Phong cách chủ đạo trong kiến trúc
HN thời Pháp thuộc
S hiện diện đầu tiên của kiến trúc Pháp Hà Nội là t năm 1803, khi vua Gia Long
nhà Nguyễn cho xây lại thành Hà Nội theo kiểu Vauban dưới s ch đạo của 4 k công
binh Pháp. Tuy nhiên phi đến khi thành lập khu Nhượng địa m 1875 ven sông Hồng
(kéo dài t ph Phm Ngũ Lão tới Quân y Viện 108 và bệnh viện Hữu Ngh ngày nay) thì
những công trình phong cách kiến trúc Pháp mới thực sdấu ấn tạiNội.
Trải qua gần một thế k (cuối thế k 19 tới nửa đầu thế k 20), kiến trúc thời k
Pháp thuộc với s phong phú v phong cách đã để lại cho Hà Nội một di sản kiến trúc
quý giá. Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cp tới những phong cách ch đạo, để lại
những dấu ấn rõ ràng trong kiến trúc thời k này.
1. Phong cách kiến trúc Tiền thực dân
Phong cách kiến trúc Tin thực dân Hà Nội bắt đầu hình thành t chính khu
Nhượng địa với những ngôi nhà làm việc, nhà cho sĩ quan và binh lính Pháp. Với mong
muốnđược những không gian phù hợp với chức năng cần thiết nhưng tránh được cái
nóng oi mùa hè, các sĩ quan công binh Pháp đã nghĩ ra một hình thức kiến trúc nhiệt đới
thô với các hành lang rộng bao lấy không gian chính.
Bảo tàng Lịch s Quân s (trước đâyS ch huy quân đội Pháp)
Sau khi chiếm được thành Hà Nội và biến thành S ch huy quân đội Pháp, các
sĩ quan công binh cũng xây dựng một loạt công trình trong thành nội cũng như trên trục
đường nối khu nhượng địa với Hoàng Thành cũ (nay tuyến ph Tràng Tiền - Tràng Thi -
Điện Biên Phủ) và khu vc xung quanh h Hoàn Kiếm theo phong cách Tin thực dân.
Các công trình kiến trúc phong cách Tiền thực dân thườngmặt bằng hình ch
nhật đơn giản có hành lang rộng chạy xung quanh. Nhà thường có hai tầng, sàn tầng hai
dùng dầm đỡ thép hình cuốn gạch trên. Mái dốc lợp ngói hoặc tôn. Tường chắn mái xây
gạch dùng để trang trí mặt tiềnmột vài hình thức tranh trí đơn giản như hàng con tiện
hoặc đắp xi măng hình hoa lá. Hành lanh quanh nhà được tạo ra hình thức cuốn vòm hình
cung hoặc bán cầukhoá vòm.
Nhìn chung thì đây là phong cách mang tính công năng duy lý, ít chú trọng v mặt
thẩm m nên không có nhiều giá tr v mặt kiến trúc. Tuy vậy chúng cũngđại diện cho
kiến trúc Pháp thuộc thi k khởi nên cũng cần được tôn trọng một mức độ nhất
định.
Một s công trình tiêu biểu: Bảo tàng Lịch s Quân s (ảnh 1), Toà th chính (ch
còn toà nhà s 12 Lê Lai), một s nhà điều tr trong khuôn viên Quân y Viện 108 và bệnh
viện Hữu Nghị.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà 1 - 3 tầng, mặt bằng hình ch nhật, mái dốc lợp ngói
hoặc tôn,hành lang bao quanh tạo ra hình thức cuốn vòm liên tục.
2. Phong cách kiến trúc Tân C điển
Sau khi bản chinh phục được toàn b lãnh th Đông Dương, người Pháp đã tiến
hành một công cuộc xây dựng lớn Hà Nội nhằm biến nó thành th ph toàn khu vực
Đông Dương. Những công th lớn tiêu biểu cho chính quyền thực dân như Ph Toàn
quyền, Dinh Thống Sứ, Toà án… được xây dựng. Để biểu đạt cho s uy nghi của chính
quyền mới thì không gì bằng việc s dụng các hình thức kiến trúc C điển.
Sau này, phong cách Tân - C điển còn ảnh hưởng sang các công trình lớn v kinh tế -
văn hoá Nội như ga Hàng Cỏ, tr s Công ty Hỏa xa Đông Dương - Vân Nam, Nhà
hát Thành phố, Viện Radium Đông Dương… và nhiều biệt th dành cho ngưi Pháp
Hà Nội.
Ph Ch tịch (trước đây là Ph Toàn quyền Đông Dương)
Phong cách kiến trúc Tân - C điển Hà Nội thi k này không còn là Tân - C
điển Pháp thuần tuý nữa mà mang nhiều màu sắc của ch nghĩa Triết chung. Mặc dù vẫn
s dụng b cục đối xứng nghiêm ngặt, các cấu trúc hình học và t l vẫn được tuân thủ,
các thức c điển vẫn mang tính áp đảo, song nhiều công trình các chi tiết của kiến trúc
Phục hưng, Baroque cũng được s dụng.
Phong cách kiến trúc Tân - C đin là phong cách kiến trúc áp đảo đối với các công
trình công cộng lớn Hà Nội thời k Pháp thuộc và cũng là phong cách mang dấu ấn
mạnh m nhất của kiến trúc thi k này. Ảnh hưởng của nó thật đáng buồn,còn đến
tận những công trình kiến trúc công cộng mới xây dựng cuối thế k XX, đầu thế k XXI
Nội.
Một s công trình tiêu biểu: Ph Toàn quyền Đông Dương (ảnh 2), Dinh Thống s
Bắc Kỳ, Ph Thống s (12 Ngô Quyền), Ga Hàng Cỏ, Công ty Ho xa Đông Dương -
Vân Nam (82 Trần Hưng Đạo), Nhà hát ln, Viện Radium Đông Dương (43 Quán Sứ),
khách sạn Metropole (15 Ngô Quyền).
Đặc điểm nhận dạng: B cục cân đối, s dụng nhiều thức c điển, mái dốc lợp ngói
tây hoặc ngói đá, nhiều hình thức trang trí phong phú s dụng các thức, chi tiết C điển
La Mã, Phục hưng, Baroque.
3. Phong cách kiến trúc địa phương Pháp
T những năm 1900, một lượng khá lớn người Pháp đã tới Hà Nội làm việc, sinh
sống. H mang theo những hoài nim v quê hương thông qua những công trình kiến trúc
nơi h đã sống (ch yếu là các địa phương miền Bắc nước Pháp và vùng Paris) và do vậy
cũng bắt đầu t thi gian này, một loạt biệt thự, trường học cho người Pháp được xây
dựng theo phong cách kiến trúc địa phương Pháp.
Tr s B pháp (trước đâyTrường n học Pháp)
Các công trình phong cách địa phương miền Bắc Pháp có mái với độ dốc lớn, các
công trình phong cách vùng Paris có độ dốc vừa phi có h con sơn g đỡ phần mái nhô
ra khỏi tường.
Tuy nhiên cũng phải chú ý rằng kiến trúc phong cách địa phương Pháp xây dựng
Hà Nội không giống hoàn toàn chính quốcđã mang nhiều tính công năng, thực
dụng và d b nhiều những hình thức trang trí nguyên gốc. Những công trình phong cách
địa phương Pháp Hà Nội nhìn chung mang đậm tính hồi cố, duyên dáng, mang nhiều
nét kiến trúc các địa phương miền Bắc nước Pháp và vùng Paris, tuy nhiên đã có những
biến đổi nhất định để phù hợp với công năng mớikhí hậu nhit đời Việt Nam.
Một s công trình tiêu biểu: Grand Lycée AIber Sarraut (1B Hoàng Văn Thụ), Petit
Lycée (8 Hai Trưng), Trường n học Pháp (58 Trần Phú, ảnh 3) và một s biệt th tại
khu Ngoại giao đoàn.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà 2 - 3 tầng, mái dốc lp ngói, có h con sơn đỡ mái bằng
g mảnh hình tam giác được tiện khắc công phu, ho tiết trang trí không nhiều nhưng khá
tinh tế.
4. Phong cách kiến trúc Art Deco
Sau Chiến tranh thế giới lần th nhất, các hoạt động kinh tế tr nên nhộn nhịp hơn,
một làn sóng đầu của người Pháp, một phần nh của người Hoa và người Việt diễn ra
Nội. Một loạt tr s ngân hàng, công ty và nhiều biệt th nhân được xây dựng.
đâycác hoạt động đầu nhân nên ch nhân của chúng cũng không cần nh tới các
kiến trúc “cung đình” như A-H. Vildieu nữa.