Quan điểm “giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế” của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến hiện nay
lượt xem 2
download
Thông qua bài viết "Quan điểm “giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế” của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến hiện nay", tác giả sẽ trình bày khái quát những nội dung về hai phương diện lý luận và thực tiễn của chủ trương giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế của Đảng ta trong 36 năm tiến hành Đổi mới đất nước từ năm 1986 cho đến hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Quan điểm “giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế” của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến hiện nay
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG QUAN ĐIỂM “GIỮ VỮNG ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ” CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN HIỆN NAY Nguyễn Hải Như Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng Tác giả liên hệ: Nguyễn Hải Như, email: nnhu@ued.udn.vn Tóm tắt: Độc lập, tự chủ là ý chí sắt đá được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trở thành giá trị cốt lõi thiêng liêng trong truyền thống của dân tộc Việt Nam ta. Chính vì thế, độc lập, tự chủ là vấn đề mang tính nguyên tắc, nhất quán trong hệ thống các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, có tầm quan trọng đặc biệt và có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện của thế giới hiện nay, khi toàn cầu hóa đạt tới trình độ phát triển cao kéo theo tất cả các nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và hội nhập quốc tế trở thành một phần tất yếu khách quan không thể bỏ qua hoặc cưỡng lại, thì vấn đề bảo đảm và giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia cũng được đặt ra với tầm quan trọng đặc biệt. Trong những năm qua, Đảng đã xác định chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ đất nước là một trong những mối quan hệ quan trọng đặc biệt, là định hướng chiến lược lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu, chỉ rõ mối quan hệ này và được đưa vào Cương lĩnh và văn kiện Đại hội của Đảng thể hiện sự sáng tạo và bước phát triển mới về tổng kết, nâng tầm lý luận của Đảng. Thông qua bài viết, tác giả sẽ trình bày khái quát những nội dung về hai phương diện lý luận và thực tiễn của chủ trương giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế của Đảng ta trong 36 năm tiến hành Đổi mới đất nước từ năm 1986 cho đến hiện nay. Từ khóa: độc lập tự chủ; hội nhập quốc tế; chủ nghĩa xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam; 1986; đổi mới. 1. VÀI NÉT LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1.1. Những khái niệm về độc lập, tự chủ 1.1.1. Độc lập Độc lập (Independence) là khái niệm chỉ sự tồn tại và vận động tự thân, từ suy nghĩ, hành động và quyết định công việc của chính mình không phụ thuộc vào 324
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” ngoại cảnh. Trong chính trị, khái niệm này chỉ trạng thái không phụ thuộc, không chịu sự khống chế của các thế lực khác của một chủ thể chính trị. Đối với một quốc gia - dân tộc, độc lập là chế độ tự trị mọi hoạt động của quốc gia - dân tộc như một chủ quyền tối cao. Nội hàm khái niệm độc lập của quốc gia - dân tộc được thể hiện ở việc quốc gia dân tộc không lệ thuộc, không bị chi phối bởi các thế lực hay các quốc gia khác, mỗi quốc gia là một chính thể riêng, đóng vai trò chủ thể trong quan hệ với các quốc gia khác - đó là quốc gia có chủ quyền, tự mình quyết định vận mệnh của đất nước theo nguyện vọng, ý chí, lợi ích của người dân trong nước. Hay nói cách khác, độc lập dân tộc là quyền được quyết định vận mệnh của dân tộc mình, giải phóng khỏi áp bức, bóc lột; quyết định chế độ chính trị - xã hội bằng cách thiết lập nhà nước dân tộc; xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với thể chế chính trị - xã hội và một nền kinh tế dân tộc được định hướng theo mục tiêu phát triển của đất nước. Như vậy, độc lập dân tộc - quốc gia là quyền tối cao của một quốc gia, tự quyết định vận mệnh của đất nước mình và là chủ thể trong quan hệ với các nước khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, cũng phải thấy rõ sự mềm dẻo, không quá cứng nhắc trong quan niệm này. 1.1.2. Tự chủ Độc lập mới chỉ thể hiện chủ quyền quốc gia về mặt pháp lý. Nếu không có sức mạnh bảo vệ và thực thi, thì quyền chính đáng và những lợi ích hợp pháp từ nó có thể bị xâm phạm, lợi dụng, thậm chí bị tước đoạt. Tự chủ (Self-Control) là sự tự điều hành, quản lý, tự giải quyết mọi công việc của một chủ thể: từ suy nghĩ cho đến hành động, từ lựa chọn cho đến việc thực hiện mục đích của một chủ thể đều do chủ thể quyết định, không lệ thuộc vào bất cứ thế lực nào khác từ bên ngoài. Trong bản thân chủ thể, sự tự chủ được thể hiện ở việc tự quyết, tự làm chủ tình cảm, ý chí, hành vi, không bị hoàn cảnh, môi trường chi phối. Trong chính trị, tự chủ (Self-Governance) là khả năng kiểm soát, làm chủ, tự quyết định mọi hoạt động của quốc gia theo ý chí, nguyện vọng, lợi ích của quốc gia, của người dân. Tự chủ là quyền tối cao của quốc gia dân tộc, song nội hàm của nó hết sức uyển chuyển, liên quan đến các quan hệ quốc tế. 325
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Như vậy, có thể hiểu tự chủ là quyền tự quyết định mọi hoạt động của quốc gia, dân tộc theo ý chí, lợi ích của quốc gia và của người dân; là thực lực tổng hợp của quốc gia, năng lực huy động, tập hợp và sử dụng mọi sức mạnh để thực hiện chủ quyền hợp pháp, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Tính tự chủ của quốc gia được xác định một cách nhất quán, nhưng cũng có lúc cần quan niệm và ứng xử mềm dẻo tùy theo tình hình của thời cuộc. 1.1.3. Quan hệ giữa độc lập và tự chủ Với tư cách là hai khái niệm phổ biến, độc lập và tự chủ thể hiện hai trạng thái gần gũi nhau. Nếu độc lập là trạng thái không phụ thuộc vào bất kỳ thế lực nào từ bên ngoài thì tự chủ là năng lực kiểm soát, chủ động đưa ra những quyết định đúng đắn với nhận thức, hiểu biết, nhằm thực hiện đúng mục đích của chủ thể. Dưới góc độ chính trị, độc lập và tự chủ đóng vai trò cốt lõi trong tư tưởng chính trị, nhà nước, pháp luật kể cả quan hệ quốc tế. Độc lập chứa đựng nội hàm quan hệ bên trong đối với bên ngoài (chủ thể và đối tượng quan hệ); tự chủ chứa đựng nội hàm bên trong của quốc gia (tự quyết định những vấn đề của quốc gia). Như vậy, độc lập và tự chủ là hai khái niệm gắn bó với nhau, có mối quan hệ thống nhất và mật thiết. Có độc lập, tự chủ mới có quyền quyết định vận mệnh của một quốc gia. Độc lập là cơ sở cho quyền tự chủ, còn tự chủ là thể hiện quyền độc lập trên thực tế, góp phần củng cố quyền độc lập. Độc lập, tự chủ là cơ sở cho quyền dân tộc tự quyết, cho chủ quyền quốc gia. Độc lập, tự chủ bao gồm các nội dung: độc lập, tự chủ về chính trị; kinh tế, văn hóa, xã hội; quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Từ đó, có thể quan niệm độc lập, tự chủ là năng lực, quyền lực thực sự của một quốc gia trong việc giữ vững chủ quyền, tự quyết về đối nội và đối ngoại nhằm mục tiêu bảo vệ và thực hiện tối đa lợi ích của quốc gia, dân tộc mình. 1.2. Khái niệm về hội nhập quốc tế Toàn cầu hóa trở thành quá trình tất yếu khách quan, kéo theo cả thế giới vào một sân chơi phát triển, hợp tác và đấu tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Quá trình toàn cầu hóa hiện nay đã lôi kéo tất cả các nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, vì đó là một tất yếu đương nhiên không thể bỏ qua hoặc cưỡng lại. Hội nhập để phát triển và muốn phát triển phải hội nhập. 326
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Ta có thể hiểu rằng: Hội nhập quốc tế là tiến trình một quốc gia theo đuổi lợi ích, mục tiêu của mình thông qua việc tự giác, chủ động hợp tác, liên kết sâu rộng với các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế trên nhiều lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…) dựa trên sự chia sẻ về nhận thức, lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (chủ quyền, thẩm quyền định đoạt chính sách…) và chủ động chấp nhận, tuân thủ, tham gia xây dựng các luật chơi chung, chuẩn mực chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Hội nhập quốc tế vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan, mang lại cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia tham gia vào đời sống quốc tế. Hội nhập quốc tế đối với mỗi nước phải trải qua một lộ trình lâu dài, cần được triển khai một cách bài bản, nghiêm túc, phù hợp với khả năng của đất nước và tình hình quốc tế. 1.2.1. Quan niệm về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế Chủ động, tích cực là nói đến tâm thế, thái độ, quyết tâm, nỗ lực trong quá trình hội nhập quốc tế. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế chính là việc chủ động, tích cực nắm bắt các xu thế phát triển của thế giới; chuẩn bị tốt và có chiến lược thích hợp để đón đầu hoặc đi theo các xu thế đó. Chủ động hội nhập bao hàm sự sáng tạo, lựa chọn phương thức hành động đúng, dự báo được những tình huống trong hội nhập. Tích cực hội nhập quốc tế là việc huy động với mức độ cao cho mọi tiềm năng, nguồn lực để tham gia quá trình hội nhập. Tích cực hội nhập nhưng phải thận trọng, vững chắc, không do dự chần chừ nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn. 1.2.2. Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế Khi hội nhập quốc tế trở thành một thực tiễn đương nhiên trong thời đại ngày nay thì mỗi quốc gia tham gia hội nhập đều có mục tiêu và ý chí cao là gìn giữ độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Mỗi quốc gia dân tộc có được độc lập, tự chủ mới định ra được những hướng đi đúng đắn cho quá trình hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia là cái gốc để hội nhập quốc tế. Độc lập dân tộc có được củng cố vững chắc thì hội nhập quốc tế mới ngày càng sâu rộng. Bản chất của mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động tích cực hội nhập quốc tế được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: 327
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Thứ nhất, độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ không phải là biệt lập hay cô lập với thế giới, không đứng ngoài hội nhập quốc tế trong thời đại ngày nay. Độc lập, tự chủ thể hiện chủ quyền, quyền tự quyết, tự lựa chọn con đường phát triển, tự quyết định mô hình phát triển… của dân tộc, quốc gia mình. Không có độc lập, tự chủ thì không thể nói tới hội nhập quốc tế chứ chưa nói tới chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ còn là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới có thể tự quyết định lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối tác, lĩnh vực… trong hội nhập quốc tế. Và cuối cùng, độc lập tự chủ là cơ sở để tận dụng nhiều cơ hội to lớn, đồng thời hạn chế tối đa những thách thức gay gắt do quá trình toàn cầu hóa gây ra, nhất là những nước vừa, nhỏ, đang phát triển như Việt Nam. Thứ hai, ngược lại, hội nhập quốc tế góp phần tăng cường khả năng giữ vững độc lập, tự chủ của quốc gia, dân tộc. Nếu không hội nhập quốc tế thì không một quốc gia nào phát triển được, rất dễ bị bỏ rơi và sớm muộn cũng không thể giữ được độc lập, tự chủ. Hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội, tiền đề cho chúng ta giữ vững độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh. Thực tiễn hơn 30 năm mở cửa, hội nhập, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự điều hành, quản lý hiệu quả của Nhà nước, hội nhập quốc tế đã trở thành một trong các nguồn lực quan trọng để chúng ta cũng cố độc lập, tự chủ. Hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cho chúng ta những cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở đó giữ vững độc lập, tự chủ. Để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững độc lập, tự chủ, chúng ta phải phát huy cao độ nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển đất nước. Và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế giúp chúng ta thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sẽ cho chúng ta những cơ hội để rút ngắn quá trình phát triển đất nước trên cơ sở tiếp nhận và ứng dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến cũng như những kinh nghiệm đi tắt, đón đầu trong tiến trình phát triển. Và đặc biệt quan trọng hơn cả, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội môi trường hòa bình, ổn định để chúng ta phát triển đất nước, trên cơ sở đó góp phần giữ vững độc lập, tự chủ. Chúng ta đều hiểu rất rõ rằng hiện nay, trên bình 328
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” diện an ninh thế giới, đang nổi lên rất nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống như khủng bố, xung đột tôn giáo, sắc tộc, chủ nghĩa ly khai, nguy cơ bất ổn chính trị… Những vấn đề này đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, phát triển của từng quốc gia cũng như từng khu vực và cả thế giới. Điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng cùng một cơ chế thống nhất có hiệu quả trên cơ sở hợp tác giữa các nước, giữa các khu vực cũng như ở phạm vi toàn cầu. Muốn vậy, các nước phải cùng nhau hợp tác, hội nhập quốc tế là xu hướng cơ bản của thời đại ngày nay trong điều kiện toàn cầu hóa mạnh mẽ. 2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ Độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Trong đó, chúng ta có thể khái quát năm nhân tố cơ bản sau đây, đó là: 2.1. Tác động từ nền kinh tế thế giới, đặc biệt là từ các siêu cường kinh tế Trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam, hội nhập kinh tế là trọng tâm và trong hội nhập kinh tế, quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nền kinh tế lớn trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ và Trung Quốc có tác động lớn nhất đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Có thể nói, biến động của kinh tế thế giới luôn tác động nhiều mặt đến tất cả các nền kinh tế của các nước, trong đó có nước ta. Cùng với đó, kinh tế Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng có những ảnh hưởng mạnh nhất và trực tiếp nhất đến tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam. Đây là hai nền kinh tế lớn nhất thế giới nên trao đổi với hai nền kinh tế này chiếm tỷ trọng cao trong tổng khối lượng và chất lượng xuất nhập khẩu của nước ta. 2.2. Các xu thế lớn trên thế giới Hiện nay, thế giới đang đứng trước các xu thế nổi bật, chi phối, tác động trực tiếp đến các quốc gia trong quá trình hoạch định đường lối, chiến lược đặc biệt là về chủ trương hội nhập quốc tế và bảo vệ độc lập tự chủ. Một là, toàn cầu hóa tiếp tục phát triển cả về trình độ và tính chất. Ngày nay, toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn tất cả các quốc gia dân tộc tham gia, trong đó có Việt Nam. Trong toàn cầu hóa, mỗi đất nước đều có những vị trí nhất định, nhưng xét về tổng thể, các nước lớn và các nước tư bản phát triển vẫn là những quốc 329
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG gia giữ vị trí trung tâm trong quá trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa tác động đến mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế ở các khía cạnh sau: - Toàn cầu hóa góp phần quan trọng làm gia tăng sức mạnh, tiềm lực của quốc gia, trước hết và trực tiếp là sức mạnh kinh tế. Quá trình này thúc đẩy mở rộng các quan hệ ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, tăng cường liên kết, hợp tác lẫn nhau. Do đó, các quốc gia có cơ hội tiếp thu những kiến thức, kinh nghiệm tiên tiến, hiện đại của thế giới, tri thức, văn minh của nhân loại, tận dụng tối đa nguồn vốn, công nghệ phục vụ cho phát triển. Đây là điều kiện cơ bản, quyết định đến khả năng giữ vững độc lập, tự chủ. - Toàn cầu hóa làm cho chức năng điều tiết của các nhà nước, dân tộc phải có sự điều chỉnh cho phù hợp, bởi sau hội nhập, mỗi nhà nước đều phải đặt trong mối quan hệ tương tác giữa quốc gia và quá trình toàn cầu hóa. Điều đó có khả năng làm suy giảm và gây thách thức đến độc lập, tự chủ của quốc gia, dân tộc đó. - Toàn cầu hóa làm xuất hiện với mức độ ngày càng tăng các vấn đề toàn cầu như: phân hóa giàu nghèo, áp lực dân số, biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, chủ nghĩa khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia… cũng tạo sức ép ngày càng lớn đối với quá trình phát triển, làm giảm khả năng ứng phó của mỗi quốc gia. Để giải quyết các vấn đề này, đòi hỏi các nước phải hợp tác chặt chẽ với nhau, dẫn đến sự hình thành những tổ chức với cơ chế toàn cầu. Hai là, xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển. Đảng ta khẳng định “hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 70). Xu thế này bắt nguồn từ sự phát triển và được bảo đảm bởi quá trình toàn cầu hóa; đồng thời phản ánh nhu cầu, khát vọng của đại đa số các quốc gia, dân tộc trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển. Chính sự hợp tác và phụ thuộc chặt chẽ nhiều mặt giữa các nước, nhất là về kinh tế sẽ khiến mọi bất ổn, bất đồng sẽ được ưu tiên giải quyết bằng biện pháp hòa bình, ngoại giao, tránh gây chiến tranh dẫn tới đổ vỡ toàn bộ nền kinh tế thế giới, làm thiệt hại cho các quốc gia liên quan. Do đó, xu thế này mở ra cơ hội để Việt Nam tiếp tục mở rộng các quan hệ quốc tế và khu vực, tranh thủ các nguồn ngoại lực, nhất là vốn, khoa học công nghệ để tăng cường sức mạnh, tiềm lực đất nước, nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của quốc gia. 330
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Ba là, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cùng với toàn cầu hóa, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ là những đặc trưng nổi bật, bao trùm của thế giới đương đại. Nhân loại đã chứng kiến những đổi thay to lớn, sâu sắc dưới tác động của khoa học và công nghệ, làm gia tăng mạnh mẽ tri thức, văn minh của nhân loại, sức mạnh của mỗi con người và của các quốc gia dân tộc được tạo ra từ các cuộc cách mạng công nghiệp. Thế giới đã đi qua ba cuộc cách mạng công nghiệp và giờ đây đã chuyển sang cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây là cuộc cách mạng đặc trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã làm cho thế giới ngày càng phẳng hơn, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, hợp tác, liên kết giữa các quốc gí ngày càng sâu sắc, chặt chẽ hơn. Mọi quốc gia trên thế giới, kể cả Việt Nam đang tích cực đón bắt xu thế này để hoạch định các chính sách, chiến lược phát triển đất nước nâng cao tiềm lực quốc gia. Như vậy, cách mạng công nghiệp lần thứ tư vừa thúc đẩy quá trình tích cực chủ động hội nhập quốc tế, vừa nâng cao năng lực giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước ta. 2.3. Tiềm lực và sức mạnh của đất nước Tiềm lực và sức mạnh của đất nước là nhân tố cốt lõi nhất, quyết định trực tiếp nhất đến hiệu quả của việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ. Nếu không có nội lực, thì không thể hội nhập một cách chủ động và không thể tránh khỏi việc bị lệ thuộc vào nước ngoài, vào các định chế quốc tế xét về nhiều mặt. Qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử tạo ra bước ngoặt lớn, nâng tầm sức mạnh và vị thế của Việt Nam. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của doanh nghiệp được nâng lên đáng kể, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh. Chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ, có được cơ sở vật chất kĩ thuật ngày càng hiện đại và vững chắc hơn. Việt Nam đã có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực, dự trữ ngoại tệ gia tăng… Những nhân tố đó đã tạo sức mạnh nội lực, khả năng thích ứng lại và làm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của nền kinh tế trước những biến động và áp lực từ bên ngoài. 331
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Bên cạnh đó, văn hóa - xã hội đạt được những thành tựu quan trọng; dân chủ xã hội được mở rộng, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, môi trường sống từng bước được cải thiện, góp phần tạo điều kiện để đất nước phát triển trong quá trình hội nhập. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Cùng với sự phát triển kinh tế, tiềm lực và sức mạnh quốc phòng, an ninh của đất nước được tăng cường đáng kể. Quá trình hội nhập với thế giới, hợp tác với các nước đã tạo sự đan xen lợi ích, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ một cách hòa bình. 2.4. Năng lực hoạt động của bộ máy chính trị lãnh đạo đất nước Bộ máy chính trị, mà trung tâm là Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là lực lượng hoạch định, dẫn dắt, điều khiển quá trình hội nhập quốc tế và bảo vệ độc lập, tự chủ. Do đó, năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước là những nhân tố tác động trực tiếp và quyết định đến mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Năng lực lãnh đạo của Đảng trước hết được thể hiện ở việc xác định đúng đắn đường lối, chiến lược hội nhập và bảo vệ độc lập, tự chủ; ở khả năng phân tích, nắm bắt, dự báo chính xác và xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề liên quan đến đối nội, đối ngoại. Muốn vậy, bản thân Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh, thường xuyên tiến hành đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉnh đốn Đảng về mọi mặt để nâng cao năng lực nhận thức, tư duy lý luận, nắm bắt được các xu thế, quy luật khách quan. Tổ chức bộ máy phải thực sự tinh gọn, chuyên nghiệp, chuyên sâu, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm đủ sức thể chế hóa các chủ trương, quan điểm, lãnh đạo của Đảng. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, chặt chẽ, tạo cơ sở, hành lang pháp lý vững chắc để tiến hành các hoạt động hội nhập quốc tế một cách chủ động, tích cực và bảo đảm vững chắc độc lập, tự chủ. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính, thực sự tiên phong, gương mẫu, thực sự vì dân, vì lợi ích chung của đất nước. Qua hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định rõ bản lĩnh, trí tuệ, năng lực lãnh đạo đất nước trong quá trình hội nhập, giữ vững được ổn định chính trị, môi trường hòa bình, độc lập tự chủ để phát triển đất nước. Năng lực lãnh đạo quản lý, điều hành của Nhà nước ngày càng được nâng cao, tiếp cận hiệu quả những yêu cầu của hội nhập. 332
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 3. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ TỪ NĂM 1986 CHO ĐẾN HIỆN NAY 3.1. Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế Quan điểm của Đảng về độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trong hơn 30 năm đổi mới từ năm 1986 cho đến hiện nay được thể hiện qua mỗi kỳ Đại hội của Đảng, được ghi rõ trong các văn kiện Đại hội Đảng, trong các nghị quyết và văn kiện các hội nghị của Trung ương. Đại hội VI (năm 1986) chủ trương “tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010a, 106). Đại hội VII (năm 1991) khẳng định: “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010a, 406- 407). Về quan hệ đối ngoại, Đại hội VII đề ra nhiệm vụ: “tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa, tranh thủ tối đa mặt đồng, hạn chế mặt bất đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010a, 550). Đại hội VIII (năm 1996) mở rộng cách tiếp cận tới độc lập, tự chủ từ nâng cao ý thức độc lập, tự chủ đến yêu cầu tạo lập được một vị thế độc lập, tự chủ bao gồm “độc lập, tự chủ về kinh tế, quốc phòng, an ninh… sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có cách tư duy độc lập …” và “giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010a, 623-674). Đại hội IX (năm 2001) xác định: “Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh; 333
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010b, 130). Như vậy, nội hàm độc lập, tự chủ về kinh tế cũng như phương cách giữ vững độc lập, tự chủ kinh tế đã được xác định rõ hơn. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám khóa IX nhấn mạnh: “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia”. Tại Đại hội X (năm 2006) bài học kinh nghiệm rút ra là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010b, 307) Đại hội XI (năm 2011) khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 84). Đến đây, khái niệm “độc lập, tự chủ” đã được thay cho khái niệm “độc lập tự chủ” để thể hiện đúng hai mặt “độc lập” và “tự chủ” của “chủ quyền quốc gia”. Đại hội XII (năm 2016) nhấn mạnh: “Bảo đảm tối cao lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 153). Và gần đây nhất, tại Đại hội XIII (năm 2021) đã nhấn mạnh định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). 3.2. Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập quốc tế Quan điểm của Đảng ta về hội nhập đã có sự phát triển liên tục trong những năm qua, phản ánh thực trạng hội nhập của Việt Nam và yêu cầu ngày càng cao của Đảng đối với công tác hội nhập quốc tế để tương xứng với mục tiêu, nhiệm vụ của từng thời kỳ. 334
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Một cách khái quát nhất, Đảng coi hội nhập quốc tế như là quan hệ quốc tế ở mức cao hơn, nhất là thông qua các cơ chế song phương và đa phương. Với cách hiểu đó, Việt Nam đã bắt đầu tham gia hội nhập quốc tế ngay sau khi thống nhất đất nước, với trọng tâm là Liên Xô và các nước Đông Âu. Càng mở rộng quan hệ quốc tế, cả đa phương và song phương, là càng mở rộng quy mô hội nhập quốc tế. Hiệu quả hội nhập quốc tế được đánh giá chủ yếu bằng quy mô quan hệ quốc tế của Việt Nam. Quan điểm về hội nhập quốc tế được tiếp tục phát triển với nhận thức coi hội nhập quốc tế là liên kết quốc tế gắn với việc gia nhập và tham gia các tổ chức, các định chế đa phương ở tất cả các cấp độ: tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu. Đến Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” được bắt đầu được đề cập đến trong các văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010a, 674). Đại hội VIII và IX xác định hội nhập kinh tế là trọng tâm ưu tiên, việc gia nhập thị trường thế giới và tham gia các thỏa thuận thương mại đa phương là một bước đi của chủ động hội nhập. Hiệu quả hội nhập, nhất là hội nhập kinh tế được đánh giá bằng kết quả mở rộng thị trường xuất khẩu và kinh tế đối ngoại, cũng như số lượng, sự đa dạng về địa lý, thành phần, chức năng, lĩnh vực của các tổ chức, cơ chế đa phương mà Việt Nam tham gia, cùng chiều sâu mà Việt Nam tham gia các cơ chế này. Nền tảng của tư duy hội nhập gắn với sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế đa phương bắt đầu từ Đại hội VII với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Đại hội IX đã chỉ rõ hội nhập kinh tế quốc tế: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010b, 34). Tại Đại hội X, Đảng đã nêu chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác… Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010b, 375-377). Đó chính là cơ sở và là bước tiếp cận mới để Đại hội XI khẳng định tính toàn diện của hội nhập: “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 10/4/2012 của Ban chấp hành Trung ương về hội nhập quốc tế khẳng định: Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh 335
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội, hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước. Với chủ trương này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà phát triển thành “hội nhập quốc tế”, mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội… Đây là chuyển biến rất quan trọng, rất căn bản trong tư duy của Đảng về hội nhập quốc tế. Quan điểm mới của Đảng trong những năm gần đây coi hội nhập là việc Việt Nam trở thành một thành viên chủ động, tích cực của cộng đồng các quốc gia trên thế giới; Việt Nam cần và có thể tham gia góp phần định hướng môi trường quốc tế thông qua xác lập các “luật chơi” chung, góp phần cùng cộng đồng quốc tế thúc đẩy các xu thể phát triển và có lợi cho cộng đồng. Đại hội XI nhấn mạnh: “Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế” trong các vấn đề toàn cầu; và một Việt Nam “mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc”. Quan điểm này thể hiện bước chuyển của Đảng nhấn mạnh bản chất và nội dung của hội nhập hơn là hình thức thể hiện hội nhập. Tiếp tục phát triển quan điểm này, Đại hội XII, khẳng định nhiệm vụ của công tác đối ngoại là: “tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương”. Cùng với phát triển nhận thức về hội nhập, nhận thức về mục đích của hội nhập cũng có bước phát triển. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Đảng ta coi “đa dạng hóa, đa phương hóa” là biện pháp nhằm phá thế bao vây, cấm vận, tranh thủ nguồn lực quốc tế và mở rộng thị trường xuất khẩu. Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế nhằm mục tiêu đó. Từ Đại hội XI, hội nhập có thêm nhiệm vụ nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. Mở rộng hội nhập, do vậy, đồng nghĩa với việc tăng cường tham gia và có tiếng nói tại các tổ chức khu vực, diễn đàn đa phương, nhất là các tổ chức, diễn đàn thiên về kinh tế, thương mại, phát triển. Hội nhập là phương tiện tìm kiếm và thúc đẩy lợi ích, là việc chọn sân chơi và luật chơi cho phù hợp để Việt Nam tham gia. Hiện nay, hội nhập toàn diện cả chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh được Đảng coi là biện pháp hữu hiệu vừa để bảo vệ, vừa thúc đẩy lợi ích quốc gia, 336
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” dân tộc. Hội nhập để tạo ra môi trường đối ngoại thuận lợi, “chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 154), tức là tạo ra hoặc tác động vào quá trình thảo luận, hình thành các “sân chơi”, “luật chơi” phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc, chủ động đẩy xa các nguy cơ. Hội nhập là công cụ, biện pháp thiết lập chuẩn mực và giá trị quan hệ quốc tế với lợi ích quốc gia. 3.3. Quá trình nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế Đại hội VI đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có chủ trương “tham gia sự phân công lao động quốc tế… mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010a, 78). Tinh thần của Đại hội VI thể hiện ở một mức độ cao hơn rằng, độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập, “đóng cửa” với thế giới, từ đó mở đường cho tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm đầu đổi mới. Đại hội VII tiến thêm một bước với chủ trương cụ thể hơn: “Mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, trong hoàn cảnh đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) ra đời, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của Đảng ta trong sự nghiệp lãnh đạo toàn dân kiên định con đường đổi mới, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Từ một nền kinh tế tự cung tự cấp, khép kín theo cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung; bị cô lập, bao vây, cấm vận; nền kinh tế bị khủng hoảng nghiêm trọng, nhờ vào công cuộc đổi mới, đất nước ta đã mở cửa, cải cách, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phá thế bị bao vây, cấm vận, bình thường hóa quan hệ với các nước lớn, kinh tế tăng trưởng nhanh, bước đầu hội nhập vào khu vực. Thực tế này đã khẳng định tính đúng đắn của công cuộc đổi mới. Đại hội VIII đã xác lập niềm tin vững chắc vào “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, 41) và tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực để phát triển. Đại hội VIII cũng khẳng định: “Mở rộng quan hệ quốc tế phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi, giữ gìn, phát huy bản sắc và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, 74). 337
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Đến năm 2001, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội IX mới xuất hiện cụm từ “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, đánh dấu sự thay đổi lớn trong tư duy phát triển và hội nhập của Việt Nam. Đại hội cũng chỉ rõ mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế như sau: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 43). Đại hội X đã bổ sung thêm cụm từ “tích cực” và đề ra chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 112). Đại hội X đã đề ra quan điểm chỉ đạo là hội nhập kinh tế quốc tế “phải chủ động, có lộ trình phù hợp với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ, nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 180-181). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ quan điểm phát triển của đất nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn hiện nay là: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 76). Trong bối cảnh hiện nay, độc lập, tự chủ tập trung cao vào độc lập, tự chủ về kinh tế. Độc lập, tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh; có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế. Đại hội XI cũng chỉ rõ: “Tiếp tục thực hiện chủ trương: Mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định định cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, 338
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Tiếp tục đưa các quan hệ quốc tế của đất nước đi vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực và bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực chính trị, an ninh, kinh tế song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 46-47). Đến năm 2007, với việc trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Trên cơ sở đó, Đại hội XI của Đảng đã nâng tầm chủ trương thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, để khẳng định rằng hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội… Đại hội XI, Đại hội XII khẳng định quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là một trong các mối quan hệ lớn, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt. Đại hội XII, trên cơ sở khẳng định quan điểm: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 153), đã chủ trương “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 77). Và tại Đại hội XIII (năm 2021) tiếp tục khẳng định tinh thần của Đại hội XII (năm 2016): “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”. “Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). 4. THỰC TIỄN XỬ LÝ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRÊN MỘT SỐ LĨNH VỰC CHỦ YẾU TỪ NĂM 1986 CHO ĐẾN HIỆN NAY 4.1. Trên lĩnh vực kinh tế Công cuộc đổi mới của Việt Nam bắt đầu từ đổi mới tư duy và trước hết là tư duy kinh tế. Đảng ta xác định hội nhập kinh tế là lĩnh vực đầu tiên để tranh thủ sức 339
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG mạnh quốc tế phát triển đất nước. Và sau 36 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn tiêu biểu, đó là: Thứ nhất, chủ động, tích cực hội nhập sâu và toàn diện của nền kinh tế nước ta với kinh tế thế giới. Thành tựu lớn nhất của hội nhập kinh tế thời kỳ đổi mới từ năm 1986 cho đến hiện nay là đã mở rộng hợp tác kinh tế trên diện rộng và đa dạng hóa đối tác kinh tế cả song phương và đa phương. Về hội nhập đa phương, Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng Phát triển châu Á, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương. Về hội nhập khu vực, tháng 7/1995, Việt Nam gia nhập tổ chức ASEAN; năm 1996, Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Chúng ta đã hai lần tổ chức hội nghị cấp cao APEC với tư cách chủ nhà vào năm 2006 và 2017. Về hội nhập song phương, cho đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại song phương với 170 quốc gia, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hóa với trên 230 nước và vùng lãnh thổ, ký kết gần 100 hiệp định thương mại song phương… Nước ta đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn. Nhờ quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã tranh thủ kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng thu ngân sách cho Nhà nước. Thứ hai, tăng cường nội lực của đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ để tạo ra thế và lực trong quá trình hội nhập quốc tế. Việt Nam trong quá trình mở cửa, hội nhập, luôn chú trọng tới sự độc lập, tự chủ. Tính độc lập, tự chủ của Việt Nam thể hiện trước hết trong việc xác định đường lối hội nhập nhất quán. Hội nhập quốc tế trên cơ sở thực lực của mình, tư duy sáng tạo để có chủ trương, chính sách đúng đắn và có những bước đi vững chắc trên con đường độc lập, tự chủ. Trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam luôn chú trọng đổi mới trong nước, coi cải cách, hoàn thiện, thể chế trong nước là cơ sở để hội nhập kinh tế thành công. 340
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Thứ ba, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đối với Việt Nam, định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung chủ yếu và là nguyên tắc trong xây dựng nền kinh tế thị trường. Thực hiện đúng định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đồng thời là chủ trương lớn và giải pháp hữu hiệu để giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ tư, hạn chế thấp nhất sự lệ thuộc bên ngoài. Đây là một trong những vấn đề hết sức cơ bản và bức thiết để giữ vững độc lập, tự chủ của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Trải qua 36 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam đã thành công trong xử lý các vấn đề nhằm giữ vững tính độc lập, tự chủ của kinh tế đất nước, cụ thể là: Một là, tăng cường công tác dự báo, nắm chắc tình hình những biến động kinh tế thế giới và khu vực, những chính sách kinh tế mới của các nước lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Hai là, mục tiêu và giải pháp hàng đầu vẫn là bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước. Ba là, chủ động thỏa thuận với các đối tác, kể cả thỏa thuận trong các cuộc họp cấp cao nhất để trực tiếp giải quyết trong các vướng mắc. Bốn là, để hạn chế thấp nhất sự lệ thuộc bên ngoài, Việt Nam đã xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và các thỏa thuận được ký kết, đặc biệt là khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương. 4.2. Trên lĩnh vực chính trị, đối ngoại Thứ nhất, trên lĩnh vực chính trị. Việc xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, trong lĩnh vực chính trị, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu. Từ chỗ gặp những rào cản về ý thức hệ chính trị, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã vượt qua và phá thế mắc kẹt, có quan hệ hữu nghị hợp tác với tất cả các nước lớn trên thế giới. Việt Nam đã trở thành bạn bè, đối tác tin cậy với hầu hết mọi quốc gia không 341
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG phân biệt chế độ chính trị khác nhau. Việc Việt Nam xác lập các khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước và đối tác toàn diện với 11 nước đã nâng tầm vị thế độc lập, tự chủ của nước ta trong khu vực và trên thế giới, không liên minh, đồng minh với nước nào nhưng cũng không ở thế đối đầu với ai. Thực hiện các quan điểm của Đảng, hệ thống pháp luật của Việt Nam và các thể chế, chính sách đã đổi mới một cách tích cực để về cơ bản phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhất là bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia, đồng thời đáp ứng các yêu cầu của các công ước, thông lệ quốc tế cũng như các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Điểm nổi bật trong tư duy mới của Đảng ta về hội nhập chính trị là việc chuyển dần từ chia sẻ lợi ích sang giai đoạn tham gia tích cực vào quá trình xây dựng, định hình các thể chế đa phương ở khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Việt Nam đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã được xác lập vào thực chất: chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các thể chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hiệp quốc. Thứ hai, trên lĩnh vực đối ngoại. Từ khi tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam đã giành được những thắng lợi to lớn: - Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Đã mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia; đã thiết lập quan hệ ổn định, lâu dài với các nước; tạo lập và giữ được môi trường hòa bình, tranh thủ yếu tố thuận lợi của môi trường quốc tế để phát triển; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững. Mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị; tiếp tục từng bước đưa quan hệ với các đối tác quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định hơn, từ đó nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. - Đã củng cố và tăng cường quan hệ với các nước láng giềng, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là với các nước Lào, Campuchia và Trung Quốc. 342
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” - Cùng với việc giải quyết tốt quan hệ với các nước láng giềng, Việt Nam đã triển khai có hiệu quả những quan hệ cơ bản khác: với các tổ chức liên kết khu vực, hợp tác toàn diện với Mỹ, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt – Nga… 4.3. Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội Hội nhập quốc tế về văn hóa chính là việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Các hoạt động hội nhập quốc tế về văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, cả về số lượng và chất lượng. Nhân dân ta có cơ hội tiếp thu những giá trị văn hóa tốt đẹp của thế giới – từ lối sống, nếp sống năng động, sáng tạo, tự lập, ý thức tôn trọng pháp luật, đề cao tinh thần dân chủ, công bằng đến những giá trị văn học nghệ thuật mang đậm tính nhân văn, tính dân tộc và hiện đại. 4.4. Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh Quán triệt sâu sắc các quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh qua 36 năm đổi mới đất nước đã được triển khai toàn diện, đi vào chiều sâu, đã gắn kết chặt chẽ vào tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực khác, mà trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp chiến lược đối ngoại quốc gia; phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại, góp phần quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh phải được gắn kết đồng bộ với hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực khác dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước. Những thành công trên lĩnh vực này thể hiện ở các nội dung sau: Thứ nhất, giữ vững nguyên tắc chiến lược; khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt về sách lược trong xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Thứ hai, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá tình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh là nhân tố rất quan trọng tạo thuận lợi hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực khác. 343
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận kinh tế chính trị P126
21 p | 170 | 43
-
ĐI lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN ở Việt Nam - 3
6 p | 112 | 16
-
Bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia trên biển ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
5 p | 117 | 14
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc ở Việt Nam
10 p | 89 | 7
-
Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền biển đảo
3 p | 36 | 7
-
Nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
21 p | 82 | 6
-
Quan điểm cơ bản về CNH,HĐH của ĐH IIX
3 p | 118 | 6
-
Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế
13 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn