HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ TÙNG

vÊn ®Ò ph¸t triÓn nguån lùc con ng­êi

trong qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa

ë tØnh nghÖ an hiÖn nay

Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS

: 62 22 80 05 Mã số

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. TRẦN SỸ PHÁN

HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận

nêu trong luận án chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình

khoa học nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Tùng

MỤC LỤC

Trang 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN 6

ĐỀ TÀI

1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến nguồn lực con 6 người, phát triển nguồn lực con người

1.2. Những nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát triển nguồn lực 19 con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

1.3. Một số công trình, văn bản liên quan đến nguồn lực con người, 25 phát triển nguồn lực con người ở Nghệ An

33

33

54 Chương 2: PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người, các yếu tố cơ bản tác động đến phát triển nguồn lực con người ở nước ta hiện nay 2.2. Tầm quan trọng và yêu cầu cơ bản của việc phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay

80 Chương 3: PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

80 3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội ảnh hưởng đến việc phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay

88 3.2. Thực trạng nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay

99

110 3.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay Chương 4: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

110

4.1. Quan điểm định hướng phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An hiện nay 4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An hiện nay

KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

118 144 146 148 160

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

ANQP : An ninh quốc phòng

CMKT : Chuyên môn kỹ thuật

: CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

CTQG : Chính trị quốc gia

: GD-ĐT Giáo dục - đào tạo

KH-CN : Khoa học - công nghệ

KT-XH : Kinh tế - xã hội

: LĐ Lao động

LLSX : Lực lượng sản xuất

NNL : Nguồn nhân lực

SV : Sinh viên

UBND : Ủy ban nhân dân

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia,

dân tộc, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất, là yếu tố cơ bản quyết

định các nguồn lực khác; quyết định đến sự thành công hay thất bại của sự

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quá trình tiến hành công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói riêng.

Ở nhiều quốc gia trên thế giới, vấn đề nguồn lực con người luôn được

quan tâm. Hiện tượng các nước công nghiệp mới (NICs) châu Á là những minh

chứng rõ ràng nhất cho việc quan tâm đúng mức đến vai trò quyết định của

nguồn lực con người trong quá trình CNH - HĐH. Một trong những nguyên

nhân mang tính đặc trưng chung cho tất cả các nước này để đi đến thành công

chính là chỗ họ sớm nhận thức được vai trò quyết định của nguồn lực con người

và đầu tư thỏa đáng cho chiến lược con người; đặt lên hàng đầu chất lượng

nguồn lao động, đặc biệt là các yếu tố văn hóa, kỹ thuật và kỷ luật, đi trước một

bước về giáo dục và đào tạo, coi đó là chìa khóa của cánh cửa tăng trưởng, là

điều kiện đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp CNH - HĐH. Đây là một trong

những bài học hết sức bổ ích cho Việt Nam. Với ý nghĩa đó, tại Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng ta đã xác định, một trong những quan điểm

chỉ đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là: “Lấy việc phát

huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền

vững” [27, tr.85].

Hiện nay chúng ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra một

cách hết sức mạnh mẽ; toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,

đã và đang trở thành xu thế lớn của thời đại. Đây không chỉ là thách thức,

mà đó còn là thời cơ, điều kiện, là cơ hội thuận lợi để cho chúng ta có thể

2

vận dụng tiến bộ khoa học và công nghệ để đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước theo con đường rút ngắn, đi tắt, đón đầu. Để tận dụng

có hiệu quả thời cơ, vượt qua những thách thức đang phải đối mặt, chúng ta

rất cần có nguồn nội lực mạnh, trước hết là nguồn lực con người với bản

lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, trí tuệ cao, có năng lực

nắm bắt và vận dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ của nhân loại vào

điều kiện cụ thể của nước ta.

Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam không đơn giản

chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế, mà chính là quá trình biến đổi sâu sắc, toàn

diện mọi mặt đời sống xã hội nhằm đưa xã hội phát triển lên một giai đoạn

mới về chất. Để đáp ứng yêu cầu đó, phải có nguồn lực con người đủ về số

lượng, phát triển cao về chất lượng với một cơ cấu hợp lý, thật sự là động lực

cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ,

một trong ba khâu đột phá để thực hiện Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững... là “Phát triển nhanh nguồn

nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao...gắn kết chặt chẽ phát triển

nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ" [36, tr.32].

Nghệ An hiện vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, đời sống

nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, việc làm thiếu, thất nghiệp nhiều,... trong

lúc đó tiềm năng và lợi thế về nguồn lực con người cũng như tài nguyên thiên

nhiên chưa được khai thác, sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả, thậm chí

còn bị lãng phí. Rất nhiều sinh viên khi ra trường không trở về quê hương

Nghệ An công tác; rất nhiều nhà khoa học có uy tín là con em xứ Nghệ còn

công tác xa quê; không ít doanh nhân thành đạt đang hoạt động, sản xuất,

kinh doanh ngoài địa bàn tỉnh ... Tất cả đó đang ảnh hưởng không tốt đến quá

trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như quá trình đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn Nghệ An nói riêng.

3

Vậy làm thế nào để có được nguồn lực con người phát triển cả về số

lượng lẫn chất lượng, hợp lý về cơ cấu (theo ngành, vùng, lĩnh vực kinh tế, theo

trình độ, độ tuổi,...); làm thế nào để khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả

nhất nguồn lực con người - với tư cách là nguồn lực nội tại, cơ bản và có ý

nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung, đối với quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng; làm thế nào hướng sự phát triển

kinh tế- xã hội do chính con người tạo ra vào phục vụ con người một cách tốt

nhất; làm thế nào thu hút được lực lượng lao động chất lượng cao về Nghệ An

công tác v.v. Đó là những câu hỏi đã và đang được đặt ra và cần sớm có lời

giải đáp. Đề tài "Vấn đề phát triển nguồn lực con người trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay" mà nghiên cứu sinh lựa

chọn làm luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành CNDVBC và CNDVLS muốn

góp một phần nhỏ vào việc giải quyết vấn đề lớn trên đây.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích thực trạng, tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản việc

phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước nói chung, ở tỉnh Nghệ An nói riêng, luận án đề xuất quan điểm định

hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực con người

trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nghệ An hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất: phân tích thực trạng, tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản của việc

phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ở nước ta hiện nay.

Thứ hai: Phân tích thực trạng nguồn lực con người và thực trạng phát

triển nguồn lực con người ở tỉnh Nghệ An trong những năm qua và những vấn

đề đặt ra.

4

Thứ ba: Đề xuất quan điểm định hướng và một số giải pháp chủ yếu

nhằm phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở Nghệ An hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Vấn đề phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Vấn đề phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay (các số liệu chủ yếu từ năm 2000 trở lại đây).

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Cơ sở lý luận

- Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản

Việt Nam về con người, nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người

trong quá trình phát triển xã hội nói chung, quá trình trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nói riêng. Ngoài ra luận án còn kế thừa những kết quả đạt được

của một số công trình khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ

nghĩa DVBC và CNDVLS, kết hợp với các phương pháp lôgíc - lịch sử; quy

nạp và diễn dịch; khái quát hóa - trừu tượng hóa; thống kê - so sánh; phương

pháp xử lý số liệu.v.v.Trên cơ sở xác định phương pháp như trên, trước khi phân

tích thực trạng phát triển nguồn lực con người ở Nghệ An, tác giả luận án đi từ

quan niệm chung về nguồn nhân lực (nguồn lực con người), phát triển nguồn

nhân lực ở Việt Nam - có tham khảo thêm một số tư liệu nước ngoài- lấy đó làm

cơ sở để phân tích thực trạng phát triển nguồn lực con người ở Nghệ An từ đó đề

5

xuất quan điểm định hướng và tìm giải pháp để phát triển nguồn lực con người

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nghệ An hiện nay.

5. Đóng góp mới của luận án

- Luận án góp phần làm rõ vai trò của việc phát triển nguồn lực con

người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, ở

tỉnh Nghệ An nói riêng.

- Đề xuất quan điểm định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát

triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

Nghệ An hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Luận án góp phần luận giải vai trò, tầm quan trọng của việc phát triển

nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

nói chung, ở tỉnh Nghệ An nói riêng.

- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu,

giảng dạy và những ai quan tâm đến vấn đề phát triển nguồn lực con người

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, ở tỉnh

Nghệ An nói riêng.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

Luận án gồm 4 chương, 7 tiết.

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NGUỒN

LỰC CON NGƯỜI, PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI

Có thể nói rằng trong nhiều thập niên gần đây vấn đề nguồn lực con

người, phát triển nguồn lực con người đã thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều

học giả ở nhiều nước và vùng lãnh thổ khác nhau. Nhóm các công trình nghiên

cứu liên quan đến vấn đề này chiếm một số lượng khá lớn, có thể nói đến mức

chúng ta không thể nào bao quát hết. Trong số đó có thể đề cập đến một số

công trình sau đây.

Các tác giả Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu trong cuốn: Tôn trọng trí

thức tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước [52] cho rằng

nhân tài là then chốt của phát triển, “Sự hưng suy, thành bại của một quốc gia,

một dân tộc không ở nguồn vốn, không ở thiết bị, mà then chốt là ở chỗ có

hay không có hàng loạt nhân tài kiệt xuất” [52, tr.77]. Để minh chứng cho lập

luận này, các tác giả đưa ra số liệu: “Tỷ trọng của nhân tố trí lực trong sự tăng

trưởng tổng sản phẩm quốc dân ở các nước phát triển đã tăng từ 5% - 20%

đầu thế kỷ này lên 60% - 80% trong những năm 80 của thế kỷ” [52, tr.95].

Nghĩa là phải có nguồn lực con người, nhất là nguồn lực chất lượng cao. Theo

các tác giả việc bồi dưỡng và giáo dục nhân tài liên quan trực tiếp đến nhu

cầu chiến lược của cách mạng và xây dựng. Do đó “giải quyết tốt việc đào tạo

lớp người kế tục là một vấn đề chiến lược, là một vấn đề lớn quyết định tới lợi

ích lâu dài và sự sinh tử, tồn vong của Đảng và Nhà nước Trung Quốc”.

Không chỉ nêu lên vị trí, vai trò của nhân tài, nhân lực trong cách mạng

và xây dựng. Các tác giả còn có những luận giải khá sâu sắc về con đường và

phương pháp tuyển chọn nhân tài; sử dụng và bố trí nhân tài sao cho có hiệu

7

quả, mang lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc. Trong đó các tác giả đặc biệt coi

trọng việc “tạo môi trường cho nhân tài phát triển” [52, tr.280] và “cải cách

chế độ nhân sự” [52, tr.323].

“Nhân tài” được đề cập đến trong tác phẩm này bao chứa nội hàm khá

phong phú, “nhân tài tuyệt nhiên không chỉ là một số ít những nhân vật thiên

tài, nhân vật vĩ đại, mà các nhân tài chuyên môn và công nhân, nông dân tiên

tiến đều là nhân tài” [52, tr.28]. Về thực chất thì đây là bộ phận tương đối ưu

tú trong lực lượng lao động xã hội, trong nguồn nhân lực.

Kết quả nghiên cứu của công trình này giúp cho NCS có được cách nhìn

khái quát hơn về tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là

nguồn nhân lực chất lượng cao trong phát triển kinh tế xã hội, trong quá trình

CNH, HĐH đất nước cũng như việc tìm kiếm giải pháp để phát triển nguồn

nhân lực ở nước ta hiện nay.

GS.Geoffrey B.Hainsworth với bài “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng

với những thách thức của quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ và một nền kinh tế

dựa trên những hiểu biết mới” trong cuốn Lao động, việc làm và nguồn nhân

lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới [45]. Tác giả bài viết có cách tiếp cận khá

độc đáo khi đặt các câu hỏi: Làm thế nào để mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp

và viễn cảnh cuộc sống dân cư nông thôn - những người đang nắm giữ những

nguồn lực to lớn nhất và chưa được phát huy của quốc gia? Làm cách nào để

họ hiển nhiên nhận được sự quan tâm đặc biệt của những nhà hoạch định

chính sách và nhà tài trợ v.v. Từ đó, tác giả phân tích 3 vấn đề để tìm câu trả

lời: 1) Về phạm vi giáo dục, đào tạo nghề. Tác giả khẳng định, nền văn hoá

Việt Nam luôn có truyền thống tôn trọng học vấn, trước thời kỳ đổi mới mặc

dù gặp nhiều khó khăn Việt Nam vẫn đạt được mức độ biết chữ và bình đẳng

về giới rất đặc biệt, nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường (KTTT) thì

tỷ lệ bỏ học cao ở cấp trung học. Từ đó tác giả lập luận: mức học phí, sự thiếu

8

hụt kinh niên số giáo viên mới vào nghề ở mỗi cấp học, tiền lương thấp so với

các ngành nghề khác... làm hạn chế phạm vi GD - ĐT nghề; 2) Về tăng cường

sử dụng LLLĐ và mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp. Tác giả nhận định, mặc

dù tỷ trọng GDP tương đối của ngành nông nghiệp giảm so với công nghiệp

và dịch vụ nhưng sự thay đổi cơ cấu trong sử dụng lao động hầu như không

biến động về mặt việc làm. Vì vậy, theo tác giả cần thực hiện cải cách chương

trình đào tạo và các cải cách giáo dục khác bao gồm tăng số lượng phòng học,

tăng số lượng giáo viên, nâng cấp trang thiết bị phục vụ giảng dạy, tăng tiền

lương... 3) Về cơ cấu ngành nghề, lựa chọn công nghệ và sở hữu doanh

nghiệp. Tác giả cho rằng, đối với một nước mới thực hiện CNH như Việt

Nam nên phát triển ngành chế tạo, chế biến và các dịch vụ đi kèm, đồng thời

không thể lựa chọn công nghệ cao mà cần lựa chọn công nghệ phù hợp như

công nghệ phần mềm, nghiên cứu cơ bản.

Ngoài bài viết của GS.Geoffrey B.Hainsworth ra còn có các bài viết của

các nhà nghiên cứu khác như: TS.Nolwen Henaff, TS.Jean - Yves Martin,

GS.Geoffrey B.Hainsworth, TS.Fiona Hơwell, TS.Nguyễn Hữu Dũng,

TS.Trần Khánh Đức, PGS.Võ Đại Lược, TS.Trần Tiến Cường v.v. bàn về lao

động, việc làm và nguồn nhân lực. Tuy nhiên chưa có bài viết nào bàn chính

diện về tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt giải pháp để phát triển nguồn nhân lực vẫn

còn hết sức mờ nhạt.

Năm 2010, Nhà xuất bản Kinh tế quốc dân có biên dịch cuốn: Chuyển

hóa nguồn nhân lực [109] của các tác giả người Anh là TS William

J.Rothwell - chuyên gia cao cấp về nguồn nhân lực, giáo sư đào tạo và phát

triển lực lượng lao động tại Đại học bang Peennsylvania; TS Robert

K.Prescott - chuyên gia cao cấp về nguồn nhân lực, Phó giáo sư ngành quản

lý nguồn nhân lực tại Khoa Kinh tế sau đại học Crummer, Đại học Rollins và

9

TS Maria W.Taylor - Giám đốc giải pháp học tập của Công ty dịch vụ chuyên

nghiệp Raytheon- một trong những công ty hàng đầu trên thế giới về dịch vụ

học tập và thuê ngoài.

Cuốn sách gồm 3 phần, phần một bàn về “Chuyển hóa nguồn nhân lực”;

phần hai nói về sự cần thiết phải “Quan tâm đến các xu hướng tương lai”;

phần ba “Thiết lập vai trò mới của lãnh đạo nguồn nhân lực”.

Mục đích chính của cuốn sách là bàn về Chuyển hóa nguồn nhân lực,

không trực tiếp bàn đến phát triển nguồn lực con người, tuy nhiên những luận

giải của các tác giả liên quan đến nguồn lực con người là tài liệu tham khảo

bổ ích, nhất là sự luận giải của các tác giả về quan niệm “con người là tài sản

quý nhất”. Theo các tác giả “Để tối đa hóa thành tố con người, phải thiết kế

cơ cấu của tổ chức, hệ thống kế hoạch và kiểm soát, quản lý nguồn nhân lực

và văn hóa… hệ thống và các chính sách được xây dựng cho việc tuyển dụng,

duy trì, đào tạo và phát triển nghề nghiệp” [109, tr.56-57]. Đây là những gợi

mở cho chúng ta khi bàn về các giải pháp phát triển nguồn lực con người

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đặc biệt các tác giả rất quan tâm đến việc tăng cường tầm quan trọng

của vốn tri thức. Các tác giả đã dẫn lời của Peter Drucker rằng: “Tăng trưởng

kinh tế có thể chỉ đến từ sự gia tăng liên tục và mạnh mẽ năng suất lao động

của nguồn nhân lực trong đó các quốc gia phát triển vẫn có thể cạnh tranh (và

họ sẽ tiếp tục duy trì được vị thế này trong vài thập kỷ nữa), tri thức và nhân

công có tri thức” [109, tr.72]. Quan niệm này dường như có gì đó tương đồng

với chủ trương phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở nước ta.

Gần đây, nhà xuất bản Nhân dân Giang Tô (Trung Quốc) có ấn hành

cuốn Nhân tài nguồn tài nguyên số 1 của Trương Hạo Hàm, Hoàng Duy [50].

Cuốn sách gồm 12 chương, trong đó Chương II khẳng định “Nhân tài là lực

lượng tiên tiến trong nguồn tài nguyên con người” [50, tr.35]; “Nhân tài là

10

nền tảng cho đất nước phát triển phồn thịnh… ảnh hưởng đến tiến trình tương

lai của thế giới” [50, tr.37-38]. Do nhân tài có vị trí quan trọng trong quá trình

phát triển xã hội, do đó cần có chiến lược đào tạo, sử dụng nhân tài và phát

huy hiệu quả của nhân tài. Điều này được trình bày trong Chương VII,

Chương VIII, trong đó các tác giả nhấn mạnh “Phải dùng nhân tài vào việc

thích hợp và đúng sở trường thì mới thể hiện được giá trị của nhân tài… phải

đặt những nhân tài có sở trường đặc trưng vào các vị trí thích hợp” [50, tr.159].

Muốn có nhân tài phải “Học hỏi kinh nghiệm đầu tư cho nhân tài của các nước

phát triển” [50, tr.178]; phải “Chú trọng đầu tư chiến lược cho phát triển nhân

tài… Xây dựng cơ chế đầu tư nhân tài đa nguyên hóa” [50, tr.187-203].

Cuốn sách tuy bàn về “lực lượng tiên tiến trong nguồn tài nguyên con

người” nhưng đây là những gợi mở có giá trị tham khảo để phát triển nguồn lực

con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.

Không chỉ có các học giả nước ngoài, trong nhiều thập kỷ gần đây, các

học giả trong nước, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng cho ra mắt bạn đọc

nhiều công trình khoa học liên quan đến vấn đề nguồn lực con người và phát

triển nguồn lực con người. Chẳng hạn, năm 2003, Nxb Khoa học - Xã hội, Hà

Nội có ấn hành cuốn: Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục- đào tạo -

Kinh nghiệm Đông Á, của tác giả Lê Thị Ái Lâm [70]. Cuốn sách là một công

trình nghiên cứu khoa học công phu, tiếp cận theo chuyên ngành kinh tế thế

giới và quan hệ kinh tế quốc tế, được chia làm 3 phần: phần thứ nhất, tác giả

đưa ra các luận giải lý thuyết về phát triển NNL thông qua GD - ĐT trên cơ

sở trình bày khái niệm phát triển nguồn nhân lực, phát triển con người, mối

quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực với CNH đồng thời tác giả đã đưa một

bộ khung lý thuyết với các luận điểm chính: nguồn nhân lực đóng góp cho

tăng trưởng kinh tế; nguồn nhân lực đóng góp cho nâng cao năng suất LĐ,

tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo và bất bình đẳng; xu thế phát triển kinh tế

11

tri thức và toàn cầu hoá tạo ra nhu cầu đại chúng đối với NNL chất lượng

cao;... phần thứ hai, với 4 chương, tác giả tập trung vào phân tích thực tiễn

phát triển nguồn nhân lực thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Chương 1: Vai trò

phát triển NNL thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Tác giả phân tích vai trò phát

triển NNL thông qua GD - ĐT bằng những dẫn chứng thực tiễn từ các nền

kinh tế, các ngành và công ty đã chứng minh những luận điểm mà tác giả đưa

ra là có cơ sở. Chương 2: Chiến lược CNH và sự phù hợp lẫn nhau với phát

triển nguồn nhân lực thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Ở chương này, tác giả

trình bày 4 điều kiện thuận lợi bên ngoài và lợi thế bên trong để các nước

Đông Á xây dựng chiến lược CNH. Đặc biệt, tác giả đã phác thảo 4 giai đoạn

CNH và 4 giai đoạn này đặt ra những yêu cầu khác nhau của nguồn nhân lực.

Chương 3: Điều chỉnh phát triển nguồn nhân lực thông qua GD - ĐT ở Đông

Á. Trên cơ sở phác hoạ 4 giai đoạn của CNH, tác giả cho rằng, mỗi giai đoạn

có những yêu cầu khác nhau về phát triển NNL nên giáo dục cũng cần có sự

điều chỉnh thích hợp. Vì vậy, chương này tác giả nghiên cứu quá trình điều

chỉnh ở Đông Á trên các khía cạnh: mở rộng cơ hội đó cũng như xem xét các

yếu tố dẫn đến tiếp nhận giáo dục phổ thông theo tiến trình CNH; phát triển

hệ thống GD - ĐT nghề; xây dựng hệ thống giáo dục ĐH chất lượng cao.

Chương 4: Vấn đề và giải pháp hiện nay của phát triển nguồn nhân lực thông

qua GD - ĐT Đông Á. Tác giả phân tích một số vấn đề trong hệ thống phát

triển NNL thông qua GD - ĐT ở Đông Á. Đáng chú ý là tác giả trình bày các

giải pháp phát triển NNL cho kinh tế tri thức ở Đông Á: nâng cao nhận thức

xã hội về học tập suốt đời; nhấn mạnh đào tạo lại và đào tạo nâng cao; cải

cách hệ thống giáo dục chính quy; khuyến khích và phát triển các hệ thống

giáo dục không chính quy; Phần thứ ba, là sự tổng kết toàn bộ những bài học

rút ra từ thực tiễn đã phân tích ở chương 3, 4, 5. Có 5 bài học được rút ra và

phân tích trong chương thứ 6 và chương thứ 7 đưa ra một số lưu ý về bối cảnh

12

phát triển NNL thông qua GD - ĐT hiện nay của Việt Nam, so sánh những

nét tương đồng và khác biệt về phát triển nguồn nhân lực thông qua GD - ĐT

ở Đông Á và Việt Nam, từ đó nêu ra 6 gợi ý để phát triển NNL thông qua GD

- ĐT ở Việt Nam đến 2010.

Có thể nói, cuốn sách đã trình bày một cách khá hệ thống nhiều vấn đề lý

luận liên quan đến nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực nhưng chỉ dưới

tác động của giáo dục - đào tạo, so với vấn đề mà NCS lựa chọn thì cách tiếp cận

này dường như là hẹp hơn rất nhiều. Nhưng dẫu sao thì đây cũng là tài liệu tham

khảo hết sức bổ ích để tác giả thực hiện luận án của mình.

Năm 2004, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội cho ấn hành cuốn

“Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do

Phạm Thành Nghị và Vũ Hoàng Ngân (chủ biên) [97]. Cuốn sách đã đi sâu

phân tích cơ sở khoa học về quản lý nguồn nhân lực cũng như các yếu tố tác

động đến quản lý nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ CNH, HĐH. Ngoài

ra, các tác giả có đưa ra một số kinh nghiệm quản lý phát triển nguồn nhân

lực ở một số nước trên thế giới. Cho dù các tác giả chưa đề cập một cách trực

tiếp đến nội hàm phát triển nguồn nhân lực hay các giải pháp để phát triển

nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhưng

đây là tài liệu quý để tác giả tham khảo khi đề xuất các giải pháp - nhất là vấn

đề sử dụng, quản lý nguồn nhân lực.

Cuốn Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, của tác giả Nguyễn Thanh [114], cũng là một trong những công

trình khoa học bàn một số vấn đề liên quan đến đề tài của luận án. Cuốn sách

gồm ba phần, phần thứ nhất, tác giả trình bày một cách khái lược quan niệm

của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về

phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực, từ đó tác giả cho rằng: trong

các nguồn lực thì nguồn lực con người có vai trò quyết định đối với quá trình

13

CNH, HĐH ở nước ta; Phần thứ hai, tác giả đánh giá khái quát thực trạng

NNL ở nước ta trên các khía cạnh: về số lượng, cơ cấu, trí lực, trình độ

chuyên môn kỹ thuật (CMKT)... trên cơ sở đó tác giả đưa ra những định

hướng phát triển NNL có chất lượng đáp ứng được đòi hỏi của CNH, HĐH

bao gồm: gắn phát triển NNL với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển KT - XH;

gắn phát triển NNL với quá trình dân chủ hoá, nhân văn hoá đời sống xã hội,

khai thác có hiệu quả các giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại; nâng cao chất

lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ KH - CN; xây dựng chiến lược con

người trên cơ sở đó, phát triển NNL có chất lượng cho CNH, HĐH; Phần thứ

ba, làm rõ vai trò của giáo dục với tư cách là yếu tố quyết định trong chiến lược

phát triển con người, phát triển NNL có chất lượng phục vụ sự nghiệp

CNH,HĐH đất nước.

Tác giả Đoàn Văn Khái có cuốn Nguồn lực con người trong quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam [66]. Trong cuốn sách này, tác giả

đã trình bày bản chất, đặc trưng và tính tất yếu của CNH, HĐH ở Việt Nam

hiện nay, phân tích vai trò của nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự

nghiệp CNH, HĐH đất nước, tác giả cũng đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm

khai thác và phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH,

HĐH ở Việt Nam.

Ở chương 1, tác giả phân tích một số vấn đề chung về CNH, HĐH,

nhưng đáng chú ý nhất là sự khái quát các mô hình CNH trên thế giới. Ở

chương 2, tác giả đưa ra khái niệm nguồn lực con người với nội hàm rộng bao

hàm 6 mặt cơ bản và xuất phát từ vị trí, đặc điểm của nguồn lực con người

trong quan hệ so sánh, quan hệ tác động với các nguồn lực khác và nhấn

mạnh, trong điều kiện kinh tế tri thức vai trò của nguồn lực con người càng

tăng lên gấp bội nhờ phát huy sức mạnh trí tuệ, nó trở thành nguồn lực của

mọi nguồn lực. Trong chương 3 và chương 4, tác giả đánh giá một cách toàn

14

diện thực trạng và đặc điểm nguồn lực con người của nước ta từ năm 2001

- 2005 về số lượng, cơ cấu, chất lượng và rút ra 6 nhận xét, từ đó tác giả

cho rằng, nguồn lực con người của nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu

CNH, HĐH. Để đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH đòi hỏi người LĐ phải

có năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi và kỹ năng LĐ giỏi, do đó tác giả

đề xuất 3 nhóm giải pháp lớn để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn

lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH: nhóm giải pháp về khai thác

hợp lý, có hiệu quả nguồn lực con người; nhóm giải pháp về phát triển

nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH; nhóm giải pháp về xây

dựng môi trường xã hội thuận lợi, phục vụ cho việc khai thác, sử dụng có

hiệu quả nguồn lực con người.

Trong cuốn Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện đại

hóa - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam [117], tác giả Vũ Bá Thể đã

phân tích, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến nguồn nhân lực cũng

như kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở một số nước như Nhật Bản, Mỹ,

các nước Châu Á - Thái Bình Dương.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng nguồn nhân lực nước ta cả về quy mô, tốc

độ, chất lượng; từ kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở một số nước, tác

giả đề xuất 4 giải pháp nhằm phát triển NNL của Việt Nam trong thời gian

tới: nhóm giải pháp phát triển giáo dục phổ thông; nhóm giải pháp phát triển

giáo dục CĐ, ĐH và trên ĐH; nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng

NNL hiện có; nhóm giải pháp nâng cao trạng thái sức khoẻ NNL.

Cuốn An sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực, của Mạc Văn Tiến

[120], tập hợp các bài viết trong nhiều năm của tác giả. Cuốn sách được chia

làm 3 phần: phần thứ nhất tập hợp một số bài viết liên quan đến vấn đề an

sinh xã hội; phần thứ hai gồm những bài viết về bảo hiểm xã hội; phần thứ ba

tập hợp những bài viết về phát triển nguồn nhân lực. Trong phần thứ ba, có

15

nhiều bài viết mà NCS có thể tham khảo, kế thừa và phát triển trong quá trình

thực hiện luận án như: một số vấn đề về phát triển NNL ở nước ta; phát triển

NNL và chính sách phát triển NNL của một số nước; phát triển NNL và chính

sách phát triển NNL thời kỳ CNH, HĐH; thực trạng chất lượng NNL ở Việt

Nam... Trong đó đáng chú ý là bài viết: Vai trò của nguồn nhân lực trong nền

kinh tế thị trường.

Theo tác giả, nhân loại đang đứng trước thềm của sự phát triển mới của

xã hội loài người là chuyển sang nền kinh tế tri thức, nhưng đối với Việt Nam

mới bước đầu tiến hành CNH, HĐH, vì vậy phải đi tắt, đón đầu nếu không

chúng ta sẽ bị tụt hậu xa hơn so với các nước trên thế giới. Để làm được điều

đó, theo tác giả không có con đường nào tốt hơn là phải chú trọng phát triển

nguồn nhân lực.

Trong cuốn: Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển

vọng do Nguyễn Văn Khánh (Chủ biên) [67]. Cuốn sách gồm 4 chương.

Chương 1 giải quyết “Những vấn đề lý luận chung về trí tuệ, nguồn lực trí

tuệ, xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ”. Chương 2 bàn về “Kinh nghiệm

xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ của Việt Nam và một số nước trên thế

giới”. Chương 3 đề cập đến “Thực trạng nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong các

lĩnh vực của đời sống xã hội” và chương 4 chủ yếu bàn về “Xây dựng và phát

huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước”. Đối

tượng được các tác giả đề cập đến trong cuốn sách này là nguồn lực trí tuệ,

chứ không phải nguồn nhân lực nói chung, nhưng những luận giải cũng như

phương pháp tiếp cận vấn đề của các tác giả có nhiều điểm có thể kế thừa

trong quá trình NCS triển khai mục tiêu và nhiệm vụ của luận án.

Khai thác và phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam là cuốn sách do

Nguyễn Văn Phúc và Mai Thị Thu, đồng chủ biên [107]. Nội dung cuốn sách

được trình bày trong 3 chương. Chương 1 “Tài nguyên nhân lực Việt Nam”.

16

Chương 2 “Thực trạng khai thác và phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam”.

Chương 3 “Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác, phát triển

tài nguyên nhân lực Việt Nam giai đoạn 2012-2020”. Tuy không thật đồ sộ,

nhưng cuốn sách đã cung cấp cho chúng ta bức tranh khá toàn diện về khai

thác và phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam. Những phân tích của các tác

giả về Những nhân tố tác động tới sự phát triển của tài nguyên nhân lực Việt

Nam [107, tr.47- 92] hay thực trạng khai thác và phát triển tài nguyên nhân

lực Việt Nam [107, tr.93- 161].v.v.. là tư liệu tham khảo trực tiếp mà NCS có

thể kế thừa.

Tạp chí Triết học (số 2 - 1994) có bài “Nguồn nhân lực trong công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn [10].

Trong bài viết này, người viết đã phân tích, làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên

quan đến nguồn nhân lực, chỉ ra tầm quan trọng, yêu cầu phát triển nguồn

nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong bài “Nguồn lực con người và phát triển nền kinh tế tri thức”,

đăng ở Tạp chí Khoa học Xã hội (2008) tác giả Phạm Thị Hồng Điệp [39] đã

có những luận giải về vai trò của nguồn lực con người trong nền kinh tế tri

thức. Theo tác giả trong điều kiện kinh tế tri thức, lợi thế cạnh tranh giữa các

quốc gia, dân tộc thuộc về nguồn nhân lực được đào tạo một cách cơ bản, có

hệ thống và một khi nguồn nhân lực này được khai thác một cách hợp lý thì

nó sẽ không ngừng gia tăng giá trị của nó.

Tạp chí Triết học số 1- 2004 có đăng bài viết của Nguyễn Đình Hòa về

“Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa” [53]. Trong bài viết này, tác giả đã góp phần làm sáng tỏ một số khái

niệm, phạm trù trung tâm, như: nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực; công

nghiệp hóa, hiện đại hóa v.v.. cũng như mối quan hệ biện chứng giữa phát triển

nguồn nhân lực với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

17

Tác giả Phạm Công Nhất trong bài “Nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế”, đăng ở Tạp chí Cộng sản,

(2008) (số7/151). http:/www.tapchicongsan.org.vn [101]. đã có những đánh

giá về thực trạng phát triển nguồn nhân lực của nước ta trong thời gian qua và

khẳng định Việt Nam có khả năng trong việc tận dụng các thời cơ để phát

triển kinh tế- xã hội một cách năng động trên cơ sở nguồn nhân lực của mình.

Tuy nhiên, hiện tại Việt Nam đang phải từng bước vượt qua những thách thức

ngày càng trở nên gay gắt trong việc xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng

cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước đang trong quá trình đổi mới và

hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Trong luận án tiến sỹ Triết học: Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đà Nẵng, (2008), tác giả Dương Anh Hoàng [55]

đã phân tích, bước đầu làm sáng tỏ một số khái niệm công cụ như nguồn nhân

lực, phát triển nguồn nhân lực. Theo cách tiếp cận của mình, tác giả cho rằng,

nội hàm của khái niệm nguồn nhân lực bao gồm 2 yếu tố cơ bản cấu thành, đó

là số lượng nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực. NCS cho rằng đây

là cách tiếp cận hợp lý, mang tính khái quát triết học. Đặc biệt trong công

trình của mình, tác giả đã chỉ ra được 3 điểm tương đồng và 3 điểm khác biệt

trong phát triển nguồn nhân lực giữa Việt Nam và các nước trong khu vực để

từ đó rút ra 4 bài học kinh nghiệm về phát triển NNL cho Việt Nam nói chung

và Đà Nẵng nói riêng; làm rõ 4 đặc điểm cơ bản của quá trình CNH, HĐH ở

Đà Nẵng và theo tác giả chính những đặc điểm này quy định chiến lược phát

triển NNL của Đà Nẵng. Sau khi phân tích thực trạng phát triển NNL của Đà

Nẵng thời gian qua, tác giả đưa ra 3 quan điểm có tính chất định hướng và đề

xuất 4 giải pháp để phát triển NNL cho CNH, HĐH ở Đà Nẵng trong thời

gian tới. Các giải pháp được tác giả luận án đề cập đến đó là: phát triển KT -

XH, nâng cao chất lượng GD - ĐT, phát triển KH - CN và xây dựng nếp sống

18

văn minh đô thị. Trong đó giải pháp nâng cao chất lượng GD - ĐT được tác

giả phân tích khá thuyết phục.

Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở một địa phương thuộc khu vực miền trung có nhiều điểm tương

đồng với phạm vi đề tài nghiên cứu của NCS, do đó những kết quả đạt được

của luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho NCS trong quá trình thực hiện

luận án của mình.

Từ góc độ kinh tế học, tác giả Bùi Sỹ Lợi nghiên cứu vấn đề: Phát triển

nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hoá

đến năm 2010 [78]. Đây là Luận án tiến sỹ Kinh tế học của tác giả bảo vệ năm

2002. Với cách tiếp cận liên ngành, tác giả luận án đã tập trung làm rõ một số

khái niệm công cụ, như khái niệm nhân lực, con người, nguồn nhân lực và phát

triển nguồn nhân lực. Một trong những nội dung của luận án là việc phác thảo

những đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực; phân tích 3 nhóm nhân tố tác

động đến phát triển NNL: nhóm nhân tố về mặt tự nhiên, nhóm nhân tố về KT

- XH, nhóm nhân tố thuộc về cơ chế chính sách cũng như việc phân tích, đánh

giá thực trạng phát triển NNL ở tỉnh Thanh Hoá từ năm 1996 đến năm 2000.

Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra 4 quan điểm và đề xuất 5 nhóm giải pháp để phát

triển NNL trong thời kỳ CNH, HĐH ở Thanh Hoá đến năm 2010. Đây là một

trong những gợi mở hữu ích đối với NCS trong quá trình thực hiện đề tài

nghiên cứu của mình.

Năm 2013, NCS Nguyễn Thị Giáng Hương đã bảo vệ thành công luận án

tiến sĩ triết học, chuyên ngành CNDVBC và CNDVLS với đề tài: Vấn đề phát

triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay [59]. Trong luận

án này ngoài việc làm rõ một số khái niệm công cụ, như: nguồn nhân lực;

nguồn nhân lực nữ; nguồn nhân lực nữ chất lượng cao v.v. tác giả đi sâu phân

tích tầm quan trọng, nét đặc thù cũng như những yếu tố cơ bản tác động đến

19

việc phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay. Trên cở

sở khảo sát thực trạng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam,

tác giả đề xuất ba nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực nữ

chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay. Đó là nhóm giải pháp kinh tế, văn hóa, xã

hội; nhóm giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của chủ thể và toàn xã hội trong

việc phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay và

nhóm giải pháp thuộc về công cụ pháp lý.

Khảo sát một số công trình nghiên cứu trên đây cho thấy một số vấn đề lý

luận chung về nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người đã được

một số tác giả đề cập đến trong một số công trình khoa học của mình. Phần lớn

các kết quả nghiên cứu đó (trực tiếp hay gián tiếp) đều cho rằng trong các

nguồn lực của sản xuất, nguồn lực con người giữa vai trò quan trọng nhất và,

để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đảm

bảo cả về số lượng và chất lượng, hợp lý về cơ cấu.

Tuy nhiên các công trình đó hoặc là nghiên cứu ở tầm vĩ mô, hoặc là ở

một địa phương nào đó chứ chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách

hệ thống, căn bản (từ góc độ triết học cũng như các lĩnh vực khoa học khác) về

phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

Nghệ An hiện nay. Đây là vấn đề luận án cần phải đi sâu nghiên cứu.

1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN

ĐẠI HOÁ

Do mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là phân tích tầm quan

trọng của việc phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, ở tỉnh Nghệ An nói riêng, từ đó đề xuất

quan điểm định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn lực

con người trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nghệ An

20

hiện nay, nên vấn đề CNH, HĐH - với tư cách là bối cảnh để phát triển nguồn

lực con người - không được tác giả tổng quan thành một mục riêng.

Có thể thấy rằng những công trình nghiên cứu chuyên biệt về giải pháp

phát triển nguồn lực con người không nhiều, sự nghiên cứu đó thường chiếm

một dung lượng không lớn trong một số công trình có liên quan đến nguồn

nhân lực, đến phát triển nguồn lực con người. Trong một số cuốn sách, bài

viết nhất là trong các luận án, luận văn có liên quan đến vấn đề này, việc đề

xuất các giải pháp để phát triển nguồn lực con người thường xuất hiện sau khi

khảo sát thực trạng nguồn nhân lực hay phát triển nguồn nhân lực.

Một trong những nghiên cứu trực diện về vấn đề này đó là đề tài nghiên

cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III "Những

giải pháp phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở thành phố Đà Nẵng” năm 2005, do Nguyễn Văn Nam làm chủ

nhiệm [95]. Đề tài đã nêu được thực trạng nguồn lực con người ở thành phố

Đà Nẵng, từ những thực trạng đó, đề tài nêu lên các phương hướng, giải pháp

chủ yếu nhằm phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố.

Tác giả Đoàn Văn Khái trong cuốn: Nguồn lực con người trong quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà

Nội-2005 [66], sau khi trình bày bản chất, đặc trưng và tính tất yếu của công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, phân tích vai trò của nguồn lực

con người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, tác giả đề xuất 3 nhóm giải pháp lớn để khai thác và sử dụng có hiệu

quả nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó

là: 1) nhóm giải pháp về khai thác hợp lý, có hiệu quả nguồn lực con

người; 2) nhóm giải pháp về phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu

cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và 3) nhóm giải pháp về xây dựng môi

21

trường xã hội thuận lợi, phục vụ cho việc khai thác, sử dụng có hiệu quả

nguồn lực con người.

Cũng trong năm 2005, tác giả Vũ Bá Thể trong cuốn: Phát huy nguồn lực

con người để công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn

Việt Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội [117], đã đề xuất 4 giải pháp nhằm

phát triển NNL của Việt Nam trong thời gian tới: nhóm giải pháp phát triển

giáo dục phổ thông; nhóm giải pháp phát triển giáo dục cao đẳng, đại học và

trên đại học; nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng NNL hiện có; nhóm

giải pháp nâng cao trạng thái sức khoẻ NNL. Trong nhóm các giải pháp được

tác giả đề cập đến, nhóm giải pháp nâng cao trạng thái sức khoẻ nguồn nhân

lực là một trong những điểm đáng chú ý, trong điều kiện cho phép chúng ta

quan tâm đến vấn đề chất lượng dân số.

Trong cuốn: Khai thác và phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam các

tác giả Nguyễn Văn Phúc và Mai Thị Thu (đồng chủ biên, được Nxb CTQG

ấn hành năm 2012) [107], đã đưa ra “Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu

quả khai thác, phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam giai đoạn 2012-

2020”. Theo đó, nhóm thứ nhất bao gồm “Những giải pháp nâng cao hiệu quả

khai thác, sử dụng tài nguyên nhân lực Việt Nam” [107, tr.198-214]; nhóm

thứ hai, “Nhóm giải pháp phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam” [107,

tr.215-245]. Trong nhóm giải pháp này, các tác giả đặc biệt quan tâm đến giải

pháp “Cải cách và nâng cấp hệ thống đào tạo và phát triển tài nguyên nhân

lực” [107, tr.218-223]. Điều này xuất phát từ thực trạng “Trình độ chuyên

môn, kỹ thuật thấp… số lao động đã qua đào tạo của Việt Nam thuộc loại

thấp trong khu vực cũng như trên thế giới. Năm 2010… số lao động được các

cơ sở đào tạo, dạy nghề cấp bằng, chứng chỉ chuyên môn nghiệp vụ (tức là số

lao động có nền tảng kiến thức nghề nghiệp cơ bản) chỉ chiếm gần 17,2%

tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế” [107, tr.104].

22

Từ phương pháp tiếp cận mang tính liên ngành của triết học, sử học, xã

hội học, khoa học chính sách và khoa học dự báo, các tác giả trong cuốn:

Nguồn lực trí tuệ Việt Nam- Lịch sử, hiện trạng và triển vọng (Nguyễn Văn

Khánh, chủ biên, Nxb CTQG 2012) [67], đã đưa ra “Các quan điểm và giải

pháp chung” [67, tr.309-385] và đề xuất “Một số giải pháp cụ thể” [67, tr.386-

426] để xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp

phát triển đất nước. Cùng với quan điểm coi trọng cải cách và nâng cấp hệ

thống đào tạo và phát triển tài nguyên nhân lực các tác giả cuốn: Khai thác và

phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam, các tác giả Nguồn lực trí tuệ Việt

Nam- Lịch sử, hiện trạng và triển vọng cũng coi trọng giải pháp “Đẩy mạnh

cải cách, nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục Việt Nam phục vụ sự nghiệp

xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ” [67, tr.342-361].

Năm 2013, trong luận án tiến sĩ kinh tế: Nguồn nhân lực cho công nghiệp

hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế

hiện nay, tác giả Hà Thị Hằng [51] sau khi phân tích một số khái niệm công

cụ: nguồn nhân lực, nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa và

những đặc trưng của nó v.v.. đã chỉ ra nét đặc thù của nguồn nhân lực trong

quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, đó là: 1) tỷ lệ lao

động trí óc cao hơn lao động chân tay rất nhiều; 2) người lao động phải có

những tri thức nhất định, tức phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật và nghề

nghiệp cao; 3) người lao động phải có khả năng sáng tạo ra cái mới 4) vai trò

và địa vị của bộ phận lao động trí tuệ trong cơ cấu nguồn nhân lực được đề cao.

Thông qua các số liệu sơ cấp và thứ cấp, đặc biệt là số liệu sơ cấp, tác giả

luận án Hà Thị Hằng đã mô tả một cách toàn diện thực trạng nguồn nhân lực

cho CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Trên

cơ sở phân tích thực trạng NNL, luận án khẳng định, tỉnh Thừa Thiên Huế có

lực lượng lao động dồi dào và đang trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”, vì

23

vậy có khả năng cung cấp đủ nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, hiện nay nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH

gắn với phát triển kinh tế tri thức: chất lượng NNL vẫn còn thấp cả ở khía

cạnh trình độ học vấn, năng lực chuyên môn, trình độ tay nghề và kỹ năng

biến tri thức thành sản phẩm của người LĐ; cơ cấu nguồn nhân lực còn dịch

chuyển chậm, mất cân đối, nhất là cơ cấu nguồn nhân lực đã qua đào tạo; sự

phân bố và sử dụng nguồn nhân lực chưa hợp lý.

Để góp phần khắc phục tình trạng trên, tác giả luận án đề xuất thực hiện

đồng bộ 3 nhóm giải pháp lớn để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu

CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế từ nay

đến năm 2020: 1) nhóm giải pháp tạo tiền đề để phát triển nguồn nhân lực đáp

ứng yêu cầu CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức; 2) nhóm giải pháp

nhằm trực tiếp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH,

HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức; 3) nhóm giải pháp nhằm khai thác và

sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH gắn với

phát triển kinh tế tri thức.

Tạp chí Cộng sản số 854 (tháng 12-2013), có bài: Về các giải pháp cơ

bản phát triển nguồn nhân lực hiện nay [113]. Sau khi phân tích thực trạng

nguồn nhân lực nước ta hiện nay; xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của

nguồn lực con người trong tất cả các nguồn lực của sản xuất cũng như yêu

cầu thực hiện “Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020”, các tác giả

đề xuất ba giải pháp cơ bản để phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một “Đổi mới nhận thức về phát

triển, sử dụng, quản lý nguồn nhân lực” [113, tr.58]; hai “Đổi mới căn bản,

toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội

hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” [113, tr.58] và ba “Huy động tất cả các

nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển nhân lực” [113, tr.59].

24

Tạp chí Phát triển nhân lực, số 3 (34)- 2013 có đăng bài: Phát triển

nguồn nhân lực chất lượng cao trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

2011-2020 của tác giả Đặng Hữu Toàn [122]. Theo tác giả, để có nguồn nhân

lực chất lượng cao, một trong những giải pháp quan trọng là phải coi trọng

giáo dục, lấy “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” và phải đổi mới căn

bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, xã hội hóa, dân

chủ hóa và hội nhập quốc tế, tác giả nhấn mạnh, chúng ta phải “coi trọng giáo

dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập

nghiệp cho nguồn nhân lực trong tương lai” [122, tr.21].

Tạp chí Giáo dục lý luận số (208) tháng 2-2014 (tr.50) có bài: Phát huy

nguồn lực con người trong xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở nước ta hiện

nay của Trần Thị Thu Hường [64], theo tác giả để xây dựng nền kinh tế độc

lập tự chủ, một trong những giải pháp quan trọng là phải phát huy nhân tố,

phát huy nguồn lực con người- với tư cách vừa là chủ thể, vừa là động lực để

xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập

quốc tế hiện nay.

Tạp chí Giáo dục lý luận số (209) tháng 3-2014 (tr.46) có bài: Vấn đề

phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nước ta hiện nay [128]. Sau khi nêu quan

niệm về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực trẻ, thực trạng nguồn nhân lực trẻ

nước ta hiện nay, tác giả Nguyễn Thị Tùng đã đề xuất một số giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ ở nước ta hiện nay, đó là:

Thứ nhất, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Đây được coi là giải

pháp quan trọng nhất, cốt yếu nhất, có ý nghĩa quyết định đến việc thực

hiện thành công khâu đột phá chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Thứ

hai, sắp xếp, bố trí, sử dụng nguồn nhân lực trẻ. Thứ ba, xây dựng và hoàn

thiện hệ giá trị con người Việt Nam nói chung, nguồn nhân lực trẻ Việt

Nam nói riêng.

25

Kết quả nghiên cứu liên quan đến giải pháp để phát triển nguồn lực con

người (kể cả nguồn nhân lực trẻ) của một số công trình trên đây nhìn chung

khá toàn diện. Có những giải pháp liên quan đến đầu tư cơ sở vật chất - kỹ

thuật; có những giải pháp liên quan đến đời sống văn hóa - tinh thần; lại có

những giải pháp liên quan đến cơ chế, chính sách .v.v.Tuy nhiên các giải pháp

này nhìn chung vẫn ở tầm vĩ mô (trừ một vài luận án có phạm vi nghiên cụ

thể), do đó khi vận dụng vào tình hình thực tế một địa phương cần có sự cân

nhắc, lựa chọn, thậm chí phải đề xuất những giải pháp phù hợp với địa

phương mình - như Nghệ An chẳng hạn. Đó cũng là nhiệm vụ mà luận án

phải tiếp tục giải quyết.

1.3. MỘT SỐ CÔNG TRÌNH, VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN NGUỒN LỰC

CON NGƯỜI, PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở NGHỆ AN

Mặc dù chưa nhiều, nhưng trong những năm gần đây đã xuất hiện một

số công trình nghiên cứu liên quan đến nguồn nhân lực và phát triển nguồn

nhân lực ở Nghệ An từ các lát cắt khác nhau, chủ yếu là giác độ kinh tế chính

trị học. Chẳng hạn, năm 2008 học viên cao học Nguyễn Thị Hải Yến có thực

hiện đề tài “Hợp tác xã kiểu mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nông nghiệp, nông thôn ở Nghệ An” [155]. Những luận giải của tác giả

về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Nghệ An từ góc

độ kinh tế chính trị học, ở mức độ nào đó kết quả nghiên cứu này giúp cho

NCS có cách nhìn đầy đủ hơn về quá trình CNH, HĐH ở Nghệ An.

Trong luận án tiến sỹ “Luận cứ khoa học của chiến lược phát triển đào

tạo Nghề ở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, bảo

vệ năm 2010, tác giả Nguyễn Xuân Vinh [141] đã phân tích cơ sở lý luận của

chiến lược, của quy trình xây dựng chiến lược giáo dục nói chung và đào tạo

nghề nói riêng cho cấp tỉnh/ thành phố cũng như kinh nghiệm quốc tế về xây

dựng chiến lược giáo dục, chiến lược phát triển giáo dục kỹ thuật - nghề

26

nghiệp. Trên cở sở đánh giá thực trạng và nhu cầu phát triển đào tạo nghề và

giải quyết việc làm ở tỉnh Nghệ An trong thời kỳ CNH, HĐH, tác giả đề xuất

một số giải pháp nhằm phát triển, đào tạo nghề ở tỉnh Nghệ An hiện nay.

Năm 2010, từ góc độ kinh tế chính trị, tác giả Nguyễn Thị Mỹ Hương

đã bảo vệ thành công đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ “Phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao ở Nghệ An đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc

tế” [60]. Trên cơ sở phân tích thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh Nghệ An hiện

nay cũng như sự tác động của việc hội nhập kinh tế quốc tế đối với nguồn

nhân lực đó, các tác giả tham gia nghiên cứu đã chỉ ra yêu cầu phải phát triển

nguồn nhân lực, đặc biệt là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng

yêu cầu hội nhập thế giới trong bối cảnh hiện nay, từ đó đề xuất những giải

pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu

hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, các tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phải

phát triển đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, chuyên gia kỹ thuật, doanh

nhân và những nhà quản lý giỏi.

Ngoài một số luận văn, luận án, đề tài đề cập ở góc độ này hay góc độ

khác liên quan đến nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực ở Nghệ An, còn

có một số bài viết đăng trên một số tạp chí có liên quan đến vấn đề này. Năm

2006 tác giả Nguyễn Thị Mỹ Hương, có bài“Những bất cập trong quá trình

phát triển nguồn nhân lực ở Nghệ An hiện nay”, đăng ở tạp chí Giáo dục Lý

luận số 10 (115) - 2006 [60, tr.42]; hoặc Nguyễn Thị Mỹ Hương và Lê Thị

Thu Hà với bài “Đào tạo công nhân kỹ thuật bậc cao ở tỉnh Nghệ An hiện

trạng và giải pháp”, tạp chí Lý luận và truyền thông, số tháng 01/2008 [61,

tr.36]; hay Th.s Đinh Trung Thành; Th.s Nguyễn Thị Bông với bài “Những

bất cập trong quá trình phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nghệ An”,

tạp chí Giáo dục Lý Luận số 4 (133) - 2008 [116, tr.59]. Tạp chí Kinh tế Châu

Á - Thái Bình Dương, số 274 - 275 (8/2009), có bài “Phát triển nguồn nhân

27

lực ở tỉnh Nghệ An trong bối cảnh hội nhập: Những vấn đề đáng lưu tâm” của

Th.s Nguyễn Thị Mỹ Hương [62, tr.32 ]...

Tác giả Xuân Hường (2010) có bài “Nguồn nhân lực Nghệ An’’,

http//www.nghean. business.gov.vn [65]. Nội dung bài viết nói lên vị trí, vai

trò của con người ở vùng Bắc Trung bộ nói chung, Nghệ An nói riêng, trong

đó tác giả nhấn mạnh một số đặc điểm của nguồn lực con người nơi đây, như:

có tay nghề thành thạo, yêu lao động, có phẩm chất đạo đức tốt, hiếu học, có

trí tuệ gắn với quá trình CNH, HĐH v.v..

Tạp chí Giáo dục lý luận số (208) tháng 2- 2014 có bài Phát triển

nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số ở các huyện miền Tây Nghệ An trong

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Trần Cao Nguyên

[99]. Những kiến giải của tác giả về nguồn nhân lực trong bài viết này giúp

cho tác giả luận án có cái nhìn đầy đủ hơn về diện mạo nguồn lực con

người ở Nghệ An nói chung, ở các huyện miền Tây Nghệ An nói riêng

trong giai đoạn hiện nay.

Những kết quả đạt được trong các bài viết, các luận văn - nhất là lý

luận về nguồn nhân lực; nguồn nhân lực chất lượng cao ở Nghệ An - là

tài liệu tham khảo có giá trị nhất định để NCS thực hiện đề tài luận án

của mình.

Ngoài một số công trình khoa học trên, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh,

một số cơ quan cấp tỉnh cũng ban hành các văn bản (chứ không phải là những

công trình nghiên cứu) ít nhiều có liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài.

Chẳng hạn Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An (2009), có Báo cáo cơ cấu trình

độ lao động công nghiệp Nghệ An [112]. Báo cáo chỉ rõ, tỷ lệ lao động được

đào tạo khoảng 15%, toàn tỉnh có 105 tiến sỹ, 400 thạc sỹ, gần 24.000 người

có trình độ đại học, 14.000 có trình độ cao đẳng và 60.000 người có trình độ

trung học chuyên nghiệp.

28

Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII (tháng 12/ 2010)

tập trung phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và xu thế

phát triển chung của nền kinh tế.

Tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 04 - NQ/TU của Tỉnh ủy

(khóa XV) về chương trình phát triển nguồn nhân lực. Chú trọng nâng cao

trình độ tay nghề của người lao động, nhất là nông dân gắn với việc chuyển

dịch cơ cấu kinh tế với cơ cấu lao động trên cơ sở làm tốt công tác đào tạo

theo các ngành nghề. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực đảm bảo cả về thể

lực và trí lực trên cơ sở củng cố hệ thống giáo dục từ bậc mầm non, phổ

thông, đến đào tạo chuyên nghiệp và phát triển hạ tầng xã hội như giáo dục-

đào tạo, y tế, văn hóa. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách thu hút nguồn

nhân lực có chất lượng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, tạo điều

kiện môi trường thuận lợi để đội ngũ trí thức phát huy năng lực.

Đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ. Trên cơ sở đánh giá khách

quan để bố trí đúng cán bộ có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt vào các vị trí

then chốt trong bộ máy Đảng và chính quyền từ tỉnh đến cơ sở. Nâng cao

năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng, hiệu quả và hoạt động của chính quyền

các cấp trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội.

UBND tỉnh Nghệ An có Quyết định số 65/2010/QĐ - UBND ngày 26 - 8

- 2010 về chính sách thu hút nhân lực cao được đào tạo trong nước về công

tác ở Tỉnh [131]. Đây là quyết định được áp dụng trong các cơ quan Đảng,

chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội các cấp trên địa bàn Tỉnh. Tỉnh hỗ trợ

kinh phí cho các đối tượng về công tác tại tỉnh nhà.

Năm 2011, UBND tỉnh Nghệ An có Đề án quy hoạch phát triển nhân

lực tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011- 2020 [132]. Đề án nêu rõ, tỉnh chủ trương

phát triển nguồn nhân lực đảm bảo đủ về số lượng, có cơ cấu phù hợp, có

trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất nhân cách, năng lực nghề nghiệp

29

thành thạo, kỹ năng, tác phong chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo phục vụ

yêu cầu phát triển Nghệ An, cung cấp nguồn nhân lực một phần cho Bắc

Trung bộ và duyên hải miền Trung. Đó là nguồn nhân lực được phát triển

toàn diện về thể lực và trí lực, năng lực, đạo đức, có năng lực tự học, tự đào

tạo cao, khả năng thích nghi và hội nhập vào quá trình phát triển kinh tế - xã

hội của cả nước và hội nhập quốc tế.

Năm 2012, UBND tỉnh Nghệ An có Đề án phát triển đội ngũ công chức,

viên chức tỉnh Nghệ An giai đoạn 2012- 2015 có tính đến 2020 [135].

Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết lần thứ 3 Ban chấp hành

Trung ương Đảng khoá VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đội ngũ cán bộ công chức, viên chức Nghệ

An đã từng bước xây dựng và trưởng thành, có nhiều đóng góp cho sự phát

triển của tỉnh nhà trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm

vụ chính trị trong thời kỳ đổi mới, chất lượng đội ngũ công chức, viên chức

còn bộc lộ nhiều bất cập. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh

khoá XVI trình Đại hội khoá XVII nhấn mạnh “một bộ phận cán bộ công

chức trình độ năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, một số có biểu

hiện: cửa quyền, nhũng nhiễu, quan liêu, vi phạm quy định của pháp luật”;

“công tác tổ chức, cán bộ một số nơi còn bất cập. Chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ quản lý còn hạn chế, chậm tăng cường, củng

cố các đơn vị có phong trào yếu kém. Công tác quản lý, kiểm tra giám sát đội

ngũ cán bộ Đảng viên có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Năng lực phẩm chất của

một bộ phận cán bộ Đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu”.

Để thực hiện thành công CNH, HĐH đất nước với mục tiêu đến năm

2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,

tỉnh Nghệ An cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp, đòi hỏi phải xây dựng đội

ngũ cán bộ công chức, viên chức có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo

30

đức, đủ trình độ năng lực, có tính chuyên nghiệp cao đáp ứng yêu cầu, nhiệm

vụ trong giai đoạn mới. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An khoá XVII

khẳng định nhiệm vụ nâng cao chất lượng nguồn lực đáp ứng yêu cầu công

nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước là nhiện vụ then

chốt trong đó xây dựng phát triển đội ngũ công chức, viên chức là một nhiệm

vụ vừa cơ bản, lâu dài vừa cấp bách, nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,

HĐH mở cửa hội nhập tỉnh nhà.

Để có nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, UBND tỉnh Nghệ An đã có Đề án đào tạo lao động kỹ thuật tỉnh Nghệ

An giai đoạn 2011- 2015 có tính đến 2020 (2012) [136]. Đề án này “được xây

dựng trên cơ sở tổng kết, đánh giá kết quả đào tạo công nhân kỹ thuật giai

đoạn 2006 - 2010 theo Nghị quyết số 04/NQ - TU của Ban chấp hành Đảng

bộ tỉnh khoá XVI.

Năm 2013, UBND tỉnh Nghệ An - sở nông nghiệp và phát triển nông

thôn tỉnh Nghệ An đã sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết TW 7 (khoá X) về

nông nghiệp, nông thôn và nông dân.Trong bản Báo cáo sơ kết này, ngoài

việc đánh giá kết quả 5 năm thực hiện nghị quyết trung ương 7 (khoá X) về

nông nghiệp, nông thôn và nông dân và một số bài học kinh nghiệm thì trong

phần Dự báo một số xu thế phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân, có

đề cập đến vấn đề phát triển nguồn lực con người trên địa bàn nông thôn tỉnh.

Đầu năm 2014, UBND tỉnh Nghệ An - Sở nông nghiệp và phát triển

nông thôn tỉnh Nghệ An đã Tổng kết lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới

nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nghệ An [140]. Ngoài việc đánh giá chung về

kết quả sau gần 30 năm đổi mới về nông nghiệp nông thôn, hội nghị còn tổng

kết quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và cơ cấu nội ngành

nông nghiệp; quá trình đổi mới về tổ chức sản xuất và thay đổi quan hệ sản

xuất tại địa phương; quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

31

trong đó có đề cập đến vấn đề phát triển nguồn lực con người trong quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh.

Trong lĩnh vực công nghiệp, có Quyết định số 1776/Q Đ - UBND ngày

24/05/2012 về phê duyệt “Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển công

nghiệp tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011 đến năm 2020”. Ngoài việc đánh giá

thực trạng, khả năng phát triển công nghiệp Nghệ An và một số nội dung

khác, Quyết định cũng đề cập đến vấn đề phát triển nguồn lực con người đáp

ứng yêu cầu phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh, trong tương lai là cho cả

khu vực Bắc Trung bộ Việt Nam.

Có thể nói rằng, cho đến nay chưa có một công trình, đề tài nào nghiên

cứu một cách có hệ thống dưới góc độ triết học vấn đề phát triển nguồn lực

con người ở tỉnh Nghệ An trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Điều đó thôi thúc tác giả luận án đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề này.

Kết luận chương 1

Tổng hợp tình hình nghiên cứu trên đây cho thấy vấn đề nguồn lực con

người, phát triển nguồn lực con người cho đến nay đã có nhiều công trình

nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau [53], [67] [71], [115], [118],

v.v. Sau khi khảo cứu kết quả của các công trình đó, cho phép tác giả rút ra

một số kết luận sau:

Một là, kết quả nghiên cứu của các công trình trên có ý nghĩa nhất định

(cả về mặt lý luận và thực tiễn), nhất là cho những ai quan tâm đến vấn đề

này. Tác giả luận án coi đây là những tư liệu tham khảo bổ ích có tính gợi mở

để triển khai nội dung nghiên cứu của mình theo hướng mới.

Hai là, giá trị khoa học của các công trình này bao quát phạm vi rộng

lớn, với nhiều bình diện khác nhau, trong đó tác giả luận án tiếp thu, kế thừa

trên tinh thần đổi mới phương pháp tiếp cận vấn đề nguồn lực con người; nội

hàm các khái niệm “nguồn lực con người”, “phát triển nguồn lực con người”;

32

tầm quan trọng của việc phát triển nguồn lực con người trong quá trình

CNH,HĐH đất nước.

Ba là, trong một số công trình kể trên ở mức độ này hay mức độ khác,

cách tiếp cận này hay cách tiếp cận khác, một số tác giả, nhà nghiên cứu đã đề

cập đến giải pháp phát triển nguồn lực con người. Đây là những gợi mở có ý

nghĩa nhất định để tác giả luận án đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát

triển nguồn lựccon người trong quá trình CNH,HĐH ở Nghệ An hiện nay.

Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ của luận án, trên cơ sở kế thừa những

giá trị khoa học của các công trình trước đó, luận án tiếp tục đi sâu giải quyết

một số vấn sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục làm sáng tỏ một số khái niệm, phạm trù có liên quan

đến đề tài luận án như: nguồn lực con người; phát triển nguồn lực con người;

công nghiệp hóa, hiện đại hoá; tầm quan trọng, yêu cầu của việc phát triển

nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta

hiện nay.

Thứ hai, trên cơ sở lý luận chung về nguồn lực con người, phát triển

nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa - luận

án tiếp tục làm sáng tỏ vấn đề phát triển nguồn lực con người trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay - dưới góc độ

triết học.

Thứ ba, trên cơ sở khảo sát thực trạng vấn đề phát triển nguồn lực con

người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An, tác giả

đề xuất quan điểm định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò

nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh

Nghệ An hiện nay.

33

Chương 2

PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH

CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY -

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. NGUỒN LỰC CON NGƯỜI, PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI,

CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NGUỒN LỤC CON

NGƯỜI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1.1. Nguồn lực con người và cấu trúc của nó

2.1.1.1. Khái niệm nguồn lực con người

Vào nửa đầu thế kỷ XX trở về trước, do chịu ảnh hưởng của quan điểm

kỹ trị nên ở nhiều quốc gia vấn đề nguồn lực con người dường như không

được coi trọng một cách đúng mức. Vào thời kỳ đó người ta thường căn cứ

vào nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính; căn cứ vào sự phong phú về tài

nguyên thiên nhiên, tiềm lực kỹ thuật, khối lượng vốn tích lũy và đầu tư v.v..

để đánh dấu tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia - dân tộc.

Nhưng từ những năm 50 của thế kỷ XX, với sự xuất hiện của các nền kinh tế

mạnh ở các nước có ít tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực vật chất và tài chính

có hạn buộc người ta phải xem xét lại vai trò của nguồn lực con người trong

phát triển kinh tế - xã hội. Kinh nghiệm của Nhật Bản và các nước công

nghiệp mới nổi ở châu Á ( NICs) cho thấy vị trí quan trọng của nguồn lực con

người, của quản lý con người trong sản xuất, kinh doanh, của tri thức khoa

học, của công nghệ khi được áp dụng vào quá trình sản xuất xã hội.

Cho đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về “nguồn lực con người”.

Điều đó phụ thuộc vào cách tiếp cận vấn đề. Nếu tiếp cận nguồn lực con

người dựa vào khả năng lao động thì nguồn lực con người là khả năng lao

động của xã hội, của toàn bộ những người có cơ thể phát triển bình thường, có

34

khả năng lao động. Nếu tiếp cận nguồn lực con người dựa vào trạng thái hoạt

động kinh tế của con người, thì nguồn lực con người là toàn bộ những người

đang hoạt động trong các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhưng khi chúng ta

tiếp cận vấn đề này dựa trên khả năng lao động và giới hạn độ tuổi lao động

thì nguồn lực con người bao gồm toàn bộ những người trong độ tuổi lao động,

có khả năng lao động không kể đến trạng thái có việc làm hay không.

Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng, nguồn lực con người là tổng thể các

tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương tức là nguồn lao động

được chuẩn bị ở các mức độ khác nhau), sẵn sàng tham gia vào một công việc

lao động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói

chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao

động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Ngoài ra ông còn

đưa ra khái niệm nguồn lực con người được hiểu là số dân và chất lượng

con người bao hàm cả thể chất và tinh thần sức khỏe và trí tuệ, năng lực và

phẩm chất. Cùng với cách tiếp cận này, tác giả Đoàn Văn Khái quan niệm:

“Nguồn nhân lực là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất

lượng con người với tất cả các đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát

triển xã hội" [66, tr.62].

Còn tác giả Lê Du Phong trong cuốn Nguồn lực và động lực phát triển

trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Nxb

Lý luận chính trị. Hà Nội 2006 - quan niệm “nguồn lực con người được

hiểu là tổng hòa trong thể thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con

người thể lực, trí lực, nhân cách và tính năng động của con người. Tính

thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành

nguồn vốn con người [104, tr.14] v.v..

Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn lực con người được hiểu là toàn bộ

vốn người (bao gồm thể lực, trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp) mà mỗi cá nhân sở

35

hữu. Ở đây, nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các

nguồn vốn vật chất khác như tiền, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.

Không xem nguồn lực con người chỉ là “vốn người”, Liên Hợp quốc

(LHQ) tiếp cận nguồn lực con người một cách rộng hơn, coi nguồn lực con

người là: tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo

của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước.

Trong khi đó Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) có quan niệm rộng hơn và

cụ thể hơn khi cho rằng, nguồn nhân lực (nguồn lực con người) của một quốc

gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.

Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là

nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người

cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển

bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là

nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi

lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá

nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí

lực của họ được huy động vào quá trình lao động.

Trên cở sở kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình

khoa học, các kết luận trong một số báo cáo của các tổ chức quốc tế, có thể

rút ra kết luận: nguồn lực con người là toàn bộ những người trong độ tuổi có

khả năng tham gia lao động với những năng lực thể chất, tinh thần, trình độ

tri thức, năng lực thực tế, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tính

chuyên nghiệp và tác phong lao động của mỗi cá nhân tham gia vào quá trình

lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.

Quan niệm nguồn lực con người như trên đây cho phép chúng ta tiếp cận

vấn đề từ hai góc độ: góc độ nguồn lực con người cá nhân và góc độ nguồn

lực con người xã hội. C.Mác đã từng nói đến hai cấp độ của tồn tại người: tồn

36

tại cá nhân và tồn tại xã hội. Hai cấp độ này tuy có sự khác nhau nhưng lại

thống nhất với nhau, không tách biệt nhau. Theo C.Mác:

Sinh hoạt cá nhân và sinh hoạt loài của con người không phải là một

cái gì khác biệt, mặc dù phương thức tồn tại của sinh hoạt cá nhân

tất nhiên là một biểu hiện hoặc là đặc thù hơn, hoặc là phổ biến hơn

của sinh hoạt loài, còn sinh hoạt loài là một sinh hoạt cá nhân hoặc

là đặc thù hơn, hoặc là phổ biến hơn [88, tr.171].

Trong luận án của mình, tác giả tiếp cận vấn đề từ góc độ nguồn lực con

người xã hội. Đó là giai cấp, là tầng lớp, độ ngũ, nhóm, tập đoàn người v.v.

Tất nhiên nguồn lực con người xã hội này phải được hình thành trên cơ sở

nguồn lực con người cá nhân. Bởi vì xã hội dưới bất cứ hình thức nào cũng

chỉ là sự liên kết các cá nhân, những con người riêng lẻ lại với nhau mà thôi.

2.1.1.2. Cấu trúc của nguồn lực con người

Cũng như quan niệm về nguồn lực con người, cấu trúc của nguồn lực

con người có thể có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ở mức độ khái quát nhất,

tác giả luận án cho rằng cấu trúc nguồn lực con người bao gồm hai thành tố

cơ bản, đó là: số lượng và chất lượng nguồn lực con người.

Về mặt số lượng: “nguồn lực con người” bao gồm những người trong độ

tuổi (của một quốc gia, một địa phương) có khả năng tham gia vào quá trình

lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội trong một giai

đoạn lịch sử nhất định.

So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam có nguồn

nhân lực tương đối dồi dào, số người trong độ tuổi lao động tăng nhanh và

chiếm tỷ lệ cao (67%) trong dân số cả nước. Cơ cấu dân số vàng xuất hiện ở

nước ta từ năm 2010 và kết thúc khoảng 2040, đây là khoảng thời gian tương

đối dài để chúng ta phát huy lợi thế về nguồn lực lao động nhằm thúc đẩy

kinh tế - xã hội phát triển.

37

Mặc dù đã được kiểm soát, nhưng dân số Việt Nam trong thời gian qua

vẫn tiếp tục tăng. Năm 1990 dân số Việt Nam có 65,972 triệu người, mười

năm sau (năm 2000) con số đó là 78 triệu người. Theo số liệu cuộc tổng điều

tra dân số ngày 1-4-2009, dân số Việt Nam vào thời điểm đó có 85.789.573

người và con số đó hiện nay là hơn 90 triệu.

Về chất lượng: nói chất lượng nguồn lực con người là nói đến những yếu

tố về thể lực, trí lực, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, tính chuyên nghiệp,

tác phong (hiện nay là tác phong công nghiệp), tính năng động xã hội và sức

sáng tạo, kinh nghiệm sống, tâm lý, đạo đức... của nguồn lực con người, cũng

như truyền thống lịch sử và nền văn hoá mà con người được thụ hưởng.

Chất lượng nguồn lực con người thể hiện sự phong phú, sự sâu sắc của các

năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức và quản lý, tính tháo vát và những

phản ứng của con người trước mọi hoàn cảnh. Đó còn là sự thể hiện các kỹ năng

thích ứng của con người - nhất là các kỹ năng mềm- trước những biến động của

cuộc sống. Những năng lực, kỹ năng đó được hình thành chủ yếu trên cơ sở của

trình độ học vấn, kinh nghiệm, sự mở rộng các quan hệ xã hội, sự tiếp thu tinh tế

các ảnh hưởng văn hóa truyền thống từ gia đình tới xã hội, từ cộng đồng quốc

gia tới khu vực, quốc tế.

Tuy có thế mạnh về số lượng, nhưng Việt Nam đang vấp phải lực cản

lớn về chất lượng nguồn lực con người. Đây là một trong những vấn đề lớn

đối với việc phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.

Trong tổng số hơn 90 triệu người thì số người sống ở nông thôn

chiếm khoảng 73%. Trong đó gần 22 triệu người trong độ tuổi lao động

sống ở nông thôn trên phạm vi cả nước, có đến hơn 20 triệu người (tức

chiếm 98%) chưa qua đào tạo và không có chứng chỉ chuyên môn. Người

có bằng sơ cấp, công nhân kỹ thuật chỉ chiếm 1,26%, trung cấp 0,87%, đại

38

học - cao đẳng là 0,22%. Nhưng chỉ số này cho thấy chất lượng nguồn nhân

lực ở nông thôn nước ta còn rất thấp. Cho dù tỷ lệ lao động qua đào tạo

năm 2010 đạt 40% tổng lao động đang làm việc, nhưng chủ yếu là ngoài

nông nghiệp [113, tr.23].

Không chỉ đối với giai cấp nông dân, ngay cả giai cấp công nhân nước ta

sau gần 30 năm đổi mới số lượng công nhân không ngừng tăng lên, chiếm

khoảng 13,5% dân số cả nước và 26,4% lực lượng lao động xã hội, nhưng

nhìn chung giai cấp công nhân Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về

số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các

chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong

công nghiệp và kỷ luật lao động còn hạn chế; đa phần công nhân từ nông thôn

chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống [33, tr.45].

VN Economy, ngày 10-12-2012 (10:08/10/12) đưa tin, trong một khảo

sát nghiên cứu giữa Viện Khoa học Lao động và Xã hội với Tập đoàn

Manpower tại 6.000 doanh nghiệp thuộc 9 lĩnh vực tại 9 tỉnh, thành ở Việt

Nam, các doanh nghiệp đánh giá chất lượng lao động Việt Nam nằm trong

nhóm 10% thấp nhất của khu vực. Có 1/4 trong số 6.000 doanh nghiệp cho

rằng lao động thiếu hiểu biết về công nghệ và khả năng sáng tạo; 1/5 cho rằng

lao động thiếu khả năng thích nghi với công nghệ mới; 1/3 doang nghiệp

trong số đó cho rằng họ không tìm được lao động có khả năng mà họ cần.

Hiện tại, tỉ lệ đóng góp từ nhân lực, trí tuệ, năng suất lao động, công

nghệ vào tăng trưởng ở nước ta chỉ chiếm 28% (trong lúc đó các nước

ASEAN là 40% và các nước phát triển là 70%). Năm 2011 năng suất lao động

Việt Nam quy đổi ra tiền tuy đã được cải thiện, đạt 2.400 USD/năm, nhưng

vẫn thấp hơn nhiều nước khác khu vực (con số đó năm 2009: Việt Nam là

1.459 USD/năm; Philippin là 3.606 USD/năm; Hàn Quốc 38.253 USD/năm).

39

Theo số liệu của Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực -

Bộ giáo dục và Đào tạo, công nhân có trình độ cao đẳng - Đại học ở nước ta

chiếm khoảng 3,3% đội ngũ công nhân nói chung [148].

Về đội ngũ trí thức. Đảng ta quan niệm “Trí thức là những người lao

động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có

năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những

sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [35, tr.82].

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập thế giới hiện nay, khi mà kinh

tế tri thức đóng vai trò quan trọng đối với tiến bộ xã hội, khi mà lợi thế cạnh

tranh thuộc về các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao thì vai trò của

tri thức và đội ngũ trí thức càng trở nên quan trọng. Tại Hội nghị Trung ương

lần thứ bảy, khóa X, Đảng ta xác định: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao

động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát

triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [35, tr.90].

Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học

và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan

trọng, góp phần tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát

triển. Chính vì xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số

lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước tiến

lên ngang tầm với trình độ trí thức trong khu vực và trên thế giới là một trong

những nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB) chất lượng nguồn nhân lực

của Việt Nam hiện nay đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12

nước ở châu Á tham gia xếp hạng [141]. Gần đây, tập đoàn Intel kiểm tra đầu

vào với 2.000 sinh viên ngành công nghệ thông tin cho nhà máy lắp ráp và kiểm

định chíp tại khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh, kết quả cuối cùng chỉ

40

có 40 ứng viên đủ trình độ tiếng Anh để được tuyển, Intel xác nhận đây là kết

quả tệ nhất mà tập đoàn này gặp phải trong tất cả các nước mà họ đầu tư vào

[94]. Điều này cho thấy năng lực cạnh tranh của nguồn lực con người Việt Nam

còn rất khiêm tốn so với nhiều nước trong khu vực. Chính chất lượng nguồn lực

con người chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội là một

trong những rào cản lớn đối với quá trình CNH,HĐH đất nước.

2.1.2. Phát triển nguồn lực con người và các yếu tố cơ bản tác động

đến phát triển nguồn lực con người ở nước ta hiện nay

2.1.2.1. Khái niệm phát triển nguồn lực con người

Vấn đề phát triển con người đã được đề cập đến trong một số tác phẩm

của các nhà kinh điển mác-xít. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,

C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết rằng: Thay thế xã hội tư sản cũ, với những

giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó

sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của

tất cả mọi người. Như vậy “thay thế xã hội tư sản cũ” bằng xã hội mới- xã

hội cộng sản chủ nghĩa mà “giai đoạn thấp” hay “giai đoạn đầu” là xã hội

xã hội chủ nghĩa - là môi trường, là điều kiện ...cho sự phát triển tự do của

con người.

Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về phát triển nguồn lực con người.

Có quan điểm cho rằng: Phát triển nguồn lực con người là gia tăng giá trị cho

con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ

năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những

năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và

ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Một số tác giả khác lại quan niệm, phát triển nguồn lực con người là quá

trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực,

đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân

41

lực thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát

triển kinh tế- xã hội.

UNESCO cho rằng: phát triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành

nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất

nước. Còn theo ILO, phát triển nguồn nhân lực bao hàm phạm vi rộng hơn,

không chỉ là sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói chung,

mà còn là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó vào việc làm có hiệu

quả, cũng như thoả mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. LHQ cũng nghiêng

về sử dụng khái niệm phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa rộng, bao gồm giáo

dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế -

xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Còn trong báo cáo đầu tiên về phát

triển con người năm 1990, UNDP quan niệm: i) Phát triển con người là quá trình

mở rộng cơ hội lựa chọn của từng người và từng cộng đồng: ở đâu con người có

nhiều cơ hội hơn để lựa chọn thì ở đó điều kiện phát triển con người sẽ tốt hơn;

ii) phát triển con người là quá trình tăng cường các năng lực lựa chọn cho từng

người và từng cộng đồng: ở đâu con người có năng lực lựa chọn cao hơn thì ở đó

trình độ phát triển con người cũng cao hơn; iii)Quá trình mở rộng cơ hội và tăng

cường năng lực lựa chọn chính là môi trường làm cho khả năng sáng tạo, sống

khỏe mạnh, được học hành...của con người được tăng lên.

Tóm lại, phát triển con người là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn để

con người có thể nâng cao chất lượng cuộc sống toàn diện của chính mình

một cách bền vững [124].

Về cơ bản các quan niệm này nghiêng về việc xây dựng các năng lực của

con người và sử dụng các năng lực đó cho hoạt động hoặc cho nghỉ ngơi

(hưởng thụ các giá trị). Nhưng dù sao thì các quan niệm này cũng có giá trị

nhất định khi bàn đến phát triển nguồn lực con người - một trong những khái

niệm công cụ của luận án.

42

Xuất phát từ cách tiếp cận cấu trúc của nguồn lực con người, tác giả luận

án quan niệm: nói đến phát triển nguồn lực con người là nói đến sự phát triển

số lượng và chất lượng nguồn lực con người. Trong đó phát triển chất lượng

nguồn lực con người (năng lực thể chất và tinh thần; trình độ; tri thức và năng

lực thực tiễn; kỹ năng nghề nghiệp, tính chuyên nghiệp, tác phong làm việc và

phẩm chất đạo đức. v.v) có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển nguồn

lực con người.

Tuy nhiên không nên hiểu phát triển nguồn lực con người là quá trình

làm gia tăng số lượng và chất lượng nguồn lực con người một cách giản đơn,

máy móc, mà sự gia tăng ấy bao hàm trong nó cả việc giải quyết các mâu

thuẫn nẩy sinh giữa sự gia tăng số lượng và chất lượng nguồn lực con người

cũng như mâu thuẫn nẩy sinh ngay trong từng thành tố cấu thành của nó. Bởi

lẽ trong nhiều trường hợp mâu thuẫn giữa số lượng nguồn lực con người lớn

nhưng chất lượng thấp lại trở thành lực cản đối với sự phát triển, sự tiến bộ xã

hội. Ở đây thiết nghĩ chúng ta cần phải trở lại quan điểm của V.Lênin về sự

phát triển, khi ông viết: “Hai quan điểm cơ bản (…) về sự phát triển (sự tiến

hóa): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại, và sự phát

triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (…)

…Quan điểm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan

điểm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan điểm thứ hai mới cho ta chìa

khóa của “sự tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có

nó mới cho ta chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của sự “gián

đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hóa thành mặt đối lập”, của

sự tiêu diệt cái cũ và sự nẩy sinh ra cái mới [71, tr.270-271].

Với cách tiếp cận trên đây, có thể hiểu phát triển nguồn lực con người là

quá trình làm gia tăng số lượng và chất lượng nguồn lực con người; là tạo

điều kiện, cơ hội để nâng cao vai trò của nguồn lực con người qua đó làm

43

tăng những giá trị đích thực và ý nghĩa lớn lao của nguồn lực này trong quá

trình phát triển kinh tế - xã hội.

Để làm gia tăng giá trị đích thực và ý nghĩa lớn lao của nguồn lực con

người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khái niệm phát triển nguồn

lực con người còn hàm chứa mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu

tố nội tại trong nó; giữa nó với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, cũng

như với các nguồn lực khác; là sự kết hợp giữa thể lực, trí lực, những phẩm

chất đạo đức, kinh nghiệm sống, nhu cầu, thói quen vận dụng tổng hợp tri

thức và kinh nghiệm của từng người, của cộng đồng vào sự phát triển vì lợi

ích cá nhân và xã hội. Đó còn là các điều kiện đảm bảo để cho cái tốt, cái đẹp,

cái hợp lý và cái mới trong nguồn lực con người phát huy tác dụng và tiếp tục

nảy nở thêm lên. Với ý nghĩa đó, việc sử dụng, khai thác nguồn lực con người

một cách hợp lý cũng như tạo môi trường thuận lợi để nuôi dưỡng nguồn lực

con người v.v. cũng có thể được coi là những nội dung của phát triển nguồn

lực con người.

Một trong những quan điểm chỉ đạo thực hiện mục tiêu phát triển nhân

lực thời kỳ 2011- 2020, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 19 - 4 -

2011 là “phát triển nhân lực toàn diện, gồm những yếu tố thể lực, trí lực, kỹ

năng, hành vi và ý thức chính trị, xã hội theo yêu cầu phát triển toàn diện con

người và phát triển con người bền vững”.

2.1.2.2. Các yếu tố cơ bản tác động đến phát triển nguồn lực con

người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

Từ phương pháp tiếp cận hệ thống, chúng ta thấy rằng sự tồn tại và phát

triển của con người, của nguồn lực con người chịu sự tác động của nhiều nhân tố

khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan; cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường

xã hội, cả kinh tế lẫn chính trị, văn hóa v.v. Phê phán Phoi-ơ-bắc đã hòa tan bản

chất tôn giáo vào bản chất con người, xem bản chất con người là một cái gì đó

44

trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt, không thấy được “cá nhân trừu tượng

mà ông phân tích, trên thực tế, là thuộc một hình thức xã hội nhất định” [81,

tr.11]. C.Mác đi đến kết luận: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là

tổng hòa những quan hệ xã hội. Điều này cho thấy mọi sự nghiên cứu về con

người, về nguồn lực con người một cách tách biệt, cô lập hoặc chung chung, trừu

tượng đều không thể hiểu đúng bản chất của nó. Trong khuôn khổ luận án này,

chúng tôi tiếp cận vấn đề từ góc độ nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan - sự

tác động của các nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan đến sự phát triển

nguồn lực con người trong sự liên hệ biện chứng của nó.

Nhân tố khách quan: trước hết phải nói đến điều kiện tự nhiên, hoàn

cảnh địa lý. Xuất phát từ quan niệm duy vật lịch sử, một mặt đòi hỏi chúng ta

không được tuyệt đối hóa ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý, của môi trường tự

nhiên đến sự phát triển nguồn lực con người; mặt khác cũng không thể không

thấy vai trò, ảnh hưởng của chúng đối với sự hình thành tích cách con người-

nhất là ở tầng ý thức xã hội thông thường, trong đó có tâm lý, phong tục, tập

quán v.v.Chính tâm lý, truyền thống, phong tục, tập quán... lại là những yếu tố

góp phần cấu thành chất lượng nguồn lực con người.

Việt Nam với vị trí địa lý và đặc điểm địa hình, khí hậu tài nguyên sinh

thái vùng nhiệt đới gió mùa, thiên nhiên phong phú, đa dạng chứa đựng nhiều

tiềm năng to lớn, nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức đối với con

người và phát triển nguồn lực con người.

Ba miền Bắc - Trung - Nam của nước ta tuy có những nét khác biệt nhau

về địa hình, khí hậu, môi trường sinh thái... Những điều kiện tự nhiên đó kết

hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể có ảnh hưởng nhất định đến vai trò hoạt

động của con người, đến tính tích cực, tính sáng tạo của con người, lòng say

mê hoạt động của họ cũng như những tâm tư, tình cảm và nguyên vọng, ước

muốn v.v. của con người trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

45

Bên cạnh ảnh hưởng tiêu cực do chính điều kiện tự nhiên gây ra,

trong quá trình dựng nước và giữ nước con người Việt Nam đã biết cách

thích nghi với hoàn cảnh sống của mình. Từ rất sớm con người Việt Nam

đã biết đồng tâm, hiệp lực đắp đê, ngăn sông để chống lại lũ lụt, bão tố,

đào kênh, khơi mương làm thuỷ lợi để chống hạn hán, tưới tiêu cho đồng

ruộng. Trong điều kiện đó, cư dân Việt Nam biết cách sống hòa đồng với

thiên nhiên; tạo nên sự gắn bó, cố kết cộng đồng, tinh thần đoàn kết,

tương thân, tương ái, sẻ chia và tình yêu quê hương, bản quán cứ thế mà

hình thành, phát triển và càng ngày càng trở nên sâu đậm, vững bền để rồi

hình thành nên bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam: tinh thần cộng

đồng gắn kết cá nhân-gia đình-làng xã-Tổ quốc; đức tính cần cù, sáng tạo

trong lao động; là sự tế nhị trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống v.v.

Chính những giá trị vững bền, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch

sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của cộng đồng các

dân tộc Việt Nam là một trong những nhân tố cơ bản góp phần “xây dựng

nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể

chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật,

nhất là trong thế hệ trẻ” [36, tr.126] - như Văn kiện Đại hội lần thứ XI của

Đảng đã đề ra.

Hai là, yêu nước là một trong những truyền thống cực kỳ quý báu của

dân tộc Việt Nam, nó nổi lên như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt

Nam từ xưa đến nay, góp phần tạo nên bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam

và là nhân tố cơ bản của bản lĩnh dân tộc, là động lực nội sinh tạo nên sự

quyết tâm, ý chí, nghị lực và trí tuệ để bảo vệ và xây dựng đất nước, đưa đất

nước vượt qua nghèo nàn, lạc hậu tiến kịp trào lưu văn minh của thời đại, đảm

bảo sự phát triển bền vững, ổn định, đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc trong

giao lưu văn hoá và hội nhập vào cộng đồng khu vực cũng như thế giới. Mỗi

46

khi tình yêu đất nước được nâng lên trở thành một triết lý sống, triết lý

nhân sinh thì nó trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.

Với tư cách là những giá trị được hình thành trong lịch sử, do con người

tạo ra, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, các thế hệ người Việt

Nam hôm nay và mai sau tiếp nhận chủ nghĩa yêu nước như một cái gì đó

khách quan, tồn tại độc lập với ý thức của họ. Điều này cũng giống như

quan hệ sản xuất là quan hệ do con người tạo ra trong quá trình sản xuất,

nhưng đó vẫn là quan hệ khách quan, là cái khách quan. C.Mác đã luận giải

vấn đề này một cách hết sức sáng tỏ trong tác phẩm Góp phần phê phán

khoa kinh tế chính trị (tháng 6-1883) khi ông viết rằng: Trong sự sản xuất

xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất

yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất -

những quan hệ này phù hợp với một trình độ nhất định của các lực lượng sản

xuất vật chất của họ.

Những nét đặc thù của thiên nhiên Việt Nam kết hợp với lịch sử hàng

ngàn đấu tranh anh dũng, kiên cường dựng nước và giữ nước đã rèn đúc nên ở

con người Việt Nam những đức tính tốt đẹp: chịu thương, chịu khó, đoàn kết,

anh dũng, kiên cường, sáng tạo.v.v.những giá trị truyền thống tốt đẹp này tiếp

tục được phát huy trong hoàn cảnh lịch sử mới, trở thành “yếu tố nội sinh”

của sự phát triển. Những đức tính tốt đẹp và đáng trân trọng ấy là cơ sở để

hình thành nên những thuộc tính, những phẩm chất, những thành tố cơ bản

trong cấu trúc chất lượng con người Việt Nam nói chung, nguồn lực con

người Việt Nam hiện nay nói riêng.

Không chỉ tác động đến sự phát triển về mặt chất lượng nguồn lực con

người, chính nhân tố tự nhiên - lịch sử này cũng tác động không nhỏ đến sự

gia tăng về mặt số lượng. Trong điều kiện một nước tiểu nông luôn bị thiên

tai tàn phá, sản xuất, đời sống con người phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên;

47

trong hoàn cảnh đất nước luôn luôn phải chống chọi với các thế lực ngoại

xâm với tần suất dày đặc, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực dồi dào đáp ứng nhu

cầu dựng nước và giữ nước, điều đó đã làm cho số lượng cư dân nước ta

không ngừng tăng lên một cách nhanh chóng, tâm lý đó ít nhiều vẫn ảnh

hưởng cho đến tận ngày nay. Mỗi một khi sự gia tăng về mặt dân số một cách

thiếu kế hoạch, mất cân đối giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với tốc độ tăng

dân số sẽ kéo theo những hệ lụy cả về kinh tế lẫn văn hóa- xã hội. Do đó ảnh

hưởng trực tiếp đến phát triển nguồn lực con người.

Ba là, nhân tố thời đại. Trong thời đại ngày nay, sức mạnh của mỗi quốc

gia dân tộc không chỉ được đo bằng sức mạnh nội lực mà còn được đo bằng

khả năng và mức độ hội nhập quốc tế của chính quốc gia đó. Trong bối

cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, sức mạnh nội lực của mỗi quốc gia đang

trên con đường phát triển như Việt Nam càng được phát huy mạnh mẽ khi

nó được kết hợp đúng đắn với các yếu tố ngoại lực, trong đó yếu tố nội lực

luôn luôn giữ vai trò quyết định. Chúng ta luôn luôn ý thức một cách sâu

sắc rằng, toàn cầu hoá vừa là cơ hội lớn vừa là thách thức lớn cho các nước

đang phát triển khi tiếp nhận tri thức và công nghệ hiện đại thông qua chính

sách mở cửa và hội nhập.

Một trong những bài học kinh nghiệm quý báu được Đại hội lần thứ XI

của Đảng rút ra trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đó là:

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong

nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần

kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế,

phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố

truyền thống với yếu tố hiện đại [36, tr.66].

Quá trình hội nhập quốc tế ảnh hưởng to lớn đến việc phát triển nguồn

lực con người Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu khoa

48

học, công nghệ, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý, kinh nghiệm kinh

doanh, sản xuất của các nước phát triển, nguồn lực con người Việt Nam

không ngừng nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,

trình độ kỹ thuật, tay nghề - nhất là tính chuyên nghiệp, tác phong làm việc

trong môi trường hiện đại v.v.

Một trong những điểm yếu trong chất lượng nguồn lực con người Việt

Nam hiện nay là thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật có trình độ cao,

cán bộ quản lý giỏi có nhiều kinh nghiệm; tác phong công nghiệp và tính kỷ

luật, tính chuyên nghiệp trong hoạt động thực tiễn. Với những cố gắng chủ

quan, kết hợp với yếu tố thời đại những hạn chế, yếu kém này nhất định sẽ

được khắc phục để nguồn lực con người Việt Nam góp phần đẩy nhanh sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì một Việt Nam dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Toàn cầu hóa và hội nhập thế giới tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau giữa

các quốc gia - dân tộc, giữa con người với con người, thông tin giữa các

nước được cập nhật hơn, nhiều tinh hoa văn hoá của các dân tộc được

truyền bá, sự thâm nhập lẫn nhau của các nền văn minh thúc đẩy tiến bộ xã

hội, điều này cho phép làm gia tăng chất lượng nguồn lực con người trong

điều kiện lịch sử mới.

Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh

toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một trong những chủ trương lớn của Đảng

ta hiện nay là:

Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng,

lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển

kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh

tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa [32, tr.87].

49

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội cạnh tranh đối với nguồn

lực con người. Quá trình toàn cầu hóa đã thúc đẩy hợp tác quốc tế, giao lưu

kinh tế - văn hóa tạo điều kiện thúc đẩy các nguồn di chuyển vốn, hàng hóa,

công nghệ, dịch vụ, và di chuyển lao động quốc tế phát triển mạnh. Toàn cầu

hóa cùng với tự do hóa thương mại và sự đổi mới công nghệ, phát triển khoa

học diễn ra nhanh chóng, đòi hỏi lực lượng lao động phải ứng phó - thích nghi

với sự thay đổi nhanh chóng này.

Trong bối cảnh hiện nay, lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia, các nền

kinh tế không phải là tài nguyên, nguồn vốn hay nguồn lực nào khác mà đó

là nguồn nhân lực được đào tạo một cách có hệ thống, chất lượng cao, có

khả năng thích nghi với môi trường làm việc đầy biến động. Khi làn sóng

di cư tìm kiếm cơ hội làm việc được nới rộng, thông thoáng, tính quốc tế

hóa trong lao động - việc làm ngày càng cao thì tính cạnh tranh càng trở

nên quyết liệt. Chính yêu cầu này đã góp phần thúc đẩy nguồn lực con

người Việt Nam phải tự mình phấn đấu vươn lên, phải không ngừng phát

triển - nhất là về mặt chất lượng - nếu họ không muốn tụt hậu so với các

nước trong khu vực và trên thế giới.

Bên cạnh ảnh hưởng tích cực thì nhân tố thời đại, hội nhập quốc tế ít

nhiều có ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát triển nguồn lực con người ở nước

ta hiện nay. Nhiều giá trị riêng của các dân tộc bị xói mòn, nhiều truyền thống

dân tộc (đặc biệt là các giá trị đạo đức) bị huỷ hoại; nhiều mặt hoạt động và

đời sống của con người trở nên kém an toàn, từ an toàn tài chính, văn hoá, xã

hội đến an toàn chính trị. Sự đổ vỡ nhiều ngành sản xuất và phá sản hàng loạt

xí nghiệp, tệ nạn xã hội gia tăng… đã ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh

tế - xã hội nói chung, đến phát triển nguồn lực con người ở nước ta nói riêng -

nhất là chất lượng nguồn nhân lực.

50

Tính hai mặt của toàn cầu hoá và hội nhập thế giới đang tác động đến

khả năng phát triển nguồn lực con người đòi hỏi chúng ta phải có chiến lược

phù hợp, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức để đẩy nhanh quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nhân tố chủ quan, ngoài một số nhân tố khách quan trên, sự phát triển

nguồn lực con người Việt Nam còn chịu sự tác động của các nhân tố chủ

quan như: vai trò lãnh đạo của Đảng; quản lý của Nhà nước; công tác tổ chức,

bố trí, sắp xếp nguồn lực con người, cũng như vai trò của chính bản thân nguồn

lực con người Việt Nam hiện nay. Trong đó sự tác động từ chủ trương, đường

lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các chủ thể quản lý, các cấp, các

ngành là hết sức to lớn. Tại Đại hội lần thứ VII, Đảng ta chỉ rõ: “Chính sách xã

hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng

sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” [24, tr.13].

Một số chính sách như: giáo dục đào tạo, đào tạo lại; chính sách tuyển

dụng, sử dụng lao động; chính sách tiền lương, bảo hiểm, chăm sóc y tế… nếu

đúng đắn, phù hợp - như Đảng ta đã từng khẳng định:

Chính sách xã hội tác động trực tiếp đến việc hình thành một cộng

đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư

đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp

phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh. Phát triển giai cấp

công nhân về số lượng và chất lượng để xứng đáng là giai cấp tiên

phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng giai

cấp nông dân về mọi mặt để xứng đáng là một lực lượng cơ bản

trong việc xây dựng nông thôn mới, góp phần đắc lực vào sự

nghiệp công nghiệp hóa. Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm

năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho

đất nước [24, tr.15].

51

Ngược lại các chính sách kinh tế - xã hội không phù hợp sẽ dẫn đến tình

trạng kìm hãm sự phát triển, hạn chế năng lực và tư duy sáng tạo của con

người - nghĩa là kìm hãm sự phát triển chất lượng nguồn lực con người trong

quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung, quá trình CNH, HĐH đất nước

nói riêng.

Vấn đề sử dụng, sắp xếp, bố trí cũng ảnh hưởng rất lớn đến phát triển

nguồn lực con người. Một quốc gia tuy có lực lượng lao động đông đảo,

nhưng nếu phân bổ không hợp lý giữa các ngành, các vùng, cơ cấu đào tạo

không phù hợp với nhu cầu sử dụng thì nguồn lao động đông đảo đó không

những không trở thành nguồn lực để phát triển mà nhiều khi còn là sức cản

của sự phát triển.

Theo xu hướng chung của quá trình CNH, HĐH; dưới sự tác động của

cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại cơ cấu lao động sẽ chuyển

dịch theo hướng: gia tăng kinh tế công nghiệp, dịch vụ, tỷ trọng nông

nghiệp ngày càng giảm theo cơ cấu lao động tổng thể. Cùng với quá trình

đó, cấu trúc của nguồn lực con người cũng biến đổi mạnh theo hướng: tỷ

trọng lao động thành thạo ngày càng tăng lên trong khi tỷ trọng tay nghề

thấp giảm dần; tỷ trọng lao động trí óc ngày càng cao trong chi phí lao

động, tỷ trọng lao động thể lực ngày càng giảm...đây là vấn đề hết sức quan

trọng cần phải tính tới quá trình phát triển, sử dụng và phát huy nguồn lực

con người trong quá trình CNH, HĐH.

Mặc dù Việt Nam đã bước vào “nhóm nước đang phát triển có thu

nhập trung bình” [36, tr.21] nhưng cơ cấu ngành kinh tế nước ta vẫn chưa hợp

lý, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP vẫn còn cao, trong lúc đó tỷ trọng công

nghiệp, dịch vụ trong GDP vẫn còn thấp. Tại Hội nghị lần thứ Bảy, khóa X,

Đảng ta có đánh giá:Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản

xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến là sản xuất nhỏ, phân tán; năng

52

suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và

ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh

tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới,

chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp và

nông thôn phát triển thiếu quy họạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu

kém…Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ

hộ nghèo còn cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa. Chính

hạn chế này đã ảnh hưởng ngược lại sự phát triển nguồn lực con người, đặc

biệt là về mặt chất lượng của nó.Trong điều kiện công nghiệp, dịch vụ và

ngành nghề phát triển chậm; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém; đời

sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo

còn cao v.v. thì khó có thể thúc đẩy sự phát triển nguồn lực con người một

cấch nhanh chóng, bền vững được.

Hiện nay tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ở nước ta vào khoảng 20%.

Theo tinh thần Đại hội lần thứ XI, chúng ta phấn đấu đến năm 2015, tỷ trọng

nông nghiệp trong GDP vào khoảng 17-18%; công nghiệp và xây dựng 41-

42%; dịch vụ 41- 42% [36, tr.33]. Mỗi khi mục tiêu này đạt được thì đó sẽ là

một trong những nhân tố tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến phát triển nguồn

lực con người ở nước ta hiện nay.

Ngoài những nhân tố trên, sự phát triển nguồn lực con người còn tùy

thuộc vào chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt

Nam; vào việc nâng cao dịch vụ y tế, đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính

sách bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh; nâng cao chất lượng và bảo đảm vệ sinh

an toàn thực phẩm cho người dân. Mỗi một khi con người được giáo dục tốt

hơn, khỏe mạnh hơn, môi trường làm việc thông thoáng, cởi mở hơn; chất

lượng cuộc sống tốt hơn v.v. điều đó cũng có nghĩa chất lượng nguồn lực con

người đã có sự gia tăng đáng kể.

53

Hiện nay công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân có nhiều tiến bộ.

Theo số liệu thống kê của Viện Dinh dưỡng Quốc gia, tỷ lệ tử vọng ở trẻ sơ

sinh được hạ thấp, tỷ lệ suy dinh dưỡng dưới tuổi ngày càng giảm. Cụ thể là

năm 1990 trẻ em suy dinh dưỡng là 50% đến năm 2002 giảm xuống còn 30%

và đến năm 2013 giảm xuống chỉ còn 16%.

Việc nhà nước miễn phí khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi là một

thành tựu rất quan trọng trong việc đầu tư cho thế hệ trẻ, các bệnh viện đã có

nhiều cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân khám chữa bệnh.

Tuổi thọ của người dân Việt Nam cũng được nâng lên đáng kể. Đây

cũng là một thành tựu quan trọng trong chiến lược phát triển toàn diện

con người của Đảng và Nhà nước ta. Nhờ những cố gắng trong công tác y

tế và một số lĩnh vực khác, đến nay tuổi thọ trung bình của người Việt

Nam đã tăng lên đáng kể. Năm 2005 tuổi thọ trung bình là 71,3 tuổi thì

hiện nay (năm 2014) tuổi thọ trung bình tăng lên 75 tuổi. Chỉ số tuổi thọ

của nước ta được xếp vào hạng cao trong khối các nước có chỉ số HDI

trung bình.

Chúng ta có thể khẳng định rằng, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá có thành công hay không, đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI có

vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tuỳ thuộc

vào nguồn lực con người Việt Nam. Quan điểm đó đòi hỏi chúng ta phải

hiểu một cách sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân

tố con người, nguồn lực con người - chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn

của cải vật chất và tinh thần, mọi nền văn minh của các quốc gia - dân tộc.

Nắm vững, thấu hiểu tinh thần nhân văn sâu sắc ấy sẽ giúp cho chúng ta có

niềm tin khoa học để bước vào “thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” như Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII đã đề ra.

54

2.2. TẦM QUAN TRỌNG VÀ YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN

NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN

ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Một số nhận thức cơ bản

Một trong những đặc điểm lớn nhất, bao trùm nhất nói lên thực chất của

quá trình cách mạng XHCN ở nước ta và quy định nội dung chủ yếu của quá

trình đó là “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một

xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp” [24,

tr.8], vì vậy tiến hành CNH, HĐH là một tất yếu khách quan, là nhiệm vụ

trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng cơ sở

vật chất - kỹ thuật cho CNXH, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản

xuất lớn XHCN, làm cho Việt Nam trở thành một nước XHCN có nền kinh tế

hiện đại, văn hóa, khoa học - kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có

đời sống văn minh, hạnh phúc.

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960) Đảng ta đã xác định một

trong những nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là: ra sức phát

triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển

công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp

toàn diện, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ; hoàn thành công cuộc

cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công nghiệp, thương

nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, mở rộng quan hệ sản

xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc doanh và xác định

“công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá

độ ở nước ta. Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhằm xây dựng

cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện cơ bản cho chủ

nghĩa xã hội thắng lợi”.

Do nhận thức và tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu khép kín, hướng

nội, thiên về “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”, coi “công nghiệp nặng là

55

nền tảng của kinh tế xã hội chủ nghĩa”. Nguồn lực chủ yếu dựa vào lợi thế lao

động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.

Chủ thể thực hiện chủ yếu là Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước với việc

phân bổ nguồn lực chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu,

bao cấp, phi thị trường v.v. vì vậy trong một thời gian tương đối dài, hiệu quả

kinh tế - xã hội của quá trình này mang lại không cao, chưa đáp ứng yêu cầu

phát triển đất nước, thực tế đó đòi hỏi phải có sự thay đổi.

Một trong những cột mốc đánh dấu sự thay đổi nhận thức của Đảng ta

về vấn đề này là Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa VII. Tại kỳ họp này, Đảng ta đã đưa ra quan điểm mới về CNH, HĐH:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn

diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã

hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ

biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp

tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ

khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [26, tr.14].

Đối với nước ta, đây là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội nhằm cải biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã

hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ,

ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản sắc ưu việt hơn của chế độ mới.

Quan niệm trên đã phản ánh được phạm vi rộng lớn của quá trình CNH,

HĐH, xác định được vai trò của công nghiệp và khoa học - công nghệ. CNH,

HĐH không phải là hai nội dung tách biệt, không phải đơn thuần tăng thêm

tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ

tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững của toàn bộ

nền kinh tế quốc dân. Quan niệm này khắc phục tư tưởng nóng vội, giản đơn,

56

chủ quan, duy ý chí mà chúng ta đã từng mắc phải trong nhiều năm trước khi

tiến hành đổi mới toàn diện đất nước.

Trên cơ sở nhận thức những đặc điểm cơ bản thời đại, từ những thành

tựu về kinh tế - xã hội mà nhân dân ta đạt được sau 10 năm tiến hành công

cuộc đổi mới đất nước, từ những tiền đề đã được tạo ra, Tại Đại hội lần thứ

VIII, Đảng ta nhận định rằng “nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới,

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” và xác định “thực hiện công

nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ”

với mục tiêu cơ bản là:

Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất -

kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,

phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật

chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh [27, tr. 80].

Đây là một nhận định cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa chỉ đạo đối với việc

đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho giai đoạn cách mạng mới và tinh thần đó

tiếp tục được khẳng định trong các kỳ Đại hội tiếp theo. Tại Đại hội lần thứ

XI, Đảng ta xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 là

“Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển

nhanh, bền vững” [36, tr.30]. Trước mắt, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ

bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tỉ trọng các ngành công

nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ

cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP.

Giá trị sản phẩm công nghệ chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản

xuất công nghiệp [36, tr.104] và đề ra nhiệm vụ “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI,

toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một

nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [36, tr.25, 71].

57

Nội hàm của khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần

của Đảng qua các kỳ đại hội, nhất là từ Đại hội lần thứ VII đến nay bao gồm:

Một là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế; đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ trương

phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu;

vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền

vững; từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn đầu tư khai thác tài nguyên và sử

dụng lao động giá rẻ sang tăng trưởng chủ yếu do áp dụng tiến bộ khoa học,

công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao; nâng cao năng suất lao động, chất

lượng sản phẩm, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao

có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh lớn, có khả năng tham gia sâu, có hiệu

quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu.

Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình trang bị và trang bị

lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các

ngành có vị trí quan trọng, trước mắt “Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ

nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là công nghiệp sản xuất trang thiết bị, máy

móc làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế biến sản phẩm nông - lâm - thủy sản,

sản phẩm xuất khẩu” [36, tr.193] để khai thác tốt tiềm năng và thế mạnh của

Việt Nam. Đồng thời phát triển mạnh công nghiệp xây dựng và phát triển hợp

lý công nghiệp sử dụng nhiều lao động, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu

lao động - một trong những nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự

thắng lợi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thực hiện CNH trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật ngày

càng phải gắn bó với HĐH nền kinh tế quốc dân về phương diện công nghệ.

Hiện đại hóa dưới góc độ khoa học - kỹ thuật là mục tiêu vươn tới của quá

trình CNH nhưng chúng bị ràng buộc bởi yêu cầu đảm bảo hiệu quả kinh tế -

xã hội. Giải quyết mối quan hệ này chính là tìm ra bước đi thích hợp với quá

58

trình HĐH theo những điều kiện cụ thể của từng nước. HĐH ở Việt Nam cần

phải tính toán tiến hành một cách hợp lý, để thích ứng và bắt nhịp xu thế

chung của thời đại, nhưng phải phát huy được ưu thế của nguồn lực lao động -

hiện vẫn là một trong những lợi thế của Việt Nam.

Nền tảng của CNH, HĐH đất nước một mặt là ứng dụng công nghệ hiện

đại, sử dụng công nghệ cao ở lĩnh vực then chốt, mặt khác phát triển rộng rãi

công nghệ đòi hỏi đầu tư thấp, sử dụng nhiều lao động tạo nhiều công ăn, việc

làm tạo cơ hội để chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu kinh tế, làm cho nền kinh

tế có khả năng hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu .Quá trình này không chỉ

chứa đựng giá trị kinh tế mà còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Ba là, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong bất cứ

giai đoạn nào cũng là quá trình kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - xã hội và phải đặt

trong bối cảnh chung theo quan điểm gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế

với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Dưới chủ nghĩa xã hội không có một nền kinh tế tự thân, kinh tế vì kinh

tế một cách đơn thuần, tăng trưởng và phát triển kinh tế dựa trên cơ sở công

nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn luôn phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã

hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển cũng như suốt quá trình

phát triển. Ý nghĩa kinh tế, xã hội - nhân văn của quá trình CNH,HĐH đất

nước là hướng tới việc xây dựng xã hội Việt Nam:

Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân

làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao...có nền văn hóa tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do , hạnh

phúc, có điều kiện phát triển toàn diện...Có Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng

Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các

nước trên thế giới [36, tr.24-25].

59

Bốn là, quá trình CNH, HĐH cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan

hệ kinh tế quốc tế. Ngày nay thị trường lao động mang tính quốc tế và quốc tế

hóa đời sống kinh tế - xã hội đã trở thành xu thế của thời đại. Do đó muốn

thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi chúng

ta phải tăng cường hợp tác quốc tế, phải biết “tiếp thu, kế thừa những thành

tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa

học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh

tế hiện đại” [29, tr.84].

Về nguyên tắc CNH, HĐH phải dựa vào nội lực là chủ yếu, nhưng

ngoại lực có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là giai đoạn đầu khi nội lực còn

chưa đủ mạnh. Những trợ giúp về tài chính, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm

quản lý, thị trường tiêu thụ... từ bên ngoài là những điều kiện hết sức quan

trọng để chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - nhất là

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Năm là, CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần

kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất

quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế nói chung, quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa lấy việc phát huy nguồn lực con người

làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững và lấy khoa học công

nghệ làm động lực của CNH, HĐH; kết hợp công nghệ truyền thống với công

nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào những khâu quyết định, cần và có thể

rút ngắn thời gian vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.

Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương

hướng phát triển, lựa chọn dự án đầu tư vào công nghệ, kết hợp chặt chẽ giữa

phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc Tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

60

Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, sau gần

20 năm nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực,

tốc độ tăng trưởng nhanh và tương đối bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch

theo hướng tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện

rõ rệt, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang

phát triển có thu nhập trung bình (năm 2013 tổng sản phẩm trong nước bình

quân đầu người đạt gần 2.000USD, con số này năm 2010 là 1.168 USD).

Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại;

của kinh tế tri thức; của quá trình CNH gắn liền với HĐH, vai trò của

nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên to lớn. Việt Nam có tiến hành

thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH hay không; có “tham gia vào mạng sản

xuất và chuỗi giá trị toàn cầu” [36, tr.97] được hay không... điều đó phụ

thuộc một phần rất lớn vào khâu đột phá chiến lược: “Phát triển nhanh

nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao;... gắn kết chặt chẽ

phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”.

Đồng thời “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức... nâng

cao năng lực khoa học, công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh

nghiên cứu ứng dụng” [36, tr.32, 218].

2.2.2. Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn lực con người

trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi

dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố

quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [27,

tr.21]. Gần đây trong Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ

2011-2020, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 19 tháng 4 năm

61

2011 cũng khẳng định “phát triển nhân lực trên cơ sở Chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội thời kỳ 2011- 2020 phát huy vai trò quyết định của yếu tố

con người, phát triển nhân lực là khâu đột phá để thực hiện thành công

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội”.

Phát triển nguồn lực con người được coi là khâu đột phá để thực hiện

thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; là đòi hỏi khách quan, là

nhân tố quyết định thắng lợi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, điều đó được cắt nghĩa bởi mấy lý do chính sau đây:

Thứ nhất, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát

triển kinh tế - xã hội nói chung, của quá trình CNH, HĐH nói riêng. Đảng ta

luôn luôn xác định: Con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của

con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta… Chúng ta cần hiểu

sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ

thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn

minh của các quốc gia. Thực tiễn lịch sử loài người đã và đang ngày càng

chứng minh rằng coi trọng nhân tố con người và phát triển nguồn lực con

người - nhất là chất lượng nguồn nhân lực - là bí quyết thành công của mỗi

quốc gia dân tộc, ưu thế của sự phát triển bền vững.

Vai trò của nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con người cần

phải đặt trong quan hệ với các nguồn lực khác, đồng thời phải đặt CNH trong

điều kiện hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và khoa học công

nghệ phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu

thế phổ biến của nhân loại, khi CNH phải gắn với HĐH mà thực chất là hiện

đại hoá LLSX... thì vai trò của nguồn lực con người và phát triển nguồn lực

con người càng trở nên quan trọng. Sở dĩ như vậy là vì:

Một là, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa

lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ phát huy tác dụng và có

62

ý nghĩa xã hội tích cực khi được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua

hoạt động có ý thức của con người. Nguồn lực con người là nguồn lực duy

nhất biết tư duy, có trí tuệ và biết “chỉ huy” các nguồn lực khác gắn kết

chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình

CNH, HĐH. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo khai thác

của con người và tất cả đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích con người, nếu con

người biết tác động và chi phối quy luật vì thế trong các yếu tố cấu thành

LLSX người lao động là yếu tố quan trọng nhất, V.I Lênin đã từng khẳng

định: Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là

người lao động.

Hai là, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt,

trong khi đó nguồn lực con người mà cái cốt lõi là trí tuệ con người là

nguồn lực vô hạn. Tính vô hạn của trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ, nó là

khả năng không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học, mà còn tự đổi

mới không ngừng, phát triển về chất trong con người, nếu biết chăm lo bồi

dưỡng và khai thác hợp lý thì đó là cơ sở để cho năng lực nhận thức và

hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận, xét

về bình diện cộng đồng nhân loại.

Ba là, trí tuệ con người là sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật

hoá, trở thành LLSX trực tiếp. Dự báo vĩ đại của C. Mác đã và đang trở thành

hiện thực, sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học kỹ thuật và công

nghệ hiện đại đã dẫn các nền kinh tế của nhiều nước công nghiệp phát triển

tiệm cận đến kinh tế tri thức. Ở những nước này, lao động trí tuệ ngày càng

chiếm tỷ lệ cao, nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tỷ

trọng lớn trong tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây, sức mạnh của trí tuệ đạt

đến mức, nhờ nó con người có thể sáng tạo ra những máy móc “bắt chước”

hay “phỏng” theo những đặc tính trí tuệ của chính con người.

63

Bằng kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay và khối óc của con

người làm ra, nhân loại đang chứng kiến biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát

triển của mình. Không phải ngẫu nhiên mà Alvin Toff đã xếp quyền lực trí tuệ

ở vị trí hàng đầu trong các loại quyền lực đã có trong lịch sử và cũng không

phải không có lý khi mà Thomas L.Friedman cho rằng, thế giới được làm

phẳng (“Thế giới phẳng”) bởi sự hội tụ không chỉ của các sự kiện chính trị và

các công ty lớn - công ty xuyên quốc gia, đó còn là - và đây là cái chủ yếu -

do các “phát kiến”, nhất là của công nghệ thông tin.

Bốn là, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn Việt Nam cho thấy, sự

thành công của CNH, HĐH phụ thuộc rất lớn vào việc hoạch định đường lối,

chủ trương chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào

năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

Tiềm năng sức lao động - con người với trí tuệ, kỹ năng, phẩm chất đạo

đức và lao động được định hướng bởi trí tuệ đó, đã và đang là tài sản quý giá

nhất, quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia.

Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta xác định, một trong ba khâu đột phá để

thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 là “Phát

triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung

vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt

chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công

nghệ” [36, tr.32]. Lựa chọn khâu đột phá này hoàn toàn phù hợp với tình hình

thực tế của Việt Nam và xu thế phát triển của cách mạng khoa học - công

nghệ hiện đại, của kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập thế

giới hiện nay.

Đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn

hẹp thì "nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định" [28, tr.9]

đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, với quá trình CNH, HĐH đất

64

nước nói riêng. Chúng ta phải biết tiếp cận và vận dụng những thành tựu mới

về khoa học và công nghệ của nhân loại, phải sử dụng và phát huy đến mức

tối đa lợi thế vốn có của nguồn lực con người Việt Nam, biến nguồn lực con

người thành động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Xã hội càng phát triển thì vai trò của con người có trí tuệ càng quan trọng.

Trong thế kỷ XXI, tài nguyên thiên nhiên và số lượng lao động phổ thông sẽ

không là lợi thế quan trọng nhất, thay vào đó là lao động có tri thức, có tay nghề

cao, được đào tạo một cách cơ bản, có hệ thống. Hàm lượng trí tuệ trong sản

phẩm sẽ không ngừng chiếm tỷ lệ cao so với vốn, thiết bị, nguyên vật liệu và lao

động cơ bắp, khi đó nguồn lực trí tuệ trong xã hội sẽ đóng vai trò quyết định đến

sự phát triển của đất nước. Đảng ta khẳng định: Lấy việc phát huy nguồn lực con

người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Nâng cao dân trí,

bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố

quyết định thắng lợi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Không thể nói đến CNH, HĐH trong thời đại văn minh, trí tuệ, thời đại

khoa học công nghệ mà lại thiếu nguồn lực con người - nhất là nguồn nhân

lực chất lượng cao, thiếu đội ngũ cán bộ khoa học giỏi. Những bài học kinh

nghiệm về sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của các nước trong khu vực và

một số nước châu Á (có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam) là cơ sở thực

tiễn quan trọng để giúp cho chúng ta có niềm tin khoa học vào việc lựa chọn

khâu đột phá phát triển nhanh nguồn nhân lực để thực hiện chiến lược kinh tế

- xã hội từ nay đến năm 2020 và cho giai đoạn tiếp theo. Ba nguyên tắc để

phát triển kinh tế - xã hội mà Nhật Bản đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh Đan

Mạch (1995) là: Lấy con người làm trung tâm; lấy phát triển nguồn lực là

biện pháp quyết định; và động viên quần chúng tham gia tích cực, là những

nguyên tắc vẫn còn có ý nghĩa nhất định đối với quá trình phát triển kinh tế -

xã hội của chúng ta hiện nay [8, tr.81].

65

Coi con người là động lực trực tiếp của sự phát triển, điều đó không có

nghĩa là xem nhẹ yếu tố tài nguyên, thiên nhiên. Ở một số nước do được ưu

đãi về tài nguyên, thiên nhiên và bằng việc khai thác nguồn tài nguyên thiên

nhiên này các nước đó đã tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế. Nhưng bản

thân tài nguyên thiên nhiên chưa phải là động lực, cũng không phải là nguồn

lực vô hạn, nó chỉ trở thành nguồn lực có hiệu quả khi được khai thác và sử

dụng một cách thông minh tức là dưới sự tác động của nhân tố con người, của

nguồn lực con người.

Đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, coi nguồn lực con

người là nguồn lực của mọi nguồn lực. Điều đó không chỉ coi nguồn lực con

người chỉ là chủ thể quyết định sự vận động và phát triển xã hội, của quá trình

CNH, HĐH đất nước, mà nguồn lực con người còn khách thể của quấ trình

đó, là đối tượng mà chính sự phát triển kinh tế- xã hội phải hướng tới. Ở đây,

con người mục tiêu và con người động lực có sự gắn bó chặt chẽ với nhau,

trong đó con người mục tiêu dường như chi phối con người nguồn lực và con

người nguồn lực lại hướng tới con người mục tiêu.

Thứ hai, con người - nguồn lực con người, vừa là sản phẩm, vừa là chủ

thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, nhưng hoàn cảnh lại do chính con

người tạo ra và con người có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh. Phê phán các

nhà duy vật trước đây chỉ “cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn

cảnh và của giáo dục” mà không hiểu rằng “chính những con người làm thay

đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục” [81,

tr.10]. Đó là biện chứng của sự vận động và phát triển xã hội.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải tự nhiên mà có và cũng không

thể do ai đưa đến cho ta, đó phải là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền

bỉ của toàn Đảng, toàn dân ta với những con người phát triển cả về trí lực, thể

66

lực, khả năng lao động, sáng tạo và tính tích cực chính trị - xã hội cao. Quan

điểm: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân cần

phải được quán triệt một cách sâu sắc trong quá trình tiến hành CNH,HĐH. Sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa chỉ thành công khi chúng ta huy động

được toàn xã hội, huy động được mọi thành viên trong xã hội tích cực tham gia

vào quá trình này; đồng thời Nhà nước cần có chính sách và nguồn ngân sách

thích đáng để đẩy nhanh quá trình đó. Trong quan điểm chỉ đạo thực hiện mục

tiêu Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 đã được Thủ

tướng Chính phủ đã phê duyệt ngày 19 tháng 4 năm 2011 có khẳng định “Phát

triển nhân lực là sự nghiệp, là trách nhiệm của toàn xã hội. Nhà nước thực hiện

chức năng quản lý vĩ mô, định hướng, dẫn dắt bằng hệ thống khung khổ pháp lý

và chính sách khuyến khích phát triển nhân lực… Mỗi công dân, mỗi tổ chức

kinh tế, xã hội có trách nhiệm tham gia tích cực vào phát triển nhân lực”.

Thực tế chỉ cho chúng ta thấy rằng, một số quốc gia và vùng lãnh thổ

khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo hay Đài Loan v.v... đều có diện tích

nhỏ, mật độ dân số cao, tài nguyên thiên nhiên nghèo (ít về chủng loại và nhỏ

về trữ lượng), thậm chí có nước (như Nhật Bản, sau đại chiến thế giới thứ hai)

xuất phát điểm để phát triển kinh tế thấp, vốn đầu tư thiếu, kỹ thuật và công

nghệ lạc hậu v.v... nhưng do họ biết phát huy nguồn lực con người, biết khơi

dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo - nhất là truyền thống dân tộc, văn hóa

dân tộc - mà đã phát triển, đã vươn lên một cách mạnh mẽ.

Phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa không phải chỉ là làm ra và đem lại cho con người những điều con

người mong muốn mà điều quan trọng là không ngừng gia tăng tính tự giác,

năng động, tự chủ, phát huy sức mạnh tiềm ẩn trong mỗi một thành viên, khơi

dậy lòng tự hào, niềm tin, ý chí và nhiệt tình cách mạng để con người tự vươn

lên, tự khẳng định mình trong cuộc sống.

67

Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi chúng ta tạo mọi điều kiện, thu

hút tối đa quần chúng nhân dân tham gia các hoạt động cách mạng, đấu tranh

cải tạo xã hội, xây dựng xã hội mới, cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để mỗi cá

nhân, mỗi thành viên phát triển tài năng sáng tạo của mình vì lợi ích chân

chính của xã hội và của bản thân mình. Thông qua quá trình này, những lớp

người mới, hiện đại và những phẩm chất mới được hình thành và phát triển. Ở

đây chúng ta cần phải trở lại một trong những luận điểm gốc của các nhà kinh

điển mácxít rằng:

Để cho ý thức cộng sản chủ nghĩa đó nảy sinh ra được trong đông

đảo quần chúng, cũng như để đạt được chính ngay mục đích ấy thì

cần phải có một sự biến đổi của đông đảo quần chúng, sự biến đổi

này chỉ có thể thực hiện được trong một phong trào thực tiễn,

trong cách mạng; do đó, cách mạng là tất yếu không những vì

không thể lật đổ giai cấp thống trị bằng một phương thức nào

khác mà còn vì chỉ có trong cách mạng giai cấp đi lật đổ giai cấp

khác mới có thể quét sạch mọi sự thối nát của chế độ cũ đang bám

chặt theo mình và trở thành có năng lực xây dựng cơ sở mới cho

xã hội [81, tr.100-101].

Thứ ba, do yêu cầu ngày càng cao của quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa. Để thực hiện “quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động

thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công

nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển

của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã

hội cao” [26, tr.14], đòi hỏi phải có nguồn nhân lực (hay là nguồn lực con

người) tương ứng cả về số lượng lẫn chất lượng - nhất là chất lượng nguồn

nhân lực.

68

Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội

là những hoạt động của con người, nói cách khác con người là chủ thể của

quá trình đó. Để cho các hoạt động này phát triển theo đúng xu thế vận động

và phát triển của lịch sử, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội ngày càng lớn,

thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người... đòi hỏi chủ thể hoạt động

phải có sự phát triển tương ứng, phải không ngừng hoàn thiện mình về mọi

mặt, cả số lượng lẫn chất lượng - nhất là chất lượng.

Ngay như chủ nghĩa tư bản, để tăng thu giá trị thặng dư họ đã phải

tìm mọi cách tăng sức sản xuất của lao động, phát triển nguồn lực con

người trong suốt quá trình phát triển, từ “Hiệp tác” giản đơn đến “Sự phân

công lao động và công trường thủ công” cuối cùng là “Máy móc và đại

công nghiệp”. So với sản xuất nhỏ cá thể, “hiệp tác tư bản chủ nghĩa” có

những ưu thế sau: 1) tiết kiệm được tư liệu sản xuất; 2) xuất hiện không khí

thi đua, kích thích nguyên khí làm tăng năng suất cá nhân của từng người

riêng lẻ; 3) rút ngắn thời gian lao động cần thiết để làm ra sản phẩm; 4)

trong hiệp tác người công nhân vứt bỏ được những giới hạn cá nhân và

phát triển được những tiềm lực loài của mình.

Tuy có những ưu thế nhất định, nhưng sự hiệp tác này - như C.Mác

đánh giá - “hoàn toàn không phải là một hình thức đặc trưng vững chắc của

một thời kỳ phát triển đặc thù của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa” [87, tr.486],

nhưng đó là sự mở đầu cuộc cách mạng về tổ chức lao động, quá trình tập

trung tư liệu sản xuất, quá trình chuyển từ tư hữu nhỏ thành tư hữu lớn.

Công trường thủ công là bước phát triển tiếp theo, tất yếu từ lao động

tập thể chưa có phân công sang lao động tập thể có phân công. Tuy nhiên, sự

khác nhau giữa hai giai đoạn này vẫn chủ yếu về lượng, chưa phải về chất.

Nghĩa là đã có sự phát triển nhiều về số lượng, còn sự phát triển về chất lượng

nguồn nhân lực thì chưa nhiều. Bởi vì - như C.Mác nói - “Đứng về bản thân

69

phương thức sản xuất mà xét thì công trường thủ công lúc ban đầu hầu như

chỉ khác ngành công nghiệp thủ công phường hội ở chỗ một số lượng công

nhân đông hơn được một nhà tư bản thuê cùng một lúc. Đó chỉ là cái xưởng

của người thợ cả phường hội được mở rộng ra mà thôi.

Như vậy, sự khác nhau lúc đầu chỉ thuần tuý có tính chất số lượng,

nhưng chính sự khác nhau này lại là tiền đề, là điều kiện dẫn đến sự phát

triển về chất. Vì “sự phân công lao động trong công trường thủ công đẻ

ra máy móc. Máy móc lại xoá bỏ loại lao động thủ công, vốn được coi là

nguyên tắc điều tiết nền sản xuất xã hội” [87, tr.535]. Do đó, công

trường thủ công là cơ sở kỹ thuật trực tiếp của đại công nghiệp cơ khí.

Dòng chảy của sự phát triển ấy cho chúng ta thấy giữa công trường thủ

công với đại công nghiệp cơ khí có sự gắn kết chặt chẽ như thế nào.

Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật chuyển hóa từ những thay đổi

về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại của phép biện chứng

duy vật.

Nếu như trong công trường thủ công, điểm xuất phát của cách mạng

trong phương thức sản xuất là sức lao động thì trong thời đại công nghiệp

đó là tư liệu lao động trước hết là công cụ lao động cơ khí - máy móc, đặc

biệt là máy công cụ hay máy công tác. “Nhờ dùng máy móc, nhờ các quá

trình hoá học và các phương pháp khác, nền công nghiệp hiện đại không

ngừng đảo lộn những cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất, và cùng với chúng là

những chức năng của công nhân và những sự kết hợp xã hội của quá trình lao

động” [87, tr.692]. Nhưng tư liệu sản xuất, tư liệu lao động đều do con người

sáng tạo ra. Để cải tiến công cụ lao động, để có công cụ lao động cơ khí -

máy móc… đòi hỏi người lao động phải không ngừng nâng cao trình độ

của mình về mọi mặt cả về tri thức lẫn kỹ năng, tác phong, thói quen lao

động và cả đạo đức nghề nghiệp.

70

Vào thời đại của C.Mác, Ph.Ăngghen - thời đại của cuộc cách mạng

công nghiệp - cho dù lao động thủ công đã được thay thế bằng lao động sử

dụng máy móc nhưng yếu tố thể chất, kinh nghiệm, kỹ năng lao động của

công nhân, của người lao động giữ vai trò quan trọng. Còn trong điều kiện

hiện nay, khi mà những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và công

nghiệp hóa gắn bó chặt chẽ với nhau thì yêu cầu phát triển nguồn nhân lực,

nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên cấp thiết.

Khác với công nhân truyền thống (công nhân đứng máy trong các xí

nghiệp công nghiệp), công nhân hiện đại là sản phẩm của cuộc cách mạng

khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là từ khi thông tin trở thành nguồn lực

quan trọng bên cạnh những nguồn lực truyền thống; khi mà tri thức và quá

trình ứng dụng tri thức vào quá trình sản xuất xã hội ngày càng trở nên phổ

biến, chuỗi giá trị toàn cầu xuất hiện ngày càng nhiều… thì yếu tố thể chất,

kinh nghiệm, kỹ năng lao động của công nhân, của người lao động không

còn giữ được vị trí như trước đây, thay vào đó là lao động trí tuệ, lao động

sáng tạo đóng vai trò hết sức quan trọng.

Chúng ta thấy rằng, từ cách mạng khoa học công nghệ thế kỷ XVI-

XVII đến cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII-XIX, bắt đầu ở Anh

(khoảng 30 năm cuối thế kỷ XVIII- 25 năm đầu thế kỷ XIX) sau đó lan

sang một số nước khác như Đức, Pháp, Mỹ v.v. cho đến cách mạng khoa

học- kỹ thuật hiện đại, đòi hỏi việc nâng cao chất lượng nguồn lực con

người ngày một lớn và trên thực tế nguồn lực con người đã có những bước

phát triển vượt bậc, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó

yếu tố tri thức có tốc độ gia tăng hết sức nhanh chóng với khả năng lan

truyền và phổ biến với quy mô lớn cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Theo những

tính toán mang tính định lượng thì cuối thế kỷ XX, lượng tri thức của nhân

loại đã tăng thêm khoảng 1000 lần so với đầu thế kỷ, số lượng tạp chí và

71

bài báo khoa học cứ 10 năm lại tăng lên gấp đôi, trung bình mỗi năm tăng

600 triệu trang [102, tr.10].

Nếu như trước đây, tri thức chỉ gián tiếp tạo ra sự phát triển thì giờ đây

tri thức khoa học trực tiếp tạo ra sự thịnh vượng và giàu có cho không ít quốc

gia, đặc biệt là tri thức trong công nghệ mới, công nghệ cao mà cốt lõi là công

nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ

năng lượng mới - hệ thống công nghệ mới này đã tạo nên bước đột phá trong

quá trình phát triển kinh tế- xã hội của nhân loại. Với ý nghĩa đó, nếu nguồn

lực con người không phát triển thì quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí là không thể thực hiện được. C.Mác đã từng

khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất

hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng” [82, tr.257]. V.I. Lênin cũng

nhấn mạnh: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công

nhân, là người lao động” [74, tr.430].

Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 đã được

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt ngày 19 tháng 4 năm 2011 có khẳng định

“phát triển nhân lực là khâu đột phá để thực hiện thành công Chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội” nói chung, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói

riêng. Mục tiêu tổng quát của chiến lược này là “đưa nhân lực Việt Nam trở

thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển bền vững đất nước, hội

nhập quốc tế và ổn định xã hội, nâng trình độ năng lực cạnh tranh của nhân

lực nước ta lên mức tương đương các nước tiên tiến trong khu vực, trong đó

một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế giới”. Có như vậy

nguồn nhân lực Việt Nam mới có thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

72

2.2.3. Yêu cầu cơ bản của việc phát triển nguồn lực con người trong

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay

Muốn tiến hành CNH,HĐH nhất thiết phải phát triển nguồn lực con

người đủ về mặt số lượng, đảm bảo về mặt chất lượng, hợp lý về mặt cơ cấu

(cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế; cơ cấu khu

vực thể chế; cơ cấu tái sản xuất v.v.)

Trước hết về mặt số lượng, bất cứ một quốc gia nào cũng phải có một số

lượng dân cư nhất định để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong số lượng dân cư

đó , một phần thuộc về nguồn lực lao động - nguồn lực con người. Theo quy

định của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam, nam tuổi từ 15 - 60;

nữ 15 - 55 có khả năng lao động đều thuộc nguồn lao động. Như vậy, nguồn

nhân lực bao gồm số người đang làm việc trong các ngành, các lĩnh vực của

nền kinh tế - xã hội; số người thất nghiệp; số người làm công việc nội trợ và

số học sinh, sinh viên trong độ tuổi lao động.

Như mục 2.1.1.2 Cấu trúc của nguồn lực con người đã phân tích, so với

nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam có nguồn nhân lực tương

đối dồi dào, số người trong độ tuổi lao động tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao

(67%) trong dân số cả nước. Cơ cấu dân số vàng xuất hiện ở nước ta từ năm

2010 và kết thúc khoảng 2040, đây là khoảng thời gian tương đối dài để

chúng ta phát huy lợi thế về nguồn lực lao động nhằm thúc đẩy kinh tế - xã

hội phát triển.

Theo số liệu cuộc tổng điều tra dân số ngày 1 - 4 - 2009, dân số Việt

Nam vào thời điểm đó có 85.789.573 và cách đây gần một năm, ngày 1-11-

2013 cháu Nguyễn Thị Thùy Dung vinh dự trở thành công dân thứ 90 triệu của

Việt Nam. Với hơn 90 triệu dân như hiện nay, trong đó số người trong độ tuổi

lao động chiếm 67%, thì hiện tại Việt Nam có nguồn lực con người tương đối

dồi dào, có thể nói đủ về số lượng để chúng ta tiến hành CNH,HĐH đất nước.

73

Yêu cầu về chất lượng: Để tiến hành CNH, HĐH, đòi hỏi chúng ta một

mặt phải có số lượng lao động nhất định, có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu

thực tiễn đặt ra, mặt khác - và quan trọng hơn - là nguồn lực lao động đó phải

có chất lượng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình CNH,HĐH.

Nói đến chất lượng nguồn lực con người là nói đến những yếu tố về thể

lực, trí lực, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, tính chuyên nghiệp, tác

phong (hiện nay là tác phong công nghiệp), tính năng động xã hội và sức sáng

tạo, kinh nghiệm sống, tâm lý, đạo đức... của nguồn lực con người, cũng như

truyền thống lịch sử và nền văn hoá mà con người được thụ hưởng.

Liên quan đến phát triển chất lượng nguồn lực con người có nhiều yếu

tố, mỗi yếu tố, hay bộ phận cấu thành của nó đều có ý nghĩa nhất định: chăm

sóc sức khỏe, y tế, giáo dục - đào tạo, lao động, bố trí việc làm gắn với tiến bộ

khoa học kỹ thuật, trả công lao động và phúc lợi xã hội khác… do đó khi đề

cập đến chất lượng nguồn nhân lực, không thể không xem xét những điều

kiện phát triển con người của quốc gia, hoặc có thể của một địa phương.

Trên thế giới ngày nay người ta thường lấy chỉ số phát triển con người

HDI (Human Deverlopman Ider) để đánh giá trình độ phát triển của một

nước. Các chỉ số bộ phận cấu thành chỉ số phát triển chung của phát triển

nguồn nhân lực là: Chỉ số tuổi thọ; chỉ số tri thức (giáo dục): tỷ lệ người lớn

có học và số năm trung bình đi học; chỉ số thu nhập (GDP): thu nhập thực tế

và thu nhập được điều chỉnh theo giá cả (thu nhập từng nước).

Các chỉ số HDI cơ bản được mang giá trị từ 0 - 1. Chỉ số giáo dục được

coi là giá trị bằng 1 khi 100% người lớn (trên 15 tuổi), biết đọc, biết viết;

bằng 0 khi 0% người lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết. Chỉ số tuổi thọ được

coi giá trị bằng 1 khi tuổi thọ bình quân đạt 85 tuổi, bằng không khi tuổi thọ

bình quân đạt 25 tuổi. Chỉ số thu nhập được coi giá trị bằng 1 khi thu nhập

GDP bình quân đầu người đạt 40.000 USD. Như vậy ta thấy, chất lượng

74

nguồn nhân lực cao là vô cùng quan trọng, là yếu tố quyết định sự phát triển

thành công của mỗi một quốc gia.

Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ hiện đại, của

kinh tế tri thức; trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập thế giới hiện nay, tri

thức (nhất là tri thức khoa học) giữa vai trò hết sức quan trọng, thậm chí có

người còn coi đó là một “quyền lực”- quyền lực trí tuệ. Sức cạnh tranh giữa

các nền kinh tế, giữa các quốc gia; quá trình gia nhập vào chuỗi giá trị toàn

cầu v.v. phụ thuộc rất lớn vào nguồn lực con người có được đào tạo một cách

có hệ thống, cơ bản, mang tính hiện đại hay không.

Ngày nay không ít sản phẩm trong đó giá trị nguyên, vật liệu chỉ

chiếm mấy phần trăm, còn lại hơn chín mươi phần trăm giá trị thuộc về

chất xám. Công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa đòi hỏi phải có nguồn

nhân lực chất lượng cao, cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như sự

thành thạo các kỹ năng - kỹ xảo; cả về tác phong (tác phong công nghiệp)

cũng như khả năng thích ứng trước sự biến động của thị trường sức lao

động; cả về đạo đức nghề nghiệp lẫn văn minh công nghiệp v.v. Không có

được nguồn lực con người với chất lượng cao thì quá trình CNH, HĐH sẽ

gặp không ít khó khăn.

Chính sự cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, quá trình chuyên môn

hóa và phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc; mức độ xã hội hóa sản

xuất và lao động ngày càng cao v.v.. đòi hỏi nguồn nhân lực phải được đào

tạo một cách cơ bản, có hệ thống, có tác phong công nghiệp, tính chuyên

nghiệp cao mới có thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao

động. Trong điều kiện thị trường lao động đa dạng như hiện nay (thị trường

lao động trong các lĩnh vực chuyên môn, ngành, vùng, trong nước và quốc tế

v.v.. với những đặc thù của nó) thì vấn đề chất lượng nguồn nhân lực luôn

luôn được đặt lên hàng đầu.

75

Nói cách khác, phát triển nguồn lực con người phải đáp ứng yêu cầu

CNH,HĐH và hội nhập thế giới - nhất là hội nhập kinh tế thế giới hiện nay.

Nguồn nhân lực chất lượng cao không những là chủ thể, mục tiêu của

CNH, HĐH mà còn là động lực phát triển của sự nghiệp phát triển đó. Nói

NNLCLC là động lực của sự nghiệp CNH, HĐH, vì rằng đây là lực lượng lao

động có chất lượng cao, làm chủ các dây chuyền sản xuất, các công nghệ hiện

đại và tạo sản phẩm năng suất lao động cao. Đây là nguồn lực có khả năng

soạn thảo chiến lược, các chính sách CNH, HĐH, sáng tạo ra những thành tựu

khoa học và công nghệ hiện đại ứng dụng chúng vào quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, sản xuất vật chất, quản lý kinh tế - xã hội; đưa ra các giải pháp để

điều chỉnh và giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình CNH, HĐH;

dự báo khả năng phát triển, những nguy cơ có thể tụt hậu xảy ra và thực hiện

vai trò đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khác.

Muốn thực hiện thành công CNH, HĐH đòi hỏi phải có sự nỗ lực và

sáng tạo rất cao, biết tiếp cận và vận dụng những thành tựu mới về khoa học

và công nghệ hiện đại, sử dụng và phát huy đến mức tối đa lợi thế vốn có của

nguồn lực con người Việt Nam, biến nguồn lực con người Việt Nam thành

động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Chỉ có những con người

phát triển toàn diện, nắm bắt nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong

thực tiễn, đáp ứng được nhu cầu khai thác và sử dụng các nguồn lực cho

phát triển kinh tế - xã hội, lúc đó mới có thể đưa sự nghiệp CNH, HĐH đến

thắng lợi.

Không thể nói đến CNH, HĐH trong thời đại văn minh, trí tuệ, thời đại

khoa học công nghệ mà lại thiếu nguồn lực con người có chất lượng cao,

thiếu đội ngũ cán bộ khoa học giỏi. Hiểu rõ điều này, trong Hội nghị lần thứ

tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã khẳng định: “con người

phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần trong

76

sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là

mục tiêu của chủ nghĩa xã hội” [25, tr.5].

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam là một quá trình khó khăn,

phức tạp, sẽ không thành công nếu không có những bước đi, giải pháp phù

hợp với đặc thù của đất nước và bối cảnh quốc tế cho dù đất nước có đủ các

nguồn lực để phát triển. Sự nghiệp CNH, HĐH “có thể rút ngắn thời gian, vừa

có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt” [36, tr.21], mà yếu tố quyết

định chính là nguồn lực con người có chất lượng cao chứ không phải là nguồn

lực nào khác.

Ngoài yêu cầu phát triển số lượng phù hợp, chất lượng cao, sự nghiệp

CNH,HĐH đòi hỏi phải có sự chuyển dịch, thay đổi, bố trí một cách hợp lý về

mặt cơ cấu nguồn lực con người: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu

thành phần kinh tế; cơ cấu khu vực thể chế; cơ cấu tái sản xuất v.v. trong đó

cơ cấu ngành, cơ cấu vùng giữ vai trò hết sức quan trọng.

Một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Về thực chất đây là quá trình làm thay đổi cơ cấu

kinh tế cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp với tình hình thực tế và sự phát triển

bằng một cơ cấu mới, tiến bộ, hợp lý nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển

ngày càng cao, bền vững hơn.

Nhìn chung cơ cấu ngành kinh tế nước ta vẫn chưa hợp lý, tỷ trọng

nông nghiệp trong GDP vẫn còn cao, trong lúc đó tỷ trọng công nghiệp, dịch

vụ trong GDP vẫn còn thấp. Tại Hội nghị lần thứ Bảy, khóa X, Đảng ta có

đánh giá

Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong

nông nghiệp còn chậm, phổ biến là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất,

chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ

và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch

77

cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất

chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng

hóa. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém…Đời sống vật chất và tinh thần của

người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là vùng

đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa [35, tr.122].

Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP hiện nay ở nước ta vào khoảng 20%.

Theo tinh thần Đại hội lần thứ XI, chúng ta phấn đấu đến năm 2015, tỷ trọng

nông nghiệp trong GDP vào khoảng 17-18%; công nghiệp và xây dựng 41-

42%; dịch vụ 41-42% [36, tr.33].

Sự bất hợp lý trong cơ cấu kinh tế (nhất là cơ cấu ngành, cơ cấu vùng )

kéo theo sự bất hợp lý trong thu hút, sử dụng nguồn lực lao động, điều này ít

nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn lực con người.

Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (tháng

10-2011) đã quyết định tái cơ cấu nền kinh tế.Ngày 19/02/ 2013 Thủ tướng

Chính phủ đã phê duyệt đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi

mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực

cạnh tranh giai đoạn 2013- 2020. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ảnh hưởng đến

chuyển dịch cơ cấu lao động. Thời gian gần đây, cơ cấu lao động ở nước ta

nhìn chung đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, góp phần thúc đẩy quá

trình phát triển nguồn lực con người hiện nay ở nước ta.

Tỷ trọng lao động đang làm việc ở nhóm ngành nông, lâm nghiệp đã

giảm xuống (từ 55,1% năm 2005 xuống còn 46,9% năm 2013); trong khi tỷ

trọng lao động đang làm việc ở hai nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và

dịch vụ đã tăng lên (tương ứng là 44,9% lên 53,6%), trong đó ở nhóm ngành

dịch vụ tăng khá (tương ứng từ 27,1% lên 32%). Nhờ sự chuyển dịch số lao

động đang làm việc từ nhóm ngành có năng suất lao động thấp (là nông, lâm

78

nghiệp - thủy sản) sang các nhóm ngành có năng suất lao động cao hơn (của

công nghiệp - xây dựng và dịch vụ), nên năng suất lao động của toàn bộ nền

kinh tế đã tăng lên (từ năm 2006 đến 2013, tăng 3,4%/năm). Cơ cấu vốn đầu

tư, nếu chia theo ngành, xu hướng là tập trung cho nhóm ngành dịch vụ

(chiếm trên 50%) và tỷ trọng đầu tư vào công nghiệp - xây dựng có xu hướng

tăng lên (bình quân 2006 - 2010 là 41,2%, bình quân 2011 - 2013 đạt khoảng

43,5%) [102].

Từ sự phân tích trên, cho phép chúng ta rút ra kết luận: Cùng với sự

phát triển về số lượng và chất lượng, chuyển dịch, thay đổi, bố trí một cách

hợp lý về mặt cơ cấu nguồn lực con người cũng có thể coi là một trong

những nội dung của phát triển nguồn lực con người trong quá trình

CNH,HĐH đất nước.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Sự phân tích trên đây chúng ta thấy, trong tất cả các nguồn lực góp

phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nguồn lực con người luôn luôn giữ

vai trò quyết định. Với ý nghĩa đó, Đảng ta cho rằng phát triển nguồn lực con

người được coi là khâu đột phá để thực hiện thành công Chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội; là đòi hỏi khách quan, là nhân tố quyết định thắng lợi của quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng ta khẳng định: con người

là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất

của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bối dưỡng và phát huy nguồn lực to

lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc công

nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Để có nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội

cũng như nhu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, đòi hỏi chúng ta phải chú ý

phát triển nguồn lực con người một cách hợp lý cả về số lượng lẫn chất lượng

lẫn cơ cấu. Mọi bất cập giữa số lượng với chất lượng hay cơ cấu cũng như

79

mọi sự phát triển không đồng bộ giữa chúng sẽ dẫn đến chỗ triệt tiêu sức

mạnh của nhau.

Từ những kinh nghiệm và bài học rút ra từ việc phát triển nguồn lực

con người của các nước trong khu vực và trên thế giới giúp cho chúng ta có

cơ sở để khẳng định rằng, chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá

không có con đường nào tốt hơn là phải quan tâm đến việc phát triển nguồn

lực con người và sử dụng nguồn lực đó một cách có hiệu quả nhất.

80

Chương 3

PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH

CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

- THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG

ĐẾN VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH

CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

3.1.1. Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến việc phát triển nguồn lực

con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An

hiện nay

Khi phân tích các yếu tố cơ bản tác động đến phát triển nguồn lực con

người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay (mục

2.1.1.2.), tác giả luận án cho rằng “điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý” là

một trong những yếu tố cơ bản tác động đến sự phát triển đó. Sự phát triển

nguồn lực con người ở Nghệ An cũng không nằm ngoài vấn đề có tính quy

luật chung này. C.Mác trong Lời tựa- Góp phần phê phán khoa kinh tế- chính

trị viết rằng: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái

lại tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [84, tr.15]. Còn V.Lênin

khi phê phán Bôgđanốp - người đã đồng nhất ý thức xã hội với tồn tại xã hội-

cũng đã khẳng định rằng: “Nói chung, ý thức phản ánh tồn tại, đó là một

nguyên lý chung của toàn bộ chủ nghĩa duy vật và không thể không nhìn thấy

mối liên hệ trực tiếp và mật thiết giữa nguyên lý ấy với nguyên lý của chủ

nghĩa duy vật lịch sử cho rằng ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội” [71,

tr.400]. Đây là cơ sở lý luận, là những “luận điểm gốc” để chúng ta xem xét

ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý đến sự phát triển nguồn

lực con người ở nước ta nói chung, ở Nghệ An nói riêng.

81

Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc - trung Bộ, có diện tích tự nhiên 16.488 km2 và dân số trung bình 3.105 nghìn người (tính đến năm

2013). Về mặt hành chính có 19 huyện, thị và 1 thành phố (trong đó có 11

huyện, thị ở miền núi).

Nghệ An nằm ở Đông Bắc dãy Trường Sơn, có địa hình đa dạng, phức

tạp, bị chia cắt mạnh bởi các dãy đồi núi và hệ thống sông, suối. Về tổng thể,

địa hình nghiêng theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, với ba vùng sinh thái rõ

rệt: miền núi, trung du, đồng bằng ven biển. Trong đó, miền núi chiếm tới

83% diện tích lãnh thổ. Địa hình có độ dốc lớn, chiếm gần 80% diện tích tự

nhiên toàn tỉnh, đặc biệt có trên 38% diện tích đất có độ dốc lớn hơn 25 độ.

Nơi cao nhất là đỉnh Pulaileng (2.711m) ở huyện Kỳ Sơn, thấp nhất là vùng

đồng bằng các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành, có nơi chỉ cao

0,2m so với mặt nước biển (xã Quỳnh Thanh, Quỳnh Lưu).

Một trong những đặc điểm cơ bản của khí hậu ở Nghệ An là sự chênh lệch

nhiệt độ giữa các tháng trong năm khá cao. Số giờ nắng trung bình/năm

là 1.500 - 1.700 giờ. Lượng mưa bình quân hàng năm dao động từ 1.200 - 2.000

mm/năm. Thêm vào đó, Nghệ An là một trong những vùng đất chịu ảnh

hưởng nặng nề của gió Tây khô nóng thổi từ Lào sang, làm cho vùng đất

vốn không được ưu đãi về mặt địa hình nay lại gặp phải sự khắc nghiệt về

mặt khí hậu, đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên phải thốt lên rằng: “Ôi gió Lào

ơi, ngươi đừng thổi nữa. Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ. Những

đồi sim không đủ quả nuôi người”. Chính điều này đã ảnh không tốt đến sự

phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đến việc phát triển nguồn lực con người

ở Nghệ An nói riêng.

Địa hình, khí hậu là những yếu tố tự nhiên thuộc tồn tại xã hội, những

yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý, tính cách con người Nghệ An - với

tư cách là trình độ, cấp độ thấp của ý thức xã hội - biểu hiện trước hết là trong

82

tâm lý và văn hóa ứng xử của người dân nơi đây, một lối ứng xử theo mô típ

vuông thành sắc cạnh mà nhân lõi của nó là Nhân - Nghĩa - Hiệp. Từ lõi trung

tâm này dẫn tới hình thức giao tiếp đặc biệt của phần lớn người dân xứ Nghệ

là “thẳng như ruột ngựa”. Văn hóa dân gian Nghệ An vẫn lưu truyền câu: “Đã

thẳng, thẳng như ruột ngựa. Đã nói là nói oang oang. Ông trời nói sai cũng

cãi. Như rứa là dân Nghệ An. Đã nhìn là nhìn thẳng mặt. Biết bao bận bị mất

lòng. Đã chết cũng không chừa nói thật’’. Còn nhà nghiên cứu văn hóa Phan

Ngọc thì cho rằng, người Nghệ rất gàn, họ tự đặt ra mô hình cuộc sống cho

mình trong suy nghĩ và suốt đời họ phấn đấu cho mô típ ấy, nhiều khi họ sẵn

sàng bỏ quên thực tại để hướng tới mô hình mà mình đã lựa chọn.v.v.. Tất cả

đó phải chăng đã tạo nên một phần cái gọi là “tính cách Nghệ”, một tính cách

trong đó có sự đan xen, hòa trộn giữa cái tốt với cái xấu; cái tích cực với cái

tiêu cực. Tính thẳng thắn, bộc trực mỗi khi vượt quá ngưỡng cần thiết sẽ dẫn

đến hiện tượng “gây gỗ”; ý thức cố kết cộng đồng, nghị lực bứt phá là phẩm

chất rất tốt của người dân xứ Nghệ, nhưng mỗi khi ý thức đó phát triển không

đúng hướng, cực đoan đến mức cùng cực sẽ dẫn đến tình trạng cục bộ, kỳ thị,

kéo bè kéo cánh. Sự nhẫn nại, kiên trì quyết tâm giành lấy một cái gì đó đúng

đắn mà mình theo đuổi là điều tốt, nhưng sự nhẫn nại ấy mỗi khi vượt quá

giới hạn cần thiết sẽ dẫn đến bảo thủ, trì trệ… tất cả đó ảnh hưởng nhất định

đến việc phát triển nguồn lực con người - nhất là về mặt chất lượng - ở Nghệ

An hiện nay.

Gần đây, trên một số phương tiện thông tin đại chúng đưa tin về tình

trạng lao động là con em người Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh bị một số

doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai từ chối, dù

họ vẫn có nhu cầu tuyển dụng. Thậm chí có công ty công khai treo biển

không tiếp nhận lao động Nghệ An. Gần đây, ngày 5/4/2013 trong cuộc đối

thoại trực tuyến với Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, một

83

lao động Nghệ An đã đặt câu hỏi: tại sao một công ty tuyển dụng lao động

xuất khẩu sang Nhật cũng từ chối lao động Nghệ An? Một số ý kiến cho rằng

lao động Nghệ An hay gây gỗ, đánh nhau vô kỷ luật, trộm cắp, kết bè kéo

cánh với nhau, tạo nên các vụ đình công, đình công “đen”, ngưng việc tập thể

rất tai hại.v.v.. Có hay không, nhiều hay ít, tính đại diện thấp hay cao… thì

chừng ấy phần nào cũng làm cho hình ảnh người lao động là con em Thanh -

Nghệ - Tĩnh xấu đi trong con mắt của không ít người.

Điều kiện tự nhiên không chỉ ảnh hưởng đến tâm lý, tính cách con người

mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung cấp dịch vụ giáo dục, y tế và một

số dịch vụ khác. Có thể nói ở Nghệ An - nhất là các huyện miền núi phía Tây

của tỉnh hiện vẫn còn gặp không ít khó khăn trong phát triển giáo dục và đảm

bảo dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe. Do địa hình đa dạng, phức tạp, bị chia

cắt mạnh bởi các dãy đồi, núi và hệ thống sông, suối nên việc đi lại, học tập

của học sinh (nhất là bậc tiểu học, trung học cơ sở) gặp không ít khó khăn.

Nhiều em đã phải làm lán, trại gần trường để học. Có nhiều trường hợp học

sinh qua sông đến trường bằng các dây cáp tự chế vì không có cầu, đường v.v.

Dịch vụ khám, chữa bệnh cho bà con thôn, bản vùng sâu, vùng xa gặp không

ít trở ngại. Khi các dịch vụ giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe v.v. không được

đảm bảo, nhất định sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng sống, chất lượng nguồn

lực con người trong hiện tại và cả trong tương lai.

3.1.2. Điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội ảnh hưởng đến việc phát

triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ở tỉnh Nghệ An hiện nay

Về điều kiện kinh tế, Nghệ An nằm trong hành lang kinh tế Đông - Tây

nối liền với My- an- ma, Thái Lan và Lào. Nghệ An có bờ biển dài 82 km và

bãi biển Cửa Lò- một trong những khu du lịch - nghỉ dưỡng đẹp của cả nước,

hàng năm thu hút hàng chục vạn khách thăm quan, du lịch. Đây là điều kiện

84

để phát triển khu kinh tế Đông Nam Nghệ An thành một khu kinh tế tổng hợp,

bao gồm các ngành công nghiệp, cảng và dịch vụ cảng, du lịch, trung chuyển

hàng hóa… góp phần làm tăng năng lực sản xuất khu vực phi nông nghiệp

của tỉnh, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp, dịch vụ của cả vùng, nâng cao

vai trò của tỉnh trong việc thúc đẩy giao lưu kinh tế, thương mại trong vùng

và giữa vùng với các địa phương khác nhất là các nước Lào - Thái Lan và

Trung Quốc. Đây là cơ hội hết sức thuận lợi để Nghệ An kêu gọi đầu tư phát

triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thay thế các ngành công nghệ

thấp, giá trị gia tăng thấp bằng các ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao,

tạo ra giá trị gia tăng cao. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế này sẽ kéo

theo chuyển dịch cơ cấu nguồn lực lao động trên địa bàn tỉnh, nhất là từ lao

động nông nghiệp sang lao động công nghiệp, dịch vụ. Điều đó cũng có nghĩa

là góp phần thúc đẩy sự phát triển nguồn lực con người - trước hết là về mặt

chất lượng.

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, tỉnh Nghệ An

được xác định là một trung tâm kinh tế, văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ.

Nghệ An là nơi tập trung nhiều cơ sở giáo dục đào tạo trong đó có những cơ

sở mang tầm cỡ vùng (điển hình là Đại học Vinh), từ nhiều năm nay đã đào

tạo nhân lực (bậc đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề) cho tỉnh và

cả vùng Bắc Trung bộ. Vai trò của Nghệ An đối với vùng trong lĩnh vực khoa

học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực ngày càng tăng khi nhu cầu nguồn

lực con người ngày càng lớn.

Trong giai đoạn 2006 - 2010, tổng sản phẩm GDP liên tục tăng theo hướng

tăng dần tỷ trọng công nghiệp- dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. GDP

theo giá thực tế 2010 đạt hơn 41.000 tỷ, nâng thu nhập bình quân/năm lên 14,16

triệu đồng/người năm 2010 (tăng 2,4 lần so với 2005), giá trị sản xuất nông

nghiệp và thủy sản năm 2010 đạt trên 11.000 tỷ đồng tăng 1,9 lần so với 2005,

85

công nghiệp xây dựng năm 2010 đạt gần 14.000 tỷ đồng tăng gần 2,8 lần so với

năm 2005. Ngành thương mại, dịch vụ đạt kết quả tích cực, tổng mức hàng hóa

bán lẻ, dịch vụ năm 2010 đạt 16.000 tỷ đồng tăng gấp 2 lần so với năm 2005.

GDP năm 2013 (theo giá so sánh 2010) đạt 106.998.380 tỷ đồng, tăng

6,48% (kế hoạch đề ra 7 - 8%), trong đó khu vực nông - lâm - ngư nghiệp ước

đạt 11.476,6% tỷ đồng, tăng 3,36%, khu vực công nghiệp - xây dựng ước đạt

11.476,6 tỷ đồng, tăng 3,53%, công nghiệp tăng 6,79%; xây dựng tăng

0,11%; khu vực dịch vụ 14.962,9 tỷ đồng, tăng 8,56% so với cùng kỳ và thuế

sản phẩm 2.650 tỷ đồng, tăng 22,97% [111].

Những kết quả đạt được trong lĩnh vực kinh tế thời gian qua đã góp

phần quan trọng làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của địa phương. Khi

kinh tế phát triển cùng với sự quan tâm đúng đắn của các cấp ủy, chính

quyền cũng như của các ngành thì các dịch vụ giáo dục, y tế, chăm sóc

nhân dân v.v. sẽ có điều kiện để được đảm bảo và được phục vụ tốt hơn, đó

cũng là lúc chất lượng cuộc sống người dân được nâng lên, chất lượng

nguồn lực con người trên địa bàn tỉnh cũng theo đó mà có sự phát triển

nhất định (xem phụ lục 1).

Về văn hóa- xã hội. Xứ Nghệ có bề dày truyền thống văn hóa - một

truyền thống đáng tự hào, một truyền thống văn hóa tạo nên bản sắc, cốt cách

của người dân xứ Nghệ. Một truyền thống văn hóa có thể nói là đủ sức đề

kháng với các phản giá trị, với các yếu tố văn hóa ngoại lai, đồng thời cũng đủ

khả năng tiếp cận, hội nhập với văn hóa ngoài địa bàn để không ngừng bổ

sung, hoàn thiện và phát triển.

Truyền thống hiếu học, ý thức cố kết cộng đồng, đức tính thật thà, thẳng

thắn, dám nghĩ, dám làm, luôn luôn muốn bứt phá để vươn tới cuộc sống tốt

đẹp hơn trong lịch sử của người dân xứ Nghệ mỗi một khi được vận dụng một

cách đúng đắn, sáng tạo trong hoàn cảnh lịch sử mới, được thâm nhập và làm

86

phong phú thêm trong mỗi một con người, được gắn kết chặt chẽ và thấm sâu

vào toàn bộ đời sống xã hội nói chung, người lao động nói riêng, trở thành

nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh… sẽ có tác động to lớn đến việc phát

huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo không ngừng nâng cao chất lượng nguồn

lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương.

Truyền thống tốt đẹp đó đến nay vẫn được các thế hệ con em xứ Nghệ gìn

giữ, phát triển.

Báo Dân trí ngày 6 - 8 - 2014 có đăng bài của Bích Huệ viết về Một lớp

miền núi ở Nghệ An có 3 học sinh đỗ thủ khoa đại học, đó là các em Dương

Lê Toàn (28,5 điểm), thủ khoa Công nghệ thông tin, Đại học Bách khoa Hà

Nội; Hồng Thị Hương (26,5 điểm), thủ khoa Y dược, Đại học Quốc gia Hà

Nội; Nguyễn Hữu Sơn (24,75 điểm), thủ khoa Toán trường Đại học Vinh.

Ngoài ra còn có em Trang Thị Giang đậu á khoa Toán trường Đại học Sư

phạm Hà Nội. Tất cả các thủ khoa, á khoa này đều là học sinh lớp 12D của

Trường Trung học Phổ thông Thanh Chương ở xã Phong Thịnh - một xã miền

núi của huyện Thanh Chương, Nghệ An [149].

Sau đó một tuần, Báo Dân trí điện tử, thứ hai, 11/08/2014 - 09:08, có

đăng bài Một lớp học ở miền núi có 100% học sinh đỗ đại học của Đàm Lan

cho biết, trong kỳ thi đại học, cao đẳng năm 2014, lớp 12A của Trường Trung

học phổ thông Quỳ Hợp 1 (huyện miền núi Quỳ Hợp, Nghệ An) có 40 em thì

tất cả 40 em đã đủ và thừa điểm đỗ vào các trường đại học và học viện. Bài

báo còn cho biết, cũng tại Nghệ An, năm 2011, toàn bộ 50 học sinh lớp 12A1

của Trường THPT Thanh Chương 1 (huyện Thanh Chương, Nghệ An) cũng

đã thi đỗ các trường đại học và học viện trong kỳ thi tuyển sinh 2011. Đặc

biệt trong đó, có 2 em đỗ á khoa là Nguyễn Trọng Tài (28,5 điểm vào Đại học

Kinh tế Quốc dân) và Nguyễn Xuân Tâm (27,5 điểm, đỗ á khoa Đại học Xây

dựng) [150].

87

Phát huy tốt truyền thống văn hóa hiếu học trong điều kiện của cuộc

cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, của kinh tế tri thức, của hội nhập

và toàn cầu hóa là một trong những lợi thế để Nghệ An phát triên chất lượng

nguồn lực con người, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong những năm gần đây, lĩnh vực văn hóa - xã hội ở Nghệ An có

nhiều chuyển biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng

bước được cải thiện, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo đạt kết quả

tương đối tốt, các chính sách xã hội và đảm bảo an sinh xã hội được triển khai

thực hiện khá thành công. Chất lượng khám chữa bệnh, chăm lo sức khỏe ban

đầu cho nhân dân được nâng cao, trang thiết bị, cơ sở vật chất từ tuyến tỉnh,

các trung tâm y tế huyện và trạm y tế xã, phường, thị trấn được tăng cường.

Đẩy mạnh công tác y tế, phát triển các cơ sở khám chữa bệnh ngoài công lập.

Tập trung đẩy mạnh công tác phòng dịch, tăng cường công tác y tế dự phòng,

không để dịch bệnh lớn xảy ra.

Nhờ thực hiện tương đối tốt chính sách xã hội và đảm bảo an sinh xã

hội, nhất là công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm được thực

hiện tích cực và đã trở thành phong trào sâu rộng trong nhân dân đã có tác

động tích cực đến việc phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa - nhất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn - một địa bàn - như Hội nghị Trung ương lần thứ Bảy,

Khóa X, xác định:

có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để

phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm

bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc

và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước [35, tr.123-124].

88

3.2. THỰC TRẠNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN

LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

3.2.1. Thực trạng nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay

Xuất phát từ cách tiếp cận cấu trúc nguồn lực con người gồm hai thành

tố cơ bản, đó là số lượng và chất lượng, do đó trong quá trình khảo sát thực

trạng nguồn lực con người và thực trạng phát triển nguồn lực con người tác

giả luận án chủ yếu khảo sát theo cấu trúc đó.

Về mặt số lượng nguồn lực con người

So với cả nước, Nghệ An là một trong những tỉnh có dân số tương đối

đông và nguồn lực con người tương đối dồi dào. Trong khoảng 3 triệu công

dân của tỉnh, bình quân mỗi năm có thêm 33.000 lao động bổ sung vào 1,7 triệu

lao động sẵn có. Phần lớn số lao động được bổ sung này là học sinh tốt nghiệp

trung học phổ thông không trúng tuyển vào đại học, cao đẳng, trung học chuyên

nghiệp, số còn lại là bộ đội hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương.

Mặc dù những năm gần đây tỉnh đã có nhiều giải pháp cụ thể nhằm phát

triển kinh tế, giải quyết việc làm và thực hiện khá tốt các vấn đề an sinh xã

hội, nhưng do kinh tế chưa phát triển, các khu công nghiệp chưa nhiều lại

đang trên đường từng bước đưa vào hoạt động, khai thác, do đó lực lượng lao

động dôi dư khá lớn, buộc phải di cư đến các vùng, các địa phương khác tìm

kiếm việc làm. Theo số liệu của Cục thống kê tỉnh, có 6,1% dân số di cư ra

khỏi tỉnh để làm việc, học tập và sinh sống. Mức độ di cư lớn nhất là nhập cư

vào tỉnh Bình Dương 23,3% số người xuất cư, sau đó là TP Hồ Chí Minh

22,7%... tỷ lệ xuất cư của nữ lớn hơn nam, nữ chiếm 57%, nam 43% bình

quân hàng năm.

Trong tổng số lược lượng lao động của tỉnh , nữ giới chiếm tỷ trọng thấp hơn

Nam giới (46,8% nữ giới so với 53,2 nam giới). Dân số nông thôn chiếm 4/5 tổng

89

số lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh (15,3% ở thành thị 84,7% ở nông thôn)

(xem phụ lục 2).

Về mặt chất lượng nguồn lực con người.

Về trình độ học vấn: so với mức bình quân chung của vùng, tỷ lệ dân trên

15 tuổi biết chữ trong tổng số dân của Nghệ An tương đối cao, đạt 97%. Tỷ

trọng nhóm người có trình độ học vấn thấp (chưa đi học bao giờ và chưa tốt

nghiệp tiểu học) giảm từ 3,86% năm 2000 xuống còn 2,64% năm 2010, thấp

hơn hẳn so với cả nước (tỷ lệ này cả nước là 18,3%). Nhìn chung trình độ học

vấn của tỉnh Nghệ An tương đối cao (chiếm trên 97%), đây là một lợi thế lớn

để phát triển nguồn lực con người trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện nay (xem

phụ lục 4 và 8).

Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Thực hiện Nghị quyết 01/NQ - TU của

Tỉnh ủy và Quyết định 426/QĐ - UBND và UBND Tỉnh Nghệ An về đào tạo

nghề, Nghệ An đã phát triển nhiều cơ sở dạy nghề trong và ngoài công lập.

Các cơ sở dạy nghề đã triển khai thực hiện công tác đào tạo nghề dưới nhiều

hình thức: đào tạo chính quy, đào tạo phi chính quy cho đội ngũ cán bộ chính

quyền cơ sở, đào tạo theo tín chỉ... dạy nghề gắn với việc làm, dạy nghề lưu

động tại các làng, xã... ở nông thôn, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Hiện

nay trên địa bàn tỉnh (không kể 6 trường đại học) có tới 52 cơ sở dạy nghề,

trong đó có 5 trường cao đẳng và 8 trường trung cấp nghề; 17 trung tâm dạy

nghề và 22 cơ sở khác tham gia đào tạo nghề. Số cơ sở do địa phương quản lý

là 47 cơ sở, Trung ương quản lý là 5 cơ sở. Đào tạo nghề ở Nghệ An có thế

mạnh trong các lĩnh vực kỹ thuật, vận tải, dịch vụ, du lịch. Các cơ sở này là

những nơi đào tạo, cung cấp nguồn lực con người có tay nghề, phục vụ phát

triển kinh tế - xã hội không chỉ cho riêng tỉnh Nghệ An mà cả cho một số tỉnh

thuộc vùng Bắc Trung bộ.

90

Trong nguồn lực con người thì đội ngũ công chức, viên chức giữ vị trí

hết sức quan trọng, họ là “dây chuyền của bộ máy” là cái “gốc” của mọi công

việc. Tính đến năm 2013 tỉnh có 58278 công chức, viên chức. Trong đó có

45.996 người thuộc đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên ngành giáo dục và

đào tạo (chiếm 80,94% đội ngũ viên chức của cả tỉnh). Có 5.475 người làm

quản lý và lãnh đạo (chiếm 9,63 tổng số đội ngũ viên chức của cả tỉnh). Trình

độ chuyên môn - nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ này không

ngừng được nâng cao.

Đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao đẳng trở lên trên địa bàn tỉnh

hiện có là 5.571 người . Trong đó số có trình độ GS, PGS là 97 người; tiến sỹ,

bác sỹ và dược sỹ chuyên khoa 2 là 258 người (trong đó có 39 bác sỹ, dược sỹ

tiến sỹ, chuyên khoa 2) chiếm 4,6%; thạc sỹ, bác sỹ, dược sỹ, chuyên khoa 1

là 1.404 người (trong đó có 222 bác sỹ chuyên khoa 1, thạc sỹ y học); đại học,

cao đẳng 3.829 người.

Cán bộ khoa học và công nghệ có học vị cao tập trung trong hai lĩnh

vực: khoa học xã hội và nhân văn, kinh tế (chiếm gần 50%) và khoa học kỹ

thuật (chiếm khoảng 24%), còn lại phân bổ ở 3 lĩnh vực y dược, nông lâm,

ngư nghiệp và khoa học tự nhiên.

Ngoài công nhân, nông dân, trí thức v.v.. đội ngũ các doanh nhân cũng là

bộ phận hợp thành của cấu trúc nguồn lực con người trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chỉ tính đến năm 2010 số lượng doanh nhân trong

tỉnh có đến 20.644 người.

Tuy phát triển nhanh về số lượng nhưng về chất lượng, nhất là khả năng

quản trị doanh nghiệp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của khối doanh nghiệp

nhỏ và vừa ở Nghệ An nhìn chung còn khá thấp. Khi khởi nghiệp, phần lớn

chủ doanh nghiệp đều dựa trên tri thức được hình thành qua kinh nghiệm, rất

thiếu tri thức chiến lược và khả năng quản lý. Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ

91

và vừa ở Nghệ An hoạt động còn mang tính ứng phó với thị trường, thực hiện

những mục tiêu ngắn hạn nhằm vào lợi nhuận trước mắt. Không ít chủ

doanh nghiệp nhỏ và vừa đều không có sự phân biệt giữa chức năng lãnh

đạo, xây dựng chiến lược của doanh nghiệp và chức năng quản lý vận hành

hàng ngày của người quản lý. Đây là một trong những lực cản rất lớn khi các

doanh nghiệp này bước vào sản xuất lớn, tham gia vào quá trình hội nhập

kinh tế thế giới.

Về mặt chăm sóc sức khỏe: trong cấu trúc chất lượng nguồn lực con

người, sức khỏe giữ vai trò hết sức quan trọng. Nói đến người lao động trước

hết là phải nói đến thể lực, đến sức khỏe của họ. C.Mác có viết rằng: “Chúng

tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể

chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và

được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào

đó” [87, tr.251].

Nghệ An hiện nay vẫn là một tỉnh nghèo, thu ngân sách chưa bù đủ chi,

thêm vào đó địa bàn rộng, địa hình phức tạp, trình độ dân trí, nhất là vùng

miền núi nhìn chung còn thấp, đội ngũ cán bộ y tế còn mỏng, nhất là tuyến cơ

sở.v.v.. do đó việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân còn gặp không ít khó

khăn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển chất lượng nguồn lực

con người để thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người dân nói chung,

nguồn lực con người nói riêng, ngành y tế tỉnh Nghệ An đang nỗ lực phấn

đấu đạt mục tiêu: 7 bác sỹ/10.000 dân vào năm 2015 và 2,2 dược sỹ/10.000

dân vào 2020. Để thực hiện mục tiêu đó, giai đoạn 2011 - 2015 mỗi năm

Nghệ An cần đào tạo, thu hút thêm 166 bác sỹ, 84 dược sỹ đại học, còn giai

đoạn 2016 - 2020 cần đào tạo, thu hút 214 bác sỹ, 84 dược sỹ đại học để

đến năm 2020 Nghệ An có được 3. 266 bác sỹ, 721 dược sỹ. Có như vậy

92

vấn đề chăm sóc sức khỏe cho nhân dân mới được nâng cao, góp phần nâng

cao chất lượng nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa (xem phụ lục 5, 6, 7).

Không chỉ có thể lực, trí lực, kỹ năng, hành vi mà cả ý thức chính trị, ý

thức xã hội cũng là những bộ phận cấu thành của chất lượng nguồn lực con

người. Vì đây là “năng lực tinh thần” (từ dùng của C.Mác) tồn tại trong một

cơ thể, trong người lao động.

Về mặt cơ cấu nguồn lực con người.

Khi bàn về thực trạng nguồn lực con người, ngoài vấn đề số lượng, chất

lượng của nguồn lực đó, đôi khi người ta bàn đến cơ cấu nguồn lực con

người: cơ cấu vùng, miền; cơ cấu nhóm tuổi; cơ cấu ngành, nghề; cơ cấu giới

tính; dân tộc v.v. Cơ cấu này có ảnh hưởng rất lớn đến chính bản thân sự phát

triển nguồn lực con người.

Do lịch sử để lại, do điều kiện, tập quán sinh sống từ bao đời nay, dân

cư tỉnh Nghệ An nhìn chung phân bố không đều, các huyện có mật độ dân số

tập trung ở các vùng đồng bằng ven biển, như thành phố Vinh 2.912 người/km2, Cửa Lò 1.851 người/km2, Diễn Châu 877 người/ km2. Các huyện,

thị có mật độ dân số thấp hơn chủ yếu tập trung ở phía tây tỉnh là Tương Dương 25 người/km2, Quế Phong 25 người/km2, Kỳ Sơn 34 người/km2. Do

mật độ phân bố dân cư như trên nên cơ cấu nguồn lực con người trên địa bàn

tỉnh nhìn chung chưa hợp lý.

Cơ cấu dân cư chia theo nhóm tuổi: có sự chuyển biến theo chiều hướng

tích cực. Dân số dưới 15 tuổi đã giảm theo mức giảm sinh, số dân từ 15 tuổi

trở lên tăng. Điều này đã kéo theo tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động cũng

tăng khá nhanh từ 47% năm 2000 lên 58,2% năm 2005 và 67,4% năm 2010

(xem phụ lục 7).

93

Theo tổng điều tra dân số và nhà ở, tỉnh Nghệ An đã bước vào “thời kỳ

dân số vàng” là thời kỳ số người lao động lớn gấp đôi người không lao động,

tức là một người phụ thuộc sản xuất được hai người trong độ tuổi lao động

gánh đỡ và thời kỳ “dân số vàng” sẽ kéo dài khoảng 30 năm nữa do tỷ lệ phụ

thuộc chung của tỉnh giảm nhanh trong 10 năm, tỷ lệ phụ thuộc chung giảm từ

77,94% (năm 1999) xuống còn 49,93% năm 2009, cơ cấu dân số vàng đang

tạo ra cơ hội rất lớn để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Cơ cấu dân số theo thành thị và nông thôn: Nghệ An có tỷ lệ dân nông

thôn chiếm đa số, năm 2010 tỷ lệ dân số nông thôn chiếm 82,68% tổng số dân

toàn tỉnh. Khu vực nông thôn của tỉnh nhìn chung kinh tế phát triển chậm,

năng suất lao động thấp, thu nhập không cao do đó ảnh hưởng đến nhiều lĩnh

vực khác nhau của đời sống xã hội, từ đó ít nhiều ảnh hưởng đến vấn đề phát

triển nguồn lực con người ở khu vực nông thôn..

Cơ cấu tính theo giới tính: tỷ lệ dân số nam và nữ của tỉnh không thay

đổi nhiều qua các năm. Trong tổng số dân số của tỉnh trong 2010, nam chiếm

tỷ trọng 49,3%, nữ chiếm 50,7 % nhưng mức chênh lệch này đang có hướng

cân bằng hơn trước.

Cơ cấu dân tộc và xã hội: Là một địa phương có số dân đông thứ tư

trong cả nước (sau Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Thanh Hóa), với 6 dân tộc

anh em cùng chung sống hòa thuận với nhau từ bao đời nay trên mảnh đất

Nghệ An giàu truyền thống, trong đó dân tộc Kinh chiếm 86,25%, dân tộc

chiếm Thái 9,59%, dân tộc Khơ Mú 1,07% còn lại là các dân tộc Mông, Thổ,

Ơ đu. Đây cũng là một trong những nguyên nhân góp phần làm mất cân đối

trong phân bố, cơ cấu nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh. Ngoài dân tộc Kinh ra

hầu hết các dân tộc ít người khác (kể cả dân tộc Thái) sống rải rác, nơi có địa

hình phức tạp, nên gặp không ít khó khăn trong việc chăm sóc sức khỏe cộng

đồng cũng như trong giáo dục - đào tạo. Do đó chất lượng nguồn nhân lực

94

thường không thật cao, đa phần không đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

3.2.2. Thực trạng phát triển nguồn lực con người trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay

Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động, của kinh tế

tri thức, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong nhiều năm qua

tỉnh ủy, UBND tỉnh Nghệ An đã có nhiều chủ trương, biện pháp chỉ đạo các

cơ quan, đơn vị có liên quan trong tỉnh tích cực góp phần tham gia vào việc

phát triển nguồn lực con người cả về số lượng (chủ yếu là nguồn nhân lực có

trình độ chuyên môn - kỹ thuật, trình độ tay nghề cao) và chất lượng trong

hầu hết các lĩnh vực: quản lý hành chính nhà nước; nhân lực khoa học - kỹ

thuật và công nghệ; doanh nhân, chuyên gia quản trị doanh nghiệp.v.v.

Ngày 11/07/2006, tỉnh ủy Nghệ An đã có Nghị quyết số 04 - NQ/TU

Về chương trình phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2006-2010. Chương

trình tập trung triển khai, thực hiện các đề án chính sau đây: 1) Đề án đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ cơ sở, cán bộ trẻ

có triển vọng; 2) Đề án đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật; 3) Đề án bồi

dưỡng doanh nhân.

Ngày 9/4/2007, Ủy Ban nhân dân tỉnh đã ra Quyết định số

30/2007/QĐ-UBND quy định một số chính sách hỗ trợ thu hút nguồn nhân

lực chất lượng cao. Tiếp đó, ngày 04/10/2013, UBND tỉnh có Quyết định

số 57/2013/QĐ-UBND Về ban hành Quy định một số chính sách thu hút

nguồn nhân lực chất lượng cao và ưu tiên trong tuyển dụng công chức,

viên chức trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Để triển khai thực hiện Quy định này,

ngày 27/11/2013, Liên ngành (Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ, Sở Tài

chính, Sở Khoa học và Công nghệ) đã có Thông tư số 1603/HDLN- Hướng

dẫn liên ngành thực hiện Quy định trên.

95

Ngày 17/7/2013 Hội đồng Nhân dân tỉnh Nghệ An ra Nghị quyết số

92/2013/NQ-HĐND “Về chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao

và ưu tiên trong tuyển dụng công chức, viên chức”. Tiếp đó là Quyết định

57/2013/QĐ-UBND, ngày 4/10/2013 của UBND tỉnh “Ban hành Quy định

một số chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và ưu tiên trong

tuyển dụng công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Nghệ An” [137] v.v các

văn bản này trực tiếp góp phần làm gia tăng số lượng và chất lượng nguồn lực

con người của tỉnh trong thời gian qua, nhất là trong việc nâng cao dân trí,

đào tạo nhân lực cho tỉnh nhà.

Để góp phần làm gia tăng số lượng và nâng cao chất lượng nguồn lực

con người, gắn phát triển giáo dục với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, lãnh

đạo tỉnh Nghệ An chủ trương không ngừng mở rộng và nâng cấp các cơ sở

giáo dục - đào tạo từ các cấp học phổ thông cho đến giáo dục đại học, giáo

dục nghề. Đến nay trên địa bàn tỉnh có 6 trường đại học, 52 cơ sở dạy nghề.

Trong số 52 cơ sở dạy nghề đó, địa phương quản lý 47 cơ sở, 5 cơ sở còn lại

do trung ương quản lý. Đào tạo nghề ở Nghệ An có thế mạnh trong các lĩnh

vực kỹ thuật, vận tải, dịch vụ, du lịch. Các cơ sở giáo dục - đào tạo, dạy nghề

ở Nghệ An là nguồn cung cấp nhân lực rất lớn không chỉ cho tỉnh mà cho cả

khu vực Bắc Trung bộ.

Nếu như năm 2006 số học viên sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên

chỉ có 23.990 người thì năm 2013 con số này đã tăng lên đến 70.500 người.

Còn học sinh trung cấp nghề tương ứng với các năm đó là 7.160 người và

9.000 người (xem phụ lục 8). Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, tỉnh

cũng chú trọng tăng về số lượng và nâng cao chất lượng nguồn lực lao động,

nhất là nâng cao trình độ học vấn cho họ. Năm 2001 số người tốt nghiệp trung

học phổ thông trong lĩnh vực này mới chỉ có 23.156 nghìn người; năm 2005 là

36.183 nghìn người thì năm 2010 con số đó tăng lên khoảng 48.648 nghìn. Để

96

tiến hành CNH, HĐH, lãnh đạo tỉnh Nghệ An rất chú trọng chuyển dịch cơ cấu

lao động, trong đó có các ngành dịch vụ. Nếu như năm 2001, số lao động tốt

nghiệp trung học phổ thông trong lĩnh vực dịch vụ mới có 175.323 nghìn người,

thì năm năm sau (năm 2005) con số này đã tăng lên đến 282.591 nghìn và năm

2010 là khoảng 327.090 nghìn người (xem phụ lục 4).

Lực lượng lao động trong các doanh nghiệp cũng tăng lên đáng kể.

Chẳng hạn năm 2010, số lao động trong các doanh nghiệp (nhà nước và ngoài

nhà nước) có 135.934 người, đến cuối năm 2012 và sang đầu năm 2013 con

số đó là 162.854 người [17, tr.127].

Là một tỉnh nông nghiệp, lực lượng lao động và dân cư sống ở nông

thôn tương đối đông, do đó phát triển nguồn lực con người khu vực nông

thôn để CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn là một trong những ưu tiên (có

thể nói là hàng đầu) của tỉnh. Cùng với một số ưu tiên khác cho nông

nghiệp, nông thôn, nông dân, tỉnh chú trong giúp người lao động nâng cao

trình độ văn hóa để họ có khả năng áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào

sản xuất, tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, vì đây được Đảng

ta coi “là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước” [35, tr.124].

Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản số lao động tốt nghiệp

trung học cơ sở và trung học phổ thông không ngừng tăng. Năm 2001 số lao

động trong nông - lâm - thuỷ sản tốt nghiệp trung học phổ thông là 66.160

nghìn, năm năm sau (năm 2005) con số đó đã là 95.218 nghìn người và năm

2010 con số này vào khoảng 118.654 nghìn người (xem phụ lục 8).

Để góp phần phát triển nguồn lực con người cho Nghệ An và các tỉnh

Bắc Trung bộ, một số cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh còn liên kết với một số

trường đại học khác ngoài địa bàn (như Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học

Quốc gia Hà Nội) đào tạo đại học và sau đại học với nhiều ngành, nghề bằng

97

nhiều hình thức đào tạo khác nhau, nhờ đó mà số lượng, chất lượng nguồn lực

con người của tỉnh tăng lên một cách đáng kể, nhất là giai đoạn 2001 - 2010.

Không chỉ chú trọng phát triển nguồn lực con người trong lĩnh vực

chuyên môn, kỹ thuật, tỉnh Nghệ An còn đặc biệt quan tâm phát triển đội

ngũ doanh nhân, chuyên gia quản trị doanh nghiệp. Đề án bồi dưỡng doanh

nhân thuộc chương trình phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2006 - 2010

của Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ Nghệ An [2, tr.6] đã được triển khai,

bước đầu mang lại hiệu quả hết sức tích cực. Số lượng doanh nhân không

ngừng tăng lên, từ 6.445 người năm 2005 lên 20.644 người năm 2010. Dự

kiến đến năm 2015 toàn tỉnh Nghệ An sẽ có khoảng 12.000 doanh nghiệp,

tăng 4.001 doanh nghiệp so với năm 2010. Tương ứng sẽ có 60.000 doanh

nhân, số doanh nhân có trình độ từ cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ chiếm 71.5%

trong tổng số đội ngũ doanh nhân của cả năm 2015; đến năm 2020 có

khoảng 20.000 doanh nhân. Giai đoạn này cả tỉnh có khoảng 96 nghìn

doanh nhân, tăng thêm 36 nghìn doanh nhân so với năm 2015. Số doanh

nhân có trình độ của nhân, thạc sỹ, tiến sỹ chiếm 80% trong tổng số đội ngũ

doanh nhân của cả tỉnh.

Để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp,

doanh nhân, Trường Chính trị tỉnh Nghệ An đã mở 09 lớp bồi dưỡng với 871

doanh nhân tham gia. Tuy còn một vài hạn chế nhưng nhìn chung hoạt động

học tập của doanh nhân khá sôi nổi, tích cực, chất lượng học tập được nâng

cao. Các khóa học đã có tác dụng to lớn, giúp cho các doanh nhân giải quyết

được nhiều vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Là một tỉnh nông nghiệp, dân cư và nguồn lực con người sống ở nông

thôn chiếm tỷ lệ khá cao, vì vậy quan tâm phát triển nguồn nhân lực khu vực

nông thôn là một trong những nhiệm vụ được Tỉnh ủy, UBND tỉnh hết sức

quan tâm.

98

Sau gần 20 năm tiến hành CNH,HĐH (tính từ năm 1996 là năm cách

mạng nước ta bước sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất

nước) lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Nghệ An đã đạt nhiều thành tựu

quan trọng trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, trong phát triển công

nghiệp và dịch vụ ở nông thôn với tốc độ phát triển tương đối nhanh và khá

toàn diện: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn có bước chuyển biến tích

cực; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường; các hình

thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp phát triển đa dạng; nhiều tiến bộ

khoa học kỹ thuật được áp dụng, nhất là công nghệ sinh học, thủy lợi hóa,

cơ giới hóa, thông tin hóa, ở nhiều khâu lao động thủ công, lạc hậu đã được

thay thế bằng lao động cơ khí. Đời sống vật chất, tinh thần vùng nông thôn

ngày càng được cải thiện; hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn được tăng

cường và củng cố ngày một vững mạnh hơn.

Đến nay, Nghệ An đã hình thành được một số dự án nông nghiệp ứng

dụng công nghệ cao, thu hút một lực lượng lao động đáng kể. Các dự án này

không chỉ tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động, điều quan trọng hơn

là thông qua các dự án này mà chất lượng của một bộ phận nguồn lực con

người của địa phương được nâng lên một cách đáng kể, cả về trình độ, chuyên

môn - nghiệp vụ đến tác phong, tư duy công nghiệp. Các Dự án: trồng rau,

hoa xuất khẩu trong nhà kinh ở Nghĩa Đàn; chăn nuôi bò sữa tập trung quy

mô công nghiệp tại Nghĩa Đàn của Công ty CP thực phẩm sữa TH; chăn nuôi

bò sữa tập trung quy mô công nghiệp tại Thị xã Thái Hòa của Công ty CP sữa

Việt nam (Vinamilk); nhà máy chế biến gỗ Nghệ An; trồng và chế biến chuối

theo công nghệ nuôi cấy mô xuất khẩu tại Yên Thành.v.v.

Năm 2012, toàn tỉnh đã xây dựng được 40 “cánh đồng mẫu lớn” trong

sản xuất lúa, ngô, lạc, chè, mía..., đạt hiệu quả kinh tế cao, chất lượng tốt và

năng suất tăng tối thiểu 10%, tạo bước đột phá, thực hiện tốt mối liên kết giữa

99

“Bốn nhà”, tăng cường củng cố khối liên minh công nông trong sản xuất nông

nghiệp, nông thôn. Tất cả những thành công trong nông nghiệp, nông thôn,

nông dân của tỉnh đã và đang trực tiếp góp phần tích cực vào phát triển nguồn

lực con người ở khu vực nông thôn Nghệ An trong quá trình CNH,HĐH.

Nghệ An có diện tích tự nhiên thuộc vùng đồi, núi tương đối lớn, do đó

trong các chính sách phát triển nguồn lực con người, tỉnh luôn luôn tạo mọi

điều kiện tốt nhất ưu tiên phát triển lực lượng lao động, cán bộ, công chức,

viên chức là đồng bào dân tộc thiểu số, vì đây là số lao động dễ bị tổn thương

nhất trước những biến động của thị trường, thiên tai và xã hội. Đề án đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ cơ sở, cán bộ trẻ có

triển vọng trong Nghị quyết số 04 - NQ/TU của Tỉnh ủy Nghệ An Về chương

trình phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2006-2010 là một minh chứng.

Triển khai thực hiện đề án này đã mang lại những hiệu quả nhất định trong việc

phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ cơ sở trên địa bàn

tỉnh, cũng là góp phần phát triển nguồn lực con người cho địa phương.

Bức tranh về nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con người

trên đây cho thấy Nghệ An đang có tiềm năng và lợi thế rất lớn để phát triển.

Tiềm năng và lợi thế này được tạo bởi nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân: lịch

sử, văn hóa, hoàn cảnh sống v.v.. Nhưng một trong những nguyên nhân quan

trọng, có ý nghĩa quyết định nhất là do tỉnh đã có nhiều chủ trương, biện pháp

đúng đắn nhằm phát triển nguồn lực con người - nguồn lực quan trọng nhất

trong tất cả các nguồn lực của quá trình phát triển.

3.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN

LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

Tuy đạt được những thành tựu nhất định, góp phần to lớn đến quá trình

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhưng trên thực tế việc phát triển nguồn

100

lực con người ở Nghệ An trong thời gian qua cũng còn không ít vấn đề đặt ra,

không ít vấn đề bất cập, cần phải giải quyết. Trong đó nổi lên mấy vấn đề

chính sau đây:

Thứ nhất, mâu thuẫn giữa sự tăng nhanh về số lượng với sự phát triển

chậm về chất lượng nguồn lực con người - nhất là vùng nông thôn và miền núi.

Nói đến nguồn lực con người trước hết phải nói đến sự thống nhất giữa

chất lượng với số lượng nguồn lực con người. Hay nói cách khác đó là sự

thống nhất giữa “chất” và “lượng” trong nguồn lực đó. Trong mối quan hệ cụ

thể này sự khác biệt, mâu thuẫn giữa số lượng và chất lượng nguồn lực con

người sẽ có tác động tiêu cực đến sự phát triển cả hai. Ở đây cần phải tạo ra

sự “thống nhất”, “phù hợp”, “ngang nhau” thì mới có sự phát triển, mới là tiền

đề, là điều kiện phát triển của nhau.

Cũng như cơ cấu dân số cả nước, dân số tỉnh Nghệ An cũng đang ở giai

đoạn cơ cấu dân số vàng, trong đó nhóm dân số trong độ tuổi lao động có tỷ

trọng khá cao. Trong khoảng 3 triệu dân của tỉnh, có khoảng 1,7 triệu lao

động, bình quân mỗi năm có 33.000 lao động được bổ sung vào nguồn nhân

lực của địa phương. Mặc dù một số năm gần đây, hiện tượng xuất cư diễn ra

tương đối mạnh nhưng điều đó không làm ảnh hưởng gì nhiều đến sự gia tăng

số lượng nguồn lực con người của Nghệ An. Thậm chí, tỷ trọng dân số trong

tuổi lao động so với tổng dân số vẫn có xu hướng tăng dần trong giai đoạn

2011 - 2016, từ mức 67,4% năm 2010 sẽ lên 70,9% năm 2015 và 72, 1% năm

2020. Xu hướng phản ánh đúng diễn biến của cơ cấu dân số vàng nước ta nói

chung, Nghệ An nói riêng.

Sự gia tăng dân số, sự trẻ hóa nguồn lực con người là cần thiết đối với

các địa phương thậm chí với một quốc gia - dân tộc có nền sản xuất hiện đại,

lực lượng sản xuất tiên tiến, đòi hỏi lực lượng lao động đông đảo, nếu thiếu

nó thì sản xuất sẽ đình trễ, tăng trưởng kinh tế gặp khó khăn.v.v. Ngược lại, ở

101

đâu và nơi nào, lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, công nghiệp hóa chưa gắn

liền với hiện đại hóa, năng suất lao động thấp, tỷ lệ tăng dân số vượt quá xa so

với tốc độ tăng trưởng kinh tế thì lúc đó sự gia tăng về mặt dân số, sự trẻ hóa

nguồn lực con người là không cùng chiều, cùng hướng, cùng nhịp với CNH,

HĐH và trở thành gánh nặng về việc làm, thu nhập, đói - nghèo.

Cùng với CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Nghệ An hiện nay đang

hình thành một số khu công nghiệp tập trung, như: Khu công nghiệp Nghĩa

Đàn; khu công nghiệp Nam Cấm v.v.. Nhiều dự án đã được triển khai mang

lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, thu hút lực lượng lao động tương đối lớn,

như: Dự án chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa quy mô công nghiệp Nghĩa Đàn

(true milk; vina milk), hay Nhà máy xi măng Anh Sơn; nhà máy bia Sài Gòn -

Sông Lam (100 triệu lít/năm) v.v. Tuy nhiên so với tốc độ phát triển chung

của cả nước, quá trình CNH, HĐH diễn ra ở Nghệ An nhìn chung còn chậm,

chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của mình, đo đó việc thu hút nguồn

lực con người vào quá trình này vẫn còn nhiều hạn chế.

Tuy có lực lượng lao động tương đối dồi dào, nhưng Nghệ An đang

đứng trước mâu thuẫn giữa sự tăng nhanh về số lượng với sự phát triển chậm

về chất lượng nguồn lực con người. Có thể nói nguồn lực con người của

Nghệ An tuy đông nhưng chưa thật mạnh. Nguồn nhân lực - nhất là nhân

lực chất lượng cao - nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương, nhất là khi một số khu công

nghiệp bước vào hoạt động. Tuy tỷ lệ lao động qua đào tạo trong tổng lực

lượng lao động của tỉnh thời gian qua có tăng (từ 17,03% năm 2000 lên

40% năm 2010, đạt mức trung bình của cả nước) nhưng trình độ tay nghề,

tính chuyên nghiệp v.v.. nhìn chung vẫn chưa cao. Khả năng thích nghi,

thích ứng với môi trường làm việc đầy biến động như hiện nay chưa tốt.

Nhiều kỹ năng - nhất là các kỹ năng mềm (kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm

102

việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng quản lý- lãnh đạo) vẫn còn hạn

chế. Điều này một phần do khâu giáo dục - đào tạo (đây là nguyên nhân

chính), phần khác do ảnh hưởng tâm lý sản xuất nhỏ đang cản trở xu

hướng hội nhập, tác phong công nghiệp trong một bộ phận nguồn lực con

người nơi đây.

Một trong những vấn đề rất đáng quan tâm ở Nghệ An hiện nay là chất

lượng nguồn lực con người ở nông thôn, ở miền núi. Với khoảng 67% lực

lượng lao động của tỉnh sống ở nông thôn, miền núi, nhưng chất lượng (mức

sống, thu nhập, điều kiện khám chữa bệnh, trình độ văn hóa, trình độ chuyên

môn, kỹ thuật, trình độ tay nghề, khả năng thích nghi với quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế.v.v..) nhìn chung thấp, chưa đáp ứng yêu CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn.

Là một tỉnh “thuần nông”, trong số 473 xã, phường, thị trấn của tỉnh, có

tới 244 xã, thị trấn miền núi. Do địa hình các huyện, xã miền núi Nghệ An

phức tạp bị chia cắt bởi núi cao, sông, suối sâu nên việc đi lại gặp rất nhiều

trở ngại, nhất là vào mùa mưa bão; đời sống của đồng bào vùng sâu, vùng xa

gặp không ít khó khăn; chất lượng công tác y tế, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe

nhân dân nhìn chung không đảm bảo.Việc đảm bảo an sinh xã hội (bảo hiểm

xã hội; bảo hiểm thất nghiệp; trợ giúp và cứu trợ xã hội v.v.) còn nhiều bất

cập .v.v. tất cả đó đang có ảnh hưởng không tốt đến việc phát triển nguồn lực

con người các huyện miền núi ở phía Tây Nghệ An hiện nay.

Thứ hai, cơ cấu nguồn lực con người chưa hợp lý, sắp xếp, sử dụng

nguồn lực đó còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.

Nhìn một cách tổng quát, cơ cấu, sắp xếp nguồn lực con người của Nghệ

An hiện nay chưa thật hợp lý, tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” vẫn chưa được

khắc phục. Số chuyên gia và công nhân lành nghề trong lĩnh vực kỹ thuật,

công nghệ cao còn quá ít. Lực lượng lao động làm trong lĩnh vực nông - lâm - ngư

103

nghiệp chiếm hơn 64 % lực lượng lao động của tỉnh. Cụ thể như thợ vận hành máy

và lắp ráp máy móc thiết bị chỉ chiếm 3,7%, lao động có chuyên môn bậc cao và

các nhà lãnh đạo, quản lý cũng chỉ chiếm 3,1% trong tổng số lao động toàn tỉnh.

Không chỉ bất hợp lý cơ cấu nguồn lực con người trong các ngành,

nghề, ngay cả cơ cấu vùng- miền vẫn còn nhiều bất cập. Phần lớn lực

lượng lao động có tay nghề, được đào tạo cơ bản tập trung chủ yếu ở một

số trung tâm như: thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, Diễn Châu, Quỳnh

Lưu.v.v. còn vùng nông thôn, miền núi như Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế

Phong... thì nguồn lực chất lượng cao chiếm tỷ lệ rất thấp, chủ yếu là người

dân lao động sống bằng nghề nông, trồng rừng. Chẳng hạn, năm 2013,

thành phố Vinh có 935 bác sĩ, trong lúc đó các huyện miền núi như Quỳ

Châu, Quế Phong chỉ có 27 bác sĩ; Tương Dương khá hơn một ít, nhưng

cũng chỉ có 29 bác sĩ mà thôi [17, tr.410].

Lực lượng lao động ở nông thôn có trình độ cử nhân chỉ chiếm tỷ lệ 20%

- 25% so với đô thị. Với nhóm có trình độ sau đại học, tỷ lệ này còn thấp hơn

nhiều. Điều này dẫn đến một nghịch lý : các vùng nông thôn có nhu cầu về

nhân lực chất lượng cao thì lại thiếu vắng, trong khi ở các vùng đô thị ở đồng

bằng dân trí cao thì lại tập trung nhiều trí thức, nhiều nhà khoa học. Chính sự

phân bố mất cân đối về nguồn lực như vậy, là một yếu tố góp phần tạo nên sự

phát triển không đồng đều giữa các vùng miền của tỉnh Nghệ An hiện nay.

Trong cơ cấu nguồn lực con người, bộ phận công chức, viên chức giữ

vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên cơ cấu này ở Nghệ An hiện nay vẫn còn

những bất hợp lý nhất định, nhất là trong cơ cấu vùng - miền. Bộ phận công

chức, viên chức là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ rất thấp. Chẳng hạn năm

2010, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số chỉ chiếm 7,4% trong

tổng số công chức của tỉnh và huyện và 11,3% trong tổng số viên chức trên

địa bàn tỉnh; số giáo viên là người dân tộc thiểu số chiếm 11,44% tổng số giáo

104

viên, tương tự như vậy tỷ lệ y bác sỹ là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ còn

thấp hơn nữa. Số cán bộ khoa học kỹ thuật là người dân tộc thiểu số chỉ chiếm

3,76% tổng số cán bộ khoa học - kỹ thuật của tỉnh. Trong khoảng 5 năm gần

đây tỷ lệ công chức viên chức cấp tỉnh và cấp huyện là người dân tộc thiểu số

ở Nghệ An hầu như không tăng và ở mức rất thấp ở tất cả các ngành.

Riêng cán bộ công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số đến năm

2010 chiếm 30,1%. Đây là một trong những trở ngại lớn làm hạn chế hiệu

quả thực thi đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ở vùng đồng bào

dân tộc thiểu số.

Đặc biệt tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số trong các lớp đào tạo

chưa đảm bảo yêu cầu về số lượng, mất cân đối nghiêm trọng. Trong các lớp

đào tạo cao cấp, cử nhân chính trị tập trung, nữ chỉ chiếm 11%, còn dân tộc

thiểu số chỉ chiếm 13,7%. Các lớp trung cấp chính trị, nữ cũng chỉ chiếm

30%, dân tộc thiểu số chiếm 0,9%.

Những bất cập trong lĩnh vực đào tạo nguồn lực con người.

Một trong những cố gắng của Nghệ An trong thời gian qua là đã chủ

động liên kết với nhiều trường đại học, cao đẳng, trung cấp mở lớp tại một số

huyện, góp phần xã hội hóa giáo dục, nâng cao chất lượng cán bộ. Nhưng do

thiếu tính kế hoạch, không bám sát nhu cầu thực tiễn, chạy theo bằng cấp nên

thiếu tính cân đối, không đáp ứng nhu cầu thực tiễn và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ở địa phương. Số sinh viên, học viên được đào tạo ở một số ngành

như: quản trị kinh doanh, kế toán, công nghệ thông tin, ngoại ngữ v.v. đang

dư thừa. Trong khi đó một số nhóm ngành kỹ thuật có nhu cầu tuyển dụng cao

như: vật liệu mới, tự động hóa, công nghệ sinh học v.v. lại ít người theo học.

Một số ngành do chưa có cơ sở đào tạo như luật - hành chính vẫn phải trông

chờ vào nguồn cung lao động từ các tỉnh, thành khác như Hà Nội, TP Hồ Chí

Minh, Huế.

105

Điều đáng quan tâm nhất là sự mất cân đối giữa đào tạo thợ, đào tạo công

nhân kỹ thuật với đào tạo cao đẳng, đào tạo đại học. Trong lúc số trường đại học

tăng lên, số trường đào tạo nghề lại không có gì thay đổi. Thậm chí số lượng học

sinh học nghề có xu hướng giảm sút. Tình trạng vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân

lực giữa các lĩnh vực, ngành nghề, các vùng, miền diễn ra khá phổ biến.

Công tác tuyển dụng, sử dụng đã được công khai, minh bạch hóa (nhất là

tuyển dụng công chức, viên chức), tuy nhiên vẫn có lúc, có nơi làm thiếu chặt

chẽ, thậm chí là “hình thức”. Việc một số cán bộ cấp xã, thị trấn sử dụng bằng

giả để được nhận vào làm việc hoặc để tiến thân là một trong những minh

chứng cho điều đó [5]. Do công tác tuyển dụng, sử dụng chưa thật hợp lý nên

kết quả việc thực hiện Nghị quyết số 92/2013/NQ-HĐND ngày 17/7/2013 của

Hội đồng Nhân dân tỉnh Nghệ An “Về chính sách thu hút nguồn nhân lực

chất lượng cao và ưu tiên trong tuyển dụng công chức, viên chức” và Quyết

định 57/2013/QĐ-UBND, ngày 4/10/2013 của UBND tỉnh “Ban hành Quy

định một số chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và ưu tiên

trong tuyển dụng công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Nghệ An” [137] chưa

đạt được kết quả như mong muốn. Những yếu kém trên đây có ảnh hưởng

không tốt đến việc phát triển nguồn lực con người ở Nghệ An hiện nay.

Thứ ba, những khó khăn, hạn chế trong việc nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần; đảm bảo dịch vụ y tế và các dịch vụ khác cho người dân địa phương.

Muốn phát triển nguồn lực con người, trước hết là mặt chất lượng của

nó, thì một trong những vấn đề hết sức quan trọng là phải nâng cao đời sống

vật chất, tinh thần; đảm bảo dịch vụ y tế và các dịch vụ khác cho người dân,

làm cho người dân thấy ý nghĩa, giá trị to lớn của cuộc sống hôm nay và phấn

đấu cho một ngày mai tươi sáng. Chính các nhà kinh điển mác xít từng nói

rằng: “tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề

của mọi lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm

106

ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức

uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa” [81, tr.39-40].

Nghệ An là một tỉnh gần như “thuần nông”, lực lượng lao động làm trong

lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chiếm hơn 64 % lực lượng lao động của tỉnh. Công

nghiệp chưa phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa mạnh, năng suất lao

động nhìn chung thấp, đời sống nhân dân còn rất nhiều khó khăn. Sự chênh

lệch về trình độ học vấn, trình độ nhận thức, thu nhập, mức sống giữa thành

thị với nông thôn, giữa đồng bằng với miền núi tương đối lớn. Hiện nay, tỷ lệ

hộ nghèo là dân tộc thiểu số chiếm gần 80% tổng số hộ nghèo toàn tỉnh và

hơn 60% so với tổng số hộ dân tộc thiểu số; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao

động chưa biết chữ, chưa bao giờ đi học lên tới trên 34% tổng số lao động là

người dân tộc. Tỷ lệ y bác sỹ là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ rất thấp. Số

cán bộ khoa học kỹ thuật là người dân tộc thiểu số chỉ chiếm 3,76% tổng số

cán bộ khoa học - kỹ thuật của tỉnh. Trong khoảng 5 năm gần đây tỷ lệ công

chức viên chức cấp tỉnh và cấp huyện là người dân tộc thiểu số ở Nghệ An

hầu như không tăng và ở mức rất thấp ở tất cả các ngành... tất cả đó đang tác

động không tốt đến việc phát triển nguồn lực con người ở vùng núi nói riêng,

toàn tỉnh nói chung.

Nghệ An thường vẫn được nhiều người coi là “đất học”. Theo số liệu

thống kê chưa đầy đủ của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nghệ An, trong kỳ thi

đại học, cao đẳng năm 2014, Nghệ An có 14 thí sinh đạt danh hiệu thủ khoa

của các trường, học viện lớn trong cả nước. Trong số những gương mặt học

sinh xuất sắc đậu thủ khoa kỳ thi đại học, cao đẳng năm 2014 này, học sinh

Nghệ An đều ghi tên mình ở những vị trí cao nhất: cao cả về điểm số và các

trường đại học hàng đầu của cả nước. Trong số 14 thủ khoa của kỳ tuyển sinh

năm nay, vùng đất học Thanh Chương có tới 7 thủ khoa [19]. Học tập thành

đạt để thoát nghèo, để cống hiến ngày càng nhiều hơn cho quê hương và

107

mang lại niềm vui, hạnh phúc cho bản thân là một trong những mục tiêu mà

đại bộ phận giới trẻ ở Nghệ An hướng tới. Tuy nhiên trên thực tế không ít học

sinh, sinh viên do hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn mà không thể đến trường

hoặc tiếp tục theo học các chương trình cao hơn. Có những thí sinh thi đỗ vào

các trường đại học, cao đẳng nhưng điều kiện kinh tế không cho phép mà ước

mơ học tập, nâng cao trình độ của các em không thể thực hiện được. Điều này

không chỉ thiệt thòi cho các em, cho gia đình mà cho cả xã hội.

Trong lĩnh vực y tế, do kinh tế chậm phát triển, thu không bù đắp đủ chi,

ngân sách đầu tư của nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu, việc huy động các

nguồn lực khác ngoài ngân sách nhà nước cho phát triển y tế còn nhiều hạn

chế, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng khám, chữa bệnh của

người dân nơi đây, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa,

vùng dân tộc thiểu số. Ngoài ra việc kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm

nhiều lúc chưa được chặt chẽ, buông lỏng, làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất

lượng cuộc sống của người dân nói chung, ảnh hưởng không tốt đến việc phát

triển nguồn lực con người nói riêng.

Để giải quyết những khó khăn, bất cập trong việc chăm sóc sức khỏe,

trong dịch vụ khám, chữa bệnh; để nâng cao chất lượng sống cho nhân dân

Nghệ An nói riêng, nhân dân khu vực Bắc Trung bộ nói chung, Thủ tướng

Chính phủ đã ký Quyết định số 1077/QĐ-TTg, ngày 13/7/2010 về việc thành

lập Trường Đại Học Y khoa Vinh trên cơ sở nâng cấp từ Trường Cao đẳng Y

tế Nghệ An. Trường có chức năng, nhiệm vụ đào tạo cán bộ có trình độ đại

học, sau đại học; kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất, dịch

vụ khoa học và công nghệ, đồng thời tham gia công tác chăm sóc bảo vệ sức

khoẻ nhân dân theo quy định của Bộ Y tế.

Do mới được thành lập nên nguồn nhân lực y tế được đào tạo cung cấp

cho xã hội, phục vụ cộng đồng chưa nhiều, trong lúc nhu cầu xã hội lại rất

108

lớn. Theo tính toán của Đề án quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Nghệ An

giai đoạn 2011- 2020 [132, tr.69] để nhân lực phục vụ trong ngành y tế của

tỉnh tới mức trung bình của cả nước thì đến năm 2020 Nghệ An cần có 3.266

bác sỹ, 721 dược sỹ. Như vậy, mỗi năm trong giai đoạn 2016 - 2020 cần đào

tạo, thu hút 214 bác sỹ, 84 dược sỹ đại học. Với tính toán như trên, ngành y tế

tỉnh Nghệ An khó có thể đáp ứng nhu cầu về nhân lực y tế trình độ bác sỹ,

dược sỹ đại học. Muốn đáp ứng yêu cầu trên ngành y tế Nghệ An rất cần sự

hỗ trợ của các địa phương có khả năng, của Bộ Y tế trong đào tạo phát triển

đội ngũ nhân lực này.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Nghệ An nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung bộ, có diện tích tự nhiên 16.488 km2 , có địa hình đa dạng, phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi các dãy đồi

núi và hệ thống sông, suối. Hàng năm, Nghệ An chịu ảnh hưởng nặng nề của

gió tây khô nóng thổi từ Lào xuống làm cho vùng đất vốn không được ưu đãi

về mặt địa hình nay lại gặp phải sự khắc nghiệt về mặt khí hậu. Chính điều

này đã ảnh không tốt đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đến việc

phát triển nguồn lực con người ở Nghệ An nói riêng.

Tuy không được ưu đãi về mặt điều kiện tự nhiên nhưng Nghệ An lại có

bề dày truyền thống văn hóa - một truyền thống đáng tự hào, một truyền

thống văn hóa tạo nên bản sắc, cốt cách của người dân xứ Nghệ.

Hiện nay Nghệ An có khoảng 3 triệu người với gần 1,7 triệu lao động.

Là một tỉnh thuần nông, do đó phần lớn dân cư sống ở nông thôn, chiếm hơn

80 % dân số toàn tỉnh và 64 % lực lượng lao động. Đa số lao động ở nông

thôn trình độ thấp, chưa được đào tạo, chủ yếu sản xuất theo kinh nghiệm, vì

vậy việc áp dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất gặp

không ít khó khăn. Đây là một trong những trở ngại cho quá trình CNH,HĐH

nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh.

109

Kể từ khi đất nước chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH, Nghệ An

đã chú trong hình thành một số cụm công nghiệp, khu công nghiệp tập trung.

Để đáp ứng nhu cầu lao động, lãnh đạo tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính

sách đào tạo, thu hút nguồn lực con người (nhất là nguồn lực chất lượng cao)

để phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH trên địa bàn tỉnh.

Tuy đạt được những kết quả nhất định, góp phần to lớn đến quá trình

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhưng trên thực tế việc phát triển nguồn

lực con người ở Nghệ An trong thời gian qua cũng còn không ít vấn đề đặt ra,

không ít vấn đề bất cập, cần phải giải quyết. Trong đó nổi lên mấy vấn đề

chính sau đây:

Thứ nhất, mâu thuẫn giữa sự tăng nhanh về số lượng với sự phát triển

chậm về chất lượng nguồn lực con người - nhất là vùng nông thôn và miền

núi. Thư hai, cơ cấu nguồn lực con người chưa hợp lý, sắp xếp, sử dụng

nguồn lực đó còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu CNH,HĐH. Thứ ba,

những khó khăn, hạn chế trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần;

đảm bảo dịch vụ y tế và các dịch vụ khác nhằm nâng cao chất lượng cuộc

sống cho người dân.

110

Chương 4

QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM

PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

4.1. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI

TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH NGHỆ AN

HIỆN NAY

4.1.1. Phát triển nguồn lực con người là khâu đột phá để thực hiện

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nghệ An hiện nay.

Mục tiêu chiến lược của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta hiện nay là:

Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo

hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ

quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam

trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển

cao hơn trong giai đoạn sau.

Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi chúng ta phải phát huy tốt mọi nguồn

lực, đặc biệt là nguồn lực con người - nhân tố quyết định sự phát triển nhanh

và bền vững. Trong “Quan điểm, mục tiêu và các định hướng ưu tiên nhằm

phát triển bền vững giai đoạn 2011-2020” của Chiến lược Phát triển bền vững

Việt Nam giai đoạn 2011- 2020, Nhà nước ta đã khẳng định: Con người là

trung tâm của phát triển bền vững. Phát huy tối đa nhân tố con người với vai

trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững; đáp

ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp

nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn

minh; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế để

phát triển bền vững đất nước.

111

Trong điều kiện các nguồn lực cho phát triển còn nhiều hạn chế, Việt

Nam nói chung, Nghệ An nói riêng phải ưu tiên phát triển nguồn lực con

người, đưa nguồn lực con người trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất

để thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát triển bền vững

đất nước và hội nhập quốc tế. Coi đây là khâu đột phá để thực hiện thành

công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, công bằng, văn minh.

Nếu như các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác đến cạn kiệt

thì nguồn lực con người mà cái cốt lõi là trí tuệ - nói đúng hơn là nguồn lực trí

tuệ của con người lại là cái vô hạn, là “tối cao”. Càng khai thác nguồn lực này

càng phát triển, càng phát huy tác dụng, càng thể hiện sức mạnh của mình

mỗi khi được hiện thực hóa trong đời sống xã hội. Trí tuệ con người chỉ trở

thành nguồn lực trí tuệ khi nó được người lao động sử dụng trong hoạt động

thực tiễn, lúc đó nó sẽ mang lại sức mạnh, sự giàu có và thịnh vượng cho con

người, cho xã hội.

Dưới chủ nghĩa tư bản, vì lợi nhuận, giai cấp tư sản đã “máy móc hóa”

lao động của công nhân, trong đó lao động trí tuệ bị “tha hóa”, người công

nhân đã biến thành “những cái máy đơn giản để sản xuất ra giá trị thặng dư”

[87, tr.575] cho nhà tư bản mà thôi, mặc dù bản thân “Giai cấp công nhân có

khả năng to lớn hơn trong việc chiếm hữu những sức mạnh phổ biến của xã

hội, như những sức mạnh trí tuệ của nó” [89, tr.216]. Để giai cấp công nhân,

để người lao động - nhất là lao động trí óc - sở hữu nguồn lực trí tuệ của

mình, để cho “tất cả những cái kỳ diệu của kỹ thuật, tất cả những thành quả

của văn hóa sẽ trở thành tài sản của toàn dân” và để cho “không bao giờ trí

tuệ cũng như thiên tài của loài người sẽ bị biến thành những phương tiện bạo

lực, những phương tiện bóc lột nữa” [73, tr.349], thì giai cấp vô sản phải đứng

lên giải phóng mình và giải phóng nhân loại thoát ra khỏi mội áp bức bất

112

công, xây dựng một xã hội mà ở đó: sự phát triển tự do của mỗi người là điều

kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

Với ý nghĩa đó, để xây dựng và phát triển đất nước; để đến năm 2020

nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; để vị thế của

Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên, tạo tiền đề vững chắc để

phát triển cao hơn trong giai đoạn sau thì không có sự lựa chọn nào tốt hơn là

phát triển nguồn lực con người, nhất là nguồn lực chất lượng cao - một trong

ba khâu đột phá mà Đại hội lần thứ XI của Đảng ta đã chọn.

Hiện nay chúng ta có lực lượng lao động tương đối dồi dào. Số người

trong độ tuổi lao động tăng nhanh và chiếm tỷ lệ tương đối cao (khoảng 67%

dân số cả nước). Cơ cấu lao động ở nước ta đang có những chuyển biến tích

cực. Nếu năm 2005 lao động trong nông nghiệp chiếm 57,1%, thì năm 2010

giảm xuống chỉ còn 42,87%. Trong công nghiệp và xây dựng từ 18,2% (năm

2005) tăng lên 22,4% (năm 2010); dịch vụ từ 24,7% (năm 2005) tăng lên

29,4% (năm 2010). Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010 đạt 40% tổng số lao

động đang làm việc. Phấn đấu đến năm 2015 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt

55% như Đại hội XI của Đảng đã đề ra [36, tr.152-153, 190]. Đây là một

trong những nguồn lực vô cùng quan trọng - có nghĩa quyết định - để chúng ta

tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đối với Nghệ An, theo tổng điều tra dân số và nhà ở, tỉnh Nghệ An đã

bước vào “thời kỳ dân số vàng” là thời kỳ số người lao động lớn gấp đôi

người không lao động, và thời kỳ “dân số vàng” sẽ kéo dài khoảng 30 năm nữa

do tỷ lệ phụ thuộc chung của tỉnh giảm nhanh trong 10 năm, từ 77,94% (năm

1999) xuống còn 49,93% năm 2009, cơ cấu dân số vàng đang tạo ra cơ hội rất

lớn để thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh.

Để tạo ra bước “đột phá” trong phát triển nguồn nhân lực, tỉnh ủy, UBND

tỉnh đã ban hành một số văn bản nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng

113

như thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ các nguồn khác nhau về địa

phương công tác. Ngày 11/07/2006, tỉnh ủy Nghệ An đã có Nghị quyết số 04 -

NQ/TU Về chương trình phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2006-2010.

Ngày 04/10/2013, UBND tỉnh có Quyết định số 57/2013/QĐ-UBND Về

ban hành Quy định một số chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng

cao và ưu tiên trong tuyển dụng công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh

Nghệ An. Ngày 17/7/2013 Hội đồng Nhân dân tỉnh Nghệ An ra Nghị quyết số

92/2013/NQ-HĐND “Về chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao

và ưu tiên trong tuyển dụng công chức, viên chức”v.v. nếu việc triển khai,

thực hiện tốt các văn bản này, nhất định Nghệ An sẽ có nguồn lực con người

đáp ứng tốt yêu cầu CNH,HĐH trên địa bản tỉnh.

4.1.2. Phát triển nguồn lực con người một cách toàn diện, đáp ứng

yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước bền vững

Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật đòi hỏi chúng ta khi

xem xét bất cứ sự vật, hiện tượng nào đó cũng phải đặt nó trong mối liên hệ

với sự vật, hiện tượng khác. Mọi sự tách biệt, cô lập hay tuyệt đối hóa một sự

vật, hiện tượng nào đó - hay là tách rời giữa các mặt trong một sự vật, hiện

tượng đều trái với bản chất của phép biện chứng duy vật. Với ý nghĩa đó, một

trong những định hướng quan trọng để phát triển nguồn lực con người, để

nguồn lực con người thực sự là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội nói

chung, của quá trình CNH,HĐH nói riêng, đó là phải phát triển nguồn lực con

người một cách toàn diện, đồng bộ: cả về số lượng lẫn chất lượng; cả về cơ

cấu nguồn lực con người trong các ngành, nghề, lĩnh vực cũng như cơ cấu

vùng, miền v.v. Đồng thời ưu tiên phát triển nguồn lực con người ở những

lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh, so sánh.

Sức mạnh của nguồn lực con người chỉ được phát huy một cách đầy đủ

khi nó được phát triển toàn diện,cân đối, hợp lý cả về số lượng lẫn chất lượng

114

cũng như cơ cấu. Mọi sự mất cân đối, thiếu toàn diện, bất hợp lý tự nó sẽ làm

suy yếu lẫn nhau. Số lượng nguồn lực con người tăng nhanh nhưng chất

lượng thấp thì không thể phát huy được sức mạnh của số lượng. Ngược lại,

chất lượng nguồn lực con người cao nhưng thiếu số lượng cần thiết thì bản

thân chất lượng đó cũng khó phát huy sức mạnh của riêng mình. Biện chứng

giữa chất và lượng, quá trình “chuyển hóa” giữa chúng có phát triển theo

chiều hướng tích cực hay không, có được hiện thực hóa trong quá trình xây

dựng và phát triển đất nước hay không điều đó phụ thuộc một phần rất lớn

trong nhận thức định hướng phát triển nguồn lực con người ở nước ta hiện

nay.Chính Ph.Ăngghen đã để lại cho chúng ta ví dụ kinh điển về mối quan hệ

biện chứng này khi ông dẫn lời của Na-pô-lê-ông nói về cuộc chiến giữa kỵ

binh Pháp với kỵ binh Ma-me-lúc [85, tr.183].

Hiện nay chúng ta không chỉ đang có sự mất cân đối giữa số lượng và

chất lượng nguồn lực con người, mà còn mất cân đối cả về cơ cấu nguồn lực

con người trong các ngành, nghề, lĩnh vực cũng như cơ cấu vùng, miền. Hiện

tại, nguồn lực lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng khá cao, trong

lúc đó nguồn lực con người phục vụ trong một số ngành công nghiệp - dịch

vụ nhìn chung vẫn thấp. Riêng ở Nghệ An, lao động trong nông-lâm-ngư

nghiệp chiếm 64 % lao động toàn tỉnh.

Một thực tế nữa mà Nghệ An đang phải đối mặt là sự mất cân đối về bố

trí nguồn lực con người giữa các vùng, miền. Thông thường tại các trung tâm

chính trị, kinh tế, văn hóa nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng

cao thường tập trung ở đấy. Còn vùng nông thôn, miền núi v.v. mật độ dân số

thấp, nguồn lực con người mỏng, chất lượng phần lớn không cao. Chẳng hạn, ở thành phố Vinh 2.912 người/km2, trong lúc đó các huyện, thị ở phía tây tỉnh

lại có mật độ dân số thấp hơn nhiều, như Tương Dương, Quế Phong chỉ có 25 người/km2. Trong số 97 người có học hàm GS, PGS và 258 người có

115

trình độ tiến sĩ, bác sĩ và dược sĩ chuyên khoa 2 công tác trên địa bàn Nghệ

An, phần lớn có cơ quan đóng ở thành phố Vinh, chủ yếu là ở các trường

đại học và một vài cơ quan nghiên cứu khoa học khác. Còn vùng nông

thôn, miền núi hầu như không có một GS, PGS hay tiến sĩ nào về công tác.

Trong số 727 công chức, viên chức các ngành cấp tỉnh, có 651 người có

trình độ cao đẳng trở lên. Đa phần số cán bộ này công tác tại thành phố Vinh.

Số người có trình độ chuyên môn cao công tác ở các huyện, thị - nhất là các

huyện, thị miền núi chiếm tỷ lệ rất thấp. Số cán bộ khoa học kỹ thuật là người

dân tộc thiểu số chỉ chiếm 3,76% tổng số cán bộ khoa học - kỹ thuật của tỉnh

và không phải tất cả đều phục vụ ở miền núi quê hương mình [137].

Sự mất cân đối về cơ cấu nguồn lực con người ảnh hưởng không tốt đến

việc khai thác các nguồn lực khác của địa phương, tạo nên sự phát triển mất

cân đối giữa các vùng, miền cũng như giữa các ngành, nghề v.v. do đó ảnh

hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đến quá trình

CNH,HĐH nói riêng. Do đó việc nhận thức một cách đúng đắn những bất cập

này, tìm ra giải pháp để phát triển nguồn lực con người một cách toàn diện là

việc làm hết sức cần thiết ở Nghệ An hiện nay.

4.1.3. Phát triển nguồn lực con người là sự nghiệp, là trách nhiệm của

toàn xã hội

Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn lực con người, nhất là nguồn lực

chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của quá

trình CNH, HĐH, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.

Từ trước đến nay, không ít người và cũng không phải không có tổ chức

cho rằng những vấn đề vĩ mô để phát triển kinh tế – xã hội, phát triển nguồn

lực con người của đất nước .v.v. là công việc của nhà nước Trung ương, của

cấp trên chứ không phải là công việc của bản thân mình. Đây là một sự nhận

thức không đúng.

116

Để khắc phục tình trạng này, trước hết phải làm cho mọi người ý thức

được rằng phát triển, nâng cao chất lượng nguồn lực con người là nhiệm vụ

của toàn xã hội, mang tính xã hội, đòi hỏi có sự tham gia của các cấp ủy đảng,

chính quyền, nhà trường, doanh nghiệp, gia đình.v.v. cũng như bản thân

người lao động.

Trong thời gian qua Nghệ An đã đạt được những thành công nhất định

trong việc “ xã hội hóa” phát triển nguồn lực con người. Tỉnh chủ trương tăng

cường mối quan hệ , tranh thủ tốt nhất sự ủng hộ của Chính phủ, các bộ, ngành

trung ương, các địa phương, các cơ sở đào tạo lớn và có uy tín (thậm chí cả

ngoài nước) để góp phần thúc đẩy việc phát triển nguồn lực con người cho tỉnh.

Chủ trương tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường đàm phán, vận

động và xúc tiến đầu tư để thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài, tài trợ của các

cá nhân, tổ chức nước ngoài, vốn của cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài vào

phát triển nguồn lực con người của tỉnh đã thu được những kết quả nhất định.

Các cơ sở đào tạo (có yếu tố nước ngoài) như trường Cao đẳng nghề Việt Nam

- Hàn Quốc; trường Cao đẳng nghề Việt - Đức hàng năm đã cung cấp cho địa

phương và các tỉnh lân cận một lực lượng lao động có tay nghề, góp phần

quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của địa phương.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các

cấp, các ngành, các cơ sở GD-ĐT, các tổ chức khoa học - công nghệ với

phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền các chủ trương chính sách,

pháp luật về phát triển nguồn lực con người của Trung ương và địa phương.

Tổ chức tuyên truyền rộng rãi đến đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và

mọi người dân về vai trò của công tác phát triển nguồn lực con người phục vụ sự

nghiệp CNH, HĐH cũng như phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.

Đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục,

thể thao. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô, định hướng, dẫn dắt

117

bằng hệ thống khung khổ pháp lý và chính sách khuyến khích phát triển

nhân lực, thực hiện các chương trình phổ cập bắt buộc, hỗ trợ phát triển các

nhóm nhân lực đặc thù, nhất là với những đối tượng chính sách xã hội,

đồng bào dân tộc thiểu số, các nhóm dân cư dễ bị tổn thương (người tàn tật,

người nghèo, cận nghèo, nông dân chuyển đổi việc làm v.v.). Mỗi công

dân, mỗi tổ chức kinh tế, xã hội có trách nhiệm tham gia tích cực vào phát

triển nguồn lực con người. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho đào

tạo nhân lực với các hình thức khác nhau, nhất là việc thành lập cơ sở đào

tạo trong doanh nghiệp, gắn đào tạo với nhu cầu doanh nghiệp, nhu cầu xã

hội [119].

Là công việc, nhiệm vụ mang tính xã hội, do đó phát triển nguồn lực con

người cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các chủ thể tham

gia phát triển nguồn nhân lực. Phải giao cho một cơ quan có chức năng quản

lý lao động làm đầu mối lập kế hoạch phát triển nguồn lực con người để tham

mưu cho UBND tỉnh có những chủ trương, chính sách đúng, phù hợp với tình

hình thực tế địa phương.

Thủ trưởng các ngành, các đơn vị, chủ tịch UBND các huyện, thị xã,

thành phố phải xác định rõ phát triển nguồn nhân lực nhiệm vụ trọng tâm của

ngành, địa phương mình để tập trung chỉ đạo đáp ứng yêu cầu phát triển kinh

tế - xã hội. Đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, siết chặt kỷ luật, kỷ

cương. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, đồng thời xử lý nghiêm

những cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ, thiếu trách nhiệm, tiêu

cực, gây khó khăn, phiền hà cho tổ chức, cá nhân.

Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế để thúc đẩy quá trình đào tạo

nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập thế giới. Ưu tiên cho việc đào tạo có chát lượng nguồn lực con người ở

các ngành trọng điểm, các nghề mới hiện đại, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.

118

Tăng cường đàm phán, vận động và xúc tiến đầu tư để thu hút các

nguồn vốn từ ngoài nước, như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn viện trợ

chính thức và tài trợ của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài, vốn của cộng

đồng người Việt Nam ở nước ngoài v.v.tham gia vào phát triển nguồn lực con

người tại địa phương.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải đặt nhiệm vụ phát triển nguồn lực con

người của Nghệ An trong tổng thể Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam

2011-2020

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC

CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở

TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

4.2.1. Nhóm giải pháp về lĩnh vực giáo dục và đào tạo, huy động

các nguồn lực đầu tư để phát triển số lượng và chất lượng nguồn lực con

người ở Nghệ An hiện nay

4.2.1.1. Giải pháp về lĩnh vực giáo dục và đào tạo

Bất cứ một nền kinh tế nào muốn duy trì và phát triển cũng cần phải có

một số nguồn lực nhất định, trong đó nguồn lực con người là nguồn lực quan

trọng nhất, có ý nghĩa quyết định nhất so với các nguồn lực khác. Đây được

coi là “lực lượng sản xuất hàng đầu” của toàn thể nhân loại.

Hiện nay cả nước nói chung, Nghệ An nó riêng có nguồn nhân lực

tương đối dồi dào. Số người trong độ tuổi lao động nước ta tăng nhanh và chiếm

tỷ lệ cao (67%) trong dân số cả nước. Cơ cấu dân số vàng xuất hiện ở nước ta từ

năm 2010 và kết thúc khoảng năm 2040, đây là khoảng thời gian tương đối dài

để Nghệ An phát huy lợi thế về nguồn lực lao động góp phần thúc đẩy kinh tế -

xã hội phát triển.

Tuy dồi dào về số lượng, nhưng chất lượng nguồn lực con người của

nước ta nói chung, của Nghệ An nói riêng nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng

119

yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập thế giới. Để khắc

phục tình trạng trên, giải pháp quan trọng nhất hiện nay là phải “đổi mới căn

bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã

hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” [36, tr.130], để giáo dục và đào tạo

thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng

nhân tài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần quan

trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.

Sau gần 30 năm đổi mới và gần 20 năm đất nước chuyển sang thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quy mô giáo dục và mạng

lưới cơ sở giáo dục phát triển nhanh, rộng khắp trong toàn quốc, đáp ứng tốt

hơn nhu cầu học tập của nhân dân từ mẫu giáo đến cao đẳng, đại học. Tuy

nhiên, như Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI

(ngày 4-11-2013) đánh giá: “chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn

thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp... Đào tạo

thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của

thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống

và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết

quả còn lạc hậu, thiếu thực chất”. Những yếu kém trong giáo dục và đào tạo

là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng chất lượng nguồn

nhân lực - kể cả nguồn nhân lực chất lượng cao - ở nước ta hiện nay vẫn còn

nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập thế giới.

Trong giai đoạn từ 1996 - 2013, ngành giáo dục - đào tạo Nghệ An đã có

được những thành tích nhất định, cả về cả quy mô lẫn chất lượng, cũng như

cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ giáo dục - đào tạo. Tỷ lệ học sinh Trung học

phổ thông đỗ tốt nghiệp tương đối cao, chẳng hạn năm học 2012-2013 là

96,84% [17, tr.393]. Số học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng

120

tương đối nhiều; số học sinh đoạt giải quốc gia, quốc tế chiếm tỷ lệ cao so với

cả nước.

Tuy đạt được những thành tích rất đáng tự hào, nhưng sự phát triển giáo

dục ở Nghệ An vẫn còn những bất cập nhất định, trong đó nổi lên mấy vấn đề

chính sau đây: Một, sự phát triển chưa đồng đều về mặt chất lượng. Năm

2014 có lớp 100% học sinh đỗ đại học và học viện (lớp 12A của Trường

THPT Quỳ Hợp 1 (huyện miền núi Quỳ Hợp, Nghệ An), nhưng cũng có

trường tỷ lệ học sinh đỗ đại học không cao; thậm chí vẫn có hiện tượng- như

một vài tờ báo đã nêu hồi tháng 2-2014 là học sinh - “ngồi nhầm lớp”. Hai, sự

phát triển về mặt số lượng học sinh không đồng đều giữa các vùng trong tỉnh

(cho dù điều này do nhiều nguyên nhân). Chẳng hạn, năm học 2012-

2013 thành phố Vinh có 12 trường Trung học phổ thông với 10.392 em, trong

lúc đó nhiều huyện chỉ có 1 trường, với số lượng học sinh chỉ trên dưới 1.000

em như Qùy Châu, Quế Phong, Kỳ Sơn [17, tr.385, 391]. Ba, việc huy động

các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học ở nhiều địa phương

trong tỉnh còn hạn chế. Việc xây dựng trường chuẩn quốc gia gặp nhiều khó

khăn; chất lượng trường chuẩn quốc gia có chỗ chưa bền vững. Bốn, công tác

quản lý nhà nước về đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao động còn

nhiêu bất cập, việc liên kết ở các trường thực hiện chưa tốt; dạy nghề cho lao

động nông thôn chưa bám sát nhu cầu [139].

Để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, để nguồn

nhân lực có khả năng đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước

hết cần phải “cải tiến chất lượng dạy và học, khắc phục những tiêu cực, yếu

kém trong ngành giáo dục để hoàn thành tốt việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn

lực con người cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [27, tr.29]; nâng

cao chất lượng đội ngũ giáo viên, tạo điều kiện tốt nhất trong khả năng cho

phép để lực lượng này phát huy hết năng lực vốn có của mình phục vụ tốt

121

nhất cho sự phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế

- xã hội.

Theo số liệu của Cục Thống kê Nghệ An, năm học 2013-2014, toàn tỉnh

có 33.123 giáo viên phổ thông; 118 giáo viên trung cấp chuyên nghiệp; 705

giáo viên cao đẳng; số giáo viên đại học có mặt trên địa bàn tỉnh là 1.207

người. Đây là nguồn lực rất cơ bản, rất quan trọng góp phần đắc lực vào sự

nghiệp giáo dục – đào tạo ở địa phương.

Cùng với nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cần phải tích cực đổi

mới nội dung và phương pháp giảng dạy theo tinh thần Hội nghị Trung ương lần

thứ Tám, khóa XI ở tất cả các cấp học, bậc học, nhất là với các cở dạy nghề, để

sau khi ra trường người học có khả năng đáp ứng yêu cầu thị trường lao động

đang đòi hỏi ngày một cao. Đây là một hướng đi đúng, trong thời gian tới Nghệ

An cần phải phát huy tốt hơn nữa lợi thế này.

Cùng với các biện pháp trên đây, một trong những vấn đề cần có sự chung

tay của cả cộng đồng- xã hội, đó là việc huy động các nguồn lực đầu tư xây

dựng cơ sở vật chất trường học, thực hiện phương châm nhà nước và nhân

dân cùng làm. Đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển nhân lực - nhất là trong lĩnh

vực đào tạo - trước hết là huy động nguồn vốn xã hội cho giáo dục - đào tạo.

Mỗi khi cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, phương tiện dạy, học (nhất là đối

với đào tạo nghề) lạc hậu, người học không được tiếp cận với thông tin mới,

thiết bị hiện đại, kỹ thuật tiên tiến.v.v. thì rất khó để nói đến việc nâng cao

chất lượng giáo dục, đào tạo. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng

cao chất lượng nguồn lực con người của tỉnh.

Trước mắt, tỉnh cần ưu tiên nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy

nghề cho các cơ sở sẵn có như: Trường Cao đẳng nghề Việt Nam - Hàn Quốc;

trường Cao đẳng nghề Việt - Đức. Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế,

tăng cường đàm phán, vận động và xúc tiến đầu tư để thu hút các nguồn vốn từ

122

ngân sách Nhà nước, nước ngoài, tài trợ của các cá nhân, tổ chức nước ngoài,

vốn của cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài vào phát triển nguồn nhân lực.

Vừa qua đóng góp của người dân cho giáo dục ở Việt Nam tương đối

cao, khoảng 40%, trong lúc đó ở Mỹ, con số này là 26%, ở Pháp là 11,2%,

Trung Quốc khoảng 20%. Nhưng do giá trị tuyệt đối của sự đóng góp này

không lớn, trong lúc đó nhu cầu của xã hội đối với giáo dục- đào tạo lại không

ngừng gia tăng nên sự thiếu hụt về tài chính, về cơ sở vật chất phục vụ giáo dục

đào tạo luôn luôn diễn ra. Khắc phục tình trạng này nhất định giáo dục- đào tạo

Nghệ An sẽ góp phần to lớn hơn nữa trong phát triển nguồn lực con người.

4.2.1.2. Giải pháp về huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển

số lượng và chất lượng nguồn lực con người ở Nghệ An hiện nay

Để phát triển nhanh nguồn nhân lực, để nguồn lực con người Việt Nam

nói chung, nguồn lực con người Nghệ An nói riêng phát triển toàn diện về thể

lực, trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức, có năng lực tự học, tự đào tạo, năng

động, sáng tạo, có tri thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng thích ứng

và nhanh chóng tạo được thế chủ động trong môi trường sống và làm việc đáp

ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước và hội nhập quốc tế.v.v.. một

trong những giải pháp quan trọng là phải huy động các nguồn lực, đẩy mạnh

xã hội hóa cho đầu tư phát triển nhân lực - nhất là trong lĩnh vực giáo dục-

đào tạo.

Để thực hiện quan điểm định hướng phát triển nguồn lực con người

(mục 4.1), coi Phát triển nhân lực là sự nghiệp, là trách nhiệm của toàn xã

hội, trong đó Nhà nước có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý vĩ mô,

định hướng, dẫn dắt bằng hệ thống khung khổ pháp lý và chính sách

khuyến khích phát triển nhân lực, thực hiện các chương trình phổ cấp giáo

dục bắt buộc, hỗ trợ bồi dưỡng phát triển nhân tài và thực hiện công bằng

xã hội trong phát triển nhân lực, hỗ trợ phát triển các nhóm nhân lực đặc

123

thù, nhất là đối với những đối tượng chính sách xã hội, đồng bào dân tộc

thiểu số, các nhóm dân cư dễ bị tổn thương, còn mỗi công dân, mỗi tổ chức

kinh tế, xã hội có trách nhiệm tham gia tích cực vào phát triển nhân lực.v.v.

ngoài việc phát huy những yếu tố nội lực ra, trung ương và các địa phương

( trong đó có Nghệ An) cần phải tăng cường và mở rộng hợp tác quốc

tế để phát triển nhân lực, trong đó tập trung ưu tiên xây dựng các cơ sở đào

tạo đạt trình độ quốc tế và đào tạo đội ngũ chuyên gia đầu ngành, các nhóm

nhân lực trình độ cao trong các ngành trọng điểm đạt trình độ của các nước

tiên tiến. Đặc biệt phải biết ưu tiên cho việc đào tạo nguồn nhân lực đạt đẳng

cấp quốc tế, nhân lực các ngành trọng điểm, các nghề mới hiện đại để có khả

năng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.

Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo nhân lực với các

hình thức khác nhau, nhất là việc thành lập cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp,

gắn đào tạo với nhu cầu doanh nghiệp, nhu cầu xã hội. Một trong những chủ

trương, biện pháp lớn để “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” được Đại hội

lần thứ XI của Đảng xác định là “Thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa các doanh

nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển

nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội” [36, tr.130].

Quán triệt chủ trương của Đảng, chiến lược, chính sách của Nhà nước,

Nghệ An cần phải đẩy mạnh xã hội hóa việc phát triển nguồn lực con người,

trước hết là huy động nguồn vốn xã hội cho giáo dục - đào tạo. Tập trung mọi

nguồn lực, kể cả nội lực lẫn ngoại lực để không ngừng nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực. Trong điều kiện đóng góp của nhân dân địa phương còn hạn

chế, cần phải tập trung nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển

nhân lực, nhất là đầu tư cho giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Phải quán triệt sâu sắc và hiện thực hóa quan điểm của Đảng: đầu tư cho giáo

dục, đào tạo là đầu tư cho phát triển. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo

124

dục và đào tạo là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội

nhanh, bền vững. Đảm bảo tỷ trọng chi cho giáo dục, đào tạo ở mức 20% tổng

chi ngân sách của tỉnh.

Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo nhân lực với hình

thức khác nhau, nhất là việc thành lập cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp, gắn

đào tạo với nhu cầu doanh nghiệp, nhu cầu xã hội.

Một hướng đi khác để phát triển nguồn lực con người ở Nghệ An hiện

nay cần được tiếp tục đó là thúc đẩy xuất khẩu lao động, hình thành quỹ hỗ

trợ xuất khẩu lao động, giúp người lao động tiếp cận và vay vốn ưu đãi bằng

hình thức tín chấp từ các ngân hàng chính sách, các tổ chức tín dụng để học

nghề, học tiếng và thực hiện các thủ tục để đi xuất khẩu lao động. Điều này

không chỉ góp phần giải quyết việc làm, tăng thêm thu nhập cho một bộ

phận người lao động, cái quan trọng hơn là thông qua xuất khẩu lao động,

chất lượng nguồn nhân lực của địa phương được nâng lên, nhất là tay nghề,

tác phong công nghiệp; kinh nghiệm tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh.

Từ trước năm 2005, bình quân mỗi năm tỉnh đưa được 6.000- 7.000 lao

động đi làm việc ở nước ngoài, nhưng trong giai đoạn 2006 trở về sau, con số

đó là trên 11.000 lao động/năm, 65% lao động xuất khẩu có tay nghề đủ đáp

ứng nhu cầu thị trường lao động đòi hỏi chất lượng tương đối cao của một số

quốc gia và vùng lãnh thổ, như: Đài Loan, Malaixia, Nhật Bản, Hàn quốc.

Để xuất khẩu lao động đi đúng hướng, cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn

thể các cấp phải tăng cường công tác chỉ đạo, tuyên truyền sâu rộng về các

chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh về xuất khẩu lao động đến mọi

người dân. Yêu cầu UBND các huyện, thị xã, thành phố chỉ đạo các xã

phường, thị trấn phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.

Tổ chức tuyên truyền, vận động người lao động tích cực tham gia xuất khẩu

lao động một cách hợp pháp.

125

4.2.2. Nhóm giải pháp về công tác tuyển dụng, sử dụng, quy hoạch,

sắp xếp nguồn lực con người ở Nghệ An hiện nay

4.2.2.1. Giải pháp về tuyển dụng, sử dụng nguồn lực con người ở tỉnh

Nghệ An

Vấn đề tuyển dụng, sử dụng nguồn lực con người tác động rất lớn đến sự

phát triển của chính bản thân nguồn lực này. Một quá trình tuyển dụng, sử

dụng khách quan, công khai, minh bạch, bình đẳng, dân chủ, lựa chọn những

người thực sự cho công việc, vì công việc để lựa chọn, sử dụng người chứ

không phải ngược lại… không chỉ giải quyết tốt vấn đề kinh tế mà còn cho cả

vấn đề xã hội, nhất là đối với các vị trí là cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Do tầm quan trọng của nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh

tế- xã hội, chúng ta thấy rằng công tác tuyển dụng đội ngũ cán bộ, công chức

cũng như người lao động có tay nghề cao là hết sức quan trọng, làm thế nào thu

hút được những người có trình độ khoa học - kỹ thuật cao, tay nghề giỏi từ mọi

miền đất nước, đặc biệt là con em Nghệ An đã và đang học tập, công tác ngoài

tỉnh về phục vụ quê hương là một trong những giải pháp hoàn toàn khả thi.

Lâu nay nhiều người vẫn quan niệm bằng cấp là tấm vé để được tuyển

dụng vào các cơ quan, công ty nhà nước. Ở đó áp lực công việc không cao lại

được nhiều người tôn trọng, khả năng thăng tiến lớn, vì thế mà bằng cấp,

chứng chỉ giả xuất hiện để bán cho những người có nhu cầu, có tiền bạc, có

quan hệ… nhưng lại yếu kém về năng lực, về trình độ chuyên môn. Vấn đề

này ở Nghệ An không phải là không có. Báo Dân trí, ngày chủ nhật 30-3-

2014 đưa tin về việc “Mượn” bằng cấp 3 để làm Chủ tịch Hội phụ nữ ở một

huyện; hay Báo Tiền phong, ngày 5-6-2014 đưa tin: Sở Nội vụ Nghệ An cho

biết, tại một huyện của Nghệ An, có 13 cán bộ thuộc 7 xã không tốt nghiệp

cấp trung học phổ thông đã dùng bằng giả THPT để học các văn bằng cao

hơn...là những minh chứng.

126

Bằng giả, chứng chỉ giả không chỉ có ở một vài nơi trong tỉnh Nghệ

An mà nó xuất hiện ở nhiều nơi (cả trong nước và không ít nước trên thế

giới), đó là một sự thật đang bị xã hội lên án một cách mạnh mẽ. Nhưng

bằng thật, chứng chỉ thật mà lại học giả, chất lượng giả cũng không phải là

hiếm. Do đó khi tuyển dụng, bố trí nhân sự cần phải căn cứ vào năng lực

thực tế, không nên quá dựa vào bằng cấp, “sính” bằng cấp. Câu nói của

đồng chí Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo tại phiên họp ngày 25-2-2014

tại Hội đồng quốc gia về giáo dục và phát triển nhân lực giai đoạn 2011-

2020 rằng: “Thực tế những người có bằng giả hay bằng thật nhưng chất

lượng giả chỉ có thể “chui” vào hệ thống công chức nhà nước, chứ không

thể vào được các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài” là tiếng

chuông cảnh báo cho tình trạng này.

Thực tế cho thấy, nếu nguồn nhân lực được sử dụng đúng, quản lý tốt,

biết phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo… sẽ mang lại hiệu quả kinh tế -

xã hội cao. Một trong những giải pháp của “Chiến lược phát triển nhân lực

Việt Nam thời kỳ 2011- 2020” là “Đổi mới căn bản và toàn diện chính sách

về sử dụng nhân lực trong khu vực nhà nước phù hợp với những quy luật của

nền kinh tế thị trường, từ khâu tuyển dụng (tổ chức thi tuyển khách quan và

mở rộng các đối tượng được tuyển đụng theo hình thức ký Hợp đồng lao

động), bố trí công việc, trả công lao động, thăng tiến nghề nghiệp và không

ngừng cải thiện điều kiện, môi trường lao động để tạo động lực, kích thích,

khuyến khích làm việc sáng tạo và có hiệu quả cao”. Đồng thời “sử dụng,

đánh giá, đãi ngộ nhân lực phải dựa vào năng lực thực tế và kết quả, hiệu quả

công việc. Khắc phục tâm lý và hiện tượng coi trọng và đề cao “bằng cấp”

một cách hình thức trong tuyển dụng và đánh giá nhân lực”. Có như vậy,

chính sách “trọng dụng nhân tài” mới được hiện thực hóa, chúng ta không để

lãng phí chất xám, lãng phí nguồn nhân lực.

127

Sở GD-ĐT tỉnh Nghệ An vừa thực hiện khảo sát tình hình việc

làm của sinh viên (SV) sau khi tốt nghiệp. Kết quả cho thấy đến đầu năm

2013, trong số 19/20 huyện, thành, thị (trừ huyện Anh Sơn) có 11.569

người đã tốt nghiệp từ TCCN trở lên chưa tìm được việc làm. Trong đó có

một thạc sĩ, 3.047 người tốt nghiệp ĐH, 4.042 người có trình độ CĐ và

4.479 người có trình độ TCCN.

Để góp phần khắc phục tình trạng “thừa” nguồn nhân lực một cách giả

tạo, ngoài việc xét tuyển các ứng viên đã có kinh nghiệm làm việc đáp ứng được

yêu cầu của các cơ quan, doanh nghiệp, tỉnh Nghệ An cần làm tốt hơn nữa công

tác tuyển dụng các sinh viên có kết quả học tập tốt, có năng lực, tốt nghiệp tại

các trường đại học trong nước và quốc tế về làm việc tại địa phương.

Một trong ba khâu đột phá để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội được Đại hội lần thứ XI của Đảng đề ra là: Phát triển nhanh nguồn nhân

lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực hiện chiến lược này một mặt

tỉnh phải cử người đi đào tạo một số ngành mà hiện nay địa phương cần

nhưng đang thiếu, mặt khác Nghệ An cần xúc tiến công tác quảng bá, tuyên

truyền chính sách thu hút nhân tài để có thể tuyển dụng được nguồn nhân lực

có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa

phương. Nhất là việc xây dựng cơ sở giữ liệu về nguồn cán bộ khoa học công

nghệ ở trong nước và các chuyên gia là việt kiều (chủ yếu là con em quê ở

Nghệ An) trong các ngành công nghệ mũi nhọn, các nhà khoa học trình độ

cao tham gia công tác giảng dạy, nghiên cứu chuyển giao công nghệ tại các

cơ sở đào tạo, tổ chức khoa học - công nghệ trên địa bàn tỉnh.

Nghệ An là vùng đất - như Phan Huy Chú viết trong Lịch triều hiến

chương loại chí là đã “sinh ra nhiều bậc anh hiền”. Tuy có “nhiều bậc anh

hiền” nhưng nhìn chung sự cống hiến, phục vụ của họ cho quê hương chưa

thật tương xứng. Không chỉ trước đây, ngay cả ngày nay cũng không ít người

128

con xứ Nghệ có trình độ khoa học- kỹ thuật cao, chuyên môn sâu, khả năng

quản lý tốt, kinh doanh giỏi, tay nghề vững v.v. vẫn chưa trở về chung tay xây

dựng quê hương. Để thu hút được nguồn nhân lực này, bên cạnh tình yêu quê

hương, tinh thần tự nguyện của họ, tỉnh cũng cần có chính sách thu hút hấp

dẫn hơn, tạo niềm tin lớn hơn để họ yên tâm trở về quê hương cống hiến,

chung tay cùng cộng đồng xây dựng quê hương ngày càng lớn mạnh..

Có thể nói, làm tốt công tác tuyển dụng, sử dụng, thu hút nguồn lực con

người sẽ góp phần quan trọng trong việc phát triển chính nguồn lực đó. Đây là

biện chứng của sự phát triển.

4.2.2.2. Giải pháp về quy hoạch, sắp xếp nguồn lực con người ở Nghệ

An hiện nay

Công tác quy hoạch, sắp xếp nguồn lực con người đóng vai trò hết sức

quan trọng trong xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội, là bước đi cần thiết

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. “Chiến lược phát triển nhân

lực Việt Nam thời kỳ 2011- 2020” chỉ rõ: “Quy hoạch phát triển nhân lực là

nhiệm vụ quan trọng của các bộ, ngành và tỉnh, thành phố nhằm đảm bảo cân

đối về lao động cho sự phát triển của các ngành và địa phương”. Chiến lược

còn nhấn mạnh: khi xác định các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của các

địa phương, cùng với cân đối về vốn, về đất và năng lượng, thì “cân đối về

nhân lực có vai trò quyết định (người trích nhấn mạnh) đối với thu hút đầu tư

và đảm bảo hiệu quả phát triển”, nhất là trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa hiện nay - một quá trình kinh tế đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao với

tầm nhìn chiến lược.

Thực tế cho thấy việc quy hoạch, sắp xếp nguồn lực con người ở nước ta

nói chung, Nghệ An nói riêng còn nhiều bất cập, thiếu một sự quy hoạch tổng

thể có tầm nhìn chiến lược, mất cân đối trong đào tạo. Một trong những

nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp đáng báo động của khoảng 72

129

nghìn lao động có trình độ cử nhân trở lên ở nước ta hiện nay, theo ông Tổng

cục trưởng Tổng cục dạy nghề, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đó là

“do dự báo nhu cầu việc làm chưa chính xác” và “do cơ cấu trình độ đào tạo

đại học chưa thích hợp với cơ cấu nhu cầu lao động” [115, tr.3].

Nghệ An là một tỉnh nông nghiệp, cơ cấu dân số nói chung, nguồn

lực con người nói riêng nhìn chung chưa hợp lý. Tính đến năm 2010 tỷ lệ

dân số nông thôn chiếm 82,68% tổng số dân toàn tỉnh, do đó nguồn lực

con người ở nông thôn chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng số nguồn nhân

lực của tỉnh. Tỷ lệ lực lượng lao động qua đào tạo ở khu vực thành thị cao

hơn so với khu vực nông thôn (năm 2009 thành thị chiếm 44,04% trong

khi nông thôn 10,32%). Tỷ lệ lực lượng lao động qua đào tạo ở nam giới

cũng cao hơn so với nữ giới.

Hiện nay, lao động được đào tạo nghề chủ yếu tập trung vào các ngành

nghề thuộc khu vực dịch vụ như sửa chữa xe có động cơ, lái xe, may mặc dân

dụng, sửa chữa điện dân dụng, điện tử, gò hàn... trong khi số lao động được

đào tạo về các ngành nghề phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn đang thiếu lao động có kỹ thuật cao, như chế biến nông

sản, trồng trọt, chăn nuôi lại quá thiếu. Có thể nói tính kế hoạch - quy hoạch

trong đào tạo vẫn còn cái gì đó thiếu tầm chiến lược.

Mặc dù trong Chiến lược và Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của

mình, tỉnh đã có những giải pháp hỗ trợ đặc biệt để phát triển nguồn nhân lực

của nhóm lao động người dân tộc thiểu số, thậm chí Tỉnh ủy đã có Đề án Đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ cơ sở, cán bộ trẻ có

triển vọng (Số 02-ĐA/TU, ngày 11/07/2006), nhưng trình độ học vấn và

chuyên môn kỹ thuật của nguồn lực con người nơi đây nhìn chung thấp hơn

nhiều so với nhóm dân tộc kinh, điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nếu không có giải

130

pháp hợp lý thì Nghệ An sẽ gặp không ít trở ngại trong việc chuyển dịch lao

động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.

Để khắc phục tình trạng mất cân đối trong quy hoạch, sắp xếp nguồn

nhân lực, Nghệ An cần căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương (và cả khu vực Bắc Trung bộ) để có quy hoạch hợp lý nhằm đảm bảo

cân đối về lao động cho sự phát triển, nhất là cơ cấu nguồn nhân lực theo trình

độ chuyên môn kỹ thuật; giữa sản xuất nông nghiệp với sản xuất công nghiệp

- dịch vụ.

Có thể thấy những nhóm ngành nghề hiện đang có nhu cầu lao động

nhiều, như: Quản lý kinh tế; Kinh doanh - Quản lý chất lượng; Du lịch - nhà

hàng - khách sạn; bán hàng - Marketing- nhân viên kinh doanh; dịch vụ và

phục vụ; tài chính - ngân hàng; kế toán - kiểm toán; tư vấn - bảo hiểm; pháp

lý - luật; giáo dục - đào tạo; y tế - chăm sóc sức khỏe... nhưng trong tương lai

các ngành như cơ khí chế tạo, sản xuất máy móc, thiết bị thay thế nhập khẩu

cho công- nông nghiệp, xây dựng; khai khoáng và một số ngành khác sẽ có

nhu cầu lao động lớn, do đó phải có quy hoạch, kế hoạch hợp lý ngay từ bây

giờ, trong đó quy hoạch mạng lưới đào tạo nhân lực, để khi được đào tạo ra số

nhân lực này không trở thành “nạn nhân” của tình trạng thừa hay thiếu như

một số năm gần đây. Trước mắt cần triển khai thực hiện tốt Đề án phát triển

nhân lực tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011-2020 và Đề án quy hoạch phát triển

nhân lực tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011-2020, để tránh “tình trạng thừa, thiếu

cục bộ giữa các ngành và chuyên môn đào tạo vẫn còn phổ biến” như Đề án

phát triển đội ngũ công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn

2013-2015, có tính đến 2020 đã đánh giá [138, tr.9].

Để làm được điều này, trước hết, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Lao

động, Thương binh và Xã hội phải rà soát quy hoạch mạng lưới đào tạo, đại

học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tăng cường công tác

131

quản lý nhà nước đối với các hoạt động giáo dục đào tạo trong đó chú trọng

đến chất lượng dạy học (nhất là đối với các cơ sở đào tạo ngoài công lập)

và hình thức liên kết đào tạo trên địa bàn; nâng cấp hiện đại hóa để đạt yêu

cầu chuẩn hóa quốc gia về cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, nâng

cao chất lượng phổ cập giáo dục. Đối với vùng nông thôn, vùng sâu, vùng

xa, vùng núi cao, cần phải tạo điều kiện thuận lợi nhất để học sinh được

đến trường học tập.

Sở Nội vụ chủ trì phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan xây dựng đề

án phát triển đội ngũ công chức, viên chức trên địa bản tỉnh, tổ chức thực hiện

chính sách đào tạo có địa chỉ đội ngũ trí thức trình độ cao (thạc sĩ, tiến sĩ) ở

nước ngoài giai đoạn 2008-2015, có tính đến năm 2020. Trong đó phải triển

khai và thực hiện cho được mục tiêu Đề án phát triển đội ngũ công chức, viên

chức trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2013-2015, có tính đến 2020, đã

được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt ngày 04/02/2013.

Thứ hai, trên cơ sở quy hoạch mạng lưới các trường cao đẳng và đại học,

các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh cần được sắp xếp lại và phát triển theo

hướng hiện đại gắn với phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và

nhu cầu sử dụng nguồn lực con người của các cơ quan, doanh nghiệp. Dự báo

nhu cầu nhân lực của tỉnh trong thời gian tới, nhất là nhân lực trình độ cao,

nhân lực trong các ngành kinh tế mũi nhọn, chủ yếu đáp ứng yêu cầu của địa

phương trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Trong đó tập trung đào tạo đội ngũ doanh nhân tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011-

2015 có tính tới năm 2020- vì đây là mảng mà tỉnh Nghệ An đang rất cần.

Thứ ba, mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các trung

tâm giới thiệu việc làm, xây dựng hệ thống thông tin và dự báo về việc làm và

nguồn nhân lực. Thành lập các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Lao động, Thương

binh và Xã hội làm đầu mối kết nối cung cầu về lao động.

132

Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thị trường lao động của tỉnh và các địa

phương xung quanh, kết nối với hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia,

đa dạng hóa các kênh giao dịch việc làm, tạo điều kiện thuận lợi phát triển các

giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động. Cụ thể là

phải: 1) xây dựng trang website tổng hợp chính thức của tỉnh về thị trường lao

động Nghệ An. Trang website này hoạt động cung cấp thông tin và có chức

năng của sàn giao dịch lao động điện tử của tỉnh; 2) tổ chức mạng lưới cộng

tác viên liên kết thu thập thông tin, xử lý cung cấp và trao đổi thông tin… về

thị trường lao động; 3) thường xuyên tổ chức điều tra về thực trạng lao động,

việc làm trên địa bàn tỉnh. Kết hợp với điều tra việc làm lao động hàng năm

của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội tổ chức. Bổ sung, lồng ghép, thu

thập những thông tin bổ sung để sử dụng cho mục tiêu phát triển nguồn nhân

lực của tỉnh.

4.2.3. Nhóm giải pháp về xây dựng môi trường kinh tế- xã hội để

phát triển số lượng và chất lượng nguồn lực con người trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nghệ An hiện nay

Giữa con người và hoàn cảnh luôn luôn có mối quan hệ biện chứng với

nhau, chi phối lẫn nhau, con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh

cũng tạo ra con người đến mức ấy. “Nếu như tính cách con người là do hoàn

cảnh tạo nên thì do đó phải làm cho hoàn cảnh hợp với tính người. Nếu như con

người bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát

triển bản tính chân chính của mình trong xã hội và cần phải phán đoán lực lượng

của bản tính của anh ta, không phải căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ

mà căn cứ vào lực lượng của toàn xã hội” [80, tr.200]. Do đó, vấn đề phát triển

nguồn lực con người không thể không gắn với hoàn cảnh, với môi trường sống

của họ. Trong đó, môi trường kinh tế- chính trị- xã hội giữ vai trò quan trọng, có

ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển đó.

133

4.2.3.1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, tăng tích lũy, tạo tiền đề vật chất

cho phát triển nguồn lực con người

Về mặt lôgíc, tăng trưởng, phát triển kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố,

nhiều nguồn lực, trong đó nguồn lực con người luôn luôn giữ vị trí quan

trọng, có ý nghĩa quyết định đến quá trình này. Đặc biệt trong điều kiện kinh

tế tri thức, khi trí tuệ trở thành nguồn lực chủ yếu đối với sự phát triển nhanh

và bền vững thì vai trò nguồn lực con người càng khẳng định vị thế ưu trội

của mình so với các nguồn lực khác của sự phát triển.

Thực tiễn chỉ cho chúng ta thấy, giữa GDP và HDI có quan hệ hết sức

chặt chẽ với nhau. Đa phần các nước có nền kinh tế phát triển thì chỉ số phát

triển con người thường là cao. Khu vực châu Âu có nền kinh tế phát triển,

GDP đầu người tương đối cao, do đó HDI của các nước này thuộc loại cao

nhất (0,751 điểm), tiếp đến là khu vực Mỹ La tinh và vùng Caribbean (0,731).

Thấp nhất là châu Phi (0,463). Khu vực Đông Á và châu Á Thái Bình Dương

(trong đó có Việt Nam) xếp ở nhóm thứ 3- mức trung bình với 0,671 điểm.

lãnh Các quốc gia và vùng thổ có thứ hạng HDI cao nhất

gồm: Nauy, Australia, Hà Lan, Mỹ, NewZealand, Canada và đứng cuối bảng

là các nước như Liberia, Burkina, Faso v.v.. Những nước đứng đầu trong khu

vực châu Á Thái Bình Dương là New Zeeland xếp thứ 5, Nhật Bản thứ 12,

Hàn Quốc thứ 15, Australia thứ 19, Singapore thứ 26 v.v. Thứ hạng của

Việt Nam chỉ cao hơn Lào (138), Cambodia (139), Timor Leste (147)

và Myanmar (149).

HDI của Việt Nam xếp thứ 128 trên tổng số 187 nước và vùng lãnh thổ.

Theo tính toán của LHQ, thứ hạng này không thay đổi nhiều so với năm

trước, tuy HDI của Việt Nam có tăng nhẹ từ 0,590 năm 2010 lên 0,593 năm

2011. Nhưng khi so sánh với các nước trong khu vực thì Việt Nam vẫn ở mức

thấp [147].

134

Gần đây, trong Báo cáo phát triển con người 2013 của Chương trình phát

triển Liên hợp quốc (UNDP), ngày 3 tháng 7 năm 2013 tại Hà Nội với chủ

đề Sự trỗi dậy của các nước Nam bán cầu: Tiến bộ về con người trong một

thế giới đa dạng (The Rise of the South: Human Progress in a Diverse

World) cho thấy hầu hết các nước đang phát triển đều có những thành công

nhất định trong việc phát triển nguồn lực con người trên cơ sở tăng trưởng

kinh tế. Sự trỗi dậy của các nước Nam bán cầu là chưa từng thấy cả về tốc độ

và quy mô. Tổng sản lượng của ba nền kinh tế hàng đầu trong các nước đang

phát triển (Braxin, Trung Quốc, Ấn Độ) hiện tương đương với tổng GDP của

Canada, Pháp, Đức, Ý, Anh và Mỹ cộng lại. Dự đoán đến 2050 ba nước

Braxin, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ nắm đến 40% GDP thế giới, vượt xa nhóm

G7 khi đó. Tầng lớp trung lưu trong các nước Nam bán cầu tăng mạnh cả về

quy mô, thu nhập và kỳ vọng.v.v.. Tất cả những điều đó đang có tác động

đáng kể đến quá trình phát triển con người [148].

Tuy nền kinh tế của chúng ta tăng trưởng chưa thật cao, phát triển chưa

bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh

tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chế độ phân phối còn

nhiều bất hợp lý v.v.. nhưng chúng ta cũng đã đạt được những thành tựu nhất

định, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang

phát triển có thu nhập trung bình. Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu

người năm 2010 là 1.168 USD thì cuối năm 2013 đã đạt gần 2.000 USD/người.

Cơ cấu kinh tế đang có xu hướng chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và từng bước

hoàn thiện. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân

chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng; chính trị- xã hội ổn định; quốc phòng, an

ninh được giữ vững.v.v.. Đây là tiền đề kinh tế - xã hội hết sức quan trọng để

phát triển nguồn lực con người hiện nay ở nước ta.

135

Nghệ An hiện vẫn là một tỉnh nghèo, thu chưa bù đủ chi, điều này ảnh

hưởng rất lớn đến nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, đến phát

triển y tế, giáo dục.v.v.. nghĩa là ảnh hưởng không tốt đến việc phát triển

nguồn lực con người (nhất là về mặt chất lượng của nó).

Ở đây cũng cần lưu ý một điểm, hoạt động của con người là hoạt động

có ý thức. Trên một nền tảng, cơ sở vật chất nhất định, con người có thể nhân

sức mạnh vật chất vốn có lên nhiều lần. Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới

chỉ cho chúng ta thấy rằng, tuy nghèo về tài nguyên, thiên nhiên không ưu

đãi, thậm chí là khắc nghiệt nhưng nếu biết phát huy lợi thế về con người thì

vẫn có thể phát triển cả về kinh tế lẫn HDI.

Trong bối cảnh hiện nay Nghệ An không phải không có tiềm năng, lợi

thế (nhất là lợi thế về nguồn lực con người), không phải không có cơ sở vật

chất - kỹ thuật cần thiết cho sự phát triển kinh tế- xã hội, cho phát triển nguồn

lực con người. Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2013 của Sở Kế

hoạch và Đầu tư tỉnh, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2013 tăng 6,48 %,

tốc độ tăng trưởng kinh tế cuối năm 2013 cao hơn năm 2012 là 6,13 %. Sản

xuất nông-lâm- ngư nghiệp, thủy sản nhìn chung ổn định, có một số lĩnh vực

tăng trưởng khá. Một số ngành sản xuất công nghiệp như bia, điện sản xuất,

sữa... tiếp tục tăng. Năng lực mới tăng của ngành công nghiệp có khởi sắc từ

các dự án bắt đầu hoàn thành và đi vào hoạt động, như; Thủy điện Hủa Na,

Thủy điện Khe Bố, nhà máy may Hanosimex, nhà máy may MLB Tenegy,

nhà máy nhựa Tiền Phong v.v.. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát huy các

“lợi thế” đó. Báo cáo phát triển con người 2013 của Chương trình phát triển

Liên hợp quốc đã chỉ rõ: có ba nhân tố đáng chú ý tác động đến sự phát triển,

đến sự trỗi dậy của Nam bán cầu ở quy mô tương đối lớn đó là: Chính phủ

chủ động trong tăng trưởng, khai thác tốt tác động của thị trường toàn cầu và

đổi mới chính sách xã hội kiên quyết. Phải chăng ở đây chúng ta có thể học

136

tập được điều gì từ kết luận đó, từ nhân tố “Chính phủ chủ động trong tăng

trưởng”. Hay nói cách khác, chính quyền địa phương cần phải làm gì, tạo ra

môi trường kinh tế - xã hội như thế nào để đẩy mạnh sự phát triển, tăng tích

lũy, tạo tiền đề vật chất cho phát triển nguồn lực con người, nhất là đầu tư cho

giáo dục- đào tạo; đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực mà Nghệ An có

lợi thế cạnh tranh (nhất là lâm sản, thủy sản) và một số ngành công nghiệp khác

(như khai khoáng, thủy điện v.v..). Đây là giải pháp hoàn toàn có tính khả thi đối

với một tỉnh nghèo nhưng giàu tiềm năng và lắm lợi thế như Nghệ An.

4.2.3.2. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, truyền thống quê

hương ở nguồn lực con người Nghệ An

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình kinh tế- xã hội, trong đó

chủ thể tiến hành là con người, là nguồn lực con người. Để thực hiện quá trình

này, để biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực, nhất định phải

có con người hành động. Thông qua hoạt động thực tiễn của con người mà

các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mới

trở thành hiện thực. C.Mác và Ph.Ăngghen từng nói rằng: “tư tưởng căn bản

không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có

những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [80, tr.181]. Với ý nghĩa đó để

phát triển nguồn lực con người đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, hợp lý

về cơ cấu nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đai hóa

đất nước thì việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, truyền thống quê

hương ở nguồn lực con người là một trong những giải pháp không thể thiếu

được. Bởi lẽ để phát triển nguồn lực con người cần phải sử dụng nhiều nhóm

giải pháp, ngoài những giải pháp mang tính khách quan, cần có những giải

pháp mang tính chủ quan. Giải pháp khách quan có khả thi đến đâu đi nữa

nhưng không được nội tâm hóa, không thâm nhập được vào “lực lượng thực

tiễn”, vào lực lượng vật chất - tức là nguồn lực con người- thì không bao giờ

137

trở thành hiện thực, trong đó phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo,

truyền thống quê hương ở nguồn lực con người Nghệ An là một trong những

giải pháp hết sức cần thiết.

Về bản chất, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nguồn lực

con người là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức; là làm

gia tăng mặt chất lượng của nguồn nhân lực, là khơi dậy tiềm năng sáng tạo

to lớn của con người, kích thích con người nỗ lực phấn đấu vươn lên trong

cuộc sống.

Nhưng để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo - một yếu tố còn ở

dạng tiềm năng của con người thì cần phải mở rộng dân chủ, biến ước mơ,

khát vọng về dân chủ thành hiện thực trong đời sống xã hội; tạo ra sự đồng

thuận xã hội và giải quyết tốt vấn đề lợi ích chính đáng của con người nói

chung, người lao động nói riêng.

Dân chủ - từ trong chiều sâu của lịch sử đã là khát vọng của con người,

là một trong những thước đo trình độ văn hóa - văn minh của nhân loại. Dân

chủ còn là một trong những tiền đề của tự do và sáng tạo. Do đó, muốn phát

huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của con người, của nguồn lực con người

thì nhất thiết phải có dân chủ, đây có thể được coi như là một trong những

điều kiện không thể thiếu được của việc phát triển nguồn lực con người.

Kế thừa và phát triển tư tưởng dân chủ của các nhà kinh điển mác xít,

Đảng ta quan niệm “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa

là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển đất nước”. Do đó: “Xây dựng và

từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được

thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ

gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được

pháp luật bảo đảm” [36, tr.84-85], là một trong những đòi hỏi cấp bách của

cuộc sống hiện đại.

138

Để biến những ước mơ về dân chủ trở thành hiện thực dân chủ trong

đời sống xã hội, trong từng con người, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong

thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực, trên cơ sở đó khơi dậy,

phát huy tính tích cực, chủ động sáng của con người, trước hết cần phải hoàn

thiện các thể chế dân chủ, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh

thực hiện dân chủ dân chủ ở xã, phường, thị trấn; tăng cường vai trò lãnh đạo

của các cấp ủy Đảng, sự quản lý của các cấp chính quyền và sự tham gia của

Mặt trận trong việc thực hiện dân chủ; xây dựng và hoàn thiện cơ chế phản hồi ý

kiến của người dân đến với Đảng và chính quyền; nhà nước phải tôn trọng và

bảo đảm các quyền con người, quyền công dân- nhất là sự phát triển tự do, toàn

diện của mỗi cá nhân theo quy định của pháp luật; phải tạo không gian cho xã

hội công dân, để người dân được theo dõi, giám sát công việc của chính quyền

trên cơ sở đó tạo ra niềm tin, tạo ra một sự đồng thuận cao trong xã hội. Khi đó

giá trị dân chủ thực sự trở thành một trong những động lực thúc đẩy xã hội phát

triển, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Một trong những quan điểm chỉ đạo của Đề án phát triển đội ngũ công

chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2013-2015, có tính đến

2020 là đề cao tính dân chủ, công bằng trong tuyển dụng. Đề án nhấn mạnh:

“Tuyển dụng viên chức phải bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng,

khách quan và đúng pháp luật, bảo đảm tính cạnh tranh, tuyển chọn đúng

người đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm”.

Động lực thúc đẩy con người hoạt động đồng thời cũng là động lực thúc

đẩy sự phát triển nguồn lực con người ngoài vấn đề dân chủ ra đó còn là lợi

ích. C.Mác và Ph.Ăngghen từng nói rằng, tất cả những gì con người đấu

tranh để giành lấy đều dính liền với lợi ích của họ. Trong số những lợi ích mà

con người hướng tới, thì lợi ích vật chất giữ vai trò quan trọng. Toàn bộ lịch

sử chính trị, lịch sử đấu tranh giai cấp - như C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói “xét

139

đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế” [86, tr.441]. Có thể nói,

bất kỳ một nhân tố nào- cho dù là vật chất hay tinh thần- muốn trở thành yếu tố

kích thích, thúc đẩy con người hành động, với tính cách là động lực của sự phát

triển xã hội đều phải trở thành lợi ích của con người, thông qua lợi ích của họ.

Lợi ích chính là khâu trung gian trực tiếp làm hình thành động cơ tư tưởng thúc

đẩy con người ta hành động. Tính chất động lực của nhu cầu được thực hiện chủ

yếu thông qua lợi ích chân chính, lợi ích chính đáng, lợi ích “đúng đắn” - cho dù

đó là lợi ích của cá nhân hay của xã hội [54, tr.108-109].

Nguồn lực con người của nước ta nói chung, tỉnh Nghệ An nói riêng có

cơ cấu hết sức đa dạng về độ tuổi, về nghề nghiệp, về lĩnh vực hoạt động v.v..

do đó khi giải quyết vấn đề lợi ích, ngoài những nguyên tắc chung, cái “bất

biến” cũng cần phải chú ý đến tính đặc thù, đến từng loại đối tượng, nghề

nghiệp trong xã hội, có như vậy Nghệ An nói riêng, cả nước nói chung mới

khơi dậy được sức sáng tạo to lớn của tất cả mọi yếu tố hợp thành nguồn lực

con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nguồn lực con người

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nghệ An đã có những chủ trương,

chính sách ưu đãi nhằm thu hút nhân tài; tích cực đầu tư cơ sở vật chất - kỹ thuật

và phương tiện làm việc trong thực thi công vụ. Thực hiện các chính sách đãi

ngộ vật chất và tinh thần đối với đội ngũ công chức, viên chức, đảm bảo quyền

và lợi ích hợp pháp của một trong những thành phần quan trọng nhất trong cơ

cấu nguồn lực con người của tỉnh. Tỉnh đã thành lập Hội Khoa học phát triển

nguồn nhân lực và nhân tài Nghệ An (Quyết định 3780/QĐ-UBND, ngày

01/10/2007) với mục đích “phát triển nguồn nhân lực và nhân tài Nghệ An…,

góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh”.

Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An có Quyết định số 65/2010/QĐ - UBND

ngày 26 - 8 - 2010 về chính sách thu hút nhân lực cao được đào tạo trong

140

nước về công tác ở Tỉnh [131]. Đây là quyết định được áp dụng trong các cơ

quan Đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội các cấp trên địa bàn Tỉnh.

Tỉnh hỗ trợ kinh phí cho các đối tượng về công tác tại tỉnh nhà. Năm 2011,

UBND tỉnh Nghệ An có Đề án quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Nghệ An

giai đoạn 2011- 2020 [132]. Đây là nhũng chủ trương đúng, phù hợp với

tình hình thực tế của địa phương nhằm tạo ra hành lang pháp lý để thu hút

nguồn lực con người tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên

địa bàn tỉnh.

Cùng với việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nguồn lực

con người, lãnh đạo địa phương cần phải khơi dây truyền thống quê hương ở

những người con xứ Nghệ.

Nghệ An là vùng đất nổi tiếng về truyền thống hiếu học, ham học. Nơi

đây có nhiều dòng họ, nhiều làng học nổi tiếng, là cái nôi sản sinh cho đất

nước nhiều danh tướng, nhiều nhà khoa học, nhà văn hoá có tầm cỡ quốc gia

và quốc tế, đặc biệt là danh nhân văn hoá thế giới, anh hùng giải phóng dân

tộc Hồ Chí Minh.

Giàu có, học hành đỗ đạt là điều rất đáng trân trọng, khuyến khích,

nhưng với người dân xứ Nghệ - từ trong chiều sâu lịch sử cho đến tận ngày

nay - nhiều lúc càng nghèo đói lại càng ham học, thậm chí là học càng giỏi.

Hình tượng con cá gỗ của anh chàng xứ Nghệ ngày nào không chỉ là cái cười

đắng cay, chua chát về cái nghèo, cái khổ. Đằng sau đó là cả một sự quyết

tâm, là ý chí, là nghị lực phi thường, luôn luôn muốn bứt phá, tìm cách vượt

qua hoàn cảnh khó khăn để hướng tới tương lai tươi sáng.

Người ta mến mộ nơi đây không chỉ là mảnh đất của các anh hùng

hào kiệt, của những ông thầy đồ, mà còn bởi nơi đây là mảnh đất giàu

truyền thống văn hoá. Những làn điệu dân ca xứ Nghệ: Hát ví dặm, hát

phường vải, hò, vè mượt mà đằm thắm và sâu lắng làm say mê lòng

141

người. Nghệ An còn được biết đến với tư cách là xứ sở của những lễ, hội

cổ truyền diễn ra trên sông nước, như Lễ hội Cầu Ngư; Rước Hến; Đua

thuyền… có những lễ hội làm sống lại kỳ tích lịch sử được nâng lên thành

huyền thoại giàu chất sử thi đậm đà tính nhân văn như: Lễ hội Đền

Cuông, Lễ hội Mai Hắc Đế, Lễ hội Làng Vạn Lộc, Làng Sen v.v.. Còn ở

miền núi phía Tây Nghệ An cũng có không biết bao nhiêu là lễ hội, như:

Ham Bua; Xàng Khan, Lễ uống rượu cần.v.v.. Tất cả đã tạo nên nét văn

hoá dân gian phong phú đậm đà bản sắc dân tộc, mang đậm sắc thái của

chốn địa linh nhân kiệt trên vùng quê xứ Nghệ.

Nghệ An là một trong nhưng nơi ghi dấu ấn đầu tiên của phong trào cách

mạng vô sản ở Việt Nam với cao trào xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 - 1931, phong trào

này được coi là khởi nguồn của cách mạng vô sản trong cả nước.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nghệ An là quê hương của

phong trào “Tiếng hát át tiếng bom”, “Lương không thiếu một cân, quân

không thiếu một người”, “Tất cả cho Miền Nam ruột thịt”... để góp phần cùng

cả nước giành độc lập tự do cho Tổ quốc.

Với bao biến cố thăng trầm của lịch sử, với đặc điểm của điều kiện tự

nhiên và với bề dày về truyền thống văn hóa… tất cả đã tạo nên một số nét

nổi trội trong tính cách con người xứ Nghệ. Đó là con người giàu nghĩa khí,

tôn trọng đạo lý, có tính cộng đồng, nhân ái, nặng nghĩa tình; có ý chí mạnh

mẽ quyết tâm cao, cương trực, thẳng thắn, hiếu học, cần kiệm, giản dị. Những

đặc điểm nổi trội đó góp phần tạo nên tính cách con người xứ Nghệ, đó là: lý

tưởng trong tâm hồn, kiên trung trong bản chất, cứng cỏi trong giao lưu, nồng

nàn và nhiệt tình trong cuộc sống.v.v., Đây là những nét văn hóa, truyền

thống mang đậm bản sắc quê hương xứ Nghệ.

Vấn đề đặt ra ở đây là phải khơi dậy, làm sống lại những giá trị tinh thần

truyền thống tốt đẹp của người dân xứ Nghệ trong hoàn cảnh lịch sử mới;

142

phải tổ chức, động viên con em xứ Nghệ vươn lên, bứt phá, không ngừng

nâng cao trình độ, hăng hái tiến quân vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, tích cực và quyết tâm xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế

- xã hội hiện đại. Gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, tạo

nền tảng kinh tế - xã hội vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững

bước cùng cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Sau gần 30 năm đổi mới và gần 20 năm đất nước chuyển sang thời kỳ

phát triển mới, thời kỳ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đây là quá trình đòi hỏi một sự chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội trên cơ sở sử dụng một cách

phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên

tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công

nghệ nên đòi hỏi phải có nguồn lực con người phát triển về chất lượng, đảm bảo

về số lượng, hợp lý về cơ cấu.

So với nhiều địa phương trong cả nước, Nghệ An là một trong những tỉnh

có dân số đông, nguồn lực con người tương đối dồi dào, tuy nhiên chất lượng

của nguồn lực còn nhiều hạn chế; cơ cấu nguồn nhân lực vẫn còn những bất hợp

lý nhất định; khả năng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao nhìn chung chưa

thật hiệu quả; chưa phát huy hết tiềm năng của nguồn nhân lực tại chỗ phục vụ

sự nghiệp CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh v.v. những hạn chế này cần phải được

khắc phục sớm.

Để khắc phục những hạn chế trên , để có được nguồn lực con người đáp

ứng yêu cầu CNH, HĐH, tác giả luận án đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản

sau đây: Nhóm giải pháp về lĩnh vực giáo dục và đào tạo, huy động các nguồn

143

lực đầu tư để phát triển số lượng và chất lượng nguồn lực con người ở Nghệ

An hiện nay; nhóm giải pháp về công tác tuyển dụng, sử dụng, quy hoạch, sắp

xếp nguồn lực con người ở Nghệ An hiện nay và nhóm giải pháp về xây dựng

môi trường kinh tế- xã hội để phát triển số lượng và chất lượng nguồn lực con

người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nghệ An hiện nay.

144

KẾT LUẬN

Tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi

dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố

quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [27,

tr.21]. Gần đây trong Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn

2011-2020, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 12 tháng 4 năm

2012 cũng khẳng định “Con người là trung tâm của phát triển bền vững.

Phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu

và là mục tiêu của phát triển bền vững; đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu

cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước

giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Thực tiễn lịch sử đã và

đang chứng minh rằng coi trọng nhân tố con người và phát triển nguồn lực

con người - nhất là nguồn lực chất lượng cao - là bí quyết thành công của mỗi

quốc gia, dân tộc.

Hiện nay Việt Nam đang trong “kỷ nguyên dân số vàng”, có lực lượng

lao động hùng hậu, trẻ. Tuy nhiên tỷ lệ lao động qua đào tạo cũng chỉ chiếm

khoảng 40% tổng số lao động đang làm việc [36, tr.153]. Cũng như cả nước,

Nghệ An đã bước vào thời kỳ dân số vàng, trong khoảng 3 triệu công dân của

tỉnh, bình quân mỗi năm có thêm 33.000 lao động bổ sung vào khoảng 1,7

triệu lao động sẵn có. Tuy đông về số lượng, nhưng chất lượng cũng như cơ

cấu nguồn lực con người Nghệ An hiện nay nhìn chung chưa hoàn toàn đáp

ứng yêu cầu sự nghiệp CNH,HĐH, một quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện

các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội trên cơ sở

sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và

phương pháp tiên tiến, hiện đại. Quá trình này đòi hỏi phải có nguồn lực con

người phát triển về chất lượng, đảm bảo về số lượng, hợp lý về mặt cơ cấu.

145

Tuy đạt được những kết quả nhất định, nhưng trên thực tế việc phát

triển nguồn lực con người ở Nghệ An trong thời gian qua cũng còn không ít

vấn đề bất cập, cần phải giải quyết. Trong đó nổi lên mấy vấn đề chính sau

đây: Thứ nhất, mâu thuẫn giữa sự tăng nhanh về số lượng với sự phát triển

chậm về chất lượng nguồn lực con người - nhất là vùng nông thôn và miền

núi; thứ hai, cơ cấu nguồn lực con người chưa hợp lý, sắp xếp, sử dụng nguồn

lực đó còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu CNH,HĐH; thứ ba, những

khó khăn, hạn chế trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần; đảm bảo

dịch vụ y tế và các dịch vụ khác nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho

người dân.

Để khắc phục những bất cập xảy ra đối với việc phát triển nguồn lực con

người ở Nghệ An hiện nay, tác giả luận án đưa ra các quan điểm định hướng

để phát triển nguồn lực con người và đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản

sau đây: một, nhóm giải pháp về lĩnh vực giáo dục và đào tạo, huy động các

nguồn lực đầu tư để phát triển số lượng và chất lượng nguồn lực con người ở

Nghệ An hiện nay; hai, nhóm giải pháp về công tác tuyển dụng, sử dụng, quy

hoạch, sắp xếp nguồn lực con người ở Nghệ An hiện nay và ba, nhóm giải

pháp về xây dựng môi trường kinh tế- xã hội để phát triển số lượng và chất

lượng nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

Nghệ An hiện nay. Thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp trên đây sẽ tạo ra

tác động tích cực, cùng chiều đối với vấn đề phát triển nguồn lực con người

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

146

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Tùng (2011), "Giảng dạy triết học Mác - Lênin với việc

trang bị thế giới quan duy vật - phương pháp luận biện chứng cho

SV ở trường Cao đẳng", Thông tin khoa học kinh tế - kỹ thuật,

Trường cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật Nghệ An, (2).

2. Nguyễn Thị Tùng (2012), "Phát triển nguồn lực đáp ứng yêu cầu CNH,

HĐH", Tạp chí Lý luận chính trị, (10).

3. Nguyễn Thị Tùng (2012), "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với

phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay", Tạp

chí Giáo dục lý luận, (9).

4. Nguyễn Thị Tùng (2012), "Một số giải pháp cơ bản để nâng cao văn hóa

lối sống cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay", Thông tin khoa học

kinh tế - kỹ thuật, Trường cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Nghệ An, (4).

5. Nguyễn Thị Tùng (2013), "Vai trò của văn hóa đời sống trong việc giáo

dục lối sống mới cho sinh viên hiện nay", Thông tin khoa học kinh tế

- kỹ thuật, Trường cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Nghệ An, (5).

6. Nguyễn Thị Tùng (2013), "Tăng cường công tác giáo dục lý tưởng, đạo

đức cho Sinh viên hiện nay", Thông tin khoa học kinh tế - kỹ thuật,

Trường cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Nghệ An, (6).

7. PGS. TS Trần Sỹ Phán - Nguyễn Thị Tùng (2013), "Một số giải pháp cơ

bản để phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí

Cộng sản, (12).

8. Nguyễn Thị Tùng (2014), "Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn lực

con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước"

Thông tin khoa học kinh tế - kỷ thuật, Trường đại học kinh tế - Nghệ

An, (6).

147

9. Nguyễn Thị Tùng (Thành viên) (2012) Nghiên cứu đề xuất giải pháp

nâng cao chất lượng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc các đoàn thể ở Nghệ An, Đề tài cấp tỉnh, Nghệ An.

10. Nguyễn Thị Tùng (2014), "Vấn đề phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nước

ta hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (3).

11. Nguyễn Thị Tùng (2014), Tính tích cực xã hội của người lao động trong

việc phát triển lực lượng sản xuất công nghiệp ở Nghệ An hiện nay,

Đề tài sáng kiến kinh nghiệm cấp tỉnh, Nghệ An.

12. PGS. TS Trần Sỹ Phán - Nguyễn Thị Tùng (2014), "Nguồn lực con

người trong lực lượng sản xuất ở Nước ta hiện nay", Tạp chí Giáo

dục lý luận, (219).

148

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Ngọc Ánh (1995) “Nguồn lực con người trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (2).

2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (2006), Nghị quyết số 04

NQ/TU ngày 11/7/2006 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI

về chương trình phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2006 - 2010.

3. Hoàng Chí Bảo (1993), “Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy

nguồn lực con người ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (1).

4. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Báo Lao động, ngày 9, 10 tháng 4-2014.

6. Nguyễn Duy Bắc (Chủ biên) (2008), Xây dựng và phát triển con người

Việt Nam trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

gắn với phát triển kinh tế tri thức, Đề tài cấp Bộ, Viện Văn hóa và

phát triển, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

7. Nguyễn Thúy Cầm (2009), Phát huy nhân tố con người trong thời kỳ đổi

mới ở tỉnh Quảng Bình hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

8. Chu Văn Cấp (2012), "Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển

kinh tế xã hội nhanh và bền vững", Tạp chí Khoa học chính trị, (2).

9. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng

yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

10. Nguyễn Trọng Chuẩn (1994), “Nguồn nhân lực trong công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Triết học, (2).

149

11. Nguyễn Trọng Chuẩn (2001), "Tạo dựng nguồn lực cho sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Cộng sản, (14).

12. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (2002), Công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Phùng Minh Chức (1998) “Vai trò của nhân tố chủ quan trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (1).

14. Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX05 (2003), Nghiên

cứu văn hóa con người, nguồn nhân lực thế kỷ XXI, Kỷ yếu hội thảo

quốc tế, Hà Nội.

15. Cục Thống kê Nghệ An (2010), Niên giám thống kê 2009, Công ty cổ

phần in và phát hành biểu mẫu Nghệ An.

16. Cục Thống kê tỉnh Nghệ An (2012), Niên giám thống kê năm 2012,

Nghệ An.

17. Cục Thống kê Nghệ An (2014), Niên giámThống kê Nghệ An năm 2013,

Nxb Nghệ An.

18. Đỗ Văn Dạo (2009), “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta

hiện nay”, Tạp chí Tuyên giáo, (10).

19. Nguyễn Duy, "Thủ khoa 28,5 điểm tiếp tục đỗ Học viện Cảnh sát Nhân

dân", http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/thu-khoa-285-diem-

tiep-tuc-do-hoc-vien-canh-sat-nhan-dan-929799.htm.

20. Nguyễn Hữu Dũng (2002), "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập

kinh tế quốc tế", Tạp chí Lý luận chính trị, (8).

21. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực con người

ở Việt Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

22. Phan Xuân Dũng (1997), "Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Cộng sản, (17).

150

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban

Chấp hành Trung ương khóa VII, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban

Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban

Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới

(Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp

hành Trung ương khóa khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

151

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), "Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban

Chấp hành Trung ương khóa XI", Báo Điện tử Đảng Cộng sản,

ngày 7/11/2013.

38. Trần Bạch Đằng (2002), "Hướng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (9).

39. Phạm Thị Hồng Điệp (2008), “Nguồn lực con người và phát triển nền

kinh tế tri thức”, Tạp chí Khoa học Xã hội, Hà Nội.

40. Phạm Văn Đồng (1999), Vấn đề giáo dục đào tạo, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

41. Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực

trong điều kiện mới, Đề tài KX. 07- 14, Hà Nội. 42. Ninh Viết Giao (2003), Về văn hoá xứ Nghệ, Nxb Nghệ An. 43. Phạm Tất Giá (2004), Những xu thế phát triển đại học trong xu thế hiện

đại, (Tổng luận), Tư liệu thông tin khoa học xã hội.

44. Võ Văn Giảng (2001) “Thực trạng và giả pháp đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1).

45. G.B.Hainsworth (2001), Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt

Nam 15 năm đổi mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.

46. “Hạ nhiệt ngành hót” (2012), Báo Lao động, ngày 27-12-2012. 47. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Phạm Minh Hạc (1997), Giáo dục nhân cách đào tạo nhân lực (góp phần triển khai Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Trương Hạo Hàm, Hoàng Duy (2013), Nhân tài nguồn tài nguyên số 1,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

152

51. Hà Thị Hằng (2013), Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại

hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

52. Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu (1996), Tôn trọng trí thức tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước, Nxb Nhân dân Thượng Hải ấn hành, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Nguyễn Đình Hòa (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (01).

54. Nguyễn Minh Hoàn (2009), Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55.

Dương Anh Hoàng (2008), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đà Nẵng, Luận án tiến sĩ Triết học.

56. Nguyễn Thế Huệ (2004), “Vấn đề dân số và nguồn nhân lực vùng dân

tộc thiểu số nước ta”, Tạp chí Cộng sản, (9).

57. Chu Trọng Huyên (2004), Tìm hiểu tính cách người Nghệ, Nxb Nghệ An. 58. Nguyễn Văn Huyên (2001), "Mấy vấn đề đặt ra đối với việc nghiên cứu

con người ở Việt Nam", Tạp chí Triết học, (05).

59. Nguyễn Thị Giáng Hương (2013), Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

60. Nguyễn Thị Mỹ Hương (2006), “Những bất cập trong quá trình phát triển nguồn nhân lực ở Nghệ An hiện nay”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (10), tr.42.

61. Nguyễn Thị Mỹ Hương và Lê Thị Thu Hà (2008), “Đào tạo công nhân kỹ thuật bậc cao ở tỉnh Nghệ An hiện trạng và giải pháp”, Tạp chí Lý luận và truyền thông, (01), tr.36.

62. Nguyễn Thị Mỹ Hương (2009), “Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Nghệ An trong bối cảnh hội nhập: Những vấn đề đáng lưu tâm”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, (274+275), tr.32.

153

63. Nguyễn Thị Mỹ Hương (2010), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Nghệ An đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ.

64. Trần Thị Thu Hường (2014), "Phát huy nguồn lực con người trong xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở nước ta hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận, (208).

65. Xuân Hường (2010), “Nguồn nhân lực Nghệ An’’, http//www.nghean.

business.gov.vn.

66. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 67. Nguyễn Văn Khánh (Chủ biên) (2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 68. Nguyễn Thế Kiệt (2008), “Xây dựng con người phát triển nâng cao chất

lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (6).

69. Nguyễn Thế Kiệt (2009), Triết học Mác - Lênin với việc xác định con đường và động lực đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục-

đào tạo - Kinh nghiệm Đông Á, Nxb Khoa học - Xã hội, Hà Nội.

71. V.Lênin (1980), Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 72. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 73. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, Tập 35, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 74. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 75. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 76. Trương Gia Long (2002), "Vấn đề phát huy nguồn lực con người ở nước

ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (01).

77. Phạm Quý Long (2008), Quản lý nhân lực ở doanh nghiệp Nhật Bản và

bài học cho doanh nhân Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

154

78. Bùi Sỹ Lợi (2002), Phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010, Luận án tiến sĩ

Kinh tế.

79. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

80. C.Mác - Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

85. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

86. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

87. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

88. C.Mác - Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

89. C.Mác và Ph Ăngghen (2000), Toàn tập, Tập 44, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

90. Lê Thị Mai (2005), Phát triển nguồn lực con người trong sự công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

91. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Hồng Minh (2014), "Không sớm lo sẽ mếu vì vàng", Báo Pháp luật Việt

Nam, ngày 27-3-2014.

155

95. Nguyễn Văn Nam (Chủ nhiệm) (2005), Những giải pháp phát huy nguồn

lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

thành phố Đà Nẵng, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III.

96. Nguyễn Thế Nghĩa (2007), Những chuyên đề Triết học (dành cho cao

học và nghiên cứu sinh), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

97. Phạm Thành Nghị và Vũ Hoàng Ngân (Chủ biên) (2004), Quản lý nguồn

nhân lực ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

98. Phạm Thành Nghị (2006), Nâng cao hiệu quản quản lý nguồn nhân lực

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

99. Trần Cao Nguyên (2014), "Phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc

thiểu số ở các huyện miền Tây Nghệ An trong thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Giáo dục lý luận, (208).

100. Phạm Công Nhất (2007), Phát huy nhân tố con người trong lực lượng

sản xuất ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

101. Phạm Công Nhất (2008), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng

yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng sản, (7/151).

102. Minh Nhung, "Đã đến lúc quan tâm đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh

tế", http://tinnhanhchungkhoan.vn/dau-tu/da-den-luc-quan-tam-den-

chuyen-dich-co-cau-nganh-kinh-te-98330.html.

103. Phạm Quang Phan (Chủ biên) (2002), Những vấn đề cơ bản về kinh tế tri

thức, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

104. Lê Dung Phong (Chủ biên) (2006), Nguồn lực và động lực phát triển

trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

105. Thanh Phong (2012), "Cảnh báo "lỗi" "hệ thống" - thực trạng học tập thi

cử", Báo Lao động, ngày 2-8-2012, tr.2.

156

106. Lê Văn Phục (2010), "Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực phát triển

cao của một số nước trên thế giới", Tạp chí Lý luận chính trị, (6).

107. Nguyễn Văn Phúc, Mai Thị Thu (Đồng chủ biên -2012), Khai thác và

phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

108. Hồ Sĩ Quý (2007), Con người và phát triển con người, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 109. W.J.Rothwell (2010), Chuyển hóa nguồn nhân lực, Nxb Kinh tế quốc

dân, Hà Nội.

110. Nguyễn Văn Sơn (2002), Tri thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

111. Sở Kế hoạch đầu tư Nghệ An (2008), Báo cáo tổng kết 1/12 về ngân

hàng dữ liệu tỉnh Nghệ An, Nghệ An.

112. Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An (2009), có Báo cáo cơ cấu trình độ lao

động công nghiệp Nghệ An.

113. Tạp chí Cộng sản (2013), "Về các giải pháp cơ bản phát triển nguồn nhân

lực hiện nay", (854).

114. Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 115. Phạm Thanh (2014), "Cử nhân thất nghiệp tràn lan, doanh nghiệp vẫn

“khát” nhân lực", Dantri.com.vn/Prin-856812.htm, ngày 1-4-2014.

116. Đinh Trung Thành, Nguyễn Thị Bông (2008), “Những bất cập trong quá trình phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nghệ An”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (4), tr.59.

117. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn nhân lực con người để công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

118. Nguyễn Văn Thiện (2001), Phát huy nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn qua thực tế tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

157

119. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 579/QGG-TTg ngày 19-4-

2011 phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ

2011-2020, Hà Nội.

120. Mạc Văn Tiến (2005), An sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực, Nxb

Lao động - Xã hội, Hà Nội.

121. Tỉnh ủy Nghệ An (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện nhị quyết

06 NQ/TU Ban chấp hành Đảng bộ Nghệ An và phát triển công

nghiệp, xây dựng làng nghề 2001 - 2010, Nghệ An.

122. Đặng Hữu Toàn (2013), "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020", Tạp chí Phát triển

nhân lực, (3).

123. Lê Văn Toàn (1992), Kinh tế các nước Nic Đông Nam Á - kinh nghiệm

đối với Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.

124. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn (1999), Phát triển con người:

từ quan niệm đến chiến lược và hành động, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

125. Trung tâm Thông tin FocoTech (2000), Nhân lực Việt Nam trong chiến

lược kinh tế 2001 - 2010, Nxb Chính trị, Hà Nội.

126. Đào Tuấn (2012), “Không để sinh viên thất nghiệp”, Báo Lao động,

ngày 15-12-2012.

127. Tạ Văn Tú (2008), Phát huy nguồn nhân lực trí thức trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóaở tỉnh Quảng Ninh hiện nay, Luận

văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh.

128. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2008), Báo cáo tổng kết quy hoạch tổng

thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An 2010-2015.

129. Uỷ ban nhân dân thành phố Vinh (2008), Báo cáo tổng kết quy hoạch

tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Vinh 2010 - 2015.

158

130. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2010), Quyết định số 65/2010/QĐ-

UBND ngày 26/8/2010 về chính sách thu hút nhân lực chất lượng

cao được đào tạo ở trong nước về công tác ở tĩnh. Đấy là quyết

định được áp dụng trong các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc,

hành chính nhà nước, sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị - xã hội

các cấp trên địa bàn tỉnh.

131. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2010), Quyết định số 65/2010/QĐ -

UBND ngày 26 - 8 - 2010 về chính sách thu hút nhân lực cao được

đào tạo trong nước về công tác ở tỉnh.

132. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2011), Đề án quy hoạch phát triển nhân

lực tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011- 2020.

133. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An - Sở Công thương (2011), Điều chỉnh bổ

sung quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011

- 2020, Nghệ An.

134. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2012), Báo cáo tình hình kinh tế- xã hội

năm 2012 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013.

135. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2012), Đề án phát triển đội ngũ công chức,

viên chức tỉnh Nghệ An giai đoạn 2012- 2015 có tính đến 2020.

136. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2012), Đề án đào tạo lao động kỹ thuật

tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011- 2015 có tính đến 2020.

137. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2013), Quyết định 57/2013/QĐ-UBND,

ngày 4/10/2013 “Ban hành Quy định một số chính sách thu hút

nguồn nhân lực chất lượng cao và ưu tiên trong tuyển dụng công

chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Nghệ An”.

138. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2013), Quyết định số 486/QĐ-UBND,

ngày 04/02/2013 về việc phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ công

chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2013-2015, có

tính đến 2020, Nghệ An.

159

139. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An (2013), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội

năm 2013 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2014.

140. Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Nghệ An (2014), Tổng kết lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới nông nghiệp, nông thôn tỉnh Nghệ An.

141. Nguyễn Xuân Vinh (2010), Luận cứ khoa học của chiến lược phát triển

đào tạo Nghề ở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ.

142. Đức Vượng (2012), "Thực trạng và giải pháp về phát triển nhân lực Việt Nam", http://www.nhanlucnhantai.com, ngày 13/11/2012. 143. Website: "Nghệ An thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao",

http//www.ngheanbusiness.gov.vn, ngày 20/7/2010.

144. Website: "Sinh viên thất nghiệp gia tăng, đào tạo không còn theo nhu cầu

xã hội"tsc.edu.vn/a rticledetai.qspx?sitei=1&sitepageid=48&a

rticleid=36

145. Website: Dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/giat-minh…70658.htm, ngay

18-3-2013.

146. Website: "Cẩm-nang-việc-làm/tin túc-việc làm-chất lượng-nguồn-nhân-

lực", dantri.com, thứ hai, ngày 07-1-2013 - 2:02PM.

147. Website: "Chỉ số HDI của Việt Nam không ngừng cải thiện",

http://www.gopfp.gov.vn/so-12-129.

148. Website: "Báo cáo phát triển con người 2013 của chương trình phát triển Liên Hợp quốc UNDP", http://ihs.vass.gov.vn/noidung/tintuc, ngày 3-7-2013. 149. Website: http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/mot-lop-mien-nui-o-

nghe-an-co-3-hoc-sinh-do-thu-khoa-dai-hoc-926866.htm.

150. Website: http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/mot-lop-hoc-o-mien-

nui-co-100-hoc-sinh-do-dai-hoc-928755.htm.

151. Ngô Đình Xây (2001), "Để có thể phát triển khoa học công nghệ ở các tỉnh miền núi phía Bắc”, Tạp chí Hoạt động khoa học, (1).

160

152. Ngô Đình Xây (2002), "Những yêu cầu đối với tri thức trong sự nghiệp

công nghiệp hóa”, Tạp chí Cộng sản, (27).

153. Ngô Đình Xây (2003), “Một số suy nghĩ về nâng cao dân trí phát triển

giáo dục các tỉnh Bắc Cạn”, Tạp chí Công tác Khoa giáo, (12).

154. Ngô Đình Xây (2004), "Quan niệm về tài năng và sử dụng tài năng trong

tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa giáo, (5).

155. Nguyễn Thị Hải Yến (2008), Hợp tác xã kiểu mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Nghệ An, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

161

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2005-2010 và 2011-2013

Đơn vị: triệu đồng

Tăng trưởng trung

2013

bình (% năm)

(theo giá so

Ngành

2005

2010

2006-

sánh 2010)

2011-2013

2010

Tăng trưởng toàn nền kinh

16.919.295

84.748.098

106.998.380

80,2

8,75

tế

I. Nông - Lâm nghiệp và

5.784.707

22.513.619

25.868.595

57,8

4,97

Thuỷ sản

II. Công nghiệp và xây

5.147.986

37.507.046

48.941.476

125,7

10,16

dựng

2.1. Khai khoáng

332.113

1.351.772

1.218.229

61,4

-3,29

2.2. Công nghiệp chế biến,

2.261.621

15.458.779

22.507.538

116,7

15,20

chế tạo

2.3. sản xuất và phân phối

539.381

2.319.207

109,99

điện, khí đốt, nước nóng, hơi

nước và điều hòa không khí

162.202

61,8

2.4. Cung cấp nước, hoạt

124.082

157.463

8,97

động quản lí và xử lí rác thải,

nước thải

2.392.050

20.033.032

22.739.039

147,5

4,50

2.5. Xây dựng

5.986.620

24.727.433 32.188.309

62,6

10,06

III. Dịch vụ

3.1. Bán buôn và bán lẻ; sửa

1.730.985

5.590.694

6.928.358

44,6

7,98

chữa ô tô, mô tô, xe máy và

xe có động cơ khác

389.147

3.043.520

3.747.716

136,4

7,71

3.2. Dịch vụ lưu trú và ăn uống

2.548.522

3.394.715

11,07

3.3. Vận tải, kho bãi

745.338

77,2

3.4. Thông tin và truyền

1.074.537

1.759.323

21,24

thông

240.340

1.152.972

1.541.690

75,9

11,24

3.5. Hoạt động tài chính,

ngân hàng và bảo hiểm

3.6. Hoạt động chuyên môn

27.702

341.515

480.835

226.6

13,60

khoa học và công nghệ

3.7. Các hoạt động kinh

3.085.977

3.400.634

3,40

doanh bất động sản

770.492

69,1

3.8. Hoạt động hành chính và

348.457

475.581

12,16

dịch vụ hỗ trợ

3.9. Hoạt động của Đảng

Cộng sản, tổ chức chính trị,

934.155

3.710.410

5.049.288

59,4

12,03

xã hội, quản lí NN, đảm bảo

bắt buộc

718.294

2.115.897

3.031.335

38,9

14,42

3.10. Giáo dục và đào tạo

346.747

1.282.603

1.793.513

54,0

13,28

3.11. Y tế và cứu trợ xã hội

3.12. Nghệ thuật, vui chơi

59.685

251.029

333.347

64,1

10,93

giải trí

23.717

171.629

238.347

124,7

12,96

3.13. Hoạt động dịch vụ khác

3.14 Hoạt động làm thuê công

việc trong các hộ gia đình, sản

-

9.671

13.569

-

13,44

xuất sản phẩm vật chất, dịch vụ

tiêu tự tiêu dùng của hộ

Nguồn: Niên giám thống kê 2005 - Cục Thống kê 2006 [15, tr.36-38].

Niên giám thống kê 2013- Cục thống kê Nghệ An 2014 [17, tr.57-58].

162

163

Phụ lục 2

Quy mô dân số và lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh

Nghệ An giai đoạn 2005-2013

Đơn vị: người

TT

2005

2010

Tăng trưởng trung bình(% năm)

Chỉ tiêu

2013 (sơ bộ)

2006-2010

2011-2013

số

trung

1

3.030.946

2.928.717

2.978.705

-0,67

0,57

1.484.876 1.546.070 323.326 2.707.620

1.453.706 1.475.011 383.997 2.544.720

1.478.200 1.500.505 445.155 2.533.550

-0,42 -0,92 3,75 -1,20

0,56 0,58 5,31 -0,15

2

1.782.029

1.752.133

1.920.399

-0,34

3,20

58,8

59,8

64,5

lượng

lao

3

1.547.931

1.717.943

1.898.851

2,20

3,51

752.918 795.013

849.076 868.867

944.610 954.241

2,55 1,86

3,75 3,28

Dân bình Nam Nữ Thành thị Nông thôn Dân số trong độ tuổi lao động Tỷ lệ dân số % Lực động Chia theo giới tính Nam Nữ Chia theo khu vực Thành thị Nông thôn

- -

197.871 1.520.072

235.104 1.663.747

6,27 3,15

Nguồn: Niên giám thống kê 2005 - Cục Thống kê 2006 [15, tr.22, 25, 27].

Niên giám thống kê 2013- Cục thống kê Nghệ An 2014 [17, tr.34, 41, 43].

Phụ lục 3: Tỷ trọng dân số, tỷ lệ phụ thuộc

Đơn vị tính:%

TT 1 2 3 4 5 6 7

1999 66.71 11.23 77.94 37.49 6.31 77.94 23.08

2009 38.48 10.88 49.63 25.77 6.6 49.36 38.28

NỘI DUNG Tỷ lệ phụ thuộc trẻ em (0 - 14) Tỷ số phụ thuộc người già (65+) Tỷ số phụ thuộc chung Tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi Tỷ trọng dân số từ 15- 64 tuổi Tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên Chỉ số già hoá

Nguồn: Tổng điều tra dân số tỉnh Nghệ An 1.4. 2009.

164

Phụ lục 4

Lực lượng lao động theo trình độ học vấn giai đoạn 2001 - 2010

Đơn vị: 1.000 người

2001

2005

2010

Chỉ tiêu

%

%

%

Số người 1.198.000

Số người 1.467.536

Số người 1.626.828

100,0

100,0

100,0

0,23

2.755

0,21

3.082

0,12

1.952

I. Tổng số Chưa biết chữ

Chưa tốt nghiệp tiểu học

3,63

43.487

3,21

47.108

2,52

40.996

17,75

212.645

15,25

223.799

11,32

184,157

56,30

674.474

53,12

779.555

55,65

905.330

22,09

264.638

28,21

413.992

30,39

494.393

500.878

100,0

499.414

100,0

476.109

100,0

0,34

1.708

0,35

1.757

0,20

957

Tôt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp THCS Tốt nghiệp THPT A. Nông lâm nghiệp & Thuỷ sản Chưa biết chữ

Chưa tốt nghiệp tiểu học

6,34

31.746

5,75

28.736

3,87

18.448

27,60

138.219

26,44

132.042

15,86

75.504

52,52

263.045

48,39

241.662

55,14

262.546

13,21

66.160

19,07

95.218

24,92

118.654

179.056

100,0

182.829

100,0

196.737

100,0

0,18

331

0,17

308

0,09

176

Tôt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp THCS Tốt nghiệp THPT B. Công nghiệp & Xây dựng Chưa biết chữ Chưa tốt nghiệp tiểu học

3,64

6.523

3,35

6.124

2,50

4.920

20,07

35.937

15,89

29.049

7,29

14.346

63,17

113.109

60,80

111.165

65,39

128.647

12,93

23.156

19,79

36.183

24,73

48.648

100,0

518.066

100,0

785.293

100,0

953.982

0,14

716

0,13

1.017

0,09

820

Tôt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp THCS Tốt nghiệp THPT C. Dịch vụ Chưa biết chữ Chưa tốt nghiệp tiểu học

1,01

5.218

1,56

12.248

1,85

17.628

7,43

38.489

7,99

62.709

9,89

94.307

57,58

298.320

54,34

426.728

53,89

514.137

33,84

175.323

35,99

282.591

34,29

327.090

Tôt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp THCS Tốt nghiệp THPT

Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở Tỉnh Nghệ An 1.4.2009 và tính toán của

BCN đề án.

165

Phụ lục 5

Dự báo cán bộ y tế chủ yếu của tỉnh đến 2015

Đơn vị: người

2010

2015

Nội dung

Bổ sung(*)

Tổng số cần

Số cần bổ sung

Tỷ lệ/vạn dân

Số lượng cần

Số lượng năm 2010

Chỉ tiêu/ vạn dân

Số cần đào tạo hàng năm

(1)

(2)

(4)

(5)

(6)=(4)+(5)

(3)

(8)=(7)/5

(7)=(6)- (2)

5,9

1728

7

2132

166

832

2196

64

64

4,65 1,25 0,17

1364 364 51

5,5 1,5 1,5

1675 457 456

75 91 84

375 93 418

1739 457 469

13

0,16

47

54 30

267 151

314 155

9 4

1 0,5

Bác sỹ Trong đó Trong công lập Ngoài công lập Dược sỹ đại học Trong đó Trong công lập Ngoài công lập

305 151 Nguồn: Bảng 15a1,Trang 69 Đề án.

Ghi chú: (*) bổ sung về hưu, chuyển =3% của số lượng cần 2015

(4) = (3) x Dân số 2015/1 vạn dân.

Phụ lục 6

Dự báo cán bộ y tế của tỉnh đến năm 2020

Đơn vị: người

2020

Nội dung

Bổ sung(*)

Tổng cần có

Số cần bổ sung

Số lượng cần

Số cần đào tạo hàng năm

Chỉ tiêu/ vạn dân 10

3180

86

3266

1070

214

8,5 1,5 2,2

2703 477 700

78 8 21

2781 485 721

1042 28 252

208 6 84

1,5 0,7

477 223

14 7

491 230

186 66

38 46

Bác sỹ Trong đó Trong công lập Ngoài công lập Dược sỹ đại học Trong đó Trong công lập Ngoài công lập

Nguồn: 15a2 Trang 69 Đề án.

166

Phụ lục 7

Cơ cấu theo nhóm tuổi của lực lượng lao động năm 2010

Đơn vị: Người %

Nông thôn

Tổng số

Thành thị

Nhóm tuổi

%

%

%

Số người

Số người

Số người

1.974.218

100.00

341.935

100.00

1.632.284

100.00

Tổng số

15 -19

365.985

18.54

55.538

16.24

310.446

19.03

20 -24

268.484

13.65

54.450

15.92

215.034

13.16

25 -29

232.923

11.80

41.509

12.14

191.414

11.73

30 -34

222.957

11.29

37.383

10.93

185.573

11.37

35 -39

215.572

10.92

33.164

9.70

182.048

11.18

40 -44

199.166

10.09

29.682

8.68

169.485

10.39

45 -49

196.172

9.94

35.012

10.24

161.160

9.87

50 -54

155.443

7.87

31.098

9.09

124.345

7.61

55 - 59

116.516

5.90

24.099

7.05

92.417

5.66

Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh Nghệ An và tính toán của BCN đề án.

Phụ lục 8

Số học viên tốt nghiệp hàng năm giai đoạn 2006-2013

Đơn vị: người, %

2006

2010

2013

Bậc đào tạo

31.150

66.000

84.000

23.990

53.500

70.500

Tổng số + Sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên

7.160

9.000

9.000

+ Trung cấp nghề

3.500

4.500

+ Cao đẳng nghề

100,0

100,0

100,0

77,01

81,06

83,92

Tỷ lệ(%) + Sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên

22,99

13,64

10,71

+ Trung cấp nghề

0,00

5,30

5,37

+ Cao đẳng nghề

Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở Nghệ An và tính toán của BĐA.