BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ HƯƠNG
PHÒNG NGỪA TỘI THAM Ô TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ HƯƠNG
PHÒNG NGỪA TỘI THAM Ô TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số : 9.38.01.05
Người hướng dẫn khoa học :
1. GS. TS. Lê Thị Sơn
2. TS. Nguyễn Tuyết Mai
HÀ NỘI – 2021
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận án này./.
LỜI CAM ĐOAN
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Hương
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ALCII: Công ty cho thuê tài chính II
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CTXD 78: Công ty xây dựng 78
EC5: Công ty lắp máy và xây dựng số
GĐ Giám đốc
NPT Người phạm tội
OJB: Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương
PMU 18: Dự án đầu tư xây dựng cầu Bãi Cháy, Quảng Ninh
PVC: Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam
PVFC: Tổng Công ty tài chính dầu khí Việt Nam
PVN: Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam
SHB: Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
TCTMT: Tổng Công ty Miền trung
TP: Tội phạm
VINALINES: Tổng công ty hàng hải Việt Nam
VINASHINLINES: Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên vận tải viễn dương
Vinashin
VNĐ: Việt Nam Đồng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
Trang
Số hiệu bảng
33
1.1
33
1.2
Tổng số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
34
1.3
Tổng số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản giai đoạn 2010- 2019 so với số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản giai đoạn 2000-2009
35
1.4
Chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội của tội Tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
36
1.5
So sánh chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội giai đoạn 2010- 2019 với 10 năm về trước
37
1.6
Số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản so với số vụ và số người phạm tội của các tội phạm về tham nhũng
44
1.7
Số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản so với số vụ và số người phạm các tội phạm về chức vụ
So sánh số việc, số người giải quyết tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố với số vụ, số bị can bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội tham ô tài sản trong khoảng thời gian 10 năm từ năm 2010 đến năm 2019
44
1.8
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tội phạm
45
1.9
46
1.10
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại hình phạt đã áp dụng
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo mức hình phạt tù có thời hạn đã áp dụng
47
1.11
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo hình thức thực hiện tội phạm
49
1.12
50
1.13
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo thủ đoạn phạm tội
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo hình thức sở hữu của tài sản bị chiếm đoạt
50
1.14
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tài sản bị chiếm đoạt
52
1.15
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo giá trị tiền bị chiếm đoạt
1.16
53
1.17
54
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo cấp quản lý
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo ngành, lĩnh vực hoạt động bị xâm phạm
1.18
55
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo địa bàn thực hiện tội phạm
1.19
56
1.20
57
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo động cơ phạm tội
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại chức vụ, quyền hạn của người phạm tội
1.21
58
1.22
59
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo độ tuổi của người phạm tội
1.23
60
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo đặc điểm về giới tính của người phạm tội
1.24
61
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo trình độ văn hóa của người phạm tội
2.1
64
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo đặc điểm về phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm
2.2
65
Mức độ tăng, giảm về số vố vụ và số người phạm tội của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
2.3
67
So sánh mức độ tăng, giảm về số vụ của tội tham ô tài sản và của các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
So sánh mức độ tăng, giảm về số người phạm của tội tham ô tài sản và của các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
2.4
68
Mức độ tăng, giảm của người phạm tội của từng loại tội phạm
2.5
69
2.6
71
Mức độ tăng, giảm của số vụ đồng phạm và phạm tội riêng lẻ
2.7
72
Mức độ tăng, giảm của số vụ trong cơ cấu theo hình thức sở hữu của tài sản bị chiếm đoạt
2.8
73
Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội tham ô tài sản theo từng loại tài sản bị chiếm đoạt
2.9
75
Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội tham ô tài sản theo cấp quản lý của người có chức vụ, quyền hạn
Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội tham ô tài sản có đặc điểm phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm của người phạm tội
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Tên biểu đồ
Trang
Số hiệu biểu đồ
34
1.1
36
1.2
Số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản giai đoạn 2010-2019 so với số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản giai đoạn 2000-2009
37
1.3
So sánh chỉ số tội phạm, chỉ số người phạm tội của tội tham ô tài sản giai đoạn 2010-2019 với giai đoạn 2000-2009
38
1.4
Số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản so với số vụ và số người phạm tội của các tội phạm về tham nhũng
Số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản so với số vụ và số người phạm các tội phạm về chức vụ
44
1.5
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tội phạm
45
1.6
45
1.7
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại hình phạt đã áp dụng
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo mức hình phạt tù có thời hạn đã áp dụng
46
1.8
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo hình thức thực hiện tội phạm
48
1.9
49
1.10
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo thủ đoạn phạm tội
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo hình thức sở hữu của tài sản bị chiếm đoạt
50
1.11
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tài sản bị chiếm đoạt
51
1.12
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo giá trị tiền bị chiếm đoạt
52
1.13
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo cấp quản lý
53
1.14
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo ngành, lĩnh vực bị xâm phạm
54
1.15
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo địa bàn thực hiện tội phạm
55
1.16
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo động cơ phạm tội
1.17
57
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại chức vụ, quyền hạn của người phạm tội
1.18
58
1.19
58
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo độ tuổi của người phạm tội
1.20
59
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo đặc điểm về giới tính của người phạm tội
1.21
60
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo trình độ văn hóa của người phạm tội
2.1
65
Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo đặc điểm phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm
2.2
66
Diễn biến về số vụ, số người phạm tội của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
2.3
67
So sánh diễn biến về số vụ của tội tham ô tài sản và của các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
So sánh diễn biến về số người phạm tội của tội tham ô tài sản và của các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam giai đoạn 2010- 2019
2.4
69
2.5
70
Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo loại tội phạm
2.6
71
Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo hình thức thực hiện tội phạm
Diễn biến của cơ cấu theo hình thức sở hữu của tài sản bị chiếm đoạt
2.7
73
2.8
74
Diễn biến của cơ cấu theo loại tài sản bị chiếm đoạt
2.9
75
Diễn biến của cơ cấu theo cấp quản lý của người có chức vụ, quyền hạn
Diễn biến của cơ cấu theo đặc điểm phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm của người phạm tội
MỤC LỤC
Trang
1
PHẦN MỞ ĐẦU
8
PHẦN TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
30
30
PHẦN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH TỘI THAM Ô TÀI SẢN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2019
Vấn đề chung về tình hình tội phạm
1.1.
30
Thực trạng của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
1.2.
32
1.2.1. Thực trạng về mức độ của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
32
2010-2019
1.2.2.
42
Thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Diễn biến của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
1.3
64
1.3.1. Diễn biến về mức độ của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
64
2010-2019
1.3.2. Diễn biến về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
68
2010-2019
Kết luận Chương 1
76
CHƯƠNG 2. NGUYÊN NHÂN CỦA TỘI THAM Ô TÀI SẢN
78
Vấn đề chung về nguyên nhân của tội phạm
2.1.
78
Nguyên nhân của tội tham ô tài sản giai đoạn 2010 – 2019
2.2.
81
2.2.1. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà
81
nước
2.2.2. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế của công tác cán bộ
99
2.2.3. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong hoạt động tuyên truyền,
107
giáo dục pháp luật
2.2.4 Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong hoạt động phát hiện và
113
xử lý tội tham ô tài sản
2.2.5. Nguyên nhân từ phía người phạm tội
119
Kết luận Chương 2
126
128
CHƯƠNG 3. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG NGỪA TỘI THAM Ô TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1.
128
Đánh giá hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong những năm vừa qua
Dự báo tình hình tội tham ô tài sản
3.2.
137
3.3.
140
Các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới
3.3.1. Nhóm biện pháp liên quan đến tổ chức, quản lý nhà nước
141
3.3.2. Nhóm biện pháp liên quan đến công tác cán bộ
151
3.3.3. Nhóm biện pháp liên quan đến hoạt động tuyên truyền, giáo dục
155
pháp luật
3.3.4.
160
Nhóm biện pháp liên quan đến hoạt động phát hiện và xử lý tội tham ô tài sản
3.3.5. Nhóm biện pháp phòng ngừa liên quan đến người phạm tội tham ô
165
tài sản
Kết luận Chương 3
168
169
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Trong bối cảnh hoàn thiện thể chế kinh tế và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
ở tất cả các lĩnh vực, những điều kiện tích cực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường được tạo ra ngày càng nhiều. Các yếu tố của nền kinh tế thị trường đã
tác động trực tiếp, có hiệu quả đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân đầu
người, ngân sách nhà nước đầu tư cho việc phát triển cơ sở hạ tầng không ngừng tăng lên,
các hoạt động phúc lợi xã hội đã bắt đầu được quan tâm và đầu tư đúng mức, các hình thức đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng về cả quy mô và lĩnh vực hoạt
động, chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của người dân đã được cải thiện rõ rệt và
nâng lên một cách đáng kể.
Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển kinh tế - xã hội cũng đã để lại không ít những
hệ lụy, tạo ra lực cản đối với sự phát triển xã hội nói chung. Đó là sự phát sinh, gia tăng
của các hiện tượng xã hội tiêu cực và các loại tội phạm, trong đó tội tham ô tài sản. Đây là
mối đáng lo ngại đối với Đảng, Nhà nước ta và là vấn đề gây nhiều bức xúc trong nhân
dân. Tâm lý hưởng thụ và muốn làm giàu nhanh chóng hoặc tâm lý muốn có chức vụ,
quyền hạn để làm giàu đã ăn sâu trong tâm trí một bộ phận cán bộ, công chức có chức vụ,
quyền hạn. Bên cạnh đó, sự lỏng lẻo trong quản lý kinh tế, những hạn chế, bất cập trong
hệ thống văn bản pháp luật nói chung và văn bản về quản lý kinh tế nói riêng cũng là
nguyên nhân làm gia tăng loại tội phạm này.
Trong những năm gần đây, tội tham ô tài sản có chiều hướng gia tăng nhanh trên
phạm vi toàn quốc và ở nhiều lĩnh vực, trong đó xảy ra phổ biến hơn cả ở các lĩnh vực
quản lý, sử dụng tài sản công, đầu tư xây dựng cơ bản, tài chính, ngân hàng, quản lý đất đai, các loại tài nguyên khác và ngày càng nghiêm trọng cả về tính chất và mức độ; nhiều đối tượng phạm tội là người từng giữ chức vụ cao trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước; nhiều hành vi tham ô tài sản xảy ra trong thời gian dài mới được phát hiện, xử lý. Do tính đặc thù của tội tham ô tài sản là xâm hại nhiều khách thể cùng một lúc nên các hành vi tham ô không chỉ gây ra những thiệt hại nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng về tài sản của nhà nước mà còn làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với những người thay mặt nhân dân để thực hiện quyền lực nhà nước.
Theo thống kê xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tối cao thì trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2019, Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử sơ thẩm 2485 vụ/
2
4635 bị cáo về tội tham ô tài sản1. Trong khi đó, cũng trong thời gian này Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử 4203 vụ/ 8156 bị cáo thuộc nhóm tội tham nhũng2. Như vậy, tội tham ô tài sản được đưa ra xét xử chiếm 59,1% về số vụ và 56,8% số bị cáo của nhóm tội
phạm tham nhũng được đưa ra xét xử sơ thẩm.
Phòng ngừa tội tham ô tài sản trong thời gian qua đã được quan tâm, chú trọng.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên kết quả đạt được chưa cao, những hạn
chế của hoạt động phòng ngừa chưa được quan tâm khắc phục kịp thời, một số nội dung,
biện pháp phòng ngừa không còn phù hợp với yêu cầu thực tế nhưng chưa được đổi mới cho thích ứng, các vụ án tham ô tài sản với hậu quả đặc biệt nghiêm trọng vẫn xảy ra ở
các bộ, ngành, các địa phương trên cả nước, tạo ra những khó khăn, thách thức không nhỏ
đối với các cơ quan thực hiện chức năng phòng ngừa loại tội phạm này. Do vậy, việc
phòng ngừa tội tham ô tài sản nhằm từng bước đẩy lùi loại tội phạm này là một yêu cầu
cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc nghiên
cứu tình hình tội tham ô tài sản cũng như xác định những nguyên nhân của tội phạm này
để từ đó tìm ra những biện pháp phòng ngừa thiết thực, hiệu quả lại chưa được quan tâm
một cách thỏa đáng, nên thực tế cũng làm hạn chế hiệu quả của việc phòng ngừa loại tội
phạm này. Xuất phát từ đòi hỏi cả về lý luận và thực tiễn, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề
tài: "Phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài luận
án tiến sĩ là cần thiết và có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài
sản ở Việt Nam trong thời gian tới.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Việc nghiên cứu đề tài "Phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay" là nhằm đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản
ở Việt Nam trong thời gian tới.
Để đạt được mục đích này, luận án phải thực hiện các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, đánh giá tình hình của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-
2019.
Thứ hai, phân tích, giải thích nguyên nhân của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai
1 Số liệu được tổng hợp từ thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự hàng năm của Tòa án nhân dân tối cao trong khoảng thời gian 10 năm từ 2010-2019.
2 Số liệu được tổng hợp từ thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự hàng năm của Tòa án nhân dân tối cao trong khoảng thời gian 10 năm từ 2010-2019.
đoạn 2010-2019.
3
Thứ ba, dự báo tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới; đề xuất
các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời
gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Về đối tượng nghiên cứu: Đề tài "Phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay" hướng tới các đối tượng nghiên cứu sau:
Tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam;
Nguyên nhân của tội tham ô tài sản ở Việt Nam; Các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam;
Về phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu từ góc độ tội phạm học tội tham ô tài
sản ở Việt Nam trong giai đoạn 10 năm từ 2010-2019.
4. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu, cách tiếp cận
vấn đề nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý thuyết
Cơ sở lý thuyết của luận án là lý luận về tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Cụ
thể là lý luận về tình hình tội tham ô tài sản, lý luận về nguyên nhân làm phát sinh, gia
tăng tội tham ô tài sản, lý luận về dự báo tình hình tội tham ô tài sản, lý luận về các biện
pháp phòng ngừa tội tham ô tài sản.
4.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để đưa ra được những biện pháp hữu hiệu phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt
Nam trong thời gian tới, luận án đứng trước một số câu hỏi cần thiết phải trả lời sau:
1. Thực trạng về mức độ, thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam
giai đoạn 2010-2019 như thế nào?
2. Diễn biến của tội tham ô ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019 như thế nào? 3. Những yếu tố nào làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai
đoạn 2010-2019; cơ chế tác động của những yếu tố đó?
4. Các biện pháp cần được áp dụng để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài
sản ở Việt Nam trong thời gian tới? 4.3. Giả thuyết nghiên cứu Với cách hiểu giả thuyết nghiên cứu là luận điểm cần chứng minh, tác giả luận án xác định giả thuyết nghiên cứu của luận án như sau: Trong những năm gần đây tham ô tài sản là loại tội phạm ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng về hậu quả; xảy ra ở nhiều ngành, lĩnh vực đặc biệt là các doanh nghiệp, tập
đoàn kinh tế nhà nước; số vụ án đồng phạm, số tiền chiếm đoạt đặc biệt lớn ngày càng
4
phổ biến; thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi; số vụ án có hành vi phạm tội diễn ra trong
thời gian dài ngày càng nhiều, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng, hiệu quả quản lý kinh tế, xã hội của Nhà nước. Trước thực trạng đó, việc tìm ra
những nguyên nhân của tội tham ô tài sản và đề xuất các biện pháp hạn chế việc phát sinh tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới là hết sức cần thiết. Trên cơ sở nghiên
cứu, đánh giá tình hình tội tham ô tài sản ở nước ta trong giai đoạn 2010-2019, tác giả
luận án xác định các nhóm yếu tố tiêu cực được coi là nguyên nhân làm phát sinh, gia
tăng tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong những năm vừa qua, các nguyên nhân đó là: Những hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh trong doanh nghiệp nhà nước, mua sắm công, quản lý đất đai, hoạt động ngân
hàng, tín dụng, hoạt động đầu tư, xây dựng; những hạn chế trong công tác cán bộ liên
quan đến bổ nhiệm, sử dụng, quản lý và đánh giá cán bộ; những hạn chế trong hoạt động
phát hiện, xử lý tội tham ô tài sản; những hạn chế trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục
pháp luật; những đặc điểm tâm lý tiêu cực của người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ
quan, tổ chức, đơn vị kinh tế. Việc xác định các nhóm nguyên nhân của tội tham ô tài sản
chính là nội dung trả lời cho câu hỏi nghiên cứu: Những yếu tố nào làm phát sinh, gia
tăng tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong những năm vừa qua. Trên cơ sở giải thích các
nhóm nguyên nhân, phân tích cơ chế tác động của các nguyên nhân, tác giả đề xuất các
nhóm biện pháp tương ứng nhằm làm hạn chế hoặc có thể loại trừ các yếu tố tiêu cực làm
phát sinh hành vi phạm tội, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm này
trong thời gian tới.
4.4. Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu
Luận án tiếp cận và nghiên cứu tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn 10
năm 2010-2019 là những hiện tượng xã hội tiêu cực, xác định và giải thích những hiện tượng, sự việc từ xã hội và người phạm tội có tác động làm phát sinh tội tham ô tài sản là nguyên nhân của tội phạm tham ô tài sản trong giai đoạn 10 năm đó; trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời
gian tới với ý nghĩa là hoạt động của hệ thống các chủ thể xã hội khác nhau.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận án được tác giả thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về chống và phòng ngừa tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
5
Trong nghiên cứu tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, với mỗi đối tượng nghiên
cứu cụ thể, cần sử dụng loại nghiên cứu có chức năng phù hợp để đạt được mục đích
nghiên cứu. Chẳng hạn như sử dụng nghiên cứu mô tả để làm rõ tình hình tội tham ô tài
sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019; nghiên cứu giải thích để xác định nguyên nhân của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019; nghiên cứu dự báo để dự báo tình
hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới; nghiên cứu giải pháp để thiết lập
các biện pháp phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam.
Để thực hiện các loại nghiên cứu này, các phương pháp nghiên cứu cụ thể thích hợp sẽ được lựa chọn và sử dụng là các phương pháp nghiên cứu cụ thể thuộc nhóm
phương pháp tiếp cận, phương pháp chọn mẫu, phương pháp thu thập dữ liệu, phương
pháp xử lý dữ liệu và phương pháp kiểm chứng giả thuyết, cụ thể:
- Thuộc nhóm phương pháp tiếp cận (để thu thập dữ liệu): các phương pháp tiếp
cận cụ thể được lựa chọn và sử dụng như phương pháp tiếp cận định lượng; phương pháp
tiếp cận tổng thể và phương pháp tiếp cận bộ phận. Sử dụng phương pháp tiếp cận định
lượng là xác định cách mô tả, đánh giá tình hình tội tham ô tài sản thông qua các đặc điểm
về lượng, có nghĩa là thông qua các thông số về số vụ, số người phạm tội, thông số về cơ
cấu của tội phạm, thông số về diễn biến của tội phạm. Sử dụng phương pháp tiếp cận tổng
thể và phương pháp tiếp cận bộ phận là để xác định cách đánh giá tình hình tội tham ô tài
sản không những thông qua các thông số tổng thể về các vụ án tham ô tài sản bị xét xử sơ
thẩm trong giai đoạn nghiên cứu, mà còn thông qua các thông số khác được khai thác từ
một bộ phận của tổng thể các vụ án tham ô nêu trên. Phương pháp tiếp cận bộ phận sẽ thể
hiện trong cách đánh giá đặc điểm về chất của tội tham ô tài sản thông qua các thông số
về cơ cấu của tội phạm mà chủ yếu được khai thác từ bộ phận tội tham ô tài sản được lựa
chọn. Việc sử dụng phương pháp tiếp cận bộ phận đã quy định việc sử dụng phương pháp chọn mẫu.
- Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản được lựa chọn, sử dụng trong việc đánh giá tình hình tội tham ô tài sản trong giai đoạn nghiên cứu. Do số liệu thống kê của
các cơ quan tiến hành tố tụng về tội tham ô tài sản chưa đầy đủ để nghiên cứu, đánh giá về cơ cấu của tội tham ô tài sản theo các tiêu chí khác nhau như theo loại tội phạm, loại và mức hình phạt đã được áp dụng đối với người bị kết án, hình thức thực hiện tội phạm, thủ đoạn phạm tội…và dữ liệu thống kê chính thức cũng không đủ để giải thích nguyên nhân của tội phạm, nên NCS sẽ sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản để tự thu thập dữ liệu khác qua việc phân tích các dữ liệu trong bộ phận các bản án hình sự sơ thẩm
về tội tham ô tài sản được lựa chọn. Cụ thể, NCS dự kiến lựa chọn ngẫu nhiên 585 bản án
6
hình sự sơ thẩm về tội tham ô tài sản từ năm 2010-2019 ở 45 tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng
Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Ninh Bình, Hà Nam, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú
Thọ, Hà Giang, Yên Bái, Bắc Kạn, Thanh Hóa, Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hòa Bình, Nam Định, Lâm Đồng, Bình Thuận, Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa,
Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đồng Nai, Ninh Thuận, Tây Ninh, Bình Dương, Hưng Yên, Bà
Rịa Vũng Tàu, Long An, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Tiền Giang, Đồng Tháp, Kiên
Giang, An Giang.
- Đối với nhóm phương pháp thu thập dữ liệu, phương pháp phân tích thứ cấp dữ
liệu và phương pháp điều tra bằng bảng hỏi sẽ được sử dụng để làm rõ tình hình của tội
tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019, cụ thể:
+ Phương pháp phân tích thứ cấp dữ liệu: Thực chất đây phương pháp tái tạo dữ
liệu có sẵn thông qua việc phân tích, khai thác các dữ liệu gốc, sẵn có như các số liệu
thống kê, các bản án xét xử sơ thẩm. Cụ thể là thu thập các số liệu thống kê khởi tố, truy
tố, xét xử sơ thẩm của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối
cao. Các số liệu này được sử dụng để nghiên cứu đánh giá tình hình tội tham ô tài sản ở
Việt Nam giai đoạn 2010-2019; số liệu thống kê xét xử sơ thẩm về số vụ và người phạm
tội tham ô tài sản kết hợp với số liệu thống kê dân số được dùng để xác định chỉ số của tội
tham ô tài sản.
- Đối với nhóm phương pháp xử lý dữ liệu: Phương pháp xử lý dữ liệu cụ thể được
sử dụng trong luận án là phương pháp thống kê mô tả. Phương pháp này được sử dụng để
xử lý dữ liệu định lượng là các dữ liệu dưới dạng số liệu phục vụ cho việc mô tả tình hình
tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019. Các đại lượng thống kê được sử dụng
là số tuyệt đối, số tương đối, số trung bình được biểu thị dưới dạng bảng số liệu và biểu đồ thích hợp để mô tả, đánh giá tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu.
- Đối với nhóm phương pháp kiểm chứng giả thuyết: Phương pháp kiểm chứng giả
thuyết cụ thể được lựa chọn và sử dụng trong Luận án là phương pháp chứng minh trực tiếp giả thuyết nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng để phục vụ cho việc kết luận, đánh giá về tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019; kết luận, giải thích về nguyên nhân của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019, đưa ra những dự báo về tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới cũng như việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội tham ô tài sản tương ứng với các nguyên nhân của
tội phạm sẽ được xác định đều có cơ sở, minh chứng là các dữ liệu thực tiễn thể hiện kết
7
quả nghiên cứu về tình hình tội tham ô tài sản. Việc thực hiện phương pháp này còn để
đáp ứng yêu cầu gắn kết chặt chẽ giữa các chương của Luận án, đảm bảo sức thuyết phục
của các kết quả nghiên cứu.
Ngoài ra, một số phương pháp nghiên cứu khác cũng được sử dụng kết hợp với các phương pháp nêu trên trong việc giải quyết các nội dung của đề tài, đó là phương pháp
phân tích, tổng hợp và so sánh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của Luận án đóng góp cho sự phát triển chung của lý luận về tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, diễn biến của
tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019 sẽ xác định, giải thích những yếu tố
tiêu cực được cho là nguyên nhân làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở Việt Nam
trong giai đoạn nghiên cứu. Các biện pháp phòng ngừa được đưa ra góp phần làm hạn chế
việc phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới.
Luận án cũng là nguồn tư liệu có ý nghĩa để cá nhân, tổ chức tham khảo, nghiên
cứu trong quá trình phòng ngừa tội tham ô tài sản trong cơ quan hoặc địa phương mình
sinh sống, làm việc. Đồng thời cũng là nguồn tham khảo trong quá trình nghiên cứu,
giảng dạy về phòng ngừa tội phạm nói chung.
8
PHẦN TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu có liên quan đến những nội dung cơ bản của đề tài luận án “Phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”,
NCS nhận thấy: mặc dù những công trình đó được các tác giả triển khai nghiên cứu với
những cấp độ và mục tiêu khác nhau, nhưng về cơ bản nội dung của các công trình nghiên
cứu về đấu tranh phòng, chống các tội phạm về tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng đều đề cập đến những vấn đề sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận về phòng ngừa tội
tham ô tài sản ở Việt Nam
Giống như hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung, phòng ngừa tội phạm tham
ô tài sản cũng phải được thực hiện trên những cơ sở lý luận cần thiết về phòng ngừa loại
tội phạm cụ thể. Với những góc độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau, các tác giả đã tiếp
cận cơ sở lý luận về phòng ngừa tội tham ô tài sản trên cơ sở phân tích một trong những
nội dung sau:
Phân tích làm rõ những đặc điểm đặc thù liên quan đến các yếu tố cấu thành của
các tội phạm về tham nhũng trong đó có tham ô tài sản, đó là việc người giữ chức vụ lãnh
đạo, quản lý đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được bổ nhiệm hoặc được giao như một
phương tiện để chiếm đoạt tài sản mình có trách nhiệm quản lý, trong đó động cơ vụ lợi
được các tác giả xác định là dấu hiệu điển hình của tham ô tài sản. Tiếp đó, các tác giả chỉ
ra một số thủ đoạn phổ biến của người phạm tội là lập khống sổ sách, lập khống hợp
đồng, để ngoài sổ sách, dùng các chứng từ giả, tẩy xóa sổ sách, tài liệu liên quan đến tài
sản để chiếm đoạt tài sản. Lĩnh vực, hoạt động mà tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản xảy ra phổ biến là hoạt động công vụ. Bên cạnh đó, tham nhũng bao gồm cả tham ô tài sản có yếu tố nước ngoài cũng được tác giả phân tích dạng hành vi, các thủ đoạn câu kết, móc nối với người nước ngoài của người có chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản họ
được giao quản lý. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu có thể kể đến là: Sách chuyên khảo “Thực thi Công ước liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng tại Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Quốc Hiệp, NXB Chính trị quốc gia, năm 2013; sách chuyên khảo “Phòng, chống tội phạm tham nhũng có yếu tố nước ngoài trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế", của tác giả Nguyễn Xuân Trường, NXB Chính trị quốc gia, năm 2012; sách chuyên khảo “Phòng, chống tham nhũng trong hoạt động công vụ ở Việt Nam”, của
tác giả Nguyễn Quốc Sửu, NXB Chính trị quốc gia, năm 2013.
9
Phân tích làm rõ mục đích của hoạt động phòng, chống các tội phạm tham nhũng
trong đó có tham ô tài sản. Cụ thể, tác giả đã nêu và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về
tác hại của tham ô, trong đó nhấn mạnh tham ô làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà,
đời sống của nhân dân, đạo đức cách mạng của người cán bộ. Nêu và phân tích quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về mục đích của phòng, chống tham ô tài sản, đó là tiền đề
thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, là cơ sở để giữ vững ổn định chính trị, củng cố niềm
tin và sự gắn bó giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Công trình nghiên cứu tiêu biểu
cho nội dung này là Đề tài khoa học cấp bộ của Thanh tra Chính phủ “Vai trò của hội người cao tuổi và hội cựu chiến binh tham gia phòng, chống tham nhũng ở cơ sở", do tác
giả Nguyễn Thế Huệ làm chủ nhiệm, năm 2012.
Xác định, phân tích nội dung, trách nhiệm của hoạt động quản lý nhà nước về
phòng chống tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản là xây dựng và hoàn thiện thể chế,
chính sách, định hướng, chiến lược về phòng chống tham nhũng; tuyên truyền, phổ biến
pháp luật. Các cơ quan chức năng có trách nhiệm tổ chức, điều hành công tác phòng,
chống tham nhũng, bao gồm cả tham ô tài sản trong phạm vi quản lý của mình nhằm đảm
bảo hiệu quả và đúng pháp luật. Các chủ thể quản lý nhà nước trong phòng chống tham
nhũng, bao gồm cả tham ô tài sản, đó là: Chính phủ, Thanh tra Chính phủ, Bộ và các cơ
quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân. Tiếp đó, tác giả xác định mục tiêu trực tiếp của quản lý
nhà nước về phòng chống tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng là việc bảo
đảm cho các biện pháp phòng, chống được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Công trình nghiên cứu tiêu biểu cho nội dung này là Đề tài khoa học cấp bộ của Thanh tra
Chính phủ “Một số vấn đề về quản lý nhà nước trong phòng, chống tham nhũng”, do tác
giả Ngô Mạnh Hùng làm chủ nhiệm, năm 2013.
Phân tích làm rõ cách thức tiến hành hoạt động phòng, chống tham nhũng mà phổ biến là tham ô tài sản, cụ thể là: Biến quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng thành hành động thực tế, trước hết là sự gương mẫu và quyết liệt của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, cơ quan, tổ chức, đơn vị đối với công
tác phòng, chống tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa, chủ động phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời những người có hành vi tham ô, vụ lợi, tiếp tay cho việc thực hiện tội phạm, cản trở việc chống tham nhũng theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế về kinh tế, xã hội và phòng, chống tham nhũng đồng bộ, thống nhất, khả thi; tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả. Phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của cơ quan
dân cử, Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị, xã hội, nhân dân và các cơ quan truyền
10
thông. Chú trọng phát huy vai trò nòng cốt của các cơ quan, đơn vị có chức năng phòng,
chống tham nhũng, trước hết là các cơ quan chuyên trách chống tham nhũng trong các cơ
quan tiến hành tố tụng. Công trình nghiên cứu tiêu biểu cho nội dung này là bài viết
“Đấu tranh phòng, chống tham nhũng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội 12 của Đảng", của tác giả Phan Đình Trạc, tạp chí Nội Chính số 41 năm 2017.
Xác định các yếu tố có thể tác động đến hiệu quả phòng, chống tham nhũng trong
đó có tham ô tài sản, đó là: Vai trò của Hiến pháp và các văn bản luật; vai trò, ý nghĩa của
Công ước quốc tế về chống tham nhũng đối với hoạt động phòng, chống tham ô tài sản ở Việt Nam. Tiếp đó, tác giả nêu và phân tích tác động của việc thực thi Công ước đối với
hoạt động phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam, như góp phần hoàn thiện thể chế, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng xác định
các yếu tố bảo đảm thực thi Công ước liên hợp quốc về chống tham nhũng tại Việt Nam
là chính trị; pháp lý; trách nhiệm thực thi và sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền.
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu cho nội dung này có thể kể đến là: Sách chuyên khảo
“Thực thi Công ước liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng tại Việt Nam”, của tác giả
Nguyễn Quốc Hiệp, NXB Chính trị quốc gia, năm 2013; Đề tài khoa học cấp bộ của
Thanh tra Chính phủ “Vai trò của hội người cao tuổi và hội cựu chiến binh tham gia
phòng, chống tham nhũng ở cơ sở", do tác giả Nguyễn Thế Huệ làm chủ nhiệm, năm
2012.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tình hình tội tham ô tài sản ở
Việt Nam
Do nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu khác nhau nên các công trình nghiên cứu
tiếp cận, đánh giá tình hình tội tham ô tài sản ở những phạm vi không gian và thời gian
khác nhau, do đó mà các thông số thống kê tội tham ô tài sản được phản ánh từ những phạm vi, góc độ khác nhau, được thể hiện trong các công trình nghiên cứu cụ thể như:
- Đề án "Cơ chế, chính sách đấu tranh, xử lý hiệu quả các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ", của Viện kiểm sát nhân tối cao, năm 2015.
Với kết cấu 5 Phần, trong đó tại mục 1 thuộc Phần thứ IV của Đề án, nhóm tác giả đã phân tích, đánh giá tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến 6 tháng đầu năm 2014; những nội dung đã được làm rõ trong Đề án là:
Mô tả những thông số thống kê về tình hình của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong khoảng thời gian gần 10 năm từ năm 2005 đến 6 tháng đầu năm 2014, trong đó có cả số liệu thống kê về tạm đình chỉ, đình chỉ ở giai đoạn truy tố và xét xử sơ thẩm cụ thể:
khởi tố 1800 vụ/3518 bị can về tội tham ô tài sản; truy tố 1661 vụ/ 3560 bị can; đình chỉ
11
điều tra 43 vụ/189 bị can; tạm đình chỉ 5 vụ; Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung 93
vụ; xét xử sơ thẩm 1518 vụ/3002 bị cáo; đình chỉ 2 vụ/ 9 bị cáo; tạm đình chỉ 6 vụ/ 26 bị
cáo; Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung 274 vụ. Trên cơ sở các thông số thống kê, nhóm tác
giả đã có những nhận xét, đánh giá về tình hình loại tội phạm này như sau:
Tội tham ô tài sản ở nước ta diễn biến phức tạp, thủ đoạn phạm tội tinh vi, tính
chất, quy mô, hậu quả ngày càng nghiêm trọng.
Các vụ án tham ô tài sản được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử trong những năm
gần đây tuy giảm về số vụ, nhưng lại có xu hướng tăng về số đối tượng tham gia; đồng thời quy mô, tính chất, giá trị tài sản bị chiếm đoạt ngày càng lớn.
Tham ô tài sản xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành và lĩnh vực, trong đó mỗi ngành,
lĩnh vực lại xảy ra ở một số khâu hoặc bộ phận nhất định.
Đối tượng phạm tội tham ô tài sản không chỉ là những người có chức vụ, quyền
hạn cao, mà cả những người có chức vụ, quyền hạn thấp như nhân viên kế toán, thủ quỹ,
thủ kho, trong đó có nhiều đảng viên.
- Sách chuyên khảo "Hoạt động của thanh tra chính phủ trong phòng ngừa tội
phạm về tham nhũng", do tác giả Nguyễn Hiếu Vinh chủ biên, Nhà xuất bản Công an
nhân dân, năm 2013. Với tính chất là sách chuyên khảo, các tác giả đã làm rõ được những
vấn đề sau:
Mô tả số liệu thống kê các tội phạm tham nhũng được khởi tố, truy tố, xét xử trong
thời gian 5 năm từ 2007 đến 2011; làm rõ cơ cấu tội phạm về tham nhũng để đi đến khẳng
định loại tội phạm chiếm đa số trong nhóm là tham ô tài sản; trung bình mỗi năm, tội
tham ô tài sản chiếm 52,64% số vụ án và 50,23% số bị can trong nhóm tội phạm tham
nhũng được khởi tố.
Về tính chất, quy mô các tội phạm tham nhũng, trong đó chủ yếu là tham ô tài sản thường hoạt động có tổ chức với sự tham gia của nhiều đối tượng, có sự móc nối, câu kết chặt chẽ với nhau.
Nêu và phân tích những thủ đoạn điển hình của tội tham nhũng, trong đó tham ô tài
sản là phổ biến, như: lợi dụng các kẽ hở trong quản lý kinh tế để trục lợi; sử dụng triệt để các phương tiện, kỹ thuật mới để thực hiện và che giấu tội phạm.
Chỉ ra một số lĩnh vực hay xảy ra tham nhũng, trong đó chủ yếu là tham ô tài sản, như: đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, hoạt động tín dụng, ngân hàng, quản lý đất đai.
- Luận án tiến sĩ "Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam", của tác giả Nguyễn Hải Phong, năm 2008.
12
Tại Chương 3 của Luận án, tác giả dành 1 mục để phân tích, đánh giá thực trạng tội phạm
về tham nhũng ở Việt Nam, trong đó những vấn đề được tác giả làm rõ trong Luận án là:
Mô tả số liệu thống kê các tội phạm tham nhũng được khởi tố trong khoảng thời
gian 6 năm từ 2001-2006; làm rõ cơ cấu tội phạm về tham nhũng để đi đến khẳng định tham ô tài sản là loại tội phạm chiếm đa số; nêu rõ trong thời gian từ năm 2001 đến năm
2006, số vụ án tham nhũng được khởi tố là 2.890 vụ/5.910 bị can, trong đó tham ô tài sản
chiếm tỷ lệ 65% về số vụ và 63% số bị can.
Trên cơ sở so sánh, làm rõ cơ cấu của các tội phạm về tham nhũng và khẳng định tội tham ô tài sản chiếm đa số, Luận án đã đánh giá những khía cạnh khác nhau về tình
hình tội phạm về tham nhũng, trong đó tội tham ô tài sản chiếm đa số, cụ thể: Các vụ án
tham nhũng thường có nhiều bị can tham gia; người phạm tội thường lôi kéo nhiều người
trong cơ quan tham gia và dùng các lợi ích vật chất hoặc tinh thần để ràng buộc họ; những
phương tiện, kỹ thuật hiện đại thường được sử dụng để thực hiện tội phạm và che giấu tội
phạm; tội phạm thường được thực hiện với các thủ đoạn như ký kết các hợp đồng kinh tế
khống, hoặc gửi giá vào các hợp đồng kinh tế để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách
nhiệm quản lý, đây là những thủ đoạn làm cho tỷ lệ tội phạm ẩn ngày càng cao; tài sản
nhà nước bị người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt thường xảy ra trên các lĩnh vực đầu
tư, xây dựng, đất đai, tài chính, ngân hàng.
- Sách chuyên khảo "Phòng, chống tham nhũng trong các tập đoàn kinh tế nhà
nước ở Việt Nam hiện nay", do tác giả Nguyễn Xuân Trường chủ biên, NXB Chính trị
quốc gia, năm 2016. Tại mục I của chương 2, nhóm tác giả đã phân tích, đánh giá tình
hình tham nhũng trong các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam. Những nội dung mà
các tác giả đề cập, phân tích có thể hiện một số yếu tố, đặc điểm của tình hình tội tham ô
tài, đó là:
Đưa ra số liệu thống kê để mô tả tình hình các tội phạm tham nhũng ở Việt Nam: trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến hết năm 2015, các cơ quan tố tụng đã: Khởi tố 2.905 vụ/ 6.195 bị can; Truy tố 2.831 vụ/ 6.166 bị can; Xét xử sơ thẩm 2.772 vụ/ 5.908 bị
cáo.
Phân tích, đánh giá tính chất diễn biến của tội phạm, những lĩnh vực thường xảy ra tội phạm tham nhũng, trong đó tham ô tài sản là phổ biến, cụ thể là: Tội phạm có xu hướng diễn biến tinh vi hơn, gia tăng về quy mô, mức độ nghiêm trọng; trong đó, số vụ đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp ngày càng nhiều; tính có tổ chức của nhiều vụ án rõ nét hơn; có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều; xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực, trong đó tập
13
trung ở một số lĩnh vực như tài chính, ngân hàng; đất đai; đầu tư xây dựng; quản lý, sử
dụng vốn, tài sản nhà nước.
Từ việc phân tích, đánh giá tình hình các tội phạm về tham nhũng, nhóm tác giả đã
rút ra được những thủ đoạn phạm tội như: Nâng giá trị hợp đồng để chia chác, nâng giá mua nguyên vật liệu để hưởng chênh lệch; lợi dụng việc cổ phần hóa doanh nghiệp,
những sơ hở trong quá trình thoái vốn để tham nhũng; lợi dụng chức vụ, quyền hạn chi
tiêu sai quy định; thực hiện chế độ lương thưởng không đúng; lập các công ty sân sau,
dựa vào vị trí, quan hệ của mình trong các doanh nghiệp nhà nước để trục lợi; sử dụng tiền công quỹ của doanh nghiệp trái quy định; đầu tư ngoài ngành chính của tập đoàn, gây
thất thoát tài sản của nhà nước, có biểu hiện trục lợi, chiếm đoạt; trong quản lý, sử dụng
đất đai, nhà xưởng và tài nguyên được giao quản lý, tham nhũng được thể hiện qua các
thủ đoạn: cho thuê đất, nhà xưởng với giá thấp, thời gian dài để hưởng phần trăm; tự ý
liên doanh, liên kết lập các dự án xây dựng.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nguyên nhân của tội tham ô tài
sản ở Việt Nam
Để tìm ra được nguyên nhân của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay, đòi hỏi việc nghiên cứu phải dựa trên kết quả của việc phân tích, đánh giá tình
hình của tội tham ô tài sản trong khoảng thời gian tương ứng. Và điều này đã được các tác
giả thể hiện trong những công trình nghiên cứu của mình, đó là:
- Sách chuyên khảo "Một số vấn đề cơ bản về phòng ngừa và chống tham nhũng",
do tác giả TS. Nguyễn Văn Thanh chủ biên, Nhà xuất bản tư pháp, năm 2004.
Trong cuốn sách này, các tác giả đã dành một Chương để nêu và phân tích những
hiện tượng xã hội tiêu cực trong mối quan hệ tương tác với các yếu tố tiêu cực khác làm
phát sinh tham nhũng, trong đó tham ô tài sản là phổ biến, các hiện tượng đó là:
Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng nói chung, tham ô tài sản nói riêng chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; việc xử lý còn chưa nghiêm;
Chưa xây dựng được cơ chế phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong đó có tham ô tài sản thống nhất, đồng bộ, nên chưa huy động và phối hợp được sức mạnh của toàn xã hội;
Cải cách hành chính còn chậm, lúng túng, cơ chế xin, cho còn phổ biến; thủ tục
hành chính phiền hà, bất hợp lý, tạo kẽ hở cho việc tham ô, vụ lợi phát sinh;
14
Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái; công tác tổ
chức quản lý, sử dụng công chức, cán bộ yếu kém, tạo điều kiện cho tham ô, vụ lợi phát
sinh;
Kiểm soát và minh bạch hóa thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức còn khó khăn,
mang tính hình thức, chưa có kết quả thật sự;
Thiếu các công cụ phát hiện, xử lý tham nhũng, trong đó tham ô tài sản là phổ
biến;
Chưa quan tâm đúng mức đến việc huy động lực lượng đông đảo nhân dân, lực lượng báo chí vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói
riêng.
- Sách chuyên khảo "Hoạt động của thanh tra chính phủ trong phòng ngừa tội
phạm về tham nhũng", do tác giả Nguyễn Hiếu Vinh chủ biên, Nhà xuất bản Công an
nhân dân, năm 2013.
Trong cuốn sách này, các tác giả đã chỉ ra những yếu tố thuộc về nguyên nhân và
điều kiện khách quan như: Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện tạo ra các kẽ hở cho tham
ô, vụ lợi phát sinh, phát triển; sự tồn tại, đan xen giữa cái cũ và cái mới trong quá trình
chuyển đổi cơ chế; các chuẩn mực đánh giá không rõ ràng, tạo điều kiện cho sự lợi dụng
vị trí, quyền lực để chiếm đoạt tài sản mình có trách nhiệm quản lý; những ảnh hưởng tiêu
cực từ mặt trái của cơ chế thị trường, sự chi phối của lợi ích vật chất, các giá trị xã hội bị
đảo lộn dẫn đến việc gia tăng các hành vi đục khoét tiền, tài sản của nhà nước; do ảnh
hưởng của tập quán văn hóa trả ơn, biếu quà đã tạo điều kiện cho hành vi tham ô, hối lộ
phát triển.
Tiếp đó, các tác giả chỉ ra những yếu tố thuộc về nguyên nhân và điều kiện chủ
quan như: Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái; công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên còn yếu kém; sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng, chống tham nhũng, mà phổ biến là tham ô tài sản trong một số trường hợp chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; xử lý chưa nghiêm đối với hành vi tham nhũng; chức
năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước trong đấu tranh chống tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản chưa rõ ràng, thậm chí chồng chéo, thiếu một cơ chế phối hợp cụ thể, hữu hiệu; thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham nhũng hữu hiệu, đặc biệt việc thu thập chứng cứ để chứng minh hành vi tham ô, nhận hối lộ là rất khó khăn; việc huy động nhân dân cũng như sự tham gia của lực lượng báo chí vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản còn chưa được quan tâm đúng mức.
15
- Luận án tiến sĩ luật học “Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Hải Phong, năm
2008.
Trong phần tình hình các tội phạm về tham nhũng, Luận án đã khẳng định trong cơ cấu của nhóm tội tham nhũng, tham ô tài sản là loại tội phạm chiếm đa số. Do đó, các
nguyên nhân, điều kiện của nhóm tội tham nhũng đều liên quan trực tiếp đến nguyên nhân
của tội phạm cụ thể là tham ô tài sản và đã được tác giả làm rõ trong Luận án như sau:
Các nguyên nhân, điều kiện về cơ chế pháp luật: Hiến pháp và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa quy định cơ chế xử
lý văn bản quy phạm pháp luật theo thủ tục tố tụng tại tòa án nhân dân; cơ chế xin cho
còn tồn tại trong nhiều luật và văn bản dưới luật, dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng pháp
luật của cán bộ, công chức nhà nước; nhiều quy định trong các văn bản pháp luật không
phù hợp với thực tế.
Các nguyên nhân, điều kiện thuộc về công tác tổ chức, cán bộ:
Tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước còn cồng kềnh; việc phân định chức năng,
nhiệm vụ còn trùng lắp, chồng chéo, chưa rõ ràng và thiếu hợp lý; việc đào tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ còn bất hợp lí.
Các nguyên nhân, điều kiện thuộc về đời sống kinh tế, xã hội:
Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến sự tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường và những thiếu thốn của đời sống vật chất.
- Sách chuyên khảo “Phòng, chống tham nhũng trong hoạt động công vụ ở Việt
Nam lý luận và thực tiễn”, của tác giả Nguyễn Quốc Sửu, NXB Chính trị quốc gia, năm
2013.
Trong cuốn sách này, liên quan đến việc xác định nguyên nhân của tội tham ô tài sản, trên cơ sở khái quát tham nhũng là biểu hiện của lòng tham không được kiểm soát, tác giả đã cụ thể hóa và làm rõ một số nguyên nhân của tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng, đó là: do quan hệ giữa các chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước thiên về
thống nhất, phối hợp hơn là đối trọng và kiểm soát; do sự lấn át của bộ máy hành chính; do sự chuyển đổi các giá trị, rối loạn thiết chế xã hội, biến đổi chuẩn mực xã hội; do tình trạng thiếu minh bạch về thông tin.
Mặc dù tác giả đã phân tích làm rõ một số nhân tố tác động đến sự gia tăng của tội tham ô tài sản ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, các yếu tố này mới chỉ phản ảnh được một mảng là về hoạt động quản lý công vụ, trong khi đối tượng của hành vi tham ô
là các loại tài sản của nhà nước ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
16
- Sách chuyên khảo “Phòng, chống tham nhũng trong các tập đoàn kinh tế nhà
nước ở Việt Nam hiện nay”, của tác giả Nguyễn Xuân Trường, NXB Chính trị quốc gia,
năm 2016.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình tham nhũng trong các tập đoàn kinh tế nhà nước, tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân, điều kiện nảy sinh tham nhũng trong các tập
đoàn kinh tế nhà nước, các nguyên nhân, điều kiện đó là:
Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của tập đoàn kinh tế nhà
nước chưa đầy đủ và hoàn thiện;
Vai trò đầu tàu trong phát triển kinh tế, xã hội đất nước của một số tập đoàn kinh tế
còn hạn chế, hiệu quả chưa tương xứng với nguồn lực được giao;
Nguồn lực vốn phân tán, hiệu quả đầu tư thấp, tiềm ẩn rủi ro cao, một số tập đoàn
thành lập quá nhiều tầng nấc các công ty con, công ty liên kết dẫn đến trùng lắp, tổ chức
sản xuất, kinh doanh không hợp lý, cạnh tranh nội bộ, giảm hiệu quả kinh doanh;
Tập đoàn kinh tế nhà nước có mặt ở nhiều bộ, ngành quản lý nhà nước; các bộ
ngành đó vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý
doanh nghiệp kinh doanh ở các lĩnh vực do chính mình phụ trách, tạo ra đặc quyền đặc
lợi, hưởng nhiều chính sách ưu đãi vốn của Chính phủ dẫn đến sự lạm quyền làm trái quy
định của nhà nước, gây thất thoát vốn, tài sản của nhà nước;
Công tác quản lý vốn đầu tư quá lỏng lẻo dẫn đến việc ra quyết định đầu tư tùy
tiện của người đứng đầu doanh nghiệp;
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong các tập đoàn kinh tế nhà nước còn chưa phát huy,
công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng còn buông lỏng; vị trí, vai trò, cơ chế hoạt
động và trách nhiệm lãnh đạo doanh nghiệp của các tổ chức đảng chưa được thể chế hóa
trong các văn bản pháp luật nhà nước; mô hình tổ chức đảng trong các doanh nghiệp nhà nước không thống nhất, mờ nhạt vai trò lãnh đạo.
- Sách chuyên khảo "Một số vấn đề lý luận, thực tiễn 30 năm đổi mới về phòng, chống tham nhũng, lãng phí (1986-2016)”, Ban nội chính trung ương, do các tác giả
Nguyễn Bá Thanh và Phan Đình Trạc chủ biên, NXB Chính trị quốc gia, năm 2016.
Từ việc phân tích, đánh giá thực tiễn của 30 năm đổi mới, các tác giả đã chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong hoạt động phòng, chống tham nhũng; trong đó, một số nội dung liên quan đến nguyên nhân của tội tham ô tài sản đã được các tác giả làm rõ trong cuốn sách, đó là: những yếu kém trong trách nhiệm của người đứng đầu; những hạn chế trong xây dựng, thực hiện chính sách kinh tế; những bất cập, yếu kém
17
trong tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước; những khó khăn, cản trở đối với hoạt động
chống, phòng ngừa tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng.
- Đề án "Cơ chế, chính sách đấu tranh, xử lý hiệu quả các vụ án tham nhũng, đặc
biệt là các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ", của Viện kiểm sát nhân tối cao, năm 2015.
Đề án đã tập trung phân tích những hạn chế, yếu kém trong hoạt động quản lý, chỉ
đạo, điều hành về chống và phòng ngừa tham ô tài sản; phân tích làm rõ những khó khăn,
hạn chế trong hoạt động phát hiện, xử lý các đối tượng tham ô tài sản.
- Đề tài khoa học cấp bộ của Thanh tra Chính phủ "Một số vấn đề về quản lý nhà nước trong phòng, chống tham nhũng", do tác giả Ngô Mạnh Hùng làm chủ nhiệm, năm
2013. Một số vấn đề liên quan đến nguyên nhân của tội tham ô tài sản được các tác giả
làm rõ là:
Phân tích những tồn tại, hạn chế trong hoạt động tổ chức, điều hành công tác xây
dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, định hướng, chiến lược về phòng, chống tham
nhũng;
Phân tích những hạn chế yếu kém trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật
về phòng, chống tham nhũng;
Phân tích những tồn tại, hạn chế trong tổ chức thực hiện các biện pháp phòng
ngừa tham nhũng;
Phân tích những tồn tại, hạn chế trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng;
Hạn chế trong hoạt động phòng, chống tham nhũng của các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội;
Phân tích những hạn chế, yếu kém trong các hoạt động khác liên quan đến chất
lượng, hiệu quả phòng, chống tham nhũng.
1.1.4. Các công trình nghiên cứu liên quan đến biện pháp nâng cao hiệu quả
phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới
- Luận án tiến sĩ luật học “Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Hải Phong, năm
2008. Một số vấn đề liên quan đến việc đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới đã được tác giả làm rõ tại chương 4 của Luận án, đó là:
Xác định rõ việc nâng cao chất lượng các hoạt động nghiệp vụ của Viện kiểm sát
nhân dân là một biện pháp để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng;
Việc đổi mới tổ chức bộ máy, công tác đào tạo cán bộ làm công tác nghiệp vụ có
vai trò quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tham nhũng.
18
- Đề tài khoa học cấp bộ "Phòng, chống tham nhũng từ việc hoạch định chính sách
khoáng sản" của Viện xây dựng đảng thuộc Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, do tác giả Nguyễn Minh Tuấn làm chủ nhiệm, năm 2013. Một số biện pháp
liên quan mà các tác giả đề cập trong Đề tài, có thể tham khảo, vận dụng khi nghiên cứu để đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản, đó là:
Nâng cao nhận thức, kiến thức về chính sách phòng, chống tham nhũng đối với
hoạt động khoáng sản, trong đó cần nâng cao nhận thức về vai trò của hoạt động khoáng
sản và chính sách trong phòng, chống tham nhũng đối với hoạt động khoáng sản; nâng cao kiến thức hiểu biết về chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong hoạt động
khoáng sản, góp phần phòng, chống tham nhũng.
Phát huy sáng kiến pháp luật góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách trong hoạt
động khoáng sản.
Thực hiện đúng thẩm quyền, nguyên tắc, phương châm ban hành chính sách hoạt
động khoáng sản, trong đó phải đảm bảo tính lợi ích hài hòa giữa nhà nước, doanh nghiệp
và nhân dân khu vực có khoáng sản; chính sách hoạt động khoáng sản phải đảm bảo tính
đồng bộ, đầy đủ, khoa học và khả thi; thực hiện công khai, minh bạch trong sản xuất, kinh
doanh khoáng sản.
Đổi mới quy trình soạn thảo, ban hành chính sách về hoạt động khoáng sản theo
quy định của pháp luật.
Có cơ chế để phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong việc
soạn thảo, ban hành chính sách trong hoạt động khoáng sản.
Thực hiện dân chủ, công khai các chính sách về hoạt động khoáng sản.
Hoàn thiện hệ thống tổ chức, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhằm nâng
cao năng lực cho các cơ quan ban hành chính sách trong hoạt động khoáng sản.
- Đề tài khoa học cấp bộ "Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng của Thanh tra Chính phủ", của Thanh tra Chính phủ, do Thạc sĩ Văn Tiến Mai làm chủ nhiệm, năm 2012.
Mặc dù các biện pháp được đề cập trong Đề tài này tập trung ở hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng chống tham nhũng; và chỉ liên quan đến 1 biện pháp để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tham ô tài sản. Tuy nhiên, với những nội dung này, NCS có thể vận dụng để cụ thể hóa và đa dạng các hoạt động của biện pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong Luận án của mình, đó là:
Hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về phòng, chống tham nhũng.
19
Đề cao vai trò của Thanh tra Chính phủ trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về phòng, chống tham nhũng.
Xác định nội dung, trọng tâm tuyên truyền phù hợp với yêu cầu công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Tiếp tục đa dạng hóa phương thức, hình thức tuyên truyền, phổ biến.
Phân loại đối tượng tuyên truyền để sử dụng phương thức, nội dung tuyên truyền
phù hợp; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, báo cáo viên tuyên truyền.
Tăng cường sự phối hợp giữa hệ thống cơ quan thanh tra với các cơ quan khác
trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
- Đề án “Cơ chế, chính sách đấu tranh, xử lý hiệu quả các vụ án tham nhũng, đặc
biệt là các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ”, của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, năm
2015.
Những vấn đề liên quan đến biện pháp phòng ngừa tội tham ô tài sản đã được làm
rõ trong Đề án là: Hoàn thiện cơ chế, chính sách đấu tranh, xử lý các vụ án tham ô tài sản;
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các lực lượng chuyên trách điều tra, xử lý
các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các tội tham ô tài sản.
- Sách chuyên khảo “Phòng, chống tội phạm tham nhũng có yếu tố nước ngoài
trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế”, của tác giả Nguyễn Xuân Trường, NXB
Chính trị quốc gia, năm 2012. Với tính chất là sách chuyên khảo, một số biện pháp mà tác
giả đưa ra có sự liên quan và có thể vận dụng để đề xuất các biện pháp phòng ngừa tham
ô tài sản, đó là:
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế, xã hội; hoàn
thiện cơ chế, chính sách về công tác cán bộ phục vụ phòng, chống tham nhũng; nâng cao
vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng.
Đẩy mạnh tiến trình cải cách hành chính góp phần hạn chế, xóa bỏ điều kiện nảy
sinh tham nhũng.
Tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh, hiệu quả quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.
Rà soát, nghiên cứu xây dựng, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
về phòng, chống tham nhũng và tội phạm tham nhũng có yếu tố nước ngoài.
20
Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán.
Điều tra, xử lý nghiêm minh, dứt điểm các vụ án; tập trung nắm tình hình, xác minh, kết
luận kịp thời các nguồn tin về tội phạm tham nhũng có yếu tố nước ngoài.
Xây dựng, củng cố hệ thống cơ quan, đơn vị chuyên trách bảo đảm thực quyền, đủ
sức mạnh trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp phục vụ công tác điều tra, xử lý
tội phạm tham nhũng.
Hợp tác quốc tế, thực thi Công ước Liên hơp quốc về chống tham nhũng, chú trọng tổng kết thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài trong công tác phòng,
chống tội phạm tham nhũng.
Như vậy, khi vận dụng một số biện pháp nêu trên để đưa ra các biện pháp phòng
ngừa tham ô tài sản, đòi hỏi phải khái quát, tổng hợp thành những biện pháp cụ thể hơn,
và bám sát những nguyên nhân của tội tham ô tài sản.
- Sách chuyên khảo "Hoạt động của thanh tra chính phủ trong phòng ngừa tội
phạm về tham nhũng", do tác giả Nguyễn Hiếu Vinh chủ biên, Nhà xuất bản Công an
nhân dân, năm 2013. Một số vấn đề liên quan đến dự báo tình hình tội tham ô tài sản; biện
pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản được tác giả làm rõ trong cuốn
sách:
Đưa ra những xu hướng phát triển của các tội phạm tham nhũng, trong đó có tham
ô tài sản ở nước ta trong thời gian tới, đó là: Có chiều hướng ngày càng gia tăng, diễn
biến phức tạp và nghiêm trọng; thủ đoạn ngày càng tinh vi; mục đích ngày càng đa dạng;
có diễn biến phức tạp trong một số lĩnh vực như: doanh nghiệp nhà nước; hành chính sự
nghiệp; tư pháp; quản lý tài sản công như tài chính, tiền tệ, đất đai, khoáng sản.
Đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ về phòng
ngừa tội phạm tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản, đó là:
Các giải pháp nâng cao năng lực, phẩm chất, trách nhiệm của cán bộ, công chức,
tăng cường kiểm soát hoạt động công vụ nhằm phòng ngừa tham nhũng;
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế, xã hội nhằm nâng cao
hiệu quả phòng ngừa tham nhũng;
Các giải pháp nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt của các cơ quan nhà nước trong
phát hiện và xử lý tham nhũng;
Các giải pháp nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của xã hội trong đấu tranh
chống tham nhũng;
21
Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chỉ đạo trung ương về
phòng, hống tham nhũng.
- Sách“ Tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn 30 năm đổi mới về phòng,
chống tham nhũng, lãng phí", Ban nội chính trung ương, do các tác giả Nguyễn Bá Thanh và Phan Đình Trạc chủ biên, NXB Chính trị quốc gia, năm 2016.
Với kết cấu 3 chương, cuốn sách đã dành 1 chương để đưa ra một số đề xuất nâng
cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, đó là:
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng theo hướng bảo đảm tính khả thi của các biện pháp phòng ngừa và xử lý tham nhũng như quy định về trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, đơn vị; quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của
cơ quan, tổ chức, kiểm soát tài sản, thu nhập; quy định về tặng quà, nhận quà; về thu hồi
tài sản tham nhũng; giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo vệ người tố cáo tham nhũng; nội luật
hóa các quy định của Công ước quốc tế về chống tham nhũng phù hợp với điều kiện của
Việt Nam.
Hoàn thiện quy định của pháp luật để phát huy mạnh mẽ vai trò của các cơ quan
dân cử, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, báo chí và mọi người dân trong phòng,
chống tham nhũng, xây dựng văn hóa phòng, chống tham nhũng.
Hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp theo hướng quy định cụ thể những
trường hợp bắt buộc phải giám định; thời gian, trình tự, thủ tục giám định; kết luận giám
định, cơ quan trưng cầu giám định và những vấn đề khác về giám định trong các vụ án
tham nhũng.
Thiết lập cơ chế kiểm soát nguy cơ tham nhũng từ khâu xây dựng chính sách, chỉ
ra những yếu tố tiềm ẩn nguy cơ nảy sinh tham nhũng trong cơ chế, chính sách, pháp luật.
Tăng cường sức mạnh cho các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng;
đồng thời xây dựng cơ chế giám sát có hiệu quả nhằm ngăn ngừa sự lạm quyền.
Xây dựng, hoàn thiện quy định để mở rộng hoạt động phòng, chống tham nhũng
xảy ra trong khu vực ngoài nhà nước.
Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng, nhất là hợp tác tư pháp trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tham nhũng, chế định dẫn độ tội phạm và chuyển giao tài sản tham nhũng.
Trong cuốn sách này, những biện pháp mà các tác giả đưa ra khá đầy đủ và phong phú trên các phương diện khác nhau của hoạt động phòng, chống tham nhũng, nhưng đó lại là những biện pháp phòng ngừa đối với cả nhóm tội phạm; nên để đưa ra các biện pháp
22
phòng ngừa đối với một tội phạm cụ thể là tham ô tài sản, đòi hỏi phải cụ thể hóa các biện
pháp đó cho phù hợp với đặc thù của loại tội phạm cần phòng ngừa.
1.2. Tình hình nghiên cứu của nước ngoài liên quan đến đề tài
Qua nghiên cứu, tìm hiểu một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến vấn đề phòng ngừa hoặc chống tội tham ô tài sản, NCS thấy các tác giả đã làm rõ một số
vấn đề sau:
1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nguyên nhân của tội tham ô tài
sản
- Sách “Các biện pháp chống tham ô đối với doanh nghiệp nhỏ”. (Anti-
Embezzlement Methods for Small Businesses) của tác giả J.H White, Publishing Press,
1994.
Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích làm rõ nguyên nhân chính của tình trạng
tham ô ở các doanh nghiệp nhỏ là: do một số người được giữ một số quyền hạn nhất định
cũng đồng thời là người quản lý tiền, tài sản của doanh nghiệp, nên dẫn đến việc lợi dụng
quyền hạn đó để chiếm đoạt tài sản của doanh nghiệp.
- Sách “Ngăn ngừa nạn tham ô và lạm dung ngân quĩ trong nhà thờ” (Preventing
Embezzlement and Misuse of Church Funds) của tác giả O.J. Prum, Wiley Publisher,
1989.
Trong cuốn sác này, tác giả đã mô tả về nạn tham ô và lạm dụng ngân quĩ trong
một số nhà thờ ở Mỹ; qua đó nêu nguyên nhân của nạn tham ô trong một số nhà thờ ở Mỹ
là do chính sách tôn giáo nên hoạt động kiểm soát ngân quỹ không được thực hiện thường
xuyên, hiệu quả kiểm soát thấp.
- Sách “Ngăn ngừa gian dối và lạm dụng công quĩ” (Preventing fraud and abuse of
public funds) của tác giả Thomas P. DiNapoli, Rocky Mount Publisher, 8/2010.
Trong cuốn sách này, tác giả phân tích làm rõ một trong những nguyên nhân phổ biến của tình trạng gian dối và lạm dụng công quỹ là do những kẽ hở, sự lỏng lẻo của hoạt động quản lý công quỹ như không giám sát chặt chẽ trong mua sắm tài sản công, trong
đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi.
- Sách “Ngăn chặn biển thủ trong các Doanh nghiệp nhỏ” (Preventing embezzlement, US small Bussiness Administration) của tác giả C.J. Moran, US small Bussiness Administration, năm 1973.
Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu rõ nguyên nhân của tình trạng tham ô trong
các doanh nghiệp nhỏ ở Hoa Kỳ là do quyền quản lý tiền, tài sản đều tập trung trong tay
của một vài người, trong khi hoạt động kiểm soát lại bị coi nhẹ.
23
- Bài viết tạp chí, “Tham nhũng, việc phòng ngừa và kiểm tra” (Embezzlement and
its prevention and examination) của tác giả Yao, W. A. N.G, tạp chí Khoa học và công
nghệ An Huy, số 4/2005; trong bài viết, tác giả đã nêu một trong những nguyên nhân của
tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản là do hiệu quả của hoạt động phòng ngừa, kiểm tra còn kém, nên tình trạnh tham ô, hối lộ không được kịp thời phát hiện, xử lý.
- Bài viết tạp chí “Lừa dối, gian lận nhân viên; phát hiện, ngăn ngừa và truy tố”
(Employee Embezzlement and Fraud; Detection, Prevention, and Prosecution) của tác giả
Lewis, Donald P, Hội nghị thường niên lần thứ 2, năm 2012; trong bài viết này, tác giả cho rằng việc các nhà quản lý doanh nghiệp thường xuyên lừa dối hoặc gian lận với nhân
viên trong việc sử dụng vốn, ngân quỹ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham ô, biển thủ
tiền của doanh nghiệp.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến biện pháp phòng ngừa hoặc
phòng chống tội tham ô tài sản
- Sách “Các biện pháp chống tham ô đối với doanh nghiệp nhỏ” (Anti-
Embezzlement Methods for Small Businesses) của tác giả J.H White, Publishing Press,
1994. Trong cuốn sách này, tác giả nêu ra một số biện pháp để chống lại tình trạng tham ô
trong các doanh nghiệp là chia nhỏ việc quản lý tiền, tài sản cho nhiều người; thường
xuyên thực hiện hoạt động kiểm soát việc sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp.
- Sách “Ngăn ngừa nạn tham ô và lạm dung ngân quĩ trong nhà thờ” (Preventing
Embezzlement and Misuse of Church Funds) của tác giả O.J. Prum, Wiley Publisher,
1989. Trong cuốn sách này, tác giả đã đưa ra các biện pháp kiểm soát ngân quĩ cũng như
ngăn ngừa các thủ đoạn gian dối để tham ô và lạm dụng công quĩ trong nhà thờ.
- Sách “Ngăn ngừa gian dối và lạm dụng công quĩ” (Preventing fraud and abuse of
public funds) của tác giả Thomas P. DiNapoli, Rocky Mount Publisher, 8/2010. Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích nhiều vụ án điển hình về lạm dụng công quĩ trong đó có phân tích nhiều trường hợp sử dụng thủ đoạn gian dối để tham ô tài sản, đồng thời, đánh giá thiệt hại nặng nề mà những vụ án này gây ra cho xã hội; vai trò của cơ quan cảnh
sát trong phát hiện và xử lí hình sự đối với loại tội phạm này, các biện pháp nhằm đối phó với nạn tham nhũng trong sử dụng công quĩ;
- Bài viết tạp chí "Tập trung vào những gì bạn có thể kiểm soát: phát hiện tham nhũng so với phòng ngừa" (Focus on what you can control: embezzlement detection vs. prevention), tác giả Schafer, J, Tạp chí của Hiệp hội Nha khoa Michigan 96.7 (2014). Trong bài viết này, tác giả cho rằng trong phòng ngừa tham nhũng, bao gồm cả tham ô tài
24
sản, việc tăng cường, tập trung kiểm soát hoạt động quản lý và sử dụng ngân quỹ là biện
pháp hữu hiệu hơn cả so với việc phát hiện và xử lý tham nhũng.
- Bài viết tạp chí “Ngăn chặn sự tham ô” (Preventing Embezzlement), tác giả Ogg
Gerald W, Tạp chí Luật sư. Mgmt, số 16/2009. Trong bài viết, tác giả đã nhấn mạnh cần phải có biện pháp ngăn chặn sự tham ô bằng cách tránh tập trung việc quản lý công quỹ,
tài sản vào một số ít cá nhân, vì như vậy sẽ họ sẽ nảy sinh lòng tham và có điều kiện để
chiếm đoạt làm của riêng.
Như vậy, tình hình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài Luận án cho thấy tham ô tài sản diễn ra phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới; đặc biệt đối với các loại
hình doanh vừa và nhỏ, tham ô tài sản thường được thực hiện thông qua thủ đoạn gian
dối; nguyên nhân của tham ô tài sản chủ yếu là việc quản lý tài sản còn lỏng lẻo, hoặc tập
trung vào một số rất ít người, việc kiểm soát chưa chặt chẽ; biện pháp phòng ngừa tham ô
tài sản được các tác giả đề cập đến là tăng cường kiểm soát, kiểm tra việc sử dụng ngân
quỹ, chia nhỏ quyền quản lý tài sản cho nhiều người, tăng cường vai trò của cảnh
sát…Với những nội dung này, NCS có thể tham khảo, tiếp thu để vận dụng khi đề xuất
các biện pháp phòng ngừa tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới.
2. Đánh giá tình hình nghiên cứu
2.1. Những vấn đề luận án kế thừa
Đối với cơ sở lý luận về phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam
Mặc dù các công trình nghiên cứu cơ sở lý luận về phòng ngừa tội tham ô tài sản ở
Việt Nam ở các phương diện và cấp độ khác nhau, nhưng về cơ bản các công trình nghiên
cứu nêu trên đã đạt được những kết quả như sau:
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
bản chất của tham nhũng nói chung, tham ô tài sản nói riêng; mục đích của hoạt động phòng, chống tham nhũng trong đó có tham ô tài sản đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
- Với việc phân tích làm rõ các dấu hiệu, đặc điểm đặc thù về các dạng hành vi
khách quan, chủ thể, động cơ, mục đích, thủ đoạn của các tội phạm tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản, làm cơ sở có thể vận dụng để đưa ra các biện pháp phòng ngừa đối với nhóm tội phạm về tham nhũng.
- Trên cơ sở phân tích làm rõ các nội dung, mục tiêu, trách nhiệm, chủ thể của quản lý nhà nước đối với hoạt động phòng, chống tham nhũng, các công trình nghiên cứu tạo cơ sở cần thiết để đưa ra các biện pháp, kiến nghị đối với việc nâng cao hiệu quả
phòng ngừa tội tham ô tài sản ở nước ta.
25
- Trên cơ sở phân tích những tác động của việc thực thi Công ước quốc tế về
phòng, chống tham nhũng đối với hiệu quả hoạt động phòng, chống tham nhũng ở Việt
Nam, có thể vận dụng để đánh giá tình hình của các tội phạm tham nhũng nói chung và
tham ô tài sản nói riêng.
- Từ những cách thức thực hiện các hoạt động phòng, chống tham nhũng nói
chung, tham ô tài sản nói riêng, các công trình nghiên cứu đã tạo ra những tiền đề cần
thiết để đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản.
Đối với tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam Khi nghiên cứu về tình hình các tội phạm về tham nhũng, ở các mức độ khác nhau,
các công trình đã khái quát được mức độ, cơ cấu, tính chất của tội phạm cũng như diễn
biến của nó; đưa ra được một số nhận định, đánh giá khá sát hợp với tình hình, làm căn cứ
cho việc xác định nguyên nhân và đề xuất những biện pháp phòng ngừa các tội phạm về
tham nhũng. Mặc dù nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau về tình hình tội tham ô tài
sản ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua, nhưng các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm
rõ được một số nội dung cơ bản của tình hình tội tham ô tài sản, đó là:
Mô tả những thông số thống kê về tình hình của tội tham ô tài sản ở Việt Nam
trong thời gian gần 10 năm, từ 2005 đến 6 tháng đầu năm 2014, trong đó: khởi tố 1800
vụ/3518 bị can về tội tham ô tài sản; truy tố 1661 vụ/ 3560 bị can; xét xử sơ thẩm 1518
vụ/3002 bị cáo. Từ đó, rút ra những nhận xét về diễn biến, quy mô, tính chất, thủ đoạn,
hậu quả của tội tham ô tài sản ở Việt Nam những năm vừa qua.
Phân tích và đưa ra những khâu thuộc các lĩnh vực hay xảy ra tham ô tài sản như:
đầu tư, xây dựng cơ bản; tài chính, ngân hàng; thực hiện chính sách xã hội; quản lý đất
đai; y tế, giáo dục…
Mô tả số liệu thống kê các tội phạm tham nhũng được khởi tố, truy tố, xét xử trong thời gian 5 năm từ 2007 đến 2011; làm rõ cơ cấu tội phạm về tham nhũng và đi đến khẳng định, đánh giá tỷ lệ tội tham ô tài sản trong đó: trung bình mỗi năm, tội tham ô tài sản chiếm 52,64% số vụ án và 50,23% số bị can trong nhóm tội phạm tham nhũng được khởi
tố.
Mô tả số liệu thống kê các tội phạm tham nhũng được khởi tố trong khoảng thời gian 6 năm từ 2001-2006; làm rõ cơ cấu tội phạm về tham nhũng để đi đến khẳng định số vụ án và bị can về tội tham ô tài sản chiếm tỷ lệ chủ yếu.
Phân tích đặc điểm tình hình các tội phạm về tham nhũng có yếu tố nước ngoài,
trong đó tham ô tài sản là loại tội phổ biến trong nhóm tội về tham nhũng.
Đối với nguyên nhân của tội tham ô tài sản ở Việt Nam
26
Nghiên cứu về nguyên nhân của các tội phạm về tham nhũng, các công trình đã
tiếp cận ở mức độ tổng thể và bộ phận, làm rõ từng nhóm nguyên nhân của các tội phạm
về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng, như nguyên nhân thuộc về chính
sách pháp luật, nguyên nhân từ phía người phạm tội, nguyên nhân từ sự lỏng lẻo trong tổ chức và quản lý kinh tế, nguyên nhân từ hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Trên cơ sở phân tích sự tương tác giữa các yếu tố xã hội tiêu cực dẫn đến việc phát
sinh, gia tăng các tội phạm về tham nhũng nói chung, tham ô tài sản nói riêng, các công
trình nghiên cứu đã chỉ ra được những nguyên nhân của các tội phạm về tham nhũng, trong đó tham ô tài sản là phổ biến, đó là:
Nêu và phân tích những nguyên nhân tác động từ bên ngoài vào Việt Nam như: sự
biến động mạnh mẽ về chính trị, kinh tế trên thế giới; sự lũng đoạn của các tập đoàn kinh
tế; sự tồn tại của các xã hội thiếu dân chủ, nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu.
Nêu và phân tích những nguyên nhân tác động trực tiếp đến sự gia tăng các tội
phạm về tham nhũng, mà tham ô tài sản là phổ biến, đó là:
+ Những yếu kém về lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động phòng, chống tham
nhũng;
+ Những hạn chế trong xây dựng cơ chế, chính sách quản lý kinh tế;
+ Những hạn chế trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật;
+ Những hạn chế trong công tác tổ chức cán bộ;
+ Những hạn chế trong cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế;
+ Sự báo động về vấn đề đạo đức của cán bộ, công chức;
+ Sự chuyển đổi, rối loạn các thiết chế xã hội;
+ Sự thiếu minh bạch về thông tin, tài sản, thu nhập;
+ Sự thiếu thốn, lạc hậu về công cụ, phương tiện phát hiện, xử lý tham nhũng. Đối với các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt
Nam
Khi nghiên cứu và đề xuất các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng
nói chung và tham ô tài sản nói riêng, về cơ bản các công trình đã căn cứ vào tình hình tội phạm, nguyên nhân của tội phạm, từ đó đề xuất các biện pháp gắn với từng lĩnh vực, ảnh hưởng đến hành vi của người phạm tội. Các biện pháp có thể kể đến như: Hoàn thiện chính sách pháp luật về quản lý kinh tế, siết chặt hoạt động tổ chức và quản lý kinh tế thông qua sự đổi mới về hình thức, cách thức cho phù hợp với những đặc điểm đặc thù của nền kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các công trình không chỉ cung cấp cho NCS
nhiều thông tin, số liệu, nhận định có ý nghĩa trực tiếp đối với việc nghiên cứu về phòng
27
ngừa tội tham ô tài sản, mà còn gợi mở việc nghiên cứu tiếp tục vấn đề để giải quyết
những yêu cầu do thực tiễn khách quan đặt ra.
2.2. Những vấn đề chưa được nghiên cứu hoặc khi nghiên cứu có nhiều quan
điểm khác nhau
Đối với cơ sở lý luận về phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu còn dàn trải đối với tính chất, đặc điểm của cả nhóm
tội phạm về tham nhũng, những nội dung chưa được làm rõ trong công trình nghiên cứu
là: phân tích những đặc điểm đặc thù về dạng hành vi, chủ thể, động cơ, mục đích, thủ đoạn cụ thể của tội tham ô tài sản; nội dung, trách nhiệm, chủ thể của quản lý nhà nước
đối với hoạt động phòng, chống tội tham ô tài sản; cách thức thực hiện các hoạt động
phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam. Đó là những vần đề mà NCS phải tiếp tục
nghiên cứu để hoàn thiện Luận án của mình.
Về tình hình của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Trong các công trình nghiên cứu được nêu ở trên, có 3 công trình nghiên cứu đề
cập đến tình hình các tội phạm tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản ở Việt Nam trong
khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, những số liệu đó vừa được các tác giả cập nhật
cách đây nhiều năm, không còn tính kịp thời, vừa lại là số liệu chung cho tất cả các tội
phạm về tham nhũng nên không phù hợp với việc nghiên cứu đề tài mà NCS đã lựa chọn;
do đó, cần thiết phải có những số liệu cụ thể, kịp thời để phục vụ cho việc nghiên cứu đề
tài phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ tập trung phân tích, đánh giá thực trạng
của hoạt động phòng, chống tham nhũng nói chung, tham ô tài sản nói riêng, mà chưa tập
trung nghiên cứu thực trạng về mức độ và thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản,
để làm cơ sở đánh giá tình hình của tội tham ô tài sản trong giai đoạn hiện nay.
- Trong các công trình nghiên cứu nêu trên, chỉ có 2 công trình nghiên cứu đề cập đến diễn biến của các tội phạm tham nhũng nói chung, mà chưa đề cập đến diễn biến cụ thể của tội tham ô tài sản, để trên cơ sở đó có thể đưa ra những dự báo về tình hình của
loại tội phạm này.
- Khi nghiên cứu cụ thể từng nội dung, các công trình chưa đáp ứng được một số
vấn đề lý luận có tình nền tảng, nhiều vấn đề thực tiễn chưa được làm sáng tỏ như:
Việc đánh giá tình hình các tội phạm về tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản, các công trình mới chỉ tập trung đánh giá thực trạng (chủ yếu mô tả về lượng) hoặc chỉ đánh giá về tội phạm rõ mà không đánh giá về tội phạm ẩn. Hơn nữa, những đánh giá đó
lại chung cho cả nhóm tội phạm, mà chưa có những đánh giá cụ thể đối với tội tham ô tài
28
sản. Đó là cách tiếp cận chưa toàn diện, nên chưa làm rõ được bức tranh tổng thể về tình
hình tội phạm tại một thời điểm xác định và một không gian nhất định.
Việc cập nhật tình hình tội tham ô tài sản một cách thường xuyên cùng các nguyên
nhân tác động và sự biến đổi của chính các nguyên nhân đó trong những năm gần đây có ý nghĩa rất quan trọng để đưa ra các biện pháp phòng ngừa.
Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu tình hình tội tham ô tài sản đều chưa
có điều kiện cập nhật các thông tin có tính thời sự và mang tính tổng thể, nên nhiều biện
pháp phòng ngừa được đưa ra sẽ bị lỗi thời khi tình hình tội phạm thay đổi, bởi lẽ, về nguyên tắc các biện pháp phòng ngừa không bám sát tình hình tội phạm thì hiển nhiên sẽ
bị lạc hậu khi tình hình tội phạm có những thay đổi nhất định.
Về nguyên nhân làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay
Mặc dù các công trình đã khái quát và làm rõ được một số nguyên nhân làm phát
sinh nhóm tội phạm tham nhũng, trong đó có tội tham ô tài sản, song quan niệm về các
nhóm nguyên nhân lại chưa thống nhất, chưa làm rõ được cơ chế tác động giữa các nhân
tố là nguyên nhân với hành vi phạm tội. Nhiều nguyên nhân được đề cập còn chung
chung, chưa cụ thể, chưa quan tâm để cập nhật kịp thời những nguyên nhân mới phát sinh
trong thực tế. Hơn nữa, nhiều nguyên nhân mà các công trình nghiên cứu đưa ra lại là
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tham
nhũng nói chung, mà không phải là những nguyên nhân trực tiếp tác động đến tình hình
của tội tham ô tài sản.
Do đó, để đề xuất được những biện pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản, thì việc xác định rõ những nguyên nhân trực tiếp
tác động đến tình hình của loại tội phạm này là hết sức cần thiết và sẽ được NCS tiếp tục hoàn thiện ở Luận án của mình.
Về những biện pháp phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới Các công trình đã đưa ra khá nhiều biện pháp phòng ngừa đối với nhóm tội phạm
về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản tài sản nói riêng. Tuy nhiên, nhiều biện pháp còn chung chung, nặng về khẩu hiệu chính trị, còn hạn chế tính khả thi; có biện pháp không liên quan đến tình hình tội phạm và nguyên nhân tội phạm; còn ít quan tâm đến các biện pháp mang tính kỹ thuật và cụ thể; những lập luận đưa ra để chứng minh lý do lựa chọn biện pháp và khả năng áp dụng biện pháp đó chưa được quan tâm.
2.3. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
- Cơ sở lý luận về phòng ngừa tội tham ô tài sản
29
Phân tích làm rõ những đặc điểm đặc thù về dạng hành vi, chủ thể, động cơ, mục
đích, thủ đoạn cụ thể của tội tham ô tài sản; nội dung, trách nhiệm, chủ thể của quản lý
nhà nước đối với hoạt động phòng, chống tội tham ô tài sản; cách thức thực hiện các hoạt
động phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam.
- Đánh giá tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Thứ nhất, đánh giá thực trạng về mức độ của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai
đoạn 2010-2019: Để làm rõ vấn đề này, cần phải xác định rõ các thông số sau: tổng số vụ
và số người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian 10 năm từ 2010- 2019 là bao nhiêu; số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản trung bình năm như thế nào; chỉ số
tội phạm cao hay thấp; so sánh mức độ của tội tham ô tài sản với mức độ của các tội
thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng và với tổng số tội phạm nói chung; mức độ ẩn của
tội tham ô tài sản như thế nào so với tội phạm rõ.
Thứ hai, đánh giá thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai
đoạn 2010-2019: Để có thể rút ra được những nhận xét nhất định về tính chất của tội tham
ô tài sản, cần phải xem xét cơ cấu của tội tham ô tài sản theo những tiêu thức nào để làm
rõ những đặc điểm về tính chất của loại tội phạm này. Việc nghiên cứu cơ cấu của tội
tham ô tài sản theo những tiêu thức khác nhau có ý nghĩa gì đối với việc đánh giá thực
trạng về tính chất của loại tội phạm này trong giai đoạn nghiên cứu của đề tài.
Thứ ba, phân tích diễn biến của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-
2019: Để nắm được diễn biến của tội tham ô tài sản trong giai đoạn nghiên cứu, trước hết
cần xác định rõ diễn biến về mức độ của tội tham ô tài sản ở nước ta trong giai đoạn này,
so sánh với diễn biến của các tội thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng; đồng thời xác định
diễn biến về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019 theo một số
tiêu thức nhất định như loại tội phạm; loại và mức hình phạt đã áp dụng đối với người bị kết án; hình thức thực hiện tội phạm (là phạm tội riêng lẻ hay đồng phạm); địa bàn thực hiện tội phạm (theo địa giới hành chính); thủ đoạn phạm tội; lĩnh vực xảy ra tội phạm; động cơ phạm tội.
- Xác định, giải thích nguyên nhân của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010 - 2019
Nguyên nhân của tội tham ô tài sản được xác định qua sự tương tác giữa các yếu tố tiêu cực, cơ chế tác động giữa các yếu tố tiêu cực làm phát sinh tội phạm. Theo đó, nguyên nhân của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn này có thể là những yếu tố tiêu cực nào? Chẳng hạn liên quan đến các yếu tố như: chính sách, pháp luật; tổ chức,
quản lý nhà nước, trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật; những tồn tại, hạn
30
chế trong hoạt động phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người phạm
tội tham ô tài sản; từ phía người phạm tội; từ phía nạn nhân.
- Dự báo tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam từ nay cho đến 2030 và đề xuất
các biện pháp phòng ngừa tội tham ô tài sản ở nước ta
Các biện pháp được đề xuất là gì, có tác dụng như thế nào đối với việc hạn chế
hoặc loại trừ sự tác động của các thành tố tạo thành nguyên nhân làm phát sinh, phát triển
tội tham ô tài sản ở Việt Nam?
Nhìn chung, trong những năm gần đây, phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng không chỉ được sự quan tâm của các chủ thể có
trách nhiệm phòng ngừa, mà còn nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tuy
nhiên, hiện nay hầu hết các công trình nghiên cứu đều đề cập đến phòng, chống các tội
phạm về tham nhũng nói chung, chưa có công trình nào tiếp cận, nghiên cứu phòng ngừa
tội tham ô tài sản dưới góc độ là một loại tội phạm độc lập, được tách ra từ nhóm tội
phạm về tham nhũng. Trong các công trình khoa học đã được công bố, hầu hết đều nghiên
cứu về cơ sở lý luận, tình hình tội phạm, các yếu tố được coi là nguyên nhân phát sinh tội
phạm, biện pháp phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng nói chung, chưa đi sâu nghiên
cứu riêng về tội tham ô tài sản dưới góc độ tội phạm học. Trên cơ sở hệ thống, đánh giá
các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, luận án đã chỉ rõ những vấn đề có liên
quan đến đề tài mà luận án kế thừa và tiếp tục phát triển, những vấn đề còn nhiều ý kiến,
quan điểm khác nhau và những vấn đề chưa được đề cập đến mà luận án cần tập trung
giải quyết.
31
PHẦN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH TỘI THAM Ô TÀI SẢN Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2010-2019
1.1. Vấn đề chung về tình hình tội phạm Khi nghiên cứu một nhóm tội hoặc một tội phạm cụ thể dưới góc độ tội phạm học,
tình hình tội phạm là nội dung nghiên cứu quan trọng, là cơ sở để định hướng phòng ngừa
tội phạm. Trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố hợp thành của tình hình tội phạm bao gồm thực trạng của tội phạm và diễn biến của tội phạm sẽ đánh giá được tình hình tội phạm, từ
đó có biện pháp phòng ngừa tương ứng, hạn chế sự phát sinh, gia tăng tội phạm trên thực
tế. Với tính chất đó, việc có cách hiểu đúng và thống nhất về khái niệm tình hình tội phạm
là cần thiết, vì khi có khái niệm phản ánh đúng bản chất của tình hình tội phạm thì mới
xác định chính xác, đầy đủ những bộ phận hợp thành của tình hình tội phạm; và việc phân
tích, đánh giá những bộ phận hợp thành đó là cơ sở để xác định nguyên nhân làm phát
sinh tội phạm. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, các cơ sở đào tạo, nghiên cứu ở
nước ta vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tình hình tội phạm, các quan
điểm khác nhau đó được thể hiện trong các công trình nghiên cứu như giáo trình, sách
chuyên khảo, cụ thể là:
Tại giáo trình tội phạm học của trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, khái
niệm tình hình tội phạm được các tác giả đưa ra thông qua việc phân tích các thuộc tính,
đặc điểm của tình hình tội phạm, theo đó, tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội, trái
pháp luật hình sự, mang tính giai cấp, thay đổi theo quá trình lịch sử, tiêu cực và nguy
hiểm cao trong xã hội, được hình thành từ một thể thống nhất các tội phạm cụ thể, tồn tại trong một không gian, thời gian xác định3.
Tại cuốn “Tội phạm học, luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam” các tác giả lại cho rằng: Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội pháp lý tiêu cực, được thay đổi
3 Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình tội phạm học, NXB Hồng Đức, Hà Nội, tr 23.
2 Viện Nhà nước và Pháp luật (1994), Tội phạm học, luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.14.
về mặt lịch sử, mang tính giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong khoảng thời gian nhất định4.
32
Theo giáo trình tội phạm học của Đại học Huế thì tình hình tội phạm là hiện tượng
xã hội, pháp lý- hình sự được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp bao gồm tổng
thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong khoảng thời gian nhất định 5.
Theo giáo trình tội phạm học của Đại học quốc gia Hà Nội thì tình trạng tội phạm
là hiện tượng xã hội tiêu cực mang thuộc tính xã hội, thường xuyên thay đổi, giai cấp,
pháp luật hình sự và được phản ánh bằng toàn bộ tình hình, cơ cấu, diễn biến của tổng thể
các loại hoặc một loại tội phạm đã xảy ra trong khoảng thời gian nhất định và trong một phạm vi nhất định6.
Theo giáo trình của trường Đại học Luật Hà Nội thì tình hình tội phạm là hiện
tượng xã hội tiêu cực, trái pháp luật hình sự, mang tính giai cấp và thay đổi theo quá trình
lịch sử được thể hiện ở tổng hợp các tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội và trong khoảng thời gian nhất định7.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Yêm thì tình hình tội phạm là toàn bộ tình hình, cơ cấu,
động thái, diễn biến của các tội phạm hay từng loại tội phạm trong một giai đoạn nhất
định xảy ra trong một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi quốc gia, khu vực hoặc toàn thế giới trong một khoảng thời gian nhất định8.
Theo giáo trình tội phạm học năm 2012 của trường Đại học Luật Hà Nội, tình hình
tội phạm là thực trạng và diễn biến của tội phạm đã xảy ra trong đơn vị không gian và đơn vị thời gian nhất định9.
Khác với các quan điểm trên, GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng: tình hình tội
phạm là trạng thái, xu thế vận động của các tội phạm hoặc nhóm tội phạm hoặc một loại tội phạm đã xảy ra trong đơn vị không gian và thời gian xác định.10
5 Trường Đại học Huế, Trung tâm đào tạo từ xa (1999), Giáo trình tội phạm học, NXB Giáo dục, tr 58.
6 Đại học quốc gia Hà Nội (1999), Giáo trình tội phạm học, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội, tr 60.
7Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình tội phạm học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.91.
8 Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.24.
9 Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình tội phạm học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr 100.
10 Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 252.
11 Viện ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr 996.
Theo từ điển tiếng việt, tình hình được hiểu là tổng thể nói chung những sự kiện, hiện tượng có quan hệ với nhau, diễn ra trong một không gian, thời gian nào đó cho thấy một tình trạng hoặc xu thế phát triển của sự vật.11 Nếu nói tội phạm là hiện tượng xã hội
33
tiêu cực, thì tình hình tội phạm chính là trạng thái, xu thế vận động của hiện tượng đó
trong một không gian, thời gian nhất định. Điều đó có nghĩa tình hình tội phạm không
phải là bất biến, mà ngược lại, nó luôn trong trạng thái vận động theo các xu hướng khác
nhau và luôn được gắn với một không gian, thời gian cụ thể. Chính vì vậy, một khái niệm được coi là đầy đủ, bao quát về tình hình tội phạm phải là khái niệm không chỉ nêu bật
được vấn đề cốt lõi là xu thế vận động của tội phạm trong một không gian, thời gian nhất
định, mà còn phải thể hiện được các nội dung hợp thành là những đặc điểm về lượng và
đặc điểm về chất của tình hình tội phạm. Với yêu cầu đó, NCS nhận thấy quan điểm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa đã phản ánh đúng bản chất của tình hình tội phạm, đủ cơ sở để
phân biệt giữa hiện tượng xã hội tiêu cực là tội phạm với bức tranh tổng thể của các hiện
tượng xã hội tiêu cực là tình hình tội phạm. Còn lại quan điểm của một số tác giả khác vì
đã có sự đồng nhất giữa tội phạm và tình hình tội phạm, nên chưa phản ánh được đầy đủ
bản chất của tình hình tội phạm cũng như chưa đề cập rõ các nội dung hợp thành của tình
hình tội phạm. Chính vì lẽ đó, NCS hoàn toàn đồng tình và sẽ vận dụng quan điểm của
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa về tình hình tội phạm trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án
của mình. Theo đó, tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam được hiểu là trạng thái, xu thế
vận động của tội tham ô tài sản trên phạm vi toàn quốc trong khoảng thời gian nghiên cứu
là 10 năm, từ năm 2010 đến năm 2019. Tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam được thể
hiện thông qua các nội dung hợp thành là thực trạng (bao gồm thực trạng về mức độ và
thực trạng về tính chất) và diễn biến (bao gồm diễn biến về mức độ và diễn biến về tính
chất) của loại tội phạm này trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2019.
1.2. Thực trạng của tội tham ô tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Thực trạng của tội phạm là tình trạng thực tế của tội phạm trong đơn vị không gian và thời gian nhất định12. Theo đó, thực trạng của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong khoảng thời gian 10 năm, từ năm 2010 đến năm 2019 là tình trạng thực tế của loại tội phạm này, được đánh giá qua các thông số định lượng và các thông số định tính. Thực chất, đó chính là việc đánh giá thực trạng về mức độ và đánh giá thực trạng về tính chất
của tội tham ô tài sản ở nước ta trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2019.
1.2.1. Thực trạng về mức độ của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-
12 Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 271.
2019
34
Thực trạng về mức độ của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm
2010-2019 được phản ánh qua tổng số vụ tham ô tài sản và tổng số người thực hiện hành
vi phạm tội tham ô tài sản trên thực tế. Tội tham ô tài sản đã xảy ra trên thực tế bao gồm
cả số vụ, số người phạm tội đã được phát hiện, xử lý và số vụ, số người phạm tội chưa được phát hiện, xử lý. Để đánh giá được mức độ của tội tham ô tài sản cần làm rõ mức độ
về tội phạm rõ và mức độ về tội phạm ẩn của loại tội phạm này ở nước ta trong thời gian
từ năm 2010 đến năm 2019. Hay nói khác đi, việc nêu và phân tích các thông số về tội
phạm rõ và đánh giá ở mức độ tương đối về tội phạm ẩn của tội tham ô tài sản là cơ sở cần thiết để đánh giá một cách đầy đủ thực trạng về mức độ của tội tham ô tài sản.
Để có cơ sở đánh giá và đưa ra kết luận tương đối chính xác về thực trạng của tội
tham ô tài sản ở Việt Nam, tác giả đã sử dụng số liệu thống kê chính thức về hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân tối cao. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các số liệu thống kê
từ 585 bản án hình sự sơ thẩm xét xử về tội tham ô tài sản trong giai đoạn 2010-2019 ở 45
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, được tác giả lựa chọn ngẫu nhiên.
1.2.1.1. Mức độ tội phạm rõ
Mức độ tội phạm rõ của tội tham ô tài sản được phản ánh qua tổng số vụ và tổng số
người phạm tội tham ô tài sản đã được phát hiện và xử lý, bao gồm cả số vụ án và số
người phạm tội đã được xét xử.
Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trong thời gian từ năm 2010
đến năm 2019, tổng số vụ án và số người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam đã được xét
xử sơ thẩm là 2.485 vụ/ 4.635người phạm tội, cụ thể như sau:
Bảng số 1.1: Tổng số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai
đoạn 2010-2019
Giai đoạn 2010-2019
Vụ Người phạm tội
2485 4635 Tổng
248 463 TB/năm
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
Để làm rõ hơn thực trạng về mức độ thông qua số vụ và số người bị xét xử về tội
tham ô tài sản giai đoạn 2010-2019, chúng ta so sánh thông số này với thông số tương ứng của giai đoạn 10 năm về trước là từ năm 2000-2009. Theo số liệu thống kê của Tòa
án nhân dân tối cao, trong thời gian 10 năm từ năm 2000 đến năm 2009, Tòa án nhân dân
35
các cấp trên toàn quốc đã xét xử 1765 vụ/ 2968 người phạm tội, trung bình mỗi năm Tòa
án nhân dân các cấp đã xét xử khoảng 176 vụ tham ô tài sản với 296 người phạm tội.
Bảng số 1.2: Tổng số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản giai đoạn 2010-2019
so với số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản giai đoạn 2000-2009
Giai đoạn 2000-2009 Giai đoạn 2010-2019 Tỷ lệ (%)
(1) (2) (2) so với (1)
Vụ Vụ Vụ
Người phạm tội Người phạm tội Người phạm tội
Tổng 1765 2968 2485 4635 140,8 156,2
TB năm 176 296 248 463 140,9 156,4
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
Biểu đồ số 1.1: Số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản giai đoạn 2010-2019
so với số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản giai đoạn 2000-2009
Nhìn vào biểu đồ minh họa cho sự so sánh giữa số vụ và số người phạm tội tham ô
tài sản giai đoạn 2010-2019 với giai đoạn 10 năm về trước là từ năm 2000-2009 ta thấy: Hầu hết các năm của giai đoạn nghiên cứu đều có số vụ phạm tội tham ô tài sản cao hơn
so với 10 năm về trước, trung bình năm cao hơn 40,9%; số người phạm tội tham ô tài sản trong những năm của giai đoạn nghiên cứu cũng cao hơn nhiều so với 10 năm trước, tỷ lệ trung bình năm cao hơn 56,4%. Điều đó phản ánh tội tham ô tài sản giai đoạn 2010-2019
có mức độ nghiêm trọng cao hơn nhiều so với 10 năm của giai đoạn trước.
Để có cơ sở đánh giá tình hình tội phạm một cách tương đối chính xác, thì việc sử dụng thông số về chỉ số tội phạm cũng như chỉ số người phạm tội là cần thiết. Chỉ số tội
phạm của tội tham ô tài sản được tính theo tỷ lệ số vụ tham ô tài sản trên 100.000 dân; chỉ
36
số người phạm tội của tội tham ô tài sản được tính theo tỷ lệ số người phạm tội tham ô tài
sản trên 100.000 dân. Bảng số liệu và biểu đồ dưới đây cho chúng ta thấy được mức độ
phổ biến của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019.
Bảng số 1.3: Chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội của tội tham ô tài sản ở
Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Năm Vụ Dân số
Người phạm tội Chỉ số TP/100.000 dân Chỉ số người PT/100.000 dân
2010 258 417 86.932.500 0,29 0,48
2011 253 428 87.840.000 0,28 0,49
2012 202 411 88.772.900 0,23 0,46
2013 214 442 89.708.900 0,24 0,49
2014 265 466 90.728.900 0,29 0,51
2015 197 399 91.710.000 0,21 0,43
2016 186 393 93.421.835 0,19 0,42
2017 318 517 94.970.597 0,33 0,54
2018 329 615 95.540.000 0,34 0,64
2019 363 625 96.208.984 0,37 0,65
TB 248 463 90.570.742 0,27 0,51
(Nguồn: Tổng cục Thông kê; Tòa án nhân dân tối cao)
Từ bảng số liệu về chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019, ta thấy: Chỉ số tội phạm ở mức độ khá thấp, trung bình năm là 0,27; trong khi đó, chỉ số người phạm tội lại ở mức cao hơn, trung bình năm là 0,51.
Để thấy rõ hơn mức độ phổ biến của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010- 2019, có thể so sánh chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn này với giai đoạn 2000-2009. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê thì trong cả giai đoạn 2000-2009, dân số Việt Nam tính trung bình là
37
78.325.608 người; trong khi đó, theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trong
giai đoạn từ 2000-2009, Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử 1765 vụ/ 2968 người phạm tội
tham ô tài sản; như vậy, chỉ số tội phạm giai đoạn này là 0,22 và chỉ số người phạm tội ở
giai đoạn này là 0,38.
Bảng số 1.4 So sánh chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội giai đoạn 2010-
2019 với 10 năm về trước
Giai đoạn 2010-2019 Tỷ lệ
Giai đoạn 2000-2009 (2) (1) (1) so với (2)
0,27 0,22 + 122%
Chỉ số tội phạm
0,51 0,38 + 134%
Chỉ số người phạm tội
(Nguồn: Tổng cục Thông kê; Tòa án nhân dân tối cao)
Biểu đồ 1.2: So sánh chỉ số tội phạm, chỉ số người phạm tội của tội tham ô tài sản
giai đoạn 2010-2019 với giai đoạn 2000-2009
So sánh chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai
đoạn 2010 – 2019 với giai đoạn 2000 – 2009, ta thấy: Về chỉ số tội phạm ở giai đoạn nghiên cứu cao hơn chỉ số tội phạm của giai đoạn trước (122%); chỉ số người phạm tội
của giai đoạn nghiên cứu cao hơn nhiều so với giai đoạn trước đó 10 năm (134%). Như
vậy, so sánh chỉ số tội phạm của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019 với giai đoạn 2000 – 2009 cũng cho thấy mức độ nghiêm trọng của tội tham ô tài sản giai
đoạn 2010-2019 cao hơn so với 10 năm của giai đoạn trước.
38
Ngoài ra, để làm rõ hơn thực trạng về mức độ tội phạm rõ của tội tham ô tài sản ở
Việt Nam giai đoạn 2010-2019, có thể so sánh số vụ, số người phạm tội tham ô tài sản với
tổng số vụ, số người phạm tội của nhóm tội phạm tham nhũng thuộc Mục A Chương XXI
Bộ luật hình sự năm 1999 và Mục 1 Chương XXIII Bộ luật hình sự năm 2015
Bảng số 1.5: Số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản so với số vụ và số
người phạm tội các tội phạm tham nhũng
Tỉ lệ (1) so với (2)
đoạn Giai 2010 - 2019 Tội tham ô tài sản (1) Các tội phạm tham nhũng (2)
Vụ Người PT Vụ Người PT Vụ Người PT
Tổng 2485 4635 4203 8156 59,1% 56,8%
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
Biểu đồ số 1.3: Số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản so với số vụ và số
người phạm tội các tội phạm tham nhũng
Nhìn vào biểu đồ so sánh giữa số vụ, số người phạm tội tham ô tài sản với số vụ, số người phạm tội của các tội phạm về tham nhũng ta thấy: Tội tham ô tài sản chiếm 59,1% về số vụ và 56,8% về số người phạm tội của nhóm tội phạm tham nhũng. Trong
khi đó, tội tham ô tài sản chỉ là một trong bảy tội danh của nhóm tội phạm tham nhũng được quy định trong Bộ luật hình sự. Từ tỷ lệ này cho thấy tham ô tài sản là loại tội phạm phổ biến nhất và chiếm đa số trong nhóm tội phạm tham nhũng.
Hơn nữa, để làm rõ hơn thực trạng về mức độ của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019, có thể so sánh mức độ phổ biến giữa loại tội phạm này với các tội
phạm về chức vụ. Mặc dù, tham ô tài sản là một trong 14 tội danh thuộc Chương các tội
39
phạm về chức vụ, nhưng thực tế hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm
về chức vụ cho thấy, tham ô tài sản là loại tội chiếm tỷ lệ đáng kể, xảy ra có tính chất phổ
biến hơn so với những tội phạm còn lại trong Chương các tội phạm về chức vụ. Theo
thống kê của Tòa án nhân dân tối cao về hoạt động xét xử các vụ án hình sự, trong thời gian 10 năm từ năm 2010-2019, Tòa án nhân dân các cấp xét xử 6438 vụ án/12.234 người
phạm tội thuộc Chương các tội phạm về chức vụ, trong đó tội tham ô tài sản là 2485 vụ/ 4635 người phạm tội13, chiếm 38,5% số vụ và 37,8% về số người phạm tội.
Bảng số 1.6: Số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản so với số vụ và số
người phạm các tội về chức vụ
Tội danh Vụ Người PT Tỷ lệ
Vụ Người phạm tội
Các tội phạm về chức vụ 6438 12.234 61,5 62,2
Tội tham ô tài sản 2485 4635 38,5 37,8
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
Biểu đồ số 1.4: Số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản so với số vụ và số người
13 Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao
phạm các tội về chức vụ
40
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy: trong các tội phạm về chức vụ thì tham ô tài sản là
loại tội phạm xảy ra có tính phổ biến hơn cả về số vụ và số người phạm tội. Do vậy, nếu
trong hoạt động chống và phòng ngừa các tội phạm về chức vụ, các chủ thể có trách
nhiệm phòng ngừa đưa ra được những biện pháp hữu ích để hạn chế sự phát sinh số vụ án và số người phạm tội tham ô tài sản sẽ góp phần làm giảm đáng kể các tội phạm về chức
vụ nói chung. Chính vì vậy, việc xác định mối tương quan về số vụ án, số người phạm tội
tham ô tài sản so với các tội phạm về chức vụ không chỉ tạo cơ sở để rút ra đặc điểm có
tính đặc thù của loại tội phạm này, mà còn là cơ sở để các chủ thể có trách nhiệm phòng ngừa đưa ra được những biện pháp căn cơ để nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
1.2.1.2. Mức độ tội phạm ẩn
Tội phạm ẩn là phần ẩn của các tội phạm đã được thực hiện trên thực tế. Do đó, để
thấy rõ được thực trạng về mức độ của tội phạm, bên cạnh các thông số về tội phạm rõ,
thì đánh giá ở mức độ tương đối về tội phạm ẩn là việc làm không thể thiếu, góp phần
phản ánh tương đối đầy đủ thực trạng về mức độ của tội phạm.
Tội phạm ẩn được hiểu là số lượng tội phạm và người phạm tội đã thực hiện trên
thực tế nhưng không được tường thuật với cơ quan có thẩm quyền hoặc chưa bị phát hiện
(một cách chính thức) và do vậy chưa bị xử lý về hình sự, chưa có trong thống kê hình sự chính thức14.
Khi đánh giá thực trạng về mức độ của tội tham ô tài sản, không thể bỏ qua việc
đánh giá tỷ lệ tội phạm ẩn, là vì các số liệu thống kê về tội phạm rõ mới chỉ phản ánh một
phần tình hình tội tham ô tài sản ở nước ta trong những năm gần đây. Các số liệu thống kê
về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội tham ô tài sản đã phản ánh một phần, đó là phần
rõ của tình hình tội tham ô tài sản, mặt khác các số liệu đó cũng phản ánh khả năng giải
quyết, xử lý tội phạm của các cơ quan tư pháp trong hoạt động chống tội tham ô tài sản ở Việt Nam những năm gần đây. Giống như tội phạm nói chung, tội tham ô tài sản cũng có một số lượng đáng kể các vụ phạm tội và người phạm tội còn ẩn, chưa bị phát hiện, chưa bị xử lý hình sự. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá mức độ ẩn của tội tham ô tài sản
sẽ cho phép chúng ta nhận thức đầy đủ hơn về thực trạng của tội tham ô tài sản.
14 Xem: Dương Tuyết Miên (2013), Tội phạm học đương đại, NXB Chính trị- hành chính, Hà Nội, tr 181.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu tội phạm ẩn của tội tham ô tài sản lại không hề dễ dàng và đơn giản. Bởi việc nghiên cứu dù có được áp dụng phương pháp nào chăng nữa, thì kết quả nghiên cứu cũng vẫn chỉ mang tính tương đối, chứ không thể có được sự chính xác
41
tuyệt đối. Song cũng không phải vì thế mà chúng ta bỏ qua, không đề cập đến việc nghiên
cứu về tội phạm ẩn của tội tham ô tài sản.
Khi nghiên cứu tội phạm ẩn của tội tham ô tài sản, đòi hỏi phải nghiên cứu cả hai
loại là tội phạm ẩn khách quan và tội phạm ẩn chủ quan. Việc phân tích làm rõ những nội dung này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nguyên nhân của tội phạm ẩn và biện
pháp khắc phục tình trạng ẩn của tội tham ô tài sản, đồng thời cũng có thể xác định được
chủ thể chịu trách nhiệm trong việc khắc phục tình trạng ẩn của tội tham ô tài sản ở Việt
Nam hiện nay.
Đối với tội tham ô tài sản, tội phạm ẩn khách quan bao gồm các vụ phạm tội tham
ô tài sản đã xảy ra trên thực tế, nhưng các cơ quan chức năng không có thông tin về tội
phạm, không phát hiện được tội phạm nên các vụ tham ô tài sản này chưa bị xử lý hình sự
và mặc nhiên cũng không có trong thống kê hình sự.
Tội phạm ẩn chủ quan bao gồm những hành vi phạm tội đã xảy ra, các cơ quan
chức năng đã nắm được những thông tin về tội phạm, hoặc đã thu thập được những tài
liệu, chứng cứ sát thực về tội phạm, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, các tội phạm ấy lại
không bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Để xác định mức độ ẩn chủ quan của tội tham ô tài sản, tác giả dựa trên sự so sánh
giữa các số liệu sau: Số vụ, số người bị tố giác, kiến nghị khởi tố về tội tham ô tài sản với
số vụ, số bị can đã bị khởi tố, và với số vụ, số bị cáo bị xét xử về tội này trong khoảng
thời gian 10 năm từ 2010 đến 2019 như sau:
Bảng 1.7: So sánh số việc, số người giải quyết tin báo với số vụ, số bị can bị khởi tố; với số vụ, số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội tham ô tài sản trong khoảng thời gian 10 năm từ năm 2010 đến 2019
Giải quyết tin báo Khởi tố Xét xử sơ thẩm
Giai đoạn tố tụng (1) (2) (3)
Số việc Số người Vụ Bị can Vụ Bị cáo
4505 8276 2896 5130 2485 4635
Từ năm 2010 đến năm 2019
64,2 61,9 85,8 90,3
Tỷ lệ: % (3) so với (2) và (2) so với (1)
(Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao)
42
Tiến hành so sánh giữa số tin báo được giải quyết với số vụ án được khởi tố, xét xử
sơ thẩm về tội tham ô tài sản, ta thấy: sự chênh lệch giữa hoạt động khởi tố với giải quyết
tin báo là 64,2% về số vụ và 61,9% về số bị can; sự chênh lệch giữa hoạt động xét xử sơ
thẩm với khởi tố là 85,8% về số vụ và 90,3% số bị can. Từ tỷ trọng về sự chênh lệch giữa các giai đoạn tố tụng trên là cơ sở để có thể đánh giá một cách tương đối chính xác về tỷ
lệ ẩn của loại tội phạm này ở Việt Nam trong giai đoạn 2010-2019.
Tuy nhiên, việc đánh giá tỷ lệ tội phạm ẩn chủ quan của tội tham ô tài sản bằng
phương pháp so sánh các thông số nêu trên vẫn có sai số nhất định vì số người phạm tội tham ô tài sản ẩn chủ quan chỉ chiếm một phần trong số người phạm tội tham ô tài sản
chưa bị xử lý hình sự. Chính vì vậy, trên cơ sở tỷ lệ chênh lệch giữa về số vụ, số bị can, bị
cáo giữa các giai đoạn tố tụng tác giả nhận thấy tỷ lệ ẩn của tội tham ô tài sản ở Việt Nam
giai đoạn 2010-2019 là khoảng từ 10% đến 30%.
Cùng với việc đánh giá về tội phạm ẩn khách quan và tội phạm ẩn chủ quan, để
phản ánh một cách đầy đủ, chính xác thực trạng về mức độ của tội tham ô tài sản ở Việt
Nam trong giai đoạn nêu trên, đòi hỏi tác giả phải nghiên cứu cả về sai số thống kê. Các
sai số thống kê nhất định trong thống kê về tội tham ô tài sản có thể xuất hiện do các
nguyên nhân khác nhau, đó là:
+ Các Tòa án địa phương gửi báo cáo hoạt động xét xử hình sự về Tòa án nhân dân
tối cao không đúng thời hạn, hoặc bỏ sót không đưa vào báo cáo, hoặc có sự nhầm lẫn, sai
sót khác của người thống kê. Những thiếu sót này trong hoạt động thống kê dẫn đến việc
sai số trong thống kê là tội tham ô tài sản tuy đã được phát hiện và đưa ra xét xử, nhưng
lại không được phản ánh trong số liệu thống kê về số vụ và số người phạm tội. Dạng sai
số này trong thống kê sẽ làm cho các thông số thống kê về tội phạm rõ không được chính
xác, đầy đủ; làm giảm số liệu phản ánh mức độ tội phạm rõ.
+ Do các cơ quan thống kê hiện nay đã có sự đồng nhất giữa tội phạm và vụ án. Số liệu thống kê phản ánh mức độ của tội phạm nói chung, tội tham ô tài sản nói riêng có thể được thể hiện qua nhiều loại số liệu của các cơ quan tiến hành tố tụng như cơ quan điều
tra, cơ quan truy tố, cơ quan xét xử. Song để đánh giá tương đối chính xác mức độ tội phạm (thực trạng về mức độ) của một loại tội phạm, người ta thường dựa vào số liệu của cơ quan xét xử, với đơn vị tính là tổng của tội phạm đã xảy ra và tổng số người phạm tội. Tuy nhiên, theo cách thống kê mà Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đang áp dụng hiện nay là thống kê theo số vụ án và số người phạm tội, vì thế nên số liệu thống kê chưa phản ánh đúng thực tế tội phạm đã xảy ra; bởi lẽ, trong một vụ án được
khởi tố, truy tố, xét xử ở nhiều tội danh khác nhau, nhưng cơ quan thống kê đã đồng nhất
43
vụ án với một tội phạm trong số các tội phạm được xét xử, và đối với những trường hợp
trong vụ án có bị cáo phạm tội tham ô tài sản nhưng hoạt động thống kê lại thống kê tội
phạm khác nên tội tham ô tài sản không được đưa vào thống kê. Cách thức thống kê này
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao dẫn đến việc sai số trong thống kê là số vụ án và số người phạm tội tham ô tài sản tuy đã được phát hiện và xét xử
trên thực tế, nhưng lại không được phản ánh trong số liệu thống kê theo đúng tội danh, mà
lại được phản ánh bằng một tội danh khác trong cùng vụ án. Dạng sai số này trong thống
kê dẫn đến các thông số phản ánh tội phạm rõ của tội tham ô tài sản bị thiếu hụt, không chính xác, vì đã được thay thế bằng thông số về tội danh khác trong cùng vụ án; đây cũng
là một trong những nguyên nhân làm giảm số liệu phản ánh mức độ tội phạm rõ của tội
tham ô tài sản.
Mặt khác, từ việc nghiên cứu các bản án và hồ sơ vụ án cho thấy, không ít vụ án,
nhất là đối với những vụ án lớn, người phạm tội tham ô tài sản thực hiện tội phạm nhiều
lần (nhiều vụ phạm tội), lẽ ra phải được thống kê theo số vụ phạm tội (theo số lần phạm
tội) mới chính xác, nhưng quy định về thống kê hiện nay chỉ coi đó là một vụ án và cũng
có nghĩa đó là một vụ phạm tội xảy ra. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính
làm cho số vụ phạm tội tham ô tài sản không được phản ánh đầy đủ trong số liệu thống
kê, là một trong những nguyên nhân làm giảm số liệu phản ánh mức độ tội phạm rõ của
tội tham ô tài sản.
+ Do tiêu chí thống kê chưa chuẩn xác. Theo quy định về thống kê hiện nay, nếu
một vụ án có nhiều tội phạm, trong đó có tội tham ô tài sản và một tội phạm khác như cố
ý làm trái, mà tội phạm khác có số bị can, bị cáo nhiều hơn, hậu quả lớn hơn, tức là tội
nặng hơn thì số liệu thống kê chỉ lấy tiêu chí về tội nặng hơn đó, nên vụ phạm tội tham ô
tài sản trong trường hợp này cũng không được thể hiện trong số liệu thống kê. Qua thống kê 585 bản án hình sự sơ thẩm về tội tham ô tài sản, có 45 bản án vừa có bị cáo bị xét xử về tội tham ô tài sản, vừa có bị cáo bị xét xử về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng với số bị cáo nhiều hơn so với tội tham ô, hậu
quả gây ra nghiêm trọng hơn nhiều so với tội tham ô tài sản trong cùng vụ án. Trong những trường hợp này, thì số liệu thống kê thường chỉ thể hiện về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, mà không thể hiện tội tham ô tài sản. Việc xây dựng tiêu chí thống kê chưa chuẩn xác này cũng góp phần làm giảm cả về số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản đã bị xử lý; đồng thời cũng làm cho các thông số phản ánh tội phạm rõ của tội tham ô tài sản bị ít hơn so với thực tế xét xử về
loại tội phạm này.
44
+ Tình trạng một vụ phạm tội nhưng được thống kê nhiều lần. Trong thực tế, có
nhiều trường hợp một vụ phạm tội tham ô tài sản có nhiều người tham gia, nhưng một
trong số những người đồng phạm bỏ trốn, không xác định được bị can đang ở đâu; hoặc
có trường hợp bị can không bỏ trốn, nhưng phải đợi kết luận giám định mới có cơ sở để xác định hành vi phạm tội của bị can đó. Để đảm bảo thời hạn giải quyết vụ án, trong
những trường hợp này, các cơ quan tiến hành tố tụng thường phải tách vụ án ra để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với những bị can mà hành vi phạm tội đã rõ ràng; còn đối với
bị can bỏ trốn hoặc phải đợi kết quả giám định thì được tách ra để giải quyết sau. Chính vì vậy, một vụ phạm tội (thực chất là một vụ án) nhưng lại được thống kê nhiều lần bằng các
vụ án khác nhau. Trong những trường hợp này, tổng số bị cáo được thống kê không thay
đổi so với tổng số người đã thực hiện tội tham ô tài sản, nhưng tổng số vụ án được thống
kê đã tăng lên so với tổng số vụ phạm tội đã xảy ra. Do đó, các số liệu thống kê về tội
phạm rõ lại cao hơn số tội phạm đã xảy ra.
Từ việc phân tích nguyên nhân dẫn đến các dạng sai số thống kê và ảnh hưởng của
nó đối với các thông số phản ánh tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010 –
2019, tác giả có thể khẳng định những sai số trong thống kê đã tác động nhất định đến
thông số phản ánh tội phạm rõ của tội tham ô tài sản và qua đó cũng ảnh hưởng đến việc
đánh giá mức độ ẩn của tội tham ô tài sản. Chừng nào hoạt động thống kê tội phạm còn
chưa được thay đổi cách thức, tiêu chí thống kê cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, thì
chừng đó sai số do thống kê còn là một thực tế phải chấp nhận. Tuy nhiên, tác giả nhận
thấy cần có sự quan tâm và đầu tư đúng mức để cải tiến hoạt động thống kê tội phạm
nhằm cung cấp số liệu tương đối chính xác cho hoạt động nghiên cứu khoa học, góp phần
chống và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.
1.2.2. Thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-
2019
Thực trạng về tính chất là đặc điểm thứ hai phản ánh thực trạng của tội phạm, được xác định trên cơ sở nghiên cứu các cơ cấu của tội phạm. Điều này có nghĩa là từ việc
nghiên cứu cơ cấu của tội phạm theo tiêu thức nhất định, chúng ta có thể rút ra được những đặc điểm về tính chất của tội phạm. Đặc điểm về tính chất được coi là đặc điểm về mặt định tính của tội phạm. Để đánh giá được đặc điểm này cần dựa vào các cơ cấu khác nhau của tội phạm, vì cơ cấu của tội phạm là yếu tố phản ánh tính chất của tội phạm. Tội phạm có hệ các cơ cấu dựa trên hệ các tiêu thức khác nhau. Thực chất, việc nghiên cứu cơ cấu của tội phạm là tìm hiểu nội dung bên trong của tội phạm, nhằm tìm ra những đặc
điểm về tính chất của tội phạm.
45
Để đánh giá được đặc điểm về tính chất của tội tham ô tài sản ở nước ta giai đoạn
2010-2019, cần phải dựa vào các cơ cấu khác nhau của tội tham ô tài sản, các cơ cấu này
lại được xác định theo tiêu thức nhất định mà phản ánh ở mức độ nhất định tính chất của
tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Theo đó, thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019 được đánh giá trên cơ sở xác định
cơ cấu bên trong của loại tội phạm này bao gồm: Cơ cấu theo loại tội phạm; cơ cấu theo
loại và mức hình phạt đã áp dụng; cơ cấu theo hình thức thực hiện tội phạm; cơ cấu theo
thủ đoạn phạm tội; cơ cấu theo hình thức sở hữu của tài sản bị chiếm đoạt; cơ cấu theo loại và giá trị tài sản bị chiếm đoạt; cơ cấu theo cấp quản lý của người có chức vụ, quyền
hạn; cơ cấu theo ngành, lĩnh vực hoạt động bị xâm hại; cơ cấu theo địa bàn thực hiện tội
phạm; cơ cấu theo động cơ phạm tội và cơ cấu theo một số đặc điểm nhân thân của người
phạm tội.
1.2.2.1. Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tội phạm
Trong các tiêu thức đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm nói chung và
tội tham ô tài sản nói riêng, loại tội phạm là yếu tố có vai trò trước hết trong việc phản
ánh tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự
năm 1999, tội phạm được phân thành bốn loại là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội
rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Theo quy định tại Điều 278 Bộ luật hình sự
năm 1999 và Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015, tội tham ô tài sản bao gồm 4 khoản quy
định hình phạt chính, 1 khoản quy định hình phạt bổ sung, cụ thể là: khoản 1 quy định
mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù, tức là tội phạm quy định tại khoản này là
tội phạm nghiêm trọng; khoản 2 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù,
tức là tội phạm quy định tại khoản này là tội phạm rất nghiêm trọng; khoản 3 quy định
mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tức là tội phạm quy định tại khoản này là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; khoản 4 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình, tức là tội phạm quy định tại khoản này cũng là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc nghiên cứu, xác định cơ cấu theo loại tội phạm của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai
đoạn 2010-2019 sẽ tạo cơ sở trước tiên cho việc đánh giá thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019.
Trên cơ sở thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trong số 2485 vụ với 4635 người bị xét xử về tội tham ô tài sản trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2019, loại tội phạm của tội tham ô tài sản được xác định như sau:
46
Bảng số 1.8: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tội phạm
Tổng TP nghiêm trọng TP rất nghiêm trọng TP đặc biệt nghiêm trọng
4635 NPT 681 NPT 1556 NPT 2398 NPT
100% 14,7% 33,6% 51,7%
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao) Biểu đồ số 1.5: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tội phạm
Nhìn vào biểu đồ thể hiện cơ cấu của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010
– 2019 theo loại tội phạm ta thấy: Loại tội phạm được xét xử phổ biến và chiếm tỷ lệ
nhiều nhất (51,7%) là tội đặc biệt nghiêm trọng; loại tội phạm chiếm tỷ lệ tương đối cao
(33,6%) là tội rất nghiêm trọng; sau cùng loại tội phạm chiếm tỷ lệ thấp nhất là tội
nghiêm trọng, chỉ với 14,7%. Từ tỷ lệ về cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tội phạm
cho thấy tham ô tài sản ở nước ta hiện nay có tính chất đặc biệt nghiêm trọng.
1.2.2.2. Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại và mức hình phạt đã áp dụng Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, loại và mức hình phạt áp dụng đối với
người phạm tội tham ô tài sản được thể hiện như sau:
Bảng số 1.9: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại hình phạt đã áp dụng
Tổng Tù có thời hạn Tù chung thân Tử hình
4635 NPT 3604 NPT 633 NPT 398 NPT
100% 77,8 13,6 8,6
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
47
Biểu đồ số 1.6: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại hình phạt đã áp dụng
Bảng số 1.10: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo mức hình phạt tù có thời hạn
đã áp dụng
Tổng Đến 3 năm Trên 3 năm Trên 7 năm Trên 15 năm
đến 7 năm đến 15 năm đến 20 năm
3604 NPT 699 NPT 725 NPT 1415 NPT 765 NPT
100% 19,4 20,1 39,3 21,2
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
Biểu đồ số 1.7: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo mức hình phạt tù có thời
hạn đã áp dụng
Nhìn vào biểu đồ về loại hình phạt Tòa án tuyên phạt đối với người phạm tội tham ô tài sản, ta thấy: Ba loại hình phạt chính quy định trong Điều luật về tội tham ô tài sản đều được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội tham ô tài sản. Trong đó, số người phạm
48
tội bị áp dụng loại hình phạt nghiêm khắc nhất là tử hình chiếm tỷ lệ đáng kể (8,6%); loại
hình phạt nghiêm khắc thứ hai là tù chung thân (chiếm 13,6%); loại hình phạt được áp
dụng phổ biến nhất là tù có thời hạn (chiếm 77,8%), trong đó các mức phạt tù được áp
dụng phổ biến nhất là trên 7 năm đến 15 năm và trên 15 năm đến 20 năm. Như vậy, thông số về cơ cấu theo loại và mức hình phạt đã áp dụng cũng phản ánh tính chất đặc biệt
nghiêm trọng của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019.
1.2.2.3. Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo hình thức thực hiện tội phạm
Trên cơ sở thống kê 585 bản án hình sự sơ thẩm về tội tham ô tài sản của Tòa án nhân dân các cấp, cho thấy trong tổng số 585 vụ án thì có 207 vụ phạm tội riêng lẻ (chiếm
tỷ lệ 35,4%); 378 vụ phạm tội dưới hình thức đồng phạm (chiếm tỷ lệ 64,6%), trong đó
đồng phạm giản đơn 305 vụ, chiếm 52,2%, đồng phạm có tổ chức 73 vụ, chiếm 12,4%.
Bảng số 1.11: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo hình thức thực hiện tội phạm
Phạm tội riêng lẻ Đồng phạm Tổng
207 vụ (35,4%) 378 vụ (64,6%) 585 vụ (100%)
(Nguồn: 585 bản án về tội tham ô tài sản)
Biểu đồ số 1.8: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo hình thức thực hiện tội phạm
Từ cơ cấu theo hình thức thực hiện tội phạm của tội tham ô tài sản cho thấy, tội tham ô tài sản phần lớn được thực hiện dưới hình thức đồng phạm với 64,6%, số vụ phạm
tội riêng lẻ chỉ chiếm 35,4%. Đây cũng là một thông số phản ánh tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tính chất của đối tượng tác động của loại tội phạm là tài sản liên quan đến sự quản lý của nhiều người có chức vụ, quyền hạn. Đối với những vụ án tham ô tài sản dưới hình thức đồng phạm có tổ chức, tội phạm thường được thực hiện trong một thời gian tương đối dài (khoảng từ 6 tháng đến 3 năm) với sự phân công mặc nhiên được khép kín giữa các bộ phận, làm cho các cơ quan chức năng khó phát hiện, chẳng hạn như
49
giữa người đứng đầu đơn vị với kế toán trưởng, kế toán viên, thủ quỹ, cán bộ trực tiếp
tiếp nhận tiền, tài sản từ khách hàng; hoặc giữa người đứng đầu đơn vị với thủ kho, lái xe,
bảo vệ, nhân viên trạm cân...
1.2.2.4. Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo thủ đoạn phạm tội Thủ đoạn phạm tội là một trong những yếu tố cơ bản phản ánh tính chất của hành
vi phạm tội, đó là những cách thức cụ thể để chủ thể của tội phạm thực hiện hành vi
khách quan trong cấu thành của tội phạm cụ thể. Đối với tội tham ô tài sản, thủ đoạn
phạm tội là cách thức để người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt được tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý. Thực tế hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tội tham ô tài
sản ở nước ta trong những năm qua cho thấy tùy vào loại chức vụ, quyền hạn và lĩnh vực
quản lý, dạng của tài sản mà người có chức vụ, quyền hạn dùng các thủ đoạn khác nhau
để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Trong đó, một số thủ đoạn thường
được người phạm tội tham ô tài sản thực hiện là: gian dối để thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản được giao quản lý; chiếm đoạt tài sản trực tiếp quản lý; gian dối để che đậy hành vi
chiếm đoạt tài sản được giao quản lý.
Trên cơ sở nghiên cứu một số lượng tương đối (585) bản án hình sự sơ thẩm xét xử
các bị cáo về tội tham ô tài sản và một số hồ sơ vụ án hình sự về loại tội này, tác giả có
thể khái quát những thủ đoạn cơ bản, mang tính phổ biến mà chủ thể có chức vụ, quyền
hạn đã sử dụng để chiếm đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý, đồng thời xác định
được tỷ trọng của những thủ đoạn được người phạm tội thực hiện như sau:
Bảng số 1.12: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo thủ đoạn phạm tội
Thủ đoạn PT Vụ Tỷ lệ
133 22,7
Gian dối để che đậy hành vi chiếm đoạt Lập khống, làm giả chứng từ thanh, quyết toán
(238 vụ) 105 17,9
Rút bớt quy mô thực hiện dự án, sử dụng vật liệu, kết cấu sai thiết kế thi công
93 16
Sử dụng công nghệ cao để tất toán khống, rút tiền từ tài khoản tiết kiệm Gian dối để thực hiện hành vi chiếm đoạt Nâng khống giá trị hợp đồng, lập khống, làm 122 20,8 (215 vụ) giả chứng từ thanh, quyết toán; thông thầu
50
Để tiền, hàng ngoài sổ sách, không nhập kho, 132 22,6
Chiếm đoạt tài sản trực tiếp quản lý quỹ
(132 vụ)
Tổng 585 100%
(Nguồn: 585 bản án về tội tham ô tài sản)
Biểu đồ số 1.9: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo thủ đoạn phạm tội
Từ các thông số về cơ cấu của tội tham ô tài sản theo thủ đoạn phạm tội cho thấy:
Thủ đoạn gian dối để che đậy hành vi chiếm đoạt thông qua việc lập khống, làm giả
chứng từ thanh, quyết toán, rút bớt quy mô thực hiện dự án, sử dụng vật liệu, kết cấu sai
thiết kế thi công được người phạm tội sử dụng phổ biến nhất (chiếm 40,6%); tiếp đến là
thủ đoạn gian dối để thực hiện hành vi chiếm đoạt thông qua việc nâng không giá trị các
hợp đồng, lập khống, làm giả chứng từ thanh, quyết toán, thông thầu và sử dụng công nghệ cao được người phạm tội sử dụng một cách phổ biến để chiếm đoạt tài sản được giao quản lý (chiếm 36,8%); sau cùng là thủ đoạn chiếm đoạt tài sản trực tiếp quản lý
thông qua việc để tiền, hàng ngoài sổ sách kế toán, không nhập kho, quỹ cũng được người phạm tội sử dụng khá phổ biến (chiếm 22,6%). Trên cơ sở phân tích cơ cấu của tội tham ô tài sản theo thủ đoạn phạm tội cho thấy tùy từng lĩnh vực xảy ra tội phạm, cũng như đặc điểm đặc thù của từng loại tài sản bị chiếm đoạt mà người phạm tội sử dụng các thủ đoạn khác nhau nhằm vừa chiếm đoạt được tài sản mình có trách nhiệm quản lý, vừa che giấu được hành vi phạm tội.
51
1.2.2.5. Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo hình thức sở hữu của tài sản bị chiếm
đoạt
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và các văn bản hướng dẫn, phạm vi
đối tượng tác động của tội tham ô chỉ giới hạn trong lĩnh vực công. Đến Bộ luật hình sự năm 2015, đối tượng tác động của tội tham ô tài sản bao gồm cả lĩnh vực ngoài nhà nước.
Tuy nhiên, cho đến hết năm 2019 - sau 2 năm Bộ luật hình sự năm 2015 được thi hành, số
vụ án tham ô tài sản trong lĩnh vực tư được xử lý còn rất ít (1vụ). Do đó, trong giai đoạn
nghiên cứu của Luận án, đối tượng tác động của hành vi tham ô tài sản vẫn thuộc sở hữu của nhà nước và sở hữu nhà nước chiếm ưu thế. Chính vì vậy, việc khảo sát, đánh giá cơ
cấu về hình thức sở hữu trong các vụ án tham ô tài sản đã xảy ra trên thực tế sẽ tạo cơ sở
để rút ra những đặc điểm có tính đặc thù về tính chất của tội tham ô tài sản, là cơ sở cần
thiết để xác định những yếu tố có vai trò làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở nước
ta trong những năm vừa qua. Trên cơ sở thống kê 585 bản án hình sự sơ thẩm về tội tham
ô tài sản của Tòa án nhân dân các cấp, cho thấy trong tổng số 585 vụ án có 205 vụ tham ô
tài sản với 100% vốn của nhà nước, chiếm 35%; 380 vụ tham ô tài sản với vốn nhà nước
chiếm đa số, chiếm 65%.
Bảng số 1.13: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo hình thức sở hữu của tài sản
bị chiếm đoạt
100% vốn Nhà nước Vốn Nhà nước chiếm ưu thế Tổng
205 vụ (35%) 380 vụ (65%) 585 (100%)
(Nguồn: 585 bản án về tội tham ô tài sản)
Biểu đồ số 1.10: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo hình thức sở hữu của tài
sản bị chiếm đoạt
52
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy tội tham ô tài sản xảy ra đối với hình thức sở hữu có
một phần vốn của nhà nước chiếm tỷ lệ chủ yếu là 65%, trong khi đó hình thức sở hữu
thuộc toàn bộ vốn của nhà nước cũng chiếm tỷ lệ đáng kể là 35%.
1.2.2.6. Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại, giá trị tài sản bị chiếm đoạt Việc đưa ra được thông số về loại và giá trị tài sản bị chiếm đoạt bởi người phạm
tội tham ô tài sản là cơ sở cần thiết để đưa ra nhận xét về mức độ hậu quả của loại tội
phạm này khi đánh giá thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010– 2019.
Từ việc nghiên cứu 585 bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp xét
xử các bị cáo về tội tham ô tài sản cho thấy, trong số 585 vụ án tham ô tài sản thì có 398
vụ tài sản tham ô là tiền, chiếm 68%; còn lại 187 vụ, chiếm 32% tài sản tham ô là các tài
sản khác như: than, dầu khí, ắc quy, dây cáp điện, vật liệu xây dựng như thép, xi măng,
thóc, giống cây trồng, phân bón và một số hàng hóa khác.
Bảng số 1.14: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tài sản bị chiếm đoạt
Loại tài sản bị chiếm đoạt Vụ Tỷ lệ
Tiền 398 68%
187 32%
Các tài sản khác (như: than, dầu khí, ắc quy, dây cáp điện, vật liệu xây dựng như thép, xi măng, thóc, giống cây trồng, phân bón và một số hàng hóa khác)
Tổng 585 100%
(Nguồn: từ 585 bản án hình sự sơ thẩm về tội tham ô tài sản)
Biểu đồ số 1.11: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tài sản bị chiếm đoạt
Trong số 585 bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp xét xử các bị
cáo về tội tham ô tài sản thì giá trị tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt như sau:
53
Bảng số 1.15: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo giá trị tiền bị chiếm đoạt
Giá trị tiền bị chiếm đoạt Vụ Tỷ lệ
Từ 2 triệu đồng đền dưới 50 triệu đồng 67 11,4
Từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng 84 14,4
Từ 200 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng 115 19,7
Từ 1 tỷ đồng đến dưới 50 tỷ đồng 119 20,3
Từ 50 tỷ đồng đến dưới 100 tỷ đồng 105 18
Từ 100 tỷ đồng trở lên 95 16,2
Tổng 585 100%
(Nguồn: 585 bản án về tội tham ô tài sản)
Biểu đồ số 1.12: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo giá trị tiền bị chiếm đoạt
Từ cơ cấu theo loại tài sản và giá trị tiền thuộc sở hữu nhà nước bị chiếm đoạt cho
thấy: Loại tài sản phổ biến và chiếm tỷ trọng lớn nhất là tiền; trong đó, số vụ án tham ô tài sản có giá trị tiền bị chiếm đoạt ở các mức từ 2 triệu đồng đến 50 triệu đồng và từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng chiếm tỷ lệ khá thấp (đều dưới 15%); nhưng số vụ án tham ô mà
tài sản bị chiếm đoạt có giá trị lớn lại chiếm tỷ lệ khá cao, với các mức như sau: Từ 200 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng (19,7%), từ 1 tỷ đồng đến dưới 50 tỷ đồng (20,3%), từ 50 tỷ
đồng đến dưới 100 tỷ đồng (18%), từ 100 tỷ đổng trở lên (16,2%). Như vậy, từ cơ cấu về
54
giá trị tiền bị chiếm đoạt ta thấy số vụ án mà tiền bị chiếm đoạt có giá trị lớn, đặc biệt lớn
rất cao thể hiện tính chất đặc biệt nghiêm trọng của loại tội phạm này.
1.2.2.7. Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo cấp quản lý của người có chức vụ,
quyền hạn
Việc nghiên cứu thực trạng của tội tham ô tài sản theo cấp quản lý là cần thiết để
có thể rút ra những đặc điểm có tính đặc thù về tính chất của loại tội phạm này, trên cơ sở
đó có thể nhận thấy hoạt động quản lý nhà nước ở cấp nào được thực hiện chặt chẽ hơn,
cấp nào có mức độ lỏng lẻo hơn. Thông thường hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng có hai cấp, đó là các cơ quan trung ương và các cơ
quan địa phương. Trên cơ sở thống kê 585 bản án hình sự sở thẩm về tội tham ô tài sản
của Tòa án nhân dân các cấp, cho thấy trong tổng số 585 vụ án có 195 vụ xảy ra ở cấp
trung ương, chiếm 33,3%; trong khi đó xảy ra ở cấp địa phương là 390 vụ, chiếm 66,7%.
Bảng số 1.16: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo cấp quản lý của người có
chức vụ, quyền hạn
Cấp trung ương Cấp địa phương Tổng
295 vụ (33,3%) 390 vụ (66,7%) 585 vụ (100%)
(Nguồn: 585 bản án về tội tham ô tài sản)
Biểu đồ số 1.13: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo cấp quản lý của người có
chức vụ, quyền hạn
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy: trong cơ cấu theo cấp quản lý, tội tham ô tài sản xảy ra ở địa phương chiếm tỷ lệ chủ yếu là 66,7%, số xảy ra ở cấp trung ương chiếm tỷ lệ nhất định là 33,3%. Do vậy, trong hoạt động chống và phòng ngừa loại tội này, một trong
55
những biện pháp mà các chủ thể có trách nhiệm phòng ngừa phải tìm ra là siết chặt sự
quản lý nhà nước về kinh tế đối với các cơ quan ở địa phương, từ đó sẽ góp phần làm hạn
chế sự phát sinh tội tham ô tài sản ở cấp quản lý này.
1.2.2.8. Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo ngành, lĩnh vực hoạt động bị xâm phạm Đối với tội tham ô tài sản, ngành, lĩnh vực xảy ra tội phạm chính là phạm vi chủ
thể có chức vụ, quyền hạn đã sử dụng chức vụ, quyền hạn đó như một phương tiện để
xâm phạm đến sở hữu và hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Mặc dù hành vi tham
ô tài sản được thực hiện ở những ngành, lĩnh vực khác nhau, nhưng chúng đều có điểm chung là vì mục đích tư lợi, người phạm tội đã dùng các thủ đoạn khác nhau để chiếm
đoạt tài sản của nhà nước, gây ra thiệt hại nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức nhà nước.
Trên cơ sở nghiên cứu 585 bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp
xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản, cho thấy cơ cấu của tội tham ô tài sản theo ngành,
lĩnh vực hoạt động của các cơ quan, tổ chức bị xâm phạm như sau:
Bảng số 1.17: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo ngành, lĩnh vực hoạt động bị
xâm phạm
Ngành, lĩnh vực hoạt động bị xâm phạm Vụ Tỷ lệ
Quản lý quỹ, ngân sách được cấp 124 21,2 %
Sản xuất, kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước 103 17,6 %
Ngân hàng, tín dụng 97 16,6 %
Đầu tư, xây dựng cơ bản 93 15,9 %
Mua sắm tài sản công 75 12,8 %
Quản lý đất đai 53 9 %
Bảo hiểm, chứng khoán 22 3,8 %
Trợ cấp người có công, xóa đói, giảm nghèo 18 3,1 %
Tổng 585 100%
(Nguồn: 585 bản án về tội tham ô tài sản)
56
Biểu đồ số 1.14: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo ngành, lĩnh vực hoạt động bị xâm
phạm
Từ các tỷ trọng trên cho thấy: Tội tham ô tài sản xảy ra phổ biến với tỷ lệ trên 20%
ở lĩnh vực quản lý quỹ, ngân sách được cấp; trên 15% ở các lĩnh vực như: Sản xuất, kinh
doanh trong doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng tín dụng, đầu tư xây dựng; trên 10% ở
lĩnh vực mua sắm công; dưới 10% ở các lĩnh vực: Quản lý đất đai, bảo hiểm, chứng
khoán, phân bổ trợ cấp.
1.2.2.9. Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo địa bàn thực hiện tội phạm
Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì tham ô tài sản là loại tội xảy ra ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với những quy mô, lĩnh vực và mức độ hậu quả khác nhau. Điều đó có nghĩa là tội tham ô tài sản không loại trừ một địa phương nào,
tùy vào tính chất, mức độ phạm tội mà Tòa án cấp huyện hoặc Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, do đặc thù về chủ thể, đối tượng tác động của loại tội phạm này nên phần lớn các vụ tham ô tài sản với hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thường xảy ra ở các tỉnh, thành phố là trung
tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, các tỉnh có sự phát triển mạnh về các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
57
Bảng số 1.18: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo địa bàn thực hiện tội phạm
Địa bàn Số người phạm tội Tỷ lệ (%)
Thành phố Hồ Chí Minh 1359 29,3
Hà Nội 1265 27,3
Quảng Ninh 321 7
Bình Dương 312 6,7
Hải Phòng 296 6,4
Đồng Nai 291 6,3
Các tỉnh, thành khác 791 17
Tổng số 4635 100
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
Biểu đồ số 1.15: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo địa bàn thực hiện tội phạm
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy: Trong số 4575 người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019 thì những địa phương có tỷ lệ cao là thành phố Hồ Chí Minh chiếm 29,3%, Hà Nội chiếm 27,3%; tiếp đến là một số địa phương có tỷ lệ từ 6 đến 7 % là: Quảng Ninh 7%, Bình Dương 6,7%, Hải Phòng 6,4%, Đồng Nai 6,3%; sau cùng là rải rác ở các tỉnh, thành còn lại (chiếm 17%). Từ tỷ trọng về cơ cấu theo địa bàn thực hiện tội phạm cho thấy tội tham ô tài sản thường xảy ra nhiều hơn ở những địa phương là trung
58
tâm kinh tế, xã hội; những địa phương có các ngành công nghiệp, khai thác khoáng sản,
du lịch phát triển.
1.2.2.10. Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo động cơ phạm tội
Trên cơ sở nghiên cứu 585 bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp
xét xử 2475 bị cáo về tội tham ô tài sản cho thấy cơ cấu theo động cơ phạm tội như sau:
Bảng số 1.19: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo động cơ phạm tội
Động cơ phạm tội Người phạm tội Tỷ lệ
Làm giàu nhanh chóng 36,3% 898
Có tiền để tiêu xài cá nhân 32,7% 811
Có tiền để đánh bạc 18,2% 450
Có tiền để trả nợ 7,6% 188
128 Có tiền để xây nhà, mua sắm 5,2%
Tổng 2475 100%
(Nguồn: 585 bản án về tội tham ô tài sản) Biểu đồ số 1.16: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo động cơ phạm tội
Từ cơ cấu theo động cơ của người phạm tội tham ô tài sản cho thấy, loại động cơ phổ biến nhất và chiếm tỷ lệ cao trong số các bị cáo bị xét xử về tội tham ô tài sản là:
Muốn làm giàu nhanh chóng (36,3%) thông qua việc dùng tài sản do phạm tội mà có để
mua bất động sản, cho vay để hưởng lãi suất; có tiền để tiêu xài cá nhân, sinh hoạt của gia đình, chiếm 32,7%. Đây là hai loại động cơ chiếm tỷ trọng lớn nhất. Ngoài ra, loại động
59
cơ mới xuất hiện phổ biến trong những năm gần đây là người phạm tội muốn có tiền để
đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá qua các trang trên mạng internet, chiếm 18,2%.
1.2.2.11. Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo một số đặc điểm nhân thân của người
phạm tội
Để có cơ sở đánh giá một cách tương đối đầy đủ thực trạng về tính chất của tội
tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019, việc nghiên cứu cơ cấu của loại tội
phạm này theo một số đặc điểm nhân thân của người phạm tội có ý nghĩa phản ánh mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng giáo dục của người phạm tội, góp phần làm rõ thêm những đặc điểm thể hiện tính chất của tội tham ô tài sản. Để tạo cơ
sở cho việc xác định, phân tích nguyên nhân làm phát sinh tội tham ô tài sản, tác giả tập
trung làm rõ một số đặc điểm về nhân thân của người phạm tội như chức vụ lãnh đạo,
quản lý, giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, dân tộc, phạm tội lần đầu hay tái
phạm.
- Đặc điểm về chức vụ, quyền hạn của người phạm tội tham ô tài sản
Trên cơ sở thống kê 2475 người phạm tội từ 585 bản án hình sự sơ thẩm về tội
tham ô tài sản, đặc điểm về loại chức vụ, quyền hạn của người phạm tội tham ô tài sản
được thể hiện như sau:
Bảng số 1.20: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại chức vụ, quyền hạn của
người phạm tội
Loại chức vụ, quyền hạn của người phạm tội Người phạm tội Tỷ lệ
Tổng giám đốc, phó tổng GĐ; giám đốc, phó GĐ 563 22,7%
Cán bộ ngân hàng 469 19%
Kế toán 372 15%
Các công, viên chức hành chính khác 306 12,4%
Thủ quỹ 208 8,4%
Chủ tịch ủy ban nhân dân (tỉnh, huyện, xã) 198 8%
Trưởng thôn, cán bộ địa chính 185 7,5%
Thủ kho 106 4,3%
Kỹ sư xây dựng 68 2,7%
Tổng 100% 2475
(Nguồn: 585 bản án về tội tham ô tài sản)
60
Biểu đồ số 1.17: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại chức vụ, quyền hạn
của người phạm tội
Từ cơ cấu theo đặc điểm về chức vụ, quyền hạn của người phạm tội tham ô tài sản
cho thấy người phạm tội có một số loại chức vụ, quyền hạn chiếm tỷ lệ tương đối cao là
tổng giám đốc, phó tổng giám đốc và giám đốc, phó giám đốc các ban ngành, doanh
nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước (22,7%), cán bộ ngân hàng (19%), kế toán (15%), các
công chức hành chính khác (12,4%); còn lại là có các chức vụ, quyền hạn khác với tỷ lệ
dưới 10% như: Thủ quỹ, chủ tịch ủy ban, trưởng thôn, cán bộ địa chính.
- Đặc điểm về độ tuổi của người phạm tội tham ô tài sản Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao về xét xử các vụ án hình sự thì đặc
điểm về độ tuổi của người phạm tội tham ô tài sản được thể hiện như sau: Bảng số 1.21: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo độ tuổi của người phạm tội
2010 -2019 Tổng
Từ 25 đến 30 tuổi Từ 31 đến 40 tuổi Từ 41 đến 50 tuổi Từ 51 đến 60 tuổi
1674 1060 1112 789 Người phạm tội 4.635
36,2% 22,7% 24,1% 17 Tỷ lệ 100%
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
61
Biểu đồ số 1.18: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo độ tuổi của người phạm tội
Từ biểu đồ thể hiện cơ cấu theo độ tuổi của người phạm tội tham ô tài sản cho
thấy: người phạm tội tham ô tài sản có độ tuổi cao là phổ biến, trong đó: độ tuổi từ 31 đến
40 chiếm tỷ lệ cao nhất (36,2%); tiếp đến là độ tuổi từ 51 đến 60 (chiếm 24,1%) và độ
tuổi từ 41 đến 50 (chiếm 22,7%) và cuối cùng là độ tuổi từ 25 đến 30 (chiếm 17%).
- Đặc điểm về giới tính của người phạm tội tham ô tài sản
Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao về xét xử các vụ án hình sự thì đặc
điểm về giới tính của người phạm tội tham ô tài sản được thể hiện như sau:
Bảng số 1.22: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo đặc điểm về giới tính của
người phạm tội
2010-2019 Tổng Nam Nữ
4.635 3.590 1045 Người phạm tội
100% 77,5% 22,5% Tỷ lệ
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
Biểu đồ số 1.19: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo đặc điểm về giới tính của
người phạm tội
62
Từ bảng số liệu về đặc điểm giới tính của người phạm tội tham ô tài sản trong
khoảng thời gian từ 2010-2019 cho thấy số người phạm tội tham ô tài sản chủ yếu là nam
giới, chiếm tỷ lệ 77,5%; tỷ lệ này cũng phù hợp với thực trạng của công tác bổ nhiệm
người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, đơn vị kinh tế nhà nước thường tỷ lệ nam giới chiếm ưu thế. Mặc dù số người phạm tội tham ô tài sản là nữ giới chỉ chiếm 22,5%,
nhưng so với thực trạng của công tác bổ nhiệm cán bộ nữ thì đây là tỷ lệ khá cao, và cũng
cao hơn so với các loại tội phạm khác.
- Đặc điểm về trình độ văn hóa của người phạm tội tham ô tài sản Trên cơ sở thống kê từ 585 bản án hình sự sơ thẩm về tội tham ô tài sản, trình độ
văn hóa của 2475 người phạm tội tham ô tài sản được thể hiện như sau:
Bảng số 1.23: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo trình độ văn hóa của người
phạm tội
Trình độ văn hóa Người phạm tội Tỷ lệ
Tiểu học 15 0,6%
Trung học cơ sở 78 3,2%
Trung học phổ thông 439 17,7%
Trên trung học 1943 78,5%
Tổng 2475 100%
(Nguồn: 585 bản án về tội Tham ô tài sản)
Biểu đồ số 1.20: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo trình độ văn hóa của người
phạm tội
63
Từ những tỷ trọng khác nhau về trình độ văn hóa của người phạm tội tham ô tài
sản cho thấy, số người có trình độ tiểu học rất thấp, chỉ có 0,6%, trong khi đó chủ yếu là
số người có trình độ trên trung học chiếm tỷ lệ đa số là 78,5%. Điều này cũng hoàn toàn
phù hợp với dấu hiệu chủ thể đặc biệt của loại tội phạm này là người có chức vụ, quyền hạn ở những lĩnh vực, vị trí nhất định trong việc quản lý tài sản thuộc sở hữu của Nhà
nước.
- Đặc điểm về phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trong số 4635 người phạm tội tham ô tài sản từ năm 2010 đến năm 2019 thì số người phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy
hiểm như sau:
Bảng số 1.24: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo đặc điểm phạm tội lần đầu
hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm
2010-2019 Tổng Phạm tội lần đầu Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
4.635 4407 228 Người phạm tội
100% 95% 5% Tỷ lệ
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
Biểu đồ số 1.21: Cơ cấu của tội tham ô tài sản theo đặc điểm phạm tội lần đầu
hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Từ số liệu trên cho thấy, số người phạm tội tham ô tài sản chủ yếu là phạm tội lần đầu, chiếm 95%; số người tái phạm, tái phạm nguy hiểm chỉ chiếm tỷ lệ 5%; thể hiện hầu hết người phạm tội tham ô tài sản là người có nhân thân tốt, có mối liên hệ nhất định với
dấu hiệu chủ thể đặc biệt của loại tội phạm này là người có chức vụ, quyền hạn.
64
* Trên cơ sở nghiên cứu cơ cấu của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-
2019 theo các tiêu thức khác nhau, tác giả có thể rút ra một số nhận xét về tính chất của
tội phạm này như sau:
+ Tham ô tài sản là loại tội chiếm đa số trong nhóm tội phạm tham nhũng cả về số vụ và số người phạm tội: So với các tội phạm tham nhũng, tội tham ô tài sản chiếm 59,1%
về số vụ và 56,8% về số người phạm tội. Đồng thời, so với Chương các tội phạm về chức
vụ, bao gồm cả nhóm tội phạm tham nhũng và nhóm các tội phạm khác về chức vụ thì
tham ô tài sản vẫn là loại tội phạm chiếm tỷ lệ cao (chiếm 38,5 về số vụ và 37,8% số người phạm tội). Tỷ lệ này không chỉ phản ánh tính phổ biến của loại tội phạm này, mà
còn cho thấy đặc điểm tâm lý tiêu cực của một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn là
muốn chiếm đoạt tài sản của nhà nước, tổ chức, đơn vị thành của riêng mình nhằm thỏa
mãn tính tham lam, tư lợi.
+ Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá cơ cấu của tội tham ô tài sản theo hình thức sở
hữu của tài sản bị chiếm đoạt cho thấy: Hành vi phạm tội xảy ra nhiều và có tính phổ biến
hơn trong các doanh nghiệp có một phần vốn thuộc sở hữu nhà nước (chiếm 65%). Thực
trạng này của tội tham ô tài sản đã phản ánh thực tế khách quan là Đảng và Nhà nước ta
đang đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn trong các doanh nghiệp nhà nước thành các Công
ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
+ Về phương diện cấp quản lý của người có chức vụ, quyền hạn cho thấy: Tội
tham ô tài sản xảy ra nhiều hơn ở các cơ quan, doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của
chính quyền địa phương (chiếm 66,7%). Điều đó thể hiện hoạt động quản lý nhà nước về
tài sản của chính quyền địa phương các cấp còn lỏng lẻo, sơ hở, tạo ra những yếu tố thuận
lợi cho người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản họ được giao quản lý.
+ Từ việc đánh giá cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tội phạm cho thấy: Số người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng chiếm tỷ lệ rất cao (51,9 %) so với tổng số người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Điều đó thể hiện số vụ tham ô mà tài sản bị chiếm đoạt có giá trị lớn và đặc biệt lớn ngày càng nhiều, bởi lẽ việc
xác định khung hình phạt tương ứng với từng loại tội phạm được nhà làm luật dựa trên cơ sở định lượng của giá trị tài sản bị chiếm đoạt.
+ Loại hình phạt chủ yếu được áp dụng đối với người phạm tội tham ô tài sản là tù có thời hạn (chiếm 78,1%); trong đó, các mức hình phạt tù phổ biến được áp dụng là trên 7 năm đến 15 năm tù (39,3%) và trên 15 năm đến 20 năm tù (21,2%). Những tỷ trọng này không chỉ phản ánh loại và mức hình phạt phổ biến được Tòa án áp dụng đối với người
phạm tội tham ô tài sản, mà còn thể hiện mối tương quan nhất định đến tính phổ biến của
65
loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và tính phổ biến của tài sản bị chiếm đoạt có giá trị
lớn, đặc biệt lớn trong các vụ án tham ô tài sản được xét xử trong những năm vừa qua.
+ Tội tham ô tài sản được thực hiện khá phổ biến dưới hình thức đồng phạm,
chiếm tỷ lệ 64,6%, trong đó đồng phạm có tổ chức chiếm 12,4%; số bị cáo trong các vụ đồng phạm cũng tương đối nhiều, tính trung bình khoảng từ 4 đến 6 bị cáo/ 1 vụ đồng
phạm. Thực trạng này đã thể hiện rõ tính chất đặc thù của loại tội phạm này là thường
được thực hiện bởi sự liên kết của nhiều người có chức vụ, quyền hạn vì tài sản liên quan
đến nhiều khâu khác nhau trong quá trình quản lý của cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh tế. Do đó, để thực hiện và che giấu hành vi phạm tội, những người có chức vụ, quyền hạn hoặc
là phải có sự liên kết với nhau, hoặc là phải dùng quan hệ lệ thuộc để chi phối lẫn nhau.
Đây chính là nội dung để lý giải tại sao hầu hết các vụ án tham ô tài sản đều được thực
hiện dưới hình thức đồng phạm.
+ Người phạm tội tham ô tài sản dùng nhiều thủ đoạn khác nhau để chiếm đoạt tài
sản mà họ có trách nhiệm quản lý. Những thủ đoạn phổ biến được người có chức vụ,
quyền hạn sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội là gian dối để thực hiện hành vi chiếm
đoạt (chiếm 36,7%) và gian dối để che đậy hành vi chiếm đoạt tài sản (chiếm 37,2%). Từ
các tỷ lệ này cho thấy, do dấu hiệu điển hình của tội tham ô tài sản là chiếm đoạt tài sản
bằng cách lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nên gian dối là thủ đoạn rất phổ biến được người
phạm tội sử dụng; trong đó tùy thuộc vào hoàn cảnh, mục đích cụ thể, người phạm tội sẽ
sử dụng thủ đoạn gian dối trước hoặc sau khi chiếm đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm
quản lý.
+ Loại tài sản phổ biến mà người phạm tội tham ô tài sản chiếm đoạt là tiền, chiếm
tỷ lệ 68%, trong đó giá trị tiền bị chiếm đoạt ở mức đặc biệt lớn ngày càng mang tính phổ
biến, như: từ 200 triệu đồng đến dưới 50 tỷ đồng (chiếm 40%), đặc biệt giá trị tiền bị chiếm đoạt ở mức từ 50 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng (chiếm 18%), từ 100 tỷ đồng trở lên (chiếm tỷ lệ 16,2%). Từ tỷ lệ 68% tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án tham ô là tiền đã phần nào phản ánh thực trạng quản lý, sử dụng vốn, ngân sách của các cơ quan, tổ chức,
đơn vị phần lớn là dùng tiền mặt. Đó cũng là một trong những lý do dẫn đến việc Chính phủ đang khuyến khích, đẩy mạnh hoạt động thanh toán điện tử trong hệ thống các cơ quan, doanh nghiệp.
+ Tội tham ô tài sản xảy ra phổ biến hơn với một số lĩnh vực như: Quản lý, sử dụng quỹ, ngân sách được cấp (chiếm tỷ lệ 21,2%); sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước (chiếm tỷ lệ 17,6%); hoạt động ngân hàng, tín dụng (chiếm 16,6%) và
đầu tư, xây dựng cơ bản (chiếm tỷ lệ 15,9%); còn lại xảy ra rải rác ở một số lĩnh vực
66
khác. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá cơ cấu của tội tham ô tài sản theo ngành, lĩnh vực
bị xâm hại cho thấy: Đây là những lĩnh vực tiềm chứa nhiều nguy cơ làm phát sinh hành
vi tham ô tài sản, bởi chúng liên quan trực tiếp đến tài sản, đặc biệt là tiền mặt. Chính vì
vậy, nếu không có sự quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động này thì việc phát sinh hành vi tham ô tài sản của người có chức vụ, quyền hạn là điều khó tránh.
+ Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý, người
có chức vụ, quyền hạn thường xuất phát từ động cơ vụ lợi để thực hiện các mong muốn
cụ thể như muốn làm giàu nhanh chóng, chiếm tỷ lệ 36,3%; có tiền để tiêu xài cá nhân, chiếm tỷ lệ 32,7%; có tiền để tham gia tệ nạn xã hội như đánh bạc, chiếm tỷ lệ 18,2%.
Những động cơ phạm tội phổ biến này đã phản ánh rõ đặc điểm tâm lý tiêu cực của người
phạm tội, đó là vụ lợi, đề cao lợi ích vật chất và lối sống hưởng thụ cá nhân của một bộ
phận người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hiện nay.
+ Chức vụ, quyền hạn phổ biến của người phạm tội tham ô tài sản là kế toán
(chiếm tỷ lệ 15%), giám đốc (chiếm tỷ lệ 16,6%), cán bộ ngân hàng (chiếm tỷ lệ 19%).
Từ tính chất phổ biến về loại chức vụ, quyền hạn của người phạm tội tham ô tài sản cho
thấy: Chức vụ, quyền hạn vừa là một trong những đặc điểm nhân thân của người phạm
tội, nhưng cũng vừa đồng thời là phương tiện được người phạm tội lợi dụng để chiếm
đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý. Trên cơ sở đó, có thể đúc rút kinh nghiệm thực
tiễn trong hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản, đó là nguy cơ làm phát sinh hành vi
phạm tội tham ô tài sản thường tiềm ẩn trong những loại chức vụ, quyền hạn nào; từ đó có
thể chủ động đưa ra biện pháp phòng ngừa kịp thời, hiệu quả.
+ Độ tuổi phổ biến nhất của người phạm tội tham ô tài sản là từ 31 đến 40 tuổi,
chiếm 36,2%; tiếp đến là độ tuổi từ 51 đến 60 tuổi, chiếm 24,1%; độ tuổi thấp nhất của
người phạm tội tham ô tài sản là 25 tuổi, độ tuổi cao nhất là 60 tuổi. Đặc điểm nhân thân về độ tuổi của người phạm tội tham ô tài sản đã phần nào phản ánh tình trạng lợi dụng chính sách cán bộ ở một số bộ, ngành, địa phương trong những năm gầy đây là ưu tiên phát triển cán bộ trẻ, song thực tế một bộ phận cán bộ trẻ sau khi được bổ nhiệm giữ chức
vụ lãnh đạo, quản lý đã lợi dụng sự ưu tiên đó để vụ lợi cá nhân.
+ Mặc dù người phạm tội là nam giới chiếm tỷ lệ chủ yếu (77,5%), nhưng so với các loại tội phạm khác trong cùng nhóm tội tham nhũng, thì người phạm tội tham ô tài sản là nữ chiếm tỷ lệ tương đối cao (22,5%). Điều này cũng phần nào phản ánh tình trạng lợi dụng chính sách cán bộ là ưu tiên phát triển cán bộ nữ trong những năm gần đây. Khi được bổ nhiệm giữ chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh tế, một số
cán bộ nữ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi phạm tội.
67
+ Trình độ văn hóa phổ biến của người phạm tội tham ô tài sản là trên trung học
(gồm trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học), chiếm tỷ lệ 78,5% số người phạm
tội được thống kê. Đặc điểm nhân thân về trình độ văn hóa của người phạm tội tham ô tài
sản đã thể hiện rõ đặc điểm chủ thể đặc biệt của loại tội phạm này. Đó là ngoài các điều kiện về chủ thể của tội phạm nói chung, chủ thể của tội tham ô tài sản còn phải là người
có chức vụ, quyền hạn; và để được bổ nhiệm chức vụ, quyền hạn, cán bộ, công chức,
người lao động phải đảm bảo những tiêu chuẩn nhất định về trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị. Đây chính là lý do giải thích tại sao hầu hết người phạm tội tham ô tài sản là người có trình độ học vấn cao.
+ Hầu hết những người phạm tội tham ô tài sản là phạm tội lần đầu, chiếm tỷ lệ
95%. Đặc điểm nhân thân về phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm là yếu tố
vừa thể hiện mức độ tiềm ẩn nguy cơ phạm tội đối với trường hợp tái phạm, tái phạm
nguy hiểm, vừa đồng thời thể hiện nhân thân tốt đối với những trường hợp phạm tội lần
đầu. Tuy nhiên, cũng xuất phát từ chủ thể của tội tham ô tài sản là chủ thể có dấu hiệu
riêng biệt về chức vụ, quyền hạn, nên số người phạm tội lần đầu chiếm tỷ lệ 95% đã thể
hiện họ là những người có nhân thân tốt.
1.3. Diễn biến của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Diễn biến của tội phạm là sự thay đổi thực trạng của tội phạm theo thời gian trong
đơn vị thời gian xác định. Theo đó, diễn biến của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010-2019 là sự thay đổi thực trạng về mức độ và về tính chất của tội tham ô tài sản theo
từng năm trong khoảng thời gian 10 năm (2010-2019).
1.3.1. Diễn biến về mức độ của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-
2019
Việc xác định diễn biến về mức độ tức là đánh giá xu hướng vận động và mức độ vận động của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019 xét về mức độ. Để có cơ sở khẳng định xu hướng và mức độ vận động đó, tác giả phải dựa vào các thông số về mức độ của tội tham ô tài sản theo từng năm trong khoảng thời gian từ năm 2010–2019.
Bảng số 2.1: Mức độ tăng, giảm về số vụ và số người phạm tội của tội tham ô
tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
2010
258
100%
417
100%
2011
253
98% (-2%)
428
102,6% (+2,6%)
Năm Số vụ Mức độ tăng, giảm so với năm 2010 Số người phạm tội Mức độ tăng, giảm so với năm 2010
68
2012
202
78,3% (-21,7%)
411
98,6% (-1,4%)
2013
214
82,9% (-17,1%)
442
106% (+6%)
2014
265
102,7% (+ 2,7%)
466
111,7% (+11,7%)
2015
197
76,3% (-23,7%)
399
95,7% (-4,3%)
2016
186
72% (-28%)
393
94,2% (- 5,8%)
2017
218
191,7% (+91,7%)
439
124% (+ 24%)
2018
329
127,5% (+27,5%)
615
147,5% (+47,5%)
2019
363
140,7% (+40,7%)
625
149,9 (+49,9)
Tổng 2485
4635
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
Biểu đồ số 2.1: Diễn biến về số vụ, số người phạm tội của tội tham ô tài sản ở
Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Qua biểu đồ thể hiện diễn biến về mức độ của tội tham ô tài sản cho thấy: Số vụ phạm tội tham ô tài sản có chiều hướng giảm đều ở các năm của giai đoạn nghiên cứu, với tỷ lệ giảm trong khoảng từ 2%- 28%, sau đó lại tăng vọt vào 2 năm cuối của giai đoạn nghiên cứu là năm 2018 và 2019, với tỷ lệ tăng từ 27% - 40%; trong khi đó, số người phạm tội tham ô tài có chiều hướng khi tăng, khi giảm, sau đó lại tăng vọt vào những năm
nửa sau của giai đoạn nghiên cứu là 2017, 2018 và 2019, với tỷ lệ tăng trong khoảng 47%
69
- 53%. Như vậy, tội tham ô tài sản giai đoạn 2010-2019 có diễn biến giảm đều trong
nhiều năm, sau đó tăng vọt về số vụ vào những năm cuối của giai đoạn nghiên cứu; khi
tăng, khi giảm và tăng vọt vào những năm nửa sau của giai đoạn nghiên cứu về số người
phạm tội.
Để làm rõ hơn diễn biến về mức độ của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010- 2019, tác giả tiến hành so sánh mức độ tăng, giảm về số vụ và số người phạm tội
tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019 với mức độ tăng giảm về số vụ và số
người phạm tội của nhóm tội phạm tham nhũng ở Việt Nam trong cùng thời kỳ.
Bảng số 2.2: So sánh mức độ tăng, giảm về số vụ của tội tham ô tài sản và của
các tội phạm tham nhũng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Tội tham ô tài sản Các tội phạm tham nhũng Năm
Vụ Vụ
Mức độ tăng, giảm so với năm 2010 Mức độ tăng, giảm so với năm 2010
2010 258 100% 410 100%
2011 253 98% (-2%) 375 91,5% (- 8,5)
2012 202 78,3% (-21,7%) 398 97% (-3%)
2013 214 82,9% (-17,1%) 415 101,2% (+1,2%)
2014 265 102,7% (+ 2,7%) 485 118,3% (+ 18,3%)
2015 197 76,3% (-23,7%) 405 98,8% (-1,2%)
2016 186 72% (-28%) 375 91,5% (-8,5)
2017 218 84,5% (-15,5%) 495 120,7% (+ 20,7%)
2018 329 127,5% (+27,5%) 417 101,7% (+1,7%)
2019 363 140,7% (+40,7%) 428 104,4% (+ 4,4%)
Tổng 2485 4203
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
70
Biểu đồ số 2.2: So sánh diễn biến về số vụ của tội tham ô tài sản và của các tội
phạm tham nhũng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Nhìn vào biểu đồ so sánh giữa diễn biến về số vụ của tội tham ô tài sản với diễn
biến về số vụ của nhóm tội phạm tham nhũng ta thấy số vụ của tội tham ô tài sản diễn
biến với xu hướng khá phức tạp là khi tăng, khi giảm, thời gian tăng giảm từ 2 đến 3 năm,
sau đó tăng vọt vào năm 2018, 2019; trong khi đó, nhóm tội phạm tham nhũng lại có diễn
biến theo hướng giảm, thời gian giảm dài nhất là 5 năm tiếp theo sau năm gốc, tiếp sau
tăng trong thời gian 1 năm, sau đó lại giảm, rồi tăng vọt 20,7% vào năm 2017, hai năm
cuối của giai đoạn nghiên cứu là năm 2018, 2019 tăng nhẹ so với năm gốc là năm 2010.
Qua đó cho thấy, mặc dù tội tham ô tài sản là một tội thuộc nhóm tội phạm tham nhũng,
nhưng diễn biến về số vụ của tham ô tài sản lại phức tạp hơn so với diễn biến của cả
nhóm tội phạm tham nhũng.
Bảng số 2.3: So sánh mức độ tăng, giảm về số người phạm tội của tội tham ô
tài sản và của các tội phạm tham nhũng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Năm Tội tham ô tài sản Các tội phạm tham nhũng
2010
417
100%
732
100%
2011
428
102,6% (+2,6%)
688
94% (-6%)
2012
411
98,6% (-1,4%)
779
106,4% (+6,4%)
Người phạm tội Mức độ tăng, giảm so với năm 2010 Người phạm tội Mức độ tăng, giảm so với năm 2010
71
2013
442
106% (+6%)
864
118% (+18%)
2014
466
111,7% (+11,7%)
936
127,9% (+27,9%)
2015
399
95,7% (-4,3%)
834
113,9% (+13,9%)
2016
393
94,2% (- 5,8%)
706
96,4% (-3,6)
2017
439
105,3% (+ 5,3%)
710
97% (-3%)
2018
615
147,5% (+47,5%)
820
112% (+12%)
2019
625
149,9 (+49,9)
148,5% (+48,5%)
1087
8156
Tổng
4635
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
Biểu đồ số 2.3: So sánh diễn biến về số người phạm tội của tội tham ô tài sản
và của các tội phạm tham nhũng ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019
Từ biểu đồ so sánh diễn biến về số người phạm tội của tội tham ô tài sản với diễn biến về số người phạm tội của nhóm tội phạm tham nhũng cho thấy: Số người phạm tội của tội tham ô tài sản theo chiều hướng khi tăng, khi giảm ở những năm kế tiếp sau năm gốc,
trong đó tỷ lệ giảm giao động từ 1,5% - 5,8% và tỷ lệ tăng giao động từ 2,6% - 11,7%, sau đó tăng vọt vào những năm cuối của giai đoạn nghiên cứu với tỷ lệ từ 47% - 49,9%;
trong khi đó, số người phạm tội của nhóm tội phạm tham nhũng cũng theo chiều hướng tăng đều ở những năm giữa giai đoạn nghiên cứu với mức độ giao động từ 6,4% - 27,9%, sau đó giảm nhẹ ở mức dưới 4% và tăng vọt vào năm cuối của giai đoạn nghiên cứu là 48,5%.
1.3.2. Diễn biến về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-
2019
72
Khi nghiên cứu diễn biến về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010-2019, tác giả phải dựa vào các thông số về các cơ cấu phản ánh thực trạng về tính
chất của tội tham ô tài sản. Theo đó, chỉ những số liệu phản ánh rõ thực trạng của tội tham
ô tài sản xét về tính chất mới được sử dụng để phân tích làm rõ diễn biến về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019, cụ thể như sau:
1.3.2.1. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo loại tội phạm
Trên cơ sở thống kê 585 bản án của Tòa án nhân dân các cấp xét xử sơ thẩm các bị
cáo về tội tham ô tài sản, cho thấy mức độ tăng, giảm về số người phạm tội tham ô tài sản của tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
như sau:
Bảng số 2.4: Mức độ tăng, giảm của người phạm tội tham ô tài sản theo loại
tội phạm
Năm Tổng
Tội phạm nghiêm trọng Tội phạm rất nghiêm trọng Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
Số lượng Số lượng Số lượng số người phạm tội
Tỷ lệ tăng giảm so với năm 2010 (%) Tỷ lệ tăng giảm so với năm 2010 (%) Tỷ lệ tăng giảm so với năm 2010 (%)
2010
100
150
100
187
100
80
2011
78,7 (-21,3)
138
92 (-8)
227
121,4 (+ 21,4)
63
417
2012
71,2 (-28,8)
156
104 (+4)
198
105,9 (+ 5,9)
57
428
2013
83,7 (-16,3)
164
109,3 (+9,3)
211
112,8 (+ 12,8)
67
411
2014
42,5 (-57,5)
175
116,6 (+ 16,6)
257
137,4 (+ 37,4)
34
442
2015
58,7 (-41,3)
127
84,6 (-15,4)
225
120,3 (+ 20,3)
47
466
2016
45 (-55)
119
79,3 (- 20,7)
238
127,3 (+27,3)
36
399
2017
127
158,7 (+ 58,7)
109
72,6 (-27,4)
203
108,5 (+ 8,5)
393
2018
106
132,5 (+32,5)
220
146,6 (+ 46,6)
289
154,5 (+ 54,50
439
2019
64
80 (-20)
198
132 (+ 32)
363
194,1 (+ 94,1)
615
625
Tổng
4635
681
1556
2398
(Nguồn Tòa án nhân dân tối cao)
73
Biểu đồ 2.4: Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo loại tội phạm
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy: Tội nghiêm trọng có xu hướng giảm ở các năm từ
2011- 2016, sau đó tăng vọt vào những năm 2017, 2018 với tỷ lệ từ hơn 30 đến gần 60%
so với năm gốc là năm 2010; tội rất nghiêm trọng có diễn biến phức tạp, cụ thể: Tăng đều
ở 3 năm kế tiếp năm gốc là năm 2010 với tỷ lệ tăng giao động từ 4% - 16,6%, sau đó lại
giảm đều ở 3 năm tiếp theo với tỷ lệ giảm nhiều nhất là 27,4% và tăng vọt vào các năm
2018, 2019 với tỷ lệ tăng cao nhất là 46,6%; so với năm gốc là năm 2010, tội đặc biệt nghiêm trọng tăng ở tất cả các năm, trong đó tỷ lệ tăng thấp nhất là 5,9% và tỷ lệ tăng cao nhất là 94,1%. Điều đó cho thấy diễn biến của tội tham ô tài sản theo loại tội phạm ngày
càng nghiêm trọng, trong đó tội đặc biệt nghiêm trọng gia tăng liên tục với tỷ lệ cao gấp nhiều lần so với năm đầu của giai đoạn nghiên cứu.
1.3.2.2. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo hình thức thực hiện tội phạm Trên cơ sở thống kê 585 bản án hình sự của Tòa án nhân dân các cấp xét xử sơ thẩm về tội tham ô tài sản, cho thấy diễn biến về số vụ phạm tội theo hình thức thực hiện tội phạm như sau:
74
Bảng số 2.5: Mức độ tăng, giảm của số vụ phạm tội riêng lẻ và đồng phạm
Năm Số vụ Số vụ phạm tội riêng lẻ Số vụ đồng phạm
Số Tỷ lệ (%) tăng, giảm Số Tỷ lệ (%) tăng, giảm
lượng so với năm 2010 lượng so với năm 2010
40 25 100 15 100 2010
47 23 92 (-8) 24 160 (+ 60) 2011
51 22 88 (-12) 29 193,3 (+ 93,3) 2012
53 20 80 (-20) 33 220 (+ 120) 2013
48 18 72 (-28) 30 200 (+ 100) 2014
58 23 92 (-8) 35 233,3 (+ 133,3) 2015
61 20 80 (-20) 41 273,3 (+ 173,3) 2016
72 22 88 (-12) 50 333,3 (+ 233,3) 2017
73 18 72 (-28) 55 343,7 (+ 243,7) 2018
82 16 64 (-36) 66 440 (+ 340) 2019
Tổng 585 207 35,4 378 64,6
(Nguồn từ 585 bản án về tội tham ô tài sản)
Biểu đồ số 2.5: Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo hình thức thực
hiện tội phạm
75
Nhìn vào biểu đồ thể hiện diễn biến của cơ cấu theo hình thức thực hiện tội phạm
ta thấy: Tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2019 chủ yếu
được thực hiện dưới hình thức đồng phạm, chiếm 64,6% số vụ án được thống kê trong
giai đoạn nghiên cứu; số vụ án được thực hiện với hình thức phạm tội riêng lẻ chỉ chiếm tỷ lệ nhất định là 35,4 %. Trong đó, số vụ án được thực hiện với hình thức phạm tội riêng
lẻ có xu hướng ngày càng giảm so với số liệu của năm gốc là năm 2010; còn số vụ được
thực hiện với hình thức đồng phạm thì lại có xu hướng tăng liên tục và tăng mạnh ở
những năm nửa sau của giai đoạn nghiên cứu. Từ xu hướng tăng của việc thực hiện tội phạm theo hình thức đồng phạm cho thấy xu hướng tăng tính chất nghiêm trọng của tội
tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu.
1.3.2.3. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo hình thức sở hữu của tài sản
bị chiếm đoạt
Trên cơ sở thống kê 585 bản án hình sự sở thẩm về tội tham ô tài sản của Tòa án
nhân dân các cấp, cho thấy mức độ tăng giảm của tội tham ô tài sản theo hình thức sơ hữu
đối với tài sản bị chiếm đoạt như sau:
Bảng số 2.6: Mức độ tăng, giảm của số vụ trong cơ cấu theo hình thức sở hữu
của tài sản bị chiếm đoạt
Năm Số vụ 100% vốn nhà nước Vốn nhà nước chiếm đa số
Số lượng
Số lượng Tỷ lệ (%) tăng giảm so với năm 2010 Tỷ lệ (%) tăng giảm so với năm 2010
2010 40 25 100 15 100
2011 47 23 92 (-8) 24 160 (+ 60)
2012 51 22 88 (-12) 29 193,3 (+ 93,3)
2013 53 20 80 (-20) 33 220 (+ 120)
2014 48 18 72 (-28) 30 200 (+ 100)
2015 58 23 92 (-8) 35 233,3 (+ 133,3)
2016 61 20 80 (-20) 41 273,3 (+ 173,3)
2017 72 20 80 (20) 52 346,6 (+ 246,6)
2018 73 18 72 (-28) 55 343,7 (+ 243,7)
2019 82 16 64 (-36) 66 440 (+ 340)
Tổng 585 205 35 380 65
(Nguồn: 585 bản án về tội tham ô tài sản)
76
Biểu đồ số 2.6: Diễn biến của cơ cấu theo hình thức sở hữu của tài sản bị
chiếm đoạt
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy số vụ án tham ô tài sản xảy ra ở các doanh nghiệp
100% vốn nhà nước có xu hướng ngày càng giảm so với năm gốc 2010; trong khi đó tỷ lệ
vụ án tham ô tài sản xảy ra trong các doanh nghiệp có một phần vốn của nhà nước lại có
xu hướng ngày càng tăng so với năm gốc là năm 2010. Diễn biến này cũng phần nào phản
ánh chủ trương của Nhà nước ta trong nhiều năm qua là đẩy mạnh việc cổ phần hóa, thoái vốn trong các doanh nghiệp nhà nước; tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước thuần túy ngày càng
giảm, đồng nghĩa với việc số lượng các doanh nghiệp nhà nước chiếm một phần vốn ngày
càng tăng. Do vậy, tham ô tài sản xảy ra ở các doanh nghiệp nhà nước chiếm một phần
vốn ngày càng có tính phổ biến và chiếm tỷ lệ đa số trong các vụ án tham ô tài sản xảy ra
trên thực tế. Mặt khác, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, thì phạm vi đối tượng của tội tham ô tài sản được mở rộng ra cả khu vực ngoài nhà nước. Tuy nhiên, do quy định này mới bắt đầu đi vào cuộc sống, nên thực tế trong 2 năm của giai đoạn nghiên cứu là năm 2018, 2019 số vụ tham ô tài sản trong lĩnh vực tư còn rất ít (01 vụ/01 bị cáo),
chưa đủ để phản ánh tính chất của tội tham ô tài sản nên không đề cập ở nội dung này.
1.3.2.4. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo loại và giá trị tài sản bị chiếm
đoạt
Trên cơ sở thống kê 585 bản án của Tòa án nhân dân các cấp xét xử sơ thẩm các bị
cáo về tội tham ô tài sản, cho thấy diễn biến về loại tài sản bị chiếm đoạt như sau:
77
Bảng số 2.7: Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội tham ô tài sản theo từng loại tài
sản bị chiếm đoạt
Loại tài sản bị chiếm đoạt
Tiền Tài sản khác (bằng hiện vật)
Năm Số vụ Số lượng Tỷ lệ tăng, giảm (%) Số lượng Tỷ lệ tăng, giảm (%)
13 100 27 100 2010 40
18 138,4 (+38,4) 29 107,4 (+7,4) 2011 47
28 215,3 (+115,3) 23 85,1 (- 14,9) 2012 51
35 269,2 (+169,2) 18 66,6 (- 33,4) 2013 53
39 300 (+200) 9 33,3 (- 66,7) 2014 48
42 323 (+223) 16 59,2 (-40,8) 2015 58
45 346 (+246) 16 59,2 (-40,8) 2016 61
55 423 (+323) 17 62,9 (-37,1) 2017 72
57 438,4 (+338,4) 16 59,2 (-40,8) 2018 73
66 507,6 (+407,6) 16 59,2 (-40,8) 2019 82
Tổng 585 398 187
(Nguồn từ 585 bản án về tội tham ô tài sản)
Biểu đồ số 2.7: Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo loại tài sản bị
chiếm đoạt
78
Nhìn vào biểu đồ thể hiện diễn biến cơ cấu của tội tham ô tài sản theo loại tài sản
bị chiếm đoạt ta thấy: So với năm gốc là năm 2010 thì số vụ chiếm đoạt tài sản là tiền có
xu hướng tăng với tỷ lệ rất cao ở những năm sau, trong đó tỷ lệ tăng cao nhất là 407,6%
so với năm gốc; đối với loại tài sản bị chiếm đoạt là các tài sản khác như vật liệu xây dựng, than, thóc…thì số vụ lại có xu hướng giảm ở những năm sau so với năm gốc, trong
đó tỷ lệ giảm sâu nhất là 66,7%. Từ đó ta có thể nhận thấy tiền là loại tài sản bị chiếm
đoạt ngày càng có tính phổ biến cao trong các vụ án tham ô tài sản ở Việt Nam. Đây cũng
là một trong những đặc điểm cần được các chủ thể có chức năng phòng ngừa quan tâm để đưa ra biện pháp phù hợp trong việc quản lý loại tài sản này, nhằm loại trừ hoặc hạn chế
nguy cơ bị chiếm đoạt bởi một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn.
1.3.2.5. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo cấp quản lý của người có
chức vụ, quyền hạn
Trên cơ sở thống kê 585 bản án hình sự sơ thẩm về tội tham ô tài sản của Tòa án
nhân dân các cấp, cho thấy: Mức độ tăng giảm của tội tham ô tài sản theo cấp quản lý như
sau:
Bảng số 2.8: Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội tham ô tài sản theo cấp quản lý
của người có chức vụ, quyền hạn
Năm Số vụ Cấp trung ương Cấp địa phương
Số lượng Tỷ lệ tăng, giảm (%) Số lượng Tỷ lệ tăng, giảm (%)
2010 40 27 100 13 100
2011 47 29 107,4 (+7,4) 18 138,4 (+38,4)
2012 51 23 85,1 (- 14,9) 28 215,3 (+115,3)
2013 53 18 66,6 (- 33,4) 35 269,2 (+169,2)
2014 48 17 63 (- 37) 31 238 (+138)
2015 58 16 59,2 (-40,8) 42 323 (+223)
2016 61 16 59,2 (-40,8) 45 346 (+246)
2017 72 17 62,9 (-37,1) 55 423 (+323)
2018 73 16 59,2 (-40,8) 57 438,4 (+338,4)
2019 82 16 59,2 (-40,8) 66 507,6 (+407,6)
Tổng 585 195 390
(Nguồn: 585 bản án về tội tham ô tài sản)
79
Biểu đồ số 2.8: Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo cấp quản lý của
người có chức vụ, quyền hạn
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy: Số vụ án tham ô tài sản xảy ra ở cấp trung ương diễn
biến theo xu hướng ngày càng giảm và giảm ở tỷ lệ đáng kể so với năm gốc là năm 2010,
tỷ lệ giảm cao nhất là 40,8%; trong khi đó số vụ án tham ô tài sản xảy ra ở các cơ quan
địa phương lại diễn biến với xu hướng tăng và tăng với tỷ lệ rất cao so với năm gốc là
năm 2010, tỷ lệ tăng cao nhất là 407,6%. Đây cũng là một trong những cơ sở cần thiết để
các chủ thể có trách nhiệm phòng ngừa phải ưu tiên, tập trung hơn nữa trong việc tìm ra
biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở cấp cơ sở.
1.3.2.6. Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo đặc điểm phạm tội lần đầu
hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm của người phạm tội
Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao về hoạt động xét xử hình sự, diễn biến
theo đặc điểm số người phạm tội lần đầu, hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm như sau:
Bảng số 2.9: Mức độ tăng, giảm hàng năm của người phạm tội có đặc điểm
phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Năm Phạm tội lần đầu Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Người phạm tội Số lượng Tỷ lệ tăng, giảm Số lượng
(%) Tỷ lệ tăng, giảm (%)
2010 417 404 100 13 100
2011 428 413 102,2 (+2,2) 15 115,4 (+15,4)
80
2012 411 394 97,5 (-2,5) 17 130,8 (+ 30,8)
2013 442 422 104,4 (+4,4) 20 153,8 (+ 53,8)
2014 466 444 109,9 (+9,9) 22 169,2 (+ 69,2)
2015 399 374 92,6 (- 7,4) 25 192,3 (+92,3)
2016 393 367 90,8 (- 9,2) 26 200 (+100)
2017 439 411 101,7 (+1,7) 28 215,4 (+ 115,4)
2018 615 586 145 (+ 45) 29 223 (+ 123)
2019 625 592 146,5 (+ 46,5) 33 253,8 (+ 153,8)
Tổng 4635 4407 228
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
Biểu đồ số 2.9: Diễn biến của cơ cấu tội tham ô tài sản theo đặc điểm phạm tội
lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm của người phạm tội
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy: Số người phạm tội lần đầu có xu hướng giảm đều ở tất cả các năm trong giai đoạn nghiên cứu so với năm gốc là năm 2010; trong khi đó, số người tái phạm và tái phạm nguy hiểm lại có xu hướng tăng ở tất cả các năm trong giai
đoạn nghiên cứu so với năm gốc. Điều đó phần nào phản ánh tính chất của tội tham ô tài
sản ngày càng phức tạp, với tính nguy hiểm cho xã hội ngày càng tăng. Chính vì vậy, đòi hỏi các chủ thể phòng ngừa phải hoạch định để đưa ra các biện pháp thích ứng nhằm hạn
chế sự phát sinh, gia tăng loại tội phạm này trong thời gian tới.
81
Kết luận chương 1
Với việc phân tích, đánh giá tình hình của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010-2019 thông qua các yếu tố cấu thành là thực trạng và diễn biến của loại tội phạm
này dựa trên các thông số của thực trạng về mức độ, thực trạng về tính chất, cũng như diễn biến về mức độ và diễn biến về tính chất, tác giả đã làm rõ được bức tranh về tình
hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Đây là cơ sở hết sức cần
thiết để có thể xác định những yếu tố tiêu cực nào trong đời sống xã hội đã tác động đến
sự phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở nước ta trong những năm vừa qua.
Từ việc đánh giá tình trạng thực tế của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong khoảng
thời gian từ 2010-2019 qua các thông số định lượng và thông số định tính, tác giả đã làm
rõ thực trạng về mức độ và thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản. Theo đó, về mức
độ: Tham ô tài sản là loại tội xảy ra nhiều trên thực tế, trung bình năm là 248 vụ/ 463
người phạm tội; đồng thời tham ô tài sản cũng là loại tội phạm có tỷ lệ ẩn cao, với tỷ lệ
giao động khoảng từ 10 - 30%. Về chỉ số tội phạm và chỉ số người phạm tội của tội tham
ô tài sản giai đoạn 2010-2019 cao hơn giai đoạn 10 năm về trước với tỷ lệ 122% và
134%; từ đó cho thấy, tội tham ô tài sản giai đoạn 2010-2019 xảy ra nhiều hơn, phổ biến
hơn so với giai đoạn 10 năm về trước là 2000- 2009.
Bên cạnh đó, trên cơ sở phân tích các cơ cấu của tội tham ô tài sản theo các tiêu
thức khác nhau, tác giả đã rút ra được những đặc điểm đặc thù về tính chất của tội tham ô
tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu như: Hành vi phạm tội xảy ra nhiều và có
tính phổ biến hơn trong các doanh nghiệp có một phần vốn thuộc sở hữu nhà nước; xảy ra
nhiều hơn ở các cơ quan, doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương;
số người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng chiếm tỷ lệ rất cao; tội tham ô tài sản được thực
hiện khá phổ biến dưới hình thức đồng phạm; dấu hiệu điển hình của tội tham ô tài sản là chiếm đoạt tài sản bằng cách lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nên gian dối là loại thủ đoạn rất phổ biến được người phạm tội sử dụng dưới hai hình thức hoặc là gian dối để che đậy hành vi chiếm đoạt hoặc là gian dối để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý; loại
tài sản phổ biến mà người phạm tội chiếm đoạt là tiền, trong đó giá trị tiền bị chiếm đoạt ở mức đặc biệt lớn ngày càng mang tính phổ biến ở các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước; tội tham ô tài sản xảy ra phổ biến hơn với một số lĩnh vực như sử dụng quỹ, ngân sách, sản xuất, kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước, hoạt động ngân hàng, tín dụng; độ tuổi của người phạm tội tham ô tài sản ngày càng trẻ hóa; số người phạm tội mang giới tính nữ ngày càng tăng; trên trung học là trình độ văn hóa phổ biến của người
phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu.
82
Thông qua việc đánh giá sự thay đổi thực trạng về mức độ và về tính chất của tội
tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-2019, tác giả đã phân tích làm rõ diễn biến về
mức độ và diễn biến về tính chất của tội tham ô tài sản. Về mức độ: Tội tham ô tài sản
diễn biến với xu hướng khá phức tạp là khi tăng, khi giảm, sau đó tăng vọt cả về số vụ và số người phạm tội vào những năm cuối của giai đoạn nghiên cứu. Về tính chất: Diễn biến
của tội tham ô tài sản theo loại tội phạm ngày càng nghiêm trọng, trong đó tội đặc biệt
nghiêm trọng gia tăng liên tục với tỷ lệ cao gấp nhiều lần so với năm gốc của giai đoạn
nghiên cứu; số vụ án được thực hiện với hình thức đồng phạm có xu hướng tăng liên tục và tăng mạnh ở những năm nửa sau của giai đoạn nghiên cứu; số vụ án xảy ra trong các
doanh nghiệp có một phần vốn của Nhà nước có xu hướng ngày càng tăng so với năm
gốc; số vụ chiếm đoạt tài sản là tiền có xu hướng tăng với tỷ lệ rất cao ở những năm sau
của giai đoạn nghiên cứu; số vụ tham ô tài sản xảy ra ở các cơ quan, doanh nghiệp thuộc
thẩm quyền quản lý của chính quyền địa phương diễn biến với xu hướng tăng và tăng với
tỷ lệ cao so với năm gốc; số người phạm tội có đặc điểm nhân thân là tái phạm, tái phạm
nguy hiểm có xu hướng tăng ở tất cả các năm trong giai đoạn nghiên cứu so với năm gốc.
Như vậy, từ những nội dung phân tích, đánh giá thực trạng và diễn biến của tội
phạm, tác giả đã có được bức tranh mang tính tổng thể về tình hình của tội tham ô tài sản
ở Việt Nam trong thời gian từ năm 2010-2019. Đây là những nội dung hết sức cần thiết,
làm cơ sở để tìm ra những nguyên nhân của loại tội phạm này, tạo nền tảng để có thể tìm
kiếm những biện pháp thiết thực, phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa đối với tội
tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới.
83
CHƯƠNG 2. NGUYÊN NHÂN CỦA TỘI THAM Ô TÀI SẢN
2.1. Vấn đề chung về nguyên nhân của tội phạm
Nguyên nhân của tội phạm là một trong những đối tượng nghiên cứu của tội phạm học nói chung cũng như của hầu hết các công trình nghiên cứu vấn đề cụ thể của tội phạm
học. Khi nghiên cứu một nhóm tội hay một tội phạm cụ thể dưới góc độ tội phạm học,
việc nghiên cứu để xác định những yếu tố được coi là nguyên nhân của tội phạm là việc
làm không thể thiếu, tạo cơ sở cần thiết cho việc đưa ra được các biện pháp phù hợp với
yêu cầu thực tiễn, để hạn chế hoặc có thể loại trừ sự tác động của các yếu tố đó đối với việc phát sinh tội phạm trong phạm vi nghiên cứu. Tuy nhiên, việc xác định và giải thích
nguyên nhân của tội phạm trong phạm vi nghiên cứu có thể bị chi phối bởi quan niệm
chung về nguyên nhân của tội phạm. Do có các quan niệm khác nhau về nguyên nhân của
tội phạm có thể có kết quả xác định và giải thích khác nhau về nguyên nhân của tội phạm
trong phạm vi nghiên cứu cụ thể. Ở Việt Nam hiện nay, đang tồn tại các quan niệm khác
nhau về nguyên nhân của tội phạm. Các quan niệm khác nhau này, trước hết thể hiện ở
việc dùng các khái niệm khác nhau để chỉ các yếu tố làm phát sinh tội phạm.
Trong các công trình về tội phạm học, các khái niệm khác nhau đã được đưa ra, như khái niệm “nguyên nhân và điều kiện của tội phạm”; “nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội phạm”; “nguyên nhân của tình hình tội phạm” và phân biệt với khái niệm
“điều kiện của tình hình tội phạm”; khái niệm “nguyên nhân của tội phạm”.
Trong Giáo trình tội phạm học của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,
khái niệm “nguyên nhân và điều kiện của tội phạm” đã được đưa ra. Theo đó, nguyên
nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể là những đặc điểm cá nhân của người phạm tội và
những tình huống, hoàn cảnh khách quan bên ngoài, trong sự tương tác lẫn nhau dẫn đến
việc thực hiện một tội phạm cụ thể. Từ đó, các tác giả đã khẳng định: Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể luôn được thể hiện dưới dạng các đặc điểm cá nhân; nguyên nhân và điều kiện của tội phạm được thể hiện dưới dạng các tình huống, hoàn cảnh khách
quan cá biệt, đơn nhất luôn được xác định rõ ràng về mặt không gian, thời gian và gắn
liền với cá nhân người phạm tội; nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể luôn là một thể thống nhất của các nhân tố khách quan và chủ quan.15
15 Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình tội phạm học, NXB Hồng Đức, Hà Nội, tr 216, 217.
Trong cuốn "Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn", khái niệm “nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm” được tác giả Phạm Hồng Hải sử
84
dụng và cho rằng: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là đối tượng nghiên
cứu của tội phạm học có nghĩa là, trong quá trình nghiên cứu, chủ thể phải tìm ra những
yếu tố, những quá trình mà tác động của chúng tới tình hình tội phạm hoặc làm phát sinh
tội phạm (nguyên nhân) hoặc thúc đẩy tội phạm phát triển (điều kiện). Từ đó, khẳng định: Các yếu tố, hiện tượng và quá trình là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được xem xét thuần túy dưới góc độ tội phạm học.16
Tại cuốn "Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm", tác giả Nguyễn Xuân
Yêm đưa ra khái niệm “nguyên nhân của tình hình tội phạm” và phân biệt với khái niệm “điều kiện của tình hình tội phạm”. Tác giả cho rằng: Mỗi tội phạm cụ thể có hai nguyên
nhân, đó là khuynh hướng cá nhân xã hội và tình huống cuộc sống phức tạp không thuận
lợi. Đa số các trường hợp nguyên nhân của tội phạm là sự tương tác các nhân tố này trong
mối quan hệ giữa các quan điểm chống xã hội của con người và sự ảnh hưởng các điều
kiện bên ngoài không như nhau, do đó, có thể hoặc khuynh hướng cá nhân hoặc tình
huống cuộc sống phức tạp không thuận lợi sẽ đóng vai trò chính trong việc phát sinh từng
loại tội phạm cụ thể. Các điều kiện làm thuận lợi cho phát sinh tội phạm là những tình
huống làm dễ dàng cho việc đạt kết quả của tội phạm, không được xem là nguyên nhân
của tội phạm, những tình huống này thuộc vào loại nhóm các điều kiện thuận lợi cho phát sinh tội phạm.17 Từ đó, tác giả khẳng định: Nguyên nhân của tình hình tội phạm là tổng hợp các hiện tượng xã hội tiêu cực làm phát sinh tình hình tội phạm. Nguyên nhân của tình hình
tội phạm xét về bản chất bao giờ cũng có nội dung tâm lý xã hội - đó là những quan niệm,
thói quen mang tính chất của các hình thái kinh tế xã hội có giai cấp. Điều kiện đưa đến
tình hình tội phạm cũng là những hiện tượng xã hội tiêu cực, nhưng khác với nguyên nhân
ở chỗ nó không làm phát sinh ra tội phạm, mà nó chỉ tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của tình hình tội phạm.18
Tại cuốn "Giáo trình tội phạm học", tác giả Võ Khánh Vinh đưa ra khái niệm nguyên nhân của tội phạm, sự tác động của nguyên nhân, điều kiện đến quá trình phát sinh tội phạm. Theo đó, nguyên nhân được hiểu là những yếu tố, những quá trình làm
16 Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr 87.
17 Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội, tr 159, 160.
18 Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, NXB Công an nhân dân, Hà
Nội, tr 168.
phát sinh tội phạm; còn điều kiện của tội phạm là những yếu tố, quá trình không làm phát
85
sinh mà chỉ là thúc đẩy quá trình phát sinh tội phạm “nguyên nhân sinh ra hậu quả, còn điều kiện không thể sinh ra hậu quả mà tạo ra điều kiện, bảo đảm cho hậu quả xảy ra.” 19 Cũng bàn về khái niệm nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, tác giả Đỗ Ngọc
Quang cho rằng "nguyên nhân bao giờ cũng chứa đựng nội dung bên trong có thể là phẩm chất cá nhân tiêu cực, còn điều kiện là hoàn cảnh xã hội nói chung.” 20
Khi so sánh về tính chất giữa nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, tại cuốn "Tội
phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn", các tác giả cho rằng: “Nguyên
nhân thường có tính ổn định cao còn điều kiện thì có tính không bền vững, dễ thay đổi theo thời gian.”21
Như vậy, trong những công trình nghiên cứu nêu trên, các tác giả đã xác định các
yếu tố làm phát sinh tội phạm là “nguyên nhân và điều kiện của tội phạm” hoặc là
“nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm” hoặc là “nguyên nhân của tình hình tội
phạm”, trong đó nguyên nhân có vai trò làm phát sinh tình hình tội phạm, còn điều kiện
có vai trò thúc đẩy quá trình phát sinh tội phạm, điều kiện không làm phát sinh ra tội
phạm, mà tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của
tình hình tội phạm.
Khác với các quan điểm nêu trên, trong Giáo trình tội phạm học của Trường Đại
học Luật Hà Nội, khái niệm “nguyên nhân của tội phạm” đã được đưa ra và cho rằng:
Nguyên nhân của tội phạm là tổng hợp các nhân tố mà sự tác động qua lại giữa chúng đưa đến việc thực hiện tội phạm của người phạm tội.22 Cùng quan điểm này, trong cuốn "Tội phạm và cấu thành tội phạm", tác giả Nguyễn Ngọc Hòa khẳng định: Nói nguyên nhân
19 Võ Khánh Vinh (1999), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr 82.
20 Đỗ Ngọc Quang (1999), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 167.
21 Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội, trang 198.
22 Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Tội phạm học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr 129.
23 Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 285.
của tội phạm là nói các yếu tố mà sự tác động qua lại của nó dẫn đến việc tội phạm được thực hiện.23 Theo đó, nghiên cứu nguyên nhân của tội phạm là nghiên cứu các yếu tố bên trong người phạm tội, các yếu tố bên ngoài của môi trường sống và sự tác động qua lại giữa các yếu tố này. Trong sự tác động qua lại đó, mỗi yếu tố đều có ý nghĩa và vai trò nhất định. Do đó, tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình tác động qua lại dẫn đến sự việc
86
phạm tội đều phải được xem là nguyên nhân của tội phạm, không thể phân định những yếu tố này thành nguyên nhân của tội phạm và điều kiện của tội phạm.24
Về phần mình, NCS đồng ý với quan điểm của các tác giả cho rằng nguyên nhân
của tội phạm là tổng hợp các yếu tố, mà sự tác động qua lại giữa các yếu tố đưa đến việc thực hiện tội phạm của người phạm tội. Bởi lẽ, suy cho cùng tội phạm là hiện tượng xã
hội đặc biệt; tuy hành vi phạm tội là sản phẩm của con người, nhưng con người không
thực hiện tội phạm một cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của sự tác động qua lại giữa những
yếu tố nhất định. Đó là các yếu tố bên trong người phạm tội và các yếu tố bên ngoài của môi trường sống. Có thể trong trường hợp cụ thể này thì yếu tố bên trong người phạm tội
có vai trò quyết định trong việc đưa đến sự việc phạm tội; nhưng trong trường hợp cụ thể
khác thì yếu tố bên ngoài của môi trường sống lại giữ vai trò quyết định đối với việc phát
sinh tội phạm. Chính vì vậy, không thể đặt ra tiêu chí để phân định yếu tố nào là nguyên
nhân, yếu tố nào là điều kiện của tội phạm, mà các yếu tố đó đều phải được xác định là
nguyên nhân của tội phạm. Hơn nữa, do tội phạm là hiện tượng xã hội, là sản phẩm được
tạo ra trực tiếp từ hành vi cụ thể của người phạm tội thông qua hành động hoặc không
hành động, nên chỉ có thể xác định các yếu tố nhất định nào đó là nguyên nhân của tội
phạm, mà không có việc xác định nguyên nhân của tình hình tội phạm, vì tình hình tội
phạm thực chất là trạng thái, xu thế vận động của hiện tượng đó. Các yếu tố được xác
định là nguyên nhân của tội phạm tác động vào con người cụ thể, thúc đẩy họ thực hiện
hành vi phạm tội, chứ không tác động vào trạng thái, xu thế vận động của tội phạm, nên
nếu xác định nguyên nhân của tình hình tội phạm sẽ không phù hợp với bản chất của hiện
tượng, cũng như các nhân tố làm phát sinh hiện tượng xã hội đặc biệt là tội phạm.
Từ quan niệm chung này về “nguyên nhân của tội phạm”, tác giả cho rằng:
Nguyên nhân của tội tham ô tài sản là tổng hợp các yếu tố, mà sự tác động qua lại giữa các yếu tố đó đưa đến việc người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý. Khi nghiên cứu nguyên nhân của tội tham ô tài sản phải nghiên cứu cả những yếu tố bên ngoài xã hội, những yếu tố bên trong của người phạm tội và cơ chế tác
24 Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 286.
động giữa các yếu tố đó dẫn đến việc thực hiện tội phạm của người phạm tội. Do đó, trên cơ sở nghiên cứu tình hình của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010- 2019, có thể xác định và giải thích các nhóm nguyên nhân của tội tham ô tài sản trong phạm vi nghiên cứu này như sau:
87
2.2. Nguyên nhân của tội tham ô tài sản giai đoạn 2010 – 2019
2.2.1. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước
Theo từ điển tiếng việt, tổ chức là việc sắp xếp, bố trí cho thành một chỉnh thể, có một cấu tạo, một cấu trúc và chức năng nhất định25. Theo đó, tổ chức, quản lý nhà nước về kinh tế là cách thức sắp xếp, bố trí các cơ quan theo hệ thống bộ, ngành từ trung ương
đến địa phương để thực hiện quyền lực nhà nước về quản lý các hoạt động của đời sống
kinh tế, xã hội.
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 thì chủ thể của tội tham ô tài sản là người có chức vụ, quyền hạn; đối tượng tác động của tội tham ô tài sản là các loại tài sản thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu nhà nước chiếm ưu thế26, tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau, do đó trong hoạt động tổ chức, quản lý nhà nước còn có những bất cập, hạn
chế, thì vẫn còn tồn tại những yếu tố làm phát sinh, gia tăng tình trạng người có chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý.
Thực tế cho thấy, tổ chức bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế còn
cồng kềnh, nhiều khâu, tầng trung gian; việc xác lập chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ
quan nhà nước, tổ chức, đơn vị kinh tế chưa rõ ràng, hoặc chồng chéo, thiếu cơ chế phối
hợp cụ thể, dẫn đến hậu quả là một vụ việc có thể có nhiều cơ quan có quyền quản lý
nhưng lại thiếu một cơ quan chịu trách nhiệm chính. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến tình trạng người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng những kẽ hở của sự chồng chéo
hoặc sự phân định không rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ để chiếm đoạt tài sản mà họ
được giao quản lý. Điều này cũng phù hợp với thực trạng của tội tham ô tài sản là thường
xảy ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau, từ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, tập đoàn kinh tế, quản lý tài nguyên, khoảng sản, quản lý đầu tư, xây dựng cơ
bản, mua sắm tài sản công, thậm chí đến cả trợ cấp người có công, xóa đói giảm nghèo, từ cấp trung ương đến cấp địa phương. Trên cơ sở thống kê 585 bản án hình sự sơ thẩm về tội tham ô tài sản của Tòa án nhân dân các cấp cho thấy, trong tổng số 585 vụ án có 195 vụ xảy ra ở cấp trung ương, chiếm 33,3%; trong khi đó xảy ra ở cấp địa phương là 390 vụ,
25 Viện Ngôn ngữ học (2009), Từ điển tiếng việt thông dụng, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội, tr 819.
26 Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, thì đối tượng tác động của tội tham ô tài sản bao gồm cả tài sản thuộc sở hữu nhà nước và tài sản trong lĩnh vực tư. Tuy nhiên, do giai đoạn nghiên cứu là từ năm 2010-2019, thời điểm này Bộ luật hình sự năm 2015 mới bắt đầu có hiệu lực (ngày 01/01/2018), số vụ án tham ô tài sản xảy ra trong lĩnh vực tư còn chiếm tỷ lệ rất ít (0,9%), nên chưa đủ cơ sở để xác định nguyên nhân của loại tội phạm này trong lĩnh vực ngoài nhà nước.
chiếm 66,7%.
88
Từ mối liên hệ tương quan giữa thực trạng tổ chức, quản lý nhà nước với hiệu quả,
hiệu lực quản lý nhà nước cho thấy, những hạn chế trong hoạt động tổ chức, quản lý nhà
nước là một trong những nguyên nhân góp phần làm phát sinh tội tham ô tài sản ở Việt
Nam những năm vừa qua. Tuy nhiên, không phải mọi hạn chế, bất cập trong tổ chức, quản lý nhà nước đều là nguyên nhân làm phát sinh tội tham ô tài sản, mà chỉ những hạn
chế, bất cập liên quan trực tiếp hoặc có mức độ liên quan nhất định đến cơ chế, tổ chức,
hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh tế nhà nước trong việc quản lý, sử dụng tài
sản ở các lĩnh vực khác nhau và dưới các hình thức khác nhau.
2.2.1.1. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối
với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế
Trên cơ sở thống kê 585 bản án hình sự xét xử sơ thẩm các bị cáo về tội tham ô tài
sản cho thấy, trong số 103 vụ xảy ra trong các doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế,
có 29 vụ, chiếm 28,2% là do hạn chế trong các quy định của Luật doanh nghiệp; 57 vụ,
chiếm 55,3% là do hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc hệ thống cơ quan quản lý nhà nước được tổ chức với cấu trúc cồng kềnh,
nhiều tầng, nấc trung gian đã tạo ra lực cản làm giảm hiệu lực quản lý, hiệu quả hoạt
động; đồng thời, ở mức độ nào đó đã tạo ra những yếu tố thuận lợi để các chủ thể có chức
vụ, quyền hạn dễ dàng chiếm đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý. Điều đó có
nghĩa, trong tổng thể các yếu tố tiêu cực làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở nước
ta những năm vừa qua, thì những hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước là một trong những yếu tố góp phần làm phát sinh hiện
tượng xã hội tiêu cực này. Tuy nhiên, khi phân tích, đánh giá sự tác động của những hạn
chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước đối với việc làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản, phải đặt trong mối liên hệ tổng thể với các yếu tố liên quan; trong đó, hạn chế của hoạt động quản lý tài sản là yếu tố có vai trò nòng cốt, còn những bất cập, hạn chế của pháp luật là yếu tố có vai trò xuyên suốt trong
quá trình tương tác với các yếu tố tiêu cực khác dẫn đến tình trạng người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý trong các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế.
Hoạt động tổ chức, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước còn bị buông lỏng. Đây là một trong yếu tố có sự tác động đáng kể đến việc phát sinh tình trạng người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý.
Bởi lẽ, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinhh
89
tế đều là những hoạt động liên quan trực tiếp đến tài sản mà cụ thể hoạt động quản lý, sử
dụng vốn, doanh thu của các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước. Khi hoạt động tổ
chức, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước bị buông lỏng có
nghĩa là quá trình sản xuất, kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước không được tổ chức, quản lý một cách chặt chẽ bởi các thiết chế nhà nước. Yếu tố mấu chốt trong sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước là tài sản tồn tại ở các dạng khác nhau như
vốn, sản phẩm, quyền sử dụng đất, nhà xưởng, thiết bị và các tài sản khác. Việc buông
lỏng quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước thực chất là buông lỏng quản lý về tài sản, trong đó buông lỏng quản lý vốn đầu tư
của nhà nước là hiện tượng điển hình được thể hiện ở việc phân bổ vốn đầu tư không hợp
lý, việc sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, gây thất thoát, thiệt hại dưới các hình thức khác
nhau. Trong khi đó, đối tượng tác động của hành vi tham ô là tài sản, nên việc quản lý tài
sản của nhà nước lại bị buông lỏng đã thôi thúc, phát sinh lòng tham của người có chức
vụ, quyền hạn dẫn đến việc họ lợi dụng chức vụ, quyền hạn như một phương tiện để
chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý. Trong mối liên hệ tổng thể giữa các yếu tố xã
hội tiêu cực với sự phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản trong các doanh nghiệp nhà nước,
tập đoàn kinh tế những năm gần đây, thì việc quản lý nhà nước về tài sản bị buông lỏng
lại được hình thành từ các yếu tố liên quan, chúng đều có vai trò tác động nhất định đối
với sự gia tăng của tội tham ô tài sản trong các doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế,
cụ thể như sau:
Việc nhà nước dành sự ưu tiên quá mức cần thiết đối với doanh nghiệp nhà nước là
một trong những yếu tố tạo ra tiêu cực trong hoạt động tổ chức, quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp nhà nước. Sự ưu tiên của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước được thể
hiện trong các chế định, quy định của pháp luật như giao cho các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ nhiều nguồn lực kinh tế quan trọng, quản lý và sử dụng những khối tài sản lớn, có nhiều cơ hội và điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh. So với các loại hình doanh nghiệp khác, doanh nghiệp nhà nước là loại hình doanh nghiệp duy nhất được hưởng
nhiều ưu quyền, đặc quyền nhưng lại thiếu sự công khai, minh bạch trong quá trình sử dụng tài sản của nhà nước vào sản xuất, kinh doanh; cùng với việc nhà nước buông lỏng quản lý, cơ chế giám sát việc sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp nhà nước chưa chặt chẽ là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tội tham ô tài sản trong lĩnh vực này. Bởi lẽ, một bộ phận người nắm quyền quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước đã lợi dụng chính sách ưu tiên của nhà nước đối với loại hình
90
doanh nghiệp này, sử dụng chức vụ, quyền hạn của họ như một phương tiện để chiếm
đoạt tài sản họ được giao quản lý.
Ví dụ, Vụ án Hà Văn Thắm, Nguyễn Xuân Sơn tham ô tài sản xảy ra tại Tập đoàn
dầu khí Việt Nam và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Dương. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cuối năm 2008, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) ký thỏa thuận với
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đại Dương (OJB) và trở thành cổ đông chiến lược, góp
20% vốn điều lệ vào OJB. Nguyễn Xuân Sơn là Tổng Giám đốc Công ty Tài chính Dầu
khí Việt Nam (PVFC) được PVN cử sang giữ chức vụ Tổng Giám đốc OJB, Uỷ viên Hội đồng quản trị OJB, là người đại diện phần vốn góp của PVN tại OJB. Trong thời gian từ
tháng 1/2011 đến tháng 6/2014, Nguyễn Xuân Sơn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lợi
dụng uy tín, vị thế của Tập đoàn dầu khí là cổ đông chiến lược, có nguồn tiền gửi lớn, chi
phối tính thanh khoản của OJB, yêu cầu Hà Văn Thắm chi tiền ngoài lãi suất trong hợp
đồng tiền gửi của PVN, đã nhận và chiếm đoạt số tiền 246.603.989.000 đồng từ OJB; trong đó, tham ô số tiền 49.320.797.800 đồng27 của PVN và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt số tiền 197.283.191.200 đồng28 của OJB29. Từ vụ án này cho thấy: Sự lỏng lẻo và thiếu cơ chế giám sát trong việc quản lý, sử dụng tài sản của Tập đoàn dầu khí Việt Nam
và Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương là yếu tố thúc đẩy làm phát sinh hành vi
tham ô tài sản của Nguyễn Xuân Sơn và Hà Văn Thắm. Bởi lẽ, với việc góp 20% vốn
điều lệ vào OJB, PVN trở thành cổ đông chiến lược, nhưng quá trình sử dụng vốn và quản
lý doanh thu, cả PVN và OJB đều buông lỏng quản lý, phía ngân hàng Đại Dương thì
thiếu cơ chế kiểm soát các hoạt động chi, còn phía Tập đoàn dầu khí Việt Nam thì thiếu
cơ chế kiểm soát đối với các khoản lợi nhuận thu về từ vốn đầu tư sang đơn vị kinh tế
khác. Chính vì vậy, Nguyễn Xuân Sơn đã lợi dụng vị thế của đối tác chiến lược, yêu cầu
27 Bởi lẽ, trong số tiền 246.603.989.000 đồng mà Nguyễn Xuân Sơn chiếm đoạt từ Ngân hàng Đại Dương có 20% là tiền của Nhà nước do Tập đoàn dầu khí góp vốn vào Ngân hàng Đại Dương, tương ứng với số tiền là 49.320.797.800 đồng. Nguyễn Xuân Sơn với tư cách là Phó tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam, là người đại diện phần vốn góp Nhà nước tại Ngân hàng Đại Dương đã nhận và sử dụng cá nhân số tiền này, nên hành vi của Nguyễn Xuân Sơn đã cấu thành tội "tham ô tài sản" theo quy định tại Điều 278 BLHS năm 1999.
28 Đây cũng là khoản tiền Nguyễn Xuân Sơn lạm dụng chức vụ, quyền hạn và lợi dụng việc chi lãi suất ngoài hợp đồng tiền gửi của Hà Văn Thắm để chiếm đoạt, gây thiệt hại cho Ngân hàng Đại Dương. Hành vi này của Nguyễn Xuân Sơn đã cấu thành tội "lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại Điều 280 BLHS năm 1999. 29 Bản án hình sự sơ thẩm số 330/2017/HSST ngày 29/9/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Hà Văn Thắm chi khoản lãi suất ngoài hợp đồng góp vốn, sau đó không nhập về quỹ của PVN, mà chiếm đoạt sử để dụng cá nhân.
91
Việc Nhà nước trao cho doanh nghiệp nhà nước được quyền kinh doanh đa ngành,
đa lĩnh vực, thừa nhận hình thức sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà
nước, đã tạo ra yếu tố làm phát sinh hành vi tham ô tài sản của một số người có chức vụ,
quyền hạn trong lĩnh vực này. Điều này cho thấy pháp luật chưa bám sát với thực tiễn, khi ban hành chưa nắm bắt xem khả năng, điều kiện thực tiễn có đảm bảo để thực hiện được
quyền kinh doanh nhiều ngành nghề của doanh nghiệp nhà nước hay không. Từ quyền
được kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực, được sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp, nên
nhiều doanh nghiệp nhà nước đã tham gia thành lập các ngân hàng, công ty tài chính, bất động sản, chứng khoán, nhưng thực tế đội ngũ cán bộ, công chức trong các doanh nghiệp
không thể đủ khả năng để quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách hiệu quả,
trong khi cơ chế giám sát của nhà nước đối với các doanh nghiệp này lại lỏng lẻo đã tạo ra
những thuận lợi cho một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài
sản mà họ được giao quản lý.
Ví dụ, vụ Vũ Quốc Hảo tham ô tài sản xảy ra tại Công ty cho thuê tài chính II, nội
dung vụ án được tóm tắt như sau: Công ty cho thuê tài chính II (Công ty ALCII) là doanh
nghiệp nhà nước thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn do Ngân hàng
nhà nước thành lập. Lợi dụng chức vụ Tổng giám đốc Công ty ALCII, trong thời gian từ
cuối năm 2009 đến năm 2012, với các thủ đoạn nâng khống giá trị hợp đồng mua bán tài
sản, định giá tài sản thanh lý thấp hơn giá trị thực tế, Vũ Quốc Hảo đã chiếm đoạt của
Công ty ALCII số tiền 79,9 tỷ đồng. Từ vụ án này cho thấy: Do ngân hàng Nông nghiệp
quản lý lỏng lẻo, thiếu cơ chế kiểm soát nên Vũ Quốc Hảo đã lợi dụng chức vụ là người
đứng đầu Công ty ALCII để chiếm đoạt tài sản của Công ty. Hơn nữa, cũng xuất phát từ
việc kinh doanh nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau bao gồm từ tài chính, tiền tệ đến
phương tiện vận tải đường thủy, đường bộ, cơ khí thủy lực, nên ngoài kiến thức về tài chính, tiền tệ, bộ phận kiểm soát của Ngân hàng còn thiếu kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực khác. Đây là lý do dẫn đến tình trạng Vũ Quốc Hảo đã lợi dụng để nâng khống giá trị cần thủy lực bánh xích để chiếm đoạt 75 tỷ đồng; ra quyết định thu hồi tài sản cho
thuê, nhưng sau đó giả tạo tình trạng tài sản bị hư hỏng, giao lại cho bên thuê, chuyển nhượng lòng vòng qua bên thứ ba để chiếm đoạt số tiền 4,9 tỷ đồng của Công ty ALCII.
Hạn chế tiếp theo trong tổ chức, quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước thể hiện ở việc nhà nước quá coi trọng các thủ tục hành chính khi thành lập doanh nghiệp nhưng sau khi doanh nghiệp được thành lập lại buông lỏng quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh dẫn đến tình trạng người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt
tài sản mà họ được giao quản lý. Cụ thể, việc luật doanh nghiệp năm 2005 quy định vốn
92
pháp định, chứng chỉ hành nghề đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện nhằm
thực hiện cơ chế tiền kiểm đối với quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Quy định này
đòi hỏi khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp phải có một lượng
vốn theo quy định của pháp luật và lượng vốn này phải có tài liệu xác nhận là thực có; người quản lý, điều hành doanh nghiệp phải có chứng chỉ hành nghề phù hợp với ngành,
lĩnh vực đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chính quy định về cơ chế tiền
kiểm này đã làm cho một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng dùng nhiều thủ
đoạn khác nhau để chiếm đoạt tài sản của doanh nghiệp khi được giao quản lý, điều hành doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng vốn pháp định của doanh nghiệp không được sử dụng
vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc sử dụng một cách kém hiệu quả. Bởi lẽ, theo
quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005, khi hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp có
giấy xác nhận về vốn pháp định, bản sao chứng chỉ hành nghề đối với người quản lý, điều
hành doanh nghiệp và các thủ tục cần thiết khác thì được thành lập doanh nghiệp. Do cơ
chế tiền kiểm này đã mặc nhiên thay thế sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đối với việc sử dụng vốn pháp định của doanh nghiệp trong quá trình tiến hành hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dẫn đến tình trạng một số người có chức vụ, quyền hạn trong doanh
nghiệp đã lợi dụng để chiếm đoạt vốn của doanh nghiệp.
Thêm nữa là hệ thống cơ quan có chức năng quản lý các ngành kinh tế còn quá coi
trọng, tập trung vào việc quản lý các doanh nghiệp trực thuộc ngành mình, nhưng lại
buông lỏng và lúng túng trong việc thực hiện chức năng quản lý của chủ sở hữu nhà nước
đối với tài sản nhà nước trong bộ phận doanh nghiệp này, cũng từ đó mà ảnh hưởng đến
hiệu quả quản lý nhà nước đối với cả nền kinh tế nói chung. Một trong những hạn chế ảnh
hưởng nhiều nhất đến hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước là tình trạng các tập đoàn
kinh tế nhà nước tồn tại ở nhiều bộ, ngành; các bộ, ngành vừa đồng thời thực hiện chức năng quản lý nhà nước với tư cách là chủ sở hữu, vừa thực hiện chức năng quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh ở các doanh nghiệp do ngành mình phụ trách, dẫn đến tình trạng xung đột lợi ích khi hai chức năng cùng được thực hiện bởi một chủ thể, mà biểu
hiện của sự xung đột đó là các bộ, ngành thường buông lỏng quản lý đối với doanh nghiệp của mình, tạo ra kẽ hở để người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp lợi dụng để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý.
Ví dụ, từ vụ Giang Kim Đạt và đồng phạm tham ô số tiền 260.506.950.830 đồng xảy ra tại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Vận tải viễn dương Vinashin thuộc Tổng công ty hàng hải Việt Nam và vụ án Dương Chí Dũng cùng đồng phạm tham
ô số tiền 28.198.379.058 đồng xảy ra tại Tổng công ty hàng hải Việt Nam là doanh nghiệp
93
100% vốn nhà nước, cho thấy: Bộ giao thông vận tải là chủ sở hữu của các đơn vị kinh tế
này, nhưng quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước đã chú trọng vào phương diện
đó là các doanh nghiệp trực thuộc ngành mình, nhưng lại buông lỏng quản lý trên phương
diện là chủ sở hữu, nên dẫn đến tình trạng người đứng đầu các đơn vị kinh tế này đã lợi dụng sự lỏng lẻo trong quản lý tài sản của chủ sỡ hữu để chiếm đoạt tài sản được giao
quản lý.
Ngoài ra là hạn chế của Luật doanh nghiệp năm 2014. Tuy văn bản luật này đã
khắc phục cơ bản những hạn chế của Luật doanh nghiệp năm 2005 nhưng vẫn còn một số hạn chế như: không bao quát hết các đối tượng cần kiểm soát, nên thiếu cơ sở pháp lý để
ngăn ngừa một cách kín kẽ các giao dịch có nguy cơ tư lợi trong doanh nghiệp. Cụ thể là
việc liệt kê tại điểm đ khoản 17 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2014 sẽ dẫn đến tình trạng
bỏ sót các trường hợp có mối quan hệ liên quan khác nhưng không được đưa vào diện bị
kiểm soát. Mặt khác, văn bản luật này cũng chưa có nguyên tắc hoặc quy định buộc điều
lệ doanh nghiệp phải xác định phạm vi thẩm quyền đại diện trong trường hợp có nhiều
người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, từ đó có
thể dẫn đến tình trạng người đại diện theo pháp luật lợi dụng sự không rõ ràng của pháp
luật để thực hiện những giao dịch nhằm chiếm đoạt tài sản của doanh nghiệp. Hạn chế
này của Luật doanh nghiệp năm 2014 đã mặc nhiên tiềm chứa nguy cơ làm phát sinh hiện
tượng người đại diện theo pháp luật lợi dụng sự không rõ ràng về phạm vi đại diện để
chiếm đoạt tài sản của doanh nghiệp.
Ví dụ, vụ tham ô tài sản xảy ra tại PMU 18 Bộ giao thông vận tải trong quá trình
thực hiện dự án xây dựng cầu Bãi Cháy, Quảng Ninh. Cụ thể, tổng mức đầu tư dự án
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là 1.374 tỷ đồng bằng nguồn vốn vay ODA của
Chính phủ Nhật Bản; vốn đối ứng của Việt Nam trích từ nguồn ngân sách nhà nước do Bộ kế hoạch và đầu tư lập định mức trình Chính phủ phê duyệt; Bộ giao thông vận tải được giao làm chủ đầu tư; Ban quản lý dự án 18 trực thuộc Bộ giao thông vận tải do Bùi Tiến Dũng là tổng giám đốc, đại diện chủ đầu tư có trách nhiệm quản lý và thi công dự án. Như
vậy, việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư dự án không được xác định cụ thể là do chủ đầu tư, Ban quản lý dự án hay giao cho cơ quan, tổ chức nào. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện dự án, một số người có chức vụ, quyền hạn trong Ban quản lý dự án đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý vốn của dự án, thông đồng với nhà thầu của các gói thầu lập khống
94
danh sách 26 nhân viên tư vấn bổ sung để chiếm đoạt tiền đầu tư dự án là 3.439.560.500 đồng30.
2.2.1.2. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối
với hoạt động mua sắm công; quản lý, sử dụng quỹ, ngân sách
Do đối tượng tác động của hành vi tham ô là tài sản nên hoạt động mua sắm công,
quản lý, sử dụng quỹ, ngân sách được cấp là lĩnh vực dễ xảy ra tham ô tài sản hơn cả. Bởi
lẽ, đây là lĩnh vực mà tài sản thường hiện hữu để người có trách nhiệm quản lý có thể trực
tiếp nhìn thấy, thậm chí là tiếp xúc với những khối tài sản lớn, nên khi hoạt động quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này có sự lỏng lẻo, thêm vào đó động cơ tư lợi của người được
giao quản lý tài sản trỗi dậy trong cá nhân con người họ, thì khi đó xuất hiện yếu tố nguy
cơ làm phát sinh hành vi tham ô tài sản. Đó là sự tác động qua lại giữa các yếu tố của môi
trường sống với yếu tố bên trong của người phạm tội. Trong đó, yếu tố bên ngoài là sự
quản lý nhà nước lỏng lẻo đối với lĩnh vực này lại xuất phát từ những thành tố sau:
Chưa thiết lập được cơ chế quản lý chặt chẽ đối với hoạt động mua sắm công, quản
lý quỹ, ngân sách được cấp nên người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng sự hạn chế này
để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý. Đây là một trong những yếu tố có vai trò
đáng kể trong việc làm phát sinh, gia tăng số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản trong
lĩnh vực mua sắm tài sản công, quản lý quỹ, ngân sách được cấp. Trên cơ sở thống kê 585
bản án hình sự sơ thẩm về tội tham ô tài sản của Tòa án nhân dân các cấp cho thấy, trong
số 199 vụ tham ô tài sản xảy ra trong hoạt động mua sắm tài sản công và quản lý quỹ,
ngân sách được cấp thì có 115 vụ, chiếm 57,7% là do chưa có cơ chế quản lý hoạt động
này một cách chặt chẽ.
Ví dụ, vụ án tham ô tài sản xảy ra ở Trung tâm khuyến công tỉnh Điện Biên, nội dung vụ án được tóm tắt như sau31: Ngày 4/6/2013, Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên có Quyết định số 371 phê duyệt kế hoạch và dự toán kinh phí phát triển khuyến công của tỉnh; theo đó, Trung tâm khuyến công và tư vấn tỉnh Điện Biên được giao kinh phí 1 tỷ đồng và có trách nhiệm thực hiện 6 đề án khuyến công tại địa phương. Do có ý định
31 Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2016/HSST ngày 25/2/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên.
chiếm đoạt kinh phí khuyến công năm 2013, nên khi giao nhiệm vụ triển khai thực hiện đề án, Nguyễn Văn Cộng là giám đốc Trung tâm đã chỉ đạo các cán bộ dưới quyền liên hệ với các đơn vị phối hợp để trao đổi và thống nhất hình thức triển khai thực hiện đề án; cụ thể: Đối với đề án khuyến công đào tạo nghề thì chỉ tổ chức khai giảng, cố gắng duy trì 30 Bản án hình sự sơ thẩm số 279/2011/HSST ngày 6/7/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
95
lớp học vài ngày hoặc một tuần để người ngoài nhìn vào nghĩ là có học, nếu không tổ
chức học được cứ coi như đang học bình thường, tổ chức nghiệm thu, bế giảng lớp học;
phối hợp lập, hoàn thiện chứng từ khống thanh toán các khoản chi theo dự toán được
duyệt trong đề án, chiếm đoạt kinh phí của đề án để chia nhau hưởng lợi cá nhân và chi quyết toán các đề án; Đối với đề án khuyến công hỗ trợ thiết bị máy móc thì liên hệ với
đơn vị được hỗ trợ kinh phí, trao đổi, thống nhất để họ trích lại % kinh phí khuyến công
được hỗ trợ cho Trung tâm phục vụ việc chi quyết toán kinh phí và chia nhau hưởng lợi
cá nhân.
Trong quá trình phối hợp với Trung tâm khuyến công triển khai thực hiện đề án
đào tạo nghề sửa chữa cơ khí vào năm 2013 tại Hợp tác xã Việt Hoàng do Trần Thị Thủy
làm chủ nhiệm, Thủy đã bàn bạc, trao đổi với Phạm Đức Phương là cán bộ quản lý đề án
lập khống chứng từ để chiếm đoạt kinh phí đầu tư cho đề án là 299.150.000 đồng chia
nhau. Còn trong quá trình phối hợp với Trung tâm khuyến công triển khai thực hiện đề án
đào tạo nghề chế biến gỗ năm 2013 tại Công ty TNHH Sông Thương do Nguyễn Tiến Chỉ
làm giám đốc, Chỉ và Lò Quang Huy đã trao đổi, thống nhất không tổ chức dạy nghề theo
quy định, chỉ tổ chức buổi khai giảng và buổi bế giảng, lập chứng từ khống để chiếm đoạt
số tiền 368.948.950 đồng chia nhau.
Như vậy, lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của cơ quan chuyên môn là Sở kế hoạch đầu
tư và Sở công thương tỉnh Điện Biên trong việc giao và thực hiện vốn đầu tư thực hiện đề
án, Nguyễn Văn Cộng và các đồng phạm đã dùng thủ đoạn lập khống các chứng từ quyết
toán để chiếm đoạt các khoản tiền đầu tư cho đề án.
Một số hạn chế của pháp luật về đấu thầu cũng góp phần làm phát sinh, gia tăng số
vụ tham ô tài sản trong lĩnh vực này. Trên cơ sở thống kê 585 bản án hình sự sơ thẩm về
tội tham ô tài sản của Tòa án nhân dân các cấp cho thấy, trong số 199 vụ tham ô tài sản xảy ra trong hoạt động mua sắm tài sản công thì có 27 vụ, chiếm 13,5% là do người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng quy định chung chung về các trường hợp chỉ định thầu để thông thầu, hợp thức việc đấu thầu trong hoạt động mua sắm công để chiếm đoạt tài sản.
Bởi lẽ, về nguyên tắc việc mua sắm tài sản công, nhất là những khối tài sản có giá trị lớn phải được thực hiện thông qua hình thức đấu thầu công khai. Tuy nhiên, do Luật đấu thầu năm 2013 quy định một số trường hợp được chỉ định thầu, nhưng lại không xác định rõ tiêu chí cụ thể được phép thực hiện, nên dẫn đến tình trạng người được giao quản lý hoạt động mua sắm công lợi dụng để chiếm đoạt tài sản.
Ví dụ, vụ án tham ô tài sản xảy ra tại Tổng công ty xây dựng Miền trung, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau: Tổng Công ty xây dựng miền trung, hiện nay là Tổng công ty
96
miền trung (gọi tắt là TCTMT) là doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ xây dựng, có chức
năng sản xuất, kinh doanh xây dựng theo kế hoạch phát triển của ngành xây dựng. Trong
đó, dự án nhà máy gỗ ván tỉnh Quảng Trị do Công ty xây dựng 78 (CTXD 78) thuộc
TCTMT làm chủ đầu tư được phê duyệt theo quyết định số 1300/TCTXD-DA ngày 26/6/2001 của TCTMT, công suất 30.000 m3 sản phẩm/ năm, tổng mức đầu tư là
224.216.000.000 đồng; trong quá trình xây dựng dự án đã 4 lần điều chỉnh tổng mức đầu
tư lên 457.089.800.000 đồng bằng vốn vay ưu đãi tại Ngân hàng phát triển, vốn vay của
ngân hàng thương mại và các nguồn khác, dự án gồm 25 gói thầu. Khi tổ chức đấu thầu, nhằm để cho Công ty EC5 trúng thầu gói 2a, 2b, Hoàng Công Uyên, giám đốc Công ty
xây dựng 78 và Lê Chơn là giám đốc Công ty EC5 đã thống nhất thông thầu bằng cách để
Công ty EC5 tự lập các hồ sơ dự thầu và xin xác nhận của Công ty Cosevco 72, Cosevco
75, Công ty cổ phần đá ốp lát Cosevco và Công ty cổ phần cơ khí Cosevco. Quá trình
điều tra, 4 đơn vị này đều thừa nhận đã ký, đóng dấu vào bộ hồ sơ dự thầu và cung cấp bộ
hồ sơ năng lực, pháp nhân do Lê Chơn nhờ, không cử cán bộ đến tham gia mở thầu. Bằng
hình thức tổ chức đấu thầu hợp thức hóa việc giao cho thi công trước, Công ty EC5 đã
trúng thầu gói 2a với giá trị là 8.166.088.000 đồng; gói 2B với giá trị là 9.902.034.212
đồng. Sau khi hợp thức hóa việc đấu thầu, Hoàng Công Uyên và Lê Chơn đã thống nhất
việc công ty EC5 trích lại 5% giá trị hợp đồng của cả 2 gói thầu (2a, 2b) cho phía CTXD
78. Để có khoản tiền 5% giá trị hợp đồng 2 gói thầu chi cho CTXD 78, Hoàng Công Uyên
và Lê Chơn đã thống nhất CTXD 78 quyết toán cho công ty EC5 vượt quá khối lượng thi
công số tiền 3.339.809.340 đồng; số tiền quyết toán khống này các bị cáo chia nhau
hưởng lợi, chiếm đoạt của Tổng công ty xây dựng miền trung số tiền 3.339.809.340 đồng.32
Từ vụ án tham ô tài sản xảy ra tại Tổng công ty xây dựng miền trung cho thấy, các bị cáo đã lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của Tổng công ty, lợi dụng quy định thiếu chặt chẽ của pháp luật về đấu thầu, chủ đầu tư và bên nhận thầu đã thông thầu, quyết toán không giá trị công trình để chiếm đoạt tài sản của Tổng công ty xây dựng miền trung.
32 Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2016/HSST ngày 30/3/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.
Một số bất cập của Luật ngân sách cũng tạo ra kẽ hở để người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản khi họ được giao trong quản lý quỹ, ngân sách được cấp. Cụ thể, tại Điều 58 luật ngân sách nhà nước năm 2015 quy định biện pháp xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước, nhưng lại không có quy định về việc xử lý tình
97
trạng dư tạm thời quỹ ngân sách nhà nước. Sự thiếu sót này đã dẫn đến tình trạng khi
ngân sách dự toán tạm dư thừa, người có chức vụ, quyền hạn dễ dàng lợi dụng để lập
khống hóa đơn, chứng từ quyết toán để chiếm đoạt khoản tạm dư của quỹ ngân sách. Trên
cơ sở thống kê 585 bản án hình sự sơ thẩm về tội tham ô tài sản của Tòa án nhân dân các cấp cho thấy, trong số 199 vụ tham ô tài sản xảy ra trong hoạt động mua sắm tài sản công
và quản lý quỹ, ngân sách được cấp, có 23 vụ, chiếm 11,5% là do người có chức vụ,
quyền hạn đã lập khống hóa đơn, chứng từ quyết toán để chiếm đoạt khoản tạm dư của
quỹ ngân sách mà họ được giao quản lý.
Ví dụ, vụ án tham ô tài sản xảy ra ở Công ty cổ phần nước sạch Vĩnh Phúc, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:33 Công ty cổ phần nước sạch Vĩnh Phúc là doanh nghiệp nhà nước, sản xuất kinh doanh nước sạch và nước tinh khiết, quản lý, xử lý nước
thải đô thị, xây dựng công trình thoát nước, vốn điều lệ 109.630.000.000 đồng, trong đó
vốn nhà nước là 105.892.000.000 đồng, chiếm 96,6%. Quá trình hoạt động của công ty,
Dương Cảnh Ngạn liên tục làm giám đốc từ năm 1996 đến 1/11/2013 nghỉ hưu; Nguyễn
Xuân Điều làm trưởng phòng tài vụ, kế toán trưởng từ năm 1997 đến hết 1/11/2012 nghỉ
hưu; Hoàng Thị Minh Lý làm thủ quỹ từ năm 1997 đến hết tháng 10/2012. Ngày
12/10/2012, công ty cổ phần nước sạch Vĩnh Phúc tiến hành đối chiếu sổ sách, kiểm kê
thực tế quỹ tiền mặt phục vụ công tác bàn giao tài chính của công ty trước khi Điều nghỉ
hưu. Kết quả kiểm kê phát hiện quỹ tiền mặt của công ty do Hoàng Thị Minh Lý làm thủ
quỹ bị thâm hụt so với sổ sách số tiền là 10.689.990.715 đồng. Quá trình điều tra, Hoàng
Thị Minh Lý khai nhận: Trong thời gian từ năm 1997 đến tháng 10/2012, qua nhiều lần
đổi tên công ty, Lý đều được công ty giao cho làm thủ quỹ tiền mặt, có nhiệm vụ trực tiếp
thực hiện việc thu, chi tiền mặt của công ty; lợi dụng nhiệm vụ được giao và việc Dương
Cảnh Ngạn, Nguyễn Xuân Điều buông lỏng quản lý, Lý đã chiếm đoạt của công ty số tiền 8.099.954.043 đồng.
Trong vụ án này, Hoàng Thị Minh Lý phạm tội trong một thời gian rất dài từ năm 1997 đến năm 2012 mới bị phát hiện, nguyên nhân dẫn đến việc Lý chiếm đoạt tiền được
33 Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2015/HSST ngày 06/02/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
công ty giao quản lý là do Nguyễn Xuân Điều là kế toán, Dương Cảnh Ngạn là giám đốc đã buông lỏng trong quản lý kinh tế, không thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thu, chi quỹ tiền mặt, kiểm kê quỹ tiền mặt của công ty theo quy định; vì khoảng thời gian Lý thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền của công ty là 15 năm, nên nếu hoạt động quản lý kinh
98
tế của người đứng đầu công ty được thực hiện chặt chẽ, thường xuyên thì sẽ phát hiện và
ngăn chặn sớm hơn.
2.2.1.3. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối
với hoạt động quản lý đất đai
Trên cơ sở nghiên cứu 585 bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp
xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản, trong số 53 vụ xảy ra trong lĩnh vực đất đai, có 16
vụ, chiếm 30,2% là do những hạn chế trong các quy định của pháp luật về đất đai; 29 vụ,
chiếm 54,7% là do những hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai.
Luật đất đai năm 2013 chưa đưa ra được những quy định nhằm khắc phục nguy cơ
tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng. Cụ thể là: Các cơ quan nhà nước theo
phân cấp quản lý vừa có quyền quyết định về đất đai với tư cách là đại diện chủ sở hữu,
vừa có quyền quyết định về quản lý đất đai với tư cách là cơ quan quản lý của nhà nước;
Chính quy định lồng ghép này đã tạo thuận lợi để người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng
chức năng, nhiệm vụ được giao để chiếm đoạt lợi ích thu được từ đất đai.
Cơ chế đổi đất lấy hạ tầng tiềm chứa nhiều nguy cơ tham nhũng nói chung và tham
ô tài sản nói riêng đã được luật đất đai năm 2003 loại trừ. Tuy nhiên, đến Luật đất đai
năm 2013 lại thừa nhận cơ chế này dưới hình thức các dự án xây dựng, chuyển giao;
trong đó, nhà nước trả cho nhà đầu tư bằng quyền sử dụng đất, đổi lại nhà đầu tư xây
dựng hạ tầng giao thông hoặc công trình phúc lợi; nhưng lại không có quy định nào xác
định chất lượng hạ tầng, giá trị hạ tầng đã xây dựng và giá trị diện tích đất trao đổi. Cơ
chế đổi đất lấy hạ tầng và thiếu sót này của luật đất đai hiện hành đã bị một bộ phận người
có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản từ việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình khi được giao quyền quyết định, quản lý về đất đai. Ngoài ra, việc quy định
không rõ ràng về giá đất trong trường hợp thu hồi đất để thực hiện dự án cũng là một trong những nguyên nhân góp phần làm phát sinh tham ô tài sản trong lĩnh vực đất đai.
Một trong những yếu tố được coi là nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản trong lĩnh vực quản lý đất đai là do những bất cập, yếu kém trong cơ
chế quản lý hoạt động đăng ký quyền sử dụng đất, cấp đất cho các dự án đầu tư, giao đất, cho thuê đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất; những hạn chế, bất cập đó trong mối tương tác với các yếu tố tiêu cực khác sẽ tạo ra sự thuận lợi, dễ dàng để các chủ thể có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của nhà nước thông qua một số thủ đoạn phổ biến, như giao đất vượt quá hạn mức của chương trình, dự án đã được phê duyệt để nhận lợi ích chênh lệch từ nhà đầu tư; chuyển nhượng quyền sử dụng
đất để lấy tiền làm các công trình hạ tầng nhưng đã chiếm đoạt một phần tiền; chuyển
99
nhượng quyền sử dụng đất để lấy tiền dùng vào chi tiêu cá nhân; trực tiếp chiếm đoạt
quyền sử dụng đất thông qua việc làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho gia
đình, người thân nhưng không trả tiền cho nhà nước. Với các thủ đoạn phổ biến này,
người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng sự lỏng lẻo, chồng chéo trong các hoạt động quản lý đất đai để chiếm đoạt những lợi ích của nhà nước từ quyền sử dụng đất.
Từ việc phân tích, đánh giá cơ cấu của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010- 2019 theo loại chức vụ, quyền hạn của người phạm tội cho thấy: Phần lớn số người
phạm tội có các chức vụ như chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp, cán bộ địa chính xã, cán bộ phòng tài nguyên môi trường ở cấp huyện và sở tài nguyên môi trường ở cấp tỉnh, cán
bộ ủy ban nhân dân các cấp thực hiện hành vi tham ô trong lĩnh vực quản lý đất đai. Điều
này phản ánh đặc điểm đặc thù của tội tham ô tài sản trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Chừng nào sự lỏng lẻo trong hoạt động quản lý đất đai chưa được khắc phục, siết chặt thì
chừng đó vẫn còn những yếu tố thuận lợi để người có chức vụ, quyền hạn trong quản lý
đất đai lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội.
Trên cơ sở nghiên cứu 585 bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp
xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản, trong số 53 vụ án xảy ra trong lĩnh vực đất đai thì
thủ đoạn phạm tội chủ yếu là giao quyền sử dụng đất không đúng quy định để nhận những
giá trị vật chất từ người được giao đất, hoặc giao đất với diện tích lớn hơn mức đã được
phê duyệt để nhận những giá trị vật chất từ người được giao đất để sử dụng cá nhân.
Ví dụ thứ nhất, vụ án Lương Đình Thuấn và đồng phạm tham ô tài sản, xảy ra ở
Hưng Yên, nội dung vụ án được tóm tắt như sau34:
Với vị trí là trưởng thôn Thanh Sầm, khi được giao xét duyệt những đơn xin cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thôn Thanh Sầm, Lương Đình Thuấn đã xác nhận 11 xuất đất với tổng diện tích là 4.036 m2 do thôn Thanh Sầm bán trái thẩm quyền và cùng với Vũ Xuân Hùng là cán bộ địa chính xã Đồng Thanh lập khống 5 thửa đất ao hồ do xã quản lý mang tên một số hộ với diện tích là 1.121m2. Thuấn đã đưa 16 xuất đất này vào danh sách đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, rồi chuyển cho Đào
Văn Khoa và Hoàng Văn Dáng ký xác nhận chuyển lên phòng Tài nguyên môi trường huyện Kim Động đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
34 Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2014/HSST ngày 9/10/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên.
Đào Văn Khoa với vị trí là chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đồng Thanh, kiêm trưởng ban chỉ đạo cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã tự ký xác nhận vào đơn của các hộ dân ở thôn Thanh Sầm không đủ tiêu chuẩn xét duyệt, không kiểm tra mức độ đầy đủ,
100
chính xác của thông tin trong hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng
vẫn ký chuyển lên phòng Tài nguyên môi trường huyện đề nghị xét cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Tổng số tiền được thu được từ việc bán 16 xuất đất nêu trên là
564.000.000 đồng đã được lãnh đạo thôn Thanh Sầm sử dụng làm kinh phí xây dựng đường tại thôn hết 214.000.000 đồng, còn lại 350.000.000 đồng các bị cáo chia nhau
chiếm đoạt.
Ví dụ thứ hai, với chức vụ là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Hội Nghĩa, Phan Long
Nhi đã tham ô số tiền 227.656.000 đồng thông qua hành vi thực hiện hợp đồng ủy quyền đền bù quyền sử dụng đất với nhà đầu tư. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:35 Sau khi được cơ quan có thẩm quyền bố trí cho địa điểm đầu tư để xây dựng 3 nhà máy chế biến
gỗ trên địa bàn huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, ông Chang Hsieh Ching, tổng giám
đốc Công ty TNHH T.O.C đã ký hợp đồng ủy quyền với Phan Long Nhi là Chủ tịch Ủy
ban nhân dân xã Hội Nghĩa để Nhi trực tiếp thỏa thuận đền bù cho các hộ dân nằm trong
khu quy hoạch của dự án. Theo thỏa thuận của hợp đồng, tổng diện tích đất đền bù là
518.888 m2, giá đền bù là 50.000 đồng/ m2. Sau khi ký hợp đồng với ông Ching, Phan
Long Nhi đã trực tiếp thực hiện triển khai, lập hợp đồng ghi nhận với từng hộ dân theo
khung giá đền bù là 40.000 đồng/m2. Sau khi nhận đủ số tiền 26.250.000.000 đồng từ ông
Ching, Nhi giao tiền đền bù cho các hộ dân theo thỏa thuận, số tiền chênh lệch còn lại
227.656.000 đồng, Nhi không nộp vào ngân sách nhà nước, mà chiếm đoạt để chi tiêu cá
nhân.
2.2.1.4. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối
với hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng
Trên cơ sở nghiên cứu 585 bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp
xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản, trong số 97 vụ xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng, có 23 vụ, chiếm 23,7% là do tác động bởi hạn chế trong các quy định của pháp luật về ngân hàng, tín dụng; 45 vụ, chiếm 46,3% là do tác động bởi những hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
35 Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2011/HSST ngày 21/5/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Một số hạn chế trong quy định của pháp luật về ngân hàng, tín dụng là yếu tố có vai trò đáng kể đối với việc phát sinh tham ô tài sản trong lĩnh vực này. Quy định về điều kiện cấp phép hoạt động đối với ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng chưa đảm bảo tính công khai, minh bạch dẫn đến tình trạng các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng được thành lập khá ồ ạt, một số người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng để chiếm
101
đoạt tài sản. Cụ thể, tại các Điều 20, 21 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ
sung năm 2017 quy định về điều kiện cấp giấy phép của Tổ chức tín dụng, Tổ chức tín
dụng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thể hiện sự coi trọng quá mức vai trò
của quản lý hành chính, nhưng lại thiếu đi các yếu tố đảm bảo sự minh bạch cho hoạt động này.
Một số văn bản dưới luật quy định về quản lý đối với hoạt động cho vay, nhận tiền
gửi tại các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng còn lỏng lẻo hoặc không rõ ràng nên
thực tế một số người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng để chiếm đoạt tài sản của ngân hàng, tổ chức tín dụng. Chẳng hạn như quy định về kế toán trên máy vi tính được ban
hành kèm theo quyết định số 32 ngày 19/7/2006 và quy định về thực hiện giao dịch một
cửa (thu – chi tiền mặt) ban hành kèm theo quyết định số 1498 ngày 13/10/2015 của
Thống đốc ngân hàng nhà nước là cơ sở để hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng
triển khai thực hiện. Tuy nhiên, các quy định này thể hiện việc giao quá nhiều quyền cho
kế toán trưởng, kiểm soát viên, trong khi chế độ hậu kiểm lại được thực hiện thiếu chặt
chẽ nên đã dẫn đến tình trạng kế toán trưởng, kiểm soát viên lợi dụng quyền hạn được
giao để chiếm đoạt tiền của ngân hàng. Một số vụ án dưới đây sẽ chứng minh cho nhận
định này:
Thứ nhất, vụ tham ô tài sản xảy ra tại Phòng giao dịch Mai Lâm, Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn, chi nhánh Đông Anh, Hà Nội. Phan Huy Châu là cán bộ
kế toán, giao dịch viên kiêm thủ quỹ Phòng giao dịch Mai Lâm từ ngày 26/6/2006. Trong
thời gian từ năm 2010 đến tháng 7/2012, Phan Huy Châu đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
của giao dịch viên thực hiện giao dịch một cửa tại Phòng giao dịch Mai Lâm, chi nhánh
Đông Anh để nhận tiền gửi của khách hàng, nhưng không thực hiện hạch toán vào hệ
thống quản lý của ngân hàng, không nộp tiền vào quỹ theo quy định; làm chứng từ giả để thực hiện việc tất toán sớm 37 sổ tiết kiệm của các khách hàng gửi tiền để chiếm đoạt của Chi nhánh Đông Anh với tổng số tiền gốc là 8.957.000.000 đồng.36
Thứ hai, vụ tham ô tài sản tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi
36 Bản án hình sự sơ thẩm số 371/2015/HSST ngày 28/8/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
nhánh Mỹ Đức, Hà Nội. Lê Văn Hiển với tư cách là kế toán trưởng chi nhánh, được giao quyền tổ chức việc thực hiện quy trình hạch toán trên máy vi tính tại đơn vị và các phòng giao dịch trực thuộc, trực tiếp kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy trình hạch toán; quản lý, cấp mới, thay đổi User, password phê duyệt tất toán tiền gửi của giám đốc các phòng
102
giao dịch thuộc chi nhánh đã cùng với các đồng phạm tất toán khống tiền gửi để chiếm đoạt của ngân hàng số tiền 45 tỷ đồng37.
Từ vụ án thứ nhất nêu trên cho thấy, chính quy định về giao dịch một cửa, tức là
việc thu – chi tiền mặt theo hạn mức nhất định đều do một kiểm soát viên đảm nhận đã tạo ra sự thuận lợi để Phan Huy Châu làm chứng từ giả, tất toán sớm các sổ tiết kiệm của
khách hàng gửi tiền và chiếm đoạt tiền của ngân hàng. Trong vụ án này, nếu không giao
quyền thực hiện chế độ một cửa theo hạn mức thì Phan Huy Châu cũng không có cơ hội
thuận lợi để chiếm đoạt số tiền lớn của ngân hàng. Còn từ vụ án thứ hai cho thấy, việc giao quá nhiều quyền năng cho kế toán trưởng của các ngân hàng đã dẫn đến tình trạng họ
lợi dụng các quyền đó như một phương tiện để chiếm đoạt tài sản của ngân hàng, như
trường hợp của Lê Văn Hiển
Cùng với những hạn chế trong một số quy định của pháp luật, hoạt động tổ chức,
quản lý trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng còn lỏng lẻo, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế
cũng là nguyên nhân tác động không nhỏ đến sự phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở
nước ta trong những năm gần đây. Hệ thống ngân hàng thương mại và các chi nhánh phát
triển một cách ồ ạt về số lượng, không có quy hoạch, hoạt động bộc lộ nhiều sơ hở, do bị
chi phối bởi sức ép lợi nhuận nên đã nới lỏng điều kiện tín dụng; không thực hiện hoặc vi
phạm các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này, như thực hiện không nghiêm túc
trình tự, thủ tục, quy định cho vay về thẩm định tài sản thế chấp, định giá tài sản thế chấp,
tra cứu thông tin nợ xấu; vi phạm quy trình kiểm tra, thẩm định trước khi cho vay; cho
vay không có tài sản bảo đảm hoặc tài sản bảo đảm không đủ thủ tục pháp lý; không
chuyển nhóm nợ theo quy chế; cho vay đảo nợ để che giấu nợ xấu; tình trạng thâu tóm,
thao túng ngân hàng trái pháp luật diễn ra âm thầm từ nhiều năm nay nhưng không được
ngăn chặn; tình trạng đầu tư chéo, vi phạm quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần ngân hàng, vốn ảo diễn ra trầm trọng. Ngoài ra, hoạt động quản lý, điều hành vĩ mô, thanh tra, kiểm tra của ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại bị buông lỏng, chưa theo kịp diễn biến của tình hình, nhiều vụ việc tiêu cực không được phát hiện kịp thời; việc
37 Bản án hình sự sơ thẩm số 306/2012/HSST ngày 02/7/2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
phối hợp, trao đổi thông tin giữa cơ quan bảo vệ pháp luật với các đơn vị thanh tra, giám sát ngân hàng có lúc chưa được kịp thời, nhất là trong việc phối hợp thu hồi tài sản tham ô. Bên cạnh đó, hệ thống công nghệ, đảm bảo an ninh, bảo mật thông tin, năng lực quản trị rủi ro, quản lý cán bộ còn bất cập, yếu kém, trong khi đó các thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi. Chẳng hạn như sự lỏng lẻo trong hoạt động quản lý Password, User để phê
103
duyệt các tất toán, thẩm định hồ sơ vay vốn của các doanh nghiệp, công tác hậu kiểm
thiếu chặt chẽ đã tạo ra những yếu tố thuận lợi để người có chức vụ, quyền hạn trong các
ngân hàng, đơn vị tài chính, tổ chức tín dụng lợi dụng để chiếm đoạt tài sản của ngân
hàng.
Ví dụ, Vụ án Nguyễn Thanh Toàn tham ô tài sản trong lĩnh vực ngân hàng xảy ra ở tỉnh Vĩnh Phúc, nội dung vụ án như sau:38 Trong thời gian từ ngày 11/11/2009 đến ngày 1/9/2011, Nguyễn Thanh Toàn là Phó giám đốc, đồng thời là giao dịch viên của Phòng
giao dịch Bá Thiện thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao,
thông qua các thủ đoạn: Đóng sớm tài khoản tiền gửi của khách hàng, thiếu sổ tiết kiệm;
lấy sổ tiết kiệm khác thay thế; nhận tiền gửi nhưng không hạch toán trên hệ thống IPCAS,
phát hành số tiền gửi nhỏ để hợp thức sổ tiết kiệm đã cấp cho khách hàng, thực hiện lấy
tiền qua bút toán hủy, Toàn đã chiếm đoạt của Ngân hàng tổng số tiền 8.107.674.000
đồng. Trong vụ án này, Nguyễn Thanh Toàn đã lợi dụng sự lỏng lẻo trong hoạt động quản
lý của ngân hàng để thực hiện hành vi phạm tội trong một thời gian dài, số tiền chiếm
đoạt là rất lớn.
2.2.1.5. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối
với hoạt động đầu tư, xây dựng
Trên cơ sở nghiên cứu 585 bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp
xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản, trong số 93 vụ xảy ra trong lĩnh vực đầu tư, xây
dựng cơ bản, có 28 vụ, chiếm 30,1% do tác động bởi hạn chế của pháp luật về đầu tư; 35
vụ, chiếm 37,6% do tác động bởi những hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước về đầu
tư, xây dựng.
Quy định về phân bổ vốn đầu tư, quản lý ngân sách có phần chưa hợp lý nên đã tạo kẽ hở để người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản khi được giao trực tiếp quản lý, sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách, cụ thể là: Theo quy định tại các Điều 26, 27 Luật ngân sách nhà nước năm 2015 thì Bộ kế hoạch đầu tư là cơ quan phân bổ vốn đầu
tư cho các công trình, dự án xây dựng; Bộ tài chính là cơ quan thực hiện việc quyết toán dự án, công trình, đồng thời cũng thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, đánh giá hiệu quả chi ngân sách cho đầu tư phát triển. Theo quy định này, Bộ kế hoạch đầu tư là cơ quan phân bổ vốn nhưng không nắm được thực tế triển khai công trình, dự án; trong khi nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tài chính lại quy định một cách chồng chéo, vì chính quy định Bộ 38 Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2015/HSST ngày 25/6/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
104
tài chính vừa là cơ quan thực hiện việc quyết toán dự án, công trình đầu tư, lại vừa đồng
thời là cơ quan thực hiện quyền thanh tra, kiểm tra, đánh giá hiệu quả chi ngân sách cho
đầu tư phát triển là không đảm bảo tính khách quan, minh bạch trong đầu tư công, dẫn
đến tình trạng quản lý lỏng lẻo đối với đơn vị sử dụng ngân sách, không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng ngân sách, mà còn tạo kẽ hở để một bộ phận người có chức vụ,
quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản khi họ được giao quản lý, sử dụng vốn đầu tư để
xây dựng các công trình, dự án.
Quy định về điều kiện chi ngân sách đối với đầu tư xây dựng cơ bản phải đáp ứng các điều kiện của pháp luật về đầu tư công; đối với những gói thầu thuộc các nhiệm vụ,
chương trình, dự án cần phải đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua
sắm hàng hóa, xây lắp. Trong khi đó, tại Điều 22 Luật đấu thầu năm 2013 quy định về
những trường hợp được phép chỉ định thầu, nhưng thực tế phạm vi chỉ định còn khá rộng,
trong khi chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ việc thực hiện chế định chỉ định thầu, chưa có
văn bản hướng dẫn cụ thể, nên đã tạo ra những yếu tố tiêu cực để người có chức vụ,
quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản khi được giao trách nhiệm quản lý, sử dụng
ngân sách chi cho đầu tư, xây lắp, mua sắm công.
Công tác quản lý vốn đầu tư còn lỏng lẻo, chẳng hạn như hoạt động giám sát đối
với công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án, phân bổ vốn đầu tư, quyết định đầu tư và
thực hiện các dự án đầu tư chưa được thực hiện chặt chẽ; do chủ thể thực hiện hoạt động
giám sát và chủ thể bị giám sát đều do một cơ quan, hoặc bộ, ngành quản lý nên chưa đủ
yếu tố đảm bảo tính khách quan, minh bạch của hoạt động giám sát, dẫn đến hoạt động
giám sát đầu tư, xây dựng còn mang tính thủ tục, chưa thực sự phát huy tác dụng đối với
việc phòng ngừa tham ô tài sản trong lĩnh vực này. Phạm vi các dự án, công trình xây
dựng được kéo dài thời gian thực hiện dự án, thời gian giải ngân vốn đầu tư theo quy định tại Điều 46 Luật đầu tư công còn rộng, nên đã dẫn đến tình trạng người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động này lợi dụng thời gian kéo dài để chiếm đoạt vốn đầu tư.
Mặt khác, chính sách bảo lãnh vay vốn nước ngoài, tạo điều kiện vay thương mại
trong nước, cho đất dự án, đổi đất lấy hạ tầng, cùng với việc các bộ, ngành quản lý giao quyền quá lớn cho người đứng đầu tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước nên đã dẫn đến tình trạng các chủ thể này lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản của nhà nước. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc xảy ra hàng loạt vụ án tham ô tài sản với số tiền đặc biệt lớn trong một số tập đoàn kinh tế vừa qua, như Tập đoàn công nghiệp tàu thủy, Tập đoàn dầu khí, Tập đoàn than, khoáng sản. Một số vụ án
105
dưới đây đã minh chứng cho cơ chế tác động giữa một số hạn chế của hoạt động quản lý
nhà nước trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng với việc thực hiện hành vi tham ô tài sản:
Ví dụ thứ nhất, vụ án Dương Chí Dũng và các đồng phạm tham ô tài sản, xảy ra tại Tổng công ty hàng hải Việt Nam, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: 39Tổng công ty hàng hải Việt Nam (viết tắt là Vinalines) là doanh nghiệp 100 % vốn nhà nước, với ngành
nghề kinh doanh là vận tải đường biển, đường thủy, khai thác cảng biển, đường sông; sửa
chữa tàu biển và một số ngành nghề kinh doanh khác để thực hiện nhiệm vụ phát triển
ngành hàng hải. Quá trình thực hiện chủ trương xây dựng nhà máy sửa chữa tàu biển phía Nam, với tư cách là Chủ tịch Hội đồng quản trị, Dương Chí Dũng đã ký quyết định phê
duyệt đầu tư dự án mua ụ nổi 83M với mức đầu tư 14.136.000 usd theo phương án mua,
sửa chữa tại Nga sau đó lai dắt về Việt Nam. Mặc dù biết chủ sở hữu ụ nổi 83M là công
ty Nakhodka của Nga, nhưng Dũng và Mai Văn Phúc vẫn quyết định phương án mua ụ
nổi qua nhà môi giới là công ty AP của Singapore. Quá trình mua bán, thỏa thuận ghi rõ
việc ăn chia số tiền bán ụ nổi là công ty AP được hưởng 4.334.000 usd, chuyển cho một
bên thứ ba do công ty AP chỉ định số tiền 1.666.000 usd. Sau đó, Dương Chí Dũng lại phê
duyệt điều chỉnh phương án vận chuyển ụ sang phương thức chở ụ bằng tàu cân nặng về
Việt Nam, sửa chữa tại Nha Trang. Theo đó, mức đầu tư mua và vận chuyển ụ nổi từ
14.136.000 usd tăng lên 19.500.000 usd. Ngày 15/3/2010, với tư cách là Tổng giám đốc
Tổng công ty hàng hải Việt Nam, Dũng đã ký hợp đồng với nhà môi giới mua ụ nổi 83M
với giá 9 triệu usd. Sau khi nhận tiền bán ụ nổi 83M, công ty AP đã chuyển số tiền
1.666.000 usd vào tài khoản của công ty Phú Hà (công ty của em gái Trần Hải Sơn). Trần
Hải Sơn đã nhận toàn bộ số tiền này và chuyển cho Dương Chí Dũng 10 tỷ đồng, Mai
Văn Phúc 10 tỷ đồng, đưa cho Trần Hữu Chiều 340 triệu đồng; số còn lại 7.858.379.058
đồng, Sơn chiếm đoạt chi tiêu cá nhân.
39 Theo Bản án hình sự sơ thẩm số 479/2013/HSST ngày 16/12/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
40 Thao Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2018/HSST ngày 22/01/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Ví dụ thứ hai, vụ án Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm tham ô tài sản, xảy ra tại Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC), nội dung vụ án được tóm tắt như sau:40 Trong quá trình thực hiện các dự án nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 và Quảng Trạch 1, với tư cách là Tổng giám đốc PVC, Trịnh Xuân Thanh cùng với Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh đã thống nhất đề ra chủ trương và chỉ đạo Lương Văn Hòa, trưởng Ban điều hành dự án lập khống hồ sơ, chứng từ thi công 4 hạng mục bổ sung phục vụ thi
106
công các hạng mục chính của dự án Vũng Áng, Quảng Trạch để cùng nhau chiếm đoạt số
tiền của dự án là 13.066.262.471 đồng do PVC có trách nhiệm quản lý.
2.2.2. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế của công tác cán bộ
Vấn đề chủ thể đặc biệt là một trong những đặc điểm đặc thù của tội tham ô tài sản, theo đó, người phạm tội tham ô tài sản thường là người có chức vụ, quyền hạn trong
các cơ quan, đơn vị kinh tế nhà nước. Điều này có nghĩa, trước khi trở thành người phạm
tội tham ô tài sản, những người này đã được trải qua một trong các quy trình của công tác
cán bộ như tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc điều động, luân chuyển của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Từ việc nghiên cứu tình hình của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong những
năm vừa qua có thể khẳng định: Những hạn chế của công tác cán bộ như đề bạt, bổ
nhiệm, sử dụng, đánh giá cán bộ là một trong những nguyên nhân góp phần làm phát sinh,
gia tăng tội tham ô tài sản ở nước ta trong những năm gần đây. Do đối tượng tác động của
loại tội phạm này là tài sản do người có chức vụ, quyền hạn quản lý, nên nếu quá trình cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đưa một người từ bình thường trở thành “người có chức vụ,
quyền hạn” càng có nhiều khiếm khuyết, hạn chế thì có thể càng tạo ra nhiều yếu tố tiêu
cực làm phát sinh tình trạng chiếm đoạt tài sản khi họ được giao quản lý.
Thực tiễn cho thấy, công tác đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng, đánh giá cán bộ ở nước ta
trong nhiều năm qua còn nhiều hạn chế, yếu kém đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, sản xuất, kinh doanh trong các doanh
nghiệp nhà nước. Thực trạng này đã được Đảng ta xác định rõ tại Nghị quyết Hội nghị
Ban chấp hành trung ương lần thứ 7 khóa 12 về công tác cán bộ, cụ thể là: Công tác cán
bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, việc thực hiện một số nội dung còn hình thức. Đánh giá
cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ
thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm "động" và "mở". Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch
và theo chức danh. Luân chuyển cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh không là người địa phương, trong đó có bí thư cấp uỷ các cấp còn bất cập, chưa đạt yêu cầu. Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công
107
chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy
ra sai phạm, tiêu cực.
Tuy nhiên, do mục đích nghiên cứu là phân tích, giải thích nguyên nhân của tội
tham ô tài sản, nên trong phần này tác giả chỉ đề cập đến những hạn chế của công tác cán bộ với tính chất là một trong những nguyên nhân góp phần làm phát sinh, gia tăng tội
tham ô tài sản ở Việt Nam trong những năm vừa qua, cụ thể:
2.2.2.1. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong hoạt động quy hoạch, đề bạt, bổ
nhiệm, sử dụng cán bộ
Trong công tác tổ chức cán bộ, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt, việc đề bạt,
bổ nhiệm, sử dụng cán bộ là hoạt động nòng cốt, có tính quyết định đến chất lượng cán
bộ. Điều đó có nghĩa, chất lượng hoạt động đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ là yếu tố chi
phối trực tiếp đến chất lượng cán bộ theo tỷ lệ thuận. Chính vì vậy, khi các hoạt động đề
bạt, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ còn có những hạn chế nhất định thì chất lượng cán bộ
không thể tránh khỏi những hạn chế, yếu kém, không chỉ làm ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả của hoạt động quản lý, mà còn là yếu tố tiêu cực góp phần làm phát sinh tình
trạng xâm hại hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, gây thiệt hại về tài sản của nhà
nước ở nhiều mức độ khác nhau.
Đối với việc quy hoạch cán bộ: Ở một số ngành, địa phương chưa lấy việc đánh
giá cán bộ làm tiêu chí chủ yếu, chưa xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ và năng lực thực tiễn
của cán bộ, chưa gắn quy hoạch với đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ dẫn đến việc quy
hoạch còn mang tính hình thức, thiếu tính khả thi, chất lượng quy hoạch còn thấp, cơ cấu
quy hoạch chưa cân đối về trình độ, ngành nghề đào tạo, chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ.
Đối với việc bổ nhiệm cán bộ: Việc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý thông qua nguồn thi tuyển còn chưa đảm bảo tính công khai, thiếu khách quan và chưa thật sự công bằng. Chẳng hạn như việc công bố công khai tiêu chuẩn, điều kiện và số lượng tuyển chọn các chức danh lãnh đạo, quản lý trong đơn vị thường chỉ được tiến hành tại
thời điểm làm quy trình, chưa thông báo rộng rãi trên các phương tiện truyền thông; nguồn giới thiệu, đề cử hoặc phạm vi đối tượng đăng ký dự tuyển còn hạn chế, tập trung chủ yếu vào đội ngũ cán bộ, công chức trong từng đơn vị, cơ quan có nhu cầu bổ sung lãnh đạo, quản lý, chưa mở rộng ra các cơ quan, đơn vị khác trong nội bộ của bộ, ngành, địa phương. Điều này đã làm hạn chế nguồn tuyển chọn, hạn chế cơ hội thu hút những người thực sự có năng lực chuyên môn và có tầm lãnh đạo, quản lý. Mặt khác, việc bổ
nhiệm lãnh đạo, quản lý còn chậm đổi mới về quan niệm, tư duy như đã được bổ nhiệm
108
thì khó có thể miễn nhiệm hay từ chức, hoặc khi đã thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý do
từ chức, miễn nhiệm thì sẽ không bao giờ được xem xét, để bổ nhiệm vào các vị trí đó
nữa. Hơn nữa, khi xem xét để bổ nhiệm còn nể nang, chịu sự chi phối bởi tiếng nói của
người có chức vụ, quyền hạn cao, dẫn đến việc coi nhẹ hoặc bỏ qua yếu tố năng lực, trình độ chuyên môn cũng như các tố chất, phẩm chất đạo đức cần có của người lãnh đạo, quản
lý. Chính vì vậy, sau khi được bổ nhiệm, một số cán bộ có chức vụ quản lý đã lợi dụng
những hạn chế, kẽ hở của pháp luật, hoặc những sơ hở, lỏng lẻo trong hoạt động quản lý
nhà nước, coi đó là những cơ hội thuận lợi để chiếm đoạt tài sản của nhà nước mà họ được giao quản lý.
Ví dụ 1, vụ án Giang Kim Đạt tham ô tài sản xảy ra ở Công ty TNHH một thành
viên vận tải viễn dương (Vinashinlines) là kết quả của những vi phạm, tiêu cực trong quá
trình tuyển dụng, bổ nhiệm Giang Kim Đạt. Trong quá trình điều tra vụ án cho thấy: Do
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực môi giới hàng hải và vận tải hàng hóa, Giang Kim
Đạt quen Trần Văn Liêm, lúc đó là tổng giám đốc tổng công ty vận tải viễn dương, Liêm
nói với Đạt là Vinashinlines đang cần người và bảo Đạt về làm cùng. Tháng 5/2008, Trần
Văn Liêm quyết định tiếp nhận Giang Kim Đạt vào công tác tại phòng khai thác 2; đến
tháng 8/2008, bổ nhiệm Giang Kim Đạt giữ chức vụ quyền trưởng phòng kinh doanh và
quan hệ quốc tế; ngày 14/10/2008, bổ nhiệm Giang Kim Đạt giữ chức vụ quyền trưởng
phòng kinh doanh; ngày 11/10/2009, Vinashinlines chấm dứt hợp đồng lao động với
Giang Kim Đạt; ngày 3/4/2010, Vinashinlines tiếp nhận Đạt làm cố vấn cao cấp cho Tổng
giám đốc; đến 11/4/2010, Vinashinlines chấm dứt hợp đồng lao động với Đạt; ngày
10/5/2010, Giang Kim Đạt được tiếp nhận lại và bổ nhiệm chức vụ quyền trưởng phòng
kinh doanh; đến 20/6/2010, Vinashinlines lại chấm dứt hợp đồng lao động với Giang Kim
Đạt.
Như vậy, chỉ trong 2 năm, từ tháng 5/2008 đến tháng 6/2010, Giang Kim Đạt đã 3 lần được tiếp nhận vào làm việc tại Vinashinlines và cũng 3 lần bị Vinashinlines chấm dứt hợp đồng lao động. Kết quả điều tra cho thấy, Trần Văn Liêm không có lần nào ký hợp
đồng lao động với Giang Kim Đạt, vì Đạt chưa có bằng đại học; các quyết định tiếp nhận, bổ nhiệm chức vụ, cử đi công tác đối với Giang Kim Đạt chỉ có chữ ký của Trần Văn Liêm, không có đóng dấu của Vinashinlines.
Từ năm 2008 đến năm 2010, trong quá trình thực hiện các dự án mua tàu, khai thác kinh doanh cho thuê tàu biển của Vinashinlines, Giang Kim Đạt cùng với Trần Văn Liêm,
109
Trần Văn Khương lợi dụng chức vụ, quyền hạn tham ô tài sản của Vinashinlines số tiền 260.506.950.830 đồng41.
Ví dụ 2, vụ án Bùi Tiến Dũng tham ô tài sản xảy ra tại dự án đầu tư xây dựng cầu
Bãi Cháy, Quảng Ninh (viết tắt là PMU 18), Bộ giao thông vận tải.42
Năm 1998, thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án đầu tư xây dựng cầu Bãi Cháy
trên quốc lộ 18 tại Quảng Ninh, với tổng mức đầu tư 1.815.273.592.216 đồng bằng nguồn
vốn vay ODA của Chính phủ Nhật Bản và vốn đối ứng của Việt Nam từ ngân sách nhà
nước, giao cho Bộ giao thông vận tải là chủ đầu tư. Dự án được chia thành 3 gói thầu.
Sau khi dự án được phê duyệt, chủ đầu tư là Bộ giao thông vận tải đã bổ nhiệm
một loạt các chức danh của Ban quản lý dự án như: Tổng giám đốc đại diện chủ đầu tư,
các phó phòng triển khai dự án, chánh văn phòng tư vấn, các phó giám đốc điều hành các
gói thầu. Theo quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật chung thì các chức danh nhân viên tư vấn
bổ sung gồm: phiên dịch; giám sát chất lượng; giám sát phòng thí nghiệm; chuyên gia
máy tính; khảo sát; giám sát khối lượng; thư ký do các nhà thầu xây lắp cung cấp; các
chức danh phó giám đốc vật liệu, kỹ thuật viên phòng thí nghiệm do Bộ giao thông vận
tải cung cấp nhưng nhà thầu sẽ trả lương. Kết quả điều tra xác định, Bộ giao thông vận tải
không ủy quyền cho PMU 18 tuyển nhân viên tư vấn, nhưng cũng không tuyển dụng và
cung cấp nhân viên tư vấn bổ sung theo các chức danh nói trên cho các nhà thầu thi công
dự án. Theo quy định của hợp đồng, mỗi gói thầu được thành lập 1 văn phòng điều hành
cùng các bộ phận kỹ thuật riêng biệt. Do gói thầu số 2 được triển khai đầu tiên nên đã
thành lập xong văn phòng điều hành gói thầu. Phạm Tiến Dũng với vai trò là đại diện chủ
đầu tư dự án nhận thấy: 3 gói thầu này chỉ cần sử dụng chung 1 văn phòng điều hành
nhưng vẫn đảm bảo hoạt động, nếu thành lập 3 văn phòng điều hành sẽ thừa, đây là kẽ hở
để lập khống nhân viên tư vấn bổ sung nhằm rút tiền của dự án ra để chia nhau. Thực hiện ý đồ đó, Phạm Tiến Dũng đã báo cáo xin ý kiến Bùi Tiến Dũng là tổng giám đốc PMU 18 và được Bùi Tiến Dũng đồng ý, nên từ tháng 8/2007 đến tháng 2/2010, Phạm Tiến Dũng đã cùng với Nguyễn Vũ Nam, Nghiêm Phú Sơn, Lê Minh Giang, Nguyễn Công Dũng lập
41 Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2017/HSST ngày 22/2/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
42 Bản án hình sự sơ thẩm số 279/2011/HSST ngày 6/7/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
khống danh sách nhân viên tư vấn bổ sung, sau đó thông đồng với Nguyễn Hữu Minh, Nguyễn Việt Dũng và Nguyễn Hữu Long là giám đốc ban điều hành các gói thầu cùng Trần Đức Hùng, Chánh văn phòng dự án để rút của dự án số tiền 3.439.560.500 đồng ra chia nhau hưởng lợi.
110
Trong trường hợp này, nếu Bộ giao thông vận tải quản lý chặt chẽ đối với việc
tuyển dụng nhân viên tư vấn bổ sung thì sẽ không tạo ra kẽ hở trong tuyển dụng, bổ
nhiệm để những cán bộ trong ban quản lý dự án lợi dụng để chiếm đoạt tiền của dự án.
2.2.2.2. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong công tác quản lý, đánh giá cán
bộ
Quản lý cán bộ là một trong những nội dung quan trọng của công tác cán bộ, có
mối liên hệ mật thiết với chất lượng cán bộ cũng như hiệu quả của hoạt động chỉ đạo, điều
hành trong quản lý nhà nước. Trong những năm gần đây, công tác quản lý cán bộ đã bộc lộ nhiều sơ hở, yếu kém do còn bị chi phối, tác động bởi nhiều mối quan hệ liên quan đến
lợi ích vật chất. Hơn nữa, cách thức quản lý cán bộ còn quá coi trọng lý lịch, truyền thống
gia đình, quản lý trên hồ sơ, bằng cấp, mà coi nhẹ việc quản lý chính trị hiện tại của mỗi
cán bộ, dẫn đến tình trạng không kịp thời phát hiện cán bộ suy thoái về đạo đức, lối sống,
lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để chiếm đoạt tài sản của nhà nước.
Do đối tượng tác động của tội tham ô là tài sản tồn tại dưới các dạng khác nhau
nên quản lý tài sản, thu nhập của cán bộ nói chung và người có chức vụ, quyền hạn nói
riêng là việc làm có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động phòng ngừa tội tham ô
tài sản. Tuy nhiên, cho đến nay việc quản lý tài sản, thu nhập của người giữ chức vụ quản
lý, lãnh đạo trong các cơ quan, đơn vị kinh tế nhà nước vẫn là hoạt động yếu kém nhất
trong công tác quản lý cán bộ. Thực trạng này một mặt là do các chủ thể quản lý chưa có
cách thức quản lý thực sự khoa học, hợp lý; mặt khác, quy định của pháp luật phòng,
chống tham nhũng về minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn còn
hạn chế, các quy định này chưa thực sự là công cụ, phương tiện hữu hiệu cho các chủ thể
có nhiệm vụ quản lý tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Thực tiễn thực
hiện việc kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong những năm qua cho thấy, quy định vừa mang tính liệt kê, cụ thể, vừa thiếu tính bao quát về phạm vi đối tượng có nghĩa vụ phải kê khai tài sản của Luật phòng, chống tham nhũng năm 200543 đã dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện, làm hạn chế
43 Tại khoản 1 Điều 44 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2012 quy định, Những người sau đây phải kê khai tài sản: Cán bộ từ Phó trưởng phòng của Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên và tương đương trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị; Một số cán bộ, công chức tại xã, phường, thị trấn; người làm công tác quản lý ngân sách, tài sản của nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
hiệu quả của biện pháp phòng ngừa này. Cụ thể, như do quy định mang tính liệt kê nên việc cụ thể hóa biện pháp phòng ngừa này vào các văn bản pháp luật chuyên ngành đã có
111
sự bất cập do đối tượng mà văn bản chuyên ngành cần điều chỉnh lại không thuộc phạm vi
điều chỉnh được liệt kê trong Luật phòng, chống tham nhũng; hoặc việc quy định cụ thể
các đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản đã dẫn đến tình trạng các bộ, ngành, cơ quan, tổ
chức lúng túng khi xác định nghĩa vụ kê khai tài sản đối với những cán bộ, công chức không được nêu trong Luật phòng, chống tham nhũng. Những hạn chế đó đã một phần tạo
ra những kẽ hở, khoảng trống trong hoạt động phòng, chống tội tham ô tài sản; đồng thời
cũng tồn tại với tính chất là yếu tố tiêu cực góp phần thúc đẩy việc thực hiện hành vi tham
ô tài sản.
Việc minh bạch tài sản, thu nhập tuy không phải là biện pháp có tác dụng trực tiếp
loại trừ việc phát sinh hành vi tham ô tài sản của người có chức vụ, quyền hạn, nhưng lại
là biện pháp có vai trò rất quan trọng trong việc phát hiện, ngăn chặn kịp thời hành vi
tham ô tài sản. Chẳng hạn như khi việc minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ,
quyền hạn được thực hiện nghiêm túc với cơ chế giám sát chặt chẽ, rõ ràng thì khi đó trở
thành biện pháp thực sự hiệu quả để phát hiện kịp thời sự biến động bất thường về tài sản,
thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, từ đó sẽ góp phần ngăn chặn được các hành vi
phạm tội tiếp theo. Một phần do không kiểm soát được thực chất tài sản, thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn nên phần lớn các vụ án tham ô tài sản thường xảy ra trong
khoảng thời gian dài mới bị phát hiện và giá trị tài sản bị chiếm đoạt thường là rất lớn và
đặc biệt lớn.
Theo báo cáo của Chính phủ về tổng kết 10 năm thực hiện Luật phòng, chống tham
nhũng thì tỷ lệ kê khai tài sản, thu nhập đạt 99,5%, công khai tài sản đạt tỷ lệ 98,3%;
44 Theo Báo cáo số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của Chính phủ về Tổng kết 10 năm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005.
45 Nguồn: Số liệu được tổng hợp từ thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự hàng năm của Tòa án nhân dân tối cao
46 Nguồn: Từ 585 bản án hình sự xét xử sơ thẩm các vụ án tham ô tài sản
trong số 4.859 trường hợp được xác minh chỉ phát hiện 17 người kê khai tài sản không trung thực44. Trong khi đó, thực tiễn hoạt động chống và phòng ngừa tội tham ô tài sản những năm qua cho thấy, trong khoảng thời gian 10 năm, từ năm 2008 đến năm 2017, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền đã khởi tố: 2896 vụ/ 5130 bị can; truy tố 2568 vụ/4739 bị can; xét xử 2485 vụ/ 4635 bị cáo45; trong đó số vụ án có giá trị tài sản trên 100 tỷ đồng chiếm 16,2%46 tổng số vụ tham ô tài sản trong giai đoạn nghiên cứu. Trên cơ sở mối tương quan giữa tỷ lệ minh bạch tài sản, thu nhập với số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản xảy ra trên thực tế cho thấy việc minh bạch tài sản, thu nhập còn hết sức hình thức, hầu như chưa có tác động đến hiệu quả phát hiện và ngăn chặn tội tham ô tài
112
sản; trong khi đó, việc minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn lại là
nội dung quan trọng trong công tác quản lý cán bộ.
Đánh giá cán bộ luôn được coi là hoạt động khởi đầu của công tác cán bộ. Việc
đánh giá chính xác hay không chính xác đều ảnh hưởng đến công tác cán bộ theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Thực tế cho thấy, hiện nay đánh giá cán bộ vẫn là một
khâu yếu, còn tồn tại nhiều hạn chế nên kết quả đánh giá chưa thực sự phản ảnh đúng
năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức của cán bộ. Việc đánh giá cán bộ vào cuối năm
công tác hoặc trước khi đề bạt, bổ nhiệm còn mang tính hình thức để hoàn thiện thủ tục trong hồ sơ cán bộ, mà chưa được coi là một kênh, một phương diện để có thể kịp thời
phát hiện ra những sai phạm, yếu kém trong quá trình thực thi công vụ, nhiệm vụ được
giao của cán bộ, công chức. Trong khi đó, kết quả đánh giá cán bộ lại được coi là một
trong những tiêu chí căn bản khi xem xét bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý đối với cán
bộ. Đây chính là một trong những căn nguyên dẫn đến tình trạng sai phạm, thậm chí là
phạm tội hình sự xảy ra trong nhiều năm mới bị phát hiện, và hầu như không có sự việc
nào được phát hiện thông qua khâu đánh giá cán bộ, mà thường được phát hiện do thanh
tra, kiểm tra hoặc tố giác của công dân. Thực tế, những vụ án tham ô tài sản có số tiền bị
chiếm đoạt đặc biệt lớn tới hàng trăm tỷ đồng như các vụ: Giang Kim Đạt, Dương Chí
Dũng và đồng phạm, Nguyễn Xuân Sơn và đồng phạm, Vũ Quốc Hảo đều xảy ra trong
thời gian dài mới bị phát hiện. Điều này cho thấy, công tác quản lý, đánh giá cán bộ của
các cơ quan chủ quản đối với công ty nhà nước, tập đoàn kinh tế vẫn được thực hiện theo
định kỳ, nhưng không phát hiện ra hành vi phạm tội của người có chức vụ quản lý, lãnh
đạo các đơn vị kinh tế này.
2.2.2.3. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong chính sách tiền lương, phụ cấp
đối với người có chức vụ, quyền hạn
Chính sách tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ là yếu tố có vai trò chi phối trực tiếp đối với chất lượng, hiệu quả công vụ, nhiệm vụ được giao. Điều đó có nghĩa, chính sách tiền lương đối với cán bộ là yếu tố vừa có thể phát huy năng lực, trình độ chuyên môn của
cán bộ, nâng cao hiệu quả công vụ, nhiệm vụ được giao, vừa đồng thời có thể là yếu tố không chỉ cản trở, kìm hãm năng lực chuyên môn của cán bộ, mà còn có thể là yếu tố nguy cơ góp phần làm phát sinh tình trạng cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mà mình được giao quản lý. Thực tế cho thấy, chính sách tiền lương bất hợp lý lại kéo dài trong nhiều năm. Phần lớn cán bộ, công chức không đủ sống từ lương, trong đó một bộ phận cán bộ thiếu bản lĩnh, thiếu tu dưỡng, thoái hóa biến chất đã lợi dụng
113
chức vụ, quyền hạn được giao chiếm đoạt tài sản của nhà nước để thỏa mãn nhu cầu vật
chất.
Bên cạnh những bất hợp lý về chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, thì
chế độ đãi ngộ đối với người tài, người có năng lực, trình độ chuyên môn cao cũng còn nhiều hạn chế, chưa tạo động lực để khuyến khích khả năng, trình độ của họ vào hiệu quả
công vụ; chế độ phụ cấp còn mang tính cào bằng, chưa tương xứng với nhiệm vụ được
giao. Chính vì vậy, ở mức độ nào đó một bộ phận cán bộ, công chức nói chung và người
có chức vụ, quyền hạn nói riêng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nhiệm vụ như một phương tiện để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý để giải quyết một phần khó
khăn về vật chất trong đời sống của họ.
Ví dụ, đối với vụ án tham ô tài sản xảy ra ở Chi cục thú y tỉnh Quảng Ngãi thì chế
độ, chính sách đối với cán bộ là yếu tố tác động rõ rệt đến việc thực hiện hành vi tham ô tải sản. Nội dung vụ án như sau:47 Chi cục thú y tỉnh Quảng Ngãi là cơ quan chuyên môn thuộc Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 5/9/2013, Hoàng
Thị Thúy Lan được phân công làm văn thư kiêm nhiệm thủ quỹ thay cho thủ quỹ là Trần
Thị Xuân Viên nghỉ sinh. Viên đã bàn giao cho Lan sổ quỹ, tiền quỹ 103.717.599 đồng và
25.760.000 đồng tiền xét nghiệm. Khi bàn giao, kế toán trưởng và thủ quỹ Viên đã hướng
dẫn Lan nếu tồn quỹ hơn 100 triệu thì phải nộp tiền vào ngân hàng. Sau khi nhận bàn giao
từ Viên, Lan đã thực hiện việc thu, chi tiền và các nhiệm vụ khác theo chức năng, nhiệm
vụ của thủ quỹ. Đến ngày 17/12/2013, kế toán Chi cục yêu cầu Lan nộp số tiền quỹ 600
triệu đồng vào tài khoản của Chi cục tại ngân hàng thì Lan hẹn để kiểm tra lại tiền rồi
hôm sau sẽ nộp. Sáng ngày 18/12/2013, Lan đến phòng làm việc và hô bị mất trộm số tiền
600 triệu đồng do để quên chìa khóa két sắt, không khóa két sắt. Quá trình điều tra, xét
xử, Hoàng Thị Thúy Lan khai nhận do những khó khăn, thiếu thốn trong gia đình, Lan đã nhiều lần lấy tiền quỹ của Chi cục để trang trải, chữa bệnh cho bố và chi tiêu cho sinh hoạt gia đình dẫn đến thâm hụt quỹ và không có tiền để nộp trả nên đã dùng thủ đoạn giả vờ mất bị mất trộm để không phải trả lại quỹ cho Chi cục thú y tỉnh Quảng Ngãi.
Như vậy, từ những phân tích trên có thể khẳng định những hạn chế, yếu kém trong công tác cán bộ, mà cụ thể là các hoạt động quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng, quản lý, đánh giá cán bộ, cũng như chế độ, chính sách đối với cán bộ, trong sự kết hợp, tương tác với các yếu tố tiêu cực khác đã góp phần làm phát sinh tình trạng cán bộ thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật xảy ra ở nhiều bộ, ngành, địa phương. Đặc biệt, trong các lĩnh 47 Bản án hình sự sơ thẩm số 78/2014/HSST ngày 20/5/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
114
vực quản lý doanh nghiệp nhà nước, quản lý đất đai, khoáng sản, xây dựng cơ bản, quản
lý tài sản công, tài chính, ngân hàng đã làm thất thoát, thiệt hại đặc biệt lớn đến ngân sách
nhà nước do người được giao quản lý tài sản đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm
đoạt. Điều đó cho thấy, việc cải tiến, đổi mới công tác cán bộ nếu được thực hiện một cách kịp thời, hiệu quả sẽ góp phần quan trọng làm hạn chế hoặc loại trừ yếu tố có nguy
cơ làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở nước ta trong những năm tới.
2.2.3. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong hoạt động tuyên truyền, giáo
dục pháp luật
Hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho người dân nói chung và tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng nói riêng giữ vị trí quan trọng
trong việc quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và nâng cao hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân; giúp người dân tin
tưởng, tự giác tuân thủ pháp luật, đồng thời sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình và của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; góp phần phòng, chống tham
nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật.
Đối với hoạt động chống và phòng ngừa tội phạm nói chung và tội tham ô tài sản
nói riêng, tuyên truyền, giáo dục pháp luật là việc làm không thể thiếu, với tác dụng
không chỉ để cho mọi cá nhân, công dân hiểu được, nắm được những quy định của pháp
luật về từng lĩnh vực của đời sống xã hội, trên cơ sở đó không chỉ giúp họ tuân thủ đúng
các quy định của pháp luật, mà còn đồng thời giúp họ có thể phát hiện việc vi phạm pháp
luật của những người xung quanh mình.
Trong những năm qua, mặc dù hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về
phòng, chống tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng đã được các cơ quan chức
năng đưa vào là một trong những nội dung của hoạt động chống và phòng ngừa các tội phạm này. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, kết quả của hoạt động này chưa đạt được đáng kể, chưa thực sự có tác dụng trong việc kịp thời phát hiện, xử lý các tội phạm này và qua đó góp phần làm giảm tình trạng người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý. Điều này đồng nghĩa với việc những hạn chế trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng cũng là một trong những yếu tố góp phần làm phát sinh, gia tăng các tội phạm về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng. Thực tế cho thấy, trong hoạt động chống, phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng, hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng còn nhiều hạn chế, ảnh
115
hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả của việc phòng ngừa loại tội phạm này, những
hạn chế đó là:
2.2.3.1. Hạn chế trong việc xác định nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Tham ô tài sản là loại tội phạm có thể xảy ra ở bất cứ ngành, lĩnh vực hoạt động nào mà ở đó có tài sản của nhà nước. Chính vì vậy, phải xác định nội dung tuyên truyền,
giáo dục pháp luật để phòng ngừa loại tội phạm này với nội hàm đủ rộng, không chỉ bao
gồm hệ thống các văn bản pháp luật chung về phòng, chống tham nhũng như Luật phòng,
chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành mà còn bao gồm hệ thống các quy định về phòng, chống tham nhũng trong các lĩnh vực chuyên ngành có liên quan, như
ngân hàng, tín dụng; quản lý tài nguyên, khoảng sản; đầu tư, xây dựng cơ bản; bảo hiểm,
chứng khoán…Trên cơ sở tuyên truyền, giáo dục các quy định của pháp luật phòng,
chống tham nhũng và những quy định cần thiết của pháp luật trong từng lĩnh vực chuyên
môn, các đối tượng được tuyên truyền, giáo dục sẽ nắm bắt và nhận diện được các thủ
đoạn, hành vi tham ô tài sản, từ đó mà điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với quy
định của pháp luật, đồng thời còn có thể kịp thời phát hiện ra hành vi tham ô tài sản của
những người xung quanh mình.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật về chống,
phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng thường
mới chỉ tập trung vào một số quy định của Luật phòng, chống tham nhũng, như cải cách
hành chính, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, đổi mới
công nghệ quản lý; xây dựng, thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn; minh bạch tài sản,
thu nhập; xây dựng, thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp; chuyển đổi
vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức; xử lý trách nhiệm của người đứng đầu
khi để xảy ra tham nhũng; đẩy mạnh phương thức thanh toán không dùng tiền mặt.. mà chưa đề cập đến những quy định cần thiết của các văn bản pháp luật đối với từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Trong khi đó, đối tượng được tuyên truyền, giáo dục lại ở nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, nên với nội dung tuyên truyền, giáo dục chỉ thuần túy các quy định
của pháp luật phòng, chống tham nhũng thì họ chỉ nắm được một cách chung chung, khó có thể nhận diện được những thủ đoạn tinh vi của loại tội phạm này trong từng ngành, lĩnh vực hoạt động cụ thể, từ đó mà dẫn đến hiệu quả của hoạt động này còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, một trong những giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động này là phải bổ sung nội dung cần thiết trong tuyên truyền, giáo dục pháp luật về chống, phòng ngừa tham nhũng để đảm bảo vừa đầy đủ, vừa có tính chuyên biệt đối với
từng lĩnh vực cụ thể.
116
Mặt khác, trong nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật về chống, phòng ngừa
các tội phạm về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng, chưa được lồng
ghép với các hoạt động mang tính thực tiễn, chẳng hạn như tham dự các phiên tòa xét xử
hình sự đối với các bị cáo về tội tham ô tài sản. Thực tế cho thấy, việc tổ chức phiên tòa lưu động xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản chưa được quan tâm thực hiện, các tầng
lớp nhân dân nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan,
đơn vị kinh tế nhà nước hầu như chưa được tham dự phiên tòa lưu động xét xử các bị cáo
về loại tội này, kể cả những vụ án xảy ra ở chính cơ quan, doanh nghiệp, hoặc địa phương nơi họ làm việc, sinh sống. Do đó, một phần đã hạn chế việc giáo dục kiến thức thực tế
cho các tầng lớp nhân dân; mặt khác cũng hạn chế tác động răn đe, phòng ngừa chung đối
với các thành viên khác trong xã hội thông qua việc Hội đồng xét xử tuyên phạt loại và
mức hình phạt phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo.
2.2.3.2. Hạn chế trong việc xác định đối tượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Để tuyên truyền, giáo dục pháp luật thực sự có hiệu quả, tác động đáng kể đến hoạt
động chống và phòng ngừa tội tham ô tài sản, việc xác định đúng và đủ đối tượng tuyên
truyền, giáo dục pháp luật là cần thiết. Bởi lẽ, đối tượng của hoạt động tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng là những người trực tiếp tiếp nhận thông tin,
kiến thức pháp luật về phòng ngừa hành vi phạm tội tham nhũng nói chung và tội tham ô
tài sản nói riêng, trên cơ sở đó họ nhận thức và hiện thực hóa thành những hành động cụ
thể khi họ gặp tình huống cụ thể. Chính vì vậy, chừng nào việc xác định đối tượng của
hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật còn chưa được chuẩn xác về đối tượng cụ thể
thì hiệu quả, tác dụng của hoạt động này còn hạn chế.
Thực tế những năm qua cho thấy, việc xác định đối tượng được tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về chống, phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng của các cơ quan chức năng còn mang tính dàn chải, chung chung là hướng tới tất cả các tầng lớp nhân dân nói chung, mà chưa có sự chọn lọc, phân loại đối tượng để có sự ưu tiên ở các mức độ khác nhau khi thực hiện hoạt động tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về chống và phòng ngừa tội tham ô tài sản. Việc xác định đối tượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng còn có sự đánh đồng giữa những cá nhân, công dân ở tất cả các lĩnh vực khác nhau với những cán bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan, đơn vị kinh tế nhà nước; chưa có sự phân loại theo nhóm đối tượng dựa trên những tiêu chí khác nhau, để từ đó có những nội dung tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp với từng nhóm đối
tượng. Vì nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật không chỉ đơn thuần là Luật phòng,
117
chống tham nhũng, mà còn cả các văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh từng lĩnh vực
khác nhau của đời sống kinh tế, xã hội. Do đó, quá trình thực hiện tuyên truyền, giáo dục
pháp luật về phòng, chống tham nhũng, việc phân nhóm đối tượng là cần thiết để đảm bảo
cho hoạt động này đạt được hiệu quả trên thực tế. Trong đó, với mỗi nhóm đối tượng lại thiết lập những nội dung tuyên truyền, giáo dục có tính đặc thù với lĩnh vực hoặc chuyên
ngành mà họ sinh sống, làm việc. Chẳng hạn như với những cán bộ, công chức làm việc
trong các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên, khoáng sản, đầu tư, xây dựng, tài
chính, ngân hàng.. thì ngoài những nội dung của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, còn phải tuyên truyền, giáo dục cả nội dung của những văn bản luật chuyên ngành như:
Luật đất đai, Luật đầu tư, Luật xây dựng, Luật ngân hàng...Việc phân nhóm đối tượng
cũng cần được thực hiện đối với các tầng lớp nhân dân lao động ở các vùng, miền khác
nhau. Chẳng hạn với nhân dân ở các tỉnh, thành là trung tâm kinh tế, chính trị như Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành có kinh tế phát triển - nơi mà các tội phạm
về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng xảy ra nhiều, với mức độ phổ
biến hơn thì cần phải có những nội dung tuyên truyền, giáo dục mang tính phong phú,
chuyên sâu hơn so với nội dung tuyên truyền, giáo dục cho những người dân ở các vùng
nông thôn, miền núi, hải đảo hoặc đồng bào dân tộc thiểu số.
Từ những yêu cầu để đảm bảo hiệu quả của hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp
luật về chống và phòng ngừa tội tham ô tài sản với thực tiễn thực hiện cho thấy, việc xác
định đối tượng chưa hợp lý là một trong những yếu tố làm hạn chế hiệu quả của hoạt động
này trên thực tế. Điều này cũng có nghĩa là chừng nào sự không thích hợp về đối tượng
tuyên truyền, giáo dục pháp luật về chống, phòng ngừa tội tham ô tài sản còn tồn tại, chưa
được khắc phục thì vẫn còn yếu tố xã hội tiêu cực góp phần làm phát sinh, gia tăng tội
tham ô tài sản ở nước ta. Chính vì vậy, cùng với việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về chống, phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng, việc xác định và phân loại các nhóm đối tượng thích hợp là cần thiết, góp phần trực tiếp nâng cao hiệu quả thực tế của hoạt động này và
có tác động làm hạn chế sự phát sinh của tội tham ô tài sản.
2.2.3.3. Hạn chế về hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống
tham nhũng
Hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật là cách thức để cơ quan chức năng truyền tải được những nội dung, thông tin cần thiết đến các nhóm đối tượng được tuyên truyền. Khi hình thức truyền tải được tổ chức một cách khoa học, phù hợp với khả năng
118
nhận thức, tiếp thu thông tin của đối tượng tuyên truyền thì khi đó hiệu quả tuyên truyền
được đảm bảo.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy cho đến thời điểm hiện nay, hình thức tuyên truyền,
giáo dục pháp luật phòng, chống các tội phạm về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng còn đơn điệu, chưa có sự phân loại các nhóm đối tượng để lựa chọn hình
thức tuyên truyền cho phù hợp, nên hiệu quả tuyên truyền còn rất hạn chế. Một số hình
thức được các cơ quan chức năng tổ chức cho tất cả các nhóm đối tượng tuyên truyền là:
Phổ biến pháp luật trực tiếp thông qua các buổi sinh hoạt tập thể ở cơ quan, doanh nghiệp hoặc tổ dân phố, thôn, bản; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài
liệu về pháp luật; tuyên truyền pháp luật về phòng, chống tham nhũng trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Trong khi đó, khả năng tiếp thu, nắm bắt thông tin, kiến thức ở
các nhóm đối tượng là khác nhau, vì vậy mà hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật
chưa thực sự có tác động đến hiệu quả phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng nói chung
và tội tham ô tài sản nói riêng. Do đó, để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động
tuyên truyền, giáo dục pháp luật, để hoạt động này thực sự có tác dụng đối với việc
chống, phòng ngừa tội phạm về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng, cần
thiết phải có hình thức tổ chức cho phù hợp với từng nhóm đối tượng tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng, đảm bảo những người được tuyên truyền,
giáo dục tiếp thu được những thông tin, kiến thức pháp luật một cách tốt nhất, từ đó họ có
thể chủ động vận dụng trong các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống.
Từ những nội dung phân tích trên cho thấy: Những hạn chế của hoạt động tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng chính là một trong những yếu tố
góp phần làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở nước ta trong những năm vừa qua.
Bởi lẽ, thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự về tội tham ô tài sản cho thấy: Không phải tất cả các bị cáo phạm tội tham ô tài sản đều do hám lợi, muốn chiếm đoạt tài sản công mà mình được giao quản lý thành tài sản của riêng mình, mà vẫn có những bị cáo do hiểu biết pháp luật hạn chế nên dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm
tội, chẳng hạn như trong một số vụ án cụ thể dưới đây:
Thứ nhất, vụ tham ô tài sản thuộc quỹ hoạt động của Hội liên hiệp phụ nữ huyện
Sóc Sơn, Hà Nội. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sau khi tiếp nhận dự án của Tổ chức hợp tác quốc tế vì sự phát triển và đoàn kết (gọi tắt dự án CIDSE) với tổng số tiền 1.753.636.026 đồng. Ngày 28/2/2008, Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Sóc Sơn có quyết định phân công Nguyễn Thị Thanh Mai làm thủ quỹ
dự án; mở tài khoản của dự án tại ngân hàng do bà Trần Thị Dự chủ dự án làm chủ tài
119
khoản. Theo quy trình của dự án, số tiền thu từ các thành viên vay vốn phải được nộp vào
tài khoản của dự án tại ngân hàng; khi giải ngân, chủ dự án ký séc để thủ quỹ của dự án
rút tiền từ tài khoản về giải ngân. Do việc giải ngân, phát vốn, thu nợ của dự án diễn ra
liên tục, nên được sự đồng ý của chủ dự án, tiền thu, chi của dự án không gửi vào ngân hàng, mà được để tiền mặt của dự án do Nguyễn Thị Thanh Mai quản lý.48
Ngày 31/7/2010, quản lý dự án, nhân viên tín dụng cùng với Nguyễn Thị Thanh
Mai tiến hành kiểm tra quỹ tiền mặt thì xác định tồn quỹ tiền mặt là 427.000 đồng. Đối
chiếu các sổ sách, chứng từ thu, chi xác định: tính đến ngày 31/7/2010, quỹ dự án đã bị thâm hụt là 555.345.101 đồng. Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Thanh Mai thừa nhận:
Trong quá trình quản lý quỹ tiền mặt của dự án, do gia đình kinh doanh cám chăn nuôi bị
thua lỗ, Mai đã nhiều lần rút tiền của dự án ra để sử dụng, đồng thời cũng dùng tiền của
dự án để trang trải một số khoản nợ của cá nhân.
Từ vụ án này cho thấy, do hiểu biết pháp luật hạn chế, nên Nguyễn Thị Thanh Mai
đã nghĩ đơn thuần là tự ý rút tiền của dự án ra sử dụng vào mục đích cá nhân, sau đó khi
có khả năng sẽ hoàn lại khoản tiền quỹ của dự án thì không ảnh hưởng gì. Tuy nhiên, thực
tế những lần Mai tự ý rút tiền quỹ của dự án ra để chi tiêu cá nhân đã đủ dấu hiệu để cấu
thành tội tham ô tài sản, nhưng do hiểu biết pháp luật hạn chế nên Mai không lường được
hậu quả những việc làm của mình.
Thứ hai, vụ tham ô tài sản xảy ra tại Công ty cổ phần thép Sông Hồng - doanh
nghiệp nhà nước sản xuất, kinh doanh thép, có vốn nhà nước chiếm 85% vốn điều lệ của
Công ty. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Để có phôi thép phục vụ cho sản xuất
kinh doanh, trong năm 2011, công ty Sông Hồng đã ký hợp đồng với hai công ty là: Công
ty cổ phần sản xuất và thương mại Thái Hà và công ty cổ phần thương mại và dịch vụ
Quỳnh Minh với nội dung: Vận chuyển phôi thép từ các đơn vị bán phôi thép về kho của công ty Sông Hồng, đóng tại thành phố Việt Trì, Phú Thọ. Công ty Sông Hồng giao cho Long Thanh Hải, thủ kho và Đặng Văn Thắng, cán bộ kỹ thuật phân xưởng cán thép làm nhiệm vụ nhập phôi thép do các lái xe của những đơn vị nhận vận chuyển theo hợp đồng.
Sau đó, Long Thanh Hải có nhiệm vụ làm các thủ tục lập chứng từ nhập phôi thép đã nhận của từng chuyến xe ô tô vào kho của công ty Sông Hồng.
Lợi dụng chức năng, nhiệm vụ được giao và sơ hở trong quản lý tài sản của công ty Sông Hồng, trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 11/2011, Long Thanh Hải đã câu kết với với Đặng Văn Thắng và lôi kéo thêm một số nhân viên trạm cân, nhân viên bảo vệ, 48 Bản án hình sự sơ thẩm số 147/2015/HSST ngày 22/4/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
120
trưởng ca sản xuất, phó quản đốc phân xưởng của công ty Sông Hồng; đồng thời câu kết
chặt chẽ với Nguyễn Anh Quân, nhân viên kinh doanh và Nguyễn Anh Tuấn, trưởng
phòng kinh doanh và một số lái xe của hai đơn vị nhận vận chuyển là công ty Thái Hà và
công ty Quỳnh Minh để chiếm đoạt 10 xe phôi thép có khối lượng 726.800 kg, trị giá 10.149.206.300 đồng và 30 thanh phôi có khối lượng 20.093 kg, trị giá 289.438.897 đồng, chiếm đoạt của công ty Sông Hồng 746.893 kg phôi thép, trị giá 10.438.645.197 đồng.49
Trong vụ án này, ngoài Hải và Thắng ra còn 15 bị cáo khác là những lái xe, bảo vệ,
nhân viên trạm cân, nhân viên kinh doanh do hiểu biết pháp luật hạn chế nên các bị cáo này chỉ đơn thuần hiểu rằng khi được Hải và Thắng rủ rê, lôi kéo vào việc lấy phôi thép
của công ty để bán thì sẽ tham gia để được chia tiền tiêu xài cá nhân, mà không hề nghĩ
đó là hành vi tham ô tài sản. Trong trường hợp này, nếu được tuyên truyền, giáo dục pháp
luật về phòng ngừa tội tham ô tài sản một cách hiệu quả thì các lái xe, nhân viên bảo vệ,
nhân viên trạm cân, nhân viên kinh doanh sẽ không bị lôi kéo vào việc phạm tội.
2.2.4. Nguyên nhân liên quan đến hạn chế trong hoạt động phát hiện và xử lý
tội tham ô tài sản
Phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản là những hoạt
động cơ bản nhằm kịp thời phát hiện và xử lý người có hành vi phạm tội, thu hồi tài sản
của nhà nước bị chiếm đoạt, đảm bảo hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, đơn
vị kinh tế nhà nước. Đây là các hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, không chỉ trực
tiếp chống lại những người thực hiện hành vi tham ô tài sản, mà còn có tác dụng răn đe,
phòng ngừa đối với các thành viên khác trong xã hội. Chính vì vậy, khi các hoạt động này
được thực hiện chất lượng, hiệu quả, đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn đặt ra, sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa đối với loại tội phạm này. Ngược lại, khi hoạt động
phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tội tham ô tài sản còn có những tồn tại, hạn chế nhất định thì không chỉ là lực cản làm giảm hiệu quả của hoạt động phòng ngừa đối với loại tội này, mà ở mức độ nhất định nó còn là yếu tố tiêu cực có vai trò làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản. Thực tế hoạt động chống tội tham ô tài sản ở nước ta
trong những năm vừa qua cho thấy: Một số tồn tại, hạn chế trong việc phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản đã góp phần làm phát sinh, gia tăng loại tội phạm này. Những tồn tại, hạn chế đó là:
49 Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2013/HSST ngày 14/3/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ.
2.2.4.1. Hạn chế trong hoạt động phát hiện tội tham ô tài sản
121
Hạn chế lớn nhất trong hoạt động phát hiện tội tham ô tài sản là việc phát hiện tội
tham ô tài sản còn chưa kịp thời: Tố cáo của cá nhân, công dân, tổ chức về hành vi chiếm
đoạt tài sản của người có chức vụ, quyền hạn mà họ được giao quản lý là một trong những
căn cứ để khởi tố vụ án hình sự về tội tham ô tài sản. Trên cơ sở đó cho thấy tố cáo của cá nhân, công dân, tổ chức là hoạt động có vai trò rất quan trọng để kịp thời phát hiện, ngăn
chặn hành vi chiếm đoạt tài sản của người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, do Luật
phòng, chống tham nhũng quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo còn sơ sài, chưa đầy đủ
và có phần cứng nhắc nên thực tế chưa tạo được cơ chế để khuyến khích người dân tham gia, phát huy vai trò của người dân trong việc kịp thời phát hiện và xử lý người có hành vi
tham nhũng nói chung và hành vi tham ô tài sản nói riêng. Đây cũng là một trong những
lực cản, làm giảm đáng kể hiệu quả hoạt động chống và phòng ngừa loại tội phạm này,
tạo ra những trở ngại nhất định làm cho người dân hạn chế tham gia vào hoạt động phát
hiện và xử lý hành vi tham ô tài sản. Điều đó đồng nghĩa với việc hạn chế một nguồn cơ
bản từ phía đông đảo quần chúng nhân dân để phát hiện tội phạm.
Đối với hoạt động chống và phòng ngừa tội tham ô tài sản, phát hiện kịp thời hành
vi tham ô tài sản của người có chức vụ quyền hạn là việc làm có ý nghĩa quyết định việc
ngăn chặn tội phạm. Bởi lẽ, thực tiễn tố tụng các vụ án tham ô tài sản cho thấy: Trong hầu
hết các vụ án tham ô tài sản, các bị cáo đều nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, có
không ít vụ án kéo dài trong nhiều năm với số tiền chiếm đoạt là đặc biệt lớn mới bị phát
hiện, xử lý. Trên cơ sở nghiên cứu 585 bản án hình sự xét xử sơ thẩm các vụ án tham ô tài
sản trong khoảng thời gian từ năm 2010 – 2019, thời gian phát hiện các vụ án tham ô tài
sản được xác định ở các mức như sau: 6 tháng kể từ khi xảy ra tội phạm: 58 vụ, chiếm
10%; 12 tháng kể từ khi xảy ra tội phạm: 97 vụ, chiếm 16,5%; 24 tháng kể từ khi xảy ra
tội phạm: 125 vụ, chiếm 21,3%; 36 tháng kể từ khi xảy ra tội phạm: 196 vụ, chiếm 33,5%; trên 36 tháng kể từ khi xảy tội phạm: 109 vụ, chiếm 18,7%50. Từ các tỷ trọng này cho thấy: Không có vụ án nào được phát hiện ngay sau khi tội phạm xảy ra; hầu hết các vụ án tham ô tài sản thường được thực hiện trong một thời gian dài, hoặc đã thực hiện
nhưng sau một thời gian dài mới bị phát hiện. Trên cơ sở đó có thể khẳng định: Một trong những hạn chế có tính đặc thù trong hoạt động chống tội tham ô tài sản là hầu hết các hành vi phạm tội đều không được phát hiện kịp thời, trong khi đó tính kịp thời phát hiện tội phạm là một yêu cầu thiết yếu của hoạt động chống, phòng ngừa tội phạm. Do đó, cho đến thời điểm hiện nay, việc phát hiện tội phạm chưa kịp thời vẫn là một trong những yếu 50 Nguồn: Từ 585 bản án hình sự sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản
122
tố có sức tác động đáng kể đến hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản, hay đó chính là
yếu tố góp phần làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản.
2.2.4.2. Hạn chế trong hoạt động khởi tố vụ án, khởi tố bị can
Hạn chế trong hoạt động khởi tố vụ án, bị can được thể hiện ở tỷ lệ khởi tố vụ án, khởi tố bị can còn thấp so với số lượng tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố: Theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố là một
trong những căn cứ để xem xét việc khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố
bị can là kết quả của việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, không chỉ phản ánh độ chính xác của các căn cứ khởi tố, mà còn là yếu tố trực tiếp tác động đến
mức độ ẩn của loại tội phạm này. Chính vì vậy, chừng nào còn có sự chênh lệch đáng kể
giữa tỷ lệ khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội tham ô tài sản so với số lượng tin báo, tố
giác tội phạm, kiến nghị khởi tố thì chừng đó còn có nguy cơ bỏ lọt người có hành vi
tham ô tài sản. Đồng thời đây cũng là một trong những nguyên nhân không chỉ làm giảm
hiệu quả của hoạt động chống, phòng ngừa tội tham ô tài sản, mà còn góp phần làm gia
tăng tội tham ô tài sản trên thực tế.
Thực tiễn hoạt động giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố và khởi
tố vụ án, khởi tố bị can về tội tham ô tài sản trong những năm qua cho thấy: Trong
khoảng thời gian 10 năm từ năm 2010 đến năm 2019, số tin báo, tố giác tội phạm, kiến
nghị khởi tố phải giải quyết là 4505 việc/ 8276 người; trong khi đó số vụ án, số bị can
khởi tố trong cùng thời điểm là 2896 vụ, chiếm 64,2% và 5130 bị can, chiếm 61,9% so
với số việc và số người bị kiến tố giác, kiến nghị khởi tố. Đây là một hạn chế của thực
tiễn áp dụng pháp luật, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả hoạt động chống và
phòng ngừa loại tội phạm này. Bởi không thể dám chắc trong số việc và số người bị tố
giác, kiến nghị khởi tố còn lại là hoàn toàn không có căn cứ để khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Điều đó đồng nghĩa với việc một số người thực hiện hành vi tham ô tài sản còn bị bỏ lọt, chưa được khởi tố kịp thời, gây những tác động tiêu cực đến hiệu quả chống và phòng ngừa loại tội này ở nước ta trong những năm gần đây.
2.2.4.3. Hạn chế trong quá trình giải quyết vụ án tham ô tài sản Thực tiễn hoạt động chống tội tham ô tài sản trong những năm qua cho thấy: Việc điều tra, truy tố, xét xử hầu hết các vụ án tham ô tài sản còn kéo dài trong nhiều năm, không chỉ làm mất đi tính kịp thời của yêu cầu chống và phòng ngừa tội phạm, mà còn tạo ra sự hoài nghi của dư luận xã hội và các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc giải quyết các vụ án tham ô tài sản kéo dài là do sự
tác động của nhiều yếu tố; trong đó, một số yếu tố có tính phổ biến là:
123
Việc thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ các hành vi chiếm đoạt tài sản của người
có chức vụ, quyền hạn thường gặp nhiều khó khăn do đã bị tiêu hủy, che giấu, hoặc hợp
thức hóa bằng các thủ tục thanh, quyết toán. Việc đấu tranh khai thác thông tin từ các đối
tượng liên quan đến hành vi tham ô thường mất nhiều thời gian do người phạm tội thường thực hiện hành vi tham ô tài sản theo một vòng tròn kép kín để bảo vệ, che giấu cho nhau
và có thái độ không hợp tác với cơ quan điều tra. Các thủ đoạn phạm tội thường được
thực hiện tinh vi thông qua việc sử dụng các chứng từ giả để thanh, quyết toán hoặc sử
dụng công nghệ hiện đại để tất toán các khoản tiền bị chiếm đoạt. Đây là những trở ngại ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ điều tra vụ án, làm cho thời gian giải quyết vụ án bị kéo
dài hơn nhiều so với thời hạn luật định.
Sự thiếu thống nhất trong việc xác định tội danh giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
dẫn đến phải kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Đó là việc không chứng minh hoặc chưa
đủ cơ sở để chứng minh dấu hiệu người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà họ
được giao quản lý, nên đã dẫn đến tình trạng tranh chấp giữa tội tham ô tài sản và tội cố ý
làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Đây là lý do
chính của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, làm kéo
dài thời gian giải quyết vụ án trong nhiều năm. Chẳng hạn như vụ án Đặng Ngọc Thành
và đồng phạm tham ô tài sản tại Tổng công ty xây dựng miền trung, vụ án được khởi tố
năm 2008, sau nhiều lần điều tra bổ sung, hủy án để điều tra lại, đến năm 2016 vụ án mới
được đưa ra xét xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Theo thống kê của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, trong thời gian 10 năm từ năm 2010 đến năm 2019, số vụ án tham ô tài
sản phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung do việc xác định tội danh chưa đảm bảo căn cứ
vững chắc là 453 vụ/801 bị can, trong đó Viện kiểm sát trả là 258 vụ/496 bị can, chiếm
9% về số vụ và 9,8% số bị can so với số vụ án và số bị can Cơ quan điều tra đề nghị Viện kiểm sát truy tố; Tòa án trả là 195 vụ/305 bị can, chiếm 7,6% về số vụ và 6,4% số bị can mà Viện kiểm sát đã truy tố; trong đó không ít vụ án phải sử dụng hết số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung luật định. Từ thực trạng này cho thấy: Việc xác định tội danh và thu thập
chứng cứ vững chắc đảm bảo việc xác định chính xác tội danh là một trong những vấn đề phức tạp, khó thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án tham ô tài sản, là một trong những nguyên nhân làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án, tạo ra những tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt động chống, phòng ngừa loại tội phạm này.
Cho đến thời điểm hiện nay, đối với không ít vụ án tham ô tài sản việc giám định tư pháp còn gặp những khó khăn nhất định, như thời gian chờ kết quả giám định kéo dài,
có những nội dung giám định phải được thực hiện bởi nhiều cơ quan chuyên môn, kết
124
luận giám định về cùng nội dung giữa các cơ quan giám định không có sự thống nhất dẫn
đến việc phải giám định lại, hoặc giám định bổ sung. Thực tế hoạt động giám định tư
pháp trong tố tụng hình sự cho thấy: Các vấn đề cần giám định trong các vụ án tham ô tài
sản có tính chất phức tạp, nhiều nội dung mới phát sinh trong khi điều kiện kỹ thuật, công nghệ phục vụ cho hoạt động giám định còn có phần hạn chế, chưa đáp ứng được hết
những yêu cầu của thực tiễn, có những vụ án phải trưng cầu giám định nhiều nội dung
mới có cơ sở để làm rõ hành vi tham ô. Chẳng hạn như vụ án tham ô tài sản xảy ra ở Tổng
công ty xây dựng miền trung, để làm rõ hành vi chiếm đoạt tài sản trong quá trình triển khai dự án nhà máy gỗ ván Quảng Trị của một số đối tượng trong bản quản lý dự án, cơ
quan điều tra cùng một lúc phải trưng cầu giám định ở nhiều lĩnh vực khác nhau như giám
định tài chính đối với việc sử dụng nguồn tiền hỗ trợ của Nhà nước; giám định việc tổ
chức thi công, lập hồ sơ thanh toán, quyết toán các gói thầu trong quá trình thực hiện dự
án. Đối với các vụ án tham ô xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng, cơ quan điều tra thường
phải trưng cầu giám định về tài chính, giám định về công nghệ để xác định việc một số
cán bộ ngân hàng dùng công nghệ cao để mở giao dịch, tất toán khống các khoản tiền gửi
tiết kiệm để chiếm đoạt tiền của ngân hàng. Hoặc đối với những vụ án xảy ra trong tập
đoàn công nghiệp tàu thủy như vừa qua, các vấn đề cần giám định không chỉ là tài chính,
mà còn là giám định về kỹ thuật, công nghệ, thương mại quốc tế mới có cơ sở để xác định
rõ hành vi phạm tội của các bị can, bị cáo. Chính vì vậy, những khó khăn trong hoạt động
giám định cũng gây ra những trở ngại nhất định đối với tiến độ giải quyết các vụ án tham
ô tài sản.
2.2.4.4. Hạn chế trong việc xác định mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm
tội
Xác định mức độ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo trong các vụ án tham ô tài sản là vấn đề hết sức quan trọng, thể hiện rõ sự trừng phạt, sự lên án của nhà nước, sự nghiêm minh của pháp luật đối với người phạm tội. Thực tiễn hoạt động truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản trong những năm qua cho thấy: Việc Viện kiểm sát nhân dân,
Tòa án nhân dân các cấp xác định mức độ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo trong các vụ án tham ô tài sản còn có phần chưa đảm bảo tương xứng với tính chất của hành vi, mức độ hậu quả do bị cáo gây ra. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật đối với bản thân bị cáo, mà còn tạo ra những tác động tiêu cực trong việc phòng ngừa chung, nhất là đối với những vụ án được dư luận xã hội quan tâm do tình trạng này đã tạo ra những phản ứng, bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân, làm xói
mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Nhưng quan trọng hơn, nếu để tình
125
trạng này xảy ra phổ biến, sẽ trở thành một trong những yếu tố xã hội tiêu cực góp phần
làm phát sinh tội tham ô tài sản trên thực tế. Xét về mức độ tác động cụ thể thì đây không
phải là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh tham ô tài sản, nhưng trong bối cảnh chung
với sự tương tác của nhiều yếu tố khác thì việc xử lý người có hành vi tham ô tài sản chưa thật sự nghiêm minh sẽ là lực cản làm giảm mục đích răn đe, phòng ngừa chung của pháp
luật, góp phần thúc đẩy sự phát sinh tham ô tài sản trên thực tế. Việc so sánh mức độ trách
nhiệm hình sự của các bị cáo phạm tội tham ô tài sản giữa một số vụ án sau giúp làm rõ nhận định trên của tác giả, cụ thể:51 Vụ án Phạm Trung Dũng, Hoàng Như Nguyệt phạm tội tham ô tài sản xảy ra tại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xổ số kiến thiết
tỉnh Hà Giang, số tiền các bị cáo chiếm đoạt là 2,1 tỷ đồng; Tòa án cấp sơ thẩm đã xử
phạt Phạm Trung Dũng 11 năm tù, Hoàng Như Nguyệt 10 năm tù. Vụ án Hoàng Vương
tham ô tài sản xảy ra tại Chi cục thuế huyện Tân Yên, Bắc Giang, số tiền Vương chiếm
đoạt là 6,6 tỷ đồng; Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Hoàng Vương tù chung thân. Vụ án Phan
Huy Châu tham ô tài sản xảy ra tại Ngân hàng nông nghiệp huyện Đông Anh, Hà Nội, số
tiền Châu chiếm đoạt là 9 tỷ đồng; Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Phan Huy Châu tử hình.
Trong khi đó, đối với vụ án tham ô tài sản xảy ra tại Phòng giao dịch Quang Hanh thuộc
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Cẩm Phả, Quảng Ninh,
Nguyễn Thị Huệ chiếm đoạt số tiền 21,8 tỷ đồng, Bùi Thị Hồng chiếm đoạt số tiền 9,1 tỷ
đồng, Phạm Minh Tiến chiếm đoạt số tiền 6,5 tỷ đồng; Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt
Nguyễn Thị Huệ 20 năm tù, Bùi Thị Hồng 16 năm tù, Phạm Minh Tiến 12 năm tù. Như
vậy, so với số tiền chiếm đoạt của ba vụ án tham ô nêu trên, vụ án Nguyễn Thị Huệ và
đồng phạm Tòa án đã xác định mức độ trách nhiệm hình sự của các bị cáo quá nhẹ, làm
mất đi tính nghiêm minh của pháp luật, hình phạt chưa đủ sức trừng trị đối với các bị cáo
và chưa có tác dụng răn đe, phòng ngừa đối với các thành viên khác trong xã hội.
2.2.4.5. Hạn chế trong việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt Mặc dù hoạt động thu hồi tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án tham ô tài sản không phải yếu tố có sức tác động trực tiếp đến việc phát sinh, gia tăng số người thực
51 Tại các Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 28/5/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đối với Hoàng Vương; Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2013/HSST ngày 25/7/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đối với Nguyễn Thị Huệ, Bùi Thị Hồng, Phạm Minh Tiến; Bản án hình sự số 40/2018/HSST ngày 19/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang đối với Phạm Trung Dũng, Hoàng Như Nguyệt.
hiện hành vi tham ô tài sản; nhưng ở mức độ nào đó và đặt trong mối quan hệ tác động
126
qua lại với các yếu tố được xác định là nguyên nhân của tội tham ô tài sản thì thu hồi tài
sản bị chiếm đoạt trong các vụ án tham ô tài sản là việc làm hết sức cần thiết, nó là một
trong những yếu tố có vai trò nòng cốt để đánh giá hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội
tham ô tài sản. Thực tiễn quá trình giải quyết các vụ án tham ô tài sản trong những năm qua cho thấy: Việc thu hồi tài sản còn rất hạn chế, số tài sản thu hồi được chỉ chiếm tỷ lệ
rất nhỏ về số vụ án và lượng tài sản bị chiếm đoạt. Điều này có nghĩa đối với những vụ án
có thu hồi được tài sản tham ô, thì số lượng tài sản thu được chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ
so với số tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án, trong khi yêu cầu của chống, phòng ngừa tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng là phải làm triệt để việc thu hồi tài sản.
Chừng nào hoạt động này còn hạn chế, chưa được làm tốt thì thu hồi tài sản tham ô vẫn là
một trong những yếu tố làm hạn chế hiệu quả chống và phòng ngừa tội tham ô tài sản.
Trên cơ sở thống kê từ 585 bản án hình sự sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản
cho thấy: Trong số 585 vụ án tham ô tài sản thì có 115 vụ án thu hồi được tài sản tham ô,
chiếm 19,65%; trong đó, có 87 vụ án thu hồi được toàn bộ tài sản tham ô (giá trị tài sản bị
chiếm đoạt là đến 1tỷ đồng), chiếm 14,87%; 28 vụ thu hồi được một phần tài sản tham ô
(giá trị tài sản bị chiếm đoạt là đến 50 tỷ đồng), chiếm 4,78%.
Việc thu hồi tài sản tham ô thấp do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ
bản là việc điều tra các vụ án tham ô rất phức tạp và khó khăn, đòi hỏi phải có nhiều thời
gian để tổ chức, xác minh, thu thập chứng cứ, giám định và các hoạt động cần thiết khác;
nhiều trường hợp hành vi phạm tội xảy ra trong thời gian dài mới bị phát hiện, đối tượng
đã cất giấu, tẩu tán, hợp pháp hóa tài sản, hoặc đã sử dụng phần lớn tài sản chiếm đoạt
được để đánh bạc, mua cổ phiếu, đưa cho người khác kinh doanh bất động sản và thua lỗ
nên khi bị phát hiện không còn khả năng khắc phục, nộp lại tài sản chiếm đoạt. Bên cạnh
đó, nhiều trường hợp trong quá trình giải quyết vụ án tham ô tài sản, đặc biệt là sau khi khởi tố, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa quyết liệt, triệt để trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết nên người thân của bị can, bị cáo vẫn có điều kiện để tẩu tán tài sản; mặt khác, không ít trường hợp tài sản tham ô đang tồn tại ở nước ngoài nên việc thu
hồi càng gặp nhiều khó khăn. Do đó, trong thời gian tới cần thiết phải có giải pháp tích cực mang tính đột phá để đảm bảo việc thu hồi tài sản trong các vụ án tham ô, nhất là những vụ án tài sản chiếm đoạt là đặc biệt lớn, góp phần trực tiếp nâng cao hiệu quả hoạt động chống và phòng ngừa tội tham ô tài sản.
2.2.5. Nguyên nhân từ phía người phạm tội Trong hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng,
nghiên cứu để xác định nguyên nhân từ phía người phạm tội là việc làm không thể thiếu,
127
có vai trò quan trọng trong việc đưa ra những biện pháp phù hợp nhằm phòng ngừa tội
phạm hiệu quả. Khác với các loại tội phạm khác, tham ô tài sản là loại tội ngay từ tội danh
đã thể hiện sự đặc thù, khác biệt, đó là hành vi phạm tội được xuất phát từ lòng tham,
động cơ tư lợi và đều bị chi phối bởi tính hám lợi của người phạm tội. Do đó, trong hoạt động chống và phòng ngừa tội tham ô tài sản, việc xác định chính xác nguyên nhân từ
phía người phạm tội là cơ sở cần thiết giúp các chủ thể có trách nhiệm phòng ngừa hoạch
định chính sách, biện pháp phòng ngừa có tính căn cơ, hiệu quả nhằm ngăn chặn lòng
tham, tiết chế tính hám lợi của người có chức vụ, quyền hạn khi họ được giao quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh tế.
Mặc dù lòng tham và tính hám lợi là yếu tố có tính cố hữu tồn tại trong bản tính tự
nhiên của mỗi con người nói chung và người có chức vụ, quyền hạn nói riêng, nhưng nếu
bị yếu tố xã hội trong mỗi con người và môi trường xã hội không thuận lợi lấn át, thì lòng
tham và tính hám lợi sẽ không có tác động thúc đẩy cá nhân nói chung và người có chức
vụ, quyền hạn nói riêng thực hiện hành vi tham ô tài sản mà họ được giao quản lý. Chính
vì vậy, để xác định nguyên nhân từ phía người phạm tội, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu
động cơ phạm tội là lòng tham và tính hám lợi trong mối quan hệ với yếu tố như tư cách,
phẩm chất, đạo đức công vụ và các yếu tố xã hội của môi trường sống. Điều này có nghĩa,
để xác định nguyên nhân từ phía người phạm tội của tội tham ô tài sản phải nghiên cứu
trong mối quan hệ tác động qua lại giữa yếu tố thuộc đặc điểm tâm lý tiêu cực của người
phạm tội được hình thành từ sự giáo dục, môi trường sống hiện tại và các yếu tố tiêu cực
từ môi trường sống của họ. Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô
tài sản những năm gần đây cho thấy những đặc điểm tâm lý tiêu cực của người có chức
vụ, quyền hạn có thể tác động qua lại với các yếu tố môi trường tiêu cực đã nêu, dẫn đến
việc họ chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Những đặc điểm tâm lý tiêu cực đó là:
2.2.5.1. Thói ăn chơi xa xỉ, thể hiện đẳng cấp của một bộ phận người có chức vụ,
quyền hạn
Đây là hiện tượng xã hội tiêu cực mới xuất hiện trong giới quan chức những năm gần đây; thể hiện lối sống xa hoa, hưởng lạc, sử dụng những tài sản như biệt thự, biệt phủ, xe, đồng hồ có giá trị nhiều chục tỷ đồng hoặc chi những khoản tiền đặc biệt lớn vào các dịch vụ giải trí, phục vụ nhu cầu cá nhân để khẳng định đẳng cấp thượng lưu của một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, để làm được những điều đó thì bộ phận quan chức đó phải có một lượng tiền rất lớn. Đó chính là căn nguyên thôi thúc họ sử dụng
chức vụ, quyền hạn như một phương tiện để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý.
128
Ví dụ, trong thời gian làm Tổng giám đốc Công ty cho thuê tài chính II thuộc Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Vũ Quốc Hảo đã vay tiền của một số cá
nhân để mua sắm xe sang, biệt thự; sau đó dùng thủ đoạn lập khống hợp đồng mua bán
chiếm đoạt số tiền 79,9 tỷ đồng của Công ty để trả nợ cho những người Hảo đã vay.
2.2.5.2. Đề cao lợi ích vật chất, khao khát làm giàu nhanh chóng
Đây là đặc điểm tâm lý tiêu cực có vai trò chính tác động đến việc thực hiện hành
vi chiếm đoạt tài sản được giao quản lý của một số người có chức vụ, quyền hạn. Biểu
hiện cụ thể của tình trạng này là sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không vượt qua được sự cám dỗ bởi các lợi ích vật chất mà không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước
Đảng, trước dân, sẵn sàng sử dụng chức vụ, quyền hạn được giao phó, bổ nhiệm như một
phương tiện để chiếm đoạt tài sản của nhà nước, của tổ chức, biến tài sản đó thành của
riêng mình, phục vụ cho các lợi ích cá nhân mình. Do xuất phát từ sự đề cao lợi ích vật
chất, khao khát làm giàu, nên khi người có chức vụ, quyền hạn được giao quản lý tài sản
của nhà nước, của tổ chức, họ mới nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản đó nhằm phục vụ,
thỏa mãn các lợi ích khác nhau của bản thân qua hoạt động dùng tài sản chiếm đoạt được
để mua bán, tích trữ bất động sản, dùng để tiêu xài cá nhân, trang trải nợ nần, hoặc dùng
tài sản đó vào việc thỏa mãn các tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma túy hoặc mại dâm.
Như vậy, từ việc thực hiện hành vi tham ô tài sản cho đến động cơ, mục đích sử
dụng tài sản do tham ô mà có đều phần nào thể hiện sự tha hóa về đạo đức, lối sống của
một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn. Từ đó cho thấy sự tha hóa về đạo đức, lối sống
là một trong những yếu tố có vai trò chủ đạo đưa người có chức vụ, quyền hạn đến việc
lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao như một phương tiện để chiếm đoạt tài sản mà họ
có trách nhiệm quản lý và đó cũng là yếu tố tiêu cực có tác động như là nguyên nhân từ
52 Nguồn: Từ 585 Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân các cấp xét xử các vụ án về tội tham ô tài sản.
phía người phạm tội trong quá trình tương tác với các yếu tố khác làm phát sinh, gia tăng số vụ án và số người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong những năm gần đây. Trên cơ sở nghiên cứu 585 bản án hình sự sơ thẩm xét xử 2475 bị cáo về tội tham ô tài sản thì số người phạm tội với động cơ để có tiền đánh bạc là 450 người, chiếm 18,2%52, từ đó cho thấy việc thực hiện hành vi tham ô tài sản để tham gia các tệ nạn xã hội là một động cơ của nhiều người phạm tội, thể hiện rõ sự tha hóa về đạo đức, lối sống của một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước. Một số vụ án tham ô tài sản sau đây sẽ minh chứng cho khẳng định này:
129
Vụ án thứ nhất: Lê Văn Hiển với chức vụ là trưởng phòng kế toán ngân quỹ Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Mỹ Đức, Hà Nội, được giao quản lý
hạn mức giao dịch, quản lý việc bảo mật mật khẩu Pasword và User tại các phòng giao
dịch của chi nhánh. Lê Quang Khải là giao dịch viên Phòng giao dịch Kênh Đào và Nguyễn Thanh Hải là giao dịch viên Phòng giao dịch Hương Sơn đều được phân công
nhiệm vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng có nhu cầu gửi và rút tiền tiết kiệm tại Phòng
giao dịch Kênh Đào và Hương Sơn, hướng dẫn khách hàng viết giấy yêu cầu gửi tiền tiết
kiệm, lập thẻ lưu, nhận tiền nhập quỹ và lập sổ gửi tiền tiết kiệm giao cho khách hàng, lập chứng từ tất toán tiền gửi tiết kiệm cho khách hàng khi có nhu cầu rút tiền gửi tiết kiệm,
đồng thời thực hiện thao tác trên máy tính nhập các thông tin số liệu về gửi và rút tiền tiết
kiệm của khách hàng theo quy định của ngân hàng. Trong thời gian từ tháng 5/2010 đến
tháng 5/2011, Lê Quang Khải, Nguyễn Thanh Hải và Lê Văn Hiển thường xuyên đánh
bạc dưới hình thức cá độ bóng đá thông qua các trang mạng do Phạm Văn Quyết cung
cấp. Do quá trình cá độ bóng đá, Khải, Hiển và Hải liên tục thua độ và phải nợ Phạm Văn
Quyết nhiều tỷ đồng. Để có tiền trả nợ do thua cá độ và tiếp tục cá độ bóng đá, Lê Quang
Khải, Lê Văn Hiển và Nguyễn Thanh Hải đã lợi dụng chức năng, nhiệm vụ được giao và
sơ hở trong việc quản lý, điều hành của lãnh đạo Phòng giao dịch, lãnh đạo chi nhánh, với
sự giúp sức đắc lực của Lê Văn Hiển trong việc tiết lộ mật khẩu Pasword và User tại các
phòng giao dịch, nâng hạn mức giao dịch tại các phòng giao dịch, Lê Quang Khải và
Nguyễn Thanh Hải đã tất toán khống trên máy 177 sổ gửi tiết kiệm của khách hàng chiếm đoạt số tiền 45.840.269.695 đồng.53
Vụ án thứ hai: Với chức vụ là trưởng chi nhánh Công ty ắc quy tia sáng Hải Phòng
tại Quảng Ninh, nhiệm vụ của Hà Thúc Phong là quản lý, bảo toàn vốn được giao cũng
như các mặt tổ chức và hoạt động kinh tế của chi nhánh trước giám đốc công ty. Lợi dụng việc được trực tiếp bán hàng và quản lý tiền, Phong đã nhiều lần bán sản phẩm của công ty để chơi số đề và cá độ bóng đá, số tiền lấy mỗi lần từ 20 triệu đến 30 triệu đồng. Trong thời gian từ tháng 1/2013 đến 31/12/2014, Hà Thúc Phong đã chiếm đoạt của công ty số tiền 491.508.288 đồng.54
53 Bản án hình sự sơ thẩm số 306/2012/HSST ngày 02/7/2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
54 Bản án hình sự sơ thẩm số 73/2011/HSST ngày 17/6/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
Vụ án thứ ba: Ngô Bình Sơn với chức vụ là Phó trưởng phòng kế toán ngân quỹ, chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Như Xuân, Thanh Hóa. Nhiệm vụ của Sơn là quản lý, điều hành bộ phận nghiệp vụ kế toán ngân quỹ kiêm giao
130
dịch viên tại phòng giao dịch Bãi Trành, thuộc Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp huyện
Như Xuân. Do thường xuyên đánh bạc dưới hình thức chơi lô đề và cá độ bóng đá thông
qua Lưu Thị Mùi, Sơn đã nhiều lần bị thua. Để có tiền đánh bạc, trong thời gian từ ngày
7/10/2010 đến ngày 15/4/2011, Sơn đã sử dụng User được cấp đăng nhập vào hệ thống phần mềm tin học quản lý hoạt động tín dụng Ipcas của Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn huyện Như Xuân tất toán 530 tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của
khách hàng rút 34.068.718.200 đồng, chiếm đoạt toàn bộ số tiền này sau đó chuyển vào tài khoản cá nhân của Lưu Thị Mùi để thanh toán tiền thua lô đề và cá độ bóng đá.55
Qua ba vụ án tham ô tài sản nêu trên cho thấy, sự suy thoái về đạo đức, lối sống là
căn nguyên sâu xa thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản mà họ được giao quản lý. Chính vì vậy, để có thể hạn chế và loại trừ sự tác động của
nguyên nhân từ phía người phạm tội đối với việc phát sinh, gia tăng số vụ án và số người
phạm tội tham ô tài sản thì ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên nói chung và người giữ chức vụ, quyền hạn nói riêng là việc làm
hết sức cần thiết, góp phần trực tiếp làm hạn chế hoặc có thể triệt tiêu yếu tố tiêu cực là
nguyên nhân từ phía người phạm tội. Nội dung này đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm trong hoạt động phòng, chống tham nhũng những năm gần đây, cụ thể là tại Hội
nghị lần thứ 4, Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XII, Đảng ta đã ban hành Nghị
quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016, về tăng cường, xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng
viên. Do đó, trong quá trình tổ chức thực hiện, thể chế hóa thành những chế định trong
các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng sẽ góp phần quan trọng làm hạn chế,
loại trừ sự tác động của nguyên nhân từ phía người phạm tội đối với sự gia tăng tội tham
ô tài sản ở nước ta trong thời gian tới.
Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường cho thấy: Bên cạnh những thành tựu căn bản, những mặt tích cực đã đạt được, sự tác động tiêu cực bởi những yếu tố thuộc mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đã thể hiện khá rõ nét
55 Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2012/HSST ngày 25/12/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
trong đời sống xã hội nước ta. Một trong những tác động tiêu cực đó là các giá trị xã hội bị đảo lộn, lối sống thực dụng, hưởng thụ, quá coi trọng và đề cao lợi ích vật chất, tư tưởng muốn làm giàu nhanh chóng. Trong đó, biểu hiện rõ rệt nhất là sự hình thành lối sống thực dụng, tư tưởng muốn làm giàu nhanh chóng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, khi được bổ nhiệm, giao phó cho chức vụ, quyền hạn nhất định, họ đã
131
dùng các thủ đoạn khác nhau, sử dụng chức vụ, quyền hạn như một phương tiện để chiếm
đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý và dùng tài sản chiếm đoạt được để làm giàu
một cách nhanh chóng. Trên cơ sở nghiên cứu 585 bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án
nhân dân các cấp xét xử 2475 bị cáo về tội tham ô tài sản cho thấy số bị cáo phạm tội với động cơ làm giàu nhanh chóng là 898 người, chiếm 36,3%. Từ đó cho thấy muốn làm
giàu nhanh chóng là loại động cơ phạm tội có tính phổ biến và chiếm tỷ lệ cao nhất trong
số những động cơ của người phạm tội tham ô tài sản. Do bị tư tưởng muốn làm giàu một
cách nhanh chóng thôi thúc nên khi được đảm nhận chức vụ, quyền hạn và giao quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức, họ thường tranh thủ, lợi dụng những kẽ hở của pháp luật,
hoặc sự lỏng lẻo trong hoạt động quản lý nhà nước và dùng các thủ đoạn tinh vi nhằm
chiếm đoạt được tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý. Và khi đã chiếm đoạt được, họ
thường dùng tài sản đó để mua bất động sản ở nhiều nơi khác nhau ở trong nước hoặc
nước ngoài, hoặc chuyển cho người thân kinh doanh bất động sản, cho vay để hưởng lãi
suất. Qua đó, có thể khẳng định tư tưởng muốn làm giàu nhanh chóng cũng là một trong
những yếu tố chủ đạo góp phần hình thành nguyên nhân từ phía người phạm tội và trong
sự tương tác với các yếu tố tiêu cực khác đã thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Một số vụ án dưới đây
sẽ góp phần làm rõ thêm sự tác động bởi tư tưởng muốn làm giàu nhanh chóng đối với
việc thực hiện hành vi tham ô tài sản của người có chức vụ, quyền hạn, cụ thể như sau:
Thứ nhất là vụ án tham ô tài sản xảy ra tại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên Vận tải viễn dương (Vinashinlines) thuộc Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam.
Với chức vụ là quyền trưởng phòng kinh doanh của Công ty Vận tải viễn dương, Giang
Kim Đạt được giao nhiệm vụ đàm phán, thỏa thuận các điều kiện, điều khoản của hợp
đồng mua tàu và hợp đồng cho thuê tàu biển. Với động cơ là muốn có thật nhiều tiền để mua bất động sản, trong thời gian từ tháng 5/2008 đến tháng 6/2010, Giang Kim Đạt thỏa thuận chiếm hưởng thông qua việc thực hiện các hợp đồng mua tàu, cho thuê tàu của Vinashinlines gửi vào tài khoản của bố đẻ Đạt là Giang Văn Hiển số tiền 260.506.950.830
VNĐ, sau khi chia cho Trần Văn Liêm 3.109.739.692 VNĐ và Trần Văn Khương 1.772.320.000 VNĐ, còn lại Giang Kim Đạt chiếm đoạt số tiền 255.624.891.138 VNĐ. Giang Kim Đạt đã chuyển toàn bộ số tiền chiếm đoạt được qua các hợp đồng mua tàu và cho thuê tàu biển cho bố đẻ là Giang Văn Hiển để mua bất động sản gồm đất, nhà chung cư, biệt thự tại Việt Nam và ở nước ngoài như Singapore, Anh, Bắc Ai Len, một phần chi
132
tiêu cá nhân.56 Như vậy, với việc tham ô số tiền đặc biệt lớn, Giang Kim Đạt đã đạt được mục đích là làm giàu một cách nhanh chóng thông qua việc mua rất nhiều bất động sản ở
trong nước và nước ngoài.
Thứ hai là vụ án tham ô tài sản xảy ra tại Phòng giao dịch Thái Hà thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn, Hà Nội (SHB) chi nhánh Hà Nội, trong đó vốn doanh
nghiệp nhà nước đóng góp là 30%. Nguyễn Thị Thùy Vân, sinh năm 1982, năm 2006
được bổ nhiệm làm kiểm soát viên phòng giao dịch, có chức năng, nhiệm vụ là thực hiện
kiểm soát tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ theo quy định của ngân hàng nhà nước và SHB, kiểm soát việc hạch toán các nghiệp vụ phát sinh đảm bảo đúng tính chất tài khoản,
số tiền và kịp thời, được giám đốc SHB chi nhánh Hà Nội ủy quyền kiểm soát, ký và
đóng dấu nhiều giao dịch. Để thực hiện mục đích có nhiều tiền mua bất động sản ở Hà
Nội, trong quá trình làm việc, lợi dụng chức trách là kiểm soát viên, đồng thời nắm được
kẽ hở trong hoạt động quản lý các tài khoản chi trả lãi tiết kiệm của SHB, Vân đã nảy sinh
ý định chiếm đoạt tiền của SHB. Để thực hiện ý định, Vân đã dùng thủ đoạn tạo lập tài
khoản khống thông qua việc sử dụng User của nhân viên phòng giao dịch, trong thời gian
từ 8/8/2010 đến ngày 3/9/2010, Vân đã tạo các giao dịch thanh toán các sổ tiết kiệm
không có thật để rút tiền của SHB với tổng số 24.426.713.104 đồng thông qua việc thực
hiện 12 giao dịch chuyển khoản và 45 giao dịch rút tiền. Số tiền chiếm đoạt của SHB,
Vân đã mua 4 bất động sản trên địa bàn thành phố Hà Nội và 1 xe ô tô hết 20.992.000.000 đồng. Số tiền còn lại hơn 3 tỷ đồng, Vân đã chi tiêu cá nhân, cho bạn bè vay.57
Qua hai vụ án tham ô tài sản nêu trên cho thấy, tư tưởng muốn làm giàu nhanh
chóng là yếu tố có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn tìm
ra những sơ hở trong hoạt động quản lý nhà nước, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao
để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Với việc thực hiện hành vi tham ô đó, chỉ trong một khoảng thời gian, người phạm tội đã nhanh chóng chiếm được những khối tài sản đặc biệt lớn để đáp ứng động cơ, mục đích và các nhu cầu về vật chất của họ cùng người thân.
56 Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2017/HSST ngày 22/02/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
57 Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2010/HSST ngày 10/12/2010, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
2.2.5.3. Đặc tính tham lam, tư lợi Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản cho thấy lòng tham và tính tư lợi được coi là yếu tố tiêu cực có vai trò thường trực trong việc hình thành nguyên nhân từ phía người phạm tội. Điều này có nghĩa lòng tham và tính tư lợi thường
133
tồn tại cố hữu trong bản tính tự nhiên của cá nhân con người nói chung và người phạm tội
tham ô tài sản nói riêng. Thực tế cho thấy, động cơ “lấy lại tài sản đã hối lộ” là một dạng
của tính tư lợi của người phạm tội. Những vụ trọng án bị phát hiện trong thời gian gần
đây cho thấy tính nghiêm trọng của hiện tượng chạy chức, chạy quyền. Theo đó, không ít những cá nhân vì tham vọng địa vị, quyền lực đã sẵn sàng bỏ ra những khoản tiền lớn
thông qua hoạt động hối lộ đối với người có thẩm quyền để có được chức vụ, quyền hạn
nhất định trong lĩnh vực nào đó. Chính vì vậy, sau khi đã được đảm nhận cương vị lãnh
đạo, quản lý, những người thăng tiến bằng con đường chạy chức, chạy quyền thường tranh thủ ở mức tối đa những lợi ích kinh tế mà chức vụ, quyền hạn đó có thể mang lại
trong nhiệm kỳ của mình, để có thể bù đắp lại những khoản chi phí đã bỏ ra để có được
chức vụ đó. Mặc dù, việc tham ô tài sản để bù đắp lại khoản chi phí do hối lộ để có được
chức vụ, quyền hạn chưa được thống kê với tính chất là một yếu tố trong cơ cấu về động
cơ của người phạm tội, nhưng xét từ bản chất của hiện tượng chạy chức, chạy quyền thì
đây cũng là một trong những yếu tố có tác động đáng kể đến việc hình thành nguyên nhân
từ phía người phạm tội và trong quá trình tương tác với các nguyên nhân khác đã góp
phần làm phát sinh, gia tăng số vụ án và số người phạm tội tham ô tài sản ở nước ta
những năm gần đây. Do đó, trong hoạt động chống, phòng ngừa các tội phạm tham nhũng
nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng, lên án, ngăn chặn hiện tượng chạy chức, chạy
quyền là việc làm không thể thiếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa các tội
phạm về tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản. Đây cũng chính là một trong những nội dung đã được nhấn mạnh tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng58 do Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng tổ chức tại Hà Nội, tháng
6/2018.
Mặc dù, không phải khi nào và ở đâu, lòng tham, tính tư lợi cũng được bộc lộ và chuyển hóa thành động cơ, hành vi cụ thể là chiếm đoạt tài sản được giao quản lý, nhưng nó sẽ xảy ra khi có đủ sức mạnh để lấn át phẩm chất chính trị của người có chức vụ, quyền hạn và trong mối quan hệ tác động của các yếu tố tiêu cực khác. Điều này có nghĩa
58 Bài phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng do Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng tổ chức tại Hà Nội, tháng 6/2018.
nếu lòng tham và tính tư lợi trong bản tính tự nhiên của người có chức vụ, quyền hạn bị tiết chế, kìm nén bằng các phẩm chất chính trị, đạo đức của họ thì nó cũng không có điều kiện để bộc lộ, hoặc khi hoạt động quản lý nhà nước được thực hiện một cách chặt chẽ,
134
các quy định của pháp luật được hoàn thiện hơn, cũng như các hoạt động khác trong quá
trình phòng ngừa loại tội phạm này được thực hiện một cách đồng bộ, hiệu quả hơn thì
lúc đó lòng tham và tính tư lợi của con người cũng không có cơ hội để bộc lộ và chuyển
hóa thành hành vi phạm tội trên thực tế.
Kết luận Chương 2
Để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản, việc xác định chính
xác những yếu tố tiêu cực, cơ chế tác động của những yếu tố tiêu cực đó dẫn đến việc
phát sinh tội tham ô tài sản có vai trò là cơ sở hết sức cần thiết để có thể đưa ra các biện pháp căn cơ, hữu hiệu để hạn chế sự phát sinh, gia tăng số vụ và số người phạm tội tham
ô tài sản thông qua việc vô hiệu hóa hoặc loại trừ sự tác động của các yếu tố được coi là
nguyên nhân của loại tội phạm này.
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong khoảng
thời gian 10 năm, từ năm 2010 đến năm 2019, các yếu tố được xác định có vai trò tác
động làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản bao gồm: Những hạn chế trong tổ chức,
quản lý nhà nước; những hạn chế trong công tác cán bộ; những hạn chế trong hoạt động
phát hiện và xử lý tội tham ô tài sản; những hạn chế trong hoạt động tuyên truyền, giáo
dục pháp luật và những đặc điểm tâm lý tiêu cực của người phạm tội tham ô tài sản. Khi ở
những phương diện khác nhau, các yếu tố này sẽ tác động theo cơ chế khác nhau trên cơ
sở tương thích với hoàn cảnh cụ thể, nhưng chúng đều là những yếu tố thuận lợi làm phát
sinh, gia tăng hành vi tham ô tài sản trên thực tế. Mặc dù các yếu tố này đều được xác
định là nguyên nhân của tội tham ô tài sản, nhưng không phải đối với mọi vụ án tham ô
tài sản xảy ra, các nguyên nhân trên đều có sự tác động như nhau trong việc làm phát sinh
hành vi tham ô tài sản của người có chức vụ, quyền hạn, mà tùy thuộc vào mỗi vụ án cụ
thể, các yếu tố đó lại tác động bằng cơ chế, mức độ khác nhau trong phát sinh hành vi chiếm đoạt tài sản của người có chức vụ, quyền hạn. Điều đó có nghĩa là tùy thuộc vào từng môi trường công vụ cụ thể, từng tình huống tiêu cực cụ thể mà một hoặc một số trong các nguyên nhân trên có vai trò quyết định đối với việc phát sinh hành vi phạm tội
của người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước. Đối với vụ án cụ thể này, nguyên nhân nào đó có thể giữ vai trò quyết định, còn các nguyên nhân khác có vai trò hỗ trợ, thúc đẩy việc thực hiện hành vi phạm tội, nhưng đối với vụ án khác, vai trò của các nguyên nhân này lại có sự thay đổi giữa việc quyết định thực hiện tội phạm và hỗ trợ, thúc đẩy việc thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, trong mối tương quan tổng thể thì ngoài một hoặc một số yếu tố là nguyên nhân chính làm phát sinh hành vi tham ô
tài sản của người có chức vụ, quyền hạn, các yếu tố còn lại sẽ có vai trò trong việc thúc
135
đẩy sự việc phạm tội diễn ra nhanh hơn, hoặc làm cho người có chức vụ, quyền hạn quyết
tâm hơn trong việc chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý.
Với việc phân tích, giải thích các yếu tố xã hội, yếu tố từ phía người phạm tội và
sự tác động qua lại giữa các yếu tố đó đối với việc thúc đẩy, phát sinh hành vi tham ô tài sản của người có chức vụ, quyền hạn, tạo cơ sở cần thiết, định hướng cụ thể cho các chủ
thể có trách nhiệm phòng ngừa tội phạm đưa ra được những biện pháp phù hợp để hạn
chế hoặc có thể loại trừ sự tác động của các yếu tố, tình huống tiêu cực đó đối với việc
phát sinh, gia tăng số vụ án và số người phạm tội tham ô tài sản, với mục tiêu sau cùng là làm giảm đáng kể tội tham ô tài sản trên thực tế.
136
CHƯƠNG 3. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG
NGỪA TỘI THAM Ô TÀI SẢN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Đánh giá hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong
những năm vừa qua
Đánh giá hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng
là việc làm hết sức cần thiết để thấy được những kết quả cũng như những hạn chế của các biện pháp phòng ngừa mà chúng ta đang áp dụng; nhận thấy mức độ tác động của các biện pháp phòng ngừa đến các yếu tố được xác định là nguyên nhân của loại tội phạm
này. Trên cơ sở đó, có thể đánh giá trong số các biện pháp phòng ngừa đang được áp
dụng, biện pháp nào là phù hợp cần được phát huy nhiều hơn nữa, biện pháp nào còn hạn
chế hoặc chưa phù hợp cần được khắc phục hoặc điều chỉnh cho sát với yêu cầu thực tế.
Điều này có nghĩa, việc đánh giá hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam
trong những năm vừa qua, không chỉ giúp các chủ thể có chức năng phòng ngừa thấy rõ
được những mặt mạnh cần phát huy, mà còn nhận ra những hạn chế, yếu kém của hoạt
động này; từ đó có thể đưa ra các biện pháp khắc phục nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả
phòng ngừa loại tội phạm này trong thời gian tới.
Trong những năm gần đây, hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản đã đạt được
những kết quả đáng kể, góp phần quan trọng bảo đảm hoạt động đúng đắn của hệ thống
cơ quan nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước, thể hiện quyết tâm chính trị, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị
và toàn xã hội vào công cuộc phòng ngừa các tội phạm tham nhũng nói chung và tội tham
ô tài sản nói riêng. Những kết quả điển hình của hoạt động này được thể hiện qua các nội
dung sau:
- Kết quả trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về phòng
chống tham nhũng trong đó có tham ô tài sản
Trước những yêu cầu, thách thức của hoạt động phòng, chống tham nhũng trong
tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tạo cơ sở chính trị, pháp lý cần thiết để các cơ quan chức năng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình với phương châm phòng ngừa là chính, cơ bản, lâu dài, phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách; có trọng tâm, trọng điểm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, rõ đến đâu, xử lý đến đó. Các cơ sở đó là: Nghị quyết số 04-
NQ/TW ngày 21/8/2006 của Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X,
137
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí;
Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị trung ương 5 khóa XI về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X, về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 03/01/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản; Thông báo số 116-
TB/BCĐTW ngày 14/5/2015 của Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng tại
phiên họp thứ 7, Tổng Bí thư, Trưởng Ban chỉ đạo đã kết luận cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi toàn diện Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 để đáp ứng sát hơn yêu cầu của
phòng, chống tham nhũng; Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 7/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý các vụ án tham nhũng, yêu
cầu thực hiện nhiều giải pháp về phòng, chống tham nhũng.
Thể chế hóa Nghị quyết của Đảng về phòng, chống tham nhũng và Hiến pháp năm
2013, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 được Quốc hội khóa 14 thông qua tại kỳ
họp thứ 6 ngày 20/11/2018 trên cơ sở hoàn thiện Luật phòng, chống tham nhũng năm
2005, sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012. Thêm vào đó, Bộ luật hình sự năm 2015 đã mở
rộng đối tượng tác động của tội tham ô tài sản bao gồm tài sản thuộc sở hữu nhà nước, tài
sản sở hữu nhà nước chiếm ưu thế và tài sản trong lĩnh vực tư; điều này có nghĩa là Bộ
luật hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi xử lý đối với tội tham ô tài sản, thể hiện sự
bình đẳng trước pháp luật trong việc bảo vệ quyền sở hữu về tài sản của nhà nước, tổ
chức, cá nhân. Đây là một trong những bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện
pháp luật về phòng, chống tham nhũng, không chỉ khắc phục những hạn chế, bất cập của
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 và quy định về tội tham ô tài sản của Bộ luật hình sự năm 1999, mà còn có vai trò quan trọng trong việc đồng bộ với những quy định mới của các văn bản luật liên quan, góp phần nâng cao độ tương thích với Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
Cùng với việc xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật về phòng, chống tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản, việc hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan thực hiện chức năng này cũng được Đảng, Nhà nước chú trọng, quan tâm, thể hiện: Đó là sự ra đời của Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng và Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thành lập các đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính Phủ, Bộ Công an và Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Các cơ quan chuyên trách này đã từng bước được kiện toàn về cơ
138
cấu, tổ chức bộ máy; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách
nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; không ngừng đổi mới phương pháp,
cách thức để đẩy mạnh hoạt động nghiệp vụ, từng bước phát huy hiệu quả, nâng cao chất
lượng thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô với giá trị tài sản chiếm đoạt đặc biệt lớn; phát huy tối đa sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội vào việc thực
hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý người có hành vi tham ô tài sản.
- Kết quả trong thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng trong đó có
tham ô tài sản
+ Hoạt động tổ chức, quản lý nhà nước được quan tâm đổi mới trên tất cả các lĩnh
vực, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và quản lý về tài
sản nói riêng: Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước hoàn thiện chính
sách, pháp luật về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị, xã hội nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý
nhà nước, đó là: Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ngày 17/4/2015 về tinh giản biên chế và
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013
của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về một số vấn đề về
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; Hiến pháp năm
2013, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Luật
doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung năm 2014; Nghị quyết số 60/2018/QH14 ngày 15/6/2018
của Quốc hội khóa 14 về tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; Luật số 15/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về quản lý, sử dụng tài sản công. Trên cơ sở các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương đã từng bước được đổi mới về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, góp phần đáng kể vào nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về tài sản nói riêng. Theo đó, để thu gọn đấu mối, giảm bớt các tầng, nấc trung gian trong hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội, các bộ, cơ quan ngang bộ ở cấp trung ương, các sở, ban, ngành ở địa phương đã thực hiện việc sát nhập các cơ quan, đơn vị trực thuộc và thực tế đã có những thay đổi
nhất định về chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tạo ra những tiền đề cần
139
thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tham nhũng nói chung và tham ô tài
sản nói riêng.
Trên cơ sở triển khai thực hiện các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014,
Luật quản lý, sử dụng tài sản công, Nghị quyết của Quốc hội về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, hoạt động quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế
nhà nước đã có những đổi mới đáng kể như tăng cường tính độc lập, tự chủ trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, tạo cơ chế giám sát chéo giữa các bộ
phận trong doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế góp phần hạn chế tình trạng người đứng đầu doanh nghiệp, trưởng các bộ phận lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản của
doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hoạt động quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thu, chi ngân
sách, đất đai, tài nguyên, đầu tư xây dựng, ngân hàng tín dụng được quan tâm tăng cường
đổi mới, tạo ra những điều kiện thực tế cần thiết để cơ quan chuyên môn thực hiện có
hiệu quả chức năng quản lý của mình, qua đó kịp thời ngăn chặn những hiện tượng tiêu
cực, góp phần trực tiếp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản trong các lĩnh
vực này.
+ Công tác cán bộ đã được tăng cường đổi mới, từng bước hoàn thiện hệ thống tiêu
chuẩn về quy hoạch, bổ nhiệm, quản lý và đánh giá cán bộ: Những năm gần đây, Ban
chấp hành trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều đổi mới, nhất quán, rõ ràng,
chỉ đạo quyết liệt trong công tác cán bộ thể hiện qua việc ban hành các văn kiện về công
tác này, đó là: Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4/8/2017 của Bộ Chính trị về Khung tiêu
chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp;
Quy định số 98-QĐ/TW ngày 7/10/2017 của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ; Kết
luận số 24-KL/TW ngày 15/12/2017 của Bộ Chính trị về nguyên tắc điều động, phân công, bố trí công tác đối với cán bộ luân chuyển; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban chấp hành trung ương về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Trên cơ sở triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, công tác cán bộ đã từng bước được đổi mới từ khâu quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển, quản lý và đánh giá cán bộ; các giải pháp công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được chú trọng đẩy mạnh thực hiện. Công khai, minh bạch về công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đã có những chuyển biến tích cực như công khai, minh bạch trong đời sống chính trị thông qua hoạt động chất
vấn, trách nhiệm giải trình của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việc công khai
140
báo cáo định kỳ, đột xuất về kết quả phòng, chống tham nhũng, trong đó có tham ô tài
sản; chương trình giám sát về hoạt động này được thực hiện thường xuyên trong các cơ
quan, tổ chức, đơn vị là điều kiện cần thiết để người dân, doanh nghiệp nắm bắt thông tin
và giám sát hiệu quả của hoạt động phòng ngừa loại tội phạm này.
+ Hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống tham nhũng, trong đó
có tham ô tài sản từng bước được quan tâm đổi mới cả về đối tượng tác động, nội dung và
hình thức tuyên truyền, giáo dục. Chính phủ đã tổ chức, chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà
nước khẩn trương triển khai việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng gắn với việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", có sự liên hệ
chặt chẽ với thực tiễn nhằm nâng cao nhận thức chính trị, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đức
tính liêm chính; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống, hình thành những
đặc điểm tâm lý tiêu cực trong một bộ phận người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Đặc biệt, việc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án59 đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo từ cấp phổ thông Trung học trở lên đã từng
bước thực hiện mục tiêu nâng cao nhận thức, trách nhiệm, xây dựng thái độ, ý thức cho
cán bộ, công chức, học sinh, sinh viên trong phòng, chống tham nhũng, từng bước hình
thành văn hóa chống tham nhũng; góp phần quan trọng nâng cao nhận thức pháp luật, ý
thức của các tầng lớp nhân dân trong phòng, chống tham nhũng nói chung và tham ô tài
sản nói riêng; tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc và các tổ
chức thành viên; vai trò của báo chí, truyền thông trong hoạt động phát hiện, xử lý các vụ
án tham ô tài sản được quan tâm phát huy, góp phần quan trọng để định hướng dư luận,
tạo sức lan tỏa, răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.
59 Xem Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 12/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào giảng dạy tại các cơ sở giáo dục, đào tạo từ năm học 2013-2014
+ Hoạt động phát hiện, xử lý người phạm tội tham ô tài sản được chú trọng, quan tâm sát sao hơn, đảm bảo việc kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh người thực hiện hành vi tham ô tài sản: Để nâng cao chất lượng hoạt động phát hiện, xử lý, góp phần trực tiếp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản, Đảng và Nhà nước đã từng bước hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Cụ thể: Kết luận số 21- KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị trung ương 5 khóa XI về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Chỉ thị số 33-CT/TW
141
ngày 03/01/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê
khai và kiểm soát việc kê khai tài sản; Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 7/12/2015 của Bộ
Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý các vụ án
tham nhũng, yêu cầu thực hiện nhiều giải pháp về phòng, chống tham nhũng; Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 10/01/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực; Bộ luật hình sự năm 2015; Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018. Đây là cơ
sở chính trị và pháp lý cần thiết để các cơ quan chuyên trách thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trên cơ sở đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát tại các cơ quan, tổ chức, đơn
vị được quan tâm thực hiện ở các bộ, ngành từ trung ương đến địa phương; kết quả thanh
tra, kiểm tra, giám sát không chỉ là cơ sở để bảm bảo hoạt động đúng đắn của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị, mà còn là nguồn tin quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền thực
hiện các hoạt động cần thiết để xử lý người thực hiện hành vi tham ô tài sản. Trong
khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2019, các cơ quan chuyên trách đã triển khai
93.696 cuộc thanh tra hành chính và 834.640 cuộc thanh tra, kiểm tra, giám sát chuyên ngành60 về hoạt động phòng, chống tham nhũng; các cơ quan tố tụng đã giải quyết 4505 việc/8276 người từ nguồn tin về tội tham ô tài sản61 và xét xử 2485 vụ/4653 bị cáo62 về tội tham ô tài sản; trong đó, nhiều vụ phạm tội tham ô với giá trị tài sản chiếm đoạt đặc
biệt lớn được Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng quan tâm đưa vào
diện theo dõi, chỉ đạo đã đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo tính kịp thời
trong xử lý người phạm tội; nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng trước đây được cho là
vùng cấm, vùng nhạy cảm như các vụ án xảy ra tại Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, Tổng Công ty hàng hải Việt Nam, Ngân hàng Đại Dương, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã được chỉ đạo xử lý dứt điểm, nghiêm minh, có tác dụng cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tội tham ô tài sản trên thực tế. Mặt khác, hoạt động phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng phòng ngừa tội tham ô được quan tâm, chú trọng;
60 Xem Báo cáo số 330/BC-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ về Tổng kết thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005
61 Nguồn: Cục thống kê tội phạm Viện kiểm sát nhân dân tối cao
62 Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao
đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phòng ngừa tội tham ô tài sản; từng bước mở rộng hoạt động
142
phòng ngừa tội tham ô tài sản ra khu vực ngoài nhà nước nhằm kịp thời bảo vệ quyền sở
hữu của cá nhân, tổ chức.
Có thể nói, những kết quả nổi bật nêu trên của hoạt động phòng ngừa tham ô tài
sản thể hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về hoạt động này là đúng đắn, khẳng định quyết tâm cũng như khả năng của hệ thống chính trị và
toàn xã hội trong hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản là hoàn toàn khả thi, góp phần
củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước.
Đồng thời, những kết quả nổi bật nêu trên đã khẳng định vai trò và quyết tâm chính trị của Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện
việc xây dựng và hoàn thiện thể chế, hình thành khung pháp lý cần thiết để các cơ quan
chuyên trách thực hiện tốt chức năng phòng ngừa tội tham ô tài sản, kịp thời đưa các quy
định của pháp luật về phòng ngừa tội tham ô tài sản vào đời sống xã hội; các cơ quan, tổ
chức, đơn vị đã xây dựng chương trình hành động phòng, chống tham nhũng thông qua
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác kiểm tra của các cấp ủy Đảng nhằm triển
khai thi hành Luật phòng, chống tham nhũng, coi đây là một trong những biện pháp trọng
tâm để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tham nhũng trong đó có tham ô tài sản.
Mặt khác, những kết quả nổi bật nêu trên đã phản ánh các biện pháp phòng, chống tội
tham ô tài sản được thực hiện đã có tác động tích cực trong việc hạn chế hoặc góp phần
loại trừ các yếu tố xã hội tiêu cực làm phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động phòng ngừa tội tham ô còn những hạn chế
nhất định, làm ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm này trên thực
tế, đó là những hạn chế liên quan đến:
- Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế
Đây là yếu tố có vai trò then chốt tác động đến mức độ hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản, bởi mọi biện pháp và nội dung phòng ngừa đều phải được thực hiện trên cơ sở thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Song thực tế cho thấy, một số chủ trương, biện pháp liên quan trực tiếp đến hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản đã được quy định trong các nghị quyết của Đảng chưa được thể chế hóa một cách kịp thời, chẳng hạn như: Chưa có văn bản pháp luật quy định về việc công khai các thông tin kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong hệ thống cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh tế; chưa ban hành Luật tiếp cận thông tin để tạo cơ sở pháp lý cho người dân, doanh nghiệp, các cơ quan truyền thông, báo chí có thể
kịp thời tiếp cận thông tin cần thiết từ người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ
143
quan, tổ chức, đơn vị kinh tế để phục vụ cho hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản; quy
định của pháp luật về quản lý kinh tế, xã hội trên nhiều lĩnh vực còn sơ hở, thiếu minh
bạch, dễ bị người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao
quản lý; một số quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn không còn phù hợp với yêu cầu thực tế nhưng chưa được đánh giá, tổng kết để sửa đổi, bổ sung kịp thời. Một số quy định
về các biện pháp phòng ngừa tội tham ô tài sản còn mang tính hình thức, chưa có tác động
đến hiệu quả phòng ngừa, quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, vướng mắc nhưng
chưa được quan tâm khắc phục như: Quy định về minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; việc xem xét trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để
xảy ra tội tham ô tài sản; trách nhiệm giải trình của người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý;
vấn đề công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội tham ô tài sản
Mặc dù các biện pháp phòng ngừa tội tham ô tài sản đã được các chủ thể phòng
ngừa thiết lập trên cơ sở tương xứng với các yếu tố được xác định là nguyên nhân của loại
tội phạm này. Tuy nhiên, quá trình thực hiện các biện pháp phòng ngừa đó vẫn còn những
hạn chế nhất định như: Thực hiện chưa thống nhất, đồng bộ các biện pháp phòng ngừa tội
tham ô tài sản, đó là tình trạng quá chú trọng thực hiện một số biện pháp như tập trung
phát hiện, xử lý các vụ án tham ô tài sản, trong khi lại có phần coi nhẹ hoặc đánh giá
không đúng vai trò của các biện pháp còn lại; việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa
còn thiếu thống nhất giữa các bộ, ngành ở trung ương, giữa trung ương với địa phương và
giữa các địa phương với nhau; một số biện pháp chậm được đổi mới nên chưa theo sát với
yêu cầu thực tế; một số quy định của pháp luật về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập
của giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc; tình trạng lợi dụng tính tùy nghi trong quy định của pháp luật về bí mật nhà nước để xác định tài liệu mật một cách tùy tiện để không công khai, minh bạch trong hoạt động của một số cơ quan, tổ chức, đơn vị đã ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản; việc kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn còn mang tính hình thức, chưa thực sự là công cụ để các chủ thể phòng ngừa theo dõi được sự biến động về tài sản, thu nhập của người phải kê khai; số lượng người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị xảy ra tham ô tài sản bị xử lý về trách nhiệm mới chiếm tỷ lệ rất thấp so với số vụ án tham ô tài sản đã được phát hiện, xử lý, nên chưa đủ sức răn đe để siết chặt hơn nữa trách nhiệm của chủ thể này; tình trạng nhầm lẫn giữa xử lý người đứng đầu do có sai
phạm và xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham ô tài sản trong cơ
144
quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách đã làm giảm hiệu quả của biện pháp
phòng ngừa này.
- Tổ chức hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng phòng ngừa tội tham ô
tài sản
Hệ thống tổ chức các cơ quan thực hiện chức năng phòng ngừa tham nhũng trong
đó có tham ô tài sản ngày càng được quan tâm, từng bước hoàn thiện cả về cơ cấu tổ chức
và chức năng, nhiệm vụ nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của hoạt động phòng ngừa tội
tham ô tài sản ở Việt Nam trong những năm gần đây. Tuy nhiên, quá trình hoạt động chưa có cơ chế gắn trách nhiệm của các chủ thể phòng ngừa với hiệu quả của hoạt động phòng
ngừa; hiệu quả của các hoạt động chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc hoạt động phòng
ngừa tội tham ô tài sản còn thấp; hoạt động phối hợp giữa các cơ quan chuyên trách trong
việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham ô tài sản còn mang tính tự phát, chưa
thường xuyên, thiếu quy chế phối hợp để xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, đơn
vị trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao. Điều này không chỉ tạo ra những khó
khăn, trở ngại đối với mỗi cơ quan, đơn vị trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên
môn, mà còn là lực cản làm giảm hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản.
- Hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng ngừa tham ô tài sản
Thực tế cho thấy, hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng ngừa tham
ô tài sản mới được tập trung ở một số nhóm đối tượng, chưa quan tâm mở rộng việc tuyên
truyền, giáo dục đến các tầng lớp nhân dân trong xã hội, do đó chưa phát huy được sức
mạnh của người dân vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản;
nội dung tuyên truyền, giáo dục chưa phong phú, đa dạng và chưa có sức hấp dẫn; hình
thức tuyên truyền còn đơn điệu, chưa được thiết lập dưới hình thức là các buổi sinh hoạt
chính trị trong cơ quan, tổ chức, đơn vị và các khu dân cư, nên chưa thực sự có tác động đến hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản trên thực tế.
- Hoạt động phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản
Thực tế hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam những năm vừa qua cho thấy, số vụ án được phát hiện từ hoạt động tự kiểm tra trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị còn hạn chế; số vụ tham ô tài sản được phát hiện qua các hoạt động kiểm tra, thanh
tra, kiểm toán còn ít, chưa tương xứng với tình hình của loại tội phạm này trên thực tế; tình trạng các cuộc thanh tra, kiểm toán, kiểm tra được thực hiện nhưng không phát hiện
sự việc phạm tội, trong khi sự việc phạm tội tại cơ quan, đơn vị đó lại được phát hiện từ
145
hoạt động tố giác của cá nhân, tổ chức; tỷ lệ vụ án được khởi tố còn thấp so với số lượng
tin báo, tố giác được giải quyết, tiềm ẩn nguy cơ bỏ lọt tội phạm; nhận thức và áp dụng
pháp luật hình sự còn thiếu thống nhất giữa các cơ quan tố tụng, thậm chí là giữa các cấp
tố tụng làm cho quá trình giải quyết vụ án bị kéo dài, ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án tham ô tài sản; việc phát hiện, xử lý còn thiếu
kiên quyết, chưa triệt để, thể hiện các vụ án tham ô tài sản được phát hiện, xử lý hầu hết là
đối tượng trực tiếp thực hiện và ở cấp cơ sở, số vụ án tham ô có người chủ mưu, cầm đầu
với tài sản chiếm đoạt đặc biệt lớn được phát hiện còn rất ít; số vụ án tham ô tài sản xảy ra trong thời gian dài mới bị phát hiện, xử lý còn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vụ án được
đưa ra xét xử, thể hiện hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên
trách còn hạn chế; việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong một số vụ
án còn chưa tương xứng với tính chất của hành vi phạm tội và giá trị tài sản họ chiếm
đoạt, điều này không chỉ ảnh hưởng đến tác dụng răn đe và phòng ngừa chung trong xã
hội, mà còn tạo ra những làn sóng tiêu cực trong dư luận xã hội; pháp luật phòng, chống
tham nhũng và pháp luật tố tụng hình sự còn thiếu quy định cho phép các cơ quan chuyên
trách được áp dụng các biện pháp tố tụng đặc biệt để có thể kịp thời phát hiện việc người
có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mà họ được
giao quản lý. Đây là một trong những trở ngại làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt
động phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản trên thực tế.
- Vai trò, trách nhiệm của xã hội đối với hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản
Do đặc thù của tội tham ô tài sản là xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan
nhà nước và chủ thể của tội phạm là người có chức vụ, quyền hạn, nên hoạt động phòng
ngừa loại tội phạm này đòi hỏi phải huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Điều này có nghĩa hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản không chỉ phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của các cơ quan chuyên trách, mà còn bị chi phối bởi chất lượng hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử và sự góp phần của truyền thông, báo chí. Bởi lẽ, hoạt động giám sát của cơ quan dân cử không chỉ đảm bảo cho hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản được thực hiện đúng quy định của pháp luật, mà còn tạo cơ sở, định hướng để các cơ quan chuyên trách thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động giám sát công tác phòng, chống tham nhũng trong đó có tham ô tài sản của Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp chưa được thực hiện thường xuyên; số cuộc giám sát chuyên đề còn ít, tác dụng và hiệu quả chưa cao; việc
phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc các cấp, của doanh
146
nghiệp và người dân đối với hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản còn hạn chế; hiệu
lực pháp lý của các văn bản kiến nghị thông qua hoạt động giám sát của các cơ quan dân
cử còn hạn chế; việc huy động sức mạnh của báo chí, truyền thông còn chưa được quan
tâm đúng mức; việc chưa có cơ chế bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin của những người làm công tác truyền thông đã làm hạn chế vai trò của báo chí đối với hiệu quả
phòng ngừa tội tham ô tài sản.
Từ những kết quả và những hạn chế cho thấy, đánh giá hoạt động phòng ngừa tội
tham ô tài sản ở Việt Nam những năm vừa qua là việc làm không thể thiếu, tạo cơ sở cần thiết để đề ra những biện pháp khắc phục những hạn chế, đồng thời phát huy những kết
quả đạt được, nhằm mục đích sau cùng là nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động
phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Dự báo tình hình tội tham ô tài sản
Dự báo tội phạm là toàn bộ các hoạt động phân tích, đánh giá về tình hình tội phạm xảy ra trong tương lai trên một địa bàn cụ thể và trong khoảng thời gian xác định63. Dự báo tình hình tội tham ô tài sản thực chất là phán đoán về quy luật vận động (thực trạng
và diễn biến) của tội tham ô tài sản trong tương lai, sự thay đổi về tình hình tội tham ô tài
sản cũng như những đặc trưng kèm theo, sự thay đổi về những nhân tố tác động đến việc
hình thành và phát sinh tội tham ô tài sản.
Dự báo tội phạm là hoạt động quan trọng trong phòng ngừa tội phạm, có tính khoa
học, được thực hiện trên cơ sở thực tiễn thông qua sự đánh giá tổng hợp của các yếu tố cụ
thể như: Số liệu thể hiện thực trạng, diễn biến của tội phạm về cả mức độ và tính chất; kết
quả nghiên cứu về nguyên nhân của tội phạm; hiệu quả phòng ngừa tội phạm của các cơ
quan chuyên trách; những yếu tố liên quan đến chính sách, pháp luật, kinh tế, xã hội có vai trò tác động nhất định đến sự phát sinh tội phạm.
Như vậy, dự báo tội phạm là toàn bộ các hoạt động phân tích, đánh giá về tình hình tội phạm xảy ra trong tương lai trên một địa bàn cụ thể và trong khoảng thời gian xác định. Theo đó, dự báo tình hình tội tham ô tài sản được đề cập trong luận án này là phán đoán về thực trạng và diễn biến của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong 10 năm tới. Dự báo tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam từ nay đến năm 2030 là việc làm có ý nghĩa thiết thực đối với việc thiết lập các biện pháp phòng ngừa loại tội phạm này trong thời gian 10 năm tới. Dự báo chính xác tình hình tội tham ô tài sản là cơ sở để lựa chọn các 63 Xem: Dương Tuyết Miên (2013), Tội phạm học đương đại, NXB Chính trị hành chính, Hà Nội, tr 249, 250
147
biện pháp căn cơ, hiệu quả nhất trong phòng ngừa loại tội phạm này. Đây là vấn đề phức
tạp đòi hỏi phải được thực hiện trên cơ sở phân tích các vấn đề thiết yếu như chính sách,
pháp luật, sự phát triển kinh tế, xã hội trong thời gian tới, đồng thời phải gắn kết với việc
phân tích tình hình tội tham ô tài sản ở nước ta trong thời gian qua.
Trước hết, dự báo tình hình tội tham ô tài sản được dựa trên cơ sở đánh giá chính
xác về thực trạng và diễn biến của loại tội phạm này trong giai đoạn 10 năm từ 2010-
2019. Những kết quả đánh giá này đã được trình bày trong chương 1 của luận án; tiếp đó,
sự thay đổi của chính sách, pháp luật, kinh tế, xã hội và các yếu tố liên quan khác sẽ làm thay đổi mối tương quan giữa các yếu tố tiêu cực với tình hình tội tham ô tài sản trong
thời gian tới. Điều này có nghĩa là khi chính sách, pháp luật được quan tâm hoàn thiện,
hoạt động tổ chức, quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới cho phù hợp với yêu cầu
thực tế, công tác bổ nhiệm, đánh giá cán bộ được thực hiện đúng quy trình, hoạt động
phát hiện, xử lý các vụ án tham ô tài sản và các hoạt động liên quan khác được nâng cao
hiệu quả hoạt động thì các yếu tố tiêu cực được coi là nguyên nhân làm phát sinh tham ô
tài sản sẽ bị hạn chế hoặc có thể bị loại trừ, cụ thể: Chính sách, pháp luật ngày càng được
hoàn thiện, nhiều quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước được ban hành nhằm khắc
phục những hạn chế, bất cập của chính sách, pháp luật, góp phần quan trọng làm hạn chế
hoặc có thể loại trừ các yếu tố tiêu cực làm phát sinh tham ô tài sản. Hoạt động tổ chức
quản lý nhà nước về kinh tế đã có những đổi mới đáng kể như từng bước thu gọn đầu mối
các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn trong các
doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, đổi mới cách thức quản lý đối với các doanh
nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả, loại trừ tình trạng
thất thoát vốn, thua lỗ trong doanh nghiệp nhà nước. Hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh
tra, kiểm toán được Đảng, Nhà nước chỉ đạo quyết liệt, góp phần kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh hành vi tham ô tài sản trong lĩnh vực công. Hoạt động phát hiện, xử lý các vụ án tham ô với số tiền chiếm đoạt đặc biệt lớn được đẩy mạnh và đã đạt được những kết quả tích cực, không chỉ góp phần ngăn chặn việc người giữ chức vụ lãnh đạo,
quản lý lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản họ được giao quản lý, mà còn có tác dụng răn đe đối với các thành viên khác trong xã hội. Công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý và đánh giá cán bộ từng bước được đổi mới; cải cách hành chính, thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị đã tạo ra những tác động tích cực góp phần loại trừ những yếu tố tiêu cực làm phát sinh tham ô tài sản trong những năm vừa qua. Hoạt động thông tin, tuyên truyền
được quan tâm đúng mức, phát huy tối đa vai trò của báo chí và các phương tiện truyền
148
thông, góp phần lan tỏa những kết quả của hoạt động chống, phòng ngừa tham ô tài sản
tới mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Từ những phân tích ở trên, theo tác giả, có thể dự
báo tình hình tội tham ô tài sản trong 10 năm tới như sau:
- Tội tham ô tài sản nói chung vẫn có xu hướng khi tăng, khi giảm về số vụ và giảm đều về số người phạm tội với mức bình quân bằng giai đoạn 2010- 2019. Trên cơ sở
mức tăng, giảm bình quân giai đoạn 2010-2019, tác giả có thể dự báo, đánh giá số vụ và
số người phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam từ năm 2021 đến năm 2030 như sau: Về
thực trạng, số vụ phạm tội tham ô tài sản sẽ có mức tăng bình quân trong khoảng 40% đến 60% và số người phạm tội tham ô tài sản sẽ có mức tăng bình quân trong khoảng từ 55%
đến 70%. Về diễn biến, số vụ phạm tội tham ô tài sản sẽ có chiều hướng khi tăng, khi
giảm, trong đó số vụ phạm tội sẽ có tỷ lệ giảm giao động trong khoảng từ 3% đến 30% và
tỷ lệ tăng giao động trong khoảng từ 3% đến 50%; số người phạm tội sẽ có tỷ lệ giảm
giao động trong khoảng từ 1,5% đến 6% và sẽ tăng giao động trong khoảng từ 3% đến
60%.
- Số người phạm tội nghiêm trọng và số người phạm tội rất nghiêm trọng có xu
hướng giảm; số người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có xu hướng khi tăng, khi giảm với
tỷ lệ giao động từ 10 đến 25%, thể hiện tham ô tài sản là loại tội phạm phức tạp, số người
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng ngày càng gia tăng.
- Số vụ án tham ô tài sản được thực hiện với hình thức đồng phạm có xu hướng
tăng thường xuyên, với tỷ lệ tăng giao động từ 60 đến 200%; đồng thời, số bị cáo trong
các vụ đồng phạm cũng có xu hướng ngày càng tăng.
- Số vụ tham ô tài sản được thực hiện với các thủ đoạn gian dối để thực hiện hành
vi chiếm đoạt và gian dối để che đậy hành vi chiếm đoạt thông qua việc sử dụng công
nghệ cao, lập khống, làm giả hóa đơn, chứng từ thanh quyết toán có xu hướng ngày càng tăng, thể hiện mức độ tinh vi và tranh thủ lợi dụng các thiết bị, công nghệ hiện đại vào việc phạm tội, tạo những khó khăn, thách thức lớn đối với hoạt động chống và phòng ngừa loại tội phạm này.
- Số vụ án tham ô có tài sản bị chiếm đoạt là tiền có xu hướng ngày càng tăng, đồng thời số tiền chiếm đoạt với giá trị đặc biệt lớn cũng có xu hướng ngày càng tăng. - Số vụ án tham ô tài sản xảy ra ở một số ngành, lĩnh vực như: Quản lý, sử dụng quỹ, ngân sách được phân bổ, mua sắm tài sản công, quản lý đất đai, ngân hàng, bảo hiểm có xu hướng tăng với tỷ lệ ngày càng cao.
- Số vụ và số người phạm tội tham ô tài sản xảy ra trên địa bàn các thành phố lớn
như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương có nhiều các dự án đầu tư,
149
khai thác tài nguyên, khoáng sản, quy hoạch đất nông nghiệp vào hoạt động xây dựng hạ
tầng.
- Số người phạm tội tham ô tài sản là người từng có chức vụ, quyền hạn với vị thế
cao như tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, chủ tịch ủy ban, một số chức danh khác và các chức danh có tính chuyên môn như kế toán, thủ quỹ, cán bộ
ngân hàng có xu hướng ngày càng tăng.
- Số người phạm tội tham ô tài sản có trình độ văn hóa cao như trung học, trên
trung học có xu hướng ngày càng tăng, thay vào đó số người phạm tội tham ô tài sản có trình độ tiểu học, trung học cơ sở có xu hướng ngày càng giảm.
- Số người phạm tội tham ô tài sản là người phạm tội lần đầu có xu hướng ổn định,
trong khi số người tái phạm, tái phạm nguy hiểm có xu hướng tăng, thể hiện tính chất của
tội tham ô tài sản ngày càng phức tạp, với tính nguy hiểm cho xã hội ngày càng tăng.
3.3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt
Nam trong thời gian tới
Trong nghiên cứu tội phạm học, phòng ngừa tội phạm là nội dung quan trọng, thể
hiện rõ mục đích của nó là không cho tội phạm xảy ra trên thực tế. Cho đến thời điểm
hiện nay, khái niệm phòng ngừa tội phạm về cơ bản đã được dùng thống nhất trong hầu
hết các công trình nghiên cứu về tội phạm học, bao gồm cả giáo trình đại học cho đến các sách chuyên khảo, tham khảo64. Theo đó, phòng ngừa tội phạm là hoạt động có tính chủ động và tổng hợp của Nhà nước, của xã hội và của mọi công dân hướng tới việc hạn chế,
ngăn ngừa sự hình thành các thành tố tạo thành nguyên nhân của tội phạm, hoặc làm cho
các thành tố này không phát huy được tác dụng để loại trừ dần nguyên nhân của tội phạm, ngăn ngừa tội phạm xảy ra65.
Mục đích của phòng ngừa tội phạm là kìm chế sự gia tăng, hạn chế dần mức độ, tính chất nghiêm trọng của tội phạm và ngăn ngừa tội phạm xảy ra. Trên cơ sở đó, mục đích của phòng ngừa tội phạm có các mức độ khác nhau theo hướng từ cơ bản cho đến mức độ có yêu cầu cao hơn, đó là: Từ kìm chế sự gia tăng của tội phạm, cho đến hạn chế
64 Chẳng hạn như: Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2012; giáo trình Tội phạm học của khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999; các sách chuyên khảo như: Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự (Viện nhà nước và pháp luật), Nxb Chính trị quốc gia, 1994; Tội phạm học Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Viện nhà nước và pháp luật), Nxb Công an nhân dân, 2000; Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm (Nguyễn Xuân Yêm), Nxb Công an nhân dân, 2001.
65 Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Tội phạm học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
dần mức độ và tính chất nghiêm trọng của tội phạm và sau cùng là ngăn ngừa tội phạm xảy ra.
150
Để hoạt động phòng ngừa đạt được mục đích trên thực tế, đòi hỏi các chủ thể có
trách nhiệm phải thiết lập được các biện pháp cụ thể trên cơ sở phù hợp với thực trạng,
diễn biến của tội phạm, có tính khả thi và được tổ chức thực hiện một cách đồng bộ, phù
hợp với yêu cầu thực tiễn.
Theo đó, các biện pháp phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam phải được thiết
lập trên cơ sở khảo sát, đánh giá đầy đủ, toàn diện tình hình tội tham ô tài sản đã xảy ra
trên phạm vi toàn quốc trong những năm vừa qua, dự báo tình hình tội phạm sẽ xảy ra
trong thời gian tới; đồng thời xuất phát từ sự giải thích, phân tích cơ chế tác động của những yếu tố tiêu cực đến sự phát sinh, gia tăng loại tội phạm này. Trên cơ sở đó, để
phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ các
nhóm biện pháp sau đây:
3.3.1. Nhóm biện pháp liên quan đến tổ chức, quản lý nhà nước
Trên cơ sở đánh giá tình hình tội tham ô tài sản, phân tích, đánh giá cơ chế tác
động của những yếu tố tiêu cực tới tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian
qua cho thấy, hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước là một trong những yếu tố tiêu cực
góp phần làm phát sinh tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong những năm gần đây. Do đó,
để nâng cao chất lượng phòng ngừa loại tội phạm này trong thời gian tới, việc thiết lập
nhóm biện pháp nhằm hạn chế, hoặc có thể đi đến loại trừ sự tác động của những hạn chế
trong tổ chức, quản lý nhà nước đối với việc phát sinh tham ô tài sản là cần thiết. Theo đó,
trên cơ sở thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần đẩy lùi các tội phạm tham nhũng
nói chung và tham ô tài sản nói riêng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực
tương ứng cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau:
3.3.1.1. Đổi mới cách thức tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh trong
các doanh nghiệp có vốn nhà nước, tập đoàn kinh tế
Trước tiên, phải cải tiến cơ cấu tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế Cải tiến cơ cấu tổ chức hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng
tinh gọn về đầu mối, giảm bớt các khâu, tầng trung gian; xác định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh tế một cách rõ ràng để vừa đảm bảo cơ chế phối hợp, vừa loại trừ tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm trong quá trình hoạt động. Chẳng hạn việc quản lý các tập đoàn kinh tế nhà nước nên giao cho một bộ, ngành tương ứng quản lý thay vì nhiều bộ, ngành chuyên môn quản lý như hiện nay; trong đó, cần xác định rõ bộ, ngành được giao quản lý cũng đồng thời là chủ thể chịu trách nhiệm chính
trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động sản xuất, kinh doanh
151
của các tập đoàn kinh tế. Đồng thời bộ, ngành đó phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
Chính phủ về hiệu quả hoạt động cũng như những thất thoát, rủi ro của doanh nghiệp.
Điều này sẽ khắc phục được tình trạng một doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế được giao cho
nhiều cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước, nhưng lại không xác định rõ chủ thể phải chịu trách nhiệm chính về đảm bảo hiệu quả sản xuất, kinh doanh cũng như những
thất thoát, rủi ro trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp mà trong nhiều trường hợp
đã bị lợi dụng để phạm tội tham ô tài sản ở Việt Nam.
Tiếp theo, cần phải đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tập đoàn kinh
tế nhà nước
Giảm bớt các hoạt động mang tính chất hành chính, thay vào đó phải tăng cường
các hoạt động thuộc quyền năng của chủ sở hữu như: Hoạch định chiến lược đầu tư, sản
xuất, kinh doanh; quyết định chủ trương đầu tư, sản xuất, kinh doanh; hạch toán kinh
doanh, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nhà nước; thường xuyên thực hiện việc
kiểm tra, giám sát đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở đó
có thể nhận diện chính xác những hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là kịp thời phát hiện dấu
hiệu một số người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn như một phương
tiện để chiếm đoạt tài sản của doanh nghiệp.
Mặt khác, để đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, tập đoàn
kinh tế nhà nước, cần thiết phải loại trừ sự chồng chéo giữa hai loại quyền năng đang tồn
tại trong cùng một chủ thể từ bấy lâu nay, đó là tình trạng một bộ, ngành vừa thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, vừa
đồng thời là đại diện chủ sở hữu thực hiện quyền quản lý đối với doanh nghiệp; sự giao
thoa, chồng chéo này đã tạo ra những kẽ hở trong quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp, và là nguyên nhân cơ bản làm phát sinh tội tham ô tài sản. Theo đó, cần phải có sự tách biệt rõ ràng những hoạt động thuộc chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, mà cụ thể là quản lý tài sản thuộc quyền của đại diện chủ sở hữu nhà nước; trên cơ sở đó, chức năng quản lý nhà nước về hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp cần được giao cho các bộ, ngành tương ứng với lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp; còn việc thực hiện các quyền của đại diện chủ sở hữu thì giao cho cơ quan chuyên trách là Ban quản lý vốn, tài sản của doanh nghiệp nhà nước đảm nhận. Để đảm bảo cho cơ quan này thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, cần thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ của Chính phủ, Quốc hội đối với Ban quản lý vốn, tài sản của doanh nghiệp nhà nước; đảm bảo cơ chế công khai, minh bạch trong đánh giá hiệu quả sử dụng
vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, tăng cường trách nhiệm cá nhân, tổ chức đối với
152
việc đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đồng thời, tiếp tục hoàn
thiện cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế
thị trường; đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước theo thông lệ quốc tế; tách bạch rõ
ràng giữa nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh với nhiệm vụ chính trị, công ích của doanh nghiệp.
Thứ ba là biện pháp thu hẹp phạm vi đặc quyền ưu tiên đối với doanh nghiệp, tập
đoàn kinh tế nhà nước
Chỉ giao cho doanh nghiệp nhà nước nắm giữ những nguồn lực kinh tế có vai trò quan trọng trong trường hợp thật sự cần thiết trên cơ sở thực hiện cơ chế quản lý tài sản,
điều tiết vốn một cách chặt chẽ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền; cần xây dựng hệ
tiêu chí để làm cơ sở xét duyệt chính sách ưu tiên đối với doanh nghiệp nhà nước; doanh
nghiệp nhà nước được hưởng chính sách ưu đãi phải thông qua quy trình xét duyệt chặt
chẽ trên cơ sở tính chất đặc thù của lĩnh vực, hoạt động, hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh
doanh, chịu sự kiểm soát chặt chẽ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đáp ứng các
tiêu chí được hưởng chính sách ưu tiên đối với doanh nghiệp nhà nước; đảm bảo thực
hiện nghiêm túc cơ chế công khai, minh bạch trong quá trình khai thác nguồn lực kinh tế,
sử dụng vốn, tài sản của nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp;
đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn đối với các doanh nghiệp nhà nước để tăng cường sự tự
chủ, giám sát lẫn nhau trong chính nội bộ doanh nghiệp. Việc thu hẹp phạm vi được
hưởng chính sách ưu tiên đối với doanh nghiệp nhà nước không chỉ góp phần hạn chế,
loại trừ các yếu tố có nguy cơ làm phát sinh việc chiếm đoạt tài sản nhà nước của một bộ
phận người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp nhà nước; mà còn góp phần
đảm bảo sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong quá trình phát triển sản xuất,
kinh doanh.
Thứ tư là biện pháp cần tập trung phát triển doanh nghiệp theo chiều sâu Bước đầu hạn chế và đi đến loại bỏ chính sách doanh nghiệp nhà nước được kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực, đảm bảo doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung phát triển
theo chuyên ngành, lĩnh vực nhất định nhằm đảm bảo hiệu quả, loại bỏ tình trạng phát triển doanh nghiệp một cách dàn trải theo chiều rộng dẫn đến tình trạng vốn, tài sản nhà nước bị thất thoát, chiếm đoạt. Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ cơ chế hoạt động của hình thức sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước nhằm hạn chế hoặc có thể triệt tiêu tình trạng người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý lợi dụng sự lỏng lẻo của hoạt động quản lý nhà nước đối với hình thức sở hữu chéo để chiếm đoạt tài sản của doanh
nghiệp. Việc loại bỏ chính sách cho phép doanh nghiệp nhà nước được kinh doanh đa
153
nghành, đa lĩnh vực không chỉ có ý nghĩa trong việc loại trừ tình trạng người có chức vụ,
quyền hạn trong doanh nghiệp lợi dụng chính sách này để chiếm đoạt tài sản của nhà
nước; mà còn có ý nghĩa trực tiếp thúc đẩy hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp do đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, có kỹ năng chuyên sâu về một ngành, lĩnh vực nhất định.
Thứ năm là biện pháp hoàn thiện một số quy định của Luật doanh nghiệp năm
2014
Quy định về người có liên quan của doanh nghiệp đối với việc kiểm soát các giao dịch có nguy cơ tư lợi trong doanh nghiệp tại điểm đ khoản 17 Điều 4 Luật doanh nghiệp
nhà nước năm 2014 cần mở rộng phạm vi người có liên quan, quy định một cách bao quát
các đối tượng cần kiểm soát, nhằm tạo cơ sở pháp lý để ngăn ngừa một cách kín kẽ các
giao dịch có nguy cơ tư lợi trong các loại hình doanh nghiệp. Bởi lẽ, việc Luật doanh
nghiệp năm 2014 quy định mang tính liệt kê những người có liên quan đến người quản lý
doanh nghiệp, nên thực tế đã dẫn đến tình trạng bỏ sót các trường hợp có mối quan hệ liên
quan khác nhưng không đưa vào diện bị kiểm soát.
Bổ sung nguyên tắc hoặc quy định mang tính bắt buộc điều lệ doanh nghiệp phải
xác định phạm vi thẩm quyền đại diện trong trường hợp có nhiều người đại diện theo
pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần nhằm loại trừ tình trạng
người đại diện theo pháp luật lợi dụng sự không rõ ràng về phạm vi thẩm quyền đại diện
để thực hiện những giao dịch của doanh nghiệp nhưng tư lợi cho bản thân.
3.3.1.2. Đổi mới tổ chức, quản lý nhà nước đối với hoạt động mua sắm công; quản
lý, sử dụng quỹ, ngân sách
Thường xuyên thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác trong các lĩnh vực này,
theo đó cần ấn định thời gian để thực hiện việc luân chuyển vị trí công tác đối với những người có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực này là từ 12 đến 18 tháng. Việc chuyển đổi vị trí công tác trong lĩnh vực quản lý nhà nước về tài chính công, mua sắm công phải được thực hiện với cơ chế thống nhất ở tất cả các bộ, ngành, địa phương để loại trừ những khó
khăn, cản trở trong quá trình thực hiện có thể làm giảm sức tác động của việc chuyển đổi vị trí công tác đối với hiệu quả phòng ngừa tham ô tài sản trong lĩnh vực này.
Xây dựng cơ chế mua sắm, quản lý quỹ, ngân sách phù hợp dựa trên sự minh bạch, cạnh tranh và tiêu chí khách quan trong khâu ra quyết định, giúp phòng ngừa tội tham ô hiệu quả. Tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật phòng, chống tham nhũng và một số văn bản luật chuyên ngành như Luật ngân sách, Luật đấu thầu. Trong đó, phải
giám sát chặt chẽ việc tuân thủ các quy định của pháp luật về công khai thông tin đấu thầu
154
trong hoạt động mua sắm công, các biện pháp bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu, điều
kiện chủ thể tham gia đấu thầu và quy định về trình tự, thủ tục đấu thầu trong hoạt động
mua sắm công.
Áp dụng những tiêu chuẩn khách quan và định trước đối với việc quyết định mua sắm, hỗ trợ cho việc xác minh hoạt động mua sắm. Để đảm bảo thực hiện tốt việc quản lý
nhà nước về vấn đề này, cần triển khai thực hiện nghiêm túc một số quy định của pháp
luật đấu thầu như: Phê duyệt kế hoạch đấu thầu, việc lựa chọn nhà thầu thông qua các
hình thức như đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu, mua sắm trực tiếp, chào hàng cạnh tranh, tự thực hiện, tự lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt. Đây là
những tiêu chuẩn, quy định tác động trực tiếp đến mức độ minh bạch trong quá trình thực
hiện việc mua sắm công.
Thực hiện nghiêm túc cơ chế công khai, minh bạch trong các hoạt động mua sắm
công, quản lý, sử dụng quỹ, ngân sách được giao theo đúng quy định của Luật phòng,
chống tham nhũng và các văn bản luật chuyên ngành. Đẩy mạnh tiến độ thực hiện mô
hình mua sắm công tập trung, nhất là đối với những loại hàng hóa, dịch vụ có giá trị lớn
và nhu cầu sử dụng mang tính phổ biến. Để đảm bảo cho cơ chế minh bạch được thực
hiện nhất quán, đồng bộ ở tất cả các bộ, ngành, địa phương, đòi hỏi các cơ quan, tổ chức,
đơn vị phải thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các nguyên tắc, quy định về công khai, minh
bạch; yêu cầu về minh bạch phải được đáp ứng từ khi hoạch định chính sách, pháp luật
cho đến khi ra quyết định về một vụ việc cụ thể của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước.
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu xúc tiến việc xây dựng ban hành Luật
tiếp cận thông tin theo hướng liệt kê danh mục các tài liệu tuyệt mật, tài liệu mật thuộc
phạm vi bí mật nhà nước, cấm phổ biến với lý do cụ thể, rõ ràng; đồng thời, quy định hệ
thống cơ quan nhà nước có nghĩa vụ bắt buộc cung cấp thông tin không thuộc phạm vi bí mật nhà nước theo yêu cầu hợp pháp, cần thiết của tổ chức, công dân; quy định chế tài xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ, công chức hoặc cơ quan, đơn vị vi phạm nghĩa vụ về cung cấp thông tin; mặt khác, quy định rõ nghĩa vụ của chủ thể được cung cấp thông
tin về mục đích sử dụng thông tin, trách nhiệm bảo quản thông tin, tuyệt đối không lợi dụng thông tin được cung cấp vào việc thực hiện mục đích khác ngoài đảm bảo minh bạch trong các hoạt động mua sắm công, đầu tư, xây dựng.
Ngoài ra, để thực hiện tốt cơ chế minh bạch trong mua sắm công, cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu ngân sách, trang bị tài sản, phương tiện đi lại, thiết bị làm việc. Mọi cơ quan, đơn vị đều phải thực hiện thanh toán
qua ngân hàng, kho bạc đối với việc mua sắm tài sản công; đối với các khoản thu từ hoạt
155
động thông quan, thuế doanh nghiệp, các khoản thu, chi ngân sách nhà nước đều phải
được thực hiện qua hệ thống thanh toán điện tử của kho bạc nhà nước.
Luật ngân sách nhà nước năm 2015 cần bổ sung quy định biện pháp xử lý tình
trạng tạm dư quỹ ngân sách nhà nước, nhằm khắc phục hạn chế như hiện nay là chỉ quy định biện pháp xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước, mà chưa đề cập đến biện
pháp xử lý tình trạng tạm dư quỹ ngân sách nhà nước.
3.3.1.3. Đổi mới tổ chức, quản lý nhà nước về đất đai
Từ việc đánh giá tình hình tội tham ô tài sản và phân tích sự tác động của những yếu tố tiêu cực đối với tình hình loại tội phạm này ở Việt Nam trong những năm gần đây
cho thấy, một số hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước về đất đai là một trong những
nguyên nhân góp phần làm phát sinh, gia tăng loại tội phạm này. Chính vì vậy, để hạn chế
việc phát sinh tham ô tài sản thì việc tìm kiếm biện pháp khắc phục những hạn chế trong
tổ chức, quản lý nhà nước về đất đai là cần thiết, góp phần làm hạn chế, loại trừ các yếu tố
có thể làm phát sinh hành vi tham ô tài sản của người có chức vụ, quyền hạn được giao
quản lý nhà nước về đất đai, các biện pháp cụ thể là:
Siết chặt hơn nữa các hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, từ việc đăng ký
quyền sử dụng đất cho đến các hoạt động cấp đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển giao
quyền sử dụng đất, nhất là việc đổi quyền sử dụng đất lấy hạ tầng cơ sở phải tuyệt đối
đảm bảo tính công khai, minh bạch. Thường xuyên rà soát, đánh giá hiệu quả sử dụng đất,
từ đó có thể kịp thời phát hiện dấu hiệu của tội tham ô tài sản trong quá trình quản lý và
sử dụng đất. Việc xác định giá đất, thuế đất, định mức bồi thường trong trường hợp thu
hồi đất nên giao cho cơ quan tài nguyên môi trường chủ trì, trên cơ sở phối hợp, tham vấn
nghiệp vụ với cơ quan tài chính thay vì giao cho cơ quan tài chính chủ trì như hiện nay.
Đối với diện tích đất dành cho các dự án đầu tư, xây dựng, kinh doanh hạ tầng buộc phải thực hiện thông qua hình thức đấu thầu công khai với cơ chế giám sát chặt chẽ quá trình đấu thầu từ khâu mời thầu, hồ sơ dự thầu cho đến xét thầu, nhằm loại trừ tình trạng một số người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng để thông thầu, rồi chiếm đoạt tài sản
của nhà nước từ hoạt động giao đất hoặc đổi đất lấy hạ tầng như thực tế đã xảy ra.
Việc định giá đối với diện tích đất bị thu hồi để đầu tư cho các dự án, công trình phải được thống nhất và công bố công khai, thực hiện nhất quán từ khi triển khai cho đến khi dự án hoàn tất, loại trừ tình trạng đã xảy ra thực tế là khi đưa ra chủ trương thu hồi đất thì đưa ra giá đền bù cao, nhưng khi triển khai thực hiện dự án thì lại hạ thấp giá đền bù cho dân để chiếm đoạt phần chênh lệch, gây thiệt hại cho nhà nước và người có quyền sử
dụng đất bị thu hồi.
156
Cần đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về đất đai, vì hiện nay việc quản lý nhà nước
về đất đai được giao cho một chủ thể vừa thực hiện với tư cách là đại diện chủ sở hữu về
đất đai, vừa thực hiện với tư cách là chủ thể quản lý nhà nước về đất đai, trong khi các
quyền năng ở mỗi tư cách chủ thể là khác nhau. Chính việc đồng nhất ở một chủ thể thực hiện các quyền năng về đất đai với hai tư cách là đại diện chủ sở hữu và là cơ quan quản
lý nhà nước về đất đai, nên thực tế dẫn đến tình trạng một số người có chức vụ, quyền hạn
đã lợi dụng sự giao thoa, chồng lấn giữa hai loại quyền lực này để chiếm đoạt lợi ích thu
được từ tài nguyên đất. Do đó, một trong những giải pháp cần thiết để có thể hạn chế tham nhũng nói chung và tham ô nói riêng trong lĩnh vực đất đai là thay đổi cơ chế quản
lý nhà nước về đất đai trên cơ sở phân định rõ giữa quyền đại diện chủ sở hữu với quyền
quản lý nhà nước về đất đai. Theo đó, về chủ thể nên giao cho cơ quan chuyên môn thực
hiện quyền quản lý nhà nước về đất đai, còn Ủy ban nhân dân từ cấp huyện trở lên thực
hiện các hoạt động thuộc quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước về đất đai; về phạm vi
quyền năng, cần phân định rõ những hoạt động nào thuộc quyền sở hữu, những hoạt động
nào thuộc quyền quản lý nhà nước về đất đai.
Đối với pháp luật về đất đai, để khắc phục tình trạng lồng ghép về thẩm quyền giữa
tư cách là đại diện chủ sở hữu với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, Luật
đất đai năm 2013 cần sửa đổi, bổ sung theo hướng: Quy định rõ ràng để phân biệt nội
dung thẩm quyền của đại diện chủ sở hữu tài nguyên đất với thẩm quyền của cơ quan
quản lý nhà nước về đất đai; trong đó, thẩm quyền quản lý nhà nước về đất đai thực hiện
theo sự phân cấp như hiện nay, còn thẩm quyền quyết định về đất đai với tư cách là chủ
sở hữu cần được giao cho cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với sự giám
sát chung của Bộ tài nguyên và môi trường.
Cần xóa bỏ các hình thức xây dựng cơ sở hạ tầng, sau đó chuyển giao quyền sử dụng đất vì về bản chất đây vẫn là hình thức cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận việc đổi đất lấy hạ tầng, hoặc nếu thừa nhận các hình thức này thì phải được thực hiện trên cơ sở khuyến khích ở các vùng nông thôn, miền núi, hết sức hạn chế ở các vùng đô
thị; đồng thời, việc thực hiện phải đáp ứng những điều kiện khắt khe, với những quy định rõ ràng về tiêu chí xác định chất lượng hạ tầng, giá trị hạ tầng đã xây dựng và giá trị diện tích đất trao đổi. Bởi lẽ, việc Luật đất đai năm 2013 cho phép thực hiện các hình thức xây dựng, chuyển giao thực chất là thừa nhận cơ chế đổi đất lấy hạ tầng - một cơ chế tiềm chứa nhiều nguy cơ tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng đã được Luật đất đai năm 2003 loại trừ. Chính vì vậy, để hạn chế và có thể loại trừ nguy cơ tham ô tài sản
trong lĩnh vực đất đai, thì hình thức xây dựng hạ tầng và chuyển giao quyền sử dụng đất
157
phải được quy định theo hướng hoặc là xóa bỏ như Luật đất đai năm 2013, hoặc là thực
hiện với phạm vi hẹp đối với các vùng, miền có cơ sở hạ tầng yếu kém nhưng thiếu vốn
đầu tư, và phải được quy định rõ ràng về chất lượng, giá trị hạ tầng, giá trị diện tích đất
trao đổi.
3.3.1.4. Đổi mới tổ chức, quản lý nhà nước trong hoạt động ngân hàng, tín dụng
Ngân hàng nhà nước cần tăng cường hơn nữa hoạt động quản lý, điều hành vĩ mô,
thanh tra, kiểm tra đối với hệ thống ngân hàng thương mại, nhằm hạn chế việc phát sinh
tham ô tài sản, đồng thời tạo điều kiện để kịp thời nhận diện những biểu hiện của tham ô tài sản trong lĩnh vực này. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần kiểm soát chặt tình trạng
đầu tư chéo giữa các doanh nghiệp với ngân hàng và giữa các ngân hàng thương mại với
nhau để hạn chế và có thể loại trừ tình trạng cá nhân, doanh nghiệp lợi dụng vị thế là cổ
đông chiếm ưu thế thâu tóm, thao túng ngân hàng, tạo ra những dòng vốn ảo để chiếm
đoạt tài sản của ngân hàng như nhiều vụ án đã xảy ra trong những năm gần đây. Chẳng
hạn như vụ Nguyễn Xuân Sơn, Hà Văn Thắm tham ô tài sản tại Tập đoàn dầu khí và
Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương; Vũ Quốc Hảo tham ô tài sản tại Công ty cho
thuê tài chính II thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng về tính chất của tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong
những năm gần đây cho thấy, sử dụng công nghệ cao để tất toán khống, rút tiền gửi tiết
kiệm của khách hàng là một thủ đoạn được thực hiện phổ biến (chiếm 15,9%) trong các
vụ án tham ô xảy ra tại một số ngân hàng. Chính vì vậy, cần thiết phải tăng cường chế độ
bảo mật thông tin, đảm bảo an ninh các dữ liệu giao dịch thông qua việc thiết lập mạng
lưới quản lý, áp dụng công nghệ hiện đại, nhằm hạn chế tình trạng người có chức vụ,
quyền hạn trong ngân hàng lợi dụng công nghệ cao để chiếm đoạt tài sản của ngân hàng
do mình quản lý.
Đối với pháp luật về ngân hàng, tín dụng, cần hoàn thiện một số quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi, bổ sung năm 2017 theo hướng: Bổ sung điều khoản quy định bảo đảm sự minh bạch trong hoạt động của các ngân hàng thương mại, tổ
chức tín dụng; tại các điều 20, 21 của luật này cần quy định giảm bớt vai trò của quản lý hành chính, đồng thời bổ sung quy định đảm bảo sự minh bạch trong hoạt động cấp phép cho các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, cụ thể là đối với Đề án thành lập, phương án kinh doanh của ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phải được cơ quan có thẩm quyền thẩm định về tính khả thi, độ an toàn, ổn định để loại trừ nguy cơ tạo ra sự độc quyền hoặc hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống tổ
chức tín dụng, ngân hàng thương mại dẫn đến trục lợi, chiếm đoạt tài sản của ngân hàng.
158
Bởi lẽ, trong những năm vừa qua, việc các ngân hàng thương mại được thành lập ồ ạt,
hoạt động quản lý nhà nước đối với các ngân hàng này còn buông lỏng, thiếu cơ chế kiểm
soát đặc thù là một trong nhưng yếu tố góp phần làm gia tăng các vụ tham ô tài sản trong
lĩnh vực ngân hàng. Trên cơ sở nghiên cứu 585 bản án của Tòa án có thẩm quyền xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản cho thấy, số vụ án xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng là khá
phổ biến (chiếm 16,6%).
Một số văn bản dưới luật quy định về quản lý đối với hoạt động cho vay, nhận tiền
gửi tại các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng cần được sửa đổi theo hướng: San bớt quyền năng của kế toán trưởng, kiểm soát viên, giao dịch viên một cửa cho các chức danh
khác để loại trừ nguy cơ các chủ thể này lợi dụng quyền hạn để chiếm đoạt tiền của ngân
hàng, tổ chức tín dụng như thực tế đã xảy ra. Đồng thời, tăng cường hơn nữa vai trò, trách
nhiệm của bộ phận hậu kiểm, thực hiện cơ chế hậu kiểm chặt chẽ trên toàn bộ hệ thống
ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng. Hoặc cần xem lại một cách thận trọng việc thực
hiện chế độ một cửa theo hạn mức tại các ngân hàng thương mại, quyền năng của kế toán
trưởng tại các ngân hàng trung tâm.
3.3.1.5. Đổi mới tổ chức, quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư, xây dựng
Do đặc thù sản phẩm của hoạt động đầu tư, xây dựng là cơ sở hạ tầng ở các lĩnh
vực khác nhau của đời sống kinh tế, xã hội nên vốn đầu tư vào lĩnh vực này thường phải
có giá trị rất lớn, đặc biệt lớn. Điều đó càng đòi hỏi sự điều tiết và quản lý nhà nước đối
với nguồn vốn này phải được thực hiện chặt chẽ, nhằm hạn chế, loại trừ tình trạng vốn
đầu tư bị thất thoát, bị chiếm đoạt, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình, hiệu
quả sử dụng vốn. Để hạn chế và có thể loại trừ tình trạng này, cần thiết phải khắc phục
những hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước đối với đầu tư, xây dựng thông qua một số
biện pháp cụ thể sau:
Siết chặt hoạt động giám sát đối với công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án, phân bổ vốn đầu tư, quyết định đầu tư và thực hiện các dự án đầu tư thông qua việc đổi mới cơ chế giám sát đầu tư, thực hiện dự án. Theo đó, thực hiện cơ chế dân chủ trong việc phê
duyệt quyết định chủ trương đầu tư theo hướng: Đối với các dự án đầu tư trọng điểm, quan trọng trước khi chủ trương đầu tư được phê duyệt phải thực hiện việc công bố công khai để trưng cầu ý kiến của chuyên gia về lĩnh vực thực hiện dự án, đồng thời tham khảo ý kiến của cộng đồng, trên cơ sở thu thập các ý kiến đóng góp về dự án, Hội đồng nhân dân quyết định những dự án đầu tư quan trọng thuộc ngân sách địa phương.
Để đảm bảo sự minh bạch trong quá trình giám sát, thi công thực hiện dự án đầu tư
vào lĩnh vực đã có đủ điều kiện cạnh tranh, không cho phép các công ty tư vấn, thiết kế,
159
giám sát, công ty xây lắp đang chịu sự quản lý của một bộ, ngành hoặc Ủy ban nhân dân
cùng thực hiện một dự án đầu tư, nhằm loại trừ tình trạng khép kín trong lĩnh vực đầu tư
xây dựng cơ bản như hiện nay. Siết chặt quản lý nhà nước đối với việc thực hiện vốn đầu
tư thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát chéo giữa các bộ, ngành; quá trình thực hiện dự án đầu tư phải được phân chia thành các giai đoạn khác nhau, sau mỗi giai đoạn thực hiện
dự án, đơn vị thực hiện phải báo cáo tiến độ thi công, giải ngân, đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư theo giai đoạn; trên cơ sở đó, cơ quan thực hiện giám sát kết hợp với
kiểm tra thực tế thực hiện dự án để tổng hợp, đánh giá, báo cáo kết quả giám sát với chủ đầu tư dự án, công trình.
Mặt khác, cần đẩy mạnh thực hiện việc thoái vốn, cổ phần hóa các công ty, thiết
kế, giám sát, công ty xây lắp đang tồn tại dưới sự quản lý của các bộ, ngành, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh với tư cách là chủ sở hữu nhà nước; để sau khi thoái vốn, cổ phần hóa, các
doanh nghiệp này sẽ độc lập thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình với hiệu quả
là mục tiêu hàng đầu, vì khi đó không còn bị chi phối bởi ý chí của đại diện chủ sở hữu là
nhà nước.
Thiết lập quy chế về hoạt động của các ban quản lý dự án đầu tư xây dựng, trang bị
đủ số lượng cán bộ có phẩm chất, năng lực quản lý nghiệp vụ, đồng thời tăng cường đầu
tư trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật hiện đại để hỗ trợ cho ban quản lý dự án thực hiện
tốt chức năng quản lý của mình; đồng thời tăng cường cả về tần suất, chất lượng các cuộc
thanh tra, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện dự án đầu tư, loại trừ tình trạng sau khi
giải ngân vốn đầu tư, các chủ thể được giao thực hiện dự án đã không thực hiện đúng
chương trình, kế hoạch, thiết kế của dự án để chiếm đoạt một phần vốn đầu tư dự án như
thực tế đã xảy ra ở một số bộ, ngành, địa phương.
Luật đầu tư công năm 2014 cần được hoàn thiện theo hướng: Bộ kế hoạch đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ tài chính và các cơ quan liên quan trong việc thẩm định chủ trương đầu tư, thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn đầu tư; theo đó, cơ quan chủ trì phải chịu trách nhiệm chính về sự cần thiết phải thực hiện dự án đầu tư, hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư và sự minh bạch trong việc thẩm định chủ trương đầu tư, cơ quan phối hợp, liên quan chịu trách nhiệm trong phạm vi quyền năng phối hợp, mức độ liên quan. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng không xác định cụ thể cơ quan chịu trách nhiệm chính về những vấn đề này như thời gian vừa qua, dẫn đến tình trạng một số người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng quy định chung chung như hiện nay để lập những dự án đầu tư không cần thiết nhằm chiếm đoạt vốn đầu tư của nhà nước.
160
Luật đầu tư công hiện hành cần bổ sung điều khoản quy định cụ thể về căn cứ, tiêu
chuẩn, định mức phê duyệt tổng mức đầu tư các dự án, nhằm loại trừ tình trạng nhiều dự
án xây dựng được phê duyệt với tổng mức đầu tư quá lớn so với nhu cầu thực hiện dự án,
tạo thuận lợi cho một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt lượng vốn dư của dự án.
Hoàn thiện văn bản hướng dẫn thi hành Điều 46 Luật đầu tư công theo hướng: quy
định cụ thể trình tự, thủ tục, định mức đối với các trường hợp tăng, giảm quy mô thực
hiện dự án; tăng, giảm tổng mức đầu tư chương trình, dự án; giữ nguyên tổng mức đầu tư nhưng lại giảm quy mô thực hiện dự án làm thay đổi mục tiêu đầu tư so với quyết định
chủ trương đầu tư ban đầu đã được phê duyệt.
Thu hẹp phạm vi các trường hợp kéo dài thời gian thực hiện dự án, kéo dài thời
hạn giải ngân vốn đầu tư; đồng thời quy định một cách chặt chẽ điều kiện kéo dài thời
gian thực hiện dự án, nhằm loại trừ tình trạng người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng việc
kéo dài thời gian thực hiện dự án để chiếm đoạt vốn đầu tư bằng các thủ đoạn khác nhau.
Thu hẹp phạm vi các trường hợp chỉ định nhà thầu tại Điều 22 Luật đấu thầu năm
2013, đồng thời cần sửa đổi quy định này theo hướng: Quy định một cách chặt chẽ điều
kiện đối với các trường hợp được chỉ định nhà thầu; đồng thời cần cụ thể hơn nữa các quy
định về mời thầu, hồ sơ dự thầu, thẩm định hồ sơ dự thầu nhằm hạn chế tình trạng người
được giao quản lý dự án lợi dụng sự lỏng lẻo của các quy định này, thông đồng với các
nhà thầu để chiếm đoạt vốn đầu tư.
3.3.2. Nhóm biện pháp liên quan đến công tác cán bộ
Do một trong những đặc điểm thể hiện tính chất đặc thù của tội tham ô tài sản là
liên quan trực tiếp đến hoạt động quản lý con người, nên việc khắc phục những hạn chế
trong công tác cán bộ được coi là biện pháp có vai trò then chốt trong hoạt động chống, phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng. Trên cơ sở thực hiện các Nghị quyết, quy định của Đảng về công tác cán bộ nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch, hiệu quả trong hoạt động quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển, sử dụng và
đánh giá cán bộ; từ đó hạn chế hoặc có thể loại trừ nguy cơ phát sinh các tội phạm tham nhũng trong đó có tham ô tài sản, hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
3.3.2.1. Tiếp tục cải tiến, đổi mới hoạt động quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng
cán bộ
Công tác cán bộ là bộ phận có vai trò nòng cốt trong tổ chức hoạt động của hệ
thống cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng.
161
Thực tế cho thấy, những hạn chế, yếu kém của hoạt động quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, sử
dụng, luân chuyển cán bộ không chỉ làm trì trệ sự vận hành của hệ thống cơ quan nhà
nước, mà còn luôn tiềm chứa nguy cơ phát sinh các hiện tượng tiêu cực, trong đó có tội
tham ô tài sản. Chính vì vậy, để khắc phục những hạn chế của các hoạt động này, góp phần hạn chế, loại trừ yếu tố nguy cơ làm phát sinh tội tham ô tài sản, cần thiết phải tiếp
tục cải tiến, đổi mới hoạt động quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng, luân chuyển cán bộ
trên cơ sở thực hiện tốt một số hoạt động sau:
Hoàn thiện cơ sở pháp lý về công tác quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng, luân chuyển cán bộ, đảm bảo thực hiện nghiêm túc, thống nhất giữa các bộ, ngành, địa phương
với mục tiêu sau cùng là nâng cao chất lượng cán bộ, đáp ứng yêu cầu thực tế của hoạt
động quản lý nhà nước, hạn chế và đi đến loại trừ các yếu tố nguy cơ làm phát sinh tội
tham ô tài sản. Theo đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sửa đổi, bổ sung các quy
định về công tác cán bộ cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới
theo hướng: Quy định rõ các cơ chế, biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo dân chủ, công khai,
minh bạch trong các hoạt động tuyển dụng, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng, luân
chuyển cán bộ.
Do bổ nhiệm là căn cứ pháp lý để một người từ bình thường trở thành người có
chức vụ, quyền hạn, nên trong số các hoạt động trên về công tác cán bộ thì bổ nhiệm là
hoạt động có vai trò then chốt nhất; chính vì vậy, để đảm bảo năng lực nghiệp vụ, phẩm
chất chính trị của người có chức vụ, quyền hạn đòi hỏi hoạt động bổ nhiệm càng phải
được thực hiện với những tiêu chí rõ ràng, đúng và đủ quy trình; vậy nên, cần quy định rõ
trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác bổ nhiệm để loại trừ tình trạng đùn đẩy
trách nhiệm, trách nhiệm chưa gắn liền với quyền hạn như thực tế đã xảy ra. Chẳng hạn
như việc bổ nhiệm đối với người không đủ tiêu chuẩn về năng lực nghiệp vụ, đạo đức; thiếu minh bạch, công khai dẫn đến hậu quả là trong quá trình thực hiện quyền lực lãnh đạo, quản lý người được bổ nhiệm đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mà họ được giao quản lý thì người đứng đầu đơn vị có nhân sự được bổ nhiệm phải chịu
trách nhiệm về việc bổ nhiệm sai hoặc thiếu minh bạch đó.
Thực hiện công khai, minh bạch đối với việc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý thông qua thi tuyển. Theo đó, việc công bố công khai tiêu chuẩn, điều kiện và số lượng tuyển chọn các chức danh lãnh đạo, quản lý ở các bộ, ngành, địa phương phải được thực hiện trước khi làm quy trình, đồng thời phải tiến hành thông báo rộng rãi trên các phương tiện truyền thông; mở rộng phạm vi đối tượng đăng ký dự thi, nguồn giới thiệu, đề cử ra
ngoài phạm vi đơn vị, bộ, ngành, địa phương cần tuyển dụng. Có như vậy, mới làm cho
162
đối tượng đăng ký dự thi được phong phú, tạo cơ hội để thu hút được những người thực
sự có năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị và có tầm lãnh đạo, quản lý.
Đổi mới quan niệm, tư duy về việc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý, góp
phần làm thay đổi căn bản những thói quen lệch chuẩn trong hoạt động bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Theo đó, cần bổ sung quy
định rõ ràng sau khi cán bộ được bổ nhiệm giữ chức vụ, lãnh đạo nếu không hoàn thành
chức năng, nhiệm vụ được giao, hoặc thực tế không đáp ứng được yêu cầu thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của đơn vị, bộ, ngành, hoặc để xảy ra tình trạng tiêu cực trong cơ quan, đơn vị, hoặc bộ, ngành mình quản lý thì mặc nhiên sẽ thuộc vào trường hợp xin từ chức,
miễn nhiệm; sau khi miễn nhiệm trong một khoảng thời gian nhất định, nếu bản thân
người bị miễn nhiệm có nhiều nỗ lực, phấn đấu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được
giao thì vẫn thuộc diện đối tượng được dự thi các chức danh lãnh đạo, quản lý nếu đáp
ứng các yêu cầu chung về thi tuyển chức danh lãnh đạo, quản lý.
Mặt khác, để đảm bảo tính minh bạch, công bằng trong quá trình xem xét bổ nhiệm
chức danh lãnh đạo, quản lý, những người đảm nhận nhiệm vụ này cần loại bỏ tình trạng
nể nang, chịu sự chi phối của người có chức vụ, quyền hạn cao; thay vào đó, phải thật sự
coi trọng và xem xét kỹ lưỡng các yếu tố nòng cốt như năng lực, trình độ chuyên môn,
phẩm chất, đạo đức chính trị của người được xem xét bổ nhiệm.
3.3.2.2. Đổi mới cơ chế quản lý, đánh giá cán bộ
Trên cơ sở đánh giá tình hình tội tham ô tài sản trong những năm gần đây cho thấy,
những hạn chế trong quản lý, đánh giá cán bộ là một trong những yếu tố đã góp phần làm
phát sinh tham ô tài sản trên thực tế. Chính vì lẽ đó, cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý,
đánh giá cán bộ, nhằm đảm bảo hoạt động này thực sự là một bước sàng lọc cán bộ để
loại trừ yếu tố tiêu cực làm phát sinh tham ô tài sản.
Theo đó, các bộ, ngành, địa phương không chỉ siết chặt hoạt động quản lý cán bộ, mà còn phải thay đổi cách thức quản lý cán bộ. Việc quản lý cán bộ không chỉ thuần túy dựa vào các yếu tố mang tính hành chính, như chấp hành giờ giấc, lề lối làm việc, kỷ luật
nội vụ, hoặc quá coi trọng lý lịch, truyền thống gia đình, bằng cấp của mỗi cán bộ, công chức mà đòi hỏi quản lý cán bộ ở tầm bao quát nhất, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc quản lý chính trị, tư tưởng, đạo đức hiện tại của mỗi cán bộ, công chức. Điều đó có nghĩa, người làm công tác quản lý cán bộ phải thật sự sâu sát đối với đời sống chính trị của cán bộ, công chức, nắm bắt được những biểu hiện, thay đổi về tư tưởng, đạo đức, lối sống của những cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình; có như vậy, mới có thể kịp thời
phát hiện những biểu hiện, việc làm lệch lạc, tiêu cực của cán bộ, công chức, trên cơ sở
163
đó có thể dễ dàng phát hiện khi có dấu hiệu tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói
riêng.
Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý cán bộ, cần thiết phải xây dựng, sửa đổi, bổ
sung các quy định về bổ nhiệm, phân cấp quản lý cán bộ theo hướng tăng quyền hạn cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị gắn với trách nhiệm cá nhân trong việc quản lý
cán bộ, công chức thuộc quyền mình. Theo đó, cần lấy mức độ hoàn thành nhiêm vụ, giữ
gìn các phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, công chức chính là tiêu chí đánh
giá mức độ tín nhiệm của người đứng đầu, cơ quan, đơn vị, tổ chức.
Cải tiến cách thức đánh giá cán bộ nhằm đảm bảo kết quả đánh giá là thực chất,
phản ánh đúng năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống của cán bộ. Theo đó, việc đánh giá cán bộ phải được thực hiện thường xuyên thay vì
được thực hiện vào cuối mỗi năm công tác hoặc được thực hiện trước khi đề bạt, bổ
nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý như hiện nay. Trong đó, tùy tính chất đặc thù về chức
năng, nhiệm vụ của từng bộ, ngành, hoặc nhiệm vụ chính trị của từng địa phương mà có
thể ấn định thời điểm đánh giá cán bộ cho phù hợp, nhằm phản ánh thực chất và kịp thời
mức độ hoàn thành nhiệm vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, công
chức. Có như vậy, việc đánh giá cán bộ mới không còn là hình thức, thủ tục như hiện nay;
và quan trọng hơn, khi cách thức đánh giá cán bộ được cải tiến thì hoạt động đánh giá cán
bộ có vai trò là một kênh, một phương diện để có thể kịp thời phát hiện những sai phạm,
yếu kém của cán bộ, công chức, từ đó có thể loại trừ yếu tố nguy cơ làm phát sinh tham
nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng.
3.3.2.3. Tiếp tục cải cách chế độ phụ cấp, chính sách tiền lương
Đẩy mạnh hơn nữa tiến độ thực hiện Đề án cải cách chế độ tiền lương, xây dựng lộ
trình cải cách tiền lương trong những năm tới theo hướng tăng thu nhập cao hơn cho cán bộ, công chức. Giao quyền tự chủ về tài chính, biên chế, giao khoán kinh phí hoạt động cho các cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp có đủ điều kiện. Xây dựng cơ chế tiền lương riêng cho công chức hành chính trên cơ sở gắn với mức độ trách nhiệm, chất lượng
công việc.
Các đơn vị làm nhiệm vụ cung ứng dịch vụ công được chủ động nâng cao thu nhập chính đáng cho đội ngũ cán bộ, công chức trên cơ sở bảo đảm cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho người dân, công khai thu các khoản phí tương xứng với chất lượng dịch vụ được người thụ hưởng chấp nhận.
Tăng lương, tăng mức trợ cấp ưu đãi nghề nghiệp, cải thiện điều kiện làm việc cho
cán bộ, công chức thuộc các ngành kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, công an, kiểm sát, tòa
164
án và một số ngành dễ phát sinh tham ô tài sản; đồng thời tăng cường chế độ trách nhiệm
và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức trong các lĩnh vực
này.
Việc cải cách tiền lương phải được thực hiện quyết liệt, triệt để trên cơ sở tạo ra những điều kiện cần thiết để được thực hiện trên thực tế. Theo đó, tiền lương phải thực sự
là nguồn thu nhập chính, bảo đảm đời sống cho người hưởng lương và gia đình họ; đó
không chỉ góp phần trực tiếp làm hạn chế yếu tố phát sinh tham ô tài sản, mà còn là động
lực góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức, người lao động, từ đó mà nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong hệ thống cơ quan
quản lý nhà nước. Theo đó, việc cải cách chính sách tiền lương phải được thực hiện theo
lộ trình với những nội dung cụ thể như:
Đối với khu vực công, thiết kế cơ cấu tiền lương và tiền thưởng mới với tỷ lệ hợp
lý giữa lương cơ bản, các khoản phụ cấp và bổ sung chế độ tiền thưởng. Xây dựng hệ
thống bảng lương mới, quy định mức lương bằng số tiền tuyệt đối theo vị trí việc làm,
chức danh và chức vụ lãnh đạo trên cơ sở điều chỉnh tăng mức lương thấp nhất, mở rộng
quan hệ tiền lương tiệm cận với khu vực thị trường, gồm một bảng lương chức vụ áp
dụng đối cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo trong hệ thống chính trị từ
Trung ương đến cấp xã; một bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ áp dụng chung đối với
công chức, viên chức không giữ chức danh, chức vụ lãnh đạo; và một bảng lương đối với
lực lượng vũ trang. Sắp xếp lại chế độ phụ cấp cho phù hợp với tính đặc thù của chức
năng, nhiệm vụ được giao.
Đối với khu vực doanh nghiệp, tiếp tục hoàn thiện chính sách về tiền lương tối
thiểu vùng theo tháng để bảo vệ người lao động yếu thế; bổ sung quy định mức lương tối
thiểu vùng theo giờ; kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng tiền lương quốc gia. Các loại hình doanh nghiệp được tự chủ quyết định chính sách tiền lương bao gồm thang, bảng lương, định mức lao động; trả lương theo năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước
thực hiện điều tiết tiền lương thông qua công cụ quản lý; tách bạch tiền lương của người đại diện vốn nhà nước với tiền lương của ban điều hành; thực hiện nguyên tắc ai thuê, bổ nhiệm thì người đó đánh giá và trả lương.
Khẩn trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống vị trí việc làm để làm cơ sở trả lương theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo. Quyết liệt thực hiện các giải pháp về tài chính, ngân sách, tinh giảm tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị và các đơn vị sự nghiệp công lập để đảm bảo đủ nguồn cho
165
cải cách tiền lương; bãi bỏ các khoản chi ngoài lương của cán bộ, công chức có nguồn
gốc từ ngân sách nhà nước. Hoàn thiện cơ chế thỏa thuận về tiền lương trong doanh
nghiệp thông qua việc thiết lập cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận giữa các chủ
thể trong quan hệ lao động.
Cùng với việc cải cách chính sách tiền lương, cần chú trọng thực hiện chế độ đãi
ngộ thỏa đáng đối với người tài, người có năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao,
nhằm tạo động lực, khuyến khích sự cống hiến của họ đối với sự nghiệp công vụ; hạn chế
đi đến loại trừ chế độ phụ cấp mang tính cào bằng như hiện nay, theo đó các mức của chế độ phụ cấp không chỉ được xác định trên cơ sở phân loại chức vụ lãnh đạo, quản lý, mà
còn phải trên cơ sở xác định tính đặc thù của chức năng, nhiệm vụ theo ngành, lĩnh vực
hoạt động.
3.3.3. Nhóm biện pháp liên quan đến hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Để khắc phục được những hạn chế của hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật
về phòng, chống tham nhũng với tính chất là một trong những yếu tố góp phần thúc đẩy
sự phát sinh tội tham ô tài sản, tạo ra những tác động tích cực góp phần nâng cao hiệu quả
phòng, chống các tội phạm về tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản, đòi hỏi các cơ
quan chức năng phải có những biện pháp đồng bộ trên tất cả các phương diện của hoạt
động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Theo đó, các chủ thể
có chức năng chống, phòng ngừa các tội phạm tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản cần
thiết phải thực hiện tốt một số biện pháp sau:
3.3.3.1. Xác định rõ phạm vi nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng,
chống tham nhũng
Nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống các tội phạm về tham
nhũng phải được xác định với nội hàm đủ rộng, để các nhóm đối tượng được tuyên truyền, giáo dục vừa nắm được những kiến thức cơ bản của pháp luật phòng, chống tham nhũng, vừa nắm được những quy định cơ bản của các văn bản luật về từng lĩnh vực chuyên môn; từ đó hội đủ những kiến thức pháp luật cần thiết để có thể nhận diện được
những thủ đoạn của tham ô tài sản một cách kịp thời, cụ thể: - Đối với pháp luật về phòng, chống tham nhũng Cần lựa chọn những chế định, quy định mang tính tiêu biểu, điển hình để sau khi được tuyên truyền, giáo dục, các tầng lớp nhân dân có thể dễ dàng nhận thức được những biểu hiện, dấu hiệu của tham ô tài sản. Theo đó, các quy định cần được đưa vào nội dung tuyên truyền, giáo dục là: phạm vi đối tượng được coi là chủ thể của tham ô tài sản; các
dạng hành vi tham ô tài sản; các hành vi bị nghiêm cấm; các biện pháp phòng ngừa, phát
166
hiện và xử lý tham ô; công khai, minh bạch trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà
nước, tổ chức, doanh nghiệp; xây dựng, thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn; minh
bạch tài sản, thu nhập; xử lý việc người có chức vụ, quyền hạn kê khai tài sản không
trung thực; xây dựng, thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp; chuyển đổi vị trí công tác của người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh
tế; xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham ô.
- Đối với các văn bản luật chuyên ngành
Cùng với việc tuyên truyền, giáo dục các quy định của pháp luật hình sự về tham ô tài sản như các yếu tố cấu thành, các dạng hành vi khách quan, phương thức, thủ đoạn
phạm tội, các loại và mức hình phạt, thì tùy theo từng nhóm đối tượng mà lựa chọn nội
dung của các văn bản luật chuyên ngành để tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp, như quy
định của pháp luật về ngân sách, đầu tư, xây dựng, đấu thầu, đất đai, tài chính, ngân hàng.
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi chế định, quy định của các văn bản luật chuyên ngành
này đều được đưa vào nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật, mà cơ quan có trách
nhiệm thực hiện hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải lựa chọn những quy định
liên quan trực tiếp đến các hoạt động quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực và hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, đơn vị kinh tế. Theo đó, những quy định cần thiết
phải đưa vào nội dung tuyên truyền, giáo dục là: điều kiện chi ngân sách nhà nước, công
khai ngân sách nhà nước, giám sát thu, chi ngân sách nhà nước, các hành vi bị cấm trong
quản lý, phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước; nội dung quản lý nhà nước về đầu tư
công, công khai, minh bạch trong đầu tư công, các hành vi bị cấm trong đầu tư công,
thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án, điều kiện quyết định chủ
trương đầu tư chương trình, dự án; trường hợp đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu, các hành
vi bị cấm trong đấu thầu, thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đấu thầu; nội dung quản lý nhà nước về đất đai, phân cấp quản lý nhà nước về đất đai.
Để các nhóm đối tượng được tuyên truyền, giáo dục có thể nhận thức đúng và nắm bắt được quy định của các văn bản luật chuyên ngành một cách nhanh nhất, nội dung
tuyên truyền, giáo dục cần phải có sự minh họa bằng các tình huống cụ thể đã xảy ra trong thực tiễn cuộc sống. Theo đó, với mỗi nhóm quy định của một văn bản luật chuyên ngành, đòi hỏi người làm công tác tuyên truyền, giáo dục cần liên hệ những tình huống thực tế đã xảy ra trong cuộc sống, làm cho các đối tượng được tuyên truyền, giáo dục dễ dàng nhận thức được những chuẩn mực trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ đó có thể nhận diện được các biểu hiện tham ô tài sản một cách chính xác, góp phần
loại trừ việc thực hiện hành vi tham ô, hoặc góp phần phát hiện tội phạm được kịp thời.
167
Do đó, để hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật thực sự là một trong những giải
pháp thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô tài sản ở nước ta trong
thời gian tới, đòi hỏi phải có sự bổ sung, cải thiện nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp
luật về phòng, chống tham nhũng, đảm bảo các nội dung được truyền tải qua các hình thức tuyên truyền, giáo dục vừa đầy đủ các quy định cần thiết, vừa có tính chuyên biệt với
từng lĩnh vực cụ thể. Từ đó, trên cơ sở kết hợp giữa các quy định của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng với các quy định mang tính chuyên biệt của từng lĩnh vực cụ thể, các
tầng lớp nhân dân có thể vừa điều chỉnh hành vi, ứng xử của mình theo đúng các chuẩn mực của pháp luật, vừa có thể nhận diện các biểu hiện của tham ô tài sản xảy ra xung
quanh mình, góp phần tích cực để các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, xử lý kịp thời đối
với người phạm tội tham ô tài sản.
Bên cạnh việc kết hợp giữa những quy định của pháp luật phòng, chống tham
nhũng và một số quy định của các văn bản luật chuyên ngành, nội dung tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về phòng ngừa tội tham ô tài sản cần thiết phải có sự lồng ghép với kiến
thức thực tiễn. Theo đó, các chủ thể được giao chủ trì thực hiện hoạt động tuyên truyền,
giáo dục cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan liên quan để
tổ chức phiên tòa lưu động xét xử các bị cáo về tội tham ô tài sản. Việc tổ chức phiên tòa
lưu động phải được thực hiện với kế hoạch cụ thể, định kỳ và có sự phân định rõ về thẩm
quyền, địa bàn trên cơ sở đáp ứng những yêu cầu cơ bản về đảm bảo an ninh, trật tự của
từng địa phương cũng như bảo đảm quyền con người, quyền công dân của bị cáo. Mặt
khác, để hoạt động tuyên truyền, giáo dục kiến thức thực tế này đạt hiệu quả trong việc
trang bị kiến thức cho các tầng lớp nhân dân, đồng thời góp phần lan tỏa tính răn đe,
phòng ngừa chung đối với các thành viên khác trong xã hội, việc tổ chức các phiên tòa
lưu động cần được thực hiện đan xen các vụ án có sự khác nhau về mức độ nghiêm trọng, giá trị tài sản bị chiếm đoạt, thủ đoạn phạm tội, ngành, lĩnh vực xảy ra tội phạm, thẩm quyền xét xử, trên cơ sở đó các nhóm đối tượng được tuyên truyền, giáo dục có thể nhận thức và vận dụng những quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng để nhận
diện các hành vi xảy ra trên thực tế có phải là hành vi tham ô tài sản không.
3.3.3.2. Thực hiện việc phân hóa các nhóm đối tượng tuyên truyền, giáo dục pháp
luật về phòng, chống tham nhũng
Đối tượng của hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng là những người trực tiếp tiếp nhận thông tin, kiến thức pháp luật về phòng, chống tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng, trên cơ sở đó họ nhận thức và hiện thực
hóa thành những hành động cụ thể khi họ gặp tình huống cụ thể. Tuy nhiên, do mỗi tầng
168
lớp nhân dân lại có trình độ nhận thức và vốn kiến thức xã hội khác nhau, nên các chủ thể
được giao nhiệm vụ thực hiện hoạt động này cần phải có sự chọn lọc, phân loại các nhóm
đối tượng để phân hóa sự ưu tiên ở các mức độ khác nhau khi thực hiện hoạt động tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Theo đó, việc xác định đối tượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật phòng, chống các tội phạm về tham nhũng, trong đó có
tham ô tài sản phải dựa trên một số tiêu chí nhất định như theo nghề nghiệp, lĩnh vực hoạt
động, theo địa bàn, vùng miền để phân hóa thành các nhóm đối tượng khác nhau như:
nhóm cán bộ, công chức trong các bộ, ngành cấp trung ương; nhóm cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan nhà nước ở địa phương; nhóm viên chức, công nhân, người lao
động trong các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế; nhóm công dân ở các khu dân cư. Trên cơ
sở đó với mỗi nhóm đối tượng lại xây dựng nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật phù
hợp, đảm bảo mục tiêu sau cùng là trang bị các kiến thức và nhận thức pháp luật về
phòng, chống tham nhũng cho mọi tầng lớp nhân dân trong toàn xã hội.
Để tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng có chất lượng,
hiệu quả trên thực tế, tùy thuộc vào đặc điểm đặc thù về nghề nghiệp, điều kiện sinh sống
của từng nhóm đối tượng mà cơ quan đảm trách thực hiện hoạt động này xác định phạm
vi nội dung tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp. Chẳng hạn đối với nhóm đối tượng là cán
bộ, công chức trong các bộ, ngành cấp trung ương, thì ngoài những quy định cần thiết của
pháp luật về phòng, chống tham nhũng còn phải có những quy định cần thiết của các văn
bản luật chuyên ngành tương ứng với ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội mà họ thực
hiện việc quản lý nhà nước; nhưng đối với các khu dân cư ở các địa bàn vùng, miền khác
nhau thì bên cạnh những quy định cần thiết của pháp luật về phòng, chống tham nhũng,
nội dung tuyên truyền, giáo dục cần phải có một số quy định cơ bản của pháp luật về tố
cáo và tố tụng hình sự, để trên cơ sở hiểu biết đó, người dân có thể gửi tin báo, tố giác hành vi tham ô tài sản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền một cách chính xác, kịp thời hơn.
3.3.3.3. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng,
chống tham nhũng
Hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng là cách thức mà cơ quan nhà nước đảm trách nhiệm vụ này truyền tải các nội dung cần tuyên truyền, giáo dục đến từng nhóm đối tượng, nhằm trang bị kiến thức thực tế và nâng cao trình độ nhận thức pháp luật về phòng, chống tham nhũng đối với các tầng lớp nhân dân. Hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng là một trong
những yếu tố có vai trò quyết định đối với chất lượng, hiệu quả của hoạt động này. Thực
169
tế cho thấy, giữa các nhóm đối tượng khác nhau thì khả năng tiếp thu, nắm bắt thông tin,
kiến thức là khác nhau, nên khi hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng,
chống tham nhũng được thực hiện với hình thức đơn điệu, chưa có sự phân loại các nhóm
đối tượng để lựa chọn hình thức tuyên truyền cho phù hợp, thì hiệu quả tuyên truyền sẽ còn hạn chế, chưa có tác động đáng kể đến hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm này trên
thực tế. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng thì việc đa dạng hóa các hình thức tuyên
truyền, giáo dục là hết sức cần thiết, để trên cơ sở đó có thể lựa chọn hình thức tuyên truyền phù hợp nhất với từng nhóm đối tượng, đảm bảo những người được tuyên truyền,
giáo dục tiếp thu những thông tin, kiến thức pháp luật một cách tốt nhất để họ có thể chủ
động vận dụng trong các tình huống khác nhau của đời sống xã hội và nhận diện các biểu
hiện của tham ô tài sản. Để làm được điều này, trong thời gian tới cần thiết phải đẩy mạnh
và sử dụng có hiệu quả các hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật dưới đây:
- Tuyên truyền, giáo dục trực tiếp thông qua hội nghị, họp báo, tư vấn, đối thoại về
thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, một số quy
định của các văn bản luật chuyên ngành; những khó khăn, vướng mắc và hướng hoàn
thiện các quy định đó của pháp luật.
- Tuyên truyền, giáo dục thông qua hình thức giao lưu trực tuyến trên cổng thông
tin điện tử, trang web, báo, tạp chí của các bộ, ngành ở trung ương và địa phương. Với
hình thức này, cơ quan có trách nhiệm phải truyền tải những quy định của pháp luật trên
cơ sở lồng ghép những tình huống đã xảy ra trên thực tế đảm bảo sự ngắn gọn, dễ hiểu,
thể hiện tính kịp thời của việc cập nhật thông tin, sự kiện trong thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng. Để
hình thức tuyên truyền, giáo dục này đạt hiệu quả, cơ quan đảm trách cần thực hiện tốt một số hoạt động cụ thể như: tăng cường các bài nghiên cứu, bình luận chuyên sâu của những người làm công tác nghiên cứu, các chuyên gia pháp luật về phòng, chống tham nhũng; gia tăng các bài viết mang tính nghiệp vụ của những người làm công tác thực tiễn,
nhằm hướng dẫn, trang bị kỹ năng nghiệp vụ cho công chức, cán bộ, người lao động làm việc trong các sở, ban, ngành ở địa phương; xây dựng các tạp chí, báo, trang thông tin điện tử của các bộ, ngành thực sự trở thành một diễn đàn khoa học, trao đổi kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn của hoạt động phòng, chống tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng của từng bộ, ngành.
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng thông qua việc
phát hành các ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền, theo đó tích cực đẩy mạnh việc phát hành
170
các ấn phẩm, tài liệu phục vụ cho hoạt động phát hiện, phòng ngừa các tội phạm về tham
nhũng nói chung và tham ô tài sản nói riêng.
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng, trong
đó có tham ô tài sản trên các phương tiện truyền thông có sức lan tỏa lớn như các kênh của đài truyền hình Việt Nam, các tần số của đài tiếng nói Việt Nam; một số báo, tạp chí
lớn như tạp chí Cộng sản, báo Nhân dân, báo Công an nhân dân, báo Quân đội nhân dân,
báo Hà nội mới, báo Sài gòn giải phóng, báo của các Bộ, ngành; đài phát thanh và báo
của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Trong đó, phải xây dựng báo chí, truyền thông thực sự trở thành diễn đàn của nhân
dân, phản ánh chính xác dư luận xã hội, ý kiến phản hồi của nhân dân về tham nhũng,
trong đó có tham ô tài sản. Đối với những vụ án tham ô phức tạp, nhạy cảm, với tài sản
chiếm đoạt đặc biệt lớn, báo chí, truyền thông phải đăng tải, xuất bản kịp thời thể hiện
đường lối, quan điểm chính thống của Đảng, nhà nước, kết luận chính thức của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, nhằm định hướng, điều chỉnh dư luận xã hội. Đồng thời các cơ
quan nhà nước, tổ chức liên quan phải đảm bảo việc cung cấp thông tin kịp thời, chính
xác về nội dung, diễn biến vụ án cho báo chí, truyền thông và chịu trách nhiệm về tính
xác thực của thông tin.
Trước những diễn biến ngày càng phức tạp về tính chất, đặc biệt nghiêm trọng về
hậu quả của các tội phạm tham nhũng, trong đó có tham ô tài sản, việc thực hiện thống
nhất, đồng bộ các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật
về phòng, chống tham nhũng là hết sức cần thiết; không chỉ góp phần trang bị kiến thức
pháp luật, nâng cao sự hiểu biết cho các tầng lớp nhân dân, mà còn góp phần quan trọng
thúc đẩy hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội phạm về tham nhũng ở nước ta trong
thời gian tới.
3.3.4. Nhóm biện pháp liên quan đến hoạt động phát hiện và xử lý tội tham ô tài
sản
Phát hiện, xử lý tội phạm nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng là hoạt động
thiết yếu, có vai trò quyết định đến hiệu quả chống và phòng ngừa tội phạm. Với ý nghĩa đó, để nâng cao chất lượng, hiệu quả phát hiện và xử lý tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực tương ứng cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
3.3.4.1. Nâng cao chất lượng các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm kịp
thời phát hiện hành vi phạm tội tham ô tài sản
171
Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát định kỳ hoặc đột
xuất đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh tế, nhất là đối với các lĩnh vực dễ phát sinh
tội tham ô tài sản. Thực tế cho thấy, chủ thể của tội phạm là người có chức vụ, quyền hạn,
việc thực hiện hành vi tham ô tài sản thường liên quan đến nhiều người, nhiều bộ phận, khâu hoạt động khác nhau và thường được che đậy bằng những thủ đoạn hết sức tinh vi,
khó phát hiện. Chính vì vậy, khi hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra được tăng cường
cả về tần suất thực hiện và chất lượng, hiệu quả sẽ góp phần trực tiếp giảm bớt những yếu
tố cản trở, gây khó khăn trong quá trình phát hiện tội phạm. Đồng thời kết quả giám sát, thanh tra, kiểm tra cũng có thể là cơ sở để củng cố, xác định tính chính xác của tin báo, tố
giác, kiến nghị khởi tố, từ đó có thể đẩy nhanh tiến độ xác minh làm rõ căn cứ để khởi tố
vụ án, khởi tố bị can về tội tham ô tài sản.
Như chúng ta đã biết, mục đích của các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát là
nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn những sai sót, vi phạm pháp luật trong quá trình các
cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài sản, thực hiện hoạt
động sản xuất, kinh doanh theo ngành, lĩnh vực đã đăng ký. Kết quả của các hoạt động
thanh tra, kiểm tra, giám sát, một mặt là cơ sở để khẳng định hoạt động đúng đắn của các
cơ quan, tổ chức, đơn vị nếu không phát hiện sai sót, vi phạm; mặt khác cũng đồng thời là
cơ sở, nguồn tin để cơ quan có thẩm quyền thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để phát
hiện, làm rõ những vi phạm. Từ đó cho thấy, kết luận của cơ quan thanh tra, cơ quan giám
sát đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị cụ thể có ý nghĩa quan trọng trong việc phát hiện các
vi phạm và hành vi phạm tội. Các kết luận này chỉ được phát huy theo đúng nghĩa của nó
khi chất lượng hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát phải được đảm bảo trên cơ sở đánh
giá đúng tình hình thực tế của đối tượng bị thanh tra, kiểm tra, giám sát. Chính vì vậy,
việc quan tâm tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao cho các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát là hết sức cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn đối với hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản.
3.3.4.2. Tăng tỷ lệ khởi tố vụ án, khởi tố bị can nhằm giảm tỷ lệ tội phạm ẩn của
tội tham ô tài sản
Ấn định hợp lý thời hạn giải quyết tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố để đảm bảo cơ quan điều tra có thẩm quyền có khoảng thời gian cần đủ để xác minh làm rõ nguồn tin về hành vi tham ô tài sản là có căn cứ để khởi tố hình sự hay không. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì thời hạn tối đa để giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là 4 tháng 20 ngày. Tuy nhiên, đối với những vụ việc phức tạp,
phải xác minh ở nhiều địa phương, nhiều cơ quan, bộ, ngành khác nhau thì với thời hạn
172
nêu trên, cơ quan điều tra có thẩm quyền sẽ không đủ thời gian để thực hiện; nên đối với
những trường hợp có nhiều tình huống phức tạp thường xảy ra hai thực trạng hoặc là cơ
quan điều tra buộc phải vi phạm thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố, hoặc là đành phải kết luận chưa đủ căn cứ để khởi tố vụ án. Do đó, để khắc phục khó khăn cho cơ quan điều tra trong hoạt động này, cần thiết phải sửa đổi Bộ luật tố tụng
hình sự để tăng thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; trong
đó tùy vào tính chất của từng vụ việc mà ấn định thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố cho phù hợp.
Tăng cường đầu tư ngân sách cho việc mua sắm thiết bị, kỹ thuật hiện đại để hỗ trợ
tích cực cho việc xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
đồng thời thiết lập cơ chế phối hợp giữa hệ thống cơ quan điều tra với các cơ quan chuyên
môn để đảm bảo tiến độ và chất lượng trong các hoạt động giám định, trưng cầu ý kiến
chuyên môn để xác minh làm rõ dấu hiệu tham ô tài sản trong từng ngành, lĩnh vực cụ
thể. Đây là một trong những biện pháp hết sức thiết thực, không chỉ giúp cơ quan điều tra
chủ động thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, mà còn góp phần quan trọng hạn
chế tình trạng bỏ lọt hành vi phạm tội và người phạm tội tham ô tài sản, làm giảm tỷ lệ ẩn
của tội tham ô tài sản trên thực tế.
Để thiết lập cơ chế phối hợp giữa hệ thống cơ quan tố tụng với các cơ quan chuyên
môn trong việc trưng cầu giám định, trưng cầu ý kiến chuyên môn để xác minh làm rõ các
dấu hiệu phạm tội tham ô tài sản, cần thiết phải có cơ sở pháp lý để điều chỉnh hoạt động
này. Bởi lẽ, để có cơ sở đưa ra kết luận giám định hoặc ý kiến chuyên môn trong thời gian
ngắn nhất, đảm bảo tính chính xác, các cơ quan chuyên môn phải được cung cấp đầy đủ
những đồ vật, tài liệu liên quan đến nội dung cần giám định hoặc nội dung cần trưng cầu
ý kiến chuyên môn. Tuy nhiên, có những trường hợp vì nguyên tắc bảo mật tài liệu trong quá trình xác minh, điều tra vụ án nên cơ quan tố tụng không được phép cung cấp mọi tài liệu liên quan cho cơ quan chuyên môn; đây cũng là một trong những nội dung cần thiết mà pháp luật chưa đề cập đến. Do đó, Bộ luật tố tụng hình sự cần thiết phải bổ sung điều,
khoản quy định về trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn trong việc hỗ trợ cơ quan tiến hành tố tụng xác minh làm rõ các dấu hiệu của tội phạm thông qua kết luận giám định, hoặc giải thích những vướng mắc về chuyên môn trong từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Ngoài ra, Luật phòng, chống tham nhũng cần bổ sung điều, khoản quy định trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn về bảo đảm tính kịp thời của kết luận giám định tư pháp, phúc đáp việc trưng cầu ý kiến chuyên môn đối với các vụ án tham nhũng, trong đó có tội
tham ô tài sản ở các ngành, lĩnh vực khác nhau.
173
3.3.4.3. Tăng cường yếu tố bảo đảm việc giải quyết vụ án tham ô tài sản theo đúng
thời hạn luật định
Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản để đảm bảo sự
thống nhất trong nhận thức, áp dụng pháp luật giữa các ngành tố tụng và các cấp tố tụng. Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản cho thấy, việc pháp
luật hình sự quy định về các dấu hiệu, yếu tố cấu thành của tội tham ô tài sản chưa rõ
ràng, có thể tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau, trong khi đó lại chưa có hướng dẫn, giải
thích của các văn bản dưới luật, nên đã dẫn đến sự thiếu thống nhất giữa các cơ quan tố tụng trong việc xác định tội danh, và giải pháp tình thế để khắc phục tình trạng này là các
cơ quan tố tụng phải thực hiện việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đây chính là một trong
những nguyên nhân cơ bản làm kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Chính vì vậy, cần thực
hiện giải pháp lâu dài khắc phục triệt để tình trạng này là sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn
thiện quy định của Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản pháp
luật liên quan trong việc xác định các dấu hiệu, yếu tố cấu thành tội tham ô tài sản, đảm
bảo sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật.
Hoàn thiện quy định của pháp luật về giám định tư pháp đối với các tội phạm về
tham nhũng, trong đó có tội tham ô tài sản, tăng cường hơn nữa cơ sở vật chất, phương
tiện, thiết bị hiện đại cho các cơ quan này. Thực tiễn hoạt động giải quyết các vụ án tham
ô tài sản cho thấy, một trong những nguyên nhân làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án là
do các cơ quan tiến hành tố tụng phải chờ kết luận giám định của cơ quan chuyên môn
mới có cơ sở để xác định hành vi phạm tội, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.
Thực trạng này không phải do ý chí chủ quan của cơ quan giám định và đội ngũ giám
định viên, mà phần lớn là do những khó khăn, vướng mắc mang tính khách quan làm ảnh
hưởng đến tiến độ thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan giám định. Chính vì vậy, để đảm bảo tính kịp thời của hoạt động giám định trong việc xác minh làm rõ các dấu hiệu của hành vi tham ô tài sản, trước hết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về giám định, cơ chế thực hiện cũng như các điều kiện hỗ trợ về thiết bị, tạo đủ những
điều kiện cần thiết để các cơ quan chuyên môn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thiết lập cơ chế đặc thù khi cơ quan tố tụng thực hiện hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra các vụ án tham ô tài sản. Do đặc thù của tội tham ô tài sản được thực hiện bởi những người có chức vụ, quyền hạn, với nhiều thủ đoạn tinh vi, tội phạm được thực hiện trong thời gian dài; nên khi bị phát hiện, các tài
liệu, chứng cứ thường đã được tiêu hủy, được che giấu bởi những người liên quan hoặc
174
hợp thức hóa thông qua các thủ tục gian dối, tạo ra những khó khăn, cản trở nhất định
trong quá trính xác minh, điều tra vụ án, là nguyên nhân chính làm kéo dài quá trình giải
quyết vụ án tham ô tài sản. Chính vì vậy, cần thiết phải bổ sung vào hệ thống pháp luật tố
tụng hình sự và pháp luật về phòng, chống tham nhũng những quy định về khuyến khích, bảo vệ người liên quan hoặc người biết việc để họ yên tâm khai báo thông tin hoặc cung
cấp những đồ vật, tài liệu liên quan đến hành vi tham ô tài sản của người có chức vụ,
quyền hạn. Đồng thời trang bị cho cơ quan tố tụng những điều kiện cần thiết về chuyên
môn sâu, thiết bị kỹ thuật và các yếu tố khác để có thể nhanh chóng làm rõ những tài sản bị chiếm đoạt bởi người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã được hợp thức hóa bằng các thủ
đoạn khác nhau.
3.3.4.4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội tham ô tài sản
Do định lượng tài sản chiếm đoạt là một trong những căn cứ chủ yếu để nhà làm
luật xác định các khung hình phạt trong điều luật quy định về tội tham ô tài sản; nên khi
các nhà làm luật ấn định khoảng cách về giá trị tài sản bị chiếm đoạt với khoảng cách của
khung hình phạt không tương xứng sẽ dẫn đến những bất hợp lý trong thực tiễn áp dụng,
mà điển hình là đối với việc xác định mức độ trách nhiệm hình sự của các bị can, bị cáo
khi truy tố, xét xử các vụ án tham ô tài sản. Chẳng hạn như tại khoản 2, 3 Điều 353 Bộ
luật hình sự năm 2015 quy định như sau: chiếm đoạt tài sản có giá trị từ một trăm triệu
đồng đến dưới năm trăm triệu đồng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm; chiếm
đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng thì bị phạt tù từ mười
lăm năm đến hai mươi năm; trong khi đó tại khoản 4 của điều luật này lại quy định: chiếm
đoạt tài sản có giá trị từ một tỷ đồng trở lên thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân
hoặc tử hình. Như vậy, nếu so sánh giá trị tài sản bị chiếm đoạt với mức hình phạt quy
định tại khoản 2 và khoản 3, thì những bị can, bị cáo bị truy tố, xét xử theo quy định tại khoản 2 sẽ phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với khoản 3 của điều luật, vì sự chênh lệch về giá trị tài sản chiếm đoạt ấn định giữa hai khung hình phạt này là không lớn, nhưng sự chênh lệch về mức hình phạt tù có thời hạn thì lại lớn. Tương tự, nếu so
sánh giá trị tài sản bị chiếm đoạt với loại hình phạt quy định khoản 3 và khoản 4 của điều luật, thì những bị can, bị cáo bị truy tố, xét xử theo quy định tại khoản 4 sẽ phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn rất nhiều so với khoản 3 của điều luật, vì giữa hai khung hình phạt này có sự chênh lệch rất lớn về mức độ trách nhiệm hình sự, trong khi đó sự chênh lệch về giá trị tài sản chiếm đoạt được ấn định giữa hai khung hình phạt này lại không đáng kể như: dưới một tỷ đồng và một tỷ đồng trở lên. Đây là một bất hợp lý của Bộ luật
hình sự năm 1999; tuy nhiên, sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 2015 lại không khắc phục
175
hạn chế này. Thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 cho thấy, không ít trường hợp
bị cáo chiếm đoạt tài sản có giá trị năm mươi triệu đồng, hoặc trên năm mươi triệu đồng
nhưng dưới một trăm triệu đồng lại bị tuyên phạt với các mức án phổ biến là mười năm
tù, mười hai năm tù và mười lăm năm tù; hoặc có trường hợp bị cáo chiếm đoạt tài sản có giá trị 500 trệu đồng thì bị tuyên phạt 20 năm tù, trong khi đó trường hợp bị cáo chiếm đoạt 600 triệu đồng thì tuyên phạt tù chung thân66. Trên cơ sở so sánh về sự chênh lệch giữa giá trị tài sản bị chiếm đoạt và mức độ trách nhiệm hình sự được ấn định giữa các
khung hình phạt của điều luật, đã thấy được mức giá trị tài sản chiếm đoạt được ấn định chưa tương xứng với tính chất của loại và mức hình phạt được quy định trong khung của
điều luật.
3.3.4.5. Nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động thu hồi tài sản bị chiếm đoạt
Thu hồi tài sản bị chiếm đoạt tuy không phải là biện pháp tác động trực tiếp làm
hạn chế sự tác động của các yếu tố được xác định là nguyên nhân của tội tham ô tài sản
đến việc phát sinh, gia tăng loại tội phạm này, nhưng lại là một trong những tiêu chí quan
trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng, chống loại tội tham ô tài sản. Tuy
nhiên, lượng tài sản thu hồi được trong các vụ án tham ô còn hết sức hạn chế, chi phối
trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản trên thực tế; trong khi
đó, các vụ án tham ô với khối tài sản rất lớn, đặc biệt lớn với nhiều trăm, thậm chí nhiều
nghìn tỷ đồng ngày càng phổ biến. Do đó, cần thiết phải thực hiện tốt các hoạt động sau
để nâng cao hiệu quả của việc thu hồi tài sản trong các vụ án tham ô, cụ thể:
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các hoạt động xác minh làm rõ nguồn tin về tội phạm,
trên cơ sở đó mới có căn cứ để áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết, kịp thời ngăn
chặn việc cất giấu, tẩu tán, hợp thức tài sản tham ô.
Kịp thời thực hiện việc khám xét, thu giữ các tài liệu, đồ vật cần thiết để làm rõ hành vi chiếm đoạt tài sản, giá trị tài sản bị chiếm đoạt của người có chức vụ, quyền hạn, từ đó có cơ sở xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt do hành vi tham ô, xác định căn cứ để áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với tài sản người có chức vụ, quyền hạn có được do
thực hiện hành vi tham ô.
66 Nguồn: từ việc nghiên cứu 585 bản án hình sự của Tòa án nhân dân các cấp xét xử sơ thẩm các bị cáo về tội tham ô tài sản
Kịp thời xác minh các tài sản thuộc sở hữu của người bị tố giác, kiến nghị khởi tố và người thân của họ để áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết như kê biên, phong tỏa tài sản.
176
3.3.5. Nhóm biện pháp phòng ngừa liên quan đến người phạm tội tham ô tài sản
Thực tiễn hoạt động chống và phòng ngừa tội tham ô tài sản ở nước ta những năm
qua cho thấy, nếu như các yếu tố xã hội tiêu cực khác có vai trò tác động từ bên ngoài làm
phát sinh hành vi tham ô tài sản của người có chức vụ, quyền hạn, thì lòng tham và động cơ tư lợi cùng với sự tha hóa về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận
người có chức vụ, quyền hạn chính là yếu tố có vai trò thúc đẩy từ bên trong đối với họ.
Điều này có nghĩa, khi phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của người có chức vụ, quyền
hạn bị tha hóa, xuống cấp thì lòng tham và động cơ tư lợi trong cá nhân họ lại trỗi dậy và thúc đẩy họ chiếm đoạt tài sản mình có trách nhiệm quản lý khi có sự tương tác của
những yếu tố tiêu cực khác. Hay nói khác đi, đó chính là những đặc điểm tâm lý tiêu cực
tồn tại trong ý thức chủ quan của một số người có chức vụ, quyền hạn; những đặc điểm
tâm lý tiêu cực như động cơ tư lợi, khao khát làm giàu nhanh chóng, thích thể hiện đẳng
cấp, muốn thỏa mãn thói ăn chơi xa xỉ hoặc tham gia vào các tệ nạn xã hội sẽ trở thành
yếu tố làm phát sinh hành vi tham ô tài sản của người có chức vụ, quyền hạn khi chúng
được tương tác cùng với các yếu tố môi trường tiêu cực. Điều này có nghĩa, để nâng cao
hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản, bên cạnh việc thực hiện các biện pháp
nhằm hạn chế, loại trừ các yếu tố môi trường tiêu cực, thì việc thực hiện các biện pháp
nhằm ngăn ngừa sự hình thành những đặc điểm tâm lý tiêu cực của người có chức vụ,
quyền hạn là hết sức cần thiết. Để làm được điều này, đỏi hỏi các cơ quan Đảng, Nhà
nước, các bộ, ngành, địa phương cần phải thực hiện nghiêm túc, đồng bộ các hoạt động
sau:
3.3.5.1. Tích cực ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên trên cơ sở thực hiện nghiêm túc cơ chế
kiểm tra việc xây dựng Đảng về đạo đức, trong đó chú trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với tổ chức đảng và với nhân dân
Theo định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và từng cán bộ, đảng viên có cam kết rèn luyện bản lĩnh trước những cám dỗ của lợi ích vật
chất, giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, không tha hóa, suy thoái. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức giáo dục chính trị, đạo đức công vụ cho cán bộ, đảng viên. Chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng, biểu hiện của sự suy thoái về phẩm chất chính trị, tha hóa về đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên để có chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả.
Tăng cường các buổi học tập, sinh hoạt chính trị trong cơ quan, tổ chức, đơn vị,
trong đó nội dung chủ yếu là quán triệt thực hiện nghiêm túc những Nghị quyết, Chỉ thị
177
của Đảng về rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tác phong, lề lối làm việc;
đồng thời kết hợp với kiến thức thực tiễn thông qua việc nêu những vụ việc cụ thể đã bị
xử lý hình sự để tăng tính răn đe và phòng ngừa tình trạng suy thoái về đạo đức lối sống
của người có chức vụ, quyền hạn dẫn đến thực hiện hành vi tham ô tài sản.
Hoàn thiện quy chế đánh giá cán bộ, công chức trên cơ sở đảm bảo tính khoa học,
phản ánh thực chất và tránh hình thức. Việc đánh giá cán bộ theo định kỳ hoặc trước khi
đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển cần dựa vào các tiêu chí cơ bản như: chương trình hành
động của tập thể, cá nhân; kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; kết quả thực hiện cam kết rèn luyện bản lĩnh chính trị, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; tinh thần đấu tranh
xây dựng đảng; vai trò nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý; hiệu quả đấu tranh chống
lại các biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống.
Các bộ, ngành, địa phương cần nghiêm túc thực hiện cơ chế kiểm tra giám sát,
kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn theo hướng quyền hạn
đến đâu phải gắn với trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập
thể và cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc, có biện pháp xử lý cụ thể đối
với hành vi vi phạm. Kiên quyết sàng lọc, thay thế đối với người có chức vụ, quyền hạn
làm việc kém hiệu quả; không hoàn thành nhiệm vụ, có biểu hiện suy thoái về đạo đức,
lối sống; tư lợi, vun vén cá nhân.
3.3.5.2. Hạn chế sự tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường đối với lối
sống, tư tưởng của cán bộ, công chức nói chung và người có chức vụ, quyền hạn nói
riêng
Để có thể hạn chế sự tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường đến việc hình
thành lối sống hưởng thụ, đề cao lợi ích vật chất, khao khát làm giàu nhanh chóng của
một bộ phận người có chức vụ, quyền hạn, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm
hạn chế tối đa sự tác động tiêu cực của mặt trái đối với đời sống xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện các nội dung liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn và quyền lợi
của người có chức vụ, quyền hạn trong quá trình thực thi công vụ, nhiệm vụ; trong đó, nhiệm vụ, quyền hạn và quyền lợi phải được phân định rõ ràng, tránh sự đánh đồng, nhầm lẫn giữa nhiệm vụ và quyền hạn.
Xây dựng và quy định hệ thống các chuẩn mực về đạo đức công vụ, trong đó các yếu tố cần đưa vào hệ thống chuẩn mực là: Nhiệm vụ và trách nhiệm của công chức; các mối quan hệ của công chức trong công sở; thái độ ứng xử khi tiếp xúc, giải quyết yêu cầu
của nhân dân.
178
Thay thế việc xác định chỉ tiêu chức danh lãnh đạo, quản lý như hiện nay bằng
việc xác định rõ vị trí việc làm, cơ cấu, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý của từng bộ,
ngành, địa phương.
3.3.5.3. Tăng cường giáo dục phẩm chất chính trị, rèn luyện lối sống tích cực, lành mạnh cho đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động nói chung và người được bổ nhiệm
giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý nói riêng
Giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống cho cán bộ, công chức, người lao
động nói chung trong các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị kinh tế, người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý nói riêng là việc làm hết sức cần thiết, không chỉ có vai trò làm ổn định
tư tưởng chính trị của cán bộ, công chức, người lao động nói chung, mà còn góp phần
quan trọng giúp họ rèn luyện các phẩm chất đạo đức công vụ, từ đó có thể vượt qua được
những cám dỗ vật chất, nỗ lực khắc phục những khó khăn trong cuộc sống, tránh được
những tệ nạn xã hội, không quá đề cao những giá trị vật chất, không có tư tưởng phải
dùng mọi thủ đoạn để có thật nhiều tài sản và dùng tài sản đó để thể hiện đẳng cấp hoặc
thỏa mãn nhu cầu sa hoa, hưởng lạc. Bởi lẽ, đây chính là những yếu tố tiêu cực bên trong
thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản khi họ được
giao quản lý hoặc thực hiện nhiệm vụ nhất định. Chính vì vậy, việc thường xuyên giáo
dục phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống cho cán bộ, công chức nói chung và người có
chức vụ, quyền hạn nói riêng sẽ giúp họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, biết lựa chọn
những xử sự phù hợp với các chuẩn mực của xã hội. Theo đó, các cơ quan nhà nước từ
trung ương đến địa phương, các tổ chức, đơn vị kinh tế cần thực hiện hoạt động này ngay
từ khi tuyển dụng cán bộ, công chức và ngay sau khi bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo,
quản lý. Bên cạnh đó, cần định kỳ hàng năm tổ chức việc giáo dục chính trị cho cán bộ,
công chức trên cơ sở lồng ghép với các hoạt động chuyên môn, sinh hoạt đoàn thể, từ đó góp phần hình thành trong mỗi cá nhân cán bộ, công chức những phẩm chất chính trị bền vững, giúp họ có lối sống lành mạnh, biết khắc phục để vượt qua những khó khăn, thách thức, kiên định trước những cám dỗ về vật chất để thực hiện minh bạch công vụ, nhiệm
vụ được giao.
Kết luận Chương 3 Để nâng cao chất lượng hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới, các chủ thể có trách nhiệm phòng ngừa phải thực hiện đồng bộ, thống nhất các nhóm biện pháp liên quan đến tổ chức, quản lý nhà nước về kinh tế; công tác tổ chức
cán bộ; hoạt động phát hiện và xử lý tội tham ô tài sản; hoạt động tuyên truyền, giáo dục
179
pháp luật về tham ô tài sản; hoạt động giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống cho
người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống cơ quan nhà nước, đơn vị kinh tế. Các
nhóm biện pháp này được thiết lập trên cơ sở đánh giá hoạt động phòng ngừa tội tham ô
tài sản, phân tích, đánh giá cơ chế tác động, mối liên hệ giữa các yếu tố, hiện tượng xã hội tiêu cực với sự phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong những năm vừa
qua. Điều đó có nghĩa nếu các nhóm biện pháp này được chúng ta thực hiện có hiệu quả
trên thực tế, không chỉ khắc phục được những hạn chế của hoạt động phòng ngừa tội tham
ô tài sản, mà các yếu tố, hiện tượng tiêu cực tương ứng sẽ bị hạn chế hoặc có thể triệt tiêu và từ đó có thể làm thay đổi căn bản tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong những
năm tới. Tuy nhiên, việc thực hiện các nhóm biện pháp này không thể tiến hành trong một
sớm một chiều, mà đòi hỏi phải có kế hoạch thực hiện theo lộ trình trên cơ sở xác định
tính đặc thù của từng nhóm đối tượng tác động. Đồng thời phải tiến hành đồng bộ giữa
các nhóm biện pháp và thống nhất giữa các bộ, ngành, địa phương, có như vậy mới thực
sự phát huy được tác dụng, ý nghĩa của các nhóm biện pháp đó để nâng cao hiệu quả
phòng ngừa tội tham ô tài sản ở nước ta trong thời gian tới.
180
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh đẩy mạnh phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, phòng ngừa các
tội phạm về tham nhũng nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng luôn là vấn đề nhận
được sự quan tâm cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, trong những năm gần đây, phòng, chống các tội phạm về tham nhũng trong đó có tham ô tài sản đã được Ban
chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng quan tâm, chú trọng hơn bao giờ hết. Nhiều
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, văn bản luật đã được ban hành, sửa đổi, bổ sung để kịp
thời. Điều đó thể hiện hoạt động xây dựng và hoàn thiện thể chế về phòng ngừa tội tham ô tài sản đang nhận được sự quan tâm sát sao của Đảng, Nhà nước nhằm đáp ứng những
yêu cầu thực tế của hoạt động phòng ngừa loại tội phạm này trong tình hình mới. Đặc
biệt, những năm gần đây, Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã trực
tiếp theo dõi, giám sát điều tra, truy tố, xét xử những vụ án tham ô với tài sản bị chiếm
đoạt lên đến nhiều nghìn tỷ đồng với phương châm không có vùng cấm, không có ngoại
lệ, rõ đến đâu, xử lý đến đó, tạo ra bước ngoặt quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong
hoạt động chống và phòng ngừa loại tội phạm này. Cũng từ đó, nhiều vụ án tham ô với số
tiền đặc biệt lớn xảy ra trong các Tổng công ty, tập đoàn kinh tế kinh tế, dự án đầu tư đã
được phát hiện, xử lý, góp phần quan trọng đảm bảo sự ổn định phát triển sản xuất, kinh
doanh trong hệ thống doanh nghiệp.
Tuy nhiên, tình hình tội tham ô tài sản vẫn không ngừng gia tăng với diễn biến
ngày càng phức tạp; số vụ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng ngày càng trở lên phổ biến;
gian dối để chiếm đoạt hoặc gian dối để che dậy hành vi chiếm đoạt tài sản là thủ đoạn
được người phạm tội sử dụng trong hầu hết các vụ án tham ô, thể hiện sự tinh vi qua việc
sử dụng các phương tiện, kỹ thuật hiện đại vào phạm tội; các hình thức chuyển dịch, che
giấu, tẩu tán tài sản chiếm đoạt được ngày càng đa dạng không chỉ gây khó khăn cho việc thu hồi tài sản, mà còn tạo ra lực cản nhất định đối với hoạt động thu thập chứng cứ, định giá tài sản, giám định làm ảnh hưởng trực tiếp đến thời hạn, tiến độ giải quyết vụ án; sự câu kết, móc nối giữa những người phạm tội ngày càng chặt chẽ, tạo ra nhiều khó khăn,
thách thức cho hoạt động phát hiện, xử lý loại tội phạm này; một số biện pháp mang tính chuyên biệt cho hoạt động chống, phòng ngừa tội tham ô tài sản chưa được quan tâm đầu tư hoặc đã lỗi thời cần được nâng cấp, đổi mới.
Trước những yêu cầu mới của hoạt động chống, phòng ngừa tội tham ô tài sản, việc nghiên cứu, đánh giá những vấn đề lý luận, thực tiễn để nâng cao hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm này trong thời gian tới là hết sức cần thiết. Để làm được điều này, đòi
hỏi tội tham ô tài sản phải được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học trên cơ sở đánh giá
181
tình hình tội tham ô tài sản thông qua việc đánh giá thực trạng và diễn biến của loại tội
phạm này ở nước ta trong một khoảng thời gian nhất đinh; xác định, giải thích, phân tích
cơ chế tác động giữa những yếu tố được coi là nguyên nhân làm phát sinh, gia tăng tội
tham ô tài sản; trên cơ sở đó, có thể đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm hạn chế hoặc loại trừ các yếu tố làm phát sinh hành vi chiếm đoạt tài sản được giao quản lý của người có
chức vụ, quyền hạn.
Việc nghiên cứu, đánh giá tình hình tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn 2010-
2019 đã làm rõ được thực trạng về mức độ và thực trạng về tính chất của loại tội phạm này. Trên cơ sở đó, luận án đã rút ra các đặc điểm cơ bản thể hiện tính chất của tội tham ô
tài sản, đó là: so với 10 năm trước, tội tham ô tài sản có tỷ lệ tăng trung bình cao hơn
40,9% về số vụ và 56,4% số người phạm tội; tội phạm xảy ra chủ yếu ở các doanh nghiệp
có vốn nhà nước chiếm ưu thế; số vụ tham ô tài sản xảy ra ở địa phương chiếm tỷ lệ nhiều
hơn so với ở cấp trung ương; loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xảy ra phổ biến và
chiếm tỷ lệ nhiều nhất; tội phạm được thực hiện chủ yếu dưới hình thức đồng phạm; thủ
đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, đa dạng, trong đó các thủ đoạn có tính phổ biến điển
hình là gian dối thông qua các hoạt động cụ thể như nâng khống giá trị hợp đồng, lập
khống hoặc làm giả chứng từ thanh toán; tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án tham ô chủ
yếu là tiền, trong đó tài sản chiếm đoạt có giá trị đặc biệt lớn ngày càng phổ biến; các lĩnh
vực thường xảy ra tham ô tài sản là quản lý, sử dụng tài sản công, ngân hàng, tín dụng,
đầu tư, xây dựng, sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp có vốn nhà nước; người phạm
tội tham ô tài sản thường giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý với vị trí cao; độ tuổi của người
phạm tội ngày càng được trẻ hóa; số vụ phạm tội mà người phạm tội có đặc điểm nhân
thân là tái phạm, tái phạm nguy hiểm ngày càng tăng; số vụ phạm tội mà người phạm tội
sử dụng tài sản chiếm đoạt được vào các tệ nạn xã hội như đánh bạc ngày càng tăng; số vụ phạm tội mà người phạm tội là nữ giới ngày càng nhiều.
Từ những đặc điểm đặc thù thể hiện tính chất của tội tham ô tài sản, luận án đã xác định được những yếu tố tiêu cực được coi là nguyên nhân làm phát sinh, gia tăng hành vi
phạm tội tham ô tài sản như: những hạn chế trong tổ chức, quản lý nhà nước trên các lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội, những hạn chế trong công tác cán bộ, những hạn chế trong hoạt động phát hiện, xử lý tội tham ô tài sản, những hạn chế trong hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật, những đặc điểm tâm lý tiêu cực của người có chức vụ, quyền hạn; giải thích sự hình thành, tồn tại của các yếu tố tiêu cực đó, đồng thời phân tích cơ chế tác động qua lại giữa các yếu tố dẫn đến việc phát sinh hành vi phạm tội. Trên cơ sở đánh giá tình
hình tội tham ô tài sản, xác định, giải thích, phân tích cơ chế tác động của những yếu tố
182
được coi là nguyên nhân của tội tham ô tài sản và đánh giá những kết quả đạt được cũng
như những hạn chế của hoạt động phòng ngừa tội tham ô tài sản ở nước ta những năm vừa
qua, luận án đã đưa ra dự báo về tình hình tội tham ô tài sản; đồng thời thiết lập các biện
pháp phù hợp nhằm hạn chế hoặc có thể loại trừ các yếu tố tiêu cực được xác định là nguyên nhân của tội tham ô tài sản; hoặc có thể hạn chế, vô hiệu hóa sự tác động của
những yếu tố đó đối với việc phát sinh hành vi chiếm đoạt tài sản được giao quản lý của
người có chức vụ, quyền hạn, góp phần tích cực nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội tham ô
tài sản ở nước ta trong thời gian tới./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật
1. Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21/8/2006 của Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
2. Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước
3. Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ngày 17/4/2015 về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
4. Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở
5. Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
6. Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 03/10/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản
7. Thông báo số 116-TB/BCĐTW ngày 14/5/2015 của Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng tại phiên họp thứ 7, Tổng Bí thư, Trưởng Ban chỉ đạo đã kết luận cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi toàn diện Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 để đáp ứng sát hơn yêu cầu của phòng, chống tham nhũng
9. Nghị quyết số 60/2018/QH14 ngày 15/6/2018 của Quốc hội khóa 14 về tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
10. Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 10/01/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực
11. Bài phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị toàn quốc về phòng, chống
tham nhũng ngày 26/6/2018
8. Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 7/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý các vụ án tham nhũng, yêu cầu thực hiện nhiều giải pháp về phòng, chống tham nhũng.
12. Hiến pháp năm 2013
13. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm
2007, 2012
14. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018
15. Luật số 15/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về quản lý, sử dụng tài sản
công
16. Bộ luật hình sự hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009
17. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
18. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
19. Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
20. Luật doanh nghiệp năm 2014
21. Luật đầu tư năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2016, 2017
22. Luật ngân sách nhà nước năm 2015
23. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017
24. Luật đấu thầu năm 2013
25. Luật đầu tư công năm 2014
26. Luật đầu tư công năm 2019
27. Luật đất đai năm 2013
B. Các tài liệu tham khảo khác
Tiếng Việt
28. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội;
29. Nguyễn Thế Huệ (2012), Vai trò của hội người cao tuổi và hội cựu chiến binh tham gia phòng, chống tham nhũng ở cơ sở, Đề tài khoa học cấp bộ, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội.
30. Văn Tiến Mai (2012), Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng của thanh tra Chính phủ, Đề tài khoa học cấp bộ, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội.
31. Nguyễn Minh Tuấn (2012), Phòng, chống tham nhũng từ việc hoạch định chính sách trong hoạt động khoáng sản, Đề tài khoa học cấp bộ, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội.
32. Ngô Mạnh Hùng (2012), Một số vấn đề về quản lý nhà nước trong
phòng, chống tham nhũng", Đề tài khoa học cấp bộ, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội.
33. Nguyễn Tuấn Anh (2013), Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của các nước và các tổ chức quốc tế, Đề tài khoa học cấp bộ, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội.
34. Hoàng Đức Quỳnh (2011), Một số giải pháp phòng, chống tham nhũng trong hoạt động thanh tra, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội.
35. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Cơ chế, chính sách đấu tranh, xử lý hiệu quả các vụ án tham nhũng, đặc biệt là các tội tham ô tài sản, nhận hối lộ, Đề án, Hà Nội.
36. Nguyễn Hải Phong (2008), Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
37. Nguyễn Văn Quyền (2005), Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của
một số nước trên thế giới, Sách, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Trương Gia Long (2013), Bàn về giải pháp phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay, Sách, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Nguyễn Quốc Hiệp (2015), Thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng ở Việt Nam-Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Sách, NXB Chính trị, Hà Nội.
40. Nguyễn Xuân Trường (2012), Phòng, chống tội phạm tham nhũng có yếu tố nước ngoài trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, Sách chuyên khảo, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Nguyễn Quốc Sửu (2013), Phòng, chống tham nhũng trong hoạt động
công vụ ở Việt Nam, Sách chuyên khảo, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Nguyễn Hiếu Vinh (2013), Hoạt động của thanh tra chính phủ trong phòng ngừa tội phạm về tham nhũng, Sách chuyên khảo, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
43. Nguyễn Xuân Trường (2016), Phòng, chống tham nhũng trong các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Sách chuyên khảo, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Thanh (2004), Một số vấn đề cơ bản về phòng ngừa và
chống tham nhũng, Sách chuyên khảo, NXB Tư pháp, Hà Nội.
45. Nguyễn Bá Thanh và Phan Đình Trạc (2016), Một số vấn đề lý luận, thực tiễn 30 năm đổi mới về phòng, chống tham nhũng, lãng phí (1986-2016), Sách chuyên khảo, Ban nội chính Trung ương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Ban điều hành sáng kiến ADB/OECD về chống tham nhũng khu vực Châu Á–Thái Bình Dương (2012), Kỷ yếu cuộc họp lần thứ 17, NXB Dân trí, Hà Nội.
47. Bộ tài nguyên môi trường (2013), Báo cáo tham luận Công tác phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực đất đai. Thực trạng và giải pháp, Hội nghị Đối thoại về phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực đất đai, Thanh tra Chính phủ phối hợp với Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 25/11/2013.
48. Hồ Thế Hòe (2013), Nguyên nhân và hướng khắc phục những vướng mắc trong đấu tranh với tội phạm về tham nhũng ở nước ta hiện nay, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 01/2013.
49. Nguyễn Duy Phương (2013), Vai trò của Thanh tra trong đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 15/2013.
50. Phan Đình Trạc (2017), Đấu tranh phòng, chống tham nhũng theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội 12 của Đảng, tạp chí Nội Chính số 41/2017.
51. Đinh Văn Minh (2006), Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và những nội dung cơ bản của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Nguyễn Ngọc Hòa (2015) Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB Tư
pháp, Hà Nội.
53. Lê Thị Sơn, Tội phạm học so sánh – Lý luận và thực tiễn, NXB Tư pháp,
Hà Nội.
54. Lê Thị Sơn (2011), Về phương pháp nghiên cứu của tội phạm học, Tạp
chí Luật học số 6/2011.
55. Dương Tuyết Miên (2013) Tội phạm học đương đại, NXB Chính trị-hành
chính, Hà Nội.
56. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình tội
phạm học, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
57. Viện Nhà nước và Pháp luật (1994), Tội phạm học, luật hình sự, luật tố
tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Trường Đại học Huế, Trung tâm đào tạo từ xa (1999), Giáo trình tội
phạm học, NXB Giáo dục.
59. Đại học quốc gia Hà Nội (1999), Giáo trình tội phạm học, NXB Đại học
quốc gia, Hà Nội.
60. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình tội phạm học, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
61. Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội
phạm, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
62. Viện ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
63. Danh mục ký hiệu 585 Bản án hình sự sơ thẩm về tội tham ô tài sản (Phụ
lục)
Tiếng nước ngoài
1. J.H White (1994), Anti-Embezzlement Methods for Small Businesses,
Book, Publishing Press.
2. O.J. Prum (1989), Preventing Embezzlement and Misuse of Church
Funds, Book, Wiley Publisher.
3. Thomas P. DiNapoli (2010), Preventing fraud and abuse of public funds,
Book, Rocky Mount Publisher.
4. C.J. Moran (1973), Preventing embezzlement, Book, US small Bussiness
Administration, US small Bussiness Administration.
5. Yao wang (2005), Embezzlement and its prevention and examination,
Anhui Science and Technology magazine China, No. 4/2005.
6. Lewis Donald (2012), Employee Embezzlement and Fraud; Detection,
Prevention, and Prosecution.
7. Schafer (2014), Focus on what you can control: embezzlement detection
vs. prevention, Journal of the American Dental Association.
8. Ogg Gerald W (2009), Preventing Embezzlement, American Lawyer
Magazine, No. 16/2009.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1. Nguyễn Thị Hương (2019), “Phát hiện, xử lý các vụ án tham ô tài sản; thực
trạng và giải pháp khắc phục hạn chế, bất cập”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (5);
2. Nguyễn Thị Hương (2019), “Giải pháp tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra các vụ án tham ô tài sản”, Tạp chí kiểm sát, (4);
3. Nguyễn Thị Hương (2020), “Nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục pháp
luật về phòng, chống tội phạm tham ô tài sản của Viện kiểm sát nhân dân”, Tạp chí kiểm
sát, (3).
PHỤ LỤC
Danh mục ký hiệu Bản án hình sự sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội tham
ô tài sản giai đoạn từ 2010-2019
1. Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2015/HSST ngày 28/9/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
2. Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2016/HSST ngày 27/01/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
3. Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HSST ngày 12/7/2019, Tòa án quân sự Quân chủng Hải quân
4. Bản án hình sự sơ thẩm số 406/2019/HSST ngày 30/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
5. Bản án hình sự số 30/2019/HSST ngày 16/8/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
6. Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2019/HSST ngày 25/10/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
7. Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HSST ngày 30/10/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
8. Bản án hình sự sơ thẩm số Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2018/HSST ngày 19/11/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang
9. Bản án hình sự sơ thẩm số 110/2019/HSST ngày 8/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
10. Bản án hình sự sơ thẩm số 118/2019/HSST ngày 28/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
11. Bản án hình sự sơ thẩm số 416/2019/HSST ngày 17/12/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
12. Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2019/HSST ngày 9/4/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên
13. Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2019/HSST ngày 04/12/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình
14. Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2019/HSST ngày 26//8/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
15. Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2019/HSST ngày 29/7/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ
16. Bản án hình sự số 67/2019/HSST ngày 23/8/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
17. Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2019/HSST ngày 7/01/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
18. Bản án hình sự sơ thẩm số 410/2019/HSST ngày 10/12/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
19. Bản án hình sự sơ thẩm số 330/2017/HSST ngày 29/9/2017, Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội đối
20. Bản án hình sự sự sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 28/5/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
21. Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2017/HSST ngày 22/2/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
22. Bản án hình sự sơ thẩm số 479/2013/HSST ngày 16/12/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
23. Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2011/HSST ngày 21/5/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
24. Bản án hình sự sơ thẩm số 371/2015/HSST ngày 28/8/2015, Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội
25. Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2016/HSST ngày 30/11/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
26. Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2014/HSST ngày 9/10/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên
27. Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2016/HSST ngày 25/2/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên
28. Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2013/HSST ngày 25/7/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
29. Bản án hình sự sơ thẩm số 418/2015/HSST ngày 27/11/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
30. Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2018/HSST ngày 19/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
31. Bản án hình sự sơ thẩm số 467/2013/HSST ngày 15/11/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
31. Bản án hình sự sơ thẩm số 180/2018/HSST ngày 16/5/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
32. Bản án hình sự sơ thẩm số 277/2018/HSST ngày 30/7/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
33. Bản án hình sự sơ thẩm số 117/2019/HSST ngày 03/12/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên
34. Bản án hình sự sơ thẩm số 388/2019/HSST ngày 26/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
35. Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2018/HSST ngày 12/03/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
36. Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2018/HSST ngày 14/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh
Lào Cai
37. Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2018/HSST ngày 6/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh
Thái Nguyên
38. Bản án hình sự số 33/2018/HSST ngày 28//6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
39. Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2018/HSST ngày 19/8/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ
40. Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2018/HSST ngày 8/5/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
41. Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2018/HSST ngày 30/5/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên
42. Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2018/HSST ngày 20/8/2018, Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc
43. Bản án hình sự sơ thẩm số 94/2018/HSST ngày 19/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
44. Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2018/HSST ngày 22/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương
45. Bản án hình sự sơ thẩm số 393/2018/HSST ngày 28/11/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
46. Bản án hình sự sơ thẩm số 92/2018/HSST ngày 02/4/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
47. Bản án hình sự sơ thẩm số 123/2018/HSST ngày 25/4/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
48. Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2017/HSST ngày 26/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
49. Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2017/HSST ngày 15/3/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
50. Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2017/HSST ngày 15/9/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận
51. Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2017/HSST ngày 5/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
52. Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2017/HSST ngày 23/5/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
53. Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2017/HSST ngày 15/3/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
54. Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2017/HSST ngày 07/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Long An
55. Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2017/HSST ngày 21/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương
56. Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2019/HSST ngày 30/01/2019, Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội
57. Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2018/HSST ngày 22/01/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
58. Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2018/HSST ngày 13/01/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
59. Bản án hình sự sơ thẩm số 134/2011/HSST ngày 17/4/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
60. Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2011/HSST ngày 24/2/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ
61. Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2011/HSST ngày 29/10/2011, Tòa án nhân dân tỉnh
Hưng Yên
62. Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2011/HSST ngày 10/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
63. Bản án hình sự sơ thẩm số 169/2011/HSST ngày 15/12/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
64. Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2011/HSST ngày 03/2/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình
65. Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2011/HSST ngày 3/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
66. Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2015/HSST ngày 26/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
67. Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2011/HSST ngày 10/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
68. Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2013/HSST ngày 27/3/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
69. Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2015/HSST ngày 18/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên
70. Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2014/HSST ngày 21/7/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam
71. Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2012/HSST ngày 18/6/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
72. Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2013/HSST ngày 10/01/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
73. Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2012/HSST ngày 27/9/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
74. Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2015/HSST ngày 27/11/2012, Tòa án nhân dân tỉnh
Nam Định
75. Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2017/HSST ngày 17/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh
Bạc Liêu
76. Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2017/HSST ngày 23/9/2017, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
77. Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2017/HSST ngày 25/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
78. Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2017/HSST ngày 5/4/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
79. Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2017/HSST ngày 28/01/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
80. Bản án hình sự sơ thẩm số 115/2017/HSST ngày 25/03/2017, Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh
81. Bản án hình sự sơ thẩm số 318/2017/HSST ngày 28/10/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
82. Bản án hình sự sơ thẩm số 405/2017/HSST ngày 05/12/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
83. Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2017/HSST ngày 15/7/2017, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
84. Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2017/HSST ngày 25/9/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
85. Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HSST ngày 02/5/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
86. Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2017/HSST ngày 30/6/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa
87. Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2017/HSST ngày 02/12/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh
88. Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2017/HSST ngày 15/12/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
89. Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2017/HSST ngày 24/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
90. Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2017/HSST ngày 14/9/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
91. Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HSST ngày 12/6/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình
92. Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2017/HSST ngày 13/9/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ
93. Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2017/HSST ngày 27/12/2017, Tòa án nhân dân tỉnh
Hà Nam
94. Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2017/HSST ngày 24/4/2017, Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Giang
95. Bản án hình sự sơ thẩm số 93/2017/HSST ngày 30/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
96. Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2017/HSST ngày 28/5/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
97. Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2017/HSST ngày 25/7/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
98. Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2017/HSST ngày 21/3/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
99. Bản án hình sự sơ thẩm số 248/2017/HSST ngày 29/5/2017, Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội
100. Bản án hình sự sơ thẩm số 403/2017/HSST ngày 05/11/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
101. Bản án hình sự sơ thẩm số 505/2017/HSST ngày 15/12/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
102. Bản án hình sự sơ thẩm số 325/2017/HSST ngày 7/11/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
103. Bản án hình sự sơ thẩm số 118/2017/HSST ngày 29/5/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
104. Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2017/HSST ngày 3/6/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
105. Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2017/HSST ngày 30/7/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
106. Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2017/HSST ngày 12/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An
107. Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2016/HSST ngày 01/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận
108. Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2016/HSST ngày 22/7/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh
109. Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2016/HSST ngày 21/7/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
110. Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2016/HSST ngày 23//8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
111. Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2016/HSST ngày 13/1/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
112. Bản án hình sự sơ thẩm số 136/2016/HSST ngày 27/4/2016, Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh
113. Bản án hình sự sơ thẩm số 329/2016/HSST ngày 12/9/2016, Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh
114. Bản án hình sự sơ thẩm số 441/2016/HSST ngày 15/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
115. Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2016/HSST ngày 23/4/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
116. Bản án hình sự sơ thẩm số 306/2016/HSST ngày 5/8/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
117. Bản án hình sự sơ thẩm số 411/2016/HSST ngày 3/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
118. Bản án hình sự sơ thẩm số 75/2016/HSST ngày 24/6/2016, Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh
119. Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2016/HSST ngày 14/7/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
120. Bản án hình sự sơ thẩm số 84/2016/HSST ngày 16/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
121. Bản án hình sự sơ thẩm số 76/2016/HSST ngày 27/7/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
122. Bản án hình sự sơ thẩm số 134/2016/HSST ngày 30/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
123. Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2016/HSST ngày 24/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An
124. Bản án hình sự sơ thẩm số 127/2016/HSST ngày 26/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
125. Bản án hình sự sơ thẩm số 128/2016/HSST ngày 28/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
126. Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2016/HSST ngày 24/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
127. Bản án hình sự sơ thẩm số 79/2016/HSST ngày 14/6/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
128. Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2016/HSST ngày 3/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
129. Bản án hình sự sơ thẩm số 175/2016/HSST ngày 24/12/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
130. Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2016/HSST ngày 14/5/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
131. Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2016/HSST ngày 30/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh
Bạc Liêu
132. Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2016/HSST ngày 12/5/2016, Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Định
133. Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2016/HSST ngày 30/3/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
134. Bản án hình sự sơ thẩm số 76/2016/HSST ngày 13/10/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận
135. Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2016/HSST ngày 18/12/2016, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
136. Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2016/HSST ngày 14/11/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
137. Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2016/HSST ngày 25/12/2016, Tòa án nhân dân
tỉnh Long An
138. Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2016/HSST ngày 27/5/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
139. Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2016/HSST ngày 13/3/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
140. Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2016/HSST ngày 04/10/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa
141. Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2016/HSST ngày 3/7/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
142. Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2016/HSST ngày 14/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
143. Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2016/HSST ngày 15/3/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình
144. Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2016/HSST ngày 13/4/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
145. Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2016/HSST ngày 29/3/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
146. Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2016/HSST ngày 23/5/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
147. Bản án hình sự sơ thẩm số 123/2016/HSST ngày 29/12/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
148. Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2016/HSST ngày 13/7/2016, Tòa án nhân dân Lâm Đồng
149. Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2016/HSST ngày 30/5/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp
150. Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2016/HSST ngày 14/6/2016, Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi
151. Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2016/HSST ngày 11/9/2016, Tòa án nhân dân thành
phố Cần Thơ
152. Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2016/HSST ngày 21/3/2016, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
153. Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2016/HSST ngày 25/4/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình
154. Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2015/HSST ngày 17/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
155. Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2015/HSST ngày 15/3/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
156. Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2015/HSST ngày 23/6/2015, Tòa án nhân dân thành
phố Cần Thơ
157. Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2015/HSST ngày 6/3/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
158. Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2015/HSST ngày 15/7/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
159. Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2015/HSST ngày 23/4/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
160. Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2015/HSST ngày 3/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
161. Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2015/HSST ngày 29/3/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
162. Bản án hình sự sơ thẩm số 136/2015/HSST ngày 5/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
163. Bản án hình sự sơ thẩm số 73/2015/HSST ngày 7/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
164. Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2015/HSST ngày 12/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa
165. Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2015/HSST ngày 1/4/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
166. Bản án hình sự sơ thẩm số 236/2015/HSST ngày 5/6/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
167. Bản án hình sự sơ thẩm số 303/2015/HSST ngày 18/7/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
168. Bản án hình sự sơ thẩm số 395/2015/HSST ngày 30/8/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
169. Bản án hình sự sơ thẩm số 411/2015/HSST ngày 30/9/2015, Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh
170. Bản án hình sự sơ thẩm số 465/2015/HSST ngày 15/10/2015, Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh
171. Bản án hình sự sơ thẩm số 215/2015/HSST ngày 23/3/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
172. Bản án hình sự sơ thẩm số 307/2015/HSST ngày 30/5/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
173. Bản án hình sự sơ thẩm số 381/2015/HSST ngày 22/6/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
174. Bản án hình sự sơ thẩm số 419/2015/HSST ngày 28/9/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
175. Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2015/HSST ngày 20/5/2015, Tòa án nhân dân thành
phố Đà Nẵng
176. Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2015/HSST ngày 29/4/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An
177. Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2015/HSST ngày 2/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
178. Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2015/HSST ngày 19/4/2015, Tòa án nhân dân Bắc Ninh
179. Bản án hình sự sơ thẩm số 117/2015/HSST ngày 28/10/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
180. Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2015/HSST ngày 10/7/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ
181. Bản án hình sự sơ thẩm số 145/2015/HSST ngày 15/12/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
182. Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2015/HSST ngày 7/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình
183. Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2014/HSST ngày 21/01/2014, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
184. Bản án hình sự sơ thẩm số 76/2013/HSST ngày 15/3/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh,
185. Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2015/HSST ngày 16/9/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình
186. Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2014/HSST ngày 15/8/2014, Tòa án nhân tỉnh Thái Bình,
187. Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2018/HSST ngày 22/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình
188. Bản án hình sự sơ thẩm số 79/2014/HSST ngày 28/2/2014, Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội
189. Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2016/HSST ngày 25/02/2016, Tòa án nhân dân tỉnh
Điện Biên
190. Bản án hình sự sơ thẩm số 371/2015/HSST ngày 28/8/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
191. Bản án hình sự sơ thẩm số 198/2015/HSST ngày 02/6/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
192. Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2015/HSST ngày 25/9/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
193. Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2015/HSST ngày 30/01/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
194. Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2017/HSST ngày 17/03/2017, Tòa án nhân dân tỉnh
Thái Bình
195. Bản án hình sự sơ thẩm số 237/2010/HSST ngày 9/6/2010, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
196. Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2015/HSST ngày 27/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam
197. Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2012/HSST ngày 10/9/2012, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
198. Bản án hình sự sơ thẩm số 220/2015/HSST ngày 29/6/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
199. Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2012/HSST ngày 05/11/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La
200. Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2011/HSST ngày 24/01/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận
201. Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2012/HSST ngày 10/02/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận
202. Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2013/HSST ngày 10/9/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên
203. Bản án hình sự sơ thẩm số 505/2018/HSST ngày 18/12/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
204. Bản án hình sự sơ thẩm số 330/2017/HSST ngày 29/9/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
205. Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HSST ngày 21/01/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
206. Bản án hình sự sơ thẩm số 235/2014/HSST ngày 7/5/2014, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
207. Bản án hình sự sơ thẩm số 122/2011/HSST ngày 28/01/2011, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội
208. Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2019/HSST ngày 14/10/2019, Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng
209. Bản án hình sự sơ thẩm số 118/2018/HSST ngày 18/4/2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
210. Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2018/HSST ngày 31/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
211. Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2017/HSST ngày 11/7/2017, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
212. Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2015/HSST ngày 30/01/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
213. Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2016/HSST ngày 30/11/2016, Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc
214. Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2015/HSST ngày 21/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
215. Bản án hình sự sơ thẩm số 127/2014/HSST ngày 17/10/2014, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
216. Bản án hình sự sơ thẩm số 101/2015/HSST ngày 24/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La
217. Bản án hình sự sơ thẩm số 104/2011/HSST ngày 10/12/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
218. Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2013/HSST ngày 24/6/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
219. Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2014/HSST ngày 22/9/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên
220. Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2016/HSST ngày 18/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
221. Bản án hình sự sơ thẩm số 198/2014/HSST ngày 03/12/2014, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
222. Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2011/HSST ngày 16/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
223. Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2013/HSST ngày 30/11/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
224. Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2010/HSST ngày 26/5/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
225. Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2014/HSST ngày 12/6/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
226. Bản án hình sự sơ thẩm số 115/2011/HSST ngày 21/8/2011, Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh
227. Bản án hình sự sơ thẩm số 84/2016/HSST ngày 28/10/2016, Tòa án nhân dân tỉnh
Nam Định
228. Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2016/HSST ngày 25/11/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
229. Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2010/HSST ngày 29/6/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
230. Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2015/HSST ngày 03/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng
231. Bản án hình sự sơ thẩm số 289/2015/HSST ngày 14/8/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
232. Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2017/HSST ngày 25/3/2017, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội
233. Bản án hình sự sơ thẩm số 219/2014/HSST ngày 9//6/2014, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
234. Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2018/HSST ngày 19/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
235. Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 28/5/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
236. Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2013/HSST ngày 21/6/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
237. Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2018/HSST ngày 22/6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
238. Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2019/HSST ngày 16/4/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
239. Bản án hình sự sơ thẩm số 365/2014/HSST ngày 15/10/2014, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
240. Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2015/HSST ngày 18/9/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
241. Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2016/HSST ngày 27/4/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
242. Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2018/HSST ngày 12/7/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
243. Bản án hình sự sơ thẩm số 230/2016/HSST ngày 29/6/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
244. Bản án hình sự sự sơ thẩm số 16/2015HSST ngày 28/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
245. Bản án hình sự sơ thẩm số 381/2018/HSST ngày 22/2/2018, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội
246. Bản án hình sự sơ thẩm số 479/2012/HSST ngày 16/12/2012, Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh
247. Bản án hình sự sơ thẩm số 131/2012/HSST ngày 21/5/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
248. Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2015/HSST ngày 20/01/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
249. Bản án hình sự sơ thẩm số 180/2016/HSST ngày 30/3/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
250. Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2014/HSST ngày 9/3/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên
251. Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2015/HSST ngày 25/2/2015, Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Ninh
252. Bản án hình sự sơ thẩm số 137/2015/HSST ngày 25/7/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
253. Bản án hình sự sơ thẩm số 328/2017/HSST ngày 27/11/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
254. Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2018/HSST ngày 19/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
255. Bản án hình sự sơ thẩm số 467/2014/HSST ngày 15/11/2014, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
256. Bản án hình sự sơ thẩm số 185/2018/HSST ngày 16/4/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
257. Bản án hình sự sơ thẩm số 207/2018/HSST ngày 30/7/2018, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
258. Bản án hình sự sơ thẩm số 148/2018/HSST ngày 30/01/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
259. Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2017/HSST ngày 22/01/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Long An
260. Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HSST ngày 13/01/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
261. Bản án hình sự sơ thẩm số 134/2012/HSST ngày 17/4/2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
262. Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2011/HSST ngày 24/2/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
263. Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2012/HSST ngày 29/10/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
264. Bản án hình sự sơ thẩm số 121/2013/HSST ngày 10/9/2013, Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng
265. Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2011/HSST ngày 15/12/2011, Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hòa
266. Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2013/HSST ngày 03/2/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình
267. Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2016/HSST ngày 3/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
268. Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2015/HSST ngày 26/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
269. Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2014/HSST ngày 10/9/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
270. Bản án hình sự sơ thẩm số 282/2015/HSST ngày 27/5/2015, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội
271. Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2015/HSST ngày 18/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam
272. Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2014/HSST ngày 21/7/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
273. Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2016/HSST ngày 18/6/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
274. Bản án hình sự sơ thẩm số 102/2017/HSST ngày 25/01/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
275. Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2013/HSST ngày 27/9/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
276. Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2015/HSST ngày 27/11/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
277. Bản án hình sự sơ thẩm số 180/2016/HSST ngày 15/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
278. Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2018/HSST ngày 11/8/2018, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
279. Bản án hình sự sơ thẩm số 407/2016/HSST ngày 5/10/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
280. Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2017/HSST ngày 21/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An
281. Bản án hình sự sơ thẩm số 214/2012/HSST ngày 12/4/2012, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
282. Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2014/HSST ngày 24/6/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
283. Bản án hình sự sơ thẩm số 73/2015/HSST ngày 12/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Thuận
284. Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2017/HSST ngày 18/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh
Gia Lai
285. Bản án hình sự sơ thẩm số 358/2014/HSST ngày 23/12/2014, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
286. Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2019/HSST ngày 16/9/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
287. Bản án hình sự sơ thẩm số 243/2014/HSST ngày 30/11/2014, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
288. Bản án hình sự sơ thẩm số 123/2011/HSST ngày 26/5/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
289. Bản án hình sự sơ thẩm số 51/2019/HSST ngày 12/6/2019, Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Yên
290. Bản án hình sự sơ thẩm số 206/2018/HSST ngày 15/8/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
291. Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2016/HSST ngày 28/10/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
292. Bản án hình sự sơ thẩm số 173/2019/HSST ngày 25/11/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
293. Bản án hình sự sơ thẩm số 78/2010/HSST ngày 19/6/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
294. Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2017/HSST ngày 03/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng
295. Bản án hình sự sơ thẩm số 389/2015/HSST ngày 14/7/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
296. Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2017/HSST ngày 25/02/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên
297. Bản án hình sự sơ thẩm số 301/2016/HSST ngày 18/8/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
298. Bản án hình sự sơ thẩm số 228/2019/HSST ngày 02/6/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
299. Bản án hình sự sơ thẩm số 134/2018/HSST ngày 25/9/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận
300. Bản án hình sự sơ thẩm số 260/2015/HSST ngày 30/7/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
301. Bản án hình sự sơ thẩm số 213/2017/HSST ngày 17/03/2017, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
302. Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2011/HSST ngày 9/6/2011, Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hòa
303. Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2015/HSST ngày 27/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh
Sơn La
304. Bản án hình sự sơ thẩm số 218/2016/HSST ngày 23/10/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
305. Bản án hình sự sơ thẩm số 320/2019/HSST ngày 29/9/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
306. Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2012/HSST ngày 05/11/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
307. Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2011/HSST ngày 24/01/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
308. Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2013/HSST ngày 10/02/2013, Tòa án nhân dân tỉnh
Ninh Thuận
309. Bản án hình sự sơ thẩm số 165/2013/HSST ngày 10/9/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
310. Bản án hình sự sơ thẩm số 415/2017/HSST ngày 18/12/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
311. Bản án hình sự sơ thẩm số 350/2017/HSST ngày 29/9/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
312. Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HSST ngày 21/01/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
313. Bản án hình sự sơ thẩm số 135/2015/HSST ngày 27/5/2015, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
314. Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2017/HSST ngày 25/3/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
315. Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2014/HSST ngày 9//6/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
316. Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2018/HSST ngày 19/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long
317. Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HSST ngày 28/5/2019, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
318. Bản án hình sự sơ thẩm số 219/2013/HSST ngày 21/6/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
319. Bản án hình sự sơ thẩm số 133/2018/HSST ngày 22/6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Long An
320. Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2019/HSST ngày 16/4/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
321. Bản án hình sự sơ thẩm số 265/2014/HSST ngày 15/10/2014, Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng
322. Bản án hình sự sơ thẩm số 140/2018/HSST ngày 19/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh
Hà Tĩnh
323. Bản án hình sự sơ thẩm số 467/2013/HSST ngày 15/11/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
324. Bản án hình sự sơ thẩm số 186/2018/HSST ngày 16/5/2018, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
325. Bản án hình sự sơ thẩm số 275/2018/HSST ngày 30/7/2018, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
326. Bản án hình sự sơ thẩm số 217/2019/HSST ngày 03/12/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình
327. Bản án hình sự sơ thẩm số 238/2019/HSST ngày 26/11/2019, Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương
328. Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2018/HSST ngày 12/03/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang
329. Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2018/HSST ngày 14/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Cạn
330. Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2018/HSST ngày 6/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Long An
331. Bản án hình sự số 49/2018/HSST ngày 28//6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
332. Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2016/HSST ngày 15/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ
333. Bản án hình sự sơ thẩm số 235/2017/HSST ngày 8/5/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
334. Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2018/HSST ngày 30/5/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
335. Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2018/HSST ngày 20/8/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh
336. Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2018/HSST ngày 19/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
337. Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2012/HSST ngày 22/11/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương
338. Bản án hình sự sơ thẩm số 195/2018/HSST ngày 28/5/2018, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
339. Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2017/HSST ngày 02/4/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh
340. Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2018/HSST ngày 25/4/2018, Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Phước
341. Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2017/HSST ngày 26/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh
An Giang
342. Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2016/HSST ngày 28/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh
343. Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2017/HSST ngày 27/01/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
344. Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2018/HSST ngày 19/9/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
345. Bản án hình sự sự sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 18/5/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
346. Bản án hình sự sơ thẩm số 148/2018/HSST ngày 22/2/2018, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội
347. Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2014/HSST ngày 16/12/2014, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
348. Bản án hình sự sơ thẩm số 431/2011/HSST ngày 21/12/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
349. Bản án hình sự sơ thẩm số 141/2015/HSST ngày 08/8/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
350. Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2016/HSST ngày 15/11/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
351. Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2014/HSST ngày 9/10/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên
352. Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2016/HSST ngày 25/2/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên
353. Bản án hình sự sơ thẩm số 213/2013/HSST ngày 25/7/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
354. Bản án hình sự sơ thẩm số 184/2019/HSST ngày 27/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
355. Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2018/HSST ngày 19/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình
356. Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2013/HSST ngày 15/11/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình
357. Bản án hình sự sơ thẩm số 80/2018/HSST ngày 16/5/2018, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
358. Bản án hình sự sơ thẩm số 77/2018/HSST ngày 30/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai
359. Bản án hình sự sơ thẩm số 448/2015/HSST ngày 30/01/2015, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội
360. Bản án hình sự sơ thẩm số 333/2011/HSST ngày 22/01/2011, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội
361. Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2018/HSST ngày 13/01/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
362. Bản án hình sự sơ thẩm số 314/2013/HSST ngày 17/4/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
363. Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2013/HSST ngày 24/2/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
364. Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2011/HSST ngày 29/10/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
365. Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2014/HSST ngày 10/9/2014, Tòa án nhân dân tỉnh
Long An
366. Bản án hình sự sơ thẩm số 129/2019/HSST ngày 5/12/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
367. Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2011/HSST ngày 03/2/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
368. Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2011/HSST ngày 3/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
369. Bản án hình sự sơ thẩm số 123/2015/HSST ngày 26/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
370. Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2011/HSST ngày 10/9/2011, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
371. Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2014/HSST ngày 27/3/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La
372. Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2015/HSST ngày 18/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
373. Bản án hình sự sơ thẩm số 117/2014/HSST ngày 21/7/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái
374. Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2012/HSST ngày 18/6/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum
375. Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2013/HSST ngày 10/01/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Đắc Lắc
376. Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2012/HSST ngày 27/9/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị
377. Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2015/HSST ngày 27/11/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
378. Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2016/HSST ngày 30/11/2016, Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Giang
379. Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2015/HSST ngày 21/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long
380. Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2014/HSST ngày 17/10/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng
381. Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2015/HSST ngày 24/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình
382. Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2011/HSST ngày 10/12/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu
383. Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2013/HSST ngày 24/6/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên
384. Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2014/HSST ngày 22/9/2014, Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hòa
385. Bản án hình sự sơ thẩm số 75/2016/HSST ngày 18/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
386. Bản án hình sự sơ thẩm số 358/2014/HSST ngày 03/12/2014, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
387. Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2011/HSST ngày 16/9/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
388. Bản án hình sự sơ thẩm số 443/2013/HSST ngày 30/11/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
389. Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2010/HSST ngày 26/5/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Cạn
390. Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2018/HSST ngày 12/6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai
391. Bản án hình sự sơ thẩm số 325/2011/HSST ngày 21/8/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
392. Bản án hình sự sơ thẩm số 184/2016/HSST ngày 28/10/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
393. Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2016/HSST ngày 25/11/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
394. Bản án hình sự sơ thẩm số 248/2010/HSST ngày 29/6/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
395. Bản án hình sự sơ thẩm số 156/2015/HSST ngày 03/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Long An
396. Bản án hình sự sơ thẩm số 419/2017/HSST ngày 14/8/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
397. Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2016/HSST ngày 25/02/2016, Tòa án nhân dân tỉnh
Yên Bái
398. Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2015/HSST ngày 28/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh
Long An
399. Bản án hình sự sơ thẩm số 98/2015/HSST ngày 22/6/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
400. Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2015/HSST ngày 15/9/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn
401. Bản án hình sự sơ thẩm số 160/2015/HSST ngày 30/01/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam
402. Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2017/HSST ngày 17/03/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
403. Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2010/HSST ngày 9/6/2010, Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình
404. Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2015/HSST ngày 7/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình
405. Bản án hình sự sơ thẩm số 360/2017/HSST ngày 10/9/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
406. Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2015/HSST ngày 29/6/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
407. Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2012/HSST ngày 05/11/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang
408. Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2011/HSST ngày 24/01/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận
409. Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2012/HSST ngày 10/02/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An
410. Bản án hình sự sơ thẩm số 165/2013/HSST ngày 10/9/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
411. Bản án hình sự sơ thẩm số 405/2018/HSST ngày 18/9/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
412. Bản án hình sự sơ thẩm số 330/2017/HSST ngày 29/9/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
413. Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2019/HSST ngày 21/01/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị
414. Bản án hình sự sơ thẩm số 235/2014/HSST ngày 7/5/2014, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
415. Bản án hình sự sơ thẩm số 115/2017/HSST ngày 25/3/2017, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
416. Bản án hình sự sơ thẩm số 239/2014/HSST ngày 19/3/2014, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội
417. Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2018/HSST ngày 19/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai
418. Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2019/HSST ngày 28/5/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
419. Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2013/HSST ngày 21/6/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
420. Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2018/HSST ngày 22/6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
421. Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2018/HSST ngày 16/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
422. Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2014/HSST ngày 15/10/2014, Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng
423. Bản án hình sự sơ thẩm số 324/2019/HSST ngày 25/9/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
424. Bản án hình sự số 21/2019/HSST ngày 16/8/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu
425. Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HSST ngày 15/8/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
426. Bản án hình sự sơ thẩm số 117/2019/HSST ngày 30/10/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
427. Bản án hình sự sơ thẩm số Bản án hình sự sơ thẩm số 210/2018/HSST ngày
19/11/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
428. Bản án hình sự sơ thẩm số 301/2019/HSST ngày 118/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
429. Bản án hình sự sơ thẩm số 93/2019/HSST ngày 12/5/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
430. Bản án hình sự sơ thẩm số 146/2019/HSST ngày 173/2019, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội
431. Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2019/HSST ngày 4/9/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên
432. Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2019/HSST ngày 14/4/2019, Tòa án nhân dân tỉnh
Hòa Bình
433. Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2019/HSST ngày 21/8/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
434. Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2019/HSST ngày 13/7/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ
435. Bản án hình sự số 107/2019/HSST ngày 30/9/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
436. Bản án hình sự sơ thẩm số 134/2019/HSST ngày 14/3/2019, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội
437. Bản án hình sự sơ thẩm số 395/2019/HSST ngày 12/9/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
438. Bản án hình sự sơ thẩm số 147/2019/HSST ngày 23/9/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên
439. Bản án hình sự sơ thẩm số 318/2019/HSST ngày 26/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
440. Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2018/HSST ngày 12/03/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
441. Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2018/HSST ngày 14/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh
Lào Cai
442. Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2018/HSST ngày 6/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
443. Bản án hình sự số 65/2018/HSST ngày 28//6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
444. Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2018/HSST ngày 19/8/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ
445. Bản án hình sự sơ thẩm số 235/2018/HSST ngày 8/5/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
446. Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2018/HSST ngày 30/5/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
447. Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2018/HSST ngày 20/8/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
448. Bản án hình sự sơ thẩm số 194/2018/HSST ngày 19/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
449. Bản án hình sự sơ thẩm số 125/2018/HSST ngày 22/11/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương
450. Bản án hình sự sơ thẩm số 493/2018/HSST ngày 28/11/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
451. Bản án hình sự sơ thẩm số 392/2018/HSST ngày 02/4/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
452. Bản án hình sự sơ thẩm số 123/2018/HSST ngày 25/4/2018, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
453. Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2017/HSST ngày 26/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
454. Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2017/HSST ngày 15/3/2017, Tòa án nhân dân tỉnh
Hậu Giang
455. Bản án hình sự sơ thẩm số 230/2017/HSST ngày 15/9/2017, Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Thuận
456. Bản án hình sự sơ thẩm số 195/2017/HSST ngày 5/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
457. Bản án hình sự sơ thẩm số 248/2017/HSST ngày 23/5/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
458. Bản án hình sự sơ thẩm số 135/2017/HSST ngày 15/3/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
459. Bản án hình sự sơ thẩm số 217/2017/HSST ngày 07/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Long An
460. Bản án hình sự sơ thẩm số 135/2017/HSST ngày 21/10/2017, Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương
461. Bản án hình sự sơ thẩm số 223/2017/HSST ngày 17/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
462. Bản án hình sự sơ thẩm số 183/2017/HSST ngày 23/9/2017, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
463. Bản án hình sự sơ thẩm số 75/2017/HSST ngày 25/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
464. Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2017/HSST ngày 5/4/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
465. Bản án hình sự sơ thẩm số 149/2017/HSST ngày 28/5/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
466. Bản án hình sự sơ thẩm số 152/2017/HSST ngày 25/4/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
467. Bản án hình sự sơ thẩm số 423/2017/HSST ngày 28/10/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
468. Bản án hình sự sơ thẩm số 405/2017/HSST ngày 05/12/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
469. Bản án hình sự sơ thẩm số 157/2017/HSST ngày 15/7/2017, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
470. Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2017/HSST ngày 25/9/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
471. Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2017/HSST ngày 22/5/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
472. Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2017/HSST ngày 13/6/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa
473. Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2017/HSST ngày 22/12/2017, Tòa án nhân dân tỉnh
Tây Ninh
474. Bản án hình sự sơ thẩm số 77/2017/HSST ngày 25/12/2017, Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Yên
475. Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2017/HSST ngày 14/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
476. Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2017/HSST ngày 4/7/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
477. Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2017/HSST ngày 12/6/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình
478. Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2017/HSST ngày 13/9/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ
479. Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2017/HSST ngày 27/12/2017, Tòa án nhân dân
tỉnh Hà Nam
480. Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2017/HSST ngày 24/4/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
481. Bản án hình sự sơ thẩm số 139/2017/HSST ngày 30/11/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
482. Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2017/HSST ngày 18/5/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
483. Bản án hình sự sơ thẩm số 124/2017/HSST ngày 25/7/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
484. Bản án hình sự sơ thẩm số 163/2017/HSST ngày 27/4/2017, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
485. Bản án hình sự sơ thẩm số 248/2017/HSST ngày 29/5/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
486. Bản án hình sự sơ thẩm số 403/2017/HSST ngày 05/11/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
487. Bản án hình sự sơ thẩm số 415/2017/HSST ngày 15/12/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
488. Bản án hình sự sơ thẩm số 325/2017/HSST ngày 7/11/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
489. Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2016/HSST ngày 01/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận
490. Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2016/HSST ngày 22/7/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh
491. Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2016/HSST ngày 21/7/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
492. Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2016/HSST ngày 23//8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh
Kiên Giang
493. Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2016/HSST ngày 13/1/2016, Tòa án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh
494. Bản án hình sự sơ thẩm số 136/2016/HSST ngày 27/4/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
495. Bản án hình sự sơ thẩm số 329/2016/HSST ngày 12/9/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
496. Bản án hình sự sơ thẩm số 441/2016/HSST ngày 15/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
497. Bản án hình sự sơ thẩm số 159/2016/HSST ngày 23/4/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
498. Bản án hình sự sơ thẩm số 306/2016/HSST ngày 5/8/2016, Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội
499. Bản án hình sự sơ thẩm số 411/2016/HSST ngày 3/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
500. Bản án hình sự sơ thẩm số 75/2016/HSST ngày 24/6/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
501. Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2016/HSST ngày 14/7/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
502. Bản án hình sự sơ thẩm số 84/2016/HSST ngày 16/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
503. Bản án hình sự sơ thẩm số 76/2016/HSST ngày 27/7/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
504. Bản án hình sự sơ thẩm số 134/2016/HSST ngày 30/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
505. Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2016/HSST ngày 24/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An
506. Bản án hình sự sơ thẩm số 127/2016/HSST ngày 26/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa
507. Bản án hình sự sơ thẩm số 128/2016/HSST ngày 28/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
508. Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2016/HSST ngày 24/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
509. Bản án hình sự sơ thẩm số 79/2016/HSST ngày 14/6/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
510. Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2016/HSST ngày 3/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
511. Bản án hình sự sơ thẩm số 175/2016/HSST ngày 24/12/2016, Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương
512. Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2016/HSST ngày 14/5/2016, Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang
513. Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2016/HSST ngày 30/8/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
514. Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2016/HSST ngày 12/5/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
515. Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2016/HSST ngày 30/3/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
516. Bản án hình sự sơ thẩm số 76/2016/HSST ngày 13/10/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận
517. Bản án hình sự sơ thẩm số 116/2016/HSST ngày 18/12/2016, Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng
518. Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2016/HSST ngày 14/11/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
519. Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2016/HSST ngày 25/12/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Long An
520. Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2016/HSST ngày 27/5/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
521. Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2016/HSST ngày 13/3/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
522. Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2016/HSST ngày 04/10/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa
523. Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2016/HSST ngày 3/7/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
524. Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2016/HSST ngày 14/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
525. Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2016/HSST ngày 15/3/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình
526. Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2016/HSST ngày 13/4/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
527. Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2016/HSST ngày 29/3/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
528. Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2016/HSST ngày 23/5/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
529. Bản án hình sự sơ thẩm số 123/2016/HSST ngày 29/12/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
530. Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2016/HSST ngày 13/7/2016, Tòa án nhân dân Lâm
Đồng
531. Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2016/HSST ngày 30/5/2016, Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Tháp
532. Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2016/HSST ngày 14/6/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
533. Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2016/HSST ngày 11/9/2016, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
534. Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2016/HSST ngày 21/3/2016, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
535. Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2016/HSST ngày 25/4/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình
536. Bản án hình sự sơ thẩm số 118/2017/HSST ngày 29/5/2017, Tòa án nhân dân
thành phố Hải Phòng
537. Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2017/HSST ngày 3/6/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
538. Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2017/HSST ngày 30/7/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
539. Bản án hình sự sơ thẩm số 133/2017/HSST ngày 12/8/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An
540. Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2015/HSST ngày 17/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
541. Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2015/HSST ngày 15/3/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang
542. Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2015/HSST ngày 23/6/2015, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
543. Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2015/HSST ngày 6/3/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
544. Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2015/HSST ngày 15/7/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau
545. Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2015/HSST ngày 23/4/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
546. Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2015/HSST ngày 3/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
547. Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2015/HSST ngày 29/3/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
548. Bản án hình sự sơ thẩm số 136/2015/HSST ngày 5/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
549. Bản án hình sự sơ thẩm số 73/2015/HSST ngày 7/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai
550. Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2015/HSST ngày 12/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hòa
551. Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2015/HSST ngày 1/4/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
552. Bản án hình sự sơ thẩm số 236/2015/HSST ngày 5/6/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
553. Bản án hình sự sơ thẩm số 303/2015/HSST ngày 18/7/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
554. Bản án hình sự sơ thẩm số 395/2015/HSST ngày 30/8/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
555. Bản án hình sự sơ thẩm số 411/2015/HSST ngày 30/9/2015, Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh
556. Bản án hình sự sơ thẩm số 465/2015/HSST ngày 15/10/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
557. Bản án hình sự sơ thẩm số 215/2015/HSST ngày 23/3/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
558. Bản án hình sự sơ thẩm số 307/2015/HSST ngày 30/5/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
559. Bản án hình sự sơ thẩm số 381/2015/HSST ngày 22/6/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
560. Bản án hình sự sơ thẩm số 419/2015/HSST ngày 28/9/2015, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
561. Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2015/HSST ngày 20/5/2015, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
562. Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2015/HSST ngày 29/4/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An
563. Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2015/HSST ngày 2/8/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
564. Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2015/HSST ngày 19/4/2015, Tòa án nhân dân Bắc Ninh
565. Bản án hình sự sơ thẩm số 117/2015/HSST ngày 28/10/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
566. Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2015/HSST ngày 10/7/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ
567. Bản án hình sự sơ thẩm số 145/2015/HSST ngày 15/12/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
568. Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2015/HSST ngày 7/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh
Thái Bình
569. Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2014/HSST ngày 20/8/2014, Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai
570. Bản án hình sự sơ thẩm số 194/2014/HSST ngày 19/11/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
571. Bản án hình sự sơ thẩm số 125/2014/HSST ngày 22/11/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương
572. Bản án hình sự sơ thẩm số 493/2016/HSST ngày 28/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
573. Bản án hình sự sơ thẩm số 392/2017/HSST ngày 02/4/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
574. Bản án hình sự sơ thẩm số 123/2016/HSST ngày 25/4/2016, Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng
575. Bản án hình sự sơ thẩm số 112/2013/HSST ngày 26/10/2013, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
576. Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2015/HSST ngày 15/3/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
577. Bản án hình sự sơ thẩm số 230/2018/HSST ngày 15/9/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận
578. Bản án hình sự sơ thẩm số 195/2019/HSST ngày 5/10/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
579. Bản án hình sự sơ thẩm số 248/2015/HSST ngày 23/5/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
580. Bản án hình sự sơ thẩm số 135/2019/HSST ngày 15/3/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
581. Bản án hình sự sơ thẩm số 217/2016/HSST ngày 07/10/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Long An
582. Bản án hình sự sơ thẩm số 135/2012/HSST ngày 21/10/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
583. Bản án hình sự sơ thẩm số 223/2016/HSST ngày 17/10/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
584. Bản án hình sự sơ thẩm số 183/2019/HSST ngày 23/9/2019, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
585. Bản án hình sự sơ thẩm số 175/2017/HSST ngày 30/9/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang