậy, NLVDKT vào thực tiễn dựa trên các định nghĩa này: NLVDKT
vào thực tiễn là khả năng chủ thể phát hiện được vấn đề thực tiễn, huy động
được các kiến thức liên quan hoặc tìm tòi, khám phá các kiến thức nhằm thực
hiện giải quyết các vấn đề thực tiễn đạt hiệu quả.
1.2. Những biểu hiện của năng lực vận dụng kiến thức
- Có NL hệ thống hóa kiến thức, phân loại kiến thức sinh học, hiểu rõ đặc
điểm, nội dung, thuộc tính của loại kiến thức đó. Vận dụng kiến thức chính là
việc lựa chọn kiến thức một cách phù hợp để giải thích mỗi hiện tượng, tình
huống cụ thể xảy ra trong cuộc sống, tự nhiên và xã hội.
- Phát hiện và hiểu rõ được các ứng dụng của sinh học trong các vấn đề
thực phẩm, sinh hoạt, y học, sức khỏe, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và
môi trường.
- Tìm mối liên hệ và giải thích được các hiện tượng trong tự nhiên, các
ứng dụng của sinh học trong cuộc sống và trong các lĩnh vực đã nêu trên dựa
vào các kiến thức sinh học và các kiến thức liên môn khác.
- Chủ động sáng tạo lựa chọn phương pháp, cách thức giải quyết vấn đề.
Có NL hiểu biết và tham gia thảo luận về các vấn đề sinh học liên quan đến
cuộc sống thực tiễn.
1.3. Các nguyên tắc rèn luyện năng lực vận dụng kiến thức cho học sinh
trong dạy học sinh học
Nguyên tắc 1: Phải đảm bảo thực hiện được việc vận dụng kiến thức đã

Đỗ Thị Hương – THPT Lưu Hoàng - Ứng Hòa – Hà Nội
3/15
học để giải quyết những vấn về thực tiễn của cuộc sống có nội dung liên quan
tới bộ môn Sinh học đồng thời rèn luyện thêm một số năng lực khác như: năng
lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo…
Nguyên tắc 2: Đảm bảo tính khoa học chính xác của các kiến thức kỹ
năng sinh học.
Nguyên tắc 3: Phải đảm bảo thực hiện được mục tiêu giáo dục phổ thông
môn sinh học, mục tiêu của chương trình theo chuẩn kiến thức, kỹ năng.
Nguyên tắc 4: Đảm bảo tính sư phạm dựa trên các yếu tố cơ sở về tâm lý,
cơ sở lý luận giáo dục, cơ sở lý luận dạy theo định hướng đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng dạy học tích cực.
Nguyên tắc 5: Chú ý khai thác đặc thù bộ môn sinh học, trong đó việc
xây dựng một hệ thống câu hỏi liên hệ thực tiễn để sử dụng trong giảng dạy,
kiểm tra là vô cùng cấp thiết.
1.4. Vì sao cần tích hợp các câu hỏi liên quan đến thực tiễn đời sống trong
các giờ dạy phần “Thành phần hoá học của tế bào” sinh học 10.
Để đáp ứng được phương pháp “Dạy học sinh học gắn với thực tiễn bộ
môn theo hướng dạy học tích cực” thì phải nói đến vị trí, vai trò của các ứng
dụng sinh học trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Nếu các kiến thức thực tiễn
được sử dụng theo đúng mục đích sẽ là nguồn HS khai thác, tìm tòi phát hiện
kiến thức, giúp phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, phát huy năng lực
nhận thức và tư duy khoa học sinh học.
Ứng dụng sinh học vào thực tế cuộc sống là một yếu tố đặc trưng trong
hoạt động dạy học, giữ vai trò cơ bản trong việc thực hiện các nhiệm vụ dạy học
sinh học ở trường phổ thông.
Đối với học sinh THPT Lưu Hoàng các em chưa có nhiều định hướng
nghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao, các em chỉ
học theo sở thích. Vì vậy, người giáo viên dạy sinh học phải biết nắm tâm lý và
đặc điểm lứa tuổi của học sinh. Bên cạnh đó, cần kết hợp phương pháp dạy học
bằng cách khai thác, ứng dụng các hiện tượng sinh học trong tự nhiên và trong
đời sống hàng ngày để các em thấy môn sinh học rất gần gũi với các em.
2. Thực trạng sử dụng kiến thức gắn với thực tiễn đời sống trong dạy học
sinh học
Trong bối cảnh toàn ngành giáo dục đang thực hiện đổi mới chương trình,
nội dung và phương pháp dạy học với mục tiêu giáo dục toàn diện, phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo, phát huy năng lực nhận thức và tư duy khoa học của
học sinh. Tại nhiều trường, nhiều giáo viên đã và đang tích cực thực hiện đổi

Đỗ Thị Hương – THPT Lưu Hoàng - Ứng Hòa – Hà Nội
4/15
mới phương pháp dạy học, sử dụng các phương pháp dạy học mới như hoạt
động nhóm, kỹ thuật bể cá, kỹ thuật khăn trải bàn…
Với bộ môn sinh học như đã trình bày ở trên là bộ môn khoa học thực
nghiệm cho nên ngoài việc sử dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học mới
thì quan trọng hơn là bằng phương pháp giảng dạy giáo viên phải giúp học sinh
làm chủ được kiến thức của mình, biết vận dụng kiến thức của các em trong đời
sống thức tế ở chính gia đình, biết giải thích những hiện tượng xảy ra hàng ngày
xung quanh các em dựa trên kiến thức được học tại trường. Nhưng điều đó đã
chưa thực sự diễn ra trong thực tế. Vì sau khi học xong chương trình sinh học
10, nhiều học sinh còn không biết các hợp chất như prôtêin, cacbohidrat có
nhiều ở những thực phẩm gì; Tại sao những người mắc bệnh tiểu đường lại
không nên ăn các sản phẩm giàu tinh bột? hoặc “Tại sao người già, người cao
huyết áp không nên ăn nhiều mỡ động vật?”… Các vấn đề tưởng chừng đơn
giản nhưng thực sự đã làm cho các em lúng túng mà đúng ra sau khi học xong
chương trình sinh học 10 các em phải giải thích được tất cả những vấn đề đó.
Vậy, nguyên nhân của thực trạng trên là gì? Theo tôi, nguyên nhân cơ bản
và khách quan đầu tiên phải kể đến, là sự quá tải của chương trình. Nội dung
kiến thức trong phần lớn các bài học là quá nhiều, không thích ứng với thời gian
quy định của mỗi tiết học. Thực tế giảng dạy cho thấy, với thời gian 45 phút của
một tiết học, trừ thời gian để ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, củng cố bài thì thời
gian còn lại chỉ khoảng 35 phút dành cho thầy và trò tiến hành các hoạt động
của bài học. Trong khoảng thời gian này, việc làm cho học sinh hiểu được khối
kiến thức nặng nề của bài học thôi cũng đã là khó khăn, giáo viên không còn đủ
thời gian để liên hệ kiến thức mà học sinh vừa lĩnh hội được với thực tiễn đời
sống, hoặc nếu có liên hệ được thì cũng chỉ dưới hình thức liệt kê tên gọi của
các sự vật, hiện tượng mà thôi.
Nguyên nhân tiếp theo thuộc về giáo viên đứng lớp. Nhiều giáo viên chưa
có sự chuẩn bị tốt nhất cho bài giảng, giáo án còn thiên về cung cấp kiến thức
giáo khoa một cách thuần túy, chưa coi trọng việc soạn và sử dụng bài giảng
theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, điều này làm cho học
sinh khá thụ động trong việc lĩnh hội và vận dụng kiến thức. Bên cạnh đó, nhiều
thầy cô còn chưa đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá, nội dung các bài thi
và kiểm tra ở nhiều trường phổ thông chủ yếu tập trung vào nội dung kiến thức
mà chưa có hoặc có rất ít câu hỏi mang tính vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
đây chính một nguyên nhân khá rõ để giải thích cho thực trạng nêu trên. Vì vậy
việc lúng túng trước các câu hỏi, tình huống thực tiễn của học sinh là điều dễ
hiểu.