BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG
-----------------------------
MAI QUỲNH PHƯƠNG
PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU BỀN VỮNG
CỦA TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành : Kinh doanh Thương mại
Mã số : 9.34.01.21
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Hà Nội, 2025
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG
THƯƠNG
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguyễn Hoàng Long
2. TS. Lâm Tuấn Hưng
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp Viện
Vào hồi:.........ngày........tháng.... năm 202...
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- T viện Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công
Thương
HÀ N I, 2025
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết và ý nghĩa của nghiên cứu
Hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia i chung các địa phương
nói riêng như tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách nhà nước, mở rộng thị trường
đến những nơi mà các nhà sản xuất nội địa khó có thể tiếp cận, tạo sự cạnh tranh giữa hàng hóa nội địa và ngoại
nhập… Bên cạnh những tác động tích cực, hoạt động XNK cũng có nhiều tác động tiêu cực không nhỏ đến đến
đời sống, kinh tế, hội, môi trường, đặc biệt đối với các nước đang kém phát triển. Hoạt động xuất khẩu
(XK) phát triển quá nhanh, đặc biệt XK các nguồn nguyên liệu không tái tạo, nguyên liệu thô chế dẫn
đến cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên hủy hoại tài nguyên môi trường một cách nghiêm trọng… Không chỉ
những tác động tiêu cực đối với hoạt động XK, việc nhập khẩu (NK) những dây chuyền sản xuất lạc hậu, những
sản phẩm không thân thiện với môi trường cũng góp phần làm ô nhiễm môi trường và tạo gánh nặng cho xã hội.
Những dấu hiệu về sự phát triển không bền vững đang thách thức lớn đối với mỗi quốc gia, mỗi địa phương
khi tham gia vào hoạt động XNK. Phát triển bền vững (PTBV) là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện
tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai. Với quan điểm đó,
PTBV đòi hỏi sự lồng ghép 3 vấn đề bản phát triển kinh tế, đảm bảo công bằng hội bảo vệ môi
trường (BVMT). PTBV chủ trương, mục tiêu quan trọng xuyên suốt trong các văn kiện tài liệu của Đảng,
chiến lược chính sách của Việt Nam. PTBV xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của hội, một lựa
chọn mang tính chiến lược. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thương mại nói chung hoạt động XNK
nói riêng được coi lĩnh vực tiên phong, đi trước mở đường cho các hoạt động quan hngoại giao chính thức
giữa các quốc gia. Hoạt động XNK đóng vai trò quan trọng, chủ lực trong quá trình phát triển kinh tế của các
quốc gia, các địa phương trên toàn thế giới. Phát triển XNK là con đường nhanh nhất để khai thác những lợi thế
của quốc gia, của địa phương, đẩy nhanh quá trình CNH- HĐH đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân, hướng tới mục tiêu phát triển lâu dài là PTBV.
Trong những năm gần đây, vấn đề PTBV nói chung PTXNKBV nói riêng đã đang chủ đề được
quan tâm hàng đầu trong bối cảnh hội nhập khu vực toàn cầu hóa bởi quyết định sự đến sự phát triển an
toàn, bền lâu cho mỗi quốc gia và cho thế hệ con cháu trong tương lai. PTBV là mục tiêu phấn đấu của mỗi một
quốc gia, mỗi một địa phương, trong đó PTXNKBV được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, mũi nhọn
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. PTXNKBV là vấn đề cấp bách, thu hút sự quan tâm của Nhà nước, các
tổ chức, doanh nghiệp (DN) mọi thành viên trong hội. Các quốc gia, các địa phương cần phải xây dựng
chiến lược, chính sách PTXNKBV theo thực lực lợi thế của riêng mình, tránh được sự phụ thuộc quá nhiều
vào tài nguyên thiên nhiên, hạn chế ô nhiễm môi trường nước không khí. Song song với đó những hoạt
động thực tế của chính những DN XNK để làm tăng quy giá trị hàng hóa XK; NK những hàng hóa
hàm lượng KHCN cao, góp phần và sự tăng trưởng ổn định cho nền kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân của quốc gia đó, của địa phương. Tại Việt Nam, PTXNKBV được triển khai từ những năm đầu thế kỷ
21 tiếp tục được khẳng định vị trí, định hướng, mục tiêu trong chiến lược XK hàng hóa của Việt Nam đến
năm 2030 theo Quyết định số 493/QD-TTg ngày 19/4/2022. Theo đó, nội hàm PTXNKBV phải được tiếp cận
gắn với lộ trình phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh việc thực hiện các hiệp định thương mại,
các cam kết giảm phát thải ròng đến năm 2050 về không. Đồng thời xác lập các yêu cầu phải đổi mới sáng tạo
trong xây dựng, triển khai chính sách, chế quản (nhà nước TW, địa phương) nâng cao hiệu quả XNK
bền vững của từng địa phương, từng nhóm ngành hàng.
Với diện tích tự nhiên 11.114,6 km2 dân số trên 3,64 triệu người, Thanh Hóa tỉnh rộng thứ 5 cả
nước đứng thứ 3 về dân số. Thanh Hóa điều kiện địa thuận lợi để phát triển kinh tế với vị trí mở, cửa
ngõ vào Nam ra Bắc cũng điểm dừng chân trên đường hàng hải quốc tế. Thanh Hóa cảng quốc tế Nghi
Sơn, sân bay Thọ Xuân; hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển với 01 khu kinh tế, 08 KCN tổng diện tích hơn
5
2.000 ha, 45 CCN, dẫn đầu miền Trung trong thu hút đầu tư nước ngoài. Thanh Hóa còn nguồn lực lao động
dồi dào với trình độ tương đối cao (~ 2,1 triệu lao động năm 2023). Tất cả các yếu tố đó tạo ra tiền đề thuận lợi
để hoạt động thương mại nói chung hoạt động XNK nói riêng của tỉnh phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn
hơn 12 năm vừa qua (2012-2023), hoàn thành phần lớn các mục tiêu đề ra, duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn
định. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động XNK trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa vẫn được nhận định phát
triển mức dưới tiềm năng phát triển không bền vững khi thâm hụt cán cân thương mại diễn ra trong suốt
7/12 năm của giai đoạn nghiên cứu (từ 2018 đến 2023 với mức bình quân thâm hụt lên tới 2.146 USD/năm); tốc
độ tăng trưởng XNK so với tốc độ tăng trưởng GRDP chỉ đạt 1,07 lần thấp hơn nhiều so với tỷ lệ tiêu chuẩn
từ 2-2,5 lần đối với nền kinh tế dựa vào XK.
Về thuyết, PTXNKBV của địa phươngvị trí, vai trò cùng quan trọng với phát triển triển khai
hình tăng trưởng kinh tế bền vững. Tuy nhiên sở thuyết nội hàm của gì, tiêu chí đánh giá
các nhân tố tác động còn chưa được nhiều các nhà nghiên cứu triển khai, do vậy việc nghiên cứu vấn đề này
trong giai đoạn hiện nay cùng cần thiết. Về thực tiễn, kết quả kinh doanh XNK, những thời cơ, đe dọa với
XNK của Việt Nam nói chung với các địa phương nói riêng còn chưa được chỉ rõ. Trong khi tiềm năng
các nguồn lực cho phát triển kinh doanh XNK của tỉnh Thanh Hóa vẫn chưa được khai thác hiệu quả định
hướng các chính sách, kế hoạch phát triển của tỉnh đã được đầu trong nhiều năm qua. Trong bối cảnh đó,
để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, hội, PTXNKBV của tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn đến năm
2030, việc nghiên cứu để tìm kiếm những giải pháp giúp cho hoạt động XNK của tỉnh phát triển tương xứng với
tiềm năng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn đảm bảo được tính bền vững, góp phần đẩy nhanh sự
nghiệp CNH - HĐH hội nhập kinh tế quốc tế của của đất nước hết sức cần thiết. Vấn đề này cần được
nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện nhằm xác định các luận cứ khoa học xác đáng để cập nhật trong quá
trình hoạch định, triển khai, kiểm soát điều chỉnh những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả PTXNKBV,
góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hoá nói riêng và của cả nước những năm tiếp theo.
Bênh cạnh đó, nguy chiến tranh thương mại xảy ra, hoạt động XNK nói chung XK nói riêng thể
đối mặt với nguy cơ bị tác động mạnh bởi chính sách bảo hộ và thuế quan của Mỹ. Những rủi ro này đến từ các
cuộc trả đũa thương mại giữa các quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường thương mại quốc tế. Điều này đòi
hỏi Việt Nam nói chung các địa phương như tỉnh Thanh Hóa nói riêng cần phải những giải pháp kịp thời
và hiệu quả để đối phó với những thay đổi không lường trước. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề
tài luận án “Phát triển xuất NK bền vững của tỉnh Thanh Hóa”. Các kết quả nghiên cứu của về thuyết,
thực tiễn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học giá trị tham khảo đối với quan quản nhà nước cộng
đồng DN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và PTXNKBV trong thời gian tới.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Một số nghiên cứu về phát triển bền vững
Hiện tại đã rất nhiều nghiên cứu của các học giả trong ngoài nước, các tổ chức quốc tế liên quan
đến vấn đề v PTBV như: Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về PTBV tổ chức Johannesburg (Cộng hòa Nam
Phi) (2002) đã thông qua Bản Tuyên bố Johannesburg Bản Kế hoạch thực hiện về PTBV; Chương trình nghị
sự 21 của Việt Nam được phê duyệt bởi Quyết định 153/2004/QĐ – TTg; Trương Quang Học (2011) với nghiên
cứu PTBV - Chiến lược phát triển toàn cầu thế kỷ XXI”; Văn Hiển (2014) với nghiên cứu PTBV Việt
Nam”; Phạm Thị Thanh Bình (2019) với nghiên cứu PTBV Việt Nam, tiêu chí đánh giá định hướng phát
triển đến năm 2030”; Ngô Thúy Quỳnh (2020) với nghiên cứu “Quản lý PTBV ở Việt Nam”.
Những nghiên cứu nói trên được tiếp cận khá phong phú nhiều khía cạnh, quy nghiên cứu từ rộng
đến hẹp về PTBV. Dù là các công trình trong nước hay công trình ngoài nước thì quan điểm về PTBV vẫn tương
đối đồng nhất. Các nghiên cứu đều dựa trên quan điểm PTBV là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện
tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu đó của thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ,
hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và BVMT.