BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Trần Quốc Hùng
QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU
Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA
Hà Nội - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Trần Quốc Hùng
QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU
Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA
Chuyên ngành: Quản lý văn hoá
Mã số: 9229042
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Bùi Văn Tiến
Hà Nội - 2021
i
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, luận án tiến sĩ Quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa
từng bảo vệ ở bất kỳ học vị nào.
Trong quá trình thực hiện luận án, tôi đã kế thừa nhiều nguồn tài liệu và có
trích dẫn rõ ràng, đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày 19 tháng 7 năm 2021
Tác giả luận án
Trần Quốc Hùng
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
DANH MỤC BẢNG ................................................................................................... v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ .............................................................................. vi
DANH MỤC HỘP ................................................................................................... vii
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN ... 12
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................ 12
1.2. Cơ sở lý luận ...................................................................................................... 29
1.3. Mối quan hệ hữu cơ giữa quản lý Nhà nước, quản lý của cộng đồng và các bên
liên quan khác ........................................................................................................... 45
Tiểu kết ...................................................................................................................... 49
Chương 2: DI SẢN VĂN HÓA VÀ QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC
SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH ............................. 51
2.1. Di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn ..................................... 51
2.2. Thực trạng quản lý Nhà nước về di sản văn hóa ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng
Ninh ........................................................................................................................... 56
2.3. Thực trạng quản lý của cộng đồng đối với di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ...................................................................... 76
2.4. Sự tham gia của các bên liên quan khác trong quản lý di sản văn hóa dân tộc
Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ..................................................... 94
2.5. Thực trạng cơ chế phối hợp trong quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ...................................................................... 97
2.6. Thực trạng các nguồn lực trong quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện
đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh............................................................................... 101
2.7. Đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước, quản lý của cộng đồng và các bên liên
quan trong quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh ............................................................................................................. 103
2.8. Một số yếu tố tác động ..................................................................................... 109
Tiểu kết .................................................................................................................... 114
Chương 3: BÀN LUẬN VỀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA DÂN
TỘC SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH .................. 116
3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về quản lý di sản văn hóa .......................... 116
3.2. Bàn luận về quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ....................................... 124
iii
3.3. Một số định hướng cơ bản về quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện
đảo Vân Đồn ........................................................................................................... 129
3.4. Giải pháp quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn ............... 133
3.5. Đề xuất mô hình quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu gắn với phát triển du
lịch ........................................................................................................................... 147
Tiểu kết .................................................................................................................... 152
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 153
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC .................................................. 156
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 157
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 171
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
BV&PH Bảo vệ và phát huy
CHXHCN Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
CLB Câu lạc bộ
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DSVH Di sản văn hóa
DTTS Dân tộc thiểu số
HĐND Hội đồng nhân dân
KH Kế hoạch
KH&CN Khoa học và công nghệ
KKT Khu Kinh tế
KT-XH Kinh tế - xã hội
NCS Nghiên cứu sinh
NNDG Nghệ nhân dân gian
NNND Nghệ nhân nhân dân
NNUT Nghệ nhân ưu tú
Nxb Nhà xuất bản
PL Phụ lục
PVS Phỏng vấn sâu
QH Quốc hội
QL Quản lý
QLNN Quản lý Nhà nước
TP Thành phố
Tr Trang
TTg Thủ tướng Chính phủ
UBND Ủy ban nhân dân
UNESCO
United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
Liên Hiệp quốc)
VH,TT&DL Văn hóa, Thể thao và Du lịch
VH&TT Văn hóa và Thể thao
v
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Mẫu nghiên cứu định lượng dựa theo chỉ tiêu về giới tính và độ tuổi của
chủ hộ người dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn ....................................................... 8
Bảng 2: Tổng số mẫu nghiên cứu định lượng của dân tộc Sán Dìu ở xã Bình Dân,
huyện Vân Đồn ........................................................................................................... 9
Bảng 1.1: Hai phương diện để xây dựng cộng đồng và sự khác biệt giữa chúng ..... 47
Bảng 2.1: Nguồn kinh phí thực hiện Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các
dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ...... 63
Bảng 2.2. Tổng hợp từ Danh mục kiểm kê DSVH phi vật thể tỉnh Quảng Ninh của
Sở Văn hóa và Thể thao ngày 22/9/2016 .................................................................. 67
Bảng 2.3. Nhận diện các nguồn lực trong hoạt động QL DSVH người Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn thông qua khung phân tích SWOT......................................... 103
Bảng 3.1. Mục tiêu trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu huyện đảo Vân Đồn ........ 148
Bảng 3.2. Nguyên tắc QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn gắn với
phát triển du lịch ..................................................................................................... 150
Bảng 3.3. Sự tham gia của các bên liên quan trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn ................................................................................................ 152
vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1. Hiểu biết về lễ hội Đại phan .......................................................... 81
Biểu đồ 2.2. Hiểu biết về dân ca ..................................................................... 82
Biểu đồ 2.3. Giá trị văn hóa của dân tộc Sán Dìu còn lưu giữ hiện nay .............................. 89
Biểu đồ 2.4. Mong muốn tham gia hoạt động du lịch .......................................................... 95
Sơ đồ 1. Phân bổ chọn mẫu quả bóng tuyết ................................................................... 7
Sơ đồ 2.1. Khung lý thuyết nghiên cứu QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn .......................................................................................... 50
vii
DANH MỤC HỘP
Hộp 2.1. Lý giải về việc chậm trễ triển khai dự án bảo tồn và phát triển văn hóa dân
tộc Sán Dìu ở xã Bình Dân, huyện Vân Đồn ............................................................ 63
Hộp 2.2. Hoạt động của cộng đồng dân tộc Sán Dìu ................................................ 79
Hộp 2.3. Sự khác biết biệt trong môi trường sinh hoạt văn hóa Sán Dìu ................. 81
Hộp 2.4. Các phẩm chất và kỹ năng cần có để làm thầy cúng và thầy thuốc ........... 81
Hộp 2.5. Người tham gia thực hiện Dự án bảo tồn chữ viết Sán Dìu ....................... 82
Hộp 2.6. Sự tham gia của người trong thực hiện chính sách ........................................... 86
Hộp 2.7. Hoạt động của CLB Soọng cô .................................................................... 87
Hộp 2.8. Quá trình thực hành lễ Đại phan ................................................................ 87
Hộp 2.9. Vai trò người có uy tín trong cộng đồng .......................................................... 87
Hộp 2.10. Trao truyền Soọng cô ............................................................................... 89
Hộp 2.11. Cơ hội được giao lưu ................................................................................ 91
Hộp 2.12. Hoạt động lễ hội Tây Thiên gắn với văn hóa Sán Dìu ............................. 92
Hộp 2.13. Hạn chế trong QLNN về DSVH tại huyện Vân Đồn ............................... 99
Hộp 2.14. Ý kiến trái chiều về BV&PH giá trị DSVH Sán Dìu ............................... 99
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Huyện Vân Đồn là huyện vùng DTTS, miền núi và hải đảo, nơi đây không
những thiên nhiên ban tặng danh thắng vịnh Bái Tử Long, mà còn có nhiều giá trị
văn hóa lịch sử độc đáo như: thương cảng Vân Đồn phát triển cực thịnh dưới thời
Lý - Trần, chứng tích lịch sử các trận đánh chống giặc Nguyên Mông, đình Quan
Lạn… Đặc biệt, Vân Đồn là nơi sinh sống của cộng đồng DTTS: Sán Dìu, Dao,
Tày,… trong đó, dân tộc Sán Dìu là DTTS chiếm tỷ lệ đông nhất (trên 10% dân số
toàn huyện). Giá trị DSVH các DTTS nói chung và dân tộc Sán Dìu nói riêng rất
độc đáo được thể hiện qua khối óc và bàn tay đầy sáng tạo của lớp lớp người đi
trước tạo nên những giá trị văn hóa đặc trưng riêng có và được trao truyền qua
nhiều thế hệ tạo nên kho tàng DSVH vật thể, phi vật thể phong phú và đặc sắc như:
ẩm thực, trang phục, nhà cửa, nông cụ sản xuất, phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ
hội, dân ca, trò chơi, tri thức dân gian…
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các quyết định, quy hoạch, chương trình, dự
án, kế hoạch phát triển KT-XH của huyện đảo Vân Đồn vẫn chưa đề cập rõ ràng,
chi tiết về vấn đề QL DSVH các DTTS, trong đó có dân tộc Sán Dìu. Các văn bản
nêu trên chỉ đề cập chung chung “cần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các
DTTS” và thực tiễn công tác QLNN về DSVH trên địa bàn huyện chưa được quan
tâm đúng mức.
Vân Đồn đang chuyển mình trở thành KKT biển đa ngành, đa lĩnh vực, trung
tâm công nghiệp giải trí, du lịch biển - đảo cao cấp, dịch vụ thương mại quốc tế.
Đây là cơ hội, cũng là thách thức lớn đối với người Sán Dìu trong quá trình
BV&PH giá trị DSVH trong đời sống cộng đồng. Các vấn đề đặt ra như: QL DSVH
dựa vào cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng; khai thác giá trị DSVH trở thành
nguồn lực sinh kế mới; QL DSVH về chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền;
trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên quan… là những vấn đề lớn cần đặt ra
trong quá trình QL, BV&PH giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
trong giai đoạn hiện nay.
2
Đặc biệt, UBND tỉnh Quảng Ninh chọn xã Bình Dân nơi có dân tộc Sán Dìu
mật cư là địa điểm xây dựng Làng DTTS nhằm bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống
gắn với phát triển du lịch. Trong khi đó, những giá trị văn hóa truyền thống đang bị
mai một và thất truyền. Vai trò cộng đồng bị giảm sút, thậm chí một bộ phận không
nhỏ thờ ơ, quay lưng lại với DSVH của chính dân tộc mình. Vì thế, có nhiều vấn đề
đặt ra đối với chức năng QLNN về DSVH, vai trò cộng đồng và các bên liên quan
khác trong giải quyết hài hòa bài toán phát triển KT-XH với việc BV&PH giá trị
DSVH của dân tộc Sán Dìu nơi đây.
Trong bối cảnh hiện nay, nhằm hạn chế tình trạng mai một, thất truyền các
giá trị DSVH và tạo khả năng khôi phục, phục dựng các nét đẹp văn hóa vốn có
của dân tộc Sán Dìu trong đời sống cộng đồng là vô cùng quan trọng. Đây là một
khoảng trống cần được nghiên cứu một cách đầy đủ. Vì vậy, có thể nói, việc
phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN cũng như
phát huy vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng và các bên liên quan khác
trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn là một việc làm cấp thiết
hiện nay.
Nghiên cứu về DSVH dân tộc Sán Dìu đã có nhiều công trình khoa học sưu
tầm, nghiên cứu dưới cách tiếp cận của nhiều chuyên ngành: Văn hóa học, Dân tộc
học, Sử học, Văn học… Tuy nhiên, với cách tiếp cận của chuyên ngành Quản lý
văn hóa về QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh là
vấn đề chưa được nghiên cứu giải quyết triệt để. Vì vậy, NCS dựa trên những cơ sở
lý luận, các quan điểm, văn bản pháp lý của UNESCO, Đảng, Nhà nước và thực
tiễn hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu, huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
nhằm phân tích, đánh giá thực tiễn và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN
về DSVH, phát huy vai trò cộng đồng và tăng cường sự tham gia, phối hợp, hỗ trợ
của các bên liên quan khác trong quá trình QL, chỉ đạo, điều hành và thực hành
DSVH.
Với những lý do nêu trên, NCS đã chọn và thực hiện đề tài luận án về: Quản
lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh với
3
mong muốn góp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn trong công tác QL DSVH dân tộc
Sán Dìu trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là áp dụng lý luận, các quan điểm và chính
sách của UNESCO, của Đảng và Nhà nước vào giải quyết các vấn đề thực tiễn hoạt
động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn. Từ đó, luận án bàn luận
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về DSVH, phát huy vai trò QL của cộng
đồng và tăng cường hợp tác của các bên liên quan khác trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận, các quan điểm và chính sách của
UNESCO, của Đảng, Nhà nước về QL, BV&PH giá trị DSVH;
- Khảo sát và đánh giá thực trạng thông qua các hoạt động QLNN về DSVH
cũng như QL của cộng đồng và các bên liên quan khác trong QL DSVH dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn;
- Nghiên cứu kinh nghiệm của thế giới về QL DSVH và rút ra bài học kinh
nghiệm. Các định hướng phát triển văn hóa của UNESCO, của Đảng và Nhà nước
sẽ được sử dụng làm căn cứ để bàn luận các giải pháp QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở
tỉnh Quảng Ninh trong tìnhh hình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các hoạt động QL DSVH dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án lựa chọn giá trị DSVH: Di tích lịch sử - văn hóa tại
xã Bình Dân, huyện đảo Vân Đồn thuộc loại hình DSVH vật thể; nghệ thuật trình
diễn dân gian (dân ca Soọng cô); lễ hội truyền thống (Lễ hội Đại phan) thuộc loại
hình DSVH phi vật thể là những thành tố có mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ nhau
trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
4
- Về không gian: Luận án lựa chọn xã Bình Dân, địa phương có số dân là dân
tộc Sán Dìu đông nhất huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Bên cạnh đó, luận án
so sánh một số địa phương có đông người Sán Dìu sinh sống ở trong và ngoài tỉnh
để thấy rõ thực trạng QL DSVH dân tộc Sán Dìu trong giai đoạn hiện nay.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện
đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh từ năm 2007 đến năm 2020 (thời điểm UBND tỉnh
Quảng Ninh ban hành Quyết định số 4071/QĐ-UBND ngày 01/11/2007). Những
nội dung rút ra từ nghiên cứu thực trạng, đề xuất giải pháp QL DSVH dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, có thể được áp dụng cho các năm tiếp theo.
5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu 1: Hoạt động QLNN về DSVH, vai trò QL của cộng
đồng và các bên liên quan khác trong các hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh hiện nay như thế nào?
Giả thuyết nghiên cứu 1: QLNN về DSVH, vai trò QL của cộng đồng và các
bên liên quan khác trong các hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo
Vân Đồn hiện nay có những thuận lợi, cơ hội đồng thời phải đối diện với những khó
khăn, thách thức nhất định.
Câu hỏi nghiên cứu 2: Những yếu tố nào tác động đến các hoạt động QL
DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh hiện nay?
Giả thuyết nghiên cứu 2: Ngoài những yếu tố chung về phát triển KT-XH
của địa phương, đời sống văn hóa của dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh có những yếu tố riêng giữa các địa bàn, vùng miền trong cộng đồng
dân tộc Sán Dìu trong và ngoài tỉnh; giữa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
với các DTTS khác trong tỉnh Quảng Ninh cần được nghiên cứu làm rõ.
Câu hỏi nghiên cứu 3: Làm thế nào để nâng cao hiệu quả QLNN về DSVH,
vai trò QL của cộng đồng và các bên liên quan khác trong QL DSVH dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn trong giai đoạn hiện nay?
5
Giả thuyết nghiên cứu 3: Giải pháp được tiếp cận theo hai hướng: QL DSVH
dân tộc Sán Dìu phải gắn liền với sự phát triển hài hòa KT-XH, trong đó nền tảng
phát triển bền vững là DSVH và cộng đồng nắm giữ DSVH.
6. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cách tiếp cận
Tiếp cận liên ngành giúp NCS phát hiện những vấn đề nghiên cứu. Vì vậy,
NCS vận dụng cách tiếp cận liên ngành/đa ngành của các ngành khoa học như:
Khoa học quản lý, Văn hóa học, Nhân học, Xã hội học,… Bên cạnh đó, luận án sử
dụng lý thuyết về QL DSVH, lý thuyết các bên liên quan là những lý thuyết giúp
cho vấn đề nghiên cứu được giải quyết hiệu quả và đúng hướng.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Để trả lời câu hỏi nghiên cứu và chứng minh giả thuyết nghiên cứu, NCS sử dụng
các kỹ thuật của phương pháp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính thuộc
phương pháp liên ngành/đa ngành khác như: Văn hóa học; Nhân học, Xã hội học,… cụ
thể, như sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp
Nghiên cứu các văn bản pháp quy của quốc tế, Việt Nam và địa phương như:
công ước, hiến chương, luật, nghị định, quyết định… có liên quan đến quản lý
DSVH. Phương pháp này giúp NCS có cách tiếp cận tổng thể về các quy định được
cơ quan ban hành.
Luận án tham khảo, kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu đã được công
bố, như: đề tài khoa học các cấp, sách, tạp chí, luận văn, luận án… có liên quan đến
nội dung, đối tượng, phạm vi nghiên cứu về QL DSVH dân tộc Sán Dìu.
- Phương pháp nghiên cứu định tính
+ Phương pháp phỏng vấn sâu
NCS sử dụng phương pháp PVS cùng với các kỹ thuật của phương pháp này
trong suốt quá trình nghiên cứu tại thực địa. Trong đó, kỹ thuật quan sát trực tiếp,
quan sát tham dự, phỏng vấn nhanh thường xuyên được sử dụng linh hoạt trong các
hoạt động nghiên cứu cụ thể. Quá trình thu thập thông tin, NCS đã thực hiện 3 cùng
6
(cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc) với người dân chủ yếu ở xã Bình Dân, huyện Vân
Đồn tỉnh Quảng Ninh và một số gia đình tại các huyện khác trong tỉnh và ngoài tỉnh
nhằm mục đích tìm hiểu sinh hoạt cũng như các thực hành văn hóa mà họ đang giữ
gìn và trao truyền trong gia đình và cộng đồng. Để thu thập được đầy đủ thông tin
cần có cho việc viết luận án, NCS đã thực hiện nhiều đợt nghiên cứu điền dã trong
03 năm (từ năm 2018 đến năm 2020). Các đợt nghiên cứu tập trung diễn ra vào
tháng 9/2018, tháng 5-6 năm 2019 và tháng 8 năm 2020. Trong suốt quá trình
nghiên cứu, NCS đã thực hiện 25 cuộc PVS, trong đó 15 người Sán Dìu sinh sống
tại 05 thôn thuộc xã Bình Dân, huyện Vân Đồn. Nhiều trường hợp NCS sử dụng
phương pháp phỏng vấn theo “lịch sử cuộc đời” dành cho thầy cúng để hiểu hơn về
cách thức tổ chức lễ hội Đại phan hay quá trình học hỏi và đi giao lưu Soọng cô
theo lề lối thủa xưa, nhưng có những trường hợp lại sử dụng phương pháp phỏng
vấn lặp lại trong 3 năm tiến hành nghiên cứu.
Đối tượng PVS được chọn ưu tiên là thầy cúng theo các dòng họ lớn như họ
Từ, Trương, Trần, Miêu, Tạ… những người này am hiểu cả về phong tục thờ cúng
cũng như về lề lối Soọng cô, tiếp đến là các NNDG, người có uy tín, hưu trí…
Trong suốt quá trình thực địa, NCS đã gặp phải không ít khó khăn khi khai thác
thông tin của người được phỏng vấn, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến không
gian thiêng, vấn đề hiểu về chữ viết cổ, vấn đề nhận diện DSVH của cộng đồng và
nhận thức, ý thức của chính cộng đồng về DSVH mình đang nắm giữ. Qua quá trình
thu thập thông tin tại thực địa, NCS đã phác thảo được bức tranh tương đối đầy đủ
về hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh. Từ đó giúp NCS nhận định, phân tích, đánh giá được các yếu tố tác
động đến hiệu quả quá trình QL DSVH của dân tộc Sán Dìu tại địa bàn nghiên cứu.
Phạm vi phỏng vấn không chỉ riêng ở huyện đảo Vân Đồn mà còn được mở
rộng đến các huyện, thành phố: Cẩm Phả, Hạ Long, Tiên Yên, Đầm Hà, Bình Liêu
thuộc tỉnh Quảng Ninh. Ngoài ra, NCS thực hiện PVS tại các tỉnh: Bắc Giang, Vĩnh
Phúc, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Nội dung của các cuộc phỏng vấn được chuẩn bị
sẵn bằng một bộ câu hỏi phù hợp với từng đối tượng nhằm thu được các thông tin
cần thiết phục vụ nội dung nghiên cứu của luận án. Thông tin cá nhân của người
7
cung cấp thông tin được mã hóa, đảm bảo bí mật đối với người cung cấp thông tin
[Phụ lục 8, tr.224].
+ Phương pháp chuyên gia
NCS đã tiến hành tham vấn ý kiến của các chuyên gia, đặc biệt là các chuyên
gia nghiên cứu về Quản lý văn hóa, văn hóa học, nhân học, xã hội học. Qua đó,
NCS đã nhận được những tư vấn học thuật bổ ích để có thêm cái nhìn tổng thể, toàn
diện hơn về đối tượng nghiên cứu. NCS cũng đã kế thừa các nguồn tài liệu phong
phú, đa dạng từ những tác giả đã từng thực hiện nghiên cứu về QL DSVH, điều này
rất cần thiết để hiểu rõ hơn về hoạt động QL DSVH trong bối cảnh hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu định lượng
Điều tra bảng hỏi được tiến hành theo một quy trình khoa học từ thiết kế
bảng hỏi, chọn mẫu, điều tra thử đến chỉnh sửa, hoàn thiện phiếu điều tra và tổ chức
điều tra bảng hỏi và xử lý để ra kết quả thống kê mô tả. NCS sử dụng phương pháp
chọn mẫu quả bóng tuyết (snowball sampling) trong nghiên cứu thực địa. Chọn mẫu
quả bóng tuyết là phương pháp chọn một nhóm người trả lời thứ nhất được chọn
theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, nhưng những người trả lời sau là do nhóm
thứ nhất giới thiệu và đảm bảo tính đại diện cho các thành phần về giới tính, lứa
tuổi,… tiến hành điều tra với quy mô số mẫu là 213 phiếu hỏi. Đối tượng điều tra là
người Sán Dìu từ 18 tuổi trở lên. NCS lựa chọn xã Bình Dân là xã có đông người
Sán Dìu cư trú nhất trên địa bàn huyện [Phụ lục 5, tr.201].
F1
F2
F3
Chú thích: F1: Trưởng thôn; F2: Trưởng dòng họ; F3: Hộ gia đình
Sơ đồ 1. Phân bổ chọn mẫu quả bóng tuyết (Nguồn: NCS tổng hợp)
8
NCS đã đến liên hệ UBND xã Bình Dân và được lãnh đạo xã cho phép tiến
hành điều tra bảng hỏi đối với các hộ dân trong xã. Với cách chọn mẫu ngẫu nhiên
không theo chủ đích mà người trả lời trước giới thiệu nhưng người phỏng vấn tiếp
theo, cụ thể: Dưới sự giúp đỡ của 05 trưởng thôn của các thôn: Đồng Đá, Đồng
Dọng, Đồng Cống, Đầm Tròn, Vòng Tre, sau khi hoàn thành cuộc phỏng vấn với
trưởng thôn, tiếp theo trưởng thôn giới thiệu trong thôn có bao nhiêu dòng họ để
NCS lập danh sách các hộ gia đình trong họ để chọn trả lời phiếu hỏi.
Chọn mẫu điều tra: Tổng số hộ của xã Bình Dân có 387 hộ, trong đó: 369 hộ
dân tộc Sán Dìu; 15 hộ dân tộc Kinh; 03 hộ dân tộc Dao. NCS chọn 213 hộ điều tra
nằm trong số 369 hộ dân tộc Sán Dìu sinh sống tại xã Bình Dân đạt tỷ lệ trên 1/2
tổng cỡ mẫu tại địa bàn nghiên cứu. NCS lập danh sách các hộ người dân tộc Sán
Dìu sinh sống tại xã Bình Dân, sau đó tiến hành chọn ngẫu nhiên 213 hộ để phỏng
vấn phân theo tỷ lệ nam/nữ và độ tuổi. Như vậy, nghiên cứu đã đạt được tính đại
diện cao trong quá trình thực hiện điều tra xã hội học. Qua đó nghiên cứu sinh có
được bảng thống kê mẫu nghiên cứu với tỷ lệ giới tính và độ tuổi như sau:
Giới tính người trả lời
Nam Nữ
Thấp Cao Trung Thấp Trung Cao nhất nhất nhất bình nhất bình
Tuổi 18 86 34 18 78 30
Bảng 1: Mẫu nghiên cứu định lượng dựa theo chỉ tiêu về giới tính và độ tuổi
của chủ hộ người dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu của NCS trong năm 2018)
Cách thức thu thập dữ liệu: trực tiếp xuống các hộ dân để giải thích nội dung,
mục đích và ý nghĩa của cuộc phỏng vấn. Khi người dân đã hiểu và đồng ý trả lời
phỏng vấn, lúc này phỏng vấn viên bắt đầu thực hiện cuộc phỏng vấn. Kết quả của
cuộc điều tra xã hội học, NCS đã tổng hợp được số hộ trả lời trong 05 thôn tại xã
Bình Dân cụ thể như sau:
9
Vòng Đồng Đồng Đồng Đầm Địa chỉ Tổng Tre Đá Cống Dọng Tròn
Số lượng 62 51 46 28 26 213 (Người)
Tỷ lệ % 29,1 24,0 21,6 13,1 12,2 100
Bảng 2: Tổng số mẫu nghiên cứu định lượng của dân tộc Sán Dìu
ở xã Bình Dân, huyện Vân Đồn
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu của NCS trong năm 2018)
- Bố cục của bảng hỏi định lượng bao gồm ba phần:
+ Thông tin cá nhân người trả lời như: tuổi, giới tính, dân tộc, địa chỉ, trình
độ học vấn, trình độ chuyên môn.
+ Đánh giá chung về sự hiểu biết, lòng tự hào và tầm quan trọng của việc QL
DSVH dân tộc Sán Dìu ở xã Bình Dân, huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
+ Đánh giá hiệu quả của các hoạt động
QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở xã Bình Dân, huyện Vân Đồn gắn với phát
triển du lịch tại địa phương.
Cuối cùng, dựa vào phiếu điều tra xã hội học tại cơ sở, NCS nhập số liệu và
thực hiện các lệnh thống kê mô tả để biết được mức độ ảnh hưởng của các chỉ tiêu
thông tin do 213 đại diện hộ gia đình cung cấp.
- Phương pháp so sánh
Luận án sử dụng phương pháp này nhằm làm rõ những hoạt động cũng như
kinh nghiệm QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở các địa phương trong tỉnh Quảng Ninh.
NCS đã trao đổi, phỏng vấn lãnh đạo Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Tiên Yên
và thành phố Cẩm Phả về công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu tại địa phương.
Ngoài ra, NCS còn thực hiện 08 cuộc PVS (05 cuộc PVS tại huyện Tiên Yên và 05
cuộc PVS tại thành phố Cẩm Phả) những người am hiểu về DSVH dân tộc tộc Sán
Dìu. Các DTTS khác trong địa bàn tỉnh Quảng Ninh như Dao, Tày, Sán Chay, Hoa
tại các địa phương thuộc tỉnh như: Cẩm Phả, Vân Đồn, Tiên Yên, Bình Liêu cũng
10
được NCS nghiên cứu và so sánh các kết quả đạt trong công tác QL DSVH trên địa
bàn toàn tỉnh.
Một cách tiếp cận so sánh khác là NCS đã tiến hành đi thực địa thu thập
thông tin và so sánh về công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh tại các địa phương có đông đồng bào dân tộc Sán Dìu sinh sống
như: 03 lần đi thực địa tại các xã Đại Đình, Hợp Châu, Đạo Trù thuộc huyện Tam
Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc; 02 lần đi thực địa các xã Linh Sơn, Nam Hòa huyện Đồng Hỷ,
tỉnh Thái Nguyên, 01 lần đi thực địa tại xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên
Quang và 02 đi thực địa tại các xã Nam Dương, Thanh Hải, Giáp Sơn thuộc huyện
Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. NCS tiến hành đi thực địa các địa phương nêu trên,
nhằm so sánh những kết quả đạt được trong công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu, để
rút ra những học hỏi kinh nghiệm quý có thể tham khảo trong quá trình đánh giá,
phân tích cũng như đưa ra những bàn luận về giải pháp QL DSVH cho dân tộc Sán
Dìu tại huyện đảo Vân Đồn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu về QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh từ góc độ tiếp cận của chuyên ngành quản lý
văn hóa.
Luận án góp phần hệ thống hóa lý luận về vấn đề QLNN về DSVH, lý thuyết
QL DSVH, lý thuyết các bên liên quan và mối quan hệ hữu cơ giữa QLNN về
DSVH, QL của cộng đồng và các bên liên quan khác trong QL DSVH là có tính
mới, không trùng lặp với các nghiên cứu trước đó.
Kết quả của luận án góp phần giải quyết vấn đề thực trạng và đề xuất giải
pháp QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh trong bối
cảnh hiện nay.
11
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án bước đầu cung cấp các thông tin, tư liệu về QL DSVH dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Những kết quả thu được của luận án là tài liệu tham khảo mang tính ứng dụng đối
với cơ quan QLNN về DSVH, các tổ chức, cá nhân liên quan đến lĩnh vực quản lý, QL
DSVH. Đặc biệt, là tài liệu hữu ích cho chính quyền và cộng đồng dân tộc Sán Dìu tại
các địa phương tương đồng với địa bàn nghiên cứu.
Luận án là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên chuyên
ngành: Quản lý văn hóa, Xã hội học, Công tác xã hội, Nhân học…. Không những
thế, luận án còn là tài liệu hữu dụng cho chính quyền và cộng đồng dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn trong hoạch định chính sách và xây dựng mô hình
quản lý DSVH tại địa phương.
8. Cấu trúc của luận án
Luận án gồm có Phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội
dung của luận án được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận (40 trang).
Chương 2: Di sản văn hóa và quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh (65 trang).
Chương 3: Bàn luận về giải pháp quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh (36 trang).
12
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quản lý di sản
văn hóa
DSVH đã được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ rất sớm, bắt đầu vào khoảng
cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Với công trình Di sản: quản lý, diễn giải và bản
sắc, Peter Howard cho rằng vấn đề quản lý di sản được đặt ra vào khoảng đầu thế
kỷ XIX, xuất phát từ những cá nhân có tình yêu và sự say mê đối với di sản nhằm
mục đích bảo tồn di sản để gìn giữ những thứ vì lợi ích của công chúng. Tác giả đã
phân di sản theo các lĩnh vực: thiên nhiên, cảnh quan, đài kỷ niệm, khu di tích, đồ
tạo tác, các hoạt động và con người. Peter Howard nhận định việc bảo vệ và quản lý
di sản cần phải trả lời các câu hỏi như: bảo tồn như thế nào? Vì sao cần phải bảo tồn
và bảo tồn nhằm mục đích gì? Việc bảo tồn cần phải giữ lại các giá trị gốc của
DSVH và đây cũng là cơ sở để phát huy và khai thác các DSVH phục vụ trong đời
sống đương đại [145]. Đến thế kỷ XX, sự ra đời của các Hiệp hội Di sản ở châu Âu
đã diễn đạt ngắn gọn bằng khái niệm “quản lý di sản”, khái niệm này phát triển
mạnh vào nửa sau thế kỷ XX và quản lý di sản đã trở thành vấn đề được quan tâm
sâu rộng, được phát triển mạnh mẽ bởi nhiều tổ chức, nhiều nhà nghiên cứu.
Theo nghiên cứu về QL DSVH các tác giả Brian Garrod và Alan Fayall nhận
định rằng sự cân bằng giữa bảo tồn và khai thác là điều rất quan trọng, có mối quan
hệ hữu cơ, nếu không bảo vệ các DSVH, giữ gìn thì DSVH sẽ thất truyền và tài sản
đó vĩnh viễn không tồn tại và các thế hệ mai sau không thể biết DSVH đó đã từng
tồn tại hay biểu đạt như thế nào [138]. Trong Tài liệu hướng dẫn thực tiễn cho các
nhà quản lý khu di sản thế giới của tác giả Arthur Perdersen [135] cho rằng phát
triển du lịch một mặt góp phần giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và thu nhập.
Song bên cạnh đó, việc tăng lượng khách tham quan DSVH sẽ có những tác động
tiêu cực làm nguy hại đến DSVH.
13
Trong giáo trình Quản lý công nghiệp văn hóa của tác giả Zhan Chang Yuan
[148], đề cập việc quản lý DSVH như một ngành công nghiệp với những vấn đề về
chính sách, nguồn tài nguyên, nhân lực thực hiện. Trong những nghiên cứu của
mình, tác giả đều đề cập tới hai vấn đề của công tác quản lý đó là bảo tồn và phát
huy giá trị di sản. Các nhà quản lý luôn phải đối mặt với việc phải giải quyết hài hòa
mối quan hệ giữa hai lĩnh vực bảo tồn và phát triển, giữa nhà nước và nhân dân,
giữa di sản và cộng đồng.
Ở Việt Nam, những vấn đề lí luận về DSVH như vai trò, chức năng của
DSVH đối với việc lựa chọn mô hình phát triển văn hóa dân tộc và chính sách QL
DSVH dân tộc của nước ta được nhắc đến trong các kỳ Đại hội của Đảng và một số
bài học kinh nghiệm QL DSVH tại Nhật Bản được tác giả Hoàng Vinh đề cập đến
trong công trình Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc
[132]. Tác giả Hoàng Vinh đã nghiên cứu giá trị DSVH nói chung, còn vấn đề
nghiên cứu về DSVH DTTS chưa được đề cập đến. Những nội dung giữ gìn và phát
huy DSVH dân tộc ở Việt Nam được nhắc đến đều trên phương diện vĩ mô, tác giả
chưa đưa ra một cách cụ thể gắn liền với một loại hình DSVH nào. NCS xem đây là
một công trình khoa học hữu ích để kế thừa, tiếp thu khi nghiên cứu luận án.
Tác giả Nguyễn Chí Bền đã làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn kinh nghiệm
bảo tồn, phát huy DSVH qua cuốn Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể
Thăng Long - Hà Nội [12]. Từ thực trạng DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội, tác
giả đã làm rõ giá trị của DSVH trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Tác
giả nhận định những khó khăn, thách thức trong công tác bảo tồn và phát huy
DSVH, từ đó tác giả đưa ra giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn và phát huy hiệu quả các
giá trị DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội. Đồng thời, nêu lên kinh nghiệm của
một số nước với quan điểm: “bảo tồn cần phải đi kèm với khai thác, phát huy giá trị
DSVH trong đời sống… bảo tồn cần phải quan tâm đến đặc điểm xã hội trong từng
thời điểm cụ thể để có những điều chỉnh phù hợp với thời đại” [12, tr.237]. Từ kết
quả nghiên cứu của tác giả, NCS có thể chọn lọc, kế thừa và phát triển trong quá
trình nghiên cứu luận án, như các khái niệm: văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể,
14
BV&PH giá trị DSVH, quan điểm của UNESCO, của Đảng và Nhà nước về công
tác văn hóa và QL DSVH.
Tác giả Phạm Thanh Hà đã công bố cuốn sách Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay [35], trong đó bàn luận nhiều về vấn đề
bản sắc dân tộc. BV&PH DSVH không chỉ là mối quan tâm của từng quốc gia mà
còn là mối quan tâm của cộng đồng quốc tế. Bởi vì, một trong những thách thức đặt
ra đối với sự phát triển của các quốc gia là sự mai một bản sắc dân tộc. Điều này đòi
hỏi mỗi quốc gia phải có những phương thức giải quyết hiệu quả để không những
đưa đất nước phát triển mà còn phải phát huy sức mạnh nguồn lực DSVH trở thành
động lực nội sinh thúc đẩy dân tộc phát triển. Tác giả khẳng định: “dân tộc Việt
Nam phải giữ gìnbản sắc dân tộc một cách sáng tạo, linh hoạt; phải kết tinh lại và
nâng lên tầm cao mới mọi đặc điểm tích cực của dân tộc và những đặc điểm tích
cực mới của thế giới” [35, tr.69]. Tiếp thu tinh thần này, NCS cho rằng công tác QL
DSVH người Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh chính là gìn giữ và
phát triển DSVH một cách linh hoạt, sáng tạo nhưng vẫn giữ được cốt lõi bản sắc
văn hóa trong đời sống đương đại.
Năm 2005, Viện Văn hóa - Thông tin (Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia
Việt Nam) xuất bản cuốn sách Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt
Nam [78]. Đây là công trình tuyển chọn các vấn đề nghiên cứu lý luận và thực tiễn
về DSVH phi vật thể của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Với cách tiếp
cận của chuyên ngành Văn hóa học, Quản lý Văn hóa và vận dụng quan điểm của
UNESCO, công trình tập trung vào phân tích những trường hợp cụ thể ở Việt Nam
như: thực trạng, nguy cơ mai một đối với các loại hình di sản và đề ra những biện
pháp cấp bách cần làm để bảo vệ loại hình di sản này.
Một số bài viết khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành về vấn đề DSVH
như: Bài “Bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể” [109] đã khẳng định văn hóa phi
vật thể là văn hóa trải dài trong không gian và thời gian, chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố. Trong bối cảnh hiện nay, giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, vùng
miền và phạm vị khu vực, quốc tế thì văn hóa phi vật thể dễ bị tổn thương. Bài “Giữ
15
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc” [105], tác giả cho rằng: bản sắc văn hóa là
cội nguồn làm lên bản lĩnh dân tộc Việt Nam, điều đó đã chứng minh qua hàng ngàn
năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Vấn đề QL DSVH trở thành mối quan tâm lớn của các nhà quản lý, nhà khoa
học, bởi từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, DSVH chịu sự tác động của
kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Do vậy, chủ đề
nghiên cứu về QL DSVH được các tác giả Phan Hồng Giang và Bùi Hoài Sơn công
bố công trình sách Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập
quốc tế [30]. Các tác giả đã đề cập khá toàn diện đến vấn đề về quản lý văn hóa từ
lý luận đến thực trạng quản lý văn hóa ở Việt Nam từ khi bắt đầu tiến trình đổi mới
(1986) đến nay; nghiên cứu một số kinh nghiệm quản lý văn hóa một số quốc gia
như: Anh, Mỹ, Ôxtrâylia, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan. Thông qua đó, nhiều
bài học kinh nghiệm được rút ra cho Việt Nam. Qua quá trình đánh giá thực trạng
và nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, các tác giả đã đưa ra
quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL văn hóa ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Hai công trình sách nêu trên, đã có khối lượng kiến thức lí luận và
thực tiễn lớn về QL DSVH ở Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình chỉ đề cập chung
về DSVH và QL DSVH ở cấp vĩ mô, chưa nghiên cứu về QL DSVH DTTS.
Trong công trình Quản lý di sản văn hóa [68] của tác giả Nguyễn Thị Kim
Loan và Nguyễn Trường Tân đã trình bày những vấn đề thực tiễn về hệ thống
DSVH vật thể, phi vật thể ở Việt Nam và QLNN về DSVH thông qua quan điểm
của Đảng và Nhà nước; nội dung cơ bản của QLNN về văn hóa và nghiệp vụ quản
lý DSVH như: kiểm kê DSVH, tổ chức bảo vệ DSVH, tổ chức khai thác, phát huy
DSVH cũng như yêu cầu, nhiệm vụ của cán bộ QL DSVH.
QL DSVH trong bối cảnh hiện nay phải gắn với phát triển du lịch. Điều đó
thể rõ trong cuốn sách Bảo tồn và phát huy giá trị di sản lịch sử - văn hóa phục vụ
phát triển du lịch của Hội Khoa học Lịnh sử Việt Nam. Công trình nghiên cứu này
khẳng định mối quan hệ hữu cơ, biện chứng giữa bảo tồn, phát huy giá trị di tích
lịch sử - văn hóa với phát triển du lịch chính là phương thức hữu hiệu để phát huy
16
các giá trị di sản lịch sử văn hóa, vì có bảo tồn tốt thì mới có thể phát triển tốt và
phát triển tốt chính là cơ sở cho bảo tồn tốt [44, tr.485-486]. Đây là công trình có
nhiều thông tin, giúp NCS tham khảo khi đề xuất giải pháp QL DSVH dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn.
Tác giả Nguyễn Thị Hiền đã bàn luận chuyên sâu về vấn đề này trong cuốn
Quản lý nhà nước và vai trò cộng đồng trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể [38]. Tác giả phân tích thực trạng QLNN và vai trò cộng đồng trong
việc QL DSVH phi vật thể. Các DSVH phi vật thể cần được quản lý bởi một cộng
đồng tích cực, chủ động dưới sự lãnh đạo, định hướng và hỗ trợ của Nhà nước. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy hoạt động bảo vệ di sản và thực hành văn hóa của địa
phương chưa thống nhất, còn chồng chéo, vai trò của cộng đồng chưa thực sự phát
huy tối đa. Qua đó, tác giả đưa ra định hướng nhằm nâng cao hiệu quả QLNN và
vai trò cộng đồng thông qua việc phân cấp QLNN và nâng cao vai trò cộng đồng
trong BV&PH giá trị DSVH phi vật thể.
Vai trò định hướng, chỉ đạo của nhà nước về quản lý DSVH đã được nhiều
tác giả phân tích, đánh giá nhằm nêu lên những thuận lợi cũng như hạn chế trong
công tác QLNN, để từ đó tìm ra giải pháp phát huy giá trị DSVH. Đó là những bài
viết như: Đặng Văn Bài [5], Trương Quốc Bình [13] [14], Nguyễn Thị Hiền [39]
[40], Nguyễn Thế Hùng [51] [52], Nguyễn Quốc Hùng [56],... Các hoạt động
QLNN về DSVH được tác giả Nguyễn Thế Hùng trình bày với 11 nhiệm vụ trọng
tâm và 07 giải pháp BV&PH giá trị DSVH [53]. Đánh giá thực tiễn công tác QLNN
về DSVH, tác giả Đặng Thị Bích Liên cho rằng: trong thời gian tới cần nâng cao vai
trò chỉ đạo, định hướng của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng thời tăng cường
kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn triển khai các quy hoạch, triển khai có hiệu quả
chương trình mục tiêu quốc gia trong lĩnh vực DSVH [66].
DSVH được coi là tài nguyên du lịch, là động lực để phát triển du lịch và
thông qua hoạt động du lịch, DSVH có cơ sở để bảo tồn và phát huy hiệu quả các
giá trị của di sản. Đây là mối quan hệ hữu cơ, tương hỗ nhau trong quá trình bảo tồn
và phát triển. Điều này được nhận định trong các công trình nghiên cứu: Sản phẩm
17
du lịch văn hóa và văn hóa quản lý du lịch ở Việt Nam của tác giả Trịnh Lê Anh
[3]; Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa người H’Mông thông qua du lịch cộng
đồng ở bản Sín Chải, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai của tác giả Đào Ngọc Anh [4]; Sức
mạnh nội sinh và yêu cầu hiện đại hóa văn hóa dân tộc thời kỳ mới của tác giả
Nguyễn Chí Bền [11]; Văn hóa du lịch nguồn lực phát triển du lịch bền vững của
tác giả Nguyễn Văn Lưu [70]; Phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi -
Tiền năng, thách thức của tác giả Đinh Thị Thu Thảo [106].
Vấn đề QL DSVH là chủ đề được nhiều học giả, nhà quản lý quan tâm
nghiên cứu dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau. Các công trình, bài viết đã đưa ra
được cái nhìn khá đa dạng về QLNN và QL của cộng đồng trong BV&PH giá trị
DSVH. Những nghiên cứu đóng góp cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn QLNN,
vấn đề vai trò của cộng đồng và bàn tới các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
QLNN hay việc phát huy vai trò cộng đồng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống về QLNN về DSVH và vai trò của cộng đồng dân tộc
Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Như vậy, có thể khẳng định cho
đến nay vấn đề nghiên cứu QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh là một vấn đề mới và cấp bách. Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ về
KT-XH của địa phương, vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu càng trở nên cấp thiết,
với nhu cầu của cộng đồng nhằm gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
này. Đồng thời, đây cũng là nguồn lực nội sinh, nguồn vốn văn hóa nếu biết khai
thác hiệu quả sẽ phục vụ đắc lực cho phát triển KT-XH của địa phương.
Vấn đề QL DSVH được nhiều học viên và NCS quan tâm lựa chọn nghiên
cứu trong các luận văn, luận án dưới nhiều góc tiếp cận của các chuyên ngành Nhân
học, Triết học, Văn hóa học và Quản lý văn hóa… Trong quá trình thực hiện luận
án, NCS các khóa trước của Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam cũng
quan tâm đến vấn đề này như: Đào Ngọc Anh [4], Đỗ Thị Thanh Hương [58],
Nguyễn Thị Thu Hường [59], Lê Thị Thu Phượng [81],… Các đề tài luận án trên đã
vận dụng ba quan điểm và tương ứng với nó là ba mô hình bảo tồn di sản: bảo tồn y
nguyên; bảo tồn trên cơ sở kế thừa; bảo tồn và phát triển để giải quyết các vấn đề cụ
18
thể của từng DSVH ở Việt Nam. Thông qua việc tham khảo các công trình nghiên
cứu đi trước, NCS đã lựa chọn và vận dụng các quan điểm lý thuyết để giải quyết
vấn đề của luận án về QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh.
QL DSVH luôn được lãnh đạo Đảng và Nhà nước quan tâm thông qua các
diễn đàn mở nhằm kết nối các nhà quản lý, nhà khoa học và cộng đồng trong việc
đánh giá thực trạng cũng như tìm kiếm giải pháp QL DSVH. Trong 06 tháng cuối
năm 2018 đã có 02 Hội thảo quan trọng được tổ chức vào tháng 7/2018 với chủ đề
Bảo vệ và phát huy giá trị DSVH Việt Nam vì sự phát triển bền vững và Hội thảo
Bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa dân gian các DTTS Việt Nam tổ chức vào tháng
7/2018. Thông qua hội thảo, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định: “việc bảo
tồn các di sản, di tích là việc làm quan trọng và vô cùng cần thiết trong công cuộc
kiến thiết nước nhà” [181]; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến
cũng khẳng định rằng:
Văn hóa dân gian các DTTS không tự dưng mà có mà là quá trình tích
lũy qua bao đời, thấm đẫm mồ hôi, công sức của bao thế hệ. Do vậy, rất
cần được đầu tư thỏa đáng ngang với giá trị vốn có của di sản này để lưu
truyền, phát huy, trường tồn cùng với văn hóa dân tộc Việt. Điều đó phải
xuất phát tự thân của người dân tộc, có sự hỗ trợ, giúp đỡ của nhà nước
và xã hội [160].
Vì vậy, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch bà Trịnh Thị Thủy
nhận định:
Việc gắn bảo tồn, phát huy giá trị DSVH các dân tộc với phát triển KT-
XH là thách thức hiện nay do thực tế vẫn còn tình trạng khai thác chưa
hợp lý một số DSVH… Ngoài ra, một bộ phận lớp trẻ chưa có ý thức bảo
vệ các DSVH, giá trị văn hóa của chính dân tộc mình… Việc đánh giá
thực trạng công tác bảo tồn, xác định mục tiêu định hướng, và đề xuất
giải pháp kiến nghị về công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống trong tình hình mới là hết sức cần thiết [161].
19
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về cộng đồng
Vấn đề cộng đồng được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý quan tâm thông qua
các chương trình dự án về phát triển cộng đồng. Do vậy, để có những kiến thức cơ
bản về phát triển cộng đồng, các tác giả Lê Văn An [1] và Lê Thị Kim Lan [63] đã
cung cấp những kiến thức cơ bản về lý luận cũng như thực tiễn và các phương pháp,
kỹ năng thực hiện trong quá trình triển khai các chương trình, dự án tại cộng đồng.
Đây là tài liệu hữu ích giúp NCS có cái nhìn tổng quan về khái niệm, công cụ và
những kỹ năng cơ bản nhằm xây dựng mối quan hệ với cộng đồng, hiểu giá trị thực
trạng cũng như tiềm năng của cộng đồng để từ đó lập kế hoạch nghiên cứu đánh giá
vai trò cộng đồng trong quá trình QL DSVH người Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh.
Đối với vấn đề QL DSVH, trách nhiệm trước hết là của cộng đồng, bởi cộng
đồng là chủ thể sáng tạo, tích lũy và trao truyền DSVH. Tác giả Lương Hồng Quang
nhận định:
Năng lực tự quản cộng đồng ở nông thôn vẫn là một giá trị xã hội được coi
trọng do ý thức về cộng đồng, về tập thể vẫn còn sâu đậm trong đời sống
tâm linh cũng như trong cuộc sống hàng ngày, thể hiện qua sự trường tồn
của hội làng, tâm thức hướng về ông tổ của làng, tinh thần tình làng nghĩa
xóm, sự kiểm soát dư luận vẫn lànhững giá trị tác động mạnh đến mọi
thành viên trong cộng đồng [84, tr.307-329].
Năm 2018, tác giả Lương Hồng Quang công bố cuốn sách Phát triển văn
hóa dựa vào cộng đồng: các tranh luận lý thuyết và thực tiễn [83]. Tác giả đã đề
cập đến nhiều vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về lý thuyết cộng đồng, phát triển
cộng đồng, phát triển văn hóa dựa vào cộng đồng. Đây là một nghiên cứu có hệ
thống, nguồn tư liệu phong phú, cách phân tích đa chiều về phát triển văn hóa dựa
vào cộng đồng. Công trình đã có những đóng góp học thuật giá trị trong nghiên cứu
QL DSVH.
Tác giả Nguyễn Thị Hiền nhắc đến cộng đồng trong bối cảnh “các cộng đồng
đã sáng tạo, thực hành và duy trì di sản của mình vì đó là một phần đời sống văn
hóa, là sự kế tục giữa các thế hệ và sự thể hiện bản sắc của cộng đồng. Họ không
20
chỉ là người sáng tạo, mà còn là những người thực hành trao truyền và duy trì di sản
cha ông để lại” [40, tr.3-9]. Từ những bài học về QLNN về DSVH và QL của cộng
đồng, tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm về mối quan hệ giữa QLNN với QL cộng
đồng trong BV&PH giá trị DSVH phi vật thể qua kinh nghiệm của Trung Quốc,
Hàn Quốc và Nhật Bản. Thông qua đó, tác giả rút ra những bài học bổ ích cho Việt
Nam trong việc phân định ranh giới, chức năng chỉ đạo của nhà nước về tài chính,
về tổ chức thực hiện bảo vệ di sản tầm vĩ mô, còn cộng đồng thì được nhà nước hỗ
trợ và tạo điều kiện để thực hành di sản [39, tr.53-65].
Vai trò chủ thể của cộng đồng trong QL DSVH cần phải nhận thức rõ tầm
quan trọng, giá trị và chính người dân trong cộng đồng được hưởng lợi từ chính
DSVH [156]. Bên cạnh đó, Nhà nước tham gia với vai trò quản lý hành chính, định
hướng, hỗ trợ cộng đồng và tăng cường trao quyền QL DSVH cho cộng đồng [157].
Tác giả Nguyễn Quang Minh và Nguyễn Thu Trang cho rằng yếu tố tạo nên
tính cố kết cộng đồng đã ít nhiều thay đổi theo thời gian và không gian. Trong quá
khứ, yếu tố tạo nên tính cố kết cộng đồng là yếu tố thân tộc, huyết thống; còn hiện
nay yếu tố lợi ích và sự quan tâm chung là yếu tố quyết định sự bền chặt của cộng
đồng [73]. Từ tính cố kết cộng đồng làng xã truyền thống đến tính cố kết cộng đồng
làng xã đương đại đã có nhiều chuyển biến. Đặc biệt, quá trình xây dựng nông thôn
mới sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi chú trọng đến năng lực tự quản của cộng đồng làng
xã. Hiểu rõ tính cố kết cộng đồng làng xã truyền thống, nhằm phát huy được tính
chủ động, tích cực. Đồng thời, hạn chế những mặt tiêu cực một cách chủ động sẽ
giúp cho công cuộc xây dựng nông thôn mới được hiệu quả hơn [2]. Cùng quan
điểm trên, tác giả Nguyễn Hồng Hà cho rằng QL DSVH là nghĩa vụ và quyền lợi
thiết thực của mỗi người, mỗi nhóm xã hội, cộng đồng [33].
Như vậy, các công trình sách, bài viết về cộng đồng và vai trò của cộng đồng
trong QL DSVH đều bàn luận đến những vấn đề về vai trò chủ động, tích cực của
cộng đồng; vai trò tự quản, tính cố kết cộng đồng cũng như những lợi ích của cộng
đồng từ việc QL DSVH. Đây là những tài liệu quan trọng giúp NCS có thêm cơ sở
khoa học và thực tiễn khi giải quyết các vấn đề đặt ra về vai trò của cộng đồng trong
BV&PH giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
21
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về dân tộc Sán Dìu và di sản văn hóa
dân tộc Sán Dìu
Từ đầu thế kỷ XX đến nay, dân tộc Sán Dìu được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm như các tác giả: Bonifaxi [21], Ma Khánh Bằng [9], Diệp Trung Bình [15] [16]
[17] [18], Ôn Thái Trần [117] [118] [119] [120], Lâm Quang Hùng [54] [55],
Nguyễn Thị Quế Loan [67], Nguyễn Ngọc Thanh [103], Nguyễn Thị Kim Thoa
[114] [115], Ngô Văn Trụ [121]…; nhiều sinh viên, học viên Cao học và NCS lựa
chọn dân tộc Sán Dìu là đối tượng nghiên cứu trong các đề tài khoa học như:
Nguyễn Thẩm Thu Hà [34]; Nguyễn Xuân Hòa [42], Dương Thùy Linh [64], Kiều
Thị Thiên Trang [116]... Tuy nhiên, qua tổng hợp NCS nhận thấy chưa có một công
trình chuyên sâu nào đề cập đến vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu. Những nội
dung bàn luận đến vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu thường chỉ chiếm một dung
lượng nhỏ trong các công trình đã công bố. Chính vì vậy, tổng quan các công trình
nghiên cứu khoa học về dân tộc Sán Dìu và DSVH dân tộc Sán Dìu cho thấy, việc
nghiên cứu một cách hệ thống về QL DSVH dân tộc Sán Dìu là một yêu cầu cấp
thiết không chỉ để bổ sung cho nguồn tư liệu về dân tộc Sán Dìu mà còn thể hiện cái
nhìn khách quan khi nhận diện và đánh giá sự phát triển, vận động của dân tộc Sán
Dìu trong đời sống đương đại.
* Nhóm công trình nghiên cứu về dân tộc Sán Dìu
Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục của nhà bác học Lê Quý Đôn, đây là công
trình đầu tiên viết về dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam. Công trình này, có nhắc tới các
tộc người ở xứ Tuyên Quang, có 07 chủng tộc người Man, trong đó chủng tộc Sơn
Man [26, tr.335], được lí giải rằng: “Man = Dao, và như vậy thì Sơn Man tức là Sơn
Dao hay cũng chính là Sán Dìu (山瑶)” [9, tr.9]. Đầu thế kỷ XX, với tư cách là chỉ
huy khu vực sứ Tuyên Quang năm 1898, Bonifaxi công bố chuyên khảo về Mán
Quần Cộc. Bằng phương pháp Dân tộc chí, Bonifaxi đã mô tả đời sống văn hóa,
phong tục tập quán và so sánh văn hóa của người Sán Dìu với các dân tộc cận cư
nên đã xếp Sán Dìu vào nhóm Dao [21, tr.4]. Nhận định của Bonifaxi trùng khớp
với ý kiến của các học giả Phạm Hồng Quý (范宏貴) và Lưu Chí Cường (刘志强)
22
(Trung Quốc) [149] [150] [151] xếp dân tộc Sán Dìu (山由) vào dân tộc Dao (瑶族).
Tuy nhiên, vào thập niên 60 các học giả Liên Xô lại xếp Sán Dìu vào nhóm Hán,
trong ngữ hệ Hán - Tạng [9, tr.17]. Đây là những công trình đầu tiên khá đầy đủ về
dân tộc Sán Dìu, là một tộc người riêng và có những nét khái quát sơ lược về văn
hóa dân tộc Sán Dìu.
Tác giả Bùi Đình đã viết trong Tìm hiểu đồng bào miền núi Việt Nam, như sau:
Mán Quần Cộc đến từ tỉnh Quảng Đông di cư vào Việt Nam thời nhà
Minh (Trung Quốc), có tên là Sơn Dao, họ ở một dài từ Quảng Ninh, Hải
Dương, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Thái Nguyên lác đác
ngoài các hải đảo trong vịnh Bắc Bộ như Kẻ Bào, Cát Bà cũng có. Nhóm
ở vùng Quảng Ninh gồm Đầm Hà, Hà Cối, Tiên Yên, Vân Đồn, Đông
Triều thời phong tục theo người Kinh. Nhưng trong các vùng Phủ Lạng
Thương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên còn giữ được một đôi
tính cách Mán [9, tr.9].
Những công trình nghiên cứu khá toàn diện về dân tộc Sán Dìu của các tác
giả Ma Khánh Bằng, Người Sán Dìu ở Việt Nam [9]; Lâm Quang Hùng, Người Sán
Dìu ở Vĩnh Phúc [54]; Ngô Văn Trụ, Nguyễn Xuân Cần, Dân tộc Sán Dìu ở Bắc
Giang [121]; Nguyễn Ngọc Thanh, Văn hóa truyền thống dân tộc Sán Dìu ở Tuyên
Quang [103];… Đây là những công trình được các tác giả tiếp cận dưới góc độ
chuyên ngành Dân tộc học, Văn hóa dân gian với nội dung nghiên cứu chủ yếu như:
tộc danh, quá trình tộc người, hoạt động kinh tế; văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần;
một số phong tục trong đời sống. Các công trình đã khái quát được bức tranh về đời
sống văn hóa của dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam. Tuy nhiên, về vấn đề QL DSVH dân
tộc Sán Dìu ở Việt Nam nói chung và huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh nói
riêng, vẫn chưa được các tác giả nghiên cứu.
* Nhóm công trình nghiên cứu về di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu
- Về DSVH vật thể
Dưới góc độ nghiên cứu về DSVH vật thể, hai chủ đề về nhà cửa và trang
phục ít được nghiên cứu với những công trình chuyên biệt. Gần đây, tác giả Kiều
23
Thị Thiên Trang đã nghiên cứu trong luận văn Bảo tồn và phát huy giá trị trang
phục truyền thống người Sán Dìu tại xã Đạo trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc
[116]. Tác giả đã trình bày những giá trị tiêu biểu, đặc sắc của trang phục truyền
thống dân tộc Sán Dìu, cũng như đề cập đến thực trạng, giải pháp bảo tồn và phát
huy giá trị của trang phục của họ. Công trình tập trung vào các giải pháp về cơ chế
chính sách mà chưa quan tâm nhiều đến phát huy vai trò cộng đồng trong bảo tồn và
phát huy nét văn hóa về trang phục của dân tộc Sán Dìu trong đời sống hiện nay.
Đối với chủ đề nhà ở, ngoài những công trình tổng hợp chung, chỉ có một số
bài viết ngắn đề cập đến nhà ở truyền thống của dân tộc Sán Dìu như tác giả Trương
Xuân Hữu bàn về Tục lệ làm nhà mới với xây dựng nếp sống văn hóa của người
Sán Dìu ở Vĩnh Phúc [61]; Nguyễn Hạnh Sơn với bài viết Người Sán Dìu làm nhà
mới [96]. Đây là những bài viết mang tính giới thiệu khái quát, chưa có sự phân
tích, đánh giá hay đề xuất giải pháp trong việc BV&PH di sản nhà ở của dân tộc
Sán Dìu tại địa bàn nghiên cứu.
Văn hóa ẩm thực của dân tộc Sán Dìu được khá nhiều tác giả quan tâm như:
Diệp Trung Bình với Văn hóa ẩm thực người Sán Dìu [18]; Lâm Quang Hùng với
Văn hóa ẩm thực người Sán Dìu ở Vĩnh phúc [55]; Nguyễn Thị Quế Loan với Bản
sắc văn hóa ẩm thực của người Sán Dìu ở Thái Nguyên [67],…. Trong những công
trình nghiên cứu này, các tác giả đã trình bày một cách chân thực nhất về văn hóa
ẩm thực của dân tộc Sán Dìu qua việc sử dụng nguồn lương thực, thực phẩm để tạo
ra cách thức chế món ăn phong phú mang đậm phong vị của cư dân vùng bán sơn
địa. Ngoài ra, các tác giả còn nêu những nét khái quát mối quan hệ, thế ứng xử của
các thành viên trong gia đình, cộng đồng thông qua việc ăn uống. Bên cạnh đó, tác
giả Nguyễn Thị Quế Loan còn phân tích Tập quán chăm sóc sản phụ, trẻ sơ sinh
trong ăn uống của người Sán Dìu ở Thái Nguyên; Biến đổi trong tập quán ăn uống
của người Sán Dìu tỉnh Thái Nguyên…
Nghiên cứu về các hoạt động sinh kế của dân tộc Sán Dìu có tác giả Nguyễn
Xuân Hòa trong luận án Sinh kế của người Sán Dìu ở vùng đệm vườn quốc gia Tam
Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc [42] và luận án của tác giả Dương Thùy Linh về Sinh kế vùng
gò đồi của người Sán Dìu ở tỉnh Thái Nguyên [64]. Các NCS đã luận giải được các
24
vấn đề văn hóa trong sinh kế thông qua sự thích ứng văn hóa của dân tộc Sán Dìu từ
truyền thống đến hiện đại; phân tích nguyên nhân và sự tác động đến sự chuyển
dịch sinh kế cũng như biến đổi đời sống văn hóa tộc người. Từ đó, những công trình
này đã góp phần vào quá trình hoạch định chính sách và đưa ra giải pháp nhằm phát
triển sinh kế tộc người bền vững, song song với bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa cộng đồng dân tộc Sán Dìu. Cách tiếp cận của các tác giả từ chuyên ngành
Nhân học và Khu vực học nên chưa đề cập đến vấn đề QL DSVH từ loại hình sinh
kế truyền thống trong giai đoạn hiện nay.
- Các nghiên cứu về DSVH phi vật thể
Nghiên cứu DSVH phi vật thể của dân tộc Sán Dìu được nhiều nhà quản lý,
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu như: nghiên cứu về tiếng nói và chữ viết: tác giả
Nguyễn Thị Kim Thoa đã có nhiều công trình nghiên cứu từ luận văn, luận án đến
các công bố khoa học về hệ thống Ngữ âm tiếng Sán Dìu [115]. Đây là công trình đầu
tiên mô tả tương đối đầy đủ và có hệ thống về ngữ âm tiếng Sán Dìu với các thành
phần như: thanh điệu, âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối. Tác giả cũng so sánh hệ
thống ngữ âm tiếng Sán Dìu với tiếng Hán trong bài Những tương đồng ngữ âm giữa
tiếng Sán Dìu ở Việt Nam và tiếng Hán hiện đại [114]. Bên cạnh đó, xuất phát từ
quan điểm của Ma Khánh Bằng cho rằng tiếng Sán Dìu ở Việt Nam đã tiếp thu một
thổ ngữ ở Quảng Đông, Trung Quốc nên tác giả đã so sánh ngữ âm tiếng Sán Dìu với
ngữ âm của một số phương ngữ Hán ở Quảng Đông và đưa ra kết luận: tiếng Sán Dìu
của Việt Nam có hệ thống ngữ âm gần gũi nhất với phương ngữ Khách Gia.
Để dân tộc Sán Dìu có chữ viết riêng ghi lại tiếng nói và văn hóa của dân tộc
mình, dựa trên những đặc điểm về ngữ âm đã nghiên cứu, tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa
đề xuất một phương án chữ viết Latin đơn giản, thuận tiện trong sử dụng cho người Sán
Dìu ở Việt Nam. Hiện bộ chữ này đang được tác giả thử nghiệm để đưa vào sử dụng
trong đời sống tại một số địa phương như Quảng Ninh, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc…
Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng đã triển khai đề tài Sưu tầm, số hóa và
nghiên cứu khai thác chữ viết cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam [133], trong
đó tập trung khai thác chữ viết cổ của người Sán Dìu. Đề tài đã tổ chức lớp học và
25
nghiên cứu bảng tra chữ Sán Dìu, gồm phần bảng tra chữ và phần sách học chữ Sán
Dìu theo sách cổ truyền của dân tộc Sán Dìu tại Bắc Giang. Các công trình nghiên
cứu về tiếng nói và chữ viết Sán Dìu là lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu về ngôn
ngữ học. Các công trình của cá nhân hay tổ chức cũng đều đã đề cập đến vấn đề bảo
tồn trong phạm vi tiếng nói và chữ viết của dân tộc Sán Dìu.
Ngữ văn dân gian là các hình thức sinh hoạt quan trọng trong đời sống văn hóa
tinh thần của dân tộc Sán Dìu được chính những tác giả là dân tộc Sán Dìu sưu tầm,
biên soạn về dân ca Sán Dìu có tác giả Diệp Trung Bình [15]; Lê Đại Năm với tác
phẩm Các bài hát Thềnh sèn cô của dân tộc Sán Dìu ra tiếng phổ thông và sáng tác hát
giao duyên lời mới [76]. Các bài hát Thềnh sèn cô được tác giả Lê Đại Năm sưu tầm,
tuyển chọn và biên dịch là chuỗi các bài hát mở đầu, hát mời, hát gọi của cuộc hát.
Khách đến nhà chơi hay đến làng chơi vì giữ ý nên chủ nhà chủ động hát chuỗi bài
Thềnh thèn cô để mời khách hát đối đáp; Ôn Thái Trần (bút danh Ôn Quang Thiên) là
người có công sưu tầm, biên soạn và sáng tác nhiều tác phẩm thơ ca, truyện cổ Sán Dìu
như: Kinh sách dạy con [117]; Vua Bàn cổ [118]; Hoi then dip thi [119], Người dẫn
đường (Những ca khúc Sán Dìu) [120]. Tác giả đã sưu tầm và biên soạn một số truyện
kể, sách cổ dạy chữ, dạy đạo làm người của dân tộc Sán Dìu tại vùng núi Tam Đảo.
Các tác phẩm trên chủ yếu là sưu tầm, biên dịch và sáng tác từ chất liệu dân
gian làm phong phú thêm loại hình sinh hoạt giải trí. Tuy nhiên, các tác phẩm này chỉ ở
dạng sưu tầm dân gian cổ truyền và sáng tác thơ ca lời mới chứ chưa phân tích, đánh
giá thực trạng ngữ văn dân gian để có phương thức BV&PH trong giai đoạn hiện nay.
Tác giả Diệp Trung Bình đã có một số nghiên cứu về lễ hội và lễ tục vòng
đời người Sán Dìu với các công trình: Lễ hội cổ truyền các dân tộc Hoa, Sán Dìu ở
Việt Nam [16]; Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của người Sán Dìu ở Việt
Nam [17]. Trong các công trình này, tác giả đã khái quát và phân tích kỹ về đời
sống văn hóa tinh thần của dân tộc Sán Dìu như: lễ hội Đại phan được xem là lễ hội
tín ngưỡng lớn nhất của dân tộc Sán Dìu, phong tục tập quán trong sinh đẻ, cưới
xin, tang ma truyền thống được tác giả trình bày chi tiết, cụ thể qua cách tiếp cận
chuyên ngành Dân tộc học. Tác giả Phạm Thị Phương Thái trong công trình Nghi lễ
26
tang ma của người Sán Dìu từ góc nhìn văn hóa [102] đã phân tích khá chi tiết về
phong tục và nghi lễ trong tang ma của dân tộc Sán Dìu dưới cách tiếp cận Văn hóa
học. Tác giả chú trọng đến những nét đặc sắc trong nghi lễ tang ma của dân tộc Sán
Dìu như tính hỗn dung tôn giáo - tín ngưỡng thông qua hệ thống tranh thờ; dấu ấn
Phật giáo qua lễ giải oan, phá ngục trong tang lễ của phụ nữ Sán Dìu; hành trang
của người chết mang về thế giới bên kia.
Nghiên cứu về gia đình có công trình luận án của tác giả Hoàng Phương Mai
[71]. Luận án đã nêu lên sự hình thành, cơ sở phân loại cũng như cách phân tích hệ
thống về cấu trúc, quy mô và chức năng cơ bản của gia đình dân tộc Sán Dìu ở chân
núi Tam Đảo. Bên cạnh đó, tác giả đã trình bày các nghi lễ trong gia đình của dân
tộc Sán Dìu, những biến đổi về cấu trúc, quy mô, mối quan hệ trong gia đình dân
tộc Sán Dìu hiện nay.
Tác giả Nguyễn Thẩm Thu Hà trong luận án tiến sĩ Nhân học với đề tài Tri
thức địa phương trong sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của người Sán Dìu
tỉnh Tuyên Quang [34]. Tác giả đã phân tích một cách có hệ thống tri thức địa
phương trong sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên như: đất, nước, rừng.
Những tri thức địa phương đó được đồng bào Sán Dìu sử dụng và bảo vệ trong đời
sống hiện nay thông qua nhận định về những biến đổi và thách thức cần giải quyết.
Như vậy, có thể thấy đa số các nghiên cứu về dân tộc Sán Dìu đều tập trung
đến những loại hình văn hóa cụ thể, một vài lĩnh vực trong đời sống văn hóa của
dân tộc Sán Dìu dưới cách tiếp cận của chuyên ngành Dân tộc học, Văn hóa dân
gian. Từ trước đến nay chưa có công trình nào đề cập một cách hệ thống về DSVH
dân tộc Sán Dìu nhằm nhận diện DSVH trong đời sống hiện nay cũng như thực
trạng QL DSVH, để từ đó có những giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN và QL của
cộng đồng trong BV&PH giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu dưới cách tiếp cập của
chuyên ngành Quản lý Văn hóa.
* Các nghiên cứu về DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
Các nghiên cứu về DSVH dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh có các công
trình như: Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ninh, Địa chí tỉnh Quảng Ninh [98] [99] là
công trình giới thiệu đầy đủ, hệ thống về điều kiện tự nhiên, KT-XH tỉnh Quảng
27
Ninh, trong đó có phần giới thiệu về DSVH, phong tục tập quán của dân tộc Sán
Dìu sinh sống trên địa bản của tỉnh.
Năm 2007-2008, Sở VH,TT&DL tỉnh Quảng Ninh triển khai nhiệm vụ
KH&CN cấp tỉnh Sưu tầm, nghiên cứu, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá dân gian cổ truyền của người Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh. Mục tiêu của
nhiệm vụ là sưu tầm, nghiên cứu, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn
hoá dân gian cổ truyền của dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh. Điều tra, sưu tầm
DSVH phi vật thể và vật thể của dân tộc Sán Dìu ở Quảng Ninh và phục dựng ba
hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian của dân tộc Sán Dìu tại xã Bình Dân, huyện
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh gồm: lễ hội Đại phan; Soọng cô; múa Hành quang.
UBND tỉnh Quảng Ninh (2007), Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các
DTTS tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng tới năm 2020 [125]. Việc triển
khai các Quyết định, nhiệm vụ KH&CN của tỉnh Quảng Ninh khá bài bản và công
phu. Tuy nhiên, các quyết định, nhiệm vụ KH&CN chỉ dừng lại ở việc đề ra các chỉ
tiêu và sưu tầm, nghiên cứu các giá trị văn hoá dân gian cổ truyền của dân tộc Sán
Dìu ở tỉnh Quảng Ninh mà chưa có giải pháp phát huy hay gắn kết di sản với phát
triển du lịch của địa phương.
DSVH dân tộc Sán Dìu được nhiều nhà khoa học trong nước và nước ngoài
quan tâm nghiên cứu như: Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Chính (Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) cùng 02 nhà nghiên cứu người
Nhật: Masaco, Naora (Trường Đại học Tokyo) nghiên cứu về sinh kế người Hoa,
người Sán Dìu tại huyện Vân Đồn; Giảng viên Nguyễn Thị Kim Thoa đưa đoàn sinh
viên khoa Ngôn ngữ học (Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội) về xã Bình Dân, huyện Vân Đồn nghiên cứu về ngữ âm tiếng Sán
Dìu; 02 nhà nghiên cứu Cao Tiên Cúc, Tả Hà đến từ trường Đại học Dân tộc Quảng
Tây nghiên cứu về văn hóa dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã cung cấp lượng
thông tin rất lớn về dân tộc Sán Dìu và DSVH dân tộc Sán Dìu về các thành tố văn
hóa như: văn hóa vật thể, phi vật thể, văn hóa tổ chức cộng đồng, hoạt động sinh kế
hay các công trình chuyên sâu như: tri thức địa phương, gia đình, ngữ âm; ẩm
28
thực…, giúp cho NCS hiểu biết rõ hơn về DSVH dân tộc Sán Dìu. Tuy nhiên, chưa
có công trình nghiên cứu hay công bố về vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn. Đây là vấn đề mới, những vấn đề chưa được nghiên cứu trong
quá trình phát triển và hội nhập hiện nay.
1.1.4. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu, NCS nhận thấy đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu về lĩnh vực QL DSVH nói chung và một số trường hợp quản lý cụ
thể. Song những công trình nghiên cứu về QL DSVH DTTS, trong đó có DSVH
dân tộc Sán Dìu còn hạn chế cả về số lượng và nội dung. Chính vì vậy, từ góc độ
chuyên ngành Quản lý văn hóa, NCS đã chọn đây là vấn đề nghiên cứu nhằm tìm
hiểu một cách hệ thống, toàn diện thực tiễn công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu. Từ
đó, nhận diện những thuận lợi, khó khăn, hạn chế, những yếu tố tác động, các vấn
đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN,
thực trạng quản lý của cộng đồng và các bên liên quan trong QL DSVH dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn. Đồng thời, đây cũng là vấn đề NCS có thể kế thừa từ
nhiều công trình nghiên cứu có liên quan để giải quyết vấn đề luận án đặt ra.
Các nghiên cứu về dân tộc Sán Dìu, DSVH dân tộc Sán Dìu đã có là rất lớn
và đa dạng từ đề án, đề tài của các tổ chức từ Trung ương đến địa phương, trong đó,
nhiều công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo, luận văn, luận án,... Tuy nhiên,
vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn còn là mới mẻ và chưa có
công trình nghiên cứu chuyên sâu. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, DSVH dân
tộc Sán Dìu ngày càng bị mai một, thất truyền và biến đổi do nhiều tác động của xã
hội. Đặc biệt, hiện nay huyện đảo Vân Đồn đang từng bước được xây dựng để trở
thành KKT mang đẳng cấp quốc tế thì việc QL DSVH dân tộc Sán Dìu càng trở nên
cần thiết và cấp bách, mà các công trình khoa học nêu trên vẫn chưa đề cập đến
hoặc chưa nghiên cứu một cách hệ thống. Đây là khoảng trống trong nghiên cứu mà
luận án cần lấp đầy để giải quyết những vấn đề nêu trên.
Một khoảng trống nữa trong nghiên cứu là đề xuất mô hình QL DSVH trong
phát triển KT-XH, đặc biệt là QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn gắn
với phát triển du lịch, một nguồn lực nội sinh tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng.
29
Đây là một khoảng trống mà các công trình trước đó chưa đề cập đến cần được xem
xét, đề xuất mang tính ứng dụng vào thực tiễn phát triển của cộng đồng và huyện
đảo Vân Đồn trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Một số khái niệm thao tác
1.2.1.1. Di sản văn hóa
Từ xưa đến nay, trong đời sống sinh hoạt và lao động sản xuất, con người đã
tạo tác ra vật phẩm hay công trình kỳ vĩ; sáng tác ra lời ca, ý thơ, điệu múa dân
gian… Các sản phẩm văn hóa đó được gìn giữ, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác, tất cả thành tố đó đều được coi là DSVH. Tuy nhiên, phải đến năm 1789, từ
cuộc Cách mạng tư sản Pháp với việc tịch thu tài sản của giai cấp quý tộc lúc bấy
giờ và tập hợp lại trở thành tài sản quốc gia, thì các sản phẩm văn hóa đó mới là tài
sản chung chứ không thuộc sở hữu của cá nhân. Từ quan điểm nhìn nhận tài sản
chung đó đã hình thành khái niệm “di sản”.
Khái niệm di sản được chính thức hóa vào đầu những năm 1830. Về mặt
pháp lý, khái niệm này được bảo vệ, đánh giá xếp hạng bởi một đạo luật ra đời vào
năm 1913. Di tích lịch sử là bằng chứng không thể phủ nhận về một quá khứ luôn
có mặt mà cộng đồng dân tộc đã công nhận và thừa nhận như những giá trị tiêu biểu
cho bản sắc của mình. Tại Hội nghị Di sản Toàn quốc của nước Anh được tổ chức
vào năm 1983, Hội nghị đã đưa khái niệm di sản, cụ thể như sau: “Đó là những gì
thuộc về thế hệ trước giữ gìn và chuyển giao cho thế hệ hiện nay và những gì mà
một nhóm người quan trọng trong xã hội hiện nay mong muốn chuyển giao cho thế
hệ tương lai” [89, tr.20].
Tại Điều 1 của Công ước năm 1972 về Bảo vệ DSVH và thiên nhiên thế giới
của UNESCO khẳng định:
DSVH là các di tích như các công trình kiến trúc, điêu khắc hoặc hội
họa hoành tráng, các yếu tố hay kết cấu có tính chất khảo cổ, các văn
bản, các hang động và các nhóm yếu tố có giá trị quốc tế đặc biệt về
phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học; các quần thể: các nhóm
30
công trình xây dựng đứng một mình hoặc quần tụ có giá trị quốc tế đặc
biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học do kiến trúc, sự
thống nhất của chúng hoặc sự nhất thể hoá của chúng vào cảnh quan;
các thắng cảnh: các công trình của con người hoặc những công trình
của con người kết hợp với các công trình của tự nhiên, cũng như các
khu vực, kể cả các di chỉ khảo cổ học, có giá trị quốc tế đặc biệt về
phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học [122].
Năm 1989, UNESCO định nghĩa DSVH theo hướng khái quát hóa nhấn
mạnh vào chủ thể sáng tạo ra văn hóa và mang những sắc thái riêng có của mỗi dân
tộc, vùng miền, cụ thể như sau: “DSVH là tập hợp những biểu hiện vật thể hoặc
biểu hiện di sản quá khứ truyền lại cho mỗi nền văn hóa, và do đó là của toàn thể
nhân loại, là một phần của nhân loại, DSVH mang lại những đặc điểm riêng cho
mỗi địa danh cụ thể, và vì thế nên là nơi cất giữ kinh nghiệm con người” [12, tr.14].
Ngày 29/6/2001, Quốc hội đã ban hành văn bản Luật Di sản văn hóa. Tại
Điều 1 của Luật có ghi: “DSVH quy định tại Luật này bao gồm DSVH phi vật thể
và DSVH vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa
học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác” [85]. Sau một thời gian thực thi
Quốc hội đã được bổ sung và ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Di sản văn hóa số 32/2009/QH12, được ban hành ngày 18/6/2009.
+ Tại khoản 2, Điều 4 của Luật Di sản văn hóa quy định về DSVH vật thể:
DSVH vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao
gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
[85]. DSVH vật thể, bao gồm: Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh (sau
đây gọi là di tích); di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia [PL 7.5, tr.217].
+ DSVH phi vật thể
Tại khoản 1, Điều 2 của Công ước năm 2003 của UNESCO về Bảo vệ DSVH phi
vật thể đã định nghĩa:
“DSVH phi vật thể” được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện,
biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ
31
tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các
nhóm người - trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một
phần DSVH của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác,
DSVH phi vật thể được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng
tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng
đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý
thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với
sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người. Vì những mục đích
của Công ước này, chỉ xét đến những DSVH phi vật thể phù hợp với các
văn kiện Quốc tế hiện hành về quyền con người, cũng như những yêu
cầu về sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cộng đồng, các nhóm người và cá
nhân, và về phát triển bền vững [123, tr.3].
Tại khoản 1, Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn
hóa năm 2009 định nghĩa: “DSVH phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng
hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức
khác” [86]. DSVH phi vật thể, bao gồm: Tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian; nghệ
thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; lễ hội truyền thống; nghề thủ
công truyền thống; tri thức dân gian [PL 7.5, tr.217].
Trong quá trình thực hiện luận án, NCS sử dụng các khái niệm thao tác
DSVH, DSVH vật thể, DSVH phi vật thể trong Luật Di sản văn hóa [85] [86] và
Nghị định số 98/2010/ND-CP để nghiên cứu DSVH của dân tộc Sán Dìu tại huyện
đảo Vân Đồn.
1.2.1.2. Giá trị và giá trị di sản văn hóa
Nhà Xã hội học J.H. Fichter đã định nghĩa: “Theo cách mô tả chúng ta có thể
nói rằng, tất cả những gì ích lợi, đáng ham chuộng hoặc đáng kính phục đối với con
người hoặc nhóm, đều là có một giá trị” [4, tr.24].
Đối với khái niệm về giá trị, các nhà xã hội học Việt Nam đã khẳng định rõ
hơn yếu tố chủ thể thông qua nhận thức, tình cảm và hành vi của chủ thể “…bất cứ
32
sự vật nào cũng có thể xem là có giá trị, dù nó là vật thể hay tư tưởng, miễn là nó
được người ta thừa nhận, người ta cần đến nó như một nhu cầu, hoặc cấp cho nó
một vị trí quan trọng trong đời sống của họ” [4, tr.25].
“Mỗi cá nhân có hệ thống giá trị riêng và hệ thống giá trị này tương đối ổn
định. Giá trị của cá nhân bị ảnh hưởng bởi môi trường nuôi dưỡng, môi trường xã
hội, kinh nghiệm và sự giáo dục của cá nhân” [60, tr. 42].
Như vậy, mỗi cá nhân, cộng đồng, dân tộc trong quá trình lịch sử đã sáng
tạo, nuôi dưỡng các giá trị văn hóa phục vụ cho nhu cầu đời sống của họ. Các giá trị
văn hóa luôn được bồi đắp, duy trì và trao truyền cho thế hệ hôm nay và mai sau,
ngày càng trở nên phong phú hơn. Nó giúp cho mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi
dân tộc khẳng định bản sắc riêng có của mình thông qua giá trị văn hóa cốt lõi.
1.2.1.3. Quản lý văn hóa
Quản lý văn hóa là hoạt động tổng hợp, có mối quan hệ hữu cơ, tương tác
qua lại giữa chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý (mọi thành phần tham
gia hoạt động văn hóa) nhằm đạt được các mục tiêu quản lý.
Có thể làm rõ nội hàm QLNN về văn hóa với các thành tố cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể QLNN về văn hóa là các cơ quan hành pháp của nhà nước
được thống nhất từ trung ương đến địa phương qua 04 cấp: cấp trung ương, cấp
tỉnh/thành phố; cấp thành phố/quận/huyện/thị xã; cấp xã/phường/thị trấn. Mỗi cấp
QLNN về văn hóa chính là chủ thể quản lý và có cơ quan, cán bộ chuyên quản,
chuyên trách như: Bộ VH,TT&DL; Sở VH,TT&DL; Phòng Văn hóa - Thông tin.
Thứ hai, khách thể QLNN về văn hóa là các cơ quan, tổ chức, cộng đồng, cá
nhân có hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hoặc có liên quan đến các hoạt động trong
lĩnh vực văn hóa.
Thứ ba, mục đích QLNN về văn hóa nhằm BV&PH các giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; kiến tạo xã hội văn minh,
cộng đồng đoàn kết, gia đình nề nếp… Đó là mục tiêu của QLNN về văn hóa nhằm
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Thứ tư, QLNN về văn hóa được thực thi trên cơ sở pháp lý là hiến pháp, pháp
luật, thông tư, chương trình, quyết định… QLNN về văn hóa được hoạch định và
33
thực thi theo các văn bản quy phạm pháp luật chứ không theo ý chí của nhà quản lý.
Như vậy, QLNN về văn hóa là quá trình tác động có chủ đích, có mục tiêu của
chủ thể quản lý lên khách thể quản lý trong các hoạt động văn hóa nhằm duy trì sự ổn
định, phát triển văn hóa, phù hợp với thuần phong mỹ tục và nhịp sống đương đại.
1.2.1.4. Quản lý di sản văn hóa
Trong lĩnh vực QL DSVH, mục tiêu quản lý được đặt ra là nhằm đảm bảo sự
kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống kết hợp với sự tiếp thu có chọn lọc các giá trị
văn hóa đương đại tạo nên một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
QL DSVH là BV&PH các giá trị DSVH có mục đích, có hệ thống nhằm gìn
giữ các DSVH cho các thế hệ hôm nay và mai sau [144, tr.65].
Tại Điểm 1, Điều 5 Luật Di sản văn hóa quy định: Nhà nước thống nhất QL
DSVH thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ các hình thức sở hữu tập thể, sở
hữu chung của cộng đồng, sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác về DSVH
theo quy định của pháp luật [85].
Tại Điều 9 Luật Di sản văn hóa quy định:
Nhà nước có chính sách BV&PH giá trị DSVH nhằm nâng cao đời sống
tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển KT-XH của đất nước;
khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đóng góp, tài
trợ cho việc BV&PH giá trị DSVH; nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ sở hữu DSVH. Chủ sở hữu DSVH có trách nhiệm
BV&PH giá trị DSVH; nhà nước đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong việc
BV&PH giá trị DSVH [85].
Luật Di sản văn hóa đã dành một chương để quy định về QLNN đối với
DSVH được quy định tại điều 54 và phân cấp, phân quyền QLNN về DSVH quy định
tại điều 55 [85].
Vì vậy, QLNN về DSVH là các hoạt động có chủ đích, có định hướng của
Nhà nước tác động đến đối tượng quản lý (cộng đồng dân cư) thông qua bộ máy
Nhà nước và hệ thống luật pháp, chính sách nhằm đạt được những mục tiêu QL
34
DSVH, đồng thời điều chỉnh hoạt động của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực DSVH.
Trong các văn bản pháp lý của quốc tế và Việt Nam, chúng ta thường thấy
xuất hiện các thuật ngữ: bảo vệ, bảo tồn, bảo quản. Chúng tôi cho rằng xét trên
phương diện QL văn hóa, các thuật ngữ này về cơ bản có nội dung và ý nghĩa tương
đồng nhau, QL DSVH nhằm hạn chế tình trạng xuống cấp, mai một, biến dạng
DSVH, cụ thể như sau:
Bảo vệ (protect) chứa đựng nội dung thực hành các hoạt động mang tính
chất pháp lý hay nói cách khác bảo vệ là “giữ không để cho bị xâm
phạm”. Bảo tồn (preservation) mang ý nghĩa rộng hơn bảo vệ, là “hoạt
động giữ gìn một cách an toàn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá
hoại” hay nói cách khác bảo tồn có nghĩa là bảo quản giá trị hiện trạng và
hạn chế tình trạng xuống cấp của giá trị đó. Bảo quản (maintenance)
mang nghĩa sử dụng những biện pháp kỹ thuật để phòng ngừa, giữ gìn,
hạn chế các nguy cơ bị hư hỏng của đối tượng được nguyên vẹn tồn tại
lâu dài [81, tr.33-34].
Tại Khoản 3, Điều 2 của Công ước Bảo vệ DSVH phi vật thể của
UNESCO đã định nghĩa:
“Bảo vệ” là các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại
của DSVH phi vật thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hoá, nghiên
cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là
thông qua hình thức giáo dục chính thức hoặc phi chính thức cũng
như việc phục hồi các phương diện khác nhau của loại hình di sản
này [123, tr.4].
Danh từ “Bảo vệ” có nghĩa là việc thông qua các biện pháp nhằm bảo tồn,
gìn giữ và tăng cường sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa. Động từ “Bảo vệ” có
nghĩa là thông qua các biện pháp đó” [124].
Từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê cho rằng: phát huy là “làm cho cái
hay, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm” [80, tr.768].
Phát huy giá trị di sản (heritage promotion): là những hành động nhằm
35
đưa DSVH vào trong thực tiễn xã hội, coi đó như là nguồn nội lực, tiềm năng
góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại những lợi ích vật chất và tinh
thần cho con người, thể hiện tính mục tiêu của văn hóa đối với sự phát triển của
xã hội [81, tr.35].
Như vậy, hoạt động QL DSVH là quá trình BV&PH giá trị DSVH thông qua
các hoạt động QL hành chính của Nhà nước, nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, phân
loại, tư liệu hóa, thực hành, truyền dạy và phục hồi các DSVH truyền thống ngăn
ngừa các nguy cơ mai một, thất truyền và phát huy các giá trị DSVH trong đời sống
đương đại. Các khái niệm thao tác nêu trên là cơ sở để NCS triển khai thao tác hóa
khái niệm trong quá trình nghiên cứu của luận án.
1.2.1.5. Cộng đồng
Thuật ngữ “Cộng đồng” (communitas), với nghĩa là toàn bộ tín đồ của một
tôn giáo hay toàn bộ những người đi theo một thủ lĩnh. Thuật ngữ này được phổ
biến trong các ngôn ngữ Âu - Mỹ, như trong tiếng Pháp là “communité”, tiếng Anh
“community”, tiếng Đức là “gemeinschaft” [101, tr.21].
Trong lĩnh vực DSVH, Công ước 2003 của UNESCO về Bảo vệ DSVH phi
vật thể đã lấy cộng đồng làm nền tảng để dựa vào đó mà xây dựng hay thực thi các
nguyên tắc BV&PH giá trị DSVH phi vật thể. Ở châu Âu, trong lĩnh vực di sản, Hội
đồng châu Âu đã khởi xướng khái niệm “cộng đồng di sản”. Công ước Faro về giá
trị của DSVH, đối với xã hội, đã đưa ra khái niệm “quyền được hưởng di sản” và
nêu rõ trong Điều 2b: “một cộng đồng di sản bao gồm những người coi trọng những
khía cạnh đặc thù của DSVH mà họ muốn lưu giữ và truyền lại cho thế hệ tương lai
trong khuôn khổ các hoạt động của nhà nước”. Cộng đồng là tập thể người dân, chủ
nhân của các DSVH; họ đã sáng tạo, thực hành, lưu giữ và trao truyền di sản giữa
các thế hệ… Khái niệm cộng đồng theo Công ước được xác định không có hạn định
và không cụ thể. Thông tư về việc thực hiện Công ước UNESCO (2010) khuyến
cáo rằng tinh thần của Công ước là các cộng đồng cần được xem xét như là có đặc
tính mở không đồng nhất [38, tr.49-50].
36
Do vậy, khái niệm cộng đồng mà luận án đề cập đến có thể hiểu là tập hợp
của một nhóm cư dân - chủ thể văn hóa - những người dân cùng cư trú trên địa bàn
một thôn, một xã, liên xã hoặc một vùng cùng lao động, sáng tạo ra các giá trị văn
hóa và duy trì, thực hành, lưu truyền qua nhiều thế hệ tạo nên bản sắc văn hóa riêng
có của cộng đồng.
1.2.1.6. Các bên liên quan
Các bên liên quan là một cá nhân hay nhóm người có năng lực tham gia vào
một hoạt động cụ thể và họ có những quyền, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm phối
hợp khi tham gia vào hoạt động để đạt được mục tiêu chung.
Trong quá trình thực hiện luận án, NCS xác định hai bên liên quan chính
đóng vai trò chủ đạo trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, gồm
các cơ quan QLNN các cấp về DSVH và cộng đồng. Ngoài ra, các bên liên quan
khác cũng có vai trò thúc đẩy quá trình QL DSVH, cụ thể như: các tổ chức chính trị,
hội đoàn; các tổ chức truyền thông; các nhà khoa học; viện, trung tâm nghiên cứu…
1.2.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.2.1. Các quan điểm về quản lý di sản
QL DSVH luôn là những vấn đề khó khăn, phức tạp đối với các nhà quản
lý, nhà khoa học. Trên thế giới có nhiều quan điểm, mô hình về QL DSVH. Tuy
nhiên, không có mô hình hay lý thuyết nào được coi là toàn diện để áp dụng, mà
tùy bối cảnh, tính chất để có những vận dụng phù hợp.
Do đó, lựa chọn quan điểm, mô hình nào trong quá trình QL DSVH là một
vấn đề cần quan tâm. Trong quá trình nghiên cứu, Gregory J.Ashworth đã tổng kết
từ thực tiễn bảo tồn DSVH của nhiều quốc gia trên thế giới và khái quát thành 03
quan điểm chính trong vấn đề bảo tồn DSVH, tương ứng với 03 mô hình bảo tồn di
sản: bảo tồn nguyên vẹn; bảo tồn trên cơ sở kế thừa; bảo tồn để phát triển.
- Quan điểm bảo tồn nguyên vẹn (bảo tồn nguyên gốc) được các nhà bảo
tàng học ủng hộ và thịnh hành từ những năm 1850, góp phần quan trọng trong
công tác bảo tồn nguyên trạng các di tích, các bộ sưu tập hiện vật trưng bày
trong các bảo tàng.
37
- Quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa: tác giả Gregory J.Ashworth cho
rằng, không chỉ những đồ tạo tác hay những tòa nhà mà cả các bộ sưu tập và các di
sản khác cũng được bảo tồn dựa trên cơ sở kế thừa. Tiêu chí lựa chọn không chỉ phụ
thuộc vào chức năng bên trong của di sản mà còn phụ thuộc vào các yếu tố bên
ngoài của di sản. Bảo tồn trên cơ sở kế thừa không chỉ quan tâm đến hình thức mà
còn quan tâm đến cả chức năng của di sản.
Khi nhìn nhận về hai quan điểm bảo tồn nguyên vẹn và bảo tồn trên cơ sở kế
thừa, mỗi quan điểm đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Quan điểm bảo
tồn nguyên vẹn khó xác định các yếu tố nguyên gốc, hay yếu tố phái sinh và giữ
nguyên gốc là những yếu tố nào. Quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa lại gặp khó
khăn trong xác định yếu tố nào thực sự cần phải kế thừa, yếu tố nào không phù hợp
trong đời sống và cần được loại bỏ; đồng thời đưa ra khuyến cáo sự loại bỏ ấy có
nguy cơ đánh mất những giá trị DSVH mà chúng ta chưa thực sự hiểu biết một cách
sâu sắc, thấu đáo về bản chất của di sản [89, tr. 28].
- Quan điểm bảo tồn phát triển
Bảo tồn để phát triển không đơn thuần là việc tìm những biện pháp để bảo tồn
nguyên vẹn di sản, mà có thể xem xét quản lý di sản theo một hướng khác. DSVH luôn
tồn tại cùng với sự vận hành của xã hội và DSVH là một thực thể có sự tác động qua lại
trong môi trường xã hội. Do vậy, cần có những biện pháp QL các giá trị DSVH một
cách hợp lý nhằm bảo vệ di sản hiệu quả, khai thác và phát huy di sản đúng mức luôn
là vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển KT-XH. Mối quan hệ hữu cơ giữa DSVH với
phát triển KT-XH là mối quan hệ tương hỗ có tác động qua lại lẫn nhau [89, tr.29].
Quan điểm đặt bảo tồn DSVH trong mối quan hệ với phát triển là không bận
tâm đến việc tranh luận nên bảo tồn nguyên vẹn thế nào, nên kế thừa cái gì từ quá
khứ mà quan trọng làm thế nào để DSVH phát huy được giá trị của nó trong đời
sống hiện nay.
DSVH dân tộc Sán Dìu cũng vậy, là cư dân cư trú lâu đời ở vùng dẻo thấp ở
khu vực địa hình vùng gò đồi nên có nhiều cơ hội để phát triển KT-XH, song cũng có
nhiều nguy cơ bị mai một, thất truyền. DSVH dân tộc Sán Dìu không phải cố hữu, bất
biến mà luôn vận động tiếp biến trong từng giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, những giá trị
38
được coi là tinh hoa, cần được BV&PH. Cả 03 quan điểm học giả Gregory J.Ashworth
tổng kết đều phù hợp với những vấn đề bảo tồn dưới dạng bảo tàng hóa các hiện vật, bộ
sưu tập trong DSVH dân tộc Sán Dìu như di tích lịch sử văn hóa; các bộ sưu tập về
nông cụ sản xuất; trang phục; nhà cửa. Giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu, cần được xem
xét ở “tính xác thực” hay “tính chân thực” của di sản (Authenticity of Heritage), đó là
giá trị cốt lõi của di sản. Vấn đề này đều được các nhà quản lý, nhà khoa học tiếp cận,
áp dụng và coi đó là lõi văn hóa giúp các giá trị văn hóa gốc hài hòa, đồng điệu với các
giá trị văn hóa mới do chính cộng đồng dân tộc Sán Dìu tạo ra trong bối cảnh mới.
Để làm rõ vấn đề đặt ra trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu, NCS cho rằng QL
DSVH phải quan tâm cả ba quan điểm và tương ứng với nó là ba mô hình như đã
nêu trên. Ba quan điểm này không mâu thuẫn hay phủ định lẫn nhau mà còn khẳng
định, bổ sung và hỗ trợ nhau trong quá trình bảo tồn tổng thể các giá trị DSVH. Tuy
nhiên, trong quá trình bảo tồn cũng cần chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong từng
vấn đề cụ thể, tránh rập khuôn máy móc, cứng nhắc dẫn đến làm sai chệch, méo mó
DSVH của dân tộc Sán Dìu, làm cho không thể hiện được giá trị, tinh thần vốn có
của di sản.
Ngoài tiếp cận các quan điểm về quản lý di sản, luận án còn phân tích, đánh giá
thực tiễn QLNN về DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
theo nội dung được qui định tại điều 54 của Luật Di sản văn hóa [85].
Từ những nhận định về cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý, luận án vận dụng
các quan điểm QL DSVH nhằm phân tích về mối quan hệ hữu cơ giữa cơ quan
QLNN, cộng đồng và các bên liên quan khác. Từ đó, NCS đánh giá, phân tích
những thuận lợi, khó khăn và thách thức trong quá trình QL DSVH để đưa ra các
giải pháp phù hợp trong bối cảnh phát triển hiện nay.
1.2.2.2. Lý thuyết các bên liên quan
Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder theory), được đưa ra lần đầu tiên từ
nghiên cứu của Edward Freeman (1984) về quản trị tổ chức và đạo đức kinh doanh
Quản trị chiến lược: Cách tiếp cận từ các bên liên quan. Lý thuyết các bên liên quan
cho rằng tổ chức có nghĩa vụ phải đối xử công bằng giữa các bên liên quan. Trong
39
trường hợp các bên liên quan có xung đột lợi ích, tổ chức phải có nghĩa vụ đạt được sự
cân bằng tối ưu giữa chúng. Vì nhu cầu của các bên liên quan là khác nhau và luôn
thay đổi nên tổ chức sẽ tập trung vào đáp ứng nhu cầu của các bên liên quan thông qua
việc tổ chức đó theo đuổi chiến lược và báo cáo thông tin phù hợp với các chuẩn mực
và giá trị xã hội [162]. Lý thuyết các bên liên quan là một trong những lý thuyết có ảnh
hưởng tới sự phát triển và ứng dụng trong quản lý kinh doanh đã dần ảnh hưởng mạnh
mẽ tới lĩnh vực QL DSVH.
Lý thuyết các bên liên quan đã được các học giả trong nước và nước ngoài
nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực QL DSVH. Tác giả Jia Wen trong nghiên
cứu của mình đã xác định các bên liên quan trong QL DSVH bao gồm: các cơ quan
chính phủ, người dân và cộng đồng địa phương, các tổ chức phi chính phủ, khách
du lịch, các đơn vị tư nhân, các nhà nghiên cứu. Đặt trong mối tương quan với quá
trình quản lý, các bên liên quan của hoạt động QL DSVH sẽ thể hiện vai trò của
mình đối với từng vị trí công việc của quá trình quản lý đó. Trên cơ sở như vậy, vai
trò của các bên liên quan cũng như vai trò của DSVH trong đời sống xã hội đương
đại được biểu hiện một cách cụ thể nhất [143]. Tác giả Bùi Hoài Sơn trong bài viết
“Di sản cho ai và câu chuyện về tổ chức lễ hội truyền thống ở Việt Nam” đã đưa ra
3 đáp án để trả lời cho câu hỏi “Di sản cho ai?” Di sản cho các nhà quản lý, di sản
cho khách du lịch và di sản cho cộng đồng địa phương [90].
Như vậy, muốn xác định được cụ thể vai trò của từng cá nhân hoặc tổ chức
trong xã hội cần phải đặt từng đối tượng cụ thể trong mối liên hệ của các bên liên quan.
Việc xác định vai trò của các bên liên quan trong hoạt động QL có tầm quan trọng đặc
biệt ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của hoạt động này bởi các bên liên quan sẽ chịu
tác động của tổ chức thông qua hoạt động QL, trên cơ sở tác động của QL mà các bên
liên quan thể hiện vai trò của mình đối với từng khâu của quá trình này. Hiện nay, vai
trò của các bên liên quan được sử dụng tương đối phổ biến trong nhiều lĩnh vực của
cuộc sống cũng như trong nghiên cứu khoa học. Trong khoa học QL DSVH, việc xác
định vai trò của các bên liên quan là vô cùng quan trọng mà qua đó có thể làm rõ được
40
vị trí, chức năng, khả năng vận hành của các cấp QL, các bên liên quan trong thực hiện
vai trò của chính ngành khoa học này.
Trong quá trình nghiên cứu vấn đề QL DSVH người Sán Dìu ở huyện đảo
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, NCS vận dụng nghiên cứu các hoạt động cụ thể của các
bên liên quan đóng góp vào công tác QL DSVH. Việc phân tích vai trò và đóng góp
cụ thể của các bên liên quan trong hoạt động này sẽ tạo cơ sở để có những đánh giá
khách quan về thực trạng công tác QL DSVH cũng như định hướng cho việc đề
xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này trên cơ sở hoàn thiện hoặc
nâng cao vị trí, vai trò của các bên liên quan trong hoạt động QL DSVH.
1.2.3. Cơ sở pháp lý
1.2.3.1. Quan điểm của UNESCO
Một trong những nhiệm vụ quan trọng và nổi bật của UNESCO là duy trì
danh sách các di sản thế giới, di sản tư liệu thế giới, DSVH phi vật thể của nhân
loại... Chính vì vậy, trên bình diện pháp lý UNESCO đã ban hành nhiều công ước
về lĩnh vực văn hóa cụ thể:
Ngày 16/11/1972 tại Paris, Đại hội đồng UNESCO đã thông qua Công ước
Bảo vệ DSVH và thiên nhiên thế giới tại kỳ họp thứ 17. Các DSVH và di sản tự
nhiên ngày càng có nguy cơ bị phá hoại, xuống cấp trong quá trình phát triển của
đời sống xã hội, cho nên việc bảo vệ di sản ở các cấp quốc gia thường gặp những
khó khăn, thách thức vì việc bảo vệ đòi hỏi rất nhiều phương tiện khoa học kỹ thuật
và nguồn lực kinh tế (Điều 5) [122].
Năm 2003, UNESCO được Đại hội đồng các quốc gia thành viên thông qua
Công ước về Bảo vệ DSVH phi vật thể, tại phiên họp thứ 32 ở Paris. Nguyên Tổng
Giám đốc UNESCO Koichiro Matsuura đánh giá:
Công ước có hiệu lực một cách đặc biệt nhanh chóng, chỉ 30 tháng sau
khi được Đại hội đồng UNESCO thông qua (tháng 10/2003), thể hiện
mối quan tâm to lớn của toàn thế giới đối với việc bảo vệ DSVH phi vật
thể và sự nhận thức rộng rãi về nhu cầu thúc bách phải bảo vệ những di
sản này trước nguy cơ do lối sống và quá trình toàn cầu hóa gây ra [52,
tr.170].
41
Nhận thức tầm quan trọng và ý nghĩa của việc bảo vệ DSVH phi vật thể
trong quá trình hội nhập và phát triển, Việt Nam là quốc gia thứ 22 ký tham gia
Công ước UNESCO 2003 và trở thành một trong những thành viên tích cực tham
gia quá trình thực hiện Công ước. Việt Nam được tín nhiệm bầu vào Ủy ban Liên
chính phủ về bảo vệ DSVH phi vật thể trong nhiệm kỳ đầu tiên (2006-2010).
Công ước BV&PH đa dạng của các biểu đạt văn hóa, được thông qua tại
phiên họp Đại hội đồng lần thứ 33 của UNESCO vào ngày 20/10/2005, là một
trong những Công ước quan trọng về lĩnh vực văn hóa với những nỗ lực nhằm
thúc đẩy sự đa dạng của các nền văn hóa trên thế giới. Đây là công cụ pháp lý
quốc tế quan trọng để các quốc gia thành viên áp dụng ban hành chính sách
trong các lĩnh vực sản xuất, truyền bá, BV&PH các tài sản văn hóa của quốc
gia dân tộc mình.
Các nguyên tắc chỉ đạo của Công ước 2005 khẳng định tại Điều 2:
Việc BV&PH sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa đòi hỏi công nhận
phẩm giá bình đẳng và tôn trọng tất cả các nền văn hóa bao gồm cả nền
văn hóa của những người thuộc các dân tộc bản địa và thiểu số. Trong
nguyên tắc phát triển bền vững đa dạng văn hóa là một tài sản phong phú
cho các cá nhân và xã hội. Việc bảo vệ, phát huy đa dạng văn hóa là một
yêu cầu thiết yếu đối với sự phát triển bền vững và lợi ích của các thế hệ
hôm nay và mai sau [124, tr.5-6].
Nhận thức được giá trị và tầm quan trọng của Công ước BV&PH sự đa dạng
của các biểu đạt văn hóa, Việt Nam đã ký phê chuẩn Công ước 2005 vào ngày
07/8/2007. Việt Nam là một trong những quốc gia có trách nhiệm đóng góp thiết
thực trong quá trình thực thi Công ước 2005, điều đó được thể hiện rất rõ khi Việt
Nam đảm nhiệm thành công vai trò Phó Chủ tịch Ủy ban liên Chính phủ và Phó
Chủ tịch Đại hội đồng Công ước UNESCO nhiệm kỳ (2011-2015).
Các công ước của UNESCO về lĩnh vực văn hóa một lần nữa khẳng định vai
trò và tầm quan trọng của văn hóa nói chung và DSVH nói riêng trong đời sống
đương đại. Đây cũng là những khung pháp lý quốc tế quan trọng để nước ta có cơ
sở pháp lý vận dụng linh hoạt trong quá trình ban hành và thực thi các quy định
42
pháp luật, chính sách nhằm QL DSVH trong cộng đồng 54 dân tộc sao cho phù hợp
với thông lệ quốc tế. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia tích cực tham gia
có hiệu quả vào việc thực thi các công ước quốc tế về văn hóa.
Luận án vận dụng các Công ước nêu trên vào giải quyết các nội dung của
luận án gồm: khái niệm, phân loại DSVH, đánh giá trực trạng và đề xuất giải pháp
về QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn cụ thể như các điều: bảo vệ
(Điều 2); sự tham gia của các cộng đồng, nhóm người; cá nhân và các tổ chức phi
chính phủ có liên quan (Điều 11, 15) [123].
1.2.3.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về
phát triển văn hóa, QL văn hóa nói chung và QL DSVH nói riêng luôn được quan
tâm và được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp luật như:
hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, chỉ thị, quyết định, chương trình, kế
hoạch… Trong khuôn khổ nội dung của luận án, NCS lựa chọn những văn bản liên
quan đến vấn đề DSVH, tổng hợp lại để có cái nhìn khái quát về các chủ trương của
Đảng trong lĩnh vực này.
Từ khi thành lập Đảng đến nay, quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò văn hoá
luôn nhất quán. Hệ tư tưởng đó được thể hiện xuyên suốt từ Đề cương văn hoá năm
1943 đến Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI.
Trong từng giai đoạn cách mạng của Việt Nam, quan điểm và đường lối của
Đảng về văn hoá nói chung và QL DSVH nói riêng thể hiện rõ trong các văn kiện
của Đảng các khóa VIII, IX, X, XI. Đặc biệt, trong Nghị quyết TW 5 khóa VIII và
Nghị quyết TW 9 khóa XI, các quan điểm có sự thay đổi uyển chuyển, linh hoạt phù
hợp với thực tiễn, nhưng tựu chung lại có tám quan điểm cơ bản về quản lý và phát
huy DSVH, cụ thể:
- Phát triển văn hóa là nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân
với cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể văn hóa;
43
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển KT-XH.
- Tài sản văn hóa là nguồn lực nội sinh thúc đẩy phát triển KT-XH bền vững
của đất nước;
- BV&PH nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc;
- Phát triển nền văn hoá Việt Nam thống nhất trong đa dạng của cộng đồng
các dân tộc;
- Xây dựng nền văn hoá Việt Nam với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học;
- Phát triển văn hóa là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, có lối sống
tốt đẹp nhằm xây dựng, bảo vệ, phát triển con người và sự nghiệp văn hóa trong
thời đại mới. Đồng thời, phát triển văn hóa cần phải hài hòa, cân bằng giữa phát
triển giữa kinh tế và văn hóa;
- Xây dựng môi trường văn hóa chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng
trong quá trình trao truyền và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong
đời sống;
Văn hóa là một trong những lĩnh vực được Nhà nước quan tâm; coi đó là một
trong ba trụ cột để phát triển đất nước. Ngay sau khi Nhà nước được thành lập, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 65/SL ngày 23/11/1945 về việc bảo tồn cổ tích
trên phạm vi cả nước Việt Nam.
Trải qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, xây dựng và đổi mới đất nước,
Quốc hội đã sửa đổi Hiến pháp qua các năm 1959, 1980, 1992 và 2013 nhằm đáp
ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ trong xây dựng và phát triển đất nước. Cùng
với đó là quan điểm QL văn hóa luôn được Nhà nước quan tâm thể hiện qua việc:
(1) tôn trọng các giá trị DSVH truyền thống của dân tộc; (2) hoạch định và thực thi
các chính sách BV&PH các dân tộc; (3) khuyến khích mọi sự sáng tạo, hưởng thụ
của chủ thể văn hóa; (4) nâng cao đời sống vật chất và nhu cầu hưởng thụ văn hóa
của nhân dân [PL 7.1, tr.213].
44
Tại Điều 38, Hiến pháp 1980 đã khẳng định: Cùng với việc bảo vệ và phát
triển những giá trị văn hoá và tinh thần của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá thế
giới, xây dựng nếp sống xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ nếp sống lạc hậu, bài trừ mê tín dị
đoan. Nhà nước ta còn đặc biệt quan tâm đến công tác bảo tồn các di tích lịch sử và
văn hoá, các công trình mỹ thuật công cộng, các danh lam, thắng cảnh được tu bổ
và bảo vệ. Công tác bảo tồn, bảo tàng được chú trọng (Điều 46, Hiến pháp 1980).
Với phương châm Đảng, Nhà nước và nhân dân cùng làm, việc phát huy nội lực và
huy động mọi nguồn lực cho QL DSVH cũng như nâng cao mức hưởng thụ văn hóa
của nhân dân ngày càng được quan tâm hơn.
Đồng thời, DSVH được coi là nguồn lực nội sinh phát triển KT-XH, thể hiện
tại điều 34, Hiến pháp 1992: Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các DSVH dân
tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, BV&PH tác dụng của các di
tích lịch sử, cách mạng, các DSVH, các công trình nghệ thuật, các danh lam, thắng
cảnh (Điều 60, Hiến pháp 2013); Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá
trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41,
Hiến pháp 2013).
Sự nhất quán về chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta coi trọng
lĩnh vực DSVH, là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH được thể hiện thông qua
các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Đây là căn cứ quan trọng nhằm cụ thể hóa các
cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn đặt ra. Điều này được thể hiện ở một số
văn bản sau:
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2001) ban hành Luật Di sản văn hóa, số
28/2001/QH10 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, số
32/2009/QH12;
Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010, về Quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Di sản văn hóa và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản
văn hóa;
Quyết định số 1270/QĐ-TTg, ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm
2020;
45
Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/11/2011 về công tác dân tộc; Nghị
định số 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014, về xét tặng danh hiệu NNND, NNƯT trong lĩnh
vực DSVH phi vật thể.
Mới đây, Quốc hội đã banh hành Nghị quyết số 88/2014/QH14 ngày
18/11/2019 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và
miền núi giai đoạn 2021 - 2030; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 12/NQ-CP
ngày 15/2/2020 về triển khai thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH14 ngày
18/11/2019 của Quốc hội.
Luận án đã vận dụng các quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật và các văn
bản dưới luật của Nhà nước ban hành nhằm phân định tổ chức QLNN, vai trò của các tổ
chức, cá nhân; DSVH vật thể và DSVH phi vật thể theo Luật Di sản văn hóa và các nghị
định, quyết định của Chính phủ và đề xuất mô hình QL DSVH trên cơ sở các quy định
về tổ chức của Nhà nước.
1.3. Mối quan hệ hữu cơ giữa quản lý Nhà nước, quản lý của cộng đồng
và các bên liên quan khác
Từ những vấn đề lý luận nêu trên, luận án vận dụng các vấn đề lý luận đó
vào nghiên cứu hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn trong
thời gian vừa qua để thấy rõ thực trạng QL, từ đó góp phần nhận diện và bàn luận
các giải pháp QL DSVH dân tộc Sán Dìu trong các giai đoạn tiếp theo.
Luận án nhận thấy Công ước 2003 đề cao mối quan hệ giữa quốc gia với
cộng đồng thông qua việc tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn cộng đồng QL
DSVH, tạo hành lang pháp lý và nguồn lực để cộng đồng tham gia QL DSVH. Để
hiện thực hóa vai trò của cộng đồng, cộng đồng phải là chủ thể văn hóa có quyền
quyết định các tài sản văn hóa và thực hành văn hóa, Ủy ban Liên chính phủ Công
ước 2003 đã thông qua bộ “Nguyên tắc đạo đức” gồm 12 điều với nội dung về vai
trò tự quyết của cộng đồng trong việc quản lý và thực hành DSVH. Sự tham gia chủ
động, tích cực của Việt Nam đã giúp Việt Nam hoàn thiện các cơ chế chính sách
QL DSVH, trong đó nổi bật vai trò của các cơ quan QLNN, QL của cộng đồng và
các bên liên quan khác, cụ thể:
46
Vai trò và trách nhiệm của Nhà nước về mặt vĩ mô là ban hành các chủ
trương, hệ thống hành lang pháp lý thông qua hiến pháp, pháp luật và các văn bản
dưới luật (chỉ thị, thông tư, quyết định, văn bản hướng dẫn), mặt vi mô ở các địa
phương ban hành các văn bản quy định và có trách nhiệm hướng dẫn thi hành cụ thể
nhiệm vụ QL DSVH theo hệ thống QLNN từ trung ương đến địa phương nhằm thực
hiện địa vị hiến định, thẩm quyền mà cấp đó đảm nhận. Nhà nước chỉ đạo, tổ chức
thực hiện, hướng dẫn cộng đồng và huy động các bên liên quan hỗ trợ nguồn lực xã
hội để QL DSVH.
Nhà nước tạo điều kiện để cộng đồng thực hành văn hóa. QL DSVH có thể
thông qua việc phát huy các nguồn lực sẵn có trong cộng đồng nhằm sáng tạo, phát
triển tạo ra các nguồn lợi từ DSVH như thu nhập từ du lịch cộng đồng, du lịch văn
hóa, làng nghề thủ công truyền thống góp phần phát triển sinh kế của gia đình và
phát triển KT-XH của địa phương.
Cộng đồng có trách nhiệm thực hiện và phối hợp với các cơ quan nhà nước,
tổ chức, cá nhân để thực hiện các nội dung QLNN theo điều 54 của Luật Di sản văn
hóa với vai trò là chủ thể quản lý, sáng tạo và thực hành các DSVH. Cộng đồng
tham gia vào hoạt động nâng cao nhận thức, trực tiếp thực hiện các hoạt động QL
DSVH. Chính cộng đồng là người duy trì, thực hành và thụ hưởng chính sách về
BV&PH giá trị DSVH thông qua việc nắm giữ DSVH được Nhà nước xem xét công
nhận như: NNND, NNƯT hay việc xếp hạng các DSVH cấp địa phương, cấp quốc
gia cũng như đệ trình UNESCO công nhận DSVH đại diện của nhân loại.
Vai trò QL của cộng đồng tham gia BV&PH giá trị DSVH là yếu tố cơ bản
của quá trình phát triển cộng đồng. Trong đó, QLNN về DSVH là chỉ đạo, điều
hành; chính quyền các cấp có vai trò tổ chức thực hiện, hỗ trợ cộng đồng trong quá
trình BV&PH giá trị DSVH.
Vai trò và trách nhiệm của các bên liên quan như doanh nghiệp, các tổ chức
phi chính phủ, viện/trung tâm nghiên cứu... tham gia thực hiện với tư cách là chủ đầu
tư, cơ quan phối hợp, cơ quan tư vấn các dự án, chương trình, kế hoạch... Các bên
liên quan đóng vai trò là động lực thúc đẩy quá trình QL DSVH đạt được những mục
tiêu đề ra và có các sản phẩm làm lợi cho chính cộng đồng và các bên liên quan.
47
Công ước 2003 và Luật Di sản văn hóa được đề cập ở trên cho ta thấy mối
quan hệ hữu cơ giữa QLNN về DSVH với vai trò của cộng đồng và các bên liên
quan khác trong QL DSVH. Đó là mối quan hệ chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ từ phía
QLNN về DSVH và sự phối hợp, thực hiện của cộng đồng và các bên liên quan
khác đối với thực hành DSVH của mình thông qua sự chỉ đạo bằng hệ thống văn
bản của Đảng, Nhà nước ban hành. Mối quan hệ hữu cơ này cũng được phân định
khá rõ ràng ở bảng dưới đây:
TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
Cấu trúc
CÁC NHÓM HỘI/TỔ CHỨC
TRONG CỘNG ĐỒNG
Không chính thức, luân phiên.
Hội viên quyết định phương thức
hoạt động và bầu ra ban điều
hành Chính thức, theo hệ thống cấp bậc,
được tổ chức để thực thi các nhiệm
vụ khác nhau. Bổ nhiệm, phân
công các ban điều hành, quản lý.
Tự nguyện, không có lương Có lương
Tự nguyện, dân chủ Hoạt động dựa trên các nguyên tắc,
quy định và hiệu lực
Các nghiên cứu, số liệu, điều tra Các câu chuyện, kinh nghiệm
thực tế
Trung gian hướng dẫn Quản lý, chuyên gia
Đồng thuận, bình đẳng Tập trung quyền kiểm soát vào
những người lãnh đạo
Công dân, thành viên Khách hàng, đối tượng thụ hưởng,
người tiêu dùng Hình thức
tham gia
Phương thức
hoạt động
Hình thức
truyền tải
thông tin
Vai trò
thành viên
Phương thức
phân quyền
Tập trung
đến người
dân như
Động lực
hành động Mong muốn thay đổi điều gì đó
tốt đẹp hơn, cải thiện tình hình
hiện tại Điều khoản quy định trong hợp
đồng lao động, sự phân công giao
trách nhiệm, sự thăng tiến trong
nghề nghiệp…
Bảng 1.1: Hai phương diện để xây dựng cộng đồng và sự khác biệt giữa chúng
(Nguồn: [83, tr.52])
NCS vận dụng cơ sở lý luận quản lý DSVH và lý thuyết các bên liên quan để
đưa ra khung phân tích lý thuyết của luận án trên hai phương diện chủ yếu là vai trò
của QLNN và quản lý của cộng đồng trong các hoạt động QL DSVH dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, cụ thể như sau:
48
DSVH
CÁC YẾU TỐ
TÁC ĐỘNG
Chỉ đạo, quản lý, hỗ trợ
QL CỦA
CỘNG ĐỒNG
Chủ trương, đường lối
của Đảng
Kinh tế và hội nhập
quốc tế
1. Chỉ đạo thực hiện chiến lược và
chính sách của Trung ương
1. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong
thực hành và hưởng thụ DSVH
2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn
bản quy phạm pháp luật về DSVH
Cơ chế, chính sách
3. Tổ chức hoạt động nghiệp vụ QL
DSVH dân tộc Sán Dìu
Tổ chức bộ máy
2. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong
việc trao truyền và sáng tạo DSVH
Nguồn lực
Các nhân tố văn hóa
3. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong
khai thác, sử dụng và phát huy DSVH
Xã hội hóa
4. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong
việc giới thiệu, quảng bá DSVH
QLNN
VỀ DSVH
Quyết định, phối hợp, thực hiện
4. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về DSVH
5. Tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa
học
6. Huy động và sử dụng các nguồn lực
để QL DSVH
7. Tổ chức việc động viên khen
thưởng
8. Thanh tra, kiểm tra, và xử lý vi
phạm pháp luật về DSVH
Khoa học công nghệ
và truyền thông
DSVH DÂN TỘC SÁN DIU
ĐƯỢC QL HIỆU QUẢ
Sơ đồ 2.1. Khung lý thuyết nghiên cứu QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
(Nguồn: NCS tổng hợp)
49
Trong nghiên cứu QL DSVH, việc vận dụng các quan điển QL DSVH và lý
thuyết các bên liên quan, nhằm xác định quyền và trách nhiệm của cơ quan QLNN về
DSVH và QL của cộng đồng. Trên cơ sở đó xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ cụ thể
của các bên trong quá trình quản lý. Phân tích vai trò các bên liên quan trong công tác
QL DSVH là cơ sở khoa học quan trọng để đánh giá và xác định được thực trạng công
tác QL DSVH, từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này.
Từ nhận định nêu trên, NCS vận dụng lý thuyết QL DSVH và lý thuyết các
bên liên quan nhằm biện giải các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn trong các hoạt
động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; mối
quan hệ hữu cơ giữa QLNN về DSVH và phát huy vai trò của cộng đồng trong
quá trình QL DSVH đã được phân tích về thực trạng ở chương 2 của luận án. Trên
cơ sở thực trạng đã nêu, căn cứ vào các văn bản pháp lý cũng như cơ sở thực tiễn
của hoạt động này, NCS vận dụng các vấn đề lí luận trên nhằm đề xuất một số giải
pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả QLNN về DSVH và phát huy vai trò QL
của cộng đồng trong các hoạt động QL DSVH của dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
Tiểu kết
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu các công trình về QL DSVH cũng như
các công trình nghiên cứu về dân tộc Sán Dìu và DSVH dân tộc Sán Dìu, có thể
thấy, đây là lĩnh vực nhận được nhiều sự quan tâm của các tổ chức nghiên cứu, nhà
quản lý và nhà khoa học. Các nghiên cứu được tổng quan tập trung trình bày những
quan điểm, giới thiệu và phân tích mối quan hệ giữa QL DSVH với các vấn đề
đương đại. Nhiều công trình tổng kết hoạt động quá trình QL DSVH của địa
phương. Bên cạnh đó, các học giả nước ngoài đã trình bày quan điểm và kinh
nghiệm QL DSVH của các quốc gia trong khu vực và quốc tế. Các công trình tổng
quan về dân tộc Sán Dìu và DSVH dân tộc Sán Dìu chủ yếu là mô tả dân tộc chí
theo phương pháp tiếp cận của ngành Văn hóa học, Nhân học và Dân tộc học…
Điều này, cho thấy chưa có công trình nào tiếp cận một cách hệ thống về vấn đề
50
QLNN về DSVH và thực trạng QL của cộng đồng trong BV&PH giá trị DSVH dân
tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn - đây là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu.
Từ những nhận định về cơ sở khoa học và căn cứ vào văn bản pháp lý quốc
tế và Việt Nam, luận án áp dụng khung lý thuyết phân tích về mối quan hệ giữa
QLNN về DSVH cũng như thực trạng quản lý của cộng đồng trong BV&PH giá trị
DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Từ đó, luận án
nhận diện những thuận lợi, khó khăn và thách thức trong QL DSVH dân tộc Sán
Dìu hiện nay gặp phải, nhằm đưa ra giải pháp phù hợp trong bối cảnh phát triển
năng động ở huyện đảo Vân Đồn.
51
Chương 2
DI SẢN VĂN HÓA VÀ QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA
DÂN TỘC SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
2.1.1. Giới thiệu chung về huyện đảo Vân Đồn
Huyện đảo Vân Đồn là một huyện hải đảo nằm ở phía Đông Nam của tỉnh
Quảng Ninh, được hợp thành bởi 02 quần đảo Cái Bầu và Vân Hải, có tọa độ địa lý
từ 20040’ đến 21012’ vĩ độ bắc và từ 107019’ đến 107042’ kinh độ đông [98, tr.91].
Huyện đảo Vân Đồn có vị trí tiếp giáp: phía Bắc và phía Đông Bắc giáp các
huyện: Tiên Yên, Đầm Hà; phía Đông Nam giáp huyện đảo Cô Tô, vịnh Bắc Bộ;
phía Tây giáp các thành phố: Cẩm Phả, Hạ Long và vịnh Hạ Long [PL 1, tr.176].
Vân Đồn có tổng diện tích 2.171,33km², trong đó diện tích đất tự nhiên là:
59.676 ha gồm trên 600 hòn đảo lớn nhỏ nằm trong vịnh Bái Tử Long, trong đó có
hơn 20 đảo đất có người cư trú. Đảo Cái Bầu có thị trấn Cái Rồng và 06 xã, với diện
tích rộng 303,26km² (chiếm 55%). Vùng đảo phía ngoài trải rộng 248,07km² (chiếm
45%) gồm 05 xã đảo [98, tr.91].
Huyện đảo Vân Đồn có 12 đơn vị hành chính, gồm thị trấn Cái Rồng (được
đặt là huyện lỵ) và 11 xã; trong đó có 06 xã bãi ngang thuộc đảo Cái Bầu: Đài
Xuyên, Bình Dân, Đoàn Kết, Vạn Yên, Hạ Long, Đông Xá; 05 xã tuyến đảo thuộc
quần đảo Hải Vân: Minh Châu, Quan Lạn, Bản Sen, Ngọc Vừng, Thắng Lợi với
79 thôn, khu phố. Vân Đồn cách thành phố Hạ Long khoảng 50km về phía Tây;
cách thành phố Móng Cái khoảng 100km về phía Đông; cách thành phố Hải
Phòng 80km và cách thủ đô Hà Nội 175km.
Dân số toàn huyện trên 4,6 vạn người, có 14 thành phần dân tộc cùng sinh
sống, trong đó: dân tộc Kinh chiếm đa số, còn lại 13 thành phần DTTS với trên
6.600 người, chiếm 14,39% dân số toàn huyện, gồm các DTTS: Sán Dìu, Hoa, Dao,
Tày, Nùng, Mường, Thái, Giáy, Sán Chay, Mông, Raglay, Tà Ôi, Pu Péo. Các xã có
số lượng thành phần DTTS tập trung đông chủ yếu ở các xã: Bình Dân, Đoàn Kết,
Đông Xá, Vạn Yên, Đài Xuyên.
52
2.1.2. Dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
Dân tộc Sán Dìu tự nhận là Sơn Diêu nhân “Dzan Déo nhin, 山遥人”. Địa vực
cư trú chủ yếu của dân tộc Sán Dìu, từ phía tả ngạn sông Hồng cho đến các tỉnh
trung du ở khu vực miền núi phía Bắc. Dân tộc Sán Dìu có mặt ở các vùng đồi núi
thấp, các triền núi hay địa hình bán sơn địa.
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01/4/2019, thành phần
dân tộc Sán Dìu ở Quảng Ninh có 20,668 người, chiếm 1.57% dân số toàn tỉnh,
cư trú tại 14/14 huyện, thị xã, thành phố, trong đó có 04 thành phố, 02 thị xã và
08 huyện [PL 2.1, tr.178]. Dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn có 4.892 người
chiếm 10.66% so với dân số toàn huyện, đứng thứ hai sau dân tộc Kinh và sinh
sống tại các xã: Đông Xá, Hạ Long, Bình Dân, Đoàn Kết, trong đó, đông nhất tại xã
Bình Dân với 1.401 người, chiếm tới 95% dân số trên toàn xã. Nơi đây là một trong
những nơi cư trú đầu tiên của dân tộc Sán Dìu khi di cư vào Việt Nam [PL 2.2, tr.179].
2.1.3. Di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
DSVH gồm nhiều thành tố của văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Tuy
nhiên, trong phạm vi nội dung của luận án, NCS lựa chọn di tích lịch sử - văn hóa
(loại hình DSVH vật thể); lễ hội Đại phan và Soọng cô (loại hình DSVH phi vật thể)
là những thành tố liên quan mật thiết trong đời sống văn hóa của dân tộc Sán Dìu từ
truyền thống đến hiện đại. Trong đời sống hiện nay, các thành tố văn hóa đó đã có
những biến đổi nhất định cần được nghiên cứu, phân tích để có những giải pháp phù
hợp góp phần BV&PH giá trị DSVH của dân tộc Sán Dìu trong đời sống đương đại.
- Di tích lịch sử - văn hóa
Âm Sán Dìu Ý lời ca
Soọng théo sếnh cô hô thếnh thoóng Hát tình ca ca ngợi đình làng
Lếnh sín bảo tạch ngoi son hoeng Linh thiêng phù hộ quê hương ta
Lếnh sín bảo tạch son hoeng hảo Linh thiêng phù hộ làng xóm tốt
Son thói son my bảo pếnh on Đầu làng cuối xóm được bình an1
Xã Bình Dân có 04 miếu, trong đó có 01 miếu Tổ tại trung tâm xã, được đặt
1Theo lời của ông Từ Văn Lâm, thôn Vòng Tre, xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
tại thôn Vòng Tre do xã quản lý và đã được đầu tư xây dựng khu thờ cúng trong năm
53
2020, còn lại các miếu khác do thôn quản lý. Theo truyền thuyết của địa phương, đây
là các ngôi miếu cổ có từ lâu đời gắn liền với sự hình thành và phát triển của dân tộc
Sán Dìu ở Bình Dân. Miếu Tổ thờ Thành Hoàng là vị thần được tôn thờ chính trong
ngôi Miếu của làng. Ba ngôi miếu còn lại được thờ ở các thôn (Đồng Cống, Đống Đá,
Đầm Tròn) các vị thần được thờ tự chủ yếu là thờ thổ thần, sơn thần, thủy thần, các vị
tổ tiên dòng họ có công khai hoang lập làng của cộng đồng dân tộc Sán Dìu tại huyện
đảo Vân Đồn. Tuy nhiên, do thiên tai và chiến tranh nên trong nhân dân đã mất hết
các thư tịch cổ ghi chép về nguồn gốc lịch sử của Miếu. Phong tục thờ cúng các vị
thần linh theo nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng cộng đồng. Các thôn làng của dân tộc
Sán Dìu thờ hệ thống thần linh của cộng đồng thôn làng, miếu thờ các vị thượng đẳng
thần như: Đương Cảnh thành hoàng, Cao Sơn đại vương, Sơn thần, Thổ thần, Thủy
thần, Thành hoàng làng tại miếu. Với quan niệm “Đất có thổ công, sông có hà bá”,
mỗi xóm thôn đều có miếu thờ thần.
Về kiến trúc, các miếu thường được đặt ở trung tâm xã hoặc thôn nơi đất
thắng cảnh và trên gò cao, xung quanh miếu có nhiều cây cổ thụ. Các miếu được
người dân phát tâm, xây dựng xây dựng và khá đơn sơ chỉ xây gạch mộc, lợp gói
xi măng, không có cửa, chỉ có miếu thành hoàng ở xã mới được đầu tư xây dựng
với quy mô nhỏ. Không gian thờ tự của các miếu cũng chỉ có các bát hương không
có hoành phi, câu đối, bát bửu… Hiện trạng di tích đang xuống cấp trầm trọng vì
chưa có kế hoạch trùng tu tôn tạo. Các miếu cũng chưa được chính quyền lập hồ
sơ xếp hạng di tích.
- Lễ hội Đại phan (Tả Thai phan, 打大番)
Lễ hội Đại phan là hệ thống tích hợp tín ngưỡng lớn nhất của dân tộc Sán
Dìu. Với nội dung cốt lõi là cầu an, cầu siêu cho cả thế giới trần gian và địa ngục
muốn thoái khỏi cảnh trầm luôn khổ đau với lực lượng siêu nhiên chứng minh sự
hóa giải của tam giới. Đại phan là sợi dây gắn kết cộng đồng trong một việc lớn của
làng, của vùng. Mục đích là cầu bình an cho con người không bị cảnh chết chóc
tang thương bởi nghịch cảnh; cầu mùa màng tốt tươi không bị thiên tai địch họa;
cầu siêu độ thế cho các cô hồn, ác quỷ còn vương vấn, quấy quả xóm làng, cầu siêu
cho các vong hồn được siêu thoát về miền Tây phương cực lạc. Bên cạnh đó, các
54
nghi lễ cấp sắc cho cá nhân muốn làm thầy cúng hay tấn phong lên cấp cũng được
tiến hành trong lễ hội này. Các làn điệu dân ca cũng được diễn xướng lên bởi những
nhóm người dân tham gia lễ hội; các trò chơi dân gian của các thanh niên hay em
nhỏ cũng được tổ chức… Tất cả các giá trị đó đã làm lên lễ hội Đại phan đậm bản
sắc dân tộc Sán Dìu.
Lễ Đại phan là biểu tượng giá trị tâm linh kết nối thế giới thần linh (Phật,
thánh, thần) với thế giới trần gian thông qua cây Phan lớn nhất của đại lễ. Phật,
thánh, thần giáng thế trần gian từ ngọn phan vào tới lễ đàn. Lễ hội được tổ chức 5-7
ngày với sự hiện diện của thầy cúng cao tay với các chức danh trong lễ đàn gồm: 1.
Thông dẫn sư 通引師; 2. Tấu điệp sư 奏牒師; 3. Tấu cáo sư 奏誥師; 4. Chứng
大番師; 8. Giám độ sư 監度師; 9. Chủ trì sư 主持師 cùng sự tham gia của hàng
minh sư 證明師; 5. Bảo cử sư 保舉師; 6. Bỉnh chân sư 秉真師; 7. Đại phan sư
nghìn người dân... [PL 3.1, tr.180-181].
- Soọng cô
Dân tộc Sán Dìu ở Vân Đồn vốn có tính cần cù, chăm chỉ trong lao động, say
sưa trong hoạt động vui chơi giải trí. Cộng đồng đã sáng tạo ra nhiều loại hình giải
trí như: các làn điệu dân ca, truyện kể dân gian, ca dao, tục ngữ,... Trong quá
trình lao động sản xuất, cộng đồng thường ứng khẩu thành thơ ca, hát đối với nhau
để xua tan những vất vả, nhọc nhằn, những âu lo của cuộc sống, hướng đến niềm
vui trong cuộc sống giản dị.
Các làn điệu Soọng cô đã đi vào tâm khảm của mỗi người tự lúc nào không
hay. Chỉ biết các em nhỏ đã tập theo các anh chị những câu hát mượt mà, thắm tình
quê hương đất nước. Những cụ già mỗi khi được nghe Soọng cô lại thấy bao kỷ
niệm của tuổi thanh xuân ùa về.
Soọng cô là lối hát dân gian truyền thống của dân tộc Sán Dìu, được hát theo
lối cố định, bài bản, từ một bài gốc mà tùy theo hoàn cảnh của buổi hát sẽ có ứng
tác cho phù hợp “ịt théo cô, pạc théo mị”. Theo chữ Nôm - Sán Dìu, Soọng cô
“唱歌”, nghĩa là xướng ca (ca hát). Cộng đồng có tích truyện cổ kể về nguồn gốc
Soọng cô gắn liền với bà chúa thơ Lưu Tam Muội [PL 3.2, tr.182-186].
55
Soọng cô được lưu truyền bằng hai hình thức: truyền khẩu và ghi lại bằng
chữ Nôm - Sán Dìu. Trong đó, hình thức truyền khẩu Soọng cô là chủ yếu, vì
trong cộng đồng, hình thức này ai cũng có thể tiếp nhận được, từ già đến trẻ, từ
nam đến nữ, người biết chữ và không biết chữ đều có thể tập hát, người biết
nhiều dạy người biết ít, người biết ít dạy người chưa biết. Hình thức ghi lại bằng
chữ Nôm - Sán Dìu chỉ có trong một bộ phận nhỏ những người biết chữ, chủ yếu
là thầy cúng.
Trước tiên phải nói rằng Soọng cô là lối hát có tính cộng đồng cao, được
thể hiện qua đối đáp giữa chủ và khách, giữa làng này với làng kia, giữa nam và
nữ… Môi trường diễn xướng khá tự do, đa dạng cả về không gian và thời gian
như: trong lễ hội, bên suối, trên rừng, dưới nương, mừng nhà mới, đám cưới, đi
chơi làng…
Nội dung của Soọng cô rất phong phú, đề cập đến tình yêu quê hương, đất
nước, tình yêu đôi lứa, ca ngợi trong lao động, ướm hỏi tỏ tình, thăm hỏi gia đình…
Tất cả đều mượn những ca từ mộc mạc, giản dị nhưng ý nhị, tình tứ, mượt mà và
khéo léo trong từng câu ca [PL 3.3, tr.186-193].
Các bài hát Soọng cô theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, mỗi câu bảy chữ, mỗi
đoạn bốn câu. Tuy nhiên, cũng có một số lượng lớn các bài Soọng cô có bốn câu
nhưng câu đầu ba chữ, ba câu sau bảy chữ. Giai điệu trong Soọng cô có hai lối hát:
hát ngân hay hát du (ếnh cô), là cách hát sử dụng trường hơi cao nhất với nhiều
âm luyến láy, tạo nên sự kéo dài về trường độ. Hát cộc hay hát nói (coóng cô) là
cách hát đi thẳng vào lời ca, âm luyến láy và trường độ ở mức vừa.
Thang âm điệu thức của Soọng cô có 5 âm, dựa trên loại thang âm 4 và thang
âm 5. Nhịp trong Soọng cô ổn định về trường độ, thường sử dụng nhịp 2/4 hay 4/4
và có khi là nhịp tự do. Trong khi diễn xướng, để lời ca được mềm mại, mượt mà,
dân tộc Sán Dìu đệm thêm những từ: ơ, ớ, ờ… và được đặt ở những cao độ khác
nhau. Âm vực khi hát không quá lớn, nhịp điệu đều đều, độ trầm bổng không cao.
Đây chính là đặc trưng riêng để làm nên chất nhạc của làn điệu Soọng cô Sán Dìu.
56
2.2. Thực trạng quản lý Nhà nước về di sản văn hóa ở huyện đảo Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về di sản văn hóa tại tỉnh Quảng
Ninh và huyện đảo Vân Đồn
Theo Điều 55 của Luật Di sản văn hóa quy định:
(1) Chính phủ thống nhất QLNN về DSVH. (2) Bộ Văn hoá - Thông tin
chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về DSVH. (3) Các
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm QLNN
về DSVH. theo phân công của Chính phủ. Chính phủ quy định cụ thể
trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
trong việc phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin để thực hiện thống nhất
QLNN về DSVH. (4) Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ
và quyền hạn của mình thực hiện việc QLNN về DSVH.ở địa phương
theo phân cấp của Chính phủ [85].
Do vậy, tổ chức bộ máy QLNN về DSVH ở tỉnh Quảng Ninh được phân
thành ba cấp, cụ thể như sau:
Cấp tỉnh: tại kỳ họp thứ 23, ngày 08/4/2016 của HĐND tỉnh nhiệm kỳ 2011-
2016, đại biểu HĐND tỉnh Quảng Ninh đã thông qua Nghị quyết thành lập Sở Du
lịch và kiện toàn Sở VH,TT&DL thành Sở VH&TT. Ngày 28/4/2016, UBND tỉnh
ban hành Quyết định số 1271/QĐ-UBND về việc kiện toàn Sở VH,TT&DL thành
Sở VH&TT tỉnh Quảng Ninh và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu
tổ chức bộ máy của Sở VH&TT tỉnh Quảng Ninh.
Theo đó, Sở VH&TT là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh; thực hiện
chức năng QLNN về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và quảng cáo trên địa bàn
tỉnh theo quy định của pháp luật. Sở VH&TT chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức,
biên chế và hoạt động của UBND tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra, thanh tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ VH,TT&DL [126]. Sở
VH&TT tỉnh Quảng Ninh có nhiệm vụ và quyền hạn về QLNN về DSVH [PL 7.2,
tr.213-214]. Trong cơ cấu tổ chức của Sở VH&TT có Phòng Quản lý Di sản là
57
đơn vị chuyên môn có chức năng tham mưu giúp Giám đốc Sở thực hiện QLNN
về nghiệp vụ Di sản [PL 7.3, tr.214-215]. Như vậy, từ năm 2016 đến nay, các hoạt
động QLNN về DSVH ở tỉnh Quảng Ninh được đặt trong phạm vi quyền hạn của
Sở VH&TT tỉnh Quảng Ninh.
- Cấp huyện: Phòng Văn hoá và Thông tin chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp
từ UBND cấp huyện về tổ chức, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức, vị trí
việc làm, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ
của Sở VH&TT, Sở Du lịch, Sở Thông tin và Truyền thông. Phòng Văn hoá và
Thông tin là cơ quan chuyên môn thuộc UNBD cấp huyện; thực hiện chức năng
tham mưu, giúp UBND cấp huyện QLNN về văn hoá, gia đình, thể thao, du lịch và
quảng cáo [PL 7.4, tr.215-217].
- Cấp xã: Nhiệm vụ QLNN về văn hóa nói chung và DSVH nói riêng được
quy định chung trong chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn tại chính quyền cơ sở.
Theo đó, chính quyền cấp xã có Ban Văn hóa - Xã hội chịu trách nhiệm tham mưu
trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, thông tin, thể dục, thể thao và các
chính sách dân tộc, tôn giáo tại địa phương. “UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức
bảo vệ cấp thiết DSVH; tiếp nhận những khai báo về DSVH để chuyển lên cấp trên;
kiến nghị về xếp hạng di tích; phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời hành vi làm ảnh
hưởng đến an toàn của DSVH; ngăn chặn và xử lý các hoạt động mê tín dị đoan
theo thẩm quyền” [68, tr.297].
2.2.2. Thực trạng nguồn nhân lực quản lý Nhà nước về di sản văn hóa tại
tỉnh Quảng Ninh và huyện đảo Vân Đồn
Nguồn nhân lực QLNN về DSVH ở cấp tỉnh là Sở VH&TT, lãnh đạo Sở
gồm: 01 Giám đốc có nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo chung về công tác văn hóa và
DSVH; 01 Phó Giám đốc trực tiếp phụ trách QLNN về DSVH trên địa bàn tỉnh.
Nhân lực Phòng Quản lý Di sản hiện nay có 02 Phó phòng, trong đó có Phó phòng
phụ trách có trình độ chuyên môn thạc sĩ Quản lý Văn hóa và 01 Phó phòng có trình
độ chuyên môn cử nhân Xã hội học, cử nhân Tôn giáo và 03 chuyên viên có trình
độ cử nhân văn hóa.
58
Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Vân Đồn có 11 cán bộ, công chức trong
đó có 08/11 người có trình độ Đại học, 03/11 người có trình độ Thạc sĩ. Về nhiệm
vụ của lãnh đạo và công chức Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Vân Đồn: Trưởng
phòng phụ trách chung toàn cơ quan, chịu trách nhiệm trước Huyện ủy, HĐND,
UBND huyện và ngành dọc cấp trên về việc tham mưu trong quản lý và chỉ đạo các
hoạt động về văn hoá, gia đình, thể dục thể thao, du lịch,… ; Phó Trưởng phòng phụ
trách công tác Quản lý DSVH, di tích danh thắng, văn hóa dân tộc; Phó Trưởng
phòng phụ trách lĩnh vực thể dục thể thao.
Với nguồn nhân lực đó, trong những năm qua, Sở VH&TT tỉnh Quảng Ninh
đã chỉ đạo Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Vân Đồn triển khai các hoạt động
QL DSVH các dân tộc trên toàn huyện nói chung, DSVH dân tộc Sán Dìu nói riêng.
Thực tiễn quản lý văn hóa cho thấy trong giai đoạn hiện nay công tác bảo tồn và
phát huy giá trị DSVH trên địa bàn huyện đang gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Một trong những khó khăn dễ nhận thấy là đội ngũ công chức Phòng Văn hóa -
Thông tin huyện Vân Đồn vừa thiếu lại vừa yếu. Thiếu do cán bộ bị luân chuyển
liên tục như trường hợp ông Hồ Anh Tuấn, Phó Trưởng phòng phụ trách lĩnh vực
QLNN về DSVH vào tháng 5/2020, được điều chuyển về nhận công tác tại Trung
tâm Chính trị của huyện và phân công ông Lương Văn Bằng, Phó Trưởng phòng
phụ trách lĩnh vực thể thao kiêm thêm nhiệm vụ QLNN về DSVH; yếu do các cán
bộ chưa được đào tạo đúng chuyên ngành, một lúc kiêm nhiều nhiệm vụ khác nhau
và vị trí việc làm cũng thường xuyên thay đổi.
Ở cấp xã: có 01 Phó Chủ tịch UBND xã trực tiếp phụ trách chỉ đạo công tác
văn hóa - xã hội, trong đó có nhiệm vụ QLNN về DSVH trên địa bàn xã; giúp việc
cho lãnh đạo xã về công tác triển khai thực hiện chính sách văn hóa có 01 công
chức phụ trách lĩnh vực văn hoá - xã hội.
2.2.3. Hoạt động quản lý Nhà nước về di sản văn hóa ở huyện đảo Vân Đồn
2.2.3.1. Chỉ đạo thực hiện chiến lược và chính sách của Trung ương
Trong quá trình QLNN về DSVH, Đảng bộ và Chính quyền các cấp tỉnh
Quảng Ninh, trong đó có huyện Vân Đồn đã chỉ đạo, thực hiện dựa trên các quy
định của Luật Di sản văn hóa (số 28/2001/QH10) và Luật sửa đổi bổ sung một số
59
điều của Luật Di sản văn hóa (số 32/2009/QH12). Luật Di sản văn hóa quy định
đầy đủ, chi tiết các nội dung về QL DSVH vật thể và phi vật thể, các quy định về
QLNN về DSVH; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với DSVH… Đây là
những căn cứ quan trọng để tỉnh Quảng Ninh và huyện Vân Đồn thực thi các chính
sách QL DSVH tại địa phương.
Tuy nhiên, Luật Di sản văn hóa được hiện thực hóa trong quá trình chỉ đạo,
triển khai thực hiện, tỉnh Quảng Ninh đã căn cứ vào các văn bản hướng dẫn thi
hành như áp dụng Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ về
Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và luật sửa đổi, bổ
sung năm 2009 được cụ thể hóa tại điều 3 của Nghị định số 98/2010/NĐ-CP [PL
7.5, tr.217]. Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Ninh cũng đã thực hiện Chiến lược Phát
triển văn hoá đến năm 2020 [PL 7.6, tr.218] trong xây dựng quy hoạch tổng thể
QL DSVH trên địa bàn tỉnh; thực hiện các chính sách được quy định tại Nghị định
số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về Công tác dân tộc, cụ thể tại điều 13 quy
định chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa được thể hiệnnhiệm vụ chính là xây
dựng, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia để bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống; hỗ trợ việc đầu tư, giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa
DTTS [PL 7.7, tr.218-219]; Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 về Phê
duyệt Đề án Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020 với
mục tiêu tổng quát và 10 nhiệm vụ trọng tâm với nội dung cơ bản là huy động sức
mạnh của toàn xã hội nhằm phát triển văn hóa dân tộc; phát huy vai trò của các
chủ thể văn hóa; tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và khích lệ sáng
tạo các giá trị văn hóa mới; tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa
các hoạt động văn hóa [PL 7.8, tr.219-220].
Ngoài ra, tỉnh Quảng Ninh nói chung và huyện Vân Đồn nói riêng còn tổ
chức chỉ đạo, thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực QL
DSVH như: Quyết định số 2356/QĐ-TTg ngày 04/12/2013 của Thủ tướng Chính
phủ về việc Ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân
tộc đến năm 2020 [PL 7.9, tr.220]; Quyết định số 2493/QĐ-TTg ngày 22/12/2016
của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án Kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng
60
bày, tuyên truyền DSVH truyền thống điển hình của các DTTS Việt Nam, giai đoạn
2017-2020 [PL 7.10, tr.221].
Huyện đảo Vân Đồn đã chú trọng phát triển KT-XH gắn liền với QL DSVH.
Vì vậy, việc thực hiện Quyết định số 2723/QĐ-BVHTTDL, ngày 03/8/2016 của Bộ
VH,TT&DL về việc phê duyệt dự án Gắn kết phát triển kinh tế và bảo tồn, phát
triển văn hóa các DTTS đã được huyện Vân Đồn quan tâm chỉ đạo, thực hiện. Bên
cạnh việc chú trọng phát triển KT-XH bằng việc khai thác nguồn nội lực văn hóa của địa
phương. Huyện Vân Đồn đã quan tâm thực hiện các mục tiêu về nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân trong các phong trào xây dựng nông thôn mới; xây dựng nếp
sống văn minh trong tiệc cưới, tang lễ và lễ hội.
Vân Đồn là địa phương có vị thế địa chính trị, kinh tế - xã hội và quốc phòng
- an ninh đặc biệt quan trọng trong nước và quốc tế. Vân Đồn nằm trên đường trung
chuyển chiến lược từ khu vực Đông Á xuống Đông Nam Á, ASEAN - Trung Quốc,
giữ vai trò quan trong trong quy hoạch phát triển vành đai kinh tế ven biển Vịnh
Bắc bộ, tam giác phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và trong chuỗi đô thị
quan trọng của vùng đồng bằng sông Hồng. Với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng
đó, Vân Đồn đã được Trung ương chú trọng quy hoạch phát triển qua từng giai đoạn
như: Quyết định số 2622/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc
Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030; Quyết định số 1856/QĐ-TTg ngày 27/12/2018 của Thủ tướng
Chính phủ về việc Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH KKT Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 232/QĐ-TTg ngày
26/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt nhiệm vụ điều chỉnh quy hoạch
chung xây dựng KKT Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2040, tầm nhìn đến năm
2050 và thành lập Ban Quản lý KKT Vân Đồn trực thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh theo
Quyết định số 544/QĐ-TTg ngày 21/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ.
Chính vì vậy, huyện đảo Vân Đồn là một trong ba địa phương cùng với Bắc
Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang) có tốc độ phát triển KT-XH
cao cùng với việc thực hiện nhiều khâu đột phá chiến lược, trong đó phải nói đến là
lập quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH và các quy hoạch ngành, địa phương. Để
có tầm nhìn chiến lược, tỉnh Quảng Ninh đã mời các tổ chức hàng đầu về lập quy
61
hoạch như Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2050 và ngoài 2050 do tổ chức Nikken Sekkel Civil Engineering LTD tư vấn.
Trong đó đáng chú ý quy hoạch tiểu vùng KKT Vân Đồn là khu hành chính kinh tế
với không gian phát triển về du lịch - dịch vụ, phát huy lợi thế của vùng về di tích
lịch sử văn hóa và phát triển văn hóa du lịch thông qua việc phát huy các DSVH các
DTTS, đặc biệt là các di sản của dân tộc Sán Dìu thông qua các hoạt động về tham
quan du lịch và trải nghiệm các loại hình văn hóa truyền thống.
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH huyện Vân Đồn đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030 do UBND huyện Vân Đồn làm chủ đầu tư và Trung tâm Tư
vấn phát triển và Đào tạo tư vấn đến năm 2030, Vân Đồn được xây dựng thành khu
vực phát triển KT-XH năng động để thu hút mạnh đầu tư và làm động lực thúc đẩy
sự phát triển KT-XH tỉnh Quảng Ninh, địa phương được đánh giá là vùng kinh tế
trọng điểm ở khu vực phía Bắc. Du lịch là ngành phát triển kinh tế trọng điểm của
Vân Đồn, đảm trách vai trò trung tâm trong định hướng phát triển với các loại hình
du lịch sinh thái biển, du lịch thể thao, vui chơi giải trí biển, du lịch gắn với nông
nghiệp và du lịch văn hóa,.... Loại hình du lịch văn hóa nhằm vào việc khai thác các
tiềm năng, thế mạnh về các giá trị văn hóa truyền thống để phát triển thành sản
phẩm du lịch như: lễ hội Đại phan; tục cưới xin, lễ sinh nhật, loại hình Soọng cô
hay chương trình tham quan làng bản của dân tộc Sán Dìu. Đây là loại hình du lịch
đặc sắc khi du khách đến Vân Đồn. Ngoài việc sử dụng dịch vụ cao cấp mang đẳng
cấp quốc tế, du khách còn được thăm quan, thưởng thức giá trị văn hóa đặc sắc của
dân tộc Sán Dìu được diễn ra ngay trong những khu dân cư sinh sống đông đúc và
lâu đời tại Vân Đồn.
2.2.3.2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản pháp luật về di sản văn hóa
Tỉnh Quảng Ninh nói chung và huyện Vân Đồn nói riêng đã xây dựng, ban
hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về DSVH, cụ thể như sau:
Cấp tỉnh: UBND tỉnh Quảng Ninh quan tâm đến công tác QL DSVH trong
việc chỉ đạo, điều hành phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển sự
nghiệp văn hóa - thông tin Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020
[141]. Để có căn cứ triển khai lập quy hoạch, UBND tỉnh Quảng Ninh quyết định
phê duyệt Đề cương và kinh phí Dự án lập Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa
62
DTTS tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 [142]. Năm
2007, UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch Bảo tồn và phát
triển văn hóa các DTTS tỉnh Quảng Ninh và giao Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Sở
VH&TT) làm chủ đầu tư lập quy hoạch đối với các DTTS có số dân trên 10.000
người (tính đến thời điểm ngày 31/10/2006) gồm các dân tộc: Dao; Tày; Sán Dìu;
Sán Chay. Những DTTS được UBND tỉnh chỉ đạo tập trung nghiên cứu toàn diện
văn hóa truyền thống với số lượng dân số tương đối lớn và sinh sống tập trung
thành cộng đồng làng bản. Các DTTS còn lại có số dân ít hơn và cư trú rải rác ở các
địa phương trong tỉnh thì tiến hành nghiên cứu những giá trị văn hóa dân tộc đặc sắc
hoặc có nguy cơ mai một cao để lập quy hoạch bảo tồn và phát triển mà không
nghiên cứu toàn diện.
Theo Quyết định số 4071/QĐ-UBND ngày 01/11/2007, dân tộc Sán Dìu được
của UBND tỉnh Quảng Ninh cho phép thực hiện việc bảo tồn văn hóa với những nội
dung cơ bản, gồm: bảo tồn và phát triển các giá trị DSVH vật thể như kiến trúc, nhà
ở, trang phục, công cụ lao động sản xuất, nhạc cụ, khí cụ và các đồ gốm xứ truyền
thống; bảo tồn và phát triển các giá trị DSVH phi vật thể như bảo tồn và lưu giữ các
loại hình văn học - nghệ thuật dân gian, phong tục tập quán, lễ hội dân gian; bảo tồn
và phát triển các nghề thủ công truyền thống; bảo tồn, phát huy và phát triển các tri
thức dân gian, văn hóa ẩm thực. Trung tâm văn hóa dân tộc Sán Dìu (xã Bình Dân,
huyện Vân Đồn) cũng được xây dựng nhằm bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc gắn
với phát triển kinh tế du lịch và phát triển đời sống người dân trong vùng [125].
Nguồn kinh phí thực hiện Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các dân
tộc thiểu số tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 theo
Quyết định số 4071/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 được thực hiện từ nguồn ngân
sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội với tổng nhu cầu kinh phí là
129.650.000.000 đồng, gồm các hợp phần:
Nhu cầu
Phân kỳ
kinh phí
Nguồn
TT
Nội dung
thực hiện
(triệu
kinh phí
đồng)
Điều tra khảo sát đánh giá thực trạng
1
2008-2010
500
- Ngân sách
văn hóa các DTTS Quảng Ninh để có
63
giải pháp bảo tồn và phát huy
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn
- Ngân sách
2
2008-2015
30.000
hóa vật thể
- Xã hội hóa
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn
- Ngân sách
3
2008-2015
3000
hóa vật thể
- Xã hội hóa
Các dự án đầu tư điều tra sưu tầm
- Ngân sách
4
2007-2020
nghiên cứu các giá trị DSVH các
69.500
- Xã hội hóa
DTTS tỉnh Quảng Ninh
Phát triển sự nghiệp văn hóa thông tin,
- Ngân sách
5
2007-2020
nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho
26.650
- Xã hội hóa
nhân dân các DTTS
Tổng
129.650
Bảng 2.1: Nguồn kinh phí thực hiện Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các
dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020
(Nguồn: Quyết định số 4071/QĐ-UBND)
Trong 05 nội dung nêu trên, ngoài nhiệm vụ chung về QL DSVH các DTTS
tỉnh Quảng Ninh, có thể nhận thấy kết quả các nhiệm vụ về QL DSVH dân tộc Sán
Dìu như dự án điều tra, sưu tầm, nghiên cứu về văn hóa dân gian truyền thống dân
tộc Sán Dìu ở Quảng Ninh đã được thực hiện trong 02 năm (2007-2008) với tổng
nguồn ngân sách là 500.000.000 đồng. Theo kế hoạch trong giai đoạn năm 2009-
2012 sẽ triển khai thực hiện dự án bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Sán Dìu ở
xã Bình Dân, huyện Vân Đồn với tổng kinh phí là 7.000.000.000 đồng từ nguồn
ngân sách và xã hội hóa, nhưng cho đến nay vẫn chưa thực hiện được.
Hộp 2.1. Lý giải về việc chậm trễ triển khai dự án bảo tồn
và phát triển văn hóa dân tộc Sán Dìu ở xã Bình Dân, huyện Vân Đồn
Việc thực hiện dự án điều tra, sưu tầm, nghiên cứu về văn hóa dân gian truyền
thống của người Sán Dìu ở Quảng Ninh đã giúp chính quyền từ tỉnh đến xã, đặc
biệt cộng đồng nhận diện được các giá trị văn hóa cổ truyền của người Sán Dìu,
để từ đó có những giải pháp QL được hiệu quả hơn. Dự án bảo tồn và phát triển
văn hóa dân tộc Sán Dìu xã Bình Dân, huyện Vân Đồn chưa bố trí được nguồn
64
lực nên chưa triển khai nhiệm vụ này.
(Nam, tuổi 62, thành phố Hạ Long, PVS tháng 5/2018)
QL DSVH DTTS, trong đó có dân tộc Sán Dìu, được cấp ủy, chính quyền
quan tâm thực hiện trong Đề án Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân
tộc trong sự nghiệp phát triển KT-XH nhanh, bền vững gắn với bảo vệ vững chắc
quốc phòng - an ninh tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
Từ đề án Tỉnh ủy Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày
29/5/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Quyết định số 1988/QĐ-UBND ngày
07/8/2013 của UBND tỉnh Quảng Ninh, theo đó nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về QL
DSVH dân tộc, gồm:
Tăng cường đầu tư phát triển văn hóa, thể thao và du lịch ở vùng DTTS;
khuyến khích phát triển các môn thể thao dân tộc; tiếp tục hoàn thiện hệ thống thiết
chế văn hóa cộng đồng; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các
DTTS; nghiên cứu xây dựng Đề án thành lập các làng dân tộc (Làng dân tộc Dao
Thanh Phán và Dao Thanh Y ở huyện Hoành Bồ, làng dân tộc Tày ở huyện Bình
Liêu, làng dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn, làng dân tộc Sán Chay ở huyện Ba
Chẽ) [PL 7.12, tr.221-222].
Trong công tác chỉ đạo thực hiện chủ trương của Đảng về QL DSVH,
UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 2994/KH-UBND ngày 08/10/2015 về
việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình hành động của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW (khóa XI) về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước. Mục tiêu của Quyết định số 2994/KH-UBND ngày 08/10/2015
đã nêu rõ: “Xây dựng con người Quảng Ninh phát triển toàn diện, hướng đến
chân - thiện- mỹ, mang tính đặc trưng tinh hoa văn hóa dân tộc kết hợp với
những yếu tố tốt đẹp của thời đại”, trong đó mục tiêu cụ thể của “công tác bảo
tồn và phát huy DSVH: Đầu tư bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, di
65
tích cánh mạng đạt chất lượng về khoa học, phục vụ giáo dục truyền thống và
phát triển kinh tế du lịch” [PL 7.13, tr.222]
Nhằm tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện về QL DSVH, Tỉnh ủy
Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 09/3/2018 của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng
Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững [PL 7.11, tr.221]. Theo đó, UBND
tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Chương trình hành động số 105/CTr-UBND ngày
02/8/2018 về triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững. Nhiệm vụ cụ thể gồm:
Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách của tỉnh trong việc bảo tồn và
phát triển văn hóa nhằm phát huy giá trị đặc sắc về văn hóa các dân tộc;
thông qua sự gắn kết giữa văn hóa và du lịch để những giá trị đặc sắc trở
thành nguồn lực, sức mạnh thúc đẩy sự phát triển trong đó xây dựng một
số thôn, làng, bản trở thành “bảo tàng sống” nhằm bảo tồn, phát huy bản
sắc văn hóa truyền thống đặc sắc trong tỉnh và trở thành sản phẩm du lịch
độc đáo để thu hút du khách [127].
Tại công văn chỉ đạo số 1859/UBND-TM4 ngày 26/3/2019 của UBND tỉnh
Quảng Ninh về việc xây dựng Đề án thành lập các Làng DTTS của tỉnh với nhiệm
vụ bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đặc trưng của các dân tộc, tạo sinh kế và
phát triển bền vững, cung cấp sản phẩm du lịch cho khách trong và ngoài nước;
phát huy tinh thần, trách nhiệm, ý thức tự giác tham gia xây dựng làng DTTS của
chính người dân; vận động, tranh thủ nguồn lực xã hội trong quá trình xây dựng
các làng dân tộc; xây dựng Đề án gắn với xây dựng chính sách hỗ trợ du lịch cộng
đồng. Công văn nêu trên có nội dung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ đặt ra trong các
nghị quyết, quyết định và chương trình hành động của Tỉnh ủy và UBND tỉnh
Quảng Ninh về công tác QL DSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh, trong đó dân tộc
Sán Dìu tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn được chọn là nơi xây dựng làng DTTS.
66
Cấp huyện: Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Ban Thường vụ Huyện ủy đã
ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo về phát triển
KT-XH, phát triển văn hóa, xây dựng Nông thôn mới và bảo đảm quốc phòng -
an ninh, trong đó nhiều nội dung tập trung ưu tiên cho phát triển KT-XH, bảo
đảm an ninh chính trị, an toàn xã hội và nâng cao đời sống nhân dân vùng DTTS.
Những văn bản này cũng chỉ đạo các cơ quan, ban ngành, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể triển khai thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động gắn với
thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động.
Công tác QL DSVH được quan tâm thực hiện thông qua việc giữ gìn và phát
huy giá trị các lễ hội, các di tích, danh thắng... HĐND huyện đã xây dựng và ban
hành Nghị quyết số 105/NQ-HĐND ngày 20/12/2019 về việc Thông qua Đề án Bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân
Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2020-2022. Thực hiện Nghị quyết số 105/NQ-
HĐND ngày 20/12/2019, UBND huyện Vân Đồn đã ban hành Quyết định số
2427/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 và Kế hoạch số 1517/KH-UBND ngày 29/6/2020
về triển khai thực hiện Nghị quyết nêu trên với mục tiêu:
Bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa dân
tộc Sán Dìu trên địa bàn huyện mang tính chất đầu tư tổng hợp, đồng bộ,
khôi phục lại tất cả các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể trọng tâm của
người Sán Dìu; trên cơ sở đó nhân rộng và phát huy các giá trị văn hóa
vật thể, phi vật thể truyền thống đặc trưng của người Sán Dìu gắn với
phát triển kinh tế du lịch, góp phần thúc đẩy đời sống kinh tế - xã hội của
huyện [129].
Các nhiệm vụ đặt ra trong công tác BV&PH giá trị DSVH người Sán Dìu ở
huyện Vân Đồn được thực hiện ở giai đoạn 2020-2022 với nguồn kinh phí:
2.668.580.000 đồng, trong đó: nguồn ngân sách nhà nước: 2.296.580.000 đồng;
nguồn xã hội hóa: 372.000.000 đồng. Về các nhiệm vụ trước mắt trong 06 tháng
cuối năm 2020, Phòng Văn hóa - Thông tin đang thực hiện nhiệm vụ chủ trì tham
mưu triển khai mở lớp dạy tiếng Sán Dìu; mở lớp truyền dạy dân ca Sán Dìu; bảo
tồn ngữ văn dân gian Sán Dìu và tổ chức lễ hội Đại phan vào quý IV/2020.
67
Trước thực trạng đặt ra đối với công tác QL DSVH các DTTS trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh nói chung và dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn nói riêng, có
thể nhận thấy cơ quan chức năng từ cấp tỉnh đến huyện đã quan tâm và ban hành
khá toàn diện cơ chế, chính sách thuận lợi để chính quyền các cấp cũng như cộng
đồng có thể thực hiện được các biện pháp cụ thể trong QL DSVH.
2.2.3.3. Tổ chức hoạt động nghiệp vụ quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu
ở huyện đảo Vân Đồn
* Hoạt động kiểm kê, phân loại DSVH huyện đảo Vân Đồn với kết quả cụ
thể như sau:
TT
Loại hình
Toàn tỉnh
Huyện
Vân Đồn
1 Tập quán xã hội
2 Nghệ thuật trình diễn
3 Lễ hội truyền thống
4 Tiếng nói, chữ viết
5 Nghề thủ công truyền thống
6 Tri thức dân gian
7 Ngữ văn dân gian
Tổng 72
28
64
7
23
0
10
204 1
2
2
2
2
4
0
13
DSVH người
Sán Dìu tại
huyện Vân
Đồn
0
0
1
1
2
2
0
6
Bảng 2.2. Tổng hợp từ Danh mục kiểm kê DSVH phi vật thể tỉnh Quảng Ninh
của Sở Văn hóa và Thể thao ngày 22/9/2016 (Nguồn: NCS tổng hợp)
Bảng số liệu trên cho thấy, Sở VH&TT đã tiến hành kiểm kê DSVH phi vật
thể trên địa bàn toàn tỉnh và bước đầu nhận diện bức tranh tổng thể về DSVH phi
vật thể gồm có 204 di sản, với đầy đủ loại hình của cộng đồng các dân tộc tỉnh
Quảng Ninh. Tuy nhiên, công tác kiểm kê DSVH của toàn tỉnh và địa phương lại
chưa có sự đồng nhất, cụ thể loại hình tri thức dân gian cấp tỉnh không có di sản nào
trong khi đó huyện Vân Đồn có 4 DSVH. Khi đối chiếu cụ thể hơn vào dân tộc Sán
Dìu tại huyện Vân Đồn, có nhiều loại hình DSVH của dân tộc Sán Dìu rất đặc sắc,
nhưng chưa được đưa vào danh mục kiểm kê như: tập quán xã hội; nghệ thuật trình
diễn dân gian; ngữ văn dân gian… Tại các địa phương có đông người dân tộc Sán
Dìu sinh sống như các tỉnh: Tuyên Quang, Thái Nguyên và Vĩnh Phúc loại hình
68
nghệ thuật trình diễn dân gian và ngữ văn dân gian đã được xây dựng hồ sơ và được
Bộ VH,TT&DL công nhận là DSVH phi vật thể cấp quốc gia tại các Quyết định số
1877/QĐ-BVHTTDL ngày 08/6/2015; Quyết định số 3465/QĐ-BVHTTDL ngày
13/10/2015; Quyết định số 4069/QĐ-BVHTTDL ngày 30/10/2018. Qua đây, cho
thấy công tác kiểm kê chưa được khoa học và cũng chưa đầy đủ.
Thực tế kiểm kê các loại hình DSVH của dân tộc Sán Dìu cho thấy: tiếng nói
được bảo tồn tốt và được sử dụng trong đời sống hàng ngày, chữ viết đang bị mai
một và chỉ còn lưu giữ bởi một số thầy cúng và thầy thuốc người dân tộc Sán Dìu.
Lễ hội Đại phan được phục dựng vào năm 2008, từ đó đến nay chưa được tổ chức
lại lần nào. Nghề thủ công truyền thống, gồm: nghề đan lát để sử dụng trong sinh
hoạt hiện nay vẫn duy trì nhưng không phát triển và có nguy cơ mai một, nghề dệt
chiếu hiện nay không còn. Tri thức dân gian về chữa bệnh vàng da, thận và xương
khớp đang được duy trì nhưng có nguy cơ bị mai một. Tri thức liên quan đến ẩm
thực như cách làm khâu nhục, các loại bánh chưng, tày lòng ệp, bánh lồng gà, bánh
bạc đầu…vẫn còn được duy trì.
Tại cấp huyện, Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Vân Đồn chủ trì, phối hợp với
ban ngành, địa phương đã tiến hành khảo sát giá trị văn hóa vật thể gồm: miếu thờ
Thành hoàng; trang phục truyền thống [130].
* Hoạt động QL DSVH người Sán Dìu
- Các hoạt động QL DSVH vật thể
Về hoạt động tu bổ, tôn tạo DSVH vật thể của người Sán Dìu ở huyện đảo
Vân Đồn, phương án trùng tu, tôn tạo đã được xây dựng và đang trong quá trình
thực hiện, cụ thể như:
Nhà Văn hóa dân tộc tại xã Bình Dân là công trình văn hóa thuộc dự án đầu
tư của Bộ VH,TT&DL xây dựng năm 2006 với mục đích là nơi sinh hoạt văn hóa
cộng đồng, tổ chức các lớp học cộng đồng, nơi trưng bày những sản phẩm văn hóa
đặc trưng và giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Sán Dìu. Tuy
nhiên, qua nhiều năm sử dụng công trình phần ngoại thất đang xuống cấp nghiêm
trọng, phần nội thất gần như chưa trưng bày các hiện vật về đời sống văn hóa của
dân tộc Sán Dìu. Trước thực trạng đó, UBND huyện Vân Đồn giao UBND xã Bình
69
Dân là cơ quan chủ trì có trách nhiệm trùng tu, tôn tạo nhà văn hóa dân tộc, thời
gian thực hiện năm 2020, nguồn kinh phí đang được phân khai theo Quyết định số
1427/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 của UBND huyện Vân Đồn [129].
Khôi phục nguyên gốc Miếu Thành hoàng tại xã Bình Dân với những nghi
lễ, phong tục thờ tự, nghi lễ rước các thần linh từ Miếu về trung tâm lễ hội Đại
phan. Khôi phục miếu trên nền đất cũ với tổng diện tích khuôn viên 45m², trong
đó diện tích miếu là 25m². UBND huyện Vân Đồn giao UBND xã Bình Dân phối
hợp Phòng Văn hóa - Thông tin và các đơn vị có liên quan triển khai nhiệm vụ
khôi phục Miếu Thành hoàng, thời gian thực hiện năm 2020, nguồn kinh phí đang
được phân khai theo Quyết định số 1427/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 của UBND
huyện Vân Đồn.
- Các hoạt động QL DSVH phi vật thể
Năm 2008, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh đã phối hợp với UBND
huyện Vân Đồn tổ chức phục dựng lễ hội Đại phan, công tác phục dựng lễ hội được
tổ chức thực hiện như sau:
Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh lập hồ sơ khoa học nghiên cứu lễ
hội Đại phan; xây dựng dự toán kinh phí phục dựng lễ hội và chủ trì, tổ chức thực
hiện phục dựng lễ hội Đại phan tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn.
UBND huyện Vân Đồn: Chỉ đạo các phòng, ban chức năng thuộc huyện thực
hiện hướng dẫn, giám sát và đảm bảo an ninh trật tự khi tổ chức phục dựng lễ hội.
Phòng Văn hóa - Thông tin thực hiện các nhiệm vụ: xây dựng văn bản hướng
dẫn; lập danh sách khách mời lễ hội; trực tiếp xây dựng chương trình tổng thể hoạt
động lễ hội; xây dựng sơ đồ phối cảnh không gian, ma két trang trí từng nội dung hoạt
động của lễ hội và tổ chức triển khai thực hiện; chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị chuẩn bị
nội dung, nhân lực, cơ sở vật chất và tổ chức tập luyện theo kịch bản lễ hội; xây dựng
và điều hành kịch bản lễ hội; tổ chức các hoạt động báo chí phục vụ công tác tuyên
truyền trước, trong và sau lễ hội trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và
ngoài huyện; triển khai công tác tuyên truyền trực quan bằng pano, băng zôn, khẩu
hiệu,… trên các tuyến đường chính vào xã, đường dẫn vào khu tổ chức lễ hội.
Công an huyện thực hiện nhiệm vụ: xây dựng phương án đảm bảo an ninh,
70
trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ, phòng chống cháy
rừng; phối hợp với UBND xã Bình Dân sắp xếp trật tự hàng quán, kiểm tra việc treo
biển niêm yết giá từng loại mặt hàng tại các quán; đảm bảo an ninh trật tự, an toàn
các nghi lễ và hoạt động lễ hội khác; xây dựng và triển khai phương án phân luồng,
phân tuyến đảm bảo an toàn giao thông trên các tuyến đường vào khu tổ chức lễ
hội. Bố trí, sắp xếp vị trí đỗ xe của đại biểu và du khách thập phương.
Trung tâm y tế thực hiện nhiệm vụ: tổ chức phun thuốc muỗi phòng dịch tại
khu vực Lễ hội; chủ trì phối hợp cùng với xã kiểm tra đảm bảo công tác vệ sinh an
toàn thực phẩm tại Lễ hội và các cơ sở lưu trú trên địa bàn; khảo sát địa điểm, bố trí
các đội cấp cứu lưu động tại lễ hội.
Từ một lễ hội đã bị gián đoạn không tổ chức vào những năm 60 của thế kỷ
trước cho đến năm 2008, huyện Vân Đồn đã phục dựng lễ hội Đại phan thành công,
theo kế hoạch vào quý IV/2020, lễ hội Đại phan được tổ chức với nguồn ngân sách
của huyện Vân Đồn theo Kế hoạch số 1517/KH-UBND ngày 29/6/2020.
Năm 2015, UBND xã Bình Dân thành lập CLB Sọong cô xã Bình Dân. CLB
hoạt động tương đối hiệu quả, sinh hoạt mỗi tháng ít nhất 01 lần/tháng. Các thành
viên trong CLB tự nguyện đóng góp kinh phí để tổ chức sinh hoạt tại địa phương và
đi giao lưu với các tỉnh khác.
Bên cạnh những thuận lợi, việc tổ chức hoạt động của CLB cũng gặp những
khó khăn như: chính quyền chưa hỗ trợ kinh phí cho CLB hoạt động; CLB hoạt
động với nguồn kinh phí tự đóng góp nên cũng gặp nhiều khó khăn trong việc đi
giao lưu với các huyện bạn, các tỉnh bạn; tầng lớp thanh thiếu niên không am hiểu
về nét đẹp truyền thống, tiếng hát dân ca Sán Dìu, còn e ngại và không thích tham
gia vào các hoạt động của CLB.
2.2.3.4. Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về DSVH trên
địa bàn tỉnh và huyện Vân Đồn rất đa dạng, từ các hội nghị trực tuyến, ấn phẩm sách,
báo, pano áp phíc, tơ rơi đến các buổi tuyên truyền tại nhà văn hóa thôn, cụ thể:
71
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Ninh về xây dựng và phát triển
văn hóa của tỉnh tại Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 05/4/2019, Tỉnh ủy Quảng
Ninh tổ chức hội nghị quán triệt, triển khai Nghị quyết số 11-NQ/TU về xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
Hội nghị đã quán triệt từ lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, Đoàn Đại biểu
Quốc hội tỉnh; các Ban xây dựng Đảng Tỉnh ủy, các sở, ngành, tổ chức, đoàn thể và
186 xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh dự họp thông qua hệ thống trực tuyến.
Trên quan điểm văn hóa, con người là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là
nguồn lực để phát triển KT-XH, là sức mạnh nội sinh quan trọng phục vụ cho sự
phát triển bền vững của tỉnh, đồng chí Nguyễn Văn Đọc, nguyên Bí thư Tỉnh ủy
Quảng Ninh nhấn mạnh các cấp ủy, chính quyền địa phương, nhân dân các dân tộc
trong tỉnh cần bảo vệ, giữ gìn và phát huy bền vững những giá trị truyền thống tốt
đẹp; chỉ ra và từng bước loại trừ những phong tục tập quán lạc hậu, những hủ tục;
chăm lo, nuôi dưỡng, khẳng định những giá trị mới đang hình thành.
Ngoài ra, Ban Dân tộc tỉnh thực hiện lồng ghép các buổi tuyên truyền, vận
động vào các đề án, các lớp bồi dưỡng cho cán bộ xã, thôn và người có uy tín trong
đồng bào DTTS, trong đó có nội dung về QL DSVH, cụ thể như: Đề án Đẩy mạnh
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào vùng
DTTS và miền núi giai đoạn 2017-2021 theo Quyết định số 1163/QĐ-TTg ngày
08/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 1163); Quyết định số 498/QĐ-TTg
ngày 14/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hôn
và hôn nhân cận huyết thống trong vùng DTTS giai đoạn 2015-2025.
Huyện Vân Đồn tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ thôn bản,
Người có uy tín trong đồng bào DTTS. Thông qua các lớp bồi dưỡng, tập huấn này,
những người tham gia lớp học đã gương mẫu thực hiện và tích cực tuyên truyền,
vận động người dân trong cộng đồng thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới,
việc tang và lễ hội được duy trì nghiêm túc, bảo đảm thuần phong mỹ tục theo đúng
quy định, Hương ước, quy ước của khu dân cư; tích cực hưởng ứng tham gia các
phong trào, các cuộc vận động, đặc biệt là cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây
72
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; Xây dựng nếp sống văn minh đô thị; Xây
dựng nông thôn mới. Nhiều hộ gia đình DTTS đã dần thay đổi được các thói quen,
hủ tục lạc hậu trong sinh hoạt.
2.2.3.5. Tổ chức nghiên cứu khoa học
Năm 2007, Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Quảng Ninh thực hiện nhiệm vụ
khoa học công nghệ cấp tỉnh Sưu tầm, nghiên cứu, đề xuất giải pháp bảo tồn và
phát huy giá trị văn hoá dân gian cổ truyền của người Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh.
Thời gian thực hiện 16 tháng (từ tháng 9/2007 đến tháng 12/2008), kinh phí thực
hiện 500.000.000 đồng. Mục tiêu của đề tài là sưu tầm, nghiên cứu, đề xuất giải
pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân gian cổ truyền của dân tộc Sán Dìu ở
tỉnh Quảng Ninh.
Đề tài đã tiến hành điều tra, sưu tầm DSVH phi vật thể và vật thể của dân tộc
Sán Dìu ở Quảng Ninh; phục dựng ba hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian của dân
tộc Sán Dìu tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, gồm: lễ hội Đại
phan, hát Soọng cô và múa Hành quang.
Đề tài điều tra sưu tầm DSVH truyền thống: phạm vi điều tra tại 60 thôn của
30 xã, phường, thị trấn thuộc 08 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh có số người dân
tộc Sán Dìu sinh sống trên 500 người trở lên trong đó có huyện Vân Đồn (thị trấn
Cái Rồng, các xã Đoàn Kết, Hạ Long, Vạn Yên, Bình Dân, Đông Xá, Đài Xuyên).
Đề tài tổng hợp, phân tích, xử lý số liệu, xây dựng các chuyên đề: Chuyên đề
1: Văn hoá ăn, ở, mặc và nghề truyền thống của dân tộc Sán Dìu; chuyên đề 2: Tín
ngưỡng, phong tục tập quán của dân tộc Sán Dìu tỉnh Quảng Ninh; chuyên đề 3:
Văn học, nghệ thuật dân gian của dân tộc Sán Dìu tỉnh Quảng Ninh; chuyên đề 4:
Các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân gian truyền thống của dân tộc
Sán Dìu tỉnh Quảng Ninh.
Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Viện Văn hoá - Thông
tin (nay là Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam), Bảo tàng Văn hoá các dân
tộc Việt Nam, Hãng phim Xanh, UBND huyện Vân Đồn, UBND xã Bình Dân tiến
hành nghiên cứu để phục dựng 03 hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian của người Sán
73
Dìu tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, gồm: nghiên cứu phục dựng lễ
hội Đại phan, đây là lễ hội có quy mô lớn với các lễ thức nông nghiệp, cầu an, cầu siêu,
cấp sắc....; Soọng cô là hình thức hát đối đáp giữa nam và nữ chứa đựng nhiều bài dân
ca phản ánh sinh hoạt có giá trị thẩm mỹ, giá trị tư tưởng và đạo đức của dân tộc Sán
Dìu; thể loại múa Hành quang (Háng cong) là điệu múa dâng thần và tiễn thần trong
nghi lễ cấp sắc của dân tộc Sán Dìu. Mặc dù được sử dụng trong lễ cấp sắc, nhưng đây
cũng là một thể loại múa tạo không khí vui tươi trong các hoạt động giải trí, bởi nó mô
phỏng lại các hoạt động lao động sản xuất như hoàng mẫu giã gạo, xay thóc, hoàng
mẫu xây đập đào kênh, trồng cây, chăm sóc bản thân, giải trí thư giãn như chải đầu hay
thuỷ ngư vọng nguyệt,... Đây là một trong những điệu múa đặc trưng cho bản sắc văn
hóa, có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ của dân tộc Sán Dìu.
Năm 2019, HĐND chỉ đạo UBND huyện Vân Đồn xây dựng Đề án Bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc Sán Dìu, huyện Vân
Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2020-2022. Mục đích của Đề án là:
Khôi phục để BV&PH một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian tích
hợp nhiều yếu tố văn hóa đặc trưng của dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo
Vân Đồn; Khai thác và phát huy những tiềm năng văn hóa, văn nghệ
truyền thống trong đời sống văn hóa của nhân dân các dân tộc huyện Vân
Đồn; góp phần bảo tồn kho tàng văn hóa dân tộc các vùng miền trong
huyện; Nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền và toàn thể nhân
dân trong BV&PH giá trị DSVH của dân tộc Sán Dìu gắn với phát triển
kinh tế du lịch góp phần thúc đẩy đời sống KT-XH phát triển trong lộ
trình trở thành KKT Vân Đồn [49].
Năm 2019-2020, Ban Dân tộc được UBND tỉnh giao nhiệm vụ xây dựng đề
án làng DTTS, gồm các nội dung chính sau:
(1) Khảo sát, đánh giá thực trạng và hoạch định các tiêu chí, nội dung, định
mức xây dựng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa một số làng DTTS gắn
với phát triển bền vững giai đoạn 2020-2025; (2) Xác định mục tiêu; phạm
vi xây dựng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa một số làng DTTS theo lộ
74
trình, từng giai đoạn, thời gian cụ thể; (3) Tổng hợp, phân tích, dự tính nhu
cầu vốn để xây dựng và phát triển một số làng DTTS; (4) Xác định các
nhiệm vụ trọng tâm theo lộ trình, giai đoạn đối với sở, ngành liên quan và
chính quyền, nhân dân các địa phương có làng DTTS trong quá trình xây
dựng và phát triển Làng; (5) Đưa ra giải pháp thực hiện, trình Hội đồng
nhân dân tỉnh ban hành cơ chế hỗ trợ việc xây dựng, bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa một số làng DTTS theo hướng phát triển bền vững phù hợp
xu thế hội nhập [128].
Qua đó, Ban Dân tộc tỉnh đã phối hợp với UBND huyện Vân Đồn tiến hành
khảo sát, xây dựng đề án trình UBND tỉnh Quảng Ninh về việc cho phép xây dựng
làng dân tộc Sán Dìu tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn. Trong quý I/2020, Ban Dân
tộc đã hoàn thiện Dự thảo lần 01 Đề án làng DTTS, đồng thời nghiên cứu, bổ sung
thêm một số nội dung để phù hợp với Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng
bào DTTS, miền núi giai đoạn 2021-2030 theo Nghị quyết 88/2019/QH14 của Quốc
hội phê duyệt ngày 18/11/2019.
2.2.3.6. Huy động và sử dụng các nguồn lực để quản lý di sản văn hóa.
Chính quyền các cấp quan tâm đầu tư, hỗ trợ kinh phí cho lĩnh vực DSVH từ
các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án, đề tài nghiên cứu khoa học từ nguồn
ngân sách sự nghiệp hàng năm; lồng ghép các chương trình, nguồn đầu tư của các
ngành KT-XH khác như: thể thao, công tác dân tộc, tôn giáo, du lịch và chương
trình xây dựng nông thôn mới. Các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đã và đang
triển khai nhiều dự án về QL DSVH, như: UNESCO, iSEE, Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam,…
Việc QL DSVH có sự đóng góp tích cực, hiệu quả của chủ thể văn hóa chính
là cộng đồng dân tộc Sán Dìu. Cần phát huy nội lực, ý thức tự thân của cộng đồng
trong việc xây dựng và khai thác hiệu quả thiết chế văn hóa thông tin cơ sở để phục
vụ công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu góp phần làm phong phú thêm đời sống văn
hóa cộng đồng. Đồng thời, đó cũng là động lực để cộng đồng phát triển KT-XH
cũng như bảo tồn, sử dụng và khai thác bền vững DSVH. Năm 2008, Sở VH&TT tổ
75
chức phục dựng lễ hội Đại phan từ nguồn ngân sách nhà nước và cùng sự ủng hộ về
ngày công lao động của người dân; mỗi hộ gia đình trong xã Bình Dân đóng góp
50.000 đồng/hộ; mỗi thôn có một mâm lễ dâng cúng tại lễ hội; rất nhiều người dân
tộc Sán Dìu từ các địa phương khác đến dự và đóng góp kinh phí cho lễ hội.
Để đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động QL DSVH và khơi dậy niềm tự hào
dân tộc thông qua hoạt động về nguồn, giáo dục di sản từ các nghệ nhân truyền dạy
tri thức văn hóa truyền thống cho con cháu, nhiều trường học đã mời các nghệ nhân
đến truyền dạy tại các lớp học trên địa bàn các xã có đông người Sán Dìu sinh sống
như các xã: Bình Dân, Đoàn Kết, Đông Xá…
2.2.3.7. Tổ chức việc động viên khen thưởng
Năm 2002, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam ban hành Quy chế công nhận
danh hiệu “NNDG”; năm 2003 Quốc hội ban hành Luật Thi đua, Khen thưởng có nội
dung về danh hiệu “NNND, NNƯT” để phong tặng cho các cá nhân có nhiều năm
trong nghề, kế tục, gìn giữ, sáng tạo và phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền
thống (Điều 65). Năm 2005, Luật Thi đua, Khen thưởng sửa đổi, bổ sung điều 65
“Danh hiệu NNND, NNUT để tặng cho cá nhân có công BV&PH giá trị DSVH phi vật
thể”. Việc sửa đổi nội dung lần này đã bao trùm hết tất cả các loại hình của DSVH.
Cụ thể hóa Luật Di sản văn hóa và Luật Thi đua, Khen thưởng, Chính phủ đã
ban hành Nghị định 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014 quy định xét tặng danh hiệu
“NNND và “NNƯT” trong lĩnh vực DSVH phi vật thể và tổ chức xét tặng danh hiệu
NNƯT lần thứ nhất năm 2015. Nghị định 62/2014/NĐ-CP đánh dấu một sự nỗ lực của
Chính phủ Việt Nam trong việc thực thi Công ước 2003, Luật Di sản văn hóa cũng
như ban hành các văn bản pháp luật quốc gia, bổ sung hệ thống hành lang pháp lý ghi
danh những nghệ nhân, người đóng vai trò chủ chốt trong việc trao truyền và thực hành
di sản [38, tr.158].
Hàng năm, Chi hội Văn nghệ dân gian huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh đều
xây dựng hồ sơ đề nghị Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam xét tặng danh hiệu NNDG
cho các nghệ nhân người DTTS trên địa bàn huyện. Hiện nay, có 04 nghệ nhân là
người dân tộc Sán Dìu thuộc xã Bình Dân, huyện Vân Đồn được phong tặng NNDG.
76
2.2.3.8. Hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động QL DSVH có vai trò
quan trọng nhằm ngăn ngừa các vi phạm về QL DSVH. Việc giám sát hoạt động
được thực hiện định kỳ, thường xuyên thông qua các hình thức kiểm tra, thanh tra
đột xuất hoặc kiểm tra, thanh tra khi có đơn tố cáo, khiếu nại.
Luật Di sản văn hóa năm 2001 quy định rõ nội dung và nhiệm vụ thanh tra
Nhà nước về công tác văn hóa, thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về DSVH.
Theo đó, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ quan trọng của các cấp,
ngành nhằm đảm bảo việc quản lý DSVH được thực thi hiệu quả, đúng pháp luật. Đoàn
kiểm tra của Chính phủ, Bộ, liên bộ, liên ngành thường xuyên thanh, kiểm tra công tác
QLNN về DSVH tại các tỉnh thành phố. UBND cấp tỉnh, cấp huyện thường xuyên chỉ
đạo thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra. Cơ quan chuyên môn như Sở VH&TT cũng
thường xuyên thanh kiểm tra các hoạt động về QL DSVH còn các xã thì thường xuyên
kiểm tra, hướng dẫn thực hiện công tác QL DSVH tại cơ sở.
2.3. Thực trạng quản lý của cộng đồng đối với di sản văn hóa dân tộc
Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
2.3.1. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong thực hành và hưởng thụ di sản
văn hóa
Công ước BV&PH sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa của UNESCO đã
khẳng định vai trò quan trọng của cộng đồng trong QL DSVH “không có văn hóa
nếu không có người dân và cộng đồng”. Đồng thời, Công ước khẳng định, văn hóa
là sản phẩm của con người sáng tạo ra trong quá trình sinh hoạt, lao động và các sản
phẩm văn hóa quay trở lại phục vụ nhu cầu đời sống của cộng đồng. Văn hóa chính
là tài sản của cộng đồng, do cộng đồng sáng tạo, nuôi dưỡng và trao truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, tạo nên bản sắc văn hóa riêng của từng dân tộc. Do vậy, cộng
đồng chính là chủ thể sáng tạo, thực hành và cũng chính là đối tượng hưởng thụ các
giá trị văn hóa. Chủ thể DSVH có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng; khẳng định
77
DSVH đó có bản sắc riêng, thuộc về cộng đồng chứ không pha lẫn sắc thái văn hóa
với cộng động khác.
Tỉnh Quảng Ninh có nhiều thành phần DTTS, trong đó có các DTTS: Dao,
Tày, Sán Dìu, Sán Chay với số dân trên 15.000 người, sinh sống mật cư thành cộng
đồng làng bản, cư trú đan xen nhau, như: dân tộc Sán Dìu cư trú cùng dân tộc Tày
(huyện Đông Triều); dân tộc Sán Dìu cư trú cùng dân tộc Dao (huyện Đầm Hà,
huyện Vân Đồn);… Trong quá trình sinh sống, lao động sản xuất, mỗi dân tộc có
một sắc thái văn hóa riêng được thể hiện qua không gian cư trú, văn hóa vật thể, phi
vật thể. Trong quá trình cư trú đan xen lâu đời, tuy mỗi dân tộc thể hiện giá trị văn
hóa riêng có của dân tộc mình nhưng lại cũng tiếp thu một cách linh hoạt và sáng
tạo giá trị văn hóa của dân tộc cận cư.
Kết quả điều tra xã hội học tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn2 cho thấy: khi
được hỏi ông/bà có hiểu biết gì về lễ hội Đại phan có 68% người trả lời “biết rất
nhiều” do năm 2008 Sở VH&TT phục dựng thành công lễ hội Đại phan và những
năm sau được nhiều địa phương khác trong tỉnh tổ chức. Bên cạnh đó có 33/213
người chiếm 15% người trả lời biết rất ít vì họ không tham gia trực tiếp lễ hội mà
chỉ biết qua các phương tiện truyền thông.
(Nguồn: NCS tổng hợp)
Thực hành lễ hội Đại phan là những người thực hành tín ngưỡng dân gian
2 Điều tra xã hội học tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh vào tháng 8 năm 2019.
trong cộng đồng. Để tổ chức lễ hội Đại phan tại xã Bình Dân phải là người có cấp
78
bậc cao nhất trong hệ thống cấp bậc thầy cúng. Theo đó, người thầy có chức sắc cao
nhất là Giám độ sư đứng ra chủ trì toàn bộ các thực hành tín ngưỡng, từ tập hợp hơn
33 thầy cúng (13 thầy cúng tại xã Bình Dân, 08 thầy cúng ở các huyện khác trong
tỉnh và 12 thầy cúng từ Đồng Nai) đến để phân công công việc, nhóm thì viết sớ,
nhóm lo chuẩn bị lễ, nhóm thực hiện các bài cúng tế. Trong lễ Đại phan cũng diễn
ra hệ thống các nghi lễ như: trấn trạch, cầu an, cầu phúc, cầu siêu, phong sắc cho
các thầy cúng muốn lên cấp cao hơn. Trong lễ hội Đại phan tổ chức năm 2008, xã
Bình Dân có 01 thầy cúng được phong chức Đại phan sư, 03 thầy phong chức Tổng
xuyến và 05 người trải qua lễ nhập đạo tràng để bước đầu học thực hành tín
ngưỡng. Lễ hội Đại phan tổ chức là dịp cộng đồng dân tộc Sán Dìu không chỉ trong
huyện đảo Vân Đồn mà còn có đông đảo người Sán Dìu trong và ngoài tỉnh và các
dân tộc Kinh, Dao, Hoa, Tày… về tham dự và có thể xin tham gia một số tiết lễ
trong lễ hội Đại Phan như cầu an, cầu thọ, lội than… sự tham gia và hưởng thụ các
giá trị trong lễ hội Đại phan luôn là món ăn tinh thần không thể thiếu trong cộng
đồng dân tộc Sán Dìu.
Về lĩnh vực dân ca được những người cao tuổi trong cộng đồng chủ yếu thực
hành chiếm 32% (68/213 người) và một số ít người trẻ tuổi sinh hoạt trong CLB
Soọng cô của xã chiếm 17% (37/213 người) biết nhiều dân ca, còn lại phần lớn là
biết ít và không biết đến các loại hình dân ca.
(Nguồn: NCS tổng hợp)
Những người biết hát dân ca đều sinh hoạt thường xuyên một tuần một lần
trong CLB Soọng cô xã Bình Dân với độ tuổi trẻ nhất từ 35 tuổi và cao tuổi nhất là
79
trên 80 tuổi. Những dịp đi giao lưu hay chính quyền các cấp tổ chức các sự kiện văn
hóa thì CLB tập luyện thường xuyên hơn. Hiện nay, để trẻ hóa các hội viên trong
CLB là một vấn đề rất khó khăn, việc thực hành các làm điệu dân ca được các bậc
cao niên, đặc biệt là các NNDG truyền dạy những hội viên trẻ trong CLB.
Kết quả trên cho thấy, về cơ bản các giá trị DSVH vẫn được cộng đồng dân
tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn gìn giữ, BV&PH. Tuy nhiên, mức độ hiểu biết
về DSVH có sự khác nhau về độ tuổi, cụ thể ở độ tuổi từ 41 đến trên 60 tuổi (từ 41-
50 tuổi; 51-60 tuổi; trên 60 tuổi) mức độ hiểu biết về phong tục, tập quán tốt hơn
nhiều so với độ tuổi còn lại (ở độ tuổi từ 18 tuổi đến 40 tuổi). Điều đó cho thấy, giá
trị DSVH của dân tộc Sán Dìu vẫn được cộng đồng gìn giữ và coi đó là tài sản vô
giá của dân tộc. Bên cạnh đó, cũng nói lên một thực tế trong giới trẻ hiện nay, nhiều
người còn chưa hiểu biết nhiều về phong tục, tập quán của dân tộc mình.
Hộp 2.2. Hoạt động của cộng đồng dân tộc Sán Dìu
Bản sắc văn hóa Sán Dìu về cơ bản hiện nay vẫn được bảo tồn và duy trì khá tốt,
tuy nhiên cũng cần thẳng thắn nhìn nhận các giá trị văn hóa đó đang dần mai một, vì
xã hội ngày càng phát triển các thế hệ trẻ có nhiều mối quan tâm hơn trong học tập,
trong công việc, trong các mối quan hệ xã hội. Do vậy, cộng đồng dân tộc Sán Dìu
chúng tôi hằng năm tổ chức các buổi gặp mặt, giao lưu cộng đồng dân tộc Sán Dìu
cả nước, tổ chức luân phiên từng tỉnh có đông người dân tộc Sán Dìu sinh sống để
thắt chặt tình đoàn kết cũng như bảo vệ DSVH của dân tộc mình
(Nữ, tuổi 65, thành phố Cẩm Phả, PVS tháng 3/2020)
Nhìn ra các địa phương khác, cho thấy các giá trị văn hóa truyền thống dân
tộc Sán Dìu không chỉ được khẳng định trong cộng đồng dân tộc Sán Dìu mà còn
lan tỏa đến các dân tộc khác như: tại khu du lịch tâm linh Tây Thiên (huyện Tam
Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc), nhân viên mặc trang phục truyền thống dân tộc Sán Dìu
phục vụ khách du lịch; lễ hội Đại Phan - một lễ hội tín ngưỡng lớn nhất của người
Sán Dìu được dân tộc Dao (huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh) xin cấp phép của Sở
VH&TT tỉnh Quảng Ninh để tổ chức vào năm 2015; ở các khu du lịch của thành
phố Hạ Long, Vân Đồn, đặc biệt là các khu dân cư, thực khách dễ dàng được
80
thưởng thức các món ăn truyền thống của dân tộc Sán Dìu như: bánh bạc đầu,
bánh tày loòng ệt, bánh lá ngải, khau nhục… do chính tay dân tộc Sán Dìu hay
người dân tộc khác thực hiện. Như vậy, vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng dân
tộc Sán Dìu trong QL DSVH không chỉ trong cộng đồng mà đã lan tỏa đến các
dân tộc khác. Về mối quan hệ giữa sáng tạo văn hóa và sử dụng, thụ hưởng văn
hóa thì cộng đồng dân tộc Sán Dìu là chủ thể sáng tạo, các cộng đồng dân tộc khác
sinh sống cùng trên địa bàn là chủ thể khai thác, sử dụng và phát huy giá trị văn
hóa truyền thống đó. Các giá trị văn hóa này trở thành nguồn lực nội sinh thúc đẩy
KT-XH phát triển.
Qua đây, ta thấy vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng dân tộc Sán Dìu ở
tỉnh Quảng Ninh nói chung và huyện đảo Vân Đồn nói riêng luôn được khẳng
định và phát huy trong mọi bối cảnh; thông qua quá trình giao lưu, tiếp xúc văn
hóa, các giá trị DSVH ngày càng được củng cố, làm giàu thêm kho tàng DSVH
của dân tộc Sán Dìu. Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng thế hệ trẻ
chính là chủ nhân tương lai của các DSVH nhưng ngày càng ít người thực hành và
hưởng thụ DSVH, không hẳn họ quay lưng lại với DSVH của ông cha mà cần phải
xem xét đến cách thức giáo dục di sản đối với thế hệ trẻ.
2.3.2. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong việc trao truyền và sáng tạo di sản
văn hóa
Môi trường nuôi dưỡng các giá trị DSVH của dân tộc Sán Dìu luôn được
thay đổi cho phù hợp với xu hướng hiện nay. Loại hình dân ca đối đáp giao duyên
với môi trường diễn xướng truyền thống thường ở các con suối, bìa rừng, trên
nương, dưới đồng… Hiện nay, để phù hợp với đời sống hiện đại, các không gian hát
được mở rộng tại nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng, tại các sự kiện trình diễn, quảng
bá văn hóa… Trong những năm gần đây, việc đưa di sản vào trường học đã được
chính quyền xã Bình Dân và các ban ngành của huyện Vân Đồn quan tâm. Nhà
trường bố trí thời gian hợp lý mời các nghệ nhân dạy học sinh học tiếng Sán Dìu,
học hát dân ca Sán Dìu. Việc tạo ra môi trường nuôi dưỡng các giá trị DSVH ngày
càng đa dạng giúp DSVH luôn có cơ hội được trao truyền cho nhiều thế hệ kế tiếp.
81
Việc trao truyền DSVH được thể hiện ở hai cấp độ khác nhau. Một là, trao
truyền giá trị văn hóa truyền thống thường nhật như phong tục tập quán, sinh hoạt
đời sống, lao động sản xuất được con cháu học tập, tiếp thu qua việc ông bà, cha mẹ
và cộng đồng dạy dỗ, hướng dẫn thường ngày.
Hộp 2.3. Sự khác biệt trong môi trường sinh hoạt văn hóa Sán Dìu
Vợ chồng tôi ở cùng con trai út. Con trai, con dâu và các cháu nội đều nghe nói
tiếng Sán Dìu rất tốt, cũng biết nhiều về phong tục tập quán vì gia đình vẫn giữ
được nếp xưa. Tuy nhiên, con trai thứ lấy vợ người Kinh rồi ở riêng, nên các cháu ít
biết tiếng, các phong tục tập quán cũng không biết nhiều so với các cháu bên này.
(Nữ, tuổi 82, xã Bình Dân, PVS tháng 6/2020)
Hai là, việc trao truyền các tri thức văn hóa mang tính kỹ thuật, kỹ năng như
các bài thuốc gia truyền, cách thực hành tín ngưỡng, kỹ thuật trong các loại hình hát
dân ca… Việc trao truyền, trước hết là sự truyền dạy của các bậc cao niên, nghệ
nhân, người trưởng thành cho các thế hệ con cháu trong gia đình, dòng tộc và cộng
đồng. Đối tượng tiếp thu DSVH chủ yếu là thế hệ trẻ và nhằm mục đích bảo tồn và
phát huy các giá trị DSVH trong đời sống đương đại.
Hộp 2.4. Các phẩm chất và kỹ năng cần có để làm thầy cúng và thầy thuốc
Muốn học làm thầy, trước hết phải học làm người có tâm, có chữ tín, biết đạo hiếu.
Sau đó, người muốn học làm thầy cúng là phải học chữ nho, phải qua lễ cấp sắc tại
nhà hoặc lễ Đại phan để sư phụ truyền dạy các tri thức về thực hành tâm linh cũng
như học làm thầy thuốc thì phải học về các huyệt đạo, bài thuốc trong chữa bệnh.
(Nam, tuổi 48, xã Bình Dân, PVS tháng 6/2019)
Hiện nay, việc trao truyền các giá trị DSVH không chỉ bó hẹp trong gia đình
và cộng đồng mà còn được chính quyền quan tâm đưa DSVH vào trường học. Năm
2008, NNDG Trương Thị Chúc tham gia lớp truyền dạy Soọng cô của dân tộc Sán
Dìu do Sở VH&TT tổ chức. Đến nay, NNDG Trương Thị Chúc đã truyền dạy được
cho 32 học trò, trong đó, có những học trò tiêu biểu như: Từ Thị Kém, Từ Thị Sinh,
Tô Thị Tạ, Dư Thị Ngọc (đều ở thôn Voòng Tre, xã Bình Dân, huyện Vân Đồn).
Ngoài ra, trong cộng đồng còn tổ chức các lớp dạy chữ Nôm - Sán Dìu do thầy cúng
82
truyền dạy một cách bài bản theo cách thức dạy học truyền thống. Thông qua bài
học, các học viên hiểu biết hơn về phong tục, tập quán của dân tộc mình.
Năm 2013-2014, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã phối hợp với chính quyền
cấp xã và cộng đồng dân tộc Sán Dìu ở xã Giáp Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc
Giang sưu tầm, nghiên cứu, dịch thuật, lập bảng chữ Sán Dìu và tổ chức lớp học
tiếng Sán Dìu cho chính cộng đồng dân tộc Sán Dìu nơi đây.
Hộp 2.5. Người tham gia thực hiện Dự án bảo tồn chữ viết Sán Dìu
Tôi là thành viên trong nhóm sưu tầm, biên dịch một số sách nho cổ do Viện
Nghiên cứu Hán Nôm lựa chọn. Đồng thời, tôi cũng là người trực tiếp dạy chữ nho
và tiếng Sán Dìu cho các học viên. Tôi nhận thấy đây là việc làm hết sức ý nghĩa,
thiết thực cho dân tộc tôi, nên rất cần được nhân rộng.
(Nam, tuổi 56, xã Giáp Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, PVS tháng 5/2018)
Công tác QL DSVH không những ở trong cộng đồng, mà còn được các
trường học trên địa bàn huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang lồng ghép vào
chương trình học tập và sinh hoạt như: Trường THPT Sơn Nam, xã Sơn Nam,
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã phối hợp cùng với một số hạt nhân văn
nghệ ở xã thành lập CLB “Tiếng hát Soọng cô”. CLB có 10 học sinh của 3 khối lớp,
mỗi tháng sinh hoạt 2 buổi. Các em được truyền dạy những bài hát giao duyên gắn
với đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất và hát đối đáp trong lễ hội, ngày tết với
nội dung ca ngợi quê hương giàu đẹp… Bên cạnh đó, trường còn tổ chức các buổi
ngoại khóa với các chủ đề: Thanh niên với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Sán Dìu; Hội thi tiếng hát Soọng cô... Đây là sân chơi lành mạnh, bổ ích,
góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Những nỗ lực của cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong QL DSVH đã đạt được
những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, không ít cá nhân không mặn mà, thậm chí thờ
ơ với DSVH. Kết quả điều tra xã hội học ở xã Bình Dân, huyện đảo Vân Đồn cho
thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó nổi bật là những
nguyên nhân sau: (1) Ông bà, cha mẹ không chú tâm truyền dạy cho con cháu:
194/213 người; (2) Con cháu không chịu học: 165/213 người; (3) Do thiếu kiến
83
thức kinh nghiệm bảo tồn: 160/213 người; (4) Do chính quyền không quan tâm hỗ
trợ: 138/213 người; (5) Không phù hợp với lối sống hiện nay: 66/213 người.
Với câu hỏi “Theo ông/bà, con cháu không chịu học những giá trị văn hóa
truyền thống của người Sán Dìu do nguyên nhân nào?”, kết quả điều tra cho thấy
những nguyên nhân cơ bản sau: (1) Bận công việc, học tập: 178/213 người; (2) Cho
rằng lỗi thời, lạc hậu: 143/213 người; (3) Có biết cũng không dùng đến: 113/213
người; (4) Không phù hợp với lối sống hiện nay: 76/213 người. Từ kết quả trên, cho
thấy lý do bận công việc và học tập chiếm số lượng lớn, đó cũng là lý do phù hợp
với hoàn cảnh đặt ra trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, bản chất của quá trình QL
DSVH dân tộc không quá phụ thuộc vào thời gian, kinh phí, không quá khó khăn để
học hỏi cũng như truyền dạy, mà vấn đề mấu chốt là thái độ, ý thức và vấn đề tự
thân của mỗi thành viên trong cộng đồng, trong việc gìn giữ những giá trị quý báu
của ông cha để lại. Do vậy, QL DSVH của người Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
không đơn giản, nhưng cũng không hẳn là vấn đề khó khăn, phức tạp. Vấn đề nằm
ở nhận thức và nhu cầu của cộng đồng, biết khơi dậy niềm tự hào của dân tộc, biết
phát huy nội lực của DSVH như một nguồn lực tinh thần, nguồn lực sinh kế mới, tự
DSVH hồi sinh mạnh mẽ.
Trong quá trình trao truyền DSVH, để phù hợp với thực tiễn đặt ra, cộng
đồng đã sáng tạo những giá trị cũng như các yếu tố văn hóa mới để phù hợp hơn
trong những bối cảnh cụ thể. Tiếng nói và chữ viết là tiêu chí đầu tiên để xác định
thành phần của một dân tộc, bởi đó là hệ thống tín hiệu để nhận biết và truyền đạt
thông tin. Theo các nhà nghiên cứu, tiếng Sán Dìu đã tiếp thu một thổ ngữ ở Quảng
Đông (Trung Quốc) và mượn chữ Hán để sáng tạo, ghi âm cho tiếng Sán Dìu. Chữ
Nôm - Sán Dìu được thầy cúng, thầy thuốc sử dụng trong các bài cúng, sách phong
thủy và ghi chép các bài thuốc dân gian.
Trong quá trình khôi phục chữ viết, người Sán Dìu đã mượn ký tự Latin để
ghi âm tiếng Sán Dìu. Hệ chữ đó được cộng đồng ứng dụng nhiều trong việc ghi các
bài hát dân ca. Ưu điểm của chữ hệ Latin là hầu hết mọi người đều có thể đọc và ghi
chép. Tuy nhiên, hạn chế của hệ chữ Latin ghi âm tiếng Sán Dìu là chỉ mang tính
tương đối, chưa có sự thống nhất và chưa có những ký tự chuyên biệt để ghi âm.
84
Năm 2013, tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa là người đầu tiên nghiên cứu một
cách hệ thống, đầy đủ, khoa học về hệ thống ngữ âm tiếng Sán Dìu trong luận án tác
giả Ngôn ngữ học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc
gia Hà Nội). Sau đó, tác giả đã công bố cuốn sách “Ngữ âm tiếng Sán Dìu” [115].
Với kết quả đó, năm 2018, Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa
Sán Dìu đã phối hợp với tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa đến các địa phương, trong
đó có xã Bình Dân, huyện Vân Đồn để hướng dẫn và trao đổi với cộng đồng về
tiếng nói và chữ viết của dân tộc Sán Dìu.
Nhiều năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc giảng
dạy tiếng Dao Thanh Phán cho cán bộ lãnh đạo các địa phương có đông đồng bào
dân tộc Dao Thanh Phán sinh sống là chương trình rất có ý nghĩa của tỉnh Quảng
Ninh; Qua đó, cán bộ, lãnh đạo ở các địa phương có công cụ giao tiếp để tích cực
triển khai chủ trương, chính sách, các qui định của trung ương, của tỉnh, của địa
phương về xây dựng Đảng, phát triển KT-XH, đảm bảo quốc phòng - an ninh. Vấn
đề không chỉ dạy tiếng DTTS trong cộng đồng mà cũng cần có những hoạt động
dạy tiếng DTTS, cụ thể là tiếng Sán Dìu ở cán bộ công tác tại những địa phương có
đông người Sán Dìu sinh sống.
Di sản dân ca của dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn phong phú và đa
dạng, được cộng đồng ứng tác và truyền miệng qua bao đời nay. Trong quá trình
sáng tạo và lưu truyền các bài dân ca, người Sán Dìu không chỉ truyền lại cho các
thế hệ sau bằng hình thức truyền miệng mà những thầy cúng, thầy thuốc, những
người biết chữ Nôm - Sán Dìu đã ghi chép lại thành những cuốn ca thư cổ. Nói đến
dân ca là nói đến các lời ca của mẹ ru con trên lưng, chị ru em trong nôi, bà ru cháu
bên bếp lửa, hay các bài giao duyên, hẹn hò của nam thanh nữ tú trong hội xuân,
ngày cưới, lễ hội Đại phan… Trong bối cảnh hiện nay, để làm phong phú hơn kho
tàng dân ca của cộng đồng và phù hợp với đời sống, cộng đồng đã sáng tác thêm
nhiều bài dân ca mới ca ngợi Đảng, Bác Hồ trong đó sử dụng các giai điệu, niêm
luật của dân ca truyền thống và được ghi lại bởi hệ thống chữ Latin.
Trong nhiều lần điền dã tại huyện đảo Vân Đồn, đặc biệt ở xã Bình Dân,
NCS đã sưu tầm được 30 bài dân ca sáng tác mới, trong đó có 22 bài ca ngợi Đảng,
Bác Hồ; 08 bài ca ngợi việc phát triển kinh tế, đời sống ấm no. So sánh với số lượng
các bài dân ca theo lời mới tại các địa phương khác như: xã Na Quán, huyện Đồng
85
Hỷ, tỉnh Thái Nguyên là 57 bài, trong đó có 35 bài ca ngợi Đảng, Bác Hồ; 22 bài ca
ngợi việc phát triển kinh tế, đời sống ấm no; xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh
Phúc có 34 bài dân ca sáng tác mới, trong đó con số lần lượt là 24 và 10 bài. Qua đó
cho thấy, sự sáng tạo của người dân và cộng đồng là không ngừng. Sự sáng tạo này
đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng DSVH của dân tộc Sán Dìu huyện đảo
Vân Đồn nói riêng và dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam nói chung.
Kết quả điều tra xã hội học tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn cho thấy, khi
được hỏi “Theo ông/bà, những phong tục, tập quán nào dưới đây của dân tộc Sán
Dìu hiện nay được cộng đồng còn lưu giữ?” có 213 người được phỏng vấn đã bày tỏ
quan điểm về các thành tố văn hóa vật thể đã bị mai một nhanh nhóng như: Kiến
trúc đình, miếu có 49/213 người trả lời “thay đổi nhiều”, chiếm 23,0%; 104/213
người trả lời ở mức độ “hoàn toàn thay đổi”, chiếm 48,8%.... Ngược lại, các giá trị
văn hóa phi vật thể được người phỏng vấn trả lời ở các mức độ “không thay đổi” và
“ít thay đổi” ở mức cao, cụ thể: Lễ Đại phan ở mức độ “không thay đổi” có 147/213
người (chiếm 69,0%); ở mức độ “ít thay đổi ” có 23/213 người (chiếm 10,8%); Dân
ca ở mức độ “không thay đổi” có 48/213 người (chiếm 22.5%); ở mức độ “ít thay
đổi ” có 56/213 người (chiếm 26.3%).
(Nguồn: NCS tổng hợp)
86
Trong bối cảnh hiện nay, đời sống của người dân được nâng cao, các tiện ích,
tiện nghi về đồ dùng, trang thiết bị sản xuất và sinh hoạt hiện đại dần thay thế cho các
đồ dùng, vật dụng truyền thống nên giá trị văn hóa vật thể cũng thay đổi nhanh chóng.
Tuy nhiên, các giá trị văn hóa phi vật thể như: Tín ngưỡng dân gian, lễ hội, món ăn
truyền thống… đã đi vào tâm thức của cộng đồng vẫn là những món ăn tinh thần không
thế thiếu trong đời sống văn hóa của cộng đồng dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn.
2.3.3. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong việc khai thác, sử dụng và phát
huy di sản văn hóa
DSVH Sán Dìu là sản phẩm của cộng đồng và do cộng đồng sáng tạo, tích
lũy, trao truyền, nên DSVH Sán Dìu tồn tại và phát triển như thế nào phải do cộng
đồng quyết định. Ở đây, vai trò quyết định nằm ở hai cấp độ đó là:
1) Tham gia quyết định cùng với cơ quan quản lý nhà nước về DSVH với
những nhiệm vụ cụ thể như: Lựa chọn nghệ nhân để xây dựng hồ sơ NNND,
NNUT, NNDG; lựa chọn loại hình DSVH đưa vào danh mục kiểm kê DSVH; quyết
định và lựa chọn loại hình, tổ chức và phương pháp trong việc tổ chức các sự kiện
văn hóa tại cộng đồng… Điều này cần có sự thống nhất giữa chính quyền, cộng
đồng và các bên liên quan để đi đến quyết định có lợi và hài hòa cho các tổ chức
công - tư và cộng đồng.
Hộp 2.6. Sự tham gia của người trong thực hiện chính sách
UBND xã và các ban ngành của xã, thôn đã chủ động, hướng dẫn người dân phát
triển KT-XH. Về công tác văn hóa - xã hội, xã đã hướng dẫn người dân thực hiện
quyền dân chủ trong việc bình xét lựa chọn người có uy tín, nghệ nhân hay tham gia
bàn bạc và tổ chức các lễ hội lớn của xã.
(Nam, tuổi 69, xã Bình Dân, PVS tháng 7/2018)
2) Cộng đồng tự quyết các hoạt động văn hóa truyền thống tại cộng đồng.
Vai trò tự quyết của cộng đồng trong quá trình QL DSVH dân tộc Sán Dìu cũng cần
được thể hiện cho phù hợp với thực tiễn, cần có sự bàn luận, thống nhất của cộng
đồng và cơ quan QLNN về DSVH. Tuy nhiên, trong quá trình bảo tồn cộng đồng
luôn chủ động, linh hoạt trong từng vấn đề cụ thể.
87
Hộp 2.7. Hoạt động của CLB Soọng cô
Năm 2014, một số ông bà yêu thích hát Soọng cô tự lập ra CLB Soọng cô. Đến năm
2015, UNBD xã Bình Dân đã ban hành quyết định thành lập CLB Soọng cô và hoạt
động bài bản hơn. Kinh phí do các hội viên tự nguyện đóng góp để phục vụ các hoạt
động truyền dạy, giao lưu với các CLB trong và ngoài tỉnh.
(Nữ, tuổi 36, xã Bình Dân, PVS tháng 6/2020)
Hộp 2.8. Quá trình thực hành lễ Đại phan
Trong toàn bộ quá trình thực hiện lễ hội Đại phan, các thực hành về nghi lễ về lễ
vật, thời gian, số lượng thầy cúng đều do thầy Giám Độ sư quyết định. Chính quyền
chỉ tham gia vào công tác quản lý hành chính và trật tự trị an.
(Nam, tuổi 48, xã Bình Dân, PVS tháng 6/2020)
Vai trò cộng đồng được thể hiện qua tính chủ động, tích cực trong tiếp nhận,
nắm bắt các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
Thực tế cho thấy, nhiều người dân đã có sự quan tâm đến các văn bản chính sách về
văn hóa. Tuy chưa hiểu đầy đủ và chi tiết về nội dung chính sách nhưng cộng đồng
cũng nhận thức được tinh thần cơ bản của Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày
16/7/1998 của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII)
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội
nghị Trung ương 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước… Chính sự hiểu biết của người
dân và cộng đồng đã giúp cộng đồng nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của QL
DSVH dân tộc Sán Dìu trong đời sống hiện nay; đồng thời, khuyến khích họ phát
huy các giá trị văn hóa. Cộng đồng nhận thức được việc QL DSVH dân tộc Sán Dìu
là vấn đề tự thân của mỗi thành viên trong cộng đồng, chứ không phải việc của
chính quyền hay của tổ chức khác.
Hộp 2.9. Vai trò người có uy tín trong cộng đồng
Là người uy tín của thôn, tôi biết mình là cầu nối giữa người dân và chính quyền nên
88
tôi đã cùng với cộng đồng và chính quyền xã tích cực đề nghị chính quyền ban ngành
các cấp quan tâm đầu tư, hỗ trợ bảo tồn văn hóa Sán Dìu, đặc biệt trong việc khôi
phục miếu Thành hoàng, tổ chức lại lễ hội Đại phan và mở các lớp dạy tiếng Sán Dìu,
lớp Soọng cô cho thế hệ trẻ.
(Nam, tuổi 69, xã Bình Dân, PVS tháng 7/2018)
Năm 2008, Sở VH,TT&DL phục dựng lễ hội Đại phan và từ đó đến nay, mặc
dù cộng đồng mong muốn được cơ quan QLNN tiếp tục duy trì, phát huy nhưng
hơn 10 năm qua lễ hội chưa được quan tâm tổ chức dưới góc độ QLNN. Tuy nhiên,
bằng sự chủ động, tích cực trong QL DSVH, cộng đồng dân tộc Sán Dìu ở các địa
phương khác trong tỉnh đã xin cấp phép của liên ngành tỉnh (Sở VH&TT, Sở Nội
vụ, Ban Dân tộc và Công an tỉnh) để đứng ra tổ chức Lễ Đại phan, cụ thể như: xã
Quảng An, huyện Đầm Hà (2013); xã Cộng Hòa, thành phố Cẩm Phả (2016); xã
Thống nhất, huyện Hoành Bồ (2017).
Thực trạng trên cho thấy, từ mô hình kết hợp vai trò tự quản của cộng đồng
với sự trợ giúp của nhà nước như phục dựng lễ hội Đại phan năm 2008 tại xã Bình
Dân đã chuyển sang mô hình quản lý và tổ chức mang tính cộng đồng tự quản có sự
kiểm tra, giám sát của các cơ quan QLNN. Bên cạnh đó, cộng đồng tự quản DSVH
của mình thông qua quy ước của thôn xóm và các tổ chức thiết chế truyền thống
như phường hội tương trợ giúp đỡ nhau. Họ đã tập hợp, liên kết lại vì việc chung
của làng, có người đứng đầu lãnh đạo, phân công từng nhóm công việc cụ thể. Mọi
thành viên tham gia các công việc đều nhiệt tình, trách nhiệm với phần việc được
giao. Kết thúc lễ hội hay các công việc của làng, các thành viên trong ban tổ chức
họp rút kinh nghiệm và tự giải thể ban tổ chức khi kết thúc buổi họp.
Cộng đồng Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn tích cực phối hợp, hợp tác với
chính quyền, cơ quan chức năng trong việc QL DSVH dân tộc Sán Dìu như: tham
gia kiểm kê DSVH, lập hồ sơ NNDG; tham dự các sự kiện văn hóa Đại hội đại biểu
DTTS huyện đảo Vân Đồn năm 2019, Hội thi thể dục - thể thao huyện, Canaval Hạ
Long; phối hợp với các cơ quan truyền thông, báo chí Trung ương và địa phương để
giới thiệu, quảng bá văn hóa truyền thống người Sán Dìu; phối hợp với các cơ quan,
nhà khoa học nghiên cứu về văn hóa dân tộc Sán Dìu như: chủ động phối hợp với
89
nhà nghiên cứu Nhân học Nguyễn Văn Chính (Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) và nhà nghiên cứu Nhân học Yasuda Masaco,
nhà nghiên cứu Nhân học Naraoda (Trường Đại học Kyoto) nghiên cứu về sinh kế
người Hoa, người Sán Dìu tại huyện Vân Đồn; tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa đưa
nhiều đoàn sinh viên nghiên cứu về tiếng Sán Dìu; nhà nghiên cứu Cao Tiên Cúc và
Tả Hà đến từ Trường Đại học Dân tộc Quảng Tây nghiên cứu về văn hóa người Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn…
Vai trò chủ động, tích cực còn được thể hiện khi phối hợp với các tổ chức
phi quan phương tiến hành những hoạt động QL DSVH như: CLB Soọng cô xã
Bình Dân định kỳ 02 buổi/tuần tổ chức tập luyện các bài hát dân ca hay các đoạn
trích nghi lễ cấp sắc, cưới xin để tham gia các sự kiện văn hóa ở địa phương hoặc đi
giao lưu với các địa phương trong tỉnh như: Cẩm Phả, Hạ Long và các tỉnh: Vĩnh Phúc,
Bắc Giang, Thái Nguyên… Trong chương trình Liên hoan dân ca Sán Dìu lần thứ nhất
do Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa Sán Dìu (Hội Văn nghệ dân
gian Việt Nam) tổ chức tại huyện Vân Đồn, các nghệ nhân CLB Soọng cô xã Bình Dân
đạt giải Nhất với thể loại trích đoạn “Đón dâu”. CLB dân ca do những người dân trong
cộng đồng lập ra là sân chơi của những người yêu thích dân ca.
Hộp 2.10. Trao truyền Soọng cô
Ngay từ những ngày đầu tiên đi dạy các cháu trong xã hát, ai cũng thích và phấn
khởi lắm. Bà tuổi cao mắt kém nhưng các cháu nhờ bà dạy hát cho là bà nhận lời
ngay. Nhiều buổi tối phải đi bộ, không nhìn rõ đường cũng sợ, nhưng vẫn quyết tâm
đi vì các cháu muốn học thì mình phải cố. Bây giờ có người chịu học là quý lắm rồi
(Nữ, tuổi 82, Bình Dân, PVS tháng 6/2020)
Trong cộng đồng có nhiều tổ chức phi quan phương tạo nên nhiều hình thức
sinh hoạt đa dạng, đáp ứng được các nhu cầu sinh hoạt của cộng đồng, từ lao động
sản xuất đến vui chơi giải trí. Đây cũng là cách thức để tăng tính cố kết cộng đồng,
làm cho giá trị cộng đồng ngày càng bền chặt, giúp nhau phát triển KT-XH, qua đó
các giá trị DSVH ngày càng được khẳng định thông qua quản lý, thực hành và
truyền dạy tại cộng đồng.
90
2.3.4. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong việc quảng bá, giới thiệu di sản
văn hóa
Nhận thức được DSVH là tài sản vô giá, là nguồn lực góp phần thúc đẩy phát
triển KT-XH, nên việc khai thác, giới thiệu và quảng bá các giá trị DSVH được coi
là trách nhiệm cũng như niềm tự hào của cộng đồng. QL DSVH phải gắn với cộng
đồng, lấy cộng đồng làm trung tâm, bởi vì cộng đồng chính là đối tượng sáng tạo và
lưu truyền các giá trị văn hóa.
Có ba hình thức cơ bản mà qua đó, vai trò của cộng đồng trong việc quảng
bá, giới thiệu DSVH được thể hiện rất rõ, là: 1) Vai trò của cộng đồng trong việc
quảng bá, giới thiệu DSVH thông qua bảo tàng; 2) Vai trò của cộng đồng trong việc
quảng bá, giới thiệu DSVH trong các sự kiện văn hóa; 3) Vai trò của cộng đồng
trong việc quảng bá, giới thiệu DSVH tại cộng đồng.
Tại Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh, DSVH các DTTS nói chung và dân tộc Sán
Dìu nói riêng được quan tâm, chú trọng đầu tư, trưng bày theo từng dân tộc và đây
cũng là điểm hấp dẫn thu hút đông đảo khách tham quan. Cách trưng bày tại Bảo
tàng tỉnh Quảng Ninh đã giúp khách tham quan có cái nhìn toàn cảnh về văn hóa
các DTTS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Các nét sinh hoạt văn hóa tiêu biểu được
giới thiệu như chợ phiên vùng cao Bình Liêu, lễ cấp sắc của dân tộc Dao, Soóng cọ
của dân tộc Sán Chay, Then của dân tộc Tày, lễ cưới hỏi của dân tộc Sán Dìu… Tuy
nhiên, qua quan sát cho thấy, việc trưng bày chưa khoa học, các hiện vật và nội
dung trưng bày dày đặc, chưa thể hiện rõ các đặc trưng DSVH của dân tộc Sán Dìu.
Từ năm 2012 đến nay, mỗi kỳ tổ chức Carnaval Hạ Long đều có sự tham gia
của nhiều tiết mục nghệ thuật dân gian của các DTTS trong tỉnh như: Múa xúc tép
của dân tộc Sán Chay (Bình Liêu); trích đoạn cấp sắc của dân tộc Dao (Hoành Bồ);
trang phục Dao Thanh Y, Dao Thanh Phán (Tiên Yên, Uông Bí) và trích đoạn leo
gươm, múa hành quang lễ Đại phan của dân tộc Sán Dìu (Vân Đồn)… Việc trình
diễn các tiết mục văn nghệ dân gian truyền thống của các DTTS trong tỉnh đã tạo sức
lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng các DTTS tỉnh Quảng Ninh nói chung và dân tộc
Sán Dìu nói riêng. Có thể nói, khát vọng và niềm tự hào của các dân tộc là được thể
hiện DSVH của mình ra thế giới với sự chiêm ngưỡng của du khách, sự giao lưu văn
hóa giữa các đoàn nghệ thuật, giữa dân tộc đa số với DTTS, giữa người Việt Nam và
91
các đoàn nghệ thuật quốc tế cùng tham gia biểu diễn tại Carnaval. Sắc màu văn hóa
của dân tộc Sán Dìu và các DTTS trong tỉnh là “món ăn lạ” đặc sắc và hấp dẫn khán
giả trong các màn trình diễn nghệ thuật dân gian. Đây là điểm mới kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, giúp quảng bá hình ảnh và con người Quảng Ninh với bạn
bè quốc tế. Ngoài ra, cộng đồng dân tộc Sán Dìu huyện đảo Vân Đồn phối hợp với
chính quyền các cấp tham gia nhiều đoàn biểu diễn tại các cuộc thi, liên hoan vùng,
toàn quốc do Bộ, ngành Trung ương và địa phương tổ chức.
Hộp 2.11. Cơ hội được giao lưu
Tôi nhiều lần tham gia biểu diễn Carnaval Hạ Long cũng như tham gia Ngày hội
văn hóa do tỉnh và trung ương tổ chức. Tôi rất tự hào vì đã thể hiện được bản sắc
văn hóa của dân tộc mình với bạn bè các dân tộc khác. Thông qua những hoạt động
đó, bạn bè trong nước và quốc tế sẽ hiểu hơn về văn hóa và con người Sán Dìu.
(Nữ, tuổi 58, xã Bình Dân, PVS, tháng 7/2018)
Trong sinh hoạt, cộng đồng ý thức được DSVH là báu vật của các bậc tiền
nhân kết tinh từ ngàn đời, nên việc QL DSVH được xem là trách nhiệm và nghĩa vụ
của từng thành viên trong cộng đồng. Việc sáng tạo, nuôi dưỡng và trao truyền luôn
được cộng đồng thực hành. Đây là nguồn lực giúp tái tạo sức lao động, phục vụ đời
sống tinh thần của cộng đồng. Ngoài ra, các giá trị DSVH là nguồn lực nội sinh thúc
đẩy phát triển sinh kế, điển hình là nhiều hộ gia đình đã phát triển các giá trị văn
hóa thành hàng hóa phục vụ nhu cầu thị trường. Minh chứng là nhiều món ăn như:
bánh chưng gù, bánh lá ngải, bánh tày lồng ệp, bánh bạc đầu, khau nhục và các cây
lương thực, thực phẩm như: ngô, khoai, sắn, cải xanh, dưa muối… phục vụ khách
du lịch ở các bãi biển ở Vân Đồn và chùa Cái Bầu.
Với câu hỏi phỏng vấn “Khi địa phương có hoạt động du lịch thì ông/bà và
người thân có muốn tham gia vào hoạt động đó để giới thiệu bản sắc văn hóa của
dân tộc mình với du khách và tạo ra nghề mới có thu nhập ổn định hay không?”, câu
trả lời “Rất quan tâm” có 154/213 người, chiếm 72% và 59/213 người trả lời với
mức độ “Quan tâm”, chiếm 28%; không có người nào trả lời ở các mức độ “Quan
tâm ít” hay “Không quan tâm”. Điều đó cho thấy, cộng đồng chủ động, tích cực và
92
sẵn sàng chuyển đổi sinh kế trong bối cảnh mới, khi huyện đảo Vân Đồn thành Khu
kinh tế. Hiện nay, Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn đi vào hoạt động đã thu hút
được 386 người dân tộc Sán Dìu đến làm việc.
(Nguồn: NCS tổng hợp)
Kinh nghiệm quản lý và tổ chức sự kiện giới thiệu, quảng bá DSVH dân tộc
Sán Dìu ở huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc cũng là một bài học quý. Chính quyền
huyện Tam Đảo, cấp xã và cộng đồng đã lồng ghép chuỗi Lễ hội văn hóa tâm linh
Tây Thiên gắn với Ngày hội văn hóa dân tộc Sán Dìu như tổ chức làm mâm cỗ ngày
tết hay tổ chức các trò chơi dân gian. Đặc biệt, chính quyền phối hợp với cộng đồng
dân tộc Sán Dìu huyện Tam Đảo mời các đoàn nghệ nhân Sán Dìu 04 tỉnh (Quảng
Ninh, Bắc Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên) đến tham dự và thi hát Soọng cô. Về
phương thức đón tiếp, Chính quyền chỉ đạo và hỗ trợ mỗi cộng đồng thuộc cấp xã
đón tiếp 01 đoàn nghệ nhân của một tỉnh về giao lưu tại cộng đồng, UBND huyện
Tam Đảo hỗ trợ kinh phí để cấp xã và cộng đồng đón tiếp các đoàn.
Hộp 2.12. Hoạt động lễ hội Tây Thiên gắn với văn hóa Sán Dìu
Người dân, du khách, đặc biệt cộng đồng dân tộc Sán Dìu không chỉ ở Vĩnh Phúc mà ở
cả các tỉnh phía Bắc đều rất phấn khởi khi các hoạt động biểu diễn, quảng bá văn hóa
Sán Dìu trở thành “món ăn” không thể thiếu trong lễ hội Tây Thiên hằng năm.
(Nam, tuổi 64, xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, PVS tháng 5/2019)
Một kinh nghiệm khác của UBND huyện đã chỉ đạo và tổ chức Lễ hội Hoàng
Cần gắn với Ngày hội văn hóa, thể thao dân tộc Sán Dìu từ năm 2018 đến 2020 với
phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Việc tổ chức Lễ hội đã huy động
93
được sức dân trong việc sưu tầm hiện vật trưng bày, khôi phục tục hát Soọng cô,
nấu các món ăn truyền thống, tổ chức các trò chơi dân gian… Qua nhiều năm, giá
trị DSVH chưa được thể hiện, đặc biệt thế hệ trẻ chưa biết đến DSVH truyền thống
của dân tộc mình, nay được chính quyền các huyện Tiên Yên quan tâm chỉ đạo, đầu
tư, hỗ trợ cùng cộng đồng tổ chức. Đây là hoạt động văn hóa thường niên của chính
quyền và cộng đồng, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ không chỉ trong cộng đồng dân tộc
Sán Dìu, mà còn thu hút đông đảo người dân trong tỉnh và du khách đến tham quan.
Để ba hình thức quảng bá, giới thiệu DSVH có hiệu quả, ngoài sự vào cuộc
quyết liệt của cơ quan QLNN về DSVH và nỗ lực của cộng đồng, còn có vai trò đặc
biệt của các bên liên quan khác. Các bên liên quan có thể là nhà tư vấn chuyên môn,
marketing, trung tâm tổ chức sự kiện, doanh nghiệp, cơ quan nghiên cứu, tư vấn…
Các bên liên quan khác có vai trò là động lực thúc đẩy cho quá trình giới thiệu và
quảng bá DSVH đến công chúng được nhanh hơn, hiệu quả hơn, đem lại lợi ích cả
về mặt KT-XH lẫn phát triển cộng đồng địa phương thông qua các hoạt động du
lịch cộng đồng, du lịch văn hóa… Các bên liên quan hợp tác, thương thảo với cơ
quan QLNN và cộng đồng để lập các chương trình, dự án phát huy DSVH thành sản
phẩm văn hóa phục vụ nhu cầu của nhân dân và khách du lịch.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích về phát triển KT-XH, phát triển cộng
đồng trong hợp tác giữa các bên liên quan cũng có nhiều mặt hạn chế. Đó là việc
phân chia quyền, trách nhiệm và lợi ích khi các bên liên quan hợp tác với cộng
đồng; vai trò chủ thể, quyền quyết định thực hành DSVH của cộng đồng bị lấn át
bởi lợi ích kinh tế; phá vỡ không gian văn hóa truyền thống, các giá trị DSVH bị
sân khấu hóa làm biến dạng; tệ nạn xã hội gia tăng… Đây là những yếu tố có thể
xảy ra khi sự hợp tác của cơ quan QLNN, cộng đồng và các bên liên quan đặt lợi
ích kinh tế lên hàng đầu hoặc giữa các bên thiếu chặt chẽ trong cơ chế phối hợp
quản lý, hay chưa tìm được tiếng nói chung trong quá trình phối hợp.
94
2.4. Sự tham gia của các bên liên quan khác trong quản lý di sản văn
hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
2.4.1. Các tổ chức chính trị xã hội, hội đoàn
- Các tổ chức chính trị - xã hội như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân đã tích cực phối hợp với chính quyền
địa phương trong công tác QL DSVH của dân tộc Sán Dìu. Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh xã Bình Dân đóng vai trò nòng cốt trong các phong trào văn hóa,
văn nghệ và tích cực đưa các giá trị văn hóa truyền thống như hát Soọng cô, trò chơi
dân gian, ôn lại truyền thống lịch sử của dân tộc Sán Dìu trong các buổi sinh hoạt
của thanh thiếu niên nhi đồng. Các tổ chức chính trị xã hội, hội đoàn đã phối hợp
với chính quyền địa phương tổ chức đón tiếp, giao lưu với các đoàn khách khi đến
giao lưu văn hóa Sán Dìu tại xã Bình Dân, huyện đảo Vân Đồn.
- Theo thống kê của UBND xã Bình Dân, từ khi thành lập CLB Soọng cô của
xã vào năm 2005, CLB Soọng cô đã đón 23 đoàn từ các địa phương trong và ngoài
tỉnh đến giao lưu như CLB Soọng cô phường Quang Hanh, thành phố Cẩm Phả;
CLB Soọng cô phường Hà Phong, thành phố Hạ Long; CLB Soọng cô xã Giáp Sơn,
huyện Lục Ngạn (Bắc Giang); CLB Soọng cô xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo (Vĩnh
Phúc); CLB Soọng cô xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang)….
Sự phối hợp của các tổ chức chính trị xã hội, hội đoàn có vị trí, vai trò quan
trọng trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn. Vị trí đó được thể
hiện trong các hoạt động phối hợp với chính quyền địa phương và cộng đồng để tổ
chức thực hiện hiệu quả các sự kiện văn hóa diễn ra tại cộng đồng như tổ chức phục
dựng lễ hội Đại phan năm 2008; tổ chức giao lưu với các đoàn trong và ngoài tỉnh;
tuyên truyền vận động các đoàn viên, hội viên thực hiện nếp sống văn minh, giữ gìn
và phát huy bản sắc dân tộc.
2.4.2. Các cơ quan truyền thông
DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn được QL hiệu quả thông qua
các tổ chức truyền thông đại chúng như đài phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện
tử, mạng xã hội… Với từ khóa “văn hóa Sán Dìu huyện Vân Đồn” kết quả tìm kiếm
95
trên Google cho kết quả khoảng 151.000 (0,46 giây). Điều đó cho thấy, DSVH dân
tộc Sán Dìu không những được QL trong cộng đồng mà còn được quảng bá trên các
phương tiện truyền thông như: Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài tiếng nói Việt
Nam (VOV), Báo Nhân dân, Báo Du lịch, Báo Công thương, Báo Quảng Ninh, Đài
Phát thanh - truyền hình Quảng Ninh (QTV), Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng
Ninh, Cổng thông tin điện tử huyện Vân Đồn…Nhiều chương trình, tin bài, phim
tài liệu được sản xuất với các nội dung như: Nét đẹp truyền thống của dân tộc Sán
Dìu ở Bình Dân, Người Sán Dìu Quảng Ninh giữ gìn văn hóa dân tộc, Khúc hát
Soọng cô của sơn ca núi, Lễ hội Đại phan của người dân tộc Sán Dìu trong video
Khám phá Việt Nam trên VTV1…
Một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ của thời đại công nghệ số hiện
nay là sự phát triển của mạng xã hội như facebook, zalo, youtube, twitter, instagram
nên các cá nhân, nhóm cộng đồng mạng đã đưa giá trị DSVH Sán Dìu với những
không gian cư trú khác nhau xích lại gần nhau hơn. Các cá nhân là người dân tộc
Sán Dìu không chỉ thể hiện DSVH của mình tại cộng đồng cư trú mà còn thể hiện trên
không gian mạng. Kết quả tìm kiếm từ khóa “cộng đồng Sán Dìu” trên mạng xã hội có
hơn 30 trang facebook là các nhóm cộng đồng mạng trao đổi về thông tin, hình ảnh về
bản sắc văn hóa Sán Dìu. Trong hơn 30 trang đó có trang Cộng đồng dân tộc Sán Dìu
tỉnh Quảng Ninh với 2.968 người thích và 3.142 người theo dõi trang. Trang mạng
Cộng đồng dân tộc Sán Dìu tỉnh Quảng Ninhhoạt động với mục tiêu: Dân tộc Sán Dìu
(Quảng Ninh) cùng phục hưng tất cả những nét đặc sắc văn hoá, lễ hội, tiếng nói, chữ
viết, hát, gắn kết và làm quen giữa các thành viên của dân tộc.
Vai trò của truyền thông có tác động rất lớn đến hiệu quả của công tác QL
DSVH dân tộc Sán Dìu cả nước nói chung và ở huyện đảo Vân Đồn nói riêng.
Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, cộng đồng đã giúp thế hệ trẻ
hiểu rõ hơn các giá trị DSVH của dân tộc, cũng là dịp để lớp tuổi cao niên ôn lại
những truyền thống văn hóa đang dần bị mai một. Các chương trình, bài viết giới
thiệu về DSVH dân tộc Sán Dìu không chỉ dừng lại ở góc độ giới thiệu về nét đẹp
văn hóa Sán Dìu mà còn chỉ ra được những thuận lợi, khó khăn cũng như những giá
96
trị DSVH dân tộc Sán Dìu đang bị mai một trong quá trình phát triển cần phải được
chính quyền, đoàn thể và cộng đồng quan tâm BV&PH trong bối cảnh hiện nay.
2.4.3. Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa Sán Dìu
Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa Sán Dìu là một tổ chức
xã hội nghề nghiệp thuộc Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam có tư cách pháp nhân,
con dấu và tài khoản riêng, trụ sở chính tại huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Trung
tâm là cơ quan chuyên sâu nghiên cứu và hỗ trợ cộng đồng dân tộc Sán Dìu cả nước
về bảo tồn và phát triển văn hóa Sán Dìu.
Năm 2019, Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa Sán Dìu đã
phối hợp với Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Vân Đồn và UBND thị trấn Cái
Rồng tổ chức giao lưu Cộng đồng dân tộc Sán Dìu toàn quốc tại huyện Vân Đồn
với sự tham dự của hơn 500 đại biểu là người dân tộc Sán Dìu đến từ các địa
phương: Hà Nội, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang,
Thái Nguyên, Đồng Nai, Lâm Đồng. Nằm trong chuỗi sự kiện này, Trung tâm tổ
chức Liên hoan Dân ca lần thứ I năm 2019, với sự tham gia dự thi của các tiết mục
dân ca đặc sắc đến từ nhiều địa phương. Kết quả, CLB Soọng cô xã Bình Dân,
huyện Vân Đồn đạt giải Nhất với thể loại trích đoạn đón dâu. Trung tâm cũng đã tổ
chức các đoàn đại biểu dân tộc Sán Dìu đến thăm, giao lưu văn hóa và tặng quà cho
các hộ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn.
Trong các hoạt động ở huyện Vân Đồn, Trung tâm đã phối hợp với chính
quyền cấp huyện đang triển khai các nhiệm vụ về bảo tồn tiếng nói, chữ viết Sán
Dìu; ngữ văn dân gian Sán Dìu; tư vấn tổ chức lễ hội Đại phan vào cuối năm 2020
theo Quyết định số 51/2019/QĐ-UBND ngày 31/10/2019 của UBND huyện Vân
Đồn. Trung tâm đã phối hợp với chính quyền xã Bình Dân và các nhà khoa học, các
nghệ nhân, thầy cúng tổ chức biên soạn sách dạy tiếng Sán Dìu theo hệ chữ Latin.
Với những hoạt động thiết thực và ý nghĩa trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu,
Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa Sán Dìu đã và đang phối hợp
tích cực và hiệu quả với chính quyền các cấp huyện Vân Đồn để triển khai các
nhiệm vụ BV&PH giá trị văn hóa Sán Dìu trong năm 2020 và những năm tiếp theo.
97
2.5. Thực trạng cơ chế phối hợp trong quản lý di sản văn hóa dân tộc
Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Thành công trong công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
sẽ là kết quả của mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa QLNN, quản lý của cộng đồng
và các bên liên quan khác. Mối quan hệ này được thể hiện thông qua chức năng
QLNN về DSVH trong quá trình chỉ đạo, ban hành, thực thi cơ chế chính sách,
hướng dẫn, hỗ trợ cộng đồng QL DSVH; vai trò của cộng đồng trong việc phối hợp
với các cơ quan QLNN về DSVH triển khai thực hiện các nhiệm vụ QL DSVH tại
địa phương; vai trò của cộng đồng khi phối hợp với các bên liên quan khác trong
việc cung cấp thông tin và phát huy giá trị của DSVH dân tộc Sán Dìu.
- Vai trò định hướng các hoạt động quản lý DSVH: thực tế cho thấy từ khi
Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 của Ban Chấp hành Trung ương tại
Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày
09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI)
về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước đi vào cuộc sống, cho đến nay đã có nhiều đợt tổng kết
nhằm rút ra bài học kinh nghiệm về QL DSVH. Sau đó, một loạt các cơ chế
chính sách về QL DSVH nói riêng từ trung ương đến tỉnh, huyện được triển khai
tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để thực hiện công tác QL DSVH. Cụ thể, Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU
ngày 09/3/2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; HĐND huyện
Vân Đồn ban hành Nghị quyết số 105/NQ-HĐND ngày 20/12/2019 về việc
Thông qua Đề án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian truyền thống của
dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2020-2022,…
- Vai trò QLNN là lực lượng hỗ trợ cho DSVH được BV&PH theo định
hướng của nhà nước được thể hiện ở ba mặt sau:
98
Thứ nhất: hỗ trợ về pháp lý, tạo điều kiện cho việc quản lý DSVH được diễn
ra theo đúng mục tiêu với cơ chế, chính sách, cụ thể như: cộng đồng dân tộc Sán
Dìu đề nghị UBND xã Bình Dân thành lập CLB Soọng cô; UBND xã Bình Dân
tham mưu trình UBND huyện Vân Đồn hỗ trợ cộng đồng hoàn thiện thủ tục, hồ sơ
trình UBND tỉnh cấp phép tổ chức lễ hội Đại phan… Trong quá trình cộng đồng
thực hành DSVH luôn có sự quản lý, kiểm tra, giám sát về mặt hành chính của các
cơ quan chuyên môn.
Thứ hai: công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu được hỗ trợ kinh phí hoạt động
từ ngân sách nhà nước, cụ thể UBND xã Bình Dân cân đối ngân sách năm 2019 hỗ
trợ 50.000.000 đồng xây miếu Thành hoàng; hỗ trợ các hoạt động giao lưu Soọng
cô, tiếp đón nhiều đoàn đến giao lưu với kinh phí 10.000.000 đồng/năm.
Thứ ba: hỗ trợ chuyên môn, nghiệp vụ DSVH thông qua các lớp bồi dưỡng,
tập huấn cho đối tượng: cán bộ thôn, nghệ nhân, người có uy tín…
- Vai trò QLNN là vai trò nòng cốt được thể hiện trong công tác chỉ đạo,
quản lý và vận hành bộ máy QLNN thông qua chính sách văn hóa nhằm nâng cao
đời sống nhân dân và đảm bảo phát triển KT-XH ổn định. Mặt khác, vai trò này còn
là cầu nối giữa cơ quan QLNN với cộng đồng và các nhà khoa học, doanh nghiệp,
tổ chức, đoàn thể xã hội trong việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ, dự án về các hoạt
động QL DSVH dân tộc Sán Dìu trên địa bàn huyện Vân Đồn.
Cơ chế phối hợp giữa cơ quan QLNN về DSVH thông qua bộ máy hành
chính thực hiện chính sách trên cơ sở luật pháp và văn bản dưới luật nhằm cụ thể
hóa các nhiệm vụ như xét tặng danh hiệu NNND, NƯT, kiểm kê DSVH, hoạt động
kiểm tra, đánh giá…. Cộng đồng thực hiện vai trò là chủ thể văn hóa thông qua các
thực hành văn hóa đối với di sản như hát Soọng cô, lễ cấp sắc, tổ chức các nghi lễ
hàng năm tại đình, miếu…; đồng thời cũng phản ánh, đề xuất tâm tư, nguyện vọng
của cộng đồng nhằm đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân và giúp cơ quan QLNN
điều chỉnh, bổ sung các cơ chế, chính sách cho phù hợp với thực tiễn và nguyện
vọng chính đáng của người dân và cộng đồng.
99
Về cơ bản, công tác QL DSVH đã phát huy hiệu quả khi có sự đồng thuận
của cộng đồng với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng bàn, cùng làm, cùng
kiểm tra, giám sát và thụ hưởng”, phối hợp nhịp nhàng giữa vai trò QLNN và
cộng đồng. Tuy nhiên, cơ chế phối hợp của cơ quan chức năng, chính quyền địa
phương với người dân và cộng đồng tại huyện Vân Đồn đôi lúc chưa thực sự
chặt chẽ nên hiệu quả công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện chưa cao.
Các nhiệm vụ thực hiện chủ yếu được triển khai theo sự chỉ đạo từ Sở VH&TT,
UBND huyện. Các hoạt động nghiệp vụ như kiểm kê DSVH thực hiện chưa đầy
đủ, không bám sát với thực tiễn. Ví dụ, trong danh mục kiểm kê DSVH của dân
tộc Sán Dìu tại huyện Vân Đồn do Phòng Văn hoá và Thông tin huyện Vân Đồn
thực hiện có 04 DSVH, nhưng trên thực tế số lượng DSVH có trong huyện là
nhiều hơn con số đó; công tác lập danh sách và xây dựng hồ sơ đề nghị cấp có
thẩm quyền phê duyệt, vinh danh nghệ nhân theo Nghị định số 62/2014/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 25/6/2014 về xét tặng danh hiệu NNƯT, NNND trong lĩnh
vực DSVH phi vật thể chưa hiệu quả. Công tác chuyên môn QLNN về DSVH của
Phòng Văn hóa - Thông tin mặc dù đã có sự chủ động nhưng các nhiệm vụ về
quản lý DSVH vẫn chưa được triển khai thường xuyên.
Hộp 2.13. Hạn chế trong QLNN về DSVH tại huyện Vân Đồn
Các nhiệm vụ chưa được triển khai thường xuyên do nhiều nguyên nhân, cả chủ
quan và khách quan như: kinh phí dành cho công tác BV&PH DSVH rất hạn chế,
lãnh đạo và chuyên viên chuyên quản thường xuyên thay đổi, nhân lực phục vụ cho
công tác vừa thiếu vừa yếu.
(Nữ, tuổi 52, huyện Vân Đồn, PVS tháng 6/2020)
Trong cộng đồng vẫn có một bộ phận không nhỏ người dân còn thờ ơ, bàng
quang, thậm chí quay lưng với DSVH truyền thống. Họ cho rằng DSVH dân tộc
Sán Dìu trở lên lỗi thời, lạc hậu và không phù hợp với đời sống hiện nay.
Hộp 2.14. Ý kiến trái chiều về BV&PH giá trị DSVH Sán Dìu
Bây giờ người ta học tiếng Anh, tiếng Trung đi làm giàu, mình ra đường nói tiếng
100
dân tộc họ cho là lạc hậu rồi. Các bà suốt ngày hát ề à không nhạc, nghe không
hiểu, chán lắm.
(Nam, tuổi 73, xã Bình Dân, PVS tháng 5/2018)
Qua phân tích về thực trạng cơ chế phối hợp giữa cơ quan QLNN và cộng
đồng trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn cho thấy có mối quan
hệ tác động quan lại giữa vai trò QLNN và cộng đồng. Đó là mối quan hệ chỉ đạo,
thực thi của nhà nước và vai trò quyết định, phối hợp thực hiện chính sách của cộng
đồng trong thực hành DSVH cũng như sáng tạo, nuôi dưỡng, trao truyền DSVH.
Mối quan hệ này được thực hiện dựa trên quan điểm của UNESCO, của Đảng, Nhà
nước và vấn đề “tự thân” của cộng đồng dân tộc Sán Dìu tại huyện đảo Vân Đồn.
Ngoài mối quan hệ phối hợp giữa QLNN và cộng đồng còn có các bên liên
quan khác tham gia vào quá trình BV&PH giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo
Vân Đồn như: (1) Bộ VH,TT&DL xây dựng nhà văn hóa dân tộc tại xã Bình Dân năm
2006; (2) Đoàn nghệ nhân của các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Phúc và các CLB Soọng cô ở
địa phương trong tỉnh về xã Bình Dân giao lưu Soọng cô; (3) Các cá nhân, doanh
nghiệp hỗ trợ tài chính khi tổ chức lễ hội Đại phan (bởi kinh phí để tổ chức lễ hội là rất
lớn, lên tới hơn 1 tỷ đồng); (4) Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa
Sán Dìu đã có nhiều hoạt động tích cực góp phần bảo vệ DSVH Sán Dìu như tổ chức
Liên hoan Dân ca Sán Dìu lần thứ nhất tại huyện Vân Đồn, tổ chức giao lưu giữa các
đoàn nghệ nhân với UBND xã và cộng đồng dân tộc Sán Dìu tại Bình Dân…
Tóm lại, vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn nổi bật hai
mô hình quản lý khá rõ, cụ thể:
Một là: mô hình kết hợp vai trò tự quản của cộng đồng với sự trợ giúp của
nhà nước thông qua các hoạt động BV&PH giá trị di sản Soọng cô và lễ hội Đại
phan. Nhà nước giữ vai trò định hướng, chỉ đạo, hỗ trợ thông qua nguồn nhân lực
và các cơ chế chính sách hiện hành; cộng đồng giữ vai trò chủ thể, quyết định văn
hóa trực tiếp đến thực hành giá trị văn hóa mình đang nắm giữ.
101
Hai là: mô hình quản lý và tổ chức mang tính chất cộng đồng tự quản, cụ
thể: khi nắm rõ chủ chương, đường lối và chính sách của Đảng, Nhà nước và nhu
cầu, nguyện vọng chính đáng của người dân và cộng đồng, cộng đồng đã tự tổ chức,
tự quản lý và trực tiếp thực hành các giá trị văn hoá đó. Có thể nhắc đến việc vận
hành hoạt động của CLB Soọng cô xã Bình Dân, tổ chức các nghi lễ cúng tế tại
miếu Thành hoàng hàng nằm, tổ chức quản lý và thực hành các nghi lễ Đại phan….
Vai trò của các cơ quan QLNN là cấp phép hoạt động, kiểm tra, giám sát về mặt
hành chính đối với thực hành văn hóa có quy mô như lễ Đại phan, các đoàn nghệ
nhân Soọng cô ngoài địa phương đến giao lưu.
Hai mô hình trên cho thấy, các hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn phù hợp với thực tiễn đặt ra, làm phong phú hơn trong hoạt
động quản lý và thực hành văn hóa của cộng đồng.
2.6. Thực trạng các nguồn lực trong quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Từ việc nhận diện các giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu, đánh giá thực trạng
QLNN về DSVH và thực trạng QL cộng đồng, có thể phân tích một số vấn đề đặt ra
từ góc độ lý thuyết và thực tiễn trong hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện
đảo Vân Đồn. Dựa vào khung phân tích SWOT, NCS nhận diện 03 nguồn lực cơ
bản trong hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, gồm: nguồn
lực con người, nguồn lực cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính.
Điểm mạnh (Strenghts) Cơ hội (Opportunities)
1. Nguồn lực con người 1. Nguồn lực con người
- Nguồn lực con người sử dụng trong
công tác QLNN về DSVH ở huyện Vân
Đồn đang từng bước được kiện toàn theo
vị trí việc làm với hướng tinh gọn,
chuyên môn hóa cao. - Nguồn lực con người sử dụng trong
công tác QLNN về DSVH từ cấp tỉnh
đến xã cơ bản đầy đủ; từ lãnh đạo đến
chuyên viên, theo vị trí việc làm, được
bố trí thực hiện các nhiệm vụ chuyên
môn về quản lý DSVH.
- Nguồn lực con người tại cộng đồng:
nhận thức của cộng đồng ngày càng
nâng cao; có nhiều ngành nghề đào tạo - Nguồn lực con người tại cộng đồng
có cơ cấu dân số trẻ, nguồn lao động
dồi dào, chất lượng lao động ngày càng
cao. Đây là nguồn lực quan trọng góp
102
phần BV&PH giá trị DSVH và phát
triển KT-XH.
phù hợp với các hoạt động BV&PH giá
trị DSVH như du lịch, quản lý văn hóa,
báo chí; phát huy nguồn lực văn hóa là
một sinh kế mới cho cộng đồng.
2. Nguồn lực cơ sở vật chất: Có đầy đủ hệ
thống nhà văn hóa từ cấp thôn đến cấp xã
nhằm phục vụ hiệu quả các sự kiện văn
hóa, nghệ thuật, thể thao quần chúng.
2. Nguồn lực cơ sở vật chất: Các nhà
văn hóa cấp thôn, xã bước được đầu tư
xây dựng, nâng cấp đạt chuẩn theo tiêu
chí Nông thôn mới; Miếu Thành hoàng
được đầu tư xây mới theo nguồn ngân
sách nhà nước và huy động các nguồn
lực xã hội. Các cơ sở hạ tầng thiết yếu như đường
nội thôn, đường từ trung tâm xã đến các
thôn, hệ thống điện lưới, trạm xá, bưu
điện, Internet,... được đầu tư tốt.
số 1427/QĐ-UBND
3. Nguồn lực tài chính cho công tác
BV&PH giá trị DSVH người Sán Dìu
ngày càng được quan tâm và đầu tư
nhằm nâng cao đời sống tinh thần và tạo
sinh kế mới cho cộng đồng.
3. Nguồn lực tài chính: Đã bố trí kinh
phí cho các hoạt động BV&PH giá trị
DSVH người Sán Dìu, cụ thể theo Quyết
định
ngày
26/6/2020 của UBND huyện Vân Đồn
thì ngân sách dành cho công việc này là
2.668.580.000 đồng
trong 03 năm
(2020-2022).
Điểm yếu (Weaknesses) Thách thức (Threats)
1. Nguồn lực con người 1. Nguồn lực con người
- Nhân lực trong hệ thống QLNN cần
cập nhật những kiến thức mới và nâng
cao trình độ quản lý chuyên môn.
- Cán bộ đảm nhiệm công tác QLNN về
DSVH ở huyện Vân Đồn có những hạn
chế về chuyên môn (không được đào tạo
đúng chuyên ngành); các vị trí việc làm
thường xuyên bị thay đổi. - Vai trò trong việc tổ chức tự quản của
cộng đồng bị suy giảm.
- Nguồn lực con người tại cộng đồng có
tham gia trực tiếp liên quan đến lĩnh vực
DSVH rất ít, chủ yếu là người cao tuổi
với phong trào bảo tồn bản sắc văn hóa - Nhận thức của cộng đồng trong BV&PH
giá trị DSVH chưa đồng đều, giới trẻ có
xu hướng chạy theo các hình thức giải trí
hiện đại.
2. Nguồn lực cơ sở vật chất không đủ
đáp ứng nhu cầu khi có các sự kiện liên
thôn, liên xã hoặc các nhu cầu về du
lịch.
2. Nguồn lực cơ sở vật chất: Các nhà
văn hóa cấp thôn đa phần chưa đạt
chuẩn (theo tiêu chí Nông thôn mới);
tình trạng xuống cấp ngày càng gia tăng,
thêm vào đó các công trình phụ trợ như
tường rào, sân chơi… chưa được đầu tư,
hoặc đang xuống cấp.
- Sự bùng phát của công nghệ thông tin
quá mức gây nhiễu loạn trong cách tiếp
cận và hưởng thụ văn hóa, ảnh hưởng đến
đời sống của cộng đồng.
103
3. Nguồn lực tài chính
3. Nguồn lực tài chính cho công tác
BV&PH giá trị DSVH người Sán Dìu
còn thấp.
Sự bất ổn về kinh tế thế giới cũng như
trong nước dẫn đến xu hướng giảm đầu
tư vào tỉnh Quảng Ninh và huyện Vân
Đồn, gây trở ngại cho việc thực hiện hóa
các quy hoạch của huyện.
Bảng 2.3. Nhận diện các nguồn lực trong hoạt động QL DSVH
người Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn thông qua khung phân tích SWOT (Nguồn: NCS tổng hợp)
2.7. Đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước, quản lý của cộng đồng và
các bên liên quan trong quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
2.7.1. Những kết quả đạt được
2.7.1.1. Trong quản lý Nhà nước về di sản văn hóa
- Cấp ủy và chính quyền huyện Vân Đồn đã chỉ đạo thực hiện chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách QLNN về DSVH trên địa bàn huyện theo đúng
tinh thần Nghị quyết TW 5 khóa VIII; Nghị quyết TW 9 khóa XI; Luật Di sản văn
hóa, các văn bản của Chính phủ và tỉnh Quảng Ninh.
- Huyện đã thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách DSVH của tỉnh Quảng
Ninh như: Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 29/5/2013; NQ số 11-NQ/TU ngày
09/3/2018; QĐ số 4071/QĐ-UBND ngày 01/11/2007; QĐ số 1988/QĐ-UBND ngày
07/8/2013; Quyết định số 2994/QĐ-UBND ngày 08/10/2015; Chương trình hành
động số 105/CTr-UBND ngày 02/8/2018…
- Huyện Vân Đồn đã phối hợp với Sở VH&TT thực hiện các nghiệp vụ về
QLNN về DSVH trên địa bàn huyện như: tổ chức, chỉ đạo xây dựng danh sách đề
nghị cấp có thẩm quyền phong tặng danh hiệu NNƯT, NNDG; tổ chức kiểm kê
DSVH phi vật thể. HĐND chỉ đạo UBND huyện Vân Đồn xây dựng Đề án Nghiên
cứu, bảo tồn và phát huy Lễ hội Đại phan và các giá trị văn hóa dân gian truyền
thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; ban hành Nghị quyết
số 105/NQ-HĐND ngày 20/12/2019 về thông qua Đề án bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng
104
Ninh giai đoạn 2020-2022. Huyện quan tâm tới vấn đề phát triển sự nghiệp văn hóa,
phong trào văn nghệ, thể dục thể thao; chú trọng xây dựng các thiết chế văn hóa
như: Trung tâm văn hóa xã, nhà văn hóa thôn/khu, sân vui chơi thanh thiếu niên,
các phong trào cũng như hoạt động văn hóa thể dục thể thao được triển khai và phát
triển sâu rộng. Công tác triển khai việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc
hiếu, hỷ, lễ hội được duy trì bảo đảm theo quy định, hương ước, quy ước của khu
dân cư và thuần phong mỹ tục.
- Tổ chức tốt công tác tuyên truyền về công tác dân tộc và chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước. Thông qua đó, cộng đồng các DTTS nói chung và cộng
đồng dân tộc Sán Dìu nói riêng trên địa bàn huyện tích cực hưởng ứng tham gia
phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; Xây dựng
nếp sống văn minh đô thị; Xây dựng nông thôn mới...
- Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
chuyên môn về DSVH; thực hiện công tác khảo cứu, sưu tầm, BV&PH giá trị văn học
dân gian, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, văn hóa ẩm thực, trò chơi dân gian...
- Huy động, quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn lực BV&PH giá trị DSVH.
Cộng đồng dân tộc Sán Dìu xã Bình Dân, huyện Vân Đồn được Bộ VH,TT&DL xây
dựng nhà văn hóa năm 2006; ngân sách dành cho khoa học, công nghệ của tỉnh được
Sở VH&TT phê duyệt với đề tài Sưu tầm, nghiên cứu, đề xuất giải pháp bảo tồn và
phát huy giá trị văn hoá dân gian cổ truyền của người Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh;
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện khen thưởng trong việc BV&PH giá trị DSVH;
phòng Văn hóa - Thông tin huyện phối hợp với Chi hội Văn nghệ dân gian huyện
Vân Đồn lập hồ sơ đề nghị Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam xét tặng danh hiệu
NNDG cho các nghệ nhân người DTTS trên địa bàn huyện, đến nay trên địa bàn
huyện có 04 NNDG là người dân tộc Sán Dìu thuộc xã Bình Dân;
- Công tác thanh tra, kiểm tra đã được thực hiện định kỳ, đột xuất hoặc theo
chuyên đề trong việc chấp hành pháp luật, đặc biệt việc chấp hành luật DSVH.
UBND huyện chỉ đạo Phòng Văn hóa - Thông tin thường xuyên thực hiện công tác
105
kiểm tra, hướng dẫn chính quyền cơ sở thực hiện việc BV&PH giá trị DSVH trên
địa bàn huyện và kịp thời giải quyết khiếu nại về DSVH.
2.7.1.2. Trong phát huy vai trò quản lý của cộng đồng
QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn là trách nhiệm, nghĩa vụ
và quyền lợi của mỗi thành viên và cả cộng đồng nơi đây. Cộng đồng nhận thức rất
rõ DSVH thuộc về chính họ do ông cha sáng tạo, duy trì và tích lũy từ ngàn đời nên
việc gìn giữ giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu luôn được cộng đồng quan tâm, nuôi
dưỡng, trao truyền cho các thế hệ.
Cộng đồng đã thể hiện được vai trò chủ thể văn hóa không chỉ trong việc
sáng tạo, nuôi dưỡng và trao truyền mà còn trong cả thực tiễn, các hoạt động QL
DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn luôn biết nắm bắt thông tin, tìm hiểu
các cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước về DSVH. Sự chủ động, tích cực đó
đã giúp cộng đồng tự chủ, tự quản các hoạt động QL DSVH, nâng cao mức hưởng
thụ đời sống của người dân và cộng đồng.
Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, cộng đồng đã
phát huy các giá trị DSVH của dân tộc vươn xa hơn phạm vi làng xã. Hình ảnh
con người, văn hóa Sán Dìu được giới truyền thông quan tâm sản xuất các chương
trình phim, bài giới thiệu về DSVH Sán Dìu. Không những thế, DSVH dân tộc
Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn còn được quảng bá tại các bảo tàng, các sự kiện
văn hóa quan trọng của trung ương và tỉnh Quảng Ninh. Ngay trong cộng đồng, từ
khi huyện đảo Vân Đồn trở thành KKT thì giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu ngày
càng được phát huy gắn với phát triển du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng.
Tóm lại, hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu có sự tham gia trách nhiệm,
hiệu quả của cơ quan, chính quyền các cấp với vai trò chỉ đạo, quản lý, điều hành,
hướng dẫn và hỗ trợ cộng đồng. Cộng đồng luôn ý thức QL DSVH là nghĩa vụ và
trách nhiệm của từng thành viên trong cộng đồng. Sự tham gia của cộng đồng trong
QL DSVH thể hiện sự đồng thuận trong nhận thức, chủ động, tích cực; là vấn đề tự
thân với mong muốn QL DSVH dân tộc Sán Dìu ngày càng ổn định và bền vững.
106
2.7.2. Những hạn chế, bất cập
2.7.2.1. Từ góc độ quản lý Nhà nước
- Sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền tuy đã thể hiện sự quan tâm nhưng
chưa quyết liệt. Do vậy, hoạt động quản lý, tham mưu về DSVH trên địa bàn huyện,
đặc biệt là DSVH giá trị của DTTS chưa được triển khai thường xuyên. Sự chỉ đạo
chưa được kịp thời dứt điểm như: HĐND huyện chỉ đạo xây dựng Đề án Nghiên
cứu, bảo tồn và phát huy lễ hội Đại phan và các giá trị văn hóa dân gian truyền
thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh từ năm 2017 nhưng
đến tháng 12/2019 mới được phê duyệt. Sự chậm trễ này làm ảnh hưởng đến tiến
độ, nội dung đề án đặt ra.
- Năng lực tổ chức bộ máy QLNN về DSVH trong chỉ đạo, lãnh đạo, kiểm
tra về DSVH còn hạn chế với nguồn nhân lực và vị trí việc làm thường xuyên thay
đổi. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ trong quá trình triển khai chính sách. Công tác
thanh tra, kiểm tra chưa thường xuyên, chưa nắm rõ các vấn đề thực tiễn đặt ra.
- Trình độ và năng lực của cán bộ chuyên trách ở cả cấp huyện và cấp xã
chưa đáp ứng được với nhu cầu. Một số cán bộ chưa được đào tạo đúng chuyên
ngành; việc đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn chưa được thường xuyên; cán bộ còn
thiếu kinh nghiệm trong QL và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cộng đồng. Đặc
biệt, vị trí làm việc về QL DSVH luôn biến động. Khi cán bộ phụ trách vừa bắt
nhịp với nhiệm vụ chuyên môn lại được điều chuyển sang vị trí khác, đây là hạn
chế lớn trong công tác chỉ đạo, điều hành và tham mưu.
- Việc triển khai chính sách, chương trình, kế hoạch đối với hoạt động QL
DSVH chưa cụ thể. DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn chưa được thống kê đầy
đủ, chưa được nghiên cứu một cách tổng thể cũng như đánh giá toàn diện nên gây trở
ngại cho việc hoạch định chính sách và đưa ra giải pháp QL DSVH.
- Hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn không được tổ
chức thường xuyên mà thường kết hợp, lồng ghép với chương trình, dự án của
huyện, của tỉnh. Hoạt động phục dựng lễ hội Đại phan và hát Soọng cô do Sở
VH&TT tiến hành từ năm 2008 đến nay chưa được tổ chức.
107
- Công tác xã hội hóa các hoạt động QL DSVH chưa có cơ chế rõ ràng, thiếu
định hướng, thiếu cơ chế khuyến khích để kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức, cá
nhân và cộng đồng nên chưa phát huy hiệu quả huy động các nguồn lực.
- Công tác chỉ đạo việc vinh danh còn chậm, chế độ đãi ngộ nghệ nhân chưa
được triển khai. Tính đến thời điểm này đã có 04 nghệ nhân được phong tặng danh
hiệu NNDG danh hiệu do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, một tổ chức chính trị
xã hội nghề nghiệp phong tặng và cũng do Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Quảng Ninh
chỉ đạo Chi hội Văn nghệ dân gian huyện Vân Đồn xây dựng hồ sơ. Trên địa bàn
huyện đảo Vân Đồn đến nay chưa có NNƯT hay NNND được Chủ tịch nước phong
tặng theo Nghị định 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014 mặc dù, huyện có nhiều
DSVH phi vật thể và có nhiều nghệ nhân tiêu biểu đang nắm giữ.
2.7.2.2. Từ góc độ vai trò quản lý của cộng đồng
- Cộng đồng chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của DSVH trong đời
sống hiện nay. Một bộ phận không nhỏ trong cộng đồng còn thờ ơ, vô trách nhiệm
trong việc QL DSVH. Họ cho rằng việc đó là của ngành văn hóa, của nhà nước;
thậm chí có một số ý kiến cho rằng DSVH đã trở nên lỗi thời, lạc hậu không phù
hợp với lối sống hiện nay; một lý do khác cho rằng tác động mạnh mẽ của đời sống
kinh tế nên người quan tâm đến việc QL DSVH của chính dân tộc mình ngày ít đi.
- Vai trò chủ động, tích cực chưa được phát huy hiệu quả: Việc các cơ quan
QLNN về DSVH can thiệp sâu, thậm chí làm thay việc của cộng đồng đã làm giảm
vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng. Cộng đồng đứng bên ngoài những quyết
định về QL, thực hành DSVH của chính mình.
- Cộng đồng và các tổ chức phi quan phương khi tham gia tự quản, quyết định
các hoạt động QL DSVH dễ dẫn đến mối quan hệ giữa quyền lực và lợi ích chưa được
hài hòa. Lợi ích nhóm trong cộng đồng nảy sinh làm giảm tính cố kết cộng đồng, điều
này làm ảnh hưởng đến QL DSVH tại cộng đồng.
2.7.3. Nguyên nhân
2.7.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu
- Thuận lợi về điều kiện tự nhiên và xã hội
108
Vân Đồn là địa phương có đầy đủ các yếu tố tự nhiên thuận lợi cho phát triển
KT-XH như: có biển, rừng, đồng bằng với các dạng tài nguyên phong phú và đa
dạng. Huyện đảo từng là thương cảng Vân Đồn phát triển cực thịnh dưới thời Lý -
Trần. Vân Đồn còn là nơi ghi dấu trận chiến đánh thắng quân Nguyên - Mông. Với
vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao thương, Vân Đồn hứa hẹn sẽ trở thành KKT
trong tương lai, là động lực tăng trưởng KT-XH của cả vùng và tỉnh Quảng Ninh.
- Đường lối, chính sách đúng đắn, toàn diện về công tác văn hóa và DSVH
của UNESCO, của Đảng và Nhà nước được tỉnh Quảng Ninh đã cụ thể hóa thông
qua việc ban hành các nghị quyết, quyết định của Tỉnh ủy, HĐND, UBND. Điều
quan trọng, sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền huyện Vân Đồn chính là nhân tố
quyết định trong việc QL DSVH dân tộc Sán Dìu trên địa bàn huyện.
- Bộ máy QLNN về DSVH ngày càng hoàn thiện: Phòng Văn hóa - Thông
tin đã phân công cán bộ chuyên trách về các nhiệm vụ tham mưu, thực hiện chức
năng QLNN về DSVH trên địa bàn huyện. Chất lượng đội ngũ cán bộ dần được
nâng cao, trình độ chuyên môn thông qua các lớp đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng hay
các đợt đi tham quan học tập kinh nghiệm.
- Những năm gần đây, thành tựu nổi bật về phát triển KT-XH của địa
phương là môi trường và điều kiện thuận lợi để công tác QL DSVH đạt được những
kết quả đáng ghi nhận. Đời sống của cộng đồng được nâng cao, nhu cầu hưởng thụ
văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng. Các giá trị văn hóa truyền thống được đông
đảo người dân và cộng đồng quan tâm.
- Tác động tích cực trong bối cảnh hội nhập và phát triển đã mang đến nhiều
thuận lợi trong công tác QL DSVH. Các tri thức khoa học kỹ thuật mới không chỉ
phục vụ cho nhu cầu phát triển KT-XH của địa phương mà còn được áp dụng hiệu
quả trong công tác QL DSVH.
2.7.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
- Tổ chức bộ máy QLNN về DSVH vừa yếu lại vừa thiếu, rất ít cán bộ được
đào tạo đúng chuyên ngành. Cán bộ phải phụ trách nhiều công việc nên chất lượng
tham mưu và QL DSVH trên địa bàn huyện nói chung và DSVH dân tộc Sán Dìu
nói riêng bị hạn chế.
109
- Các hoạt động QLNN về DSVH chủ yếu hoạt động bằng ngân sách của
Nhà nước. Việc huy động các nguồn lực tham gia vào hoạt động QL DSVH không
nhiều gây hạn chế trong triển khai các hoạt động nói trên.
- Cơ quan QLNN về DSVH chưa thực hiện tốt trách nhiệm hỗ trợ cộng đồng
nên công tác hỗ trợ còn manh mún, nhỏ lẻ.
- Năng lực của cán bộ cấp cơ sở trực tiếp làm việc với cộng đồng còn hạn
chế, chưa được cập nhật kiến thức và nghiệp vụ thường xuyên nên trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ còn gặp nhiều khó khăn.
- Cơ chế phối hợp giữa QLNN và cộng đồng trong QL DSVH chưa nhịp
nhàng, cụ thể: chính quyền chỉ đạo, can thiệp sâu vào việc thực hành di sản của
cộng đồng, trong khi đó cộng đồng coi việc QL DSVH là nhiệm vụ của Nhà nước.
- Tiếng nói của cộng đồng được ghi nhận nhưng còn chậm trong giải quyết.
Việc đề xuất BV&PH giá trị DSVH được ghi nhận nhưng chưa được thực hiện.
- Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa văn hóa diễn ra mạnh mẽ, các giá trị
DSVH bị mai một, thất truyền nhanh. Trong khi đó, các loại hình văn hóa mới, lai
căng lại từng ngày xâm thực vào đời sống văn hóa của cộng đồng.
2.8. Một số yếu tố tác động
Trong quá trình hình thành và phát triển ở bất kỳ lĩnh vực, ngành nghề nào
cũng có yếu tố tác động trực tiếp hay gián tiếp, ở những quy mô, mức độ, đa chiều,
đa diện khác nhau. Đối với công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân
Đồn cũng không nằm ngoại lệ. Với chức năng QLNN về DSVH và vai trò của cộng
đồng trong QL DSVH có những thuận lợi, khó khăn nhất định. Những thuận lợi,
khó khăn đó chịu sự tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tạo
nên. Để kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu và làm sáng tỏ câu hỏi nghiên cứu đặt ra,
NCS nhận diện một số yếu tố tác động cơ bản sau:
- Tác động của chủ trương, đường lối của Đảng
+ Trước hết cần khẳng định công tác văn hóa là một trong những lĩnh
vực được Đảng rất quan tâm kể từ khi ra đời đến nay. Điều đó được thể hiện
xuyên suốt thông qua văn kiện của Đảng, từ Đề cương văn hóa năm 1943 đến
110
các kỳ Đại hội Đảng. Đây được coi là kim chỉ nam định hướng chỉ đạo, điều
hành của các cơ quan chức năng Nhà nước cũng như quần chúng nhân dân với
vai trò là chủ thể sáng tạo và thực hành văn hóa trong công tác QL DSVH. Đặc
biệt, sau khi Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng (khóa VIII)
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc đi vào cuộc sống đã tạo hiệu ứng lan tỏa tốt trong nhân dân. Nhiều DSVH
như lễ hội Đại phan, Soọng cô… được khôi phục và phát huy.
+ Kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được trong việc thực hiện
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), BCH Trung ương Đảng đã ban hành Nghị
quyết số 33 tại Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và Đại
hội XII, quan điểm đó được bổ sung và hoàn thiện về xây dựng văn hóa gắn liền
xây dựng con người là mối quan hệ biện chứng, vì con người là chủ thể sáng tạo
văn hóa và cũng là đối tượng thụ hưởng giá trị văn hóa của chính mình tạo ra.
Chỉ đạo chủ trương, đường lối của Đảng về công tác văn hóa, tỉnh Quảng
Ninh đã chủ trương thực hiện trong Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 09/3/2018 của
Tỉnh ủy Quảng Ninh về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đã nêu: “xây dựng một số thôn, làng, bản trở thành
“bảo tàng sống” nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống đắc sắc
trong tỉnh và trở thành sản phẩm du lịch”.
Như vậy, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác QL DSVH luôn nhất
quán và luôn được đổi mới để phù hợp với từng giai đoạn. Do vậy, việc ban hành cơ
chế chính sách đòi hỏi cần thường xuyên cập nhật, đổi mới trong công tác QLNN về
văn hóa để theo kịp với vấn đề thực tiễn đặt ra.
- Tác động của kinh tế và hội nhập quốc tế
+ Yếu tố tác động của kinh tế và hội nhập quốc tế ở huyện đảo Vân Đồn
được NCS nhận định là một trong những yếu tố quan trọng nhất, có tác động mạnh
mẽ đến các yếu tố khác. Bởi, Vân Đồn được đánh giá là khu vực phát triển cực
mạnh trong tương lai, một cực tăng trưởng không chỉ cho tỉnh Quảng Ninh mà cho
111
cả vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Vì vậy, thực tế cho thấy quá trình phát triển
mạnh mẽ của Vân Đồn sẽ tạo ra một hệ thống chính sách công mới, một nguồn lực
mới về nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, dịch vụ chất lượng cao…
+ Huyện đảo Vân Đồn đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của quá trình
CNH, HĐH và đã có những thành tựu vượt bậc trong phát triển KT-XH. Bức tranh
về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cả vùng đô thị, nông thôn, miền núi
đều thay đổi rõ nét. Quá trình CNH, HĐH đã và đang tạo ra thế và lực mới để
huyện đảo Vân Đồn tự tin hội nhập vươn mình ra hội nhập thế giới. Công tác QL
DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn cần coi trọng và phát triển, bởi DSVH sẽ
là nguồn lực quan trọng thúc đẩy phát triển KT-XH, phát triển sinh kế bền vững cho
cộng đồng dân tộc Sán Dìu gắn với các hoạt động của ngành du lịch, dịch vụ khi
Vân Đồn có một vị thế mới là KKT, một điểm động lực tăng trưởng kinh tế của tỉnh
và cả vùng thu hút sự đầu tư của tổ chức quốc tế vào huyện đảo.
+ Vân Đồn với một vị thế chiến lược trong phát triển KT-XH và đảm bảo
quốc phòng - an ninh vùng Đông Bắc. Mọi nguồn lực của Nhà nước và tư nhân đều
tập trung đầu tư mạnh vào vùng đất này, tạo cho Vân Đồn phát triển toàn diện cả về
kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, trong đó cộng đồng các DTTS tại huyện đảo
Vân Đồn cũng được quan tâm tăng cường đầu tư, hỗ trợ nhằm thức đẩy các dân tộc
Dao, Tày, Hoa, trong đó dân tộc Sán Dìu là một trong những DTTS đông nhất của
huyện, tập trung nguồn lực đầu tư, hỗ trợ trong công tác QL DSVH được đẩy mạnh
nhằm phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Mặc khác, đây là nguồn
vốn sinh kế quan trọng thúc đẩy phát triển KT-XH, đặc biệt phát triển du lịch.
+ Cần tính toán đến thách thức, hạn chế cũng như quản trị các rủi ro trong
quá trình phát triển bền vững như: bài toán về cân bằng giữa QL DSVH dân tộc Sán
Dìu với phát triển kinh tế; lựa chọn các phương thức bảo vệ DSVH dân tộc Sán Dìu
trong bối cảnh hiện nay; phát triển du lịch dựa vào cộng đồng một cách bền vững…
- Tác động của chính sách ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng trong quá
trình QL DSVH thông qua hệ thống luật pháp như: nghị định, quyết định,… Về
mặt QLNN về DSVH, chính quyền các cấp đã cơ bản ban hành đầy đủ các văn
112
bản QL DSVH. Tuy nhiên, hệ thống văn bản quản lý và tổ chức các hoạt động
QL DSVH không phải lúc nào cũng kịp thời và bao quát, giải quyết triệt để các
vấn đề thực tiễn đặc ra. Có nhiều vấn đề nảy sinh chưa được quy định cụ thể,
hoặc chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn trong các văn bản hiện hành. Do đó, cần
có văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết của cơ ban quản lý chuyên ngành.
- Tác động của tổ chức bộ máy: tỉnh Quảng Ninh nói chung và huyện Vân
Đồn nói riêng đang đẩy mạnh công tác tinh giản bộ máy bên chế, sắp xếp lại vị trí
việc làm theo hướng tinh gọn. Đây là điều kiện thuận lợi để tổ chức hoạt động về sự
phân cấp, phân quyền được rõ ràng, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng
Văn hóa - Thông tin và Trung tâm Truyền thông văn hóa huyện Vân Đồn được quy
định cụ thể. Tuy nhiên, có một số nhiệm vụ trong quá trình giải quyết còn chồng
chéo, khi xác định nhiệm vụ chưa rõ ràng theo chức năng của từng cơ quan.
- Tác động của nguồn lực
+ Nguồn lực con người: đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa tại Phòng Văn
hóa - Thông tin; Trung tâm Truyền thông - Văn hóa huyện Vân Đồn và công chức
văn hóa cấp xã đã được bố trí theo vị trí việc làm, trình độ chuyên môn ngày một
nâng cao thông qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn. Tuy nhiên, vấn đề tồn
tại của công tác sắp xếp bộ máy biên chế là việc sáp nhập, chia tách tổ chức đơn vị
gây nên sự xáo trộn, cán bộ kiệm nhiệm nhiều nhiệm vụ cùng lúc. Đặc biệt, cán bộ
cấp cơ sở phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ nên dễ dẫn đến tâm lý chán nản trong
công việc, làm việc cho có, cho xong, chất lượng tham mưu chưa hiệu quả.
+ Nguồn lực cơ sở vật chất: trụ sở làm việc tại huyện Vân Đồn và xã Bình
Dân được trang bị khá đầy đủ, hiện đại. Tuy nhiên, các trang thiết bị phục vụ công
tác chuyên môn như: máy scan, máy ghi âm, máy quay,… chưa được trang bị đầy
đủ, hoặc đã trang bị tuy nhiên ít sử dụng hay trong quá trình sử dụng chưa được bảo
quản kỹ lưỡng nên hạn chế trong khi công tác tại cơ sở.
+ Nguồn lực vật chất: tài chính chi cho hoạt động QL DSVH còn hạn chế.
Chính quyền đã quan tâm nhưng còn nhỏ lẻ, manh mún nên hiệu quả chưa cao.
- Tác động của các nhân tố văn hóa
113
Đời sống của người dân huyện đảo Vân Đồn nói chung và dân tộc Sán Dìu
nơi đây nói riêng ngày một nâng cao, nên nhận thức cũng như ý thức về QL DSVH
của chính cộng đồng được người dân quan tâm hơn. Các thực hành văn hóa truyền
thống hiện nay như tổ chức lễ hội, sử dụng và phát triển ngôn ngữ dân tộc, triển
khai các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa được cộng đồng chú trọng trong chính
môi trường văn hóa của gia đình, dòng họ, trường học…, cùng với sự hỗ trợ của các
cơ quan chuyên môn về tư liệu hóa DSVH, về cơ sở vật chất, về phối hợp bồi
dưỡng nâng cao nhận thức về DSVH cho dân tộc Sán Dìu tại địa phương. Vì vậy, ý
thức và nhận thức của cộng đồng được nâng cao, vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu
nơi đây được coi là vấn đề “tự thân” của mỗi thành viên trong cộng đồng.
Vân Đồn là địa phương có ngành du lịch phát triển mạnh với đầy đủ các
loại hình du lịch như du lịch tâm linh (chùa Cái Bầu, đền Cặp Tiên, đền Trần
Khánh Dư, đình Quan Lạn), du lịch sinh thái biển. Đặc biệt, huyện đảo Vân Đồn
có nhiều thành phần DTTS sinh sống, trong đó dân tộc Sán Dìu chiếm tỷ lệ
10,66% dân số toàn huyện đây là một thế mạnh, tiền năng rất lớn nhằm phát huy
giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu trở thành các sản phẩn du lịch văn hóa, du lịch
cộng đồng. Hiện tại, giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu như văn hóa ẩm thực, cây
trồng, vật nuôi bản địa đã phục vụ nhu cầu của khách du lịch, giá trị DSVH phi
vật thể như: Soọng cô, lễ Đại phan, múa hành quang… đã tham gia sự kiện tuần
lễ Carnaval Hạ Long hằng năm.
- Tác động của xã hội hóa các hoạt động văn hóa đang ngày càng nhận được
sự quan tâm của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và cá
nhân. Họ nhận thức được rằng tài sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân
Đồn chính là một nguồn vốn quan trọng để phát triển kinh tế. Thực tiễn cho thấy,
huyện đảo Vân Đồn giàu tiền năng, thế mạnh phát triển loại hình du lịch văn hóa,
du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm với các hoạt động tìm hiểu phong tục tập
quán, trải nghiệm cuộc sống, thưởng thức các món ăn, thức uống truyền thống của
dân tộc Sán Dìu…, rõ ràng DSVH dân tộc Sán Dìu là nguồn lực quan trọng giúp
114
phát triển KT-XH. Chính vì vậy, QL DSVH dân tộc Sán Dìu không chỉ cộng đồng
chủ thể quan tâm mà cần sự đầu tư, hỗ trợ của các tổ chức bên ngoài cộng đồng.
- Tác động của khoa học, công nghệ lên vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu
nằm ở hai mức độ khác nhau. Khi tổ chức, cá nhân áp dụng một cách hiệu quả khoa
học và công nghệ bằng phương pháp tiên tiến, công nghệ hiện đại như máy quét
không gian 3 chiều, sử dụng chất liệu trong bảo quản trùng tu, tôn tạo di tích chống
ẩm mốc, mối mọt sẽ có một hiệu ứng tốt là DSVH được bảo vệ trong môi trường ổn
định, tăng tuổi thọ cho các kiến trúc nhà ở truyền thống, các ngôi miếu thành hoàng.
Ngược lại, khi chưa áp dụng khoa học, công nghệ, hoặc áp dụng một cách máy
móc, áp dụng không khoa học thì không những không bảo vệ tốt DSVH mà càng
làm cho DSVH xuống cấp, hư tại hay mai một một cách nhanh chóng.
- Tác động của thông tin, truyền thông đến QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện Vân Đồn đã được quan tâm truyền thông, giới thiệu quảng bá trên phương
tiện thông tin đại chúng như: VTV, QTV, báo Quảng Ninh,... Tuy nhiên, tần suất
xuất hiện còn thấp, chất lượng nội dung chưa cao, chưa phản ánh những giá trị
DSVH của dân tộc Sán Dìu.
Tóm lại: Một số yếu tố đã có những tác động trực tiếp đến các hoạt động QL
DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn. Những tác động đó đã có những ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, ở mức độ, quy mô khác nhau đến DSVH, tạo ra
những mặt tích cực cũng như hạn chế trong QL DSVH. Thông qua cơ chế tác động
đó mà cộng đồng có những cơ hội phát triển, bên cạnh đó cũng gặp những khó
khăn, thách thức cần được giải quyết trong quá trình QL DSVH dân tộc Sán Dìu.
Điều đó phù hợp với giả thuyết cũng như câu hỏi nghiên cứu của luận án đặt ra. Vì
vậy, NCS cho rằng giả thuyết nghiên cứu đưa ra là phù hợp với thực tiễn.
Tiểu kết
Huyện đảo Vân Đồn được coi là thủ phủ của dân tộc Sán Dìu tỉnh Quảng
Ninh, nơi mật cư đông nhất của dân tộc Sán Dìu toàn tỉnh. Dân tộc Sán Dìu ở huyện
đảo Vân Đồn, đặc biệt ở xã Bình Dân còn giữ được khá nhiều DSVH vật thể và phi
vật thể độc đáo, đặc sắc và hấp dẫn. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập và phát triển
115
hiện nay, huyện đảo Vân Đồn đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ trở thành
KKT của vùng. Do vậy, những tác động của KT-XH sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống
của dân tộc Sán Dìu.
Những kết quả trong các hoạt động QL DSVH được các cơ quan QLNN nỗ
lực triển khai và cộng đồng luôn chủ động, tích cực trong các hoạt động thực hành
DSVH nhằm duy trì, nuôi dưỡng và trao truyền. Tuy nhiên, vẫn còn gặp nhiều khó
khăn như: công tác tham mưu và thực hiện QLNN về DSVH còn chậm triển khai,
đội ngũ cán bộ vừa thiếu vừa yếu, thường xuyên luân chuyển cán bộ. Vai trò QL
của cộng đồng chưa thực sự phát huy hiệu quả, thậm chí một bộ phận thờ ơ, quay
lưng lại với DSVH.
Công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu huyện đảo Vân Đồn đạt được hiệu quả
nhất định, ngoài các chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cần có sự vào
cuộc tích cực, chủ động của cộng đồng; đồng thời, cần giải quyết tốt các mối quan
hệ trong quá trình QL DSVH, đặc biệt mối quan hệ giữa QLNN về DSVH với cộng
đồng và mối quan hệ giữa QL DSVH với phát triển KT-XH tại địa phương.
116
Chương 3
BÀN LUẬN VỀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA
DÂN TỘC SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH
3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về quản lý di sản văn hóa
3.1.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia ở phương Đông
3.1.1.1. Kinh nghiệm từ Trung Quốc
QL văn hóa ở Trung Quốc được chia làm ba cấp: cấp vĩ mô, cấp trung và cấp
vi mô. Trung Quốc đặc biệt quan tâm đến vấn đề QL DSVH thông qua các chương
trình giáo dục cộng đồng. Chương trình Mỗi người đều có trách nhiệm bảo vệ
DSVH của đất nước do Bộ Văn hóa công bố từ năm 1989, đã được triển khai trong
cả nước. Các cơ quan QLNN, đơn vị sự nghiệp công lập như bảo tàng, nhà tưởng
niệm… đã tích cực sưu tầm, giới thiệu đến nhân dân và du khách các DSVH. Các
phương tiện truyền thông thường xuyên đề cập đến tầm quan trọng của giá trị văn
hóa, lịch sử, thẩm mỹ và khoa học của DSVH.
Ngày 25 tháng 02 năm 2011, cơ quan lập pháp cao nhất của Trung Quốc
đã thông qua Luật Di sản văn hóa phi vật thể nhằm thể thế hóa các quy định
trong QL DSVH cho cộng đồng. Luật quy định, DSVH phi vật thể bao gồm: văn
học truyền khẩu, các loại hình nghệ thuật biểu diễn, nghề thủ công truyền thống,
các loại thuốc và tập tục dân gian. Luật quy định Quốc vụ viện và các cơ quan
cấp tỉnh phải lập một danh sách hạng mục DSVH phi vật thể để công nhận cấp
độ quốc gia và cấp tỉnh, thành phố. Các cơ quan này, có nhiệm vụ hỗ trợ và chịu
trách nhiệm bảo vệ các di sản được ghi danh trong các danh mục. Bên cạnh đó,
nhà nước quan tâm hỗ trợ công tác bảo vệ DSVH phi vật thể cho cộng đồng ở
những vùng DTTS, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn [38, tr.62-63].
Nhờ có những chính sách kịp thời và hiệu quả mà công tác QL DSVH của
Trung Quốc đã được nâng cao từ việc huy động các nguồn lực đến quản lý đào tạo,
tập huấn hỗ trợ cộng đồng như thành lập Trung tâm quốc tế về đào tạo DSVH phi
vật thể ở Châu Á - Thái Bình Dương (CRIHAP), nhằm đào tạo và hỗ trợ cộng đồng
trong công tác QL giá trị DSVH. Bên cạnh đó, Trung Quốc quan tâm đến công tác
117
chỉ đạo thi đua khen thưởng, vinh danh cá nhân và cộng đồng có những đóng góp
thiết thực, hiệu quả trong bảo tồn DSVH.
Vai trò của cộng đồng trong QL DSVH được Nhà nước Trung Quốc coi
trọng. Bởi cộng đồng vừa là chủ thể sáng tạo, gìn giữ, trao truyền và phát triển các
loại hình DSVH, vừa thay mặt nhà nước đứng ra quản lý, tổ chức thực hành DSVH
cũng như các hoạt động văn hóa tại cộng đồng với phương châm DSVH do cộng
đồng sáng tạo ra thì phải do cộng đồng bảo vệ, quản lý và quyết định.
Như vậy, Trung Quốc đã có những chính sách phù hợp trong công tác QL
DSVH. Nhờ vậy, DSVH không những được bảo vệ hiệu quả mà còn là nguồn lực
thúc đẩy phát triển KT-XH, quảng bá du lịch, nâng cao đời sống tinh thần, ý thức
dân tộc của từng cá nhân và mỗi dân tộc ở Trung Quốc.
3.1.1.2. Kinh nghiệm từ Nhật Bản
Để thực hiện tốt công tác bảo vệ DSVH tại Nhật Bản và thống nhất trong
quản lý DSVH từ trung ương đến các địa phương, Chính phủ Nhật Bản có Bộ Giáo
dục, Văn hóa, Khoa học, Thể thao và Công nghệ (MEXT) là cơ quan chịu trách
nhiệm quản lý, chỉ đạo, điều hành các hoạt động QL DSVH.
Việc bảo vệ DSVH được Nhật Bản quan tâm từ rất sớm. Ngay từ thời Minh
Trị, nhà nước đã ban hành Luật về các đền thờ, miếu thờ cổ (1897), Luật bảo vệ kho
tàng quốc gia (1929) và năm 1950, Nhật Bản ban hành Luật bảo vệ tài sản văn hóa.
Bộ luật ra đời nhằm thực hiện bảo vệ DSVH trên cơ sở xác lập quyền sở hữu các
các công dân, các cơ quan sự vụ, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ. “Các chủ
sở hữu tài sản văn hóa những người hữu quan sẽ chịu trách nhiệm bảo quản chúng
một cách tốt nhất và khai thác các giá trị văn hóa của chúng với một ý thức đầy đủ
rằng: đó là những tài sản quý báu của quốc gia” được quy định tại Khoản 2, điều 4
của Bộ luật [72, tr.57-58].
Để thực hiện hiệu quả việc bảo vệ DSVH, Chính phủ Nhật Bản đã sử dụng
nguồn lực hỗ trợ cộng đồng bằng cách huy động nhiều chuyên gia - những người
hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực văn hóa vật thể, phi vật thể như loại hình nghệ
thuật truyền thống, các nghề thủ công mỹ nghệ vào Ban Tài sản văn hóa thuộc Cục
118
Văn hóa Nhật Bản để lên danh sách và có kế hoạch bảo vệ các tài sản quý giá của
quốc gia. Bên cạnh việc bảo vệ tài sản văn hóa, Nhật Bản cũng xây dựng nhiều
chương trình giới thiệu quảng bá DSVH, đất nước, con người xứ mặt trời mọc.
Công tác giáo dục DSVH được Nhật Bản chú trọng với sự tham gia hiệu quả
từ cộng đồng bằng cách đưa DSVH vào trường học với sự truyền dạy của nghệ
nhân. Các chương trình dạy DSVH có nhiều hình thức bắt buộc và tự nguyện để học
sinh các cấp có thể tiếp cận, hiểu biết về DSVH của địa phương mình.
Cộng đồng người dân Nhật Bản luôn có sự đồng thuận cao đối với các chính
sách bảo vệ DSVH thông qua các hoạt động nuôi dưỡng, trao truyền mở giúp cộng
đồng, đặc biệt thế hệ trẻ dễ dàng tiếp nhận tại trường học, bảo tàng với sự tham gia
tích cực và hiệu quả của nghệ nhân. Lễ hội diễn ra không vì mục đích thương mại hay
vụ lợi trong lợi ích nhóm mà thuần túy là tình cảm, trách nhiệm và nghĩa vụ của từng
cá nhân đối với cộng đồng và là niềm tự hào đối với quê hương nơi mình sinh ra.
3.1.1.3. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc
Ở Hàn Quốc, Bộ Văn hóa và Du lịch là cơ quan thực hiện chức năng QLNN
về QL sự nghiệp văn hóa, du lịch và thể thao.
Chỉ đạo hoạt động bảo vệ DSVH có Tổng cục Di sản văn hóa (CHA), cơ
quan chịu trách nhiệm trực tiếp và tất cả các vấn đề liên quan đến di sản của Hàn
Quốc. Hệ thống QL chặt chẽ từ Tổng cục DSVH đến các địa phương, cũng như việc
khuyến khích cá nhân, cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ đã giúp cho Hàn Quốc
khôi phục và bảo vệ thành công nhiều loại hình DSVH có nguy cơ biến mất trong
thời kỳ CNH, HĐH. Hoạt động của Tổng cục DSVH chủ yếu là có trách nhiệm bảo
vệ và QL, phát huy DSVH. Tổng cục cũng tổ chức nhiều sự kiện và triển lãm làm
tăng thêm tầm nhìn của DSVH, bao gồm trình diễn truyền thống, làng nghề thủ
công mỹ nghệ. Họ cũng sưu tầm DSVH và áp dụng số hóa để phát huy việc truyền
dạy cố định một cách có hệ thống. Tổng cục có trách nhiệm đề cử các di sản trong
danh sách vinh danh của UNESCO. Bên cạnh đó, Tổng cục còn tổ chức nhiều hoạt
động, sự kiện để quảng bá giới thiệu về DSVH phi vật thể của các cộng đồng.
Chính hoạt động này mang lại cho cộng đồng lợi ích kinh tế lẫn hiệu quả quảng bá
119
hình ảnh văn hóa của cộng đồng chủ nhân nói riêng và hình ảnh quốc gia nói chung
[38, tr.78-79].
Luật bảo vệ Di sản văn hóa đã được Hàn Quốc quan tâm từ những năm
1950 và Luật bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể (CHPA) được thông qua ngày 10
tháng 01 năm 1962, góp phần quan trọng trong việc chấp thuận quan điểm mang
tính thể chế về QL DSVH phi vật thể. Điều chỉnh bổ sung Luật bảo vệ tài sản văn
hóa với vai trò trung tâm của cộng đồng: Luật bảo vệ tài sản văn hóa của Hàn
Quốc cho rằng “nguyên tắc của bảo vệ, quản lý và vận hành bất kể DSVH nào cần
phải bảo vệ chúng trong hình thức nguyên bản”… Hệ thống văn bản pháp luật hỗ
trợ cộng đồng đó là chính phủ cho phép các địa phương chủ động đưa ra các quy
định bảo vệ DSVH. Để thực hiện được điều đó, không chỉ có sự cố gắng của chính
phủ, của cơ quan địa phương mà quan trọng hơn cả là ý thức bảo vệ di sản của
người dân và sự nhận thức đúng đắn về giá trị DSVH phi vật thể của người dân
Hàn Quốc [38, tr. 77-78].
3.1.1.4. Kinh nghiệm từ Thái Lan
Tổ chức quản lý văn hóa của Thái Lan gồm các cơ quan hành chính công và
bán công. Bộ Giáo dục là cơ quan chịu trách nhiệm về các vấn đề văn hóa. Văn
phòng của Ủy ban Văn hóa quốc gia được thành lập năm 1979 và trở thành một ban
của Bộ Giáo dục. Chức năng của văn phòng là phối hợp, xúc tiến và phát triển các
hoạt động văn hóa của các cơ quan tư nhân và nhà nước ở phạm vi quốc gia và quốc
tế [30, tr.122]. Ngoài cơ quan QLNN về văn hóa, Thái Lan có hệ thống 32 bảo tàng
quốc gia và Trung tâm Văn hóa Thái Lan đều giúp cho người dân có cơ hội tham
gia các hoạt động giải trí văn hóa, biểu diễn nghệ thuật và giáo dục.
Chính sách văn hóa quốc gia Thái Lan được công bố vào năm 1981 theo tinh
thần của Điều luật thứ 114 của Hiến pháp Hoàng gia Vương quốc Thái Lan, trong
đó ghi rõ: Nhà nước thúc đẩy và bảo tồn văn hóa quốc gia. Cốt lõi của chính sách
có thế tóm tắt như sau: hỗ trợ bảo tồn văn hóa Thái Lan trong các lĩnh vực thông
qua giáo dục, nghiên cứu, cổ vũ và phát triển để văn hóa có thể trở thành một công
cụ quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề của đời sống cá nhân cũng như vấn
120
đề phát triển xã hội, kinh tế, chính trị và tăng cường quyền độc lập tự chủ của quốc
gia…. Thúc đẩy văn hóa truyền thống trong nước và văn hóa truyền thống của dân
tộc nhằm khắc sâu văn hóa truyền thống và văn hóa khu vực. Đồng thời, kích thích
sự hòa hợp dân tộc, làm cho cộng đồng dân tộc đa dạng trở thành một thể thống
nhất trong hòa bình [30, tr.127].
Thế giới biết đến Thái Lan là xứ sở chùa tháp với Phật giáo trở thành quốc
giáo. Nhờ sự phát triển di sản của chùa tháp, Thái Lan đã trở thành điểm đến du lịch
hấp dẫn của khách du lịch quốc tế. Thái Lan đã dành kinh phí lớn cho đầu tư một số
dự án văn hóa, những công trình hoàn mỹ như cung điện Hoàng gia, vườn du lịch
Noongnook, khu du lịch Pattaya, khu du lịch biển Phuket… những trung tâm du
lịch này đã thu hút lượng lớn khách đến tham quan, nghỉ dưỡng và giải trí. Bên
cạnh những thành công đó, Thái Lan đang đứng trước thách thức lớn về hạ tầng đáp
ứng vận tải hay các vấn đề của “kinh đô du lịch sex”… Đây là, vấn đề nan giải đối
với Thái Lan trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển.
3.1.1.5. Kinh nghiệm từ Ấn Độ
Ấn Độ là một quốc gia giàu DSVH và có nền văn hóa trải qua hơn 5000 năm
phát triển và sự ra đời của các tôn giáo. Điều đáng nói ở đây là Chính phủ Ấn Độ
hầu như không quan tâm đến nhiều đến khía cạnh khai thác nguồn tài nguyên to lớn
này. Dù vậy, những DSVH của Ấn Độ rất ít bị hủy hoại (ngoại từ những ảnh hưởng
của thiên tai). Vậy điều kỳ lạ gì đang diễn ra ở các DSVH của Ấn Độ từ hơn 5000
năm qua và vẫn đang tồn tại một cách sống động trong thời đại ngày nay.
Ở Ấn Độ, DSVH phi vật thể tồn tại một cách gần như tự nhiên. Các loại hình
sinh hoạt văn hóa tự chúng đã tạo ra môi trường tồn tại ngay trong một xã hội hiện
đại. Hiếm thấy một quốc gia nào phát triển nhanh về mặt kinh tế mà lại bảo tồn một
cách gần như “nguyên trạng” các sinh hoạt văn hóa dân gian như Ấn Độ.
Ý thức của người dân Ấn Độ trong việc bảo tồn các loại hình hoạt động văn
hóa rất cao. Một buổi hành lễ của tôn giáo sẽ làm ngưng trệ toàn bộ hoạt động của
một khu vực buôn bán và họ sẵn sàng nghỉ việc để chờ các hoạt động đó kết thúc
rồi mới tiếp tục. Thậm chí, những hoạt động hành chính pháp quyền… cũng
121
nhường chỗ cho các sinh hoạt văn hóa. Chẳng hạn, Trường Đại học Delhi, một
trong những trường đại học lớn nhất Ấn Độ, có tới ¼ số ngày học chính thức phải
nghỉ trùng với các ngày lễ của các tôn giáo. Tại các gia đình, người Ấn có thể trình
diễn bất cứ loại hình nhạc cụ nào để phục vụ các nghi lễ gia đình của họ, thậm chí
có gia đình còn sử dụng dàn loa công suất lớn. Tất nhiên, cảnh sát và chính quyền
không bao giờ can thiệp vào những hoạt động đó. Ở Ấn Độ rất hiếm khi chúng ta
thấy các phương tiện thông tin nói về vấn đề bảo tồn, khôi phục không gian sống
của các DSVH phi vật thể một cách cấp thiết như ở Việt Nam, mà dường như cả
nước Ấn Độ đã là một sân khấu dân gian lớn. Đặc biệt, sân khấu đó vẫn luôn “sáng
đèn” trong hơn 5000 năm qua [72, tr.62-63].
3.1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia phương Tây
3.1.2.1. Kinh nghiệm từ Anh
Đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, Vương quốc Anh đã thành lập Bộ Di sản
quốc gia. Đến năm 1997, Bộ Di sản quốc gia đổi thành Bộ Văn hóa, Truyền thông
và Thể thao. Bộ có chức năng, nhiệm vụ trong việc định hướng xây dựng và phát
triển văn hóa. Đồng thời, Chính phủ thành lập và trợ cấp cho các hoạt động của Hội
đồng di sản, Bảo tàng quốc gia, Hội đồng nghệ thuật, Thư viện…
Mục đích cơ bản của chính sách văn hóa Vương quốc Anh là làm cho những
điều tốt nhất trong cuộc sống có thể đến với người dân được nhiều nhất. Các mục
tiêu bao gồm tăng khả năng tiếp cận, tham gia của mọi người dân vào đời sống văn
hóa quốc gia và nâng cao chất lượng các hoạt động hiện có, làm thỏa mãn nhu cầu
của mọi người về những điều tốt đẹp. Chúng đóng vai trò trọng tâm trong những
mục tiêu xã hội, kinh tế và giáo dục lớn hơn của chính phủ. Để đạt được những mục
đích này, chính phủ đã xác định các mục tiêu hành động như sau:
(1). Duy trì và phát triển chất lượng, sự đổi mới và khả năng sáng tạo;
tạo ra một thị trường cạnh tranh và hiệu quả, bao gồm cả việc loại bỏ
những quy định không cần thiết cũng như các khó khăn cản trở để phát
triển các ngành du lịch và sáng tạo; (2). Mở rộng khả năng cho mọi
người trong việc tiếp cận với đời sống văn hóa, thể thao; (3). Phát triển
122
tiềm năng giáo dục của các tài nguyên văn hóa và thể thao quốc gia;
nâng cao các tiêu chuẩn về giáo dục và đào tạo văn hóa; bảo đảm cung
cấp đầy đủ các khả năng cho các ngành sáng tạo và du lịch; (4). Bảo đảm
cho mọi người có cơ hội phát triển tài năng và đạt được thành tích xuất
sắc trong các lĩnh vực văn hóa, truyền thông và thể thao; (5). Duy trì sự
hỗ trợ của nhà nước đối với xổ số quốc gia và bảo đảm những khoản tiền
được huy động sẽ được dùng để hỗ trợ cho các ưu tiên của Bộ Văn hóa,
Truyền thông và Thể thao hoặc các ưu tiên quốc gia khác; (6). Thúc đẩy
vai trò của các lĩnh vực quản lý thuộc Bộ Văn hóa, Truyền thông và Thể
thao trong quá trình xây dựng lại đô thị và nông thôn trong việc duy trì
sự ổn định, hạn chế việc tách rời khỏi xã hội [30, tr.74 -75].
Việc giữ gìn DSVH ở nước Anh thể hiện rõ: Tính năng động, hiệu quả trong
hoạt động của hệ thống bảo tàng. Cách trưng bày, giới thiêu di vật, hiện vật trong hệ
thống bảo tàng ở Vương quốc Anh vừa đảm bảo tính khoa học vừa sinh động, hấp
dẫn người xem. “Ngoài việc đưa những nội dung giáo dục lịch sử vào chương trình
học các cấp, hoạt động của hệ thống bảo tàng với chức năng vừa lưu giữ hiện vật
quốc gia lại vừa minh họa lịch sử” [72, tr.65]. Nước Anh luôn đổi mới cách trưng
bày bảo tàng để cho du khách tham quan không cảm thấy nhàm chán.
3.1.2.2. Kinh nghiệm từ Mỹ
Đối với nước Mỹ, trong Hiến pháp của mình, Tổng thống hay Quốc hội
không được giao nhiệm vụ QL văn hóa. Do đó, chính quyền trung ương hay các
tiểu bang không trực tiếp can thiệp vào chính sách văn hóa. Các tiểu bang và các cơ
sở văn hóa công cộng hay tư nhân đều căn cứ vào tình hình cụ thể mà hoạch định
chính sách văn hóa riêng cho mình và nhờ vậy nó làm cho văn hóa Mỹ trở nên
phong phú… Nước Mỹ luôn đề cao sự tự do trong sáng tạo và thể hiện điều này qua
cách quản lý của mình [30, tr.98].
Như vậy, nước Mỹ không có chính sách trực tiếp đối với lĩnh vực văn hóa
mà theo quan điểm của Mỹ, văn hóa là một sản phẩm hàng hóa. Văn hóa là hàng
hóa, thông qua các điều khoản của luật thuế mà áp dụng việc thu, miễn giảm thuế
123
đối với các hoạt động phát triển văn hóa. Các ngành công nghiệp văn hóa của Mỹ,
các sản phẩm văn hóa, đặc biệt thông qua phim ảnh Hollywood, công nghiệp âm
nhạc đã có nguồn thu rất lớn cho nền kinh tế Mỹ.
3.1.3. Bài học từ kinh nghiệm
Cơ cấu tổ chức và phương thức quản lý của một số quốc gia trên thế giới về
QL DSVH đều tập trung quyền lực vào nhà nước, thông qua hệ thống pháp luật
QLNN và tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị sự nghiệp chính phủ, các tổ chức
phi chính phủ, tổ chức quốc tế và cá nhân tham gia hoạt động QL DSVH. Một số
quốc qua như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản đều có Bộ chuyên quản về văn hóa
và có bộ luật quy định rất rõ về DSVH. Bên cạnh đó, Ấn Độ, Mỹ là hai quốc gia có
chính sách văn hóa đặc thù riêng, mang đậm màu sắc văn hóa của các tổ chức cộng
đồng hay tư nhân, các hoạt động văn hóa nói chung và DSVH nói riêng đã có hiệu
quả, tác động lớn đến sự phát triển KT-XH, bởi các quốc gia này luôn trao quyền
sáng tạo, thực hành văn hóa cho người dân và cộng đồng.
Huy động nguồn lực hỗ trợ cộng đồng: chính phủ các quốc gia đều có
những cơ chế chính sách và thành lập tổ chức hoạt động phi lợi nhuận nhằm hỗ trợ
cộng đồng bảo vệ DSVH. Cơ chế tài chính hỗ trợ cho QL DSVH như: đầu tư xây
dựng cung điện, đền đài, chùa tháp; hỗ trợ chương trình nghệ thuật biểu diễn, nghề
thủ công mỹ nghệ; hỗ trợ hoạt động trưng bày hiện vật tại bảo tàng; tập trung
nguồn lực trong việc giáo dục di sản, quảng bá DSVH văn hóa đến du khách.
Các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản chú trọng đến việc trao truyền
DSVH đến thế hệ tương lai, thông qua việc truyền thừa DSVH tại cộng đồng có di
sản. Nghệ nhân đã được quan tâm hơn và là “vật báu sống” trong việc nắm giữ
DSVH phi vật thể. Ấn Độ là quốc gia duy trì DSVH gần như nguyên bản, DSVH
gắn liền với tôn giáo đã ăn sâu vào tâm thức của người dân và cộng đồng và trở
thành niềm tin trong đời sống văn hóa thường ngày.
Trong việc QL DSVH cần phải chú ý đến vai trò chủ đạo của Nhà nước. Cần
có chính sách đầu tư thích hợp của nhà nước, trong đầu tư chú ý cân nhắc kỹ lưỡng
về thứ hạn, mức độ - như kinh nghiệm của Trung Quốc đã chỉ ra. Cần có sự phân
cấp rõ ràng trong việc quản lý DSVH như kinh nghiệm từ Vương quốc Anh. Đồng
124
thời, nhà nước phải quan tâm đến vấn đề quy hoạch DSVH, đào tạo đội ngũ chuyên
sâu về lĩnh vực quản lý DSVH, cần thực thi hiệu quả trong việc khai thác, sử dụng
chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân.
Kinh nghiệm QL DSVH nói chung và DSVH người Sán Dìu ở huyện đảo
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh nói riêng cần được tiếp thu một cách linh hoạt, sáng tạo
từ kinh nghiệm quốc tế như: phân cấp, phân quyền trong QLNN về DSVH; phương
thức quản lý trong chỉ đạo, điều hành hoạt động QL DSVH; huy động nguồn lực xã
hội; hỗ trợ cộng đồng đặc biệt là nghệ nhân; phát huy vai trò tự quản, chủ động, tích
cực của cộng đồng trong nuôi dưỡng, trao truyền và giới thiệu, quảng bá DSVH.
3.2. Bàn luận về quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu
3.2.1. Bối cảnh, cơ hội và thách thức đối với việc quản lý di sản văn hóa
dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
Nhận diện và đánh giá đúng tiềm năng, thế mạnh đồng thời nắm bắt cơ hội,
vượt qua thách thức là điểm mấu chốt đặt nền tảng của sự thành công. Huyện đảo
Vân Đồn, đã và đang trong quá trình chuyển mình từ một huyện đảo không mấy
phát triển thành một KKT có những bước đột phá mới nhờ có những thế mạnh sau:
Thứ nhất, đánh giá những điều kiện thuận lợi về tự nhiên và KT-XH của
huyện, Đảng và Chính phủ đã đặt ra cho Vân Đồn những cơ hội phát triển nhanh,
vững chắc. Đây là chủ trương lớn đã được thông qua tại nhiều kỳ đại hội, do vậy
cần quan tâm triển khai thực hiện, làm từng bước vững chắc, vừa làm vừa rút kinh
nghiệm. Đồng ý cho thành lập ba đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt: Vân Đồn
(tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang)
trực thuộc tỉnh, nhằm khai thác tốt nhất các tiềm năng khu vực có lợi thế vượt trội,
thu hút mạnh vồn nguồn đầu tư, công nghệ cao, phương thức quản lý mới tiên tiến,
hình thành khu vực tăng trưởng cao, tạo thêm nguồn lực và động lực, góp phần thúc
đẩy nhanh phát triển và tái cơ cấu kinh tế cho tỉnh, vùng cả nước. Cơ cấu, mô hình
tổ chức chính quyền đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Luật Đơn vị hành chính
- kinh tế đặc biệt quy định [Thông báo số 21-TB/TW].
125
Xây dựng KKT Vân Đồn trở thành đô thị biển đảo xanh, hiện đại,
thông minh; là trung tâm kinh tế và văn hóa của khu vực với trọng
tâm phát triển là ngành dịch vụ và các ngành sử dụng khoa học, công
nghệ tiên tiến, phát triển ngành nghề mới, công nghệ mới, trình độ
cao, trọng tâm là dịch vụ logistics, du lịch cao cấp, công nghiệp giải
trí hiện đại mang tầm quốc tế, công nghiệp công nghệ cao; trung tâm
khởi nghiệp, sáng tạo và giao thương quốc tế của khu vực [111].
Tiềm năng phát triển KT-XH của Vân Đồn rất lớn, có thể nói hội tụ đầy đủ
yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hòa, khi đặt Vân Đồn trong mối quan hệ phát triển
chung của tỉnh Quảng Ninh, của cả vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, đồng thời gắn
với sự phát triển vành đai kinh tế ven biển vịnh Bắc bộ, tiếp giáp với Đông Bắc Á
đặc biệt thị trường Trung Quốc giàu tiềm năng.
Vân Đồn thuộc vành đai kinh tế Hạ Long - Vân Đồn - Hải Hà - Móng Cái, là
cửa ngõ ra biển của cả vùng Bắc bộ. Đây sẽ là động lực của miền Đông tỉnh Quảng
Ninh, là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, hỗ trợ các tỉnh phía nam sông
Hồng và các vùng khác.
Vân Đồn nằm trong khu vực nhiều công trình, dự án lớn thuộc hai hành
lang, một vành đai của Việt Nam đang được triển khai và sẽ tác động tích cực đến
sự phát triển KT-XH của Vân Đồn.
Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, giá trị DSVH độc đáo, nguồn lao
động dồi dào là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành dịch vụ - du lịch
chất lượng cao.
Bên cạnh những tiềm năng, thuận lợi, Vân Đồn đang đứng trước những khó
khăn, thách thức trên con đường phát triển như:
Nền kinh tế nhỏ, kết cấu hạ tầng yếu kém, dân trí chưa cao, thiếu nước sạch
là những hạn chế chính đối với phát triển Vân Đồn hiện nay.
Thách thức cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư, phát triển nhanh nhưng phải
đảm bảo bền vững là những thách thức không nhỏ liên quan đến các vấn đề về kết
cấu hạ tầng, nguồn nhân lực chất lượng thấp, nhiều vấn đề liên quan đến mô hình
126
quản lý... chưa đủ để tạo tiền đề phát triển nhanh, bền vững. Đây là những thách
thức ngay trong nội tại nền kinh tế của huyện đảo Vân Đồn
Vân Đồn đang đối mặt với những thách thức lớn khi phải thực hiện nhiệm vụ
kép trong chiến lược vừa phát triển KKT Vân Đồn với các cơ chế, chính sách mở,
vừa phải chú trọng đảm bảo quốc phòng - an ninh vùng biển đảo Vân Đồn. Có thể
nói trong giai đoạn hiện nay, Vân Đồn đang có một vị trí chiến lược với vai trò đặc
biệt quan trọng của một trung tâm phát triển tổng hợp với vị thế mang tầm quốc tế
trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Vấn đề đặt ra cho sự phát triển của Vân
Đồn với các khu đô thị hiện đại, thông minh mang đẳng cấp quốc tế nhưng trong
quá trình phát triển cần phải duy trì, BV&PH và phát triển các giá trị DSVH truyền
thống của dân tộc. Đó cũng là lợi thế giúp Vân Đồn phát triển nhưng vẫn có nét độc
đáo, hấp dẫn riêng có, chính nhờ vào công tác QL DSVH. Đồng thời, đảm bảo cân
bằng giữa phát triển kinh tế gắn với phát huy văn hóa truyền thống là một thách
thức lớn trong bối cảnh phát triển Vân Đồn trong giai đoạn hiện nay.
3.2.2. Vấn đề quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu
Qua thực tiễn nghiên cứu luận án, NCS nhận thấy DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn đã có những biến đổi đáng kể. Những biến đổi văn hóa dân tộc
Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn là tất yếu của quy luật xã hội. Tuy nhiên, trước
những hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, NCS nhận thấy
một số vấn đề cần được trao đổi và luận bàn, nhằm phân tích một cách thấu đáo hơn
những vấn đề đặt ra đối với các hoạt động của các cơ quan QLNN, của cộng đồng
và các bên liên quan khác hướng đến mục tiêu QL tốt DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn trong bối cảnh hiện nay và cần có giải pháp QL DSVH đó phục
vụ đời sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng, đồng thời phục vụ hiệu quả trong
phát triển KT-XH một cách bền vững. Do vậy, luận án đưa ra một số bàn luận sau:
Thứ nhất, dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn có những lợi thế riêng về
DSVH cần được phát huy trong quá trình phát triển KT-XH của địa phương
Quảng Ninh có 02 huyện đảo, gồm: huyện đảo Vân Đồn và huyện Cô Tô.
Tuy nhiên, trong số những người dân thuộc các DTTS sinh sống ở hai huyện đảo
127
này, thì người dân tộc Sán Dìu cư trú đông nhất ở huyện đảo Vân Đồn, cho nên,
ngoài những đặc điểm chung về KT-XH, sẽ có những đặc thù riêng về mặt sinh kế,
văn hóa của dân tộc Sán Dìu nơi đây, mà nơi khác không có và đó cũng chính là
những nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng trong phát triển KH-XH, đặc biệt hai
huyện đảo đặt trọng tâm du lịch là ngành kinh tế trọng điểm của địa phương. Do
vậy, phát triển du lịch sinh thái biển kết hợp với việc phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc Sán Dìu trở thành sản phẩm du lịch riêng có của cộng đồng các DTTS tỉnh
Quảng Nình và là điểm đặc thù của dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam.
+ Vân Đồn là một huyện đảo có lợi thế về sự đa dạng của tài nguyên thiên
nhiên như biển đảo, núi đồi, các loại khoảng sản. Đặc biệt, sự kết nối đan xen về đa
dạng văn hóa tạo nên nguồn lực văn hóa trong phát triển KH-XH của dân tộc Sán
Dìu với các dân tộc anh em như Kinh, Dao, Hoa, Tày... Đa dạng văn hóa DTTS tạo
ra nhiều sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn du khách đến trải nghiệm và tham quan.
Thứ hai, cơ chế chính sách cần bổ sung hoặc làm rõ thêm về quyền lợi và
trách nhiệm của cộng đồng trong QL DSVH
Tạo cơ chế, chính sách mở để người dân và cộng đồng thực sự làm chủ trong
quyết định về thực hành văn hóa, từ khi lên ý tưởng, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện
và thực hành văn hóa. Nhà nước/chính quyền các cấp thực hiện đúng vai trò chỉ
đạo, định hướng, quản lý hành chính và kiểm tra giám sát không can thiệp sâu vào
công việc của cộng đồng, đặc biệt không làm thay hoặc quyết định thay cộng đồng.
Chính quyền cần nhìn nhận vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng, họ là
người trong cuộc nên mọi quyết định đúng pháp luật, phù hợp với thuần phong mỹ
tục của cộng đồng cần được tôn trọng, khuyến khích cộng đồng thực hành các giá
trị văn hóa đó như tổ chức lễ hội Đại phan nhằm cầu cho quốc thái dân an, làng quê
yên bình,; Soọng cô giúp con người xích lại gần nhau hơn, giải tỏa những mệt nhọc sau
những ngày mùa vất vả, giúp các đôi trai gái nên duyên vợ chồng...
Vai trò của tổ chức, cá nhân và cộng đồng trong luật DSVH, Nghị định số
98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 đã có quy định trong QL DSVH, tuy nhiên cần
128
được cụ thể hóa thành các văn bản dưới luật để đảm bảo hành lang pháp lý mở cho
cộng đồng được tự quyết định và tổ chức các thực hành văn hóa của cộng đồng.
Thứ ba, bảo vệ DSVH là cơ sở để giáo dục về DSVH
DSVH của dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn hiện nay còn hay mất và
có phù hợp với cuộc sống hiện tại hay không? Đây cũng là một câu hỏi lớn không
chỉ đối với dân tộc Sán Dìu mà còn đối với các dân tộc khác. Ngay tại xã Bình Dân,
xã được coi là “thủ phủ”, “lõi văn hóa” của dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh
cũng đang đứng trước những quy cơ mai một, thất truyền các DSVH nhanh chóng.
Do vậy, vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục về DSVH là hết sức quan trọng và cần
thiết. Từ kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy không phải tất cả các DSVH đều
được giữ một cách nguyên vẹn như lễ hội Đại phan vì nếu giữ nguyên vẹn thì thời
gian tổ chức kéo dài, lễ vật lớn; Soọng cô với nhiều bài hát không phù hợp với lối
sống hiện đại; Miếu thờ thành hoàng cũng không thể dựng tranh tre nứa lá như thời
xưa. Tất cả các giá trị văn hóa đó được biến đổi để phù hợp với đời sống hiện nay
và cũng giúp cho quá trình giáo dục di sản được thế hệ trẻ dễ dàng tiếp nhận hơn.
Việc giáo dục DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn cũng cần kết
hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại. Không phải tất cả giá trị
truyền thống đều là lạc hậu, lỗi thời và không phải tất cả những cái mới đều là tốt.
Về bản chất không có tri thức nào cao hay thấp mà vấn đề sử dụng và phát huy nó
trong từng điều kiện phù hợp. Trong quá trình QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện
đảo Vân Đồn cần ứng dụng các tri thức hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào
việc giáo dục DSVH như làm nhạc nên cho các bài Soọng cô bằng nhạc cụ đàn bầu,
sáo trúc giúp cho người học dễ dàng học hơn; hay trong lễ Đại phan việc dùng máy
quét, sao chụp các văn tự cổ cũng tiết kiệm được rất nhiều thời gian và kinh phí.
Thứ tư, Mối quan hệ giữa QL DSVH dân tộc Sán Dìu với phát triển du lịch
Mối quan hệ hữu cơ giữa QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
với phát triển du lịch chính là phương thức hữu hiệu để phát huy các giá trị DSVH,
vì có BV&PH các giá trị văn hóa của làn điệu Soọng cô, lễ hội Đại phan và miếu
thành hoàng tốt thì mới có thể phát triển các sản phẩm du lich văn hóa, du lịch cộng
129
đồng và khi phát triển du lịch tốt chính là cơ sở để QL DSVH Sán Dìu ở huyện Vân
Đồn được tốt lên thông qua hai khía cạnh:
Một là, thông qua các hoạt động khai thác dịch vụ du lịch, dân tộc Sán Dìu
được giao lưu, tiếp xúc du khách mọi nơi, giúp họ nâng tầm hiểu biết, thấy được sự
đa dạng văn hóa và tự hào về văn hóa của dân tộc mình. Từ đó, họ củng cố và có ý
thức, trách nhiệm hơn trong QL DSVH. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy mặt trái khi
giao lưu, tiếp xúc các luồng văn hóa mới đưa vào các DSVH dễ làm méo mó, biến
dạng các DSVH truyền thống.
Hai là, thông qua phát triển du lịch có nguồn kinh phí để phục vụ công tác
QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn được hiệu quả hơn.
3.3. Một số định hướng cơ bản về quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
3.3.1. Định hướng chung
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”
[7]. Với ý nghĩa và vị trí vô cùng quan trọng, văn hoá luôn được Đảng ta quan tâm,
chỉ đạo xuyên suốt trong tiến trình lịch sử cánh mạng nước ta từ Đề cương văn hóa
năm 1943 đến các văn kiện của Đại hội Đảng qua các thời kỳ. Đặc biệt, hai nghị
quyết về văn hóa (Nghị quyết TW 5 khóa VIII và Nghị quyết TW 9 khóa XI), đã
làm thay đổi một cách toàn diện và tạo ra sự khởi sắc trong bức tranh văn hóa toàn
cảnh của Việt Nam trong thời kỳ mới, với mục tiêu:
Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển
bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh [7].
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương
về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
130
bền vững đất nước, xác định nâng cao hiệu quả QLNN về văn hóa là 1 trong 4 giải
pháp quan trọng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ văn hóa trong tình hình mới. Nghị
quyết, nhấn mạnh: “Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về văn
hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của
công nghệ thông tin, truyền thông”. Đây là vấn đề cơ bản, cấp bách trong công tác
chỉ đạo, điều hành quản lý của ngành văn hóa trong bối cảnh mới cần thực hiện
sáng tạo nhằm đưa Nghị quyết vào cuộc sống, làm tăng hiệu quả QLNN về DSVH.
Trong công tác QL DSVH vùng DTTS, Thủ tướng Chính phủ có Quyết
định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 về Phê duyệt Đề án Bảo tồn, phát triển
văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu tổng quát:
- Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các DTTS phù hợp
với tình hình thực tế, đặc biệt chú trọng địa bàn các dân tộc có nguy cơ bị
biến dạng văn hóa cao (các dân tộc rất ít người không có điều kiện tự bảo
vệ văn hóa của mình; bảo tồn và phát triển văn hóa các DTTS tại khu
vực biên giới, hải đảo, khu vực tái định cư của các thủy điện); phát huy
vai trò của các chủ thể văn hóa trong phát triển văn hóa truyền thống của
các dân tộc;
- Tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu
số; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới; góp phần giảm dần sự
chênh lệch về mức sống và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các dân
tộc, gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo tồn và phát triển văn hóa các
dân tộc;
- Tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động
văn hóa, huy động mọi nguồn lực cho bảo tồn và phát triển văn hóa các
DTTS Việt Nam, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển
văn hóa, đặc biệt tại các địa bàn trọng điểm: Vùng đồng bào dân tộc,
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo [110].
131
Những định hướng trên cho thấy, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước là đầy đủ trong công tác QL DSVH. Đặc biệt, sự quan tâm của Nhà nước
trong công tác QL DSVH vùng DTTS được chú trọng, coi đây là nguồn lực nội sinh
giúp cộng đồng DTTS duy trì, phát huy bản sắc văn hóa và là nguồn lực gắn với
phát triển KT-XH tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng vùng DTTS.
3.3.2. Định hướng cụ thể
Từ định hướng chung của QLNN về DSVH như trên, để có cơ sở xây dựng
định hướng hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, NCS dựa
trên một số quan điểm quản lý như sau:
Một là: về cơ chế QL DSVH thực hiện theo phương châm “Nhà nước quản
lý, cộng đồng làm chủ, các bên liên quan hỗ trợ”. QLNN đóng vai trò định hướng,
chỉ đạo, quản lý và điều hành; cộng đồng đóng vai trò làm chủ với tư cách chủ thể
sáng tạo và thực hành văn hóa, đồng thời thực hiện việc giám sát hiệu quả hoạt
động của QLNN về DSVH; các bên liên quan khác hỗ trợ các nguồn lực về con
người, cơ sở vật chất, tài chính, chuyên môn…
Hai là: QL DSVH phải đảm bảo tính nguyên vẹn và giữ gìn lâu dài các
DSVH, phải đặt mục tiêu cân bằng tổng thể, hài hòa giữa các lợi ích bảo tồn DSVH
gắn với phát triển KT-XH, trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên tham gia.
Ba là: QL DSVH phải luôn gắn với cộng đồng, dựa vào cộng đồng và vì lợi
ích của cộng đồng với mục tiêu chính DSVH thuộc về cộng đồng và do cộng đồng
quyết định DSVH.
Bốn là: QL DSVH phải gắn chặt chẽ và mật thiết với phát triển KT-XH của
huyện đảo Vân Đồn. DSVH phải là nguồn vốn quan trọng thúc đẩy KT-XH phát
triển, tạo sinh kế bền vững cho người dân.
Từ cơ sở nêu trên, NCS căn cứ vào thực tiễn hoạt động QL DSVH dân tộc
Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn nhằm định hướng các nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, thể chế hóa văn bản quy phạm pháp luật. Đây là vấn đề hiện thực
hóa các cơ chế chính sách vào thực tiễn. Cụ thể, UBND tỉnh Quảng Ninh đã sớm
ban hành Quyết định số 4071/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của UBND tỉnh Quảng
132
Ninh về việc phê duyệt Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các DTTS tỉnh
Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 với mục tiêu tổng quát:
Bảo tồn và phát triển những giá trị DSVH dân tộc, truyền thống của các
DTTS; tăng cường xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong vùng đồng
bào các DTTS cư trú; Bảo vệ, tôn tạo và phát huy các di tích, lịch sử, văn
hóa, danh lam thắng cảnh, môi trường sinh thái; đẩy mạnh công tác xây
dựng gia đình văn hóa, thôn văn hóa, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa
gắn liền xóa bỏ hủ tục lạc hậu, phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân
tộc; nâng cao dân trí, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo quốc phòng - an ninh
trong điều kiện phát triển bền vững [125].
Từ quyết định của cấp tỉnh, UBND huyện Vân Đồn đã phê duyệt Đề án theo
Quyết định số 1427/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 và Kế hoạch số 1517/KH-UBND
ngày 29/6/2020 về triển khai thực hiện Đề án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân
gian truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn
2020-2022 với mục tiêu cụ thể:
Khảo sát giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc Sán Dìu trên địa
bàn; bảo tồn và phát huy công năng nhà văn hóa dân tộc, miếu thờ Tổ ở
xã Bình Dân; bảo tồn thông qua hình thức các lớp truyền dạy để phát huy
các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể trọng tâm trang phục, ẩm thực, cây
trồng, vật nuôi, âm nhạc, dân ca dân vũ, trò chơi dân gian, ngữ văn dân
gian và tiếng nói, chữ viết, nghề thủ công truyền thống, nghi lễ cấp sắc,
lễ Đại phan [129].
Thứ hai, kiện toàn bộ máy QLNN về công tác văn hóa vừa đảm bảo định
biên theo quy định của Nhà nước. Đồng thời có chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài,
đặc biệt là người DTTS có trình độ chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển của
KKT Vân Đồn nói chung và công tác giá trị DSVH huyện Vân Đồn nói chung.
Thứ ba, định hướng phát triển kinh tế của huyện đảo Vân Đồn gắn với đổi
mới phương thức thu hút đầu tư, thực hiện xã hội hóa đầu tư phát triển theo các hình
thức BOT, BTO, BT… Đặc biệt, trong lĩnh vực văn hóa cần phát triển các không
gian sáng tạo dựa trên các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc.
133
Thứ tư, phát triển văn hóa và QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân
Đồn gắn với việc triển khai thực hiện phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa và cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị
văn minh trên địa bàn huyện Vân Đồn thực sự đi vào chiều sâu nhằm nâng cao chất
lượng đời sống văn hóa cộng đồng.
Thứ năm, phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở văn hóa phục vụ nhu cầu duy trì,
thực hành DSVH; đẩy mạnh QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn là
“vũ khí mềm” bảo vệ chủ quyền, nơi tiền tiêu vùng biển đảo của Tổ quốc.
3.4. Giải pháp quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
3.4.1. Căn cứ và nguyên tắc đề xuất giải pháp
Nhận diện, phân tích và đánh giá thực trạng QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn là một việc khó khăn và phức tạp, đòi hỏi NCS cần có cái nhìn
tổng quan về KT-XH địa phương, đồng thời nắm được các vấn đề trong lĩnh vực
DSVH nói chung và DSVH của dân tộc Sán Dìu nói riêng. Để nhìn nhận và phân
tích những kết quả đạt được, những khó khăn, thách thức cũng như xu hướng vận
động của DSVH trong quá trình hội nhập; bước đầu đề xuất một số giải pháp phù
hợp với tình hình thực tiễn về QLNN về DSVH, phát huy vai trò cộng đồng và các
bên liên quan trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn trong thời gian
tới; căn cứ thực trạng nêu trên, NCS dựa vào các căn cứ và nguyên tắc cơ bản sau:
3.4.1.1. Căn cứ đề xuất giải pháp
- Căn cứ lý luận: các vấn đề thực tiễn cần được nghiên cứu, soi chiếu qua
lăng khoa học nhằm đảm bảo tính khách quan, hệ thống của vấn đề nghiên cứu đặt
ra. Trong nghiên cứu DSVH, việc vận dụng các lý thuyết quản lý DSVH, lý thuyết
vai trò các bên liên quan… nhằm phân tích và đánh giá hoạt động quản lý, QL DSVH
dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn hiện nay đang gặp những thuận lợi, khó khăn
nào. Đồng thời, nhận diện những tiền năng, thế mạnh, cơ hội và thách thức trong quá
trình phát triển một cách khách quan khoa học phù hợp với nhu cầu thực tiễn đặt ra.
- Căn cứ pháp lý: trên phương diện quốc tế, UNESCO đã nỗ lực và tích cực
ban hành các công ước quốc tế về DSVH như: Công ước Bảo vệ di sản văn hóa và
thiên nhiên thế giới (1972); Công ước Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (2003);
134
Công ước Bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa (2005)… Điều
đó khẳng định vai trò quan trọng của DSVH đối với sự phát triển văn hóa, văn minh
của nhân loại trong mọi thời đại. Công ước quốc tế được coi là kim chỉ nam cho các
quốc gia thành viên tham gia vận dụng một cách khoa học, linh hoạt trong quá trình
BV&PH giá trị DSVH tại mỗi quốc gia.
Quốc hội và Chính phủ đã ban hành các cơ chế chính sách về phát triển văn
hóa nói chung và DSVH nói riêng, cụ thể: năm 2001 Quốc hội khóa X tại kỳ họp
thứ 9 ngày 29/6/2001 đã thông qua Luật Di sản văn hóa, (số 28/2001/QH10) gồm 7
chương và 74 điều; Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 ngày 18/6/2009, Luật sửa đổi
bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa (số 32/2009/QH12) được thông qua.
Luật Di sản văn hóa là văn bản đầy đủ và hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay về vấn
đề QL DSVH ở nước ta. Ngoài ra, về vấn đề này còn có nhiều luật liên quan trực
tiếp đến vấn đề DSVH như: xây dựng, trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa;
luật thi đua khen thưởng, vinh danh NNND, NNUT trong lĩnh vực QL DSVH phi
vật thể...
Các văn bản dưới luật đã được chính phủ và các bộ, ngành trung ương cụ thể
hóa như: Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ về Quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Di sản văn hóa; Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về
Công tác dân tộc; Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 về Phê duyệt Đề án
Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020; Quyết định số
2723/QĐ-BVHTTDL, ngày 03/8/2016 của Bộ VH,TT&DL về việc phê duyệt dự án
Gắn kết phát triển kinh tế và bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS....
Chính quyền các cấp tỉnh Quảng Ninh đã kịp thời xây dựng và ban hành
Quyết định số 1988/QĐ-UBND ngày 07/8/2013 của UBND tỉnh Quảng Ninh về
việc ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày
29/5/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh; Quyết định số 2994/QĐ-
UBND ngày 08/10/2015, về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương
trình hành động của BCH Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW (khóa
135
XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước.
Huyện Vân Đồn đã ban hành Nghị quyết số 105/NQ-HĐND ngày
20/12/2019; Quyết định số 1427/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 và Kế hoạch số
1517/KH-UBND ngày 29/6/2020 về triển khai thực hiện Đề án Bảo tồn, phát huy
giá trị văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2020-2022.
- Căn cứ thực tiễn: trong bất kỳ lĩnh vực phát triển nào thì vấn đề thực tiễn
luôn được coi trọng, bởi các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn trong quá trình vận hành.
Do vậy, việc đánh giá đúng thực tiễn đặt ra nhằm đề xuất giải pháp theo kịp xu
hướng phát triển của xã hội. Qua phân tích, đánh giá thực trạng QL DSVH người
Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn đang có những tiềm năng, thế mạnh và cơ hội tốt
trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các hoạt động QL DSVH gặp phải những khó
khăn, thách thức nhất định trong quá trình vận hành của các bên liên quan cần có
hướng đi phù hợp trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, xác định những yếu tố tác
động ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả QLNN và vai trò quản lý của cộng đồng
trong QL DSVH người Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn tại mục 3.2 (chương 3) của
luận án là những căn cứ thực tiễn quan trọng trong đề xuất các giải pháp.
3.4.1.2. Nguyên tắc đề xuất giải pháp
- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước: đây là nguyên tắc trọng yếu quyết định sự thành công của quá trình QL
DSVH thông qua các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Mục tiêu lãnh đạo, quản lý văn hóa nói chung và DSVH nói riêng là duy
trì sự ổn định và phát huy sự sáng tạo trong khả năng của người dân và cộng đồng
nhằm BV&PH nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong bối
cảnh hội nhập và phát triển.
- Nguyên tắc đảm bảo tính dân chủ, tự do sáng tạo và hoạt động văn hóa:
nguyên tắc này khẳng định vai trò chủ thể văn hóa thuộc về nhân dân, do nhân dân
sáng tạo và đề cao những đóng góp của cá nhân và cộng đồng trong QL DSVH.
136
Đặc biệt, đối với các nghệ nhân, những người nắm giữ tri thức văn hóa dân gian
của dân tộc và được coi là “vật báu sống” của quốc gia, cần phải có các cơ chế,
chính sách nhằm phát huy tinh thần làm chủ, tự do sáng tạo, truyền thừa trong
hoạt động DSVH.
- Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và đồng bộ: nhiệm vụ QL DSVH dân
tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn thuộc về chức năng QLNN và vai trò QL của cộng
đồng. Việc thực hiện nguyên tắc này đảm bảo hệ thống giải pháp được đề xuất có
sự đồng bộ toàn diện theo nhu cầu từ dưới lên và sự chỉ đạo, hướng dẫn từ trên
xuống. Tính hệ thống và đồng bộ thể hiện mối quan hệ hữu cơ, biện chứng tác động
qua lại, tương hỗ lẫn nhau tạo nên hiệu lực, hiệu quả của QLNN; phát huy vai trò
cộng đồng và tăng cường sự tham gia của các bên liên quan khác trong QL DSVH
dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn.
- Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa - phát triển: DSVH nói chung và DSVH
dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn là một quá trình hình thành và phát triển lâu dài
tạo nên các cơ tầng văn hóa nối tiếp nhau trong quá trình lao động, sáng tạo của
người dân và cộng đồng. Trong tiến trình phát triển văn hóa, cần có sự điều chỉnh,
quản lý sao cho phù hợp với thực tiễn đặt ra. Do vậy, nguyên tắc này đảm bảo các
giải pháp được đề xuất trong quản lý và việc phát huy DSVH cần phải được chú
trọng, đảm bảo tính kế thừa các giá trị DSVH truyền thống cũng như các giá trị văn
hóa mới trong bối cảnh phát triển bền vững.
- Nguyên tắc đảm bảo tính đồng thuận: nguyên tắc này đảm bảo quá trình
hoạch định và thực thi chính sách xã hội nói chung và chính sách DSVH nói riêng
với sự tham gia của người dân và cộng đồng có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi văn
hóa là “của dân, do dân và vì dân”. Các chính sách muốn đi vào cuộc sống phải hợp
lòng dân, xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân và phù hợp với
thực tiễn quản lý xã hội.
- Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi: các giải pháp đề xuất phải dựa trên luận
cứ khoa học; quan điểm, chính sách hiện hành của Đảng, Nhà nước và vấn đề thực
tiễn đang đặt ra trong QLNN về DSVH cũng như vai trò cộng đồng nhằm đảm bảo
137
các đề xuất QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn sát thực tiễn, có tính khả
thi cao. Có như vậy mới phát huy được các thành tựu đã đạt được đồng thời giải
quyết triệt để tồn tại, hạn chế của công tác QLNN về DSVH và vai trò cộng đồng
trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn hiện nay.
3.4.2. Đề xuất một số giải pháp quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu
3.4.2.1. Nhóm giải pháp quản lý Nhà nước về di sản văn hóa
- DSVH là tài sản quý giá của dân tộc Sán Dìu sáng tạo, hun đúc và lưu truyền
qua nhiều thế hệ đã tạo nên bản sắc văn hóa Sán Dìu. Đảng bộ, chính quyền các cấp
tỉnh Quảng Ninh và huyện đảo Vân Đồn cần tập trung chỉ đạo, thực hiện các chủ
trương, chính sách về DSVH, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức đến hành
động, phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các cấp ngành giữa cơ quan QLNN và
cộng đồng nhằm có những cơ chế QL DSVH trong tình hình mới.
- Giải pháp về cơ chế, chính sách QLNN về DSVH của địa phương
+ Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về DSVH của tỉnh Quảng Ninh và
huyện đảo Vân Đồn cơ bản đầy đủ, thể hiện tính toàn diện và đồng bộ trong quản lý
và phát huy DSVH. Do vậy, chính quyền cấp huyện, cấp xã cần chủ động trong
công tác tham mưu, ban hành cơ chế, chính sách cụ thể về DSVH đảm bảo sự tham
gia chủ động, tích cực của cộng đồng trong QL DSVH.
+ Đẩy mạnh thực hiện công tác xây dựng, hoàn thiện, thẩm định và phê
duyệt các quy hoạch mới. Quy hoạch cần đảm bảo tính hệ thống và toàn diện đến
vấn đề phát triển KT-XH, trong đó cần tính tới việc khai thác các nguồn vốn văn
hóa DTTS, đặc biệt là văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo nhằm phát huy nội lực,
tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng sau khi chuyển đổi nghề nghiệp do hết đất canh
tác phải chuyển sang các ngành dịch vụ. Do vậy, phát triển du lịch văn hóa, du lịch
cộng đồng là một hướng đi mới gắn với việc QL DSVH dân tộc Sán Dìu trong các
hoạt động sinh kế của cộng đồng.
+ Trong quy hoạch dân cư phải quan tâm đến QL DSVH. Tại xã Bình Dân
có 95% dân số là dân tộc Sán Dìu, đây được coi là “lõi văn hóa” của dân tộc Sán
138
Dìu tỉnh Quảng Ninh, cần quy hoạch làng dân tộc Sán Dìu nhằm bảo tồn các DSVH
truyền thống gắn với phát triển KT-XH, đặc biệt gắn với phát triển du lịch.
+ Tập trung phối hợp cùng cộng đồng tham gia xây dựng và ban hành quy
ước, hương ước mang màu sắc văn hóa riêng có của từng thôn xóm, tránh hiện
tượng “hành chính hóa” hương ước, quy ước nơi nào cũng giống nhau. Đồng thời,
phát huy vai trò luật tục, vai trò cộng đồng tự quản trong phong trào Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào xây dựng nông thôn mới.
- Giải pháp kiện toàn bộ máy QLNN về DSVH: cần phân cấp rõ ràng, tránh
cồng kềnh, chồng chéo, nhiều cơ quan cùng tham gia một nhiệm vụ trong khi cán
bộ của cơ quan lại thiếu người và chưa có chuyên môn sâu. Các nhiệm vụ giữa
Phòng Văn hóa - Thông tin và Trung tâm Truyền thông - văn hóa huyện Vân Đồn
cần phải xác định rõ ràng trong quy định cũng như trong chỉ đạo, điều hành.
- Giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý DSVH
+ Tăng cường công tác bồi dưỡng, tập huấn các khóa học ngắn hạn cho cán
bộ văn hóa cơ sở. Nội dung kiến thức cần phải tập trung giải quyết các vấn đề thực
tiễn đặt ra trong công tác quản lý. Tránh tình trạng thời gian tổ chức các lớp bồi
dưỡng, tập huấn ngắn ngày mà kiến thức quá rộng, không trọng tâm làm cho học
viên không nắm được vấn đề cơ bản và khó áp dụng vào thực tiễn của địa phương.
+ Đào tạo theo nhu cầu của UBND xã và các ban, ngành chức năng về lĩnh
vực văn hóa. Theo nhu cầu thực tiễn của cơ quan, lãnh đạo quyết định cử cán bộ
tham gia vào các chương trình đào tạo chuyên ngành từ bậc đại học đến sau đại học
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành văn hóa.
+ Có cơ chế, chính sách tuyển dụng thu hút nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn cao, đặc biệt là con em dân tộc Sán Dìu tại địa phương đã tốt nghiệp
loại khá, giỏi về làm việc.
- Giải pháp tuyên truyền, phổ biến DSVH
+ Đa dạng hóa bằng nhiều hình thức tuyên truyền, quảng bá và phổ biến
DSVH dân tộc Sán Dìu gắn với đặc thù của huyện đảo Vân Đồn trên các phương
tiện thông tin đại chúng. Các sự kiện văn hóa ở khu vực, quốc gia và quốc tế nhằm
giới thiệu đến công chúng biết đến nhiều hơn về DSVH dân tộc Sán Dìu và các
139
DTTS khác ở huyện đảo Vân Đồn kết hợp với du lịch biển tạo nên những sản phẩm
du lịch riêng.
+ Ngoài tuyên truyền, quảng bá và phổ biến DSVH ra bên ngoài cũng cần
chú trọng đến công tác tuyên truyền, vận động chính cộng đồng, đặc biệt là thế hệ
trẻ hiểu rõ hơn và tích cực hơn trong QL DSVH của chính dân tộc mình. Gắn kết
giữa thế hệ trẻ dân tộc Sán Dìu hiểu rõ hơn, để cảm thấy tự hào về DSVH của dân
tộc mình kết hợp với đào tạo các ngành nghề như: hướng dẫn viên, nấu ăn, nghề thủ
công mỹ nghệ, kiến thức về du lịch cộng đồng, bảo tàng, nghệ thuật biểu diễn... để
khai thác các giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu tạo sinh kế mới cho thế hệ trẻ.
+ Xây dựng các mô hình QL DSVH dân tộc Sán Dìu, thành lập các CLB sinh
hoạt và trình diễn các DSVH phi vật thể tại cộng đồng và điểm du lịch.
+ Tổ chức các cuộc thi, hội thi, hội diễn liên quan đến các DSVH dân tộc
Sán Dìu, các hoạt động bảo vệ, giáo dục tại vùng lõi của di sản là làng văn hóa dân
tộc Sán Dìu nói riêng và các xã có đông cộng đồng dân tộc Sán Dìu sinh sống.
+ Từ kết quả sưu tầm, nghiên cứu khoa học, chính quyền các cấp cần tăng
cường in ấn, xuất bản sách, báo, tạp chí... nhằm tuyên truyền rộng rãi, cung cấp
thông tin cho đồng bào, đặc biệt là thế hệ trẻ. Tăng tần suất và thời lượng đưa tin,
phát sóng các chương trình văn hoá dân tộc trên đài phát thanh truyền hình từ trung
ương đến địa phương.
- Giải pháp về giáo dục DSVH trong cộng đồng và nhà trường
+ Cần thiết kế và đưa vào chương trình giáo dục chính thức và phi chính thức
với nhiều nội dung tự chọn và bắc buộc như kinh nhiệm của Nhật Bản nhằm nâng
cao nhận thức của học sinh về DSVH. Thông qua các môn học lịch sử, địa lý, ngữ
văn… lồng ghép việc giáo dục DSVH bằng nhiều hình thức từ trực quan đến mời
NNDG tại xã Bình Dân đến lớp học các cấp để trực tiếp giới thiệu, hướng dẫn thực
hành DSVH. Ngoài ra, khuyết khích các học sinh đến nhà các NNDG tại xã để được
học trong môi trường thực hành văn hóa của cộng đồng.
+ Các hình thức giáo dục ngoại khóa được nhà trường phối hợp với gia đình
học sinh và các tổ chức xã hội thực hiện. Học sinh được học tập và thực hành
DSVH dân tộc Sán Dìu ở mọi lúc mọi nơi thông qua các hoạt động tham quan, trải
140
nghiệm tại bảo tàng, không gian văn hóa, khu du lịch về nguồn, làng nghề truyền
thống, sự kiện văn hóa, lễ hội Đại phan… Việc trải nghiệm DSVH đem lại cho học
sinh những cảm nhận thú vị và hứng thú trong tìm hiểu và thực hành văn hóa.
+ UBND huyện Vân Đồn phối hợp với các cơ quan chuyên môn và NNDG cần
đưa DSVH vào trường từ cấp tiểu học đến cấp trung học phổ thông nhằm nâng cao
nhận thức của học sinh trong việc giáo dục và kế thừa di sản của chính ông cha để lại,
đúng theo tinh thần của Hướng dẫn liên tịch số 73/HĐ-BGDĐT-BVHTTDL, ngày
16/01/2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Chính quyền các cấp chủ trì, phối hợp với cộng đồng và các bên liên quan
tăng cường hoạt động QL DSVH tại cộng đồng như:
+ Tổ chức các hội thi, giao lưu dân ca, hội chợ, hội xuân tại cộng đồng.
+ Lựa chọn các nét đẹp trong lễ cưới truyền thống để khôi phục và phát huy
các nét đẹp đó vào trong lễ cưới hiện nay sao cho phù hợp với thuần phong mỹ tục.
+ Khôi phục lễ hội truyền thống gắn với trò chơi dân gian, dân ca, ẩm thực
truyền thống như thành lập các đội thi nhằm tăng cường tình đoàn kết, tính cố kết
cộng đồng trong BV&PH giá trị DSVH trong đời sống hiện nay.
+ Cần tham khảo một kinh nghiệm của Chính phủ Nhật Bản về việc huy
động nhiều chuyên gia - người hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực văn hóa vật thể,
phi vật thể vào Ban Tài sản văn hóa để có những kế hoạch cụ thể nhằm BV&PH giá
trị DSVH dân tộc Sán Dìu. Kinh nghiệm này được đề cập ở mô hình QL DSVH dân
tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn với việc tham gia của các nhà khoa học.
- Giải pháp về tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học về QL DSVH:
+ Cần có cơ chế chính sách tăng cường phát triển đội ngũ hoạt động nghiên
cứu khoa học tại địa phương và cộng tác viên khoa học tại các trường đại học, viện
nghiên cứu của cả nước nhằm nghiên cứu các vấn đề thực tiễn đặt ra; các chính sách
cho nghệ nhân trong QL DSVH tại cộng đồng.
+ Cần có chương trình tổng điều tra, kiểm kê kho tàng giá trị văn hoá vật thể,
phi vật thể của dân tộc Sán Dìu, chương trình sưu tầm, sao chụp, số hóa, biên dịch
kho tàng sách cổ về bài cúng, dân ca, tục ngữ... liên quan đến nghi lễ vòng đời nói
riêng và văn hoá dân tộc Sán Dìu nói chung.
141
+ Lồng ghép các chương trình hoạt động thông tin, tuyên truyền trong làng
xã; khai thác làn điệu dân ca, các điệu múa trong lễ hội Đại phan,... bằng cách ghi
âm, ghi chép, quay phim; đào tạo, truyền dạy con em tiếp thu vốn văn hoá cổ truyền
thông qua nhiều loại hình nghệ thuật.
- Giải pháp về hợp tác với tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế về hoạt
động QL DSVH
+ Hợp tác thực hiện với các tổ chức, cá nhân trong sản xuất các chương trình giao
lưu văn hóa, quảng bá hình ảnh “đất và người” Vân Đồn trên phương tiện thông tin đại
chúng, đặc biệt là các chương trình quốc tế giới thiệu về Việt Nam trong đó có di sản
vịnh Bái Tử Long và di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu tại huyện đảo Vân Đồn.
+ Tăng cường chương trình giao lưu văn nghệ tại các sự kiện văn hóa quốc gia
nhằm giao lưu giữa các đoàn nghệ thuật, nắm bắt cơ hội hợp tác văn hóa nghệ thuật.
+ Hợp tác đào tạo thông qua chương trình, dự án do tổ chức phi chính phủ
hay các tổ chức chuyên môn quốc tế tài trợ. Tuy nhiên, trong hợp tác cũng cần phải
lựa chọn phương pháp tiếp nhận, tiếp thu sáng tạo khoa học, kỹ thuật tiên tiến nhằm
áp dụng những kiến thức và công nghệ vào công tác QL DSVH một cách hiệu quả.
- Giải pháp về huy động các nguồn lực xã hội trong việc QL DSVH
+ Tăng cường huy động các nguồn lực xã hội từ cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức,
cá nhân không chỉ tại địa phương, mà cần có cơ chế, chính sách thiết thực, hiệu quả
nhằm thu hút ngày càng nhiều các nguồn lực xã hội tham gia cùng địa phương. Cụ thể
cần huy động các nguồn lực xã hội hóa trong việc đầu tư, tôn tạo lại các miếu để có cơ sở
thờ tự khang trang hơn từ các nguồn xã hội hóa của các danh nghiệp, khách du lịch thông
qua các hoạt động tham quan…
+ Cần xây dựng mỗi thôn/bản một nhà sinh hoạt cộng đồng theo đúng nghĩa
của nó. Nhà sinh hoạt cộng đồng cũng là một bảo tàng nhỏ để giáo dục DSVH
truyền thống thông qua các buổi sinh hoạt văn hoá và các hiện vật, văn hoá phẩm...
- Giải pháp về vinh danh, thi đua, khen thưởng: UBND huyện Vân Đồn cần
tăng cường công tác lập danh sách, xây dựng hồ sơ đề nghị cấp có thẩm quyền công
nhận danh hiệu NNND, NNƯT, NNDG những người đang nắm giữ tri thức DSVH
quý báu và đang ngày đêm trao truyền các DSVH cho các thế hệ. Họ cần được tôn
142
vinh, công nhận và có cơ chế chính sách khai thác kho “vật báu sống”. Đồng thời,
chính quyền cần có những biện pháp hỗ trợ cần thiết và kịp thời để nghệ nhân có cơ
hội thực hành, trao truyền DSVH được hiệu quả hơn.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong quá trình triển khai
và thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch, dự án phát triển KT-XH của
địa phương. Công việc này đặc biệt quan trọng đối với các vấn đề về chính sách dân
tộc, chính sách văn hóa nhằm đẩy mạnh công cuộc giảm nghèo và nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng.
3.4.2.2. Nhóm giải pháp phát huy vai trò quản lý của cộng đồng
- Giải pháp về nâng cao nhận thức của cộng đồng trong QL DSVH
+ Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đặc biệt là chủ
trương đường lối của Đảng như: Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014; Nghị
quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998, Luật Di sản văn hóa;…
+ Giúp cộng đồng nhận diện tốt hơn nữa về vị trí, vai trò quan trọng của giá
trị DSVH trong đời sống đương đại. Việc QL DSVH người Sán Dìu phải xuất phát
từ chính nhu cầu của cộng đồng và chính cộng đồng phải là người có trách nhiệm
QL DSVH của dân tộc mình. Nhà nước và các bên liên quan có vai trò định hướng,
phối hợp và hỗ trợ cộng đồng trong QL DSVH.
+ Cộng đồng dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn cần nhận thức DSVH là
một tài sản, nguồn vốn sinh kế trong phát huy nội lực nhằm phát triển KT-XH, đặc
biệt gắn liền với phát triển du lịch. Từ tâm thế bảo vệ một cách thụ động, bảo vệ
theo chương trình, chính sách của Nhà nước, của các tổ chức bên ngoài cộng đồng
thì cộng đồng cần chủ động hơn với tâm thế làm cho chính mình. Chỉ có nhận thức
đúng đắn về tài sản văn hóa Sán Dìu phải được dân tộc Sán Dìu nắm giữa, trao
quyền và quyết định các thực hành văn hóa mới có thể BV&PH giá trị DSVH một
cách hiệu quả và bền vững.
+ Cần thực hiên hiệu quả chính sách lập hồ sơ, phong tặng các danh hiệu
nghệ nhân trong cộng đồng dân tộc Sán Dìu, để tích cực khai thác DSVH được các
nghệ nhân nắm giữ và tổ chức trao truyền cho cộng đồng thông qua gia đình, dòng
họ, trường học và các CLB. Bên cạnh đó, cũng cần chăm lo đến đời sống của nghệ
143
nhận, đặc biệt thực hiện đầy đủ các chính sách nghệ nhân được hưởng. Những nghệ
nhân đã được Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền phong tặng cũng cần quan
tâm đến các nghệ nhân chưa được phong tặng nhưng họ có những đóng góp lớn
trong thực hành và trao truyền các DSVH.
- Giải pháp về đảm bảo sự tham gia chủ động, tích cực của cộng đồng
+ Vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu
đã được khẳng định qua quá trình hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, để tăng cường
hơn nữa vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng, chính quyền địa phương cần trao
quyền cho cộng đồng tự quản lý, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm trong thực
hành văn hóa, Nhà nước chỉ giữ vai trò định hướng, quản lý về mặt hành chính.
+ Cộng đồng chủ động trong việc tổ chức thực hành văn hóa, từ lập kế
hoạch, tổ chức thực hiện cho đến việc bầu ra ban tổ chức, quản lý, điều hành, đối
nội, đối ngoại, huy động nguồn lực…. mọi quyết định do cộng đồng bàn bạc, thống
nhất và quyết định. Chỉ như vậy, cộng đồng mới thực sự phát huy vai trò chủ thể
sáng tạo, duy trì và phát huy DSVH của dân tộc mình.
+ Cần đẩy mạnh thực hiện việc giáo dục DSVH trong cộng đồng lấy bài học
kinh nghiệm của Trung Quốc về giáo dục DSVH trong toàn dân nhằm góp phần
nâng cao ý thức và trách nhiệm trong giáo dục DSVH. “Những tài sản văn hóa là do
nhân dân tạo nên, chỉ khi nào bản thân tài sản ấy được nhân dân nhận thức đúng
đắn, khi ấy nó mới có những giá trị đích thực [30].
- Giải pháp về phát huy vai trò gia đình, dòng họ và cộng đồng trong việc
trao truyền DSVH.
+ Thứ nhất: mỗi cá nhân phải nhận thức và ý thức được tầm quan trọng của
DSVH, từ đó luôn có ý thức học hỏi vốn văn hoá cổ truyền của dân tộc để bảo tồn,
làm giàu và phát huy giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu.
+ Thứ hai: gia đình thực hiện chức năng, vai trò và trách nhiệm truyền dạy
DSVH dân tộc nhằm hình thành và hoàn thiện nhân cách dựa trên những nét đẹp
văn hoá truyền thống của dân tộc. Cha mẹ trong từng gia đình của dân tộc Sán Dìu
ở huyện đảo Vân Đồn cần phải trao truyền các thực hành văn hóa cho con em mình
một cách tự nhiên và thuần thục. Hãy để DSVH của dân tộc Sán Dìu thấm sâu vào
tâm hồn của con em mình như một kinh nghiệm của Ấn Độ bất kỳ nhạc cụ, điệu
144
nhảy nào các thành viên trong gia đình đều thực hành một cách tự nhiên.
+ Thứ ba: tăng cường vai trò của dòng họ, gia tộc trong việc giáo dục con
cháu về cội nguồn dân tộc, hiếu kính, trao truyền DSVH, bí kíp gia truyền... những
tri thức văn hoá đó cần được sống mãi, không bị mai một và thất truyền.
+ Thứ tư: cộng đồng là nơi giữ gìn nhiều yếu tố văn hoá, phong tục tập quán
truyền thống. Tuy nhiên, phải biết “gạn đục khơi trong”, phải nhận thức cho đúng giá
trị văn hoá đích thực, biết loại bỏ những hủ tục, mê tín không còn phù hợp đã được
khoa học chứng minh; biết làm sống lại và nhân lên các mỹ tục như: các điệu dân ca,
Soọng cô, hội xuân, lễ hội truyền thống... những giá trị đã làm nên bản sắc dân tộc.
+ Thứ năm: cộng đồng cần tích cực hơn nữa trong quá trình tiếp nhận các
DSVH dân tộc Sán Dìu từ các nghệ nhân, thầy cúng, người có uy tín, những người
am hiểu văn hóa truyền thống. Các nghệ nhân cũng nên chủ động trong việc trao
truyền các DSVH cộng đồng để DSVH luôn được phát huy, từ đó sáng tạo và làm
giàu thêm kho tàng DSVH dân tộc.
+ Thứ sáu: DSVH là tài sản chung của cộng đồng, việc QL DSVH là quyền
lợi và trách nhiệm của mỗi thành viên trong cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Do
vậy, giáo dục DSVH dân tộc Sán Dìu là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi cá nhân
và cộng đồng theo phương châm người biết nhiều dạy người biết ít; nghệ nhân trao
truyền các kỹ thuật về tri thức văn hóa cho học trò; trong gia đình, dòng họ, ông bà,
cha mẹ truyền dạy con cháu những bí kíp gia truyền…
+ Thứ bảy: cần tăng cường thúc đẩy các hoạt động thực hành DSVH trong
cộng đồng như các cuộc hát Soọng cô, tổ chức lễ hội Đại phan, với sự thực hành,
trình diễn của các nghệ nhân, thầy cúng những người nắm giữ và thực hành DSVH.
Khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc với quê hương mình sinh ra thông qua các
thực hành văn hóa không vì mục đích thương mại, lợi ích nhóm mà thuần túy là tình
cảm, trách nhiệm của từng cá nhân đối với cộng đồng. Đây là một kinh nghiệm quý
từ Nhật Bản về bài học tự hào về DSVH.
- Giải pháp đảm bảo tính tự quản, tránh lợi ích nhóm trong cộng đồng:
DSVH là tài sản chung của cộng đồng, do cộng đồng quản lý, được điều hành hoạt
động thông qua các tổ chức do cộng đồng bầu chọn. Do vậy, mọi thành viên trong
145
cộng đồng đều có quyền tham gia, bằng cách đề cử, ứng cử vào vị trí phù hợp và
được cộng đồng bầu chọn. Việc bầu chọn một cách dân chủ, công khai và minh
bạch sẽ làm tăng hiệu quả tự quản của cộng đồng, tránh tình trạng lợi ích nhóm.
Mọi quyền lực, lợi ích tập thể rơi vào tay của một người, một nhóm người sẽ gây
mất ổn định, chia rẽ trong cộng đồng.
- Giải pháp về huy động các nguồn lực xã hội trong việc QL DSVH
+ Các nguồn lực trong cộng đồng vô cùng to lớn kể cả sức người và sức của.
Nếu biết khích lệ, đặt đúng vị trí và vai trò chủ động của người dân cũng như cộng
đồng thì sẽ huy động được tối đa nhân lực, trí lực, vật lực phục vụ cho các công
việc của cộng đồng. Vì họ hiểu rằng đóng góp cho cộng đồng chính là xây dựng đời
sống tinh thần cho chính cá nhân, gia đình và cộng đồng.
+ Cộng đồng huy động sự tham gia ủng hộ mọi mặt về kinh phí, chuyên
môn của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tại địa phương. Ngoài ra, các tổ
chức, cá nhân thông qua mạng lưới xã hội của các thành viên trong cộng đồng
có thể kết nối, lan tỏa, đóng góp nguồn lực giúp cộng đồng có thêm nhiều điều
kiện thuận lợi để QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn một cách
tích cực, hiệu quả. Lễ hội Đại phan là một minh chứng rất cụ thể và rõ ràng
trong việc khai thác, sử dụng và phát huy DSVH thông qua việc mời một đội ngũ
thày cúng hùng hậu để thực hành các nghi lễ; kêu gọi, tìm nguồn đầu tư hỗ trợ từ
doanh nghiệp, cộng đồng và khách tham dự lên đến 1 tỷ đồng/lễ hội. Chính sức
mạnh của cộng đồng là cơ hội để DSVH luôn có sức sống trong cộng đồng.
- Giải pháp về giới thiệu, quảng bá DSVH dân tộc Sán Dìu
+ Cần có chương trình cụ thể, bài bản và có lộ trình từng bước trong việc
giới thiệu, quảng bá DSVH dân tộc Sán Dìu gắn với đời sống văn hóa truyền thống
cùng cảnh quan thiên nhiên biển đảo, tạo nên nét đẹp riêng có, đặc sắc của đất và
người Sán Dìu ở vùng đảo Vân Đồn gắn với các hoạt động du lịch.
+ Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giới thiệu về văn hóa dân tộc Sán
Dìu tại huyện đảo Vân Đồn thông qua các sự kiện văn hóa cấp vùng, quốc gia, quốc
146
tế, các kênh thông tin đại chúng trong nước và nước ngoài gắn liền với tiền năng và
thế mạnh sự phát triển mạnh mẽ trong hệ sinh thái của KKT Vân Đồn.
3.4.2.3. Nhóm giải pháp về cơ chế phối hợp giữa quản lý Nhà nước, cộng
đồng và các bên liên quan trong quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện
đảo Vân Đồn
- Tăng cường công tác phối hợp giữa cơ quan QLNN, cộng đồng và các bên
liên quan khác trong QL DSVH: thực tế cho thấy QL DSVH nặng về quản lý hành
chính qua các quyết định, kế hoạch, báo cáo bằng mệnh lệnh hành chính từ trên
xuống mà ít có sự thảo luận, chủ động phối hợp của cộng đồng và các bên liên quan
khác. Do vậy, cần có cơ chế làm việc từ dưới lên, cần có sự hợp tác, thương thảo
với cộng đồng trước khi quyết định hay ban hành chính sách để đảm bảo các giải
pháp quản lý phù hợp với thực tiễn, phù hợp nguyện vọng của cộng đồng.
- Để DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn thực sự có sức sống, tạo
sự lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng và quảng bá, giới thiệu hình ảnh con người
và DSVH đặc sắc của dân tộc Sán Dìu cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa
QLNN, cộng đồng và các bên liên quan khác. Việc phối hợp đó thể hiện sự tôn
trọng DSVH, bình quyền trong phân cấp, phân quyền, nhà nước không làm thay,
không can thiệp quá sâu vào các công việc tự quyết, tự quản của cộng đồng để
cộng đồng tự chủ trong sáng tạo và thực hành văn hóa.
- QL DSVH ngoài sự tham gia chủ động, tích cực của chủ thể văn hóa là
cộng đồng, với sự định hướng, hỗ trợ và quản lý về mặt hành chính của nhà nước
còn rất cần sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội nghề nghiệp, các
trung tâm nghiên cứu khoa học, các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp…
Chính các tổ chức, cá nhân này làm việc trực tiếp với cộng đồng, hỗ trợ cộng đồng
trong nhận diện và nâng cao công tác QL DSVH, xóa bỏ các rào cản bất lợi gặp
phải trong quá trình QL DSVH. Do vậy, nhà nước cần có cơ chế, chính sách khuyến
khích các bên tham gia cùng cộng đồng chủ động thực hiện QL DSVH tại cơ sở.
- Cần phải đặt DSVH dân tộc Sán Dìu là một nguồn vốn (vốn văn hóa) trong
phát triển KT-XH của huyện đảo Vân Đồn và có chiến lược khai thác, phát triển
147
nguồn vốn đó trở thành sinh kế bền vững, một ngành dịch vụ mũi nhọn của KKT
Vân Đồn mà trong các quy hoạch về KKT Vân Đồn đang bỏ ngỏ. Cần có những tư
duy sáng tạo, đột phá nhằm phát huy DSVH dân tộc Sán Dìu trở thành những sản
phẩm riêng có, độc đáo của du khách khi đến với Vân Đồn. Dựa trên những bài học
kinh nghiệm về phát triển văn hóa sáng tạo của các nước Anh, Mỹ. Vân Đồn có
những tham khảo quý trong hoạch định chính sách cũng như phối hợp của các bên
liên quan cụ thể là cộng đồng và các doanh nghiệp.
- Cần có chiến lược QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn gắn
với phát triển du lịch thông qua việc tham gia tích cực và hiệu quả của các doanh
nghiệp lữ hành, tạo ra sản phẩm du lịch mang đẳng cấp quốc tế nhưng vẫn giữ được
hồn cốt của DSVH. Một kinh nghiệm quý từ Thái Lan về phát triển sản phẩm du
lịch gắn với chùa tháp và các thực hành tôn giáo. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu cần
vận dụng trong phát triển sản phẩm du lịch gắn với lễ hội Đại phan.
- QL DSVH cần nguồn kinh phí để hoạt động. Do vậy, giải pháp về vốn cần
được sự quan tâm chia sẻ của các bên liên quan từ cơ quan QLNN, chính quyền
các cấp, cộng đồng và các tổ chức chính trị - xã hội, hội đoàn, doanh nghiệp, tổ
chức phi chính phủ, khách du lịch… thông quanhững hình thức đầu tư, hỗ trợ hoạt
động có thu, nhằm tổ chức lễ hội Đại phan bằng cách thức trình diễn theo nhu cầu
của khách du lịch, mở lớp truyền dạy tiếng Sán Dìu, Soọng cô, ẩm thực, trò chơi
dân gian hay duy tu bảo dưỡng các miếu… đều cần có nguồn vốn từ ngân sách
Nhà nước, xã hội hóa và các nguồn vốn hợp pháp khác.
3.5. Đề xuất mô hình quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu gắn với
phát triển du lịch
Dựa vào thực trạng và những phân tích về QL DSVH của dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn, luận án đề mô hình QL DSVH gắn với phát triển du lịch tại
huyện đảo Vân Đồn, cụ thể như sau:
3.5.1. Mục tiêu
Vấn đề QL DSVH lâu nay luôn được gắn cho chính quyền các cấp, người
dân và cộng đồng chỉ là đối tượng thực hiện chính sách, thụ hưởng chính sách. Họ
148
chưa nhận ra hay chưa thể đóng vai trò QL, quyết định DSVH mà mình nắm giữ,
cộng đồng tham gia với tư cách là đối tượng QL nên mọi công việc liên quan đến
QL DSVH chủ yếu do chính quyền QL, tổ chức thực hiện. Cộng đồng dân tộc Sán
Dìu tham gia các hoạt động BV&PH giá trị DSVH thực hiện nhiệm vụ từ chính
quyền địa phương các cấp. Do vậy, để trả lời câu hỏi DSVH là của ai, giành cho
ai? Và tại sao phải QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn? Chỉ khi
nào chính quyền và cộng đồng trả lời được thấu đáo các câu hỏi trên mới có thể
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ từ cách nhìn từ QL của cả cơ quan QLNN và cộng
đồng. Để trả lời câu hỏi trên cần xác định mục tiêu của quá trình QL DSVH, bên
cạnh những mục tiêu đã có phải tạo thế cân bằng lợi ích giữa các bên liên quan
được khái quát bằng các câu hỏi theo lý thuyết 5W2H, cụ thể:
5W2H Hiện tại Hướng tới
- Chính quyền địa phương - Đối tác trong nước và quốc tế
- Cộng đồng dân tộc Sán Dìu - Cộng đồng dân tộc Sán
Dìu - Khách du lịch nội địa, quốc tế Ai/cho
ai
(Who/
Whom) - Khách du lịch nội địa
- Mục tiêu chính trị Tại sao
(Why) - Mục tiêu thỏa mãn nhu cầu các bên liên
quan - Mục tiêu cộng đồng
- Mục tiêu DSVH của cộng đồng hướng
tới cộng đồng
Bảng 3.1. Mục tiêu trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu huyện đảo Vân Đồn
(Nguồn: NCS tổng hợp)
3.5.2. Nguyên tắc quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo
Vân Đồn trong mô hình quản lý gắn với phát triển du lịch
Để định dạng một mô hình tối ưu cho QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện
đảo Vân Đồn là công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Dựa trên khung phân tích
lý thuyết về quản lý các bên liên quan, đề xuất mô hình này là mong muốn khiêm
tốn trong nhận thức hạn hẹp của NCS trong việc hoàn thiện hơn mô hình QL
DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn trên các nguyên tác cơ bản sau:
149
- Thay đổi vai trò QLNN và hướng tới cân bằng hơn quyền và lợi ích giữa
các bên liên quan.
- Quản lý và tổ chức các hoạt động làng dân tộc Sán Dìu là một sản phẩm
văn hóa độc đáo gắn liền với sản phẩm du lịch trọn gói.
- Cộng đồng dân tộc Sán Dìu có năng lực quản lý làm chủ các sản phẩm du
lịch văn hóa.
Ba nguyên tắc này được cụ thể trong bảng dưới đây:
Nguyên tắc Nội dung của nguyên tắc
lợi - Chính quyền các cấp cần thay đổi tư duy trong hoạch định
và thực thi chính sách từ quan điểm quản lý từ trên xuống
cần tăng quyền, trao quyền cho cộng đồng tham gia bàn bạc
quyết định đảm bảo quyền văn hóa được tôn trọng.
Thay đổi vai
trò
QLNN và hướng
tới cân bằng hơn
quyền và
ích
giữa các bên liên
quan
- Cộng đồng dân tộc Sán Dìu là chủ thể thực hành, sáng tạo,
trao truyền và giới thiệu DSVH độc đáo của mình, có ý thức
chủ động và tự nguyện tham gia QL DSVH, đông thời tạo
việc làm và thu nhập cho cộng đồng.
- Các bên liên quan khác cũng cần được tham gia, đóng góp
về chuyên môn, đầu tư, hỗ trợ về các nguồn lực khác. Bên
cạnh đó cũng cần được đảm bảo về lợi ích, công nhận khi có
sự tham gia.
- Một không gian của làng văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện
đảo Vân Đồn phải đảm bảo hài hòa, tích hợp một cách sáng
tạo dựa theo 03 quan điểm QL DSVH (bảo tồn nguyên vẹn;
bảo tồn trên cơ sở kế thừa; bảo tồn và phát triển).
- Nội dung của mô hình đảm bảo tính độc đáo, riêng có, hấp
dẫn đối với khách du lịch. Quản lý và tổ chức
các hoạt động làng
dân tộc Sán Dìu là
một sản phẩm văn
hóa độc đáo gắn
liền với sản phẩm
du lịch trọn gói
- Đảm bảo một sản phẩm du lịch trọn gói về thiết kế tour,
tuyến, điểm du lịch; không gian tham quan, trải nghiệm; các
dịch vụ ăn uống, ngủ nghỉ, quà lưu niệm; dịch vụ giải trí…
- Năng lực tổ chức vận hành.
- Năng lực huy động và phân bổ nguồn lực phục vụ các hoạt
động QL DSVH trong cộng đồng dân tộc Sán Dìu.
- Năng lực sáng tạo văn hóa. Cộng đồng dân tộc
Sán Dìu có năng
lực quản lý làm chủ
các sản phẩm du
lịch văn hóa
- Năng lực maketting, truyền thông…
Bảng 3.2. Nguyên tắc QL DSVH dân tộc Sán Dìu
150
ở huyện đảo Vân Đồn gắn với phát triển du lịch
(Nguồn: NCS tổng hợp)
3.5.3. Sự tham gia của các bên liên quan trong mô hình quản lý di sản
văn hóa dân tộc Sán Dìu gắn với phát triển du lịch ở huyện đảo Vân Đồn
Sau quá trình nghiên cứu, NCS đề xuất mô hình QL DSVH dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn gắn với phát triển du lịch, mô hình cần đảm bảo sự
tham gia của tối thiểu 05 bên, gồm: Nhà nước (đại diện chính quyền, cơ quan
chuyên môn các cấp); cộng đồng - chủ thể nắm giữ và thực hành DSVH; nhà khoa
học (tổ chức, cá nhân có chuyên môn sâu về DSVH, quản lý văn hóa, kinh tế du
lịch,…; doanh nghiệp (công ty lữ hành, tổ chức sự kiện…) và khách du lịch.
Tỉnh Quảng Ninh, chủ trương lựa chọn xã Bình Dân, huyện Vân Đồn là địa
phương xây dựng làng dân tộc Sán Dìu gắn với phát triển du lịch. Do vậy, cần có
cơ chế phối hợp giữa cơ quan QLNN, cộng đồng và các bên liên quan khác trong
quá trình xây dựng, quản lý và vận hành làng dân tộc Sán Dìu, cụ thể như:
Các bên Yêu cầu
- Chính quyền và cơ quan chuyên môn các cấp QLNN về DSVH
và du lịch tại làng dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
- Phân bổ và giám sát việc sử dụng ngân sách Nhà nước và các
nguồn vốn hợp pháp khác trong đầu tư, hỗ trợ xây dựng, quản lý
và vận hành làng dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn Nhà nước
- Tham gia với vai trò đại diện của chính quyền trong tổ chức của
cộng đồng
- Xúc tiến, quảng bá điểm đến, giới thiệu văn hóa, sản phâm du
lịch làng dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn theo các kênh
chính thức của Nhà nước.
- Thành lập tổ tư vấn về BV&PH giá trị DSVH tại cộng đồng với
các đối tượng là các bậc cao niên am hiểu bản sắc văn hóa Sán
Dìu, người có uy tín trong đồng bào DTTS, nghệ nhân, thầy cúng,
thầy thuốc, cán bộ đương chức và cán bộ hưu trí…
Cộng đồng
- Sau khi mô hình QL DSVH Sán Dìu được đầu tư xây dựng và đi
vào hoạt động thì thành lập một tổ chức như: hợp tác xã, ban quản
lý, doanh nghiệp xã hội, trong có ít nhất 70% thành viên trong tổ
chức là người dân tộc Sán Dìu, thành phần dân tộc Sán Dìu có thể
lấy từ tổ tư vấn. Các thành phần tham gia khác đó là đại diện chính
151
quyền cấp xã hoặc cấp huyện và các bên liên quan khác như: các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, các tổ chức khoa học....
- Phối hợp các cơ quan QLNN và các bên liên quan khác trong
quá trình xây dựng Làng dân tộc Sán Dìu. Đồng thời, tuyên
truyền, vận đồng cộng đồng nhận thức vai trò và trách nhiệm của
từng cá nhân trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân
Đồn gắn với xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
- Cơ chế vận hành, gồm có người đứng đầu tổ chức phải là dân
tộc Sán Dìu có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực quản lý,
chính quyền các cấp tham gia với vai trò thành viên hướng dẫn
và giám sát theo quy định QLNN. Cách thức triển khai các
hoạt động cần kết hợp vai trò tự quản của cộng đồng với sự trợ
giúp của Nhà nước phải có cách làm sáng tạo, linh hoạt nhưng
vẫn đảm bảo được tính chân thực của di sản. Làng dân tộc Sán
Dìu là hạt nhân cốt lõi trong QL DSVH là cơ sở để lan tỏa ra
toàn xã, toàn huyện và các địa phương khác.
- Cần có cơ chế cụ thể trong hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu
tại cộng đồng như: các văn bản triển khai xuống thôn cần biên tập,
biên dịch cụ thể, ngắn ngọn, dễ hiểu bằng tiếng Sán Dìu xuống
từng thôn và hộ gia đình đây là cách học tiếng Sán Dìu một cách
hiệu quả nhất. Hàng ngày, các thông tin được phát thành song ngữ
tiếng Việt và tiếng Sán Dìu. Các chương trình văn nghệ của thôn,
của xã phải có tối thiểu 50% các tiết mục văn nghệ về văn hóa Sán
Dìu, cấp huyện tối thiểu 30% .
- Nghiên cứu và tư vấn chuyên nghiệp, thận trọng trong BV&PH
giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu đảm bảo giữ được bản sắc văn hóa
dân tộc và phát triển hài hòa với các dịch vụ du lịch đi kèm.
Nhà khoa học
- Cảnh báo và khuyến cáo đến các bên liên quan khác về những
nguy cơ, hệ lụy khi chú trọng phát triển KT-XH, đặc biệt về phát
triển du lịch nhanh làm phá vỡ các yếu tố truyền thống, nảy sinh
các tệ nạm xã hội…
- Thiết kế tour, tuyến, điểm du lịch gắn với làng văn hóa dân tộc
Sán Dìu ởi huyện đảoVân Đồn
- Phối hợp với chính quyền và cộng đồng hoàn thiện cơ sở hạ
tầng dịch vụ phục vụ khách du lịch Doanh nghiệp
- Chủ động cung ứng nhân lực chuyên nghiệp hay đào tạo nhân
lực tại cộng đồng tham gia phục vụ khách du lịch
- Giới thiệu, quảng bá, maketting các sản phẩm du lịch tại làng
dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn
152
- Tổ chức thực hiện các tour du lịch trọn gói và các sản phẩm văn
hóa của cộng đồng dân tộc Sán Dìu gắn với các hoạt động du lịch
- Sử dụng, tham quan, trải nghiệm các sản phẩm du lịch tại làng
dân tộc Sán Dìu huyện đảo Vân Đồn
Khách du lịch - Giới thiệu, quảng bá hình ảnh, đất và người dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn thông qua chuyến du lịch
- Phản ánh, tham gia ý kiến xây dựng sản phẩm du lịch tại làng
dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn được hoàn thiện và
chuyên nghiệp hơn
Bảng 3.3. Sự tham gia của các bên liên quan
trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn (Nguồn: NCS tổng hợp) Tiểu kết
Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới là bài học kinh nghiệm quý
giúp cho các bên liên quan thực hiện các hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu
ngày một hiệu quả hơn.
Trên cơ sở nhận diện, phân tích, đánh giá thực trạng QL DSVH dân tộc Sán
Dìu ở huyện đảo Vân Đồn; dựa vào định hướng của Đảng; căn cứ vào cơ sở pháp lý
mà UNESCO cũng như Việt Nam về DSVH. Dựa vào những kinh nghiệm QL
DSVH của quốc tế và bối cảnh thực tiễn của huyện đảo Vân Đồn bên cạnh những
tác động ảnh hưởng đến quá trình QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Đảo Vân
Đồn, NCS đã đề xuất một số nhóm giải pháp và mô hình nhằm nâng cao hiệu quả
QLNN về DSVH cũng như phát huy vai trò QL của cộng đồng và tăng cường hợp
tác của các bên liên quan trong QL DSVH tại địa phương.
153
KẾT LUẬN
Đề tài luận án Quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân
Đồn, tỉnh Quảng Ninh đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
QLNN về DSVH và vai trò QL của cộng đồng trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Với các kết quả nghiên cứu được trình bày ở
trên, có thể rút ra một số kết luận như sau:
1. Nghiên cứu QL DSVH là vấn đề không mới nhưng nhận được nhiều sự
quan tâm của các quốc gia, tổ chức, cá nhân, nhà khoa học, nhà quản lý. Bởi lẽ,
DSVH là tài sản do con người sáng tạo ra và là đối tượng thụ hưởng các giá trị
DSVH. Quá trình sáng tạo, duy trì, bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường xã hội
và cách thức thụ hưởng DSVH đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, đòi hỏi cần có sự
QL của các cấp, các ngành. Do vậy, vấn đề QL DSVH không phải là mới nhưng
chưa bao giờ cũ bởi tính thời sự của vấn đề này. QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn lại càng trở nên mới, cấp thiết hơn khi đã có nhiều công trình
nghiên cứu về DSVH dân tộc Sán Dìu. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước được tiếp
cận theo chuyên ngành Văn hóa học, Nhân học, Lịch sử, Văn học mà chưa có công
trình nào nghiên cứu hệ thống và toàn diện về vấn đề QL DSVH theo cách tiếp cận
chuyên ngành Quản lý Văn hóa. Đây là vấn đề đã được nghiên cứu, bổ sung trong
kho tàng tri thức khoa học về QL DSVH được thể hiện trong luận án này.
2. Dân tộc Sán Dìu di cư vào Việt Nam cách đây khoảng 400 năm và
Quảng Ninh là điểm đặt chân đầu tiên của dân tộc Sán Dìu trên đất Việt Nam. Từ
đây dân tộc Sán Dìu di cư đến các tỉnh: Bắc Giang, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Thái
Nguyên và Tuyên Quang. Tỉnh Quảng Ninh là một trong 06 tỉnh có dân tộc Sán
Dìu cư trú đông nhất. Đặc biệt, huyện đảo Vân Đồn được coi là “thủ phủ” của dân
tộc Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh, chiếm tỷ lệ 10,66% so với dân số toàn huyện. Nơi
cư trú lý tưởng của dân tộc Sán Dìu là các gò đồi, vùng bán sơn địa, nơi có điều
kiện tự nhiên thuận lợi cho việc sản xuất cũng như sinh hoạt. Làng của dân tộc
Sán Dìu có sức mạnh đoàn kết to lớn với sự cố kết của các dòng họ trong thiết chế
truyền thống; các tổ chức phi quan phương. Sự cố kết chặt chẽ, tương trợ giúp đỡ
154
lẫn nhau trong cộng đồng chính là chất keo giúp cộng đồng sáng tạo, duy trì, trao
truyền, QL DSVH từ truyền thống đến đời sống hiện nay.
3. Xuất phát từ tính cộng đồng bền chặt, mọi thành viên trong cộng đồng
đều có nghĩa vụ, trách nhiệm trên tinh thần tự nguyện, tự giác trong QL DSVH.
Điều này được thể hiện qua giá trị DSVH vật thể, phi vật thể được cộng đồng thực
hành văn hóa, sáng tạo, nuôi dưỡng và trao truyền qua nhiều thế hệ. DSVH của dân
tộc Sán Dìu chứa đựng nhiều giá trị nhân văn, thể hiện cách ứng xử thân thiện, hài
hòa giữa con người với con người, giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội. Do vậy, DSVH của dân tộc Sán Dìu là chất keo gắn kết các thành viên trong
cộng đồng, tạo nên một cộng đồng đoàn kết, vững mạnh. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển KT-XH trong những năm đất nước đổi mới, quá trình CNH, HĐH đã và
đang tác động mạnh mẽ đến DSVH của dân tộc Sán Dìu. Những biến đổi văn hoá
đang diễn ra theo nhiều xu hướng, tác động đến đời sống của cộng đồng cả về mặt
tích cực lẫn tiêu cực. Vấn đề đặt ra hiện nay đối với cơ quan QLNN, cộng đồng và
các bên liên quan khác trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu như thế nào để giá trị
DSVH luôn trường tồn và phát huy một cách hiệu quả trong đời sống đương đại.
Đây là một vấn đề lớn, một bài toán khó nhưng cần có lời giải nhằm tìm ra giải
pháp đồng bộ, khả thi để ứng dụng vào thực tiễn.
4. Dưới cách tiếp cận của chuyên ngành Quản lý văn hóa, đề tài Quản lý di
sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, đã được NCS
vận dụng các quan điểm QL DSVH và lý thuyết các bên liên quan. Hai lý thuyết
được NCS áp dụng để biện giải các vấn đề về cơ cấu tổ chức bộ máy QLNN về
DSVH, nguồn nhân lực, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn trong quản lý,
điều hành, thực thi chính sách QLNN về DSVH; phân tích vai trò QL của cộng
đồng trong quá trình sáng tạo, thực hành, nuôi dưỡng, trao truyền và giới thiệu,
quảng bá DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn và vai trò trong phối hợp,
hỗ trợ của các bên liên quan. Thông qua khung phân tích lý thuyết, NCS đã tổng
hợp và phân tích cơ chế phối hợp giữa QLNN về DSVH, vai trò QL của cộng đồng
và các bên liên quan khác trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn.
5. Với mục đích nghiên cứu của luận án là áp dụng lý luận, các quan điểm
và chính sách của UNESCO, của Đảng và Nhà nước vào giải quyết các vấn đề thực
155
tiễn hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn. NCS đã tập trung
làm rõ hai nội dung cơ bản: 1) Nhận diện, phân tích, đánh giá thực trạng QL DSVH
dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn thông qua việc nghiên cứu tài liệu thứ cấp là
văn bản quy phạm pháp luật của UNESCO, trung ương và tỉnh Quảng Ninh cùng
với các thông tin thu được từ điều tra thực địa bằng phương pháp phỏng vấn sâu,
điều tra xã hội học… Từ đó, luận án làm rõ chức năng QLNN với vai trò chỉ đạo,
điều hành, quản lý về mặt hành chính, đầu tư, hỗ trợ cộng đồng trong QL DSVH;
cộng đồng vừa là chủ thể sáng tạo, thực hành, nuôi dưỡng và trao truyền DSVH,
vừa có vai trò tự chủ, tự quản các hoạt động QL DSVH tại cộng đồng và sự tham
gia của các bên liên quan. Thực trạng đó cũng nêu lên những yếu tố tác động và
định vị các nguồn lực góp phần QL DSVH của dân tộc Sán Dìu trong giai đoạn hiện
nay. 2) Trên cơ sở đó, NCS căn cứ vào định hướng các quan điểm của Đảng, cơ sở
pháp lý của UNESCO, nhà nước về DSVH, căn cứ vào cơ sở lý luận và thực tiễn
đặt ra nhằm đề xuất các nhóm giải pháp và mô hình QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở
huyện đảo Vân Đồn trong giai đoạn hiện nay.
Trên phương diện nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong
đề tài luận án Quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh, NCS đã nhận thức sâu sắc về cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động
đang diễn ra hết sức sinh động. Thực tiễn này cũng đặt ra nhiều vấn đề khoa học
cần được tiếp tục nhận diện để nghiên cứu trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu
dài. NCS nhận thấy, vấn đề cần được quan tâm đầu tư về nhân lực, trí lực và vật lực
để nghiên cứu mở rộng trong thời gian sắp tới như: vấn đề QL DSVH trong bối
cảnh chuyển đổi mô hình QLNN từ mô hình UBND huyện Vân Đồn trở thành Ban
Quản lý KKT Vân Đồn; tác động của quá trình đô thị hóa đến văn hóa truyền thống
của dân tộc Sán Dìu, huyện Vân Đồn; QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân
Đồn gắn với phát triển du lịch... Bên cạnh những kết quả đạt được, luận án còn
nhiều hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện trong quá trình công tác
sau này./.
156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Trần Quốc Hùng (2017), Dân tộc Sán Dìu - Hội tụ và phát triển, Nxb Lao
động, Hà Nội.
2. Trần Quốc Hùng (2017), “Một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị dân
ca trong cưới hỏi của dân tộc Sán Dìu giai đoạn hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Dân
tộc, số 17, tr.14-17.
3. Trần Quốc Hùng (2018), “Góp thêm tư liệu về tên tự nhận của tộc người
Sán Dìu ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu khoa học của Nghiên cứu sinh
2017, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.91-104.
4. Trần Quốc Hùng (2019), “Du lịch sinh thái cộng đồng sinh kế mới của dân
tộc Sán Dìu ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu khoa học của Nghiên cứu
sinh 2018, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.169-179.
5. Trần Quốc Hùng (2019), “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang gắn với phát triển du lịch sinh thái cộng đồng”, Kỷ
yếu Hội thảo quốc tế Du lịch Lâm Bình, Tuyên Quang tiềm năng, thực trạng và giải
pháp, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, tr.639-648.
6. Trần Quốc Hùng (2020), “Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa dân tộc Sán
Dìu tiếp cận từ quan điểm quản lý di sản”, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 1,
tr.121-127.
7. Trần Quốc Hùng (2020), “Vai trò của cộng đồng trong bảo vệ và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh”, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 2, tr.117-124.
157
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
1. Lê Văn An, Ngô Tùng Đức (2016), Sổ tay hướng dẫn Phát triển cộng đồng, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
2. Nguyễn Lâm Tuấn Anh (2016), “Tính cộng đồng của làng - xã Bắc bộ và phong
trào xây dựng nông thôn mới hiện nay”, Tạp chí Văn hóa học, số 6 (28),
tr.26-32.
3. Trịnh Lê Anh (2016), “Sản phẩm du lịch văn hóa và văn hóa quản lý du lịch ở
Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa học, số 6 (28), tr.68-76.
4. Đào Ngọc Anh (2016), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa người H’Mông thông
qua du lịch cộng đồng ở bản Sín Chải, huyện SaPa, tỉnh Lào Cai, Luận án
Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
5. Đặng Văn Bài (2001), “Vấn đề quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn di sản
văn hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 4, tr.11-13.
6. Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) (1998), Nghị
quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998, về Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Hà Nội.
7. Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) (2014), Nghị
quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương về Xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước, Hà Nội.
8. Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2018), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa làng cổ Thổ Hà gắn với phát triển du lịch, Nxb Hà
Nội, Hà Nội.
9. Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hóa Việt Nam - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
11. Nguyễn Chí Bền (2016), “Sức mạnh nội sinh và yêu cầu hiện đại hóa văn hóa
dân tộc thời kỳ mới”, Tạp chí Văn hóa học, số 2 (24), tr.3-16.
158
12. Nguyễn Chí Bền (Chủ biên) (2010), Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật
thể Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
13. Trương Quốc Bình (2016), “Bảo vệ và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa
phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học, Đại
học quốc gia Hà Nội, tập 32, số 1S (2016), tr.68-76.
14. Trương Quốc Bình (2009), “Đổi mới hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị kho
tàng di sản văn hóa”, Tạp chí Cộng sản, số 2, tr.19-23.
15. Diệp Trung Bình (1987), Dân ca Sán Dìu, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
16. Diệp Trung Bình (2002), Lễ hội cổ truyền các dân tộc Hoa, Sán Dìu ở Việt
Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
17. Diệp Trung Bình (2005), Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của người Sán
Dìu ở Việt Nam, Bảo tàng Văn hoá dân tộc, Thái Nguyên
18. Diệp Trung Bình (2008), Văn hoá ẩm thực người Sán Dìu, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.
19. Bộ Giáo dục & Đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam (1998), Đại
từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
20. Bộ Nội vụ (2012), Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30/10/2012 của Bộ Nội
vụ về Hướng dẫn chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng
công chức xã, phường, thị trấn, Hà Nội.
21. Bonifaxi (2002), Chuyên khảo về người Mán quần cộc, Bản dịch của Viện Dân
tộc học, Hà Nội.
22. Chính phủ (2011), Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/11/2011 của Chính
phủ về công tác dân tộc, Hà Nội.
23. Chính phủ (2014), Nghị định số 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014 Về xét tặng
danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản
văn hóa phi vật thể, Hà Nội.
24. Chính phủ (2020), Nghị định số 12/NQ-CP ngày 15/02/2020, Triển khai thực
hiện Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Quốc hội
về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, Hà Nội.
159
25. Trịnh Ngọc Chung (2016), Quản lý di sản thế giới ở Việt Nam (Qua nghiên cứu
trường hợp Cô đô Huế và đô thị Hội An), Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện
Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
26. Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Nguyễn Quý Đôn (2000), “Tục cưới xin của đồng bào Sán Dìu ở Tam Đảo”,
Tạp chí Dân tộc và thời đại, số 18, tr.23-24.
28. Phạm Duy Đức (2008), Quan điểm của Mác - Lênin về văn hoá, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
29. Bùi Hữu Đức (Chủ biên) (2013), Khoa học quản lý, Nxb Giáo dục Việt Nam,
Hà Nội.
30. Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn (Đồng Chủ biên) (2012), Quản lý Văn hóa Việt
Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
31. Nguyễn Thị Thu Hà (2016), Quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch ở đô
thị cô Hội An, tỉnh Quảng Nam, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa
Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
32. Trần Văn Hà (2000), “Lễ cấp sắc của người Sán Dìu”, Tạp chí Dân tộc học, số
1, tr.41-47.
33. Nguyễn Hồng Hà (2014), “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong bối cảnh
toàn cầu hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 4, tr.14-18.
34. Nguyễn Thẩm Thu Hà (2016), Tri thức địa phương trong sử dụng và bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên của người Sán Dìu tỉnh Tuyên Quang, Luận án tiến sĩ
Nhân học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
35. Phạm Thanh Hà (2011), Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Thanh Hải (1960), “Vài nét khái quát về người Sán Dìu ở khu Hồng Quảng’’,
Tập san Dân tộc, số 2, tr.33-39.
37. Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên) (2014), Quản lý học đại cương, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
160
38. Nguyễn Thị Hiền (2017), Quản lý Nhà nước và vai trò cộng đồng trong bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
39. Nguyễn Thị Hiền (2018), “Mối quan hệ giữa quản lý Nhà nước và vai trò cộng đồng
trong bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể qua kinh nghiệm của Trung
Quốc, Hàn Quốc, và Nhật Bản”, Tạp chí Văn hóa học, số 1 (35), tr.53-65.
40. Nguyễn Thị Hiền (2019), “Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể theo công ước
2003, luật Di sản văn hóa và vai trò cộng đồng”, Tạp chí Văn hóa học, số 3
(43), tr.3-10.
41. Nguyễn Thị Hiền, Hoàng Cầm (2019), “Công ước 2003 của UNESCO, tính
cộng đồng của Xòe Thái và vấn đề bảo vệ di sản trong quá trình di sản hóa”,
Tạp chí Văn hóa học, số 6 (46), tr.16-24.
42. Nguyễn Xuân Hòa (2018), Sinh kế của người Sán Dìu ở vùng đệm vườn quốc
gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, Luận án Tiến sĩ Nhân học, Học viện Khoa học
Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
43. Hội đồng nhân dân tỉnh tỉnh Quảng Ninh (2016), Nghị quyết số 238/NQ-
HĐND ngày 08/4/2016, Về việc thành lập Sở Du lịch tỉnh Quảng Ninh; kiện
toàn Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh thành Sở Văn hóa và
Thể thao tỉnh Quảng Ninh; Quảng Ninh.
44. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2015), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản lịch
sử - văn hóa phục vụ phát triển du lịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), Từ
điển Bách khoa Việt Nam N-S, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
46. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2010), Tổng kiểm kê Di sản văn nghệ dân
gian của 54 dân tộc Việt Nam, thực hiện kế hoạch tầm nhìn 2010, Tập 1,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
47. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Giáo trình Lý luận văn hóa và
đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
48. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), Từ
điển Bách khoa Việt Nam 3, Nxb từ điển Bách khoa, Hà Nội.
161
49. Hội đồng nhân dân huyện Vân Đồn (2019), Nghị quyết số 105/NQ-HĐND ngày
20/12/2019 về Thông qua Đề án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian
truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai
đoạn 2020-2022, Quảng Ninh.
50. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang (2000), Phát triển cộng đồng, Tập 1: Lý
thuyết và vận dụng, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
51. Nguyễn Thế Hùng (2008), “Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ,
xây dựng và phát triển đất nước”, In trong cuốn Một con đường tiếp cận di
sản văn hóa, tập 4, Nxb Thế giới, Hà Nội
52. Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Kim Dung, Tổng kết 10 năm thực hiện Công ước
UNESCO 2003 về bảo vệ DSVH phi vật thể ở Việt Nam, tr.170.
53. Nguyễn Thế Hùng (2014), “Công tác bảo vệ, phát huy di sản văn hóa năm 2013
và phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2014”, Tạp chí Di sản văn hóa,
số 1, tr. 5-7.
54. Lâm Quang Hùng (2001), Người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc, Hội Sử học Vĩnh Phúc,
Vĩnh Phúc.
55. Lâm Quang Hùng (2013), Văn hóa ẩm thực người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
56. Nguyễn Quốc Hùng (2000), “Quanh việc quản lý và phát huy tác dụng di sản
văn hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 2, tr. 50-53.
57. Nguyễn Thị Ngọc Huyền và cộng sự (2012), Giáo trình Quản lý học, Nxb Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
58. Đỗ Thị Thanh Hương (2018), Quản lý di sản văn hóa làng của người Mường
tỉnh Hòa Bình với phát triển du lịch (Trường hợp xóm Mỗ 2, xã Bình Thanh,
huyện Cao Phong và xóm Ải, xã Phong Phú, huyện Tân Lạc), Luận án Tiến
sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
59. Nguyễn Thị Thu Hường (2015), Quản lý di sản văn hóa ở làng trong quá trình
đô thị hóa (trường hợp thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), Luận án Tiến sĩ Văn
hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
162
60. Phạm Thị Thúy Hương, Phạm Thị Bích Ngọc (Đcb, 2018), Giáo trình Hành vi
tổ chức, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
61. Trương Xuân Hữu (2009) “Tục lệ làm nhà mới với xây dựng nếp sống văn hóa của
người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc”, Thông báo Dân tộc học năm 2009, tr.169-170.
62. J.H. Fichter (1973), Xã hội học, Nxb Hiện đại, Sài Gòn.
63. Lê Thị Kim Lan (2007), Bài giảng Phát triển cộng đồng, Trường Đại học Khoa
học, Đại học Huế, Thừa Thiên - Huế.
64. Dương Thùy Linh (2019), Sinh kế vùng gò đồi của người Sán Dìu ở tỉnh Thái
Nguyên, Luận án Tiến sĩ Việt Nam học, Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
65. Lê Hồng Lý (2009), Giáo trình quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
66. Đặng Thị Bích Liên (2013), “Huy động sức mạnh của toàn ngành tiếp tục đẩy
mạnh hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa”, Tạp chí Di sản
văn hóa, số 1, tr.5-6.
67. Nguyễn Thị Quế Loan (2017), Bản sắc văn hóa ẩm thực của người Sán Dìu ở
Thái Nguyên, Nxb Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.
68. Nguyễn Thị Kim Loan (Chủ biên), Nguyễn Trường Tân, (2014), Quản lý di sản
văn hóa, Nxb Văn hóa - Thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.
69. Từ Thị Loan (2012), “Một số mô hình quản lý, tổ chức lễ hội cổ truyền”, Tạp
chí Văn hóa Nghệ thuật, số 340, tr. 48-53.
70. Nguyễn Văn Lưu (2016), “Văn hóa du lịch nguồn lực phát triển du lịch bền
vững”, Tạp chí Văn hóa học, số 5 (27), tr. 67-78.
71. Hoàng Phương Mai (2016), Gia đình của người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo,
Luận án Tiến sĩ Nhân học, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
72. Trần Thị Hồng Minh (2014), Vấn đề giữ gìn và phát huy di sản văn hóa ở Thừa
Thiên Huế hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
73. Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Thị Thu Trang (2012), “Vai trò của cộng đồng
nhìn từ góc độ bảo tồn di sản văn hóa”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4 (41),
tr.18-23.
163
74. Nguyễn Đình Minh (Chủ biên) (2016), Đề cương về văn hoá Việt Nam năm
1943 giá trị lịch sử và hiện thực, Nxb Quân đội nhân dân.
75. Hữu Ngọc (Chủ biên) (1995), Từ điển văn hoá cổ truyền Việt Nam, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
76. Lê Đại Năm (2015), Các bài hát Thềnh sèn cô của dân tộc Sán Dìu dịch ra tiếng phổ
thông và sáng tác hát giao duyên lời mới, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
77. Nhiều tác giả (1996), Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
78. Nhiều tác giả (2005), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt
Nam, Viện Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
79. Nguyễn Hồng Nhung (2017), ““Các bên tham gia”: Một quan điểm quản lý di sản văn
hóa trong quá trình đô thị hóa”, Tạp chí Văn hóa học, số 1 (29), tr. 54-63.
80. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
81. Lê Thị Thu Phượng (2017), Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa tộc
người trong mối quan hệ với phát triển du lịch (Nghiên cứu trường hợp
người Dao Quần trắng thôn Ngòi Tu, xã Vũ Linh, huyện Yên Bình, tỉnh Yên
Bái), Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt
Nam, Hà Nội.
82. Vũ Hào Quang (2002), Xã hội học quản lý, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
83. Lương Hồng Quang (2018), Phát triển văn hóa dựa vào cộng đồng: các tranh
luận lý thuyết và thực tiễn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
84. Lương Hồng Quang (2010), “Các tổ chức phi quan phương trong làng - xã vùng
châu thổ Bắc Bộ (Trường hợp Hội đồng niên)”. In trong sách Hiện đại và
động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học,
Lương Văn Hy, Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nxb Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh, 2010, tr.307-329, thành phố Hồ Chí Minh.
85. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2001), Luật Di sản văn hóa, số
28/2001/QH10, Hà Nội.
86. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2009), Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật Di sản văn hóa, số 32/2009/QH12.
164
87. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2019), Nghị quyết số 88/2014/QH14 ngày
18/11/2019 của Quốc hội về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, Hà Nội.
88. Sở Xây dựng tỉnh Quảng Ninh, Nikken Sekkei Civil Engineering LTD (2014),
Thuyết minh tổng hợp Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Quảng Ninh đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2050 và ngoài 2050, Hạ Long.
89. Bùi Hoài Sơn (2007), Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt ở châu thổ
Bắc bộ từ năm 1945 đến nay, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
90. Bùi Hoài Sơn (2010), “Di sản cho ai và câu chuyện về tổ chức lễ hội truyền
thống ở Việt Nam”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 3 (32), tr.10-14.
91. Bùi Hoài Sơn (2010), “Quản lý lễ hội truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ - qua các
văn bản quản lý từ năm 1945 đến 1986”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 4 (33),
tr.24 - 36.
92. Bùi Hoài Sơn (2011), “Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt ở châu thổ
Bắc Bộ - nhìn từ các văn bản quản lý từ sau đổi mới đến nay”, Tạp chí Di
sản Văn hóa, số 1 (34).
93. Bùi Hoài Sơn (2013), “Di sản để làm gìvà môṭ số câu chuyện quản lý di sản ở
Việt Nam”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 3 (44), tr.18-22.
94. Bùi Hoài Sơn (2016), “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản ở Phú Thọ nhìn từ
cộng đồng”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn - phát huy giá trị di
sản văn hóa ở tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hiện nay, tháng 5/2016.
95. Trần Hữu Sơn (2018), “Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số với phát triển du
lịch cộng đồng”, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 21, tr.101-105.
96. Nguyễn Hạnh Sơn (2005), “Người Sán Dìu làm nhà mới”, Tạp chí Văn hóa (Bộ
Văn hóa - Thông tin), số 22, tr.7.
97. Tạp chí Cộng sản - Tỉnh ủy Bình Phước (2017), Phát triển du lịch bền vững tại
các tỉnh, thành phố phía Nam: Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc
gia sự thật, Hà Nội.
165
98. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2001), Địa chí Quảng Ninh, tập 1,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
99. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2001), Địa chí Quảng Ninh, tập 3,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
100. Vương Xuân Tình (Chủ biên) (2014), Văn hóa với phát triển bền vững ở vùng
biên giới Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
101. Phạm Hồng Tung (2009), “Cộng đồng: Khái niệm, cách tiếp cận và phân loại
trong nghiên cứu”, Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, số 12, tr.21.
102. Phạm Thị Phương Thái (Chủ biên) (2014) và cộng sự, Nghi lễ tang ma của người
Sán Dìu từ góc nhìn văn hóa, Nxb Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.
103. Nguyễn Ngọc Thanh (Chủ biên) (2011), Văn hóa truyền thống dân tộc Sán Dìu
ở Tuyên Quang, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
104. Bùi Quang Thanh (2020), “Một số giải pháp bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, Một số kết quả nghiên cứu khoa
học 2019, Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà
Nội, tr. 352-368.
105. Chu Thái Thành (2007), “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”, Tạp
chí Cộng sản, số 14, tr.134.
106. Đinh Thị Thu Thảo (2017), “Phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền
núi - Tiền năng, thách thức”, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 20, tr. 94-98.
107. Bùi Quang Thắng (2017), Hành trình vào văn hóa học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
108. Ngô Đức Thịnh (2014), Giá trị văn hóa Việt Nan - truyền thống và biến đổi,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
109. Ngô Đức Thịnh (2007), “Bảo tồn tồn và phát huy văn hóa phi vật thể”, Tạp chí
Cộng sản, số 15, tr.135.
110. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1270/QĐ-TTg, ngày 27/7/2011,
về việc phê duyệt Đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt
Nam đến năm 2020, Hà Nội.
111. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 1856/QĐ-TTg ngày 27/12/2018,
Về việc Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội KKT Vân
Đồn, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội.
166
112. Vũ Hồng Thuật, Trần Văn Sùng (2019), “Vai trò của cộng đồng trong việc
quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật Xòe Thái Tây Bắc trong xã hội
đương đại”, Tạp chí Văn hóa học, số 6 (46), tr. 25-35.
113. Trung tâm Trao đổi giáo dục Việt Nam (2012), Tài liệu tập huấn phương pháp
tiếp cận phát triển cộng đồng dựa vào nội lực và do người dân làm chủ
(Phương pháp tiếp cận ABCD), Kiên Giang.
114. Nguyễn Thị Kim Thoa (2008), “Những tương đồng ngữ âm giữa tiếng Sán Dìu
ở Việt Nam và tiếng Hán hiện đại”, Tạp chí Ngôn ngữ, (2), tr.43-56.
115. Nguyễn Thị Kim Thoa (2018), Ngữ âm tiếng Sán Dìu, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
116. Kiều Thị Thiên Trang (2018), Bảo tồn và phát huy giá trị trang phục truyền
thống người Sán Dìu tại xã Đạo trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, Luận
văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa, Trường Đại học Sư phạm nghệ thuật Trung
ương, Hà Nội.
117. Ôn Thái Trần (1999), Kinh sách dạy con, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
118. Ôn Thái Trần (2001), Vua bàn cổ, Nxb Kim đồng, Hà Nội.
119. Ôn Thái Trần (2001), Hoi then dip thi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
120. Ôn Thái Trần (2009), Người dẫn đường (những khúc hát Sán Dìu), Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
121. Ngô Văn Trụ, Nguyễn Xuân Cần (Chủ biên) (2003), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc
Giang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
122. UNESCO (1972), Công ước Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, họp
phiên thứ 17 tại Paris.
123. UNESCO (2003), Công ước Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, họp phiên thứ
32 tại Paris.
124. UNESCO (2005), Công ước Bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt
văn hóa, họp phiên thứ 33 tại Paris.
125. UBND tỉnh Quảng Ninh (2007), Quyết định số 4071/QĐ-UBND ngày
01/11/2007 của UBND tỉnh Quảng Ninh, về việc phê duyệt Quy hoạch bảo
167
tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ninh đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020, Quảng Ninh.
126. UBND tỉnh Quảng Ninh (2016), Quyết định số 1271/2016/QĐ-UBND ngày
28/4/2016, về việc Kiện toàn Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng
Ninh thành Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Quảng Ninh và quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy của Sở Văn hóa và Thể thao
tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh.
127. UBND tỉnh Quảng Ninh (2018), Chương trình hành động số 105/CTr-UBND
ngày 02/8/2018, Triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, Quảng Ninh.
128. UBND tỉnh Quảng Ninh (2019), Đề án Hỗ trợ xây dựng, bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa một số làng dân tộc thiểu số gắn với phát triển bền vững tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, Quảng Ninh.
129. UBND huyện Vân Đồn (2020), Quyết định số 1427/QĐ-UBND ngày
26/6/2020 về Phê duyệt Đề án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian
truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai
đoạn 2020-2022, Quảng Ninh.
130. UBND huyện Vân Đồn (2020), Kế hoạch số 1517/KH-UBND ngày 29/6/2020
về Triển khai thực hiện Đề án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian
truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai
đoạn 2020-2022, Quảng Ninh.
131. Lê Ngọc Văn (2019), Khái niệm cộng đồng và văn hóa ứng xử cộng đồng, Tạp
chí Văn hóa học, số 5 (45), tr. 3-7.
132. Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề về bảo vệ và phát triển di sản văn hóa dân
tộc, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
133. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Bảng tra chữ Sán Dìu, Hà Nội.
134. Viện Nghiên cứu miền núi (1999), Du lịch cộng đồng vì bảo tồn và phát triển,
Dự án Bảo tồn vườn quốc gia Cát Tiên, Việt Nam.
168
B. Tài liệu tiếng nước ngoài
135. Arthur Perdesen (2002), Managing Tourism at World Heritage Sites: a Practical
Manual for World Heritage Site Managers (Quản lý du lịch tại các khu di sản
thế giới: Tài liệu hướng dẫn thực tiễn cho các nhà quản lý Khu di sản.
136. Ashworth G.J - Larkham P.J (1994), Building a new heritage: tourism, culture
and identity in the new Europe (Xây dựng một di sản mới: du lịch, văn hóa
và bản sắc mới ở châu Âu), Routledge.
137. Ashworth, G.J., (1997), “Elements of Planning and Managing Heritage Sites”
(Các yếu tố quy hoạch và quản lý di sản) in Nuryanti, W., Tourism and
Heritage Management, Gadjah Mada University Press, p. 165-191.
138. Brian Garrod, Alan Fyall (2000), Managing heritage tourism (Quản lý du lịch
di sản), Annals of tourism research, Vol 27, No 3, p.682-708. 115. Hilary du
Cros & Yok - Shiu F. Lee (2007), Cultural heritage management in China:
Preserving the cities of the Pearl River Delta (Quản lý di sản văn hóa ở
Trung Quốc: Bảo tồn các thành phố của đồng bằng sông Châu), London &
New York, London.
139. Bryan, J. M. (2003), In What to do when stakeholders matter: A guide to
stakeholder identification and analysis technique, London School of
Economics and Political Science. (Phải làm gì khi các bên liên quan quan
trọng: Hướng dẫn về kỹ thuật phân tích và nhận dạng các bên liên quan,
Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị Luân Đôn).
140. Freeman, R. E. (1984), Strategic management: A stakeholder approach:
Boston Pitman. (Quản trị chiến lược: Cách tiếp cận các bên liên quan:
Boston Pitman).
141. Friedman, Andrew L & Miles, Samantha (2006), Stakeholders: Theory and
practice. Oxford: Oxford University Press, (Các bên liên quan: Lý thuyết và
thực hành)
169
142.John Carman & Marie Louise Stig Sorensen (2009), Heritage Studies:
Methods and Approaches (Nghiên cứu di sản: Các phương pháp và cách tiếp
cận), London & New York.
143. Jia Wen (2007), Stakeholder Participation Approach in Urban Cultural Heritage
Management and Conservation (Cách tiếp cận các bên liên quan tham gia trong
quản lý và bảo tồn di sản văn hóa đô thị). Luận văn thạc sĩ về nghiên cứu di sản
thế giới. Brandenburg University of Technology Cottbus, Đức.
144. McKercher, B., & Du Cros, H. (2002), Cultural Tourism – The Partnership
Between Tourism and Cultural Heritage Management (Du lịch văn hóa - Mối
quan hệ giữa du lịch và quản lý di sản văn hóa), The Haworth Hospitality
Press, New York.
145. Peter Howard (2002), Heritage: Management, Interpretation, Identity (Di sản:
quản lý, diễn giải và bản sắc ), Continnuum, London.
147. Stephen P. Ronbbins, Rolf Bergman, Lan Stagg (1997), Management, Prentice
hall, p.6.
148. Zhan Chang Yuan (2010), Culture Industrial management (Quản lý công
nghiệp văn hóa), Tsinghua university.
民院民族研究所出版社.
149. 范宏貴(1986), 越南北方少数族民 (Dân tộc thiểu số phía bắc Việt Nam),
广西民族出版社.
150. 范宏貴(1999), 越南民族和民族问題 (Vấn đề dân tộc và dân tộc Việt Nam),
民族出版社, 2006-7.
151. 范宏貴, 刘志强(2006), 中越边境贸易研究 (Nghiên cứu biên giới Việt - Trung),
152. 陈智睿 (2018),中越跨界民族語言文化概述 (Một số vấn đề văn hóa, ngôn ngữ
dân tộc Việt - Trung), 百色学院学报,第31卷, 第1期, 74-79页.
170
C. Tài liệu Website
153.https://www.irci.jp/wp_files/wpcontent/uploads/2019/04/GUIDELINES_VN-
1.pdf, truy cập ngày 10/11/2019.
154.https://vandon.quangninh.gov.vn/Trang/DanhSachBaiVietGioiThieu.aspx?Cat=
T%C3%A0i+nguy%C3%AAn+thi%C3%AAn+nhi%C3%AAn, Cổng thông
tin điện tử huyện Vân Đồn, Giới thiệu chung/ Tài nguyên thiên nhiên, truy
cập ngày 10/11/2019.
155.https://vandon.quangninh.gov.vn/Trang/ChiTietBVGioiThieu.aspx?bvid=220&
Cat=Di+t%C3%ADch+l%E1%BB%8Bch+s%E1%BB%AD+-
+V%C4%83n+h%C3%B3a Cổng thông tin điện tử huyện Vân Đồn, Giới
thiệu chung/ Di tích lịch sử - văn hóa, truy cập ngày 10/11/2019.
156.https://www.vanhoanghean.com.vn, truy cập ngày 22/12/2018, Lê Thị Minh Lý
(2015), Vai trò của chủ thể và cộng đồng trong việc bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể, đăng trên
157.http://thegioidisan.vn, truy cập ngày 22/02/2019, An Nhiên (2018), Trao quyền
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể cho cộng đồng và các NGOs, đăng trên
158. http://quydisan.org.vn, truy cập ngày 22/02/2019, Nguyễn Thị Thu Trang,
Cộng đồng với việc bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, đăng trên
159.http://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/bao-ve-va-phat-huy-gia-tri-di-san-van-
hoa-viet-nam-vi-su-phat-trien-ben-vung-491901.html, truy cập ngày
26/6/2020
160.http://www.cema.gov.vn/can-co-giai-phap-thiet-thuc-de-bao-ve-phat-huy-gia-
tri-van-hoa-dan-gian-cac-dan-toc-thieu-so-viet-nam.htm, truy cập ngày
26/6/2020
161.http://vicas.org.vn/articledetail.aspx?articleid=1200&sitepageid=582, truy cập
ngày 26/6/2020.
162.https://vietnambiz.vn/li-thuyet-cac-ben-lien-quan-stakeholder-theory-la-gi-
20200311164333782.htm, truy cập ngày 28/6/2019.
171
Phụ lục 3: DI SẢN VĂN HÓA NGƯỜI SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
MỤC LỤC
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Phụ lục 1: MỘT SỐ BẢN ĐỒ ................................................................... 172
Phụ lục 2: CÁC BẢNG SỐ LIỆU VỀ DÂN SỐ ........................................ 174
ĐỒN ........................................................................................................... 177
Phụ lục 4: PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC VỀ QUẢN LÝ VĂN HÓA 190
Phụ lục 5: KẾT QUẢ THU THẬP THÔNG TIN ..................................... 195
Phụ lục 6: MỘT SỐ HÌNH ẢNH .............................................................. 204
Phụ lục 7: TRÍCH DẪN MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP QUY ...................... 209
QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU
Phụ lục 8DANH SÁCHNHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN,
Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH
CHUYÊN GIA ........................................................................................... 220
Viết thường
PHỤ LỤC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA
Hà Nội - 2021
172
MỤC LỤC
Trang
Phụ lục 1: Một số bản đồ…………………………………………... 173
Phụ lục 2: Các bảng số liệu về dân số……………………………... 175
Phụ lục 3: Di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn……… 177
Phụ lục 4: Phiếu điều tra xã hội học về quản lý văn hóa phiếu thu
thập thông tin………………………………………………………. 191
Phụ lục 5: Kết quả thu thập thông tin kết quả điều tra…………….. 196
Phụ lục 6: Một số hình ảnh………………………………………… 204
Phụ lục 7: Trích dẫn một số văn bản pháp quy……………………. 210
Phụ lục 8: Danh sách những người cung cấp thông tin, chuyên gia. 220
173
Phụ lục 1: MỘT SỐ BẢN ĐỒ
Bản đồ 1: Địa giới huyện đảo Vân Đồn
(Nguồn: Địa chí Quảng Ninh, tập 1, tr. 90)
174
Bản đồ 2: Điều chỉnh quy hoạch sử dựng đất đến năm 2020 huyện đảo Vân Đồn
(Nguồn: NCS chụp tại UBND xã Bình Dân, tháng 8/2020)
175
Phụ lục 2: CÁC BẢNG SỐ LIỆU VỀ DÂN SỐ
PL2.1. Số dân dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh
TT Địa phương Tỷ lệ (%)
Dân số
(người)
1,161 Thành phố Hạ Long 1 5.61
Thành phố Móng Cái 197 2 0.95
Thành phố Cẩm Phả 6,227 3 30.12
4 4.70 Huyện Đầm Hà 972
5 2.03 Huyện Hải Hà 421
6 9.92 Huyện Tiên Yên 2,051
7 0.99 Huyện Ba Chẽ 205
8 0.13 Huyện Bình Liêu 28
9 24.10 Huyện Vân Đồn 4,982
10 0.23 Huyện Cô Tô 48
11 15.87 Huyện Hoành Bồ 3,281
12 4.58 Thị xã Đông Triều 947
13 Thành phố Uông Bí 98 0.47
14 0.24 Thị xã Quảng Yên 50
100 TỔNG 20,668
(Nguồn:Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01/4/2019;
Cục Thống kê tỉnh Quảng Ninh)
176
PL 2.2. Thành phần DTTS huyện đảo Vân Đồn
TT Dân tộc Dân số (người) Tỷ lệ (%)
Sán Dìu 4.893 10.66 1
2 Tày 188 0.4
3 Hoa 359 0.78
4 Dao 920 2.0
5 Mường 94 0.16
6 Thái 61 0.13
7 Nùng 54 0.11
8 Sán Chay 22 0.04
9 11 0.02 Các dân tộc khác
14.3 TỔNG 6.602
(Nguồn: Theo Báo cáo chính trị Đại hội DTTS năm 2019)
177
Phụ lục 3:
DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN
PL 3.1. Trình tự của Lễ hội Đại phan và một số đặc trưng tiêu biểu
* Ngày thứ nhất
- Buổi sáng
+ Dựng gác vương đàn và Ngũ nhạc lầu (đàn tế và lầu nhạc), trang trí.
+ Phong sơn triều và Khởi mã triều (chuẩn bị nghi lễ cúng sơn thần thổ đại).
- Buổi chiều
+ Lễ dự cáo triều và phong sơn triều (tổ chức lễ cúng sơn thần thổ địa, cẩn
báo tổ chức lễ hội).
+ Lễ lập phướn (dụng thí phan): Thí Phan làm bằng cây tre tươi to và dài
suốt ngọn. Trên đỉnh chót của Thí Phan treo một tấm phan màu đỏ dài theo cây, tấm
vải này tượng trưng cho chiếc cầu nối âm dương, mặt đất và các tầng trời.
* Ngày thứ hai
- Buổi sáng:
+ Lễ chém thảo triều, lễ rước thành hoàng, lễ dựng cây treo phướn.
- Buổi trưa:
+ Lễ ngọ triều (củng cơm trưa), ăn trưa.
- Buổi chiều:
+ Lễ mãn triều, phát tấu (lễ cúng cơm chiều).
- Buổi tối:
+ Lễ ngũ đại thiên vương, chạy đàn, múa hành quang
+ Vui chơi, văn nghệ, hát Soọng cô.
* Ngày thứ ba
- Buổi sáng:
+ Khởi mã triều, mổ trâu, giết lợn tế thần.
- Buổi chiều:
+ Lễ leo gươm (dựng cây leo gươm, cây nêu âm dương và làm nghi lễ
leo gươn)
- Buổi tối:
+ Giao lưu văn nghệ (dàn dựng chương trình văn nghệ 60 phút gồm các loại
hình văn hóa văn nghệ đặc sắc của các địa phương toàn Huyện); chay đàn, đốt củi,
chuẩn bị cho lễ lội than.
+Lễ cấp sắc.
178
+ Lễ lội than.
- Giã hội.
Về dân vũ: Các điệu múa ít thấy hiện hữu trong đời sống sinh hoạt của đồng
bào như một hình thức giải trí, mà các điệu múa, nhảy chủ yếu thực hành trong các
nghi thức cúng tế trong tín ngưỡng dân gian (lễ Đại phan, cấp sắc, ma chay, giải
hạn...); múa hành quanh tiếp thánh (hang coong chép sệnh), chạy đàn (kết lạy than),
dâng đèn (bỉn tanh), múa gậy (lại thẹt sóng), múa cờ (théo khí), múa tù và linh đao
(théo ngói coọc lếnh tao), múa gà (théo cay), nhảy ngũ phương (théo ngú pong),
nhảy triều (théo séo)...
Về điêu khắc - hội họa: Hai loại hình nghệ thuật dân gian này còn khá khiêm
tốn, phạm vi và nhu cầu sử dụng cũng tương đối hẹp, không phải là những vật để
trang trí nhà cửa. Đặc biệt, những sản phẩm tượng, ấn, tranh đều là những vật linh
dùng trong tín ngưỡng dân gian.
Tượng dùng trong tín ngưỡng là các tượng: Thích Ca Mâu Ni Phật, Quán
Thế Âm Bồ Tát, Bát Đại Kim Cương, rồng, cóc... Chất liệu để tạc lên những bức
tượng này cũng khá đa dạng, có thể là gỗ, đồng, đá. Ấn và lệnh bài dùng trong việc
thực hành tín ngưỡng, tùy theo tính chất của buổi lễ mà có dấu thích hợp như: làm
chay, giải hạn thì dùng dấu Phật; cấp sắc, Đại phan, ma chay... dùng cả dấu Phật và
dấu của Đạo giáo. Dù làm lễ to hay nhỏ, đã dùng dấu thì phải dùng cùng với lệnh
bài của thầy. Dấu và lệnh bài được khắc bằng gỗ, người chuyên khắc ấn và lệnh bài
thường chọn các loại gỗ nhẹ và dai để tạo độ bền.
Tranh thờ được dùng trong tín ngưỡng dân gian. Những gia đình làm thầy
cúng có thờ bộ tranh Tam thanh treo trên ban thờ gian chính giữa nhà. Bộ tranh
Tam thanh có hai loại, gồm: nhất họa nhất thần, tức là bộ tranh có ba bức tranh, mỗi
bức tranh chỉ họa một vị thần; loại thứ hai: nhất họa đa thần, bộ tranh có ba bức
tranh, mỗi bức tranh đều có một vị thần chủ và đoàn tùy tùng phụng sự và họa thêm
các con vật, đồ vật phục vụ các vị thần chấp sự.
Một bộ tranh dân gian dùng trong tín ngưỡng có 24 bức tranh, được chia làm
hai loại: tranh cúng chay và tranh cúng mặn, hay còn gọi là tranh Phật giáo (cúng
chay) và tranh Đạo giáo (cúng mặn).
Khi đến tiết lễ cúng chay, thầy cúng làm lễ mở và treo tranh, sau đó cung
thỉnh Tam bảo cùng chư Phật. Lễ vật có hoa quả, cháo trắng..., thường dùng trong
các lễ ma chay, Đại phan, tạ long thần, thổ địa, giải hạn... Lễ cúng mặn là thầy cúng
làm lễ mở tranh và cung thỉnh Tam bảo, thánh, thần về chứng giám. Lễ vật thường
tùy vào tính chất buổi lễ mà có tam sinh, ngũ sinh...
Các bức tranh đều có kích cỡ rộng 50cm, dài 70cm. Trong tranh thờ dân gian
179
chủ yếu có các bộ tranh như: Tam thanh (Sam sênh), Tam bảo (Sam báo), Ngũ quan
(Ngú cun), Ngũ quỷ (Ngú củi), Thành hoàng (Thai Voóng), Tổ tiên (Chú sen)...
PL 3.2. Truyện cổ về nguồn gốc Soọng cô3
Xưa kia, nhà có mấy anh em, Lưu Tam Muội là con gái út trong gia đình ở
Quảng Đông cô là cô gái miền sơn cước xinh đẹp như tiên, có tiếng hát ngọt và
trong như suối ngân giữa đại ngàn. Nghe tin cô Lưu Tam Muội có tài hát hay, hát
giỏi chưa có ai hát hay hơn cô. Một hôm, có ba anh họ Đào, họ Lê, họ Lý ở Quảng
Tây chở ba thuyền sách sang để gặp cô Lưu Tam Muội cùng nhau thi tài hát giao
duyên. Khi ba chàng trai xuôi dòng sông trong xanh xuống Quảng Đông gặp một cô
thôn nữ đang quẩy gánh lấy nước, ba chàng trai liền hỏi thăm đường đến nhà Lưu
Tam Muội. Lưu Tam Muội liền nói: nếu ba anh hát đối được bài hát của cô thì sẽ
chỉ đường đến nhà Lưu Tam Muội cho.
Lưu Tam Muội hát:
Sẹng Thao mạo kẹn thao pha phát
Sẹng Lỷ mạo kẹn lỷ pha hoi
Sẹng Lay mạo kẹn lay thén thi
Sam chạc thai cô nả lói
Dịch
Họ Đào chưa thấy hoa đào nở
Họ Lý chưa thấy hoa mận ra
Hộ Lê chưa thấy cày ruộng đất
Hỏi ba anh đến từ nơi nao
Với tài hát đối đáp xuất chúng của cô Lưu Tam Muội, ba anh đã tìm trong
từng cuốn sách hát mà không thể đối được, tức giận các anh đã bỏ ba thuyền sách
xuống sông rồi về Quảng Tây. Cô Lưu Tam Muội thấy tiếc ba truyền sách liên lấy
đòn gánh nước quẩy vớt được mấy quyên sách hát và được cô truyền đến bây giờ.
Từ ngày vớt được mấy cuốn sách hát về cô Lưu Tam Muội càng say xưa ca
hát và ngày ngày có nhiều người tìm đến để được hát cùng cô. Anh trai cô tức giận
lắm vì thấy em gái mình không chụi làm lụng chì chỉ suốt ngày ca hát và tiếp khách.
Anh trai mắng cô, cô đáp lại lời anh bằng tiếng hát.
3 Theo lời kể của NNDG Tô Thị Tạ, thôn Đầm Tròn, xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Thai cô lao mói hy lao lén
Thai cô lao mói háo cheo hạt
Mói mú cheo hạt hạt mú loi
Ông tách loỏng nén mói hỵ cạ
180
Thai cô ộc hạ sọng sênh soi
Dịch
Anh mắng em hay tiếp khách
Em không tiếp khách khách không đến
Đợi hai năm em đi lấy chồng
Thềm nhà anh đã mọc đầy rêu
Khi cô gái hát xong anh trai tức lắm không làm gì được nên anh nghĩ cần
phải nghĩ ra cách gì đó để có việc cho cô em mình làm. Anh trai liền nhặt một rổ đá
cho vào chảo đun khi nào đá bung nở thì vớt lên đem cheo trên bờ dào rồi em mới
được đi đâu thì đi.
Thai cô sen kém cọi sọc thói bí mói chen
Chen sộc sạc thói cạ pẹt sọng
Thai cô bì mói hi lao lén
Dịch
Anh tức quá, anh nhặt đá cho em ninh
Em đun nở bung chín đá
Anh mới cho em đi chơi
Anh lên nhà, cô Lưu Tam Mói liền nhặt cử từ bỏ đá đi và cho củ từ vào chảo
đun cho củ từ nở ra rồi vớt lên đem đi cheo cọc dào rồi đi chơi xuân.
Một hôm cô Lưu Tam Muội cùng chị dâu đi cấy lúa, khi ra đồng chị dâu cấy
lúa còn Lưu Tam Muội thì ngồi trên cây cau hát, chị dâu tức lắm nhưng không nói
gì chỉ có cấy đường của mình và để lại đường cấy của cô Lưu Tam Muội. Chiều về
đến nhà chị dâu kể lại chuyện đi cấy cho chông nghe: em gái của anh đi cấy mà
không cấy chỉ ngồi hát tối giận lắm nên tôi để lại phần của nó không tin anh đi mà
xem. Anh trai cô Lưu bèn vác cuốc ra đồng thăm xem thực hư thế nào. Khi ra đến
ruộng anh trai thấy ruộng cấy đã cấy hoàn chỉnh và rất đẹp nữa. Khi về nhà anh
chông với với vợ là tôi đã đi kiểm tra và thấy ruộng cấy đã xong và rất đẹp. Thì ra
khi chị dâu về, cô Lưu Tam Muội được các nàng tiên trên trời xuống cấy giúp nên
ruộng cấy mới xong và cấy đẹp đến thế.
1. Mùa xuân hoa Mận ngày ngày nở
Cành hòa Đào ngày ngày nở thắm
Nhà nông ngày mùa cày cấy tốt
Anh ở Quảng Tây (Đông) sang em chơi
2. Em là cô gái Lưu Tam Muội
Em ở Quảng Đông, Nam Ninh thôn
181
Ba thuyền sách hát biết không hết
Không biết bài nào là của em
3. Em là cô gái Lưu Tam Muội
Em ở Quảng Đông, Nam Ninh thôn
Ba thuyền sách hát biết không hết
Bài hát hay ngân vang đất trời
4. Em là cô gái Lưu Tam Muội
Em ở Quảng Đông sang đây chơi
Hôm nay em đến làng anh chơi
Cùng nhau vui hát hái hoa xuân
5. Em là cô gái Lưu Tam Muội
Anh ở Quảng tây đi đón em
Hôm nay em đến làng anh chơi
Cùng nhau vui hát đón xuân sang
6. Em là cô gái Lưu Tam Muội
Bài hát hay nhiều người đến chơi
Anh nay chưa biết tâm tình em
Biết được tình em cùng vui chơi
7. Đôi ta có tình cùng vui chơi
Cùng đi cùng về hái hoa chơi
Đôi ta có tình chung một ý
Đôi ta có tình chung một lối
8. Em là cô gái Lưu Tam Muội
Em là cô gái Quảng Đông thôn
Ba thuyền sách hát chưa biết hết
Thiên hạ nghe thấy mát trong lòng
9. Em là cô gái Lưu Tam Muội
Bài hát cất lên mát lòng anh
Bài hát cất lên đi đón em
182
Không biết nơi nao mà tìm
10. Em nay ở tại Quảng Đông thôn
Bài hát cất lên mát lòng người
Em ở Quảng Đông tới làng anh
Bài hát cất lên thương người ơi.
11. Em có bài hát hát với anh
Bài hát cất lên mát lòng anh
Hôm nay em đến làng anh chơi
Cùng nhau vui chơi cùng nhau ca hát
12. Em ở Quảng Đông anh Quảng Tây
Vườn hồng hé nở rực sắc thắm
Em với hoa lại anh đưa đi
Với đi với lại lại gặp nhau
13. Đôi ta có tình chung một ý
Vườn hồng hé nở rực sắc thắm
Anh muốn hái một cành hoa hồng
Đôi ta có duyên sẽ gặp nhau
14. Đôi ta có tình chung một ý
Com bướm bay đi tìm hoa rừng
Tìm đến hoa nở chưa kết trái
Nụ hoa dơi xuống thật tiếc thay
15. Đương thời mười tám không gặp anh
Nay thì tuổi già không thành đôi
Nụ hoa dơi xuống theo nước trôi
Duyên ta thấy hoa hái không được
16. Cô gái sơn nữ thật thông minh
Em ở Quảng Đông đường xá xa
Hôm nay em đến làng anh chơi
Có tình có nghĩ không muốn về
183
17. Anh ở muôn phương đường xa đến
Nghe bài em hát lòng xôn xao
Hôm nay em đến làng anh chơi
Nghe thấy bài hát em đến chơi
Từ ngày bỏ lỡ lời mời của ba chàng trai đến xin hát, cô Lưu Tam Muội tiếc
lắm, hối hận vì đã không mời được các chàng trai phương xa vào làng hát. Những
cuốn sách vớt được, cô đã học thuộc và sáng tác được rất nhiều bài hát hay. Ngày
này qua ngày khác, rồi năm này qua năm khác, cô chỉ say mê hát. Khi cô Lưu Tam
Muội chết, nhân dân tôn cô là thánh ca và các bài hát của cô được lưu truyền đến
ngày nay.
4 NNDG Tô Thị Tạ, thôn Đầm Tròn và NNDG Trương Thị Choong thôn Vòng Tre, xã Bình Dân, huyện Vân
Đồn, tỉnh Quảng Ninh cung cấp.
PL 3.3. Hát Soọng cô khi đến làng bạn chơi4
Nội dung của Soọng cô rất phong phú, thể hiện sự đa dạng và độc đáo trong
văn nghệ dân gian của người Sán Dìu. Soọng cô không bài hát nào giống bài hát
nào, không giọng ca nào giống nhau, tất cả đều có đặc trưng riêng thể hiện cho tâm
hồn, tình cảm và khát vọng con người, họ hát vào thời điểm nông nhàn, lễ hội hay
các đám cưới, hỏi thanh niên nam, nữ người dân tộc Sán Dìu thường rủ nhau đi hát
Soọng Cô. Qua mỗi làng họ dừng lại hát một đêm hay nhiều đêm rồi cùng rủ nhau
đến các làng khác để hát.
Nam hát
Duộn xuân nhoong chỉ ký si tậu
Ký si lu ôi tậu nguôi mậu ti
Loong lỉ hị lan mậu huội ổc
Síu kin táp huội nguôi muôn mi.
Duộn xuân nhoong chỉ ký si tậu
Ký si lu ôi tậu nguôi mậu liên
Loong lỉ hị lan mậu huội ổc
Síu kin táp huội nguôi muôn liêng.
Dịch
Nơi xa nàng đến khi nào
Đến khi nào mà anh không biết,
Anh đi làm ở đồi núi xa,
Khăn mặt anh vắt trên cánh cửa.
184
Nữ hát
Ki mản nhoong luôi tậu nỉ ca
Kiện loong cô hiếng luôn di ma
Nguôi da li liêng mậu hểnh sọong
Kiên loong thuôi sọong sáp, kim pha
Ki mản nhoong luôi tậu nỉ ca
Kiện loong cô hiếng luôn di ma
Nguôi da li liêng mậu hểnh sọong
Kiên loong thuôi sọong sáp, kim pha
Dịch
Tối nay em đến nhà chàng
Thấy chàng hát mà lòng em xao xuyến
Bình thường em không hay hát
Em thấy chàng đẹp trai, hay hát nên muốn hát cùng.
Nam hát
Thuôi soong sáp pha hai nghi sáp
Síu soọng chuôi liên hai nghi chuôi
Loong hai phin không liéu ốc ngí
Ná lộ kim pha sáp soọng thuôi
Thuôi soong sáp pha hai nghi sáp
Síu soọng chuôi liên hai nghi chuôi
Loong hai phin không liéu ốc ngí
Ná lộ kim pha sáp soọng thuôi
Dịch
anh đẹp trai cũng là em khen
Bàn tay kheo léo cũng do em đặt
Anh sinh ra trong gia đình nghèo khó
Đâu Có gì đẹp để em khen.
Nữ hát
Sọong thiêu sênh cô hô xuân thuôi
Xuân thuôi xuân mỉ vât nuôi nuôi
Loong xuân dịu tuôi hú dông si
Nhoong luôi lu duộn tếch cha thuôi.
185
- Sọong thiêu sênh cô hô xuân thuôi
Xuân thuôi xuân mỉ vât nuôi nuôi
Loong xuân dịu tuôi hú dông si
Nhoong luôi lu duộn tếch cha thuôi.
Dịch
Em hát bài tình cảm hô dân làng
Đầu làng, cuối xóm đâu đâu cũng đẹp
Xóm chàng có cây to bóng mát
Em từ xa đến được che đầu (che nắng, che mưa).
Trước những lời hát ca ngợi quê hương ngọt ngào từ cô gái chàng trai đáp lại:
Nam hát
Nhoong hai sông mênh sếch lị ngỉ
Sọong cô luôi hô nguôi xuân thuôi
Loong xuân dịu tuôi hú dông si
Nhim nhoong cha hị du cha fuôi.
- Nhoong hai sông mênh sếch lị ngỉ
Sọong cô luôi hô nguôi xuân thuôi
Loong xuân dịu tuôi hú dông si
Nhim nhoong cha hị du cha fuôi.
Dịch
Nàng thông minh, khéo léo, hiểu lí lẽ
Hát bài ca ngợi đến làng anh
Làng anh có cây to che mát
Nàng thích che đi rồi che lại.
Nữ hát
Soọng thiêu sênh cô hô chí muôi
Lị piên chí muôi sộ muôi muôi
Lị piên chí muôi muôi muôi sộ
Chịa thiêu liếu lu liêu pha huôi
- Soọng thiêu sênh cô hô chí muôi
Lị piên chí muôi sộ muôi muôi
186
Lị piên chí muôi muôi muôi sộ
Chịa thiêu liếu lu liêu pha huôi
Dịch
Hát bài tình cảm gọi chị em
Bốn bên chị em ngồi gần gần
Bốn bên chị em ngồi gần lại
Mượn nơi đây để hát soọng
Đôi trai gái hát rất nhiều, họ có cảm tình với nhau và cất lên tiếng hát ngọt
ngào cho đối phương của mình.
Nữ hát
Phac cuôi si thuốc thạn sun cu
Nhoong chỉ mậu lôông long mậu hu
Sai cat u hai tan sin cuôi
Lâu nghi kiết long ngi hai mu.
Dịch
Em chưa có chồng chàng chưa vợ
Cả hai đều chưa sánh cùng ai
Kết đôi cùng chàng chàng có chịu không.
Nam hát
Nguôi da hêếnh
Cheếch phạ kí long dịu lông hu
Cheếch phạ kí lông dịu long tuội
Nghi hêếnh saac long liên nguôi mu.
Dịch
Anh cũng muốn
Anh chỉ sợ nàng đã có chồng (có đôi)
Anh chỉ sợ nàng đã có đôi
Nàng đã có đôi nàng có chịu kết đôi cùng ta.
Nữ hát
Sác mao vuôn lá da dông di
Sác lôông liêên ngi da mênh si
Ngin hô ông sê ểnh muôi dip ốc mun
Tuội miên mậu liên tậu kỉ si.
Dịch
187
Rỡ nhà đổi danh còn đơn giản
Bỏ chồng để lấy anh vẫn chưa muộn
Người ta còn thuê người làm mối đến nhà
Hai ta đối mặt đợi đến khi nào.
Nam hát
Kỉ mản têếch hôông háo pha liên
Huộn kiện liên pha mậu tếếch liên
Muốn tếênh thiên thi luôi phuội hap
Têếch kiết sêênh long huội ngạn xiên.
Dịch
Tối nay được gặp chàng đẹp trai
Muốn lấy làm chồng nhưng không lấy được
Ước gì trời đất cho mình kết duyên
Được kết sánh đôi cùng chàng.
Nam hát
Kỉ mản tếếch hôông nguôi lim huôi
Háo pha mậu tểêch không duôn chuôi
Háo xuôn mậu tểêch không xuân xi
Không xuân xi loọc tếch uôn diên.
Dịch
Tối nay được gặp nàng anh rất mừng
Nàng đẹp mà anh không được sánh cùng.
Nữ hát
Mi kiêu ngạn lại quân in hút
Sêênh loong lang tếêch sị liên pha
Loong sin lang têếch chôông nhoong i
Loong niệm diếp dị coong hún sa.
Dịch
Chàng đẹp trai như một bức vẽ
Chàng đẹp trai như một cành hoa
Dáng người chàng làm em vừa ý
Chàng đẹp như được tô điểm phấn son.
Nam hát
188
Nhoong uội mên phac piên sa hủn
Nhoong uội thuôi hôông piên sáp pha
Nhoong uội lieu thiêu siếu sêch pan
Ngi uội hôông liu cháo chị ca.
Dịch
Nàng muốn đẹp trang điểm phấn son
Nàng muốn đầu đẹp phải cài hoa
Nàng muốn duyên dáng phải ăn điều độ (ít cơm)
Nàng mốn vô tư phải lấy chồng sớm.
Nữ hát
Thiên coong liếu
Moong cộ nam lan chôốc diêp voong
Chôốc diêp voong voong hai nguôi ốc
Liu li ngá khuội hai long phoong
Dịch
Trời đã sáng
Nhìn sang hướng nam là tre vàng
Lá tre vàng vàng là nhà của em
ng ôi nhà ngói đỏ là nhà của chàng.
Chàng trai hiểu được nỗi nhớ nhà của cô gái nhưng anh muốn níu giữ nàng
lại, giữ ở lại mấy ngày để tìm cách đưa nàng về tận nhà:
Nam hát
Liu nhoong chuộn
Liu nhoong si chuộn nguôi xuân thuôi
Si chuộn xuân thuôi lam ngu ngit
Man man lộ xuân lộng nhoong phuôi
Dịch
Giữ nàng lại
Giữ nàng ở lại làng anh
Ở lại làng anh ba, năm ngày
Từ từ lấy thuyền đưa nàng về nhà.
Nữ hát
Mậu lấy liu nhoong nhoong da chuận
Nhoong kim si chuận nghi xuân thuôSi chuận xuân thuôi lam ngu ngít
189
Loong mậu loộng nguôi nguôi mậu phuôi.
Dịch
Không giữ em cũng ở lại
Em sẽ ở lại làng của chàng
Ở lại làng chàng ba đến năm ngày
Chàng không tiễn em, em cũng về.
Chàng trai thấy nuối tiếc chưa nói chuyện nhiều, chưa hát được nhiều cùng
cô gái. Trời đã sáng chàng suy nghĩ không biết phải làm thế nào, một phần chàng
muốn đi theo, một phàn chàng muốn ở nhà phụng dưỡng cha mẹ. Khi cô gái về
chàng trai dặn.
Nữ hát
Kin chiêu sút muôn gia hun hụ
Hun hụ háo liên tại chảc cui
Soong duôn li lan mậu ngin pủ
Ha duôn li lan mậu min vui.
Dịch
Sáng nay ra cửa cha mẹ dặn
Dặn em đi chơi phải đưa chàng về
Trên vườn rào rách không ai vá
Dưới vườn rào rách không ai rào.
Nam hát
Nhoong hị cui
Cíu cíu du chuộn la ha loong
Mậu mút pí nhoong chạ síu lịn
Cấy duôn cam chạ du meênh soong
Dịch
Nàng đi về
Lâu lâu nàng lại đến thăm anh
Anh không có gì cho nàng làm tin
Vườn mía chưa được mọc dài
Nữ hát
Nhoong muổn teếch
Muổn teếch lâu loong không ít xuân
Muôn teếch lâu loong không ít ốc
Lấu loong không ốc không thai
190
Dịch
Em muốn được
Muốn mình được ở chung một làng
Muốn cùng chàng ở cùng một gia đình
Cùng chàng chung nhà chung cổng vào.
Nam hát
Nhoong cui hị
Mun nhoong cui hị kí si luôi
Kí si nhoong luôi cóong nguôi thiệng
Mại phiên pi noong mại phiên luôi.
Dịch
Nàng về đi
Hỏi nàng đi về bao giờ đến
Bao giờ nàng đến cho anh biết
Mua sẵn trầu cau để đón nàng.
Nữ hát
Nhoong hị cui
Sô ít mậu luôi sô ngi luôi
Sô lam mậu luôi mậu lấy liếng
Sông dịu háo pha phiết sị chuôi.
Dịch
Em đi về
Mùng một không đến mùng hai đến
Mùng ba không đến chàng đừng mong
Bên em đã có người khác rồi.
Nam hát
Liên nhoong mậu tẩu lôộng nhoong hị
Lậng nhoong hị tậu thai lôi choống
Lộng tậu lu choông liêng hun síu
Miên xiên ngạn lui loóc lôông long
Dịch
Giữ nàng không được tiễn nàng về
Tiễn nàng đi được một quãng đường xa
Tiễn được một quãng phải tạm biệt nhau
Nước mắt hai ta chảy ròng ròng.
191
Phụ lục 4: PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC VỀ QUẢN LÝ VĂN HÓA
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN
"Quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu
ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh"
(Đối tượng: Người dân)
Thưa các Quý Ông, Bà
Phiếu điều tra này được sử dụng để hỏi ý kiến của ông/bà về việc quản
lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu hiện nay nhằm củng cố tính cố kết cộng
đồng, tinh thần đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển. Ông bà vui lòng đánh
dấu (X) cho những câu trả lời theo ông/bà là phù hợp.
Kính mong ông/bà dành thời gian để trả lời phiếu điều tra này.
Trân trọng cảm ơn!
I. THÔNG TIN CHUNG
1. Họ và tên……………………………………………………………………
Nữ
2. Năm sinh…………………………… 3. Giới tính: Nam
4. Dân tộc:
Sán Dìu
Kinh
Khác (xin ghi rõ)………….
5. Địa chỉ:
Thôn/bản………………………………..Xã/phường….......…………………
Huyện/Thị xã/Thành phố………………………………………..……………
6. Trình độ văn hóa
Không biết chữ
Hết Tiểu học
Hết Trung học cơ sở
Hết Trung học phổ thông
7. Trình độ chuyên môn
Sơ cấp
Trung cấp
Cao đẳng
Đại học
Sau Đại học
192
8. Ông/bà hiểu biết như thế nào về các giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc mình hay không?
Biết rất nhiều
Biết nhiều
Biết ít
Biết rất ít Không biết
9. Theo ông/bà những giá trị văn hóa nào của người Sán Dìu hiện nay gia
đình ông/bà còn lưu giữ? (trả lời theo mức độ: 1.Không thay đổi so với
nguyên bản; 2. Ít thay đổi so với nguyên bản; 3. Thay đổi nhiều so với nguyên
bản; 4. Hoàn toàn thay đổi so với nguyên bản; 5. Không biết)
1
2
3
4
5
Kiến trúc đình miếu
Lễ Đại phan
Dân ca
3
4
5
1
2
10. Theo ông/bà những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu
dưới đây mà ông/bà cảm thất tự hào và cần phải giữ gìn, phát huy? (trả
lời theo mức độ: 1.Rất tự hào, 2 Tự hào, 3. Ít tự hào, 4, Không tự hào; 5.
Không biết)
Kiến trúc đình, miếu
Lễ Đại phan
Dân ca
11. Theo ông/bà những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu bị
mai một do nguyên nhân nào? (có thể chọn nhiều phương án và xếp theo
mức độ quan trọng từ 1 đến 5)
Ông bà, cha mẹ không chú tâm truyền dạy cho con cháu
Con cháu không chịu học
Do thiếu kiến thức kinh nghiệm bảo tồn
Do chính quyền không quan tâm hỗ trợ
Không phù hợp với lối sống hiện nay
Lý do khác (xin ghi rõ)…………………………………………
193
12. Theo ông/bà, con cháu không chịu học những giá trị văn hóa truyền
thống của người Sán Dìu do nguyên nhân nào? (có thể chọn nhiều phương
án và xếp theo mức độ quan trọng từ 1 đến 5)
Bận công việc, học tập
Cho rằng lỗi thời,lạc hậu
Có biết cũng không dùng đến
Không phù hợp với lối sống hiện nay
Lý do khác (xin ghi rõ)……………………………………
13. Theo ông/bà ở địa phương có hoạt động du lịch thì ông/bà có muốn
tham gia vào hoạt động du lịch để giới thiệu bản sắc văn hóa của dân tộc
mình với du khách tạo ra nghề mới có thu nhập ổn định hay không? (trả
lới phương án 1, 2 hỏi tiếp câu 17a, trả lới phương án 3, 4 hỏi tiếp câu 17b)
2. Cần thiết
3. Không cần thiết
1. Rất cần thiết
5. Không biết
4. Rất không cần thiết
14a. Ông/bà thấy cần thiết có hoạt động du lịch ở địa phương thì ông/bà
quan tâm đến những vấn đề gì?(trả lời theo mức độ: 1.Rất quan tâm; 2.
Quan tâm; 3. Ít quan tâm; 4. Không quan tâm; 5. Không biết)
1
3
4
5
2
Những mong muốn khi tham gia vào hoạt động du lịch
Có một nghề nghiệp mới ổn định
Nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống
Có kinh phí để bảo tồn và phát huy văn
hóa của dân tộc
Giới thiệu du khách về văn hóa dân tộc mình
Hưởng lợi từ hạ tầng xã hội khi du lịch
phát triển
Khả năng của gia đình khi tham gia vào hoạt động du lịch
Cung cấp thực phẩm đặc trưng của vùng
Cung cấp dịch vụ vận chuyển
194
Cung cấp dịch vụ lưu trú
Cung cấp dịch vụ ăn uống
Cung cấp dịch vụ trải nghiệm
Cung cấp dịch vụ hướng dẫn
Bán hàng lưu niệm, đặc sản
Dịch vụ khác……………………………
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
Kiến trúc đình, miếu
Lễ Đại phan
Dân ca
Bồi dưỡng nâng cao kiến thức về văn hóa dân tộc và nhiệp vụ du lịch
Học tiếng Sán Dìu
Học phong tục - tập quán văn hóa Sán
Dìu
Học ngoại ngữ
Học nghiệp vụ hướng dẫn viện du lịch
Học tập kinh nghiệm, thực tế
Học nghiệp vụ quản lý nhà hàng, khách
sạn
Loại hình khác…………………………..
14b. Lý do nào ông/bà thấy không cần thiết có hoạt động du lịch ở địa
phương? (có thể chọn nhiều phương án và xếp theo mức độ quan trọng từ 1
đến 8)
1. Đang có nghề nghiệp ổn định và có thu nhâp tốt
2. Kinh doanh du lịch không hiệu quả
3. Không biết kinh doanh du lịch
4. Thiếu vốn để kinh doanh
5. Không có kiến thức và kinh nghiệm
195
6. Làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc
7. Tệ nạn xã hội gia tăng
8. Lý do khác (xin ghi rõ)
15. Theo ông/bà để bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
của người Sán Dìu gắn với phát triển du lịch thì cần phải làm gì?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
16. Ông/bà có kiến nghị đề xuất gì với chính quyền địa phương?
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Người phỏng vấn:
(Ký và ghi rõ họ tên)
.........., ngày ....... tháng ....... năm 2019
Người điền phiếu
196
Phụ lục 5: KẾT QUẢ THU THẬP THÔNG TIN
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
"Quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu
ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh"
(Đối tượng: Người dân)
I. THÔNG TIN CHUNG
- Đối tượng điều tra: người dân và cộng đồng tại điểm nghiên cứu.
- Tổng số phiếu phát ra: 215; tổng số phiếu thu về: 215; tổng số phiếu
đạt yêu cầu: 213.
- Cách thức thu thập thông tin: Trực tiếp xuống xã Bình Dân báo cáo
lãnh đạo xã tạo điều kiện điều tra tại các thôn trong xã có đông người Sán Dìu
sinh sống, có sự hỗ trợ của cán bộ Văn hóa - Xã hội. Hình thức phỏng vấn
diễn ra tại nhà dân. NCS đã hướng dẫn cán bộ Văn hóa xã cùng tham gia
phỏng vấn trực tiếp người dân theo từng nội dung trong phiếu điều tra.
Các phiếu điều tra sau khi thu về sẽ qua xử lý sơ bộ nhằm làm sạch
bảng hỏi và loại các phiếu không đạt yêu cầu. Các phiếu đạt yêu cầu sẽ được
sử dụng và xử lý bằng phương pháp thống kê mô tả để có được kết quả phục
vụ việc đưa ra các nhận định, đánh giá và phân tích khoa học.
Độ tuổi
Tỉ lệ %
II. KẾT QUẢ THỐNG KÊ
1. Họ và tên: không thống kê
2. Độ tuổi người trả lời phỏng vấn
Số lượng
(người)
18-30
31-40
41-50
51-60
trên 60
Tổng
7,0
27,7
18,8
17,4
29,1
100
15
59
40
37
62
213
197
3. Giới tính người trả lời phỏng vấn
Giới tính
Số lượng
(người)
Tỉ lệ %
Nam
Nữ
Tổng
112
101
213
52,6
47,4
100
4. Thành phần dân tộc người trả lời phỏng vấn
Dân tộc
Tỉ lệ %
Số lượng
(người)
Sán Dìu
213
100
5. Địa chỉ người trả lời phỏng vấn
Địa chỉ
Tỉ lệ %
Số lượng
(người)
51
28
46
26
62
213
Đồng Đá
Đồng Dọng
Đồng Cống
Đầm Tròn
Vòng Tre
Tổng
24,0
13,1
21,6
12,2
29,1
100
6. Trình độ học vấn của người trả lời phỏng vấn
Trình độ
Tỉ lệ %
Số lượng
(người)
41
66
55
51
213
Không biết chữ
Hết Tiểu học
Hết trung học cơ sở
Hết Trung học phổ thông
Tổng
19,2
31,0
25,8
23,9
100
198
7. Trình độ chuyên môn của người trả lời phỏng vấn
Trình độ
Tỉ lệ %
Số lượng
(người)
Sơ cấp
Trung cấp
Cao đẳng
Đại học
Không trả lời
Tổng
7
13
10
19
164
213
3,3
6,1
4,7
8,9
77,0
100
8. Ông/bà hiểu biết như thế nào về các giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc mình hay không?
Món ăn
truyền thống
Kiến trúc
đình miếu
Trang phục
truyền thống
Giá trị
SL
%
SL
%
SL
%
80
75
44
9
5
0
31
67
58
18
37
2
Biết rất nhiều
Biết nhiều
Biết ít
Biết rất ít
Không biết
Không trả lời
Tổng
37,6
35,2
20,7
4,2
2,3
0
213 100,0
14,6
31,5
27,2
8,5
17,4
0,9
213 100,0
41
46
60
5
33
28
213
19,2
21,6
28,2
2,3
15,5
13,1
100,0
8. Ông/bà hiểu biết về phong tục - tập quán của dân tộc mình hay không?
1.Tiếng nói
2. Lễ cấp sắc
5. Dân ca
4. Lễ Đại
phan
Giá trị
3. Lễ tết
truyền
thống
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL %
74
87
52
0
0
0
213
34,7
40,8
24,4
0
0
0
100
137
33
17
0
16
10
213
64,3 150
46
15,5
0
8,0
17
0
0
7,5
4,7
0
100 213
70,4
21,6
0
8,0
0
0
100
145
25
0
33
0
10
213
68
68,1
37
11,7
51
0
18
15,5
16
0
4,7
23
100 213
31,9
17,4
23,9
8,5
7,5
10,8
100
Biết rất nhiều
Biết nhiều
Biết ít
Biết rất ít
Không biết
Không trả lời
Tổng
199
9. Theo ông/bà những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu
hiện nay gia đình ông/bà còn lưu giữ?
Lễ Đại phan
Dân ca
Kiến trúc
Đình, miếu
Giá trị
SL
%
SL
%
SL %
Không thay đổi
Ít thay đổi
Thay đổi nhiều
Hoàn toàn thay đổi
Không biết
Không trả lời
Tổng
3
40
49
104
17
0
213
1,4
18,8
23,0
48,8
8,0
0
100
147
23
17
10
0
16
213
48
69,0
56
10,8
62
8,0
3
4,7
16
0
7,5
28
100 213
22,5
26,3
29,1
1,4
7,5
13,1
100
10a. Theo ông/bà những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu
dưới đây mà ông/bà cảm thấy tự hào và cần phải giữ gìn, phát huy
Món ăn
truyền thống
Trang phục
truyền thống
Giá trị
Kiến trúc
nhà truyền
thống
SL
%
SL
%
SL
%
Rất tự hào
Tự hào
Ít tự hào
Không tự hào
Không biết
Không trả lời
Tổng
63,8
19,2
6,1
2,3
0
8,5
100
51,6
32,9
4,7
2,3
0
8,5
100
179
16
0
0
0
18
213
136
41
13
5
0
18
213
110
70
10
5
0
18
213
84,0
7,5
0
0
0
8,5
100
10b. Theo ông/bà những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu
dưới đây mà ông/bà cảm thất tự hào và cần phải giữ gìn, phát huy?
Tiếng nói
Lễ Đại phan
Dân ca
Kiến trúc
Đình, miếu
Giá trị
SL
SL
SL
%
SL
%
SL %
Rất tự hào
Tự hào
Ít tự hào
Không tự hào
189
24
0
0
136
41
13
5
136
41
13
5
84,0
11,3
2,3
0
184
19
10
0
86,4 127
29
8,9
18
4,7
0
0
59,6
13,6
8,5
0
200
0
0
Không biết
Không trả lời
Tổng
0
0
213
0
18
213
0
18
213
2,3
0
100
0
0
213
21
18
100 213
9,9
8,5
100
11. Theo ông/bà những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu bị
mai một do nguyên nhân nào?
1. Ông bà, cha mẹ không chú tâm truyền dạy cho con cháu: 194/213 người
2. Con cháu không chịu học: 165/213 người
3. Do thiếu kiến thức kinh nghiệm bảo tồn: 160/213 người
4. Do chính quyền không quan tâm hỗ trợ: 138/213 người
5. Không phù hợp với lối sống hiện nay: 66/213 người
12. Theo ông/bà, con cháu không chịu học những giá trị văn hóa truyền
thống của người Sán Dìu do nguyên nhân nào?
1. Bận công việc, học tập: 178/213 người
2. Cho rằng lỗi thời,lạc hậu: 143/213 người
3. Có biết cũng không dùng đến: 113/213 người
4. Không phù hợp với lối sống hiện nay: 76/213 người
13. Theo ông/bà ở địa phương có hoạt động du lịch thì ông/bà có muốn
tham gia vào hoạt động du lịch để giới thiệu bản sắc văn hóa của dân tộc
mình với du khách tạo ra nghề mới có thu nhập ổn định hay không?
Mức độ Tỷ lệ
(%)
Rất quan tâm
Quan tâm
Tổng Số lượng
(người)
154
59
213 72,3
27,7
100
201
14. Ông/bà thấy cần thiết có hoạt động du lịch ở địa phương thì ông/bà
quan tâm đến những vấn đề gì?
14.1. Những mong muốn khi tham gia vào hoạt động du lịch
Giá trị
1. Có một
nghề nghiệp
mới ổn định
2. Nâng cao
thu nhập, cải
thiện đời
sống
4. Giới thiệu
du khách về
văn hóa dân
tộc mình
3. Có kinh
phí để bảo
tồn và phát
huy văn hóa
của dân tộc
5. Hưởng
lợi từ hạ
tầng xã hội
khi du lịch
phát triển
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL %
133
56
11
0
0
13
213
62,4 146
56
26,3
11
5,2
0
0
0
0
6,1
0
100 213
68,5
26,3
5,2
0
0
0
100
62,4
26,3
5,2
0
0
6,1
100
133
56
11
0
0
13
213
138
64
11
0
0
0
213
64,8 125
46
30,0
24
5,2
0
0
0
0
18
0
100 213
58,7
21,6
11,3
0
0
8,5
100
Rất quan tâm
Quan tâm
Ít quan tâm
Không quan tâm
Không biết
Không trả lời
Tổng
14.2. Khả năng của gia đình khi tham gia vào hoạt động du lịch
Giá trị
3. Cung
cấp dịch
vụ lưu trú
6. Cung
cấp dịch
vụ hướng
dẫn
7. Bán
hàng lưu
niệm, đặc
sản
2. Cung
cấp dịch
vụ vận
chuyển
4. Cung
cấp dịch
vụ ăn
uống
5. Cung
cấp dịch
vụ trải
nghiệm
1. Cung
cấp thực
phẩm đặc
trưng của
vùng
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
Rất quan tâm
165 77,5 111 52,1
96 45,1 114 53,5
96 45,1 106 49,8 160
Quan tâm
37 17,4
78 36,6
76 35,7
72 33,8
90 42,3
93 43,7
42
14
11
14
11
6,6
5,2
5,2
27 12,7
6,6
0
0
0
6,1
6,1
13
13
0
0
0
6,1
0
0
14
13
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
6,6
0
0
0
0
0
0
14
0
0
0
0
6,6
213 100 213 100 213 100 213 100 213 100 213
75,
1
19,
7
11 5,2
0
0
0
100 213 100
Ít quan tâm
Không quan
tâm
Không biết
Không trả lời
Tổng
202
14.3. Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
Lễ Đại phan
Dân ca
Kiến trúc
Đình, miếu
Giá trị
SL
%
SL
%
SL %
Rất quan tâm
Quan tâm
Ít quan tâm
Không quan tâm
Không biết
Không trả lời
Tổng
186
9
0
0
18
0
213
87,3
4,2
0
0
8,5
0
100
175
9
0
0
13
16
213
82,2 199
14
4,2
0
0
0
0
0
6,1
7,5
0
100 213
93,4
6,6
0
0
0
0
100
14.4. Bồi dưỡng nâng cao kiến thức về văn hóa dân tộc và nhiệp vụ du lịch
3. Học
ngoại ngữ
Giá trị
1. Học
tiếng Sán
Dìu
5. Học tập
kinh
nghiệm,
thực tế
2. Học
phong tục
tập quán
văn hóa
Sán Dìu
4. Học
nghiệp vụ
hướng
dẫn viện
du lịch
6. Học
nghiệp vụ
quản lý
nhà hàng,
khách sạn
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
191 89,7 188 88,3
5,6
0
4,2
0
12
0
9
0
86 40,4 103 48,4 193 90,6 112 52,6
60 28,2
82 38,5
5,2
11
5,2
11
87 40,8
5,2
11
4,2
5,2
9
11
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
6,1
0
6,1
0
5,6
0
12
0
13
16
18
0
0
0
0
16
7,5
0
14
8,5
13
213 100 213 100 213 100 213 100 213 100 213
7,5
6,6
100
Rất quan tâm
Quan tâm
Ít quan tâm
Không quan
tâm
Không biết
Không trả lời
Tổng
203
14b. Lý do nào ông/bà thấy không cần thiết có hoạt động du lịch ở địa
phương?
1. Đang có nghề nghiệp ổn định và có thu nhâp tốt: 68/213 người
2. Kinh doanh du lịch không hiệu quả: 17/213 người
3. Không biết kinh doanh du lịch: 17/213 người
4. Thiếu vốn để kinh doanh: 71/213 người
5. Không có kiến thức và kinh nghiệm: 17/213 người
6. Làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc: 30/213 người
7. Tệ nạn xã hội gia tăng: 15/213 người
15. Theo ông/bà để bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
của người Sán Dìu gắn với phát triển du lịch thì cần phải làm gì?
Tỉ lệ
(%)
Số
lượng
(người)
8,9
28,6 19
61
0,5
62,0
100 1
132
213
1. Dạy tiếng và học chữ Sán Dìu
2. Khôi phục bảo vệ và phát huy
các nét đẹp văn hóa Sán Dìu
3. Cả 1 và 2
4. Không trả lời
Tổng
16. Ông/bà có kiến nghị đề xuất gì với chính quyền địa phương?
Đề xuất Tỉ lệ (%)
Số lượng
(người)
9
43 4,2
20,2
1. Dạy tiếng và học chữ Sán Dìu
2. Khôi phục bảo vệ và phát huy các nét đẹp
văn hóa Sán Dìu
3. Cần có chính sách cụ thể và phù hợp hơn 3 1,4
30 14,1
4. Chính quyền các cấp quan tâm và cấp
kinh phí hoạt động
5. Cả 1 và 2
6. Không trả lời
Tổng 1
127
213 0,5
59,6
100
204
Phụ lục 6: MỘT SỐ HÌNH ẢNH
Ảnh 1: Trụ sở Đảng ủy, HĐND, UBND xã Bình Dân, tháng 5/2019. (Nguồn: NCS)
Ảnh 2: Miếu Thành hoàng và Bài cúng tại miếu, xã Bình Dân,
tháng 8/20120. (Nguồn: NCS)
205
Ảnh 3: Các bát hương được thờ tại Miếu Thôn Đồng, xã Bình Dân,
tháng 9/2018. (Nguồn: NCS)
Ảnh 4: Ông Lưu Văn Can và NCS (ngoài cùng phía bên phải)
chụp tại Miếu Thôn Đồng, xã Bình Dân, tháng 9/2018. (Nguồn: NCS)
206
Ảnh 5: Nhà Văn hóa cộng đồng xã Bình Dân
tháng 9/2018. (Nguồn: NCS)
Ảnh 6: Hiện trạng Nhà Văn hóa cộng đồng xã Bình Dân
tháng 9/2018. (Nguồn: NCS)
207
Ảnh 7: Các nông cụ phục vụ sản xuất, sinh hoạt được trưng bày trong nhà văn hóa
cộng đồng xã Bình Dân, tháng 3/2018. (Nguồn: NCS)
Ảnh 8: Bằng công nhận danh hiệu NNDG của bà Trương Thị Choong
tháng 3/2018. (Nguồn: NCS)
208
Ảnh 9: TS. Nguyễn Thị Kim Thoa (ngoài cùng phía bên phải) hướng dẫn Hội viên
CLB Soọng cô xã Bình Dân sử dụng bộ chữ latin trong các bài hát, tháng 3/2020.
(Nguồn: NCS)
Ảnh 10: Lễ hội Đại phan tại huyện Đầm Hà, tháng 6/2015. (Nguồn: NCS)
209
Ảnh 11: Nghi lễ leo gươm trong lễ Đại phan của người Sán Dìu tại xã Bình Dân,
huyện Vân Đồn năm 2008. (Nguồn: Trần Minh)
Ảnh 12: Tiết mục dự thi: Đón dâu: của CLB Soọng cô xã Bình Dân đạt giải Nhất tại
liên hoan dân ca lần thứ Nhất tại huyện Vân Đồn, tháng 8/2019
(Nguồn: NCS)
210
Phụ lục 7: TRÍCH DẪN MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP QUY
PL 7.1. Hiến pháp qua các năm thể hiện quan điểm của Nhà nước ta về
BV&PH giá trị DSVH
“Các dân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi phong tục tập quán, dùng tiếng
nói chữ viết, phát triển văn hoá dân tộc mình. Nhà nước ra sức giúp đỡ các DTTS
mau tiến kịp trình độ kinh tế và văn hoá chung [Điều 3, Hiến pháp 1959].
“Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn và phát huy những
phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà nước có kế
hoạch xoá bỏ từng bước sự chênh lệch giữa các dân tộc về trình độ phát triển kinh tế
và văn hoá” [Điều 5, Hiến pháp 1980].
“Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và
phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà
nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của đồng bào DTTS [Điều 5, Hiến pháp 1992].
“Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát
huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực
hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực,
cùng phát triển với đất nước” [Điều 5, Hiến pháp 2013].
PL 7.2. Quyết định số 1271/2016/QĐ-UBND
Tại Điều 2:
Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Quảng Ninh có nhiệm vụ và quyền hạn về
QLNN về DSVH, gồm:
a) Tổ chức thực hiện quy chế, giải pháp huy động, quản lý, sử dụng các
nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở địa phương sau khi được
phê duyệt;
b) Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật
thể ở địa phương; cấp giấy phép nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hóa phi vật thể trên
địa bàn cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài;
c) Quản lý, hướng dẫn tổ chức các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di
sản văn hóa, lễ hội truyền thống, tín ngưỡng gắn với di tích, nhân vật lịch sử ở
địa phương;
d) Tổ chức kiểm kê, lập danh mục, lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử - văn
hóa và danh lam thắng cảnh ở địa phương;
đ) Thỏa thuận chủ trương lập dự án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật; thẩm định dự
án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật; thỏa thuận thiết kế bản vẽ thi công bảo quản, tu bổ,
211
phục hồi di tích cấp tỉnh ở địa phương; hướng dẫn, tổ chức thực hiện tu sửa cấp
thiết và các dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích thuộc địa phương quản lý sau khi
được phê duyệt;
e) Thẩm định dự án cải tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài khu vực bảo
vệ di tích cấp tỉnh ở địa phương có khả năng ảnh hưởng đến cảnh quan, môi trường
của di tích;
g) Tiếp nhận hồ sơ, hướng dẫn thủ tục, trình cấp có thẩm quyền cấp giấy
phép thăm dò, khai quật khảo cổ, khai quật khẩn cấp; theo dõi, giám sát việc thực
hiện nội dung giấy phép khai quật ở địa phương;
h) Thẩm định hiện vật và hồ sơ hiện vật đề nghị công nhận bảo vật quốc gia
của bảo tàng cấp tỉnh, ban hoặc trung tâm quản lý di tích, bảo tàng ngoài công lập,
tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc đang quản lý hợp pháp hiện vật ở địa phương;
i) Tổ chức việc thu nhận, bảo quản các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do
tổ chức, cá nhân giao nộp và thu giữ ở địa phương theo quy định của pháp luật;
tổ chức đăng ký và quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; cấp chứng chỉ hành
nghề đối với chủ cửa hàng mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; cấp giấy
phép làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích quốc gia, di tích
cấp tỉnh, bảo tàng cấp tỉnh và sở hữu tư nhân ở địa phương; cấp, thu hồi giấy
chứng nhận đủ điều kiện hoạt động giám định cổ vật của cơ sở giám định cổ vật
tại địa phương;
k) Xác nhận điều kiện đối với việc thành lập bảo tàng cấp tỉnh và điều kiện
được cấp giấy phép hoạt động đối với bảo tàng ngoài công lập ở địa phương.
PL 7.3. Phòng Quản lý Di sản là đơn vị chuyên môn có chức năng tham
mưu giúp Giám đốc Sở thực hiện QLNN về nghiệp vụ Di sản thuộc phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
a) Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tham mưu giúp Giám đốc Sở dự
thảo quyết định, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 năm và hàng năm các đề án, dự
án, chương trình phát triển, thực hiện xã hội hóa, các văn bản quy phạm pháp luật
về lĩnh vực Di sản trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
b) Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tham mưu giúp Giám đốc Sở
quyết định thành lập, giải thể các Hội đồng chuyên ngành về di sản trong phạm vi
quyền hạn của Sở.
c) Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tham mưu giúp Giám đốc Sở
hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách,
quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án, chương trình sau khi được cấp có thẩm quyền phê
duyệt; phối hợp thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản.
212
d) Hướng dẫn thủ tục và cấp giấy phép nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hoá
phi vật thể trên địa bàn tỉnh cho tổ chức, cá nhân nước ngoài và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài;
e) Tham mưu giúp Giám đốc Sở công tác tổng hợp, theo dõi công tác kiểm
kê, phân loại, lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh
thuộc địa bàn tỉnh;
g) Tham mưu thỏa thuận chủ trương lập dự án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật; thẩm
định dự án, báo cáo kinh tế kỹ thuật, thỏa thuận bản vẽ thi công bảo quản, tu bổ, phục hồi
di tích cấp tỉnh ở địa phương; hướng dẫn, tổ chức thực hiện cấp thiết và các dự án bảo
quản, tu bổ, phục hồi di tích thộc địa phương quản lý sau khi được phê duyệt
h) Thẩm định dự án cải tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài khu vực bảo
vệ di tích cấp tỉnh có khả năng ảnh hưởng đến cảnh quan, môi trường của di tích;
i). Tham mưu tổ chức việc thu nhận, bảo quản các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
do tổ chức, cá nhân giao nộp và thu giữ ở địa phương theo quy định của pháp luật;
k). Đăng ký và tổ chức quản lý di vật, cổ vật quốc gia trong phạm vi tỉnh;
cấp giấy phép làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc bảo tàng tỉnh và sở
hữu cá nhân;
l). Hướng dẫn nghiệp vụ bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể
theo đề nghị của tổ chức, cá nhân nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể;
m) Quản lý, hướng dẫn tổ chức các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản
văn hoá, lễ hội truyền thống, tín ngưỡng gắn với di tích, nhân vật lịch sử tại địa
phương; xây dựng tượng đài, tranh hoành tráng;
n). Tham mưu hướng dẫn công tác đặt tên, đổi tên đường, phố và các công
trình công cộng trên địa bàn tỉnh;
0) Quản lý và theo dõi việc thực hiện chính sách văn hoá dân tộc, bảo tồn,
phát huy, phát triển các giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể của cộng đồng các dân
tộc cư trú trên địa bàn tỉnh;
PL 7.4. Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BVHTTDL-BNV
Nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng Văn hoá và Thông tin tại Điều 5, gồm:
1. Trình UBND cấp huyện ban hành quyết định, chỉ thị; kế hoạch dài hạn, 05
(năm) năm và hàng năm; đề án, chương trình phát triển văn hoá, gia đình, thể dục,
thể thao, du lịch và quảng cáo; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ cải cách hành chính nhà nước, xã hội hoá trong lĩnh vực QLNN được giao.
2. Trình Chủ tịch UBND cấp huyện dự thảo các văn bản về lĩnh vực văn hoá,
gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo thuộc thẩm quyền ban hành của
Chủ tịch UBND cấp huyện.
213
3. Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch,
đề án, chương trình đã được phê duyệt; hướng dẫn, thông tin tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về quản lý, hoạt động phát triển sự nghiệp văn hoá, gia đình, thể
dục, thể thao, du lịch và quảng cáo; chủ trương xã hội hoá hoạt động văn hoá, thể
dục, thể thao; phòng, chống bạo lực trong gia đình.
4. Hướng dẫn các tổ chức, đơn vị và nhân dân trên địa bàn huyện thực hiện
phong trào văn hoá, văn nghệ; phong trào luyện tập thể dục, thể thao; xây dựng nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; xây dựng phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, khu
phố văn hoá, đơn vị văn hoá; bảo vệ các di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng
cảnh; bảo vệ, tôn tạo, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên du lịch, môi trường du
lịch, khu du lịch, điểm du lịch trên địa bàn.
5. Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của các Thư viện, Trung tâm Văn hóa,
Trung tâm Thể dục thể thao hoặc Trung tâm Văn hóa - Thể thao, các thiết chế văn
hoá cơ sở, các cơ sở hoạt động dịch vụ văn hoá, thể dục, thể thao, du lịch và quảng
cáo điểm vui chơi công cộng thuộc phạm vi quản lý của Phòng trên địa bàn.
6. Giúp UBND cấp huyện QLNN đối với tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân; hướng dẫn và kiểm tra hoạt động các hội và tổ chức phi chính phủ hoạt động
trên địa bàn thuộc các lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng
cáo theo quy định của pháp luật.
7. Hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục,
thể thao, du lịch và quảng cáo đối với các chức danh chuyên môn thuộc UBND xã,
phường, thị trấn.
8. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra, thanh tra việc chấp
hành pháp luật về hoạt động văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng
cáo trên địa bàn huyện; giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân về lĩnh
vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo theo quy định của
pháp luật.
9. Thực hiện công tác thống kê, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình hoạt
động văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo theo quy định của
UBND cấp huyện và Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
10. Quản lý tổ chức bộ máy, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu
ngạch công chức, thực hiện chế độ tiền lương, chính sách, chế độ đãi ngộ, khen
thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với công
chức thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật và theo phân công của
UBND huyện.
214
11. Quản lý tài chính; tài sản được giao theo quy định của pháp luật và phân
công của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
12. Thực hiện các nhiệm vụ khác do UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp
huyện giao hoặc theo quy định của pháp luật
PL 7.5. Nghị định số 98/2010/NĐ-CP
Tại Điều 2. Di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể
1. Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm:
a) Tiếng nói, chữ viết;
b) Ngữ văn dân gian;
c) Nghệ thuật trình diễn dân gian;
d) Tập quán xã hội và tín ngưỡng;
đ) Lễ hội truyền thống;
e) Nghề thủ công truyền thống;
d) Tri thức dân gian.
2. Di sản văn hóa vật thể bao gồm:
a) Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh (sau đây gọi là di tích);
b) Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Điều 3 quy định:
1. Xây dựng và thực hiện chương trình mục tiêu bảo tồn các di sản văn hóa
tiêu biểu.
2. Khen thưởng tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa; xét tặng danh hiệu vinh dự nhà nước và thực hiện các chính
sách ưu đãi về tinh thần và vật chất đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công
phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt.
3. Nghiên cứu áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào các hoạt động sau đây:
a) Thăm dò, khai quật khảo cổ; bảo quản, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích;
b) Thẩm định, quản lý sưu tập, bảo quản hiện vật, chỉnh lý, đổi mới nội
dung, hình thức trưng bày và hoạt động giáo dục của bảo tàng;
c) Sưu tầm, lưu giữ và phổ biến giá trị di sản văn hóa phi vật thể; thành lập
ngân hàng dữ liệu về di sản văn hóa phi vật thể.
4. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn trong lĩnh vực bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa.
5. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong nước và
nước ngoài đóng góp về tinh thần và vật chất hoặc trực tiếp tham gia các hoạt động
bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
6. Mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa; xây dựng và thực hiện các dự án hợp tác quốc tế theo quy
định của pháp luật.
215
PL 7.6. Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06/5/2009 của Thủ tướng Chính
phủ về Chiến lược Phát triển văn hoá đến năm 2020, trong đó quy định:
- Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc là nhiệm vụ then chốt của Chiến
lược phát triển văn hoá. Tập trung điều tra toàn diện, nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn
và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hoá và văn hoá phi vật thể; các loại hình
nghệ thuật cổ truyền đặc sắc, văn hoá dân gian của từng địa phương, từng vùng văn
hoá, từng vùng dân tộc; nghề thủ công truyền thống, lễ hội tiêu biểu, kho tàng Hán
Nôm. Kết hợp hài hoà việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá với các hoạt
động phát triển kinh tế, du lịch bền vững.
Điều tra, sưu tầm, xây dựng “ngân hàng dữ liệu” về văn hoá vật thể và văn
hoá phi vật thể tiêu biểu.
Đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để bảo quản, giữ gìn lâu dài tài liệu,
hiện vật tại các bảo tàng, cơ quan lưu trữ tư liệu lịch sử, văn hoá, nghệ thuật ở
Trung ương và địa phương.
Thực hiện các hình thức tôn vinh các nghệ sĩ, nghệ nhân tiêu biểu và cơ chế
chính sách để các nghệ nhân phổ biến, truyền dạy nghề cho thế hệ trẻ.
- Bảo tồn và phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số.
Văn hoá các dân tộc thiểu số là tài sản quý giá góp phần làm nên sự phong
phú, đa dạng mà thống nhất của văn hoá Việt Nam. Giữ gìn bản sắc và sự đa dạng
của văn hoá các dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn ở kỷ nguyên
toàn cầu hoá. Có thể nói, thực chất của vấn đề dân tộc là vấn đề văn hoá.
Coi trọng và tổ chức thực hiện các chương trình về bảo tồn, phát huy
những giá trị truyền thống tốt đẹp và xây dựng, phát triển những giá trị mới về
văn hoá, văn học, nghệ thuật, đặc biệt là hỗ trợ sự phát triển ngôn ngữ, chữ viết
của các dân tộc thiểu số. Có chính sách và giải pháp cụ thể xây dựng đội ngũ trí
thức trong các dân tộc thiểu số; phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng
tác, sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn học, nghệ thuật dân tộc thiểu số. Ưu tiên
tài trợ cho các tác giả dân tộc thiểu số có tài năng, sáng tạo các tác phẩm về đề
tài dân tộc và miền núi.
Đẩy mạnh các hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc
thiểu số. Thông qua hoạt động du lịch văn hoá được tổ chức, quản lý tốt, góp phần
nâng cao đời sống tinh thần, tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo cho đồng
bào vùng dân tộc, miền núi.
PL 7.7. Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về Công tác dân tộc
Tại điều 13 quy định chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa được thể hiện:
216
1. Hỗ trợ việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn và phát huy những giá
trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam.
2. Hỗ trợ việc giữ gìn và phát triển chữ viết của các dân tộc có chữ viết. Các
dân tộc thiểu số có trách nhiệm gìn giữ văn hóa truyền thống tốt đẹp, tiếng nói, chữ
viết của dân tộc mình phù hợp với quy định của pháp luật.
3. Xây dựng, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia để bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống; hỗ trợ việc đầu tư, giữ gìn, bảo tồn các di tích
lịch sử, văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng.
4. Đồng bào dân tộc thiểu số được ưu đãi, hưởng thụ văn hóa; hỗ trợ xây
dựng, khai thác sử dụng có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
5. Bảo tồn, phát huy các lễ hội truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân
tộc, định kỳ tổ chức ngày hội văn hóa - thể thao dân tộc theo từng khu vực hoặc
từng dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
PL 7.8. Quyết định số 581/QĐ-TTg và Nghị định số 05/NĐ-CP. Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 về
Phê duyệt Đề án "Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam
đến năm 2020" với mục tiêu tổng quát:
- Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm phát triển văn hóa dân tộc, góp
phần để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo đảm toàn vẹn
chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
- Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số
phù hợp với tình hình thực tế, đặc biệt chú trọng địa bàn các dân tộc có nguy cơ bị
biến dạng văn hóa cao (các dân tộc rất ít người không có điều kiện tự bảo vệ văn
hóa của mình; bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số tại khu vực biên
giới, hải đảo, khu vực tái định cư của các thủy điện). Phát huy vai trò của các chủ
thể văn hóa trong phát triển văn hóa truyền thống của các dân tộc.
- Tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số;
khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Góp phần giảm dần sự chênh lệch về mức
sống và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các dân tộc, gắn kết giữa phát triển kinh
tế với bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc.
- Tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn
hóa, huy động mọi nguồn lực cho bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, đặc biệt
217
tại các địa bàn trọng điểm: Vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn, biên giới, hải đảo”
Các nhiệm vụ trọng tâm của Quyết định số 1270/QĐ-TTg, cụ thể như:
- Chủ thể văn hóa, cộng đồng kế thừa và thực hành văn hóa có một vai trò to
lớn và là nhân tố quyết định trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền
thống của các DTTS.
- Coi trọng và tổ chức thực hiện các chương trình về bảo tồn, phát huy những giá
trị truyền thống tốt đẹp và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học,
nghệ thuật, đặc biệt là hỗ trợ sự phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc thiểu số.
- Ưu tiên đầu tư cho việc giữ gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật biểu
diễn truyền thống các dân tộc thiểu số; sưu tầm, phục hồi và phát triển một số loại
hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ thất truyền.
- Đẩy mạnh các hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số kết hợp với các chương trình phát triển kinh tế, phát triển nghề thủ công
truyền thống, du lịch cộng đồng kết hợp với xóa đói giảm nghèo.
- Phát triển và hiện đại hóa mạng lưới thông tin đại chúng, nâng cao chất
lượng các sản phẩm văn hóa, thông tin phù hợp. Đẩy mạnh và phát huy hiệu quả
công cụ phát thanh, truyền hình phù hợp vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Xây dựng đồng bộ và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết
chế văn hóa cộng đồng, thực sự phát huy vai trò của cộng đồng trong tổ chức các
hoạt động cộng đồng phát huy hiệu quả thực sự của các thiết chế văn hóa.
- Tăng cường các hoạt động giao lưu văn hóa cấp địa phương, vùng, miền và
toàn quốc.
- Xây dựng các chính sách khuyến khích hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, bảo
quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng các dân tộc
thiểu số Việt Nam.
- Hoàn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa.
- Ban hành bộ chỉ số về phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam.
PL 7.9. Quyết định số 2356/QĐ-TTg ngày 04/12/2013 của Thủ tướng
Chính phủvề việc Ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược
công tác dân tộc đến năm 2020 với nhiệm vụ: với nhiệm vụ: “Phát triển toàn diện
văn hóa DTTS; chính sách giữ gìn, bảo tồn, tôn vinh và phát huy bản sắc văn hóa,
ngôn ngữ, chữ viết, tập quán, tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của đồng bào DTTS;
xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa gắn với việc bảo quản, gìn giữ, bảo tồn di tích
lịch sử ở từng vùng, từng địa phương; xây dựng nếp sống văn minh, bài trừ mê tín,
dị đoan, hủ tục lạc hậu.
218
PL 7.10. Quyết định số 2493/QĐ-TTg ngày 22/12/2016 của Thủ tướng
Chính phủ về Phê duyệt Đề án Kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày,
tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của các DTTS Việt
Nam, giai đoạn 2017-2020 với mục tiêu: Huy động nguồn lực của toàn xã hội
cùng tham gia gìn giữ, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc; tạo chuyển biến
mạnh mẽ về nhận thức và ý thức bảo vệ, phát huy giá trị DSVH của toàn xã hội,
các chủ thể văn hóa và tổ chức, cá nhân có liên quan;có các giải pháp đồng bộ,
khả thi nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm kê, sưu tầm, bảo
quản, trưng bày, tuyên truyền DSVH truyền thống điển hình của các DTTS Việt
Nam để BV&PH giá trị DSVH truyền thống điển hình của các DTTS Việt Nam
một cách lâu dài, bền vững; giới thiệu, quảng bá DSVH truyền thống điển hình
của các DTTS Việt Nam; thu hút sự quan tâm, trải nghiệm của công chúng, nhất
là các đối tượng học sinh, sinh viên.
PL 7.11. Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 09/3/2018 của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững, theo đó Nghị quyết đề ra các mục tiêu cụ thể sau:
100% các địa phương xây dựng chương trình, kế hoạch, đề án gìn giữ, bảo
tồn và phát huy các bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp, từng bước loại bỏ các hủ
tục; 100% các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh đã xếp hạng được bảo
tồn, phát huy giá trị; xây dựng một số thôn, làng, bản trở thành “bảo tàng sống”
nhằm bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống đặc sắc trong tỉnh và trở thành
sản phẩm du lịch; 100% khu dân cư có và thực hiện tốt hương ước, quy ước nếp
sống văn minh phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tuân thủ quy định
của pháp luật; 100% thanh, thiếu nhi các trường học được giáo dục về giá trị lịch sử
- văn hóa truyền thống Quảng Ninh, kỹ năng sống, giao tiếp, ứng xử văn minh.
Nghị quyết đã đặt ra các nhiệm vụ và giải pháp bao gồm:
Bảo tồn và phát triển văn hóa mang bản sắc của Quảng Ninh gắn với phát
triển KT-XH; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh; xây dựng con
người Quảng Ninh phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; tập
trung huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhà nước và xã hội, phát
triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; tăng
cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ qốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
PL 7.12. Quyết định số 1988/QĐ-UBND ngày 07/8/2013, về Ban hành
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 29/5/2013 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân tộc trong
219
sự nghiệp phát triển KT-XH nhanh, bền vững gắn với bảo vệ vững chắc quốc phòng -
an ninh tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030,Quảng Ninh.
PL 7.13. Quyết định số 2994/QĐ-UBND ngày 08/10/2015, về việc ban hành
Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình hành động của BCH Đảng bộ tỉnh thực
hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước,Quảng Ninh.
220
Phụ lục 8
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN, CHUYÊN GIA
(theo thứ tự A-B-C)
Vị trí công tác, địa chỉ
Thời gian cung cấp
TT Họ tên
I Các chuyên gia
1 NVC
2 ĐVB
3 BXĐ
4 NTH
Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội
Bộ VH,TT&DL
Viện Dân tộc học, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam
Công ty TNHH Bảo tồn văn hóa Việt
5
6
TTTH
THS
Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên
Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian ứng dụng
7 ĐTT
Học viện Dân tộc
8 ĐTTT Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Trường Đại học Ngoại thương
9 NTKT
10 NTT
Học viện Dân tộc
Tháng 4/2019
Tháng 5/2019
Tháng 5/2019
Lần 1: Tháng 10/2018
Lần 2: Tháng 6/2019
Tháng 10/2019
Lần 1: Tháng 6/2017
Lần 2: Tháng 11/2019
Lần 1: Tháng 7/2018
Lần 2: Tháng 11/2019
Tháng 7/2019
Lần 1: Tháng 7/2019
Lần 2: Tháng 02/2020
Lần 1: Tháng 3/2018
Lần 2: Tháng 12/2019
II Nhà Quản lý
1 HMA
2 NTG
Ban Dân tộc tỉnh Vĩnh Phúc
Phòng Di sản Sở Văn hóa, Thể thao tỉnh Quảng Ninh
3
PLG
Phòng Văn hóa thông tin, UBND huyện Vân Đồn
4
TDĐ
UBND phường Quang Hanh, thành phố Cẩm Phả
Tháng 4/2019
Lần 1: Tháng 3/2018
Lần 2: Tháng 12/2018
Lần 3: Tháng 4/2019
Lần 1: Tháng 9/2018
Lần 2: Tháng 10/2018
Lần 3: Tháng 4/2019
Lần 4: Tháng 8/2020
Tháng 12/2018
5 NQH
6 NTN1 UBND huyện Vân Đồn
Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh
7 NTN2
Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh
8
PTH
Phòng Văn hóa thông tin, UBND huyện Vân Đồn
9 HAT
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh
10 HQT
Chi hội Văn học nghệ thuật các DTTS tỉnh Quảng Ninh Tháng 4/2019
Tháng 4/2019
Tháng 4/2019
Tháng 4/2019
Lần 1: Tháng 9/2018
Lần 2: Tháng 10/2018
Lần 3: Tháng 4/2019
Tháng 4/2019
221
11 TVT
Phòng Văn hóa thông tin, UBND huyện Tiên Yên
12 ÂTT
Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ninh
13 NTT
14 LVD
Phòng Quản lý Khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ
tỉnh Quảng Ninh
UBND xã Bình Dân, huyện Vân Đồn
15 TTS1
UBND xã Bình Dân, huyện Vân Đồn
16 TTS2
Chuyên viên địa chính, UBND xã Bình Dân, huyện
Vân Đồn
17 TVD
Hội Nông dân xã Bình Dân, huyện Vân Đồn
18 PTV
Tháng 4/2019
Lần 1: Tháng 9/2018
Lần 2: Tháng 10/2018
Lần 3: Tháng 8/2020
Tháng 4/2019
Lần 1: Tháng 9/2018
Lần 2: Tháng 4/2019
Lần 3: Tháng 8/2020
Lần 1: Tháng 9/2018
Lần 2: Tháng 10/2018
Lần 3: Tháng 4/2019
Lần 4: Tháng 8/2020
Lần 1: Tháng 10/2018
Lần 2: Tháng 4/2019
Lần 3: Tháng 8/2020
Lần 1: Tháng 9/2018
Lần 2: Tháng 10/2018
Lần 3: Tháng 4/2019
Trung tâm Bảo tồn và phát huy DSVH tỉnh Quảng Ninh Lần 1: Tháng 9/2018
Lần 2: Tháng 4/2019
Lần 3: Tháng 8/2020
III Người am hiểu phong tục tập quán văn hóa Sán Dìu
1 NVA
2 HVT
LĐN
3
LVB
4
TBD
5
TTT1
6
xã Giáp Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang
xã Quý Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang
Xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc
Xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang
Xã Phúc Thuân, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên
Xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
7
8
9
LVC
TTT2
TTK
Xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
10 TTT3
Xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
11 TTT4
Phường Quang Hanh, tp Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh
Phường Hà Phong, tp Hạ Long, tỉnh Quảng, Ninh
Tháng 6/2019
Tháng 6/2019
Tháng 5/2019
Tháng 5/2019
Tháng 5/2019
Lần 1: Tháng 9/2018
Lần 2: Tháng 5/2019
Lần 3: Tháng 8/2020
Tháng 5/2019
Tháng 5/2019
Lần 1: Tháng 9/2018
Lần 2: Tháng 5/2019
Lần 1: Tháng 9/2018
Lần 2: Tháng 5/2019
Lần 3: Tháng 8/2020
Lần 1: Tháng 9/2018
Lần 2: Tháng 5/2019
Lần 3: Tháng 8/2020
Tháng 6/2019
12 TBM