intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển nghề đánh bắt xa bờ kết hợp với bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

93
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiềm năng và thực tế đã và đang tạo nền tảng và cơ hội cho Việt Nam từng bước trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển. Sự phát triển ngành khai thác hải sản đã đóng góp không nhỏ vào công cuộc giữ gìn an ninh, chủ quyền trên vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của đất nước. Phát triển kinh tế biển nói chung và tăng trưởng kinh tế thủy sản nói riêng, đặc biệt là nghề đánh bắt xa bờ đã thu hút lực lượng ngư dân hiện diện thường xuyên trên biển góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển nghề đánh bắt xa bờ kết hợp với bảo vệ chủ quyền biển, đảo

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 2/2015<br /> <br /> VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI<br /> <br /> PHÁT TRIỂN NGHỀ ĐÁNH BẮT XA BỜ<br /> KẾT HỢP VỚI BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO<br /> THE DEVELOPMENT OF LONG-RANGE FISHING CORDINATING<br /> WITH DEFEND OF EXCLUSIVE ECONOMIC ZONE OF VIETNAM<br /> Tô Thị Hiền Vinh1<br /> Ngày nhận bài: 26/5/2014; Ngày phản biện thông qua: 05/6/2014; Ngày duyệt đăng: 10/6/2015<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Tiềm năng và thực tế đã và đang tạo nền tảng và cơ hội cho Việt Nam từng bước trở thành quốc gia mạnh về biển,<br /> làm giàu từ biển. Sự phát triển ngành khai thác hải sản đã đóng góp không nhỏ vào công cuộc giữ gìn an ninh, chủ quyền<br /> trên vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của đất nước. Phát triển kinh tế biển nói chung và tăng trưởng kinh tế thủy<br /> sản nói riêng, đặc biệt là nghề đánh bắt xa bờ đã thu hút lực lượng ngư dân hiện diện thường xuyên trên biển góp phần<br /> đảm bảo an ninh quốc phòng. Ngược lại, đảm bảo an ninh quốc phòng tạo điều kiện để bà con ngư dân yên tâm sản xuất,<br /> phát triển kinh tế thủy sản. Có thể khẳng định, sự hiện diện dân sự của ngư dân trên biển thể hiện chủ quyền của Việt Nam,<br /> quốc gia biển phải dựa vào công dân biển và “biển bạc của ta phải do nhân dân ta làm chủ”.<br /> Từ khóa: biển; khai thác hải sản; an ninh quốc phòng; chủ quyền; đặc quyền kinh tế; đánh bắt xa bờ<br /> <br /> ABSTRACT<br /> The potentiality and reality have been creating the foundation and opportunity for Vietnam step by step to become a<br /> nation that is strong at marine and enriches from the resource. The development of fisheries has contributed to the security<br /> preservation task, the sovereignty of territorial waters and the national exclusive economic development zone. The development<br /> of marine economics generally and the growth of fisheries economics particularly, especially off-shore fisheries have<br /> attracted fishermen to attend regularly in the sea, which helps to ensure the national defense and security. In contrast, the<br /> guarantee of national defense and security has facilitated the conditions to set fishermen’s mind at rest to produce and<br /> develop fisheries. It is possible to confirm that the presence of fishermen at the sea has expressed the sovereignty of Vietnamese<br /> people, that the coastal nation have to rely on marine citizens and “our silver sea must be controlled by our people”.<br /> Keywords: development of fisheries; security preservation; exclusive economic zone; defense and security<br /> <br /> I. MỞ ĐẦU<br /> Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt<br /> Nam là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi công dân<br /> Việt Nam đối với lịch sử dân tộc, là nhân tố quan<br /> trọng bảo đảm cho dân tộc ta phát triển bền vững.<br /> Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ:<br /> “Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ<br /> vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn<br /> vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên<br /> giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân<br /> và chế độ XHCN…”(1). Đó là ý chí sắt đá, quyết<br /> tâm không gì lay chuyển được của dân tộc Việt<br /> Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thời gian qua,<br /> <br /> 1<br /> <br /> sự biến đổi khôn lường của tình hình thế giới, khu<br /> vực và trên biển Đông khiến nhiệm vụ phòng thủ,<br /> bảo vệ đất nước, nhất là an ninh trên biển trở<br /> thành nhiệm vụ nhiều khó khăn, thách thức. Để<br /> hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn<br /> vẹn lãnh thổ, điều tiên quyết đặt ra là phải không<br /> ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia,<br /> xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển.<br /> Trong đó, xây dựng thế trận lòng dân, mỗi ngư<br /> dân trên biển phải là một chiến sỹ góp phần bảo<br /> vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng<br /> của Tổ quốc là vấn đề chiến lược, mang tính cấp<br /> bách, then chốt.<br /> <br /> TS. Tô Thị Hiền Vinh: Khoa Khoa học Chính Trị - Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 199<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> II. NỘI DUNG<br /> 1. Vị trí, vai trò tiềm năng biển, đảo Việt Nam<br /> Bờ biển nước ta có chiều dài 3.260km, với 112<br /> cửa sông lạch, trung bình cứ 100km2 diện tích tự<br /> nhiên lại có 1km bờ biển và gần 30km bờ biển lại<br /> có cửa sông lạch. Vùng biển đặc quyền kinh tế Việt<br /> Nam có diện tích trên 1 triệu km2, gấp hơn 3 lần vùng<br /> lãnh thổ trên đất liền. Trong vùng biển đặc quyền<br /> kinh tế có hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có<br /> nhiều đảo có dân cư như Vân Đồn, Cát Bà, Phú<br /> Quý, Côn Đảo, Phú Quốc,… có nhiều vịnh, vũng,<br /> eo ngách, các dòng hải lưu, vừa là ngư trường khai<br /> thác hải sản thuận lợi, vừa là nơi có nhiều điều kiện<br /> tự nhiên để phát triển nuôi biển và xây dựng các khu<br /> căn cứ hậu cần nghề cá. Vùng biển Việt Nam thuộc<br /> phạm vi ngư trường Trung tây Thái Bình Dương, có<br /> nguồn lợi hải sản phong phú, đa dạng và được đánh<br /> giá là một trong những ngư trường có trữ lượng cao<br /> trong các vùng biển quốc tế, với hơn 2.000 loài cá,<br /> 225 loài tôm, 800 loài rong biển, và nhiều loài hải<br /> sản quý như bào ngư, trai ngọc, sò huyết, san hô<br /> đỏ,... Nghiên cứu, điều tra về nguồn lợi cho biết,<br /> trữ lượng nguồn lợi hải sản ước tính khoảng 4 - 4,5<br /> triệu tấn, khả năng khai thác cho phép khoảng 1,8 2,0 triệu tấn/năm.<br /> Ngoài ra biển Việt Nam còn có trữ lượng khoáng<br /> sản, nhất là dầu khí to lớn, tiềm năng du lịch gắn với<br /> biển và trên biển dồi dào. Hơn nữa trong số mười<br /> tuyến đường biển lớn nhất hành tinh, có năm tuyến<br /> đi qua Biển Đông – một hướng chính chúng ta đang<br /> đi ra thế giới, đã và tiếp tục tạo động lực mạnh mẽ<br /> mở rộng thông thương, thắt chặt và tăng cường các<br /> mối bang giao quốc tế, nhằm phát triển theo phương<br /> châm “tăng trưởng xanh” một cách chiến lược và<br /> đáng ghi nhận. Dọc bờ biển và trên biển Việt Nam,<br /> trong số 63 tỉnh/thành phố, có 28 tỉnh, thành phố<br /> ven biển với số dân hơn 44,2 triệu người, chiếm<br /> 50,34% tổng dân số cả nước (Tổng cục Thống kê,<br /> năm 2011), với 12 thành phố lớn, 125 huyện, thị xã<br /> ven biển, 100 cảng biển, khoảng 238.000 cụm công<br /> nghiệp và gần 1.000 bến cá…<br /> Năm 2012, kinh tế biển và vùng ven biển đóng<br /> góp khoảng 49% GDP cả nước, trong đó riêng kinh<br /> tế trên biển chiếm khoảng 22%; các ngành kinh tế<br /> biển quan trọng như dầu khí, hàng hải, thủy sản, du<br /> lịch biển đều tăng trưởng với nhịp độ cao… Quốc<br /> phòng, an ninh trên biển, đảo được bảo đảm; các<br /> lực lượng bảo vệ biển đã thực hiện tốt nhiệm vụ<br /> quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tạo điều kiện<br /> hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế trên biển, đảo; ý<br /> thức của nhân dân bảo vệ chủ quyền quốc gia trên<br /> <br /> 200 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Số 2/2015<br /> biển được nâng lên. Trên cơ sở phát triển và phát<br /> huy toàn diện các ngành nghề biển một cách phù<br /> hợp, với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ<br /> phát triển theo hướng nhanh, bền vững và hiệu quả.<br /> Tuy nhiên, những nỗ lực của chúng ta vừa qua<br /> chưa thật sự ngang tầm với các tiềm năng, thế<br /> mạnh và lợi thế so sánh đó về biển, đảo và kinh<br /> tế biển, đảo; tình hình an ninh, quốc phòng ở một<br /> số khu vực biển, đảo của chúng ta vẫn tiềm ẩn sự<br /> phức tạp, thậm chí có nơi, có lúc rất phức tạp, khó<br /> lường, ở chừng mực nào đó, khiến cho lộ trình phát<br /> triển kinh tế biển, đảo của nước ta gặp nhiều khó<br /> khăn. Vì vậy vấn đề phát triển nghề đánh bắt xa bờ<br /> kết hợp với bảo vệ chủ quyền, biển đảo là hết sức<br /> cần thiết.<br /> 2. Vai trò của nghề khai thác thủy sản<br /> Nghề cá là nghề có truyền thống từ lâu đời, gần<br /> gũi không chỉ với người dân ở vùng nông thôn ven<br /> biển, mà cả với cộng đồng dân cư trên đất liền, nơi<br /> có nhiều thuỷ vực tự nhiên nhiều triệu hec-ta như<br /> sông ngòi, kênh rạch, hệ thống hồ chứa tự nhiên và<br /> hồ chứa nhân tạo, hệ thống ao đầm nhỏ và ruộng<br /> trũng thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản<br /> nước ngọt. Với lợi thế về điều kiện tự nhiên, từ chỗ<br /> chỉ là một nghề phụ trong sản xuất nông nghiệp,<br /> ngành Thủy sản đã dần hình thành và phát triển<br /> như một ngành kinh tế-kỹ thuật có đóng góp ngày<br /> càng lớn cho đất nước và đã trở thành ngành kinh<br /> tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đạt tốc độ<br /> tăng trưởng cao trong khối nông, lâm nghiệp và thủy<br /> sản (4,48 % , Tổng cục Thống kê, 2012).<br /> Đến nay, thủy sản Việt Nam đã có vị trí cao<br /> trong cộng đồng nghề cá thế giới, đứng thứ 12 về<br /> khai thác thủy sản, thứ 3 về nuôi thủy sản và thứ 4<br /> về giá trị xuất khẩu thủy sản. Theo số liệu thống kê,<br /> năm 2012, tổng sản lượng thủy sản ước đạt 5,76<br /> triệu tấn (tăng 7,9% so với năm 2011), trong đó sản<br /> lượng khai thác đạt 2,65 triệu tấn (tăng 6% so với<br /> năm 2011). Sản lượng khai thác hải sản xa bờ năm<br /> 2001 khoảng 456.000 tấn, chiếm 30,8% tổng sản<br /> lượng khai thác hải sản, đến năm 2012 đã tăng lên<br /> khoảng 1.120.000 tấn và chiếm gần 50% tổng sản<br /> lượng khai thác hải sản. Sản lượng khai thác cá<br /> ngừ khoảng 15.000 - 30.000 tấn/năm, trong đó sản<br /> lượng cá ngừ đại dương đạt khoảng 12.231 tấn/<br /> năm. Tuy nhiên, hiện nay chưa có thống kê chính<br /> xác và thường xuyên. Khai thác hải sản đã có nhiều<br /> chuyển biến tích cực, từng bước chuyển dịch theo<br /> hướng trở thành nghề cá cơ giới, tăng cường khai<br /> thác ở vùng biển xa bờ nhằm nâng cao hiệu quả và<br /> chất lượng sản phẩm khai thác phục vụ xuất khẩu,<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> Tỷ trọng sản phẩm khai thác ở vùng biển xa bờ<br /> chiếm gần 40% tổng sản lượng thủy sản khai thác,<br /> trong đó nghề khai thác cá ngừ đại dương được<br /> quan tâm phát triển mạnh.<br /> Phát triển của kinh tế biển, đặc biệt là nghề<br /> đánh bắt xa bờ và những vấn đề liên quan đến<br /> việc bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng biển, đảo<br /> của nước ta trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp<br /> hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là một trong<br /> những nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách, vừa<br /> mang tính chiến lược lâu dài. Phải tiếp tục làm gì<br /> và làm như thế nào nhằm chủ động khai thác tiềm<br /> năng biển, đảo để xứng đáng là một quốc gia mạnh<br /> về biển, giàu lên nhờ biển, đảo…, thực sự vẫn là<br /> vấn đề nan giải, cáp bách cần lời giải đáp một cách<br /> toàn diện, có tính hệ thống, phù hợp và đạt hiệu<br /> quả cao. Trên thực tế, ngư dân là lực lượng hàng<br /> ngày bám biển sản xuất (với khoảng 10.000 tàu<br /> thuyền) nên họ cần được trang bị “tiềm lực” đủ<br /> mạnh để tự bảo vệ chính mình cũng như góp phần<br /> bảo đảm an ninh, chủ quyền vùng biển tổ quốc. Do<br /> đó việc phát triển đánh bắt xa bờ có vai trò quan<br /> trọng thực hiện phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ<br /> bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc. Điều đó càng<br /> được khẳng định khi những ngày gần đây, Trung<br /> quốc tiến hành lắp đặt giàn khoan Hải dương 981<br /> nằm sâu vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt<br /> nam. Cho đến ngày 25-5, Trung Quốc vẫn duy trì<br /> số lượng hơn 120 tàu, bao gồm tàu hải cảnh, tàu<br /> vận tải, tàu kéo, tàu cá và một tàu chiến nhằm bảo<br /> vệ giàn khoan.<br /> 3. Thực trạng khai thác thủy sản<br /> Nguồn lợi hải sản: Sản lượng khai thác tuy ở<br /> giới hạn cho phép (2,2 triệu tấn/năm), song nguồn<br /> lợi hải sản đã có dấu hiệu tổn thương: cá nổi nhỏ đã<br /> khai thác vượt quá giới hạn 25-30%, việc này không<br /> những đã và đang làm mất dần khả năng tái tạo,<br /> phục hồi mật độ quần thể, mà còn ảnh hưởng đến<br /> nguồn lợi cá nổi lớn (thiếu thức ăn); Hải sản tầng<br /> đáy cũng bị khai thác ở mức độ cao, vượt quá giới<br /> hạn cho phép từ 30-35%, trong đó có nhiều giống<br /> loài hải sản có vòng đời dài (cá mú, cá sủ, hồng…),<br /> dẫn đến nguy cơ bị tuyệt chủng; Cá nổi lớn mới khai<br /> thác khoảng 21-22% khả năng cho phép, tuy vậy<br /> hoạt động đánh bắt hải sản chưa được kiểm soát<br /> chặt chẽ nên vẫn diễn ra tình trạng khai thác nhiều<br /> hải sản chưa trưởng thành.Sự suy giảm nguồn lợi<br /> cá đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đánh bắt<br /> của các loại nghề. Tỉ lệ cá tạp trong các mẻ lưới<br /> ngày càng cao, chiếm 40 - 80% sản lượng đánh<br /> bắt tuỳ theo từng loại nghề, đặc biệt là tàu lưới kéo.<br /> <br /> Số 2/2015<br /> Từ những phân tích trên cho thấy cần phải có ngay<br /> các đội tàu khai thác xa bờ.<br /> Tàu cá khai thác hải sản: Trong giai đoạn 2001 2010, tổng số tàu thuyền máy khai thác hải sản tăng<br /> từ 74.495 chiếc lên 128.449 chiếc, với tổng công<br /> suất 6,5 triệu cv. Trong đó, tàu nhỏ hơn 90 cv có<br /> 101.488 chiếc chiếm 80,3%, tàu lớn hơn 90 cv có<br /> 24.970 chiếc chiếm 19,7% trong tổng số tàu thuyền<br /> cả nước. Số lượng tàu cá tăng bình quân 6,2%/năm;<br /> tổng công suất máy tàu bình 7,1%/năm. Nhóm tàu<br /> > 90 cv tăng trung bình 13%/năm, nhóm tàu < 20 cv<br /> 9,1%/năm; gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn<br /> lợi ven bờ. Do đó, cần phải kiểm soát được số<br /> lượng tàu cá phù hợp với trữ lượng nguồn lợi hải<br /> và định hướng phát triển của ngành thủy sản. Tính<br /> đến 15/12/2012, cả nước có khoảng 125.000 tàu<br /> cá, trong đó 61.000 chiếc có công suất dưới 20CV<br /> (chiếm 48,8%), 38.000 tàu có công suất từ 20CV<br /> đến 90CV (chiếm 30,4%), 26.000 chiếc có công<br /> suất trên 90CV (chiếm 20,8%). Đã có trên 93.000<br /> tàu được cấp phép, gia hạn và cấp lại (chiếm 74,4%,<br /> tăng 4% so với cùng kỳ năm 2011).<br /> Công tác quản lý tàu cá, đăng ký, đăng kiểm đã<br /> được Bộ Nông nghiệp & PTNT và Tổng cục Thủy<br /> sản chú trọng. Tỷ trọng sản phẩm khai thác ở vùng<br /> biển xa bờ chiếm gần 40% tổng sản lượng thủy<br /> sản khai thác, trong đó nghề khai thác cá ngừ đại<br /> dương được quan tâm phát triển mạnh. Hệ thống<br /> hậu cần dịch vụ tuyến khơi xa, tuyến đảo, tuyến ven<br /> bờ gắn với các trung tâm dịch vụ nghề cá đã bước<br /> đầu được hình thành. Mặc dù chất lượng sản phẩm<br /> sau khai thác vẫn chưa được nâng cao, nhưng tiêu<br /> thụ sản phẩm khai thác đã được cải thiện, tạo điều<br /> kiện ổn định đời sống của ngư dân. Thực hiện chủ<br /> trương “tổ chức lại sản xuất” của ngành, nhiều mô<br /> hình hợp tác sản xuất trên biển đã được hình thành<br /> (như Tổ hợp tác đoàn kết khai thác trên biển, nghiệp<br /> đoàn nghề cá, tàu mẹ - tàu con) và phát huy tác<br /> dụng nhằm tổ chức dịch vụ hậu cần trên biển, hỗ<br /> trợ nhau trong hoạt động sản xuất và tìm kiếm cứu<br /> nạn khi gặp rủi ro. Đến tháng 9/2012, cả nước đã có<br /> 3.156 tổ đội sản xuất trên biển. Nhiều cơ chế, chính<br /> sách quản lý đã được ban hành kịp thời, góp phần<br /> duy trì và phát triển hoạt động khai thác, đảm bảo ổn<br /> định sinh kế và đời sống của bà con ngư dân, duy<br /> trì sự hiện diện dân sự của lực lượng tàu thuyền và<br /> ngư dân trên các vùng biển, góp phần giữ vững chủ<br /> quyền, an ninh vùng biển, đảo của Tổ quốc.<br /> Lao động khai thác hải sản: Tương ứng với<br /> tăng số lượng tàu cá, lao động trực tiếp khai thác<br /> thủy sản cũng tăng theo, từ 270.587 người (1990)<br /> lên gần 850.000 người (năm 2011), mỗi năm<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 201<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> bổ sung khoảng 18-20 nghìn lao động. Trình độ lao<br /> động phần lớn được đào tạo theo phương thức “cha<br /> truyền con nối”. Đội ngũ thuyền trưởng, máy trưởng<br /> hầu hết ít được đào tạo qua trường lớp chính qui,<br /> thiếu các kiến thức cơ bản để có thể sử dụng được<br /> các thiết bị hàng hải, khai thác. thiếu các kiến thức<br /> về luật hàng hải để có thể hoạt động khai thác ở<br /> những vùng biển quốc tế.Trình độ văn hoá thấp,<br /> trong đó có 8,4% mù chữ, 55,2% tốt nghiệp tiểu<br /> học, chỉ có 34,5% tốt nghiệp trung học cơ sở, 1,9%<br /> trung học phổ thông và 0,1% được đào tạo qua các<br /> trường đại học và trung học chuyên nghiệp. Xuất<br /> phát từ trình độ học vấn thấp và phong tục tập quán<br /> khác nhau ở từng vùng nên việc chuyển giao, áp<br /> dụng tiến bộ khoa học nhằm nâng cao năng suất<br /> khai thác gặp nhiều khó khăn.<br /> Công nghệ khai thác hải sản: Trong hơn một<br /> thập kỷ qua, đã có sự thay đổi, ngoài việc cải tiến<br /> các loại nghề như lưới kéo, rê, vây trong nước, việc<br /> du nhập một số nghề khai thác thủy sản khác cũng<br /> đã được thực hiện, như: Câu cá rạn (mú, hồng) từ<br /> Hồng Kông; câu cá ngừ đại dương từ Đài Loan,<br /> Nhật Bản; chụp mực kết hợp ánh sáng từ Thái Lan;<br /> lưới kéo có độ mở cao” từ Trung Quốc; đặc biệt là<br /> lưới kéo đáy, nghề lưới vây sử dụng máy dò ngang,<br /> rê 3 lớp khai thác mực nang, công bảo quản cá ngừ<br /> bằng nước biển.Các trang thiết bị trên tàu như máy<br /> bộ đàm, định vị, dò cá đã được trang bị hầu hết trên<br /> các tàu cá xa bờ tùy theo từng nghề khác nhau.<br /> Tuy nhiên, các trang thiết bị khai thác như tời thu<br /> thả lưới, máy lái tự động, cẩu được sản xuất thủ<br /> công nên tuổi thọ thấp và hiệu quả không cao dẫn<br /> đến nguy cơ mất an toàn. Mức độ công nghiệp hóa<br /> chưa cao, sự đổi mới chậm, đó là các thách thức<br /> của nghề cá nước ta trong thời gian tới. Đặc biệt<br /> là việc đánh bắt xa bờ trong điều kiện hiện nay gặp<br /> nhiều khó khăn.<br /> 4. Một số giải pháp phát triển đánh bắt xa bờ kết<br /> hợp bảo vệ chủ quyền biển đảo<br /> - Nâng cao hiệu quả phổ biến, tuyên truyền cho<br /> ngư dân<br /> Tuyên truyền khẳng định vững chắc chủ quyền<br /> biển, đảo: Tình hình Biển Đông diễn biến hết sức<br /> phức tạp, nhiệm vụ tuyên truyền đòi hỏi càng cấp<br /> thiết hơn, nhất là triển khai có hiệu quả các nội dung<br /> của Đề án tuyên truyền về biển, đảo cho cán bộ<br /> trong ngành thủy sản và ngư dân tham gia khai<br /> thác trên biển. Đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương,<br /> đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong<br /> việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo; Phổ<br /> biển các văn bản pháp lý chứng minh chủ quyền,<br /> <br /> 202 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Số 2/2015<br /> quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên<br /> các vùng biển; Tuyên truyền về Luật biển Việt Nam<br /> và các quy định khác liên quan. Khuyến khích, hỗ<br /> trợ ngư dân tham gia khai thác và kết hợp bảo vệ<br /> chủ quyền biển đảo ở các vùng biển xa.<br /> Xác định được vai trò, tầm quan trọng của ngư<br /> dân và các hoạt động liên quan đến khai thác hải<br /> sản trong thực hiện mục tiêu của Chiến lược biển<br /> phát triển và bảo vệ chủ quyền biển đảo. Nhiều hình<br /> thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật được áp dụng<br /> và phát huy hiệu quả như tài liệu tuyên truyền, sổ<br /> tay hướng dẫn, tờ rơi, các phương tiện thông tin đại<br /> chúng nhất là Đài tiếng nói Việt Nam là phương tiện<br /> tuyên truyền phù hợp, hiệu quả đối với đặc thù nghề<br /> nghiệp của ngư dân khi sản xuất trên biển, các cuộc<br /> thi,… Các nội dung liên quan đến chủ quyền, quyền<br /> chủ quyền, quyền tài phán Việt Nam trên các vùng<br /> biển, chế độ pháp lý của mỗi vùng biển, nội dung và<br /> ý nghĩa của hai Hiệp định Phân định và Hiệp định<br /> hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc bộ giữa Việt Nam<br /> và Trung Quốc còn được lồng ghép đưa vào trong<br /> chương trình của các lớp đào tạo thuyền trưởng,<br /> máy trưởng. Qua đó giúp ngư dân nhận thức được<br /> vai trò, trách nhiệm của mình trong việc phát triển<br /> khai thác hải sản gắn với bảo vệ chủ quyền, mỗi<br /> ngư dân là một chiến sỹ, họ là những công dân có<br /> mặt thường xuyên trên biển đảo.<br /> - Phải có chính sách hỗ trợ vay vốn cho<br /> ngư dân<br /> Để phát triển kinh tế biển, giữ vững chủ quyền<br /> biển đảo thì nhất thiết phải đầu tư xứng đáng cho<br /> “tam ngư” - ngư dân, ngư nghiệp, ngư trường - nhất<br /> là trong tình hình biển Đông có nhiều biến động như<br /> hiện nay. Để giúp ngư dân đầu tư phương tiện đánh<br /> bắt cá hiện đại, NHNN sẽ tích cực phối hợp với Bộ<br /> NN&PTNT, Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan<br /> đề xuất các giải pháp đồng bộ, trong đó có tín dụng<br /> ngân hàng, với Chính phủ để giúp ngư dân giải<br /> quyết vướng mắc, khó khăn có vốn phát triển đánh<br /> bắt cá xa bờ, góp phần bảo vệ chủ quyền vùng biển<br /> của Tổ quốc, hỗ trợ về đầu tư vốn, cơ chế, chính<br /> sách, cho ngư dân vay thời gian từ 5-7 năm, lãi suất<br /> ưu đãi và cho thế chấp ngay chính chiếc tàu đóng<br /> mới. Những chiếc tàu đóng mới phải hiện đại đầy<br /> đủ các máy móc thiết bị đáp ứng với những yêu cầu<br /> cần thiết đánh bắt xa bờ. Dù đã đầu tư nhiều nhưng<br /> chương trình đánh bắt xa bờ vẫn chưa phát triển<br /> mạnh, hiện vẫn còn đến 99% tàu cá là tàu gỗ. Vì vậy<br /> trong thời gian tới phải nhanh chóng hiện đại hóa<br /> đội tàu đánh bắt xa bờ bằng việc đóng mới 3.000<br /> tàu vỏ thép. Đồng thời, kiến nghị sửa đổi chính sách<br /> ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển để hỗ trợ ngư dân<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> đóng mới, hiện đại hóa tàu cá. Cụ thể là tập trung<br /> đóng tàu dịch vụ hậu cần đi kèm với các tổ đội sản<br /> xuất trên biển và các tàu khai thác đối tượng giá trị<br /> cao. Mức vay được đề xuất là 80% giá trị tàu, thời<br /> hạn 10 năm, ngắn hạn 5 năm, lãi suất 2,5%/năm với<br /> tài sản thế chấp chính là con tàu được đóng mới.<br /> - Hoàn thiện các mô hình tổ chức sản xuất<br /> trên biển<br /> Xây dựng các mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã<br /> khai thác kiểu mới theo chuỗi liên kết khai thác, dịch<br /> vụ hậu cần, chế biến và tiêu thụ sản phẩm gắn với<br /> bảo vệ an ninh, chủ quyền biển, đảo. Xây dựng các<br /> chính sách hỗ trợ tổ hợp tác, hợp tác xã khai thác<br /> theo chuỗi gắn với bảo vệ an ninh, chủ quyền biển,<br /> <br /> Số 2/2015<br /> đảo. Hỗ trợ, phát triển Hợp tác xã nghề cá, các<br /> Hiệp hội nghề cá theo nghề, địa phương. Thí điểm<br /> giao việc khai thác, kinh doanh các cảng cá, bến<br /> cá cho Hợp tác xã. Để trong quá trình đánh bắt<br /> trên biển khơi có thể hỗ trợ trong những lúc gặp<br /> bất trắc xảy ra.<br /> III. KẾT LUẬN<br /> Phát triển đội tàu khai thác xa bờ là một đòi hỏi<br /> khách quan, nó không chỉ giải quyết vấn đề kinh tế,<br /> bảo vệ nguồn lợi hải sản ven bờ vốn dĩ đã cạn kiệt,<br /> tận dụng nguồn lợi xa bờ được xem là còn nhiều<br /> tiềm năng; mà còn góp phần bảo đảm an ninh quốc<br /> phòng, giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1.<br /> <br /> Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, 2011. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Hà Nội.<br /> <br /> 2.<br /> <br /> Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2012. Đề án tổ chức lại khai thác thủy sản.<br /> <br /> 3.<br /> <br /> Vũ Văn Phúc, 2014. Phát triển kinh tế biển đảo, gắn với quốc phòng, an ninh. Tạp chí Cộng sản, số 2.<br /> <br /> 4.<br /> <br /> Quang Trung, 16/5/2014. Tam ngư và chủ quyền lãnh hải. Thời báo Kinh tế Sài Gòn.<br /> <br /> 5.<br /> <br /> Trương Minh Tuấn, 2014. Việt Nam với mục tiêu phát triển kinh tế biển, đảo bền vững trong thế kỷ của đại dương. Tạp chí<br /> Tuyên giáo, số 1.<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 203<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2