QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC 6
lượt xem 2
download
Cảm giác nói riêng, nhận thức, ý thức của con người nói chung chỉ là hình ảnh chủ quan chép lại, chụp lại, phản ánh thế giới vật chất khách quan. Từ cảm giác hình thành tri giác, biểu tượng…
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC 6
- thức của con người, triết học duy vật biện chứng không chỉ khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với ý thức của con người mà còn chỉ rõ, thông qua ý thức của con người, thế giới vật chất được nhận thức. Cảm giác nói riêng, nhận thức, ý thức của con người nói chung chỉ là hình ảnh chủ quan chép lại, chụp lại, phản ánh thế giới vật chất khách quan. Từ cảm giác hình thành tri giác, biểu tượng… và các hoạt động cảm tính; rồi từ đây, khái niệm, phán đoán, suy luận… xuất hiện cùng các hoạt động lý tính của con người. Song song với hoạt động lý tính, các quá trình cảm xúc, ý chí xảy ra dưới sự tác động của thế giới bên ngoài lên các cơ quan thụ cảm. Nhận thức, ý thức chỉ là đặc tính của một dạng vật chất phát triển cao – vật chất xã hội, có nguồn gốc sâu xa từ thế giới vật chất khách quan. Điều này không chỉ góp phần khắc phục những khiếm khuyết của chủ nghĩa duy vật cũ đồng nhất vật chất với một dạng thể cụ thể nào đó của nó hay đi tìm một thứ vật chất “thật sự” tồn tại bên cạnh các sự vật vật chất trong thế giới, mà còn bác bỏ thuyết không thể biết của chủ nghĩa duy tâm. Hai là: Nó cho phép xác định cái vật chất trong đời sống xã hội của con người để tìm kiếm các nguyên nhân vật chất - những nguyên nhân thuộc về phương thức sản xuất chi Page 150 of 487
- phối đời sống xã hội. Khi xác định đúng những nguyên nhân vật chất - cơ sở cuối cùng gây ra các biến cố xã hội, triết học duy vật biện chứng góp phần củng cố nhận thức khoa học cho các ngành khoa học xã hội và tìm ra các phương án tối ưu thúc đẩy hoạt động xã hội phát triển. Điều này góp phần khắc phục sự thống trị lâu đời của chủ nghĩa duy tâm – thần bí, củng cố quan niệm duy vật lịch sử trong nhận thức xã hội của con người. Ba là: Nó khẳng định tính đa dạng và tính vô tận của thế giới vật chất khách quan mà các ngành khoa học khác nhau chỉ nghiên cứu những lát cắt, những lĩnh vực khác nhau trong thế giới đó, để làm sáng tỏ những tính chất và kết cấu phức tạp của thế giới vật chất và làm sâu sắc thêm nhận thức của con người về thế giới vật chất khách quan nhận thức được. Điều này góp phần khắc phục sự đồng nhất siêu hình quan niệm (phạm trù) của triết học về vật chất với các quan niệm của khoa học về tính chất và kết cấu của thế giới vật chất, và chỉ ra mối liên hệ mật thiết giữa chúng với nhau. Câu 17: Trình bày quan niệm duy vật biện chứng về vận động và không gian, thời gian. Page 151 of 487
- Với tính cách là một thực thể, vật chất có các thuộc tính như vận động, không gian, thời gian. Chúng trực tiếp trả lời cho câu hỏi: Vật chất tồn tại bằng cách nào, như thế nào? Cũng như quan niệm về vật chất, các quan niệm về vận động, không gian, thời gian xuất hiện rất sớm trong lịch sử triết học, mà nội dung của chúng không ngừng được làm phong phú và sâu sắc thêm nhờ vào sự phát triển của các khoa học cụ thể. Tuy nhiên, không nên đồng nhất quan niệm triết học về vận động, không gian, thời gian với các quan niệm của khoa học cụ thể về chúng. 1. Quan niệm duy vật biện chứng về vận động a) Vận động là gì? Với tính cách là “thuộc tính cố hữu của vật chất”, là “phương thức tồn tại của vật chất”, “vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất (…) bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” 28. Điều này có nghĩa là: 28 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, T. 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 89 & 519. Page 152 of 487
- - Trong thế giới, không có vận động bên ngoài vật chất và cũng không có vật chất không vận động; vận động và vật chất thống nhất với nhau. - Vận động bao giờ cũng là tự vận động của vật chất được tạo nên do sự tác động qua lại giữa các yếu tố nội tại trong cấu trúc của vật chất, trong đó, mâu thuẫn là nguồn gốc sâu xa của mọi sự vận động xảy ra trong thế giới. - Vận động vật chất là tuyệt đối, nhưng tính tuyệt đối của vận động chẳng những không loại trừ mà còn bao hàm trong nó sự đứng im tương đối, bởi vì, nếu không có sự đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được. Hiện tượng đứng im tương đối hay trạng thái cân bằng tạm thời, sự ổn định về chất của sự vật luôn xảy ra trong quá trình vận động của nó. Đứng im chỉ là một hình thức vận động đặc biệt – vận động trong trạng thái cân bằng của sự vật vật chất cụ thể có gắn liền với một hệ quy chiếu hay một quan hệ xác định. Ph.Angghen đã chỉ ra rằng, “vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá vỡ sự cân bằng riêng biệt ấy”, “mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời”29 trong sự vận động tuyệt đối và vĩnh viễn của thế giới vật chất. Và, “trong thế 29 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, T. 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 740 & 471. Page 153 of 487
- giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”30. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại - lý thuyết trường tương tác… đã góp phần chứng minh cho quan điểm duy vật biện chứng về tự vận động của vật chất, đồng thời bác bỏ quan niệm duy tâm siêu hình cho rằng nguồn gốc vận động của thế giới vật chất tự nhiên nằm trong một lực lượng phi vật chất siêu nhiên nào đó bên ngoài thế giới vật chất – Cái hích của Thượng đế. Quan điểm này, xét đến cùng, thể hiện sự bế tắc trong lý giải thế giới. Tuy nhiên, trong lịch sử khoa học, chủ nghĩa duy tâm thường bám vào các thành tựu mới của khoa học để xuyên tạc chúng. Ví dụ, chủ nghĩa duy tâm vật lý học dựa trên cách hiểu siêu hình, đồng nhất vật chất với khối lượng, đồng nhất vận động với năng lượng xuyên tạc công thức E=mc2, để rút ra kết luận cho rằng vật chất biến thành năng lượng, và coi sự tồn tại năng lượng thuần tuý là bằng chứng của sự tồn tại vận động không có vật chất. Sự thật, công thức này chỉ nói lên mối tương quan giữa khối lượng và năng lượng - hai đặc trưng cơ bản của vật chất - chứ không nói lên khối lượng biến thành năng lượng, và 30 V.I.Lênin: Toàn tập, T. 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 209 - 210. Page 154 of 487
- cũng không cho phép coi năng lượng là vận động thuần tuý không có vật chất hay là cơ sở của thế giới. Vật chất chỉ tồn tại bằng cách vận động. Trong vận động và thông qua vận động mà vật chất thể hiện sự tồn tại của chính mình. Vận động của vật chất được biểu hiện bằng muôn vàn hình thức, kiểu khác nhau; trong đó, vận động của ý thức, tư duy, trên thực tế, cũng là sản phẩm của sự vận động vật chất. Khám phá thế giới khách quan, nhận thức vật chất, xét về thực chất, là vạch ra tính cụ thể của các hình thức và kiểu vận động của thế giới vật chất. Do vật chất không được sáng tạo và không bị hủy diệt (tính tuyệt đối) nên vận động vật chất trong thế giới cũng không được sinh ra hay không mất đi, mà chỉ chuyển từ hình thức, kiểu này sang hình thức, kiểu khác. Tính đa dạng của tồn tại vật chất trong thế giới được thể hiện bằng tính đa dạng của các hình thức vận động. b) Các hình thức vận động • Dựa vào trình độ phát triển của khoa học vào cuối thế kỷ 19, Ph.Angghen chia vận động ra thành 5 hình thức: Vận động cơ học - sự di chuyển của vật thể trong không gian theo thời gian; Vận động vật lý thể hiện thông qua các hiện tượng nhiệt, điện, từ, ánh sáng...; Page 155 of 487
- Vận động hóa học thể hiện bằng sự hóa hợp và phân giải các chất…; Vận động sinh học thể hiện bằng sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường…; Vận động xã hội bao gồm mọi sự thay đổi xảy ra trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, nếu dựa trên trình độ phát triển của khoa học hiện nay thì vận động có thể được chia ra thành 3 nhóm: vận động trong lĩnh vực vật chất vô sinh bao gồm vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học; vận động trong lĩnh vực vật chất hữu sinh bao gồm vận động dưới tế bào, vận động tế bào, vận động cá thể, vận động của sinh quyển; vận động trong lĩnh vực vật chất xã hội bao gồm mọi sự thay đổi trong các cá nhân hay cộng đồng xã hội. • Cơ sở phân chia và ý nghĩa của việc phân loại vận động: Một là, các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất, chúng ứng với các trình độ kết cấu - tổ chức khác nhau của vật chất, và được các khoa học liên ngành hay chuyên ngành khác nhau nghiên cứu, nhưng bản thân chúng không cô lập mà có thể chuyển hóa qua lại lẫn nhau. Luận điểm này đã được chứng minh bởi định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, bởi các lý thuyết trường thống nhất. Page 156 of 487
- Hai là, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở của các hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó các hình thức vận động thấp hơn, trong khi đó, các hình thức vận động ở trình độ thấp không bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Do đó, chúng ta không được quy giản hình thức vận động cao về với các hình thức vận động thấp. Việc chủ nghĩa cơ giới quy mọi vận động vật chất về với vận động cơ học, chủ nghĩa Darwin xã hội quy vận động xã hội về với vận động sinh học… đều là những sai lầm cần phê phán. Ba là, trong hiện thực, một sự vật vật chất nào đó có thể tồn tại bằng nhiều hình thức vận động khác nhau, tuy nhiên, bản thân sự vật đó bao giờ cũng được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Các hình thức vận động khác nhau của sự vật vật chất có thể chuyển hóa lẫn nhau nhưng vận động vật chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất. Vì vậy, muốn tìm hiểu hiện tượng vật chất ở cấp độ cấu trúc nào thì phải dựa trên hình thức vận động cơ bản của vật chất ở cấp độ đó để lý giải. 2. Quan niệm duy vật biện chứng về không gian và thời gian Không gian, thời gian là những phạm trù xuất hiện rất sớm trong nền văn hóa nhân loại. Ngay từ xa xưa, không gian được dùng để nói lên vị trí, kích thước, sự đồng tồn tại của các Page 157 of 487
- sự vật, còn thời gian được dùng để nói lên độ lâu của các tiến trình, trình tự thay đổi trước sau của sự tồn tại trong thế giới. Tuy nhiên, bàn về không gian và thời gian nói chung, về tính khách quan, tính tuyệt đối, tính bất biến của chúng luôn là đề tài tranh cải trong lịch sử triết học31. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, không gian và thời gian thống nhất với nhau và với vật chất vận động; không gian và thời gian là thuộc tính cố hữu, là hình thức tồn tại của vật chất vận động. Trong thế giới, không có không gian và thời gian bên ngoài vật chất vận động, và cũng không có vật chất vận động bên ngoài không gian và thời gian. 31 Chủ nghĩa duy tâm luôn phủ nhận tính khách quan của không gian và thời gian: I.Kant coi không gian và thời gian chỉ là hình thức chủ quan của trực quan để xếp đặt các cảm giác được thu nhận một cách lộn xộn; còn E.Mach cho rằng không gian và thời gian chỉ là một hệ thống liên kết các cảm giác – ấn tượng tâm lý thành từng chuỗi chặt chẽ , chúng tồn tại trong con người, lệ thuộc vào con người và do con người sinh ra. Chủ nghĩa duy vật siêu hình không chỉ khẳng định tính khách quan mà còn thừa nhận tính tuyệt đối bất biến của không gian và thời gian và coi chúng như những thực thể. Là những thực thể, chúng tách rời nhau và đồng tách ra khỏi vật chất, còn vật chất thì tách ra khỏi vận động. Thí dụ: Newton coi không gian tuyệt đối như cái trống rỗng tuyệt đối để chứa vật thể. Nó thấu suốt, bất động, bất biến, không tác động lên cái gì và không cái gì tác động lên nó. Nó có trường độ, đồng nhất, đẳng hướng, ba chiều, liên tục và vô tận. Hình học của nó là hình học Euclide. Do những tính chất như thế mà vạn vật chuyển động trong nó luôn là chuyể n động tự do, tương tác của các vật được truyền đi tức thời, các định luật vật lý học sẽ không thay đổi nếu ta chọ n bất kỳ điể m nào làm gốc tọa độ, bất kỳ phương nào làm phương tọa độ, và bất kỳ miền nào làm miền khảo sát. Thời gian tuyệt đối được hiểu như cái trống rỗng tuyệt đối để chứa biến cố. Nó chỉ là độ lâu thuần túy. Nó không tác động lên cái gì và không cái gì tác động lên nó. Nó đồng nhất, liên tục, vô tận và trôi đều theo một chiều từ quá khứ đến tương lai. Do những tính chất như thế mà trong cơ học, các biến cố xảy ra ở mọi miền trong vũ trụ đều tuân theo một trình tự thời gian như nhau với tính nhân quả nghiêm ngặt giống nhau, do đó mà các công thức biến đổi Galilée được áp dụng. Những tính chất của không gian và thời gian tuyệt đối nêu trên là hiển nhiên. Chúng ta chỉ tiế p xúc với không gian và thời gian tương đối, nghĩa là không gian cụ thể do các vật thể chiếm chỗ và độ lâu cụ thể mà giác quan cả m nhận được khi nhờ vào mộ t quá trình nào đó. Chúng là một bộ phận của không gian và thời gian tuyệt đối. Page 158 of 487
- Do vật chất vận động tồn tại khách quan, vĩnh cữu, vô tận nên không gian và thời gian cũng mang bản tính khách quan, vĩnh cữu, vô tận. Ngoài ra, không gian có tính ba chiều (dài, rộng, cao) và thời gian có tính một chiều (quá khứ → hiện tại → tương lai). Chúng thống nhất lại thành không - thời gian bốn chiều hay không - thời gian thực – là thuộc tính cố hữu, hình thức tồn tại của vật chất vận động trong thế giới. Đầu thế kỷ 20, lý thuyết tương đối Einstein ra đời đã bác bỏ tính tuyệt đối - bất biến của không gian và thời gian và chứng minh tính tương đối - biến đổi, tính thống nhất của không gian và thời gian với vận chất vận động, nghĩa là luận chứng cho quan điểm duy vật biện chứng về không gian và thời gian. Tính đa dạng của thế giới vật chất vận động được thể hiện qua tính đa dạng của cấu trúc không gian và thời gian. Vì vậy, tương ứng với kết cấu – tổ chức của vật chất mà khoa học hiện nay phát hiện ra - vật chất vô sinh, vật chất hữu sinh và vật chất xã hội, chúng ta có thể nói về không gian và thời gian vật lý học, không gian và thời gian sinh học, không gian và thời gian xã hội. Đây là không gian và thời gian hiện thực. Trong toán học thuật ngữ không gian n chiều chỉ là sự trừu tượng hóa để nghiên cứu các đối tượng đặc thù. Page 159 of 487
- Câu 18: Trình bày quan niệm duy vật biện chứng về nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức. Vấn đề nguồn gốc và bản chất của ý thức là vấn đề rất phức tạp của triết học, là nơi diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa khoa học và thần học. Nếu chủ nghĩa duy tâm - tôn giáo đồng nhất ý thức con người với linh hồn cá nhân, rồi đồng nhất linh hồn cá nhân với linh hồn thế giới, và tìm kiếm nguồn gốc, bản chất của chúng trong cái siêu nhiên, phi lịch sử - xã hội, thì chủ nghĩa duy vật – khoa học coi ý thức con người là đời sống tâm lý - tri thức - tinh thần của họ, và dựa vào các thành tựu khoa học cùng cơ sở thực tiễn để tìm kiếm nguồn gốc, làm rõ bản chất của nó trong cái tự nhiên, cái lịch sử - xã hội của chính con người. 1. Nguồn gốc của ý thức Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, bộ óc người cùng với sự tác động của thế giới vật chất lên bộ óc người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Nhưng nguồn gốc tự nhiên mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để ý thức ra đời. Ý thức chỉ xuất hiện thật sự khi sự hình Page 160 of 487
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chuyên đề 6: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
5 p | 433 | 85
-
Bài 6-1: CẤU TRÚC XÃ HỘI: GIAI CẤP VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI (4 TIẾT)
3 p | 357 | 66
-
Các quan điểm về Doanh nghiệp nhà nước và giải pháp cho Việt Nam - 3
8 p | 94 | 11
-
Các quan điểm về Doanh nghiệp nhà nước và giải pháp cho Việt Nam - 6
8 p | 90 | 7
-
Bài giảng Triết học - Chương 6
23 p | 142 | 7
-
Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ trong hội nhập theo qiuan điểm triết học - 4
7 p | 62 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn