intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phong trào làng mới ở Hàn Quốc và chương trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Thị Thanh Triều | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

136
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này bàn về phong trào làng mới của Hàn Quốc và chương trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam. Trước hết, chúng tôi sẽ đề cập đến các giai đoạn, phương pháp và kết quả thực hiện phong trào làng mới ở Hàn Quốc và chương trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam. Nội dung thứ hai của bài viết nhấn mạnh một số điểm đáng lưu ý trong quá trình triển khai phong trào làng mới ở Hàn Quốc để làm cơ sở cho việc nêu lên những hàm ý đối với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phong trào làng mới ở Hàn Quốc và chương trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam

Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tâ ̣p 2, Số 1b (2016) 16-25<br /> <br /> Phong trào Làng mới ở Hàn Quốc và chương trình<br /> xây dựng Nông thôn mới ở Việt Nam1<br /> Nguyễn Tuấn Anh*, Phạm Quang Minh**, Lê Thị Mai Trang***<br /> Tóm tắt: Bài viết này bàn về phong trào làng mới của Hàn Quốc và chương trình xây<br /> dựng nông thôn mới ở Việt Nam. Trước hết, chúng tôi sẽ đề cập đến các giai đoạn, phương<br /> pháp và kết quả thực hiện phong trào làng mới ở Hàn Quốc và chương trình xây dựng nông<br /> thôn mới ở Việt Nam. Nội dung thứ hai của bài viết nhấn mạnh một số điểm đáng lưu ý<br /> trong quá trình triển khai phong trào làng mới ở Hàn Quốc để làm cơ sở cho việc nêu lên<br /> những hàm ý đối với quá trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.<br /> Từ khóa: Phong trào làng mới; xây dựng nông thôn mới.<br /> Ngày nhận 14/10/2016; ngày chỉnh sửa 18/10/2016; ngày chấp nhận đăng 23/10/2016<br /> <br /> 1. Dẫn nhập<br /> <br /> Việt Nam. Nhằm góp thêm một góc nhìn đối<br /> với quá trình phát triển của xã hội Hàn Quốc<br /> và xã hội Việt Nam, bài viết này sẽ so sánh<br /> một số điểm nổi bật của phong trào làng mới<br /> ở Hàn Quốc và chương trình xây dựng nông<br /> thôn mới ở Việt Nam.<br /> Trước hết, bài viết sẽ đề cập khái quát<br /> năm giai đoạn phát triển của phong trào làng<br /> mới ở Hàn Quốc và hai giai đoạn phát triển<br /> của chương trình xây dựng nông thôn mới ở<br /> Việt Nam. Qua việc bàn về đến tiến trình<br /> thực hiện hai chương trình, phong trào này,<br /> chúng tôi sẽ thảo luận những điểm đáng lưu<br /> ý liên quan đến phương pháp thực hiện hai<br /> chương trình, phong trào. Sau phần phương<br /> pháp thực hiện chương trình, phong trào, bài<br /> viết sẽ so sánh một số kết quả nổi bật của<br /> phong trào làng mới ở Hàn Quốc và chương<br /> trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.<br /> Phần cuối cùng của bài viết sẽ nhìn lại một<br /> số điểm đáng lưu ý của phong trào làng mới<br /> ở Hàn Quốc đề nêu lên một số hàm ý đối với<br /> tiến trình xây dựng nông thôn mới ở Việt<br /> Nam.<br /> <br /> Năm 1970, tại Hàn Quốc, phong trào<br /> làng mới được bắt đầu tiến hành nhằm phát<br /> triển khu vực nông thôn và hiện đại hóa xã<br /> hội Hàn Quốc. Bốn mươi năm sau, tại Việt<br /> Nam, chương trình xây dựng nông thôn mới<br /> đã được chính thức thực hiện. Đây là hai<br /> phong trào/chương trình phát triển kinh tếxã hội quan trọng ở hai quốc gia. Hai phong<br /> trào, chương trình này đã và đang tạo nên<br /> những thay đổi to lớn đối với nông thôn nói<br /> riêng và cả xã hội nói chung ở Hàn Quốc và<br /> 1<br /> <br /> Bài viết trong khuôn khổ đề tài cấp Đại học Quốc gia Hà<br /> Nội năm 2016, mã số QG.16.18 “Nghiên cứu đánh giá<br /> quá trình thực hiện xây dựng làng nghề gắn với xây dựng<br /> nông thôn mới”. Các tác giả trân trọng cảm ơn Đại học<br /> Quốc gia Hà Nội và Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu<br /> tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) hỗ trợ thực hiện nghiên<br /> cứu này.<br /> *<br /> Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,<br /> ĐHQG Hà Nội; Email: anhxhh@gmail.com;<br /> tuanna.vnu@vnu.edu.vn<br /> **<br /> Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,<br /> ĐHQG Hà Nội. Email: phqminh62@gmail.com<br /> ***<br /> Trường Đại học Công đoàn;<br /> Email: tranglm@dhcd.edu.vn<br /> 1<br /> <br /> 16<br /> <br /> N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 2, Số 1b (2016) 16-25<br /> <br /> 2. Các giai đoạn phát triển của phong<br /> trào làng mới ở Hàn Quốc và quá trình<br /> xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam<br /> Phong trào làng mới/phong trào cộng<br /> đồng mới/chiến dịch tái xây dựng lại nông<br /> thôn (Saemaul Undong) ở Hàn Quốc được<br /> chính thức tuyên bố bắt đầu thực hiện vào<br /> ngày 22 tháng 4 năm 1970 (The National<br /> Council of Saemaul Undong Movement 1997:<br /> 77). Đây là phong trào trước hết để phát<br /> triển xã hội nông thôn Hàn Quốc. Tuy<br /> nhiên, việc thực hiện phong trào này được<br /> mở rộng ra khu vực đô thị và rộng khắp toàn<br /> quốc, góp phần quan trọng làm nên sự thịnh<br /> vượng của đất nước Hàn Quốc (Chang Soo<br /> Choe 2005: 1). Khi bàn đến phong trào làng<br /> mới, các học giả nhấn mạnh rằng Tổng<br /> thống Hàn Quốc thời đó là Park Chung-Hee<br /> đã nêu rõ tinh thần và mục tiêu cơ bản của<br /> phong trào này như sau: “Phong trào làng<br /> mới thể hiện nỗ lực cải thiện, hiện đại hóa<br /> làng của chúng ta bởi chính chúng ta với<br /> tinh thần tự lực và độc lập. Chính phủ triển<br /> khai cuộc vận động này với sự tin tưởng<br /> chắc chắn rằng cuộc vận động sẽ làm cho<br /> mỗi làng ở Hàn Quốc thành một nơi thịnh<br /> vượng, sung túc để sinh sống” (The National<br /> Council of Saemaul Undong Movement 1997:<br /> 4). Nhìn một cách tổng thể, phong trào làng<br /> mới hướng đến mục tiêu nâng cao đời sống<br /> của mỗi cá nhân và cả cộng đồng làng nhằm<br /> đạt được sự giàu có về vật chất lẫn tinh thần<br /> (The National Council of Saemaul Undong<br /> Movement 1997: 4). Sau tuyên bố chính thức<br /> triển khai chiến dịch/phong trào làng mới<br /> của Tổng thống Park Chung-Hee ngày 22<br /> tháng 4 năm 1970, phong trào đã có nhiều<br /> thay đổi trong quá trình phát triển. Nhìn một<br /> cách tổng thể, phong trào làng mới đã trải<br /> qua 5 giai đoạn, cụ thể như sau.<br /> Giai đoạn thứ nhất được triển khai từ<br /> năm 1970 đến năm 1973. Đây là thời gian<br /> thiết lập nền tảng của phong trào. Những<br /> <br /> 17<br /> <br /> hoạt động đáng lưu ý trong giai đoạn này là<br /> chính phủ hỗ trợ vật chất (cụ thể là xi măng)<br /> và dân làng bỏ công sức ra để thực hiện các<br /> dự án cần thiết đối với làng của mình nhằm<br /> cải thiện điều kiện sống. Ở mỗi làng, một<br /> người đàn ông và một người phụ nữ được cử<br /> ra để lãnh đạo dân làng xây dựng và triển<br /> khai kế hoạch của các dự án. Hoạt động<br /> quan trọng nữa trong giai đoạn này là các cơ<br /> sở huấn luyện lãnh đạo phong trào được mở<br /> để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho<br /> phong trào và hệ thống hỗ trợ phong trào<br /> làng mới được xây dựng từ trung ương đến<br /> các làng (The National Council of Saemaul<br /> Undong Movement 1997: 12-13).<br /> Giai đoạn thứ hai được tiến hành trong<br /> khoảng thời gian từ năm 1974 đến năm<br /> 1976. Đây là thời kỳ đẩy mạnh sự phát triển<br /> của phong trào. Cụ thể là phong trào làng<br /> mới được triển khai từ khu vực nông thôn đã<br /> lan rộng ra đến các nhà máy, tổng công ty và<br /> trở thành phong trào có quy mô trên toàn<br /> quốc. Đi liền với việc mở rộng phong trào,<br /> nhiều nhân lực, tài chính lẫn tổ chức đã<br /> được huy động để thúc đẩy sự phát triển của<br /> phong trào (The National Council of Saemaul<br /> Undong Movement 1997: 13-14).<br /> Giai đoạn thứ ba là giai đoạn cao điểm<br /> trong quá trình thực hiện phong trào làng<br /> mới. Giai đoạn này được tiến hành từ năm<br /> 1977 đến năm 1979. Đặc trưng quan trọng<br /> của giai đoạn này là mở rộng phạm vi không<br /> gian các dự án. Việc mở rộng phạm vi<br /> không gian các dự án được tiến hành trên cơ<br /> sở liên kết các làng lại với nhau để có những<br /> dự án vượt ra bên ngoài ranh giới một làng<br /> và bao phủ cả một vùng địa lý gồm nhiều<br /> làng. Với những dự án như thế, cư dân của<br /> các làng có thể sử dụng những cơ sở vật chất<br /> tốt hơn, và nhiều hơn do các dự án tạo ra.<br /> Điểm đáng lưu ý nữa trong giai đoạn này là<br /> sự mở rộng và nâng cao sự liên kết khu vực<br /> nông thôn và đô thị. Điều này giúp nâng cao<br /> hiệu quả thực tiễn của phong trào (The<br /> <br /> 18<br /> <br /> N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 2, Số 1b (2016) 16-25<br /> <br /> National Council of Saemaul Undong<br /> Movement 1997: 14-15).<br /> Giai đoạn thứ tư của phong trào làng mới<br /> diễn ra từ năm 1980 đến 1989. Điểm đáng<br /> lưu ý trong giai đoạn này là sự qua đời của<br /> Tổng thống Park Chung-Hee. Điều này dẫn<br /> đến thực trạng là đất nước Hàn Quốc rơi vào<br /> giai đoạn bất ổn. Đối với phong trào làng<br /> mới, nếu như những giai đoạn trước, phong<br /> trào được dẫn dắt bởi chính phủ thì trong<br /> giai đoạn này phong trào được chuyển sang<br /> cho khu vực tư nhân. Ngày 13 tháng 12 năm<br /> 1980, đạo luật thúc đẩy tổ chức làng mới có<br /> hiệu lực đã hướng đến mục đích hỗ trợ thúc<br /> đẩy các tổ chức làng mới tự nguyện được<br /> hình thành bởi khu vực tư nhân. Một điểm<br /> cần đề cập đến trong giai đoạn này là phong<br /> trào gặp phải tai tiếng liên quan đến việc<br /> quản lý tài chính. Tuy vậy, phong trào đã nỗ<br /> lực vượt qua những tác động tiêu cực này và<br /> tiếp tục thực hiện các dự án làm đường, dự<br /> án đào tạo về nông nghiệp phối hợp, cải<br /> thiện việc phân bố và hoạt động của liên<br /> minh tín dụng Saemaul (The National<br /> Council of Saemaul Undong Movement 1997:<br /> 16).<br /> Giai đoạn thứ năm được tiến hành từ<br /> năm 1990 đến năm 1998. Đây là giai đoạn<br /> phát triển tự chủ, chú trọng vào củng cố nền<br /> tảng của sự tự quản và tự lực, đáp ứng nhu<br /> cầu của tự do hóa và địa phương hóa, nỗ lực<br /> vượt qua khủng hoảng kinh tế. Giai đoạn<br /> này cũng chú trọng khuyến khích công dân<br /> chuyển tình yêu cộng đồng láng giềng thành<br /> thực tế đi liền với việc phục vụ người khác,<br /> đồng thời với việc thúc đẩy quan niệm về<br /> việc chia sẻ vận mệnh chung và phục hồi<br /> đạo đức trong cộng đồng (The National<br /> Council of Saemaul Undong Movement 1997:<br /> 17).<br /> Ngoài năm giai đoạn phát triển ở trên, từ<br /> năm 2013, trung tâm Korea Saemaul<br /> Undong đã mở ra một thời kỳ mới với khẩu<br /> hiệu: “Làm việc cùng nhau vì hạnh phúc<br /> <br /> quốc gia thông qua Saemaul Undong thứ<br /> hai” (Saemaul Undong Center 2016: 12). Như<br /> vậy, phong trào làng mới đã trải qua các giai<br /> đoạn phát triển với những đặc điểm riêng<br /> của phong trào trong mỗi giai đoạn trên cơ<br /> sở tinh thần, tư tưởng, mục tiêu, dự án, tổ<br /> chức, và hoạt động của phong trào. Nhìn<br /> một cách tổng thể, phong trào làng mới<br /> được đánh giá là có vai trò không thể bàn<br /> cãi đối với quá trình phát triển của Hàn<br /> Quốc.<br /> Bốn mươi năm sau thời điểm phong trào<br /> làng mới được tuyên bố thực hiện ở Hàn<br /> Quốc, chương trình xây dựng nông thôn mới<br /> ở Việt Nam đã được triển khai. Cho đến nay<br /> đã có nhiều văn bản khác nhau của Đảng và<br /> Nhà nước Việt Nam về xây dựng nông thôn<br /> mới. Văn bản quan trọng đầu tiên cần đề cập<br /> đến là Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban<br /> Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt<br /> Nam khóa X “Về nông nghiệp, nông dân,<br /> nông thôn”. Nghị quyết đã khẳng định mục<br /> tiêu: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu<br /> hạ tầng kinh tế-xã hội hiện đại; cơ cấu kinh<br /> tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý,<br /> gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công<br /> nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã<br /> hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá<br /> dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường<br /> sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở<br /> nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được<br /> tăng cường” (Ban Chấp hành Trung ương<br /> Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X 2008).<br /> Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết này, ngày 16<br /> tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã<br /> ban hành “Quyết định về việc ban hành Bộ<br /> tiêu chí quốc gia về nông thôn mới”. Bộ tiêu<br /> chí có 19 tiêu chí về nông thôn mới. 19 tiêu<br /> chí này thuộc 5 lĩnh vực: Quy hoạch, hạ tầng<br /> kinh tế xã hội, kinh tế và tổ chức sản xuất,<br /> văn hóa-xã hội-môi trường, hệ thống chính<br /> trị (Thủ tướng Chính phủ 2009). Sau đó,<br /> <br /> N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 2, Số 1b (2016) 16-25<br /> <br /> ngày 4 tháng 6 năm 2010, Thủ tưởng Chính<br /> phủ đã ban hành “Quyết định phê duyệt<br /> Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây<br /> dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020”<br /> (Thủ tướng Chính phủ 2010) và Ban chỉ đạo<br /> Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia<br /> xây dựng nông thôn mới đã có “Kế hoạch<br /> triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia<br /> xây dựng nông thôn mới giai đoạn 20102020” vào ngày 20 tháng 9 năm 2010 (Ban<br /> chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu<br /> quốc gia xây dựng nông thôn mới 2010).<br /> Cho đến nay, chương trình xây dựng nông<br /> thôn mới ở Việt Nam đã đi được chặng đầu<br /> tiên (2010-2015). Trong giai đoạn này,<br /> Chương trình xây dựng nông thôn mới đã<br /> triển khai 11 nội dung, bao gồm: Quy hoạch<br /> xây dựng nông thôn mới, phát triển hạ tầng<br /> kinh tế-xã hội, chuyển dịch cơ cấu, phát<br /> triển kinh tế, nâng cao thu nhập, giảm nghèo<br /> và an sinh xã hội, đổi mới và phát triển các<br /> hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở<br /> nông thôn, phát triển giáo dục-đào tạo ở<br /> nông thôn, phát triển y tế, chăm sóc sức<br /> khỏe cư dân nông thôn, xây dựng đời sống<br /> văn hóa, thông tin và truyền thông nông<br /> thôn, cấp nước sạch và vệ sinh môi trường<br /> nông thôn, nâng cao chất lượng tổ chức<br /> Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị-xã hội<br /> trên địa bàn, giữ vững an ninh, trật tự xã hội<br /> nông thôn (Thủ tướng Chính phủ 2010).<br /> Trong giai đoạn 2016-2020, những nội dung<br /> trên sẽ tiếp tục được triển khai ở các địa<br /> phương trong cả nước. Trên thực tế, quá<br /> trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn<br /> 2010-2015 đã làm thay đổi làng xã trên<br /> nhiều phương diện. Phần viết tiếp theo đề<br /> cập đến phương pháp thực hiện của phong<br /> trào làng mới ở Hàn Quốc trong sự so sánh<br /> với giải pháp chủ yếu để thực hiện chương<br /> trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.<br /> <br /> 19<br /> <br /> 3. Phương pháp thực hiện của phong trào<br /> làng mới ở Hàn Quốc và giải pháp chủ<br /> yếu để thực hiện chương trình xây dựng<br /> nông thôn mới ở Việt Nam<br /> Phương pháp thực hiện phong trào làng<br /> mới ở Hàn Quốc là một trong những yếu tố<br /> quan trọng làm nên thành công của phong<br /> trào làng mới. Có nhiều điểm đáng lưu ý khi<br /> bàn về phương pháp làng mới. Điểm đáng<br /> lưu ý đầu tiên là việc kết hợp giữa hỗ trợ của<br /> chính phủ và tự lực của dân làng. Liên quan<br /> đến vấn đề này, nhà nghiên cứu Do Hyun<br /> Han (2012) đã nhấn mạnh rằng phong trào<br /> này bắt đầu bởi một chương trình được tiến<br /> hành ở khu vực nông thôn mùa đông năm<br /> 1970-1971, trong đó chính phủ hỗ trợ vật<br /> chất cụ thể là xi măng còn dân làng đóng<br /> góp sức lao động và đất đai để thực hiện các<br /> dự án phát triển cộng đồng làng. Cách làm<br /> này đã mang lại những thành công ban đầu<br /> và được vận dụng để triển khai các dự án<br /> phức hợp, đa dạng (Do Hyun Han 2012).<br /> Liên quan đến phương pháp thực hiện phong<br /> trào làng mới ở Hàn Quốc, các dự án trong<br /> khuôn khổ phong trào được triển khai theo<br /> quy trình ba bước: Lựa chọn những dự án<br /> cần thiết, thực hiện các dự án, và đánh giá<br /> kết quả các dự án. Nhiều tiêu chí đã được<br /> đưa ra khi lựa chọn các dự án để thực hiện<br /> chẳng hạn như dự án phải cần thiết đối với<br /> người dân và cộng đồng địa phương, dự án<br /> phải thúc đẩy tiềm năng của cộng đồng địa<br /> phương, dự án phải có tác động lâu dài, lan<br /> tỏa và có thể thực hiện được xét về mặt tiền<br /> bạc, nhân lực và thời gian (The National<br /> Council of Saemaul Undong Movement 1997:<br /> 46).<br /> Ở Việt Nam, giải pháp chủ yếu để thực<br /> hiện chương trình xây dựng nông thôn mới<br /> cũng có những điểm giống với phương pháp<br /> thực hiện phong trào làng mới ở Hàn Quốc.<br /> Theo “Quyết định phê duyệt Chương trình<br /> mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn<br /> <br /> 20<br /> <br /> N. T. Anh, P. Q. Minh, L. T. M. Trang / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 2, Số 1b (2016) 16-25<br /> <br /> mới giai đoạn 2010-2020” thì các giải pháp<br /> để thực hiện chương trình xây dựng nông<br /> thôn mới có những điểm nổi bật sau đây.<br /> Thứ nhất, thực hiện cuộc vận động xã hội<br /> sâu rộng về xây dựng nông thôn mới. Cụ thể<br /> là tổ chức phát động, tuyên truyền, phổ biến,<br /> vận động từ trung ương đến cơ sở, để mọi<br /> tầng lớp nhân dân hiểu và cả hệ thống chính<br /> trị tham gia. Thêm nữa, các mô hình, điển<br /> hình tiên tiến, sáng kiến và kinh nghiệm hay<br /> về xây dựng nông thôn mới được phổ biến<br /> và nhân rộng, và phong trào thi đua xây<br /> dựng nông thôn mới trong toàn quốc được<br /> phát động. Thứ hai, thực hiện đa dạng hóa<br /> các nguồn vốn huy động để triển khai thực<br /> hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.<br /> Các nguồn vốn đến từ ngân sách nhà nước,<br /> doanh nghiệp, sự đóng góp tự nguyện của<br /> nhân dân, và các khoản viện trợ không hoàn<br /> lại của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân<br /> trong và ngoài nước, và các nguồn vốn hợp<br /> pháp khác. Thứ ba, Ban giám sát cộng đồng<br /> gồm đại diện của Hội đồng nhân dân, Mặt<br /> trận tổ quốc xã, các tổ chức xã hội và đại<br /> diện của cộng đồng dân cư hưởng lợi công<br /> trình do dân bầu thực hiện giám sát các công<br /> trình cơ sở hạ tầng xã theo quy định hiện<br /> hành về giám sát đầu tư của cộng đồng. Thứ<br /> tư, cán bộ chuyên trách để triển khai chương<br /> trình mục tiêu quốc gia được đào tạo. Đội<br /> ngũ cán bộ chuyên trách ở các cấp từ Trung<br /> ương đến địa phương được xây dựng để<br /> triển khai có hiệu quả chương trình. Thứ<br /> năm, hợp tác quốc tế trong xây dựng nông<br /> thôn mới qua việc vận động, hợp tác với<br /> các tổ chức quốc tế hỗ trợ tư vấn và kỹ thuật<br /> cho chương trình mục tiêu quốc gia xây<br /> dựng nông thôn mới. Tranh thủ hỗ trợ vốn<br /> và vay vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế<br /> và các đối tác phát triển quốc tế để tăng<br /> nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới. Thứ<br /> sáu, Ban Chỉ đạo Trung ương để chỉ đạo<br /> thực hiện chương trình được thành lập. Văn<br /> phòng điều phối Chương trình giúp Ban Chỉ<br /> đạo ở Trung ương đặt tại Bộ Nông nghiệp<br /> <br /> và Phát triển nông thôn. Ở các tỉnh, thành<br /> phố trực thuộc Trung ương, Sở Nông nghiệp<br /> và Phát triển nông thôn là cơ quan thường<br /> trực điều phối, giúp Ban Chỉ đạo tỉnh, thành<br /> phố trực thuộc Trung ương thực hiện<br /> Chương trình trên địa bàn (Thủ tướng Chính<br /> phủ 2010).<br /> Nhìn lại phương pháp thực hiện phong<br /> trào làng mới ở Hàn Quốc và chương trình<br /> xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam, chúng<br /> ta thấy một số điểm tương đồng sau đây.<br /> Thứ nhất, việc vận động quần chúng thực<br /> hiện phong trào được coi trọng. Cả ở Hàn<br /> Quốc lẫn ở Việt Nam, việc vận động quần<br /> chúng thay đổi nhận thức và tham gia phong<br /> trào đã được tiến hành sâu rộng. Thứ hai, cả<br /> hai chương trình, phong trào đều dựa trên<br /> phương pháp nhà nước và nhân dân cùng<br /> làm. Điều này được thể hiện cụ thể trên<br /> nhiều phương diện từ đóng góp tiền bạc cho<br /> đến công lao động.<br /> 4. Một số kết quả chính của phong trào<br /> làng mới ở Hàn Quốc và chương trình<br /> xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam<br /> Kết quả của phong trào làng mới ở Hàn<br /> Quốc và chương trình xây dựng nông thôn<br /> mới ở Việt Nam được thể hiện trên nhiều<br /> phương diện khác nhau. Một số kết quả nổi<br /> bật có thể kể đến cụ thể như sau.<br /> Trước hết là về mặt kinh tế, phong trào<br /> làng mới đã hiện đại hóa nông thôn Hàn<br /> Quốc (The National Council of Saemaul<br /> Undong Movement 1997: 48). Điểm đáng lưu<br /> ý ở đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hàn<br /> Quốc, thu nhập trung bình của hộ gia đình<br /> sống ở khu vực nông thôn cao hơn thu nhập<br /> trung bình của hộ gia đình sống ở khu vực<br /> đô thị. Cụ thể là năm 1974, ba năm sau khi<br /> thực hiện phong trào làng mới, thu nhập<br /> bình quân của hộ gia đình sống ở khu vực<br /> nông thôn là 674.000 Korean won, trong khi<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2