Phong tục trầu cau
lượt xem 15
download
Phong tục trầu cau là một phong tục mà nhiều nhà sử học hay các nhà văn hoá đã nghiên cứu. Nghiên cứu tục lệ ăn trầu của người Việt để hiểu được một phần trong phong tục văn hóa cổ truyền của người Việt. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phong tục trầu cau
- PHONG TỤC TRẦU CAU I.Tìm hiểu chung Trầu này trầu quế, trầu hồi Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu mình Trầu này trầu tính, trầu tình Trầu nhân, trầu ngãi, trầu mình với ta Trầu này têm tối hôm qua Trầu cha, trầu mẹ đem ra cho chàng Tự bao giờ, miếng trầu đã trở thành hình ảnh quen thuộc với biết bao thế hệ người con đất Việt. Dân tộc ta đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử với những giá trị văn hóa giàu bản sắc,mang âm hưởng và truyền thống của những con người mang trong mình dòng máu rồng tiên. Trong đó phải kể đến tục lệ ăn trầu, một phong tục văn hoá truyền thống của người Việt, không chỉ dân tộc kinh ăn trầu mà ở một số dân tộc khác cũng ăn trầu, mà còn dùng trầu cau vào các nghi lễ lớn như cưới xin, cúng gia tiên, đám ma, ngày lễ tết.Có lẽ trầu cau là một thứ mà không thể thiếu được trong văn hoá cổ truyền của dân tộc ta.Và ngày hôm nay nhóm 4 chúng em sẽ cùng cô và các bạn tìm hiểu về phong tục ăn trầu của người Việt ta xưa và nay. Mặc dù ngày nay, một số nghi thức đã mất dần đi, thêm vào đó là những nét văn hoá hiện đại, tục lệ ăn trầu bắt nguồn từ sự tích trầu cau được trích trong Lĩnh Nam chích quái, mà Trần Thế Pháp đã nêu
- ra. Gắn liền với tục ăn trầu là những hiện tượng văn hoá phong phú mà người xưa thường làm. Qua tục ăn trầu ta có thể hiểu thêm về nếp sống, một nếp cảm nghĩ, mối quan hệ tình cảm giữa những người lao động cùng những ước mơ lành mạnh của họ bắt nguồn từ xa xưa. Ngày nay, số người ăn trầu ngày càng ít dần, tục ăn trầu sẽ không còn trong xã hội tương lai, nhưng những giá trị tinh thần chân chính biểu hiện qua tục ăn trầu thì vẫn tồn tại. Tất cả những vốn quý đó cần được nghiên cứu và sử dụng nhằm phát huy cao độ những di sản văn hoá quá khứ để góp phần cải tạo và xây dựng nếp văn hoá mới ở nước ta. Đây là một phong tục mà nhiều nhà sử học hay các nhà văn hoá đã nghiên cứu và tìm tòi. Nghiên cứu tục lệ ăn trầu của người Việt để hiểu được một phần trong phong tục văn hóa cổ truyền của người Việt. II.Sự tích trầu cau Phong tục ăn trầu vốn đã có cực kì lâu đời ở Việt Nam, Tương truyền có từ thời Hùng Vương và gắn liền với một câu chuyện cổ tích nổi tiếng: Chuyện Trầu Cau. Sự tích kể rằng: Thời xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em. Bố mẹ chết sớm, hai anh em theo học ông đạo sĩ họ Lưu. Họ học hành chăm chỉ lại đứng đắn nên được thầy yêu như con. Khi hai anh em đến tuổi trưởng thành, ông thầy gả con gái cho người anh Từ khi người anh có vợ thì tình thương yêu giữa hai anh em không được thắm thiết nữa. Người em rất là buồn, nhưng người anh vô tình không để ý đến.
- Một hôm hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về, chị dâu nhầm là chồng mình ôm chầm lấy. Người anh về sau thấy thế hiểu nhầm và càng hờ hững với người em. Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa xa, cảm thấy cô quạnh, lại càng buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi. Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng phía trước mặt, rồi theo đường mòn đi thẳng vào rừng âm u. Ði đến một con suối rộng nước sâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Ðêm mỗi lúc một khuya, sương xuống mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng đá. Người anh cùng vợ về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm, không nói cho vợ biết. Theo con đường mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi, và sau cùng đến con suối xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng và không thể lội qua được, đành ngồi bên bờ suối, tựa mình vào một tảng đá. Chàng có ngờ đâu chính tảng đá là em mình! Chàng rầu rĩ khóc than hồi lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên tảng đá. Ở nhà, người vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn đi vào rừng thẳm. Nàng đi mãi, rồi cuối cùng cũng gặp con suối nước sâu và xanh biếc. Nàng không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không cành mọc bên tảng đá, vật mình than khóc. Chưa đầy nửa đêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân mình dài lêu nghêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành mọc bên tảng đá. Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm, vua Hùng đi qua chỗ ấy, nhân dân đem chuyện ba người kể lại cho vua nghe và đến xem. Vua bảo thử lấy lá cây leo và lấy quả ở cái
- cây không cành nghiền với nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay? Nhai thử, thấy thơm ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra sắc đỏ. Nhân dân gọi cái cây mọc thẳng kia là cây cau, cây dây leo kia là cây trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng thơm, môi đỏ. Trầu cau và đá vôi là mối tình dân tộc. Miếng trầu cay, nồng thắm đỏ, ăn rồi không bỏ được nhau. Đó là duyên là tình, là hoà hợp của những câu chuyện “ ngày xửa , ngày xưa...” III. Trầu cau trong triết lý người Việt Nam Ở Việt Nam, mọi thứ thường đi đôi theo nguyên tắc âm dương hài hoà. Khái niệm “âm dương” có thể gặp trong nhiều lĩnh vực : xin âm dương ( tung hai đồng xu sao cho một sấp, một ngửa. ) , ngói âm dương ( ngói lợp nhà kiểu viên sấp, viên ngửa). Người Việt Nam từ tư duy đến cách sống , từ các dấu vết cổ xưa đến thói quen hiện đại, khắp nơi đều toát lên tính cách quân bình âm dương như một đặc trưng chung nhất. Tục ăn trầu cau tiềm ẩn một triết lý về sự tổng hợp của nhiều chất khác nhau : Cây cau vươn cao là biểu tượng của trời (dương) , vôi đất đá biểu tượng của đất (âm) , dây trầu mọc lên từ đất , quấn quýt lấy thân cau , biểu tượng cho vai trò trung gian hoà hợp . Trầu cau nhai làm một , miếng trầu có cái tươi ngọt từ hạt cau , cái cay của lá trầu, cái nồng nàn của vôi, cái bùi của rễ...tất cả tạo nên một chất kích thích , làm cho thơm mồm, đỏ môi . Miếng trầu còn tàng ẩn, tiềm ẩn tình nghĩa anh em ở nơi sự tích trầu cau vôi: Sống chia rẽ anh em là chết. Sự hối hận đền bù cho cái chết, bằng cái chết... Chết rồi nhưng vì biết hối hận nên lại sống lại, hóa thân nơi trầu cau vôi, hòa hợp nơi miếng trầu. Một triết lý nhân sinh huyền nhiệm, tuyệt vời, không cần rao giảng rườm lời như triết lý Tây, không cần "thiên kinh địa nghĩa" như triết lý Tàu. Triết lý Việt
- Nam thường là "triết lý vô ngôn" mà hay. Mà mầu nhiệm. Mà đầy tính "hiệu quả". Nét đẹp và giá trị của văn hoá trầu cau: Tục ăn trầu cũng là một trong những yếu tố cấu thành nền văn hoá Việt Nam, hơn thế nữa, nó chính là một nét giao tiếp đặc sắc của người Việt, mang nặng tình người và chở nặng tính người nhất. Trầu cau gần gũi với sinh hoạt của người Việt nên hiển nhiên nó cũng trở thành hình tượng của văn học dân gian. Sự tích Trầu Cau là một câu chuyện bi ai mà thắm đượm nghĩa tình với hình tượng khó quên cây caungười chồng, dây trầungười vợ và hòn đá (vôi)đứa em trai chồng... Rồi đến cả trăm câu ví, câu đố, ca dao, ngạn ngữ, tục ngữ dân gian mà tập trung nhất là những bài, những câu của trai gái nói, hát với nhau gọi là những câu hát trao duyên, câu hát mời trầu. Hát mời trầu có tới hàng trăm câu hát khác nhau nhưng câu nào cũng nói tới trầu, cau, vôi, vỏ hoặc nói về cái tài của người bổ cau, têm trầu. Câu hát mời trầu cũng là câu hát bày tỏ lòng mình. Bên cạnh những "vôi nồng", "miếng trầu cánh phượng", "cau bổ bốn bổ ba", là những "trầu giải yếm giải khăn", "trầu loan, trầu phượng, trầu tôi trầu mình" là những "trầu tính trầu tình", "trầu nhân, trầu ngãi"... để rồi thành "trầu mình lấy ta", "trầu nên vợ nên chồng". Tục ăn trầu còn gắn với phong tục nhuộm răng đen để có những má hồng răng đen tiêu biểu của cái đẹp con gái thuở nào. Người thôn nữ má hồng răng đen, một thuở đã trở thành hình ảnh làm si mê biết bao chàng trai, như câu ca xưa: "Mình về mình nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cười Năm quan mua lấy miệng cười Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen."
- Đối với người Việt Nam, trầu cau là biểu tượng của tình cảm. Gặp nhau sau câu chào, người ta mời trầu. Mời trầu để làm quen, và để tỏ lòng tin cậy... Một người phương Tây đến Việt Nam thế kỷ 17 nhận xét: Người Việt Nam đi đâu cũng có túi trầu mang theo. Gặp nhau, sau câu chào hỏi, cởi túi trầu, người nọ lấy miếng trầu ở túi người kia, rồi vừa ăn trầu "của nhau" vừa trò chuyện... Mến yêu, tin cậy, lịch sự biết bao! Cau trầu còn biểu đạt tình yêu nam nữ một cách rất tinh tế và ý nhị. Này đây là miếng trầu tỏ tình của người con gái đưa cho người con trai: Vào vườn hái quả cau xanh Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu Trầu này trầu tính, trầu tình, Trầu loan, trầu phượng, trầu mình lấy ta. Hay khi người con gái cầm miếng trầu do người bạn trai trao, hiểu rõ đó không chỉ đơn giản là trầu : Miếng trầu ăn nặng bằng chì Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn. Cái "bạo dạn" của người thôn nữ xưa không đi "quá" đến sự "trâng tráo" mà được "cân bằng" lại bằng sự "giữ gìn", giữ lấy cái mà phương Tây xem là "nữ tính" hơn cả: tính e thẹn:
- Sáng nay em đi hái dâu Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn Hai anh đứng dậy hỏi han Miệng nói tay cởi túi trầu mời ăn. Thưa rằng: Bác mẹ em răn Làm thân con gái chớ ăn trầu người... Phép biện chứng vừa bạo dạn, vừa e thẹn đúng nơi, đúng lúc, là nghệ thuật sống của người thanh nữ...Đó là nghệ thuật chối từ mà giờ đây ít ai chịu học vì đã quá quen với sự "thu nhận". "Nên vợ, nên chồng" rồi, thì khi người chồng ra đi vì việc công vì việc quân, người vợ đảm cũng têm trầu, giữ tình nghĩa nơi miếng trầu tiễn chồng ra trận: Túi gấm cho lẫn túi hồng Têm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân. Một giá trị đẹp, một cử chỉ đẹp. Đẹp và lịch sự. Duyên thầm. Tình ẩn. Tiềm ẩn nơi miếng trầu. Một lời chúc phúc. Một ý mong chiến thắng. Đối với người Việt Nam, tục ăn trầu phải đủ bộ ba trầu, cau, vôi như sự tích trầu cau đã đề cập. Phải có đầy đủ những vật dụng gắn với việc ăn trầu như ngày nay vẫn thấy, đó là cơi trầu, là dao bổ cau, là chiếc âu trầu, là bình vôi, chìa vôi, ống vôi, là khăn, là túi đựng trầu. Nhà giàu còn đựng được tráp trầu, khay trầu sơn màu khảm trai rất đẹp. Như thế đủ thấy trầu cau gắn liền với sinh hoạt của nông thôn ta chặt chẽ và lâu đời biết dường nào. Trầu cau còn là một thứ đi đầu các sự lễ nghĩa. Ngoài việc phục vụ tục ăn trầu của người Việt, trầu cau còn là lễ vật không thể thiếu
- trong các lễ lạc, giỗ, chạp. Dân gian có câu "Sửa cơi trầu, đĩa hoa dâng cụ" để tưởng nhớ tổ tiên, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của bậc tiền nhân. . Bất kỳ giỗ, chạp lớn hay nhỏ cũng phải có đĩa trầu cau đặt trên bàn thờ cúng tổ tiên, ông bà. Trong ngày tết luôn luôn có đĩa trầu cau trên các bàn thờ để cầu tài lộc cho năm mới. Cau thờ phải chọn trái cau xanh, to, ruột nhiều, vỏ mỏng. Trầu chọn lá trầu xanh, to không bị rách Ngoài ra trầu cau còn để tiếp khách đến chúc xuân đầu năm. Đặc biệt, nét văn hóa truyền thống được lưu truyền đến ngày nay, đó là đi chợ mở hàng trước hết phải mua trầu cau rồi mới mua các thứ khác. Ở nhiều địa phương vào sáng mồng một tết có bà già gánh trầu cau đi bán, khi nghe tiếng rao “ Ai mua lộc đầu năm đây!” thì nhà nhà đều nhanh chân chạy ra chọn mua, không trả giá mà tùy lòng hảo tâm của mỗi người. Trong tang ma ngoài việc cúng trầu cau, khi đưa tang phải có khay trầu để mời bà con đưa đám. Lúc tạ lễ với đội Ông Công phải có đĩa trầu cau. Trong phong tục cưới hỏi, trầu cau càng quan trọng hơn. Có hẳn một lễ riêng gọi là “Lễ hỏi/bỏ trầu cau”. Lễ này từ nhà trai mang đến nhà gái, gồm có tiền, vàng, bánh trái,... và không thể thiếu trầu cau. Lễ này ghi nhận sự thoả thuận thống nhất giữa 2 nhà trai gái kết tình sui gia. Ở lễ cưới, quả (mâm) trầu cau phải được phủ khăn đỏ thể hiện sự may mắn và luôn đặt ở vị trí đầu tiên trong các vật phẩm làm lễ (bánh trái, trà, rượu, tiền vàng,...). Điều đó thể hiện trầu cau là lễ vật đặc biệt quan trọng gắn kết duyên phận của con người. Miếng trầu, đơn giản thế thôi: Trầu, cau, vôi, nếu có thể thêm tí vỏ, viên thuốc lào (với người ăn "trầu thuốc"). ấy thế mà miếng trầu mang đậm "cá tính con người". Người ta têm trầu là để mời trầu, mời người khác ăn trầu.
- Nhìn miếng trầu, đã biết được con người "têm" nó. Chàng hoàng tử trong truyện cổ tích nhận ra nàng (Tấm) là do miếng trầu, là nhờ miếng trầu, ở cái dáng đẹp (hay xấu) của miếng trầu têm, ở nếp gấp lá, cài trầu ở cái cánh trầu... Ăn miếng trầu, càng biết được "tính nết" người têm nó. Giản dị hay cầu kỳ. Đậm đà hay nhạt nhẽo. Do chất lượng và số lượng vôi bôi trên lá trầu. Và có khi miếng trầu "ở giữa đậm quế hai đầu thơm cay"... Trầu cau đã góp phần làm cho kho tàng văn hóa dân gian thêm phong phú. Tóm lại, trầu cau đã đi vào đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Việt ngàn năm trước và trở thành tính biểu tượng của tập quán dân tộc, của truyền thống văn hóa, của tình nghĩa thủy chung son sắt từ bao đời nay của dân tộc ta. Người thời nay dẫu đa số chẳng ăn trầu song vẫn âm thầm nhớ, da diết nhớ cái duyên nghĩa trầu cau. Phải chăng đó là cái duyên của sự chuyển hóa, của sự biến điệu. Trầu, cau, vôi, vỏ... tất cả nếu đứng riêng rẽ thì mỗi thứ chỉ là cây, là đá, là lá. Nhưng khi chúng hợp lại, hòa quyện, được ủ ấp trong môi miệng của con người, thì tất cả bỗng biến đổi. Trở nên đằm thắm, trở nên rực rỡ. Và trầu cau đã là nơi khởi đầu cho bao mối lương duyên. Còn ít ỏi lắm những cụ bà còn gắn với duyên nghiệp trầu cau. Rồi họ cũng sẽ lần lượt đi theo tiếng gọi của đất. Song chút hương xưa, chút duyên thầm của nét văn hóa này còn đó. Còn một mạch ngầm toả lan trong dòng máu của người Việt Nam không dễ gì mai một. TRẦU TÊM CÁNH PHƯỢNG
- Xa xưa, quan họ đã tiếp khách, đi mời khách, hoặc đi chơi hội, thậm chí sang nhà nhau "thăm thầy, thăm mẹ sau nữa là thăm anh Hai, chị Hai "thường là có cơi trầu là đầu câu chuyện". Thưa gửi trong câu chuyện thường ngày, cũng lấy miếng trầu làm cớ. Chẳng hạn: "Trầu này trầu tính, trầu tình, Trầu loan, trầu phượng trầu mình trầu ta. Trầu này têm tối hôm qua, Hôm nay tiếp bạn mang ra mời người...". Ca dao Việt Nam thì thấm thía, sâu xa: Ăn trầu cho miệng đỏ môi, Uống rượu cho chén tươi đôi má hồng. Trong Dân ca Quan họ có cả một bài ca nói về miềng trầu têm cánh phượng mà gửi theo những tâm trạng: "Thì tay em nâng cái cơi trầu. Mắt em nhìn em liếc em trông... Trầu têm cánh phượng dâng lên mời người. Ai ơi có thấu chăng là đến chúng em chăng..." Hoàn thành một miếng trầu không khó, quan trọng là biết chọn lá, chọn vỏ, chon cau và đặc biệt phải khéo tay. Cũng thì miếng trầu, người này têm đẹp, người kia têm thô cũng là chuyện dễ hiểu. Têm để có, chắc nhiều người têm đuợc. Têm mời khách mà khách ăn trầu còn nhớ mãi, nhớ cả "cái tính, cái tình" trong miếng trầu... mới là khó. Ăn trầu không hẳn để cho "Miệng đỏ môi"; uống chén rượu là uống cái Tình, thế mới xa xôi rằng: uống rượu cho chén tươi đôi má hồng là vì vậy. Cái chén làm gì có má hồng. Má hồng chỉ ở khuôn mặt thiếu nữ, nhất là thiếu nữ Quan họ khi tiếp bạn thì má đã hồng càng hồng thêm...
- Ca dao còn nói: Yêu nhau cau sáu bổ ba,( quý nhau mời trầu) Không yêu cau sáu bổ ra làm mười(ghét nhau theo phép lịch sự) Nhưng ca dao cũng nhắc: Mời nhau một miếng cau khô, Người khôn thích mỏng, kẻ thô tham dày. Làm được miếng trầu đã khó. được mời trầu còn khó hơn. Vượt lên tất cả cái tình, cái nghĩa; là lời nói câu mời sao cho khéo, cho đẹp thì nếu ta có được người Quan họ mời ăn trầu cánh phượng.... chắc cũng dễ ăn. V.Trầu cau trong đời sống văn hóa hiện nay Theo phong tục Việt Nam “Miếng trầu là đầu câu chuyện” miếng trầu chứa đựng nhiều ý nghĩa. Miếng trầu đi đôi với lời chào. Người lịch sự không “ăn trầu cách mặt” nghĩa là đã tiếp thì tiếp cho khắp lượt, trong cùng một cuộc gặp không thể mời người này mà bỏ người khác vì trầu cau là “đầu trò tiếp khách” lại là biểu tượng cho sự tôn kính, phổ biến trong các lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ cưới, lễ thọ, lễ mừng… Tương truyền việc ăn trầu có từ thời Hùng Vương và gắn liền với chuyện cổ tích nổi tiếng “Chuyện trầu cau”. Miếng trầu gồm 4 thứ nguyên liệu: cau (vị ngọt), lá trầu không (vị
- cay), rễ (vị đắng) và vôi (vị nồng). Ăn trầu thể hiện nếp sinh hoạt mang đậm tính dân tộc độc đáo của Việt Nam. Sách xưa ghi rằng “ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm”. Miếng trầu, làm cho người ta gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Miếng trầu nhân lên niềm vui, khách đến được mời trầu; tiệc cưới có đĩa trầu để chia vui; ngày lễ, tết, ngày hội miếng trầu với người lạ để làm quen, kết bạn; với người quen miếng trầu là tri ân tri kỷ. Miếng trầu cũng làm người ta ấm lên trong những ngày đông lạnh giá, làm nguôi vợi bớt nỗi buồn khi nhà có tang, có buồn được sẻ chia cảm thông bởi họ hàng bạn bè làng xóm. Miếng trầu còn là sự thể hiện lòng thành kính của thế hệ sau với các thế hệ trước cho nên trên mâm cỗ thờ cúng gia tiên của người Việt có trầu cau Với người Việt Nam, trầu cau không đơn thuần chỉ là một thói quen, tập tục mà còn là yếu tố tạo nên những giá trị văn hóa truyền thống. Trầu cau là đầu trò của giao tiếp, ứng xử, là sự bắt đầu, sự khơi mở tình cảm khiến người ta gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Trầu cau là lễ vật khởi đầu trong các nghi lễ truyền thống quan trọng như lễ tế tự của các thấy cúng, thầy xem bói trong lễ đình, đền, tang ma, táng tục… Một biểu tượng của tình yêu đôi lứa và tình nghĩa vợ chồng, anh em, gia đình hạnh phúc. Ngày nay, tuy vẫn giữ vai trò quan trọng trong các lễ nghi truyền thống, nhưng trong cuộc sống thường ngày tục ăn
- trầu đang dần bị mai một .Những thế hệ Việt Nam sinh từ 1930 trở đi đã bắt đầu bỏ tục ăn trầu, người ta không còn coi miếng trầu là phương tiện giao tế hằng ngày nữa, giới trẻ cũng không còn mượn miếng trầu để tỏ tình, và nhiều gia đình cũng đã bỏ luôn tục lệ chia trầu cau trong những dịp lễ hỏi.... Bộ dụng cụ ăn trầu dường như không còn được coi như “vật bất ly thân” của nhiều người mà đã thành ký ức.. Thói quen ăn trầu hiện chỉ còn tồn tại ở thế hệ người cao tuổi, chủ yếu ở nông thôn. Bên cạnh đó nhiều tộc người vẫn giữ được tục ăn trầu, điều đó thể hiện ý thức gìn giữ văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Cho nên, dẫu có mai một, không xuất hiện thường xuyên nhưng tục ăn trầu vẫn được tiếp nối trong việc hiếu, việc hỉ, kết thân, lễ tế, cưới hỏi, bởi miếng trầu đã mang đậm dấu ấn văn hóa Việt Nam VI. ý nghĩa và biểu tượng của tục ăn trầu trong cuốc sống Ý nghĩa và biểu hiện của tục ăn trầu trong đời ống nhân dân. 1.Trong cuộc sống thường ngày 1.1 mời trầu tiếp khách Theo phong tục cổ truyền của nhân dân ta, khi khách đếnnhà, lúc nào cũng phải có trầu mời khách. Nếu không đó là điều ân hận đầu tiên của gia chủ, nó được ghi lại trong câu ca dao:
- “ Rễ quạch còn chửa đi đào, trầu không chưa có, thuốc lào chưa mua” Nhờ có miếng trầu, chủ và khách cảm thấy thân mật gần gũi, lên từ xưa đã có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện”, sau miếng trầu, đến bát nước chè xanh, đậm đà hương vị thơm ngon, đãi khách miếng trầu và bát nước chè xanh gắn liền với đời sống hàng ngày của người lao động nông nghiệp. Sau một ngày làm việc mệt nhọc, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, cuộc sống vất vả là thế, nhưng họ vẫn cảm thấy vui vẻ, mỗi bổi tuối đi làm về họ thường ngồi quây quần bên nhau: đến thăm hỏi nhau ăn miếng trầu, uống bát nước chè xanh, tinh thần thoải mái, dễ chịu. Đó là một nếp sống ấm cúng của bà con nhân dân ta trong làng xóm. Ngày nay, hình thức sinh hoạt này không còn được như trước nữa, nhưng ở 1 số vùng nông thôn, hình thức này vẫn còn lưu giữ được. Người ta còn mời trầu để làm quen và tỏ lòng tin cậy. Một người phương tây đến Việt Nam thế kỉ 17 nhận xét: “ người Việt Nam đi đâu cũng có túi trầu mang theo. Gặp nhau, sau câu chào hỏi, cởi túi trầu, người nọ lấy miếng trầu ở túi người kia, rồi ăn trầu cảu nhau vừa trò chuyện… mến yêu, tin cậy, lịch sự biết bao. Trong tục lệ mời trầu xưa kia của người Việt, người ta mời nhau
- miếng trầu để nói chuyện thân mật với nhau hơn. Cố giáo sư Trần Quốc Vượng đã so sánh mời trầu tiếp khách với mời thuốc lá để tiếp khách giữa xã hội xưa và nay. Theo giáo sư thì miếng trầu đơn giản thế thôi; trầu, cau, vôi, nếu có thêm tí vỏ, viên thuốc lào(với người ăn trầu thuốc, ấy thế mà mang đậm “cá tính con người”, người ta têm trầu là để mời trầu, mời người khác ăn trầu. Điếu thuốc lá công nghiệp ngày nay thật phi cá tính. Ăn miếng trầu, người ta biết được tính nết của người têm nó: và ông cho rằng, ăn trầu không hại sức khỏe còn hút thuốc lá thì ngược lại và ông đưa ra ưu điểm của việc ăn trầu như : ăn trầu chắc răng, khử mùi xú uế của miệng, chống rét, kích thích nhè nhẹ hệ tuần hoàn, ăn trầu hồng đôi má thêm duyên, ăn trầu hơi say say, câu chuyện tâm tình cởi mở, rồi từ đó ông đưa ra một câu hỏi: người xưa cỏi mở hơn người nay, một phần vì thế chăng Mời trầu để bắt chuyện làm quen “ tiện đây ăn một miếng trầu hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là, xưa kia ai biết ai đâu chỉ vì điếu thuốc, miếng trầu lên quen” Nhất là khi đến chỗ xa lạ, muốn được đón nhận vui vẻ, người khôn ngoan phải có cơi trầu đem ra mời chào mọi
- người để gây thiện cảm, vì một lẽ gì mà thiếu sót thì họ vô cùng áy láy, băn khoăn, xa xưa quan họ tiếp khách, đi mời khách, hoặc đi chơi hội, thường có miếng trầu têm cánh phượng. Vì quan niệm” miếng trầu là đầu câu chuyện” 1.2 mời trầu là món quà biếu thông dụng Như đã mói ở trên, mặc dù trầu cau không là món quà biếu có giá trị vật chất nhưng nó là tục lệ của người Việt. Như khi trẻ con đến tuổi đi học, cha mẹ đem vài chục cau đến xin thầy đồ cho nhập môn, hay để tỏ lòng biết ơn thầy lang chữa khỏi bệnh tật hiểm nghèo, người nhà bệnh nhân đem trầu cau đến biếu, người không hay chữ đem trầu cau đến biếu xin đôi câu đố: “đem một cơi trầu kêu với cụ xin dăm ba chữ để thờ ông” Nguyễn Khuyến Thời xưa, dân vào cửa quan phải có cơi trầu hoặc vài trái cau, thợ cả đến xin việc cũng phải có chẽ cau tươi, xin chữ kí các chức sắc trong làng trong tổng phải có trầu cau, khao vọng phải có trầu trình làng, trong quan hệ gia đình, đi xa về con biếu cha mẹ chẽ cau tươi, cây vỏ, đi chợ về, làng mua cho mẹ chồng trầu vàng, rễ tía, hàng xóm láng giềng tối lử tắt đèn có nhau, mỗi khi có
- công việc quà biếu thường là cau,trầu. Nhiều khi chỉ một chẽ năm, ba quả cau đã là quý, đối với những nhà giàu có, điều đó có thể nhiều hơn, nhưng ở đây người ta không căn cứ vào số lượng mà cốt ở tấm lòng ăn ở với nhau. 1.3 Mời trầu là cách ngỏ tình yêu giữa nam và nữ Miếng trầu còn là vật giao duyên. Chàng trai và cô gái gặp nhau, mời trầu là để ướm lời thử lòng. “ gặp nhau ăn một miếng trầu gọi là nghĩa cử về sau mà chào” Với hương vị trầu, cau, vôi luôn luôn gợi cho nam, nữ liên tưởng đến những chuyện tình yêu, chuyện duyên phận đôi lứa. “vào vườn hái quả cau non, anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên” Trong hình thức này, người con trai thường chủ động mời trầu trước và lợi dụng lúc mời trầu để tán tỉnh người con gái, nếu người con gái từ chối không nhận trầu thì dù sự từ trối ấy lịch sự, tế nhị đi đến đâu cũng phải hiểu đó là sự từ trối tình yêu, nếu người con gái đó tỏ ý ngần ngại,, muốn tìm hiểu thêm tình ý đối phương thì :
- “miếng trầu ân nặng bằng chì ăn rồi em biết lấy gì trả ơn” Trong trường hợp này, người con trai cần phải trấn an, và thổ lộ dõ tình ý đứng đắn, muốn xây dựng gia đình của mình, nếu người con gái thấy hợp ý, lòng ưa rồi thì người con gái mới nhận trầu. Cách giao duyên trên vừa kín đáo, vừa duyên dáng, và miếng trầu lúc này không phải là vật chất đơn thuần nữa, mà nó là một biểu tượng của tình yêu. 1.4 Ăn trầu găn liền với túc nhuộm răng đen của người Việt Có thể nói rằng, ăn trầu và nhuộm răng đen có mối quan hệ gần gũi với nhau.Từ ngàn xưa,con người đã có tục nhuộm răng đen, không như ngày nay người ta coi hàm răng trắng là cái đẹp thì ngày xưa người ta coi răng đen là cái đẹp. Vậy lên, đến tuổi trưởng thành, các thiếu nữ ngày xưa đều học ăn trầu: “răng đen ai nhuộm cho mình để duyên mình đẹp, để tình anh say” Người thôn nữ má hồng, răng đen đã trở thành hình ảnh làm si mê biết bao chàng trai , như câu ca xưa thường nói:
- “mình về mình nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cười Năm quan mua lấy miệng cười Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen” Nhuộm răng đen, là một nét văn hóa cổ truyền của người Việt xưa, nó đã tồn tại một cách lâu dài trong lịch sử và trở thành một phong tục đẹp, một biểu tượng của văn hóa Việt thời trước. Đến nay phong tục này gần như mất hẳn, có chăng còn sót lại một số ít “hàm răng đen” của những người thuộc thế kỉ trước. Có lẽ hình ảnh những cụ bà răng đen móm mém nhai trầu hay những cô hàng xén răng đen “cười như mùa thu tỏa nắng” sẽ không bao giờ trở lại nhưng nó vẫn sẽ còn đó, trong một giai đoạn lịch sử đã qua và khi nhớ tới nó ta vẫn thấy một thoáng tự hào. 2.Trong đời sống tâm linh tinh thần Ngày nay k nhiều người biết cách ăn trầu nhưng theo tục lệ “đồ sính lễ quý nhất của nước Nam không gì bằng trầu cau…”. Trầu cau là lễ vật của khá nhiều hình thức nghi
- lễ hàng năm của người Việt. Bên cạnh lễ vật khác, trầu cau thuộc loại lễ vật đơn sơ, tinh khiết. Ở đây nhóm tôi chỉ phân tích một vài hình thức nghi lễ trong đó trầu cau là chủ yếu. 2.1 Miếng trầu cúng mụ Theo tín ngưỡng dân gian, 12 bà mụ là nguồn gốc sinh ra con người, theo dõi giúp đỡ con người từ lúc trong bụng mẹ đến khi trưởng thành. Em bé cười nụ cười đầu tiên, người mẹ nựng “mụ dạy”, em bé bắt đầu bập bẹ nói, bà khen “mụ dạy khôn”, chập chững những bước đi đầu tiên em được người lớn khuyến khích “gắng lên mụ đỡ…”Trong năm đầu tiên của cuộc đời, cha mẹ em bé sửa cúng mụ ba lần, trong dịp : bé ba ngày bé đầy tháng bé đầy năm Để tỏ lòng biết ơn các bà cụ và cầu mong em bé mau khôn lớn. Tùy theo gia cảnh cỗ cúng có thể thịnh soạn, có thể đơn giản, nhưng nhất thiết có mỗi đĩa trầu gồm 12 miếng đang lên 12 bà mụ. Lễ vật chủ yếu là 12 miếng trầu. Trong nhân dân lao động, cùng với đĩa trầu còn có hương, hoa quả(mùa nào thức ấy) , xôi chè, ít khi cúng cỗ mặn. Đây là những ngày vui trong gia đình họ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Trầu cau trong đời sống văn hóa dân tộc ( phần 1)
14 p | 1043 | 320
-
Trầu cau trong lễ nghĩa của người dân đất Việt
2 p | 364 | 83
-
Triết lý trầu cau
3 p | 282 | 62
-
Tục Ăn Trầu và Tục cưa răng
5 p | 188 | 39
-
Con nghê - vật linh thuần Việt – phần 2
7 p | 149 | 37
-
TỤC ĂN TRẦU CỦA NGƯỜI HÀ NỘI
2 p | 206 | 26
-
Trầu cau qua thi ca
12 p | 165 | 24
-
Miếng trầu là đầu câu chuyện
2 p | 197 | 22
-
Phong tục Việt Nam: Trầu cau
8 p | 184 | 14
-
phong tục việt nam - Nam nữ thụ thụ bất thân là gì
4 p | 128 | 10
-
Thịt trâu trong ẩm thực ngày tết của người H'rê
4 p | 95 | 9
-
Tập tục cưới hỏi thời Vua Hùng
10 p | 90 | 8
-
Tiền nạp theo (hay treo) là gì?
2 p | 111 | 7
-
Bình vôi - Ông Bình Vôi nét văn hóa qua câu chuyện dân gian
8 p | 85 | 6
-
Nam nữ thụ thụ bất thân nghĩa là gì?
2 p | 266 | 5
-
Tranh vẽ về lịch sử Việt Nam (Bộ mỏng): Tập 3 - Huyền sử đời Hùng (Bánh chưng bánh dày, Trầu cau, Quả dưa đỏ)
84 p | 15 | 5
-
Bánh sừng trâu - Phong vị ngày lễ tết của người Cơtu
4 p | 76 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn