BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ XIÊM

QUAN ĐIỂM JOHN STUART MILL VỀ TỰ DO VÀ

Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN

QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Triết học

Mã số: 9229001

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Hữu Toàn

PGS.TS. Tƣờng Duy Kiên

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn của PGS.TS. Đặng Hữu Toàn và PGS.TS. Tường Duy Kiên, có kế

thừa một số kết quả liên quan đã được công bố. Các số liệu, tài liệu trong luận

án là trung thực, đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận án

của mình.

Tác giả luận án

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin cảm ơn những người thân yêu trong gia đình đã luôn gần gũi, chia

sẻ, cảm thông và động viên kịp thời để tôi có thể tập trung mọi nguồn lực cho

việc hoàn thành chương trình học của mình.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tập thể cán bộ hướng dẫn:

PGS.TS. Đặng Hữu Toàn và PGS.TS Tường Duy Kiên; Ban Giám đốc Học viện

Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Triết học và các nhà khoa học tham gia đào tạo

NCS khóa 2015 - 2018 đã giúp đỡ tận tình, đã truyền cho tôi ngọn lửa đam mê

nghiên cứu khoa học.

Cuối cùng, tôi xin được cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã nhiệt tình tiếp

sức và tạo thuận lợi để hoàn thành nhiệm vụ học tập, nghiên cứu của mình.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2019

Tác giả luận án

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 1

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án ............................................................. 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 3

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................. 4

5. Đóng góp mới của luận án .......................................................................... 4

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ........................................................................ 5

7. Kết cấu của luận án ..................................................................................... 6

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .. 7

1.1. Những công trình nghiên cứu về điều kiện và tiền đề hình thành triết học

của J.S.Mill ...................................................................................................... 7

1.2. Những công trình nghiên cứu về quan điểm của J.S.Mill về tự do ....... 12

1.3. Những công trình nghiên cứu về ý nghĩa quan điểm của J.S.Mill về tự do

đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay ..................... 16

1.4. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu ...................................... 21

Chƣơng 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TRIẾT HỌC VỀ

TỰ DO CỦA JOHN STUART MILL ........................................................... 23

1.1. Điều kiện lịch sử hình thành quan điểm về tự do trong triết học J.S.Mill ....... 23

1.1.1. Tình hình kinh tế nước Anh trong thế kỷ XIX ............................... 23

1.1.2. Đặc điểm xã hội nước Anh trong thế kỷ XIX ................................ 26

1.1.3. Tình hình chính trị nước Anh thế kỷ XIX ...................................... 27

1.2. Tiền đề lý luận hình thành quan điểm về tự do trong triết học J.S.Mill 34

1.2.1. Triết học lý thuyết của J.S.Mill ..................................................... 34

1.2.2. Quan điểm triết học về tự do và lý luận nhận thức của J.Locke

(1632 - 1704) ........................................................................................... 37

1.2.3. Nguyên tắc vị lợi của Jemery Bentham (1748 - 1832) ................. 42

1.2.4. Quan điểm của Wilhelm von Humboldt (1767 - 1853) về sự phát

triển cao nhất, hài hòa nhất mọi năng lực của con người với tư cách mục

tiêu của nhân loại .................................................................................... 45

1.2.5. Triết học thực chứng của Auguste Comte (1798 - 1857) .............. 48

1.2.6. Học thuyết chính trị của Alexis de Tocqueville (1805–1859) ...... 51

1.3. Quá trình hình thành và hoàn thiện quan điểm về tự do trong triết học

J.S.Mill .......................................................................................................... 54

1.3.1. Cuộc đời, sự nghiệp của J.S.Mill .................................................. 54

1.3.2. Quá trình hình thành quan điểm về tự do trong triết học J.S.Mill ..... 61

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................... 71

Chƣơng 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TỰ DO TRONG TRIẾT

HỌC CỦA JOHN STUART MILL ............................................................... 72 2.1. Cách tiếp cận của J.S.Mill về tự do........................................................ 72

2.2. Quan điểm của J.S.Mill về các quyền tự do dân sự (quyền tự do cá nhân) ... 77

2.2.1. Tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt ............................... 77

2.2.2. Tự do tín ngưỡng và tôn giáo ........................................................ 82

2.2.3. Tự do sở thích, tự do đặt kế hoạch cho cuộc sống ........................ 83

2.2.4. Quyền tự do của cá nhân trong mối quan hệ với xã hội ............... 90

2.3. Quan điểm của J.S.Mill về cơ chế thực hiện quyền con người ............. 97

2.3.1. Hình thức chính thể lý tưởng bảo đảm thực hiện các quyền và tự do

dân chủ về chính trị ................................................................................. 97

2.3.2. Thể chế chính trị dân chủ và hình thức thực hiện dân chủ thông qua

quyền bầu cử của công dân .................................................................. 103

2.4. Giá trị và hạn chế quan điểm của J.S.Mill về tự do ............................. 113

2.4.1. Giá trị quan điểm của J.S.Mill về tự do ...................................... 113

2.4.1.1. Giá trị tư tưởng của quan điểm về quyền tự do cá nhân... 113

2.4.1.2. Giá trị tư tưởng của quan điểm về các quyền và tự do dân chủ

về chính trị ...................................................................................... 116

2.4.1.3. Giá trị tư tưởng của quan điểm về giáo dục trong việc thực

hiện quyền tự do cho người dân và mở rộng nền dân chủ ............. 118

2.1.4.4. Giá trị tư tưởng của quan điểm về giải phóng phụ nữ ...... 121

2.4.2. Hạn chế trong quan điểm của J.S.Mill về tự do ......................... 126

2.4.2.1. Chủ trương đấu tranh cho quyền tự do của con người nhưng lại

không bảo về sự bình đẳng của các dân tộc có quyền tự do, độc lập . 126

2.4.2.2. Tính chủ quan và thiếu nhất quán trong quan điểm về tự do . 128

2.4.2.3. Hạn chế từ lập trường giai cấp và từ việc hạ thấp vai trò của

quần chúng nhân dân ..................................................................... 131

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 133

Chƣơng 3: Ý NGHĨA QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CỦA JOHN STUART

MILL VỀ TỰ DO ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƢỜI Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................ 134 3.1. Quan điểm về quyền con người trong thế giới đương đại ................... 134

3.1.1. Khái niệm về quyền con người .................................................... 134

3.1.2. Lịch sử phát triển của tư tưởng nhân quyền ............................... 141

3.2. Thực trạng thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay nhìn từ quan

điểm của J.S.Mill về quyền tự do con người .................................................. 152

3.2.1. Nhà nước bảo đảm các quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý

Nhà nước và xã hội ............................................................................... 152

3.2.2. Nhà nước bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin

............................................................................................................... 155

3.2.3. Nhà nước bảo đảm quyền tự do hội họp và lập hội .................... 158

3.2.4. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ................ 160

3.3. Một số bài học rút ra về vấn đề quyền con người trong triết của J.S.Mill

về tự do ........................................................................................................ 164

3.3.1. Bài học về việc bảo đảm các quyền tự do cá nhân ..................... 164

3.3.2. Bài học về việc xây dựng hình thức chính thể bảo đảm các quyền

tham gia vào đời sống chính trị của người dân .................................... 168

3.3.3. Bài học về việc bảo đảm quyền bình đẳng giới .......................... 171

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 175

KẾT LUẬN .................................................................................................... 177

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

LUẬN ÁN ....................................................................................................... 180

CHÚ THÍCH .................................................................................................. 181

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 188

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tự do là khát vọng, là niềm mơ ước muôn thuở của con người. Đây cũng là

vấn đề bản chất, cũng là một trong những đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa xã

hội. C.Mác đã khẳng định mục đích của Chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con

người, đem lại tự do cho con người và “tự do của mỗi người là điều kiện cho sự

phát triển tự do của tất cả mọi người” [84, tr.606]. Đem lại tự do cho con người

để con người được tự do phát triển toàn diện. Theo đó, có thể nói, tự do là giá trị

nhân văn quan trọng bậc nhất trong tư tưởng của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác.

Khi nào, ở đâu mà người ta quên mất vấn đề tự do, hạn chế tự do của con người

nghĩa là đã vô tình rời bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam, tự do và độc lập là mục tiêu đấu tranh, là nguồn sức mạnh làm

nên thắng lợi vĩ đại của cả dân tộc Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc.

Trong bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, chính dân tộc ta, bằng cuộc đấu tranh

bền bỉ trong suốt 80 năm đã khôi phục được những quyền vốn có của con người,

trong đó có tự do – những giá trị bị thực dân Pháp chà đạp nhân danh khai hóa

văn minh. Lý tưởng “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi” đã được

Người khẳng định “đấy là tất cả những gì tôi muốn, đấy là tất cả những gì tôi

hiểu” [127, tr.44]. Tự do cho mỗi người và tự do cho cả cộng đồng dân tộc

không chỉ là khẩu hiệu hành động của dân tộc Việt Nam, mà còn là nguồn cổ vũ

lớn lao cho các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đứng lên đấu tranh giành lại

quyền tự do, độc lập cho dân tộc, quyền và những tự do cơ bản cho người dân.

Cuộc đấu tranh bảo vệ và phát triển quyền và những tự do cơ bản của con người

là cuộc đấu tranh cho giá trị nhân văn, cho dân tộc phát triển.

2

Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều tác gia bàn về vấn đề này,

trong đó, tiêu biểu có J.S.Mill (J.S.Mill; 1806 – 1873). Sinh thời, J.S.Mill đã

viết rất nhiều tác phẩm và gây được tiếng vang lớn. Trong đó, “Chính thể đại

diện” (Representative government), “Bàn về tự do” (On Liberty) và “Thuyết vị

lợi” (Utilitarianism) là những tác phẩm tiêu biểu của J.S.Mill trong bộ sách

Những cuốn sách vĩ đại của thế giới phương Tây (Great Books Of The Western

World , Encyclopedia Britanica, 1994). Các tác phẩm của J.S.Mill đều toát lên

nội dung chủ đạo: tự do của mỗi người tìm thấy giới hạn của mình trong tự do

của người khác; đem lại sự tự do cho mỗi người để có được sự phồn vinh của tất

cả mọi người và cuối cùng là nhằm có được sự tiến bộ xã hội. Ông nghiên cứu

các quyền tự do dân sự và quyền tự do chính trị. Những đóng góp tư tưởng của

J.S.Mill để lại dấu ấn rõ rệt trong triết học phương Tây. Tuy nhiên, xét về mặt

hạn chế, triết học của J.S.Mill đứng trên lập trường của giai cấp tư sản, là học

thuyết bảo vệ trật tự xã hội của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù, J.S.Mill chưa thể đoạn

tuyệt hẳn với một số hạn hẹp có tính lịch sử, nhưng điều đó không thể ngăn cản

ông trở thành nhà tư tưởng dũng cảm, tiến bộ trong lịch sử tư tưởng triết học. Do

đó, nghiên cứu tư tưởng triết học của ông là công việc nhằm chắt lọc những giá

trị, tinh hoa văn hóa của nhân loại. Nghiên cứu những tư tưởng tiến bộ của

J.S.Mill về tự do là một trong những định hướng đó.

Thêm nữa, để giữ gìn và bảo vệ tự do với tư cách là một giá trị cao quý nhất

như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”

và cũng là để thực hiện lý tưởng tự do cao đẹp, một cội nguồn sức mạnh trong

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi

người và của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Chúng ta không thể không nghiên

cứu và tiếp thu, kế thừa những tinh hoa tư tưởng trong quan điểm về tự do của

các nhà tư tưởng tiền bối, trong đó có J.S.Mill, trên tinh thần đổi mới và tư duy

sáng tạo để phù hợp với bối cảnh thời đại ngày nay. Xuất phát từ những vấn đề

3

nêu trên, tác giả xin lựa chọn đề tài “Quan điểm của J.S.Mill về tự do và ý

nghĩa của nó đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay”

làm Luận án Tiến sĩ Triết học.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Từ góc độ triết học, làm rõ quan điểm của J.S.Mill về tự do với tư cách

quyền của con người để trên cơ sở đó, chỉ ra và luận giải ý nghĩa của quan điểm

này đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án cần phải thực hiện

những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, phân tích điều kiện lịch sử và tiền đề lý luận hình thành quan

điểm về tự do trong triết học của J.S.Mill.

Thứ hai, phân tích những nội dung cơ bản trong quan điểm về tự do của

John Stuat Mill

Thứ ba, phân tích ý nghĩa của những quan điểm triết học của J.S.Mill về tự do

đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là tư tưởng triết học về tự do và tính hiện

thời của nó nhìn từ góc độ thực hiện nhân quyền ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận án là quan điểm của J.S.Mill về tự do trong các

tác phẩm: “Bàn về tự do” (On liberty, 1859), “Chính thể đại diện” (Representative

Government, 1861), “Thuyết vị lợi” (Utilitarianism, 1863) và thực tiễn thực hiện

quyền con người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

4

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan

điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng Sản Việt Nam về tự do và quyền

con người.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết gồm: phương pháp phân tích và

tổng hợp lý thuyết; phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết.

Phương pháp lịch sử - logic.

Phương pháp diễn dịch và quy nạp.

Phương pháp so sánh - đối chiếu.

5. Đóng góp mới của luận án

Luận án góp phần luận chứng những điều kiện lịch sử và tiền đề lý luận hình

thành quan điểm về tự do trong triết học của J.S.Mill; quá trình hình thành quan

điểm tự do trong triết học của J.S.Mill đã cho thấy các bước chuyển tư tưởng của

ông: từ khi là một thần đồng thuở thơ ấu đến khi trở thành triết gia lỗi lạc, từ những

quan điểm nền tảng ban đầu đến những luận thuyết sâu sắc sau này. Qua đó, luận

án đã góp phần luận chứng tư tưởng tự do trong triết học của ông được dựa trên

triết học lý thuyết của ông: thế giới quan duy nghiệm duy cảm nằm trong trào lưu

triết học duy nghiệm duy cảm Anh và thuyết đạo đức học vị lợi.

Luận án đã luận giải những nội dung cơ bản về tự do trong triết học của

J.S.Mill. Cụ thể, quan điểm của J.S.Mill về các quyền tự do dân sự (quyền tự do cá

nhân) và quan điểm của J.S.Mill về các quyền và tự do dân chủ về chính trị. Về

quyền tự do cá nhân, luận án đề cập đến tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu

đạt; tự do tín ngưỡng và tôn giáo; tự do sở thích, tự do đặt kế hoạch cho cuộc sống

và tự do lập hội. Trên cơ sở đó, luận án chỉ ra quyền tự do của cá nhân trong mối

5

quan hệ với xã hội mang tính hai chiều và tuân theo những nguyên tắc nguyên tắc

tự do, nguyên tắc tổn hại và nguyên tắc vị lợi. Luận án còn luận giải được những

quan điểm của J.S.Mill về cơ chế thực hiện quyền con người như chính thể lý

tưởng, hình thức thực hiện dân chủ.

Luận án luận giải những giá trị lịch sử và hạn chế của quan điểm tự do

trong triết học của J.S.Mill. Những giá trị đó bao gồm: giá trị tư tưởng về

quan điểm tự do cá nhân; của quan điểm về quyền và tự do dân chủ về chính

trị; của quan điểm về quyền và tự do trong giáo dục; của quan điểm về giải

phóng người phụ nữ. Những hạn chế bao gồm: không bảo vệ sự bình đẳng

của các dân tộc; quan điểm về tự do thiếu nhất quán và mang tính chủ quan;

đánh giá thấp vai trò của quần chúng nhân dân.

Một trong những điểm đóng góp mới của luận án là việc phân tích một

số ý nghĩa hiện thời của những quan điểm tự do của J.S.Mill đối với việc thực

hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay. Luận án đã lựa chọn một số nét

trong thực trạng thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay có liên quan

đến các nội dung trong quan điểm về tự do của J.S.Mill để làm sáng rõ giá trị

và ý nghĩa của những quan điểm đó.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Trên phương diện lý luận, luận án đã nêu được bối cảnh kinh tế nước Anh

thế kỷ XIX là thời kỳ phát triển nền sản xuất công nghiệp Tư bản chủ nghĩa diễn

ra một cách mạnh mẽ, giúp cho con người ý thức được quyền năng và sự tự do cá

nhân của mình. Bên cạnh đó, luận án đã tái hiện được lịch sử chính trị dưới triều

đại Victoria dẫn đến sự xuất hiện của các đảng chính trị (Đảng Whig và Đảng

Tory) và nhóm Cấp tiến, Tổng công đoàn và phong trào Hiến chương như các tổ

chức đứng ra bảo vệ các quyền tự do cá nhân. Luận án đã phân tích toàn diện các

tiền đề lý luận cho sự hình thành quan điểm tự do của J.S.Mill. Những phân tích

6

của luận án cho thấy những đóng góp của J.S.Mill trong triết học chính trị của chủ

nghĩa tự do cổ điển.

Luận án đã phân tích những nội dung cơ bản trong quan điểm về tự do của

J.S.Mill. Góc độ tiếp cận của J.S.Mill về tự do: tự do luôn mang tính lịch sử và xã hội;

những phương diện biểu hiện khác nhau của tự do cá nhân trong thực tiễn cuộc sống;

cơ chế, phương thức thực hiện tự do cá nhân vào cuộc sống. Trên cơ sở đánh giá giá

trị và hạn chế của những tư tưởng trên, luận án đã rút ra được những bài học đối với

việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay.

Trên phương diện thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy quan

điểm tự do trong triết học của J.S.Mill là sự phản ánh đặc thù của lịch sử, văn

hóa và xã hội phương Tây. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc chống lại

những luận điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề quyền con người

và những chính sách thực hiện quyền con người của Nhà nước ta trong giai đoạn

hiện nay.

Luận án nghiên cứu quan niệm của J.S.Mill về tự do từ góc độ thực tiễn

thực hiện tự do và quyền con người ở Việt Nam có ý nghĩa quan trọng đối với

việc bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc cả trong lĩnh vực quyền con người.

Luận án là một công trình khoa học, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo

cho công tác học tập, nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề về tự do, quyền

con người, triết học phương Tây cận – hiện đại…

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, chú thích và danh mục tài liệu

tham khảo, nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương 10 tiết.

7

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Những công trình nghiên cứu về điều kiện và tiền đề hình thành

triết học của J.S.Mill

Nghiên cứu về điều kiện và tiền đề hình thành triết học của J.S.Mill có

những công trình tiêu biểu, cụ thể như sau:

Viết về lịch sử nước Anh có cuốn “Lược sử nước Anh” của tác giả Bùi Đức

Mãn được xuất bản năm 2008 do NXB Thành phố Hồ Chí Minh phát hành [97]

đã cung cấp một cách hệ thống về lịch sử nước Anh thời cổ đại đến những năm

của chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1945. Ở đó, tác giả Bùi Đức Mãn có miêu tả nước Anh thời Victoria1 là thời kỳ đỉnh cao của cách mạng công nghiệp. Sự trị

vì của nữ hoàng Victoria được đánh dấu bởi sự bành trướng vĩ đại của đế quốc

Anh ra thế giới. Trong giai đoạn này, nước Anh đã đạt được vị trí quốc gia đỉnh

cao, trở thành cường quốc hàng đầu, không chỉ phát triển kinh tế mà còn đạt

nhiều thành tựu rực rỡ trong triết học và các khoa học cụ thể.

Tác phẩm “Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh” của Ph.Ăngghen và

“Tình hình công nghiệp công xưởng của Anh” của C.Mác đã phân tích rất chi tiết

về sự tác động của cách mạng công nghiệp lên đời sống kinh tế - xã hội ở Anh.

Sự thay đổi đó bắt đầu từ gia đình; từ vị trí, vai trò của phụ nữ trong xã hội đến

địa vị của người lao động trong xã hội; sự chuyển biến của những mối quan hệ

giữa người với người trong xã hội nước Anh… qua đó phản ánh một cách toàn

diện về sự ra đời và bản chất của chế độ Tư bản chủ nghĩa tại Anh.

Những tác phẩm trên cho thấy: Vào nửa cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX,

với những phát minh khoa học kỹ thuật, Vương quốc Anh đã bỏ xa các nước

Châu Âu khác để trở thành một cường quốc công nghiệp. Chế độ công xưởng

được chính phủ ủng hộ với sự giàu có nhanh chóng của các nhà tư bản đã làm

đóng cửa hàng loạt xưởng thợ nhỏ với tầng lớp thợ thủ công ngày càng bần cùng

8

hóa. Sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân đã trở

thành những mâu thuẫn giai cấp sâu sắc. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm l841 -

1842 đã góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân thành một làn

sóng rộng khắp trên toàn nước Anh. Những cuộc đấu tranh sôi động chống giai

cấp tư sản đã chỉ ra rằng giai cấp công nhân Anh bắt đầu nhận thức được vai trò

và sức mạnh to lớn của mình, bước lên vũ đại chính trị như một giai cấp độc lập.

Trước tình cảnh khốn khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, sự

mâu thuẫn ngày càng sâu sắc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động với giai

cấp tư sản, đòi hỏi những người theo chủ nghĩa tự do đưa ra những ý tưởng cải cách

xã hội tư sản. Trên thực tế, trong thời đại của J.S.Mill, ông đã hai lần chứng kiến

cải cách chính trị ở nước Anh: Lần thứ nhất vào năm 1832, với sự kiện Luật cải

cách được nhà vua ký, chính thức có hiệu lực. Luật cải cách năm 1832 ra đời là

thành quả của cuộc đấu tranh của nhóm Cấp Tiến (đại diện có Jemery Bentham và

J.S.Mill) kêu gọi quần chúng đòi phổ thông đầu phiếu, đòi quyền bầu cử cho tất cả

công nhân Anh có đóng thuế trực tiếp. Nó mở rộng quyền bầu cử cho bộ phận tầng

lớp trung lưu mới, giảm bớt căng thẳng chính trị trong xã hội. Lịch sử chính trị Anh

tiếp tục ghi dấu ấn bởi Cải cách nghị viện lần thứ hai năm 1867. Cuộc cải cách này

đã mở rộng hơn nhiều quyền bầu cử, đem lại quyền bầu cử cho giai cấp công nhân

cơ bản (ngoại trừ công nhân mỏ và công nhân nông nghiệp). Số cử tri tại Anh khi

đó đã tăng lên rõ rệt. Hai lần cải cách nghị viện trong thế kỷ XIX đã làm thay đổi

rất nhiều tình hình chính trị nước Anh. Cũng chính những lần cải cách nghị viện đã

thu hút được sự quan tâm của J.S.Mill. Nhiệm vụ của luận án là phải làm sáng tỏ

những tiền đề kinh tế - xã hội trên là cơ sở cho sự ra đời của chủ nghĩa tự do thế kỷ

XIX, trong đó, J.S.Mill xuất hiện như vị “giáo chủ tự do”, là vị “khai sinh ra chủ

nghĩa tự do” [4, tr.136].

J.S.Mill là nhà triết học Anh vĩ đại có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng phương

Tây thế kỷ XIX và cho đến hiện nay. Cuộc đời và sự nghiệp của J.S.Mill cũng

9

như các quan điểm triết học của ông luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho học giả

trên thế giới kế thừa và luận bàn. Ở Canada, từ những năm 1950, nhà xuất bản

Đại học Toronto (University of Toronto Press) đã xuất bản một số tác phẩm của

J.S.Mill, ấn hành lần đầu là bộ “Toàn tập của J.S.Mill” (The Collected Works of

J.S.Mill), gồm 33 tập được biên tập từ Hội đồng biên tập Khoa nghệ thuật và

Khoa học của trường Đại học Toronto (The Faculty of Arts and Science of the

University of Toronto Press) [149]. Tổng biên tập của Hội đồng là ông John

Michael Robson, Giáo sư của Đại học Toronto. Họ đã trình bày được một cách

đầy đủ toàn bộ tác phẩm của J.S.Mill, trong đó có những tác phẩm đã được xuất

bản riêng lẻ. Bên cạnh đó, bộ “Toàn tập của J.S.Mill” đã cung cấp các văn bản

chính xác của một số tác phẩm trước đó chưa từng được công bố hoặc khó tiếp

cận. Trường Đại học Toronto đã cung cấp trọn vẹn các tác phẩm của J.S.Mill ở

những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, những lá thư trao đổi giữa J.S.Mill với

nhiều nhân vật cùng thời. Quá trình xuất bản bộ “Toàn tập của J.S.Mill” đã nhận

được sự hỗ trợ lớn từ Hội đồng nghiên cứu Khoa học Xã hội và Nhân văn

Canada (Social Sciences and Humanities Research Council of Canada) và nhận

được sự hợp tác của nhiều nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực triết học, chính trị,

kinh tế, ngôn ngữ và lịch sử ở các quốc gia trên thế giới. Điều đó cho thấy bộ

“Toàn tập của J.S.Mill” là một ấn bản công phu, kỹ lưỡng và có giá trị khoa học.

Đây là một nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để có thể tiếp cận cuộc đời và sự

nghiệp của J.S.Mill.

Ở Anh quốc, các công trình nghiên cứu về ông vô cùng phong phú và đa

dạng. Tiêu biểu, bộ sách “Sổ tay Cambridge về triết học” do nhà xuất bản Đại

học Cambridge – Anh quốc phát hành. Loạt sách này giới thiệu chi tiết về các

nhà tư tưởng, nhà triết học và các trường phát triết học khác nhau. Mỗi một tập

bao gồm những bài viết của những học giả hàng đầu ở Anh quốc nên đó là tập

hợp các quan điểm khác nhau, chứ không phải là ý kiến của một tác giả duy nhất.

10

Trong bộ sách này có hai cuốn: Năm 1998, tác giả John Skorupski ở Đại học St

Andrews, Scotland có biên soạn cuốn “Sổ tay Cambridge về Mill” (The

Cambridge Companion to Mill) [150]. Trong tác phẩm, J.S.Mill được đánh giá

là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thế kỷ XIX. J.S.Mill đã có một

ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và văn hóa phương Tây trong nhiều lĩnh vực:

triết học, kinh tế - chính trị, xã hội học và nghiên cứu văn học. Herny R. West,

Biên tập viên tại Tạp chí triết học Quốc tế đánh giá cuốn sách này là “bộ sưu tập”

những bài viết độc đáo về tiểu sử và tư tưởng triết học của J.S.Mill. Cuốn sách là

một trong những công trình toàn diện và đáng tin cậy khi nghiên cứu triết học

của J.S.Mill. Năm 2014, cuốn “Sổ tay Cambridge về Thuyết vị lợi” được xuất

bản bởi Đại học Cambridge do Ben Eggleston và Dale Miller đồng chủ biên

[145]. Các bài viết trong cuốn sách này được đánh giá là nguồn tư liệu quan

trọng để nghiên cứu về triết học đạo đức, triết học chính trị và đặc biệt là Thuyết

vị lợi. Hai tác giả bàn nhiều về các nguyên tắc vị lợi và sự tác động của học

thuyết này trong bối cảnh hiện nay bằng cách xem xét nó đối với những vấn đề

đương đại gây tranh cãi như xung đột quân sự, sự nóng lên toàn cầu…

Có thể nói rằng J.S.Mill và các tác phẩm của ông được xuất hiện hầu hết

trong các sách nhập môn về triết học phương Tây về triết học đạo đức, triết học

chính trị. Điều này cho thấy những quan điểm triết học của J.S.Mill vẫn được

quan tâm, tranh luận, nghiên cứu nhiều và có ảnh hưởng nhất định đến đời sống

chính trị - xã hội đương đại. Tuy nhiên, ở Việt Nam, những nghiên cứu về

J.S.Mill và các tác phẩm của ông vẫn còn mới, cần tiếp tục được khai thác.

Ở Việt Nam, các tài liệu về lịch sử triết học như “Lịch sử triết học phương

Tây trước Mác” của tác giả Trần Văn Phòng và Dương Minh Đức xuất bản năm

2001 tại NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội; bộ sách “Lịch sử triết học phương Tây”

gồm 3 tập của tác giả Đỗ Minh Hợp do NXB Chính trị Quốc gia phát hành năm

2014 [56, 57, 58]; những cuốn sách về “Lịch sử triết học” của các tác giả Bùi

11

Thanh Quất, Trần Đăng Sinh, Nguyễn Hữu Vui hay như cuốn sách “Câu chuyện

triết học” của Will Durant… đều đã chỉ ra triết học về tự do của J.S.Mill nằm

trong sự phát triển của tư tưởng nhân loại. Những nội dung triết học của J.S.Mill

được nêu khái quát trong những công trình trên là những tài liệu quý giá để học

viên tìm hiểu tiền đề lý luận hình thành quan điểm triết học J.S.Mill về tự do.

Về luận án, luận văn: hiện nay đã có một số luận án, luận văn nghiên cứu về

vấn đề này, tiêu biểu: Luận văn Thạc sỹ Triết học của Nguyễn Hải Hoàng “Quan

điểm về tự do trong Bàn về tự do của J.S.Mill” bảo vệ năm 2008 tại Trường Đại

học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội [43]; Luận án Tiến

sĩ “Triết học chính trị của J.S.Mill – Giá trị và bài học lịch sử” của Ngô Thị Như

bảo vệ năm 2012 tại Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học

Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh [114]; Luận văn Thạc

sỹ Triết học “Quan điểm của J.S.Mill về chính thể trong tác phẩm Chính thể đại

diện” của Nguyễn Thị Thùy Linh bảo vệ năm 2012 tại Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội [77] và Nguyễn Ánh Hồng Minh (2014),

luận văn Thạc sỹ Triết học “Tư tưởng đạo đức của J.S.Mill trong tác phẩm

Thuyết công lợi”, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà

Nội [99]. Những công trình trên đã nêu được những điều kiện và những tiền đề

lý luận triết học tự do của John Stuart Mill. Cụ thể, các tác giả đều nhận định

cuộc cách mạng công nghiệp Anh và sự xuất hiện của giai cấp công nhân Anh,

mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản dẫn đến những biến động

chính trị ở nước Anh dưới thế lỷ XIX là tiền đề kinh tế, xã hội và chính trị cho sự

hình thành những quan điểm triết học của J.S.Mill. Về tiền đề lý luận, các tác giả

đã đi phân tích J.S.Mill đã kế thừa những tư tưởng triết học của A.Comte,

J.Locke, W.Humboldt, J.Bentham và A.Tocqueville. Đó là những đóng góp lớn

của các tác giả mà luận án cần kế thừa.

12

Bằng những phương pháp nghiên cứu lý thuyết, luận án có nhiệm vụ luận

giải cuộc cách mạng công nghiệp và những biến động về chính trị của nước Anh

thế kỷ XIX đã đặt ra những vấn đề gì để J.S.Mill giải quyết vấn đề tự do. Bên

cạnh đó, luận án cần chỉ ra những nét khái quát nhất về cuộc đời, sự nghiệp của

J.S.Mill, đặc biệt là sự chuyển biến trong tư tưởng của J.S.Mill. Trên đây là

những vấn đề mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu.

1.2. Những công trình nghiên cứu về quan điểm của J.S.Mill về tự do

Trên thế giới, có rất nhiều học giả cũng quan tâm nghiên cứu quan điểm

J.S.Mill về tự do và những giá trị, hạn chế trong quan điểm đó. Tiêu biểu có

những tác phẩm sau:

Nhà triết học người Do Thái, Isaiah Berlin với tác phẩm “Bốn tiểu luận về

tự do” do NXB Tri thức phát hành năm 2014 (Nguyễn Văn Trọng dịch) [4] với

nội dung cơ bản là vấn đề về tự do và hai khái niệm về tự do. Khi bàn về những

vấn đề này, Isaiah Berlin đã kế thừa rất nhiều những tư tưởng của J.S.Mill trong

tác phẩm “Bàn về tự do”. Trong tác phẩm “Bốn tiểu luận về tự do”, Isaiah Berlin

tỏ ra yêu mến tư tưởng của J.S.Mill một cách nồng nhiệt. Isaiah Berlin đã có đóng

góp rất lớn khi phân biệt tự do - freedom hay tự do - liberty. Thuật ngữ “freedom”

thường được hiểu theo hai nghĩa: tự do khỏi một cái gì đó “freedom from

something” và tự do được làm điều gì đó “freedom to do something”. Isaiah

Berlin đã cố gắng phân biệt giữa hai nghĩa của khái niệm tự do này: “tự do tích

cực” khi nói về tự do được làm điều gì đó và tự do khỏi một cái gì đó thường được

sử dụng là một khái niệm “tự do tiêu cực”. Khi phân tích “tự do tiêu cực”, Isaiah

Berlin đã sử dụng quan điểm của J.S.Mill và coi đó là khái niệm tự do “Chỉ có tự

do xứng đáng với tên gọi ấy, ấy là tự do mưu cầu hạnh phúc riêng của ta theo cách

riêng của ta, trong chừng mực ta không mưu toan xâm phạm đến hạnh phúc của

người khác hoặc ngăn trở những nỗ lực của người khác đạt được hạnh phúc” [4,

tr.52-53]. Những phân tích này của Isaiah Berlin là cơ sở lý luận trực tiếp để luận

13

án tiếp cận quan điểm của J.S.Mill về tự do với tư cách là những quyền cơ bản của

con người.

Tác giả Michael Sandel – nhà triết học chính trị Mỹ với các tác phẩm “Chủ

nghĩa tự do và giới hạn của công lý” (1998), “Bất mãn trong nền dân chủ”

(1996), “Triết học: Các tiểu luận về đạo đức trong chính trị” (2005), “Lý lẽ

chống lại sự hoàn hảo: Đạo đức trong thời đại kỹ thuật di truyền” (2007) và gấn

đây nhất là tác phẩm “Phải trái đúng sai” được xuất bản ở Việt Nam do NXB

Trẻ ban hành (Hồ Đắc Phương dịch) [120]. Cuốn sách “Phải trái đúng sai” là

tập hợp các bài giảng của ông ở Đại học Harvard: Công lý - Đâu là việc đúng nên

làm? (What‟s the Right Thing to Do?) khơi gợi lên những câu hỏi lớn của triết

học chính trị thông qua việc đánh giá những vấn đề gai góc gây nhiều tranh cãi

nhất hiện nay, trong đó có vấn đề là giới hạn của nguyên tắc tự do và nguyên tắc

vị lợi trong việc thực hiện công lý... Đây là một khóa học có số lượng sinh viên

tham dự đông kỷ lục ở Hoa Kỳ. Ở đó, Michael Sandel có bàn luận rất nhiều về

quan điểm tự do và Thuyết vị lợi của J.S.Mill.

Từ sự kế thừa tư tưởng của J.S.Mill trong các tác phẩm của Isaiah Berlin và

Michael Sandel cho thấy quan điểm tự do của J.S.Mill có đóng góp rất lớn cho

sự phát triển chủ nghĩa tự do phương Tây, với tư cách như một hệ tư tưởng. Tác

giả Isaiah Berlin và Michael Sandel có những phân tích sâu sắc về quan điểm tự

do trong triết học của J.S.Mill.

Có thể nói rằng J.S.Mill là một nhân vật có sức hấp dẫn rất lớn trong nghiên

cứu triết học ở các quốc gia phương Tây. Còn ở Trung Quốc và Nhật Bản, tác

phẩm “Bàn về tự do” của ông được phổ biến rộng rãi. Thời Canh tân Minh Trị ở

Nhật Bản và thời Phong trào Ngũ tứ Trung Quốc, hai nước đã cho dịch và phát

hành rộng rãi cuốn sách để mở mang tri thức cho dân tộc [69; tr.6]. Cho đến hiện

nay, ở Nhật Bản cuốn sách “Bàn về tự do” và những quan điểm triết học của

J.S.Mill vấn được mọi người ưa chuộng và tìm đọc. Ở Việt Nam, tên tuổi và các

14

tác phẩm của ông vẫn còn mới mẻ. Trong số các tác phẩm của J.S.Mill, hiện

nay chỉ có hai tác phẩm được dịch ra tiếng Việt. Đó là “Bàn về từ do” (bản dịch

của Nguyễn Văn Trọng, NXB Tri Thức ấn hành) [69] và “Chính thể đại diện”

(Nguyễn Văn Trọng và Bùi Nam Sơn dịch, giới thiệu và chú thích) [70]. Đây là

những tác phẩm tiêu biểu của J.S.Mill và những bản chuyển ngữ của hai dịch

giả Nguyễn Văn Trọng và Bùi Nam Sơn được đánh giá là công phu, kỹ lưỡng

và tỉ mỉ. Đây chính là tài liệu quan trọng, hỗ trợ trực tiếp cho quá trình nghiên

cứu về J.S.Mill và các quan điểm triết học của ông về tự do.

Ngoài hai cuốn sách kể trên, dịch giả Nguyễn Văn Trọng tiếp tục dịch, giới

thiệu và chú giải tác phẩm “Con người trong thế giới tinh thần – trải nghiệm

triết học cá biệt luận” của tác giả Nikolai Alexandrovich Berdyaev do NXB Tri

thức phát hành năm 2015 [109]. Nikolai Alexandrovich Berdyaev được xem là

người có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của chủ nghĩa hiện sinh của Pháp. Ông

đã xây dựng triết học về bản diện cá nhân và tự do trong tinh thần của chủ nghĩa

hiện sinh. Khi sử dụng cuốn sách này là một tài liệu tham khảo, luận án sử dụng

phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phương pháp so sánh –

đối chiếu để tìm ra điểm tương đồng và sự khác biệt trong quan điểm về tự do

của tác giả Nikolai Alexandrovich Berdyaev, một đại diện của chủ nghĩa hiện

sinh của Pháp và J.S.Mill với tư cách là một trong những “vị khai sinh ra chủ

nghĩa tự do” ở nước Anh.

Tác phẩm “Thuyết vị lợi” (Utilitarianism) do Batoche Books, Kitchener

phát hành năm 2001 [148] có ý nghĩa quan trọng cho sự hình thành và phát triển

“Thuyết vị lợi” – một trong những chủ thuyết có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến cải

cách chính trị - xã hội ở nước Anh nói riêng và các nước phương Tây nói chung

trong thế kỷ XIX và cho đến hiện nay. Trong lịch sử triết học, “Thuyết vị lợi” là

một trong những tiền đề lý luận cho sự hình thành và phát triển trường phái triết

học thực dụng Mỹ. Vấn đề này được tác giả Đỗ Minh Hợp trình bày trong cuốn

15

“Lịch sử triết học phương tây” tập 3 do NXB Chính trị quốc gia phát hành [78]

và tác phẩm “Triết học kinh tế trong lý thuyết về công lý của nhà triết học Mĩ –

John Rawls” của tác giả Trần Thảo Nguyên [125]. Đó là những nguồn tài liệu

quý giá để luận án tiếp cận nguyên tắc vị lợi – một trong những nguyên tắc cơ

bản để thực hiện quyền tự do cá nhân.

Về luận văn, luận án: nghiên cứu những quan điểm triết học của J.S.Mill về

tự do có những công trình tiêu biểu sau.

Nghiên cứu tác phẩm “Bàn về tự do” Nguyễn Hải Hoàng (2008), luận văn

Thạc sỹ “Quan điểm về tự do trong tác phẩm Bàn về tự do của J.S.Mill”, Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Hà Nội [46]. Luận văn đã tập trung nghiên

cứu quan điểm của J.S.Mill về tự do. Tuy nhiên, khi trình bày về nguyên tắc tự

do và nguyên tắc vị lợi, tác giả mới chỉ khái quát ở những luận điểm cơ bản.

Nhiệm vụ của luận án phải phân tích những nguyên tắc trên để làm rõ quan điểm

của J.S.Mill về tự do với tư cách là quyền cơ bản của con người.

Ngô Thị Như với luận án Tiến sĩ Triết học “Triết học chính trị của J.S.Mill –

Giá trị và bài học lịch sử”, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học

Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong luận án, tác giả

Ngô Thị Như đã trình bày những nội dung cơ bản trong triết học chính trị của

J.S.Mill, chẳng hạn vấn đề tự do cá nhân, quyền lực nhà nước, dân chủ, bầu cử,

giáo dục và giải phóng người phụ nữ. Từ đó, tác giả phân tích và rút ra những giá trị,

bài học lịch sử của triết học chính trị J.S.Mill, đồng thời chỉ ra những hạn chế trong

triết học chính trị của J.S.Mill như: tính chủ quan, thiếu nhất quán, thiếu cơ sở thực

tiễn thể hiện trong quan điểm về vai trò của quần chúng nhân dân. Về vấn đề tự do,

tác giả Ngô Thị Như đã tiếp cận tư tưởng J.S.Mill từ quyền tự do cá nhân (tự do tư

tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp…) và tự do cá nhân được nhìn nhận trong

mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, những nguyên tắc để thực hiện quyền tự do cá nhân

thì tác giả chưa đề cập đến, nhiệm vụ của luận án phải làm rõ những vấn đề này.

16

Nghiên cứu về tác phẩm “Chính thể đại diện”, có luận văn Thạc sỹ Triết

học của Nguyễn Thị Thùy Linh với đề tài “Quan điểm của J.S.Mill về chính thể

trong tác phẩm Chính thể đại diện” của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,

Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong luận văn, tác giả Nguyễn Thị Thùy Linh đã chỉ

ra quan điểm của J.S.Mill về tự do là quyền cơ bản của con người. Trong đó, có

những quyền tự do nhất thiết phải được bảo vệ: quyền tự do tư tưởng, quyền tự

do thảo luận; tự do lựa chọn lối sống và tự do lập hội. Tác giả đã chỉ ra triết học

chính trị của J.S.Mill dựa trên hai nguyên tắc nền tảng là nguyên tắc vị lợi và

nguyên tắc tự do. Tuy nhiên, những phân tích của tác giả Nguyễn Thị Thùy Linh

mới chỉ ở mức độ khái quát, cần phải được nghiên cứu một cách hệ thống và

mang tính chuyên sâu.

Nguyễn Ánh Hồng Minh (2014), Luận văn Thạc sỹ Triết học “Tư tưởng

đạo đức của J.S.Mill trong tác phẩm Thuyết Công lợi”, Đại học Khoa học xã hội

và nhân văn. Trong luận văn, tác giả đã phân tích những điều kiện và tiền đề hình

thành tư tưởng đạo đức của J.S.Mill; nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức

J.S.Mill trong tác phẩm Thuyết vị lợi và những giá trị, hạn chế của nó. Những

nội dung mà tác giả Nguyễn Ánh Hồng Minh trình bày trong luận văn là cơ sở để

luận án tiếp cận nguyên tắc vị lợi.

Như vậy, có thể thấy rằng, các tác phẩm của J.S.Mill chưa được nghiên cứu

nhiều ở Việt Nam. Khoảng trống về những đề tài quan trọng này là một điều bất

lợi lớn trong quá trình nhận thức về vấn đề quyền tự do theo quan điểm của

J.S.Mill nói riêng và vấn đề tự do trong triết học phương Tây nói chung.

1.3. Những công trình nghiên cứu về ý nghĩa quan điểm của J.S.Mill về

tự do đối với việc thực hiện quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay

Vấn đề quyền con người nói chung, triết học của J.S.Mill về quyền con

người nói riêng là những nội dung nhận được sự quan tâm của nhiều chuyên gia,

17

các nhà khoa học trên phương diện hoạt động nghiên cứu lý luận khoa học và

hoạt động thực tiễn.

Về sách: Năm 2005, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ban hành sách trắng về

quyền con người với tiêu đề “Thành tựu và phát triển quyền con người ở Việt

Nam” [11]. Cuốn sách tương đối nhỏ, gọn (82 trang) gồm 4 phần: Quan điểm và

chính sách của Nhà nước Việt Nam về quyền con người; Thành tựu trong việc

thực hiện và thúc đẩy quyền con người; Hợp tác quốc tế về quyền con người;

Phòng chống các âm mưu thù địch xuyên tạc vi phạm quyền con người.

Cuốn sách cũng tổng kết các thành tựu của Việt Nam trong việc thực hiện

và phát triển nhân quyền. Đó là đảm bảo quyền con người về dân sự và chính trị,

như quyền bầu cử, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do đi lại, bình đẳng giữa

các dân tộc, quyền được tôn trọng về nhân phẩm và bất khả xâm phạm thân thể.

Bên cạnh đó là việc đảm bảo thực hiện các quyền con người về kinh tế, xã hội và

văn hoá. Cuốn sách cũng trình bày những cố gắng trong việc phát triển quyền

của phụ nữ, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, gia đình, người già và người tàn tật.

Trong đó, phụ nữ được bình đẳng trong cơ hội việc làm với nam giới, tham gia

ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế, xã hội và chính trị.

Luận án đã kế thừa những vấn đề lý luận được trình bày trong cuốn sách

như: chính sách của Nhà nước về quyền con người, nhận diện và đấu tranh

chống các âm mưu thù địch xuyên tạc vi phạm quyền con người. Trên cở sở lý

luận đó, luận án sử dụng phương pháp so sánh – đối chiếu để tìm hiểu giá trị và

hạn chế trong quan điểm triết học của J.S.Mill về tự do và ý nghĩa của nó đối với

việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay.

Đại học Quốc gia Hà Nội đã xuất bản một số cuốn sách viết về vấn đề này.

Tiêu biểu như “Quyền con người – Tập tài liệu chuyên đề liên hợp quốc” phát

hành năm 2010 [17]. Trong tác phẩm này, các tác giả đã chỉ ra trên phương diện

triết học, sự hình thành và phát triển lý luận quyền con người phản ánh quy luật

18

phát triển xã hội từ thấp đến cao. Cụ thể, nó phản ánh quá trình phát triển mang

tính quy luật trong nhận thức loài người từ những khái niệm sơ khai nhất về công

bằng, bình đẳng, tự do và nhân phẩm cho đến những tư tưởng, học thuyết triết

học về quyền con người.

Trong “Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người” do Đại học

Quốc gia Hà Nội đã xuất bản, các tác giả đã phân tích những nội dung cơ bản sau:

quyền con người từ lâu đã trở thành một đối tượng nghiên cứu với những tư

tưởng, học thuyết được phát triển bởi nhiều nhà triết học nổi tiếng, trong đó có

J.S.Mill. J.S.Mill là một đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa tự do thế kỷ XIX, tác

phẩm “Bàn về tự do” của ông được xác định là “văn kiện đánh dấu sự phát triển

tư tưởng về quyền con người của nhân loại từ trước đến nay” [16, tr.56-57].

J.S.Mill đã đưa ra những luận giải về rất nhiều vấn đề lý luận cơ bản của quyền

con người, đặc biệt là các quyền tự nhiên và quyền pháp lý. Những tư tưởng về

các quyền tự nhiên và quyền pháp lý của J.S.Mill và các nhà triết học đương thời

có ảnh hưởng quan trọng đến sự ra đời của những văn bản pháp luật về quyền

con người của các quốc gia châu Âu trong thời điểm này.

Bên cạnh đó, còn những cuốn sách như “Quyền con người – Tập tài liệu

chuyên đề Liên hiệp quốc” của xuất bản năm 2010 [17]; “Hỏi đáp về quyền con

người” xuất bản năm 2010 [24]; “Tư tưởng về quyền con người – tuyển tập tư

liệu thế giới và Việt Nam” phát hành năm 2011 [22] của khoa Luật, Đại học

Quốc gia Hà Nội. Các tác phẩm đã trình bày lý luận về quyền con người dưới

góc độ triết học, ở đó có xác định tác phẩm “Bàn về tự do” của J.S.Mill với tư

cách là một văn kiện đánh dấu sự phát triển tư tưởng về quyền con người của

nhân loại. Về cơ bản, những tác phẩm này cùng phân tích những nội dung chủ

yếu sau:

Trong những tác phẩm trên, các tác giả đều nhận định rằng sâu thẳm trong

tư duy và niềm tin của nhân loại là niềm tin chắc chắn rằng mỗi người và tất cả

19

mọi người đều có các quyền, trong đó có các quyền tự do cơ bản trên lĩnh vực

kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, quyền con người

đã phát triển như một khuôn khổ đạo đức, chính trị, pháp lý chung của các quốc

gia trên thế giới. Bên cạnh việc cung cấp hệ thống văn bản, công ước quốc tế về

quyền con người, các tác giả cũng chỉ ra những công trình đó là sự kế thừa trực

tiếp hoặc gián tiếp những tiền đề lý luận của các nhà triết gia trong trường phái

chủ nghĩa tự do từ cổ điển cho đến hiện đại. Nhiệm vụ của luận án phải chỉ ra

những tư tưởng triết học của J.S.Mill về quyền con người, đặc biệt là các quyền

tự nhiên và các quyền pháp lý có ý nghĩa như thế nào cho việc pháp điển hóa các

quyền con người vào pháp luật quốc gia và quốc tế, cũng như việc đảm bảo thực

hiện các quyền này trên thực tế.

Cuốn sách “Hỏi đáp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”

của tác giả Vũ Công Giao xuất bản năm 2016 do NXB Chính trị quốc gia phát

hành [42] đã trình bày những vấn đề cơ bản về quyền con người. Trong cuốn

sách, tác giả đã tiếp cận khái niệm quyền con người theo chiều ngang, thông qua

nhà nước và xã hội dân sự. Đây là một cách tiếp cận rất mới về quyền con người

của tác giả mà luận án cần tiếp thu. Mặt khác, tác giả đã góp phần lý giải về mối

liên hệ giữa quyền con người với tự do. Theo tác giả, tự do mang tính chất của

một sự lựa chọn hay một quyền cá nhân. Bàn về vấn đề này, tác giả đã trích dẫn

tư tưởng của J.S.Mill: “Về khía cạnh này, J.S.Mill, nhà triết học và kinh tế chính

trị học người Anh cho rằng, cần bảo vệ tự do của cá nhân để họ được sống hạnh

phúc theo ý của họ, hơn là bắt họ sống hạnh phúc theo ý của những người xung

quanh (Bàn về tự do - 1859)” [42, tr.37].

Một vấn đề còn gây tranh cãi về quyền con người, đó là: quyền con người

có nguồn gốc tự nhiên hay do pháp luật quy định? Trong lịch sử, có hai trường

phái trái ngược nhau. Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural

rights) – tiêu biểu là các triết gia như Thomas Hobbes, John Locke, Thomas

20

Paine… cho rằng quyền con người là bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra

đều được hưởng. Do đó, các quyền con người không phụ thuộc vào phong tục,

tập quán, truyền thống, văn hóa, ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ

chức, cộng đồng hay nhà nước nào. Vì thế, không một chủ thể nào, kể cả Nhà

nước, có thể ban phát hay tùy tiện vứt bỏ quyền con người. Ngược lại, những

triết gia theo học thuyết về quyền pháp lý (legal rights) tiêu biểu có Edmund

Burke, Jeremy Bentham… cho rằng các quyền của con người không phải là bẩm

sinh, vốn có mà phải do các nhà nước quy định trong pháp luật. Họ cho rằng

phạm vi, giới hạn, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý

chí của tầng lớp thống trị và những yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống

văn hóa… của từng xã hội. Những vấn đề trên được tác giả Vũ Công Giao lược

khảo trong cuốn sách “Hỏi đáp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công

dân”. Trên cơ sở những nội dung tác giả đã trình bày, luận án phải chỉ ra J.S.Mill

đã có sự kế thừa như thế nào trong quan điểm của các triết gia trên và tư tưởng

của J.S.Mill về nguồn gốc của quyền con người.

Trên thế giới, có rất nhiều công trình khoa học bàn về ý nghĩa quan điểm

của J.S.Mill đối với việc thực hiện quyền con người trong giai đoạn hiện nay,

tiêu biểu có tác phẩm “Bốn tiểu luận về tự do” của Isaiah Berlin [4] và “Phải trái

đúng sai” của Michael Sandel [120]. Các tác giả đều nhận định J.S.Mill là một

trong những người phát ngôn hàng đầu về chủ nghĩa tự do, là đại biểu phê phán

mạnh mẽ những người đã hiểu chưa đúng về quyền tự do cá nhân. Bên cạnh việc

chỉ ra những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của J.S.Mill, các tác giả đều kế

thừa những giá trị tích cực và phát triển cho phù hợp với thời đại ngày nay.

Trong đó, tác giả Michael Sandel vẫn thường xuyên sử dụng các tư tưởng tự do

và nguyên tắc vị lợi của J.S.Mill để giảng dạy cho sinh viên trường Đại học

Harvard các vấn đề chính trị - xã hội của Hoa Kỳ hiện nay.

21

Trên đây là nguồn tài liệu quý giá giúp học viên tiếp cận về giá trị và ý

nghĩa của quan điểm về tự do của chủ nghĩa tự do đối với Việt Nam mà J.S.Mill

với tư cách là một đại diện tiêu biểu của trường phái này.

Luận án Tiến sĩ Triết học “Triết học chính trị của J.S.Mill – Giá trị và hạn

chế” của tác giả Ngô Thị Như [114] đã chỉ ra những bài học lịch sử từ triết học

chính trị của J.S.Mill, đó là bài học về phát huy vai trò của giáo dục, bài học đề

cao bình đẳng cho nữ giới, bài học về xây dựng hình thức chính thể dựa trên nền

tảng là lợi ích của người dân, bài học về xây dựng đội ngũ công chức chuyên

nghiệp … Trên cơ sở những luận điểm mà tác giả phân tích, luận án cần tiếp tục

làm rõ những giá trị lịch sử và ý nghĩa hiện thời của tư tưởng J.S.Mill về tự do.

1.4. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu

Có thể thấy rằng, J.S.Mill là một nhân vật có sức hấp dẫn rất lớn đối với

triết học phương Tây thế kỷ XIX và hiện nay. Những đánh giá tích cực là một

cách khẳng định rõ ràng nhất đối với giá trị trong tư tưởng của ông. J.S.Mill là

một trong những bậc thầy vĩ đại được Thủ tướng Anh tôn vinh trong diễn văn

của ông về sự tự do của Anh quốc. Karl Britton, người viết tiểu sử của J.S.Mill

khẳng định “Mill đã tạo nên một ảnh hưởng đến tư duy triết học trong và ngoài

nước mà ít có nhà tư tưởng hàng đầu nào khác có thể vượt qua được” [77, tr.5].

Thế nhưng, suốt một thời gian dài, công cuộc nghiên cứu về J.S.Mill chưa đánh

giá hết tầm quan trọng của ông, nhất là đối với các vấn đề chính trị và xã hội

đang còn nóng bỏng tính thời sự. Khi chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra, cuộc

đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít trở nên gay gắt, người ta mới thực sự tái phát

hiện “vị Thánh tông đồ của tự do”. Nghiên cứu về J.S.Mill được “phục hưng” từ

sau chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc: các tác phẩm của ông được dịch ra

nhiều thứ tiếng, nhiều công trình nghiên cứu chuyên đề về ông được công bố

dồn dập. Có thể nói, về nhiều phương diện, công cuộc nghiên cứu về J.S.Mill

thật sự được bắt đầu lại.

22

Trong thời gian qua, ở Việt Nam đã có một vài công trình nghiên cứu tư

tưởng triết học của J.S.Mill. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ

thống về quan điểm của J.S.Mill về tự do. Vì vậy, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề

tài “Quan điểm của J.S.Mill về tự do và ý nghĩa của nó đối với việc thực hiện

quyền con người ở Việt Nam hiện nay” làm luận án Tiến sĩ Triết học.

Trên cơ sở tham khảo những tài liệu nêu trên, luận án cần tiếp tục nghiên

cứu những vấn đề:

Thứ nhất, khi phân tích những điều kiện lịch sử của nước Anh trong thế kỷ

XIX, luận án cần chỉ rõ được sự tác động của những điều kiện lịch sử đó dẫn đến

sự hình thành quan điểm về tự do trong triết học của J.S.Mill. Sự hình thành và

phát triển của một học thuyết triết học là sự bổ sung, kế thừa của các trường phái

triết học trước đó. Trong quá trình tìm hiểu tiền đề lý luận hình thành quan điểm

về tự do trong triết học J.S.Mill, luận án phải chỉ ra được sự kế thừa, phát triển

trong quan điểm triết học của J.S.Mill.

Thứ hai, luận án có nhiệm vụ phân tích cách tiếp cận của J.S.Mill về tự do.

Những quyền tự do dân sự mà J.S.Mill đề cập đến, đó là: tự do tư tưởng, tự do

quan điểm và biểu đạt; tự do tín ngưỡng và tôn giáo; tự do sở thích, tự do đặt kế

hoạch cho cuộc sống và tự do lập hội. Quan điểm của J.S.Mill về cơ chế thực

hiện quyền con người (về chế độ chính trị, thể chế chính trị dân chủ và hình thức

thực hiện dân chủ). Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án cần phân tích được giá trị và hạn chế

trong quan điểm của J.S.Mill về tự do.

Thứ ba, luận án có nhiệm vụ luận giải quan điểm triết học về quyền con

người; vấn đề thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay; từ đó, luận án

khái quát một số bài học rút ra về vấn đề quyền con người trong triết của J.S.Mill

về tự do.

23

Chƣơng 1: ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TRIẾT HỌC VỀ

TỰ DO CỦA JOHN STUART MILL

1.1. Điều kiện lịch sử hình thành quan điểm về tự do trong triết học J.S.Mill

J.S.Mill (1806 - 1873) là một nhà triết học, một nhà logic học, nhà kinh tế

học và là nhà hoạt động chính trị nổi tiếng ở nước Anh. Tư tưởng của ông mang

đậm dấu ấn Anh ở thế kỷ XIX. Hay nói cách khác, xã hội Anh thời đó đã tác

động sâu sắc đến sự hình thành tư tưởng J.S.Mill.

1.1.1. Tình hình kinh tế nước Anh trong thế kỷ XIX

Dưới thế kỷ XIX, Cách mạng công nghiệp làm sự thay đổi cơ bản các điều

kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ Anh quốc sau đó lan tỏa ra

toàn thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh được bắt đầu và diễn ra

mạnh mẽ ở ngành công nghiệp may mặc. Những phát minh kỹ thuật đầu tiên xuất hiện trong ngành dệt đó là “Thoi bay” do Jonh Kay2 phát minh, làm cho dệt nhanh hơn, rộng hơn. Năm 1767, James Hargreavers3 chế tạo ra máy kéo sợi 16

đến 18 cọc đầu tiên có tên là Jenny, sau đó nó được nhiều nhà phát minh khác cải

tiến cho chất lượng và hiệu quả cao hơn. Cho đến năm 1785, chiếc máy dệt đầu tiên ra đời do Cartwright4 phát minh tạo ra một cuộc cách mạng trong ngành dệt.

Cùng với cải tiến máy móc thì kỹ thuật nhuộm màu in hoa cũng đạt được những

tiến bộ lớn, góp phần củng cố địa vị trong ngành dệt. Những phát minh trên đã

đặt ra một nhu cầu mới trong sản xuất; đó là cần phải có nguồn động lực cho máy

móc. Ban đầu người ta sử dụng sức nước, tuy nhiên sức nước lại có hạn chế vì

không phải ở đâu cũng lợi dụng được nó. Đặc biệt, ở những quốc gia phương

Tây vào mùa đông lạnh giá việc dùng động lực của nước càng trở lên khó khăn

hơn. Việc chế tạo ra máy hơi nước, một phát minh vĩ đại trong thế kỷ XIX của Thomas Newcomen5 và James Watt6 là dấu mốc mở đầu của quá trình cơ khí

hóa. Máy hơi nước đã tạo ra nguồn động lực mới, làm giảm sức lao động cơ bắp

của con người, giúp con người được tự do lựa chọn nơi đặt các nhà máy, xí

24

nghiệp. Đây là khởi đầu quá trình công nghiệp hoá ở nước Anh. “Nhờ có những

phát minh về sau mỗi năm một hoàn thiện ấy lao động máy móc đã thắng lao

động chân tay trong các ngành chủ yếu ở công nghiệp Anh” [79, tr.339]. Quá

trình công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ giúp cho kinh tế nước Anh phát triển,

làm thay đổi căn bản diện mạo nước Anh “như một chiếc gậy thần nó đã làm

mọc lên những thành phố khổng lồ như Li-vơ-pun và Man-se-xtơ gồm đến 70

vạn dân và các vùng ngoại ô: Bôn-tơn (6 vạn dân), A-stơn và Xtê-li-brit-giơ (4

vạn dân) và cả một loạt thành phố công xưởng khác” [79, tr.339].

Nhờ thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp, nước Anh nhanh chóng

trở thành quốc gia phát triển nhất thế giới. Năm 1851, nước Anh tổ chức triển

lãm thế giới ở London. Sản phẩm trưng bày của nước Anh chủ yếu là hàng công

nghiệp. Chỉ tính riêng sản lượng sắt, nước Anh đã vượt tổng sản lượng sắt của tất

cả các quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, nước Anh còn chiếm 2/3 tổng sản lượng

than và 1/2 tổng sản lượng vải bông trên thế giới. Những số liệu trên cho thấy

năng lực sản xuất của nước Anh mạnh hơn tổng sản lượng công nghiệp của các

quốc gia trên thế giới. Trong khi đó, sản phẩm của các nước khác chủ yếu là

hàng nông nghiệp và thủ công nghiệp. Qua cuộc triển lãm đó, nước Anh muốn

tuyên bố với thế giới rằng họ đã bước vào thời đại công nghiệp và đứng đầu thế

giới về công nghiệp.

Bên cạnh đó, nhờ thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp, nước Anh đã

xây dựng được hạ tầng giao thông hiện đại. Trước năm 1755, nước Anh hầu như

không có kênh đào. Năm 1755, ở Lancashire, người ta đào con kênh từ Sankey

Brook đến St.Helens; năm 1759, James Brindley đào con kênh lớn đầu tiên, tức

kênh Quận công Bridgewater, chạy từ Manchester và các mỏ than vùng đó đến

cửa sông Mersey, kênh này đến gần Barton thì vượt qua sông Irwell bằng một

cầu dẫn nước. Từ đấy người ta đã đào kênh khắp mọi hướng và đã nạo vét sông

để chạy tàu thủy. Riêng ở Anh, có 2200 dặm kênh và 1800 dặm đường sông tàu

25

chạy được. Ở Scotland, người ta đào con kênh Calédonie. Ở Ailen người ta cũng

đào nhiều kênh [79, tr.347]. Từ năm 1818 đến năm 1829, ở Anh, Wales và ở

Scotland đã xây dựng được một mảng lưới đường rất đẹp. Về đường sắt, năm

1830, nước Anh khánh thành con đường sắt lớn đầu tiên là đường từ Liverpool

đến Manchester. Từ đó, các thành phố lớn được nối liền nhau bởi đường sắt.

Những nhà ga được xây dựng ngày càng lớn hơn; những khu dân cư ở gần đó

ngày càng phát triển với tốc độ lớn mạnh. Hơi nước không những đã cách mạng

hóa các phương tiện giao thông đường bộ mà mang lại cho giao thông đường

thủy một uy tín mới. Chiếc tàu đầu tiên được hạ thủy trên sông Clyde vào năm

1811. Từ đó, người Anh đã đóng hơn 600 tàu thủy chạy bằng hơi nước và năm

1836, hơn 500 chiếc hoạt động trên các bến cảng [79, tr.348]. Những kết cấu hạ

tầng hiện đại này khiến cho “nước Anh, cách đây sáu mươi năm còn có những

đường sá cũng xấu như đường sá nước Pháp hoặc nước Đức hồi đó, ngày nay đã

có một mạng lưới đường lát đẹp đẽ nhất; và tất cả những con đường này cũng

như hầu hết mọi cái ở Anh, đều là công trình của các nhà kinh doanh tư nhân”

[79, tr.346]. Như vậy, với hạ tầng giao thông hiện đại đã giúp cho người dân

thuận tiện đi lại, di chuyển tự do hơn. Điều này thúc đẩy nền kinh tế Anh phát

triển thành siêu cường thế giới. Điều đáng lưu ý là các công trình giao thông vận

tải đó, cũng như toàn bộ các công trình công cộng khác đều do khu vực kinh tế tư

nhân TBCN thực hiện. Điều này cho thấy, kinh tế tư nhân TBCN đã có sự phát

triển mạnh mẽ và giữ vai trò chủ đạo của trong hệ thống kinh tế của Anh quốc.

Như vậy, cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra một sự phát triển thịnh

vượng về kinh tế. Không chỉ vậy, cuộc cách mạng công nghiệp còn khiến

quyền năng của con người lớn hơn. Con người ngày càng có ý thức về quyền

tự do của các cá nhân. Trong điều kiện như vậy, những học thuyết về tự do đã

được hình thành, tiêu biểu phải kể tới những tư tưởng tự do trong triết học

của John Stuart Mill.

26

1.1.2. Đặc điểm xã hội nước Anh trong thế kỷ XIX

Cách mạng công nghiệp đã khiến nền kinh tế Anh quốc phát triển nhanh

chóng, đồng thời cũng làm biến đổi kết cấu xã hội nước này một cách rõ rệt

Cuộc cách mạng này làm thay đổi toàn bộ xã hội Anh. Vị trí các giai cấp, tầng

lớp trong xã hội Anh có sự chuyển biến không đồng nhất.

Cuộc cách mạng công nghiệp làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của

tầng lớp thợ thủ công, khiến họ bị đào thải “toàn bộ lịch sử sau đó của nền công

nghiệp Anh chỉ là thuật lại tình hình người lao động thủ công đã bị máy móc

đánh bật khỏi hết vị trí này đến vị trí khác” [79, tr.338]. Lao động bằng máy

móc đã thay thế lao động thủ công khiến cho hàng loạt thợ thủ công của nhiều

ngành nghề đã mất việc làm. Cụ thể, với sự phát triển của ngành công nghiệp

may dệt đã loại bỏ những người công nhân là đàn ông ra khỏi quá trình sản

xuất. Trước tình trạng đó, buộc phụ nữ và trẻ em cũng phải tìm kiếm việc làm.

Nếu như trước đây, người phụ nữ chỉ quanh quẩn những việc trong gia đình

thì nay họ phải đi làm với một cường độ lao động căng thẳng thậm chí chấp

nhận cả những công việc nặng nhọc, nguy hiểm ở nhà máy để mưu sinh qua

ngày. Như vậy, vai trò kinh tế của các thành viên trong gia đình đã thay đổi,

kéo theo đó là sự thay đổi vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã

hội. Đây chính là cơ sở thực tế khiến cho J.S.Mill đặc biệt quan tâm vấn đề

bình đẳng giới trong các tác phẩm của ông.

Sản phẩm quan trọng nhất của cuộc cách mạng công nghiệp ấy là giai cấp

công nhân Anh. Họ là những người trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá

trình sản xuất, là lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội - những người mà trí

sáng tạo và bàn tay lao động làm nên sự vĩ đại của nước Anh. Do vậy, để phát

huy sức sản xuất của họ, giai cấp tư sản cần phải loại bỏ những trở ngại pháp lý

của chế độ nông nô và giành cho họ những quyền và tự do cơ bản.

27

Tuy nhiên, trên thực tế, đời sống kinh tế của người công nhân bấp bênh,

cùng cực còn trong xã hội họ không được hưởng bất kỳ một quyền gì “ngoài

những pháp lệnh chính trị thành văn được phân tích ở trên, cần phải đưa thêm

vào hiến pháp một vài yếu tố khác nữa. Cho đến nay, hầu như chưa nói gì đến

quyền công dân, trong giới hạn của Hiến pháp theo đúng nghĩa của nó thì cá

nhân ở Anh không có quyền nào cả. Những tồn tại này hoặc do tập quán, hoặc do

những quy ước riêng biệt không dính dáng đến hiến pháp” [78; tr.874-875].

Những người công nhân dần dần ý thức được rằng họ phải bảo vệ quyền lợi của

họ bằng cách đoàn kết thành một lực lượng mạnh mẽ để đấu tranh đòi hỏi những

quyền lợi kinh tế cũng như những quyền lợi chính trị. Và do đó, phong trào

nghiệp đoàn nổi lên từ cuối thế kỷ XVIII và phát triển mạnh vào thế kỷ XIX.

1.1.3. Tình hình chính trị nước Anh thế kỷ XIX

1.1.3.1. Tình hình đối nội nước Anh thế kỷ XIX

Vào những năm 40 của thế kỷ XVII, cách mạng tư sản Anh bùng nổ và

giành thắng lợi. Đây là một trong những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới. Cuộc cách mạng này diễn ra với hình thức nội chiến (Civil war)7 giữa

lực lượng quí tộc phong kiến với giai cấp tư sản được sự ủng hộ của quần

chúng lao động. Cuộc nội chiến này chấm dứt vào năm 1648 với thắng lợi

thuộc về giai cấp tư sản.

Sau cách mạng, giai cấp tư sản đã thiết lập nhà nước theo chính thể Cộng

hòa nghị viện mà quyền lực tối cao của nhà nước tập trung vào Hạ nghị viện.

Tuy nhiên chính thể này không tồn tại lâu. Do giai cấp tư sản sau đó đã không

thực hiện lời hứa chia ruộng đất cho nông dân, dẫn đến mâu thuẫn xã hội tiếp tục

phát triển gay gắt giữa giai cấp tư sản và quần chúng nhân dân lao động. Trước

tình thế đó, giai cấp tư sản đã phải thoả hiệp với tầng lớp quí tộc mới nhằm mục

đích xoa dịu mâu thuẫn xã hội. Hai sự kiện quan trọng thể hiện rõ sự thỏa

hiệp này là:

28

Thứ nhất, sau khi Oliver Cromwell8 – người lãnh đạo cuộc cách mạng Tư sản qua đời vào năm 1658, kéo theo sự sụp đổ của nền Cộng hòa, Charles II9

đang lưu vong ở nước ngoài đã được mời về nước lên ngôi vua năm 1660.

Thứ hai, vào tháng 2 năm 1689, Nghị viện Anh đã thông qua đạo luật mới -

“Đạo luật thừa nhận ngôi vua và quyền hành của nghị viện”. Đạo luật này là cơ

sở pháp lý cho sự ra đời nhà nước quân chủ lập hiến tồn tại cho đến ngày nay.

Nội dung chủ yếu của đạo luật này là đề cao vai trò của Nghị viện và khẳng định

ngôi vua sẽ được giữ lại nhưng chỉ mang tính biểu tượng. Việc chuyển quyền lực

thực tế từ ngôi vua sang chính phủ và thủ tướng, hoàn toàn phụ thuộc vào Nghị

viện cho thấy hình thức dân chủ đó mang tính đại diện. Với chính thể đó, một

mặt nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, loại bỏ độc quyền của phong kiến.

Mặt khác, chính thể đó đòi hỏi tách cá nhân ra khỏi xã hội và nhà nước, hạn chế

sự tác động và những thẩm quyền của nhà nước trong sự tương tác của nó với xã

hội công dân và cá nhân, tuyên bố sự bình đẳng về mặt chính trị của mọi công

dân, đem lại cho các cá nhân những quyền cơ bản và không thể tược đoạt. Đây

chính là điều kiện khách quan để J.S.Mill hình thành quan điểm về tự do, đồng

thời nó cũng quy định giá trị và hạn chế trong quan điểm triết học của ông.

Thế kỷ XIX, nước Anh tồn tại hai đảng đối lập, đó là đảng Whig (tiền thân

của đảng Tự do) và đảng Tory (tiền thân của đảng Bảo Thủ)10. Tuy có những

chính sách khác nhau, nhưng hai đảng đều phục vụ cho tầng lớp có của. Trước

sự lớn mạnh của phong trào công nhân, hai đảng đều xích lại gần nhau để bảo vệ

lợi ích của giai cấp tư sản. Nếu so sánh diễn biến chính trị ở Anh và Pháp, hai

cường quốc mạnh ở châu Âu vào thế kỷ XIX và có liên quan đến nhau nhiều mặt

thì thấy, ở nước Anh, đường lối chính trị ít có sự thay đổi. Sự thay đổi đó chỉ là ở

những chính sách để nhằm giữ vững thể chế chính trị của Anh. Điều đó được thể

hiện ở một số sự kiện sau:

29

Mặc dù giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh với Pháp, nhưng nước

Anh lúc này lại rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội “lúa mì tụt giá kinh khủng”,

“nhà nông chịu cảnh nghèo túng”, “chủ xưởng máy bất bình với nhà nước vì

phải tăng lương cho công nhân”, “đội quân thất nghiệp ngày càng đông đảo”,

“thợ dệt thủ công đập vỡ những máy dệt, đôi khi đốt phá nhà máy” [44; tr.305,

306]. Trong khi kinh tế Anh khủng hoảng thì giai cấp cầm quyền cũng lâm vào

tình trạng bất ổn. Lợi dụng tình hình ấy, nhóm Cấp Tiến (đại diện có Jemery

Bentham và cha con J.S.Mill) kêu gọi quần chúng đòi phổ thông đầu phiếu, đòi

quyền bầu cử cho tất cả công nhân Anh có đóng thuế trực tiếp. Trải qua một thời

gian đấu tranh kịch liệt, ngày 7/6/1832, Luật cải cách được nhà vua ký, chính

thức có hiệu lực. Nó mở rộng quyền bầu cử cho bộ phận tầng lớp trung lưu mới,

giảm bớt căng thẳng chính trị trong xã hội.

Đảng Whig tuyên bố rằng với cải cách bầu cử đó sẽ chấm dứt mọi đau khổ

trong dân chúng. Nhưng sự thật nỗi đau khổ trong dân chúng không hề được

giảm sút và xã hội Anh vẫn chưa thực sự thoát khỏi khủng hoảng. Trước tình

hình đó, nhiều trào lưu tư tưởng xuất hiện để giải quyết những vấn đề đặt ra.

Tiêu biểu có hai trào lưu đối lập, một là phong trào của nhóm “Nước Anh Trẻ”

có chủ trương duy trì trật tự của nước Anh hiện thời, bảo vệ lợi ích của tầng lớp

quý tộc cũ. Một nhóm chính trị gia khác, tiêu biểu có Jeremy Bentham, David

Rocardo, Jame Mill lập luận khác hẳn, chủ trương tự do về kinh tế, tránh sự can

thiệp của nhà nước, là tiếng nói đại diện cho giai cấp tư sản.

Phải đến năm 1831, Robert Owen11 đã thành lập một tổ chức lao động lớn,

đó là Tổng công đoàn (Great Consolidated Trade Union). Tổ chức công đoàn đã

thu hút được tất cả các thợ thuyền ở các ngành nghề tham gia bởi mục tiêu cứu

trợ đoàn viên khi đau ốm hay chết; đảm bảo số lương hưu trí khi về già và xây

dựng những hợp tác xã để tránh sự bóc lột của chủ xưởng. Phương pháp để tiến

tới kết quả là tổng đình công. Sự lớn mạnh của Tổng công đoàn khiến cho giai

30

cấp tư sản và chính quyền lo ngại tìm cách đàn áp. Phong trào nhanh chóng tan

rã [75; tr.327, 328]. Mặc dù Tổng công đoàn bị giải tán nhưng điều đó không

làm dập tắt đi những đòi hỏi bức thiết về quyền lợi của người lao động. Những

phong trào đấu tranh đòi hỏi quyền lợi chính trị của người của người lao động

càng được dâng cao, tiêu biểu có phong trào Ước pháp (Chartism) từ năm 1835

đến năm 1848 đòi phổ thông đầu phiếu kín, nhiệm kỳ nghị viện một năm, phụ

cấp cho dân biểu với những phương pháp đấu tranh như mít tinh, kiến nghị nên

cũng nhanh chóng thất bại [75; tr.328]. Mặc dù phong trào thất bại nhưng Nghị

viện cũng phải tiến hành những cải cách cho người lao động.

Sau cải cách không lâu, xuất phát sự bất mãn, giai cấp công nhân phát động

phong trào Hiến chương rầm rộ. “Trong phong trào Hiến chương toàn bộ giai

cấp công nhân đứng dậy chống giai cấp tư sản, tiến công trước hết vào chính

quyền của giai cấp tư sản” [79; tr.612]. Lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân

trên toàn thế giới vẫn luôn nhắc nhở sự kiện Hiến chương Anh như một tấm

gương điển hình cho lòng dũng cảm của giai cấp công nhân Anh. Mục đích của

phong trào Hiến chương tập trung trong bản “Hiến chương nhân dân” (People‟s Charter) với sáu điều khoản12 “chỉ đề cập đến cơ cấu của hạ nghị viện, thoạt nhìn

hiền lành thôi, nhưng vẫn đủ để quét sạch Hiến pháp nước Anh với cả Nữ hoàng

và thượng nghị viện” [79; tr.612]. Sau ba cao trào (từ 1836 - 1858), phong trào

Hiến chương kết thúc và không đạt được mục đích chung cuộc. Tuy nhiên,

phong trào Hiến chương vẫn là một dấu ấn đậm nét của chính trị Anh thế kỷ XIX,

như V.I.Lênin từng đánh giá là „„phong trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên,

thật sự có tính chất và có hình thức chính trị‟‟ [72, tr.365].

Lịch sử chính trị Anh tiếp tục ghi dấu ấn bằng cải cách nghị viện lần thứ hai

năm 1867. Cuộc cải cách này đã mở rộng hơn nhiều quyền bầu cử, đem lại

quyền bầu cử cho giai cấp công nhân cơ bản (ngoại trừ công nhân mỏ và công

nhân nông nghiệp). Số cử tri tại Anh khi đó đã tăng lên rõ rệt. Hai lần cải cách

31

nghị viện dưới thế kỷ XIX đã làm thay đổi rất nhiều tình hình chính trị nước Anh.

Cũng chính những lần cải cách nghị viện đã thu hút được sự quan tâm của cả

Jame Mill và J.S.Mill.

Như vậy, bằng cuộc cách mạng công nghiệp và cải cách chính trị, nước

Anh đã bước vào thời đại mới – thời đại cải cách. Tại London náo nhiệt,

J.S.Mill đã chứng kiến rất rõ những cải cách trong toàn bộ lĩnh vực đời sống xã

hội. Điều này làm thay đổi diện mạo phương thức sản xuất TBCN ở Anh. Như

J.S.Mill từng viết vào năm 1831 rằng, một người „„thông qua chuyến đi dạo

vòng quanh London, có thể học về lịch sử nước Anh thế kỷ XIX nhiều hơn cả những giai đoạn lịch sử của mười tám thế kỷ trước đó‟‟13 [152, tr.230]. Nước

Anh thời đại Victoria chính là cơ sở xã hội, là nền tảng hình thành triết học của

J.S.Mill. Có thể bắt gặp những vấn đề triết học mang hơi thở thời đại trong các

tác phẩm của J.S.Mill như quyền con người, quyền tự do cá nhân, quyền lực

nhân dân, dân chủ.

2.1.3.2. Chính sách đối ngoại nước Anh thế kỷ XIX

Về chính sách đối ngoại, nước Anh dùng địa vị ưu thế về công nghiệp để

chinh phục các nước khác. Do đó, chính sách đối ngoại của nước Anh thực chất

là chính sách xâm lược. Người hăng hái thực hiện chính sách xâm lược ở Anh lúc bấy giờ là Henry Temple Palmerston14. Cho đến giữa thế kỷ XIX, Anh dẫn

đầu thế giới về quy mô và tốc độ phát triển thuộc địa.

Từ năm 1815, hệ thống thuộc địa của Anh mở rộng khá nhanh. Ở Châu Á,

Anh chinh phục được toàn bộ bán đảo Ấn Độ. Ấn Độ là một quốc gia rộng lớn và

có nguồn tài nguyên dồi dào. Nhu cầu về vàng, bạc và hương liệu trong quá trình

tích luỹ nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản càng thôi thúc người Anh tìm đế xứ sở

này. Năm 1849, nước Anh hoàn toàn xâm lược Ấn Độ. Chính phủ Anh chính

thức quàng lên cổ nhân dân Ấn Độ ách thuộc địa quan trọng trong hệ thống

thuộc địa của Anh. Sau khi đã chiếm xong Ấn Độ, chính phủ Anh bắt đầu triển

khai một loạt chính sách cai trị Ấn Độ.

32

Về chính trị, thực dân Anh nắm quyền cai trị trực tiếp, tiến hành chính sách

chia để trị “dùng người bản xứ đánh người bản xứ”. Chính phủ Anh đã sử dụng

đội quân Xipay với quân số lên đến 22.5 vạn người để cai trị người Ấn Độ. Bên

cạnh đó, thực dân Anh tìm cách khơi gợi sự khác biệt về chủng tộc, tôn giáo và

đẳng cấp trong xã hội để dễ bề cai trị. Về tôn giáo, thực dân Anh còn thực hiện

chính sách ưu đãi người Hồi giáo về nhiều mặt nhằm gây mâu thuẫn tôn giáo,

mâu thuẫn nội bộ ở Ấn Độ, từ đó hạn chế các giai tầng có thể đoàn kết chống lại

chính phủ Anh.

Về kinh tế, chính phủ Anh tiến hành những thủ đoạn cưỡng bức và bóc lột

kinh tế. Ở mảnh đất giàu có, vốn mang danh hiệu là viên ngọc trên vương miện

của nữ hoàng Anh, nước Anh tiến hành những thủ đoạn cướp đoạt trắng trợn đối

với người Ấn Độ. Cụ thể, trong lĩnh vực công thương nghiệp, chính quyền Anh

áp dụng biện pháp để vơ vét nguyên liệu, tiền của phục vụ cho nền công nghiệp

Anh, biến Ấn Độ thành nơi tiêu thụ hàng hoá cho công nghiệp Anh. Khoảng từ

năm 1814 đến năm 1835, số vải bông của Anh xuất khẩu sang Ấn Độ tăng khiến

cho hàng vạn thợ dệt Ấn Độ thất nghiệp. Các thành phố dệt truyền thống của Ấn

Độ trở nên hoang vắng, tiêu điều. Cùng với những chính sách trên, chính phủ

Anh còn đầu tư vào Ấn Độ và các thuộc địa khác để có lãi. Ngân hàng London

cho chính phủ Anh ở Ấn Độ vay từ 4 triệu bảng lên tới 133 triệu bảng trong nửa

sau thế kỷ XIX. Sự đầu tư của Anh vào Ấn Độ ở lĩnh vực cơ sở hạ tầng, xây

dựng xí nghiệp chế biến, hệ thống đường bộ, đường sắt để tạo điều kiện vật chất

nhằm mở rộng việc vơ vét nguồn tài nguyên giàu có của đất nước này. Với

những chính sách trên, nền tài chính Ấn Độ hoàn toàn bị lệ thuộc vào nước Anh.

Anh chú trọng đầu tư thuộc địa nhằm mục đích duy trì sự bóc lột lâu dài; đồng

thời tạo nên sự hào nhoáng về kinh tế ở thuộc địa nhằm che đậy mâu thuẫn giữa

chính quốc và thuộc địa.

33

Về văn hóa – xã hội, ở thuộc địa Anh, do được “khai hóa” sớm và lâu nên

được đầu tư khoa học, từ đó mà cũng có điều kiện phát triển văn hóa vật chất. Về

nền văn hóa tinh thần của các thuộc địa, thì văn hóa Anh, từ phong tục đến tập

quán, tôn giáo điều được truyền bằng những cuộc di dân của người Anh vào

thuộc địa, hòa quyện với văn hóa bản địa. Những tư bản dân tộc thuộc địa từ rất

lâu bị ảnh hưởng và lệ thuộc vào văn hóa Anh. Họ coi nữ hoàng Anh là nữ hoàng

của mình. Do bị ảnh hưởng bởi văn hóa đó và ngày càng đồng điệu, tầng lớp tư

sản dân tộc thuộc địa có mong muốn tự trị thay vì độc lập hoàn toàn. Mặt khác,

do khai thác thuộc địa từ sớm nên ở các thuộc địa đã sớm hình thành giai cấp

mới, giai cấp công nhân. Trong quá trình phát triển, họ đã bắt đầu lập nên các

đảng phái riêng, lãnh đạo phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc

nhưng thường là ôn hòa và mục đích đòi tự trị chứ không là giải phóng hoàn toàn

dân tộc. Điều này cho thấy, thực dân Anh đã rất thành công trong chính sách

xâm lược thuộc địa.

Không chỉ thi hành chính sách cai trị với Ấn Độ, nước Anh còn đặt nền bảo

hộ trên những quốc gia như Myanmar, Belotchistan, Mesopotamia và Palestine.

Ở châu Phi, Anh thôn tính toàn bộ miền Nam Phi và Đông Phi, Ai Cập, Xu đăng

và Nigeria ở Tây Phi. Ở châu Đại Dương, nước Anh chiếm toàn bộ đảo Australia,

Tasmania. Năm 1863, tàu Anh bắn phá cảng Kagosima của Nhật, buộc Nhật

phải bồi thường chiến phí và mở cửa cho Anh buôn bán. Ngoài ra, Anh còn gây

ra chiến tranh thuốc phiện với Trung Quốc nhằm thôn tính thị trường rộng lớn này. Từ Hiệp ước Nam Kinh 184215 đến vụ Bát quốc liên quân (Anh, Pháp, Nga,

Mỹ, Đức, Nhật, Áo, Ý) đánh Bắc Kinh năm 1900; Anh đụng độ với Trung Quốc

nhiều lần và mỗi lần thất bại, Trung Quốc phải ký những điều ước bất bình đẳng

như điều ước Thiên Tân 1858, điều ước Bắc Kinh 1860, điều ước Bắc Kinh 1901,

Anh và các nước xâu xé Trung Quốc, mục đích là gây ảnh hưởng và tìm quyền

lợi ở Trung Quốc. Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Vương quốc Anh là một

34

đế quốc rộng lớn nhất thế giới, được bao trùm một diện tích 35 triệu km2 và có

số dân lên đến 400 triệu người. Như vậy, vào thời điểm đó, Vương quốc Anh

chiếm hơn 1/5 đất nổi và 1/4 dân số của toàn thế giới [97, tr.340-341].

Trong chính sách thuộc địa, Anh cho các thuộc địa da trắng được quyền tự

trị rộng rãi còn những thuộc địa theo chế độ phong kiến thì phải phục tùng chính

quyền Anh một cách tuyệt đối. Những vấn đề này được J.S.Mill nhắc đến trong

tác phẩm “Bàn về tự do” và “Chính thể đại diện”. Trong Chương XVIII “Về sự

cai trị các nước thuộc địa bởi một nhà nước tự do” trong tác phẩm “Chính thể đại

diện”, J.S.Mill đã luận bàn về vấn đề này. Những lập trường của ông về những

vấn đề này được đứng trên chính sách đối ngoại và xâm lược của Anh quốc lúc

bấy giờ.

1.2. Tiền đề lý luận hình thành quan điểm về tự do trong triết học

J.S.Mill

1.2.1. Triết học lý thuyết của J.S.Mill

Thế giới quan của J.S.Mill hình thành dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa duy

nghiệm (Empiricism). Chủ nghĩa duy nghiệm là một trào lưu triết học cho rằng

kinh nghiệm cảm tính là nguồn gốc duy nhất của tri thức, coi nội dung của tri

thức chỉ là sự miêu tả kinh nghiệm đó. Đại diện tiêu biểu cho trường phái triết

học này là George Berkeley (1685 – 1753), David Hume (1711 - 1776) và

J.S.Mill.

Trước hết về G.Berkeley, ông chịu nhiều ảnh hưởng của các xu hướng phê

phán các quan niệm triết học cũ, G.Berkeley sử dụng ngay lập trường duy cảm

của các nhà duy vật Anh để chống lại họ và các hệ thống siêu hình học. Lợi dụng

sự dao động của J.Locke trong việc phân chia các đặc tính của sự vật thành các

“chất có trước” và các “chất có sau” G.Berkeley tìm cách chứng minh không

những các “chất có sau‟‟ mà ngay cả các “chất có trước‟' cũng hoàn toàn mang

tính chủ quan của con người. Theo ông, sở dĩ chúng ta có thể nhận thức được sự

35

vật, bởi vì chúng tương đồng với con người. Do vậy, chúng thuộc về và thông

qua con người. Từ đây, G.Berkeley khẳng định nguồn gốc hoàn toàn chủ quan

của mọi sự vật trong thế giới chúng ta, coi chúng chỉ là hiện thân của cảm giác

con người. G.Berkeley cho rằng tất cả các đặc tính của sự vật không tồn tại

khách quan, chỉ tồn tại trong ý thức con người. Bản thân toàn bộ thế giới tự

nhiên được G.Berkeley coi là tổ hợp của cảm giác con người. Nhưng con người

ở đây được hiểu theo nghĩa cá thể. Trên thực tế, hầu như G.Berkeley đã đứng

trên lập trường duy ngã, coi toàn bộ vũ trụ chỉ là hiện thân của một cá thể. Xuất

phát từ quan niệm trên, G.Berkeley đưa ra luận điểm cho rằng, đối với sự vật thì

“tồn tại nghĩa là được cảm nhận”. Mọi quan niệm duy vật khẳng định tồn tại

khách quan của thế giới đều bị G.Berkeley phê phán. Ông khẳng định nguồn gốc

hoàn toàn chủ quan trong thế giới chúng ta, coi chúng chỉ là hiện thân của cảm

giác con người. Nói cách khác, tất cả các đặc tính của sự vật không tồn tại khách

quan, chỉ tồn tại trong ý thức của con người. Về cơ bản, G.Berkeley là một đại

biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan thời cận đại. Các quan niệm của

ông, mặc dù có nhiều hạn chế như V.I.Lênin đã từng kịch liệt phê phán, song

chúng cũng có vai trò trong việc phê phán sự bất lực và hạn chế của các quan

niệm triết học và khoa học truyền thống trong bối cảnh lịch sử cuối thế kỷ XVII,

đầu thế kỷ XVIII ở Tây Âu. Những quan điểm triết học của G.Berkeley có ảnh

hưởng đến các triết gia khác, trong đó có David Hume.

Cũng như G.Berkeley, nhà triết học người Scotland - David Hume tuyệt đối

hóa vai trò của cảm giác, coi đó là điểm xuất phát và dạng cơ bản của nhận thức.

Nhưng nếu G.Berkeley không dừng lại ở việc xem xét cảm giác ở khuôn khổ

nhận thức, mà coi cả thế giới chỉ là tổ hợp của các cảm giác thì D.Hume lại tách

biệt các cảm giác con người với thế giới bên ngoài, coi chỉ bản thân các cảm giác

là nguồn gốc nhận thức mà không cần đến sự tác động của thế giới bên ngoài. Quá

trình nhận thức không phải là nhận thức thế giới mà là nhận thức những quá trình

36

tâm lý xảy ra trong con người được D.Hume gọi là những cảm xúc, ấn tượng. Các

ấn tượng, cảm giác được coi là “nguồn gốc tuyệt đối của nhận thức”. Còn các ý

niệm là sản phẩm của giai đoạn nhận thức cao hơn, nhưng kém sinh động hơn so

với các ấn tượng mà nhận thức cảm tính đem lại. Chúng là sự sao chép lại các ấn

tượng trong phạm vi của ý thức. Các ý niệm và các xúc cảm được quy thành các

dạng kinh nghiệm khác nhau và duy nhất chúng tồn tại thực.

Từ lập trường bất khả tri, nghi ngờ cả sự tồn tại của thế giới bên ngoài.

D.Hume phê phán các quan niệm duy vật coi vật chất như là thực thể của mọi vật.

Theo ông, bản thân vật chất, thực thể là do tổng thể các ý niệm đơn giản hợp lại

với nhau bởi sự tưởng tượng và được gọi bằng cái tên. Thông qua đó, chúng ta

có thể có gọi tên tổng thể đó trong trí nhớ của mình hay trí nhớ của những người

khác [142, tr.346 - 347].

Nhìn chung, thế giới quan của D.Hume cũng như thế giới quan của

G.Berkeley thể hiện sự trăn trở cũng như tính phức tạp trong việc tìm một con

đường đi hợp lý cho triết học trong điều kiện phát triển của khoa học trong thời

kỳ bấy giờ. Trong khi các quan điểm trước đây không còn đáp ứng được vai trò

của mình trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Dưới hình thức duy tâm thần bí,

quan điểm của G.Berkeley và D.Hume đặc biệt đề cao vai trò cá nhân con người,

coi đó là vấn đề trung tâm của mọi vấn đề Triết học và của các khoa học. Điều đó

phù hợp với xu hướng dân chủ và tự do cá nhân, đòi giải phóng cá nhân con

người của giai cấp tư sản cách mạng nhằm đấu tranh xóa bỏ thể chế xã hội và ý

thức hệ phong kiến suy tàn. Vì thế, G.Berkeley và D.Hume được các nhà tư

tưởng phương Tây rất ngưỡng mộ, trong đó có J.S.Mill.

Về mặt thế giới quan, lập trường của J.S.Mill được thể hiện rõ nhất trong

tác phẩm “Một khảo sát về triết học của ngài William Hamilton”. Trong tác

phẩm, J.S.Mill đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau “Vật chất có thể được định nghĩa là một khả năng thường trực của cảm giác”16 [114, tr.35]. Nói cách

37

khác, những khả năng của cảm giác cấu thành nên thế giới khách quan. Như vậy,

ở vấn đề thế giới quan, triết học J.S.Mill thể hiện rõ màu sắc “duy cảm luận”, từ

sự ảnh hưởng bởi một số triết gia như George Berkeley, David Hume.

Vấn đề logic học được J.S.Mill trình bày trong tác phẩm “Hệ thống lôgíc”.

Ông nhấn mạnh phép quy nạp logic như phương pháp luận chung của các khoa

học. Theo J.S.Mill mọi suy luận, chứng minh, mọi phát hiện về chân lý đều do

phép quy nạp tạo nên; đặc điểm chung của nó từ cái đã biết suy luận về cái chưa

biết. Phép quy nạp của J.S.Mill thực chất là sự kế thừa và phát triển phương pháp

quy nạp khoa học do F.Bacon xây dựng trong điều kiện khoa học thực nghiệm

đương đại. Logic học là mảnh sân trung lập dành cho các trường phái triết học

gặp gỡ nhau và cùng bàn về một đề tài lớn là làm sao tư duy con người phản ánh

một cách có hiệu quả toàn bộ hoạt động của con người và môi trường thiên nhiên,

Tuy nhiên sau khi trách cứ các nhà triết học chỉ loay hoay với vấn đề cơ sở của

tồn tại và bản chất của thế giới, J.S.Mill kêu gọi hướng đến chủ nghĩa hiện tượng

như cơ sở của phương pháp luận phổ biến. Là người theo chủ nghĩa quy nạp ôn

hòa, J.S.Mill phê phán sự đề cao thái quá phép diễn dịch và các mệnh đề duy lý,

tuy nhiên ông vẫn thừa nhận tác dụng của nó trong nhận thức khoa học.

Về lý luận nhận thức, J.S.Mill đề cao cảm giác trong quá trình nhận thức.

Cảm giác là những nguyên liệu của tri thức. “Tất cả những gì chúng ta có thể biết

về vật chất là những cảm giác mà nó mang lại cho chúng ta và thứ tự xuất hiện những cảm giác đó”17 [135, tr.35]. Đây là học thuyết triết học còn được biết đến với tên gọi là thuyết hiện tượng (phenomenalism)18.

1.2.2. Quan điểm triết học về tự do và lý luận nhận thức của J.Locke

(1632 - 1704)

John Locke là đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy nghiệm với những đóng

góp cho nhân loại phương pháp thực nghiệm đi đến tri thức. Georg Wilhelm

Friedrich Hegel nhận định “khoa học nói chung và nhất là các khoa học kinh

38

nghiệm, bởi nguồn gốc của mình phải mang ơn phương pháp của Lốccơ” [142,

tr.285]. Trong cuốn “Luận về hiểu biết của con người”, J.Locke đã đề xuất một

quan điểm độc đáo khi cho rằng tri thức duy nhất mà con người có thể có là tri

thức hậu nghiệm, nghĩa là dựa trên các trải nghiệm. J.Locke khẳng định rằng

tâm thức con người là một “tấm bảng sạch”, “trang giấy trắng” mà viết trên đó là

các trải nghiệm rút ra từ các ấn tượng giác quan khi cuộc đời của một con người

tiến triển. Đồng thời, J.Locke khẳng định có hai nguồn cho các ý niệm của chúng

ta: cảm giác và suy tưởng. Trong cả hai trường hợp, ông phân biệt giữa các ý

niệm đơn và các ý niệm phức. Các ý niệm đơn không thể phân tích được, và

được phân ra thành các tính chất sơ cấp và thứ cấp. Các ý niệm phức là kết hợp

của các ý niệm đơn giản hơn và được chia thành các chất, các dạng thức và các

quan hệ. Quan điểm trên của J.Locke ảnh hưởng rất lớn đến Jame Mill. Trên

thực tế, quá trình Jame Mill giáo dục J.S.Mill bị chi phối bởi lý luận nhận thức

của J.Locke.

J.Locke còn được ghi nhận là ông tổ của chủ nghĩa tự do. Qua nhiều tác

phẩm, J.Locke luôn đấu tranh chống lại chủ nghĩa chuyên chế và có những đóng

góp lớn đối với chủ nghĩa tự do cả về mặt cá nhân lẫn mặt thể chế. Về cá nhân,

ông muốn con người dùng lý trí để đi tìm chân lý thay vì chấp nhận ý kiến áp đặt

hoặc được sinh ra bởi niềm tin mù quáng. Về mặt thể chế, cụ thể là nhà nước và

nhà thờ, J.Locke tách biệt những chức năng chính đáng và không chính đáng của

các thể chế này và từ đó mà có sự khác nhau trong việc sử dụng bạo lực của các

thể chế này tương ứng với những chức năng của nó. Những tư tưởng của ông đã

có ảnh hưởng trực tiếp đến quan điểm triết học của Voltaire, Montesquieu,

J.S.Mill và cả những người sáng lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, như Thomas

Jefferson, Jemes Madison và Alexander Hamilton. J.Locke được tôn vinh là một

nhà tư tưởng lớn của phong trào Khai sáng; tư tưởng của ông có tác động trực

tiếp tới cuộc Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp.

39

J.Locke là người đã đề xướng chủ thuyết tự do nhất quán về quyền tự do

của con người. Những tư tưởng đó được J.Locke được trình bày chủ yếu trong

tác phẩm “Hai khảo luận về chính thể nhà nước”. J.Locke quan niệm về trạng

thái tự nhiên có phần khác với T.Hobbes. Theo J.Locke, trạng thái tự nhiên

không phải là trạng thái lộn xộn. Trạng thái tự nhiên “có luật tự nhiên để cai

quản, bắt buộc mọi người phải tuân thủ; và lý trí - vốn là luật này - huấn thị cho

toàn thể loài người - những người có ý chí riêng cũng phải tham vấn nó, rằng tất

cả đều phải bình đẳng và độc lập với nhau. Không ai được phép làm hại đến sinh

mạng, sức khoẻ, tự do, hay tài sản của người khác” [41, tr.35-36]. Con người

sống trong một trạng thái tự nhiên là sống trong trạng thái tự do. Trong trạng thái

đó, sự tự do của con người là tuyệt đối, mọi người đều có “quyền bình đẳng tự

nhiên”; ai cũng có quyền ước muốn bất kỳ điều gì, có quyền với bất kỳ điều gì.

Tự do của con người trong trạng thái tự nhiên là một “trạng thái tự do hoàn hảo”.

Trong trạng thái tự do hoàn hảo đó, con người hành động, sắp đặt tài sản của cá

nhân theo những cái mà họ cho là thích hợp trong khuôn khổ của luật tự nhiên,

họ không phải xin phép và không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ ai khác. Trạng

thái tự nhiên là một “trạng thái bình đẳng”, trong đó mọi quyền lực và quyền

thực thi công lý có tính tương hỗ, không một ai có nhiều hơn người khác. Trong

trạng thái tự nhiên, mỗi người sống trong tự do, là chúa tể tuyệt đối đối với cá

nhân mình và tài sản riêng của mình, bình đẳng với những người vĩ đại nhất và

không phải phục tùng bất kỳ một ai. Vậy, tại sao con người lại từ bỏ tự do của

mình để tự phục tùng quyền thống trị và kiểm soát của một quyền lực khác? Tại

sao họ phải tham gia vào khế ước xã hội? J.Locke luận giải rằng con người càng

tự do bao nhiêu thì họ lại càng bất hạnh bấy nhiêu. Khi tự do được phát triển

không giới hạn, thì nhu cầu sinh tồn của bản thân sẽ thúc đẩy con người tiêu diệt

tự do của người khác. Đó chính là nguyên nhân các cá nhân luôn tìm kiếm và sẵn

sàng liên kết với người khác nhằm bảo toàn cuộc sống, sự tự do và tài sản của họ.

40

Đối với J.Locke, điều quan trọng của một chính quyền lý tưởng không

phải là hình thức của nó, mà là ở chỗ chính quyền đó phải tồn tại vì con người,

vì những quyền cơ bản của con người (quyền tự do và sở hữu). Mục đích của

một chính quyền dân sự chủ yếu là hợp nhất con người thành cộng đồng quốc

gia, đặt họ dưới một chính quyền, “bảo toàn đối với sở hữu của họ”, đảm bảo

an toàn cho tự do của con người. J.Locke khẳng định “Việc con người trở thành

quan tòa trong những sự vụ của chính mình là không hợp lý, lòng tự ái sẽ khiến

họ thiên vị bản thân và bạn bè; mặt khác, bản tính xấu xa, sự công phẫn và lòng

thù hận sẽ khiến họ đi quá xa khi trừng phạt người khác; vì thế chắc chắn Chúa

đã chỉ định chính phủ nhằm kiềm chế sự thiên vị và sự xâm hại của con người.

Chính phủ dân sự là phương thuốc đúng đắn cho tình trạng tự nhiên (the state

of nature)” [41, tr.439].

Điểm hợp lý trong học thuyết của J.Locke về quyền con người là nhấn

mạnh mối liên hệ nội tại tất yếu giữa tự do, quyền và luật. Ông đã bác bỏ những

luận điểm tầm thường về tự do, coi tự do như sự xét đoán tùy tiện không liên

quan đến luật nào hết. Những tư tưởng trên của J.Locke có sức ảnh hưởng to lớn

đến các nhà triết học phương Tây, trong đó có J.S.Mill. Ngay từ nhỏ, J.S.Mill đã

đọc “Hai khảo luận về chính thể nhà nước” của J.Locke [149]. Ông lấy đó làm

cơ sở và tiền đề để phát triển quan điểm tự do; giải quyết bài toán hóc búa về

mâu thuẫn giữa nhu cầu cá nhân đối với xã hội, công dân với quyền lực nhà nước.

Trên cơ sở kế thừa lý thuyết về tự do cá nhân, về mối quan hệ giữa công dân và

nhà nước trong các tác phẩm của J.Locke, J.S.Mill đã luận giải thêm cho lý

thuyết dân chủ bằng cách bảo vệ quyền lợi của nhóm thiểu số “không chính phủ

nào được coi là dân chủ khi nó không chú ý đến sự bảo vệ dành cho thiểu số” [68,

tr.76]. J.S.Mill đã thêm vào hệ thống lý luận mà J.Locke khởi xướng một điều

khoản là thiểu số cần phải được bảo vệ để chống lại sự chuyên chế của đa số có

thể xảy ra. Tuy nhiên, J.S.Mill không tán thành thuyết về quyền tự nhiên của

41

J.Locke, ông đã cố gắng chứng minh những giới hạn quyền lực của đa số trên

nền tảng vị lợi. J.S.Mill cho rằng, sự can thiệp vào các vấn đề cá nhân sẽ tỏ ra có

hại đối với xã hội dân chủ. Sự phát triển khả năng cá nhân và toàn thể công dân

trưởng thành sẽ bị ngăn chặn nếu những gì thích hoặc không thích của đa số

được cho phép trở nên uy quyền đến mức như luật bất thành văn.

Một chủ đề lớn trong hệ thống triết học của J.Locke đó là khoan dung tôn

giáo. Ông cho rằng một xã hội muốn thực hiện tốt chức năng của nó cần phải

thống nhất không phải bằng một tôn giáo mà bằng lòng khoan dung. Do vậy, nhà

thờ phải là các tổ chức tự nguyện, chứ không gắn liền với nhà nước như Nhà thờ

Anh giáo. Quan điểm của J.Locke về khoan dung tôn giáo phù hợp với quan

điểm của ông về chính quyền dân sự. Ông cho rằng, quyền sống, tự do, sức khỏe

và của cải là các quyền dân sự của cá nhân và đó cũng là mối quan tâm của chính

quyền dân sự và các quan tòa. Các quan tòa có thể dùng sức mạnh và bạo lực

trong trường hợp cần thiết để duy trì các lợi ích dân sự và để chống lại bạo lực

phá vỡ những quyền trên. Đấy chính là chức năng của nhà nước. Còn đối với

mối quan tâm tới sự cứu rỗi của riêng mỗi người thì đó không phải là lợi ích dân

sự, nằm ngoài quyền hạn của chính quyền dân sự và các quan tòa. Ông coi mọi

sự can thiệp của nhà nước nhằm duy trì niềm tin đều không hợp lý, vì sức mạnh

mà vị quan tòa sử dụng không phải là phương tiện hiệu quả để thay đổi niềm tin.

Chỉ có nhà thờ chân chính mới có quyền lực đó, nhưng mỗi nhà thờ đều tự cho

mình là chân lý, trong khi không ai ngoài Chúa Trời có thể phán xét điều này. Do

vậy, điểm cốt lõi trong biện luận của ông về khoan dung tôn giáo là sự hoài nghi

đối với khả năng hiểu biết tôn giáo. J.S.Mill đã kế thừa tư tưởng khoan dung tôn

giáo của J.Locke với một tinh thần của thời đại mới. Từ tư tưởng khoan dung tôn

giáo của J.Locke, J.S.Mill đã phát triển khái niệm khoan dung nghĩa là biết đánh

giá, tiếp nhận những giá trị nhân văn của nền văn hóa khác để làm giàu cho bản

sắc của mình. Bên cạnh đó, nó cũng có giá trị nhân văn cụ thể, đó là việc hướng

42

đến một cuộc sống tốt đẹp, con người phải được nâng cao cả về mặt thể lực lẫn

về mặt trí lực, được phát triển tự do về mặt tư tưởng. Tuy nhiên, J.S.Mill cũng

nhận định việc phân biệt một cách rõ ràng giữa khoan dung và không khoan

dung là vấn đề rất khó. Điều này được ông lý giải trong tác phẩm “Bàn về tự do”

như sau: “sự không khoan dung thuần tuý mang tính xã hội của chúng ta không

giết chết một ai, không dứt bỏ được ý kiến nào, nhưng nó lại làm cho người ta

phải ngụy trang các ý kiến hay tự kiềm chế không ráng tích cực truyền bá chúng”

[69, tr.81].

1.2.3. Nguyên tắc vị lợi của Jemery Bentham (1748 - 1832)

Một trong những tiền bối trực tiếp tác động đến tư tưởng triết học của

J.S.Mill là J.Bentham - một nhân vật có ảnh hưởng lớn đến giới chính trị Anh

quốc và đến lý luận phương Tây trong thế kỷ XIX. Có thể nói rằng sự ảnh hưởng

của J.Bentham đến J.S.Mill là rất lớn. Ban đầu, đó là sự phụ thuộc về tài chính.

Trong giai đoạn khó khăn, gia đình J.S.Mill nhận được sự giúp đỡ về tài chính từ

J.Bentham. Bên cạnh đó, nhờ J.Bentham mà James Mill và J.S.Mill được gặp gỡ

và có mối quan hệ thân thiết nhiều nhà tư tưởng, nhiều nhân vật có ảnh hưởng

đến giới chính trị của Anh quốc lúc bấy giờ. Trong Chương III của cuốn “Tự

truyện và tiểu luận văn học”, J.S.Mill có khẳng định ông tự hoàn tất việc học vấn

của mình bằng việc nghiên cứu các học thuyết của J.Bentham “Quá trình giáo

dục của tôi, theo một nghĩa nào đó, là một khóa học về các học thuyết của

Bentham. Các tiêu chuẩn của Bentham đề xuất “hạnh phúc tối đa” là điều mà chính tôi luôn được dạy và áp dụng”21 [149; tr.134]. J.S.Mill cảm thấy những

điều mà ông học từ học thuyết vị lợi như “một tín điều, một học thuyết, một triết lý, một tôn giáo… khiến ông như trở thành một người khác”22 [149, tr.134-135].

J.Bentham không phải là nhà triết gia bàn về nguyên lý vị lợi đầu tiên

nhưng ông có công xây dựng nó thành một học thuyết (Utilitarianism). Trong

Chương 1 của tác phẩm “Các nguyên tắc của đạo đức và pháp chế”, Jemery

Bentham thể hiện rõ quan niệm và các nguyên tắc của Thuyết vị lợi. Ông mở đầu

43

tác phẩm bằng một mệnh đề kinh điển “Tạo hóa đặt con người dưới sự cai trị của

hai ông chúa tể là sướng và khổ. Chỉ có chúng mới cho chúng ta biết phải làm gì, cũng như quyết định chúng ta sẽ làm gì”19 [161, tr.6]. Đây là luận điểm cơ bản

của Thuyết vị lợi. Gia tăng niềm vui sướng và tránh được nỗi đau khổ là những

điều có thể đo đếm được. Con người nên làm những gì hướng tới tối đa hóa niềm

vui sướng và tối thiểu hóa đau khổ. Khi tính toán về sự vui sướng (lạc thú),

J.Bentham chủ yếu quan tâm đến khía cạnh định lượng của chúng; cho nên mọi

hành động đều tốt bằng nhau nếu chúng tạo ra một lượng hạnh phúc như nhau.

Như thế cũng có nghĩa, J.Bentham đã lấy lượng giá trị để đánh giá kết quả hành

động. Mục tiêu của J.Bentham là tạo ra vui vẻ và hạnh phúc. Phương tiện được

sử dụng là “lý trí và luật pháp”: luật pháp đúng đắn sẽ sinh ra hạnh phúc và luật

pháp đúng đắn là luật pháp phù hợp với lý trí, tức là phù hợp với nguyên tắc vị

lợi. Theo J.Bentham, mỗi luật lệ cụ thể gắn với một “lời diễn giải lý trí về luật

này”. Ông cho rằng, quyền lực đem lý trí cho luật pháp trong chốc lát nhưng

chính luật phải dựa vào lý trí để có được sự bền vững… Mục tiêu gia tăng hạnh

phúc của J.Bentham còn là mục tiêu thực tiễn. Trong số những đề xuất cải cách luật pháp và xã hội, ông có đề ra bản thiết kế xây dựng nhà tù Panopticon20 và tư

nhân sẽ quản lý. Điều này có nghĩa là, J.Bentham không chỉ có ý định tạo ra “tạo

ra cái cối nghiền những kẻ hư hỏng thành người lương thiện” mà còn kiếm tiền

từ quy trình này. Mặc dù, trong thời kỳ đó, ý tưởng này không được thực hiện,

nhưng nó có tác động lớn đến nhiều nhà tư tưởng sau này.

John Stuart Mill đã kế thừa nguyên tắc vị lợi của Jemery Bentham, gồm: “a)

Thừa nhận vai trò cơ bản của đau khổ và khoái lạc trong đời sống con người. b)

Việc tán thành hay phản đối một hành động dựa trên số lượng khoái lạc và khổ

đau mà kết quả của hành động đó mang lại... c) Coi khoái lạc là cái tốt, là điều

thiện còn đau khổ là cái xấu, là điều ác. d) Khẳng định khoái lạc và đau khổ có

thể được định lượng bằng nhiều phương tiện khác nhau” [99; tr.49-50]. Mặc dù,

44

J.S.Mill chịu ảnh hưởng lớn từ học thuyết của J.Bentham, nhưng ông vẫn tạo ra

được những quan điểm khác biệt về thuyết vị lợi như sau:

J.S.Mill đồng tình với quan niệm của J.Bentham về hạnh phúc lớn nhất cho

nhiểu người nhất. Hành vi của con người được xem là đúng khi nó hỗ trợ cho

hạnh phúc và là sai khi nó đối lập với hạnh phúc. Nếu như J.Bentham cho rằng

hạnh phúc có thể đo lường được và ông chỉ hướng tới những tri giác cảm tính

đơn thuần. J.Bentham cho rằng con người cùng lắm chỉ có khả năng nhận định

điều gì là có lợi cho hạnh phúc của riêng bản thân mình.

Ngược lại, J.S.Mill chủ trương một khái niệm hạnh phúc rộng hơn, dành

cho niềm vui của trí tuệ, của tình cảm cũng như của những cảm nhận luân lí một

chất lượng cao hơn những khoái lạc đơn thuần cảm tính. Mặt khác, J.S.Mill

không chỉ quan tâm đến hạnh phúc của cá nhân mà ông luôn nghĩ đến hạnh phúc

cho mọi người, cho toàn bộ nhân loại. Xét trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể,

nguyên tắc vị lợi của J.Bentham đứng trên lập trường của tầng lớp trung lưu tư

sản trong khi học thuyết vị lợi của J.S.Mill còn nhằm hướng tới giai cấp công

nhân, lực lượng lao động đông đảo trong cuộc cách mạng công nghiệp đương

thời. Điều đó cho thấy thuyết vị lợi của J.S.Mill mang tầm vóc xã hội lớn hơn và

cũng thể hiện điểm khác biệt của ông với J.Bentham.

Nếu như J.Bentham cho rằng con người cần phải cân nhắc hành vi của

mình khi thực hiện sẽ đem lại hạnh phúc hay đau khổ thì J.S.Mill lại khẳng định

con người cần phải suy xét đến hậu của của những hành động mà mình gây ra.

Đây là điểm khác biệt thứ hai của J.S.Mill so với J.Bentham khi đề cập đến

nguyên tắc vị lợi. J.S.Mill cho rằng con người nên sống và làm theo những

chuẩn mực đạo đức chung của xã hội.

Điểm khác biệt thứ ba giữa J.S.Mill với J.Bentham thể hiện trong cách họ

đánh giá tính ích kỷ của con người. J.Bentham cho rằng thông qua việc giúp đỡ

người khác đạt được hạnh phúc, chúng ta cũng sẽ đạt được hạnh phúc cho chính

bản thân mình. J.S.Mill đồng tình với quan điểm này của J.Betham. Tuy nhiên,

45

ông còn bổ sung thêm rằng chúng ta có thể dựa vào các tổ chức xã hội để mở

rộng sự quan tâm của mình đến những người khác [99, tr.22-23].

Từ những phân tích trên có thể thấy rằng J.S.Mill đã tiếp thu và phát triển

nguyên tắc vị lợi của J.Bentham để hình thành nên học thuyết riêng của mình.

Thuyết vị lợi là một trong những nguyên tắc để xây dựng nền dân chủ, là nền

tảng để phân định giới hạn của quyền lực nhà nước và xã hội đối với cá nhân

con người.

1.2.4. Quan điểm của Wilhelm von Humboldt (1767 - 1853) về sự phát

triển cao nhất, hài hòa nhất mọi năng lực của con người với tư cách mục tiêu

của nhân loại

Với nhãn quan chính trị sắc sảo, Wilhelm von Humboldt đón nhận Cách

mạng Pháp năm 1789 với đầy thiện cảm, vì cuộc cách mạng này đã xóa bỏ xiềng

xích nô lệ và mở ra một thời đại mới – thời đại của “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”.

Tuy nhiên, ngay sau đó, Wilhelm von Humboldt bắt đầu tỏ ra e ngại khi Cách

mạng đưa lên máy chém vua Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette. Năm

1792, Wilhelm von Humboldt viết tác phẩm “Giới hạn của hành động Nhà nước”

(Limits of State Action) thể hiện thái độ của ông về cuộc Cách mạng Pháp và

nêu ra những luận điểm tiêu biểu về tự do của mỗi cá nhân [161].

Nếu như J.S.Mill nhấn mạnh đến những quyền tự do của mỗi cá nhân thì

Wilhelm von Humboldt lại đặc biệt đề cao khí chất và năng lực đầy sinh động,

sáng tạo của mỗi cá nhân. Chính những nhân tố đó thúc đẩy con người phát

triển không ngừng với phần bên trong của mỗi cá nhân, nhân cách riêng của họ.

Là một đại diện tiêu biểu cho chủ nghĩa cá nhân, Wilhelm von Humboldt cho

rằng con người khi không bị ai ép buộc, kìm hãm, thì mới tự thân phát triển và

được tự do. Nếu như họ được tự mình phát triển, tự mình chủ động, tự mình

quyết định vận mệnh của mình, như vậy xã hội mới đa diện, phong phú và

không rơi vào đồng bộ. Tránh đồng bộ là tư tưởng chủ đạo của chủ nghĩa tự do.

46

Những đại biểu của chủ nghĩa tự do của thời kỳ này đều có điểm chung là tuyệt

đối hóa quyền tự do cá nhân. Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi ở bên ngoài

để mỗi cá nhân phát triển các quyền tự do cơ bản. Wilhelm von Humboldt là

một trong những triết gia tiêu biểu ở Đức chống lại sự can thiệp tuyệt đối của

nhà nước.

Wilhelm von Humboldt cho rằng mỗi con người đều có phần “bên trong”

và phần “bên ngoài”, trong đó phần “bên trong” biệt lập hẳn với phần “bên ngoài”

và có những mối liên hệ xã hội. Họ sẽ được phát triển thông qua mối tương giao

giữa nhân cách cá biệt của bản thân với nhân cách cá biệt của người khác.

Wilhelm von Humboldt đặc biệt nhấn mạnh con người cô độc không phát triển

được, chẳng khác gì con người bị xiềng xích. Con người cần phải phá mọi xiềng

xích trong xã hội để thiết lập những những liên hệ mới. Điều đó không những sẽ

đưa đến việc cải tổ Nhà nước chuyên chế mà còn làm thay đổi bản chất trong

tương quan giữa Nhà nước và con người. Wilhelm von Humboldt rất thán phục

chính thể dân chủ ở Hy Lạp cổ đại. Ông cho rằng chính thể đó đã đem lại sự phát

triển hài hòa cho con người với tư cách là cá nhân và công dân. Sở dĩ được như

vậy bởi vì Nhà nước ấy đã nhắm đến việc phát huy tính tốt ở mỗi con người và

giáo dục của họ đã đào tạo những công dân biết chừng mực và có khí lực.

Wilhelm von Humboldt so sánh với chính trị của nước Đức bấy giờ. Ông cho

rằng Nhà nước ấy nhắm đến những phồn vinh vật chất nên đã bóp nghẹt khí lực

của con người. Trong xã hội ấy, con người bị hạ thấp và giáo dục có vai trò đào

tạo ra những công dân ngoan ngoãn, chỉ biết lao động sản xuất như những máy

móc. Từ thực tiễn bấy giờ, Wilhelm von Humboldt đề xuất “mục tiêu của nhân

loại là sự phát triển cao nhất và hài hòa nhất mọi năng lực của con người, và cần

có hai điều kiện – tự do và sự đa dạng của các tình huống – để mục tiêu ấy có thể

đạt được” [69, tr.135]. J.S.Mill đánh giá rất cao tư tưởng này của Wilhelm von

Humboldt và đã phát triển thành những nguyên lý về quyền tự do nhằm đạt được

47

sự hài hòa trong quan hệ giữa con người cá nhân và cộng đồng xã hội, hướng tới

mục tiêu phát triển.

Trong tác phẩm “Sự hạn chế hành động của Nhà nước” (The Limits of

State Action; 1792), Wilhelm von Humboldt đã xây dựng các khái niệm cơ bản

của chủ nghĩa tự do. J.S.Mill là người phổ biến và mở rộng những tư tưởng của

Wilhelm von Humboldt trong nhiều tác phẩm. J.S.Mill đã dành nhiều lời tán

dương cho vị triết gia người Đức này. Trong tác phẩm “Bàn về tự do” được ông

bắt đầu bằng một lời đề dẫn “Mọi luận cứ trình bày trên các trang viết này đều

trực tiếp hướng đồng quy về một nguyên lý chủ đạo lớn lao: ấy là tầm quan trọng

cơ bản và tuyệt đối của sự phát triển con người trong sự đa dạng phong phú của

nó” [69, tr.15]. Đây là một câu trích từ tác phẩm “Phạm vi và những bổn phận

của chính quyền” (Sphere and Duties of Government; 1854) của Wilhelm von

Humboldt. Rõ ràng giữa J.S.Mill và Wilhelm von Humboldt có sự đồng điệu ở

tư tưởng về tự do và phát triển con người cá nhân.

Bên cạnh đó, J.S.Mill cũng đồng thuận với tư tưởng của Wilhelm von

Humboldt khi khẳng định tính đồng bộ khiến cho “cá tính” không được xem như

một giá trị quan trọng của mỗi cá nhân. Chính những điều đó đều cản trở và gây tổn

hại đến tự do cá nhân. J.S.Mill luận giải trước sự phát triển của công nghiệp hóa,

các điều kiện sống càng trở nên tương đồng khiến cho lối sống và lối suy nghĩ cũng

trở nên dập khuôn “họ cùng đọc một thứ, nghe cùng một thứ, đi đến cùng một chỗ,

niềm hy vọng và nỗi e ngại cùng hướng đến một đối tượng…” [69, tr.168]. J.S.Mill

cho rằng những điều đó đều cản trở và gây tổn hại đến tự do cá nhân.

Từ những phân tích trên có thể khẳng định quan điểm sự phát triển cao nhất,

hài hòa nhất mọi năng lực của con người là mục tiêu cao nhất của nhân loại của

Wilhelm von Humboldt là một trong những tiền đề lý luận trực tiếp để J.S.Mill

hình thành lý luận về tự do.

48

1.2.5. Triết học thực chứng của Auguste Comte (1798 - 1857)

Thuật ngữ “chủ nghĩa thực chứng” là một trào lưu triết học phổ biến ở

phương Tây thế kỷ XIX - XX. Những người bảo vệ nó đã cố gắng luận chứng về

mặt triết học và phương pháp luận cho ý nghĩa căn bản của tri thức cụ thể, căn cứ

trên kinh nghiệm có thể kiểm chứng được, có hiệu quả thực tế; đồng thời, họ

cũng phê phán các hệ thống tri thức không đáp ứng được các tiêu chí như vậy,

mặc dù các hệ thống này đã từng đóng một vai trò quan trọng trong khoa học,

triết học và văn hóa. Chủ nghĩa thực chứng đã trải qua ba hình thức trong quá

trình tiến hóa của mình là chủ nghĩa thực chứng thế kỷ XIX, chủ nghĩa kinh

nghiệm phê phán và chủ nghĩa thực chứng mới (chủ nghĩa thực chứng lôgíc, chủ

nghĩa phân tích).

Chủ nghĩa thực chứng thế hệ thứ nhất được hình thành và phát triển ở thế

kỷ XIX, nẩy sinh do có những chuyển biến quan trọng trong hoạt động sống thực

tiễn và kinh nghiệm tinh thần của loài người. Trào lưu triết học này không phủ

định mà coi siêu hình học (tức triết học truyền thống) là hình thức lịch sử cần

thiết nhưng đã lỗi thời, bởi đã bắt đầu thời đại tri thức thực chứng. Những đại

biểu tiêu biểu là A.Comte và J.S.Mill.

Thuật ngữ “chủ nghĩa thực chứng”, theo cách giải thích của A.Comte là

triết học của tri thức khoa học tự nhiên thực chứng nghiệm. Các tri thức khác đều

là giả hiệu, tầm thường. Nhiệm vụ của chủ nghĩa thực chứng là chỉ ra tri thức nào

là tri thức khoa học đích thực, tri thức nào là tri thức giả hiệu, tầm thường. Tri

thức giả hiệu, tầm thường là siêu hình học truyền thống.

Theo cách luận giải của A.Comte tôn giáo truyền thống và chủ nghĩa duy

tâm không còn thích hợp nữa. Giờ đây cách mạng xã hội đã phát huy hết tác

dụng của mình, thay vào đó là nhu cầu cách mạng kỹ thuật, góp phần kiến tạo xã

hội mới. Chủ nghĩa duy tâm giàu sức tưởng tượng và vượt lên trên hiện thực khó

mà đáp ứng đòi hỏi bám sát hiện thực để làm thay đổi chính nó. Trong khi đó chủ

49

nghĩa duy vật và vô thần lại quá cứng nhắc, không tính đến nhu cầu phong phú

của đời sống. A.Comte chống cả ba: chống chủ nghĩa duy vật thô thiển, chống

chủ nghĩa duy tâm tư biện, chống tôn giáo thần quyền. A.Comte gọi triết học

truyền thống là siêu hình học tư biện. Giải pháp khắc phục nó chỉ có thể là thứ

triết học vượt ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đối đầu duy vật - duy tâm, vô thần -

tôn giáo, hay nói thẳng ra là vứt bỏ cả hai sự đối đầu, thay các suy luận mơ hồ

bằng tri thức hữu dụng, dựa trên các thành tựu và các dữ kiện của khoa học cụ

thể. A.Comte tuyên bố, nếu triết học được xây dựng trên nền tảng khoa học tự

nhiên thực nghiệm, loại trừ siêu hình học cũ, thì chắc chắn nó sẽ tiến bộ hơn so

với triết học truyền thống. A.Comte chỉ ra bốn chức năng của triết học thực

chứng. Một là, việc nghiên cứu triết học thực chứng tạo nên một công cụ lý tính

duy nhất làm bộc lộ các quy luật lôgíc của tư duy con người, cái mà cho đến nay

được xác định bằng các phương pháp không mấy phù hợp. A.Comte cho rằng kể

từ thời F.Bacon đến nay chủ nghĩa thực chứng đã có được diện mạo rõ ràng đến

mức các nhà siêu hình học đã “lợi dụng” nó để phổ biến tri thức giả hiệu của

mình. Tuy nhiên, do thói quen tư duy sáo mòn, bất chấp những đòi hỏi của cuộc

sống đang ngày thêm đa dạng, mà Siêu hình học chỉ dừng lại ở những phán

quyết thiếu tính hiệu quả. Đối lập với phương pháp của Siêu hình học cũ,

phương pháp thực chứng có thể được đánh giá chỉ trong hành động, và thông

qua “ứng dụng chuyên nghiệp”. Hai là, triết học thực chứng đóng vai trò tích

cực trong việc cải cách nền giáo dục, vốn bị thương tổn bởi thần học, Siêu hình

học và văn chương. Giáo dục thực chứng cần thay thế nền giáo dục thiếu hiệu

quả và thiếu sâu sắc, từng bước nâng nó lên tầm cao mới, phù hợp với thời đại

bằng phương pháp tổng hợp tri thức và áp dụng “chuyên sâu”. Ba là, khả năng

khái quát và phân loại khoa học theo quan điểm thực chứng. Khả năng xác lập

các lĩnh vực khoa học thực chứng riêng biệt trên cơ sở khoa học thực chứng căn

bản tạo điều kiện trình bày hệ thống tri thức khoa học theo một trình tự hợp lý và

50

mang tính phát triển, kế thừa. Quan điểm thực chứng đòi hỏi từ bỏ sự nghiên cứu

phù phiếm phía sau những quan niệm tuyệt đối, nguồn gốc, giới hạn của vũ trụ

và những thứ tương tự, kết hợp một cách chính xác lý luận và quan sát, tư duy và

thực chứng; triết học này chắc chắn thúc đẩy sự phát triển của các khoa học thực

chứng riêng biệt. Bốn là, triết học thực chứng, với đặc điểm của mình, đem đến

cơ sở vững chắc để tái tổ chức đời sống xã hội, khắc phục tình trạng hỗn loạn và

trì trệ, hướng xã hội vào trật tự, ổn định và không ngừng phát triển. A.Comte

tuyên bố về sự tất thắng của “cách mạng trong tư duy con người”, khẳng định

rằng mình đã hoàn thành hoạt động trí tuệ lớn lao, được bắt đầu từ F.Bacon,

R.Descartes và Galileo Galilei, bằng việc xây dựng một hệ thống tư tưởng chung,

cái mà từ nay về sau phải trở thành cái chủ đạo trong hoạt động của con người

[161]. Như vậy chủ nghĩa thực chứng đặt ra cho mình hai nhiệm vụ là nêu và

chứng minh tri thức đích thực; phê phán, tiến tới thủ tiêu tri thức tầm thường, với

sự hỗ trợ của lôgíc học.

Theo A.Comte, những dấu hiệu đặc trưng của khoa học “đích thực là tính

khách quan; tính hiện thực (khoa học nói về các hiện tượng được quan sát, chứ

không phải trí tưởng tượng); tính chính xác (khoa học xét về tính chính xác cần

phải đến gần với toán học); tính hữu dụng (khoa học cần phải đem đến cho con

người thành quả hiện thực, nói cách khác khoa học phục vụ cho hành động) và

tính tương đối (khoa học chỉ đem đến cho chúng ta tri thức tương đối, dựa trên

cơ sở cảm tính, gắn liền với cơ cấu tâm, sinh lý nhất định của con người; tri thức

đem đến cho chúng ta “vật cho ta”, chứ không phải “vật tự nó”).

A.Comte và J.S.Mill có mối quan hệ rất thân tình. Từ năm 1841 đến năm

1847, hai ông thường xuyên trao đổi thư từ với nhau. Với số lượng 89 lá thư cho

thấy sự liên hệ giữa hai nhà triết học trở nên rất đặc biệt trong lịch sử triết học.

Trong một lá thư viết gửi nhà triết học thực chứng Pháp, J.S.Mill tự giới thiệu

mình là môn đồ của A.Comte [114, tr.31]. Từ năm 1822 trở đi, J.S.Mill bắt đầu

51

đọc những tác phẩm của A.Comte và thừa nhận rằng chính những tác phẩm này

đã giải phóng ông thoát khỏi ảnh hưởng của J.Bentham.

Qua những lần trao đổi thư từ, J.S.Mill và A.Comte đã thảo luận các vấn

đề có tính thời đại từ xã hội, chính trị, triết học đến khoa học. J.S.Mill và

A.Comte đón nhận cuộc gặp gỡ tư tưởng này một cách nồng nhiệt. J.S.Mill

khâm phục sự am hiểu của người đồng sự lớn tuổi. Còn A.Comte tìm thấy ở

J.S.Mill một tầm hiểu biết uyên bác về tư tưởng. J.S.Mill và A.Comte đều coi

Cách mạng Pháp năm 1848 là một bước ngoặt lịch sử. Với J.S.Mill, cuộc cách

mạng này không chỉ là sự kiện của một quốc gia, mà có tầm ảnh hưởng chung

đến toàn thể Châu Âu, trong đó có nước Anh [114, tr.31]. Qua những biến cố

lịch sử, J.S.Mill cho rằng các triết gia cần giúp đỡ chính phủ nhận thấy những

bổn phận đạo đức mà chính phủ cần phải có. Cả A.Comte và J.S.Mill được coi

như những nhân vật tiên phong cho triết học thực chứng “họ cùng nhau chống lại

những tư tưởng (siêu hình học) thống trị, đưa ra những nguyên lý cơ bản bao

quát có thể hợp nhất triết học Châu Âu. Họ mơ tới khối thịnh vượng chung của

các quốc gia phương Tây, nơi mà truyền thống chủ nghĩa tự do của Anh và tinh

thần thần cách mạng của Pháp có thể hợp nhất” [114, tr.32].

Tuy tư tưởng A.Comte và J.S.Mill có sự tương đồng nhưng thực chất hai

triết gia này có khuynh hướng tư tưởng riêng biệt. Từ chỗ tiếp cận chủ nghĩa

thực chứng của A.Comte, J.S.Mill đã phát triển triết học thực chứng vượt ra khỏi

khuôn khổ của xã hội học thực chứng. Nếu như A.Comte nhấn mạnh tính thống

nhất xã hội (social solidarity) thì J.S.Mill nhấn mạnh vấn đề tự do cá nhân

(individual liberty). Hay nói cách khác “những lá thư của họ đã cho thấy một

cách rõ rệt cuộc gặp gỡ giữa chủ nghĩa kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý

Pháp” [114, tr.32].

1.2.6. Học thuyết chính trị của Alexis de Tocqueville (1805–1859) Alexis de Tocqueville23 sinh trưởng trong một gia đình truyền thống quý

tộc, tuy nhiên, ngay từ sớm (16 tuổi) Tocqueville đã có những ý nghĩ nghi ngờ

52

về vai trò của tầng lớp quý tộc Pháp. Năm 1827, ông có thời gian học việc để làm

thẩm phán tại tòa án Versailles. Chính thời gian này ở ông đã nảy sinh niềm

hứng thú mãnh liệt đối với tự do và ông ngày càng tin tưởng rằng sự suy giảm về

quyền lực của tầng lớp quý tộc là điều không thể tránh khỏi. Cách mạng Pháp nổ

ra đã khiến cho gia đình ông có nhiều thay đổi. Bản thân Tocqueville cũng

không còn giữ được vị trí, nghề nghiệp của mình nữa. Từ đây, ông đã tìm đến

Hoa Kỳ như là một mô hình kiểu mẫu về chính trị. Với lý do muốn cải cách các

nhà tù ở Mỹ, ông đã được phép sang Mỹ và tìm hiểu về chính trị của nước này.

Ông hy vọng rằng, những điều ông thu lượm được từ nền chính trị nước Mỹ sẽ

giúp ích cho nền chính trị Pháp. Sau thời gian ở Mỹ, Tocqueville cũng đến Anh

để nghiên cứu hệ thống chính trị ở đây. Sản phẩm tinh thần mà ông ôm ấp từ lâu

chính là cuốn “Nền dân trị Mỹ” (Democracy in America, 1835 – 1840). Tác

phẩm thể hiện những nghiên cứu sâu sắc về nền dân chủ. Tocqueville không tin

rằng bản thân nền dân chủ có thể giải quyết được hết mọi vấn đề. Ở đây, ông

thấy cả mặt sáng lẫn mặt tối, thấy thách thức, nguy cơ lẫn cơ hội. Theo ông, nền

dân chủ hứa hẹn được những gì cho tương lai là tùy thuộc vào yếu tố quyết định:

tinh thần trách nhiệm của các công dân đối với cộng đồng. Từ đó, ông đặt ra

hàng loạt vấn đề còn nóng bỏng tính thời sự như: con người cần thực hiện nền

dân chủ đến đâu? Làm sao hợp nhất sự tham gia của toàn dân với thể chế chính

trị đại diện? Xã hội hiện đại đứng trước nguy cơ nào khi sự thờ ơ, tính phi chính

trị và xu hướng quay trở về với cuộc sống riêng tư ngày càng gia tăng trong

người dân? Làm thế nào có thể cân đối mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội?…

J.S.Mill và Tocqueville thường xuyên trao đổi thư từ, cùng nhau bàn luận

những vấn đề liên quan đến lịch sử, chính trị ở Anh và Pháp. Từ năm 1835 đến

năm 1836, J.S.Mill đã viết cho Tocqueville khoảng mười lá thư bằng cả tiếng

Anh và tiếng Pháp. Trong lá thư viết vào tháng 9 năm 1835, J.S.Mill đề nghị

Tocqueville viết bài trình bày lịch sử nước Pháp giai đoạn trước cách mạng 1848

53

để người Anh hiểu rõ hơn về nước Pháp, đặc biệt là chính trị nước Pháp đương

thời [114, tr.33].

Khi đọc tác phẩm “Nền dân trị Mỹ”, J.S.Mill cho rằng Tocqueville đã có

một thái độ khách quan khi nghiên cứu về thể chế chính trị Mỹ. Vì thế, những dự

kiện cũng như những những phán đoán trong “Nền dân trị Mỹ” có độ đáng tin

cậy nhất định. Bản thân J.S.Mill đã viết hai bài luận để bày tỏ sự quan tâm và

những đánh giá của ông đối với tư tưởng chính trị của Tocqueville. J.S.Mill nhận

định “quyển sách ngay lập tức chiếm giữ một vị trí đặc biệt trong những tác

phẩm xuất sắc nhất của thời đại chúng ta” [114, tr.33]. Với “Nền dân trị Mỹ”

J.S.Mill đánh giá Alexis de Tocqueville “tương đồng với Montesquieu nhất

trong số các tác giả Pháp” [114, tr.34].

J.S.Mill đặc biệt quan tâm đến những lập luận của Tocqueville về các trở

ngại cũng như triển vọng của một chính thể dân chủ. Khi đánh giá tình trạng tự

do cá nhân đang bị áp chế khiến tính đa dạng của cá nhân bị mất dần đi, J.S.Mill

đã dẫn ra nhận định sắc bén của Tocqueville như một sự tương hợp. J.S.Mill viết:

“Ngài Tocqueville đã nhận xét rằng những người Pháp ngày nay giống nhau

nhiều hơn so với ngay cả thế hệ liền kề trước đó. Cũng có thể nhận xét như thế về

người Anh ở mức độ còn lớn hơn nữa” [69, tr.165]. Tương tự như vậy, về quan

điểm giáo hóa cho đông đảo quần chúng, J.S.Mill biện minh cho tính cần thiết

của nó bằng cách liên hệ đến Tocqueville. Ông bày tỏ rằng, giáo hóa quần chúng

không phải là một con đường ảo tưởng “nếu ai đó cho rằng con đường ấy sẽ

không dẫn đến đích, tôi xin dẫn chứng bằng toàn bộ nội dung công trình vĩ đại

của ông de Tocqueville” [114, tr.34]. Trong tác phẩm “Bàn về tự do” có thể dễ

dàng bắt gặp những liên hệ trực tiếp, những đánh giá của J.S.Mill đối với tư

tưởng của Tocqueville.

54

Tóm lại, bối cảnh lịch sử, tình hình chính trị - xã hội nước Anh thế kỷ XIX

đã tạo cơ sở và điều kiện hình thành những quan điểm của J.S.Mill mang tầm

vóc thời đại. Bên cạnh đó, việc học hỏi và tiếp thu có chọn lọc từ những tiền bối

lý luận đã giúp cho những tư tưởng triết học của ông càng trở nên phong phú và

uyên bác. Thế nhưng, để có thể trở thành nhà tư tưởng kiệt xuất của nước Anh

thế kỷ XIX thì không thể không nhắc đến quá trình nỗ lực tự học, kiên trì, nhẫn

nại và một tầm trí tuệ bách khoa ở J.S.Mill.

1.3. Quá trình hình thành và hoàn thiện quan điểm về tự do trong triết

học J.S.Mill

1.3.1. Cuộc đời, sự nghiệp của J.S.Mill

J.S.Mill là một nhà tư tưởng hàng đầu của Anh quốc. Cuộc đời và sự

nghiệp của ông được ví như một bộ bách khoa của thế kỷ XIX. Sau khi xét đến

mức độ rộng rãi và toàn bộ công trình của ông, có thể khẳng định rằng J.S.Mill là

nhà triết học tiêu biểu của Anh quốc trong thế kỷ XIX.

Sự kiện này không phải tự nhiên mà có. Thân phụ của J.S.Mill, ông

James Mill, đã sắp xếp việc này từ khi J.S.Mill ra đời ngày 20 tháng 5 năm

1806. Ông James Mill đã có ảnh hưởng lớn đến đứa con trai đầu lòng của

mình. Chính James Mill đã đề ra cho con trai một chương trình học nghiêm

khắc do chính ông là người dạy. Ông sớm được tiếp xúc với những kiến thức

uyên bác của triết học và từ nhiều môn học khác ngay từ lúc còn nhỏ. James

Mill quyết định rằng chính ông là người dạy dỗ con trai mình, cho nên ông đã

từ chối cơ hội gửi J.S.Mill tới Đại học Cambridge. Tuy không theo bất kỳ

trường đại học nào, nhưng nền giáo dục mà J.S.Mill thụ hưởng cũng như tầm

trí tuệ của ông được xem là một huyền thoại.

Trong cuốn “Tự truyện và tiểu luận văn học”, J.S.Mill có viết học vấn của

ông bắt đầu bằng tiếng Hi Lạp và môn số học từ năm ba tuổi. Năm sáu tuổi,

55

J.S.Mill đã biên soạn “Lịch sử La Mã” (history of Rome). Trong thời gian này,

ông đặc biệt hứng thú với môn Lịch sử, từ đó có thể tìm hiểu kỹ hơn về chính trị

Lã Mã – thể chế chính trị đầu tiên từ thuở bình minh của nhân loại. Đây chính là

điểm xuất phát đầu tiên cho ý tưởng về các hình thức chính thể và quyền lực nhà

nước về sau.

Năm tám tuổi, J.S.Mill bắt đầu học tiếng Latin và đảm nhận việc dạy học

các em. Cũng trong thời gian này, J.S.Mill bắt đầu dành sự quan tâm đến văn học

Hi Lạp với “Trường ca Iliad”. Sau đó, J.S.Mill có một vài công trình nghiên cứu

về Trường ca Iliad cho đến khi cha đưa cho bản dịch bằng tiếng Anh. Đó trở

thành một trong những tác phẩm khiến J.S.Mill say mê, hứng thú nhất trong thời

thơ ấu. Cùng với đó, J.S.Mill bắt đầu tìm hiểu hình học Euclid và đại số dưới sự

hướng dẫn của cha.

Lên mười tuổi, J.S.Mill đã bắt đầu đọc các tác phẩm của Plato và

Demosthenes một cách dễ dàng. Bên cạnh đó, J.S.Mill cũng bắt đầu làm quen

những tác phẩm của nhà viết sử Herodotus, truyện ngụ ngôn của Aesop, cuộc

viễn chinh của Xenephon, tác phẩm của Lucian, Diogenes, Laertius, Isocrates.

Vào thời gian rảnh rỗi, J.S.Mill thường say sưa đọc về khoa học tự nhiên và

những tiểu thuyết nổi tiếng như Don Quixote và Robinson Crusoe. Không chỉ

dành niềm đam mê cho lĩnh vực văn học, J.S.Mill còn say mê khoa học thực

nghiệm. Ông coi khoa học thực nghiệm là một trong những niềm vui lớn nhất

của mình.

Khoảng năm mười hai tuổi, J.S.Mill bắt đầu nghiên cứu kỹ lưỡng logic

kinh viện và đọc các luận thuyết logic của Aristotle. Đến năm mười ba tuổi,

J.S.Mill đã có kiến thức tương đương với chương trình đại học toàn phần. Từ sự

định hướng của người cha, năm mười ba tuổi, J.S.Mill bắt đầu nghiên cứu các lý

thuyết kinh tế của Adam Smith và David Ricardo. Là một người bạn chân tình

nhất của James Mill, David Ricardo đã dạy bảo J.S.Mill theo một cách rất thân

56

mật. Qua những buổi đi dạo trong sân nhà David Ricardo, hai người cùng trao

đổi, thảo luận những vấn đề kinh tế. J.S.Mill đã có dịp nghiên cứu sâu kinh tế

chính trị cổ điển, để từ đó tiếp cận những vấn đề chính trị - xã hội đương thời.

Vào năm mười bốn tuổi, J.S.Mill rời nước Anh trong hơn một năm. Sau khi

trở về, mặc dù James Mill không còn là thầy giáo của J.S.Mill nhưng thực chất

các nghiên cứu của J.S.Mill đã đi vào chỉ đạo của cha [149, tr.122]. Khả năng trí

tuệ phát triển rất sớm cùng với nền giáo dục đặc biệt khiến J.S.Mill trở thành

một thần đồng. Thông qua việc giáo dục J.S.Mill, James Mill đã xem con như

một “bằng chứng sống” chứng minh nền tảng lý luận của ông. Điều đặc biệt là

cách giáo dục của James Mill không phải là sự nhồi nhét mà là một phương pháp

đem lại hiệu quả rất lớn mà chính J.S.Mill khẳng định “Cha không bao giờ cho

phép bất cứ điều gì mà tôi học được, biến thành sự ghi nhớ đơn thuần của bộ nhớ.

Cha đã nỗ lực làm cho sự hiểu biết không chỉ đi cùng với mỗi bước của việc

giảng dạy. Bất cứ điều gì có thể tìm được bằng cách suy nghĩ, tôi không bao giờ

được nói, cho đến khi tôi nỗ lực hết sức để tìm thấy nó ra cho bản thân mình”

[114, tr.25]. Đó là phương pháp hướng đến mục đích không chỉ trả lời mà còn

biết hoài nghi, không chỉ nhận mà còn cho đi, không chỉ ghi nhớ mà còn khám

phá [114, tr.25]. Đến năm 1822, khi mới mười sáu tuổi, ông đã có tác phẩm đăng

trên tạp chí khoa học. Trong cuốn Tự truyện và tiểu luận văn học, ông hồi tưởng

lại và coi đây là một cuộc tấn công vào thành kiến quý tộc đương thời.

Từ năm mười bảy tuổi, J.S.Mill đã làm việc để tự kiếm sống ở công ty

Đông Ấn và trong nhiều năm ông đảm nhận việc quan hệ với các bang Ấn Độ.

Công việc này giúp ông có được kinh nghiệm thực tế phong phú về những vấn

đề cai trị. Ông tích cực tham gia vào các hoạt động chuẩn bị dư luận cho một

cuộc cải cách Hiến pháp. Ông cùng cha và các bạn bè tập hợp thành nhóm Cấp

Tiến. Trong những người cộng tác với cha con J.S.Mill và Jeremy Bentham có

57

David Ricardo, Geogre Grote, Sir William Molesworth, John Austin và

Francis Place [149].

Vào đầu thế kỷ XIX, nhóm Cấp Tiến chống đối đảng Tory và đảng Whig.

Các thành viên của nhóm Cấp Tiến chủ trương cải cách về luật pháp và chính trị,

đầu phiếu phổ thông cho nam giới, sự ứng dụng lý thuyết kinh tế (nhất là lý

thuyết kinh tế của David Ricardo) trong việc lấy quyết định ở lĩnh vực chính trị

và là một thuyết chính trị hướng về hạnh phúc của nhân loại hơn là dựa trên lý

thuyết bảo thủ hay thuyết về quyền tự nhiên. Với chủ thuyết duy lý, nhóm Cấp

Tiến khác biệt với đảng Tory và đảng Whig khi muốn xây dựng lại các cơ cấu xã

hội, chính trị dựa trên các nguyên tắc của lý trí (như nguyên tắc về lợi ích).

Với sự tài trợ của Jeremy Bentham, các thành viên nhóm Cấp Tiến sáng lập

ra tờ “Westminster Review” (năm 1824) để đối kháng với tờ “Endiburg Review” của đảng Whig (năm 1802)24 [149, tr.142] và tờ “Quaterly Review” của đảng Tory (năm 1809)25 [149, tr.144]. Trong khi các thành viên của đảng Whig và

nhóm Cấp Tiến có khuynh hướng thống nhất nhau về những vấn đề kinh tế như

khuếch trương đô thị, mở mang công nghệ thì đảng Tory chú trọng việc bảo vệ

các cơ cấu xã hội truyền thống của Anh quốc của giới địa chủ quý tộc. Mặc dù

đảng Whig và nhóm Cấp Tiến liên minh với nhau – và sau này cùng nhau hợp lại

để thành lập đảng Tự do nhưng sự khác biệt của đảng Whig và nhóm Cấp Tiến

tạo nên những cuộc tranh luận gay gắt về chính trị và tư tưởng. Đại diện của

nhóm Cấp Tiến, James Mill và J.S.Mill cho rằng đảng Whig quá thiên về các

quyền lợi của giới quý tộc để có thể là một bộ phận chân chính của sự cải cách

dân chủ. Chỉ có phe Cấp Tiến mới bênh vực cho giới trung lưu và người lao

động. Ngoài ra, trong khi phe Cấp Tiến với những chính sách được hướng dẫn

bởi những nguyên tắc về lợi ích – những nguyên tắc chủ xướng hạnh phúc hài

hòa (aggregate happiness) như là tiêu chuẩn cho luật pháp và hành động. Ngược

lại, đảng Whig cho rằng quan niệm của nhóm Cấp Tiến là nặng nề về lý trí, đó là

58

sự ngây thơ nguy hại về mặt tâm lý và lịch sử. Đảng Whig coi những cải cách

của nhóm Cấp Tiến là quá khích, thù nghịch với giáo hội Tin Lành và các tôn

giáo nói chung. Có thể nói nhóm Cấp Tiến đã có những ảnh hưởng đến tình hình

chính trị ở Anh quốc vào lúc bấy giờ. J.S.Mill được xem là người kế nghiệp lãnh

đạo nhóm Cấp Tiến, nói lên các hi vọng của James Mill và J.Bentham.

Cũng trong thời gian này, bằng những quan hệ của James Mill và những

người cộng sự của ông, J.S.Mill được tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, trong đó

có văn hóa Pháp. Năm 1820, J.S.Mill cùng cha sang Pháp thăm Samuel

Bentham và ở lại đó một năm. Trong thời gian này, ông có điều kiện để tìm hiểu

ngôn ngữ và văn chương Pháp. Sau một năm, ông đã nói thành thạo tiếng Pháp,

từ đó ông luôn quan tâm đến các trào lưu tư tưởng và chính trị Pháp. Sau đó, ông

đến Pari một vài ngày tại tư gia của nhà kinh tế học nổi tiếng Jean Baptiste Say,

một người bạn của James Mill. Tại đây, J.S.Mill đã gặp gỡ Henri Saint Simon.

Năm 1822, J.S.Mill tham gia Hội những người theo thuyết vị lợi (Utilitarian

Society). Đây chính là khoảng thời gian ông ủng hộ và tìm hiểu rõ về Thuyết vị

lợi do J.Bentham khởi xướng. Bên cạnh đó ông còn tham gia Hội những người

nghiên cứu triết học tinh thần (Society of Student of Mental Philosophy). Từ

những buổi tranh luận đó, J.S.Mill và bạn bè lập ra Hội tranh biện London

(London Debating Society). Khi đó, Hội tranh biện London như một bức tranh

thu nhỏ về sinh hoạt tư tưởng, học thuật của tầng lớp tinh hoa trong xã hội tư bản.

Những nhóm này phát huy tác dụng rất hữu ích trong việc làm sâu sắc hơn về tư

tưởng và duy trì mối quan hệ bằng hữu thân tình của J.S.Mill. Trong quá trình

tranh luận, J.S.Mill đã thể hiện rõ những quan điểm về tự do như tự do ngôn luận,

tự do lập hội… Tuổi trẻ hoạt động sôi nổi của J.S.Mill là cơ sở thực tiễn lý giải vì

sao ông luôn đề cao tự do ngôn luận trong các quyền tự do cơ bản của con người.

Khi hai mươi tuổi, J.S.Mill rơi vào khủng hoảng và suy sụp tinh thần. Để

đối phó với cuộc khủng hoảng này, J.S.Mill bắt đầu tìm hiểu chủ nghĩa lãng mạn

59

và một số phong trào tư tưởng khác ở Châu Âu. Các phong trào này chối bỏ các

quan niệm về bản chất con người có tính thế tục. Ông đào sâu thêm các vấn đề

này bằng cách đọc các tác phẩm của những nhà tư tưởng như Thomas Carlyle,

A.Comte, Alexis de Tocqueville, John Ruskin, Herbert Spencer, Frederick

Maurice và John Sterling. Sự quay trở lại với văn học khiến tâm hồn của J.S.Mill

trở nên thi thái hơn. Những dòng thơ của Coleridge, Carlyle như đồng điệu với

nỗi lòng ông. Về sau, J.S.Mill có viết rằng “bài thơ Tuyệt vọng của Coleridge…

đã miêu tả chính xác hoàn cảnh của tôi:

Nỗi buồn hơn cả sự nhức nhối, trống rỗng, ảm đạm và xót xa

Lòng thẫn thờ, ngột ngạt, không chút đam mê

Nỗi buồn không tìm ra lối thoát khuây khỏa Trong lời nói, trong tiếng thở dài, trong giọt nước mắt”26 [114, tr.38-39].

J.S.Mill đã hoàn thiện hơn những quan điểm triết học của nhóm Cấp Tiến

bằng sự dấn thân vào những trường phái tư tưởng khác. Ông cho ra một tạp chí

mới, tờ “London Review” với sự hợp tác của Charles Molesworth.

C.Molesworth đã mau chóng mua lại tờ “London Review” vào năm 1834 và tờ

“London and Westminster Review” trở thành tiếng nói độc nhất của phe Cấp

Tiến. Sau khi Jemery Bentham chuyển nhượng tờ “Westminster Review” và đặc

biệt sau cái chết của người cha – James Mill, J.S.Mill nảy sinh thêm nhiều tư

tưởng hơn. Ông sử dụng sự tự do mới này để tạo ra một triết lý Cấp Tiến khác

bao gồm thêm tư tưởng của Coleridge, Thomas Carlyle. J.S.Mill khẳng định: có

một triết lý cấp tiến mới, tốt hơn và đầy đủ hơn triết lý của Bentham trong khi nó

vẫn bao gồm và chấp nhận giá trị tất cả ý kiến của Bentham.

Kế hoạch được mô tả rõ ràng trong các bài tiểu luận nổi tiếng của J.S.Mill

vào những năm 1838 và 1840 khi ông viết về Coleridge và Jeremy Bentham

được đăng trong tờ “London and Westminster Review”. J.S.Mill cho rằng

Coleridge và Jeremy Bentham là hai nhà tư tưởng khai phóng của Anh quốc vào

60

thời kỳ của họ. Trong các bài viết của J.S.Mill, ông đã nêu lên điểm mạnh, điểm

yếu trong tư tưởng của Coleridge và Jeremy Bentham. Bên cạnh đó, J.S.Mill

còn cho rằng một lập trường triết học có thể đầy đủ hơn còn có thể nối tiếp sau

đó. J.S.Mill đã dự tính thực hiện việc này trong suốt sự nghiệp của mình.

J.S.Mill là một nhân vật có ảnh hưởng lớn đến thế kỷ XIX của phương Tây.

Giải thích cho việc J.S.Mill luôn được quan tâm trên cả phương diện cá nhân lẫn

xã hội đó là về mặt nhân cách cá nhân, ông là một người nhã nhặn, có trái tim

nhân ái, một quý ông trí thức, một người tài ba. Cuộc đời mẫu mực của ông - một

hình mẫu cao nhất cho tính nghiêm chỉnh thời nữ hoàng Victoria – nay vẫn còn

được yêu thích và ngưỡng mộ. Năm 1830, J.S.Mill làm quen với Harriet Taylor,

một quý bà đã kết hôn. Tình bạn của họ rất thân tình, thuần khiết trong suốt

những năm tháng trước khi người chồng của Harriet qua đời. Năm 1851,

J.S.Mill thành hôn với Harriet Taylor. Mối tình bền lâu của hai người tạo nên

nhiều câu chuyện trong văn học Anh. Harriet Taylor có ảnh hưởng đáng kể đối

với tư tưởng và sự nghiệp của J.S.Mill.

Năm 1858, Harriet Taylor qua đời tại Avignon (Pháp). Sự ra đi của bà, với

J.S.Mill, là một sự mất mát rất lớn. Không chỉ là một quý ông trí thức, tài ba,

J.S.Mill còn là một người có trái tim nhạy cảm, sâu sắc. Tình cảm ông dành cho

người vợ quá cố sâu nặng, nhức nhối, như lời ông tâm sự “Ước gì tôi có khả

năng diễn đạt được cho thế gian phân nửa những ý tưởng vĩ đại và tình cảm cao

quý chôn giấu dưới mộ nàng… những điều không được nàng gợi ý và giúp đỡ,

có là gì thì cũng không phải là điều thông tuệ tuyệt đỉnh” [69, tr.18]. Từ khi vợ

ông mất, phần thời gian còn lại của cuộc đời, J.S.Mill sống ở Avignon, tiếp tục

nghiên cứu và cho ra đời nhiều tác phẩm bất hủ.

Với những công trình nghiên cứu uyên thâm, J.S.Mill luôn được ghi nhận

là nhà tư tưởng có bộ óc bách khoa. Dường như ở lĩnh vực nào, từ toán học, logic,

đến triết học, kinh tế, chính trị, đạo đức, ông cũng để lại những dấu ấn tư tưởng

61

đặc sắc. Toàn bộ sự nghiệp của ông gắn liền với những tác phẩm tiêu biểu: “Bàn

về thiên tài” (On Genius, 1832), “Các nguyên lý của kinh tế chính trị học”

(Principles of Political Economy, 1948); “Bàn về tự nhiên” (On Nature, luận

văn, 1850 - 1858); “Ba luận điểm về tôn giáo” (Three Essays on Religion, 1850

- 1858); “Bàn về vấn đề không can thiệp” (A few words on non-intevention,

1859); “Bàn về tự do” (On Liberty, 1859), “Chính thể đại diện” (Representative

Government, 1861); “Thuyết vị lợi” (Utilitarianism, 1863); “Auguste Comte và

chủ nghĩa thực chứng” (Auguste Comte and Positivism, 1865); “Một khảo sát

về triết học của ngài William Hamilton” (Examination of Sir William

Hamilton‟s Philosophy, 1865); “Thuyết duy vật luận” (luận văn, 1868); “Sự áp

bức phụ nữ” (The Subjection of Women, luận văn, 1869).

1.3.2. Quá trình hình thành quan điểm về tự do trong triết học J.S.Mill

Sự nghiệp mà J.S.Mill là khối thống nhất giữa các công trình và tác phẩm

trong các lĩnh vực từ logic học, kinh tế học đến đạo đức học, chính trị học, triết

học; trong đó tiêu biểu có bộ ba tác phẩm “Chính thể đại diện”, “Bàn về tự do”

và “Thuyết vị lợi”. Về cơ bản, quá trình hình thành quan điểm tự do của J.S.Mill

có thể chia thành ba giai đoạn:

1.3.2.1. Giai đoạn thứ nhất – giai đoạn hình thành tư tưởng cơ bản về tự do

trong triết học của J.S.Mill từ sự giáo dục và tự giáo dục

Ở giai đoạn đầu tiên, dưới sự giáo dục nghiêm khắc mà người cha đã chuẩn

bị, J.S.Mill bước đầu tạo lập nền tảng cho những tư tưởng về tự do, quyền con

người. Ngay khi còn là một cậu bé, J.S.Mill đã luôn chăm chú đối với những vấn

đề chính trị của thời đại, thông qua sự giảng dạy của cha. “Điều duy nhất ngoài

tiếng Hi Lạp mà tôi được học trong chương trình học của tuổi thơ là môn số học. Điều này cũng do cha tôi dạy”27 [149, tr.114]. Phương thức giáo dục của James

Mill đối với J.S.Mill cũng rất đặc biệt. Hàng ngày, J.S.Mill cùng cha đi tản bộ

buổi sáng và kể cho cha những gì đã học từ hôm trước. Và để tốt cho trí nhớ của

62

J.S.Mill, những điều đó đều là tự nguyện chứ không phải là những bài tập theo

quy định. Ông đã ghi chú các mảnh giấy khi đọc, và từ đó, trong mỗi buổi sáng,

ông đã nói những câu chuyện với cha từ những cuốn sách lịch sử là chủ yếu.

Như vậy, ở đoạn khởi đầu hình thành tư tưởng triết học tự do của mình, vấn

đề mà J.S.Mill quan tâm chủ yếu là lịch sử và chính trị thời kỳ cổ đại. Đối với

nền văn minh Hy Lạp, J.S.Mill tỏ ra hứng khởi với những bài hùng biện của các

nhà biện thuyết đại tài thời đó. J.S.Mill đọc, viết ra giấy những ý tưởng và phân

tích chúng. Với sự bình luận của cha, J.S.Mill hiểu thêm về thể chế chính trị

Athen, những nguyên tắc về luật pháp và quyền lực ở Hy Lạp [114, tr.23].

J.S.Mill rất say sưa đọc lịch sử La Mã, viết về lịch sử La Mã; từ đó có thể

tìm hiểu kỹ hơn về chính trị La Mã. Thông qua những tác phẩm triết học Hy Lạp

cổ đại, J.S.Mill đã bị cuốn hút bởi nền văn minh phương Tây đạt được trong thời

kỳ đó. J.S.Mill đặc biệt hứng thú với những cuộc đối thoại của Plato, tiêu biểu

như các phần Gorgias, Protagoras, và Republic (nền Cộng hòa) [114]. Những ý

tưởng về mô hình quyền lực đầu tiên được hình thành khi J.S.Mill nghiên cứu

mô hình nhà nước Athen trong những tác phẩm đó. Về sau, trong những tác

phẩm chuyên sâu của mình, J.S.Mill đều đề cập đến mô hình này trong sự so

sánh với thể chế chính trị ở thời đại mà ông đang sống. Như vậy, những kiến

thức nhất định về chính trị Hy Lạp - La Mã cổ đại chính là điểm xuất phát đầu

tiên cho ý tưởng về các hình thức chính thể; ý tưởng về quyền lực nhà nước và

những tiền đề để đảm bảo thực hiện những quyền tự do cá nhân về sau.

J.S.Mill được sống trong thời kỳ của những cuộc cách mạng và của những

nhà tư tưởng lớn, tư tưởng tự do của ông được hình thành từ sự kế thừa có chọn

lọc những thành tựu lý luận của những bộ óc lớn của nhân loại: Thomas Hobbes

và John Locke. Ở giai đoạn này, J.S.Mill đã nghiền ngẫm nghiên cứu những tác

phẩm của John Locke. Trong cuốn “Tự truyện và tiểu luận văn học”

(Autobiography and Literary Essays, 1824), J.S.Mill nhớ lại rằng “Tôi đọc

63

những bài khảo luận của Locke, rồi viết bài diễn giải về chúng, bao gồm mỗi bài

tóm tắt chung cho từng phần” [114, tr.45]. Sự quan tâm đến những vấn đề tự do

của J.S.Mill cũng bắt nguồn từ tác phẩm này.

Sự hình thành tư tưởng cơ bản về tự do trong triết học của J.S.Mill còn

được thể hiện qua hoạt động thành lập và tham gia các hội, tiêu biểu như Hội

những người theo thuyết vị lợi (Utilitarian Society), Hội những người nghiên

cứu triết học tinh thần (Society of Students of Mental Philosophy), Hội tranh

biện London (London Debating Society). Tuổi trẻ hoạt động sôi nổi của J.S.Mill

cũng là một cơ sở lý giải vì sao ông luôn đề cao tự do ngôn luận trong các quyền

tự do cơ bản của con người. Trong lý luận chính trị của J.S.Mill, tranh luận là

phương tiện quan trọng để những cá nhân ưu tú có thể vận dụng được sự ảnh

hưởng của họ đối với các sự kiện hoặc biến cố của thời đại.

Giai đoạn đầu tiên trong hành trình tư tưởng của “vị giáo chủ tự do”

J.S.Mill kết thúc vào năm 1826, khi ông bị khủng hoảng tinh thần. Đã có nhiều

giả thuyết đặt ra để giải thích cơn khủng hoảng này. Một phần do những đòi hỏi

khắt khe từ người cha. Tuy nhiên, nó bắt đầu từ sự kiện J.S.Mill bắt đầu đấu

tranh để xét lại các tư tưởng của cha và Jemery Bentham, những tư tưởng mà

ông cho là còn hạn chế ở nhiều khía cạnh. Thời kỳ trầm cảm nặng nề chỉ khoảng

hơn một năm (1826 - 1827) nhưng đủ nhức nhối để lưu lại trong lòng J.S.Mill

những nỗi niềm khôn nguôi.

Như vậy, giai đoạn đầu tiên – giai đoạn hình thành tư tưởng cơ bản về tự do

trong triết học của J.S.Mill từ sự giáo dục và tự giáo dục. Giai đoạn này được kết

thúc bởi biến cố khủng hoảng nội tâm. Có thể thấy rằng đây là giai đoạn hình

thành những tư tưởng nền tảng, tạo điều kiện cho sự phát triển tư tưởng tự do

một cách hệ thống và sâu sắc hơn ở các giai đoạn sau. Chính cú sốc tinh thần

trong giai đoạn này như một nguyên nhân cơ bản lý giải bước chuyển trong triết

64

học chính trị J.S.Mill. Vượt qua cơn chấn động tinh thần, J.S.Mill đã nhận thức

lại nhiều vấn đề trước đó, để gợi mở sự điều chỉnh ở giai đoạn tiếp theo.

1.3.2.2. Giai đoạn thứ hai – giai đoạn hình thành các quan điểm về tự do từ

cuộc khủng hoảng nội tâm

Năm 1826, khi 20 tuổi, J.S.Mill rơi vào tình trạng khủng hoảng và sụp đổ

tinh thần. Về cuộc khủng tinh thần này của ông đã có rất nhiều giả thuyết khác

nhau. Đa số ý kiến cho rằng nguyên nhân của khủng hoảng này là do sự kìm nén

tình cảm, cảm xúc của tuổi thơ và sự giáo dục nghiêm khắc từ cha và những

người thầy. Mặt khác, cuộc khủng hoảng này còn bắt nguồn từ những mâu thuẫn

trong tư tưởng của J.S.Mill hay chính bởi sự xung đột bởi các trường phái triết

học mà ông đã tiếp thu. “Vào mùa thu năm 1826, tôi rơi vào tình trạng khủng

hoảng trầm trọng mà nếu ai trong hoàn cảnh của tôi thì cũng có thể gặp phải…

Một tâm trạng là những gì lẽ ra rất thoải mái thì trong khoảng thời gian bỗng trở

nên vô vị hoặc bất thường đối với tôi” [149, tr.157]. Cú sốc tinh thần là nguyên

do khiến J.S.Mill lưu tâm nhiều hơn đến vai trò của sự tưởng tượng, vai trò của

cảm xúc trong mỗi con người. Giờ đây ông tin rằng, cảm xúc cũng quan trọng

như tư duy. Đây chính là thời kỳ mà J.S.Mill quan tâm nhiều đến vấn đề tự do sở

thích và tự do sắp xếp cuộc sống theo sự xét đoán của mình.

J.S.Mill đặt câu hỏi cho chính bản thân “Giả sử mọi mục đích của chúng ta

trong cuộc sống đều được thực hiện, giả sử mọi thay đổi về thể chế và quan điểm,

mà chúng ta từng theo đuổi, có thể hoàn toàn được thực hiện ngay lập tức, vậy đó có phải là niềm vui và sự hạnh phúc lớn lao đối với chúng ta hay không”28

[149, tr.157]. J.S.Mill ngỡ ngàng nhận ra câu trả lời là “không”. Mọi thứ với

J.S.Mill dường như sụp đổ “Mọi niềm vui của tôi từng theo đuổi liên tục đã

chấm dứt. Sự chấm dứt đó đã kết thúc niềm đam mê; và làm cách nào để hứng thú có thể quay trở lại? Tôi không còn gì để sống”29 [149, tr.157]. Hành trình

triết học mà ông đam mê thủa nào giờ đã tạm thời dừng lại. Tuy nhiên, chặng

nghỉ chân này kéo dài không lâu. J.S.Mill nhanh chóng trở về với sự nghiệp

65

nghiên cứu. Những năm ngay sau biến cố khủng hoảng nội tâm, nhiều quan

điểm của J.S.Mill đã thay đổi, tự điều chỉnh rất nhiều. Nói cách khác, lý luận của

J.S.Mill đã thể hiện được những phân tích sâu sắc. Như chính ông có lần bày tỏ:

“Nếu tôi được hỏi rằng hệ thống triết học chính trị nào sẽ thay thế cho thứ triết

học mà tôi từ bỏ, thì tôi trả lời rằng không có hệ thống, mà chỉ có một niềm tin

rằng hệ thống thực sự là một cái gì đó phức tạp hơn nhiều và đa diện hơn so với

bất kỳ ý tưởng nào của tôi trước đây” [114, tr.47].

Sau khi J.S.Mill vượt qua giai đoạn trầm cảm; ông đã tìm đến các tác giả

như Coleridge, Carlyle, Wordsworth, Goethe, Auguste Comte. Sự quay trở lại

với văn học cũng khiến tâm hồn của J.S.Mill trở nên thư thái hơn. Trong giai

đoạn này, J.S.Mill thường viết báo để thảo luận các vấn đề trí tuệ và xã hội

đương thời. Cũng vào quãng thời gian từ sau bình phục tinh thần, J.S.Mill đặc

biệt quan tâm đến triết học chính trị của Tocqueville qua tác phẩm “Nền dân trị

Mỹ”. Hai kiệt tác của J.S.Mill (Bàn về tự do và Chính thể đại diện) ở giai đoạn

đỉnh cao sau này đều có những dẫn chứng đối chiếu của chính ông về tư tưởng

chính trị Tocqueville. J.S.Mill là một nhà tư tưởng dành nhiều thiện cảm cho các

triết gia Pháp cũng như nước Pháp. Thậm chí, sinh thời, ông còn được xem như

là một chuyên gia về Pháp. Đặc biệt, các tư tưởng về dân chủ của Mill hay những

ý tưởng về cải cách của ông chịu ảnh hưởng khá lớn từ Tocqueville.

Trong “Nền dân trị Mỹ”, Tocqueville đã đưa ra một lời cảnh báo mối nguy

hiểm về sự chuyên quyền của chính phủ. Ông cố gắng áp dụng những ý tưởng

của mình và những mong muốn thay đổi đến Pháp song không được chấp nhận.

Cuốn sách được coi là kinh điển của ông chỉ được nước Anh hưởng ứng, những

người thừa nhận và nghiên cứu nghiêm túc trong đó có J.S.Mill. Cụm từ được

Tocqueville nhắc đến mà sau này là J.S.Mill sử dụng khá phổ biến đó là “chuyên

chế của đa số”. Không giống như trong chế độ độc tài, quyền tự do tín ngưỡng

trong xã hội dân chủ được ủng hộ mạnh mẽ. Tuy nhiên, nó cũng có mặt trái, bởi

không bị chuyên quyền áp đặt nên dễ xảy ra có nhiều tranh cãi, bất đồng ý kiến

66

mà phần thắng thường thuộc về đa số. Chính ở điểm này, J.S.Mill bị ảnh hưởng

từ Tocqueville. Tuy nhiên, triết gia người Anh lại đưa ra một đề nghị khác vị tiền

bối của mình về việc ngăn ngừa hay hạn chế sự chuyên chế của đa số. J.S.Mill

đã suy nghĩ về mối nguy hiểm của dân chủ chính là sự khác biệt của đa số sẽ đàn

áp cá nhân hay thiểu số.

Như vậy, với tác phẩm “Nền dân trị Mỹ”, Tocqueville đã ảnh hưởng đến

J.S.Mill. Với triết gia người Anh, một mặt đam mê với những vấn đề

Tocqueville gợi ra và đã có phân tích, mặt khác ông cũng đưa ra những lập

trường riêng biệt thể hiện suy nghĩ riêng của mình về vấn đề mà cả ông và

Tocqueville cùng quan tâm. Đó chính là bước biến chuyển ở nhà triết học chính

trị người Anh này.

1.3.3.3. Giai đoạn thứ ba - giai đoạn hoàn thiện triết học tự do J.S.Mill

Đây là giai đoạn đánh dấu thời kỳ rực rỡ nhất trong hành trình tư tưởng

của J.S.Mill. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn này chính là sự ra đời hàng loạt

tác phẩm tiêu biểu: “Bàn về tự do”, “Chính thể đại diện” và “Thuyết vị lợi”.

Trong những tác phẩm này, J.S.Mill đã trình bày hệ thống và sâu sắc về quan

điểm tự do.

Về tác phẩm“Bàn về tự do”, ngay từ lần đầu xuất bản, tác phẩm đã được

chào đón nồng nhiệt từ giới học giả. Đây là tác phẩm triết học tiếp nối chủ nghĩa

tự do cổ điển, đề cao quyền tự do cá nhân trong triết học phương Tây. Charles Kingsley30 đánh giá tác phẩm “Bàn về tự do” đã khiến J.S.Mill trở thành nhà tư tưởng dũng cảm và tiên phong. Thomas Hardy31 cho rằng, những sinh viên

nghiên cứu “Bàn về tự do” gần như đã đọc nó đến thuộc lòng. Chỉ trong hai năm, ấn bản tiếng Nga đã được hoàn thành. Frederic Harrison32 từng khẳng định

“Hàng trăm ngàn người đã đọc Bàn về tự do, và đối với một số độc giả đam mê

và tận tâm nhất thì tác phẩm đã trở thành một loại sách cẩm nang” [155, tr.264].

Lý do dễ hiểu nhất để giải thích cho sức hấp dẫn của tác phẩm “Bàn về tự do”

chính là ở giá trị đề cao các quyền và tự do cơ bản. Trong một tác phẩm viết về

67

J.S.Mill, học giả Richard Reeves đánh giá: Tự do, trong triết học chính trị

J.S.Mill, không chỉ đơn thuần là sự vắng mặt áp bức hoặc trấn áp, mà còn là sự

tự sáng tạo tích cực và chủ động. Vậy nên, thuật ngữ autonomy (theo đúng nghĩa

đen là sự tự trị) mà Immanuel Kant từng chủ trương có lẽ trở nên gần nghĩa nhất

với tư tưởng của J.S.Mill, hơn cả thuật ngữ liberty (tự do). Khi diễn tả cho một

người bạn Pháp, J.S.Mill đã sử dụng cụm từ “I‟autononomie de L‟individu” (các

quyền tự chủ của cá nhân) để nói về chủ đề chính của tác phẩm “Bàn về tự do”

[114]. J.S.Mill đã kết cấu tác phẩm thành năm chương. Cụ thể:

Chương 1: Lời mở đầu, J.S.Mill luận giải về tự do với tư cách là một trong

những quyền cơ bản của con người. Trên cơ sở phân tích các quan điểm tự do

của các nhà tư tưởng trước đó, J.S.Mill đã nêu ra góc tiếp cận về quan điểm tự do.

Đồng thời, ông cũng đưa ra những cơ sở lý luận cho việc xây dựng tác phẩm.

Chương 2: Bàn về tự do tư tưởng và tự do thảo luận, J.S.Mill luận giải về

vai trò của tự do tư tưởng và tự do ngôn luận đối với sự phát triển của cá nhân và

sự tiến bộ của xã hội.

Chương 3: Con người cá nhân như một thành tố của an sinh. Ở chương này,

J.S.Mill luận giải về cơ sở của sự tồn tại cho tự do sở thích và tự do sắp đặt cuộc

sống theo sự xét đoán của từng người. J.S.Mill khẳng định đó là những quyền tự

do cơ bản, bởi lẽ sự tồn tại của những quyền đó chính là động lực làm cho bản

thân cá nhân được hạnh phúc và xã hội trở nên nhân văn, tiến bộ hơn.

Chương 4: Giới hạn quyền uy xã hội đối với cá nhân, J.S.Mill đã luận giải

về sự giới hạn của quyền lực xã hội trong mối quan hệ với cá nhân. Hành vi nào

của cá nhân thì xã hội được phép can thiệp và những hành vi nào của cá nhân

được coi là tự do tuyệt đối? Những câu hỏi này, J.S.Mill không phải là người đầu

tiên đặt ra nhưng ông là người lý giải nó một cách hệ thống và sâu sắc nhất trong

kho tàng tư tưởng phương Tây.

Chương 5: Các ứng dụng, J.S.Mill đã đưa ra một số mẫu hình để làm sáng tỏ

hơn ý nghĩa của những luận điểm mà ông đã trình bày ở những chương trước đó.

68

Nội dung tác phẩm toát lên quan điểm: tự do của mỗi người tìm thấy giới

hạn của mình trong sự tự do của người khác. J.S.Mill cho rằng tự do xã hội chính

là ranh giới giữa sự kiểm soát xã hội và sự độc lập cá nhân. Lý tưởng của

J.S.Mill là đem lại tự do cho mỗi người để có được sự phồn vinh của tất cả mọi

người để thực hiện mục tiêu cuối cùng là sự tiến bộ xã hội.

Tư tưởng tự do của J.S.Mil được nối tiếp thông qua những chú giải tỉ mỉ về

chính thể, quyền lực nhà nước và dân chủ trong tác phẩm “Chính thể đại diện”.

Ngay từ “Lời tựa” của tác phẩm, John Stuart Mil tâm sự một cách khiêm nhường:

“Những bạn đọc nào đã dành cho tôi vinh dự là đã chịu khó đọc các tác phẩm

của tôi trước đây có thể nhận thấy công trình này của tôi không có điều gì đặc

biệt mới mẻ, vì lẽ những ý tưởng chủ yếu của nó vốn đã được tôi theo đuổi suốt

đời …” [70, tr.41]. Tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên tại Anh vào năm 1861

gồm có mười tám chương. J.S.Mill đã luôn cố gắng phân định ranh giới giữa

chính quyền và sự tự do của dân chúng, nghĩa là có những quyền tự do nào của

dân chúng mà chính quyền không thể xâm phạm vào. Xét từ góc độ này, tác giả

tiếp cận những tư tưởng tự do của J.S.Mill bởi chính những điều mà ông trăn trở,

suy tư về vấn đề chính thể. Cụ thể là:

Thứ nhất, đâu nào là chính thể lý tưởng nhất?

Thứ hai, để đảm bảo quyền tự do của con người, một mặt Nhà nước cần

phải tuân theo những nguyên tắc nào? Mặt khác, người dân cần phải làm gì để tự

bảo vệ quyền hạn của mình?

Thứ ba, những giải pháp nào để giải quyết những vấn đề của chính trị

hiện tồn?

“Thuyết vị lợi”33 là khảo luận ngắn lược J.S.Mill viết vào năm 1861 và xuất

bản thành sách năm 1863 tại Anh quốc. Tác phẩm được thể hiện qua năm

chương với nội dung cơ bản sau:

Chương I: Nhận xét chung, J.S.Mill lập luận cho sự cần thiết của nguyên

tắc cơ bản nhất của đạo đức xoay quanh hai câu hỏi: Nguyên tắc cơ bản đầu tiên

69

là gì? Tại sao đạo đức cần phải có điều này? Sau khi đưa ra rất nhiều nhận xét,

J.S.Mill thừa nhận rằng không cần phải có một nguyên tắc đầu tiên nếu ta đã có

một loạt những nguyên tắc được sắp xếp thứ hạng theo tầm quan trọng hay ý

nghĩa. Ông đã đưa ra một nhận xét gây tò mò về việc làm thế nào chúng ta có thể

phát hiện ra một điều gì đó có phải là nguyên tắc đầu tiên hay không?

Chương II: Thuyết vị lợi là gì, J.S.Mill đưa ra những luận điểm nhằm bảo

vệ thuyết vị lợi trước những quan điểm phê phán, phản đối do hiểu sai bản chất

của thuyết vị lợi. Đây là nội dung chính của tác phẩm bởi nó làm rõ mục đích

ban đầu của J.S.Mill khi viết tác phẩm này là nhằm bảo vệ thuyết vị lợi của

Jeremy Bentham. Qua đó, ta hiểu được một số quan niệm đạo đức cơ bản của

J.S.Mill như về khoái lạc, hạnh phúc, tính vị lợi.

Chương III: Sự thưởng phạt cơ bản của nguyên tắc vị lợi. Trong phần này,

J.S.Mill chủ yếu bàn về các vấn đề như: Động cơ luân lý nào sẽ thúc đẩy chúng

ta tuân theo nguyên tắc vị lợi? Những quy tắc luân lý thông thường trói buộc

chúng ta phải tu dưỡng, trau dồi bằng giáo dục và dư luận để có thể tuân theo nó.

Theo ông, nếu chúng ta cần một lý do để theo đuổi một nguyên tắc luân lý, thì

chúng ta cũng cần lý do để thực hiện theo bất kỳ một nguyên tắc luân lý nào khác.

Như vậy, những lý lẽ để tuân theo những mệnh lệnh đạo đức thông thường thì

cũng có thể là lý lẽ để làm theo nguyên tắc vị lợi. Đó là những nguyên nhân nội

tại và những nguyên nhân bên ngoài. Những nguyên nhân bên ngoài là hi vọng

được yêu mến và sợ làm “người khác” thất vọng (người khác ở đây có thể còn

ám chỉ cả Chúa trời trong một vài trường hợp). Còn những nguyên nhân nội tại

chính là cảm nhận về lương tâm – điều có được nhờ tu dưỡng những đức tính

luân lý và đủ sức khiến cho một người cảm thấy rất đau khổ nếu phải làm một

hành vi trái luân lý. Ngoài ra, J.S.Mill còn cho rằng, có thể khiến người ta khát

khao đức hạnh bằng cách làm cho họ nghĩ về nó để đạt được những điều tốt đẹp

nhất hoặc để tránh những điều đau khổ.

70

Chương IV: Nguyên tắc vị lợi có thể được chứng minh bằng điều gì?,

Chương này J.S.Mill dành để chứng minh cho nguyên tắc vị lợi, cơ sở của

nguyên tắc tự do.

Chương V: Mối quan hệ giữa công lý và vị lợi, học thuyết chính trị của

J.S.Mill trong Thuyết vị lợi được truyền tải một cách tỉ mỉ là “học thuyết về cuộc

sống…” là chìa khóa gợi ý cho các vấn đề nan giải như con người có thể đạt đến

tự do và hạnh phúc như thế nào?.

Tóm lại, “Bàn về tự do”, “Chính thể đại diện” và “Thuyết vị lợi” là những

tác phẩm tiêu biểu của J.S.Mill. Với những tác phẩm trên, J.S.Mill được xem

như một nhà triết gia can đảm dám dấn thân vào những vấn đề nhạy cảm của thời

đại. Ông nghiên cứu vấn đề tự do dưới góc độ là các quyền cơ bản của con

người. Trong đó, “Bàn về tự do” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của

J.S.Mill các tự do cơ bản của cá nhân: a) tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do báo

chí và tự do ngôn luận; b) tự do về sở thích, tự do đặt kế hoạch cho cuộc sống

theo sự xét đoán của mình; c) tự do lập hội. Các quyền tự do mà J.S.Mill đề cập

đến thuộc nhóm quyền dân sự. Trên cơ sở đó, ông đã viết và công bố hai tác

phẩm còn lại là “Chính thể đại diện” và “Thuyết vị lợi”. Trong “Chính thể đại

diện”, J.S.Mill đã đề cập đến một số quyền chính trị, trong đó có quyền bầu cử

của công dân. Đồng thời ông đã thảo ra mô hình nhà nước lý tưởng: một nền dân

chủ đại diện nhằm tăng cường ảnh hưởng chính trị của các nhóm thiểu số bằng

các chế định ổn định, bảo vệ quyền tự do và lợi ích của công dân dựa trên sự

minh định các ranh giới can thiệp xã hội trên cơ sở nguyên tắc tự do, nguyên tắc

tổn hại và nguyên tắc vị lợi. Như vậy, hệ thống triết học tự do của J.S.Mill đã đề

cập đến quyền dân sự và quyền chính trị. Cuối cùng, tác phẩm Thuyết vị lợi là

những luận chứng của J.S.Mill nhằm bảo vệ, làm rõ hơn và phát triển nguyên tắc

vị lợi - được xem là cơ sở của việc bảo đảm tự do cá nhân trong xã hội.

71

Tiểu kết chƣơng 1

Vào thế kỷ XIX, bằng cuộc cách mạng công nghiệp và những phong trào

cải cách chính trị, Anh quốc bước vào một giai đoạn lịch sử mới; đó là thời đại

Victoria - thời đại của những cuộc cải cách. Tại London náo nhiệt, J.S.Mill được

chứng kiến sự thay đổi về đời sống kinh tế - xã hội và những cuộc cải cách chính

trị. Đây là thời kỳ phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa hoàn toàn thay thế

phương thức sản xuất Phong kiến. Nước Anh thời đại Victoria chính là cơ sở xã

hội hình thành triết học tự do của J.S.Mill.

Sinh thời, J.S.Mill được tiếp xúc với rất nhiều tư tưởng nổi tiếng. Quá trình

hình thành và phát triển tư tưởng tưởng tự do, J.S.Mill đã kế thừa những tinh hoa

của các bậc tiền bối và triết gia cùng thời. Đó là tư tưởng tự do của Thomas

Hobbes và John Locke. Cùng với việc kế thừa những tư tưởng của các triết gia

thời kỳ trước, J.S.Mill đã trực tiếp kế thừa quan điểm của Wilhelm von

Humboldt, Alexis de Tocqueville và Thuyết vị lợi của Jemery Bentham trong

việc luận giải về tự do nhằm đạt được lợi ích cao nhất cho nhiều người nhất để

hướng đến mục tiêu xã hội phát triển hài hòa.

Bằng những tác phẩm giá trị, bằng sự nghiệp sâu rộng nhiều lĩnh vực và

tầm vóc tư tưởng uyên bác, J.S.Mill trở thành “nhà tư tưởng nổi tiếng và lừng

danh nhất vào thời đại Victoria” [114, tr.21]. Những tác phẩm của ông mang

đậm phong cách điển hình của thời đại như quyền con người và các tự do cơ bản

như: tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do lập hội, tự do sắp đặt

cuộc sống theo sự xét đoán của mình… Những tư tưởng đó làm phong phú thêm

bức tranh triết học phương Tây thế kỷ XIX nói riêng và lịch sử tư tưởng nhân

loại nói chung.

72

Chƣơng 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ TỰ DO

TRONG TRIẾT HỌC CỦA JOHN STUART MILL

2.1. Cách tiếp cận của J.S.Mill về tự do

Khái niệm tự do trong triết học được xem là một giá trị cao quý, cơ bản của

nhân loại. Tuy nhiên, đây là một khái niệm đa nghĩa “không một từ nào lại có

nhiều cách định nghĩa theo những lối suy nghĩ khác nhau như là từ “tự do” [108,

tr.98]. Về cơ bản, bản chất tự do bao gồm những vấn đề sau:

Tự do là một phạm trù xã hội, tự do chỉ được bàn đến trong xã hội, trong hệ

thống các quan hệ giữa người với người. Tự do cần cho con người trong việc tạo

ra các giá trị vật chất và giá trị tinh thần để thông qua đó, mỗi cá nhân bộc lộ toàn

bộ khả năng và thiên hướng của mình. Ngoài những điểm chung mang tính nền

tảng, quan niệm về nội dung và phương thức thực hiện tự do trong mỗi xã hội có

thể phụ thuộc vào tính chất và nội dung các chuẩn mực, các quy tắc, các giá trị

văn hóa dân tộc, lịch sử, thói quen, tập quán, tâm lý… đang thống trị. Chẳng

hạn, nếu ở phương Tây, người ta thiên về nhấn mạnh tự do cá nhân thì ở phương

Đông, quyền và tự do tập thể (nhóm, chủng tộc, dân tộc…) là cái thường được

quan tâm. Nghịch lý trong quá trình vươn tới sự tự do được thể hiện khá rõ nét

trong mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực. Trong lịch sử, đã từng có nhiều lực

lượng xã hội đấu tranh không mệt mỏi vì giá trị thiêng liêng này, song một khi

đạt được mục tiêu thì những lực lượng ấy, giờ đây trở thành lực lượng thống trị,

đã tìm mọi cách hạn chế tự do của con người, hoặc xuyên tạc nó. Tự do trở thành

đặc quyền, nghĩa là tự do diễn ra song song với sự đánh mất tự do, sự “tha hóa”

đời sống có tính loài của cá nhân.

Tự do là một phạm trù lịch sử, việc nhận thức và lý giải nó gắn liền với các

thời kỳ lịch sử khác nhau. Ở thời cổ đại chưa có lý luận về tự do mà chỉ có những

cuộc đấu tranh vì tự do của người nô lệ. Quá trình tồn tại và phát triển của chế độ

73

Chiếm hữu nô lệ đã tước bỏ thiên chức làm người của lực lượng lao động chính

trong xã hội. Những người chủ nô đã biến họ thành những “công cụ lao động

biết nói”, đối xử với họ như những thứ hàng hóa, tạo nên sức mạnh, sự giàu có

và quyền uy cho những người chủ nô. Cùng với đó, các quan niệm về “công

dân”, “nô lệ” được xem xét từ góc độ người tự do và người không có tự do. Từ

thực tiễn đó xuất hiện thuật ngữ “libertas” có nghĩa là quyền tự do nhưng ý nghĩa

hạn chế: chỉ người công dân La Mã có tài sản và có vị trí trong xã hội mới được

xem là tự do.

Êpiquya là một trong những triết gia sớm quan tâm và luận giải về tự do.

Theo ông, tự do trước hết phải được hiểu như sự giải thoát của con người khỏi

mọi ràng buộc của số phận, lấy sự thư thái, tĩnh tâm làm điều kiện cho đời sống

cá nhân. Tự do là tự chủ, tự quyết định hành động vươn tới hạnh phúc, tránh mọi

khổ đau và không bị cám dỗ bởi những thú vui vật chất tầm thường. Như vậy,

theo Êpiquya tự do mang tính người; nghĩa là tự do là không bị lệ thuộc vào thói

quen ý thức và tín ngưỡng truyền thống, không bận tâm đến cái chết, không thừa

nhận vai trò của thần thánh cả trên trời lẫn dưới đất. Trong luận án tiến sĩ của

C.Mác - Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrít và triết học tự

nhiên của Êpiquya, sau khi phân biệt cách hiểu của Đêmôcrít và Êpiquya về sự

vận động của các nguyên tử, C.Mác đã phát hiện ra ở Êpiquya xu hướng nhân

bản hóa nguyên tử luận và thông qua đó, ông đề cao sự tự ý thức tự do của con

người, khát vọng giải phóng khỏi tính tất yếu xã hội - cái được hiểu như là những

trói buộc, áp đặt của xã hội phi nhân tính.

Dưới thời Trung cổ, tự do được lý giải dưới góc độ thần học, nhận thức và

hành động tự do gắn với sự nhận thức về sự sáng tạo của Thiên chúa. Tiêu biểu

cho quan điểm này là tư tưởng của Augustine (354 - 430) và Thomas Aquinas

(1224 - 1274). Kinh thánh cho rằng con người mang hình dáng của Thiên chúa

và tự do cũng là món quà Thiên chúa ban cho con người. Tự do bao gồm tự do

74

tinh thần và tự do thể xác, trong đó tự do tinh thần được coi trọng hơn cả. Vì thế,

ngay cả khi con người bị biến thành nô lệ thì sự nô lệ về thân xác cũng không

ngăn cản được ý chí của tự do. Thomas Aquinas cho rằng, tự do với tư cách là

một giá trị là sự giải thoát khỏi những ràng buộc của thế giới trần tục để vươn tới

nơi sâu thẳm. Thực chất, quan điểm này là sự đánh tráo tự do, thủ tiêu tự do hiện

thực, biện minh cho tự do ảo tượng, của sự không có tự do. Chủ nghĩa thầy tu

khổ hạnh là minh chứng rõ rệt của quan niệm “phụng sự Chúa quên thân mình”

và đề cao tự do tâm linh, vượt qua mọi cám dỗ tội lỗi trong tôn giáo.

J.J.Rousseau đã nêu lên tình trạng phổ biến của sự mất tự do: “Người ta sinh ra

tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích” [119; tr.52].

Vào thế kỷ XIV - XV, ở Italia diễn ra cuộc đấu tranh vì tự do đầu tiên của

những người ủng hộ các thành bang độc lập trong cuộc chiến chống Giáo hội và

Hoàng đế La Mã Thần thánh. Đầu thế kỷ XIX, Các tác giả bản Hiến pháp La

Pepa năm 1812 của Tây Ban Nha được coi là những người đầu tiên sử dụng

thuật ngữ “liberal” trong ngữ cảnh chính trị với vai trò một danh từ. Họ tự đặt

cho mình tên gọi là “Liberales” để bày tỏ thái độ chống đối lại quyền lực tuyệt

đối của nhà vua trong nền quân chủ Tây Ban Nha. Những sự kiện trên như một

bước ngoặt cho sự hình thành một hệ thống triết học về tự do (liberalism - chủ

nghĩa tự do). Chủ nghĩa tự do bắt nguồn từ thế kỷ XVII ở Anh quốc, sau đó phát

triển mạnh mẽ trên thế giới trong thế kỷ XIX – XX với nhiều hình thức khác

nhau. Những người đặt nền móng cho khuynh hướng này, tiêu biểu có John

Locke, Jean Jacques Rousseau, Thomas Jefferson… Trong tác phẩm “Khảo

luận thứ hai về chính quyền - Chính quyền dân sự”, J.Locke đã phát triển lý

thuyết về các quyền tự nhiên bất khả xâm phạm, tuyệt đối của cá nhân (không

thể có một thỏa ước nhà nước nào có thể xóa bỏ), về những quyền nguyên thủy

của mỗi con người không thể nhượng bán, đổi chác được, về tư tưởng phát triển

tự do cho nhân cách cá nhân không có sự bắt buộc và rập mẫu, về đòi hỏi phải

75

phân chia quyền lực nhà nước để tránh mọi lạm dụng thế lực đơn phương đã

mọc rễ ở châu Âu. Với những quan điểm trên, John Locke xứng đáng trở thành

“bậc thầy” triết học phương Tây về tự do.

Cũng trong tinh thần ấy, J.J.Rousseau luận bàn tự do trong “Bàn về khế ước

xã hội”. Trong tác phẩm, J.J.Rousseau nêu định nghĩa rất đẹp về tự do “Tự do là

bản chất của con người mà có. Luật đầu tiên của tự do là mỗi người phải được

chăm lo sự tồn tại của mình. Những điều quan tâm đầu tiên là quan tâm đến bản

thân. Ở tuổi lý trí, con người phải tự mình định đoạt các phương tiện của mình và

do đó tự mình làm chủ lấy mình” [119, tr.53]. Có thể thấy J.J.Rousseau đặc biệt

đề cao tự do, coi đó là một quyền tự nhiên bất khả xâm phạm, là không gian vốn

có của con người. Do đó, nhà nước dân chủ chỉ là kết quả của sự nhượng bớt một

phần tự do của cá nhân cho Chính phủ để nhà nước có thể điều hành xã hội “Với

khế ước xã hội, con người mất đi cái tự do thiên nhiên và cái quyền hạn chế

được làm những điều mình muốn làm mà làm được, nhưng mặt khác, con người

lại thu được quyền tự do dân sự và quyền sở hữu những cái mà anh ta có” [119,

tr.73-74]. Nhìn từ quan hệ xã hội, Rousseau coi tự do như là yếu tố quy định

quan hệ giữa công dân với nhà nước, giữa con người với con người trong xã hội

“làm theo kích thích dục vọng của mình là nô lệ, mà tuân theo các quy tắc của

mình đặt ra lại là tự do” [119, tr.74].

Vốn là sản phẩm của cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến chuyên chế

của giai cấp tư sản phương Tây, khi còn là giai cấp tiến bộ của lịch sử, chủ nghĩa

tự do lấy cơ sở là quyền tự nhiên của con người và sự xuất hiện của Nhà nước.

Thuật ngữ “quyền tự nhiên” - dựa trên một trật tự chung - trao những quyền đó

cho tất cả mọi người. Những quan điểm triết học này là cơ sở lý luận cho cuộc

cách mạng tư sản Pháp và Anh, cuộc đấu tranh giành độc lập của Mỹ. Điều luật

quyền lợi của Anh năm 1689, Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776, Tuyên

ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 là sự khẳng định tinh thần cơ

76

bản của chủ nghĩa tự do bằng luật pháp và cương lĩnh chính trị. Trong thời kỳ

này, phạm trù tự do có những nội dung cơ bản: quyền tự do, tài sản và tính

mạng… là những quyền tự nhiên của con người, là những quyền “bất khả xâm

phạm”, “không thể chuyển nhượng”, không thể chiếm đoạt. Vì mục đích bảo vệ

các quyền trên nên con người mới thông qua chế định khế ước xã hội để lập ra

nhà nước, chính phủ. Trong trường hợp chính phủ xâm phạm đến quyền tự do,

tính mạng và tài sản của cá nhân, thì con người có quyền lật đổ chế độ thống trị

đó, xây dựng một chính phủ mới để bảo vệ lợi ích cho mình.

Những quan điểm trên là tiền đề lý luận trực tiếp hình thành triết học John

Stuart Mill về tự do. Ngay trong Lời mở đầu của tác phẩm “Bàn về tự do”, ông

khẳng định: “Đề tài của luận văn này không phải là điều được gọi là Tự do của Ý

chí, không may bị đối lập với học thuyết có cái tên gọi không đúng là sự Tất yếu

Triết học, mà là Tự do Dân sự hay là Tự do Xã hội: tức là bản chất và các giới

hạn của quyền lực mà xã hội có thể thực thi một cách chính đáng đối với cá

nhân” [69; tr.19]. J.S.Mill nhận định vấn đề này ít khi được nêu ra và hầu như

chưa bao giờ được thảo luận một cách tổng thể nhưng sự hiện diện vô hình của

nó lại ảnh hưởng sâu sắc đến các mâu thuẫn của thời đại. Như vậy, tự do ở đây

không phải là tự do chung chung, trừu tượng mà là quyền tự do có thật của con

người trong đời sống. Với cách tiếp cận đó, J.S.Mill không chỉ kế thừa tư tưởng

của những bậc tiền bối, mà còn phát triển quan điểm về tự do trong bối cảnh lịch

sử mới. Tự do mà J.S.Mill đề cập đến là các quyền tự do của con người trong xã

hội có giai cấp đối kháng. Trong xã hội đó, xuất hiện mối quan hệ mới – quan hệ

giữa nhà nước và công dân. Để giải quyết mối quan hệ này cần phải xác định

ranh giới quyền hạn của nhà nước đối với công dân. Không có xã hội tự do, nếu

trong xã hội đó các quyền tự do không được tôn trọng về toàn thể, bất kể hình

thức cai trị này là gì. Một xã hội cũng không hoàn toàn là tự do, nếu các quyền tự

do không tồn tại một cách tuyệt đối và vô điều kiện.

77

2.2. Quan điểm của J.S.Mill về các quyền tự do dân sự (quyền tự

do cá nhân)

2.2.1. Tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt

Tự do báo chí, tự do ngôn luận và tự do ý kiến là những nội dung cơ bản của

quyền tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt. Theo J.S.Mill, cơ sở cho sự

tồn tại tự do báo chí, tự do ý kiến của cá nhân trong đời sống xã hội chính là tính

hữu ích của chúng đối với hạnh phúc của mỗi cá nhân và sự tiến bộ xã hội.

Trước hết, quyền tự do ý kiến là quyền tự do tuyệt đối bất khả xâm phạm.

Quyền tự do ý kiến mà J.S.Mill đề cập đến không chỉ bao gồm tự do tư

tưởng mà còn bao gồm quyền tự do phổ biến tư tưởng cho người khác biết (tự do

quan điểm và biểu đạt). J.S.Mill cho rằng tự do ý kiến phải được bảo đảm tuyệt

đối. Xã hội không thể xâm phạm đến quyền tự do này bởi đây là tiền đề cần thiết

để đối diện với sự thật: Một tư tưởng đúng mà bị cấm đoán thì xã hội không có

cơ hội tiếp cận sự thật. Trong khi đó, một tư tưởng sai mà bị cấm đoán thì nhân

loại mất đi cơ hội nhận thức được chân giá trị của sự thật vốn đến từ sự xung đột

từ các tư tưởng giữa cái chân và cái ngụy; khi đó, cái chân sẽ trở nên sống động

hơn. Như vậy, trong tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt điều tệ nhất

không phải là xuất hiện ý kiến đối lập, không phải là sự đụng độ gay gắt giữa các

bộ phận chân lý “mà chính là sự lặng lẽ dập tắt một nửa chân lý mới là điều xấu

xa kinh khủng” [69, tr.122] vì nó không làm chân lý được bổ khuyết. Nhận thức

của mỗi cá nhân và xã hội trong một giai đoạn lịch sử là hữu hạn, do đó trong

hoạt động tư duy của con người không phải bao giờ cũng đạt được chân lý ngay

và thường vậy ý kiến chỉ chứa đựng một phần chân lý chứ không phải toàn bộ

chân lý. Với tính chất như vậy, tự do tư ưởng, tự do quan điểm và biểu đạt là cần

thiết và được triển khai trên thực tiễn nhằm xây dựng được chân lý toàn vẹn

phục vụ cho cuộc sống và sự tiến bộ loài người. Trong lịch sử đã từng tồn tại

78

hiện tượng có những chân lý bị chôn vùi vì xã hội không chấp nhận các ý kiến

tương phản với tư tưởng và phép tắc hiện hành. Chân lý phải được thử thách bởi

các ý kiến đối lập, qua đó mà giá trị của chân lý mới được khẳng định vững chắc

hơn. Vì những ý nghĩa đó, xã hội phải bảo đảm quyền tự do tư tưởng, tự do quan

điểm và biểu đạt khuyến khích mọi người suy nghĩ một cách tự do và sáng tạo để

giúp cho xã hội được tiến bộ.

Tự do tư tưởng và tự do quan điểm và biểu đạt không chỉ giúp nhân loại

nhận thức được chân lý mà còn là liều thuốc duy trì sự sống cho các học thuyết.

J.S.Mill cho rằng ý nghĩa của học thuyết có nguy cơ bị lãng quên hoặc chết

cứng, khô khan, mang tính giáo điều, hình thức khi không được tự do tư tưởng,

tự do biểu đạt “thay vì phải luôn luôn ở trong trạng thái cảnh giác như trước đây

để bảo vệ mình chống lại cả thế giới… kể từ lúc đó bắt đầu suy thoái đối với

sức mạnh sống động của học thuyết” [69, tr.97]. Với lập luận đó, J.S.Mill muốn

các học thuyết đó phải được đưa ra thảo luận một cách tự do để đem lại “sức

sống” và ngày càng làm cho chúng phát triển. J.S.Mill cho rằng tự do tư tưởng

là con đường duy nhất để tạo ra các bậc minh triết, những nhà tư tưởng lỗi lạc

của thời đại. “Không ai có thể trở thành nhà tư tưởng lớn nếu không thừa nhận

rằng, với tư cách một nhà tư tưởng, nghĩa vụ trước hết của anh ta là đi theo trí

tuệ của mình tới bất cứ kết luận nào mà trí tuệ dẫn đến” [69; tr.84]. Không

thành kiến trong tư tưởng cũng là một con đường dẫn đến sự thông thái và sự

phát triển của cá nhân. Từ tinh thần chấp nhận sự phản biện, John Stuat Mill

khẳng định mọi lý thuyết đều cần được liên tục phê phán để có thể thay thế

chúng bằng lý thuyết có cơ sở tốt hơn.

Tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt còn là điều kiện để con người

phát triển.

Tự do trong quá trình hình thành ý kiến còn giúp cho mỗi cá nhân bộc lộ

tính cách của riêng mình để đạt được sự phát triển đầy đủ về tính cách, phù hợp

79

với khả năng của họ. Do đó, J.S.Mill khẳng định rằng, các quyền tự do trong tư

tưởng và biểu đạt là “cần thiết và thậm chí còn là điều không thể thiếu được, để

cho những người bình thường có thể đạt được sự phát triển đầy đủ về tính cách,

phù hợp với khả năng của họ” [69; tr.85]. Vậy, điều kiện nào để cho mỗi cá nhân

có thể thực hiện được quyền tự do tư tưởng, tư do quan điêm và biểu đạt? Theo

J.S.Mill, đó chính là “cái ách của quyền uy” phải được nới lỏng. Hay nói cách

khác, cần phải có một không gian cho tự do cá nhân để có thể làm mất đi những

e sợ đối với sự suy luận phi chính thống. J.S.Mill lập luận rằng, có thể trong bầu

không khí chung của tình cảnh nô lệ vẫn có những nhà tư tưởng lớn riêng lẻ,

nhưng “chưa bao giờ và cũng sẽ không bao giờ có được một dân chúng tích cực

về trí tuệ trong một bầu không khí như thế” [69; tr.85]. Từ vấn đề tự do tư tưởng,

tự do quan điểm và biểu đạt của mỗi cá nhân, J.S.Mill dẫn dắt sang vấn đề chính

trị của xã hội. Ngay cả đời sống chính trị cũng cần đến tự do bày tỏ quan điểm.

“Trong chính trị có phe trật tự hay ổn định và phe tiến bộ hay cải cách... thì cả

hai đều là những phần tử cần thiết cho một thể trạng lành mạnh của đời sống

chính trị” [69; tr.112-113]. J.S.Mill lý giải rằng, kiểu cách suy nghĩ của mỗi phe

đều dẫn xuất tính hữu ích nhất định từ sự thiếu sót của phe kia. Thế nên, nếu các

ý kiến giữa hai bên, như dân chủ và quý tộc, tư hữu và bình đẳng, hợp tác và

cạnh tranh, xã hội và cá nhân… không được bày tỏ với sự tự do ngang bằng, thì

sẽ không có cơ hội cho hai bên thể hiện được chức năng của mình. Dưới thế kỷ

XIX, Anh quốc tiến hành những cải cách nghị viện đầy biến động, tuy nhiên

cách nhìn về thực tiễn chính trị của J.S.Mill mang tính dung hòa, khoan dung

thật hiếm thấy.

Tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt là khả năng tự vệ hiệu quả

chống lại sự độc đoán

J.S.Mill cho rằng bất kỳ lý thuyết nào, dù là vững chắc vẫn có thể là sai. Vì

thế, thông qua tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt, có thể tìm hiểu và

kiểm chứng được tính đúng - sai của một học thuyết, rồi từ đó bộc lộ những ý

80

kiến riêng của bản thân. Trong tác phẩm “Bàn về tự do”, J.S.Mill khẳng định

“Chúng ta không bao giờ chắc chắn được rằng cái ý kiến mà chúng ta đang cố

dập tắt là ý kiến sai lầm; ngay nếu như chúng ta tin chắc đi nữa thì việc dập tắt nó

đi vẫn là một điều xấu xa. Thứ nhất; cái ý kiến đang bị quyền uy cố dập tắt đi đó

có thể là đúng. Tất nhiên, những người muốn dập tắt đi đó có thể là đúng. Tất

nhiên, những người muốn dập tắt nó phủ nhận sự thật này nhưng họ đâu phải là

thần thánh mà không thể sai bao giờ. Họ không có thẩm quyền quyết định vấn đề

cho toàn nhân loại và tước đi phương tiện xét đoán của bất cứ người nào. Khước

từ lắng nghe một ý kiến bởi vì họ tin chắc ý kiến đó là sai lầm, có nghĩa là coi sự

tin chắc của họ chắc chắn là tuyệt đối” [69; tr.50-51].

Với J.S.Mill, việc mở rộng tự do tư tưởng và tự do quan điểm và biểu đạt

trở nên vô cùng cần thiết và không thể để bị hạn chế để con người đạt được chân

lý trong cuộc sống, phục vụ cho cuộc sống hạnh phúc và sự tiến bộ chung của xã

hội. Đặc biệt, J.S.Mill đề cao những cuộc thảo luận chính trị sẽ giúp cho dân

chúng quan tâm, hiểu biết và tham gia vào các hoạt động của chính quyền.

Không chỉ vậy, ông còn cho rằng việc mọi người khước từ lắng nghe một ý kiến

thì như thế được xem là sự “bịt miệng trong thảo luận” [69; tr.51]. Theo J.S.Mill,

sự “bịt miệng” như vậy xâm phạm đến quyền tự do cá nhân, vì không ai có

quyền quyết định vấn đề cho toàn nhân loại và tước đi phương tiện xét đoán của

bất cứ người nào. Nếu một ý kiến là đúng hoặc có thể đúng “bị buộc phải câm

nín” thì điều đó hiển nhiên là vi phạm quyền tự do tư tưởng. Thậm chí, nếu ý

kiến “bị buộc phải câm nín” là sai lầm thì nó vẫn có thể chứa đựng một phần

chân lý nhất định. Vì thế, lẽ cố nhiên rằng, quyền tự do tư tưởng là rất cần thiết

và không nên bị giới hạn.

Tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt còn hàm chứa trong nó sự

khoan dung những ý kiến dị biệt để chấp nhận sự phản biện.

J.S.Mill chủ trương rằng con người có thể sai lầm, do vậy cần tự do tư

tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt để khắc phục tính sai lầm phổ biến trong quá

81

trình tư duy. Nhận thức của con người là một quá trình đi từ chưa biết đến biết,

từ biết sai đến biết đúng, từ biết ít đến biết nhiều, từ chưa hoàn thiện đến hoàn

thiện hơn. J.S.Mill cho rằng cơ sở để hình thành chân lý “không phải là sức

mạnh khả năng hiểu biết bẩm sinh của con người” [69; tr.55] mà chính là phẩm

chất biết sửa sai lầm [69; tr.56]. Theo J.S.Mill, phẩm chất biết sửa sai lầm của

con người được thực hiện thông qua tranh luận và trải nghiệm. Để đảm bảo mỗi

cá nhân được tự do ngôn luận, J.S.Mill cho rằng điều quan trọng đó chính là thái

độ chừng mực, không vượt qua giới hạn của thảo luận công bằng. John Stuat

Mill đưa ra những nguyên tắc trong tranh luận: Thứ nhất, trong quá trình thảo

luận, các chủ thể đưa ra ý kiến tranh biện không được rối rắm, dập đi các sự kiện,

hay các chứng cứ, lý lẽ. Thứ hai, trong quá trình tranh luận, trường hợp các ý

kiến xung đột với nhau chỉ có thể được lắng nghe bằng ngôn từ cân nhắc, chừng

mực và hết sức thận trọng. Đặc biệt, các chủ thể khi tranh luận tránh gây xúc

phạm không cần thiết; đây chính là nguyên tắc thứ ba mà J.S.Mill đề ra. Ông cho

rằng chủ thể của các ý kiến xung đột nhau phải kiềm chế sử dụng ngôn ngữ thóa

mạ nhau. Nguyên tắc cuối cùng “cần phải lên án bất cứ ai, bất kể anh ta đứng vào

phía nào, bất kể tranh biện nào hoặc là thiếu trung thực, hoặc là thâm hiểm,

cuồng tín, hoặc là không khoan dung trong biểu hiện cảm xúc; không nên quy

kết võ đoán các thói hư tật xấu ấy cho một phía cá nhân nào, dù là phía đối

nghịch của chúng ta trong vấn đề thảo luận, và cần phải biết tôn vinh bất cứ ai,

bất kể người đó giữ ý kiến nào, nếu người đó có thái độ xem xét điềm tĩnh, trung

thực trong việc xác định những người phản bác là ai và ý kiến của họ là gì mà

không thổi phồng bất cứ điều gì bôi xấu họ, không giấu diếm bất cứ nội dung

nào có lợi cho họ” [69; tr.126]. Điều trên cho thấy, J.S.Mill đã đưa ra những

nguyên tắc cơ bản trong quá trình tranh luận, thể hiện quyền tự do ngôn luận, đó

là sự tôn trọng, sự khoan dung đối với những ý kiến dị biệt, để chấp nhận sự

phản biện. Hay nói cách khác, chúng ta nên tôn trọng những nét dị biệt và đa

dạng, tìm kiếm sự chung sống hòa hợp thông qua giao lưu với người khác để đáp

82

ứng sự quan tâm và những lợi ích chung của con người. Cả hai phía trong quá

trình tranh luận đều phải truyền đạt những nhân tố hợp lý, có ích của bên kia vào

bối cảnh của mình, sửa đổi và phát huy chúng, làm cho chúng trở nên hữu ích

đối với sự phát triển chung. Với những nguyên tắc trên, có thể khẳng định

J.S.Mill là người đã đặt nền tảng ban đầu về những giải pháp trong quá trình giao tiếp liên văn hóa trong bối cảnh toàn cầu mà Ludwig Wittgenstein34 đã đưa ra.

Tóm lại, J.S.Mill đã luận chứng một cách cụ thể về quyền tự do tư tưởng, tự

do quan điểm và biểu đạt là cần thiết cho mỗi cá nhân và xã hội. J.S.Mill cho

rằng tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt là những quyền bất khả xâm

phạm của mỗi người. Điều đó xuất phát từ việc con người có thể mắc sai lầm

trong tư duy, nhận thức. Vì thế con người cần những quyền này để khắc phục sai

lầm đó. Tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt có ý nghĩa quan trọng trong

quá trình hình thành chân lý. Không chỉ vậy, J.S.Mill còn cho rằng các chân lý

hay các quan điểm dù đúng, trong mọi trường hợp tự do tư tưởng, tự do quan

điểm và biểu đạt đều có lợi, chứ không có hại. Bên cạnh đó, nó còn hàm chứa sự

khoan dung đối với những ý kiến dị biệt, để chấp nhận sự phản biện. Với mỗi cá

nhân, tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt là khả năng tự vệ hiệu quả

chống lại sự độc đoán của công luận, giúp cá nhân có điều kiện phát triển và xã

hội tiến bộ.

2.2.2. Tự do tín ngưỡng và tôn giáo

Về tín ngưỡng và tôn giáo, J.S.Mill cho rằng “các học thuyết và tín ngưỡng

đều chứa đầy ý nghĩa và sức sống đối với những người khai sáng và những môn

đồ trực tiếp của họ… Học thuyết đã dành được một chỗ đứng… sự cải biến học

thuyết này thành học thuyết khác trở thành ngoại lệ hiếm hoi và ít được những

người thuyết giảng để tâm đến… Họ đã hạ thấp xuống mức chịu mặc nhận. Họ

chẳng buồn lắng nghe các luận cứ chống lại tín ngưỡng của họ khi họ có thể bác

lại, cũng chẳng buồn gây sự với những kẻ bất đồng (nếu có) bằng các luận cứ

83

bênh vực tín ngưỡng” [69; tr.96-97]. Như vậy, theo J.S.Mill, một tôn giáo, tín

ngưỡng dần mất đi sức sống và những giá trị của nó là do các tín đồ đã mặc

nhiên thừa nhận sự đúng đắn tuyệt đối của tôn giáo, không có tinh thần đấu tranh

bảo vệ tín ngưỡng, tôn giáo. J.S.Mill cho rằng đó là một sai lầm lớn. Ông khẳng

định trong giáo lý của Kitô giáo không chứa đựng “các quy tắc đầy đủ, trọn vẹn

hướng dẫn chúng ta”, “hệ thống Kitô giáo không phải là một ngoại lệ của quy

luật sau: trong tình trạng không hoàn hảo của trí tuệ con người thì sự đa dạng ý

kiến là phục vụ cho lợi ích của chân lý” [69; tr.120]. Từ những lý luận trên,

J.S.Mill kết luận rằng: con người cần tự do tôn giáo, không chỉ ở việc lựa chọn

theo hay không theo một tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn được tự do quan điểm và

biểu đạt những giáo lý của tôn giáo. Điều đó làm cho các giáo lý tôn giáo có

nhiều giá trị nhân văn và sức hấp dẫn với các tín đồ hơn.

Trong quá trình tồn tại, tín ngưỡng, tôn giáo muốn giữ được giá trị với con

người, phục vụ cho sự phát triển của xã hội, J.S.Mill cho rằng không có một con

đường nào khác là phải luôn đổi mới. Sự đổi mới đó chỉ có thể là kết quả tất yếu

của tự do tư tưởng, tư do quan điểm và biểu đạt.

2.2.3. Tự do sở thích, tự do đặt kế hoạch cho cuộc sống

Trước tiên, tự do sở thích và tự do đặt kế hoạch cho cuộc sống là yếu tố,

phẩm chất riêng có của con người, để con người khẳng định mình là một cá

nhân độc đáo

Con người không phải là những bản sao giống nhau, sống những cuộc đời

như nhau. J.S.Mill lập luận, một người để cho người khác chọn lựa kế hoạch

sống thay mình, thì người đó không cần có năng lực nào khác hơn năng lực bắt

chước của giống khỉ. Bằng cách tự do lựa chọn, thiết kế cuộc sống của bản thân,

con người khẳng định mình là một cá nhân độc đáo. Khi đó, tự do là yếu tố, là

phẩm chất để phân định con người với con vật “nếu người nào đó để cho thế giới,

hay một bộ phận thế giới của anh ta, chọn lựa kế hoạch sống cho anh ta, thì

84

người đó không cần năng lực nào khác hơn là năng lực bắt chước của giống khỉ”

[69; tr.136].

Đối với J.S.Mill, điều chính yếu phân biệt con người với con vật không chỉ

vì con người biết tư duy, biết phát minh ra công cụ lao động, mà còn vì con

người là một sinh vật có khả năng lựa chọn. Con người thể hiện mình rõ nhất

thông qua việc chọn lựa và không chọn lựa. Hệ quả kéo theo của việc chọn lựa

chính là: các phương án càng đa dạng thì cuộc sống của cá nhân càng trở nên

phong phú; sự giao lưu giữa các cá nhân càng rộng thì cơ hội cho cái mới và điều

bất ngờ càng lớn hơn; khả năng thích ứng bản thân trong những điều kiện mới lạ

càng linh hoạt thì những con đường mở ra đối với mỗi cá nhân càng nhiều hơn.

Đó chính là khi cá nhân hướng đến sự tự do trong hành động và trong tư tưởng.

Thế nên, được tự do sắp đặt cuộc sống của bản thân chính là khi mỗi con người

vươn mình lên, tiến gần đến chân - thiện - mỹ.

Trên cơ sở luận điểm của Winhelm Von Humboldt về những điều kiện cần

thiết cho sự phát triển con người đó là “sự tự do và tính đa dạng của các tình

huống” [69; tr.165] để biện giải cho tự do sở thích, tự do đặt kế hoạch cho cuộc

sống. J.S.Mill thấy được tính hữu ích của tự do sở thích và lập kế hoạch cuộc

sống theo sở thích của mỗi người. Ông coi đây là thành tố chính đem lại sự tiến

bộ và hạnh phúc chính cho cá nhân. Thật vậy, mỗi cá nhân cho dù ở thời đại nào

cũng chứa đựng những khả năng và tính cách riêng biệt. Hơn thế nữa mỗi cá

nhân là người quan tâm nhất cho an sinh của chính bản thân mình, cho nên

chúng ta không thể giới hạn tự do hình thành sở thích và thực hiện kế hoạch theo

cuộc sống. Hạnh phúc và sự phát triển của mỗi cá nhân không phải là kết quả của

sự bắt chước hay dập khuôn một hình mẫu, một kế hoạch sống đã có hay đang

được triển khai bởi một cá nhân khác trong cộng đồng. Hạnh phúc và sự phát

triển đích thực của mỗi người chính là họ được sống và lên kế hoạch cuộc sống

theo sở thích của chính họ “tự do là sáng tạo chứ không phải là vận động máy

85

móc theo con đường tiến hóa. Sáng tạo của con người là cách tân, là sự loại bỏ

bất kỳ khuôn mẫu có sẵn nào” [69; tr.48]. Ý nghĩa của hạnh phúc không phải ở

chỗ vì bản thân nó là tốt nhất, mà là vì nó là của riêng anh ta; nó thể hiện quyền

làm chủ, quyền tự do của con người – một quyền bất khả xâm phạm. Cho nên,

J.S.Mill khẳng định sự đa dạng trong kiểu cách sống của con người, đã giúp cho

con người không những chia sẻ được hạnh phúc với nhau mà con vươn tới tầm

mắt trí tuệ, đạo đức và thẩm mỹ mà bản chất con người có khả năng đạt được.

Thứ hai, tự do sở thích và tự do lên kế hoạch cho cuộc sống theo sở thích là

động lực cho sự tiến bộ và phát triển xã hội

Luận giải về quyền tự do thích và thiết kế cuộc sống cho bản thân cũng là

thông điệp của J.S.Mill khẳng định tự do đó có lợi cho tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã

hội sẽ bị ngưng trệ khi quyền tự do ấy bị tước đi. J.S.Mill so sánh tiến trình phát

triển của một số quốc gia phương Đông (Trung Quốc) với phương Tây để từ đó

khẳng định cơ sở của tiến bộ và phát triển của xã hội chính là tự do nói chung, tự

do sở thích và tự do lên kế hoạch cho cuộc sống theo sở thích của mỗi cá nhân

nói riêng. J.S.Mill cho rằng, ngay từ thời cổ đại, các quốc gia phương Đông đã

đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Ông nhận định rằng vào các thời kỳ đó, các

quốc gia phương Đông đã đạt được trình độ phát triển cao hơn hẳn các nước

châu Âu. Nhiều quốc gia đã tinh thông nhiều môn nghệ thuật, có chữ viết và

những lâu đài nguy nga, đền chùa tráng lệ thì châu Âu vẫn là những bộ tộc còn

“lang thang trong rừng rậm” [69; tr161]. Có thể thấy rằng vào thời kỳ cổ đại, ở

Phương Đông đã có những quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Vậy mà trong tiến

trình phát triển, châu Âu lại đạt đến trình độ rất cao của văn minh còn các quốc

gia ở phương Đông vẫn đang trong tình trạng trì trệ. Lý giải về vấn đề này,

J.S.Mill cho rằng sự tiến bộ của các quốc gia phương Đông, tiêu biểu là Trung

Quốc đã bị giới hạn bởi tập quán “ở đó, tập quán là tiếng nói cuối cùng” [69;

86

tr.163]. Nghĩa là, trong xã hội đó, các tự do cá nhân bị chèn ép bởi một thế lực vô

hình là tập quán. J.S.Mill nhận định như sau “Chúng ta có được thí dụ cảnh báo

về Trung Hoa – một dân tộc có nhiều tài năng, về nhiều mặt thậm chí là minh

triết, có được vận may hiếm thấy vào thời kỳ sơ khai đã có một tập hợp tập quán

cực kỳ tốt. Tập hợp tập quán ấy là công trình của những người mà ở mức độ nào

đó ngay cả những người châu Âu minh trí nhất, trong những giới hạn nhất định,

cũng phải đồng ý tặng cho danh hiệu hiền minh và triết nhân… Ngược lại họ đã

trở nên tĩnh tại – cứ như thế trong hàng nghìn năm và nếu như có lúc nào họ

được tiến bộ xa hơn thì lại nhờ vào những người ngoại quốc” [69; tr.163]. Vậy

điều gì đã làm cho những quốc gia hùng mạnh đã từng đạt được những thành tựu

rực rỡ trở nên tĩnh tại trong hàng ngàn năm qua? J.S.Mill lý giải rằng trong xã

hội đó, cá tính không được phép tồn tại, mỗi cá nhân đã để cho tập quán chi phối

lối suy nghĩ và cách hành động của họ. Nói cách khác, bản thân họ đã khước từ

sự phát triển của cá tính, phế đi mọi sự dị thường “để tạo ra một dân chúng mà

mọi người đều giống nhau, hướng dẫn tư tưởng và hành vi của mình bằng cùng

một thứ châm ngôn và quy tắc và kết quả tình trạng của họ là như thế” [69;

tr.163-164]. J.S.Mill cho rằng tính chuyên chế của tập quán ở mọi nơi là chướng

ngại thường trực cản trở con người tiến lên. Ông nhận định tập quán chính là

nhân tố “không ngừng đối kháng với xu thế hướng tới cái gì đó tốt đẹp hơn…

vẫn thường được gọi là tinh thần tự do, tinh thần tiến bộ hay tinh thần cầu tiến”

[68; tr.160]. Như vậy, khi nào mà tập quán còn là tiếng nói quyết định cuối cùng;

công lý và quyền năng phải uốn theo tập quán thì ở đó không có sự tiến bộ. Khi

mà sức nặng của tập quán đè nặng lên người dân, không ai dám có ý nghĩ chống

lại những tập quán đó không chỉ làm mất đi tính độc đáo của cá nhân mà cản trở

sự tiến bộ xã hội. Vượt ra khỏi tập quán, không hành động theo những lối mòn

sẵn có chính là nguyên tắc của sự sáng tạo và cội nguồn của sự phát triển.

87

J.S.Mill đã chứng minh vai trò đó của tự do thông qua thực tiễn phát triển của

các quốc gia châu Âu. J.S.Mill cho rằng ở châu Âu, mỗi cá nhân “trong họ chứa

đựng sự đa dạng nổi bật của tính cách và văn hóa. Các cá nhân, các giai cấp, các

dân tộc đều rất khác biệt nhau. Họ bị ném ra vô số những nẻo đường khác nhau,

mỗi nẻo đường dẫn đến một cái gì đó có giá trị” [69; tr.164]. Tuy nhiên, J.S.Mill

cũng cảnh báo châu Âu có thể sẽ trở thành một thực thể tĩnh tại nếu không còn

duy trì sự đa dạng của cá tính. J.S.Mill cho rằng vào thời điểm đó, ở Anh và Pháp

đã xuất hiện tập quán tối ưu và tốt đẹp dành cho tất cả mọi người và họ phát triển

giống nhau trên một khuôn mẫu sẵn có. J.S.Mill viết “Ở nơi nào lề thói ứng xử

không phải là tính cách riêng của con người mà là truyền thống hay thói quen

của người khác thì ở đó thiếu mất một trong các thành tố chính của hạnh phúc

con người, là thành tố rất chủ chốt cho sự tiến bộ của cá nhân và xã hội” [69;

tr.131]. Như vậy, nếu cá tính không được khẳng định để chống lại cái ách của tập

quán thì châu Âu cũng sẽ trở nên trì trệ và đi ngược lại với xu thế phát triển “Trừ

phi cá tính sẽ khẳng định được mình ..., nếu không thì châu Âu cũng sẽ tiến tới

trở thành một Trung Hoa khác, ngay dù cho nó có lai lịch cao quý và có Kitô

giáo được rao giảng” [69; tr.164].

Sự đấu tranh giữa tự do và tập quán là nội dung hấp dẫn trong lịch sử tư

tưởng của nhân loại. J.S.Mill đã có góc độ tiếp cận rất thú vị về vấn đề này.

Ông đã đề cập đến mối quan hệ có tính chất mâu thuẫn giữa tự do và tập quán:

tự do là yếu tố động luôn phát triển; tập quán là yếu tố tĩnh, ít biến đổi. Nếu

như tập quán chiếm ưu thế khiến cho xã hội trở thành một thực thể tĩnh tại.

Ngược lại, nếu giá trị tự do được phổ biến rộng và trở thành giá trị chủ đạo

trong xã hội thì lúc đó trong xã hội chứa nhiều yếu tố xung đột cho sự phát

triển. Tự do là một giá trị sáng tạo ra các giá trị khác cho xã hội, làm cho xã

hội ngày càng tiến bộ hơn.

88

Thứ ba, tự do sở thích và tự do lên kế hoạch là điều kiện để các cá nhân

xuất sắc thực hiện những ý tưởng của mình qua đó có những đóng góp lớn cho

tiến bộ xã hội

J.S.Mill nhấn mạnh quyền tự do cá nhân “có khả năng đốt lên ngọn lửa

hứng khởi trong điều kiện tinh thần dân chúng được thức tỉnh, và xung động

được tạo nên có thể đưa trí tuệ của ngay cả những người bình thường nhất lên

tầm cao hướng tới phẩm giá của những hữu thể có suy nghĩ” [69; tr.85]. J.S.Mill

lấy dẫn chứng về một số thời kỳ rạng rỡ trong lịch sử, trong đó có giai đoạn lịch

sử triết học Đức từ cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Ông gọi đó là “cuộc gây

men trí tuệ” gắn với những tên tuổi như Goethe, Fichte, Kant, Hegel, Feuerbach.

Đây là thời kỳ rạng danh của triết học cổ điển Đức.

Trên cơ sở đó, J.S.Mill như ưu ái và khuyến khích một cách đặc biệt đối với

những cá nhân xuất sắc, những thiên tài. Năm 1832, J.S.Mill đã có một bài viết

với tựa “Bàn về thiên tài” đăng trên tạp chí Monthly Repository. Ông quan niệm

rằng, thiên tài không chỉ là người có tư tưởng thông tuệ hoặc kiến tạo ra những

phát minh, mà còn là người hoàn toàn tự do về ý chí cũng như độc lập trong tư

tưởng. J.S.Mill viết: “Bất cứ người nào, trong giới hạn cơ hội của bản thân, đạt

được sự khẳng định bằng chính khả năng của bản thân, chứ không phải nhờ cậy

vào người khác. Và một người như thế, tương xứng với những kết luận của

người đó đem lại một phần chân lý, là một nhà tư tưởng đúng nghĩa; và ở mức tối

đa, là một con người thiên tài” [114; tr.62]. Tư tưởng đó tiếp tục được J.S.Mill

đề cập trong tác phẩm “Bàn về tự do”. Ông viết “Tôi đặc biệt nhấn mạnh tầm

quan trọng của các thiên tài và sự cần thiết phải cho phép họ được bộc lộ tự bản

thân mình, cả về phương diện tư tưởng lẫn thực hành, trong khi tôi ý thức rõ ràng

rằng sẽ không ai phủ định lập trường này trên lý thuyết, nhưng đồng thời tôi

cũng biết rằng trên thực tế hầu như bất cứ ai cũng hoàn toàn dửng dung với

những chuyện này” [69; tr.149]. Thiên tài, theo quan điểm của J.S.Mill, là cá

89

nhân độc đáo nhất trong những cá nhân độc đáo, là người có cá tính đặc biệt.

Nhiệm vụ của họ là tiếp nối và liên tục tái tạo lại tính độc đáo cho cuộc sống toàn

xã hội. Như thế, thiên tài là một thiểu số nhỏ bé, ít ỏi như muối của trái đất,

“không có họ thì cuộc sống của con người có thể trở thành một vũng nước tù.

Không phải chỉ là chuyện họ mang lại những gì tốt đẹp mới mẻ trước kia chưa có,

mà còn là chuyện họ duy trì cuộc sống này trên những gì tốt lành đang có” [69;

tr.147-148]. Đồng thời, ông cho rằng “phải chăm lo đất trồng để các thiên tài từ

đất ấy lớn lên tươi tốt. Thiên tài chỉ có thể tự do hít thở trong một bầu không khí

của tự do” [69; tr.148]. Theo J.S.Mill, cần phải có môi trường tự do để những

thiên tài xuất hiện và để họ triển khai những kế hoạch để tìm ra những điều tốt

nhất cho bản thân và cho cộng đồng cho quá trình phát triển. Mặc dù J.S.Mill đặc

biệt đề cao vai trò của thiên tài; tuy nhiên ông “không ủng hộ kiểu sùng bái anh

hùng, cổ vũ cho người hùng thiên tài đoạt quyền cai trị thế giới, bắt thế giới tuân

theo mệnh lệnh của hắn bất kể là mệnh lệnh gì. Tất cả những gì hắn có thể đòi

hỏi, ấy là quyền tự do chỉ ra con đường. Cái quyền lực bắt ép người khác đi con

đường ấy, không những là mâu thuẫn với quyền tự do và sự phát triển của người

khác, mà còn tha hóa bản thân người hùng đó” [69; tr.152-153]. J.S.Mill cho

rằng những cống hiến của thiên tài cho xã hội chính là ở hành động của họ - hành

động dám phá bỏ những khuôn mẫu, lối mòn mà tìm ra sự sáng tạo cho sự phát

triển. Trên cơ sở đề cao cá nhân thiên tài, J.S.Mill bày tỏ nỗ lực xây dựng một

tầng lớp trí thức ưu tú, mà ông gọi là “clerisy”. Quan điểm này của J.S.Mill chịu sự ảnh hưởng từ ý tưởng của Samuel Taylor Coleridge35 trong tác phẩm “Bàn về

sự thành lập nhà thờ và nhà nước” (On the Constitution of the Church and State).

Samuel Taylor Coleridge ủng hộ nhà thờ chính thống (national church) được

bảo trợ về tài chính dựa trên cơ sở rằng nó cung cấp một tầng lớp trí thức, một

thế hệ những người có học vấn uyên bác. Là một người kính trọng Samuel

Taylor Coleridge, J.S.Mill đánh giá cao quan điểm này của nhà thơ lãng mạn

90

Anh. Từ đó, J.S.Mill nỗ lực xây dựng một tầng lớp trí thức ưu tú, một tầng lớp

được ông gọi là tinh hoa của xã hội. Vai trò của tầng lớp này không phải là ngăn

lại xu hướng của tiến trình phát triển, mà là định hướng cho nó.

Tóm lại, tự do sở thích và lên kế hoạch cho cuộc sống không những là cơ sở

để xây dựng hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn là động lực cho sự tiến bộ và

phát triển xã hội. Hạnh phúc cá nhân và sự tiến bộ xã hội chỉ đạt được khi trong

xã hội tự do được phát triển, mọi người được sống trong bầu không khí của tự do.

Ngược lại với sự tự do là khuôn mẫu của tập quán. Những khuôn mẫu làm cho cá

nhân bị thui chột và xã hội chỉ là một thực thể tĩnh tại hàng trăm năm. Vì vậy, sự

phát triển tự do nói chung và tự do sở thích, lên kế hoạch cho cuộc sống theo sở

thích nói riêng là tất yếu cần thiết và cần được ngày càng mở rộng.

2.2.4. Quyền tự do của cá nhân trong mối quan hệ với xã hội

Về phạm vi và ranh giới của quyền tự do của cá nhân trong mối quan hệ

giữa cá nhân và xã hội được J.S.Mill đặc biệt chú ý và luận giải. Ông cho rằng

đặc trưng nổi bật trong phần lớn lịch sử loài người là những cuộc đấu tranh giữa

tự do và quyền lực. Quyền uy của kẻ cai trị được xem là cần thiết nhưng cũng

nguy hiểm, bởi kẻ ấy có thể dùng nó như vũ khí chống lại dân chúng, như chống

lại kẻ thù bên ngoài. Vì vậy, việc thiết lập giới hạn với quyền uy của người cầm

quyền đại diện cho chính phủ, của xã hội là cần thiết, nhất là khi thực thi quyền

lực với cộng đồng. J.S.Mill coi đây là cơ sở để xác định tính đúng đắn quyền tự

do. Đời sống của con người trong cộng đồng thì con người dành bao nhiêu cho

bản thân và bao nhiêu cho xã hội? Quyền uy của xã hội được bắt đầu từ chỗ nào

và giới hạn ra sao với cá nhân? J.S.Mill đã chỉ ra mối quan hệ giữa cá nhân và

xã hội là mối quan hệ tất yếu mang tính hai chiều “bất cứ ai nhận được sự bảo hộ

của xã hội cũng có bổn phận hoàn trả lợi ích trở lại… mỗi người bị ràng buộc

tuân thủ theo một đường hướng cư xử đối với những người khác” [69; tr.71],

91

tuân thủ theo những nguyên tắc chung của xã hội. Những nguyên tắc đó là

nguyên tắc tự do, nguyên tắc tổn hại và nguyên tắc vị lợi.

Về nguyên tắc tự do, J.S.Mill cho rằng đây là nguyên tắc cần thiết để tự do

cá nhân hài hòa với xã hội. Trong tác phẩm “Bàn về tự do”, J.S.Mill có xác định

“nguyên lý tôi khẳng định là nghiêm chỉnh và có ý nghĩa thực tiễn thời sự… Một

trong những xu hướng phổ quát nhất của con người là mở rộng phạm vi của thứ

có thể gọi là cảnh sát đạo đức cho tới khi nó động chạm đến quyền tự do chính

đáng rõ ràng của cá nhân” [69; tr.191].

Để tìm ra một địa phận cho tự do cá nhân, J.S.Mill đã chỉ ra những ranh

giới mà xã hội không được phép can thiệp đến cá nhân. Để thực hiện điều đó,

J.S.Mill đã phân tách đời sống cá nhân và những hành vi của cá nhân. Về đời

sống cá nhân, ông phân tách thành phần đời sống của riêng bản thân (self -

regarding) và phần liên quan đến những người khác (other - regarding). Về hành

vi của cá nhân, J.S.Mill xác định những hành vi ảnh hưởng đến bản thân (affect

oneself) và những hành vi ảnh hưởng đến người khác (affect others) [127].

J.S.Mill cho rằng ranh giới giữa sự kiểm soát xã hội và sự tự do của cá nhân

được định ra dựa trên tính chất của hành vi ở mỗi cá nhân. Hành vi cư xử của

một người chỉ liên quan đến bản thân mình, nhưng lại ảnh hưởng đến người khác

thì không được xếp vào loại riêng tư. Ở đây, J.S.Mill hướng đến bênh vực những

hành vi chỉ liên quan đến bản thân mỗi người (concern oneself) nhưng không

ảnh hưởng đến quyền lợi của người khác (not affect others). Ông gọi quyền tự

do trong cái phần cư xử chỉ liên quan đến cá nhân và không ảnh hưởng đến

người khác là nghĩa vụ đối với bản thân (duty to oneself). Nghĩa vụ đó không

mang tính bắt buộc xã hội [114; tr.66-67]. Đây được xem là một trong những lý

luận J.S.Mill phát triển xa hơn bất kỳ nhà triết học nào trước đó

Về nguyên tắc tổn hại: J.S.Mill cho rằng cơ sở để quyền uy xã hội tồn tại và

phát huy vai trò của nó chính là giá trị đối trọng của quyền uy của xã hội đối với

92

những hành vi của một cá nhân có nguy cơ gây tổn hại cho xã hội. Khi trong xã

hội vẫn còn tồn tại những hành vi toan tính gây điều xấu, làm phương hại đến lợi

ích của người khác và của cộng đồng thì hành vi đó cần được giới hạn bởi xã hội

“trường hợp đó phải đưa ra khỏi địa phận quyền tự do và đặt vào địa phận của

đạo đức hay pháp luật” [69; tr.185]. Vậy hành vi nào là cần được giới hạn bởi xã

hội? Theo J.S.Mill, đó là những hành vi có thể gây tổn hại cho người khác không

chỉ bằng hành động của mình mà bằng cả việc không hành động, trong cả hai

trường hợp, người đó đều phải chịu trách nhiệm về sự tổn hại gây ra. Điều này

cho thấy tự do cá nhân không hề tách rời với bổn phận, trách nhiệm với cộng

đồng. Cá nhân không được nhân danh quyền tự do để thỏa mãn mục đích của

mình, quên đi nghĩa vụ với cộng đồng, nếu vậy, đó là thứ tự do hẹp hòi, phản tiến

bộ, không chỉ trái với đạo lý làm người mà còn kìm hãm sự phát triển của xã hội.

Thứ tự do đó cần phải bị tiêu diệt. Như vậy, quyền hạn của xã hội tác động đến

cá nhân chỉ trong giới hạn, phạm vi khi mà hành động của cá nhân gây tổn hại

đến người khác. Khi đó, cá nhân phải chịu sự điều chỉnh từ phía nhà nước hay sự

phản đối, lên án của công luận. Ngoài phạm vi đó ra, nhà nước không được phép

can thiệp hay cưỡng ép cá nhân, ngay cả khi sự can thiệp, cưỡng ép đó là hợp

pháp. Nói cách khác, trong phạm vi không gây tổn hại cho người khác và cho xã

hội, thì tự do cá nhân được đề cao. Đọc tư tưởng này của J.S.Mill, ta thấy có sự

tương đồng về quan điểm tự do của C.Mác “tự do là quyền được làm tất cả

những gì, được thi hành tất cả những gì không phương hại đến người khác” [89;

tr.550]. Như vậy, nguyên tắc tổn hại là một trong những cống hiến vĩ đại của

J.S.Mill cho nhân loại đến nay vẫn có ý nghĩa: sự tiến bộ của nhân loại tùy thuộc

vào mỗi con người có một địa phận riêng tư mà không một ai, kể cả nhà nước

cũng không được xâm phạm.

Về nguyên tắc vị lợi: Về cơ bản, thuyết vị lợi được hiểu là trên cơ sở nguyên

tắc hướng tới những lợi ích tốt đẹp nhất cho số đông nhiều nhất của J.Bentham.

93

Từ tư tưởng này của J.Bentham, J.S.Mill đã bổ sung thêm nhiều luận điểm có

giá trị cho học thuyết này. Nguyên tắc vị lợi, dưới góc độ tiếp cận của J.S.Mill

trở thành một nguyên tắc “đặt mình vào vị thế của người khác”. Trong nhiều

tác phẩm, J.S.Mill nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghĩ đến lợi ích của

mọi người một cách vô tư, công bằng chứ không quan tâm đến lợi ích của bản

thân mình. Nếu ai cũng quên đi hạnh phúc của bản thân và vì hạnh phúc của

người khác, thì xã hội sẽ tiến bộ và phát triển bền vững lâu dài [99; tr.67].

Mục tiêu của hạnh phúc không phải là sự thỏa mãn sở thích cá nhân hay những

trải nghiệm cảm giác vui sướng đến tận cùng. Hạnh phúc tối cao nhất là đức

hạnh con người hướng đến, là phẩm giá cao quý của con người đạt được khi

biết nuôi dưỡng tâm hồn đẹp và quên mình vì người khác. Nói như thế không

có nghĩa là J.S.Mill đòi hỏi cá nhân phải hi sinh vô điều kiện cho cộng đồng,

xã hội. Cá nhân, với tư cách là thành viên trong xã hội sẽ ý thức rõ rằng lợi ích

riêng của bản thân nằm trong lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, mỗi cá nhân

quan tâm, phục vụ, bồi đắp hạnh phúc tập thể mình đang sống cũng chính là

bảo đảm cho lợi ích cá nhân của mình.

Lý tưởng J.S.Mill trình bày trong tác phẩm “Thuyết vị lợi” là lợi ích trường

tồn của nhân loại. Ông cho rằng việc tôn trọng các quyền tự do cá nhân sẽ khiến

toàn thể xã hội tốt đẹp hơn về lâu dài [149]. J.S.Mill không tán thành tư tưởng

của J.Bentham khi quy giá trị của con người ngang nhau và đều bằng. Ông

khẳng định con người đều đáng sống như nhau và khó có thể quy họ về một

chuẩn giá trị lợi ích chung để đánh giá ai đáng được sống và ai phải chết để đem

lại nhiều lợi ích cho xã hội [99; tr.69]. Vì vậy, cũng giống như tự do, J.S.Mill đi

từ hạnh phúc của từng cá nhân để hướng đến hạnh phúc cho toàn xã hội. Luận

điểm này có vẻ không khác J.Bentham về lượng nhưng lại khác về chất: nó đòi

hỏi mỗi cá nhân phải được nuôi dưỡng, được phát triển tinh thần để có khả năng

lựa chọn cái gì là cao quý, cái gì được nâng cao phẩm giá con người.

94

Những nguyên tắc J.S.Mill đề xuất ở trên cho đến nay vẫn được các học giả

đem ra luận giải để khai thác các giá trị tư tưởng, tìm cách vận dụng nó để giải

quyết những vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức trong xã hội hiện đại. Michael Sandel36, Giáo sư Đại học Harvard, hiện vẫn sử dụng những nguyên tắc này để

luận giải những vấn đề gai góc gây nhiều tranh cãi về chính trị, đạo đức và pháp

luật trong thời đại ngày nay [120]. Trong tác phẩm “Phải trái đúng sai”, Michael

Sandel đã phản biện các quan điểm triết lý về “tối đa hóa phúc lợi xã hội, tôn

trọng tự do và đề cao đạo đức” của nhiều nhà triết học nổi tiếng [120; tr.9]. Đặc

biệt, Michael Sandel đã dành khá nhiều thời gian cho việc trình bày quan điểm

của vị “giáo chủ tự do” J.S.Mill. Khi phân tích “Lý lẽ tự do”, Michael Sandel có

khẳng định “Mill nỗ lực vất vả viết bài làm tương thích các quyền cá nhân với

triết thuyết vị lợi của Bentham mà ông chịu ảnh hưởng từ cha mình. Cuốn sách

Bàn về tự do (On liberty, 1859) của ông là tác phẩm bảo vệ tự do cá nhân kinh

điển trong thế giới Anh ngữ. Nguyên tắc chính là người dân phải được tự do làm

bất cứ điều gì họ muốn, miễn là điều này không gây hại cho người khác. Chính

phủ không được can thiệp vào tự do cá nhân với lý do bảo vệ chính bản thân họ,

hoặc để áp đặt ý kiến về lối sống tốt nhất cho đa số. J.S.Mill cho rằng xã hội chỉ

nên xem xét các hành động có ảnh hưởng đến người khác. Miễn là tôi không làm

hại đến bất cứ ai khác, “Tôi tuyệt đối độc lập. Tôi là chủ nhân tuyệt đối của cả

thân thể lẫn tâm hồn” [120; tr.73].

Thông qua việc bảo vệ quyền tự do của cá nhân, J.S.Mill lên tiếng chống lại

mọi sự chuyên chế: từ sự chuyên chế trong gia đình đến sự chuyên chế của chính

phủ và của ngoài xã hội. Trong gia đình, đó là sự chuyên chế của người chồng

đối với người vợ, là sự chuyên chế của người đàn ông với phụ nữ trong xã hội.

Theo J.S.Mill, nguồn gốc dẫn đến áp bức phụ nữ chính là do sự chuyên quyền

trong gia đình và trong xã hội. Vậy nên, sự chuyên chế với phụ nữ là một định

kiến hiển nhiên cản trở nghiêm trọng đến sự tiến bộ của nhân loại. J.S.Mill nhận

95

định rằng sự chuyên chế dù ở cấp độ nào cũng là kẻ thù của sự tiến bộ, cản trở

con người tiến lên phía trước. Ông lên án sự chuyên chế là để bảo về sự lập dị

“sự chuyên chế của dư luận chủ yếu là chê trách sự lập dị cho nên để phá vỡ sự

chuyên chế ấy mà điều mong muốn là người ta phải lập dị. Sự lập dị luôn nở rộ

ra khi nào và ở nơi đâu mà sức mạnh của tính cách nở rộ và nói chung, do đó sự

lập dị trong xã hội cũng tỉ lệ với lượng thiên tài, sức mạnh tinh thần và sự dũng

cảm đạo đức mà xã hội chứa đựng” [69; tr.155]. Sự lập dị ở đây không phải là

mức độ lập dị theo nghĩa sinh học, sự tổn thương các hoạt động tâm lý, thần kinh

mà là sự lập dị thông thái của một thiên tài, của những con người dám chống lại

sự kìm kẹp của một chế độ chuyên chế, để mưu cầu những điều tốt đẹp cho cuộc

sống, hạnh phúc của cá nhân, tập thể và xã hội. Đó là một sự lập dị không gây hại

mà còn mang lại lợi ích cho xã hội. Tư tưởng này của J.S.Mill sau này được nhà triết học Karl Popper37 kế thừa và chứng minh rằng những bất đồng (dissent)

không chỉ là tác động phụ mà còn là động lực cần thiết để có tiến bộ về cả khoa

học lẫn chính trị.

Để chống lại sự chuyên chế nêu trên, J.S.Mill đưa ra những giới hạn trong

việc sử dụng quyền hạn của chính phủ đối với cá nhân. J.S.Mill đưa ra những lý

do để phản đối chính phủ can thiệp. “Thứ nhất, là sự việc để cho cá nhân làm sẽ

tốt hơn để cho chính phủ thực hiện” [69; tr.242]. Bởi vì theo J.S.Mill, không ai

thích hợp hơn giải quyết sự việc bằng chính những người quan tâm đến lợi ích

của việc đó. Thứ hai, trong nhiều trường hợp, mặc dù cá nhân có thể làm một vài

việc không được tốt bằng so với các quan chức của chính phủ thế nhưng “việc để

cho cá nhân làm vẫn đáng mong muốn hơn là để cho chính phủ, nằm trong ý

nghĩa như một phương tiện giáo dục tinh thần cho họ - như một kiểu tăng cường

tính tích cực của họ, rèn luyện óc xét đoán và cho họ kiến thức tương tự với chủ

đề mà họ sẽ phải đối phó và giải quyết” [69; tr.242]. Qua đó, cho thấy rằng

J.S.Mill luôn hướng đến sự hoàn thiện và phát triển nhân cách của con người.

96

Việc thu hẹp phạm vi can thiệp thái quá của chính phủ chính là cơ hội để phát

triển tự do cá nhân, đặc biệt “là để đưa họ ra khỏi cái thế giới nhỏ hẹp của sự ích

kỷ cá nhân, của gia đình, làm cho họ thấm thía với sự liên kết vì quyền lợi

chung”. Lý do thứ ba và là lý do có sức thuyết phục nhất là để hạn chế sự can

thiệp của chính phủ, “điều xấu xa khi trao thêm quyền lực không cần thiết cho

chính phủ”. Có thể thấy ranh giới mà J.S.Mill vạch ra cho cá nhân và xã hội thể

hiện một cách nhìn mang tính nhân văn khi cho rằng hãy để mọi cá nhân hạnh

phúc và tất cả xã hội sẽ hạnh phúc bội phần. Bằng cách cho phép mỗi người sống

hạnh phúc theo ý họ thì xã hội sẽ được lợi nhiều hơn là bắt họ sống hạnh phúc

theo ý những người xung quanh. Với những lý do đó, J.S.Mill cho thấy tự do vừa

là phẩm chất riêng của mỗi người, vừa là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của

con người và tiến bộ xã hội.

Trên cơ sở mối quan hệ trên, J.S.Mill chỉ ra đối tượng áp dụng để thực thi

quyền tự do cá nhân. J.S.Mill cho rằng đó phải là những người đã trưởng thành

về năng lực, tức không áp dụng cho trẻ em và những người bị thiểu năng về trí

tuệ “học thuyết này chỉ áp dụng đối với người trưởng thành. Chúng ta không nói

về trẻ em hay những thiếu niên dưới độ tuổi mà luật pháp có thể xác định như

tuổi thành niên. Đối với những người hãy còn ở trạng thái phải được săn sóc bởi

những người khác thì họ phải được bảo hộ chống lại hành động của bản thân

cũng như chống lại những mối hại từ bên ngoài” [69; tr.36 - 37]. Như vậy, đối

tượng được áp dụng quyền tự do phải là những con người đã trưởng thành về

mặt ý thức xã hội, có năng lực tư duy, có định hướng và kiểm soát được hành vi

của mình và phải chịu trách nhiệm trước những hành vi của mình. Không chỉ

vậy, J.S.Mill cho rằng tự do dân sự chỉ được áp dụng trong một cộng đồng khi đã

đạt đến trình độ văn minh nhất định “cũng vì lý do như thế chúng ta không xem

xét các trạng thái lạc hậu của xã hội mà ở đó bản thân chủng tộc được coi là đang

ở tuổi vị thành niên”, rằng “tự do như một nguyên lý không áp dụng được cho

97

bất cứ thực trạng nào vào thời kỳ trước khi loài người trở nên có khả năng được

hoàn thiện” [69; tr.37]. Đối với dân tộc, đó phải là những dân tộc thoát khỏi tình

trạng mông muội, đạt đến một trình độ phát triển nhất định mới thực hiện được

quyền tự do theo lý tưởng của J.S.Mill.

Như vậy, tự do dân sự không áp dụng rộng rãi cho tất cả mọi người, mọi

dân tộc trong quá trình phát triển và tự do trong triết học của J.S.Mill là một

phạm trù mang tính lịch sử. Bên cạnh đó, J.S.Mill còn đưa ra những dự báo về sự

phát triển tự do trong xã hội “có vẻ như chẳng bao lâu nữa, nó (tự do dân sự) sẽ

buộc người ta phải thừa nhận như một vấn đề sinh tử của tương lai” [69; tr.19].

Thật vậy, trong giai đoạn hiện nay vấn đề thực hiện và mở rộng các quyền tự do

cá nhân là một trong những vấn đề được quan tâm sâu sắc của các quốc gia trên

thế giới. Ở nhiều quốc gia vẫn còn tồn tại tình trạng vi phạm quyền tự do cá nhân

vì những lý do chủ quan hoặc khách quan. Chế độ chính trị của những quốc gia

đó hoặc mang tính độc tài, hoặc bất ổn, chứa đựng xung đột. Trước thực trạng đó

mới thấy điều J.S.Mill bàn cách đây gần một thế kỷ rưỡi thì giờ đây vẫn còn cần

thiết để suy ngẫm. Từ thực tiễn cuộc sống cho thấy chỉ khi nào quyền tự do được

ghi nhận và thực hiện đầy đủ thì xã hội đó mới là xã hội dân chủ. Xã hội hiện nay,

đặt trong sự tiếp nối và phát triển từ các giai đoạn trước đó của lịch sử loài người

vẫn đang hoàn thiện hơn nữa về sự phát triển tự do cho cá nhân và cho toàn xã

hội như mong ước của J.S.Mill.

2.3. Quan điểm của J.S.Mill về cơ chế thực hiện quyền con ngƣời

2.3.1. Hình thức chính thể lý tưởng bảo đảm thực hiện các quyền và tự

do dân chủ về chính trị

Về các thiết chế chính trị, J.S.Mill khẳng định “trước hết các thiết chế chính

trị… là sản phẩm của con người, có nguồn gốc và toàn thể sự tồn tại nhờ cậy vào

ý chí con người” [70; tr. 46]. Gắn hình thức chính thể với đời sống con người là

luận điểm đầu tiên để J.S.Mill đánh giá về sự thành bại của hình thức chính thể

98

đó. Không có hình thức chính thể tách rời khỏi hoạt động của con người.

“Không phải người ta thức giấc vào một buổi sáng đẹp trời và thấy chúng đột

nhiên hình thành. Chúng cũng chẳng giống cái cây một khi trồng xuống thì “cứ

thế lớn lên mãi” trong lúc mọi người “đang ngủ thiếp”. Trong mỗi giai đoạn tồn

tại của chúng, chúng được tạo nên như vậy là bởi tác động của ý nguyện con

người” [70; tr.46-47]. Thế nên, hình thức chính thể được thiết lập, dù theo cơ chế

nào, cũng đều phải chịu tác động từ phía con người. Có lẽ đây là quan điểm thể

hiện tính hợp lý rõ nét dễ nhận thấy trong triết học của J.S.Mill. Kế thừa các tư

tưởng về chính thể của T.Hobbes hay J.Locke, J.S.Mill đã nhìn nhận chính thể

trong mối quan hệ với cuộc sống thế tục, là sản phẩm của quá trình vận động

thực tiễn chính trị; chứ không phải là món quà của đấng siêu nhiên.

J.S.Mill khẳng định là sản phẩm của con người, nên “bộ máy chính trị

không tự thân nó hành động. Vì nó được tạo ra, nên nó phải vận hành bởi con

người và thậm chí bởi những con người bình thường” [70; tr.47]. Một chính thể

vận hành được hay không là phụ thuộc vào dân chúng. J.S.Mill chỉ ra những

điều kiện tiên quyết mà dân chúng cần phải có. Đó là, dân chúng “phải thuận

nguyện chấp nhận nó, hay ít nhất cũng không bất mãn đến mức tạo nên chướng

ngại không vượt qua được trong việc thiết lập nó. Họ phải thuận nguyện và có

khả năng làm những gì cần thiết để giữ cho chính thể đó đứng vững. Họ phải

thuận nguyện và có khả năng làm những gì được đòi hỏi ở họ để cho chính thể

đó có thể hoàn thành được các mục đích của nó” [70; tr.48]. J.S.Mill chú giải rõ

về sự “thuận nguyện”: “Từ ngữ “làm” ở đây được hiểu bao gồm cả sự hành

động lẫn nhẫn nhịn không hành động. Họ [dân chúng] phải có khả năng đáp ứng

các điều kiện cho hành động và các điều kiện cho sự tự kiềm chế, tức những cái

cần thiết cho việc giữ chính thể tồn tại lẫn cho việc giúp nó đạt được các mục

đích, hiệu quả lợi ích vốn được gửi gắm vào chính thể ấy” [70; tr.48]. Nếu như

trong một tập hợp dân chúng, mỗi cá nhân chỉ lo lợi ích mang tính ích kỷ của

99

riêng mình, không màng tới việc chia sẻ cho lợi ích chung, thì với tình trạng ấy

một chính thể vận hành tốt là chuyện không thể có. Dường như, Jon Stuart Mill

đặt rất nhiều gửi gắm vào dân chúng. Sự “thuận nguyện” từ phía dân chúng sẽ

quyết định cơ chế vận hành của một hình thức chính thể mà họ thiết lập. Nói

cách khác, phẩm chất của những con người trong xã hội là động lực quan trọng

nhất quyết định sự thành bại của bộ máy nhà nước. “Nếu chúng ta tự hỏi rằng

một chính thể tốt trong mọi ý nghĩa của nó, bao gồm từ người hèn mọn nhất đến

người quyền quý nhất, phụ thuộc vào các nguyên nhân và điều kiện gì, chúng ta

sẽ thấy rằng điều chủ yếu nhất bao trùm lên mọi thứ khác chính là phẩm chất

của các con người hợp thành cái xã hội mà chính thể đang vận hành trong đó”

[70; tr.76-77].

J.S.Mill cho rằng dân chúng có thể chưa sẵn sàng cho các thiết chế tốt đẹp

nhưng việc nhen nhóm lên lòng mong ước có được các thiết chế ấy là công viêệc

cần thiết cho sự chuẩn bị. Để làm được điều đó thì cần vai trò của giáo dục dân

trí, đặc biệt là vấn đề giáo dục chính trị cho dân chúng. “Một trong những

phương thức và thường là phương thức duy nhất trong tầm tay để giáo dục dân

trí cho một dân tộc, không chỉ để tiếp thu và yêu sách thiết chế ấy mà cũng là để

cho thiết chế ấy vận hành được” [70; tr.59]. J.S.Mill còn cho rằng phong trào

đấu tranh vì tự do của những người dân Italia diễn ra không nằm ngoài quy luật

đó. Vì thế ông khẳng định mỗi dân tộc đều có quyền lựa chọn hình thức chính

thể nhưng phải đảm bảo được đầy đủ các điều kiện trên. Hay nói cách khác, sự

thiếu vắng bất cứ một điều kiện nào cũng đều làm cho chính thể trở nên không

thích hợp khi vận hành trong từng trường hợp riêng biệt.

Tiếp theo đó, J.S.Mill phân tích một số hình thức chính thể trong lịch sử

tương ứng với đó là thái độ ủng hộ, ưu ái hay cản trở của các chính thể đó đối với

những quyền cơ bản của con người. Hình thức chính thể đầu tiên mà J.S.Mill đề

cập đến đó là “chính thể Một người” (chính thể quân chủ chuyên chế). Ngay từ

100

giữa thế kỷ XV, T.Hobbes đã có những ý tưởng về việc đại diện thực thi quyền

lực nhưng ông lại quá tin tưởng vào vai trò của một người đứng đầu mà ông gọi

là Thủy Quái, tức là Vua. T.Hobbes cho rằng, con người sinh ra được tự do

nhưng sự tự do cộng với tính ích kỷ, ước muốn cá nhân sẽ đẩy con người vào

tình trạng chiến tranh chống lại tất cả trong trạng thái tự nhiên. Như vậy, chính

thể tốt đẹp mà T.Hobbes ủng hộ là chế độ quân chủ chuyên chế. Ngược lại,

J.S.Mill kịch liệt chống lại ý tưởng về chế độ quân chủ chuyên chế. Theo ông,

dưới chế độ này “Mọi thứ đều được quyết định thay cho họ [tức dân chúng] bởi

một ý chí không phải của chính họ và việc họ không tuân phục sẽ là tội lỗi theo

luật pháp” [70; tr.99]. Đây là một trong những lý do J.S.Mill đưa ra để phản đối

sự can thiệp của chính quyền trong tác phẩm “Bàn về tự do”. Ông cho rằng,

những việc liên quan tới lợi ích của các cá nhân thì “có lẽ để cho các cá nhân làm

thì tốt hơn là để cho chính phủ làm” [70; tr.240]. J.S.Mill khẳng định không ai

có thể thích hợp hơn để quyết định những vấn đề liên quan đến lợi ích của bản

thân bằng mình. Như vậy, trong chính thể có một ông vua chuyên chế, mọi người

không hề được làm chủ, được tham gia hay quyết định bất kỳ một hoạt động

chính trị nào. J.S.Mill lo lắng khi nói đến hậu quả nghiêm trọng của kiểu chính

thể này “Không phải họ sẽ chỉ bị tổn thương riêng về trí tuệ mà thôi. Các khả

năng đạo đức của họ cũng sẽ bị cằn cỗi” [70; tr.101]. Ông giải thích rằng, “để

cho một người không có việc gì làm nhằm phục vụ cho đất nước của mình thì

anh ta cũng sẽ không quan tâm đến chuyện đó nữa” [70; tr.101]. Một kết quả tất

yếu là người dân sẽ phó mặc mọi thứ cho chính quyền giống như phó thác cho

mệnh trời. Điều này cũng đồng nghĩa với việc họ sẽ không quan tâm gì đến

chính trị và cam chịu chấp nhận mọi kết quả như những trừng phạt của tự nhiên.

Về “chính thể Một ít người”, J.S.Mill nói tới chế độ quân chủ lập hiến.

Chế độ này là chế độ mà “một ông vua chuyên chế tuân theo rất nhiều quy phạm

và sự kiềm chế của chính thể lập hiến” [70; tr.103]. Nói cách khác, khi đó “ông

101

ta đã loại bỏ được phần lớn những đặc tính xấu xa của chế độ chuyên chế” [70;

tr.104]. Từ đây, dân chúng có thể tham gia các hoạt động công cộng hay chính trị

mà không bị ngăn cản nữa. Tuy nhiên, dân chúng “vẫn không bao giờ có thể

quên được rằng họ được dung thứ cho phép có quyền ấy và họ phải nhờ vào một

sự nhân nhượng có thể bị lấy lại bất cứ lúc nào trong hiện trạng hiến pháp nhà

nước, rằng theo pháp luật vẫn là những kẻ nô lệ, dẫu là của một ông chủ khôn

ngoan hoặc hay gia ân” [70; tr.105]. Vậy là, dưới chế độ này, về thực chất dân

chúng vẫn không có được những quyền cơ bản của con người. Sau khi đi phân

tích khá cặn kẽ, ông đi đến kết luận “Chúng ta có thể lập tức đề xuất không chút

liều lĩnh một tuyên ngôn... cái hình thức chính thể tốt đẹp một cách lý tưởng nhất

sẽ được tìm thấy ở một trong các biến thể của Hệ thống mang tính đại diện” [70;

tr.96]. Như vậy, chính thể đại diện là hình thức chính thể lý tưởng nhất. Thông

qua tác động của chính thể đại diện, con người hành động với tư cách là một

công dân, có những quyền lợi và trách nhiệm thông qua luật. Từ kết luận đó,

J.S.Mill đã đưa ra những tiêu chuẩn cho biết một hình thức chính thể lý tưởng.

Về tiêu chuẩn cho biết một hình thức chính thể lý tưởng, J.S.Mill đã bàn

nhiều vấn đề này trong Chương 2 của tác phẩm “Chính thể đại diện”. J.S.Mill

cho rằng tiêu chuẩn của một chính thể tốt đẹp nằm trong (không phải “là”) việc

can thiệp trực tiếp của các nhà chức trách đến sự sinh tồn của con người và ảnh

hưởng của chính thể lên an sinh xã hội dựa trên toàn bộ lợi ích của con người.

Vậy thế nào là an sinh xã hội? Thế nào là lợi ích của con người để an sinh xã hội

ấy dựa vào? J.S.Mill đã đưa ra hai nguyên tắc có liên quan tới tính ưu việt của

chính thể đến hiện trạng an sinh. Nguyên tắc thứ nhất, các quyền và lợi ích của

mỗi cá nhân được an toàn và không bị coi thường khi bản thân cá nhân ấy có khả

năng và thường xuyên có ý định đương đầu bảo vệ chúng. Nguyên tắc thứ hai, sự

phồn vinh chung tỷ lệ với số lượng và sự đa dạng của các năng lực cá nhân tham

dự vào việc thúc đẩy sự phồn vinh đó. Từ đó, ông cho rằng, việc cá nhân tham

102

gia vào bất kể một hoạt động nào, kể cả chức năng công cộng nhỏ bé, cũng là

hữu ích. Nhưng “vì trong một cộng đồng vượt quá một đô thị đơn lẻ nhỏ bé, thì

không thể tất cả mọi người đều đích thân tham dự vào mọi việc công cộng được,

ngoại trừ một phần nhỏ công việc nào đó, từ đó suy ra rằng loại chính thể hoàn

hảo lý tưởng phải là chính thể mang tính đại diện” [70; tr.128].

Cùng với việc phân biệt rõ ràng nội hàm cũng như ý nghĩa của các phạm trù

trên đối với việc đánh giá một chính thể, J.S.Mill cũng đi đến khẳng định những

yếu tố tích cực của một cá nhân: Tính tích cực, tính dám làm, tính can đảm; đặc

biệt là tính độc đáo, tính sáng tạo. Ông coi đây chính là những yếu tố vô cùng

quan trọng đóng góp cho cả một xã hội tiến bộ “bất cứ phẩm chất nào của chính

thể hướng tới khích lệ tính tích cực, năng lực, tính can đảm, tính độc đáo, đều là

cần thiết cho cả Bền vững lẫn Tiến bộ” [70; tr.69]. Mặc dù khẳng định chính thể

mang tính đại diện là một hình thức chính thể hoàn hảo, lý tưởng, tuy nhiên

J.S.Mill rất tỉnh táo khi không coi đó là một chìa khóa vạn năng dùng để mở

đường cho mọi xã hội với những điều kiện khác nhau để cùng đi đến một đích

Tiến bộ trong tương lai. Qua việc khảo sát một số các điều kiện xã hội cụ thể,

ông cho rằng, có những điều kiện xã hội mà chính thể đại diện không thể áp

dụng được “nếu thấy ai đâm chém người khác trên đường phố thì tránh sang phía

bên kia đường vì cho rằng việc ngăn chặn chuyện ấy là của cảnh sát và cho rằng

sẽ an toàn hơn nếu không can thiệp vào chuyện không dính dáng đến mình” [70;

tr.51]. J.S.Mill thẳng thắn thừa nhận rằng, một vài dân tộc châu Âu thời ông

sống vẫn còn như thế. Như vậy, trong xã hội này chưa thể thích hợp với chính

thể tự do và “những thứ thiết yếu hàng đầu cho cuộc sống văn minh không có

chỗ nào để dựa vào” [70; tr.51]. Theo đó, J.S.Mill chỉ ra những nguy hại nếu tồn

tại một chính phủ đại diện trong điều kiện như vậy. Chính thể đó sẽ chỉ trở thành

công cụ thuần túy của bạo chúa hay cho những âm mưu của các chính trị gia.

Thêm nữa, các cử tri trên thực tế không quan tâm đến bầu cử, hoặc “nếu có đi

103

bầu thì lại không đặt lá phiếu của mình trên cơ sở công ích mà bán nó lấy tiền,

hoặc theo sự điều khiển của kẻ kiểm soát họ, hoặc bầu cho người vì lý do riêng

để lấy lòng kẻ đó” [70; tr.51-52]. Như vậy, thực hành chính phủ đại diện trong

điều kiện xã hội không tương thích không thể chống lại được chính quyền xấu

thậm chí còn trở thành bộ phận hỗ trợ thêm cho cỗ máy ấy. Đồng thời, Mill

khẳng định, những khó khăn vật chất cũng trở thành những trở ngại cho việc vận

hành một loại hình chính thể nào đó. Ở điểm này, ông minh chứng bằng một số

ví dụ về thế giới cổ đại.

Có thể thấy, với những trình bày hết sức thuyết phục về tiêu chuẩn thể hiện

sự tốt đẹp của một hình thức chính thể, J.S.Mill đã khẳng định một “tuyên ngôn”

rằng, hình thức chính thể tốt đẹp nhất là chính thể đại diện. J.S.Mill thể hiện

niềm tin vào đích đến của chính thể đại diện là nhằm đem lại lợi ích chính trị cho

toàn thể dân chúng. Trên thực tế, Anh quốc đầu thế kỷ XIX cũng đang theo đuổi

chính thể đại diện nhưng họ lại vấp phải những khó khăn trong việc vận hành nó.

J.S.Mill đã đưa ra những đề xuất của mình để giải quyết những khúc mắc ấy

thông qua quan điểm về bầu cử, về nền dân chủ đại diện, về nền hành pháp cũng

như về quan hệ giữa trung ương và các cơ quan chính quyền địa phương.

2.3.2. Thể chế chính trị dân chủ và hình thức thực hiện dân chủ thông

qua quyền bầu cử của công dân

2.3.2.1. Thể chế chính trị dân chủ

Trong tác phẩm “Chính thể đại diện”, J.S.Mill luận bàn nhiều về vấn đề

dân chủ. Tuy nhiên, ông không tập trung bàn về phạm trù dân chủ ở khía cạnh

thuần túy khái niệm. Điều mà J.S.Mill quan tâm là bản chất cốt lõi của nền dân

chủ, để từ đó phân biệt dân chủ thực sự và dân chủ giả hiệu. J.S.Mill cho rằng,

xét đến cùng, sự phân biệt hai ý tưởng đó là vì quyền lợi đích thực của mỗi công

dân. Như thế, có thể xem lý luận của J.S.Mill về dân chủ chính là sự tái khẳng

104

định vai trò của tự do cá nhân, là sự bổ sung cho học thuyết về tính lợi ích của

chính thể đại diện.

Về bản chất của nền dân chủ, J.S.Mill cho rằng “Ý tưởng thuần khiết của

dân chủ theo định nghĩa của nó là chính quyền của toàn thể nhân dân do toàn thể

nhân dân đều được đại diện bình đẳng” [70; tr.208]. Theo như nhận định của ông,

với cái danh xưng chính thể đại diện thì nguyên tắc dân chủ thường bị xâm phạm

thấy rõ. J.S.Mill bàn về hai nguy cơ chính có khả năng ảnh hưởng đến “chất

lượng” của một nền dân chủ đại diện. Thứ nhất, trình độ trí tuệ thấp trong hội

đồng đại biểu và trong công luận kiểm soát hội đồng. Thứ hai, sự lập pháp giai

cấp dựa vào bộ phận đa số số học bao gồm toàn bộ những người cùng một giai

cấp. J.S.Mill cho rằng hai nguy cơ trên đây đều xuất phát từ sự nhầm lẫn trong

quan niệm về dân chủ. Nói cách khác, xuất hiện sự đánh tráo giữa bản chất cốt

lõi của dân chủ và hình thức ngụy trang dân chủ. Đó là “hai ý tưởng rất khác

nhau thường bị lầm lẫn dưới cái tên dân chủ” [70; tr.208]. Theo ông, dân chủ

thực sự là chính quyền của toàn thể nhân dân do toàn thể nhân dân đều được đại

diện một cách bình đẳng. Dân chủ giả hiệu mà một trong những biểu hiện của nó

là chính quyền của toàn thể nhân dân do chỉ riêng một đa số dân chúng được độc

quyền đại diện, điều này sẽ tước đi hoàn toàn quyền bầu cử của nhóm thiểu số

với cung cách bầu cử của Anh quốc thời đại Victoria. J.S.Mill thẳng thắn phê

phán tình trạng hiện tại ở Anh, “đó là hậu quả tất yếu của cái cung cách bầu cử

hiện nay đang làm, tước đi hoàn toàn quyền bầu cử của những nhóm thiểu số”

[70; tr. 208].

J.S.Mill đòi hỏi bất cứ tầng lớp nào cũng phải có đại diện cho họ. “Đa số cử

tri sẽ luôn có một đa số đại biểu; nhưng một thiểu số cử tri cũng phải luôn có một

thiểu số đại biểu” [70; tr.209-210]. Bởi lẽ, ai cũng giống như ai và họ đều phải

được đại diện đầy đủ giống nhau, bất kể họ thuộc nhóm thiểu số hay đa số. Nếu

điều này không được đảm bảo thì đó chỉ là một chính thể bất bình đẳng và đặc

105

quyền. J.S.Mill phân biệt: Dân chủ thực chất đồng nghĩa với sự bình đẳng của tất

cả mọi công dân, còn dân chủ ngụy trang là chính quyền của sự đặc quyền, thiên

vị cho đa số số học, là một “chính thể hỗn tạp”, là sự chuyên quyền của đa số ô

hợp. “Trong một quốc gia mà một giai cấp duy nhất chiếm đa số số học thì một

nền dân chủ hoàn toàn bình đẳng không thể loại bỏ hẳn được một số điều xấu xa

nào đó; thế nhưng những điều xấu xa ấy sẽ làm trầm trọng hơn khi các nền dân

chủ hiện hữu không phải là dân chủ bình đẳng mà lại là bất bình đẳng một cách

có hệ thống, nhằm thiên vị cho giai cấp thống trị” [70; tr.208]. Quan điểm này

của J.S.Mill có mối liên hệ gần với nhận xét của S.L.Montesquieu rằng, “nền

dân chủ không phải là vô chủ” và có “sự khác biệt giữa dân chủ có mức độ với

dân chủ cực đoan” [108; tr.87].

Theo phác họa của J.S.Mill, một nền dân chủ đại diện thực sự là đại diện

cho tất cả, chứ không đơn thuần đại diện cho đa số. Ông hướng đến một chính

thể dân chủ có cả sự đại diện giai cấp và sự đại diện theo số học, tức là không

loại trừ giai cấp nào cũng như không loại trừ bộ phận dân cư nào. Một nền dân

chủ duy nhất có tính bình đẳng khi “... trong nền dân chủ ấy các lợi ích, các ý

kiến, các trình độ trí tuệ rất đa dạng nhưng đều sẽ được lắng nghe và ắt sẽ có cơ

hội thu được ảnh hưởng bằng sự cân nhắc theo tính chất và sức mạnh của luận

cứ, những thứ không thuộc về sức mạnh số học của chúng” [70; tr.247]. Khi đó,

chính quyền sẽ là của mọi người và do mọi người, là kiểu dân chủ chân chính

để loại bỏ những xấu xa của sự áp chế từ phía đa số. J.S.Mill lên án quan niệm

được cho là cố hữu trong ý nghĩ của con người, ông viết: “Thiểu số phải phục

tùng đa số, số ít phải phục tùng số nhiều, ấy là một ý tưởng quen thuộc” [70;

tr.209]. Ý tưởng này vào thời đại của J.S.Mill đã khiến cho một lượng lớn dân

chúng thất học, thiếu hiểu biết trở thành công cụ cho các chính trị gia và biến

“nền dân chủ được tạo nên như thế thậm chí không đạt được ngay cả mục đích

bề ngoài của nó là trao quyền lực chính quyền trong mọi trường hợp cho nhóm

106

đa số số học. Nó làm một thứ gì đó hoàn toàn khác: nó trao quyền lực cho một

nhóm đa số của đa số, là những người rất có thể, và thường thì như vậy, chỉ là

một nhóm thiểu số của toàn thể” [70; tr.210]. Trên thực tế, những cử tri có học

vấn và tinh thần cộng đồng cao nhất sinh sống tại các thành phố lớn ở Anh thời

bấy giờ lại không có đại diện hoặc đại diện không theo đúng mong muốn của cử

tri. Bởi lẽ, việc bỏ phiếu cho một ai đó phải chịu quyết định khá lớn từ màu sắc

đảng phái hoặc người bỏ phiếu phải được giới thiệu từ cơ quan quyền lực nào

đó. Vì thế mà, một ứng viên được đưa ra tranh cử khi anh ta “không có chút đặc

sắc nào, không có ý kiến nào phân biệt được ngoại trừ khẩu hiệu của đảng” [70;

tr.213], và như thế anh ta sẽ được phần ưu ái hơn cả. Đối với một con người

nhiệt tình với tinh thần tự do, bình đẳng như J.S.Mill, ông vạch rõ sự giả dối đó

“các nhóm thiểu số phải được đại diện đầy đủ, ấy chính là một phần mang tính

bản chất của nền dân chủ. Không có điều này thì không thể nào có dân chủ thực

sự mà chỉ là màn trình diễn giả dối của dân chủ mà thôi” [70; tr.215]. Với

những khảo cứu sâu sắc về lịch sử chính trị, J.S.Mill nhận thấy rằng, dân chủ

hóa là một sự vận động không thể tránh khỏi của thời đại. Nền dân chủ trong

chính thể đại diện sẽ tránh được tình trạng bị đánh tráo bản chất nếu như xã hội

công dân vận hành nó một cách hợp lý.

2.3.2.2. Hình thức thực hiện dân chủ thông qua quyền bầu cử của công dân

Thứ nhất, quyền bầu cử là quyền cơ bản của công dân

Từ quan niệm về dân chủ nêu trên, J.S.Mill khẳng định quyền bầu cử không

chỉ là một quyền cá nhân mà còn là một chân lý phổ biến. “Sẽ không bao giờ có

một chính phủ tận tâm hoặc biết kiềm chế, trừ khi mỗi cá nhân tham dự cảm thấy

bản thân anh ta là người được ủy thác cho tất cả những công dân mà anh ta đại

diện và cho thế hệ sau. Chắc chắn rằng không có người đi bầu nào ở Athen nghĩ

khác” [114; tr.116]. J.S.Mill lập luận rằng bất kỳ ai cũng có quyền có được đại

diện cho mình. J.S.Mill cho rằng, các lợi ích, các ý kiến, các trình độ trí tuệ rất đa

107

dạng và tất cả đều cần được lắng nghe. Chúng đều có khả năng gây ảnh hưởng

bởi tính chất và sức mạnh của luận cứ. J.S.Mill khẳng định, sức mạnh của luận

cứ do chất lượng của các ý kiến đó quyết định chứ không phải do sức mạnh của

số đông số học. Như vậy, ông ủng hộ việc cần phải mở rộng quyền bầu cử cho tất

cả, chứ không đơn thuần cho đa số. J.S.Mill mong muốn số lượng những người

có trí tuệ trong dân chúng - đang chiếm một phần rất nhỏ, có thể có được đại diện

của mình một cách công bằng.

Quan niệm về một nền bầu cử bình đẳng được J.S.Mill nêu ra “quyền

bầu cử phải được trao không phân biệt đối xử, hay thậm chí thà từ chối trao

quyền không phân biệt đối xử còn hơn là trao cho người này mà từ chối người

kia theo sự tùy tiện của viên chức công quyền” [70; tr.256]. Ông phê bình sự

riêng tư, tùy tiện sử dụng công quyền của các viên chức nhà nước. Điều này sẽ

làm mất đi niềm tin của dân chúng vào nhà nước cũng như làm sụt giảm tính

chuyên nghiệp của các viên chức.

Thứ hai, về đối tượng bầu cử

Để có thể hiện thực hóa một chính thể dân chủ thực sự mà mọi ý kiến đều

được lắng nghe, J.S.Mill khẳng định cần phải mở rộng hơn nữa quyền bầu cử

đến nhiều đối tượng trong xã hội. Để quyền bầu cử được mở rộng cho tất cả,theo

J.S.Mill, trước hết dân chúng phải được giáo dục “phổ cập giáo dục phải đi trước

phổ thông đầu phiếu” [70; tr.294]. Ông khẳng định: “Tôi xem là chuyện không

thể chấp nhận được việc bất cứ người nào tham gia bầu cử mà không biết đọc

biết viết, và tôi sẽ bổ sung thêm, không biết làm các phép tính số học thông

thường” [70; tr.254]. Để đảm bảo sự công bằng, J.S.Mill đòi hỏi rất chi tiết các

phương tiện để đạt được những yêu cầu sơ đẳng về giáo dục phải ở trong tầm tay

của mọi người, hoặc là miễn phí, hoặc là phí tổn không vượt quá mức mà một

người nghèo nhất tự kiếm sống có thể trả được. Như thế, việc đáp ứng được các

yêu cầu sơ đẳng không phải là khó khăn.

108

Vậy nên, mong muốn của J.S.Mill về mở rộng quyền bầu cử có thể hiện

thực hóa. Với chủ trương này, mỗi công dân sẽ trở thành một thành viên tự giác

của một cộng đồng rộng lớn. Ông kết luận “Sự sắp xếp bầu cử không thể tốt đẹp

lâu bền, nếu bất cứ con người hay giai cấp nào bị loại trừ một cách cưỡng bách;

nếu quyền bầu cử không mở ra cho tất cả mọi người đủ tuổi và mong muốn có

quyền đó” [70; tr.254].

J.S.Mill ủng hộ hệ thống bầu cử dựa trên trình độ giáo dục hơn là việc căn

cứ theo tài sản. Ông viết: “Liệu có ích lợi gì chăng đối với một hệ thống đại diện

rộng rãi nhất, nếu như các cử tri chẳng quan tâm chọn lựa những người tốt nhất

làm đại biểu nghị viện mà lại chọn những kẻ chi nhiều tiền nhất để được bầu?”

[70; tr.77]. J.S.Mill khẳng định một chính thể tự do là chính thể mà quyền lực

không bị điều khiển bởi tiền bạc: “khi liên quan tới chuyện tiền bạc thì bất cứ

quyền lực biểu quyết nào của những người như thế là sự vi phạm nguyên tắc cơ

bản của chính thể tự do” [70; tr.257]. Việc sử dụng sức mạnh của đồng tiền vào

công việc bầu cử, nó khiến cho con người đi lệch hướng so với những ước muốn

chính đáng của họ.

Xuất phát từ thực tiễn nước Anh lúc bấy giờ, quyền bầu cử thường được

phân chia và căn cứ theo tài sản. “... Tôi xem việc dựa theo tài sản để ban phát

cho ảnh hưởng cao hơn là chuyện hoàn toàn không thể chấp nhận được”, “thiết

lập đặc quyền bầu cử như thế luôn luôn là rất đáng ghê tởm” [70; tr.263]. Mặc dù

sống trong thời kỳ hưng thịnh bậc nhất của một nước Anh công nghiệp nhưng

J.S.Mill vẫn nhận ra được mặt trái của tiến trình công nghiệp hóa, chỉ ra giới hạn

tiền bạc đối với quyền công dân. Tiền bạc không thể là thước đo chuẩn nhất cho

giá trị tư tưởng của một người. Do đó, kế hoạch mở rộng quyền bầu cử căn cứ

trên tiêu chí trình độ học vấn thể hiện tính nhân văn và hợp lý hơn. Bởi vì: “Điều

duy nhất có thể biện minh cho việc lượng định ý kiến của một người có giá trị

hơn ý kiến khác, đó là tính ưu việt của trí tuệ cá nhân” [70; tr.264]. Mặc dù vậy,

109

J.S.Mill lại cho rằng “Theo lý thuyết về các thiết chế Anh quốc thì tính đại diện

phải cùng tồn tại với sự đánh thuế, không cắt giảm thuế để bị thiếu nhưng cũng

không đánh thuế quá mức” [70; tr.257]. Không chỉ vậy, J.S.Mill còn cho rằng

việc đóng góp tiền bạc có tác động thu hút người dân quan tâm và tham gia vào

các hoạt động chính trị “mỗi người đăng ký làm cử tri phải được yêu cầu nộp

một số tiền nhỏ… cho mỗi người đều cảm thấy rằng tiền đóng góp cho việc bầu

cử có phần đóng góp của anh ta, và anh ta quan tâm giữ cho mức đóng góp ấy

không bị tăng lên” [70; tr.258]. Như vậy, theo luận giải của J.S.Mill khi việc bầu

cử liên quan mật thiết tới lợi ích của một ai đó sẽ khiến cho họ thực sự coi đó là

việc của mình và cẩn trọng với việc sử dụng tiền bạc của mình bằng cách bầu cử

có trách nhiệm.

J.S.Mill đề xuất hạn chế bầu cử đối với một số đối tượng nhất định. Đây

cũng là một luận điểm nổi bật trong quan điểm bầu cử của J.S.Mill. Ông cho

rằng trong một số trường hợp cá nhân sẽ không có quyền bầu cử nếu họ không

có đủ khả năng lo cho bản thân mình. Khi đó, họ cũng sẽ chẳng có quyền đòi hỏi

giúp ích gì cho người khác và xã hội. Ông xác định những trường hợp đó như

sau. Thứ nhất, những đối tượng nào “biên lai nhận tiền cứu trợ của xã hội phải là

thứ dứt khoát làm cho không đủ tư cách đi bầu cử” [70; tr.258]. Thứ hai, những

đối tượng không được bầu cử là những người phá sản, họ “không chính thức hay

người hưởng lợi từ Đạo luật về những người không trả được nợ, phải bị truất

quyền bầu cử cho tới khi trả xong nợ của mình, hoặc ít nhất cũng chứng minh

được là vào lúc này hay một thời gian nào đó anh ta không phải sống nhờ vào sự

bố thí” [70; tr.259]. Thứ ba, “Người không chịu nộp thuế, nếu sự việc kéo dài tới

mức không thể là do sơ xuất không cố ý, phải bị truất quyền bầu cử trong thời kỳ

ấy” [70; tr.259]. J.S.Mill luận giải nếu ai đó bị mất quyền bầu cử, “thì lỗi là do

anh ta hoặc không thật chăm lo làm mọi việc để gìn giữ nó, điều mà anh ta buộc

phải làm, hoặc là anh ta đang ở trong một tình trạng chung của việc bị hạ nhục và

110

xem thường khiến không cảm thấy khó chịu trước việc quyền của mình bị hạn

chế một cách cần thiết vì lợi ích của người khác và chỉ cần phấn đấu vươn lên thì

có thể làm cho dấu hiệu của sự thua kém này cũng như các dấu hiệu khác sẽ biến

mất” [70; tr.259].

Nhờ những cuộc cải cách chính trị, số cử tri tại Anh khi đó đã tăng lên rõ rệt.

Trước thực tiễn đó, J.S.Mill đã hướng đến việc sử dụng quyền bầu cử một cách

có hiểu biết bằng định hướng rằng, tất cả các cử tri ngoài biết đọc biết viết thì

cần biết về “hình thể trái đất, những phân chia tự nhiên và chính trị của nó,

những kiến thức sơ đẳng về lịch sử nói chung, về lịch sử và các thiết chế của

chính đất nước mình” [70; tr.255]. Đó là những kiến thức nền tảng cơ bản tạo

cho chúng ta tiền đề vững chắc để tiếp thu những kiến thức cao hơn, đặc biệt là

mở rộng khả năng hiểu biết về chính trị. Từ thực tế này, ông yêu cầu chính quyền

cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nước ông học tập, tìm hiểu và

nâng cao kiến thức về mọi mặt. Một lá phiếu chỉ có giá trị đích thực khi người sử

dụng nó biết cách dùng nó để mang tới những lợi ích tốt đẹp nhất cho dân chúng

nói chung. Nghĩa là, họ biết lựa chọn những người đại diện tài năng, đức độ nhất

và phù hợp nhất để mang lại quyền lợi cho toàn thể. Trước thực tiễn đó, J.S.Mill

đã đưa ra đề nghị về nguyên tắc lá phiếu bổ sung trước yêu cầu về sự mở rộng

quyền bầu cử.

J.S.Mill cũng đề xuất một ý kiến về việc tăng số phiếu cho cá nhân tài năng,

đức độ “Nếu phẩm hạnh bằng nhau, nhưng một người cao hơn người kia về kiến

thức và trí tuệ - hoặc nếu trí tuệ ngang bằng nhau, nhưng người này trội hơn

người kia về phẩm hạnh – thì ý kiến, sự phán xét của người có đạo đức hay có trí

tuệ cao hơn là có giá trị nhiều hơn của người thấp kém hơn” [70; tr.261]. J.S.Mill

đưa ra thiết kế về luật bầu cử phổ thông có chia hạng ưu tiên. Trong một đất

nước, những cá nhân trí tuệ cao có quyền có nhiều lá phiếu hơn những công dân

111

bình thường. Theo J.S.Mill, nên cho phép tất cả những người tốt nghiệp đại học,

những người có trí tuệ cao được quyền có nhiều lá phiếu. Họ vừa có quyền đăng

ký đặc cách có phiếu bầu tại bất cứ khu vực bầu cử nào họ chọn, ngoài ra họ vẫn

được duy trì thêm lá phiếu với tư cách công dân bình thường tại địa phương mà

họ cư trú. Đây là một cơ chế nhằm gia tăng quyền đi bầu cho những cử tri có

giáo dục và tri thức. Với J.S.Mill, phần tuyệt đối thiết yếu của kế hoạch về quyền

có nhiều lá phiếu là nó phải mở ra cho cá nhân nghèo khó nhất trong cộng đồng

được quyền biệt đãi này, miễn là cá nhân đó xứng đáng về mặt trí tuệ. Có thể

nhận thấy, J.S.Mill rất đề cao học vấn của dân chúng. Sự ưu ái đó xuất phát từ lợi

ích cho toàn xã hội. “Lợi ích của phổ thông đầu phiếu một cách triệt để sẽ không

thể có được, nếu không đưa quyền có nhiều lá phiếu vào cùng với nó” [70;

tr.269]. Mặc dù J.S.Mill đưa ra nguyên tắc quyền có nhiều lá phiếu là điểm đặc

sắc trong quan điểm về dân chủ và bầu cử nhưng ý tưởng này của J.S.Mill khá

khó để thực hiện. Những tiêu chuẩn ấy rất mơ hồ, khó định lượng, không mang

tính khả thi.

Một trong những đóng góp vượt thời đại của J.S.Mill khi xác định đối

tượng được áp dụng quyền tự do chính trị không chỉ cho người đàn ông trưởng

thành (man) mà còn giành quyền đó cho người phụ nữ. Đây là những quyền cơ

bản của con người hiện đại nhưng lại là vấn đề hết sức gai góc của nước Anh ở

thời đại Victoria và của các nước phương Tây lúc bấy giờ. Là một học giả có trái

tim nhân ái, tiến bộ, cùng với sự khơi gợi ý tưởng từ người vợ, J.S.Mill rất quan

tâm đến bình quyền phụ nữ. Ông nhận thấy rằng, sự phân chia ranh giới trong xã

hội không chỉ là giữa những giai cấp, tầng lớp cùng với những vấn đề của họ, mà

đơn giản chính là giữa nam giới và nữ giới. J.S.Mill nhận thấy rằng ông cần phải

chống lại các quan điểm định kiến của xã hội đương thời. Trong thời đại của

J.S.Mill, người phụ nữ có vai trò xã hội rất mờ nhạt. Họ bị đánh giá rất thấp về vị

112

trí và năng lực. Đối với J.S.Mill, coi phụ nữ lệ thuộc nam giới là một cách nhìn

sai lầm và nguy hiểm. Theo ông, nguồn gốc dẫn đến áp bức phụ nữ là do sự

chuyên quyền trong gia đình và trong xã hội. J.S.Mill vừa nhấn mạnh sự ngang

bằng giữa nam và nữ, đồng thời bênh vực cho những người phụ nữ yếu ớt cần

được bảo vệ và ông khẳng định “Tháo xiềng xích cho con người là điều ích lợi

cho họ, ngay cả khi họ không muốn bước chân đi nữa. Hẳn sẽ là một cải tiến lớn

lao cho địa vị tinh thần của phụ nữ, khi họ không còn bị luật pháp tuyên cáo như

không có khả năng có được ý kiến và không được quyền ưu tiên đối với những

mối quan tâm trọng yếu nhất của nhân loại” [70; tr. 276].

Ngược dòng lịch sử, lúc Thomas Jefferson viết Tuyên ngôn độc lập (The

Declaration of Independence, 1776) của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ39 [153; tr.1]

hay như Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền (The French Declaration of

the Rights of Man and of Citizens of 1789) của Cộng hòa Pháp40 [155; tr.35]

có xác định như sau đều có xác định nam giới là đối tượng được hưởng những

quyền tự do chính trị. Điều này cho thấy, vào thời điểm đó quyền tự do chính

trị bị giới hạn, chỉ dành cho người đàn ông. J.S.Mill là người có công lao đưa

vấn đề quyền tự do chính trị của phụ nữ lên bàn nghị sự của chính giới. Cuốn

sách “Sự áp bức phụ nữ” được J.S.Mill viết để tán thành quyền bỏ phiếu của

phụ nữ và quyền bình đẳng giới. Năm 1866, Đơn yêu cầu quyền bầu cử với

chữ ký của 1500 phụ nữ đã được J.S.Mill đệ trình lên Hạ viện Anh. Trong Dự

luật cải cách năm 1867, J.S.Mill có một sửa đổi nổi tiếng, thay từ người (man)

bằng từ người (person). Dẫu không thành công ngày thời điểm đệ trình, nhưng

đó là sự nỗ lực mạnh mẽ nhất của một nghị sĩ, một nhà tư tưởng lớn dám đấu

tranh cho quyền tự do chính trị của nữ giới – một nội dung cơ bản của sự bình

đẳng và tự do cho con người.

113

2.4. Giá trị và hạn chế quan điểm của J.S.Mill về tự do

2.4.1. Giá trị quan điểm của J.S.Mill về tự do

2.4.1.1. Giá trị tư tưởng của quan điểm về quyền tự do cá nhân

Trong hệ thống quyền con người, quyền tự do cá nhân là quyền cơ bản của

con người. Do trực tiếp gắn liền với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân,

nên quyền cá nhân quy định xu hướng phát triển nhân cách, hoàn thiện bản chất

người trong mỗi người. Đọc tác phẩm “Bàn về tự do”, chúng ta có thể tìm thấy

trong đó những nhận xét, những lời giáo huấn mang ý nghĩa đạo đức về phương

pháp rèn luyện phẩm hạnh, cá nhân phải hành động sao cho đúng… J.S.Mill

khẳng định với tư cách là mỗi cá nhân trong xã hội – không kể là cán bộ công

quyền hay là người dân – đều phải có nghĩa vụ ngăn chặn những hành vi phạm

tội khi nhận thấy có bất cứ chứng cứ nào của việc chuẩn bị phạm tội. Ông cho

rằng, mỗi người không nên thụ động ngồi chờ cho tội ác được hoàn tất, mà cần

phải can thiệp để ngăn chặn nó. Mặc dù trong những hành vi chỉ liên quan đến

bản thân mình, cá nhân dường như được tự do vô hạn. Tuy nhiên, cá nhân

không được phép lạm dụng quyền tự do đó của bản thân, bởi lẽ, cá nhân không

thể thoát ly khỏi cộng đồng. Chính cộng đồng đã tạo ra môi trường để cá nhân

tồn tại và phát triển. Vì vậy, cá nhân phải có trách nhiệm với chính cộng đồng

đó. Thậm chí, những hành vi của cá nhân chỉ liên quan đến họ thôi cũng vẫn có

những ảnh hưởng nhất định đến cộng đồng. Quyền tự do cá nhân không tách rời

với trách nhiệm. Không thể có tự do thuần túy mà không liên quan gì đến trách

nhiệm đối với người khác và đối với xã hội. Cho nên một mặt cá nhân phải biết

tôn trọng lợi ích của người khác để hành vi của mình không xâm phạm đến

chúng. Mặt khác, cá nhân phải luôn chú trọng tu dưỡng và rèn luyện đạo đức

cho bản thân. J.S.Mill nhận định “Làm gì có chuyện hành vi của một thành viên

xã hội lại không liên quan đến các thành viên khác? Không người nào là một

thực thể cô lập hoàn toàn; một người không thể làm tổn hại nghiêm trọng và lâu

114

dài cho bản thân mà không thể lại hậu quả ít nhất cũng cho những người thân

cận với anh ta” [69; tr.179]. Như vậy có thể khẳng định J.S.Mill tiếp cận tự do

không những với tư cách là một phạm trù chính trị mà còn là phạm trù văn hóa

gắn liền với đạo đức.

Khi bảo vệ tự do cho cá nhân, J.S.Mill chĩa thẳng mũi nhọn tấn công vào

sự chuyên chế của xã hội áp đặt lên cá nhân, đó là “bộ máy áp bức tinh thần”

của Anh quốc thời đại Victoria. J.S.Mill nhận định “Ở bất cứ nơi đâu có giai

cấp uy thế đang lên thì phần lớn nền đạo đức của xứ sở này xuất phát từ quyền

lợi giai cấp và từ cảm nhận tính ưu trội của giai cấp đó” [69; tr.27]. Nhận định

này của J.S.Mill có sự tương đồng về mặt tư tưởng của quan điểm mác xít về

đạo đức mang tính giai cấp và tư tưởng của giai cấp thống trị trở thành tư tưởng

thống trị xã hội “Trong mọi thời đại những tư tưởng của giai cấp thống trị là

những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất

thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai

cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những

tư liệu sản xuất tinh thần” [80; tr.66]. Dưới thế kỷ XVII, Anh quốc là quốc gia

của những cuộc nội chiến và đấu tranh tôn giáo nên J.Locke đặc biệt quan tâm

đến việc bảo vệ sự tự do trước sự cai trị chuyên chế của chính phủ độc tài, cụ

thể đó là chế độ quân chủ chuyên chế của dòng họ Stuarts và Giáo hội Công

giáo. Đến thế kỷ XIX, mặc dù bối cảnh lịch sử đã thay đổi, nhưng ở Anh quốc

vẫn tồn tại sức mạnh dư luận, khống chế cá nhân từ sự cai trị chuyên chế của

chính phủ và giáo lý nghiêm ngặt của Thanh giáo. J.S.Mill từng nhận định: “Do

hoàn cảnh đặc thù của lịch sử chính trị mà ở nước Anh ách dư luận cũng nặng

nề hơn, so với phần lớn các nước khác ở châu Âu [69; tr.32]. Bàn về vấn đề này,

Ph.Ăngghen cũng từng nhận định “Nền giáo dục đạo đức trong tất cả các

trường học ở Anh bị gắn chặt với giáo dục tôn giáo” [79; tr.470]. Đó là thời đại

mà “từ giai tầng cao nhất cho đến thấp nhất của xã hội, người nào cũng sống tựa

115

như là ở dưới con mắt kiểm duyệt đầy thù địch và đáng sợ” [69; tr.140]. Đặt tư

tưởng của J.S.Mill trong hoàn cảnh lịch sử như vậy mới thấu hiểu được điểm

độc đáo và tiến bộ trong tư tưởng của ông. Theo J.S.Mill, sự chuyên chế của xã

hội lúc bấy giờ thực sự kìm tỏa một số quyền tự do cá nhân, trong đó có tự do tư

tưởng và tự do thảo luận.

Bên cạnh “bộ máy áp bức tinh thần”, J.S.Mill cho rằng tự do cá nhân có

thể bị đe dọa bởi tiếng la hét của đám đông ồn ào và ông gọi đó là “sự chuyên

chế của đa số”. Nếu như T.Hobbes cho rằng tự do chỉ tồn tại ở nơi nào có sự im

lặng của pháp luật (silence of the law) thì J.S.Mill lại quan niệm: Tự do có thể

bị đe dọa bởi tiếng la thét của đám đông ồn ào. Ông gọi đó là “sự chuyên chế

của đa số” (tyranny of the majority). Như vậy, theo J.S.Mill kẻ thù của tự do cá

nhân chính là sự ràng buộc của tập tục truyền thống, sự chuyên quyền xã hội,

sự áp chế của ý kiến và gông xiềng của dư luận. Những lực lượng đó, trong khi

gây cản trở đối với tự do cá nhân, sẽ tạo nên khuynh hướng chạy theo tâm lý

“đám đông”, hay xu hướng tập thể. J.S.Mill là một triết gia dành nhiều nỗ lực

chống lại xu hướng “đám đông” trong đời sống xã hội. Với J.S.Mill, sự chuyên

chế của đa số là một sự chuyên chế xã hội còn đáng sợ hơn với nhiều hình thức

áp bức chính trị khác. Ông viết “Tính chuyên chế của tập quán ở mọi nơi là

chướng ngại thường trực cản trở con người tiến lên phía trước, luôn không

ngừng đối kháng với xu hướng tới cái gì tốt đẹp hơn thói thường” [69; tr.160].

Như vậy, J.S.Mill cho rằng kẻ thù của tự do cá nhân chính là sự ràng buộc của

sự chuyên quyền của xã hội, sự áp chế của ý kiến đa số và gông xiềng của dư

luận. Chính điều này khiến cho tiến bộ xã hội bị ngưng trệ.

J.S.Mill e ngại trước “sự chuyên chế của đa số” ngày càng đe doạ tự do xã

hội và của cá nhân của nước Anh lúc bấy giờ bởi vì sự phát triển của công

nghiệp hóa khiến các điều kiện sống ngày càng tương đồng làm cho lối sống và

cách suy nghĩ trở nên dập khuôn “nói một cách tương đối thì bây giờ họ đọc

116

cùng một thứ, nghe cùng một thứ, xem cùng một thứ, đi đến cùng một chỗ, có

niềm hy vọng và nỗi e ngại hướng đến cùng một đối tượng” [69; tr.168]. Điều

này gây tổn hại đến tự do của cá nhân vì nó dẫn đến chỗ “cá tính” không còn

được xem như là giá trị nữa, không còn sự ủng hộ nào của xã hội đối với tính

độc đáo và “sự lập dị thiên tài”. J.S.Mill bày tỏ sự lo lắng “sự chuyên chế của

dư luận chủ yếu là chê trách sự lập dị cho nên để phá vỡ sự chuyên chế ấy mà

điều mong muốn là người ta phải lập dị. Sự lập dị luôn nở rộ ra khi nào và ở nơi

đâu mà sức mạnh của tính cách nở rộ và nói chung, lượng đo sự lập dị trong xã

hội cũng tỉ lệ với lượng thiên tài, sức mạnh tinh thần và sự dũng cảm đạo đức

mà xã hội chứa đựng” [69; tr.155]. Như vậy, điều mà J.S.Mill băn khoăn lớn

nhất vẫn là nguy cơ bị hạn chế của những cá nhân thiên tài trước những cấm kỵ,

quy ước của bộ máy quan liêu và “công luận”. Vì thế, khi viết tác phẩm “Chính

thể đại diện”, J.S.Mill chủ trương thiết lập một nền dân chủ đại diện nhằm tăng

cường ảnh hưởng chính trị của các nhóm thiểu số bằng các định chế và “nguyên

tắc tự do” nhằm minh định ranh giới can thiệp của xã hội.

2.4.1.2. Giá trị tư tưởng của quan điểm về các quyền và tự do dân chủ về

chính trị

Trước hết, xoay quanh vấn đề bầu cử, J.S.Mill đã đưa ra nhiều ý tưởng mới

mẻ để đẩy lùi hạn chế trong xã hội Anh thời đó. Ông ủng hộ phổ cập giáo dục

phải đi trước phổ thông đầu phiếu, mở rộng quyền bầu cử tới mọi tầng lớp nhân

dân lao động. Ông là người ủng hộ cho hệ thống bầu cử theo tỷ lệ. Bất kể những

người nào đủ tuổi, có mong muốn được bỏ phiếu, có khả năng nuôi sống bản

thân và đóng thuế đầy đủ đều có quyền được bỏ phiếu. Với hệ thống này,

J.S.Mill hy vọng có thể giảm thiểu tối đa sự chuyên chế của đa số. Đồng thời,

ông còn hi vọng bất kỳ một công dân nào cũng đều có quyền bầu cử và bất kỳ

một cá nhân tài giỏi nào nằm trong giới tinh hoa có số lượng vô cùng ít ỏi trên cả

nước cũng đều có thể tham chính. Quan niệm về cách thức ứng cử cho vị trí đại

117

diện của J.S.Mill cũng tạo điều kiện cho những người tài giỏi chứ không nhất

thiết họ phải là đảng viên của bất kỳ đảng phái nào. Chính tài năng của họ sẽ gây

được tầm ảnh hưởng lên toàn thể dân chúng và chính cách thức bầu cử mà

J.S.Mill đề xuất cho phép cử tri có thể bầu cho bất kỳ ứng viên ở địa phương nào

trên cả nước sẽ khiến cho cá nhân tinh hoa nào cũng có cơ hội trở thành đại diện.

Ông lên án thực tế nước Anh không tạo điều kiện cho các cá nhân xuất chúng.

Một ứng viên được đưa ra tranh cử khi anh ta “không có chút đặc sắc nào, không

có ý kiến nào phân biệt được ngoại trừ khẩu hiệu của đảng” [70; tr.213] và như

thế, anh ta sẽ được phần ưu ái hơn cả. Đây cũng là nét nổi bật trong quan niệm

của J.S.Mill về một nền dân chủ đại diện, dân chủ chính hiệu.

J.S.Mill yêu cầu một nền dân chủ đại diện phải là một nền dân chủ mà ở đó

“Các nhóm thiểu số phải được đại diện đầy đủ, ấy chính là một phần mang tính

bản chất của nền dân chủ. Không có điều này thì không thể nào có dân chủ thực

sự mà chỉ là màn trình diễn giả dối của dân chủ mà thôi” [70; tr. 215]. Đó cũng là

một nền dân chủ mà không bất kỳ giai cấp nào được thiên vị, đặc biệt là giai cấp

thống trị “trong một quốc gia mà một giai cấp duy nhất chiếm đa số số học thì

một nền dân chủ hoàn toàn bình đẳng không thể loại bỏ hẳn được một số điều

xấu xa nào đó; thế nhưng những điều xấu xa ấy sẽ làm trầm trọng hơn khi các

nền dân chủ hiện hữu không phải là dân chủ bình đẳng mà lại là bất bình đẳng

một cách có hệ thống, nhằm thiên vị cho giai cấp thống trị” [70; tr. 208]. Dám đi

thẳng vào một lỗ hổng trong nền chính thể Anh, J.S.Mill thực sự là biểu tượng

cho tinh thần đấu tranh dân chủ, bình đẳng, tự do. Cho tới nay, những tư tưởng

này của ông vẫn còn có giá trị đối với nhiều quốc gia đang trong giai đoạn khủng

hoảng hay cải cách chính trị.

Về tiêu chuẩn nhận biết một chính phủ tốt đẹp, theo J.S.Mill, nó nằm ở giới

hạn mà chính phủ cho phép cá nhân được sinh sống và làm việc theo cách riêng

của họ. Ông nhấn mạnh rằng sự can thiệp của chính phủ đối với các hoạt động cá

118

nhân nên giảm tối thiểu. Bởi lẽ, thực tế nhà nước đang ngày càng áp dụng nhiều

quy định, điều luật đã khiến cho hành động của con người luôn luôn bị bó hẹp.

Ông tin rằng, tự do là thành tố chính cho sự phát triển của xã hội. Ông cho rằng,

khi tăng quyền lực nhà nước và giảm đi quyền tự do cá nhân sẽ dẫn đến tình

trạng chuyên chế của tập thể. Theo J.S.Mill, chân lý tồn tại trong các cuộc thảo

luận. Trong các cuộc thảo luận công khai và tự do, người dân sẽ hiểu biết thêm

về chính trị, tăng thêm kiến thức cũng như được thực hiện quyền tự do ngôn luận

của mình.

2.4.1.3. Giá trị tư tưởng của quan điểm về giáo dục trong việc thực hiện

quyền tự do cho người dân và mở rộng nền dân chủ

Giá trị những tư tưởng về giáo dục của J.S.Mill được trình bày trong những

luận điểm sau:

Thứ nhất, quyền được học tập, được tiếp cận nền giáo dục phổ thông là một

trong những quyền tự do của con người

Theo J.S.Mill, con người có các quyền tự do cơ bản; trong những quyền ấy,

có quyền được học tập, được thụ hưởng nền giáo dục phổ thông. Ông nhấn mạnh

vấn đề phổ cập giáo dục mang tính tất yếu, thậm chí cả cưỡng bách “nhà nước

phải quy định và bắt buộc tới một chuẩn mực nào đó cho mọi người” [69; tr.233].

Ông ủng hộ nhà nước có quyền buộc cha mẹ phải tạo điều kiện giáo dục cho con

trẻ. Cha mẹ cần phải có bổn phận cho con một sự giáo dục thích hợp để đứa trẻ

hiểu biết nghĩa vụ của nó đối với bản thân và người khác. Ở một độ tuổi nhất

định, đứa trẻ phải trải qua kỳ thi để xác định khả năng đọc của chúng. Nếu đứa

trẻ không đọc được và cha mẹ không có lý do chính đáng thì họ sẽ chịu phạt với

một số tiền hợp lý. Để tạo điều kiện cho trẻ em nghèo có thể đến trường, nhà

nước phải miễn toàn bộ chi phí học tập. Không chỉ đối với trẻ em, J.S.Mill muốn

mở rộng giáo dục cho những người phụ nữ. Ông đánh giá điều này có ý nghĩa rất

lớn trong việc giải phóng người phụ nữ, để họ có cơ hội phát triển như nam giới,

119

được hoàn thiện và thể hiện ngang bằng nam giới. Cụ thể năm 1869, lần đầu tiên,

nữ sinh của trường Đại học Griton, Cambridge được ông giảng dạy và đánh giá

bài kiểm tra môn Kinh tế chính trị. Bằng cả lý luận và thực tiễn, J.S.Mill có

những đóng góp lớn trong giáo dục ở Anh Quốc.

Thứ hai, giáo dục là điều kiện để cá nhân có khả năng thực hiện quyền

chính trị của mình

Theo J.S.Mill, giáo dục không chỉ là điều kiện để con người thực hiện các

quyền tự do dân sự mà còn là điều kiện quan trọng để bảo đảm thực hiện các

quyền chính trị của mỗi công dân. Trong thời kỳ này, số cử tri tại nước Anh đã

tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, người dân không hiểu biết thì họ rất khó để có được

lựa chọn tốt. Mà điều kiện để hình thành chính thể lý tưởng lại là dân chúng ở xã

hội ấy phải tự nguyện chấp nhận và có khả năng làm những việc cần thiết để giữ

cho chính thể đó vận hành tốt. Thêm nữa, họ phải có đủ tri thức để biết cách đòi

hỏi những điều tốt cho mình từ những người đại diện của mình. Nếu không có

giáo dục, không có kiến thức, dân chúng không thể có được điều kiện cần và đủ

để làm “chủ” một chính thể đại diện được. Cùng với hạn chế này, họ cũng dễ bị

các chính trị gia thực hiện chính sách “mị dân” để họ có thể thỏa sức “chuyên

quyền”. Như vậy, người dân không những không được hưởng chút lợi lộc gì từ

chính quyền mang tên “đại diện” ấy mà còn trở thành nô lệ dưới một hình thức

tinh vi, trá hình so với thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ. Quan niệm trên là một

đóng góp lớn của J.S.Mill trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

Thứ ba, giáo dục có vai trò quan trọng trong việc xây dựng thể chế dân chủ

Khi nghiên cứu lịch sử Hi Lạp - La Mã cổ đại, J.S.Mill nhận thức rất rõ bài

học mà nền dân chủ Athen và Roma để lại. Theo ông, sự sụp đổ của nền dân chủ

Athen, xuất phát từ chỗ mọi thành viên trong xã hội, kể cả người thất học đều

can dự trực tiếp vào công việc của quốc gia. Aristotle cũng từng nêu cao vai trò

của giáo dục trong việc xây dựng chính quyền. Theo Aristotle, quần chúng phải

120

được giáo hóa sao cho người dân sống và hành động theo tinh thần của hiến pháp

tạo dựng ra chế độ. Vấn đề giáo dục cho người dân, không chỉ nhằm giáo dục để

họ thi hành những điều tốt đẹp của chế độ mà còn để họ biết mà tránh làm những

điều khiến chế độ suy vong. J.S.Mill luôn trăn trở làm sao có thể giáo dục chính

trị cho người dân. Ông cho rằng “thực hiện sự giáo dục chính trị quan trọng,

chính là phương tiện giao lưu với tầng lớp thấp hơn trong xã hội. Cho nên, do

việc giáo dục tinh thần cho dân chúng ở các công việc địa phương giữ một vai

trò quan trọng hơn so với những công việc chung của nhà nước, và nhất là trong

trường hợp này, những lợi ích sống còn không phụ thuộc quá nhiều vào chất

lượng của việc quản lý, nên cho phép ta ưu tiên xem trọng mục đích giáo dục

tinh thần hơn là chất lượng quản lý công việc chung của cả đế chế” [70; tr. 397].

Bởi vậy, khi bàn về chính thể, J.S.Mill đã cố gắng tuyên truyền cho dân chúng

bằng những lời lẽ dễ hiểu, ví dụ cụ thể hay lối diễn đạt những triết lý chính trị rõ

ràng về những quyền tự do mà dân được hưởng và cách thức để họ giành được

quyền tự do ấy. Ở đấy, J.S.Mill hiện lên là một người cần mẫn, dẫn dắt dân

chúng theo logic mà ông lần lượt đề ra cho mình. Đó là: từ việc giáo dục chính

trị, đào luyện tinh thần cho dân chúng có thể cung cấp cho họ sự hiểu biết về tính

ưu việt của chính thể đại diện bằng cách giới thiệu và biện minh cho một thiết

chế hay một hình thức chính thể cá biệt, soi sáng minh bạch các ưu thế của nó.

Từ đó khiến cho họ ao ước được sống dưới một chính thể như vậy. J.S.Mill hiểu

được rằng, những thói quen nhận thức đã ăn sâu vào tiềm thức của nhân dân sẽ

rất khó gỡ bỏ ngoại trừ việc lặp đi lặp lại một ý niệm mới nào đó. Vì vậy, bằng

cách rao giảng cho họ về các quyền mà họ được có và về một chính thể lý tưởng

sẽ tạo lập cho họ một niềm tin chắc chắn và “chính những gì con người suy nghĩ

quyết định việc họ hành động thế nào” [114; tr.95]. Chỉ cần có niềm tin, con

người sẽ sẵn sàng hành động theo niềm tin ấy. Bằng cách đó, dân chúng dần dần

sẽ giành được quyền lợi cho mình và biết cách yêu cầu, đòi hỏi một chính thể

121

mang lại nhiều điều tốt đẹp nhất cho họ. Thế nên, giáo dục giữ vai trò quan trọng

trong việc xây dựng thể chế dân chủ.

J.S.Mill sớm nhận thấy sự nguy hiểm của nền dân chủ xuất phát từ mặt hạn

chế của cử tri thiếu hiểu biết. Khi đó, dân chủ trở nên nguy hiểm. Ông nhận thấy

điều đó trong thể chế chính trị Pháp. Theo ông, nước Pháp đã cho thấy một bài

học đắt giá về sự nguy hiểm khi để người dân chưa được giáo dục tham dự vào

dân chủ “Hàng triệu cử tri, những người trái ngược với công dân có giáo dục của

một đất nước, những người đã tạo nên Hoàng đế Louis Napoleon, lại chủ yếu là những người nông dân nghèo, không có khả năng đọc hoặc viết”41 [149; tr.327].

Ông không ủng hộ Louis Napoleon bởi lẽ Louis Napoleon được tạo nên từ những

con người thiếu giáo dục và chính những người đó tạo nên một chính thể độc tài.

Năm 1850, J.S.Mill từng viết rằng, ông và Harriet “kinh hãi sự ngu dốt và đặc biệt

là sự ích kỷ, sự hung hãn của đám đông bởi lẽ nền giáo dục vẫn tồn tại những thiếu sót thảm hại”42 [149; tr.239]. Vì vậy, ưu tiên giáo dục luôn là một chính sách mà

ông theo đuổi trọn đời. Xuất phát từ sự ủng hộ và đề cao vai trò giáo dục, J.S.Mill

quan niệm rằng con người không được trang bị giáo dục là một “tội ác đạo đức”

[69; tr.234] vừa chống lại cá nhân, vừa chống lại xã hội. Tội ác chống lại cá nhân

có nghĩa là con người được sinh ra nhưng lại không có quyền hoàn thiện bản thân,

vươn lên như một thực thể tự do. Còn tội ác chống lại xã hội nghĩa là một xã hội

toàn những công dân thiếu hiểu biết thì sẽ là một xã hội không thể phát triển. Có thể

thấy trong các tác phẩm, J.S.Mill đặc biệt đề cao vai trò của giáo dục trong việc

thực hiện quyền tự do cá nhân và mở rộng nền dân chủ. Những tư tưởng về giáo

dục của ông luôn được các thế hệ độc giả đón nhận.

2.1.4.4. Giá trị tư tưởng của quan điểm về giải phóng phụ nữ

Tư tưởng về tự do cá nhân của J.S.Mill mang tính bao quát, hướng đến mọi

con người cá nhân, cả nam giới cũng như nữ giới. Từ luận điểm nền tảng là tự do

cá nhân, J.S.Mill quan tâm đến sự bình đẳng giới, giải phóng người phụ nữ như

một vấn đề cần thiết của tiến bộ xã hội.

122

Trước hết, trong quan hệ hôn nhân - gia đình, phụ nữ hoàn toàn có quyền

bình đẳng với người chồng về địa vị và về các quyền

Để đem lại sự bình đẳng cho phụ nữ, theo J.S.Mill, trước hết phải xóa bỏ

khoảng cách giới tính ngay trong quan hệ hôn nhân. Ông coi hôn nhân là nút thắt

đầu tiên cần tháo gỡ “Vấn đề không phải hôn nhân nên là gì, mà một vấn đề rộng

hơn rằng phụ nữ nên là gì… Việc xác định hôn nhân là mối quan hệ giữa hai con

người ngang bằng nhau, hay là mối quan hệ giữa bề trên và kẻ dưới, giữa người

bảo vệ và kẻ phụ thuộc sẽ giúp giải quyết dễ dàng mọi vấn đề khác” [114; tr.76].

J.S.Mill tố cáo hôn nhân là nơi ẩn nấp của sự áp bức phụ nữ, là bức tường vô

hình kiềm tỏa tự do của họ. Về vấn đề này, J.S.Mill đã tiếp nối ý tưởng theo tác

phẩm “Sự xác minh những quyền của phụ nữ” (A Vindication of rights of woman) của Mary Wollstonecraft43. Mary Wollstonecraft chế nhạo hôn nhân là

là thiết chế trấn áp phụ nữ, là một “nạn mại dâm hợp pháp” (legal prostitution)

mà ở đó người phụ nữ là những nô lệ. Điều này cũng được J.S.Mill trình bày

trong tác phẩm “Bàn về tự do” khi ông lên án chế độ đa thê. J.S.Mill cho rằng

phụ nữ là nạn nhân của chế độ đó, dù phần nhiều trong số họ là những nạn nhân

tự nguyện. Sự tự nguyện và cam chịu của phụ nữ xuất phát từ định kiến xã hội.

Các quan niệm và tập quán chung của thế giới vẫn dạy phụ nữ rằng hôn nhân là

việc cần thiết, và rằng họ thà chấp nhận làm vợ lẽ còn hơn không làm vợ của ai

cả. Đây chính là lý do dễ hiểu nhất để giải thích sự khuất phục ở phụ nữ. J.S.Mill

đã chỉ ra mặt hạn chế của luật hôn nhân của nước Anh trong thời kỳ đó. Ông coi

luật hôn nhân đương thời là một trở ngại lớn đối với tiến trình giải phóng phụ nữ.

Những điều khoản của nó không có chỗ để người vợ được lên tiếng, không có cơ

hội nào để người vợ được hạnh phúc thực sự. Nếu như luật hôn nhân nhằm

hướng đến sự chinh phục phụ nữ như chế độ nô lệ đã làm trước đó thì nó hoàn

toàn trở nên dư thừa. Từ đó, J.S.Mill yêu cầu cải cách luật hôn nhân để biến nó

thành một thoả thuận, không đặt sự hạn chế về bất kỳ bên nào.

123

Trong quan hệ gia đình, J.S.Mill lên án sự thiên vị mọi đặc quyền cho

người cha. Ông cho rằng, khi người cha có toàn quyền pháp lý với con cái, còn

người mẹ thì hầu như không có chút quyền nào là điều bất công. J.S.Mill không

ủng hộ kiểu gia đình chuyên quyền, gia trưởng bởi đó sẽ là nguy cơ làm hỏng

tính cách của những đứa trẻ, cung cấp một bài học vỡ lòng về sự gia trưởng đối

với trẻ nhỏ. J.S.Mill khẳng định chỉ khi gia đình được xây dựng dựa trên nền

tảng sự bình đẳng giữa người cha và người mẹ thì mới có thể tạo thành “một

cuộc sống thường nhật của con người, và theo một ý nghĩa cao cả nhất là một

môi trường nuôi dưỡng đạo đức” [114; tr.79].

Như vậy, J.S.Mill cho rằng hôn nhân bình đẳng và bền vững là điều kiện

không những góp phần giải phóng phụ nữ, mà còn là môi trường nuôi dưỡng

phát triển bản tính tốt đẹp của trẻ nhỏ. Vì thế, J.S.Mill không khuyến khích tình

trạng ly hôn. Tuy nhiên, với ông, hôn nhân không phải là một thiết chế ràng buộc

vĩnh viễn. Nếu cuộc sống gia đình không thể tiếp tục dung hòa, nếu giữa người

chồng và người vợ không thể tìm được tiếng nói chung mang tên hạnh phúc, thì

ly hôn là chuyện buộc phải xảy đến. Trong trường hợp này, nếu đánh giá dựa

trên mặt tích cực thì ly hôn có lẽ là ly hôn có lẽ là sự giải phóng cho người phụ

nữ. Đây là tư tưởng tiến bộ về hôn nhân và gia đình tại thời điểm đó. Trên thực tế,

năm 1857, luật ly hôn ở Anh đã được điều chỉnh, cho phép cặp vợ chồng được ly

dị thông qua tòa án.

Về vị trí và vai trò của phụ nữ trong xã hội

Ở góc độ lý luận, ông đã trả lại cho phụ nữ vị trí và vai trò mà họ xứng đáng

có được. J.S.Mill đã sử dụng học thuyết về phẩm chất tự nhiên làm cơ sở cho

thuyết bình đẳng giới, giải phóng người phụ nữ. Trong tác phẩm “Sự áp bức phụ

nữ”, ông cho rằng không thể căn cứ vào giới tính, chủng tộc, ngoại hình để đánh

giá năng lực và phẩm chất của con người. Do đó, ông phủ nhận quan điểm ảnh

hưởng của tầm vóc cơ thể đến khả năng tư duy của người phụ nữ. Bản thân ông

124

đã có mối liên hệ tình cảm sâu sắc với Harriet, một người phụ nữ nhỏ bé về vóc

dáng nhưng lại có khả năng tư duy thông minh, sắc sảo. Đối với J.S.Mill, quan

niệm bản tính của phụ nữ thấp kém hơn so với đàn ông, để từ đó tạo ra uy quyền

trong một xã hội, nơi mà người phụ nữ được dạy bảo từ khi sinh ra phải hành

động và suy nghĩ theo những cách cho phép là những sai lầm. Ông cho rằng nếu

như luôn có tập tục xã hội áp chế lên con người thì những tập tục rập khuôn làm

ngột ngạt bản chất cá nhân vẫn áp đặt lên phụ nữ nhiều hơn đàn ông. Vậy nên,

J.S.Mill đòi hỏi cần phải từ bỏ những lề thói áp đặt lên người phụ nữ, để người

phụ nữ có thể tự do phát triển phẩm chất và khả năng.

J.S.Mill đấu tranh đòi bình bẳng cho nữ giới nhằm mục đích đòi hỏi các

quyền tự do cá nhân chính đáng của phụ nữ. Những quyền tự do cá nhân đó sẽ

hướng phụ nữ hành động theo những cảm xúc cá nhân về bổn phận, hành động

theo luật pháp và những chuẩn mực xã hội bởi chính lương tri họ. Tự do sẽ mang

lại cho người phụ nữ món quà về “sự ý thức trong việc sẽ điều khiển vận mệnh

của chính mình bằng chính trách nhiệm đạo đức cá nhân” [114; tr.74]. J.S.Mill

cho rằng khi xã hội tạo được sự bình đẳng giới thì mọi người sẽ thấy được những

lợi ích từ cá nhân phụ nữ. Tự do và bằng đẳng cho phụ nữ sẽ là động lực thúc

đẩy xã hội phát triển. Ông cho rằng sức mạnh xã hội chỉ có được khi đem lại tự

do cho một nửa tổng số tài năng trí tuệ của nhân loại. Các ý tưởng và tiềm năng

của một nửa dân số sẽ được giải phóng, tạo ra hiệu lực rất lớn cho sự phát triển

toàn nhân loại.

Về những quyền tự do của phụ nữ

Trong các quyền tự do của phụ nữ, J.S.Mill xác định quyền và tự do về

chính trị là hình thức quan trọng nhất. Thông qua bình đẳng giới về quyền chính

trị, ông muốn cổ vũ và khuyến khích phụ nữ hướng đến những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Khi bàn về vấn đề này với Alexander Bain44, ông cho rằng “Điều

quan trọng nhất mà chúng ta phải làm là khuyến khích nhiệt huyết của phụ nữ.

125

Chúng ta phải khơi dậy khát vọng trong họ”. Năm 1867, J.S.Mill đã trình bày

trước Hạ viện Anh rằng phải “đánh thức quan điểm chính trị trong phụ nữ về

lòng danh dự” [114; tr.80]. Theo lý lẽ đó, giành quyền bầu cử sẽ là chìa khóa mở

ra những cơ hội khác, những cánh cửa mới cho phụ nữ. Vậy nên, “chiến dịch”

giải phóng phụ nữ của J.S.Mill tập trung chủ yếu nhất vào vấn đề đòi quyền bầu

cử. Đương thời, ở Anh quốc, quyền bầu cử của nữ giới bị phủ nhận. Theo

J.S.Mill, đó là một điều phi lý, một sự mâu thuẫn được bộc lộ rõ ràng. Sự bất

công đó “… được thi hành tại một đất nước mà người phụ nữ đang trị vì, rằng

người cầm quyền vẻ vang nhất mà đất nước xưa nay đã từng có là người phụ nữ,

thì cái bức tranh phi lý và bất công không che đậy ấy thật toàn diện” [70; tr.279].

Ông khẳng định ngay cả trong các xã hội bất bình đẳng như nước Anh và châu

Âu thì vẫn nhận ra bằng chứng rằng khi cho phụ nữ cơ hội, họ có thể vượt trội

hơn trên nhiều lĩnh vực. Ông dẫn chứng như Nữ hoàng Anh Elizabeth I, Nữ hoàng Anh Victoria, hoặc nữ anh hùng Jeanne d'Arc45.

Trong tác phẩm “Chính thể đại diện”, khi bàn về việc mở rộng quyền bầu

cử, ông “không tính đến sự khác biệt giới tính” [70; tr.274]. Theo ông, mọi

người đều có cùng sự quan tâm đến chính thể tốt; và có nhu cầu được góp tiếng

nói trong vấn đề ấy, để đảm bảo lợi ích cá nhân. Thế nên, nam giới hay nữ giới

không có sự khác biệt nào về vị trí trong các vấn đề chính trị. “Nếu có sự khác

biệt nào, thì đó là phụ nữ đòi hỏi có tiếng nói nhiều hơn nam giới, vì rằng họ có

cơ thể yếu ớt hơn nên phụ thuộc vào luật pháp và xã hội nhiều hơn trong việc

được bảo hộ” [70; tr.274]. J.S.Mill quan niệm những lý do người dân có thể bỏ

phiếu là để bảo vệ quyền riêng và để học cách đứng trên hai chân của mình một

cách có đạo đức và trí tuệ. Lập luận này được áp dụng cho cả nam và nữ. Bởi vì,

“đàn ông, cũng như phụ nữ, không cần thiết có quyền chính trị để mà thống trị,

nhưng là để họ không bị cai trị tệ hại” [70; tr.276]. Quyền bầu cử dành cho nữ

giới sẽ có lợi đối với chính người phụ nữ, và cũng đem lại lợi ích cho người đàn

ông là chồng của cô ấy. Bởi vì, những người vợ, như là kết quả của cuộc cách

126

mạng ngấm ngầm trong gia đình, giờ đây sẽ là người đồng minh quan trọng,

người bạn đời tin cẩn, và người cố vấn chân thành nhất của người chồng. Bình

đẳng giới trong chính trị, như cách định nghĩa đơn giản của J.S.Mill, tức là “cả

hai giới phải nổi và chìm cùng nhau” [114; tr.82].

Như vậy, bằng tất cả nỗ lực và nhiệt huyết, J.S.Mill đã truyền thêm sức

mạnh cho phong trào đấu tranh giải phóng phụ nữ trong phạm vi gia đình và trên

bình diện xã hội - chính trị. Thuyết bình đẳng giới chính là sự bổ sung và hoàn

thiện tư tưởng tự do trong triết học chính trị của ông.

2.4.2. Hạn chế trong quan điểm của J.S.Mill về tự do

Những tác phẩm của J.S.Mill được viết cách chúng ta đã một thế kỷ rưỡi cho

nên những tư tưởng trong tác phẩm đó không tránh khỏi hạn chế. Về cơ bản

những hạn chế này mang tính lịch sử, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ thời đại ông

sống. Trong khuôn khổ nghiên cứu, có thể chỉ ra một số điểm hạn chế cơ bản sau:

2.4.2.1. Chủ trương đấu tranh cho quyền tự do của con người nhưng lại

không bảo về sự bình đẳng của các dân tộc có quyền tự do, độc lập

Bằng cả hoạt động lý luận và thực tiễn, J.S.Mill đấu tranh không ngừng

nghỉ cho quyền tự do của con người nhưng ông lại không bảo về quyền tự quyết

về chính trị của các dân tộc bị áp bức, bị đô hộ. Trong “Bàn về vấn đề không can

thiệp”, J.S.Mill đã tỏ ra ủng hộ chính sách đối ngoại của nước Anh nhằm chống

lại các dân tộc thuộc địa đòi quyền tự quyết về chính trị. J.S.Mill cố gắng phác

thảo những nguyên tắc đạo đức quốc tế (true principles international morality)

“học thuyết không can thiệp, là một nguyên tắc đạo đức hợp pháp, phải được

chấp nhận bởi mọi quốc gia”, “can thiệp để thực thi không can thiệp luôn luôn là

chính đáng, luôn luôn đạo đức, nếu không phải luôn luôn thận trọng” [114;

tr.149]. Những quốc gia văn minh có thể can thiệp các vấn đề chính sách của

quốc gia khác nhằm duy trì cân bằng quyền lực. Cách nhìn nhận của J.S.Mill về

các vấn đề liên quốc gia có sự phân biệt một cách rõ ràng giữa những quốc gia

chưa khai hóa (barbarous) và những quốc gia văn minh (civilized). J.S.Mill rất

127

ưa chuộng tự do nhưng ông lại khẳng định “các nhà nước tự do, cũng như các

nhà nước khác, có thể chiếm hữu các nước phụ thuộc, giành được do chinh phục

hay xâm chiếm thuộc địa” [70; tr.453]. Đó chính là những mâu thuẫn mà

J.S.Mill đã né tránh và không tìm cách giải quyết. Bởi lẽ, ông tiếp cận tự do và

các quyền của con người trên lập trường của giai cấp tư sản, bảo vệ phương thức

sản xuất Tư bản chủ nghĩa của Anh quốc. Trong các xứ thuộc địa của Anh thì Ấn

Độ là một thuộc địa lâu đời và rộng lớn. Lý luận của J.S.Mill về vấn đề thuộc địa

có lẽ là sự phản ánh từ thực tế mối quan hệ Vương quốc Anh - Ấn Độ, là sự đúc

kết từ những năm tháng dài lâu làm việc tại công ty Đông Ấn. Ấn Độ là thuộc địa

quan trọng nhất của Anh. Đây là nơi cung cấp nguyên liệu và là thị trường tiêu

thụ hàng hóa lớn của Anh. Anh đã thực hiện sự thống trị hà khắc tại Ấn Độ, làm

cho hàng triệu người nơi đây chết đói. Vậy mà, trong tác phẩm “Bàn về tự do”,

J.S.Mill đã bảo vệ quyền tự do cho giáo phái Mormon rất thỏa đáng nhưng lại

không bảo vệ cho người Ấn Độ cùng một căn cứ như vậy chống lại sự thống trị

thực dân của người Anh. J.S.Mill tỏ ra nhiệt thành khi bảo vệ quyền tự do tín

ngưỡng cho người dân Ấn Độ nhưng lại không bảo vệ quyền tự quyết về chính

trị của họ. Ngoài ra, Anh còn gây ra chiến tranh thuốc phiện với Trung Quốc

nhằm thôn tính thị trường rộng lớn này: Từ Điều ước Nam Kinh năm 1842 đến vụ Bát quốc liên quân46 đánh Bắc Kinh năm 1900. Trong khoảng thời gian 58

năm, Anh quốc đụng độ với Trung Quốc nhiều lần và mỗi lần thất bại, Trung

Quốc đều buộc phải ký những điều ước bất bình đẳng như Điều ước Thiên Tân

năm 1858, Điều ước Bắc Kinh năm 1860, Điều ước Bắc Kinh năm 1901. Anh

quốc và các nước xâu xé Trung Quốc, mục đích là gây ảnh hưởng và tìm quyền

lợi ở Trung Quốc. Tuy nhiên, trong các tác phẩm của mình, J.S.Mill lại đề cập

thoáng qua việc Trung Quốc cấm nhập khẩu thuốc phiện dường như có ý bảo vệ

quyền tự do sử dụng thuốc phiện và gián tiếp biện hộ cho cuộc chiến tranh thuốc

phiện với Trung Quốc. J.S.Mill không nhận thấy được sự thống nhất giữa quyền

128

tự do của con người – vấn đề cốt lõi của nhân quyền với quyền tự quyết của dân

tộc. Hạn chế trong tư tưởng nêu trên của J.S.Mill xuất phát từ lập trường giai cấp

và do điều kiện lịch sử quy định.

2.4.2.2. Tính chủ quan và thiếu nhất quán trong quan điểm về tự do

Thứ nhất, J.S.Mill đề xuất những nguyên tắc để bảo đảm tự do và quyền cơ

bản của cá nhân. Trong quá trình đề xuất những nguyên tắc đó, ông đã gắng

đưa ra sự liên hệ về lợi ích giữa cá nhân và xã hội, nhưng xét về thực chất thì

những tư tưởng đó thể hiện tinh thần tuyệt đối hóa tự do cá nhân.

Về nguyên tắc tự do, J.S.Mill cho rằng, cần hạn chế quyền lực của nhà nước

và gia tăng quyền tự do cá nhân vì có những sự việc cá nhân thực hiện sẽ tốt hơn

chính phủ thực hiện. Quan điểm này của ông đã lý tưởng hóa phẩm chất cá nhân

theo hướng một chiều. Thực tế xã hội cho thấy không phải các cá nhân đều thuần

nhất về nhân cách và những mối quan hệ của cá nhân trong xã hội đầy phức tạp.

Trong một xã hội còn chưa hoàn thiện, tất sẽ có những thành viên vì lợi ích của

riêng bản thân mà bất chấp tất cả để đạt được mục đích, ngay cả làm tổn hại hoặc

đe dọa lợi ích chung của cộng đồng. Ở phương diện này, tinh thần đề cao tự do

cá nhân của tính chủ quan thái quá. Bên cạnh đó, mối quan hệ ràng buộc giữa cá

nhân và xã hội cũng lộ ra những thiếu sót không tránh khỏi.

Khi đề cập mối quan hệ cá nhân - xã hội, J.S.Mill đã vận dụng hiệu quả

nguyên tắc vị lợi. Ông thừa nhận rằng, cá nhân phải có bổn phận nhất định với xã

hội bởi một lẽ đơn giản do chính sự tồn tại của cá nhân đó trong xã hội. Ông

cũng không phủ nhận việc xã hội có quyền trừng phạt cá nhân khi cá nhân đó

không hoàn thành được đúng bổn phận của mình. Tuy nhiên, khi đặt lên bàn cân

so sánh giữa cá nhân và xã hội thì tư tưởng của J.S.Mill vẫn nghiêng về lợi ích

của cá nhân. Sự lựa chọn đó còn mang tính một chiều, rằng cá nhân phải được tự

do làm bất cứ điều gì miễn là không tổn hại đến người khác. Vậy nên, xét đến

cùng, nguyên tắc vị lợi của J.S.Mill vẫn chưa thực sự thỏa đáng.

129

Thêm nữa, nguyên tắc tổn hại cũng đã góp phần làm cho tư tưởng tự do của

J.S.Mill trở nên nổi tiếng. J.S.Mill quan niệm rằng, một hành vi gây hại chỉ khi

nó ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Lập luận này của ông thiếu tính thuyết

phục. Bởi lẽ, nếu một hành động ảnh hưởng đến lợi ích của người khác bị coi là

gây hại, thì sẽ vô cùng khó khăn để xác định ranh giới giữa sự tổn hại hoặc

không tổn hại. J.S.Mill vẫn chưa chỉ rõ được cơ sở cụ thể để xác định sự tổn hại

mà cá nhân có thể gây ra với xã hội. Do đó, lập luận của J.S.Mill trở nên mơ hồ,

thiếu căn cứ xác thực.

Thứ hai, J.S.Mill chưa luận giải một cách khoa học về bầu cử và phương

thức hạn chế quyền lực nhà nước

Về nguyên tắc bầu cử, trong khi các nhà mác xít đấu tranh đòi đầu phiếu

phổ thông để mở rộng quyền bầu cử đến cho nhân dân lao động “một là, - nhờ

có quyền đầu phiếu phổ thông, công nhân có thể trực tiếp đưa các đại biểu của

mình vào Nghị viện lập pháp” [83; tr.107] thì J.S.Mill tỏ ý nghi ngờ và đề xuất

nguyên tắc lá phiếu bổ sung. Quan niệm của Mill về lá phiếu bổ sung còn khá

mơ hồ. Đặc biệt, J.S.Mill cho rằng, tiêu chuẩn về trình độ học vấn sẽ là một cơ

sở để bổ sung thêm phiếu bầu cho người đó. Điều này đặt ra vấn đề đặt ra là tiêu

chuẩn đó có gây ra làn sóng phản đối về sự phân biệt hay không? Liệu có dễ

dàng để xác định những người nào xứng đáng được nhận được phiếu bầu thêm

hay không? Điều này cho thấy đề xuất này có vẻ khó thực hiện, tiêu chuẩn

không có tính khả thi.

Về phương thức hạn chế quyền lực nhà nước, J.S.Mill chưa luận giải một

cách khoa học. Mặc dù ông đã khẳng định cơ sở của việc hạn chế quyền lực hay tác

động của xã hội đến các hành vi của cá nhân nhằm tối đa hóa lợi ích cá nhân tuy

nhiên ông không luận giải một cách khoa học về phương thức hạn chế quyền lực

nhà nước. Vấn đề này đã được các triết gia thời Khai sáng bàn luận. Quyền lực nhà

130

nước và tự do cá nhân có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, quyền lực

nhà nước là điều kiện cần thiết để bảo vệ, phát huy quyền tự do cá nhân. Một nhà

nước dân chủ là một nhà nước mà ở đó những quyền cơ bản của mọi người được

bảo đảm và phát triển. Tự do trong xã hội phải được đặt trong mối quan hệ với

quyền lực nhà nước. Nếu tự do thoát khỏi cơ sở tồn tại của xã hội thì đó là thứ tự do

trừu tượng, không thể trở thành hiện thực.

Thứ ba, J.S.Mill chủ trương xây dựng một xã hội tương lai tốt đẹp thông

qua tự do thảo luận và phẩm chất biết sửa sai của con người.

J.S.Mill luôn tin rằng con người với tư cách một hữu thể biết tư duy và có

nhiều phẩm chất tốt đẹp. Một trong những phẩm chất tốt đẹp của con người là

phẩm chất biết sửa sai. Ông đã đặt toàn bộ niềm tin đó của mình khi cho rằng sự

tốt đẹp của nhân loại trong tương lai sẽ thông qua tự do thảo luận, các cuộc đối

thoại và trải nghiệm, đặc biệt là khả năng phát triển của con người. Ông cho

rằng, với những điều kiện tốt nhất như mở rộng giáo dục hay như con người

được tự do tư tưởng, tự do lựa chọn cuộc sống, họ sẽ được phát triển cá tính và

hướng đến một cuộc sống có đạo đức. Ở đây, tinh thần lạc quan của J.S.Mill đã

được đẩy đến mức phi thực tế. Trong tác phẩm “Bàn về tự do và chủ nghĩa tự

do” (On liberty and liberalism), Gertrude Himmelfarb47 đánh giá J.S.Mill “xem

tự do là phương tiện để đạt được giới hạn cao nhất của tinh thần con người,

nhưng ông không thấy được đầy đủ sự nghiêm trọng của khả năng khi mà con

người cũng tự do chạm đến chiều sâu của thói vô đạo đức” [114; tr.147]. Trên

thực tế, niềm tin của J.S.Mill vào những phẩm chất nói trên chưa đủ để xây dựng

một xã hội tốt đẹp. Xây dựng một tương lai tốt đẹp cho nhân loại luôn là khát

vọng ở mỗi thời đại, đòi hỏi con người phải có những hành động cụ thể, thiết

thực ngăn chặn những điều đi ngược lại lý tưởng chung của nhân loại là tự do,

bình đẳng, bác ái và được sống trong hạnh phúc.

131

2.4.2.3. Hạn chế từ lập trường giai cấp và từ việc hạ thấp vai trò của quần

chúng nhân dân

J.S.Mill chủ trương đấu tranh cho quyền tự do của con người nhưng ông

không bảo vệ sự bình đẳng của các dân tộc có quyền tự do, độc lập. Tư tưởng

của ông mang tính chủ quan, thiếu nhất quán bắt nguồn từ lập trường giai cấp.

J.S.Mill là một chính khách tên tuổi, một nhân vật luôn thuộc về giới thượng lưu,

bảo vệ lợi ích của tầng lớp thượng lưu và giai cấp tư sản.

J.S.Mill đã đặt toàn bộ niềm tin vào phẩm chất biết sửa sai của con người và

đề cao thái quá vai trò của tầng lớp trí thức; cho nên ông cho rằng có thể xây

dựng xã hội Cộng sản thông qua những phẩm chất tốt đẹp từ tầng lớp tinh hoa

của xã hội. Ông viết “Về phần riêng tôi, là người không tin vào tính hoàn toàn vị

kỷ, tôi dễ dàng thú nhận rằng chế độ Cộng sản có thể áp dụng được ngay cả bây

giờ trong giới tinh hoa (elite) của loài người, và rồi sẽ trở thành có thể áp dụng

được cho phần còn lại của loài người” [69; tr.125].

J.S.Mill hiểu rõ tầm quan trọng của trí tuệ. Đồng thời, ông cũng cho rằng trí

thức chính là “người đưa một nhân tố mới vào thế giới tri thức”. Tuy nhiên, ông

lại lờ đi những kiến thức khoa học nếu bị những kẻ có đặc quyền, những lực

lượng thống trị phản động kiềm chế và sử dụng, thì sẽ trở thành vũ khí để nô dịch

quần chúng. Mặt khác, từ góc độ cơ cấu xã hội - giai cấp, trí thức không phải là

giai cấp, mà “là một tầng lớp đặc biệt” trong xã hội. Họ luôn phải gắn với những

giai cấp nhất định. Trong một thể chế chính trị cụ thể, trí thức phụ thuộc vào giai

cấp thống trị do chính hệ thống giáo dục và đường lối đào tạo của nhà nước của

giai cấp thống trị ấy tạo ra. Tầng lớp này, tự giác hoặc không tự giác phục vụ cho

chế độ và giai cấp thống trị. Quá trình đấu tranh giai cấp và tác động nhiều mặt

về lợi ích đã làm cho tầng lớp trí thức phân hóa thành những bộ phận khác nhau.

Những bộ phân khác nhau đó sẽ ngả theo lực lượng này hay lực lượng khác, giai

cấp này hay giai cấp khác. Vì vậy, quan niệm trí thức là “siêu giai cấp” hoặc

132

đứng trên giai cấp là sai lầm. V.I.Lênin đã từng nhận định: nếu không nhập cuộc

với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi.

Cùng với việc đề cao thái quá vai trò của tầng lớp trí thức, J.S.Mill tỏ thái độ

xem thường nhân dân lao động. Điều đó được thể hiện trong nhiều tác phẩm. Cụ

thể, trong tác phẩm “Bàn về tự do”, J.S.Mill xác định “Họ [công luận] luôn luôn là

đám đông quần chúng, tức là một thứ tập thể đồng nhất tầm thường” [69; tr.151].

Trong tác phẩm “Chính thể đại diện”, ông viết: “Xu hướng tự nhiên của chính thể

đại diện, cũng như của nền văn minh hiện đại, là hướng về tập thể tầm thường” [70;

tr.225]. Triết học của J.S.Mill thể hiện hạn chế khi đánh giá về vai trò quần chúng

nhân dân trong đời sống chính trị. Ông chưa thấy được vai trò thực sự của lực

lượng quần chúng đông đảo, chưa chỉ ra được những hành động và phong trào cụ

thể mà dân chúng tham gia. J.S.Mill mới chỉ nêu lên một tinh thần “thuận nguyện”

mà dân chúng cần có, chứ chưa phải là hành động cụ thể mà họ cần thực hiện.

J.S.Mill cho rằng “tầng lớp dưới - giai cấp công nhân - luôn quen thói dối

trá”, hay quan điểm “giai cấp công nhân không có quyền có một gia đình đông

đúc như giai cấp trên” [114; tr.156]. Đồng thời, ông luôn coi tầng lớp trí thức là

trung tâm của đám đông hỗn tạp. Vậy nên, J.S.Mill khuyến khích nền giáo dục

sâu rộng cho mọi tầng lớp dân cư. Trên thực tế, đa số dân chúng, vì một số lý do

nhất định, không thể và không được tiếp cận nền giáo dục sâu rộng đó. Vì thế, họ

trở thành đám đông vô học và vô ích. Điều này giải thích vì sao J.S.Mill luôn e

ngại sự dốt nát của bộ phận dân chúng thất học sẽ là điểm yếu, cản trở thực thi

dân chủ và các quyền tự do cơ bản. Tất nhiên, điều lo ngại của J.S.Mill không

phải là vô lý. Tuy vậy, thảm cảnh nghèo khổ về của cải, nghèo nàn về học thức

của đại bộ phận dân chúng lao động không phải là tình trạng tự có của họ, mà là

tình trạng hệ quả của những điều kiện bên ngoài tác động đến họ. Trong hệ thống

triết học của mình, J.S.Mill chưa đề cập đến những điều kiện bên ngoài như thế.

Như vậy, triết học chính trị của ông thiếu một cơ sở hiện thực trong quan điểm

về dân chúng, chưa xuất phát từ những quan hệ kinh tế để đánh giá bản chất con

người. Triết học chính trị J.S.Mill không có tinh thần cách mạng triệt để.

133

Tiểu kết chƣơng 2

J.S.Mill đã tiếp cận tự do với tư cách một trong những quyền cơ bản của

con người trong xã hội có giai cấp đối kháng. Các tác phẩm của ông đã toát lên

quan điểm chủ đạo rằng: tự do của mỗi người tìm thấy giới hạn của mình trong

tự do của người khác; tự do xã hội là ranh giới giữa sự kiểm soát xã hội và sự độc

lập của cá nhân. Mặc dù J.S.Mill không phải là triết gia đầu tiên trong lịch sử nêu

lên ý tưởng về quyền tự do của con người nhưng ông là người đưa ra định nghĩa

thuyết phục nhất cho quyền này. Có thể thấy triết học của J.S.Mill về tự do là sự

tiếp nối và phát triển chủ nghĩa tự do cổ điển, đề cao và bảo vệ quyền tự do cá

nhân trong triết học chính trị phương Tây. Nếu như “thế kỷ XIX được coi là thời đại của chủ nghĩa tự do”48 [152; tr.91] thì J.S.Mill được coi là nhân vật tiêu biểu làm nên linh hồn của thời đại đó. Theo Leonard Trelawny Hobhouse49, người

tiên phong của trào lưu chủ nghĩa tự do xã hội đánh giá “Giáo huấn của J.S.Mill đưa chúng ta gần với trung tâm của chủ nghĩa tự do50 [152; tr.50]. Dễ dàng nhận

thấy J.S.Mill là một trong những triết gia tiêu biểu nhiệt thành ủng hộ tự do cá

nhân. Mọi nỗ lực của ông đều nhằm hướng đến đem lại sự tự do cho từng người

để có được sự phồn vinh của tất cả mọi người và cuối cùng là nhằm có được sự

tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, cũng vì đề cao tự do cá nhân một cách thái quá nên

ông đã đưa nó vào vị trí độc tôn trong triết học chính trị. Mặt khác, trong quan

điểm về tự do, J.S.Mill không chỉ muốn hướng đến ở cấp độ cá nhân mà còn

vướn tới cấp độ quốc gia, cộng đồng. Vẫn biết lý tưởng của ông là ca tụng và

chuyển quyền tự do cá nhân trở thành động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Về cơ

bản, đó vẫn chỉ là một lý tưởng lạc quan chưa mang tính thực tiễn. Mặc dù tư

tưởng tự do của J.S.Mill còn nhiều điều chưa thỏa đáng, tuy nhiên với tinh thần

cống hiến không mệt mỏi, J.S.Mill đã để lại cho đời nhiều tác phẩm chứa đựng

những tư tưởng sâu sắc và truyền cảm hứng cho biết bao thế hệ độc giả.

134

Chƣơng 3: Ý NGHĨA QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CỦA JOHN STUART

MILL VỀ TỰ DO ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƢỜI

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Quan điểm về quyền con ngƣời trong thế giới đƣơng đại

3.1.1. Khái niệm về quyền con người

“Quyền con người” hay “nhân quyền” đều bắt nguồn từ thuật ngữ quốc tế

“human rights”. Đây là một khái niệm đa diện, có những khuynh hướng tiếp cận

khác nhau. Đến nay, mặc dù đã có bề dày lịch sử phát triển, nhưng khái niệm

quyền con người càng trở nên phức tạp. Điều đó xuất phát từ lý do nhiều quốc

gia đã góp những tiếng nói chung trong các công ước quốc tế về quyền con

người. Mặt khác, đó là hiện tượng gia tăng sự khác biệt, đối lập các khái niệm về

quyền con người trong thế giới đương đại. Có thể khái quát một số khía cạnh

chính khác nhau trong quan niệm về nhân quyền sau đây:

Khía cạnh thứ nhất, khái niệm nhân quyền tự nhiên (natural human rights)

Căn cứ vào nhu cầu bản năng của con người để đưa ra khái niệm quyền con

người và giải thích những tiêu chuẩn quyền con người như một giá trị cơ bản, tự

nhiên. Vì thế, quyền con người là những quyền tự nhiên, bẩm sinh, vốn có mà

mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng. Các quyền con người, do đó, không phụ

thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá

nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào. Vì vậy, bất kể

nhà nước hay một chủ thể nào đó trong xã hội cũng không thể ban phát hay tước

bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân. Khuynh hướng này

được xuất hiện từ rất sớm. Ngay từ thời kỳ cổ đại, Zeno (333-264 TCN) đã phát

biểu rằng, không một ai sinh ra đã phải làm nô lệ. Địa vị nô lệ là do họ bị tước

đoạt tự do vốn có của con người. Rõ ràng ở đây theo Zeno, quyền là một người

tự do là một quyền bẩm sinh của con người. Thế kỷ XVI, khuynh hướng quyền

tự nhiên đã trở thành nền tảng tư tưởng chủ đạo trong cuộc chiến chống thần

135

quyền của chuyên chế phong kiến. Thời kỳ này, khuynh hướng quyền tự nhiên

trở thành một hệ thống trieyes học hoàn chỉnh với những triết gia tiêu biểu là

T.Hobbes, J.Locke và Thomas Paine. T.Hobbes cho rằng quyền tự nhiên cốt yếu

của con người là “được sử dụng quyền lực của chính mình để bảo đảm cuộc sống

của bản thân mình, và do đó, được làm bất cứ điều gì mà mình cho là đúng đắn

và hợp lý…” [16, tr.39-40]. J.Locke cho rằng các chính phủ chẳng qua chỉ là

một dạng “khế ước xã hội” giữa những kẻ cai trị và những người bị trị, trong đó

công dân tự nguyện ký vào bản khế ước này với kỳ vọng và mong muốn sử dụng

chính phủ như là một phương tiện để bảo vệ các “quyền tự nhiên” của họ chứ

không phải để ban phát và quy định các quyền cho họ. Từ cách tiếp cận đó,

J.Locke cho rằng các chính phủ chỉ có thể “chính danh” hay “hợp pháp” khi thừa

nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền bẩm sinh, vốn có của công dân.

Còn Thomas Paine, trong tác phẩm “Các quyền của con người” (Rights of Man,

1791) nhấn mạnh rằng các quyền không thể được ban phát bởi bất kỳ chính phủ

nào, bởi lẽ điều đó đồng thời cho phép các chính phủ được rút lại các quyền ấy

theo ý chí của họ… Như thế, Thomas Paine đã gián tiếp khẳng định rằng các

quyền của con người là những giá trị tự nhiên. Giá trị của thuyết quyền tự nhiên

là đề cao con người với tư cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát

triển tự nhiên. Khuynh hướng này có ý nghĩa to lớn trong việc chống lại sự tàn

bạo của chế độ phong kiến, bảo vệ các quyền cơ bản của con người với tư cách là

công dân trong xã hội chứ không phải là thần dân của một ông hoàng nào đó.

Khuynh hướng này tạo cơ sở vững chắc về tư tưởng để xây dựng các nguyên tắc

bảo vệ quyền con người trước quyền lực. Tuy nhiên, hạn chế của khuynh hướng

này là che lấp nguồn gốc xã hội của quyền con người và do đó, không thấy tính

lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển trong những đòi hỏi về quyền con người.

Khuynh hướng này ảnh hưởng sâu sắc đến khái niệm nhân quyền hiện đại. Cụ

thể như sau:

136

Một là, những khái niệm nhân quyền theo khuynh hướng tự nhiên có xu

hướng đề cao giá trị tự nhiên, cho rằng bản thân con người là sản phẩm tinh túy

nhất của tự nhiên. Vì thế, quyền con người là thuộc tính tự nhiên, vốn có như bản

thân con người.

Hai là, hiện nay, quan niệm về quyền tự nhiên của quyền con người càng

trở nên phức tạp. Trước sự phát triển của công nghệ gen, sinh học và y học gây ra

những tranh luận lớn về vấn đề cấy ghép nội tạng, thay đổi giới tính, thụ tinh

trong ống nghiệm... Những thành tựu trong lĩnh vực y học nêu trên đã phá hủy

sự phát triển tự nhiên của con người. Nếu trong thời kỳ đầu, thuyết quyền tự

nhiên đề cập nhiều đến quyền sống bất khả xâm phạm của con người thì ngày

nay, các học giả lại bàn đến quyền con người trước cái chết. Có ý kiến cho rằng,

trong trạng thái chết lâm sàng, công dân là chủ thể của pháp luật có quyền đòi

hỏi cán bộ y tế giúp đỡ họ về mặt y học...

Khía cạnh thứ hai, khái niệm nhân quyền pháp lý (legal human rights)

Một số học giả cho rằng quyền con người không phải là những gì bẩm sinh,

vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa

thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy,

theo học thuyết về quyền pháp lý, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả

thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp

thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa... của các

xã hội. Ở đây, trong khi các quyền tự nhiên có tính đồng nhất trong mọi hoàn

cảnh (universal), mọi thời điểm, thì các quyền pháp lý mang tính chất khác biệt

tương đối về mặt văn hóa và chính trị (culturally and politically relative). Hai

học giả tiêu biểu cho học thuyết về quyền pháp lý có thể kể là Edmund Burke

(1729-1797) và J.Bentham (1748-1832). Edmund Burke, trong tác phẩm “Suy

nghĩ về Cách mạng Pháp” (Reflections on the Revolution in France, 1770) và J.

Bentham, trong tác phẩm “Phê phán học thuyết về các quyền tự nhiên, không thể

137

tước bỏ” (Critique of the Doctrine of Inalienable, Natural Rights, 1843) cùng

cho rằng quyền con là tất cả những gì mà nhà nước thông qua pháp luật để quy

định cho cá nhân. Chỉ những gì pháp luật cho phép tự do làm hay không làm thì

mới là quyền con người, và chỉ được coi là quyền con người khi một hành vi hay

một yêu cầu của cá nhân là hợp pháp. Điểm hợp lý của khuynh hướng này là đã

gắn quyền con người với pháp luật, được nhà nước quy định. Tuy nhiên, coi

trọng tính hợp pháp của quyền thôi chưa đủ. Trên thực tế, có những đòi hỏi,

những nhu cầu hợp lý cho cuộc sống (nhưng chưa được pháp luật ghi nhận) cũng

phải được coi là quyền con người. Do đó, không thể coi quyền con người chỉ là

cái được phép làm, được hưởng theo pháp luật, mà còn cả cái đáng được làm,

đáng được hưởng (những cái chưa được pháp luật khẳng định, nhưng sẽ phải

khẳng định).

Cho đến nay, quyền con người có nguồn gốc tự nhiên hay do pháp luật quy

định vẫn tiếp tục được tranh luận. Sự phân định tính chất đúng, sai, hợp lý và

không hợp lý của hai học thuyết kể trên là không đơn giản do chúng liên quan

đến một phạm vi rộng lớn các vấn đề triết học, chính trị, xã hội, đạo đức, pháp

lý… Về hình thức, hầu hết các văn kiện pháp luật của các quốc gia đều thể hiện

các quyền con người là các quyền pháp lý. Cụ thể, Văn phòng Cao ủy Liên hiệp

quốc về nhân quyền đã đưa ra định nghĩa sau “Quyền con người là những bảo

đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ cá nhân và nhóm chống lại những hành

động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự cho phép hoặc tự do

cơ bản của con người” [42, tr.10]. Tuy nhiên, ở góc độ quốc tế và một số văn

kiện pháp luật ở một số quốc gia, quyền con người được khẳng định một cách rõ

ràng là các quyền tự nhiên, vốn có và không thể tước bỏ được của mọi cá nhân.

Điều đó được thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Hợp chủng quốc Hoa

Kỳ; Tuyên ngôn Dân quyền và Quyền con người 1789 của nước Cộng hòa Pháp;

Tuyên ngôn Độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 và Tuyên

138

ngôn toàn thế giới về quyền con người. Cụ thể, trong Lời nói đầu của Tuyên

ngôn toàn thế giới về quyền con người nêu rằng: “… thừa nhận phẩm giá vốn có

và các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình

nhân loại là nền tảng của tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới” [124; tr.90].

Những phân tích trên cho thấy những quan điểm cực đoan phủ nhận hoàn toàn

bất cứ học thuyết nào trong hai học thuyết kể trên đều không phù hợp.

Khía cạnh thứ ba, nhấn mạnh khía cạnh kinh tế, chính trị, đạo đức hay

quyền lực của khái niệm nhân quyền.

Khi bàn về khái niệm quyền con người, các học giả tiếp cận ở một khía

cạnh kinh tế, hay chính trị, đạo đức, quyền lực. Cụ thể, về quan niệm kinh tế

trong nhân quyền: những học giả tiếp cận khái niệm quyền con người theo khía

cạnh này dựa vào quan điểm của Adam Smith về nguyên tắc tự do kinh tế. Adam

Smith cho rằng: “đối với cá nhân, tốt nhất anh ta tự mình được chính mình về

mặt lợi ích. Lợi ích cá nhân không mâu thuẫn nhau mà thỏa thuận với nhau theo

nguyên tắc thích ứng tự nhiên” [139, tr.68]. Theo Adam Smith, vì quyền sở hữu

mà con người có được do lao động của mình là cơ sở đầu tiên của mọi sở hữu

khác nên chính nó là quyền thiêng liêng nhất và bền vững nhất trong mọi quyền

con người. Xuất phát từ quan niệm tự do cá nhân với tư cách là chủ thể độc lập

của quan hệ kinh tế và luôn tự hoàn thiện sở hữu bằng những bảo đảm lợi ích của

mình không gây thiết hại cho sự hoàn thiện của người khác. Quyền sở hữu và lợi

ích kinh tế là nội dung cơ bản nhất của quyền con người.

Tiêu biểu cho quan điểm trên, tại Hội nghị bàn tròn về nhân quyền tháng

6/1993, Xchêpanốp có khẳng định như sau: “Vấn đề con người không phải là

vấn đề luật pháp, cũng không phải là vấn đề mang tính chất tuyên cáo chính trị.

Từ trong nguồn gốc của mình, đó là văn hóa kinh tế, nói một cách khái quát, mỗi

người sinh ra cần phải có khả năng vật chất để tồn tại không phải chịu đói nghèo

và để phát triển năng lực của mình” [139, tr.68]. Quan điểm kinh tế về nhân

139

quyền còn được xác định ở góc độ khác, đó là trong một quốc gia có nền kinh tế

kém phát triển, người dân có thu nhập thấp, trình độ dân trí còn hạn chế thì vấn

đề nhân quyền khó có thể thực hiện.

Về quan niệm chính trị trong nhân quyền: một số nước đế quốc đã nhân

danh nhân quyền để áp đặt và gây sức ép với các quốc gia khác, tìm cách can

thiệp vào chủ quyền dân tộc hay sử dụng nhân quyền để làm công cụ để chỉ huy,

kiểm soát quan hệ chính trị quốc tế. Trong tác phẩm “Thất bại lớn của chủ nghĩa

cộng sản” của Beredinxki có nêu rằng “Việc hô hào tôn trọng nhân quyền có ảnh

hưởng rất lớn, có ý nghĩa sâu xa, làm tăng nhanh quá trình diệt vong của chủ

nghĩa cộng sản. Nhân quyền là quan niệm chính trị có sức hấp dẫn nhất trong

thời đại ngày nay, chúng ta lên tiếng hô hào tôn trọng nhân quyền sẽ làm cho tất

cả các nước cộng sản ở vào thế thủ” [139, tr.69]. Ở khía cạnh này, nhân quyền

trở thành công cụ nô dịch, ép buộc của kẻ tự giành cho mình sức mạnh để áp bức

các dân tộc trên thế giới.

Về quan niệm quyền lực trong nhân quyền: xuất phát từ quan điểm quyền

lực, trong tư duy nhân quyền hiện đại xuất hiện một số lý thuyết về quyền lực,

dùng quyền lực để giải quyết vấn đề quyền con người. Họ gắn quyền con người

với quyền lực cho rằng con người tồn tại trong xã hội, nhưng trong xã hội tồn tại

một thuộc tính tất yếu và cố hữu là quyền lực. Bởi lẽ, trong xã hội luôn chứa

đựng những mâu thuẫn tiềm tàng và khả năng xung đột. Vì thế, quyền lực trở

thành nhu cầu tất yếu của con người trong xã hội xuất phát từ chính nhu cầu phát

triển tự do. Jacques Mourgon cho rằng lịch sử nhân loại chính là lịch sử giải

quyết những xung đột và đối kháng giữa nhu cầu con người về quyền lực. Ông

viết “Chẳng bao giờ người ta quên việc bắt con người phải phục tùng các mệnh

lệnh của an ninh tập thể... Tuyên ngôn về nhân quyền đã làm cho con người trở

thành thù địch của con người, đặt cơ sở tốt hơn cho kiểm soát kiểm lực bằng một

quyền lực được mời làm trọng tài” [139, tr.69].

140

Về quan niệm đạo đức trong nhân quyền: một số học giả nhấn mạnh khía

cạnh đạo đức trong khái niệm nhân quyền. Họ cho rằng quyền con người chỉ là

quyền đạo đức. Một số khái niệm quyền con người ở khía cạnh này tiêu biểu như

“quyền con người là yêu cầu đạo đức hiện hữu dựa trên tất cả các nhu cầu chủ

yếu của con người” hay “Quyền con người là quyền đạo đức phổ biến thuộc về

mọi người một cách ngang nhau” [139, tr.61-62]. Macfarlane cũng khẳng định

quyền con người là quyền đạo đức thuộc về mỗi người đàn ông và mỗi người

đàn bà. Sở dĩ người đàn ông và người đàn bà có cái quyền đó vì họ là người có

đạo đức. Cần nhấn mạnh quyền con người với tư cách tiêu chuẩn đạo đức không

phải do đòi hỏi của truyền thống lịch sử văn minh nhân loại mà còn do cấu trúc

tự nhiên của quyền con người.

Mặc dù có nhiều khía cạnh khác nhau về khái niệm quyền con người trong

xã hội hiện đại; tuy nhiên về cơ bản khái niệm quyền con người có những thuộc

tính sau:

Một là, quyền con người vừa bao hàm quyền cá nhân, thể hiện lợi ích cá

thể; vừa là quyền tập thể, thể hiện lợi ích của nhóm, cộng đồng. Với tư cách là

quyền của cá nhân, thành viên của xã hội, quyền con người bao hàm cả quyền

công dân. Với tư cách là quyền tập thể, quyền con người thể hiện thành quyền

của các giai tầng trong xã hội, chủ quyền quốc gia...

Hai là, quyền con người cần được xác định rõ bằng những quyền cụ thể, có

tính chất phổ cập và cần thiết cho mọi người. Quyền con người mang giá trị

chung, phổ biến, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và giới tính...

Ba là, quyền con người vừa thể hiện thuộc tính tự nhiên của con người; vừa

là khái niệm nảy sinh trong đời sống cộng đồng, gắn chặt chẽ về nhà nước, chế độ

chính trị và pháp luật... Chỉ có thông qua pháp luật và thể chế thì nhu cầu và khả

năng về quyền con người mới trở thành quyền được xác định. Tuy nhiên, pháp

luật về quyền con người cần phản ánh được các nhu cầu, khả năng khách quan

141

trong tương quan với các nhu cầu và khả năng khách quan trong mối tương quan

với các yếu tố như chính trị, kinh tế, văn hóa và trình độ dân trí của người dân.

Bốn là, quyền con người vừa mang tính tuyệt đối, lý tưởng; vừa mang tính

tương đối, hạn chế. Với tư cách là nhu cầu, khát vọng của con người, quyền con

người là một trong những giá trị nhân văn cao quý nhất và không giới hạn trong

xã hội hiện đại. Đồng thời, quyền con người là một giá trị xác định, phụ thuộc

vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và truyền thống, lịch sử của mỗi quốc gia.

Quyền con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lịch sử nhân loại, vừa là sản

phẩm và là bộ phận không thể tách rời của các quan hệ chính trị, kinh tế và văn

hóa - xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc.

Năm là, quyền con người vừa bao hàm đặc quyền; vừa đòi hỏi xóa bỏ đặc

quyền. Quyền con người vừa phản ánh các nhu cầu tự nhiên, khách quan; vừa

thể hiện các quan hệ xã hội, ý chí chủ quan. Quyền con người vừa xác nhận vai

trò của nhà nước trong việc quản lý các quan hệ xã hội; vừa đặt ra các yêu cầu

hạn chế và ngăn ngừa sự lạm quyền từ phía nhà nước.

Từ những nội dung trên, nội dung khái niệm quyền con người có thể tóm

lược như sau: Quyền con người là khả năng tự nhiên và khách quan của con

người, với tư cách là một chủ thể độc lập và với tư cách là thành viên của xã hội.

Quyền con người được bảo đảm bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận

pháp lý về quốc tế về các giá trị cao quý của con người trong quan hệ vật chất,

văn hóa, tinh thần, các nhu cầu về tự do và phát triển.

3.1.2. Lịch sử phát triển của tư tưởng nhân quyền

Về lịch sử phát triển của tư tưởng nhân quyền được thể hiện ở một số sự

kiện, văn kiện dưới đây:

Năm 1789 TCN: Bộ luật Hammurabi

Năm 1200 TCN: Kinh Vệ đà

Năm 570 TCN: Luật của Cyrus Đại Đế

142

Năm 586 - 456 TCN: Kinh Phật

Năm 479 - 421 TCN: “Luận ngữ” của Khổng tử

Năm 7 - 1 TCN: Kinh Thánh

Năm 610 - 612: Kinh Kôran

Năm 1215: Đại hiến chương Magna Carta (Anh)

Năm 1689: Luật về Quyền (Anh); “Hai khảo luận về chính quyền” của

John Locke

Năm 1776: “Tuyên ngôn độc lập” (Mỹ)

Năm 1789: “Tuyên ngôn quyền con người và quyền công dân” (Pháp)

Bộ luật về các quyền (10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp) (Mỹ)

Năm 1791: “Các quyền của con người” của Thomas Pain

Năm 1859: “Bàn về tự do” của John Stuart Mill

Năm 1863-1864: Uỷ ban Chữ thập đỏ quốc tế được thành lập, Công ước

Giơnevơ lần thứ I được thông qua, mở đầu cho ngành luật nhân đạo quốc tế

Năm 1917: Cách mạng tháng mười Nga

Năm 1919: Hội quốc liên và Tổ chức Lao động thế giới (ILO) được thành lập

Năm 1945: Liên hợp quốc ra đời, thông qua Hiến chương Liên Hợp quốc

Năm 1948: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người

Năm 1966: Công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự và Công ước về

các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá

Năm 1968: Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ nhất tại Tê hêran (Iran)

Năm 1993: Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai tại Viên( Áo),

thông qua Tuyên bố Viên và Chương trình hành động

Năm 2002: Quy chế Rôma có hiệu lực, Toà án hình sự quốc tế (thường

trực) được thành lập.

Năm 2006: Cải tổ bộ máy quyền con người của Liên hợp quốc, thay thế Uỷ

ban quyền con người bằng Hội đồng quyền con người [16; tr.56-57].

143

Như vậy, tác phẩm “Bàn về tự do” của J.S.Mill được xác định là một trong

những văn kiện quan trọng trong lịch sử phát triển của tư tưởng nhân quyền.

Nghiên cứu về lý luận quyền con người, Karel Vasak, một luật gia người Czech

cho rằng nhân loại đã trải qua ba “thế hệ” về quyền con người (generations of

human rights). Lý luận của Vasak bắt nguồn và phản ánh lịch sử phát triển của tư

tưởng và pháp luật về quyền con người ở phương Tây, nhưng việc nghiên cứu

chúng có ý nghĩa quan trọng lịch sử phát triển của quyền con người trên thế giới.

Thế hệ quyền thứ nhất: Nhóm quyền dân sự và chính trị

Trong quá trình phát triển nhân quyền, lý luận về quyền dân sự và quyền

chính trị được đề cập sớm hơn. Xét trên các phương diện chính trị và lịch sử, sự

phát triển của quyền dân sự và quyền chính trị gắn liền với cuộc đấu tranh của

giai cấp tư sản lật đổ chế độ phong kiến. Các quyền con người tiêu biểu như

quyền sống, quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo tín ngưỡng, tự do biểu đạt,

quyền được xét xử công bằng. Các quyền này gắn liền với phạm trù tự do cá

nhân - một phạm trù mà ở góc độ nhất định, mang tính đối trọng với phạm trù

quyền lực của Nhà nước. Mục đích là để hạn chế, ngăn chặn sự lạm quyền và sự

tuỳ tiện xâm hại đến cuộc sống tự do của cá nhân con người từ phía các quan

chức và cơ quan nhà nước.

Trên cơ sở những tư tưởng triết học về quyền dân sự và chính trị mà

J.S.Mill là tác gia tiêu biểu, nhóm quyền dân sự chính trị được chính thứ pháp

điển hoá trong luật quốc tế kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Đầu tiên,

nó được thể hiện trong “Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền” (Universal

Declaration of Human Rights - UDHR, năm 1948). Cụ thể tại Điều 3 có xác định

“mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân” [124; tr.92].

Điều 22 của UDHR xác định “Với tư cách là một thành viên của xã hội, ai cũng

có quyền được hưởng an sinh xã hội, cũng như có quyền đòi được hưởng những

quyền kinh tế, xã hội và văn hoá cần thiết cho nhân phẩm và sự tự do phát huy cá

144

tính của mình, nhờ những nỗ lực quốc gia, sự hợp tác quốc tế, và theo cách tổ

chức cùng tài nguyên của quốc gia” [124; tr.96]. Tại Khoản 2, Điều 29 quy định

“Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới

hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được

thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và

an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn” [124; tr.98]. Không

lâu sau đó, Liên hiệp quốc tiếp tục ban hành “Công ước Quốc tế về các Quyền

Dân sự và Chính trị” (International Covenant on Civil and Political Rights -

ICCPR) nhằm điều chỉnh những quyền cơ bản của con người thuộc phạm trù các

quyền dân sự, chính trị. Tại Khoản 1 Điều 9 có xác định “Mọi người đều có

quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ.

Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và

theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định” [124; tr.106]. Trong “Tuyên

bố Têhêran” (Tuyên bố của Hội nghị nhân quyền thế giới tại Têhêran ngày

13/5/1968) cũng khẳng định “Mục tiêu hàng đầu của Liên hiệp quốc trong lĩnh

vực nhân quyền là mỗi cá nhân đạt được tự do và nhân phẩm tối đa. Để thực hiện

mục tiêu này, luật pháp của mỗi nước đều phải đảm bảo cho mỗi cá nhân…

quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin, tự do nhận thức và tự do tôn giáo…” [16;

tr.50]. “Tuyên bố Têhêran” được xác đinh là Bộ luật quốc tế về quyền con người.

Cùng với UDHR và ICCPR, Tuyên bố Têhêran được đặt dưới sự giám sát riêng

của Ủy ban nhân quyền, độc lập với Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc.

Cơ quan này có trách nhiệm giám sát việc thực hiện và thẩm định các báo cáo

nhân quyền của các nước. Các quốc gia tham gia ký kết sẽ phải tôn trọng các

quyền dân sự và chính trị của từng cá nhân, bao gồm quyền sống, quyền tự do

tôn giáo, tự do phát biểu, tự do hội họp, quyền bầu cử và quyền được xét xử bình

đẳng và theo đúng trình tự pháp luật. Sự ra đời của “Tuyên ngôn quốc tế nhân

quyền”, “Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị” và “Tuyên bố

145

Têhêran” tạo một bước ngoặt về quyền con người từ lĩnh vực triết học sang lĩnh

vực pháp lý thực tiễn, từ phạm vi thỉnh cầu, yêu sách sang phạm vi thực hiện.

Thế hệ quyền thứ hai: Nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa

Cơ sở kinh tế - xã hội của lý luận nhóm quyền này là từ cuộc khủng hoảng

của xã hội tư bản vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dẫn tới tình cảnh khốn khổ

của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. Trong bối cảnh đó,

những người theo chủ nghĩa tự do mới đã đưa ra ý tưởng cải tổ các xã hội tư sản

nhằm giảm bớt những bất công xã hội và khoảng cách giữa người giàu và người

nghèo. Do tác động của cuộc đấu tranh này, một số nhà nước tư sản đã ban hành

những chính sách về phúc lợi xã hội để cải thiện đời sống của người dân. Trong

đó tiêu biểu là chính sách xã hội của Bismarck, cựu Thủ tướng Đức. Trên cơ sở

Tuyên ngôn Keider (năm 1881), nước Đức dưới sự lãnh đạo của Bismarck đã

thiết lập một hệ thống bảo trợ xã hội thống nhất trên toàn quốc mà trọng tâm là

bảo hiểm xã hội. Từ năm 1919, Hiến pháp của Đức đã quy định quyền được bảo

hiểm xã hội trong các trường hợp già yếu, bệnh tật...

Năm 1917, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới – nước Nga Xô

viết – được thành lập. Một năm sau đó, nước Nga Xô viết đã ban hành Hiến pháp

năm 1918 ghi nhận các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội cơ bản của con người như

quyền có việc làm, quyền học tập, quyền được chăm sóc y tế… Các quyền này

tiếp tục được khẳng định, mở rộng và bổ sung, trở thành một trong những nội

dung chính của các Hiến pháp của Liên Xô. Cũng trong thời kỳ này, sự xuất hiện

của hai tổ chức quốc tế lớn là Hội Quốc liên (League of Nations; thành lập năm

1920 và giải thể năm 1946) và Tổ chức Lao động quốc tế (International Labour

Organization, ILO) đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy các quyền về lao

động, việc làm của người lao động. Năm 1966, cùng với việc thông qua ICCPR,

Liên hiệp quốc đã chính thức pháp điển hóa các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá

bởi “Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa” (International

146

Covenant on Economic, Social and Cultural Rights - ICESCR). Trong đó, quyền

kinh tế được coi là bao gồm quyền đối với việc làm, quyền có một tiêu chuẩn

sống thỏa đáng, quyền có nhà ở và quyền được trợ cấp lúc về già hoặc khuyết tật.

Nhóm quyền kinh tế phản ánh sự thật rằng cần thiết phải có một số mức đảm bảo

vật chất tối thiểu cho nhân phẩm con người, cũng như việc thiếu một việc làm ý

nghĩa hay nhà ở có thể là sự hạ thấp tâm lý. Quyền xã hội là những quyền cần

thiết để cá nhân tham gia đầy đủ vào đời sống xã hội. Chúng bao gồm ít nhất là

quyền được giáo dục và quyền gây dựng – duy trì một gia đình, cùng nhiều

quyền khác thường được coi là quyền “dân sự”; ví dụ như quyền vui chơi giải trí,

chăm sóc sức khỏe, quyền riêng tư và quyền tự do không bị phân biệt đối xử.

Quyền văn hóa liên quan tới “lối sống” văn hóa của một cộng đồng và thường ít

được chú ý hơn nhiều loại quyền khác. Chúng bao gồm quyền tự do tham gia

vào đời sống văn hóa của cộng đồng; và cũng có thể là quyền được giáo dục.

Tuy nhiên, nhiều quyền khác tuy không chính thức được xếp vào hàng “văn

hóa”, song vẫn rất cần thiết cho các cộng đồng thiểu số trong một xã hội để bảo

tồn sự khác biệt văn hóa của họ; ví dụ như quyền không bị phân biệt đối xử và

quyền được pháp luật bảo hộ bình đẳng.

Như vậy, cùng năm 1966, Liên hiệp quốc chính thức thông qua “Công ước

Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị” và “Công ước Quốc tế về các Quyền

Kinh tế, Xã hội và Văn hóa”. Tuy nhiên, một số nước phương Tây thường tuyệt

đối hóa quyền dân sự và quyền chính trị; cho rằng đây mới là nội dung, thực chất

của quyền con người và nhà nước cần phải đảm bảo và chịu trách nhiệm pháp lý.

Một số học giả phương Tây còn nghi ngờ “các quyền kinh tế - xã hội”; thậm chí

không thừa nhận các nhóm quyền này và coi đó là những quyền không cần nhà

nước phải đảm bảo. Nói cách khác, nhà nước không phải chịu trách nhiệm pháp

lý với các quyền này. Trong khi đó một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây

thường tuyệt đối hóa quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Theo quan điểm này, nhà

147

nước phải thực hiện các nguyên tắc ưu tiên các quyền kinh tế - xã hội như quyền

có việc làm, quyền có nhà ở, quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được học

hành… Tuy nhiên, trên thực tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau, những quyền

này ít được hiện thực hóa. Sự tách rời, ưu tiên các quyền kinh tế - xã hội và coi

nhẹ các quyền dân sự - chính trị là không hợp lý. Những quan niệm trên đều

mang tính phiến diện, không phản ánh đúng thực tế phát triển của nhân quyền.

Dưới góc độ triết học, khi đề cập đến quyền con người, trước hết phải chú ý đến

hai phương diện của con người: phương diện nhân bản học chú trọng mặt thể

chất, sinh học của con người. Ở phương diện này, con người có các nhu cầu vật

chất bảo đảm sự tồn tại, và phát triển. Phương diện thứ hai chú trọng mặt xã hội

của con người. Với phương diện này, con người cũng nảy sinh những nhu cầu

văn hóa tinh thần, vươn lên trên cái tồn tại để sáng tạo và phát triển. Vì thế,

quyền con người là một thể thống nhất, không thể “chia cắt”, càng không thể đề

cao quyền này, phủ nhận quyền kia. Việc chia cắt các quyền thể hiện nhận thức

siêu hình trong lý luận; từ đó khó có thể hiểu đầy đủ và trọn vẹn về quyền con

người. Hiện nay, tất cả các thành viên của Liên hiệp quốc đều đã tham gia hai

công ước nhân quyền cơ bản đó là ICCPR và ICESCR và chịu sự giám sát của

cơ chế nhân quyền. Trong quá trình phát triển, mỗi quốc gia, dân tộc đều phải

chú ý đến tổng thể các quyền trên. Do đó, việc tăng trưởng kinh tế gắn liền với

công bằng xã hội, phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Những

chính sách như vậy tạo ra đồng thời mức độ hưởng thụ các quyền và tạo động

lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Thế hệ quyền thứ ba: Nhóm quyền tập thể - phát triển

Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang một giai đoạn mới - giai

đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đã sử dụng quyền con người làm cái cớ

cho cuộc chiến tranh xâm lược. Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là

người Việt Nam sớm đề cập tới khái niệm nhân quyền và dùng khái niệm nhân

148

quyền trong các lập luận đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, bảo vệ và bênh

vực nhân quyền của các dân tộc thuộc địa. Xuất phát từ dân tộc bị áp bức, Chủ

tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển các giá trị quyền con người của nhiều học

thuyết, nhiều nền văn hóa về quyền con người.

Đối với Hồ Chí Minh, quyền con người là giá trị nhân văn cao quý của

nhân loại, dù chủ thể của quyền là những con người khác nhau về chủng tộc,

màu da, lãnh thổ… Điều này được Hồ Chí Minh thể hiện trong Thư gửi những

người Pháp ở Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Các bạn yêu nước

Pháp của các bạn và muốn nó độc lập. Các bạn yêu đồng bào của các bạn và

muốn họ được tự do. Lòng yêu nước thương nòi này làm vẻ vang các bạn vì nó là

lý tưởng cao nhất của loài người… Cái mà các bạn coi là lý tưởng cũng phải là lý

tưởng của chúng tôi” [104; tr.75]. Trong tác phẩm Ông Anbe và bản Tuyên ngôn

nhân quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng nhân đạo cao cả khi đề

cao luận điểm nổi tiếng của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp

“Người ta sinh ra và mãi mãi tự do và bình đẳng về quyền. Các quyền ấy là: tự

do, tư hữu, an ninh và chống áp bức” [101; tr.260]. Từ những quyền cá nhân mà

các triết gia phương Tây ở những thế kỷ trước thừa nhận, trong bối cảnh thời đại

mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển thành quyền dân tộc. Đóng góp lớn lao

của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là mở rộng nội hàm của khái niệm nhân quyền. Cụ

thể, Người không chỉ dừng lại những “quyền an ninh” và “chống áp bức” ở

phạm vi hạn hẹp là quyền cá nhân. Thực chất đây chỉ là quyền cá nhân của nhà

tư sản chống lại sự kìm kẹp và áp bức của giai cấp phong kiến. Đến khi trở thành

giai cấp thống trị, giai cấp tư sản lại đi áp bức, nô dịch với giai cấp công nhân ở

chính quốc và các nước thuộc địa với mục đích duy nhất là thỏa mãn giá trị thặng

dư. Chúng chà đạp lên quyền và lợi ích của người khác, dân tộc khác. Với Chủ

tịch Hồ Chí Minh, “quyền an ninh và chống áp bức” là quyền dân tộc tự quyết,

bất khả xâm phạm. Các quốc gia phát triển không được can thiệp vào công việc

149

nội bộ của bất kỳ dân tộc nào, quốc gia nào. Khi công bố quyền độc lập của dân

tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viện dẫn tài tình quyền cá nhân trong những học

thuyết của học giả tư sản trong “Tuyên ngôn độc lập” của Hợp chủng quốc Hoa

Kỳ năm 1776 và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cộng hòa Pháp

năm 1789.

Từ một chân lý có giá trị lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển thêm ý

nghĩa mới trong bối cảnh thời đại của Người bằng cách “Suy rộng ra, câu ấy có ý

nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng

có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” Lời bất hủ ấy ở trong bản

Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ” [104; tr.9]. Nếu quyền tự do của

con người được hình thành từ nhân phẩm vốn có của con người, là cái tất yếu

của con người thì quyền tự quyết của dân tộc xét về mặt đạo lý và pháp lý cũng

là quyền tự nhiên của các dân tộc. Tư tưởng này của Người không chỉ có ý nghĩa

đối với dân tộc Việt Nam mà còn có ảnh hưởng đến các dân tộc bị áp bức, nô

dịch khác trên thế giới. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc đã

tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược, áp bức, nô dịch các dân tộc thuộc địa, trong

đó có Việt Nam. Mặc dù trong hiến pháp và luật của các quốc gia đó đều đề cao

quyền con người nhưng thực chất đó chỉ là quyền của một số dân tộc tự cho

mình là “văn minh”, “mẫu quốc”. Các nước đế quốc không hề chia sẻ những giá

trị nhân quyền - cả phương diện lý thuyết và thực tiễn - cho dân tộc thuộc địa.

Trong bài trả lời phỏng vấn nhà văn người Pháp – Rơnê Marăng, Hồ Chí Minh

hồi tưởng “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên được nghe ba chữ Pháp: Tự do,

Bình đẳng, Bác ái… Và từ thuở ấy, rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp,

muốn tìm xem những gì ẩn sau những chữ ấy. Nhưng trong những trường học

cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như dạy con vẹt. Chúng giấu không cho

người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả

Rútxô và Môngtexkiơ cũng bị cấm” [101; tr.476]. Trong Tuyên ngôn độc lập

150

của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tố

cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp bằng những chứng cứ cụ thể: “Chúng lập ra

nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước

thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.”;

“Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.”; “Chúng dùng thuốc

phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.”; “Về kinh tế, chúng bóc lột

dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác,

tiêu điều”, hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa [104; tr.9 -

10]. Như vậy, trên thực tế, các nước đế quốc ngang nhiên chà đạp lên nhân

quyền của người dân nước thuộc địa và phụ thuộc. Trên hành trình đi tìm đường

cứu nước, Người đã rút ra được kết luận: muốn giành được quyền sống, quyền tự

do và quyền mưu cầu hạnh phúc thì nhân dân các nước thuộc địa trước hết phải

giành được độc lập dân tộc. Chỉ khi dân tộc được độc lập thì quyền tự quyết và

bình đẳng dân tộc mới được thực hiện, khi đó, mỗi người dân mới được tự do và

được hưởng những quyền cơ bản của con người. Vì vậy, đấu tranh cho dân tộc

được độc lập là cơ sở, điều kiện tiên quyết bảo đảm quyền con người cho nhân

dân, cho từng cá nhân.

Từ vấn đề quyền tự do của con người mà thấy được quyền tự do và bình

đẳng của các dân tộc là một đóng góp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào lý

luận về nhân quyền của nhân loại ở thế kỷ XX. Vào thời điểm đó, quan điểm về

nhân quyền của Liên hiệp quốc cũng mới chỉ xem xét về quyền con người, chưa

chưa thấy được quyền tự quyết của các dân tộc. Phải đến giữa thập kỷ 60 của thế

kỷ XX trở đi, khiếm khuyết này mới được phát hiện và điểu chỉnh. Lúc này,

ICCPR và ICESCR mới ghi nhận tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Tại

Hội nghị nhân quyền thế giới năm 1993 tổ chức ở Vienna (Autriche), cộng đồng

quốc tế một lần nữa khẳng định: Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết dân

tộc. Quyền này bao gồm: Quyền xác lập chế độ chính trị, thể chế quốc gia và hệ

151

thống pháp luật. Tất cả các quốc gia đều phải tôn trọng quyền đó. Với quyền

này, các nhà nước có quyền áp dụng mọi biện pháp, trong đó có xây dựng và

thực thi pháp luật để bảo vệ chế độ của mình. Những hành vi chống lại chế độ

chính trị và nhà nước hiện hữu là vi phạm quy luật, tất yếu sẽ mất tự do. Nhận

thức đúng đắn về tự do của cá nhân không thể không nhận thức đúng quy luật

này. Hay nói cách khác, không có quyền tự do cá nhân nào được phép đứng trên

hoặc chà đạp lên chế độ chính trị, lợi ích của Nhà nước. Việc khước từ hay thủ

tiêu quyền dân tộc tự quyết là một sự vi phạm nhân quyền. Như vậy, ngay từ rất

sớm Hồ Chí Minh đã có tầm nhận thức vượt thời đại về mối quan hệ giữa quyền

con người với quyền độc lập và tự do của dân tộc. Tư tưởng tiên phong ấy của

Hồ Chí Minh đã định hướng cho tư tưởng đương đại về quyền con người: quyền

cá nhân gắn liền với quyền tập thể; độc lập, tự do cho dân tộc và phát triển là

những quyền cơ bản của con người; quyền con người không bao giờ có thể cao

hơn chủ quyền quốc gia.

Nhóm quyền tập thể và phát triển bao gồm những quyền tiêu biểu như

quyền tự quyết dân tộc; quyền phát triển; quyền với các nguồn tài nguyên thiên

nhiên; quyền được sống trong hoà bình; quyền được sống trong môi trường

trong lành… Hiện nay, danh mục các quyền thuộc thế hệ quyền này vẫn đang

được bổ sung, cụ thể những quyền được đề cập trong thời gian gần đây bao gồm:

quyền được thông tin và các quyền về thông tin; quyền được hưởng thụ các giá

trị văn hoá… Xét về tính chất, thế hệ quyền con người thứ ba là sự trung hoà nội

dung của cả hai nhóm trên, song cần đặt chúng trong những bối cảnh mới và

trong khuôn khổ các quyền của nhóm. Hiện nay, nhiều nơi trên thế giới vẫn còn

tồn tại tình trạng nghèo đói, chiến tranh, thảm họa sinh thái và thảm họa thiên

nhiên. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc đạt được tiến bộ trong tôn trọng nhân

quyền là rất hạn chế. Trong bối cảnh đó, nhiều người cảm thấy cần thiết phải

công nhận một loại quyền mới. Nhóm quyền này sẽ đảm bảo những điều kiện

152

thích hợp cho các xã hội, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, để có thể mở

đường cho việc thụ hưởng các nhóm quyền thế hệ thứ nhất và thứ hai đã được

ghi nhận. Về tính pháp lý, ngoại trừ một số quyền như quyền tự quyết dân tộc,

hầu hết các quyền trong thế hệ thứ ba chưa được pháp điển hoá bằng các điều

ước quốc tế, mà mới chỉ được đề cập trong các tuyên bố, tuyên ngôn (các văn

kiện luật mềm (soft law) không có hiệu lực ràng buộc về pháp lý. Tính pháp lý

và tính hiện thực của hầu hết các quyền trong thế hệ này hiện vẫn đang là chủ đề

gây tranh cãi.

3.2. Thực trạng thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay nhìn từ

quan điểm của J.S.Mill về quyền tự do con người

Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã xác định những tư tưởng và đường lối

chỉ đạo về quyền con người làm cơ sở cho việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con

người trong thực tiễn. Các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về

quyền con người được hình thành từ những yếu tố: tư tưởng về quyền con người

trong truyền thống lịch sử dân tộc; tư tưởng tiến bộ về nhân quyền của nhân loại;

nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; những

nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người được Nhà nước thừa nhận;

thực tiễn và những yêu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới, hội nhập kinh tế quốc

tế. Các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền con người được

thể hiện trong các văn kiện của Đảng (Cương lĩnh chính trị, Nghị quyết, Chỉ thị...)

và văn kiện của các cơ quan Nhà nước (Báo cáo của Chính phủ, Sách trắng của

Bộ ngoại giao...). Dưới đây, đề cập đến thực trạng về vấn đề thực hiện quyền con

người trong một số lĩnh vực sau:

3.2.1. Nhà nước bảo đảm các quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý

Nhà nước và xã hội

Xuất phát từ việc bảo đảm lợi ích cho cá nhân trong thực trạng quyền tự do

bị đánh giá thấp, J.S.Mill khẳng định cần phải xác lập cơ chế (phương thức) thực

153

hiện quyền con người. Về mặt thực tiễn chính trị, J.S.Mill chủ trương thiết lập

một nền dân chủ đại diện mang tính hình thức; hạn chế lĩnh vực tác động và

những thẩm quyền của nhà nước trong sự tương tác của nó với xã hội công

dân và cá nhân; tuyên bố về sự bình đẳng về chính trị của công dân, đem lại

cho cá nhân các quyền cơ bản và không thể tước đoạt, trong đó có quyền bầu

cử, quyền ứng cử và quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Về quyền bầu

cử của công dân, J.S.Mill khẳng định đây là một quyền cơ bản của công dân.

Đồng thời, ông còn khẳng định, cần phải mở rộng hơn nữa quyền bầu cử đến

nhiều đối tượng trong xã hội. Để quyền bầu cử được mở rộng cho tất cả, theo

J.S.Mill, trước hết dân chúng phải được giáo dục “phổ cập giáo dục phải đi

trước phổ thông đầu phiếu”. J.S.Mill ủng hộ hệ thống bầu cử dựa trên trình độ

giáo dục hơn là việc căn cứ theo tài sản bởi vì việc sử dụng sức mạnh của đồng

tiền vào công việc bầu cử, nó khiến cho con người đi lệch hướng so với những

ước muốn chính đáng của họ.

Từ góc độ tiếp cận của J.S.Mill về quyền bầu cử và quyền ứng cử của công

dân, thực trạng thực hiện những quyền trên ở Việt Nam hiện nay cho thấy Nhà

nước Việt Nam thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm

tra”; nhân dân là người quyết định mọi công việc của Nhà nước. Điều 6 Hiến

pháp năm 2013 có quy định như sau: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước

bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng

nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” [167]. Như vậy, nhân

dân có quyền tham gia quản lý xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua người

đại diện do họ lựa chọn. Thông qua bầu cử, người dân tự lựa chọn ra những

người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình. Nhà nước Việt Nam không

ngừng phấn đấu để bảo đảm và tạo điều kiện cho mọi người thực hiện quyền

tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, coi đây là một trong những nhóm quyền

quan trọng nhất của công dân.

154

Hiến pháp Việt Nam còn nêu rõ: nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước

thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí

và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước

nhân dân; công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia

thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan

Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; công dân, không

phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo... đủ 18 tuổi

trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc

hội, Hội đồng nhân dân.

Trong cuộc bầu cử Quốc hội khoá XIV và bầu cử Hội đồng nhân dân các

cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 đã có hơn 69 triệu 265 ngàn người đủ tư cách cử tri

tham gia bầu cử tại 91.476 tổ bầu cử trên cả nước. Số lượng cử tri thực hiện

quyền bầu cử ở mức cao như vậy là do người dân ngày càng ý thức được quyền

của mình. Trong những năm qua, hoạt động và vai trò của Quốc hội ngày càng

được tăng cường. Đại biểu Quốc hội là những đại diện trực tiếp của nhân dân ở

mọi tầng lớp, mọi giới, họ là các nhà hoạt động chính trị, xã hội, trí thức, công

nhân, nông dân, giới tu hành và đại diện của các dân tộc thiểu số. Quốc hội đã

thực hiện một cách hiệu quả công tác lập pháp và giám sát của mình. Trong mỗi

kỳ họp Quốc hội, phần chất vấn các thành viên Chính phủ đã trở thành việc làm

thường xuyên, ngày càng đi vào thực chất và có tác dụng như diễn đàn để người

dân thông qua đại biểu của mình chất vấn cách thức điều hành của Chính phủ,

đặc biệt đối với các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng và đề xuất các giải pháp

khắc phục khó khăn, thách thức. Việc truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn

của Quốc hội đã tạo điều kiện tốt hơn cho người dân trong việc thực thi các

quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của Chính phủ.

Nhà nước đã ban hành các quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo điều kiện cho các

tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào tiến trình xây dựng, hoạch định và giám

155

sát việc thực hiện chính sách của Nhà nước, được nhân dân đồng tình, hưởng

ứng; vị trí làm chủ của người lao động ở cơ sở không ngừng được nâng cao.

3.2.2. Nhà nước bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin

Vấn đề quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin được J.S.Mill đề

cập đến trong tác phẩm “Bàn về tự do”. Tác phẩm là một luận văn nhỏ, gọn; vậy

mà J.S.Mill dành một chương để luận bàn đến những quyền đó. Sở dĩ, ông dành

sự quan tâm sâu sắc đến nhóm quyền này xuất phát từ từ thực tiễn Anh quốc lúc

bấy giờ: “không ở đâu có tự do báo chí rộng rãi như ở Anh, điều đó nói chung là

đúng” [78; tr.874]. Chính bản thân J.S.Mill đã được thụ hưởng những quyền này.

Và thiên chức của báo chí tự do được J.S.Mill đề cao, cho nên ông tích cực viết

báo để thảo luận các vấn đề chính trị và xã hội đương thời như Tait‟s Magazine,

The Jurist, Monthly Repository, The London Review, The Edinburgh Review…

J.S.Mill coi báo chí là hiện thân sự tin cậy của nhân dân với bản thân mình, là

những dây liên hệ biết nói gắn liền với các cá nhân, với nhà nước, với toàn thế

giới... J.S.Mill xác định tự do báo chí là một trong những quyền căn bản nhất và

là “một trong những bảo đảm an toàn chống lại nền cai trị tham nhũng và chuyên

chế” [69; tr.49]. Tư tưởng này của ông có sự tương đồng với luận điểm của

C.Mác, khi ông cho rằng tự do báo chí là sự thực hiện tự do của con người. Do

đó, ở đâu có báo chí, ở đấy có tự do báo chí. Như vậy, dù hình thái kinh tế- xã hội

khác nhau nhưng giá trị phổ quát của quyền con người trong lĩnh vực tự do báo

chí, tự do ngôn luận là giống nhau và được tôn trọng.

Việt Nam tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và

thông tin của người dân. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 đã xác định “Công dân

có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu

tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” [167]. Hệ thống pháp

luật Việt Nam về báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình ngày càng được hoàn

156

thiện theo hướng bảo đảm tốt hơn quyền tự do ngôn luận của nhân dân. Luật Báo

chí năm 2016 đã thể hiện đầy đủ chính sách của Nhà nước Việt Nam tôn trọng và

bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân nhằm tăng cường vị trí,

vai trò và quyền hạn của báo chí và nhà báo. Luật Báo chí qui định Nhà nước tạo

điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn

luận trên báo chí. Không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí,

nhà báo hoạt động. Luật Xuất bản cũng quy định công dân được quyền tự do

công bố các tác phẩm cho công chúng mà không bị kiểm duyệt. Luật Báo chí còn

qui định: công dân được thông tin và phát biểu ý kiến qua báo chí về tình hình

đất nước và thế giới; quyền được tiếp xúc, cung cấp tin, bài, ảnh và tác phẩm cho

báo chí và nhà báo mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào;

quyền đóng góp ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách

và pháp luật; quyền phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí...

Báo chí ở Việt Nam đã trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội,

nhân dân, là công cụ quan trọng bảo vệ lợi ích của xã hội, các quyền tự do của

nhân dân; là lực lượng quan trọng trong công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi

chính sách và pháp luật của Nhà nước. Báo chí đã đóng vai trò quan trọng trong

phát hiện, đưa tin nhiều vụ việc vi phạm pháp luật, góp phần vào cuộc đấu tranh

chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội, xây dựng bộ máy công quyền

trong sạch, vững mạnh. Mọi người dân đều có quyền đề đạt nguyện vọng, phát

biểu và đóng góp ý kiến trên tất cả các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa

thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Chủng loại thông tin trên báo chí,

đài phát thanh và truyền hình ngày càng phong phú và cập nhật hơn do nguồn

cung cấp thông tin nhiều và đa dạng hơn. Trong các năm qua, hoạt động của các

phương tiện thông tin đại chúng ngày càng cởi mở, sôi động. Các phiên họp của

Quốc hội, Hội đồng nhân dân, nhất là các buổi chất vấn được truyền hình trực

tiếp trên vô tuyến truyền hình. Nhiều chương trình đối thoại, tranh luận, trả lời,

157

thăm dò ý kiến… với nội dung phong phú, đa dạng về mọi vấn đề đã được đăng

tải, truyền thanh và truyền hình rộng rãi.

Sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung

và các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam là một minh chứng về tự do

ngôn luận, tự do báo chí và thông tin ở Việt Nam. Năm 1990, Việt Nam chỉ có

258 báo và tạp chí, nay tăng lên tới 553 cơ quan báo chí với gần 700 ấn phẩm,

200 báo điện tử và hệ thống báo chí trên mạng internet. Ngoài báo chí của các cơ

quan Nhà nước, có rất nhiều báo, tạp chí của các tổ chức chính trị, các tổ chức xã

hội và nghề nghiệp với trên 550 triệu bản báo được xuất bản hàng năm. Hiện nay,

Việt Nam hiện có 1 đài phát thanh quốc gia, 1 đài truyền hình quốc gia, 4 Đài

Truyền hình khu vực và 64 đài phát thanh, truyền hình cấp tỉnh, thành phố; hơn

600 đài truyền thanh cấp huyện. Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình

Việt Nam đã không ngừng nâng cao công suất, tăng thời lượng phát sóng, mở

rộng diện phủ sóng rộng khắp trong cả nước, tới các khu vực nông thôn, miền

núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Trên 80% hộ gia đình nghe được Đài Tiếng nói

Việt Nam và trên 70% số hộ xem được các chương trình của Đài Truyền hình

Việt Nam. Các tỉnh, thành phố đều có đài phát thanh, truyền hình với thời lượng

phát sóng ngày càng tăng. Nhiều chương trình truyền hình của nước ngoài được

chiếu rộng rãi ở Việt Nam như CNN, BBC, TV5, DW, RAI, HBO…

Người dân Việt Nam ngày càng được tiếp cận tốt hơn với công nghệ thông

tin hiện đại, đặc biệt là Internet. Chính phủ Việt Nam chủ trương khuyến khích

và tạo mọi điều kiện để người dân tiếp cận, khai thác và sử dụng rộng rãi thông

tin trên mạng Internet bằng Nghị định 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 về quản

lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet. Tuy dịch vụ Internet mới được đưa vào

khai thác, sử dụng và nối mạng toàn cầu từ tháng 11/1997, song trình độ phát

triển và tốc độ đăng ký sử dụng Internet tại Việt Nam đã tăng nhanh, đạt mức

158

tương đương nhiều nước ở châu lục. Hiện nay Internet đã hình thành mạng lưới

cung cấp dịch vụ 64/64 tỉnh, thành phố.

3.2.3. Nhà nước bảo đảm quyền tự do hội họp và lập hội

Về quyền tự do lập hội, J.S.Mill cho rằng : “Quyền này tuy đã có từ lâu

nhưng về sau này được nêu lên thành một điều luật” [69; tr.874]. Thực tiễn nước

Anh lúc bấy giờ, quyền tự do lập hội được coi là “quyền bẩm sinh (birthright)

thứ hai của dân Anh… một quyền mà cho tới nay không một dân tộc nào ở châu

Âu được hưởng” [78; tr.874]. Có lẽ đó là lý do tại sao J.S.Mill không bàn nhiều

về tự do lập hội. Ông đề cập đến quyền tự do lập hội với tư cách nó là hệ quả

lôgíc “được suy ra” từ quyền tự do ngôn luận và quyền tự do lựa chọn lối sống.

Khi cá nhân được tự do ngôn luận, được tự do sống cuộc sống của chính mình thì

đó cũng là khi cá nhân đương nhiên có quyền tự do hội họp với cá nhân khác.

Quyền tự do lập hội được thể hiện là mỗi cá nhân có quyền tham gia thành

lập những tổ chức, những hội mà thông qua đó các quyền và lợi ích hợp pháp của

họ được đáp ứng. Các cá nhân có lợi ích liên quan đến nhau, có cùng sở thích

được sự đồng thuận trên nhiều mặt có quyền tổ chức thành hội. Theo J.S.Mill,

quyền tự do lập hội của cá nhân còn được thể hiện ở khía cạnh cá nhân rút khỏi

những giao ước, tổ chức khi cảm thấy không còn được đáp ứng các nhu cầu hoặc

trực tiếp xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân. Nếu quyền tự

do nói chung được J.S.Mill đề cập đến không tách rời khỏi nghĩa vụ, trách nhiệm

với cộng đồng thì tự do hội họp không nằm ngoài quy luật đó. Tự do hội họp là

điều kiện để mỗi cá nhân được thỏa mãn các nhu cầu và lợi ích hợp pháp của họ,

phục vụ cho sự phát triển của mỗi cá nhân và tiến bộ của xã hội. Vì vậy, cá nhân

không được phép lợi dụng hay nhân danh quyền tự do này để thành lập các tổ

chức, lôi kéo những phần tử xấu hoạt động đi ngược lại lợi ích chung của cộng

đồng. Nếu hành vi này xảy ra, theo J.S.Mill, đương nhiên quyền tự do này của cá

nhân phải đặt dưới sự kiểm soát của quyền uy xã hội.

159

Ở Việt Nam, quyền tự do lập hội của người dân được Nhà nước quy định

trong Hiến pháp, Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Dân sự và nhiều văn bản pháp luật

cụ thể khác. Trong hệ thống chính trị nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng

sản Việt Nam, còn có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, những đoàn thể bao gồm

Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn

thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh Việt Nam, 300 tổ chức

nhân dân bao gồm các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp hoạt động trên

phạm vi toàn quốc so với 115 tổ chức năm 1990 với hàng chục triệu hội viên.

Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Hiến pháp năm 2013 xác định là

“1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời

là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung

thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy

chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực

lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật

thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách

nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. 3. Các tổ chức của Đảng

và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và

pháp luật” [167].

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức đại diện và hiệp thương ý kiến của tất

cả các đoàn thể và tổ chức nhân dân trong lĩnh vực chính trị, xã hội và các tổ

chức nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc với đại diện của tất cả 54 dân tộc anh em.

Ngoài ra, Việt Nam có 18 tổ chức công đoàn cấp quốc gia và 6020 tổ chức công

đoàn ở địa phương. Các tổ chức này tích cực tham gia vào việc xây dựng chính

sách lao động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua

các văn bản hướng dẫn và hợp đồng lao động, đồng thời đóng vai trò đại diện

cho người lao động trong thương lượng, ký kết các thỏa ước lao động tập thể.

Bên cạnh đó có các tổ chức của thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh…

160

Ngoài ra còn có hàng nghìn hiệp hội, câu lạc bộ... hoạt động trong mọi lĩnh vực

đời sống xã hội, trong đó chủ yếu là từ thiện và cứu trợ nhân đạo. Các tổ chức và

hiệp hội hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản, độc lập và tuân thủ pháp

luật. Nhà nước trợ giúp tài chính nếu các chương trình, dự án và hoạt động phù

hợp với chính sách phát triển kinh tế, xã hội và lợi ích chung của cộng đồng.

3.2.4. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Không giống như chế độ độc tài trong lịch sử, quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo trong xã hội dân chủ đã được ủng hộ mạnh mẽ. Điều này được thể hiện

trong nhận định của C.Mác “Từ khái niệm nhân quyền tuyệt nhiên không toát

ra tính chất không thể tương dung giữa tôn giáo với những quyền của con

người - ngược lại, trong những quyền đó, trực tiếp chỉ ra quyền được mộ đạo,

được mộ đạo theo bất luận kiểu nào, được hành đạo theo tôn giáo riêng của

mình. Đặc quyền tín ngưỡng là một quyền phổ biến của con người” [78;

tr.549]. Vì lẽ trên mà J.S.Mill không trực tiếp đưa ra các luận cứ về tính hữu

ích của tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thông qua quá trình luận giải tính hữu ích

của tự do tư tưởng, tự do quan điểm và biểu đạt; John Start Mill đã bàn đến tự

do tín ngưỡng và tôn giáo.

Về tự do tín ngưỡng và tôn giáo, Nhà nước ta khẳng định đó là nhu cầu

tinh thần chính đáng của con người. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là chính

sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm

1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh chính sách tín ngưỡng tự do và

Lương, Giáo đoàn kết trong chương trình hành động của Chính phủ, coi đó là

một trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam. Từ đó đến nay,

Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền của các tín đồ được tự do

thờ cúng và thực hành tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách này đã được thể chế

hóa bằng pháp luật.

161

Điều 24 Hiến pháp 2013 nêu rõ: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng,

tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước

pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3.

Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,

tôn giáo để vi phạm pháp luật” [167]. Nguyên tắc không phân biệt đối xử vì lý

do tôn giáo còn được thể hiện trên mọi lĩnh vực như quyền bầu cử và ứng cử;

trong các quan hệ dân sự, lao động, kết hôn và nhiều văn bản pháp quy khác như

Bộ Luật Tố tụng Hình sự, Luật Đất đai, Luật Giáo dục... Các tổ chức tôn giáo

hợp pháp được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo

chức sắc, xuất bản kinh sách, sửa chữa và xây dựng cơ sở thờ tự theo quy định

của pháp luật. Nhà nước chủ trương giao đất cho cộng đồng tín đồ sử dụng lâu

dài và đất đai của tôn giáo không phải chịu thuế như các loại đất khác. Luật pháp

Việt Nam cũng nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo của công dân, cưỡng ép dân theo đạo, bỏ đạo hoặc phân biệt đối xử với

công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo và quy định các hình phạt thích đáng đối

với các tội danh này. Các quy định pháp lý trên hoàn toàn phù hợp với tinh thần

và nội dung về tự do tín ngưỡng và tôn giáo đã được nêu trong Tuyên ngôn quốc

tế về quyền con người và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị.

Năm 2016, Quốc hội ban hành Luật tôn giáo đã cụ thể hóa các quy định của

Hiến pháp và thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Nhà nước Việt Nam về

tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, đáp ứng đầy đủ hơn nguyện vọng và

nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh của nhân dân và bảo đảm sự tương thích

với các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc

tham gia. Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều loại hình tín

ngưỡng. Khoảng 80% người dân Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo.

Mọi sinh hoạt tôn giáo cá nhân của tín đồ, chức sắc thuộc các hệ phái được thực

hiện bình thường. Ngoài ra, còn hàng chục triệu người tin theo các tín ngưỡng

162

bản địa như tín ngưỡng dân gian của người Kinh, tín ngưỡng nguyên thủy của

các dân tộc thiểu số. Khách du lịch và người nước ngoài đến Việt Nam rất dễ

dàng chứng kiến số người đi lễ chùa, đến nhà thờ và tham dự các lễ hội tín

ngưỡng rất đông.

Số nhà thờ, đền, chùa, thánh thất và nơi thờ tự không ngừng tăng. Năm

2003, ở Việt Nam có khoảng 15.244 đền, chùa Phật giáo; 5.456 nhà thờ, nhà

nguyện Công giáo; 275 nhà thờ Tin lành; 1.205 thánh thất Cao đài; 35 cơ sở thờ

tự của đạo Hoà Hảo, 77 Thánh đường Hồi giáo và hàng chục ngàn đình, miếu,

điện thờ. Năm 2003 đã có 425 cơ sở thờ tự được xây lại hoặc xây mới (217 của

Phật giáo, 177 của Công giáo, 8 của Tin Lành và 23 của Cao Đài) và 294 cơ sở

được sửa chữa, tu bổ. Trong năm 2004, có 165 cơ sở thờ tự được xây mới hoặc

sửa chữa, tu bổ.

Hàng năm, số chức sắc, nhà tu hành và những người hoạt động tôn giáo

chuyên nghiệp không ngừng tăng nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tâm

linh của nhân dân. Năm 2003, cả nước có 62.486 chức sắc tôn giáo và nhà tu

hành (49.829 năm 1997), trong đó có 38.365 chức sắc Phật giáo, 15.058 chức

sắc Công giáo, 492 chức sắc Tin lành, 7.350 thuộc Cao đài, 534 thuộc Phật giáo

Hòa Hảo và 669 thuộc Hồi giáo. Việc phong chức, bổ nhiệm các chức sắc tôn

giáo được tiến hành thường xuyên: năm 2003 và 2004 đã có 2821 chức sắc tôn

giáo được phong chức, bổ nhiệm trong đó có 1169 chức sắc Phật giáo, 325 chức

sắc Công giáo, 154 chức sắc Tin Lành, 1078 chức sắc Cao Đài, 95 chức sắc Phật

giáo Hòa Hảo. Từ năm 1975-2000, có 42 Giám mục được bổ nhiệm, trong khi

đó từ năm 1945-1975, Giáo hội Va-ti-căng chỉ bổ nhiệm được 33 người.

Các chức sắc tôn giáo cũng có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội,

có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân như mọi công dân khác

theo quy định tại điều 53 và 54 của Hiến pháp. Hiện có 7 đại biểu Quốc hội Việt

Nam là chức sắc tôn giáo (4 đại biểu Phật giáo, 2 đại biểu Công giáo, 1 đại biểu

163

Phật giáo Hòa Hảo) và theo số liệu của 44/64 tỉnh, thành phố, hiện có 1171 chức

sắc tôn giáo là đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, trong đó cấp tỉnh - thành phố

là 74 người, cấp quận - huyện 265 người và cấp xã - phường 832 người.

Các tôn giáo ở Việt Nam có quyền và được Nhà nước tạo điều kiện mở

trường và cơ sở đào tạo chức sắc, xuất bản kinh sách, tham gia các hoạt động xã

hội, từ thiện, nhân đạo... Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện có 3 học viện Phật

học với trên 1.000 tăng, ni sinh (năm 1975, chỉ có 1 trường Đại học Phật giáo),

35 lớp cao đẳng và trung cấp Phật học với trên 5000 tăng, ni sinh; 1076 cơ sở từ

thiện và nhân đạo, trong đó có 950 lớp học tình thương. Phật giáo Nam Tông

Khơme có 2.500 các vị sư theo học các lớp cao cấp, trung cấp và trung cấp Phật

học Pali. Giáo hội Công giáo có 6 Đại Chủng viện với 2797 chủng sinh và chủng

sinh dự bị, 992 cơ sở hoạt động nhân đạo và từ thiện (130 cơ sở khám chữa bệnh

và điều dưỡng, 862 cơ sở giáo dục và dạy nghề). Đạo Tin lành có Viện Thánh

kinh Thần học tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian qua, đạo Tin lành đã

đào tạo và bồi dưỡng cho 267 mục sư truyền đạo, đạo Hòa Hảo cho 1211 chức

việc và đạo Cao đài 1285 chức sắc.

Về Hội đoàn tôn giáo, Phật giáo có 820 gia đình Phật tử. Công giáo: tổng số

hội đoàn 9.531, trong đó các hội đoàn phục vụ lễ nghi tôn giáo 4.278; hoạt động

khác 5.253.

Hiện nay, riêng ở Tây Nguyên có 304.876 tín đồ Tin Lành, 1286 chi hội

thuộc 8 hệ phái, 79 mục sư và 476 nhà truyền đạo và truyền đạo tình nguyện.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc

thiểu số ở Việt Nam được Nhà nước tôn trọng, bảo đảm trong khuôn khổ Hiến

pháp, pháp luật. Chính phủ đã có nhiều chính sách nhằm bảo đảm hoạt động

bình thường về tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số, đạo Tin lành.

Chính phủ cũng đã công nhận tư cách pháp nhân của 36 chi hội Tin lành mới

được thành lập ở Tây Nguyên.

164

Các tôn giáo ở Việt Nam có mối quan hệ quốc tế rộng rãi. Giáo hội Công

giáo Việt Nam có mối quan hệ về tổ chức và là một bộ phận của Giáo hội Công

giáo hoàn vũ dưới sự lãnh đạo của Giáo triều Va-ti-căng. Giáo hội Phật giáo Việt

Nam cũng có mối quan hệ chặt chẽ với Phật giáo thế giới và Phật giáo các nước

láng giềng như Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc... Các tổ chức, cá nhân hoạt

động trong lĩnh vực tôn giáo được Nhà nước tạo điều kiện để giao lưu quốc tế và

đi đào tạo ở nước ngoài. Từ năm 1993 đến hết năm 2002 đã có 3.272 trường hợp

giáo sỹ xuất cảnh (Công giáo 1.600 trường hợp, Phật giáo 1.303 trường hợp, Tin

Lành 36 trường hợp, Hồi giáo 228 trường hợp, Cao Đài 15 trường hợp) đi học,

tham dự hội nghị, hành hương, chữa bệnh, thăm thân, du lịch. Riêng trong năm

2004 đã có 317 giáo sĩ, chức sắc các tôn giáo xuất cảnh để hoạt động tôn giáo ở

nước ngoài. Đại diện một số tôn giáo như Công giáo, Tin lành, Phật giáo tham

dự Hội nghị Thiên niên kỷ các nhà lãnh đạo tôn giáo tại New York, Mỹ năm

2000, tham dự đối thoại liên tôn tại Indonesia, Hội nghị thượng đỉnh Phật giáo

tại Myanmar.

Rất nhiều cá nhân, tổ chức tôn giáo nước ngoài cũng đã vào Việt Nam để

hoạt động tôn giáo và giao lưu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam: Đoàn Toà

thánh Vatican (hàng năm đến Việt Nam để làm việc về những vấn đề liên quan

đến Giáo hội Công giáo), Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, Đoàn Hội đồng Giám

mục Mỹ… Bên cạnh đó, đoàn của Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế đã tới Việt

Nam và có nhiều cuộc tiếp xúc với đại diện các tôn giáo của Việt Nam.

3.3. Một số bài học rút ra về vấn đề quyền con ngƣời trong triết của

J.S.Mill về tự do

3.3.1. Bài học về việc bảo đảm các quyền tự do cá nhân

Quyền tự do cá nhân hết sức rộng lớn được J.S.Mill tiếp cận nó ở các nhóm

quyền dân sự và quyền chính trị. Quyền tự do cá nhân quyền tự do cơ bản gắn

với quyền con người trong tư tưởng triết học của J.S.Mill đến hiện nay được hầu

165

hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận. Theo UDHR, các quyền tự do cá nhân

của con người bao gồm: Tự do đi lại và tự do cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc

gia. Tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng

hoặc tôn giáo của mình; tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo. Tự do ngôn luận

và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng như

tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá ý tưởng và các thông tin bằng bất kỳ

phương tiện truyền thông. Tự do hội họp và lập hội. Tự do lựa chọn nghề nghiệp.

Tự do kết hôn khi đủ tuổi và nam nữ bình đẳng trong việc kết hôn, trong thời

gian chung sống và ly hôn... [124]. Các quyền tự do cá nhân trong UDHR được

cụ thể hóa nội dung ICCPR và nhiều văn bản pháp luật quốc tế khác.

Ở mỗi quốc gia, các quyền tự do cá nhân của công dân đều được ghi nhận

trong hiến pháp, văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, thể hiện sự tôn

trọng của nhà nước đối với các quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm mà tạo hóa

đã ban cho mỗi cá nhân, nhằm bảo đảm sự thống nhất trong việc thực hiện và bảo

vệ các quyền đó. Đây đồng thời cũng là chế định pháp lý cơ bản, xác định địa vị

pháp lý của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước và xã hội, là cơ sở để xác

định các quyền và nghĩa vụ khác của công dân ở mọi cấp độ và trong mọi lĩnh vực

của đời sống xã hội. Các quyền tự do cá nhân của cá nhân được cụ thể hóa trong

các đạo luật liên quan. Trên cơ sở nội dung các quyền đó trong Hiến pháp và pháp

luật của mỗi quốc gia, chúng ta có thể đánh giá mức độ dân chủ, nhân đạo, văn

minh và mối quan hệ giữa nhà nước và công dân ở những nước đó.

Ở Việt Nam, Nhà nước luôn ghi nhận và tôn trọng các quyền tự do cơ bản

của con người, coi đó là một trong những nguyên tắc xây dựng pháp luật của

Nhà nước. Năm 1946, trong bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước, các quyền tự

do cá nhân cơ bản của như quyền bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng nam, nữ,

quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do tổ chức hội hợp, tự do cư trú, tự

166

do đi lại... đã được ghi nhận [163]. Cụ thể trong Điều thứ 10 của Hiến pháp có

xác định

“Công dân Việt Nam có quyền:

- Tự do ngôn luận

- Tự do xuất bản

- Tự do tổ chức và hội họp

- Tự do tín ngưỡng

- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” [163]

Việc ghi nhận, đề cao và tôn trọng các quyền tự do cá nhân cơ bản là mục

tiêu chính trong hoạt động quản lý, xây dựng Nhà nước Việt Nam. Trên tinh thần

đó, ngày 24 tháng 9 năm 1982, Việt Nam đã tham gia ICCPR của Đại hội đồng

Liên hiệp quốc [124].

Năm 2013, Quốc hội ban hành bản Hiến pháp mới. Hiến pháp năm 2013 đã

có nhiều điểm mới và tiến bộ vượt bậc trong việc ghi nhận và thực thi các công

ước quốc tế về quyền con người tại Việt Nam so với những bản Hiến pháp trước

đây (cụ thể Hiến pháp 1992) được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau đây:

Trước hết, Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên Chương “Quyền và nghĩa vụ công

dân” thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Qua đặt tên

Chương đã cho chúng ta thấy Hiến pháp năm 2013 đã hiến định những yêu cầu

cơ bản về bảo đảm quyền con người và quyền công dân, trong đó quyền con

người lần đầu tiên được đưa vào tên Chương ở cụm từ đầu tiên trong tên gọi của

Chương. Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 đã chuyển Chương “Quyền con người,

quyền và nghĩa vụ của công dân” từ vị trí Chương 5 trong Hiến pháp năm 1992

lên vị trí Chương 2. Việc chuyển đổi vị trí của Chương cho thấy các nhà lập hiến

đã nhận thức rõ về tầm quan trọng của chế định quyền con người trong Hiến

pháp. Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 không còn đồng nhất quyền con người và

167

quyền công dân như ở Điều 50 Hiến pháp năm 1992 khi quy định quyền con

người “…thể hiện ở quyền công dân”. Hiến pháp năm 2013 đã sử dụng cả hai

thuật ngữ “quyền con người” và “quyền công dân” với những nội dung được quy

định chủ thể quyền là công dân thì Hiến pháp năm 2013 quy định chủ thể quyền

không chỉ là công dân mà quyền của con người, của mọi người, quyền của mỗi

người đều có chứ không chỉ công dân. Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng

ghi nhận cả ba nghĩa vụ của nhà nước là nghĩa vụ tôn trọng, nghĩa vụ bảo vệ và

nghĩa vụ bảo đảm thực hiện quyền con người. Quy định này được thể hiện trong

các Điều 3 và Điều 14, Hiến pháp năm 2013 tương ứng với các quy định về

nghĩa vụ quốc gia trong Luật nhân quyền quốc tế. Những thay đổi này cho thấy

trong chính sách của Nhà nước ta luôn xác định vì con người và đề cao nhân tố

con người, xác định rõ con người là động lực cơ bản trong xây dựng và phát triển

đất nước, đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang trong quá trình xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật Việt Nam luôn hướng

đến việc ghi nhận và cụ thể hóa quyền con người trong các văn bản pháp luật,

phù hợp với điều kiện của đất nước và pháp luật quốc tế mà Việt Nam tham gia,

đồng thời Nhà nước cũng chú trọng việc tạo ra các cơ sở cần thiết đáp ứng nhu

cầu đảm bảo thực hiện quyền con người trên thực tế.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các quyền tự do cá nhân - những

quyền con người cơ bản của công dân Việt Nam như: quyền tự do đi lại, tự do cư

trú, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội, tự do

nghiên cứu, sáng tác, tự do kinh doanh, tự do lựa chọn nghề nghiệp, tự do hôn

nhân… đã được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật như: Bộ luật Dân sự,

Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Khiếu nại, Pháp lệnh

Tín ngưỡng, tôn giáo... và được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện

thuận tiện để công dân thực hiện trong thực tế.

168

3.3.2. Bài học về việc xây dựng hình thức chính thể bảo đảm các quyền

tham gia vào đời sống chính trị của người dân

Quan điểm về chính thể trong triết học của J.S.Mill nhằm cố gắng đưa ra

những biện giải hợp lý về sự lợi ích của xã hội. Trên cơ sở khẳng định quyền lực

tối thượng thuộc về dân chúng, J.S.Mill cho rằng các cơ quan đại diện cần phải

phát huy được quyền lực tối thượng đó. Theo J.S.Mill, dân chúng chính là “ông

chủ” của mọi hoạt động chính quyền. Khi bảo vệ thiểu số trước sự chuyên chế

của đa số, J.S.Mill hướng đến lợi ích của toàn thể dân chúng. Trên cơ sở của

nguyên tắc vị lợi, ông đề cập đến vai trò của quốc hội. Ông gọi quốc hội là “Đại

hội dân ý” (Congress of opinions), là “đấu trường” của tự do và quyền lợi của

dân chúng thắng thế. Quốc hội chính là cơ quan để người dân có thể “hy vọng

tìm được ai đó nói hộ nỗi lòng của mình thật hay”, là nơi mà “bất cứ ảo tưởng

nào về số đông hay sức mạnh của phe phái đều được chữa trị” [114, tr.179-180].

Với quan điểm chủ đạo rằng một chính thể tốt đẹp phải có tác dụng khiến cho lợi

ích của mỗi cá nhân đều được bảo vệ để gia tăng lợi ích của toàn xã hội, triết

học của J.S.Mill toát lên màu sắc nhân văn, lạc quan và tiến bộ. Được coi là vị

thánh tông đồ của tự do, J.S.Mill dành cả cuộc đời mình để trả lời cho câu hỏi

làm thế nào để tất cả mọi người đều được hạnh phúc, được sống trong một xã hội

phồn vinh và tiến bộ. J.S.Mill được đánh giá là nhà tư tưởng đầu thế kỷ XIX, cho

đến nay, tư tưởng của ông vẫn có ý nghĩa đối với nhiều vấn đề chính trị - xã hội đương đại. Năm 2011, Robert David Kaplan51 có nhận định về J.S.Mill trên tạp

chí Foreign Policy như sau “Về cơ bản, năm vừa qua chúng ta đã phải vật lộn với

câu hỏi thâm thúy nhất trong triết học chính trị: làm thế nào để xây dựng một

chính quyền trung ương lý tưởng.” [159]. Đây là câu hỏi được Robert D. Kaplan

đưa ra sau khi ông dẫn hàng loạt những bạo động, biểu tình của dân chúng và sự

lúng túng của các chính trị gia. Sau đó, ông khẳng định “Không có nhà tư tưởng

nào giải quyết những câu hỏi này một cách tỉ mỉ và hùng hồn như triết gia người

169

Anh thế kỷ XIX. J.S.Mill, đó là lý do tại sao nói ông là người soi đường phù hợp

cho chúng ta vào thời điểm phức tạp như hiện nay” [159]. Như vậy, ta cũng có

thể hình dung được vị trí của J.S.Mill trong tư duy chính trị của người phương

Tây cận - hiện đại.

Ý nghĩa tư tưởng triết học của J.S.Mill trong việc đảm bảo các quyền tham

gia vào đời sống chính trị được thể hiện ở một số quy định cơ bản về quyền tham

gia vào đời sống chính trị theo pháp luật quốc tế. Cụ thể Quyền tham gia vào đời

sống chính trị đầu tiên được ghi nhận trong Điều 21 của UDHR. Theo Điều này

thì mọi người đều có quyền tham gia quản lý đất nước mình, một cách trực tiếp

hoặc thông qua các đại diện mà họ được tự do lựa chọn. Mọi người đều có quyền

được tiếp cận các dịch vụ công cộng ở nước mình một cách bình đẳng [124].

Tiếp theo, Điều 25 của ICCPR đã tái khẳng định và cụ thể hóa quy định trong

Điều 21 UDHR, trong đó nêu rõ: “Mọi công dân, không có bất kỳ sự phân biệt

nào... và không có bất kỳ sự hạn chế bất hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để: a)

Tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua

những đại diện do họ tự do lựa chọn; b) Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử

định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, nhằm

đảm bảo cho cử tri được tự do bày tỏ ý nguyện của mình; c) Được tiếp cận với

các chức vụ công ở đất nước mình trên cơ sở bình đẳng” [124].

Hiện nay, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã ghi nhận và bảo đảm cho

quyền tham gia vào đời sống chính trị được thực hiện trên thực tế. Những quy

định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tham gia vào đời sống chính trị

khá đầy đủ và tương đối phù hợp với quy định của ICCPR và UDHR. Việc ghi

nhận trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về quyền tham gia vào đời sống

chính trị (bao gồm các quyền bầu cử, quyền ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà

nước và xã hội; quyền khiếu nại, quyền tố cáo…) của công dân nhằm thực hiện

nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, khẳng định nền tảng của việc

170

quản lý nhà nước và xã hội là phải trên cơ sở đồng thuận của nhân dân, bảo đảm

cho công dân thực hiện quyền làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội, thực hiện

phương châm mọi công việc của Nhà nước, của xã hội được “dân biết, dân bàn,

dân làm, dân kiểm tra”.

Trong những quyền tham gia vào đời sống chính trị thì quyền bầu cử và

quyền ứng cử là một trong những quyền chính trị cơ bản của công dân Việt Nam,

được quy định trong Hiến pháp, tạo cơ sở pháp lý cho công dân trực tiếp tham

gia xây dựng chính quyền, xây dựng nhà nước của nhân dân. Các quyền này

được quy định tại Điều 27, 28, 29 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, công dân đủ

mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền

ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Công dân có quyền tham gia

quản lý nhà nước và xã hội. Công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức

trưng cầu ý dân. Theo Điều 6, Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân

chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện [163].

Bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào công việc quản lý nhà nuớc đã được

ghi trong Hiến pháp, những bộ luật: Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân,

Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Hội đồng nhân

dân và ủy ban nhân dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Khiếu

nại, tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, trong đó quy định cụ thể các điều kiện,

hình thức, phương thức để nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà

nước như việc các đại biểu, các cơ quan nhà nước phải tiếp nhận và giải quyết các

đề xuất, kiến nghị, khiếu nại của người dân, tiếp thu các ý kiến đóng góp vào các

văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, các chương trình, kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội... Các luật về các tổ chức chính trị - xã hội đã cụ thể hóa quy định

của Hiến pháp về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội tham gia công việc quản

lý nhà nước. Như vậy, các văn bản pháp lý hiện hành đã quy định khá cụ thể các

hình thức, phương thức tham gia của nhân dân trong việc quản lý, xây dựng các

171

chính sách, pháp luật của Nhà nước. Người dân có thể tham gia xây dựng các

chính sách, pháp luật thông qua đại biểu trong các cơ quan đại diện (Quốc hội,

Hội đồng nhân dân), các tổ chức chính trị - xã hội mà mình tham gia hoặc qua các

phương tiện thông tin đại chúng, nhưng cũng có thể quyết định trực tiếp các vấn

đề ở tầm quốc gia khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, hoặc trực tiếp quyết định

các vấn đề ở cơ sở theo quy định của pháp luật. Sự tham gia của nhân dân được

thực hiện trong toàn bộ quá trình xây dựng chính sách: từ các đề xuất sáng kiến

ban đầu, đến việc tiến hành triển khai xây dựng, quyết định và thi hành chính sách.

Tuy nhiên, tùy vào tính chất của những chính sách cụ thể mà người dân có thể

tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp, ở mức độ khác nhau.

3.3.3. Bài học về việc bảo đảm quyền bình đẳng giới

Bằng những hoạt động lý luận và thực tiễn, J.S.Mill đã đấu tranh cho quyền

bình đẳng giới. Ông coi đây nhu cầu bức thiết của nhân loại tiến bộ nói chung và

phụ nữ nói riêng trong cuộc đấu tranh vì quyền tự do, bình đẳng của con người.

Điều đáng lưu ý là trong khi hầu như các học giả nổi tiếng cùng thời, đều ngăn

cản bình đẳng giới thì J.S.Mill lại dành cho vấn đề này một sự ủng hộ nhiệt thành

nhất. Điều này khiến cho tư tưởng ủng hộ bình đẳng giới của ông đã phải chịu sự

chỉ trích và lên án nặng nề từ dư luận xã hội, từ những tác giả cùng thế hệ. Cụ thể,

năm 1868, John Proctor đã vẽ một bức tranh với tựa đề “Quý bà Mill tham gia

nhóm quý bà” (Miss Mill joins the Ladies) để chế nhạo thậm tệ vì nỗ lực của ông bảo vệ cho những quyền của nữ giới52 [165]. Năm 1869, cùng với việc xuất bản “Sự áp bức phụ nữ”, cuốn sách được coi “kinh thánh của phong trào nữ giới”53

[114; tr.170]; J.S.Mill đã cùng với những người bạn đồng chí hướng tổ chức

buổi hội nghị đầu tiên của Hội quốc gia vì quyền bầu cử của phụ nữ. Trong bài

phát biểu khai mạc hội nghị, chủ tịch hội là bà Clementia Taylor đã cho rằng,

thành công của Hội phần nhiều đều do sự ủng hộ dũng cảm và nhiệt huyết của

J.S.Mill. Đại diện cho những người phụ nữ, C.Taylor bày tỏ: “Mỗi người phụ nữ

172

Anh đều nợ J.S.Mill một lòng biết ơn sâu sắc”54 [114; tr.174]. Điều này cho thấy

tư tưởng quyền bình đẳng giới không chỉ có giá trị trong thời đại Victoria mà

trong phong trào đấu tranh đòi bình quyền của phụ nữ ở thế kỷ XX, và ngay cả

thế kỷ XXI. Phân tích lịch sử của phong trào phụ nữ, các nhà nghiên cứu đưa ra

lý thuyết ba giai đoạn phát triển, được gọi là các Làn sóng nữ quyền: Làn sóng

thứ nhất (The First Wave of Feminism) từ khoảng năm 1848 đến 1918, Làn sóng

thứ hai (The Second Wave of Feminism) từ 1918 đến 1968 và Làn sóng thứ ba

(The Third Wave of Feminism) từ 1968 đến nay. Trong đó, giai đoạn đầu - làn

sóng nữ quyền thứ nhất chính là cơ sở nền tảng quan trọng, khơi nguồn cho sự

phát triển bùng nổ của các giai đoạn tiếp theo. Đối với giai đoạn đầu, linh hồn và

“người cha” tư tưởng của phong trào đòi quyền bình đẳng cho nữ giới chính là

J.S.Mill [114; tr.176-177]. Ngày nay, đặt bên cạnh phần mộ của J.S.Mill ở

Avignon là một tấm bảng khắc dòng chữ “En hommage de J.S.Mill. Defenseur

des Femmes” (Bằng tất cả sự kính trọng J.S.Mill, người bảo vệ phụ nữ) [114;

tr.174]. Vấn đề bình đẳng giới đã được pháp điển hóa trong UDHR tại Điều 2,

Điều 16, Điều 25 [124]. Trong luật pháp của mỗi quốc gia, vấn đề bình đẳng giới

được coi như một tiêu chí của dân chủ, công bằng, văn minh.

Xuất hiện trước cả những tuyên bố quốc tế của Liên hiệp quốc về vấn đề bình

đẳng giới, năm 1930, trong Bản Luận cương năm - Cương lĩnh chính trị đầu tiên

của Đảng Cộng sản Việt Nam - đã khẳng định mục tiêu đấu tranh cho nam nữ bình

quyền. Cùng năm đó, Hội Phụ nữ cứu quốc (tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ nữ

Việt Nam) đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập, trở thành một trong những

tổ chức xã hội của phụ nữ lâu đời nhất trên thế giới. Từ khi giành được độc lập

(năm 1945), việc bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ và giải phóng phụ nữ luôn là

chính sách nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thể chế hóa trong hệ

thống pháp luật của Nhà nước ta. Ngay trong Sắc lệnh số 14, ngày 18 - 9 - 1945,

một trong những văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam mới đã quy

173

định quyền bình đẳng của phụ nữ trong vấn đề bầu cử. Trong lời nói đầu của Hiến

pháp năm 1946, Nhà nước ta đã xác định một trong ba nguyên tắc cơ bản của Hiến

pháp là “đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo”.

Trên cơ sở đó, Điều 1 Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Nước Việt Nam là một

nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân

Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Quy

định này đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân chủ,

rút ngắn khoảng cách phân biệt đối xử giữa nam và nữ trên thực tế. Bên cạnh đó,

quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được Hiến pháp năm 1946 cụ

thể hoá tại Điều 6 như sau: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi

phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá”, đồng thời, Điều 9 Hiến pháp năm 1946

khẳng định: “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” [163]. Những

quy định kể trên đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại về địa vị pháp lý của phụ nữ

Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, phụ nữ Việt Nam được pháp luật thừa nhận

và bảo đảm có những quyền bình đẳng với nam giới trên tất cả các lĩnh vực. Nếu so

sánh với pháp luật quốc tế, thì thấy bình đẳng giới trong Hiến pháp 1946 của Việt

Nam có tiến bộ vượt bậc. Bình đẳng nam nữ (trên tất cả các phương diện) được

khẳng định ngay từ Hiến pháp năm 1946, khi nước Việt Nam mới được thành lập.

Trong khi đó, tính từ thời điểm Hiến pháp Mỹ được ban hành (1789), phải 133 năm

sau (1920), ở Mỹ, phụ nữ mới được ghi nhận có quyền bình đẳng với nam giới về

bầu cử và ứng cử. Năm 1971, phụ nữ ở Thụy Sĩ mới được ghi nhận những quyền này còn phụ nữ ở Kuwait54 mãi đến năm 1991 mới được quyền bầu cử. Đó là chưa

kể một số quốc gia, cho đến thời điểm hiện nay, pháp luật vẫn chưa ghi nhận phụ

nữ có các quyền bình đẳng quan trọng này.

Kế thừa những nội dung tiến bộ của Hiến pháp năm 1946, các bản Hiến

pháp sau đã có những điều luật quy định trực tiếp và cụ thể hơn về quyền bình

đẳng nam, nữ. Đến Hiến pháp năm 2013 có nhiều điều quy định sự bình đẳng

174

nam - nữ một cách toàn diện hơn, tổng quát hơn và tiến bộ hơn. Quy định nam -

nữ bình đẳng về mọi mặt trong tất cả các lĩnh vực. Đây không chỉ là bình đẳng về

quyền lợi mà còn là bình đẳng về trách nhiệm, nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực. Cụ

thể, tại Điều 16 (mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt

đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội). Điều 26 (công

dân nam nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ

hội bình đẳng giới; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát

triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội). Đó là những quy định

các vấn đề chung, có tính nguyên tắc liên quan đến gia đình. Các quy định trực

tiếp về hôn nhân, gia đình được Hiến định tại Điều 36: nam nữ có quyền kết hôn,

ly hôn; hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ

chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo

hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Điều 60 quy định: Nhà nước, xã hội tạo

môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc... Bên cạnh

đó, một số nội dung liên quan đến gia đình, bình đẳng giới cũng đã được Hiến

định trong một số điều, khoản của các Chương II Quyền con người, quyền và

nghĩa vụ cơ bản của công dân và Chương III Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục,

khoa học, công nghệ và môi trường [163]. Có thể nói, trong những năm qua,

Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và hành động, từ

khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được nhiều thành tựu quan

trọng về bình đẳng giới. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia

xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất thế giới trong thời gian qua. Điểm nổi bật

trong việc bảo đảm quyền lợi về giới ở Việt Nam là việc hoàn thiện khung luật

pháp, chính sách về bình đẳng giới.

175

Tiểu kết chƣơng 3

Mặc dù những tác phẩm của J.S.Mill viết hơn một thế kỷ rưỡi nhưng có

những điều ông nói vẫn còn có những ý nghĩa hiện thời. Lý tưởng của J.S.Mill là

đem lại sự tự do cho từng người để có được sự phồn vinh cho tất cả mọi người và

cuối cùng nhằm có được sự tiến bộ xã hội. Ông còn cảnh báo chống lại sự độc tài

của đa số và khẳng định rằng có những giới hạn trong việc thực hiện những quyền

lực công cộng đối với cá nhân. Thông qua bảo vệ tự do, J.S.Mill đưa ra mô hình xã

hội mà quyền tự do của con người không những được đảm bảo mà không ngừng

được củng cố và phát huy, đó là nhà nước dân chủ. Trong nhà nước đó, người cầm

quyền phải đồng thuận với nhân dân; quyền lợi và ý chí của họ phải là quyền lợi và

ý chí của quốc gia, của nhân dân. Đó phải là một mô hình nhà nước mà quyền tự do

của con người được thực hiện nhiều nhất. Điều đặc biệt, J.S.Mill tiếp cận tự do

không chỉ với tư cách là một phạm trù chính trị mà còn là một phạm trù văn hóa,

gắn liền với đạo đức. Với tất cả những tư tưởng tiến bộ đó của J.S.Mill có ý nghĩa

rất thiết thực trên phương diện lý luận và hoạt động thực tiễn trong giai đoạn hiện

nay. Tuy nhiên, là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định, mỗi học thuyết

đều phản ánh ít nhiều những điều kiện hiện thực của thời đại đó. Vậy nên, triết học

của J.S.Mill không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Mặc dù khẳng định cơ sở

cho việc hạn chế quyền lực tác động của xã hội đến các hành vi của cá nhân là tự vệ

nhằm đảm bảo tính hài hòa, tối đa hóa lợi ích của xã hội và cá nhân, tuy nhiên ông

chưa chỉ ra được phương thức hạn chế quyền lực của nhà nước một cách khoa học

và có hệ thống. J.S.Mill xây dựng tự do và luận chứng tự do trên các nguyên tắc:

nguyên tắc tự do, nguyên tắc duy lợi và nguyên tắc tổn hại có nhiều điểm chưa hợp

lý. Đặc biệt, khi bàn về nguyên tắc tổn hại, J.S.Mill cho rằng một hành vi gây hại

chỉ khi nó ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Đây là một lập luận thiếu tính

thuyết phục của J.S.Mill. Nếu một hành động ảnh hưởng đến lợi ích của người

khác bị coi là gây hại thì sẽ vô cùng khó khăn để xác định ranh giới giữa sự tổn hại

176

và không tổn hại mà cá nhân có thể gây ra cho xã hội. Do đó cần phải có một sự

đảm bảo rõ ràng hơn nữa trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, nếu không sẽ là

kẽ hở cho những hành vi tự do quá trớn. Những nguyên tắc mà J.S.Mill đề ra mới

chỉ là những điều kiện cần chứ chưa phải là tất cả những điều kiện đủ cho một xã

hội phát triển với những con người cá nhân tự do. Bên cạnh đó, J.S.Mill đưa ra tiêu

chuẩn giới hạn hành vi của cá nhân là lợi ích nhưng ông chưa xác định rõ được đó

là lợi ích nào và những giải pháp mà ông đề ra để xây dựng một tương lai tốt đẹp

của nhân loại chỉ đơn thuần thông qua tự do ngôn luận, thông qua phẩm chất biết

sửa sai của con người. Mặc dù còn tồn tại một số vấn đề nêu trên nhưng điều đó

không làm giảm những giá trị trong triết học của J.S.Mill. Quan điểm về tự do của

ông chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ, tác động lớn đến tình hình chính trị - xã hội của

nước Anh đương thời và ghi đậm dấu ấn trong lịch sử tư tưởng nói chung. Từ

những lập luận thuyết phục, triết học của J.S.Mill toát lên màu sắc của chủ nghĩa

lạc quan. Ông tin tưởng vào tự do cá nhân sẽ là tiền đề cho sự tiến bộ của xã hội.

Niềm tin và lý tưởng của ông không phải là không có lý bởi lẽ ở thời đại nào, con

người cũng luôn khát khao hướng đến một cuộc sống tự do mà phẩm giá và quyền

lợi của con người được tôn trọng.

177

KẾT LUẬN

1. J.S.Mill là một nhà triết học, một nhà đạo đức học học, nhà kinh tế học và

là nhà hoạt động chính trị nổi tiếng ở nước Anh. Ông là một triết gia có đường

lối tự do ảnh hưởng lớn ở phương Tây thế kỷ XIX. Sự nghiệp mà J.S.Mill theo

đuổi chính là tự do và quyền con người. Sự nghiệp đó là khối thống nhất giữa

các tác phẩm trong các lĩnh vực triết học, logic học, đạo đức học và chính trị học;

trong đó tiêu biểu có bộ ba tác phẩm “Bàn về tự do”, “Chính thể đại diện” và

“Thuyết vị lợi”. J.S.Mill tiếp cận tự do với tự cách là những quyền cơ bản của

con người; đó là những quyền tự do dân sự và những quyền tự do dân chủ về

chính trị. Những tư tưởng đó được ông nêu lên trong bối cảnh nước Anh thế kỷ

XIX với những biến chuyển rõ rệt của nền kinh tế thời kỳ công nghiệp hóa đã

kéo theo những thay đổi của điều kiện xã hội - chính trị. Đó là thời kỳ mà kinh tế

rất phát triển song cũng bao chứa trong nó những mâu thuẫn xã hội rất gay gắt.

Về chính trị, chính phủ Anh rơi vào tình trạng khủng hoảng về cách thức vận

hành chính thể trước những cuộc biểu tình, phẫn nộ của dân chúng. Đối với dân

chúng, về cơ bản, họ bị mất đi quyền tự do chính trị của mình. Tầng lớp tinh hoa

trong xã hội Anh không có quyền tham chính bởi sự lấn át của số đông. Thực

chất, số đông được nhắc đến ở đây là số đông đã bị các nhà cầm quyền thao túng.

Trên đây là những điều kiện lịch sử hình thành quan điểm tự do trong triết học

của J.S.Mill. Thêm vào đó, triết học thực chứng của A.Comte, triết học tự do của

J.Locke, quan điểm về sự phát triển cao nhất, hài hòa nhất mọi năng lực của con

người với tư cách mục tiêu của nhân loại của W.Humboldt và tư tưởng chính trị

của A.Tocqueville là những tiền đề lý luận, là phông nền tư tưởng cho sự hình

thành triết học tự do của J.S.Mill. Từ điều kiện lịch sử và những tiền đề lý luận

trên, triết học chính trị J.S.Mill hình thành và góp phần không nhỏ làm phong

phú thêm bức tranh triết học phương Tây.

178

2. Quá trình hình thành quan điểm tự do trong triết học của J.S.Mill đã cho

thấy các bước chuyển tư tưởng của ông: từ khi là một thần đồng thuở thơ ấu đến

khi trở thành triết gia lỗi lạc, từ những quan điểm nền tảng ban đầu đến những

luận thuyết sâu sắc sau này. Đồng thời, các giai đoạn đó vận động cùng những

bước chuyển còn phác họa nên một hành trình tư tưởng mà J.S.Mill đã trải qua;

để thấy được sự nỗ lực, khổ luyện của ông, để thấy được nhiệt huyết lớn lao mà

ông dành cho sự nghiệp tranh đấu vì tự do mỗi cá nhân và của toàn xã hội. Sau

cùng, quá trình hình thành và phát triển triết học tự do, J.S.Mill còn bộc lộ được

rằng, tư tưởng tự do trong triết học của ông được dựa trên triết học lý thuyết của

ông: thế giới quan duy nghiệm duy cảm nằm trong trào lưu triết học duy nghiệm

duy cảm Anh và thuyết đạo đức học vị lợi.

3. Lý tưởng của J.S.Mill là đem lại sự tự do cho từng người để có được sự

phồn vinh cho tất cả mọi người và cuối cùng nhằm có được sự tiến bộ xã hội.

Ông còn cảnh báo chống lại sự độc tài của đa số và khẳng định rằng có những

giới hạn trong việc thực hiện những quyền lực công cộng đối với cá nhân. Thông

qua bảo vệ tự do, J.S.Mill đưa ra mô hình xã hội mà quyền tự do của con người

không những được đảm bảo mà không ngừng được củng cố và phát huy, đó là

nhà nước dân chủ. Trong nhà nước đó, người cầm quyền phải đồng thuận với

nhân dân; quyền lợi và ý chí của họ phải là quyền lợi và ý chí của quốc gia, của

nhân dân. Đó phải là một mô hình nhà nước mà quyền tự do của con người được

thực hiện nhiều nhất. Điều đặc biệt, J.S.Mill tiếp cận tự do không chỉ với tư cách

là một phạm trù chính trị mà còn là một phạm trù văn hóa, gắn liền với đạo đức.

Với tất cả những tư tưởng tiến bộ đó của J.S.Mill có ý nghĩa rất thiết thực trên

phương diện lý luận và hoạt động thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.

4. Tuy nhiên, là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định, mỗi học thuyết

đều phản ánh ít nhiều những điều kiện hiện thực của thời đại đó. Vậy nên, triết

học của J.S.Mill không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Mặc dù khẳng định

179

cơ sở cho việc hạn chế quyền lực tác động của xã hội đến các hành vi của cá

nhân là tự vệ nhằm đảm bảo tính hài hòa, tối đa hóa lợi ích của xã hội và cá nhân,

tuy nhiên ông chưa chỉ ra được phương thức hạn chế quyền lực của nhà nước

một cách khoa học và có hệ thống. J.S.Mill xây dựng tự do và luận chứng tự do

trên các nguyên tắc: nguyên tắc tự do, nguyên tắc duy lợi và nguyên tắc tổn hại

có nhiều điểm chưa hợp lý. Đặc biệt, khi bàn về nguyên tắc tổn hại, J.S.Mill cho

rằng một hành vi gây hại chỉ khi nó ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Đây

là một lập luận thiếu tính thuyết phục của Mill. Nếu một hành động ảnh hưởng

đến lợi ích của người khác bị coi là gây hại thì sẽ vô cùng khó khăn để xác định

ranh giới giữa sự tổn hại và không tổn hại mà cá nhân có thể gây ra cho xã hội.

Do đó cần phải có một sự đảm bảo rõ ràng hơn nữa trong mối quan hệ giữa cá

nhân và xã hội, nếu không sẽ là kẽ hở cho những hành vi tự do quá trớn. Những

nguyên tắc mà J.S.Mill đề ra mới chỉ là những điều kiện cần chứ chưa phải là tất

cả những điều kiện đủ cho một xã hội phát triển với những con người cá nhân tự

do. Bên cạnh đó, J.S.Mill đưa ra tiêu chuẩn giới hạn hành vi của cá nhân là lợi

ích nhưng ông chưa xác định rõ được đó là lợi ích nào và những giải pháp mà

ông đề ra để xây dựng một tương lai tốt đẹp của nhân loại chỉ đơn thuần thông

qua tự do ngôn luận, thông qua phẩm chất biết sửa sai của con người. Mặc dù

còn tồn tại một số vấn đề nêu trên nhưng điều đó không làm giảm những giá trị

trong triết học của J.S.Mill. Quan điểm về tự do của ông chứa đựng nhiều yếu tố

tiến bộ, tác động lớn đến tình hình chính trị - xã hội của nước Anh đương thời và

ghi đậm dấu ấn trong lịch sử tư tưởng nói chung. Từ những lập luận thuyết phục,

triết học của J.S.Mill toát lên màu sắc của chủ nghĩa lạc quan. Ông tin tưởng vào

tự do cá nhân sẽ là tiền đề cho sự tiến bộ của xã hội. Niềm tin và lý tưởng của

ông không phải là không có lý bởi lẽ ở thời đại nào, con người cũng luôn khát

khao hướng đến một cuộc sống tự do mà phẩm giá và quyền lợi của con người

được tôn trọng.

180

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1, John Stuart Mill với “Bàn về tự do”, 2015, Tạp chí Triết học số 5 (288),

tr.74-79, ISSN: 0866-7632.

2, John Stuart Mill’s philosophy of liberty as a basic of human rights, 2017,

Cбopниk Нayчныx Cтaтeй “Coвpeмeнныe Пpoблeмы нeykи и oбpaзoвaния:

Tpaдuциии и Нoвaции”, Kaзaxckий Нaциoнaлый Пeдaгoгичeckий

Yнивepcитeт Имeни Aбaя, Kazakhstan, 3/2017, ISBN 978-601-298-581-8,

3, Một số vấn đề về giáo dục quyền con người cho học sinh ở Việt Nam hiện

nay, 2018, Tạp chí Khoa học – khoa học xã hội trường Đại học Thủ đô Hà Nội,

số 21, tr172-180, ISSN 2354-1512.

4, Tư tưởng về quyền con người trong xã hội truyền thống Việt Nam, 2018,

Tạp chí Khoa học – khoa học xã hội trường Đại học Thủ đô Hà Nội, số 22,

tr172-180, ISSN 2354-1512.

5, John Stuart Mill’s Liberal thought on Education and the Dissemination

of Education in Enforcing the Right of Liberty, American Journal of Educational

Research Volume 6, May 2018, ISSN (Print): 2327-6126.

6, Special Features in Ho Chi Minh's Thought about Human Rights,

American Journal of Educational Research Volume 6, Issue 7, 2018, ISSN

(Print): 2327-6126 .

181

CHÚ THÍCH

(1) Victoria (1819 - 1901) là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh

và Ireland từ 20 tháng 6 năm 1837 đến khi bà qua đời. Từ ngày 1 tháng 5 năm

1876, bà mang thêm danh hiệu Nữ hoàng Ấn Độ (Empress of India).

(2) John Kay, (1704 - 1780) là kỹ sư người Anh, nhà phát minh ra tàu con

thoi bay. Phát minh của ông có ý nghĩa quan trọng đối với việc dệt tự động.

(3) James Hargreaves (1720 - 1778) là là một trong những tên tuổi nổi

tiếng nhất trong Cách mạng công nghiệp ở Anh. Ông nổi tiếng với phát minh ra

máy kéo sợi Jenny. Máy xe sợi Jenny đã giải quyết được mâu thuẫn giữa khâu xe

sợi và khâu dệt vải, góp phần đưa ngành dệt nước Anh và thế giới tiến vọt.

(4) Edmund Cartwright (1743 - 1823) là một nhà phát minh người Anh.

Ông tốt nghiệp Đại học Oxford rất sớm và tiếp tục phát minh ra máy dệt điện.

(5) Thomas Newcomen (1663 - 1729) đã hoàn thiện máy hơi nước sử

dụng làm bơm nước, gọi là máy hơi nước Newcomen. Do đó, ông thường được

xem là một người cha đẻ của cuộc Cách mạng công nghiệp. Thành tựu lớn nhất

của Newcomen là máy hơi nước, có lẽ được phát triển năm 1710, kết hợp ý

tưởng của Thomas Savery và Denis Papin.

(6) James Watt (1736-1819) là một kỹ sư làm việc ở văn phòng thí

nghiệm thuộc trường đại học Glasgow (Scotland) đã chế tạo ra máy hơi nước.

(7) Cách mạng tư sản Anh thành công chủ yếu là nhờ được quần chúng

ủng hộ và tham gia đấu tranh. Cách mạng dọn đường cho chủ nghĩa tư bản phát

triển mạnh mẽ hơn, thể hiện sự thắng thế của giai cấp tư sản đối với giai cấp

phong kiến, báo hiệu sự suy vong của giai cấp phong kiến. Thế nhưng quyền lợi

của nhân dân lao động lại không được đáp ứng và cách mạng tư sản là cách

mạng không triệt để.

182

(8) Oliver Cromwell (1599 - 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân

sự người Anh, người đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền cộng hòa

ở Anh và sau đó là Huân tước bảo hộ của Anh, Scotland và Ireland. Ông là một

trong những chỉ huy của lực lượng quân đội mới đánh bại những người bảo

hoàng trong cuộc nội chiến Anh.

(9) Charles II (1630 - 1685) là vua của Anh, Scotland, và Ireland. Ông là

vua Scotland từ 1649 đến khi bị lật đổ năm 1651, và là vua Anh, Scotland,

Ireland từ khi trung hưng chế độ quân chủ năm 1660 đến khi mất.

(10) Sự xuất hiện của đảng chính trị đầu tiên trên thế giới có lẽ bắt đầu từ

nước Anh, trong thời kỳ được gọi là Popish Plot năm 1678, với hai đảng đầu tiên

được biết đến với cái tên là đảng Whig và đảng Tory.

(11) Robert Owen (1771 - 1858) nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng vĩ đại

người Anh.

(12) The six points of the People‟s Charter: A vote for every man over the

age of 21; secret ballots; no property qualification; payment of MPs;

constituencies of equal size and annual Parliaments.

(13) “He may learn in a morning‟s walk through London more of the

history of England during the nineteenth century, than all the professed English

histories in existence will tell him concerning the other eighteen”.

(14) Henry Temple Palmerston (1784 - 1865) là một chính khách thuộc

đảng Whig. Ông là hăng hái thực hiện chính sách xâm lược ở Anh.

(15) Hiệp ước Nam Kinh là mốc mở đầu quá trình biến Trung Quốc từ một

nước phong kiến độc lập trở thành một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Sau

chiến tranh thuốc phiện, các nước đế quốc từng bước xâu xé trung Quốc.

(16) “Matter, then, may be defined, a Permanent Possibility of Sensation”.

(17) “… all we can know of Matter is the sensations which it gives us, and

the order of occurrence of those sensations”.

183

(18) Hiện tượng học (Phenomenology) là cơ sở nền tảng của Chủ nghĩa

Hiện Sinh được hình thành trước đó. Chúng ta cũng cần lưu ý phân biệt học

thuyết này với Hiện tượng luận (Phenomenalism) luận thuyết cho rằng không có

gì thực hữu ngoại trừ kinh nghiệm giác quan.

(19) Nature has placed mankind under the governance of two sovereign

masters, pain and pleasure.

(20) Panopticon là một kiểu nhà tù bố trí các xà-lim theo hình bán nguyệt.

Thiết kế này giúp nhà tù có thể bố trí một số lượng nhân viên ít hơn nhưng lại

giám sát được một số lượng tù nhân nhiều hơn. Thiết kế của Jemery Bentham

nhằm giảm chi phí mà vẫn đem lại hiệu quả công việc cao. Từ ý tưởng nhà tù

panopticon của Jemery Bentham đầu thế kỉ 20, Michel Foucault, nhà tư tưởng

Pháp, đã giới thiệu sơ đồ kiểu nhà tù này như là biểu tượng hệ thống cai trị dân

chúng của giới cầm quyền trong tác phẩm nổi tiếng “Sự ra đời của nhà tù”. Hiện

nay, thiết kế panopticon vẫn tiếp tục được sử dụng trong các văn phòng và nhà

máy trên khắp nước Mỹ để theo dõi năng suất làm việc của nhân viên.

(21) My previous education had been, in a certain sense, already a course

of Benthamism. The Benthamic standard of “the greatest happiness” was that

which I had always been taught to apply.

(22) The “principle of utility”... gave unity to my conceptions of things.

I now had opinions; a creed, a doctrine, a philosophy; in one among the best

senses of the word, a religion; the inculcation and diffusion of which could be

made the principal outward purpose of a life. And I had a grand conception

laid before me of changes to be effected in the condition of mankind through

that doctrine.

(23) Alexis de Tocqueville (tên đầy đủ Alexis Charles Henri Maurice

Clérel de Tocqueville) là đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội và Bộ

trưởng Ngoại giao của Pháp.

184

(24) a party to setting up the Westminster Review. The need of a Radical

organ to make head against the Edinburgh and Quarterly (then in the period of

their greatest reputation and influence).

(25) My father continued to write occasional articles. The Quarterly

Review received its exposure, as a sequel to that of the Edinburgh.

(26) A drowsy, stifled, unimpassioned grief

Which finds no natural outlet or relief

In word, or sigh, or tear”.

(27) The only thing besides Greek, that I learnt as a lesson in this part of

my childhood, A grief without a pang, void, dark and drear

(28) “Suppose that all your objects in life were realized; that all the

changes in institutions and opinions which you are looking forward to, could be

completely effected at this very instant: would this be a great joy and happiness

to you?”.

(29) “At this my heart sank within me: the whole foundation on which my

life was constructed fell down. All my happiness was to have been found in the

continual pursuit of this end. The end had ceased to charm, and how could there

ever again be any interest in the means? I seemed to have nothing left to live for”.

(30) Charles Kingsley (1819 - 1875) là một linh mục, một giáo sư đại học,

nhà cải cách xã hội, nhà sử học và tiểu thuyết gia người Anh.

(31) Thomas Hardy (1840 - 1928) là nhà thơ và tiểu thuyết gia người Anh.

(32) Frederic Harrison (1831 - 1923) là nhà luật học và nhà sử học người

Anh đã công khai hóa chủ nghĩa tích cực của nhà xã hội học người Pháp Auguste

Comte ở Anh.

(33) Luận án sử dụng thuật ngữ “Thuyết vị lợi” để diễn đạt tác phẩm

“Utilitarianism”. Đây là thuật ngữ được nhiều dịch giả sử dụng. Ngoài ra, học

185

thuyết này còn được diễn đạt bởi nhiều thuật ngữ như thuyết công lợi, thuyết duy

lợi, thuyết đại lợi…

(34) Ludwig Josef Johann Wittgenstein (1889 – 1951), là một nhà triết học

người Áo, người đã có công đóng góp quan trọng trong logic, triết học về toán,

triết học tinh thần và triết học ngôn ngữ. Ông được coi là một trong những nhà

triết học quan trọng nhất của thế kỷ 20.

(35) Samuel Taylor Coleridge (1772 – 1834) là nhà thơ, nhà phê bình, nhà

triết học Anh, một đại diện tiêu biểu của các nhà thơ vùng Hồ (Lake Poets) – gồm

Samuel Taylor Coleridge, Robert Southey và William Wordsworth. Ông cũng là

cha của nữ nhà thơ Anh Sara Coleridge và nhà thơ, nhà thư mục Hartley Coleridge.

(36) Michael Sandel (sinh năm 1953) là triết gia chính trị. Tại Mỹ, Michael

Sandel là thành viên Hội đồng Đạo đức sinh học của Tổng thống George

W.Bush, Viện Hàn lâm Khoa học và nghệ thuật Hoa kỳ và Hội đồng đối ngoại

quốc gia. Năm 2010, tờ China Newsweek bình chọn Michael Sandel là “nhân

vật nước ngoài có ảnh hưởng nhất ở Trung Quốc của năm”.

(37) Karl Popper (1902 - 1994) là một nhà triết học người Áo, người đề

xuất các ý tưởng về một xã hội mở, một xã hội mà ở đó sự bất đồng chính kiến

được chấp nhận và đó được xem như một tiền đề để tiến tới việc xây dựng một

xã hội hoàn thiện. Ông cũng được xem như là người sáng lập Chủ nghĩa Duy lý

phê phán (Critical rationalism).

(38) Thomas Hare (1806 - 1891) là một người đề xuất cải cách bầu cử

của Anh.

(39) “that all men are created equal, that they are endowed by their Creator

with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the

pursuit of Happiness...”

(40) “I. Men are born, and always continue, free and equal in respect of

their rights.s Civil distinctions, therefore, can only be founded on public utility.

186

II. The end of all political associations is the preservation of the natural and

imprescriptible rights of man; and these rights are Liberty, Property, Security,

and Resistance of Oppression”.

(41) “The millions of voters, who, in opposition to nearly every educated

person in the country, made Louis Napoleon President, were chiefly peasants

who could neither read nor write”.

(42) “… because so long as education continues to be so wretchedly

imperfect, we dreaded the ignorance and especially the selfishness and brutality

of the mass”.

(43) Mary Wollstonecraft (1759 - 1797) là một nhà văn, nhà triết học và

nhà bảo vệ quyền phụ nữ người Anh thế kỷ 18. Trong suốt cuộc đời của mình, bà

sáng tác tiểu thuyết, luận văn, ký sự các chuyến đi, về lịch sử cuộc cách mạng

Pháp, sách về đạo đức, và một cuốn sách về trẻ em. Wollstonecraft nổi tiếng

nhất với tác phẩm A Vindication of the Rights of Woman (1792), trong đó bà

cho rằng phụ nữ không phải tự nhiên thấp kém so với đàn ông, mà chỉ do họ

thiếu sự giáo dục. Bà nhận đình rằng cả đàn ông và phụ nữ đều phải được đối xử

bình đằng và mường tượng về một trật tự xã hội dựa trên nguyên lý đó.

(44) Alexander Bain (1810 - 1877) là nhà phát minh, kỹ sư người Scotland.

(45) Jeanne d'Arc (1412 - 1431) là một nữ anh hùng người Pháp trong cuộc

Chiến tranh Trăm Năm giữa Pháp và Anh. Vua Charles VII của Pháp, khi đó còn

chưa lên ngôi, gửi cô cùng một đoàn quân đến đánh giải vây cho thành Orléans.

Cô trở nên nổi bật sau khi vượt qua được thái độ coi thường của các chỉ huy dày

dặn kinh nghiệm, và phá vây chỉ trong vòng chín ngày. Một loạt chiến thắng

chóng vánh khác mở đường cho việc Charles VII đăng quang tại Reims. Jeanne

d'Arc trở thành một hình tượng quan trọng trong nền văn minh phương Tây.

(46) Bát Quốc Liên Quân là liên minh của tám quốc gia đế quốc nhằm

chống lại sự nổi dậy của phong trào Nghĩa Hòa Đoàn tập kích vào các sứ quán

187

của tám quốc gia này ở Trung Quốc. Tám nước đó gồm: Anh, Pháp, Mỹ, Đức,

Ý, Nhật, Nga và Autriche.

(47) Gertrude Himmelfarb (sinh ngày 8 tháng 8 năm 1922) là một sử gia

người Mỹ. Cô đã viết rất nhiều về lịch sử trí tuệ, tập trung vào Vương quốc Anh

và thời đại Victoria, cũng như về xã hội và văn hóa đương đại

(48) “The nineteenth century might be called the age of Liberalism”.

(49) Leonard Trelawny Hobhouse (1864 - 1929) là nhà xã hội học và là

nhà chính trị tự do chủ nghĩa của Anh cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.

(50) “The teaching of Mill bring us close to the heart of Liberalism. We

learn from him, in the first place, that liberty is no mere formula of law, or of the

restriction of law”.

(51) Robert David Kaplan (sinh ngày 23 tháng 6 năm 1952) là một tác giả

người Mỹ. Sách của ông là về chính trị, chủ yếu là đối ngoại, và du lịch. Tác

phẩm của ông trong ba thập kỷ đã xuất hiện trên Đại Tây Dương , The

Washington Post , New York Times , New Republic , The National

Interest , Foreign Foreign và The Wall Street Journal , trong số các tờ báo và ấn

phẩm khác.

(52) “Miss Mill joins the Ladies” (Edward John Eyre; Robert Wellesley

Grosvenor, 2nd Baron Ebury; William Henry Smith; John Stuart Mill) by John

Proctor wood engraving, published in Judy or The London Serio-Comic Journal

25 November 1868; (444 mm x 296 mm).

(53) The Subjection of Women … “burst like a time bomb into the sexual

arena” … “bible of the women‟s movement”.

(54) “every woman in Great Britain owed him a deep debt of gratitute”.

(55) Dawlat al-Kuwait là một quốc gia tại Tây Á. Kuwait nằm tại rìa phía

bắc của miền đông bán đảo Ả Rập, và tại đầu vịnh Ba Tư, có biên giới với Iraq

và Ả Rập Xê Út.

188

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Phạm Ngọc Anh chủ biên (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con

người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Gudmundur Alfredsson, Asbjorn Eide (2011), Tuyên ngôn quốc tế nhân

quyền 1948 mục tiêu chung của nhân loại, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội.

3. Nguyễn Trần Bạt (2005), Suy tưởng, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

4. Isaiah Berlin (2014), Bốn tiểu luận về tự do, NXB Tri Thức, Hà Nội.

5. Crane Brinton (2007), Con người và tư tưởng Phương Tây, Nxb Từ điển

Bách khoa, Hà Nội.

6. Vũ Ngọc Bình (1998), Những quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến

quyền trẻ em, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Vũ Ngọc Bình (Hà Nội), Sách bỏ túi về quyền con người, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

8. Vũ Ngọc Bình (2000), Quyền con người trong quản lý tư pháp, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Vũ Ngọc Bình (2007), Giới thiệu Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền

trẻ em, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1997), Triết học (3 tập). Dùng cho nghiên cứu

sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành triết học. Nxb.Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2005), Thành tựu và phát triển quyền con người

ở Việt Nam, Hà Nội.

12. Émile Chartier (2013), Alain nói về hạnh phúc, NXB Trẻ, Hà Nội. Hồ

Thanh Vân – Cao Việt Dũng và Nguyễn Long dịch.

189

13. Đăng Dũng Chi, Hoàng Văn Nghĩa (2014), Chủ nghĩa xã hội và quyền con

người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

14. Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về Quyền tự do kinh doanh trong

pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Edward Craig (2010), Triết học, NXB Tri thức, Hà Nội. Phan Kiều Tùng dịch.

16. Đại học quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền

con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người - Tập tài liệu chuyên đề

của Liên Hợp Quốc, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

18. Đại học quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người Tập hợp những bình

luận, khuyến nghị chung của Ủy ban công ước Liên Hợp Quốc, NXB Công

an nhân dân, Hà Nội.

19. Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền

con người, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội.

20. Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Luật nhân quyền quốc tế- những vấn đề

cơ bản, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội.

21. Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp

luật và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội.

22. Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Tư tưởng về quyền con người – Tuyển tập

tài liệu thế giới và Việt Nam, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội.

23. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người

trong khu vực ASEAN, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội.

24. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Hỏi đáp về quyền con người, NXB Công

an Nhân dân, Hà Nội.

25. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 những

vấn đề lý luận và thực tiễn tập 1, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

190

26. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 những

vấn đề lý luận và thực tiễn tập 2, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

27. Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Tuyển tập Hiến Pháp của một số quốc gia,

NXB Hồng Đức, Hà Nội.

28. Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), Hội thảo Những khía cạnh triết học trong

nền tảng kinh tế thị trường tại Việt Nam, Hòa Bình.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, nền tảng chính trị pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện

đất nước trong thời kỳ mới, Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội.

32. Lưu Phóng Đồng (2004), Giáo trình hướng tới thế hỷ XXI – Triết học

Phương Tây hiện đại, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

33. Nguyễn Văn Động (2004), Các quyền hiến định về xã hội của công dân

Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

34. Nguyễn Văn Động (2006), Các quyền hiến định về chính trị của công dân

Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội.

35. Gilles Dostaler (2008), Chủ nghĩa tự do của Hayek, NXB Tri Thức, Hà Nội,

Nguyễn Đôn Phước dịch.

36. Lê Duẩn (1980), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập dân tộc, vì Chủ

nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, NXB Sự Thật, Hà Nội.

37. Nguyễn Đăng Dung (2004), Tính nhân bản của Hiến Pháp và bản tính của

các cơ quan nhà nước, NXB Tư pháp, Hà Nội.

38. Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (2009), Giáo trình

Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

191

39. Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, NXB Tư pháp,

Hà Nội.

40. Ngô Thị Mỹ Dung (2003), Triết học pháp quyền Tây Âu, Trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh,

thành phố Hồ Chí Minh.

41. Alan Ebenstein (2007), Friedrich Hayek cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Tri

thức, Hà Nội

42. Vũ Công Giao (2016), Hỏi đáp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của

công dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Nguyễn Hoàng Hải (2008), Luận văn Thạc sỹ Quan điểm về tự do trong

tác phẩm bàn về tự do của J.S.Mill, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

Văn, Hà Nội.

44. Tiền Thừa Hán, Hứa Khiết Minh (2005), Thông sử nước Anh, NXB Lao

động – xã hội, Hà Nội, Đặng Thanh Tịch dịch.

45. Hoàng Văn Hảo (1998), Quan điểm Mác – Lênin về quyền con người,

quyền công dân, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

46. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh chủ biên (1997), Một số vấn đề về quyền

dân sự và chính trị, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh-TTNC Quyền

con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh chủ biên (1998), Các văn kiện quốc tế

về quyền con người, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

48. Nguyễn Vũ Hảo (2006), Giao tiếp liên văn hóa trong bối cảnh toàn cầu

hóa: Một số vấn đề triết học, Tạp chí Triết học, số 7 (182), tháng 7 – 2006.

49. Vũ Quang Hiển (2013), Tôn ngôn độc lập những khát vọng về dân tộc và

quyền con người, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

192

50. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (1991),

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Những

quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về quyền con người và ý

nghĩa của với Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

52. Hội luật gia Việt Nam (2008), Bảo vệ quyền con người của các nhóm dễ bị

tổn thương, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

53. Hội luật gia Việt Nam biên soạn (2007), Tập hợp các văn kiện pháp lý quốc

tế cơ bản về quyền con người, NXB Tư pháp, Hà Nội.

54. Đỗ Minh Hợp (2005), Khái niệm tự do trong triết học của Gi. Xáctơrơ, Tạp

chí Triết học Số 11

55. Đỗ Minh Hợp (2008), Đại cương lịch sử triết học Phương Tây hiện đại, NXB

Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố thành phố Hồ Chí Minh.

56. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học Phương Tây, Tập 1 Triết học cổ đại,

triết học trung cổ, triết học Phục hưng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

57. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học Phương Tây, Tập 2 Triết học

Phương Tây cận hiện đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

58. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học Phương Tây, Tập 3 Triết học

Phương Tây hiện đại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

59. Samuel Hungtington (2005), Sự va chạm của các nền văn minh, NXB Lao

động, Hà Nội.

60. Phạm Khiêm Ích, Hoàng Văn Hảo chủ biên (1995), Quyền con người trong

thế giới hiện đại, Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.

61. Phạm Văn Khánh (2006), Góp phần tìm hiểu quyền con người, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

193

62. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu quyền con

người (2005), Các văn kiện cơ bản về Luật nhân đạo quốc tế, NXB Lý luận

chính trị, Hà Nội.

63. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu quyền con

người (2005), Luật nhân đạo quốc tế - Những vấn đề cơ bản, NXB Lý luận

chính trị, Hà Nội.

64. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu quyền con

người (2007), Những nội dung cơ bản về quyền con người, NXB Tư pháp, Hà

Nội.

65. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu quyền con

người, quyền công dân (2011), Tư tưởng về quyền con người tuyển tập tư

tưởng thế giới và Việt Nam, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội.

66. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Nghiên cứu quyền con người

(2007), Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin,

NXB Công An nhân dân, Hà Nội.

67. Tường Duy Kiên (2006), Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con

người, NXB Tư pháp, Hà Nội.

68. John Locke (2007), Khảo luận thứ hai về Chính quyền, NXB Tri Thức, Hà Nội.

69. John Suart Mill (1859), Bàn về Tự do, NXB Tri thức, Hà Nội, Nguyễn Văn

Trọng dịch, bản dịch năm 2014.

70. John Suart Mill (1861), Chính thể đại diện, NXB Tri thức, Hà Nội, Nguyễn

Văn Trọng dịch, bản dịch năm 2016.

71. V.I.Lêni, Toàn tập, tập 38 (2005), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.

72. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39 (2005), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.

73. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 40 (2005), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.

74. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 41 (2005), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.

75. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 47 (2005), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.

194

76. Bùi Bá Linh (2003), Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen về con người và sự

nghiệp giải phóng con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. Nguyễn Thị Thùy Linh (2012), Luận văn Thạc sỹ Triết học “Quan điểm của

J.S.Mill về chính thể trong tác phẩm Chính thể đại diện”, trường Đại học

Khoa học xã hội và nhân văn.

78. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập - tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

79. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

80. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập - tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

81. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập - tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

82. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 13, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

83. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập - tập 16, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

84. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 20, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

85. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 21, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

86. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 22, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

87. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 23, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

88. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 24, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

89. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 25, phần I , NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

90. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 25, phần II, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

91. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 26, phần I, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

92. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 26, phần II, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

93. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập - tập 26, phần III, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

94. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập – tập 40, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

195

95. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập – tập 42, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

96. C.Mác và Ph.Ăngghen (2001), Toàn tập – tập 43, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

97. Bùi Đức Mãn (2008), Lược sử nước Anh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh,

thành phố Hồ Chí Minh.

98. Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, NXB Tư

pháp, Hà Nội.

99. Nguyễn Ánh Hồng Minh (2014), Luận văn Thạc sỹ Triết học: “Tư tưởng

đạo đức của J.S.Mill trong tác phẩm Thuyết vị lợi”, Đại học Khoa học xã

hội và nhân văn.

100. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

101. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

102. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

103. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

104. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

105. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

106. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12 (2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

107. Nguyễn Thế Nghĩa (chủ biên) (1999), Đại cương các tư tưởng và học

thuyết chính trị trên thế giới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

108. Montesquieu (1874), Bàn về tinh thần pháp luật, NXB Chính trị - Hành

chính, Hà Nội, Hoàng Thanh Đạm dịch, bản dịch năm 2013.

109. Nikolai Alexandrovich Berdyaev (2015), Con người trong thế giới tinh

thần – trải nghiệm triết học cá biệt luận, NXB Tri thức, Hà Nội (Nguyễn

Văn Trọng dịch).

110. Lê Tôn Nghiêm (2001), Lịch sử triết học Tây Phương, NXB thành phố Hồ

Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.

196

111. Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp, Lê Hữu Tăng (1987), Từ Ðiển Triết Học

Giản Yếu, NXB Ðại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội.

112. Trần Thảo Nguyên (2006), Triết học kinh tế trong lí thuyết về công lý của

nhà triết học Mĩ – John Rawls, NXB Thế giới, Hà Nội.

113. Ngô Thị Như (2009), Luận văn Thạc sỹ Triết học chính trị của J.S.Mill,

Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố

Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.

114. Ngô Thị Như (2012), Luận án Tiến sĩ Triết học chính trị của J.S.Mill – Giá

trị và bài học lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại

học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.

115. Trần Văn Phòng, Dương Minh Đức (2001), Lịch sử triết học Phương Tây

trước Mác, NXB Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

116. Lê Văn Phú (2004), Công tác xã hội, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

117. Nguyễn Thị Kim Phụng (2007), Giáo trình Luật an sinh xã hội, NXB Tư

pháp, Hà Nội.

118. Hồ Sỹ Quý chủ biên (2003), Con người và phát triển con người trong quan

niệm của của C.Mác và Ph.Ăngghen, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

119. Jean Jacques Rousseau (2014), Khế ước xã hội, bản dịch của GS. Dương

Văn Hóa, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

120. Michael Sandel (2015), Phải trái đúng sai, NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.

121. Trần Đăng Sinh chủ biên (2008), Lịch sử triết học, NXB Đại học sư phạm,

Hà Nội.

122. Trần Đăng Sinh, Lê Văn Đoán (2009), Chuyên đề triết học, NXB Đại học

sư phạm, Hà Nội.

123. Bùi Văn Nam Sơn (2012), Trò chuyện triết học, NXB Tri thức, Hà Nội.

124. Chu Hồng Thanh (1997), Quyền con người và luật quốc tế về quyền con

người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

197

125. Trí Thành (2002), Các quyền tự do dân chủ với nhân dân Đông Dương,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

126. Nguyễn Anh Thái (chủ biên) (2006), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo

dục, Hà Nội

127. Trần Dân Tiên (1994), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ

tịch, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

128. Vũ Hồng Tiến (2006), Những vấn đề cơ bản của lịch sử các học thuyết kinh

tế, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.

129. Trần Quang Tiệp (2004), Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật

tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

130. Tìm hiểu Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1981),

NXB Pháp Lý, Hà Nội.

131. Trần Văn Toàn (2008), Hành trình đi vào triết học, NXB Tri thức, Hà Nội.

132. Tocqueville (2007), Nền dân trị Mỹ tập 1, NXB Tri Thức, Hà Nội, Phạm

Toàn dịch.

133. Tocqueville (2007), Nền dân trị Mỹ tập 2, NXB Tri Thức, Hà Nội, Phạm

Toàn dịch.

134. Từ điển Nga – Việt (1979), NXB Tiếng Nga.

135. Từ điển triết học (1986), NXB Tiến bộ (Mátcơva) và NXB Sự thật, Hà Nội.

136. Nguyễn Văn Trọng (2015), Những ghi chép về quyền tự do lựa chọn, NXB

Tri thức, Hà Nội.

137. Nguyễn Ước (2014), Các chủ đề triết học, NXB Tri thức, Hà Nội.

138. Văn phòng quốc hội (2003), Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các văn bản

pháp lý quốc tế và pháp luật Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

139. Viện Nghiên cứu quyền con người (2014), Quyền con người, lý luận và

thực tiễn, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

198

140. Viện nghiên cứu Lập pháp, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp (2005),Việt Nam

với vấn đề quyền con người, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

141. Viện nghiên cứu Lập pháp, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp (2014), Hiến

pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nền tảng chính trị, pháp lý cho công

cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, NXB Lao động xã hội,

Hà Nội.

142. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

143. Will Durant (2014), Câu chuyện triết học, NXB Hồng Đức, Trí Hải – Bửu

Đích dịch.

Tiếng Anh

144. Aristotle (2007), Politics, translated by Benjamin Jowett, by Forgotten Books.

145. Ben Eggleston và Dale Miller (2014), The Cambridge Companion to

Utilitarianism, Cambridge University Press.

146. Jeremy Bentham (1823), Introduction to the Principles of morals and

legislation, Oxford University Press.

147. John Mercel Robson (1956), The social and political thought of J.S.Mill,

University of Toronto Press.

148. J.S.Mill (1863), Utilitarianism, Batoche Books, Kitchener, 2001.

149. J.S.Mill (1981), The Collected Works of J.S.Mill – 33 volumes, University of

Toronto Press (Canada), Routledge & Kegan Paul (London - England), vol 1.

150. John Skorupski (1998), The Cambridge Companion to Mill, Cambridge

University Press.

151. J.S.Mill (1977), Ibid, vol 19,

152. Leonard Trelawny Hobhouse (2015), Liberalism, Publisher the Perfect Library.

153. Matthew Spalding, 2009. The Declaration of Independence: The

Constitution of the United States, publisher by Heritage Foundation, The

United States of America

199

154. Richard Reeves (2008), J.S.Mill – Victorian Firebrand, Atlantic Books, London.

155. Vincent Robert Johnson, 1990, The French Declaration of the Rights of Man

and of Citizens of 1789, the Reign of Terror, and the Revolutionary Tribunal of

Paris, publisher by Boston College, The United States of America.

Website

156. http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30625

&cn_id=33212

157. Nguyễn Phú Trọng, Tổng kết thực tiễn – một nhiệm vụ trọng yếu của công

tác lý luận hiện nay, http://tapchicongsan.org.vn/

158. http://www.stjohns-chs.org/english/Victorian/millcoleridge.html

159. http://files.libertyfund.org/files/869/0161_Bk.pdf

160. http://assets.cambridge.org/97805211/03428/frontmatter/9780521103428

_frontmatter.pdf

161. http://www.earlymoderntexts.com/assets/pdfs/bentham1780.pdf

162. http://www.publishyourarticles.net/knowledgehub/philosophy/what-is-the

-difference-between-the-theories-of-mill-andbentham.html

163. http://moj.gov.vn/vbpq/lists/vn%20bn%20php%20lut/view_detail.aspx?it

emid=536

164. http://moj.gov.vn/vbpq/lists/vn%20bn%20php%20lut/view_detail.aspx?it

emid=536

165. https://www.npg.org.uk/collections/search/portrait/mw115688/Miss-Mill-

joins-the-Ladies-Edward-John-Eyre-Robert-Wellesley-Grosvenor-2nd-Ba

ron-Ebury-William-Henry-Smith-John-Stuart-Mill

166. A. Comte. Course of positive philosophy, Chapter 1. Dẫn từ History Guide

- http://www. papesz. Net

167. www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/.../hienphapnam2013