intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quản lí và khai thác biển đảo Bà Rịa – Vũng Tàu nửa đầu thế kỉ XIX

Chia sẻ: ViNobinu2711 ViNobinu2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

20
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vùng biển đảo Bà Rịa - Vũng Tàu là một khu vực phát triển rất năng động, từ đầu thế kỷ XIX tàu thuyền nước ngoài ra vào bán buôn nhộn nhịp, triều đình nhà Nguyễn đã thi hành nhiều chính sách bảo vệ chủ quyền, gắn chặt với việc phát triển các ngành kinh tế biển như xây dựng đồn bót, pháo đài, tăng cường quân số, khí giới, tuần tra ở những khu vực xung yếu, trên dọc tuyến biển Bà Rịa – Vũng Tàu và Côn Đảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quản lí và khai thác biển đảo Bà Rịa – Vũng Tàu nửa đầu thế kỉ XIX

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5(30) - Thaùng 7/2015<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Quản lí và khai thác biển đảo Bà Rịa – Vũng Tàu<br /> nửa đầu thế kỉ XIX<br /> Management and exploitation of Ba Ria – Vung Tau<br /> islands in the early XIX century<br /> <br /> TS. Phạm Ngọc Trâm<br /> Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – Đại học Quốc gia TP.HCM<br /> <br /> Ph.D. Pham Ngoc Tram<br /> University of Social Sciences and Humanities – National University Ho Chi Minh City<br /> <br /> <br /> <br /> Tóm tắt<br /> Vùng biển đảo Bà Rịa - Vũng Tàu là một khu vực phát triển rất năng động, từ đầu thế kỷ XIX tàu<br /> thuyền nước ngoài ra vào bán buôn nhộn nhịp, triều đình nhà Nguyễn đã thi hành nhiều chính sách bảo<br /> vệ chủ quyền, gắn chặt với việc phát triển các ngành kinh tế biển như xây dựng đồn bót, pháo đài, tăng<br /> cường quân số, khí giới, tuần tra ở những khu vực xung yếu, trên dọc tuyến biển Bà Rịa – Vũng Tàu và<br /> Côn Đảo.<br /> Bằng phương pháp lịch sử, bài viết dựng lại bức tranh lịch sử khá sinh động quá trình quản lí, bảo vệ<br /> chủ quyền và phát triển kinh tế biển ở Bà Rịa – Vũng Tàu trong nửa đầu thế kỉ XIX.<br /> Từ khóa: Bà Rịa – Vũng Tàu, Côn Đảo, biển đảo Việt Nam, quản lí và khai thác biển đảo, chủ quyền<br /> biển đảo…<br /> Abstract<br /> Coastal islands Ba Ria - Vung Tau is an actively developing area. In the early nineteenth century,<br /> foreign vessels arrived here to buy and sell goods; the Nguyen court had implemented many policies to<br /> protect territorial sovereignty tied to the development of economic sectors such as building commercial<br /> ports, fortress, strengthening troops, patrolling in the critical areas, offshore and onshore the Ba Ria,<br /> Vung Tau and Con Dao.<br /> By historical method, this article reconstructs the process of managing and protecting territorial<br /> sovereignty and developing sea economy of Ba Ria - Vung Tau in the first half of the nineteenth century.<br /> Keywords: Ba Ria - Vung Tau, Con Dao, Vietnam Sea Island, management and exploitation of the sea<br /> and islands, maritime sovereignty…<br /> <br /> <br /> <br /> 1. Đặt vấn đề lớn của đất nước với các mỏ dầu thuộc bồn<br /> Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có bờ biển dài trũng Cửu Long, Nam Côn Sơn ở thềm lục<br /> 305,4 km, diện tích vùng thềm lục địa địa; và nhiều tiềm năng về hải sản, du lịch,<br /> 100.000 km2 và có tuyến biên giới biển, vận tải biển.<br /> đảo gồm 82 xã, phường, thị trấn thuộc 6 Vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu được<br /> huyện, 2 thành phố... là nơi có tiềm năng người Việt khai phá từ thế kỉ XVII, là một<br /> <br /> 26<br /> địa bàn phát triển rất năng động, tàu thuyền hàng hóa với các dân tộc thiểu số – về phía<br /> nước ngoài ra vào, bán buôn nhộn nhịp. biển có cửa bến để xét hỏi ghe thuyền ra<br /> Đầu thế kỉ XIX Trịnh Hoài Đức đã phác vào. Đầu đời Gia Long, con đường thiên lý<br /> họa hình ảnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay: Bắc – Nam từ Gia Định đến Phú Xuân<br /> “Bà Rịa ấy là nơi địa đầu giới trấn Biên chạy ngang qua huyện Phước An đã thông<br /> Hòa là đất danh tiếng cho nên các phủ miền suốt, tạo nên một sự giao lưu kinh tế, văn<br /> Bắc có ngạn ngữ rằng Cơm Nai Rịa, Cá Rí hóa thuận lợi giữa miền ngoài với miền<br /> Rang, là vì lấy Đồng Nai, Bà Rịa làm trong. Chợ Bến, cũng được gọi là chợ Long<br /> đầu… Đất ấy dựa lưng vào núi, mặt nhìn ra Thành được Trịnh Hoài Đức đánh giá là<br /> biển, rừng rậm tre dài, ở trên có trường tuần chợ to nhất ở nơi bểm chằm thời ấy; chợ<br /> để với gọi những người Man, Mạch (dân nằm bên cạnh đường thiên lý và ở nơi đầu<br /> tộc ít người) đến đổi chác, ở dưới có cửa con rạch thông ra cửa sông Lấp, nơi tụ họp<br /> bến, để xét hỏi ghe thuyền, trạm thủy, trạm thuyền buôn tứ xứ, kể cả Trung Hoa, Chân<br /> bộ giao tiếp nhau”[2; tr.31]. Lạp”[13; tr.27].<br /> Chính do vị thế quan trọng của Bà Rịa Đầu thế kỉ XIX, khi quan hệ trong khu<br /> – Vũng Tàu, nên từ đầu thế kỉ XIX triều vực có nhiều biến động và trước sự đe dọa<br /> Nguyễn đã thực thi nhiều chính sách quản xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương<br /> lí và khai thác biển đảo nhằm bảo vệ vững Tây nhà Nguyễn đã thi hành các chính sách<br /> chắc chủ quyền biển đảo phía Nam của đất cứng rắn để bảo vệ chủ quyền biển đảo,<br /> nước, đồng thời thực hiện tốt việc khai thác cho xây dựng hệ thống thành và bảo trấn<br /> kinh tế biển, ổn định đời sống cộng đồng để bảo vệ lãnh thổ. Lực lượng quân đội<br /> cư dân ven biển. được củng cố và tăng cường từ trung ương<br /> 2. Những chính sách và hoạt động đến địa phương. Trách nhiệm và nghĩa vụ<br /> quản lí vùng biển đảo Bà Rịa – Vũng Tàu bảo vệ chủ quyền của lực lượng quân đội<br /> nửa đầu thế kỉ XIX được quy định chặt chẽ trong Luật Gia<br /> Từ thế kỉ XVII vùng đất Đông Nam Long - 1812.<br /> Bộ, bao gồm cả Bà Rịa – Vũng Tàu đã Trên dọc tuyến biển Bà Rịa – Vũng<br /> được chính quyền phong kiến Việt Nam Tàu lúc bấy giờ triều Nguyễn tiến hành xây<br /> lúc bấy giờ sáp nhập vào lãnh thổ Đàng dựng hệ thống đồn lũy phòng thủ ven biển,<br /> Trong. Nơi đây là vùng đất địa đầu Nam đảo; đặt các thủ, bảo như những tiền đồn<br /> bộ, nơi tiếp nhận và trung chuyển lưu dân canh phòng đặt nơi hiếm yếu, có một số<br /> từ các nơi khác nhau đến khai hoang và lập binh lính túc trực (nhiều hay ít tùy theo<br /> nghiệp. Từ năm 1832 dưới thời vua Minh từng nơi) do một Thủ ngữ hay một Thừa<br /> Mệnh, trên địa bàn Nam Bộ được chia biện phụ trách. Những năm 1802 - 1820<br /> thành 6 tỉnh (Lục tỉnh), vùng đất Bà Rịa – triều đình đặt thủ Vũng Tàu, thủ Tắc Khái,<br /> Vũng Tàu ngày nay thuộc tỉnh Biên Hòa. (Cửa Lấp), thủ Long Hương – thuộc trấn<br /> Nhận xét về vị thế trọng yếu của Bà Biên Hòa. Năm 1814 thủ Vũng Tàu đổi<br /> Rịa – Vũng Tàu vào đầu thế kỉ XIX tác thành thủ Phước Thắng; năm 1842 đổi<br /> phẩm Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu đã viết thành bảo Phước Thắng [8; tr.65]. “Bảo<br /> rất hay: “Đây là khu vực có nhiều cửa Phước Thắng (cũng gọi là pháo đài Phước<br /> quan hiểm yếu, về phía núi có trường tuần Thắng) tồn tại cho đến khi chiến thuyền<br /> – vừa là trạm kiểm soát, vừa là nơi trao đổi Pháp – Tây Ban Nha mở cuộc tiến công<br /> <br /> <br /> 27<br /> quy mô vào ngày 10-2-1859, phá hủy hoàn khai thác của cộng đồng cư dân ven biển<br /> toàn”[13; tr.115]. phía Nam, tực tiếp đe dọa chủ quyền biển<br /> Đối với Côn Đảo, do nằm trên tuyến đảo ở Côn Đảo và vùng ven biển nước ta.<br /> đường hàng hải quốc tế nên từ rất sớm đã Sách Đại Nam thực lục của Quốc sử quán<br /> được nhiều quốc gia chú ý, đặc biệt là triều Nguyễn phản ánh, năm 1832, trên<br /> trong giai đoạn phát triển thương mại hàng vùng biển phía Nam “giặc biển Chà Và lén<br /> hải trên biển Đông vào các thế kỉ XVI, lút nổi lên... cướp bóc bắt người đem đi.<br /> XVII, XVIII. Bước sang thế kỉ XIX, với vị Quan Trấn thủ Lê Văn Nghĩa thân đem<br /> trí đặc biệt quan trọng của mình, Côn Đảo binh thuyền đuổi bắt. Việc đến tai vua, vua<br /> tiếp tục là địa điểm thu hút sự chú ý của lại sai Trấn thủ Biên Hòa là Phạm Hữu<br /> các nước trong khu vực và các đế quốc Tâm, thự Trấn thủ Phiên An là Trần Hữu<br /> phương Tây nhiều đoàn thương thuyền đến Thăng, đều đem binh thuyền hội tiễu. Giặc<br /> thăm dò, khảo sát khai thác tài nguyên – liền ra đảo Côn Lôn thuộc Phiên An, đón<br /> trong số đó những đoàn thuyền mà sử sách cướp các thuyền buôn, lại lên bờ đốt nhà,<br /> triều Nguyễn hay gọi là giặc biển. cướp của… Nhân đó vua dụ: Côn Lôn thủ<br /> Hơn ai hết vua Gia Long – tức là Chúa và Hà Tiên, Phú Quốc thủ đều là những nơi<br /> Nguyễn Ánh – nhận thức rất rõ vị thế trọng xung yếu, dân ở đông đúc, thế mà thường<br /> yếu của Côn Đảo nên khi thống nhất đất có giặc biển ẩn hiện. Liền truyền dụ cho<br /> nước nhà vua vẫn duy trì truyền thống bảo quan thành chọn đất 2 chỗ thủ ấy, xây đặt<br /> vệ chủ quyền các vùng biển và hải đảo pháo đài, liệu cấp súng đạn, khí giới,<br /> được thực hiện tốt từ thời các chúa thuyền bè, phái quân đóng giữ. Những cư<br /> Nguyễn, kiên quyết đánh dẹp các thế thực dân cũng cấp cho khí giới để cùng phòng<br /> có mưu đồ xâm hại đến chủ quyền và an giữ. Lại chuyển sức cho 5 trấn trong thành<br /> ninh biển đảo của đất nước. Năm 1805, hạt, ra lệnh cho các làng sở tại ven biển<br /> “Giặc biển Chà Và cướp bóc ở ngoài biển, đều sẵn sàng thuyền bè khí giới, nếu thấy<br /> dân Côn Lôn bị hại. Quan canh giữ xin hạ thuyền giặc đến gần bờ, tức thì cùng nhau<br /> lệnh cho các thuyền công và thuyền tư đều tiếp ứng góp sức đánh bắt”[10; tr.384].<br /> được sửa sang khí giới để phòng bị. Vua y Đoạn dụ nêu trên của vua Minh Mạng<br /> cho”[9; tr. 634]. thể hiện sự đánh giá của triều đình đối với<br /> Như vậy, sau khi lên ngôi Gia Long đã tình hình bảo vệ chủ quyền biển đảo đất<br /> hạ lệnh cho các thuyền công và thuyền tư nước nói chung, ở Vũng Tàu – Côn Đảo<br /> đều được sửa sang khí giới để phòng bị, nói riêng trong những năm đầu thế kỉ XIX,<br /> tăng cường hệ thống phòng bị trên đảo thời kỳ hưng thịnh nhất của vương triều<br /> nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo và bảo vệ Nguyễn. Do đó, triều đình tăng cường<br /> cuộc sống, hoạt động khai thác hải sản của phòng bị xây đặt pháo đài, liệu cấp súng<br /> người dân trên vùng biển Côn Đảo. đạn, khí giới, thuyền bè, phái quân đóng<br /> Sau thời Gia Long, Minh Mạng lên giữ, ra lệnh cho các làng sở tại ven biển<br /> ngôi tiếp tục kế thừa ý chí và khát vọng đều sẵn sàng thuyền bè khí giới, nếu thấy<br /> bảo vệ chủ quyền biển đảo của vua cha, thuyền giặc đến gần bờ, tức thì cùng nhau<br /> tăng cường hệ thống quản lí và thực thi chủ tiếp ứng góp sức đánh bắt nhằm ngăn chặn<br /> quyền ở Côn Đảo. Đây cũng là thời kì giặc nạn giặc biển đang trực tiếp đe dọa cuộc<br /> biển thường xuyên quấy phá hoạt động sống và hoạt động đánh bắt, khai thác hải<br /> <br /> <br /> 28<br /> sản của cộng đồng dân cư biển, đảo khu đặt thêm pháo đài phòng Hải; cửa biển Thị<br /> vực này. Nại ở Bình Định lại mới xây pháo đài Hổ<br /> Từ năm 1833 đến năm 1837 triều đình Cơ, để giữ chỗ hiểm yếu; còn đảo Côn Lôn<br /> tăng cường củng cố hoạt động quản lý, bảo ở Vĩnh Long, đảo Phú Quốc ở Hà Tiên,<br /> vệ chủ quyền biển đảo bằng cánh gia tăng đều có đặt đồn bảo chia phái lính thú tuần<br /> kiểm soát các tàu thuyền đi qua vùng biển phòng, để răn ngừa sự bất trắc. Như thế, ta<br /> đảo, tăng cường quân số cho Côn Đảo, ngăn giữ bờ biển đã có cái thế, làm cho kẻ<br /> củng cố bộ máy hành chính. Triều đình cho xấu đáng sợ mà không thể xâm phạm được.<br /> xây dựng một khu đồn trú và một pháo đài Việc võ bị mà chỉnh đốn, thì người ngoài<br /> khá kiên cố ở Côn Đảo: “Bốn mặt đồn bảo trông thấy cũng tiêu tan lòng tà. Không chỉ<br /> đều dài 12 trượng, cao 5 thước, chân rộng người Tây dương cách trở xa xôi, không<br /> 6 thước 3 tấc. Đằng trước và đằng sau đều dám nhằm thẳng vào nước ta, mà nước<br /> mở một cửa. Pháo đài xây ở phía Nam đồn mạnh láng giềng tiếp giáp cõi đất, cũng<br /> bảo. Sai quản tỉnh vát lính và thuê dân tất không dám manh tâm dòm ngó nữa”<br /> cả 500 người để làm việc”. Triều đình cho [12; tr.199].<br /> sắp đặt lại quân hiệu, “Quân đóng ở Côn Do vị trí đắc địa của mình nên Côn<br /> Lôn thuộc Gia Định 6 người, trước gọi là Đảo thường xuyên bị giặc biển nhòm ngó.<br /> đồn An Hải, nay đổi làm quân đồn Côn Cho nên, khi quan binh canh phòng Côn<br /> Lôn”[11; tr.538]. Vua Minh Mạng còn Đảo lơ là lập tức bị giặc biển cướp phá,<br /> chuẩn y cho lời tâu của Bộ Binh, đưa quân tiêu biểu như sự kiện năm 1851. “Mười<br /> ra Côn Đảo vừa làm nhiệm vụ canh gác, chiếc thuyền của giặc biển đến cướp bảo<br /> tuần tra, vừa để khai khẩn đất hoang và sản Côn Lôn. Bọn tấn thủ coi bảo ấy có lỗi về<br /> xuất lương thực: “phái một xuất đội và 50 canh phòng sơ suất đều bị giáng chức. Rồi<br /> lính thuộc tỉnh, cấp cho thuyền và khí giới sai tỉnh thần phái lính đến cùng biền binh ở<br /> đến đóng giữ, mỗi năm thay phiên một lần. bảo ấy đàn áp. Truyền Chỉ cho Kinh lược<br /> Tiền và lương thì dự trữ đủ chi dùng trong sứ Nam Kỳ là bọn Nguyễn Tri Phương,<br /> một năm”. Đó là một chính sách nhất cử Phan Thanh Giản tùy tiện mà điều khiển”<br /> lưỡng tiện vì nơi đây còn có nhiều đất [12; tr.199].<br /> hoang, có thể khai hoang để trồng trọt Những sự kiện diễn ra từ nửa đầu thế<br /> trong những lúc rảnh rỗi việc quân - vẫn kỉ XIX chứng tỏ triều Nguyễn rất coi trọng<br /> theo lời tâu - “Như thế, có lính để phòng việc quản lí, bảo vệ chủ quyền biển đảo ở<br /> thủ, có ruộng để cày cấy, giặc biển không Bà Rịa, Vũng Tàu và Côn Đảo, kiên quyết<br /> dám lại đến, thuyền buôn ngày một đông ngăn chặn các thế lực nước ngoài, kể cả<br /> nhiều, sau vài năm tất thành một nơi vui giặc biển xâm phạm chủ quyền biển đảo.<br /> vẻ, mà việc phòng giữ mặt biển sẽ bền Sau mỗi lần thực hiện thành công việc bảo<br /> vững được”[12; tr.872 - 873]. vệ chủ quyền biển đảo triều đình đều có<br /> Bước sang năm 1840, triều đình tiếp ban thưởng hậu hĩ và ngược lại nếu quan<br /> tục ban hành chính sách phòng thủ tại binh lơ là thì xử phạt rất nghiêm minh<br /> những nơi xung yếu, trong đó có Côn Đảo “Bọn tấn thủ coi bảo ấy có lỗi về canh<br /> để bảo vệ chủ quyền biển đảo: “Kể ra, biết phòng sơ suất đều bị giáng chức”. Triều<br /> tự trị thì mạnh, có phòng bị thì không lo. đình thường xuyên củng cố lực lượng, tăng<br /> Nay cửa biển Đà Nẵng ở Quảng Nam, đã cường trang bị vũ khí, phương tiện cho<br /> <br /> <br /> 29<br /> việc quản lí, bảo vệ chủ quyền biển đảo. Rịa, Vũng Tàu khá phát triển, từ nơi thị tứ<br /> 3. Phát triển các ngành kinh tế biển ở đô hội cho đến chốn kinh cùng, từ đầu<br /> Bà Rịa - Vũng Tàu nửa đầu thế kỉ XIX nguồn đến cuối bãi, nơi giáp nước, ngã ba<br /> Hoạt động vận tải đường thủy sông, dọc ven biển… người ta dùng ghe<br /> Bà Rịa – Vũng Tàu có vị trí rất quan thuyền đi mua bán, thu hoạch nông sản,<br /> trọng trong việc giao thông đường thủy, ở đánh bắt tôm cá trên biển, trên sông cho<br /> một địa bàn mà mạng lưới sông ngòi, kênh đến đi thăm người quen, giỗ chạp, ma<br /> rach chằng chịt tiếp giáp với biển cả mênh chay, cưới xin… Hoạt động vận tải đường<br /> mông nên việc sử dụng ghe thuyền làm thủy ở Bà Rịa – Vũng Tàu phản ánh tình<br /> phương tiện đi lại, vận chuyển hàng hóa rất phát triển kinh tế biển của cộng đồng cư<br /> phổ biến trong những năm đầu thế kỉ XIX, dân ven sông, ven biển Bà Rịa, Vũng Tàu.<br /> nhất là khi điều kiện đi lại và vận tải hàng Khai thác thủy hải sản<br /> hóa bằng đường bộ và đường không còn Biển đảo Bà Rịa – Vũng Tàu có nhiều<br /> nhiều hạn chế. Ghe thuyền ở Bà Rịa – điều kiện thuận lợi về địa hình, khí hậu,<br /> Vũng Tàu rất đa dạng, phong phú với chế độ thủy triều, độ mặn… nên có khả<br /> nhiều kiểu loại, tên gọi khác nhau. năng phát triển việc đánh bắt, nuôi trồng và<br /> Trong nửa đầu thế kỉ XIX cộng đồng chế biến thủy hải sản. Từ lâu các ngành<br /> cư dân ven sông, ven biển ở Bà Rịa – Vũng kinh tế này được xem là ngành kinh tế mũi<br /> Tàu đã tổ chức hoạt động vận tải đường nhọn của địa phương.<br /> thủy để vận chuyển hàng hóa đi dọc bờ Đầu thế kỉ XIX đánh cá biển là một<br /> biển hoặc buôn bán xa, dài ngày và sống trong những nguồn thu chính của cộng<br /> trên sông nước. Những loại ghe dùng đồng cư dân ở đây. Cư dân nhiều làng<br /> để vận chuyển hàng hóa thường là những Phước Tỉnh, Long Hải, Phước Hải, Lộc<br /> chiếc ghe có kích thước lớn, sức chở nặng, An, Thuận Biên… chỉ sống bằng nghề chài<br /> đi được đường dài. Trong số đó, ghe bầu là lưới. Người dân ở đây gắn bó với nghề này<br /> loại ghe lớn nhất, mũi và lái nhọn, bụng vì nó đem lại thu nhập khá ổn định. Một<br /> phình to, có tải trọng tương đối lớn, chạy phần cá đánh bắt được tiêu thụ tại chỗ,<br /> buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và hoặc đưa đến bán ở các chợ lân cận. Thắng<br /> đi nhanh, có nhiều chèo để đi sông và đi Tam, Thắng Nhứt và Phước Tỉnh cung cấp<br /> biển dài ngày thường dùng đi đường biển. nguồn cá cho chợ Vũng Tàu; Lộc An và<br /> Ghe bầu (Prau) bắt nguồn từ tiếng Mã Lai, Phước Hải thì cung cấp cho chợ Phước<br /> do người Việt trong quá trình Nam tiến tiếp Thọ và Long Điền. Nhưng phần lớn số<br /> thu được của người Chăm. Trong nửa đầu lượng cá đánh bắt được phơi khô để xuất đi<br /> thế kỉ XIX, hàng năm các lái buôn lớn ở Bà nơi khác hay để làm nước mắm.<br /> Rịa, Vũng Tàu chở cá, nước mắm ngược Trong xã hội lúc bấy giờ, nghề cá được<br /> theo các dòng sông đi sâu vào miền lục xem là nghề có thu nhập tương đối cao, đời<br /> tỉnh, lên Campuchia để buôn bán. Ghe bầu sống của ngư dân Bà Rịa - Vũng Tàu không<br /> là biểu trưng cho một cơ ngơi, một tài sản đến nỗi quá khó khăn hay thiếu thốn.<br /> to lớn của những nhà giàu có ven biển Bà Về phương tiện và cách thức đánh bắt<br /> Rịa, Vũng Tàu, lúc bấy giờ. hải sản của ngư dân ven biển Bà Rịa -<br /> Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX hoạt Vũng Tàu hồi thế kỷ XIX chủ yếu đó là sử<br /> động vận tải đường thủy của người dân Bà dụng lưới rê, ngư dân Phước Hải sử dụng<br /> <br /> <br /> 30<br /> lưới rê, không có phao chì. Người ta dùng Nhìn chung, việc đánh bắt cá ngày<br /> lưới để “rê” cá lại. Phương pháp này chỉ thật xưa hoàn toàn bằng phương pháp thủ công,<br /> sự hiệu quả khi biển có nhiều cá gần bờ. Bởi ngư cụ thô sơ và đơn giản, thuyền nhỏ, lưới<br /> vậy, ngư dân dùng lá dừa ủ thành từng ngắn, nên chỉ có thể đánh bắt ven bờ hay<br /> khóm trên biển. Tôm cá tụ tập kiếm thức ăn, trong lộng (vùng biển cách bờ không xa).<br /> ngư dân dùng lưới vây lại và kéo cá. Thuyền đánh cá thường ra biển vào ban<br /> Đánh cá bằng lưới rùng, người ta đêm hay gần sáng, đến một hai giờ chiều<br /> dùng hai ghe xuất phát từ hai điểm khác thì theo gió và nước triều chạy về bến.<br /> nhau, kéo lưới, chèo ra xa bờ. Sau khi hai Thuyền đánh lưới hay câu ban đêm, thì<br /> ghe giáp mối nhau, người ta ghép hai đầu sáng sớm vào bờ để kịp đưa sản phẩm ra<br /> lưới. Ở trong bờ, từ hai bên, dân chài kéo chợ bán. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi,<br /> thu lưới. Kiểu đánh lưới này thích hợp từ đầu thế kỉ XIX Bà Rịa, Vũng Tàu đã trở<br /> trong khoảng 6 tháng, từ tháng 3 tới tháng thành một trong những trung tâm nghề cá<br /> 9. Thời gian đánh bắt bằng lưới rùng kéo lớn của Nam Bộ.<br /> dài 6 tháng, thời gian còn lại trong năm Nghề đóng tàu thuyền<br /> người ta thường đánh bắt bằng lưới rê. Song song với việc phát triển các làng<br /> Ngoài ra, ngư dân Bà Rịa - Vũng Tàu cá và nghề cá thì nghề đóng tàu thuyền ở<br /> còn đánh bắt cá bằng lưới rút. Lưới rút Bà Rịa – Vũng Tàu nửa đầu thế kỉ XIX khá<br /> (mành rút), thường đan bằng chỉ vải hưng thịnh. Nghề đóng thuyền ở đây vốn là<br /> khúng, phần sau cần chắc chắn hơn để giữ nghề truyền thống của cộng đồng ngư dân<br /> cá nên thường đan bằng sợi gai, nhuộm miền Trung theo bước chân Nam tiến du<br /> đen, phía sau cùng của lưới rút có cái đảy. nhập vào từ thế kỉ XVIII.<br /> Lưới rút có chiều dài tương đương chiều Sở dĩ nghề đóng tàu thuyền ở Bà Rịa –<br /> rộng, khoảng 45 sải (gần 75m), phẩn đảy Vũng Tàu phát triển mạnh trong thế kỉ XIX<br /> dài 4-5 sải. vì Vũng Tàu là một thương cảng lớn của<br /> Mành đăng, là lưới đăng nhưng đánh xứ Đàng Trong. Từ thế kỷ XVIII khách<br /> cá gần bờ, trong lộng, có thể xê dịch vị trí. buôn người Hoa, người Nhật, người Pháp<br /> Giả cào, là hình thức đánh bắt khi ghe đã đến tấp nập. Các thương thuyền của<br /> đã dùng động cơ di chuyển. Hiện nay khá người Bồ Đào Nha, người Hà Lan, Pháp,<br /> phổ biến. Giả cào thường đơn (một chiếc Anh cũng cập bến Vũng Tàu. Ở Nam Bộ<br /> ghe) hoặc đôi. Người ta dùng ghe kéo lưới có nhiều “lò” đóng ghe nổi tiếng (ghe Bình<br /> để “cào” thu cá vào lưới. Đại, ghe Cần Đước, ghe Phú Quốc) trong<br /> Câu chạy, là cách câu bằng mồi lông đó có ghe Bà Rịa. Thế kỉ XIX ở Bà Rịa có<br /> gà. Ngư dân lấy lông gà nhỏ, mềm, dài từ các trại ghe chuyên đóng những ghe cửa<br /> 6-7 phân ở gần đuôi có màu trắng, vàng lợt lớn vận chuyển hàng hóa đi buôn với các<br /> hoặc ửng hồng tùy theo thời tiết. Người ta tỉnh cực Nam Trung Bộ, nổi tiếng một thời.<br /> gắn lưỡi câu vào lông gà và nối bằng dây Các trại ghe tập trung chủ yếu ở Bình<br /> thau hay dây mi (sau này là dây cước) có Châu, Phước Bửu, Long Hải, Phước Lễ,<br /> buộc chì và phao sao cho hơi nặng, thả cách Phước Tỉnh, Phước Hải, Vũng Tàu… Các<br /> ghe chừng 50-60 thước. Cho ghe chạy, lông làng đóng thuyền Bà Rịa, Vũng Tàu trở<br /> gà nổi trên mặt nước, cá thu, có bò tưởng cá thành một trong những “cái nôi” lan tỏa<br /> nhỏ chạy theo đớp và dính câu [7]. tinh hoa đóng thuyền của xứ Nam Bộ. “Do<br /> <br /> <br /> 31<br /> có nghề cá phát triển nên việc đóng những móc và lưới nhân tạo, người thợ đan lưới ở<br /> chiếc tàu làm phương tiện để đánh bắt hải đây phải kì công mới tạo ra được một tấm<br /> sản cũng rất được chú trọng. Từ ngày xưa, lưới. Để đan được thành tấm lưới phải nuôi<br /> kĩ thuật đóng tàu đã được những người thợ tằm, lấy kén, kéo tơ và đánh thành chỉ rồi<br /> ở đây tìm tòi, phát triển để có thể đóng mới đan nên tấm lưới để phục vụ việc đánh<br /> được những chiếc tàu chịu lực, chịu sóng bắt cá. Nghề đan lưới bắt cá là một công<br /> tốt và có thời gian sử dụng lâu bền. Những việc rất công phu, đầy sự tỉ mỉ với từng sợi<br /> loại gỗ tốt, nhẹ, độ bền lâu, ít thấm nước… đan và rất mất thời gian. Công việc chỉ<br /> như bô, xương gà, chò… dành cho những người có tính cần cù, kiên<br /> Để có thể ráp những tấm ván dày và nhẫn nhất mới làm được.<br /> uốn theo kết cấu của thân tàu, người thợ Tuy nghề đan lưới ở Bà Rịa - Vũng<br /> phải ép những thanh gỗ to bản và dài qua Tàu trong những năm đầu thế kỷ XIX<br /> lửa ở nhiệt độ cao. Sau đó ghép với nhau không mang lại thu nhập cao nhưng người<br /> theo hình răng cưa rất chắc chắn… Nghề dân ở đây vẫn duy trì nghề, bởi có thể tận<br /> đóng tàu đem lại việc làm quanh năm suốt dụng được thời gian rảnh rỗi và người già,<br /> tháng.”[14] trẻ em đều có thể làm được. Nghề đan lưới<br /> Đan lưới tuy không dãi nắng dầm mưa, nhưng phải<br /> Đan lưới là nghề truyền thống ở Bà chịu khó vì ngồi một chỗ suốt ngày. Người<br /> Rịa, Vũng Tàu trực tiếp phục vụ nghề đánh lớn làm những công đoạn phức tạp, còn trẻ<br /> bất cá. Nửa đầu thế kỷ XIX, nghề đan lưới em cũng có thể góp sức, như: căng dây,<br /> đánh bắt cá ở Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển kéo sợi cước cho thẳng. Sau bữa cơm tối,<br /> hơn so với các tỉnh khác thuộc vùng Nam cả nhà 3-4 người vừa chuyện trò vừa ngồi<br /> Bộ. Tuy nhiên nghề đan lưới đánh bắt cá ở đan lưới lại có thêm thu nhập. Tuy chỉ là<br /> đây chỉ được xem là một nghề phụ. nghề phụ, nhưng nếu người thợ khéo tay,<br /> Thợ đan lưới tập trung ở các làng chài chịu khó và khi đã quen việc thì thu nhập<br /> ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu. Trước đây từ việc đan lưới mang lại ổn định hơn so<br /> người thợ đan lưới tự tìm nguyên vật liệu với làm nông nghiệp. Điều thuận lợi nữa là<br /> để quay xa, đan lưới thủ công. Muốn đan công việc này làm quanh năm. Mỗi tấm<br /> một tấm lưới thủ công, trước hết người thợ lưới sau khi đan hoàn chỉnh, người thợ<br /> gầy theo kích cỡ yêu cầu, theo một đầu dây được trả tiền công trung bình một người<br /> cước với dụng cụ đan gọi là ghim (bằng tre trong một ngày được 10 – 15 kg thóc.<br /> hoặc bằng gỗ). Chọn cước và làm cử bằng Nghề đóng tàu thuyền và đan lưới ở<br /> tre, sau đó là gầy lưới và đan theo số mét Bà Rịa, Vũng Tàu được hình thành cùng<br /> đã định. Sau khi đan xong là đến công với quá trình lập làng với hàng trăm hộ làm<br /> đoạn rắn (kéo) lưới, người ta treo lưới đã nghề nghề đan lưới, chài, rọ tôm, rọ cá…<br /> đan và đổ nước sôi 90oC từ trên xuống, sau Những nghề này đơn giản, dễ làm và có thể<br /> đó rắn (kéo) 2 đầu cho thẳng, căng. làm tranh thủ vào buổi tối và vào những<br /> Khoảng 10 phút sau đó, lưới được rãi xen lúc nông nhàn. Từ những nghề phụ này đã<br /> kẽ một đầu phao, một đầu chì. Tiếp theo là góp phần quan trọng vào việc tăng thu<br /> lượm (nhặt) lần lượt theo đầu phao, đầu chì nhập, cải thiện đời sống công đồng cư dân<br /> để thu gom cả tấm lưới. ven biển trong thời kỳ này.<br /> Nửa đầu thế kỷ XIX, chưa có máy Làm muối<br /> <br /> <br /> 32<br /> Bà Rịa - Vũng Tàu có đường bờ biển thường được gọi là nước mắm hay mắm<br /> dài 114 km, là vùng biển có độ mặn nước nhỉ. Nước mắm làm từ cá sống, cá khô;<br /> biển vào mùa khô (từ tháng 12 tới tháng 4 hoặc từ cả các loại sò hến, tôm cua. Một số<br /> năm sau) lớn hơn 32o/oo. Vào mùa mưa (từ loại nước mắm được làm từ cá nguyên con,<br /> tháng 5 tới tháng 10) lượng nước ngọt của một số khác thì chỉ được từ tiết hay nội<br /> các sông đổ ra biển mạnh xuất hiện hiện tạng cá. Một số loại nước mắm chỉ có cá và<br /> tượng phân tầng nước rỏ rệt. Lớp bề mặt có muối, một số khác có thể có thêm dược<br /> độ muối thấp hơn 32o/oo, nồng độ muối ở thảo và gia vị. Nước mắm lên men ngắn<br /> ven bờ giảm từ 5 – 8% so với mùa khô. ngày có mùi tanh đặc trưng của cá. Quá<br /> Nhờ sự ưu đãi của tự nhiên, Bà Rịa - trình lên men dài ngày sẽ giảm được mùi<br /> Vũng Tàu là một trong những vùng có tanh và tạo ra hương vị mùi quả hạch và<br /> nguồn nguyên liệu sản xuất muối vô tận béo hơn.<br /> của Việt Nam. Nghề làm muối ở Bà Rịa - Tại Bà Rịa - Vũng Tàu, các vùng miền<br /> Vũng Tàu đã có lịch sử trên hai trăm năm; duyên hải đều làm nước mắm. Nước mắm<br /> tức hình thành từ cuối thế kỉ XVII đầu thế thường chủ yếu làm từ các loại cá biển (cá<br /> kỉ XVIII, thời các Chúa Nguyễn cùng với cơm, cá thu, cá nục v.v.) và rút chiết ra dưới<br /> quá trình cộng đồng cư dân người Việt mở dạng nước. Tùy theo độ đạm trong nước<br /> đất về phương Nam. Tính đến giữa thế kỉ mắm mà người ta phân cấp độ (nước mắm<br /> XIX diện tích ruộng muối ở Bà Rịa - Vũng cốt, nước mắm loại 1, nước mắm loại 2).<br /> Tàu lên đến 371 ha [3; tr.90]. Cuối thế kỉ Chén nước mắm dùng chung giữa mâm<br /> XIX diện tích ruộng muối ở Bà Rịa - Vũng cơm được coi là nét đặc trưng cho văn hoá<br /> Tàu lên đến gần 600 ha [6; tr.54]. Trong chia sẻ trong ẩm thực Việt Nam.<br /> đó, Long Thạnh có 200 ha, Long Điền 214 Mắm ruốc Bà Rịa - Vũng Tàu trở<br /> ha, Núi Nưa 26,5 ha, Phước Lễ 30,3 ha, thành món truyền thống. Từ đầu thế kỷ<br /> Phước Hội 47,6 ha, Phước Trinh 22,4 ha. XIX, nghề đánh bắt và làm mắm ruốc đã<br /> Ruộng muối tập trung ở các xã An Ngãi, phát triển. Ngư dân đánh bắt bằng mành<br /> Long Thạnh, Phước Diền, Phước Hội, ruốc. Ruốc ở đây sạch tinh, không bị pha<br /> Phước Lễ, Phước Trinh, Long Sơn. tạp rác rưởi hay đổ xuống lẫn cát như trong<br /> Chế biến thủy hải sản bờ. Ruốc thường được dùng để làm mắm.<br /> Nghề chế biến hải sản của cư dân Mắm ruốc được làm nhiều ở Tam Thắng,<br /> vùng biển Bà Rịa - Vũng Tàu trong Bến Đình, Rạch Dừa. Ruốc chủ yếu được<br /> những năm đầu thế kỉ XIX khá phát phơi khô và làm mắm.<br /> triển, vì đây là vùng biển có nguồn Bên cạnh nghề làm muối và chế biến<br /> nguyên liệu hải sản phong phú, lại nằm gần mắm, Bà Rịa - Vũng Tàu còn được nhiều<br /> các vùng nuôi trồng và đánh bắt hải sản lớn người biết đến với các nghề chế biến cá<br /> nhất nước (Ninh Thuận - Bình Thuận, khô, lột ghẹ, lột tôm, tôm khô, ruốc khô…<br /> Kiên Giang - Cà Mau). góp phần đáng kể vào giải quyết việc làm<br /> Những năm đầu thế kỷ XIX Bà Rịa - cho lao động và thu nhập ổn định cho hàng<br /> Vũng Tàu đã là xứ sở của các loại mắm. trăm lao động tại địa phương.<br /> Từ mắm nêm, mắm ruốc, mắm ruốc, mắm 4. Hoạt động kinh tế biển ở Côn Đảo<br /> ồ, mắm mực, mắm ruột… đến các loại khô đầu thế kỷ XIX<br /> mắm, khô mặn... đặc biệt là mắm nước Hoạt động kinh tế biển ở Côn Đảo đầu<br /> <br /> <br /> 33<br /> thế kỷ XIX được Trịnh Hoài Đức phản ánh thực thi chủ quyền biển đảo theo tinh thần<br /> như sau: “Ở giữa biển Đông, từ cửa cảng tự trị triều đình còn vận dụng chính sách<br /> Cần Giờ chạy ghe về hướng mặt trời mọc “ngụ binh ư nông” vào việc sử dụng binh<br /> đi xuống phía đông hai ngày đêm mới đến. lính khai phá đất đai ở những khu vực gần<br /> Đảo lớn 100 dặm có ruộng núi trồng lúa, nơi đóng quân để tự canh tác nuôi quân và<br /> bắp, khoai, đậu nhưng không nhiều, thường mộ dân, tổ chức tập trung như hình thức<br /> mua gạo ở Gia Định để bổ túc. Thổ sản là trại lính để lập đồn điền khẩn hoang.<br /> ngựa và trâu, không có hùm beo… Quân Những người này họ vừa là lính vừa là dân<br /> lính ở đây, thường lấy yến sào, đồi mồi, ba nên được gọi là dân binh. Nhiệm vụ của<br /> ba, quế nắm, ốc tai tượng, theo thời tiết dân binh ở Côn Đảo chính là bảo vệ chủ<br /> dâng nộp, còn sinh kế thì nhờ ở hải sản: cá, quyền biển đảo, nhưng để tự trị lâu dài thì<br /> tôm, quả cau to lớn vỏ hồng, khí vị ngon phải sản xuất nông nghiệp, đánh bắt, khai<br /> thơm, thường đến mùa Xuân nhân cau ở thác hải sản phục vụ cuộc sống theo lối tự<br /> Gia Định chưa kết quả mà cau ở đảo đã cung tự cấp. Năm Minh Mạng năm thứ 21<br /> dùng được, chở vào đổi bán, được giá rất (1840), xuống tiếp tục ban Dụ thúc đẩy<br /> cao”[2; tr.49] việc sản xuất và bảo vệ chủ quyền ở Côn<br /> Quốc sử quán triều Nguyễn viết về Đảo: “đảo Côn Lôn thuộc tỉnh Vĩnh Long,<br /> Côn Đảo: “Trên đảo có ruộng có thể trồng đất rộng và tốt, có thể cày cấy trồng trọt<br /> lúa đậu. Thổ sản có trâu ngựa, không có được, mà dân cư còn thưa, đã xuống Dụ<br /> hùm beo. Dân cư thì có dân thôn An Hải, cho biền binh đóng giữ ở đảo ấy ngày<br /> biên chế thành đội Thanh Hải, ở đấy giữ thường không có việc gì, phải đem sức<br /> đất không được dời đi nơi khác; hàng năm khai khẩn...”[12; tr.138]. Theo chính sử<br /> đi lấy yến sào, ốc tai voi, đồi mồi, con triều Nguyễn cũng trong năm 1840, Minh<br /> vích, dây mây để nộp. Giữa đảo rất nhiều Mạng gửi Dụ chỉ đạo đốc thúc biền binh<br /> cỏ tốt”.[8; tr.153] trú đóng ở Côn Lôn ra sức khẩn ruộng<br /> Nhằm phát huy chính sách tự trị, hàng hoang để tự túc lấy lương thực.<br /> năm triều đình còn tổ chức cho binh lính ra Chính sách đẩy mạnh sản xuất tự cấp<br /> khai thác tài nguyên, sản vật ở Côn Đảo. tự túc của vua Minh Mạng đối với Côn<br /> Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), khai thác Đảo đã có nhiều ý nghĩa quan trọng và có<br /> tổ yến ở đảo Côn Lôn: “...tỉnh Gia Định những tác dụng nhất định trong việc gắn<br /> phái bắt binh thuyền đưa đến đảo Côn Lôn chặt phát triển kinh tế với nhiệm vụ canh<br /> cùng với lính đồn đi lấy tổ yến...” phòng, tuần tra vùng, bảo vệ chủ quyền<br /> [1; tr.231]. Năm Kỷ Hợi, đời vua Minh biển đảo. Đồng thời, với chính sách này,<br /> Mạng thứ 20 (1839), đưa binh lính đến đảo nhà Nguyễn đã thu hút được lực lượng<br /> Côn Lôn, Phú Quốc tìm lượm sản vật, tổ nông dân và các thành phần xã hội khác<br /> yến, trầm hương: “Phái viên là Ngự sử đến Côn Đảo, góp phần khai thác những<br /> Trần Thiện thấy Yến hộ binh đi lấy tổ yến tiềm năng của quần đảo rộng lớn này. Đây<br /> ở đảo Côn Lôn..., chuẩn cho các nơi sản ra cùng là một bài học hay để vận dụng trong<br /> tổ yến, hàng năm bắt binh lính ở đảo đi việc thực hiện chính sách quốc phòng toàn<br /> kiếm về nộp, nếu dám ẩn giấu thì trị tội... dân hiện nay.<br /> [1; tr.231]. Như vậy, cùng với việc lập khu đồn<br /> Bên cạnh đó, để tổ chức lực lượng để trú, xây dựng pháo đài, đưa quân ra Côn<br /> <br /> <br /> 34<br /> Đảo, triều đình nhà Nguyễn tổ chức kêu yếu, trên dọc tuyến biển, đảo; tăng cường<br /> gọi người dân ra đảo làm ăn sinh sống, tạo kiểm soát các tàu thuyền đi qua vùng biển<br /> điều kiện tăng cường nhân lực và vật lực đảo, kiên quyết ngăn chặn các thế lực nước<br /> cho Côn Đảo. Tính đến năm 1840, trên đảo ngoài, kể cả giặc biển xâm phạm chủ<br /> Côn Lôn ngoài những người phát vãng quyền biển đảo. Triều đình ban thưởng hậu<br /> biền binh trú phòng, đã xuất hiện những hĩ - và ngược lại nếu quan binh lơ là thì xử<br /> người dân thường thuộc 5 tỉnh Nam Kỳ tự phạt rất nghiêm minh - trong việc canh<br /> nguyện di cư ra đảo làm ăn sinh sống, cư phòng, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.<br /> dân sống ở đây ngày càng đông đúc, việc Chính sách quản lí biển đảo Bà Rịa -<br /> khai hoang phát triển kinh tế ngày càng Vũng Tàu, Côn Đảo nói riêng và cả nước<br /> được đẩy mạnh. Đến giữa thế kỉ XIX, dân nói chung trong thời kỳ này của triều đình<br /> số ở Đảo lên tới 1.000 người, gồm 3 thành là luôn khẳng định sự tự trị. Tự trị là tự<br /> phần: dân thường, biền binh trú phòng và mình giải quyết tất cả mọi hoạt động quản<br /> những người bị phát vãng. lí, bảo vệ chủ quyền biển đảo, từ việc đề ra<br /> Những chính sách tiến bộ và sự hỗ trợ chính sách đến xây dựng, tổ chức lực<br /> tích cực của triều đình nhà Nguyễn đã góp lượng để thực thi chủ quyền biển đảo. Tinh<br /> phần to lớn vào đời sống sản xuất trên đảo, thần ấy thể hiện tinh thần tự lực cách sinh,<br /> khai thác tối đa những nguồn lợi có được, đảm bảo độc lập chủ quyền và toàn vẹn<br /> tạo dựng một cơ sở kinh tế - xã hội vững lãnh thổ. Trong đó, luôn nêu cao tinh thần<br /> chắc cho các đội quân đồn trú, góp phần cảnh giác, tích cực phong bị để người<br /> vào việc bảo vệ chủ quyền biển đảo ở Côn ngoài trông thấy cũng tiêu tan lòng tà.<br /> Đảo, nói riêng, vùng biển đảo cả nước nói Không chỉ người Tây dương cách trở xa<br /> chung trong nửa đầu thế kỷ XIX. xôi, không dám nhằm thẳng vào nước ta,<br /> 5. Kết luận mà nước mạnh láng giềng tiếp giáp cõi<br /> Nửa đầu thế kỷ XIX, vùng biển đảo đất, cũng không dám manh tâm dòm ngó<br /> Bà Rịa - Vũng Tàu là một khu vực phát nữa. Đây là một chủ trương, có tầm nhìn<br /> triển rất năng động, tàu thuyền nước ngoài tiến bộ, nhưng tiếc rằng vị thế triều đình<br /> ra vào bán buôn nhộn nhịp. Đây cũng là phong kiến nhà Nguyễn đã lỗi thời, không<br /> thời kì đất nước ta đáng đứng trước mối phát triển kịp xu thế chung của thời đại,<br /> họa xâm lăng của chủ nghĩa thực dân nên không đủ khả năng giải quyết những<br /> phương Tây, do đó đối với Bà Rịa, Vũng bức xúc của tình hình đất nước. Dù gì, đây<br /> Tàu nói riêng và cả nước nói chung, triều cũng là một điểm sáng rất đáng cho hậu thế<br /> đình nhà Nguyễn đã thực hiện nhiều chính học hỏi vận dụng vào công cuộc bảo vệ<br /> sách quản lí và khai thác vùng biển đảo. chủ quyền biển đảo hiện nay.<br /> Về quản lí, triều Nguyễn đã nhà Về phát triển kinh tế biển, trong nửa<br /> Nguyễn đã ban hành và thực hiện có hiệu đầu thế kỉ XIX, cộng đồng cư dân ven biển<br /> quả các chính sách bảo vệ vùng biển, đảo ở Bà Rịa - Vũng Tàu và Côn Đảo đã phát<br /> Bà Rịa, Vũng Tàu, Côn Đảo như cho xây triển mạnh các ngành kinh tế biển như vận<br /> dựng hệ thống thành và bảo trấn, tổ chức tải đường thủy, đóng ghe thuyền, đan lưới,<br /> và xây dựng lực lượng quân đội, đặt các làm muối, chế biến thủy hải sản… tập<br /> thủ, bảo canh phòng, tăng cường quân số, trung ở Bình Châu, Lộc An, Phước Hải,<br /> khí giới, tuần tra ở những khu vực xung Phước Tỉnh, Thắng Nhứt, Thắng Nhì,<br /> <br /> <br /> 35<br /> Thắng Tam, Rạch Dừa… Đặc biệt hoạt thông chí, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách<br /> động kinh tế biển ở Côn Đảo, trong nửa Văn hóa, Sài Gòn.<br /> đầu thế kỉ XIX, đã thực hiện hiệu quả 3. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa<br /> bạ triều Nguyễn - tỉnh Biên Hòa,<br /> chính sách ngụ binh ư nông vào việc quản Nxb TP.Hồ Chí Minh.<br /> lí, bảo vệ chủ quyền biển đảo. Những chính 4. Hồ sơ số H22/219 - Mộc bản triều Nguyễn -<br /> sách đẩy mạnh sản xuất tự cấp tự túc của Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.<br /> triều Nguyễn trong thời kì này có nhiều ý 5. Tiến Năm (2012), Đất khéo tay, hay nghề,<br /> nghĩa quan trọng và có những tác dụng Di sản văn hóa Bà Rịa - Vũng Tàu, số 15.<br /> nhất định trong việc gắn chặt phát triển 6. Monographie de la province de Ba Ria et de<br /> ville du Cap Saint Jacques, Imp. L. Ménard,<br /> kinh tế với nhiệm vụ canh phòng, tuần tra 1902.<br /> vùng, bảo vệ chủ quyền biển đảo. Đây 7. Đinh Văn Hạnh - Phan An (2004), Lễ hội<br /> cùng là một bài học hay để vận dụng trong dân gian của ngư dân Bà Rịa - Vũng tàu,<br /> việc thực hiện chính sách quốc phòng toàn Nxb. Trẻ<br /> dân hiện nay. 8. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại<br /> Hoạt động quản lí và khai thác vùng Nam nhất thống chí, Nxb Khoa học xã hội,<br /> Hà Nội.<br /> biển, đảo Bà Rịa - Vũng Tàu trong nửa đầu<br /> 9. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004) Đại Nam<br /> thế kỉ XIX thể hiện tinh thần vươn ra khơi thực lục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, t.1.<br /> xa bám biển của ông cha ta, và chắt lọc từ 10. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004) Đại Nam<br /> trong di sản ấy chúng ta thấy nổi lên những thực lục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, t.3.<br /> cố gắng hết sức sáng tạo của tiền nhân 11. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004) Đại Nam<br /> trong việc triển khai thực hiện các chính thực lục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, t.5.<br /> sách quản lí, bảo vệ chủ quyền và phát 12. Quốc sử quán triều Nguyễn (1969) Đại Nam<br /> thực lục chính biên, tập XXII, đệ nhị kỷ<br /> triển kinh tế biển, đảo. XVIII (1840), Nxb. Khoa học xã hội,<br /> Hà Nội.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 13. Thạch Phương - Nguyễn Trọng Minh (chủ<br /> biên) (2005), Địa chí Bà Rịa - Vũng Tàu,<br /> 1. Lê Quý Đôn (1977) Toàn tập, Nxb. Khoa Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội<br /> học xã hội, Hà Nội.<br /> 14. http://vietnam.vnanet.vn<br /> 2. Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành<br /> <br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 18/5/2015 Biên tập xong: 15/7/2015 Duyệt đăng: 20/7/2015<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 36<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2