BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Trần Quốc Hùng QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA Hà Nội - 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Trần Quốc Hùng QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA Chuyên ngành: Quản lý văn hoá Mã số: 9229042

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Bùi Văn Tiến

Hà Nội - 2021

i

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, luận án tiến sĩ Quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các

kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa

từng bảo vệ ở bất kỳ học vị nào.

Trong quá trình thực hiện luận án, tôi đã kế thừa nhiều nguồn tài liệu và có

trích dẫn rõ ràng, đầy đủ.

Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Hà Nội, ngày 19 tháng 7 năm 2021

Tác giả luận án

Trần Quốc Hùng

ii

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i

DANH MỤC BẢNG ................................................................................................... v

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ .............................................................................. vi DANH MỤC HỘP ................................................................................................... vii

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN ... 12

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................ 12 1.2. Cơ sở lý luận ...................................................................................................... 29

1.3. Mối quan hệ hữu cơ giữa quản lý Nhà nước, quản lý của cộng đồng và các bên

liên quan khác ........................................................................................................... 45 Tiểu kết ...................................................................................................................... 49

Chương 2: DI SẢN VĂN HÓA VÀ QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC

SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH ............................. 51

2.1. Di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn ..................................... 51

2.2. Thực trạng quản lý Nhà nước về di sản văn hóa ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng

Ninh ........................................................................................................................... 56

2.3. Thực trạng quản lý của cộng đồng đối với di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ...................................................................... 76

2.4. Sự tham gia của các bên liên quan khác trong quản lý di sản văn hóa dân tộc

Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ..................................................... 94

2.5. Thực trạng cơ chế phối hợp trong quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ...................................................................... 97

2.6. Thực trạng các nguồn lực trong quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện

đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh............................................................................... 101

2.7. Đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước, quản lý của cộng đồng và các bên liên quan trong quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ............................................................................................................. 103 2.8. Một số yếu tố tác động ..................................................................................... 109 Tiểu kết .................................................................................................................... 114 Chương 3: BÀN LUẬN VỀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH .................. 116 3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về quản lý di sản văn hóa .......................... 116

3.2. Bàn luận về quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ....................................... 124

iii

3.3. Một số định hướng cơ bản về quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện

đảo Vân Đồn ........................................................................................................... 129 3.4. Giải pháp quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn ............... 133

3.5. Đề xuất mô hình quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu gắn với phát triển du

lịch ........................................................................................................................... 147

Tiểu kết .................................................................................................................... 152 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 153 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC .................................................. 156 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 157

PHỤ LỤC ................................................................................................................ 171

iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

BV&PH Bảo vệ và phát huy

CHXHCN Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa

CLB Câu lạc bộ

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DSVH Di sản văn hóa

DTTS Dân tộc thiểu số

HĐND Hội đồng nhân dân

KH Kế hoạch

KH&CN Khoa học và công nghệ

KKT Khu Kinh tế

KT-XH Kinh tế - xã hội

NCS Nghiên cứu sinh

NNDG Nghệ nhân dân gian

NNND Nghệ nhân nhân dân

NNUT Nghệ nhân ưu tú

Nxb Nhà xuất bản

PL Phụ lục

PVS Phỏng vấn sâu

QH Quốc hội

QL Quản lý

QLNN Quản lý Nhà nước

TP Thành phố

Tr Trang

TTg Thủ tướng Chính phủ

UBND Ủy ban nhân dân

UNESCO

United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp quốc)

VH,TT&DL Văn hóa, Thể thao và Du lịch

VH&TT Văn hóa và Thể thao

v

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Mẫu nghiên cứu định lượng dựa theo chỉ tiêu về giới tính và độ tuổi của

chủ hộ người dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn ....................................................... 8

Bảng 2: Tổng số mẫu nghiên cứu định lượng của dân tộc Sán Dìu ở xã Bình Dân,

huyện Vân Đồn ........................................................................................................... 9

Bảng 1.1: Hai phương diện để xây dựng cộng đồng và sự khác biệt giữa chúng ..... 47

Bảng 2.1: Nguồn kinh phí thực hiện Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các

dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ...... 63

Bảng 2.2. Tổng hợp từ Danh mục kiểm kê DSVH phi vật thể tỉnh Quảng Ninh của

Sở Văn hóa và Thể thao ngày 22/9/2016 .................................................................. 67

Bảng 2.3. Nhận diện các nguồn lực trong hoạt động QL DSVH người Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn thông qua khung phân tích SWOT......................................... 103

Bảng 3.1. Mục tiêu trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu huyện đảo Vân Đồn ........ 148

Bảng 3.2. Nguyên tắc QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn gắn với

phát triển du lịch ..................................................................................................... 150

Bảng 3.3. Sự tham gia của các bên liên quan trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn ................................................................................................ 152

vi

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Trang

Biểu đồ 2.1. Hiểu biết về lễ hội Đại phan .......................................................... 81

Biểu đồ 2.2. Hiểu biết về dân ca ..................................................................... 82

Biểu đồ 2.3. Giá trị văn hóa của dân tộc Sán Dìu còn lưu giữ hiện nay .............................. 89

Biểu đồ 2.4. Mong muốn tham gia hoạt động du lịch .......................................................... 95

Sơ đồ 1. Phân bổ chọn mẫu quả bóng tuyết ................................................................... 7

Sơ đồ 2.1. Khung lý thuyết nghiên cứu QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn .......................................................................................... 50

vii

DANH MỤC HỘP

Hộp 2.1. Lý giải về việc chậm trễ triển khai dự án bảo tồn và phát triển văn hóa dân

tộc Sán Dìu ở xã Bình Dân, huyện Vân Đồn ............................................................ 63

Hộp 2.2. Hoạt động của cộng đồng dân tộc Sán Dìu ................................................ 79

Hộp 2.3. Sự khác biết biệt trong môi trường sinh hoạt văn hóa Sán Dìu ................. 81

Hộp 2.4. Các phẩm chất và kỹ năng cần có để làm thầy cúng và thầy thuốc ........... 81

Hộp 2.5. Người tham gia thực hiện Dự án bảo tồn chữ viết Sán Dìu ....................... 82

Hộp 2.6. Sự tham gia của người trong thực hiện chính sách ........................................... 86

Hộp 2.7. Hoạt động của CLB Soọng cô .................................................................... 87

Hộp 2.8. Quá trình thực hành lễ Đại phan ................................................................ 87

Hộp 2.9. Vai trò người có uy tín trong cộng đồng .......................................................... 87

Hộp 2.10. Trao truyền Soọng cô ............................................................................... 89

Hộp 2.11. Cơ hội được giao lưu ................................................................................ 91

Hộp 2.12. Hoạt động lễ hội Tây Thiên gắn với văn hóa Sán Dìu ............................. 92

Hộp 2.13. Hạn chế trong QLNN về DSVH tại huyện Vân Đồn ............................... 99

Hộp 2.14. Ý kiến trái chiều về BV&PH giá trị DSVH Sán Dìu ............................... 99

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Huyện Vân Đồn là huyện vùng DTTS, miền núi và hải đảo, nơi đây không

những thiên nhiên ban tặng danh thắng vịnh Bái Tử Long, mà còn có nhiều giá trị

văn hóa lịch sử độc đáo như: thương cảng Vân Đồn phát triển cực thịnh dưới thời

Lý - Trần, chứng tích lịch sử các trận đánh chống giặc Nguyên Mông, đình Quan

Lạn… Đặc biệt, Vân Đồn là nơi sinh sống của cộng đồng DTTS: Sán Dìu, Dao,

Tày,… trong đó, dân tộc Sán Dìu là DTTS chiếm tỷ lệ đông nhất (trên 10% dân số

toàn huyện). Giá trị DSVH các DTTS nói chung và dân tộc Sán Dìu nói riêng rất

độc đáo được thể hiện qua khối óc và bàn tay đầy sáng tạo của lớp lớp người đi

trước tạo nên những giá trị văn hóa đặc trưng riêng có và được trao truyền qua

nhiều thế hệ tạo nên kho tàng DSVH vật thể, phi vật thể phong phú và đặc sắc như:

ẩm thực, trang phục, nhà cửa, nông cụ sản xuất, phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ

hội, dân ca, trò chơi, tri thức dân gian…

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các quyết định, quy hoạch, chương trình, dự

án, kế hoạch phát triển KT-XH của huyện đảo Vân Đồn vẫn chưa đề cập rõ ràng,

chi tiết về vấn đề QL DSVH các DTTS, trong đó có dân tộc Sán Dìu. Các văn bản

nêu trên chỉ đề cập chung chung “cần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các

DTTS” và thực tiễn công tác QLNN về DSVH trên địa bàn huyện chưa được quan

tâm đúng mức.

Vân Đồn đang chuyển mình trở thành KKT biển đa ngành, đa lĩnh vực, trung

tâm công nghiệp giải trí, du lịch biển - đảo cao cấp, dịch vụ thương mại quốc tế.

Đây là cơ hội, cũng là thách thức lớn đối với người Sán Dìu trong quá trình

BV&PH giá trị DSVH trong đời sống cộng đồng. Các vấn đề đặt ra như: QL DSVH

dựa vào cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng; khai thác giá trị DSVH trở thành

nguồn lực sinh kế mới; QL DSVH về chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền;

trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên quan… là những vấn đề lớn cần đặt ra

trong quá trình QL, BV&PH giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

trong giai đoạn hiện nay.

2

Đặc biệt, UBND tỉnh Quảng Ninh chọn xã Bình Dân nơi có dân tộc Sán Dìu

mật cư là địa điểm xây dựng Làng DTTS nhằm bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống

gắn với phát triển du lịch. Trong khi đó, những giá trị văn hóa truyền thống đang bị

mai một và thất truyền. Vai trò cộng đồng bị giảm sút, thậm chí một bộ phận không

nhỏ thờ ơ, quay lưng lại với DSVH của chính dân tộc mình. Vì thế, có nhiều vấn đề

đặt ra đối với chức năng QLNN về DSVH, vai trò cộng đồng và các bên liên quan

khác trong giải quyết hài hòa bài toán phát triển KT-XH với việc BV&PH giá trị

DSVH của dân tộc Sán Dìu nơi đây.

Trong bối cảnh hiện nay, nhằm hạn chế tình trạng mai một, thất truyền các

giá trị DSVH và tạo khả năng khôi phục, phục dựng các nét đẹp văn hóa vốn có

của dân tộc Sán Dìu trong đời sống cộng đồng là vô cùng quan trọng. Đây là một

khoảng trống cần được nghiên cứu một cách đầy đủ. Vì vậy, có thể nói, việc

phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN cũng như

phát huy vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng và các bên liên quan khác

trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn là một việc làm cấp thiết

hiện nay.

Nghiên cứu về DSVH dân tộc Sán Dìu đã có nhiều công trình khoa học sưu

tầm, nghiên cứu dưới cách tiếp cận của nhiều chuyên ngành: Văn hóa học, Dân tộc

học, Sử học, Văn học… Tuy nhiên, với cách tiếp cận của chuyên ngành Quản lý

văn hóa về QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh là

vấn đề chưa được nghiên cứu giải quyết triệt để. Vì vậy, NCS dựa trên những cơ sở

lý luận, các quan điểm, văn bản pháp lý của UNESCO, Đảng, Nhà nước và thực

tiễn hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu, huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

nhằm phân tích, đánh giá thực tiễn và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN

về DSVH, phát huy vai trò cộng đồng và tăng cường sự tham gia, phối hợp, hỗ trợ

của các bên liên quan khác trong quá trình QL, chỉ đạo, điều hành và thực hành

DSVH.

Với những lý do nêu trên, NCS đã chọn và thực hiện đề tài luận án về: Quản

lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh với

3

mong muốn góp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn trong công tác QL DSVH dân tộc

Sán Dìu trong giai đoạn hiện nay.

2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án là áp dụng lý luận, các quan điểm và chính

sách của UNESCO, của Đảng và Nhà nước vào giải quyết các vấn đề thực tiễn hoạt

động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn. Từ đó, luận án bàn luận

giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về DSVH, phát huy vai trò QL của cộng

đồng và tăng cường hợp tác của các bên liên quan khác trong giai đoạn hiện nay.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận, các quan điểm và chính sách của

UNESCO, của Đảng, Nhà nước về QL, BV&PH giá trị DSVH;

- Khảo sát và đánh giá thực trạng thông qua các hoạt động QLNN về DSVH

cũng như QL của cộng đồng và các bên liên quan khác trong QL DSVH dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn;

- Nghiên cứu kinh nghiệm của thế giới về QL DSVH và rút ra bài học kinh

nghiệm. Các định hướng phát triển văn hóa của UNESCO, của Đảng và Nhà nước

sẽ được sử dụng làm căn cứ để bàn luận các giải pháp QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở

tỉnh Quảng Ninh trong tìnhh hình hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là các hoạt động QL DSVH dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận án lựa chọn giá trị DSVH: Di tích lịch sử - văn hóa tại

xã Bình Dân, huyện đảo Vân Đồn thuộc loại hình DSVH vật thể; nghệ thuật trình

diễn dân gian (dân ca Soọng cô); lễ hội truyền thống (Lễ hội Đại phan) thuộc loại

hình DSVH phi vật thể là những thành tố có mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ nhau

trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

4

- Về không gian: Luận án lựa chọn xã Bình Dân, địa phương có số dân là dân

tộc Sán Dìu đông nhất huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Bên cạnh đó, luận án

so sánh một số địa phương có đông người Sán Dìu sinh sống ở trong và ngoài tỉnh

để thấy rõ thực trạng QL DSVH dân tộc Sán Dìu trong giai đoạn hiện nay.

- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện

đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh từ năm 2007 đến năm 2020 (thời điểm UBND tỉnh

Quảng Ninh ban hành Quyết định số 4071/QĐ-UBND ngày 01/11/2007). Những

nội dung rút ra từ nghiên cứu thực trạng, đề xuất giải pháp QL DSVH dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, có thể được áp dụng cho các năm tiếp theo.

5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu

Câu hỏi nghiên cứu 1: Hoạt động QLNN về DSVH, vai trò QL của cộng

đồng và các bên liên quan khác trong các hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh hiện nay như thế nào?

Giả thuyết nghiên cứu 1: QLNN về DSVH, vai trò QL của cộng đồng và các

bên liên quan khác trong các hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo

Vân Đồn hiện nay có những thuận lợi, cơ hội đồng thời phải đối diện với những khó

khăn, thách thức nhất định.

Câu hỏi nghiên cứu 2: Những yếu tố nào tác động đến các hoạt động QL

DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh hiện nay?

Giả thuyết nghiên cứu 2: Ngoài những yếu tố chung về phát triển KT-XH

của địa phương, đời sống văn hóa của dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh có những yếu tố riêng giữa các địa bàn, vùng miền trong cộng đồng

dân tộc Sán Dìu trong và ngoài tỉnh; giữa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

với các DTTS khác trong tỉnh Quảng Ninh cần được nghiên cứu làm rõ.

Câu hỏi nghiên cứu 3: Làm thế nào để nâng cao hiệu quả QLNN về DSVH,

vai trò QL của cộng đồng và các bên liên quan khác trong QL DSVH dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn trong giai đoạn hiện nay?

5

Giả thuyết nghiên cứu 3: Giải pháp được tiếp cận theo hai hướng: QL DSVH

dân tộc Sán Dìu phải gắn liền với sự phát triển hài hòa KT-XH, trong đó nền tảng

phát triển bền vững là DSVH và cộng đồng nắm giữ DSVH.

6. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

6.1. Cách tiếp cận

Tiếp cận liên ngành giúp NCS phát hiện những vấn đề nghiên cứu. Vì vậy,

NCS vận dụng cách tiếp cận liên ngành/đa ngành của các ngành khoa học như:

Khoa học quản lý, Văn hóa học, Nhân học, Xã hội học,… Bên cạnh đó, luận án sử

dụng lý thuyết về QL DSVH, lý thuyết các bên liên quan là những lý thuyết giúp

cho vấn đề nghiên cứu được giải quyết hiệu quả và đúng hướng.

6.2. Phương pháp nghiên cứu

Để trả lời câu hỏi nghiên cứu và chứng minh giả thuyết nghiên cứu, NCS sử dụng

các kỹ thuật của phương pháp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính thuộc

phương pháp liên ngành/đa ngành khác như: Văn hóa học; Nhân học, Xã hội học,… cụ

thể, như sau:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp

Nghiên cứu các văn bản pháp quy của quốc tế, Việt Nam và địa phương như:

công ước, hiến chương, luật, nghị định, quyết định… có liên quan đến quản lý

DSVH. Phương pháp này giúp NCS có cách tiếp cận tổng thể về các quy định được

cơ quan ban hành.

Luận án tham khảo, kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu đã được công

bố, như: đề tài khoa học các cấp, sách, tạp chí, luận văn, luận án… có liên quan đến

nội dung, đối tượng, phạm vi nghiên cứu về QL DSVH dân tộc Sán Dìu.

- Phương pháp nghiên cứu định tính

+ Phương pháp phỏng vấn sâu

NCS sử dụng phương pháp PVS cùng với các kỹ thuật của phương pháp này

trong suốt quá trình nghiên cứu tại thực địa. Trong đó, kỹ thuật quan sát trực tiếp,

quan sát tham dự, phỏng vấn nhanh thường xuyên được sử dụng linh hoạt trong các

hoạt động nghiên cứu cụ thể. Quá trình thu thập thông tin, NCS đã thực hiện 3 cùng

6

(cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc) với người dân chủ yếu ở xã Bình Dân, huyện Vân

Đồn tỉnh Quảng Ninh và một số gia đình tại các huyện khác trong tỉnh và ngoài tỉnh

nhằm mục đích tìm hiểu sinh hoạt cũng như các thực hành văn hóa mà họ đang giữ

gìn và trao truyền trong gia đình và cộng đồng. Để thu thập được đầy đủ thông tin

cần có cho việc viết luận án, NCS đã thực hiện nhiều đợt nghiên cứu điền dã trong

03 năm (từ năm 2018 đến năm 2020). Các đợt nghiên cứu tập trung diễn ra vào

tháng 9/2018, tháng 5-6 năm 2019 và tháng 8 năm 2020. Trong suốt quá trình

nghiên cứu, NCS đã thực hiện 25 cuộc PVS, trong đó 15 người Sán Dìu sinh sống

tại 05 thôn thuộc xã Bình Dân, huyện Vân Đồn. Nhiều trường hợp NCS sử dụng

phương pháp phỏng vấn theo “lịch sử cuộc đời” dành cho thầy cúng để hiểu hơn về

cách thức tổ chức lễ hội Đại phan hay quá trình học hỏi và đi giao lưu Soọng cô

theo lề lối thủa xưa, nhưng có những trường hợp lại sử dụng phương pháp phỏng

vấn lặp lại trong 3 năm tiến hành nghiên cứu.

Đối tượng PVS được chọn ưu tiên là thầy cúng theo các dòng họ lớn như họ

Từ, Trương, Trần, Miêu, Tạ… những người này am hiểu cả về phong tục thờ cúng

cũng như về lề lối Soọng cô, tiếp đến là các NNDG, người có uy tín, hưu trí…

Trong suốt quá trình thực địa, NCS đã gặp phải không ít khó khăn khi khai thác

thông tin của người được phỏng vấn, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến không

gian thiêng, vấn đề hiểu về chữ viết cổ, vấn đề nhận diện DSVH của cộng đồng và

nhận thức, ý thức của chính cộng đồng về DSVH mình đang nắm giữ. Qua quá trình

thu thập thông tin tại thực địa, NCS đã phác thảo được bức tranh tương đối đầy đủ

về hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh. Từ đó giúp NCS nhận định, phân tích, đánh giá được các yếu tố tác

động đến hiệu quả quá trình QL DSVH của dân tộc Sán Dìu tại địa bàn nghiên cứu.

Phạm vi phỏng vấn không chỉ riêng ở huyện đảo Vân Đồn mà còn được mở

rộng đến các huyện, thành phố: Cẩm Phả, Hạ Long, Tiên Yên, Đầm Hà, Bình Liêu

thuộc tỉnh Quảng Ninh. Ngoài ra, NCS thực hiện PVS tại các tỉnh: Bắc Giang, Vĩnh

Phúc, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Nội dung của các cuộc phỏng vấn được chuẩn bị

sẵn bằng một bộ câu hỏi phù hợp với từng đối tượng nhằm thu được các thông tin

cần thiết phục vụ nội dung nghiên cứu của luận án. Thông tin cá nhân của người

7

cung cấp thông tin được mã hóa, đảm bảo bí mật đối với người cung cấp thông tin

[Phụ lục 8, tr.224].

+ Phương pháp chuyên gia

NCS đã tiến hành tham vấn ý kiến của các chuyên gia, đặc biệt là các chuyên

gia nghiên cứu về Quản lý văn hóa, văn hóa học, nhân học, xã hội học. Qua đó,

NCS đã nhận được những tư vấn học thuật bổ ích để có thêm cái nhìn tổng thể, toàn

diện hơn về đối tượng nghiên cứu. NCS cũng đã kế thừa các nguồn tài liệu phong

phú, đa dạng từ những tác giả đã từng thực hiện nghiên cứu về QL DSVH, điều này

rất cần thiết để hiểu rõ hơn về hoạt động QL DSVH trong bối cảnh hiện nay.

- Phương pháp nghiên cứu định lượng

Điều tra bảng hỏi được tiến hành theo một quy trình khoa học từ thiết kế

bảng hỏi, chọn mẫu, điều tra thử đến chỉnh sửa, hoàn thiện phiếu điều tra và tổ chức

điều tra bảng hỏi và xử lý để ra kết quả thống kê mô tả. NCS sử dụng phương pháp

chọn mẫu quả bóng tuyết (snowball sampling) trong nghiên cứu thực địa. Chọn mẫu

quả bóng tuyết là phương pháp chọn một nhóm người trả lời thứ nhất được chọn

theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, nhưng những người trả lời sau là do nhóm

thứ nhất giới thiệu và đảm bảo tính đại diện cho các thành phần về giới tính, lứa

tuổi,… tiến hành điều tra với quy mô số mẫu là 213 phiếu hỏi. Đối tượng điều tra là

người Sán Dìu từ 18 tuổi trở lên. NCS lựa chọn xã Bình Dân là xã có đông người

Sán Dìu cư trú nhất trên địa bàn huyện [Phụ lục 5, tr.201].

F1

F2

F3

Chú thích: F1: Trưởng thôn; F2: Trưởng dòng họ; F3: Hộ gia đình

Sơ đồ 1. Phân bổ chọn mẫu quả bóng tuyết (Nguồn: NCS tổng hợp)

8

NCS đã đến liên hệ UBND xã Bình Dân và được lãnh đạo xã cho phép tiến

hành điều tra bảng hỏi đối với các hộ dân trong xã. Với cách chọn mẫu ngẫu nhiên

không theo chủ đích mà người trả lời trước giới thiệu nhưng người phỏng vấn tiếp

theo, cụ thể: Dưới sự giúp đỡ của 05 trưởng thôn của các thôn: Đồng Đá, Đồng

Dọng, Đồng Cống, Đầm Tròn, Vòng Tre, sau khi hoàn thành cuộc phỏng vấn với

trưởng thôn, tiếp theo trưởng thôn giới thiệu trong thôn có bao nhiêu dòng họ để

NCS lập danh sách các hộ gia đình trong họ để chọn trả lời phiếu hỏi.

Chọn mẫu điều tra: Tổng số hộ của xã Bình Dân có 387 hộ, trong đó: 369 hộ

dân tộc Sán Dìu; 15 hộ dân tộc Kinh; 03 hộ dân tộc Dao. NCS chọn 213 hộ điều tra

nằm trong số 369 hộ dân tộc Sán Dìu sinh sống tại xã Bình Dân đạt tỷ lệ trên 1/2

tổng cỡ mẫu tại địa bàn nghiên cứu. NCS lập danh sách các hộ người dân tộc Sán

Dìu sinh sống tại xã Bình Dân, sau đó tiến hành chọn ngẫu nhiên 213 hộ để phỏng

vấn phân theo tỷ lệ nam/nữ và độ tuổi. Như vậy, nghiên cứu đã đạt được tính đại

diện cao trong quá trình thực hiện điều tra xã hội học. Qua đó nghiên cứu sinh có

được bảng thống kê mẫu nghiên cứu với tỷ lệ giới tính và độ tuổi như sau:

Giới tính người trả lời

Nam Nữ

Thấp Cao Trung Thấp Trung Cao nhất nhất nhất bình nhất bình

Tuổi 18 86 34 18 78 30

Bảng 1: Mẫu nghiên cứu định lượng dựa theo chỉ tiêu về giới tính và độ tuổi

của chủ hộ người dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn

(Nguồn: Kết quả nghiên cứu của NCS trong năm 2018)

Cách thức thu thập dữ liệu: trực tiếp xuống các hộ dân để giải thích nội dung,

mục đích và ý nghĩa của cuộc phỏng vấn. Khi người dân đã hiểu và đồng ý trả lời

phỏng vấn, lúc này phỏng vấn viên bắt đầu thực hiện cuộc phỏng vấn. Kết quả của

cuộc điều tra xã hội học, NCS đã tổng hợp được số hộ trả lời trong 05 thôn tại xã

Bình Dân cụ thể như sau:

9

Vòng Đồng Đồng Đồng Đầm Địa chỉ Tổng Tre Đá Cống Dọng Tròn

Số lượng 62 51 46 28 26 213 (Người)

Tỷ lệ % 29,1 24,0 21,6 13,1 12,2 100

Bảng 2: Tổng số mẫu nghiên cứu định lượng của dân tộc Sán Dìu

ở xã Bình Dân, huyện Vân Đồn

(Nguồn: Kết quả nghiên cứu của NCS trong năm 2018)

- Bố cục của bảng hỏi định lượng bao gồm ba phần:

+ Thông tin cá nhân người trả lời như: tuổi, giới tính, dân tộc, địa chỉ, trình

độ học vấn, trình độ chuyên môn.

+ Đánh giá chung về sự hiểu biết, lòng tự hào và tầm quan trọng của việc QL

DSVH dân tộc Sán Dìu ở xã Bình Dân, huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

+ Đánh giá hiệu quả của các hoạt động

QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở xã Bình Dân, huyện Vân Đồn gắn với phát

triển du lịch tại địa phương.

Cuối cùng, dựa vào phiếu điều tra xã hội học tại cơ sở, NCS nhập số liệu và

thực hiện các lệnh thống kê mô tả để biết được mức độ ảnh hưởng của các chỉ tiêu

thông tin do 213 đại diện hộ gia đình cung cấp.

- Phương pháp so sánh

Luận án sử dụng phương pháp này nhằm làm rõ những hoạt động cũng như

kinh nghiệm QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở các địa phương trong tỉnh Quảng Ninh.

NCS đã trao đổi, phỏng vấn lãnh đạo Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Tiên Yên

và thành phố Cẩm Phả về công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu tại địa phương.

Ngoài ra, NCS còn thực hiện 08 cuộc PVS (05 cuộc PVS tại huyện Tiên Yên và 05

cuộc PVS tại thành phố Cẩm Phả) những người am hiểu về DSVH dân tộc tộc Sán

Dìu. Các DTTS khác trong địa bàn tỉnh Quảng Ninh như Dao, Tày, Sán Chay, Hoa

tại các địa phương thuộc tỉnh như: Cẩm Phả, Vân Đồn, Tiên Yên, Bình Liêu cũng

10

được NCS nghiên cứu và so sánh các kết quả đạt trong công tác QL DSVH trên địa

bàn toàn tỉnh.

Một cách tiếp cận so sánh khác là NCS đã tiến hành đi thực địa thu thập

thông tin và so sánh về công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn,

tỉnh Quảng Ninh tại các địa phương có đông đồng bào dân tộc Sán Dìu sinh sống

như: 03 lần đi thực địa tại các xã Đại Đình, Hợp Châu, Đạo Trù thuộc huyện Tam

Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc; 02 lần đi thực địa các xã Linh Sơn, Nam Hòa huyện Đồng Hỷ,

tỉnh Thái Nguyên, 01 lần đi thực địa tại xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên

Quang và 02 đi thực địa tại các xã Nam Dương, Thanh Hải, Giáp Sơn thuộc huyện

Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. NCS tiến hành đi thực địa các địa phương nêu trên,

nhằm so sánh những kết quả đạt được trong công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu, để

rút ra những học hỏi kinh nghiệm quý có thể tham khảo trong quá trình đánh giá,

phân tích cũng như đưa ra những bàn luận về giải pháp QL DSVH cho dân tộc Sán

Dìu tại huyện đảo Vân Đồn.

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

7.1. Ý nghĩa khoa học

Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu về QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh từ góc độ tiếp cận của chuyên ngành quản lý

văn hóa.

Luận án góp phần hệ thống hóa lý luận về vấn đề QLNN về DSVH, lý thuyết

QL DSVH, lý thuyết các bên liên quan và mối quan hệ hữu cơ giữa QLNN về

DSVH, QL của cộng đồng và các bên liên quan khác trong QL DSVH là có tính

mới, không trùng lặp với các nghiên cứu trước đó.

Kết quả của luận án góp phần giải quyết vấn đề thực trạng và đề xuất giải

pháp QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh trong bối

cảnh hiện nay.

11

7.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận án bước đầu cung cấp các thông tin, tư liệu về QL DSVH dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn thuộc tỉnh Quảng Ninh.

Những kết quả thu được của luận án là tài liệu tham khảo mang tính ứng dụng đối

với cơ quan QLNN về DSVH, các tổ chức, cá nhân liên quan đến lĩnh vực quản lý, QL

DSVH. Đặc biệt, là tài liệu hữu ích cho chính quyền và cộng đồng dân tộc Sán Dìu tại

các địa phương tương đồng với địa bàn nghiên cứu.

Luận án là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên chuyên

ngành: Quản lý văn hóa, Xã hội học, Công tác xã hội, Nhân học…. Không những

thế, luận án còn là tài liệu hữu dụng cho chính quyền và cộng đồng dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn trong hoạch định chính sách và xây dựng mô hình

quản lý DSVH tại địa phương.

8. Cấu trúc của luận án

Luận án gồm có Phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội

dung của luận án được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận (40 trang).

Chương 2: Di sản văn hóa và quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh (65 trang).

Chương 3: Bàn luận về giải pháp quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh (36 trang).

12

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quản lý di sản

văn hóa

DSVH đã được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ rất sớm, bắt đầu vào khoảng

cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Với công trình Di sản: quản lý, diễn giải và bản

sắc, Peter Howard cho rằng vấn đề quản lý di sản được đặt ra vào khoảng đầu thế

kỷ XIX, xuất phát từ những cá nhân có tình yêu và sự say mê đối với di sản nhằm

mục đích bảo tồn di sản để gìn giữ những thứ vì lợi ích của công chúng. Tác giả đã

phân di sản theo các lĩnh vực: thiên nhiên, cảnh quan, đài kỷ niệm, khu di tích, đồ

tạo tác, các hoạt động và con người. Peter Howard nhận định việc bảo vệ và quản lý

di sản cần phải trả lời các câu hỏi như: bảo tồn như thế nào? Vì sao cần phải bảo tồn

và bảo tồn nhằm mục đích gì? Việc bảo tồn cần phải giữ lại các giá trị gốc của

DSVH và đây cũng là cơ sở để phát huy và khai thác các DSVH phục vụ trong đời

sống đương đại [145]. Đến thế kỷ XX, sự ra đời của các Hiệp hội Di sản ở châu Âu

đã diễn đạt ngắn gọn bằng khái niệm “quản lý di sản”, khái niệm này phát triển

mạnh vào nửa sau thế kỷ XX và quản lý di sản đã trở thành vấn đề được quan tâm

sâu rộng, được phát triển mạnh mẽ bởi nhiều tổ chức, nhiều nhà nghiên cứu.

Theo nghiên cứu về QL DSVH các tác giả Brian Garrod và Alan Fayall nhận

định rằng sự cân bằng giữa bảo tồn và khai thác là điều rất quan trọng, có mối quan

hệ hữu cơ, nếu không bảo vệ các DSVH, giữ gìn thì DSVH sẽ thất truyền và tài sản

đó vĩnh viễn không tồn tại và các thế hệ mai sau không thể biết DSVH đó đã từng

tồn tại hay biểu đạt như thế nào [138]. Trong Tài liệu hướng dẫn thực tiễn cho các

nhà quản lý khu di sản thế giới của tác giả Arthur Perdersen [135] cho rằng phát

triển du lịch một mặt góp phần giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và thu nhập.

Song bên cạnh đó, việc tăng lượng khách tham quan DSVH sẽ có những tác động

tiêu cực làm nguy hại đến DSVH.

13

Trong giáo trình Quản lý công nghiệp văn hóa của tác giả Zhan Chang Yuan

[148], đề cập việc quản lý DSVH như một ngành công nghiệp với những vấn đề về

chính sách, nguồn tài nguyên, nhân lực thực hiện. Trong những nghiên cứu của

mình, tác giả đều đề cập tới hai vấn đề của công tác quản lý đó là bảo tồn và phát

huy giá trị di sản. Các nhà quản lý luôn phải đối mặt với việc phải giải quyết hài hòa

mối quan hệ giữa hai lĩnh vực bảo tồn và phát triển, giữa nhà nước và nhân dân,

giữa di sản và cộng đồng.

Ở Việt Nam, những vấn đề lí luận về DSVH như vai trò, chức năng của

DSVH đối với việc lựa chọn mô hình phát triển văn hóa dân tộc và chính sách QL

DSVH dân tộc của nước ta được nhắc đến trong các kỳ Đại hội của Đảng và một số

bài học kinh nghiệm QL DSVH tại Nhật Bản được tác giả Hoàng Vinh đề cập đến

trong công trình Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc

[132]. Tác giả Hoàng Vinh đã nghiên cứu giá trị DSVH nói chung, còn vấn đề

nghiên cứu về DSVH DTTS chưa được đề cập đến. Những nội dung giữ gìn và phát

huy DSVH dân tộc ở Việt Nam được nhắc đến đều trên phương diện vĩ mô, tác giả

chưa đưa ra một cách cụ thể gắn liền với một loại hình DSVH nào. NCS xem đây là

một công trình khoa học hữu ích để kế thừa, tiếp thu khi nghiên cứu luận án.

Tác giả Nguyễn Chí Bền đã làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn kinh nghiệm

bảo tồn, phát huy DSVH qua cuốn Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể

Thăng Long - Hà Nội [12]. Từ thực trạng DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội, tác

giả đã làm rõ giá trị của DSVH trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Tác

giả nhận định những khó khăn, thách thức trong công tác bảo tồn và phát huy

DSVH, từ đó tác giả đưa ra giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn và phát huy hiệu quả các

giá trị DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội. Đồng thời, nêu lên kinh nghiệm của

một số nước với quan điểm: “bảo tồn cần phải đi kèm với khai thác, phát huy giá trị

DSVH trong đời sống… bảo tồn cần phải quan tâm đến đặc điểm xã hội trong từng

thời điểm cụ thể để có những điều chỉnh phù hợp với thời đại” [12, tr.237]. Từ kết

quả nghiên cứu của tác giả, NCS có thể chọn lọc, kế thừa và phát triển trong quá

trình nghiên cứu luận án, như các khái niệm: văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể,

14

BV&PH giá trị DSVH, quan điểm của UNESCO, của Đảng và Nhà nước về công

tác văn hóa và QL DSVH.

Tác giả Phạm Thanh Hà đã công bố cuốn sách Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt

Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay [35], trong đó bàn luận nhiều về vấn đề

bản sắc dân tộc. BV&PH DSVH không chỉ là mối quan tâm của từng quốc gia mà

còn là mối quan tâm của cộng đồng quốc tế. Bởi vì, một trong những thách thức đặt

ra đối với sự phát triển của các quốc gia là sự mai một bản sắc dân tộc. Điều này đòi

hỏi mỗi quốc gia phải có những phương thức giải quyết hiệu quả để không những

đưa đất nước phát triển mà còn phải phát huy sức mạnh nguồn lực DSVH trở thành

động lực nội sinh thúc đẩy dân tộc phát triển. Tác giả khẳng định: “dân tộc Việt

Nam phải giữ gìnbản sắc dân tộc một cách sáng tạo, linh hoạt; phải kết tinh lại và

nâng lên tầm cao mới mọi đặc điểm tích cực của dân tộc và những đặc điểm tích

cực mới của thế giới” [35, tr.69]. Tiếp thu tinh thần này, NCS cho rằng công tác QL

DSVH người Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh chính là gìn giữ và

phát triển DSVH một cách linh hoạt, sáng tạo nhưng vẫn giữ được cốt lõi bản sắc

văn hóa trong đời sống đương đại.

Năm 2005, Viện Văn hóa - Thông tin (Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia

Việt Nam) xuất bản cuốn sách Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt

Nam [78]. Đây là công trình tuyển chọn các vấn đề nghiên cứu lý luận và thực tiễn

về DSVH phi vật thể của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Với cách tiếp

cận của chuyên ngành Văn hóa học, Quản lý Văn hóa và vận dụng quan điểm của

UNESCO, công trình tập trung vào phân tích những trường hợp cụ thể ở Việt Nam

như: thực trạng, nguy cơ mai một đối với các loại hình di sản và đề ra những biện

pháp cấp bách cần làm để bảo vệ loại hình di sản này.

Một số bài viết khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành về vấn đề DSVH

như: Bài “Bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể” [109] đã khẳng định văn hóa phi

vật thể là văn hóa trải dài trong không gian và thời gian, chịu ảnh hưởng của nhiều

yếu tố. Trong bối cảnh hiện nay, giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, vùng

miền và phạm vị khu vực, quốc tế thì văn hóa phi vật thể dễ bị tổn thương. Bài “Giữ

15

gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc” [105], tác giả cho rằng: bản sắc văn hóa là

cội nguồn làm lên bản lĩnh dân tộc Việt Nam, điều đó đã chứng minh qua hàng ngàn

năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Vấn đề QL DSVH trở thành mối quan tâm lớn của các nhà quản lý, nhà khoa

học, bởi từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, DSVH chịu sự tác động của

kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Do vậy, chủ đề

nghiên cứu về QL DSVH được các tác giả Phan Hồng Giang và Bùi Hoài Sơn công

bố công trình sách Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập

quốc tế [30]. Các tác giả đã đề cập khá toàn diện đến vấn đề về quản lý văn hóa từ

lý luận đến thực trạng quản lý văn hóa ở Việt Nam từ khi bắt đầu tiến trình đổi mới

(1986) đến nay; nghiên cứu một số kinh nghiệm quản lý văn hóa một số quốc gia

như: Anh, Mỹ, Ôxtrâylia, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan. Thông qua đó, nhiều

bài học kinh nghiệm được rút ra cho Việt Nam. Qua quá trình đánh giá thực trạng

và nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, các tác giả đã đưa ra

quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL văn hóa ở Việt Nam trong giai

đoạn hiện nay. Hai công trình sách nêu trên, đã có khối lượng kiến thức lí luận và

thực tiễn lớn về QL DSVH ở Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình chỉ đề cập chung

về DSVH và QL DSVH ở cấp vĩ mô, chưa nghiên cứu về QL DSVH DTTS.

Trong công trình Quản lý di sản văn hóa [68] của tác giả Nguyễn Thị Kim

Loan và Nguyễn Trường Tân đã trình bày những vấn đề thực tiễn về hệ thống

DSVH vật thể, phi vật thể ở Việt Nam và QLNN về DSVH thông qua quan điểm

của Đảng và Nhà nước; nội dung cơ bản của QLNN về văn hóa và nghiệp vụ quản

lý DSVH như: kiểm kê DSVH, tổ chức bảo vệ DSVH, tổ chức khai thác, phát huy

DSVH cũng như yêu cầu, nhiệm vụ của cán bộ QL DSVH.

QL DSVH trong bối cảnh hiện nay phải gắn với phát triển du lịch. Điều đó

thể rõ trong cuốn sách Bảo tồn và phát huy giá trị di sản lịch sử - văn hóa phục vụ

phát triển du lịch của Hội Khoa học Lịnh sử Việt Nam. Công trình nghiên cứu này

khẳng định mối quan hệ hữu cơ, biện chứng giữa bảo tồn, phát huy giá trị di tích

lịch sử - văn hóa với phát triển du lịch chính là phương thức hữu hiệu để phát huy

16

các giá trị di sản lịch sử văn hóa, vì có bảo tồn tốt thì mới có thể phát triển tốt và

phát triển tốt chính là cơ sở cho bảo tồn tốt [44, tr.485-486]. Đây là công trình có

nhiều thông tin, giúp NCS tham khảo khi đề xuất giải pháp QL DSVH dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn.

Tác giả Nguyễn Thị Hiền đã bàn luận chuyên sâu về vấn đề này trong cuốn

Quản lý nhà nước và vai trò cộng đồng trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn

hóa phi vật thể [38]. Tác giả phân tích thực trạng QLNN và vai trò cộng đồng trong

việc QL DSVH phi vật thể. Các DSVH phi vật thể cần được quản lý bởi một cộng

đồng tích cực, chủ động dưới sự lãnh đạo, định hướng và hỗ trợ của Nhà nước. Tuy

nhiên, thực tiễn cho thấy hoạt động bảo vệ di sản và thực hành văn hóa của địa

phương chưa thống nhất, còn chồng chéo, vai trò của cộng đồng chưa thực sự phát

huy tối đa. Qua đó, tác giả đưa ra định hướng nhằm nâng cao hiệu quả QLNN và

vai trò cộng đồng thông qua việc phân cấp QLNN và nâng cao vai trò cộng đồng

trong BV&PH giá trị DSVH phi vật thể.

Vai trò định hướng, chỉ đạo của nhà nước về quản lý DSVH đã được nhiều

tác giả phân tích, đánh giá nhằm nêu lên những thuận lợi cũng như hạn chế trong

công tác QLNN, để từ đó tìm ra giải pháp phát huy giá trị DSVH. Đó là những bài

viết như: Đặng Văn Bài [5], Trương Quốc Bình [13] [14], Nguyễn Thị Hiền [39]

[40], Nguyễn Thế Hùng [51] [52], Nguyễn Quốc Hùng [56],... Các hoạt động

QLNN về DSVH được tác giả Nguyễn Thế Hùng trình bày với 11 nhiệm vụ trọng

tâm và 07 giải pháp BV&PH giá trị DSVH [53]. Đánh giá thực tiễn công tác QLNN

về DSVH, tác giả Đặng Thị Bích Liên cho rằng: trong thời gian tới cần nâng cao vai

trò chỉ đạo, định hướng của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng thời tăng cường

kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn triển khai các quy hoạch, triển khai có hiệu quả

chương trình mục tiêu quốc gia trong lĩnh vực DSVH [66].

DSVH được coi là tài nguyên du lịch, là động lực để phát triển du lịch và

thông qua hoạt động du lịch, DSVH có cơ sở để bảo tồn và phát huy hiệu quả các

giá trị của di sản. Đây là mối quan hệ hữu cơ, tương hỗ nhau trong quá trình bảo tồn

và phát triển. Điều này được nhận định trong các công trình nghiên cứu: Sản phẩm

17

du lịch văn hóa và văn hóa quản lý du lịch ở Việt Nam của tác giả Trịnh Lê Anh

[3]; Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa người H’Mông thông qua du lịch cộng

đồng ở bản Sín Chải, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai của tác giả Đào Ngọc Anh [4]; Sức

mạnh nội sinh và yêu cầu hiện đại hóa văn hóa dân tộc thời kỳ mới của tác giả

Nguyễn Chí Bền [11]; Văn hóa du lịch nguồn lực phát triển du lịch bền vững của

tác giả Nguyễn Văn Lưu [70]; Phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi -

Tiền năng, thách thức của tác giả Đinh Thị Thu Thảo [106].

Vấn đề QL DSVH là chủ đề được nhiều học giả, nhà quản lý quan tâm

nghiên cứu dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau. Các công trình, bài viết đã đưa ra

được cái nhìn khá đa dạng về QLNN và QL của cộng đồng trong BV&PH giá trị

DSVH. Những nghiên cứu đóng góp cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn QLNN,

vấn đề vai trò của cộng đồng và bàn tới các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả

QLNN hay việc phát huy vai trò cộng đồng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào

nghiên cứu một cách hệ thống về QLNN về DSVH và vai trò của cộng đồng dân tộc

Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Như vậy, có thể khẳng định cho

đến nay vấn đề nghiên cứu QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh là một vấn đề mới và cấp bách. Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ về

KT-XH của địa phương, vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu càng trở nên cấp thiết,

với nhu cầu của cộng đồng nhằm gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc

này. Đồng thời, đây cũng là nguồn lực nội sinh, nguồn vốn văn hóa nếu biết khai

thác hiệu quả sẽ phục vụ đắc lực cho phát triển KT-XH của địa phương.

Vấn đề QL DSVH được nhiều học viên và NCS quan tâm lựa chọn nghiên

cứu trong các luận văn, luận án dưới nhiều góc tiếp cận của các chuyên ngành Nhân

học, Triết học, Văn hóa học và Quản lý văn hóa… Trong quá trình thực hiện luận

án, NCS các khóa trước của Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam cũng

quan tâm đến vấn đề này như: Đào Ngọc Anh [4], Đỗ Thị Thanh Hương [58],

Nguyễn Thị Thu Hường [59], Lê Thị Thu Phượng [81],… Các đề tài luận án trên đã

vận dụng ba quan điểm và tương ứng với nó là ba mô hình bảo tồn di sản: bảo tồn y

nguyên; bảo tồn trên cơ sở kế thừa; bảo tồn và phát triển để giải quyết các vấn đề cụ

18

thể của từng DSVH ở Việt Nam. Thông qua việc tham khảo các công trình nghiên

cứu đi trước, NCS đã lựa chọn và vận dụng các quan điểm lý thuyết để giải quyết

vấn đề của luận án về QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh.

QL DSVH luôn được lãnh đạo Đảng và Nhà nước quan tâm thông qua các

diễn đàn mở nhằm kết nối các nhà quản lý, nhà khoa học và cộng đồng trong việc

đánh giá thực trạng cũng như tìm kiếm giải pháp QL DSVH. Trong 06 tháng cuối

năm 2018 đã có 02 Hội thảo quan trọng được tổ chức vào tháng 7/2018 với chủ đề

Bảo vệ và phát huy giá trị DSVH Việt Nam vì sự phát triển bền vững và Hội thảo

Bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa dân gian các DTTS Việt Nam tổ chức vào tháng

7/2018. Thông qua hội thảo, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định: “việc bảo

tồn các di sản, di tích là việc làm quan trọng và vô cùng cần thiết trong công cuộc

kiến thiết nước nhà” [181]; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến

cũng khẳng định rằng:

Văn hóa dân gian các DTTS không tự dưng mà có mà là quá trình tích

lũy qua bao đời, thấm đẫm mồ hôi, công sức của bao thế hệ. Do vậy, rất

cần được đầu tư thỏa đáng ngang với giá trị vốn có của di sản này để lưu

truyền, phát huy, trường tồn cùng với văn hóa dân tộc Việt. Điều đó phải

xuất phát tự thân của người dân tộc, có sự hỗ trợ, giúp đỡ của nhà nước

và xã hội [160].

Vì vậy, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch bà Trịnh Thị Thủy

nhận định:

Việc gắn bảo tồn, phát huy giá trị DSVH các dân tộc với phát triển KT-

XH là thách thức hiện nay do thực tế vẫn còn tình trạng khai thác chưa

hợp lý một số DSVH… Ngoài ra, một bộ phận lớp trẻ chưa có ý thức bảo

vệ các DSVH, giá trị văn hóa của chính dân tộc mình… Việc đánh giá

thực trạng công tác bảo tồn, xác định mục tiêu định hướng, và đề xuất

giải pháp kiến nghị về công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền

thống trong tình hình mới là hết sức cần thiết [161].

19

1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về cộng đồng

Vấn đề cộng đồng được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý quan tâm thông qua

các chương trình dự án về phát triển cộng đồng. Do vậy, để có những kiến thức cơ

bản về phát triển cộng đồng, các tác giả Lê Văn An [1] và Lê Thị Kim Lan [63] đã

cung cấp những kiến thức cơ bản về lý luận cũng như thực tiễn và các phương pháp,

kỹ năng thực hiện trong quá trình triển khai các chương trình, dự án tại cộng đồng.

Đây là tài liệu hữu ích giúp NCS có cái nhìn tổng quan về khái niệm, công cụ và

những kỹ năng cơ bản nhằm xây dựng mối quan hệ với cộng đồng, hiểu giá trị thực

trạng cũng như tiềm năng của cộng đồng để từ đó lập kế hoạch nghiên cứu đánh giá

vai trò cộng đồng trong quá trình QL DSVH người Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn,

tỉnh Quảng Ninh.

Đối với vấn đề QL DSVH, trách nhiệm trước hết là của cộng đồng, bởi cộng

đồng là chủ thể sáng tạo, tích lũy và trao truyền DSVH. Tác giả Lương Hồng Quang

nhận định:

Năng lực tự quản cộng đồng ở nông thôn vẫn là một giá trị xã hội được coi

trọng do ý thức về cộng đồng, về tập thể vẫn còn sâu đậm trong đời sống

tâm linh cũng như trong cuộc sống hàng ngày, thể hiện qua sự trường tồn

của hội làng, tâm thức hướng về ông tổ của làng, tinh thần tình làng nghĩa

xóm, sự kiểm soát dư luận vẫn lànhững giá trị tác động mạnh đến mọi

thành viên trong cộng đồng [84, tr.307-329].

Năm 2018, tác giả Lương Hồng Quang công bố cuốn sách Phát triển văn

hóa dựa vào cộng đồng: các tranh luận lý thuyết và thực tiễn [83]. Tác giả đã đề

cập đến nhiều vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về lý thuyết cộng đồng, phát triển

cộng đồng, phát triển văn hóa dựa vào cộng đồng. Đây là một nghiên cứu có hệ

thống, nguồn tư liệu phong phú, cách phân tích đa chiều về phát triển văn hóa dựa

vào cộng đồng. Công trình đã có những đóng góp học thuật giá trị trong nghiên cứu

QL DSVH.

Tác giả Nguyễn Thị Hiền nhắc đến cộng đồng trong bối cảnh “các cộng đồng

đã sáng tạo, thực hành và duy trì di sản của mình vì đó là một phần đời sống văn

hóa, là sự kế tục giữa các thế hệ và sự thể hiện bản sắc của cộng đồng. Họ không

20

chỉ là người sáng tạo, mà còn là những người thực hành trao truyền và duy trì di sản

cha ông để lại” [40, tr.3-9]. Từ những bài học về QLNN về DSVH và QL của cộng

đồng, tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm về mối quan hệ giữa QLNN với QL cộng

đồng trong BV&PH giá trị DSVH phi vật thể qua kinh nghiệm của Trung Quốc,

Hàn Quốc và Nhật Bản. Thông qua đó, tác giả rút ra những bài học bổ ích cho Việt

Nam trong việc phân định ranh giới, chức năng chỉ đạo của nhà nước về tài chính,

về tổ chức thực hiện bảo vệ di sản tầm vĩ mô, còn cộng đồng thì được nhà nước hỗ

trợ và tạo điều kiện để thực hành di sản [39, tr.53-65].

Vai trò chủ thể của cộng đồng trong QL DSVH cần phải nhận thức rõ tầm

quan trọng, giá trị và chính người dân trong cộng đồng được hưởng lợi từ chính

DSVH [156]. Bên cạnh đó, Nhà nước tham gia với vai trò quản lý hành chính, định

hướng, hỗ trợ cộng đồng và tăng cường trao quyền QL DSVH cho cộng đồng [157].

Tác giả Nguyễn Quang Minh và Nguyễn Thu Trang cho rằng yếu tố tạo nên

tính cố kết cộng đồng đã ít nhiều thay đổi theo thời gian và không gian. Trong quá

khứ, yếu tố tạo nên tính cố kết cộng đồng là yếu tố thân tộc, huyết thống; còn hiện

nay yếu tố lợi ích và sự quan tâm chung là yếu tố quyết định sự bền chặt của cộng

đồng [73]. Từ tính cố kết cộng đồng làng xã truyền thống đến tính cố kết cộng đồng

làng xã đương đại đã có nhiều chuyển biến. Đặc biệt, quá trình xây dựng nông thôn

mới sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi chú trọng đến năng lực tự quản của cộng đồng làng

xã. Hiểu rõ tính cố kết cộng đồng làng xã truyền thống, nhằm phát huy được tính

chủ động, tích cực. Đồng thời, hạn chế những mặt tiêu cực một cách chủ động sẽ

giúp cho công cuộc xây dựng nông thôn mới được hiệu quả hơn [2]. Cùng quan

điểm trên, tác giả Nguyễn Hồng Hà cho rằng QL DSVH là nghĩa vụ và quyền lợi

thiết thực của mỗi người, mỗi nhóm xã hội, cộng đồng [33].

Như vậy, các công trình sách, bài viết về cộng đồng và vai trò của cộng đồng

trong QL DSVH đều bàn luận đến những vấn đề về vai trò chủ động, tích cực của

cộng đồng; vai trò tự quản, tính cố kết cộng đồng cũng như những lợi ích của cộng

đồng từ việc QL DSVH. Đây là những tài liệu quan trọng giúp NCS có thêm cơ sở

khoa học và thực tiễn khi giải quyết các vấn đề đặt ra về vai trò của cộng đồng trong

BV&PH giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

21

1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về dân tộc Sán Dìu và di sản văn hóa

dân tộc Sán Dìu

Từ đầu thế kỷ XX đến nay, dân tộc Sán Dìu được nhiều nhà nghiên cứu quan

tâm như các tác giả: Bonifaxi [21], Ma Khánh Bằng [9], Diệp Trung Bình [15] [16]

[17] [18], Ôn Thái Trần [117] [118] [119] [120], Lâm Quang Hùng [54] [55],

Nguyễn Thị Quế Loan [67], Nguyễn Ngọc Thanh [103], Nguyễn Thị Kim Thoa

[114] [115], Ngô Văn Trụ [121]…; nhiều sinh viên, học viên Cao học và NCS lựa

chọn dân tộc Sán Dìu là đối tượng nghiên cứu trong các đề tài khoa học như:

Nguyễn Thẩm Thu Hà [34]; Nguyễn Xuân Hòa [42], Dương Thùy Linh [64], Kiều

Thị Thiên Trang [116]... Tuy nhiên, qua tổng hợp NCS nhận thấy chưa có một công

trình chuyên sâu nào đề cập đến vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu. Những nội

dung bàn luận đến vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu thường chỉ chiếm một dung

lượng nhỏ trong các công trình đã công bố. Chính vì vậy, tổng quan các công trình

nghiên cứu khoa học về dân tộc Sán Dìu và DSVH dân tộc Sán Dìu cho thấy, việc

nghiên cứu một cách hệ thống về QL DSVH dân tộc Sán Dìu là một yêu cầu cấp

thiết không chỉ để bổ sung cho nguồn tư liệu về dân tộc Sán Dìu mà còn thể hiện cái

nhìn khách quan khi nhận diện và đánh giá sự phát triển, vận động của dân tộc Sán

Dìu trong đời sống đương đại.

* Nhóm công trình nghiên cứu về dân tộc Sán Dìu

Trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục của nhà bác học Lê Quý Đôn, đây là công

trình đầu tiên viết về dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam. Công trình này, có nhắc tới các

tộc người ở xứ Tuyên Quang, có 07 chủng tộc người Man, trong đó chủng tộc Sơn

Man [26, tr.335], được lí giải rằng: “Man = Dao, và như vậy thì Sơn Man tức là Sơn

Dao hay cũng chính là Sán Dìu (山瑶)” [9, tr.9]. Đầu thế kỷ XX, với tư cách là chỉ

huy khu vực sứ Tuyên Quang năm 1898, Bonifaxi công bố chuyên khảo về Mán

Quần Cộc. Bằng phương pháp Dân tộc chí, Bonifaxi đã mô tả đời sống văn hóa,

phong tục tập quán và so sánh văn hóa của người Sán Dìu với các dân tộc cận cư

nên đã xếp Sán Dìu vào nhóm Dao [21, tr.4]. Nhận định của Bonifaxi trùng khớp

với ý kiến của các học giả Phạm Hồng Quý (范宏貴) và Lưu Chí Cường (刘志强)

22

(Trung Quốc) [149] [150] [151] xếp dân tộc Sán Dìu (山由) vào dân tộc Dao (瑶族).

Tuy nhiên, vào thập niên 60 các học giả Liên Xô lại xếp Sán Dìu vào nhóm Hán,

trong ngữ hệ Hán - Tạng [9, tr.17]. Đây là những công trình đầu tiên khá đầy đủ về

dân tộc Sán Dìu, là một tộc người riêng và có những nét khái quát sơ lược về văn

hóa dân tộc Sán Dìu.

Tác giả Bùi Đình đã viết trong Tìm hiểu đồng bào miền núi Việt Nam, như sau:

Mán Quần Cộc đến từ tỉnh Quảng Đông di cư vào Việt Nam thời nhà

Minh (Trung Quốc), có tên là Sơn Dao, họ ở một dài từ Quảng Ninh, Hải

Dương, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Thái Nguyên lác đác

ngoài các hải đảo trong vịnh Bắc Bộ như Kẻ Bào, Cát Bà cũng có. Nhóm

ở vùng Quảng Ninh gồm Đầm Hà, Hà Cối, Tiên Yên, Vân Đồn, Đông

Triều thời phong tục theo người Kinh. Nhưng trong các vùng Phủ Lạng

Thương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên còn giữ được một đôi

tính cách Mán [9, tr.9].

Những công trình nghiên cứu khá toàn diện về dân tộc Sán Dìu của các tác

giả Ma Khánh Bằng, Người Sán Dìu ở Việt Nam [9]; Lâm Quang Hùng, Người Sán

Dìu ở Vĩnh Phúc [54]; Ngô Văn Trụ, Nguyễn Xuân Cần, Dân tộc Sán Dìu ở Bắc

Giang [121]; Nguyễn Ngọc Thanh, Văn hóa truyền thống dân tộc Sán Dìu ở Tuyên

Quang [103];… Đây là những công trình được các tác giả tiếp cận dưới góc độ

chuyên ngành Dân tộc học, Văn hóa dân gian với nội dung nghiên cứu chủ yếu như:

tộc danh, quá trình tộc người, hoạt động kinh tế; văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần;

một số phong tục trong đời sống. Các công trình đã khái quát được bức tranh về đời

sống văn hóa của dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam. Tuy nhiên, về vấn đề QL DSVH dân

tộc Sán Dìu ở Việt Nam nói chung và huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh nói

riêng, vẫn chưa được các tác giả nghiên cứu.

* Nhóm công trình nghiên cứu về di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu

- Về DSVH vật thể

Dưới góc độ nghiên cứu về DSVH vật thể, hai chủ đề về nhà cửa và trang

phục ít được nghiên cứu với những công trình chuyên biệt. Gần đây, tác giả Kiều

23

Thị Thiên Trang đã nghiên cứu trong luận văn Bảo tồn và phát huy giá trị trang

phục truyền thống người Sán Dìu tại xã Đạo trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc

[116]. Tác giả đã trình bày những giá trị tiêu biểu, đặc sắc của trang phục truyền

thống dân tộc Sán Dìu, cũng như đề cập đến thực trạng, giải pháp bảo tồn và phát

huy giá trị của trang phục của họ. Công trình tập trung vào các giải pháp về cơ chế

chính sách mà chưa quan tâm nhiều đến phát huy vai trò cộng đồng trong bảo tồn và

phát huy nét văn hóa về trang phục của dân tộc Sán Dìu trong đời sống hiện nay.

Đối với chủ đề nhà ở, ngoài những công trình tổng hợp chung, chỉ có một số

bài viết ngắn đề cập đến nhà ở truyền thống của dân tộc Sán Dìu như tác giả Trương

Xuân Hữu bàn về Tục lệ làm nhà mới với xây dựng nếp sống văn hóa của người

Sán Dìu ở Vĩnh Phúc [61]; Nguyễn Hạnh Sơn với bài viết Người Sán Dìu làm nhà

mới [96]. Đây là những bài viết mang tính giới thiệu khái quát, chưa có sự phân

tích, đánh giá hay đề xuất giải pháp trong việc BV&PH di sản nhà ở của dân tộc

Sán Dìu tại địa bàn nghiên cứu.

Văn hóa ẩm thực của dân tộc Sán Dìu được khá nhiều tác giả quan tâm như:

Diệp Trung Bình với Văn hóa ẩm thực người Sán Dìu [18]; Lâm Quang Hùng với

Văn hóa ẩm thực người Sán Dìu ở Vĩnh phúc [55]; Nguyễn Thị Quế Loan với Bản

sắc văn hóa ẩm thực của người Sán Dìu ở Thái Nguyên [67],…. Trong những công

trình nghiên cứu này, các tác giả đã trình bày một cách chân thực nhất về văn hóa

ẩm thực của dân tộc Sán Dìu qua việc sử dụng nguồn lương thực, thực phẩm để tạo

ra cách thức chế món ăn phong phú mang đậm phong vị của cư dân vùng bán sơn

địa. Ngoài ra, các tác giả còn nêu những nét khái quát mối quan hệ, thế ứng xử của

các thành viên trong gia đình, cộng đồng thông qua việc ăn uống. Bên cạnh đó, tác

giả Nguyễn Thị Quế Loan còn phân tích Tập quán chăm sóc sản phụ, trẻ sơ sinh

trong ăn uống của người Sán Dìu ở Thái Nguyên; Biến đổi trong tập quán ăn uống

của người Sán Dìu tỉnh Thái Nguyên…

Nghiên cứu về các hoạt động sinh kế của dân tộc Sán Dìu có tác giả Nguyễn

Xuân Hòa trong luận án Sinh kế của người Sán Dìu ở vùng đệm vườn quốc gia Tam

Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc [42] và luận án của tác giả Dương Thùy Linh về Sinh kế vùng

gò đồi của người Sán Dìu ở tỉnh Thái Nguyên [64]. Các NCS đã luận giải được các

24

vấn đề văn hóa trong sinh kế thông qua sự thích ứng văn hóa của dân tộc Sán Dìu từ

truyền thống đến hiện đại; phân tích nguyên nhân và sự tác động đến sự chuyển

dịch sinh kế cũng như biến đổi đời sống văn hóa tộc người. Từ đó, những công trình

này đã góp phần vào quá trình hoạch định chính sách và đưa ra giải pháp nhằm phát

triển sinh kế tộc người bền vững, song song với bảo tồn và phát huy các giá trị văn

hóa cộng đồng dân tộc Sán Dìu. Cách tiếp cận của các tác giả từ chuyên ngành

Nhân học và Khu vực học nên chưa đề cập đến vấn đề QL DSVH từ loại hình sinh

kế truyền thống trong giai đoạn hiện nay.

- Các nghiên cứu về DSVH phi vật thể

Nghiên cứu DSVH phi vật thể của dân tộc Sán Dìu được nhiều nhà quản lý,

nhà khoa học quan tâm nghiên cứu như: nghiên cứu về tiếng nói và chữ viết: tác giả

Nguyễn Thị Kim Thoa đã có nhiều công trình nghiên cứu từ luận văn, luận án đến

các công bố khoa học về hệ thống Ngữ âm tiếng Sán Dìu [115]. Đây là công trình đầu

tiên mô tả tương đối đầy đủ và có hệ thống về ngữ âm tiếng Sán Dìu với các thành

phần như: thanh điệu, âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối. Tác giả cũng so sánh hệ

thống ngữ âm tiếng Sán Dìu với tiếng Hán trong bài Những tương đồng ngữ âm giữa

tiếng Sán Dìu ở Việt Nam và tiếng Hán hiện đại [114]. Bên cạnh đó, xuất phát từ

quan điểm của Ma Khánh Bằng cho rằng tiếng Sán Dìu ở Việt Nam đã tiếp thu một

thổ ngữ ở Quảng Đông, Trung Quốc nên tác giả đã so sánh ngữ âm tiếng Sán Dìu với

ngữ âm của một số phương ngữ Hán ở Quảng Đông và đưa ra kết luận: tiếng Sán Dìu

của Việt Nam có hệ thống ngữ âm gần gũi nhất với phương ngữ Khách Gia.

Để dân tộc Sán Dìu có chữ viết riêng ghi lại tiếng nói và văn hóa của dân tộc

mình, dựa trên những đặc điểm về ngữ âm đã nghiên cứu, tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa

đề xuất một phương án chữ viết Latin đơn giản, thuận tiện trong sử dụng cho người Sán

Dìu ở Việt Nam. Hiện bộ chữ này đang được tác giả thử nghiệm để đưa vào sử dụng

trong đời sống tại một số địa phương như Quảng Ninh, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc…

Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng đã triển khai đề tài Sưu tầm, số hóa và

nghiên cứu khai thác chữ viết cổ truyền các dân tộc thiểu số Việt Nam [133], trong

đó tập trung khai thác chữ viết cổ của người Sán Dìu. Đề tài đã tổ chức lớp học và

25

nghiên cứu bảng tra chữ Sán Dìu, gồm phần bảng tra chữ và phần sách học chữ Sán

Dìu theo sách cổ truyền của dân tộc Sán Dìu tại Bắc Giang. Các công trình nghiên

cứu về tiếng nói và chữ viết Sán Dìu là lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu về ngôn

ngữ học. Các công trình của cá nhân hay tổ chức cũng đều đã đề cập đến vấn đề bảo

tồn trong phạm vi tiếng nói và chữ viết của dân tộc Sán Dìu.

Ngữ văn dân gian là các hình thức sinh hoạt quan trọng trong đời sống văn hóa

tinh thần của dân tộc Sán Dìu được chính những tác giả là dân tộc Sán Dìu sưu tầm,

biên soạn về dân ca Sán Dìu có tác giả Diệp Trung Bình [15]; Lê Đại Năm với tác

phẩm Các bài hát Thềnh sèn cô của dân tộc Sán Dìu ra tiếng phổ thông và sáng tác hát

giao duyên lời mới [76]. Các bài hát Thềnh sèn cô được tác giả Lê Đại Năm sưu tầm,

tuyển chọn và biên dịch là chuỗi các bài hát mở đầu, hát mời, hát gọi của cuộc hát.

Khách đến nhà chơi hay đến làng chơi vì giữ ý nên chủ nhà chủ động hát chuỗi bài

Thềnh thèn cô để mời khách hát đối đáp; Ôn Thái Trần (bút danh Ôn Quang Thiên) là

người có công sưu tầm, biên soạn và sáng tác nhiều tác phẩm thơ ca, truyện cổ Sán Dìu

như: Kinh sách dạy con [117]; Vua Bàn cổ [118]; Hoi then dip thi [119], Người dẫn

đường (Những ca khúc Sán Dìu) [120]. Tác giả đã sưu tầm và biên soạn một số truyện

kể, sách cổ dạy chữ, dạy đạo làm người của dân tộc Sán Dìu tại vùng núi Tam Đảo.

Các tác phẩm trên chủ yếu là sưu tầm, biên dịch và sáng tác từ chất liệu dân

gian làm phong phú thêm loại hình sinh hoạt giải trí. Tuy nhiên, các tác phẩm này chỉ ở

dạng sưu tầm dân gian cổ truyền và sáng tác thơ ca lời mới chứ chưa phân tích, đánh

giá thực trạng ngữ văn dân gian để có phương thức BV&PH trong giai đoạn hiện nay.

Tác giả Diệp Trung Bình đã có một số nghiên cứu về lễ hội và lễ tục vòng

đời người Sán Dìu với các công trình: Lễ hội cổ truyền các dân tộc Hoa, Sán Dìu ở

Việt Nam [16]; Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của người Sán Dìu ở Việt

Nam [17]. Trong các công trình này, tác giả đã khái quát và phân tích kỹ về đời

sống văn hóa tinh thần của dân tộc Sán Dìu như: lễ hội Đại phan được xem là lễ hội

tín ngưỡng lớn nhất của dân tộc Sán Dìu, phong tục tập quán trong sinh đẻ, cưới

xin, tang ma truyền thống được tác giả trình bày chi tiết, cụ thể qua cách tiếp cận

chuyên ngành Dân tộc học. Tác giả Phạm Thị Phương Thái trong công trình Nghi lễ

26

tang ma của người Sán Dìu từ góc nhìn văn hóa [102] đã phân tích khá chi tiết về

phong tục và nghi lễ trong tang ma của dân tộc Sán Dìu dưới cách tiếp cận Văn hóa

học. Tác giả chú trọng đến những nét đặc sắc trong nghi lễ tang ma của dân tộc Sán

Dìu như tính hỗn dung tôn giáo - tín ngưỡng thông qua hệ thống tranh thờ; dấu ấn

Phật giáo qua lễ giải oan, phá ngục trong tang lễ của phụ nữ Sán Dìu; hành trang

của người chết mang về thế giới bên kia.

Nghiên cứu về gia đình có công trình luận án của tác giả Hoàng Phương Mai

[71]. Luận án đã nêu lên sự hình thành, cơ sở phân loại cũng như cách phân tích hệ

thống về cấu trúc, quy mô và chức năng cơ bản của gia đình dân tộc Sán Dìu ở chân

núi Tam Đảo. Bên cạnh đó, tác giả đã trình bày các nghi lễ trong gia đình của dân

tộc Sán Dìu, những biến đổi về cấu trúc, quy mô, mối quan hệ trong gia đình dân

tộc Sán Dìu hiện nay.

Tác giả Nguyễn Thẩm Thu Hà trong luận án tiến sĩ Nhân học với đề tài Tri

thức địa phương trong sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của người Sán Dìu

tỉnh Tuyên Quang [34]. Tác giả đã phân tích một cách có hệ thống tri thức địa

phương trong sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên như: đất, nước, rừng.

Những tri thức địa phương đó được đồng bào Sán Dìu sử dụng và bảo vệ trong đời

sống hiện nay thông qua nhận định về những biến đổi và thách thức cần giải quyết.

Như vậy, có thể thấy đa số các nghiên cứu về dân tộc Sán Dìu đều tập trung

đến những loại hình văn hóa cụ thể, một vài lĩnh vực trong đời sống văn hóa của

dân tộc Sán Dìu dưới cách tiếp cận của chuyên ngành Dân tộc học, Văn hóa dân

gian. Từ trước đến nay chưa có công trình nào đề cập một cách hệ thống về DSVH

dân tộc Sán Dìu nhằm nhận diện DSVH trong đời sống hiện nay cũng như thực

trạng QL DSVH, để từ đó có những giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN và QL của

cộng đồng trong BV&PH giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu dưới cách tiếp cập của

chuyên ngành Quản lý Văn hóa.

* Các nghiên cứu về DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

Các nghiên cứu về DSVH dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh có các công

trình như: Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Ninh, Địa chí tỉnh Quảng Ninh [98] [99] là

công trình giới thiệu đầy đủ, hệ thống về điều kiện tự nhiên, KT-XH tỉnh Quảng

27

Ninh, trong đó có phần giới thiệu về DSVH, phong tục tập quán của dân tộc Sán

Dìu sinh sống trên địa bản của tỉnh.

Năm 2007-2008, Sở VH,TT&DL tỉnh Quảng Ninh triển khai nhiệm vụ

KH&CN cấp tỉnh Sưu tầm, nghiên cứu, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá

trị văn hoá dân gian cổ truyền của người Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh. Mục tiêu của

nhiệm vụ là sưu tầm, nghiên cứu, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn

hoá dân gian cổ truyền của dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh. Điều tra, sưu tầm

DSVH phi vật thể và vật thể của dân tộc Sán Dìu ở Quảng Ninh và phục dựng ba

hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian của dân tộc Sán Dìu tại xã Bình Dân, huyện

Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh gồm: lễ hội Đại phan; Soọng cô; múa Hành quang.

UBND tỉnh Quảng Ninh (2007), Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các

DTTS tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng tới năm 2020 [125]. Việc triển

khai các Quyết định, nhiệm vụ KH&CN của tỉnh Quảng Ninh khá bài bản và công

phu. Tuy nhiên, các quyết định, nhiệm vụ KH&CN chỉ dừng lại ở việc đề ra các chỉ

tiêu và sưu tầm, nghiên cứu các giá trị văn hoá dân gian cổ truyền của dân tộc Sán

Dìu ở tỉnh Quảng Ninh mà chưa có giải pháp phát huy hay gắn kết di sản với phát

triển du lịch của địa phương.

DSVH dân tộc Sán Dìu được nhiều nhà khoa học trong nước và nước ngoài

quan tâm nghiên cứu như: Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Chính (Trường Đại học Khoa

học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) cùng 02 nhà nghiên cứu người

Nhật: Masaco, Naora (Trường Đại học Tokyo) nghiên cứu về sinh kế người Hoa,

người Sán Dìu tại huyện Vân Đồn; Giảng viên Nguyễn Thị Kim Thoa đưa đoàn sinh

viên khoa Ngôn ngữ học (Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học

Quốc gia Hà Nội) về xã Bình Dân, huyện Vân Đồn nghiên cứu về ngữ âm tiếng Sán

Dìu; 02 nhà nghiên cứu Cao Tiên Cúc, Tả Hà đến từ trường Đại học Dân tộc Quảng

Tây nghiên cứu về văn hóa dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã cung cấp lượng

thông tin rất lớn về dân tộc Sán Dìu và DSVH dân tộc Sán Dìu về các thành tố văn

hóa như: văn hóa vật thể, phi vật thể, văn hóa tổ chức cộng đồng, hoạt động sinh kế

hay các công trình chuyên sâu như: tri thức địa phương, gia đình, ngữ âm; ẩm

28

thực…, giúp cho NCS hiểu biết rõ hơn về DSVH dân tộc Sán Dìu. Tuy nhiên, chưa

có công trình nghiên cứu hay công bố về vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn. Đây là vấn đề mới, những vấn đề chưa được nghiên cứu trong

quá trình phát triển và hội nhập hiện nay.

1.1.4. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Qua tổng quan tình hình nghiên cứu, NCS nhận thấy đã có khá nhiều công

trình nghiên cứu về lĩnh vực QL DSVH nói chung và một số trường hợp quản lý cụ

thể. Song những công trình nghiên cứu về QL DSVH DTTS, trong đó có DSVH

dân tộc Sán Dìu còn hạn chế cả về số lượng và nội dung. Chính vì vậy, từ góc độ

chuyên ngành Quản lý văn hóa, NCS đã chọn đây là vấn đề nghiên cứu nhằm tìm

hiểu một cách hệ thống, toàn diện thực tiễn công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu. Từ

đó, nhận diện những thuận lợi, khó khăn, hạn chế, những yếu tố tác động, các vấn

đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN,

thực trạng quản lý của cộng đồng và các bên liên quan trong QL DSVH dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn. Đồng thời, đây cũng là vấn đề NCS có thể kế thừa từ

nhiều công trình nghiên cứu có liên quan để giải quyết vấn đề luận án đặt ra.

Các nghiên cứu về dân tộc Sán Dìu, DSVH dân tộc Sán Dìu đã có là rất lớn

và đa dạng từ đề án, đề tài của các tổ chức từ Trung ương đến địa phương, trong đó,

nhiều công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo, luận văn, luận án,... Tuy nhiên,

vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn còn là mới mẻ và chưa có

công trình nghiên cứu chuyên sâu. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, DSVH dân

tộc Sán Dìu ngày càng bị mai một, thất truyền và biến đổi do nhiều tác động của xã

hội. Đặc biệt, hiện nay huyện đảo Vân Đồn đang từng bước được xây dựng để trở

thành KKT mang đẳng cấp quốc tế thì việc QL DSVH dân tộc Sán Dìu càng trở nên

cần thiết và cấp bách, mà các công trình khoa học nêu trên vẫn chưa đề cập đến

hoặc chưa nghiên cứu một cách hệ thống. Đây là khoảng trống trong nghiên cứu mà

luận án cần lấp đầy để giải quyết những vấn đề nêu trên.

Một khoảng trống nữa trong nghiên cứu là đề xuất mô hình QL DSVH trong

phát triển KT-XH, đặc biệt là QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn gắn

với phát triển du lịch, một nguồn lực nội sinh tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng.

29

Đây là một khoảng trống mà các công trình trước đó chưa đề cập đến cần được xem

xét, đề xuất mang tính ứng dụng vào thực tiễn phát triển của cộng đồng và huyện

đảo Vân Đồn trong giai đoạn hiện nay.

1.2. Cơ sở lý luận

1.2.1. Một số khái niệm thao tác

1.2.1.1. Di sản văn hóa

Từ xưa đến nay, trong đời sống sinh hoạt và lao động sản xuất, con người đã

tạo tác ra vật phẩm hay công trình kỳ vĩ; sáng tác ra lời ca, ý thơ, điệu múa dân

gian… Các sản phẩm văn hóa đó được gìn giữ, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ

khác, tất cả thành tố đó đều được coi là DSVH. Tuy nhiên, phải đến năm 1789, từ

cuộc Cách mạng tư sản Pháp với việc tịch thu tài sản của giai cấp quý tộc lúc bấy

giờ và tập hợp lại trở thành tài sản quốc gia, thì các sản phẩm văn hóa đó mới là tài

sản chung chứ không thuộc sở hữu của cá nhân. Từ quan điểm nhìn nhận tài sản

chung đó đã hình thành khái niệm “di sản”.

Khái niệm di sản được chính thức hóa vào đầu những năm 1830. Về mặt

pháp lý, khái niệm này được bảo vệ, đánh giá xếp hạng bởi một đạo luật ra đời vào

năm 1913. Di tích lịch sử là bằng chứng không thể phủ nhận về một quá khứ luôn

có mặt mà cộng đồng dân tộc đã công nhận và thừa nhận như những giá trị tiêu biểu

cho bản sắc của mình. Tại Hội nghị Di sản Toàn quốc của nước Anh được tổ chức

vào năm 1983, Hội nghị đã đưa khái niệm di sản, cụ thể như sau: “Đó là những gì

thuộc về thế hệ trước giữ gìn và chuyển giao cho thế hệ hiện nay và những gì mà

một nhóm người quan trọng trong xã hội hiện nay mong muốn chuyển giao cho thế

hệ tương lai” [89, tr.20].

Tại Điều 1 của Công ước năm 1972 về Bảo vệ DSVH và thiên nhiên thế giới

của UNESCO khẳng định:

DSVH là các di tích như các công trình kiến trúc, điêu khắc hoặc hội

họa hoành tráng, các yếu tố hay kết cấu có tính chất khảo cổ, các văn

bản, các hang động và các nhóm yếu tố có giá trị quốc tế đặc biệt về

phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học; các quần thể: các nhóm

30

công trình xây dựng đứng một mình hoặc quần tụ có giá trị quốc tế đặc

biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học do kiến trúc, sự

thống nhất của chúng hoặc sự nhất thể hoá của chúng vào cảnh quan;

các thắng cảnh: các công trình của con người hoặc những công trình

của con người kết hợp với các công trình của tự nhiên, cũng như các

khu vực, kể cả các di chỉ khảo cổ học, có giá trị quốc tế đặc biệt về

phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học [122].

Năm 1989, UNESCO định nghĩa DSVH theo hướng khái quát hóa nhấn

mạnh vào chủ thể sáng tạo ra văn hóa và mang những sắc thái riêng có của mỗi dân

tộc, vùng miền, cụ thể như sau: “DSVH là tập hợp những biểu hiện vật thể hoặc

biểu hiện di sản quá khứ truyền lại cho mỗi nền văn hóa, và do đó là của toàn thể

nhân loại, là một phần của nhân loại, DSVH mang lại những đặc điểm riêng cho

mỗi địa danh cụ thể, và vì thế nên là nơi cất giữ kinh nghiệm con người” [12, tr.14].

Ngày 29/6/2001, Quốc hội đã ban hành văn bản Luật Di sản văn hóa. Tại

Điều 1 của Luật có ghi: “DSVH quy định tại Luật này bao gồm DSVH phi vật thể

và DSVH vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa

học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác” [85]. Sau một thời gian thực thi

Quốc hội đã được bổ sung và ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật

Di sản văn hóa số 32/2009/QH12, được ban hành ngày 18/6/2009.

+ Tại khoản 2, Điều 4 của Luật Di sản văn hóa quy định về DSVH vật thể:

DSVH vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao

gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia

[85]. DSVH vật thể, bao gồm: Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh (sau

đây gọi là di tích); di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia [PL 7.5, tr.217].

+ DSVH phi vật thể

Tại khoản 1, Điều 2 của Công ước năm 2003 của UNESCO về Bảo vệ DSVH phi

vật thể đã định nghĩa:

“DSVH phi vật thể” được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện,

biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ

31

tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các

nhóm người - trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một

phần DSVH của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác,

DSVH phi vật thể được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng

tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng

đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý

thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với

sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người. Vì những mục đích

của Công ước này, chỉ xét đến những DSVH phi vật thể phù hợp với các

văn kiện Quốc tế hiện hành về quyền con người, cũng như những yêu

cầu về sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cộng đồng, các nhóm người và cá

nhân, và về phát triển bền vững [123, tr.3].

Tại khoản 1, Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn

hóa năm 2009 định nghĩa: “DSVH phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng

hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa

học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế

hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức

khác” [86]. DSVH phi vật thể, bao gồm: Tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian; nghệ

thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; lễ hội truyền thống; nghề thủ

công truyền thống; tri thức dân gian [PL 7.5, tr.217].

Trong quá trình thực hiện luận án, NCS sử dụng các khái niệm thao tác

DSVH, DSVH vật thể, DSVH phi vật thể trong Luật Di sản văn hóa [85] [86] và

Nghị định số 98/2010/ND-CP để nghiên cứu DSVH của dân tộc Sán Dìu tại huyện

đảo Vân Đồn.

1.2.1.2. Giá trị và giá trị di sản văn hóa

Nhà Xã hội học J.H. Fichter đã định nghĩa: “Theo cách mô tả chúng ta có thể

nói rằng, tất cả những gì ích lợi, đáng ham chuộng hoặc đáng kính phục đối với con

người hoặc nhóm, đều là có một giá trị” [4, tr.24].

Đối với khái niệm về giá trị, các nhà xã hội học Việt Nam đã khẳng định rõ

hơn yếu tố chủ thể thông qua nhận thức, tình cảm và hành vi của chủ thể “…bất cứ

32

sự vật nào cũng có thể xem là có giá trị, dù nó là vật thể hay tư tưởng, miễn là nó

được người ta thừa nhận, người ta cần đến nó như một nhu cầu, hoặc cấp cho nó

một vị trí quan trọng trong đời sống của họ” [4, tr.25].

“Mỗi cá nhân có hệ thống giá trị riêng và hệ thống giá trị này tương đối ổn

định. Giá trị của cá nhân bị ảnh hưởng bởi môi trường nuôi dưỡng, môi trường xã

hội, kinh nghiệm và sự giáo dục của cá nhân” [60, tr. 42].

Như vậy, mỗi cá nhân, cộng đồng, dân tộc trong quá trình lịch sử đã sáng

tạo, nuôi dưỡng các giá trị văn hóa phục vụ cho nhu cầu đời sống của họ. Các giá trị

văn hóa luôn được bồi đắp, duy trì và trao truyền cho thế hệ hôm nay và mai sau,

ngày càng trở nên phong phú hơn. Nó giúp cho mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi

dân tộc khẳng định bản sắc riêng có của mình thông qua giá trị văn hóa cốt lõi.

1.2.1.3. Quản lý văn hóa

Quản lý văn hóa là hoạt động tổng hợp, có mối quan hệ hữu cơ, tương tác

qua lại giữa chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý (mọi thành phần tham

gia hoạt động văn hóa) nhằm đạt được các mục tiêu quản lý.

Có thể làm rõ nội hàm QLNN về văn hóa với các thành tố cơ bản sau:

Thứ nhất, chủ thể QLNN về văn hóa là các cơ quan hành pháp của nhà nước

được thống nhất từ trung ương đến địa phương qua 04 cấp: cấp trung ương, cấp

tỉnh/thành phố; cấp thành phố/quận/huyện/thị xã; cấp xã/phường/thị trấn. Mỗi cấp

QLNN về văn hóa chính là chủ thể quản lý và có cơ quan, cán bộ chuyên quản,

chuyên trách như: Bộ VH,TT&DL; Sở VH,TT&DL; Phòng Văn hóa - Thông tin.

Thứ hai, khách thể QLNN về văn hóa là các cơ quan, tổ chức, cộng đồng, cá

nhân có hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hoặc có liên quan đến các hoạt động trong

lĩnh vực văn hóa.

Thứ ba, mục đích QLNN về văn hóa nhằm BV&PH các giá trị văn hóa truyền

thống tốt đẹp, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; kiến tạo xã hội văn minh,

cộng đồng đoàn kết, gia đình nề nếp… Đó là mục tiêu của QLNN về văn hóa nhằm

xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Thứ tư, QLNN về văn hóa được thực thi trên cơ sở pháp lý là hiến pháp, pháp

luật, thông tư, chương trình, quyết định… QLNN về văn hóa được hoạch định và

33

thực thi theo các văn bản quy phạm pháp luật chứ không theo ý chí của nhà quản lý.

Như vậy, QLNN về văn hóa là quá trình tác động có chủ đích, có mục tiêu của

chủ thể quản lý lên khách thể quản lý trong các hoạt động văn hóa nhằm duy trì sự ổn

định, phát triển văn hóa, phù hợp với thuần phong mỹ tục và nhịp sống đương đại.

1.2.1.4. Quản lý di sản văn hóa

Trong lĩnh vực QL DSVH, mục tiêu quản lý được đặt ra là nhằm đảm bảo sự

kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống kết hợp với sự tiếp thu có chọn lọc các giá trị

văn hóa đương đại tạo nên một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

QL DSVH là BV&PH các giá trị DSVH có mục đích, có hệ thống nhằm gìn

giữ các DSVH cho các thế hệ hôm nay và mai sau [144, tr.65].

Tại Điểm 1, Điều 5 Luật Di sản văn hóa quy định: Nhà nước thống nhất QL

DSVH thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ các hình thức sở hữu tập thể, sở

hữu chung của cộng đồng, sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác về DSVH

theo quy định của pháp luật [85].

Tại Điều 9 Luật Di sản văn hóa quy định:

Nhà nước có chính sách BV&PH giá trị DSVH nhằm nâng cao đời sống

tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển KT-XH của đất nước;

khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đóng góp, tài

trợ cho việc BV&PH giá trị DSVH; nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của chủ sở hữu DSVH. Chủ sở hữu DSVH có trách nhiệm

BV&PH giá trị DSVH; nhà nước đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng

đội ngũ cán bộ, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong việc

BV&PH giá trị DSVH [85].

Luật Di sản văn hóa đã dành một chương để quy định về QLNN đối với

DSVH được quy định tại điều 54 và phân cấp, phân quyền QLNN về DSVH quy định

tại điều 55 [85].

Vì vậy, QLNN về DSVH là các hoạt động có chủ đích, có định hướng của

Nhà nước tác động đến đối tượng quản lý (cộng đồng dân cư) thông qua bộ máy

Nhà nước và hệ thống luật pháp, chính sách nhằm đạt được những mục tiêu QL

34

DSVH, đồng thời điều chỉnh hoạt động của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực DSVH.

Trong các văn bản pháp lý của quốc tế và Việt Nam, chúng ta thường thấy

xuất hiện các thuật ngữ: bảo vệ, bảo tồn, bảo quản. Chúng tôi cho rằng xét trên

phương diện QL văn hóa, các thuật ngữ này về cơ bản có nội dung và ý nghĩa tương

đồng nhau, QL DSVH nhằm hạn chế tình trạng xuống cấp, mai một, biến dạng

DSVH, cụ thể như sau:

Bảo vệ (protect) chứa đựng nội dung thực hành các hoạt động mang tính

chất pháp lý hay nói cách khác bảo vệ là “giữ không để cho bị xâm

phạm”. Bảo tồn (preservation) mang ý nghĩa rộng hơn bảo vệ, là “hoạt

động giữ gìn một cách an toàn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá

hoại” hay nói cách khác bảo tồn có nghĩa là bảo quản giá trị hiện trạng và

hạn chế tình trạng xuống cấp của giá trị đó. Bảo quản (maintenance)

mang nghĩa sử dụng những biện pháp kỹ thuật để phòng ngừa, giữ gìn,

hạn chế các nguy cơ bị hư hỏng của đối tượng được nguyên vẹn tồn tại

lâu dài [81, tr.33-34].

Tại Khoản 3, Điều 2 của Công ước Bảo vệ DSVH phi vật thể của

UNESCO đã định nghĩa:

“Bảo vệ” là các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại

của DSVH phi vật thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hoá, nghiên

cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là

thông qua hình thức giáo dục chính thức hoặc phi chính thức cũng

như việc phục hồi các phương diện khác nhau của loại hình di sản

này [123, tr.4].

Danh từ “Bảo vệ” có nghĩa là việc thông qua các biện pháp nhằm bảo tồn,

gìn giữ và tăng cường sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa. Động từ “Bảo vệ” có

nghĩa là thông qua các biện pháp đó” [124].

Từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê cho rằng: phát huy là “làm cho cái

hay, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm” [80, tr.768].

Phát huy giá trị di sản (heritage promotion): là những hành động nhằm

35

đưa DSVH vào trong thực tiễn xã hội, coi đó như là nguồn nội lực, tiềm năng

góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại những lợi ích vật chất và tinh

thần cho con người, thể hiện tính mục tiêu của văn hóa đối với sự phát triển của

xã hội [81, tr.35].

Như vậy, hoạt động QL DSVH là quá trình BV&PH giá trị DSVH thông qua

các hoạt động QL hành chính của Nhà nước, nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, phân

loại, tư liệu hóa, thực hành, truyền dạy và phục hồi các DSVH truyền thống ngăn

ngừa các nguy cơ mai một, thất truyền và phát huy các giá trị DSVH trong đời sống

đương đại. Các khái niệm thao tác nêu trên là cơ sở để NCS triển khai thao tác hóa

khái niệm trong quá trình nghiên cứu của luận án.

1.2.1.5. Cộng đồng

Thuật ngữ “Cộng đồng” (communitas), với nghĩa là toàn bộ tín đồ của một

tôn giáo hay toàn bộ những người đi theo một thủ lĩnh. Thuật ngữ này được phổ

biến trong các ngôn ngữ Âu - Mỹ, như trong tiếng Pháp là “communité”, tiếng Anh

“community”, tiếng Đức là “gemeinschaft” [101, tr.21].

Trong lĩnh vực DSVH, Công ước 2003 của UNESCO về Bảo vệ DSVH phi

vật thể đã lấy cộng đồng làm nền tảng để dựa vào đó mà xây dựng hay thực thi các

nguyên tắc BV&PH giá trị DSVH phi vật thể. Ở châu Âu, trong lĩnh vực di sản, Hội

đồng châu Âu đã khởi xướng khái niệm “cộng đồng di sản”. Công ước Faro về giá

trị của DSVH, đối với xã hội, đã đưa ra khái niệm “quyền được hưởng di sản” và

nêu rõ trong Điều 2b: “một cộng đồng di sản bao gồm những người coi trọng những

khía cạnh đặc thù của DSVH mà họ muốn lưu giữ và truyền lại cho thế hệ tương lai

trong khuôn khổ các hoạt động của nhà nước”. Cộng đồng là tập thể người dân, chủ

nhân của các DSVH; họ đã sáng tạo, thực hành, lưu giữ và trao truyền di sản giữa

các thế hệ… Khái niệm cộng đồng theo Công ước được xác định không có hạn định

và không cụ thể. Thông tư về việc thực hiện Công ước UNESCO (2010) khuyến

cáo rằng tinh thần của Công ước là các cộng đồng cần được xem xét như là có đặc

tính mở không đồng nhất [38, tr.49-50].

36

Do vậy, khái niệm cộng đồng mà luận án đề cập đến có thể hiểu là tập hợp

của một nhóm cư dân - chủ thể văn hóa - những người dân cùng cư trú trên địa bàn

một thôn, một xã, liên xã hoặc một vùng cùng lao động, sáng tạo ra các giá trị văn

hóa và duy trì, thực hành, lưu truyền qua nhiều thế hệ tạo nên bản sắc văn hóa riêng

có của cộng đồng.

1.2.1.6. Các bên liên quan

Các bên liên quan là một cá nhân hay nhóm người có năng lực tham gia vào

một hoạt động cụ thể và họ có những quyền, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm phối

hợp khi tham gia vào hoạt động để đạt được mục tiêu chung.

Trong quá trình thực hiện luận án, NCS xác định hai bên liên quan chính

đóng vai trò chủ đạo trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, gồm

các cơ quan QLNN các cấp về DSVH và cộng đồng. Ngoài ra, các bên liên quan

khác cũng có vai trò thúc đẩy quá trình QL DSVH, cụ thể như: các tổ chức chính trị,

hội đoàn; các tổ chức truyền thông; các nhà khoa học; viện, trung tâm nghiên cứu…

1.2.2. Cơ sở lý thuyết

1.2.2.1. Các quan điểm về quản lý di sản

QL DSVH luôn là những vấn đề khó khăn, phức tạp đối với các nhà quản

lý, nhà khoa học. Trên thế giới có nhiều quan điểm, mô hình về QL DSVH. Tuy

nhiên, không có mô hình hay lý thuyết nào được coi là toàn diện để áp dụng, mà

tùy bối cảnh, tính chất để có những vận dụng phù hợp.

Do đó, lựa chọn quan điểm, mô hình nào trong quá trình QL DSVH là một

vấn đề cần quan tâm. Trong quá trình nghiên cứu, Gregory J.Ashworth đã tổng kết

từ thực tiễn bảo tồn DSVH của nhiều quốc gia trên thế giới và khái quát thành 03

quan điểm chính trong vấn đề bảo tồn DSVH, tương ứng với 03 mô hình bảo tồn di

sản: bảo tồn nguyên vẹn; bảo tồn trên cơ sở kế thừa; bảo tồn để phát triển.

- Quan điểm bảo tồn nguyên vẹn (bảo tồn nguyên gốc) được các nhà bảo

tàng học ủng hộ và thịnh hành từ những năm 1850, góp phần quan trọng trong

công tác bảo tồn nguyên trạng các di tích, các bộ sưu tập hiện vật trưng bày

trong các bảo tàng.

37

- Quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa: tác giả Gregory J.Ashworth cho

rằng, không chỉ những đồ tạo tác hay những tòa nhà mà cả các bộ sưu tập và các di

sản khác cũng được bảo tồn dựa trên cơ sở kế thừa. Tiêu chí lựa chọn không chỉ phụ

thuộc vào chức năng bên trong của di sản mà còn phụ thuộc vào các yếu tố bên

ngoài của di sản. Bảo tồn trên cơ sở kế thừa không chỉ quan tâm đến hình thức mà

còn quan tâm đến cả chức năng của di sản.

Khi nhìn nhận về hai quan điểm bảo tồn nguyên vẹn và bảo tồn trên cơ sở kế

thừa, mỗi quan điểm đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Quan điểm bảo

tồn nguyên vẹn khó xác định các yếu tố nguyên gốc, hay yếu tố phái sinh và giữ

nguyên gốc là những yếu tố nào. Quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa lại gặp khó

khăn trong xác định yếu tố nào thực sự cần phải kế thừa, yếu tố nào không phù hợp

trong đời sống và cần được loại bỏ; đồng thời đưa ra khuyến cáo sự loại bỏ ấy có

nguy cơ đánh mất những giá trị DSVH mà chúng ta chưa thực sự hiểu biết một cách

sâu sắc, thấu đáo về bản chất của di sản [89, tr. 28].

- Quan điểm bảo tồn phát triển

Bảo tồn để phát triển không đơn thuần là việc tìm những biện pháp để bảo tồn

nguyên vẹn di sản, mà có thể xem xét quản lý di sản theo một hướng khác. DSVH luôn

tồn tại cùng với sự vận hành của xã hội và DSVH là một thực thể có sự tác động qua lại

trong môi trường xã hội. Do vậy, cần có những biện pháp QL các giá trị DSVH một

cách hợp lý nhằm bảo vệ di sản hiệu quả, khai thác và phát huy di sản đúng mức luôn

là vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển KT-XH. Mối quan hệ hữu cơ giữa DSVH với

phát triển KT-XH là mối quan hệ tương hỗ có tác động qua lại lẫn nhau [89, tr.29].

Quan điểm đặt bảo tồn DSVH trong mối quan hệ với phát triển là không bận

tâm đến việc tranh luận nên bảo tồn nguyên vẹn thế nào, nên kế thừa cái gì từ quá

khứ mà quan trọng làm thế nào để DSVH phát huy được giá trị của nó trong đời

sống hiện nay.

DSVH dân tộc Sán Dìu cũng vậy, là cư dân cư trú lâu đời ở vùng dẻo thấp ở

khu vực địa hình vùng gò đồi nên có nhiều cơ hội để phát triển KT-XH, song cũng có

nhiều nguy cơ bị mai một, thất truyền. DSVH dân tộc Sán Dìu không phải cố hữu, bất

biến mà luôn vận động tiếp biến trong từng giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, những giá trị

38

được coi là tinh hoa, cần được BV&PH. Cả 03 quan điểm học giả Gregory J.Ashworth

tổng kết đều phù hợp với những vấn đề bảo tồn dưới dạng bảo tàng hóa các hiện vật, bộ

sưu tập trong DSVH dân tộc Sán Dìu như di tích lịch sử văn hóa; các bộ sưu tập về

nông cụ sản xuất; trang phục; nhà cửa. Giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu, cần được xem

xét ở “tính xác thực” hay “tính chân thực” của di sản (Authenticity of Heritage), đó là

giá trị cốt lõi của di sản. Vấn đề này đều được các nhà quản lý, nhà khoa học tiếp cận,

áp dụng và coi đó là lõi văn hóa giúp các giá trị văn hóa gốc hài hòa, đồng điệu với các

giá trị văn hóa mới do chính cộng đồng dân tộc Sán Dìu tạo ra trong bối cảnh mới.

Để làm rõ vấn đề đặt ra trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu, NCS cho rằng QL

DSVH phải quan tâm cả ba quan điểm và tương ứng với nó là ba mô hình như đã

nêu trên. Ba quan điểm này không mâu thuẫn hay phủ định lẫn nhau mà còn khẳng

định, bổ sung và hỗ trợ nhau trong quá trình bảo tồn tổng thể các giá trị DSVH. Tuy

nhiên, trong quá trình bảo tồn cũng cần chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong từng

vấn đề cụ thể, tránh rập khuôn máy móc, cứng nhắc dẫn đến làm sai chệch, méo mó

DSVH của dân tộc Sán Dìu, làm cho không thể hiện được giá trị, tinh thần vốn có

của di sản.

Ngoài tiếp cận các quan điểm về quản lý di sản, luận án còn phân tích, đánh giá

thực tiễn QLNN về DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

theo nội dung được qui định tại điều 54 của Luật Di sản văn hóa [85].

Từ những nhận định về cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý, luận án vận dụng

các quan điểm QL DSVH nhằm phân tích về mối quan hệ hữu cơ giữa cơ quan

QLNN, cộng đồng và các bên liên quan khác. Từ đó, NCS đánh giá, phân tích

những thuận lợi, khó khăn và thách thức trong quá trình QL DSVH để đưa ra các

giải pháp phù hợp trong bối cảnh phát triển hiện nay.

1.2.2.2. Lý thuyết các bên liên quan

Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder theory), được đưa ra lần đầu tiên từ

nghiên cứu của Edward Freeman (1984) về quản trị tổ chức và đạo đức kinh doanh

Quản trị chiến lược: Cách tiếp cận từ các bên liên quan. Lý thuyết các bên liên quan

cho rằng tổ chức có nghĩa vụ phải đối xử công bằng giữa các bên liên quan. Trong

39

trường hợp các bên liên quan có xung đột lợi ích, tổ chức phải có nghĩa vụ đạt được sự

cân bằng tối ưu giữa chúng. Vì nhu cầu của các bên liên quan là khác nhau và luôn

thay đổi nên tổ chức sẽ tập trung vào đáp ứng nhu cầu của các bên liên quan thông qua

việc tổ chức đó theo đuổi chiến lược và báo cáo thông tin phù hợp với các chuẩn mực

và giá trị xã hội [162]. Lý thuyết các bên liên quan là một trong những lý thuyết có ảnh

hưởng tới sự phát triển và ứng dụng trong quản lý kinh doanh đã dần ảnh hưởng mạnh

mẽ tới lĩnh vực QL DSVH.

Lý thuyết các bên liên quan đã được các học giả trong nước và nước ngoài

nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực QL DSVH. Tác giả Jia Wen trong nghiên

cứu của mình đã xác định các bên liên quan trong QL DSVH bao gồm: các cơ quan

chính phủ, người dân và cộng đồng địa phương, các tổ chức phi chính phủ, khách

du lịch, các đơn vị tư nhân, các nhà nghiên cứu. Đặt trong mối tương quan với quá

trình quản lý, các bên liên quan của hoạt động QL DSVH sẽ thể hiện vai trò của

mình đối với từng vị trí công việc của quá trình quản lý đó. Trên cơ sở như vậy, vai

trò của các bên liên quan cũng như vai trò của DSVH trong đời sống xã hội đương

đại được biểu hiện một cách cụ thể nhất [143]. Tác giả Bùi Hoài Sơn trong bài viết

“Di sản cho ai và câu chuyện về tổ chức lễ hội truyền thống ở Việt Nam” đã đưa ra

3 đáp án để trả lời cho câu hỏi “Di sản cho ai?” Di sản cho các nhà quản lý, di sản

cho khách du lịch và di sản cho cộng đồng địa phương [90].

Như vậy, muốn xác định được cụ thể vai trò của từng cá nhân hoặc tổ chức

trong xã hội cần phải đặt từng đối tượng cụ thể trong mối liên hệ của các bên liên quan.

Việc xác định vai trò của các bên liên quan trong hoạt động QL có tầm quan trọng đặc

biệt ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của hoạt động này bởi các bên liên quan sẽ chịu

tác động của tổ chức thông qua hoạt động QL, trên cơ sở tác động của QL mà các bên

liên quan thể hiện vai trò của mình đối với từng khâu của quá trình này. Hiện nay, vai

trò của các bên liên quan được sử dụng tương đối phổ biến trong nhiều lĩnh vực của

cuộc sống cũng như trong nghiên cứu khoa học. Trong khoa học QL DSVH, việc xác

định vai trò của các bên liên quan là vô cùng quan trọng mà qua đó có thể làm rõ được

40

vị trí, chức năng, khả năng vận hành của các cấp QL, các bên liên quan trong thực hiện

vai trò của chính ngành khoa học này.

Trong quá trình nghiên cứu vấn đề QL DSVH người Sán Dìu ở huyện đảo

Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, NCS vận dụng nghiên cứu các hoạt động cụ thể của các

bên liên quan đóng góp vào công tác QL DSVH. Việc phân tích vai trò và đóng góp

cụ thể của các bên liên quan trong hoạt động này sẽ tạo cơ sở để có những đánh giá

khách quan về thực trạng công tác QL DSVH cũng như định hướng cho việc đề

xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này trên cơ sở hoàn thiện hoặc

nâng cao vị trí, vai trò của các bên liên quan trong hoạt động QL DSVH.

1.2.3. Cơ sở pháp lý

1.2.3.1. Quan điểm của UNESCO

Một trong những nhiệm vụ quan trọng và nổi bật của UNESCO là duy trì

danh sách các di sản thế giới, di sản tư liệu thế giới, DSVH phi vật thể của nhân

loại... Chính vì vậy, trên bình diện pháp lý UNESCO đã ban hành nhiều công ước

về lĩnh vực văn hóa cụ thể:

Ngày 16/11/1972 tại Paris, Đại hội đồng UNESCO đã thông qua Công ước

Bảo vệ DSVH và thiên nhiên thế giới tại kỳ họp thứ 17. Các DSVH và di sản tự

nhiên ngày càng có nguy cơ bị phá hoại, xuống cấp trong quá trình phát triển của

đời sống xã hội, cho nên việc bảo vệ di sản ở các cấp quốc gia thường gặp những

khó khăn, thách thức vì việc bảo vệ đòi hỏi rất nhiều phương tiện khoa học kỹ thuật

và nguồn lực kinh tế (Điều 5) [122].

Năm 2003, UNESCO được Đại hội đồng các quốc gia thành viên thông qua

Công ước về Bảo vệ DSVH phi vật thể, tại phiên họp thứ 32 ở Paris. Nguyên Tổng

Giám đốc UNESCO Koichiro Matsuura đánh giá:

Công ước có hiệu lực một cách đặc biệt nhanh chóng, chỉ 30 tháng sau

khi được Đại hội đồng UNESCO thông qua (tháng 10/2003), thể hiện

mối quan tâm to lớn của toàn thế giới đối với việc bảo vệ DSVH phi vật

thể và sự nhận thức rộng rãi về nhu cầu thúc bách phải bảo vệ những di

sản này trước nguy cơ do lối sống và quá trình toàn cầu hóa gây ra [52,

tr.170].

41

Nhận thức tầm quan trọng và ý nghĩa của việc bảo vệ DSVH phi vật thể

trong quá trình hội nhập và phát triển, Việt Nam là quốc gia thứ 22 ký tham gia

Công ước UNESCO 2003 và trở thành một trong những thành viên tích cực tham

gia quá trình thực hiện Công ước. Việt Nam được tín nhiệm bầu vào Ủy ban Liên

chính phủ về bảo vệ DSVH phi vật thể trong nhiệm kỳ đầu tiên (2006-2010).

Công ước BV&PH đa dạng của các biểu đạt văn hóa, được thông qua tại

phiên họp Đại hội đồng lần thứ 33 của UNESCO vào ngày 20/10/2005, là một

trong những Công ước quan trọng về lĩnh vực văn hóa với những nỗ lực nhằm

thúc đẩy sự đa dạng của các nền văn hóa trên thế giới. Đây là công cụ pháp lý

quốc tế quan trọng để các quốc gia thành viên áp dụng ban hành chính sách

trong các lĩnh vực sản xuất, truyền bá, BV&PH các tài sản văn hóa của quốc

gia dân tộc mình.

Các nguyên tắc chỉ đạo của Công ước 2005 khẳng định tại Điều 2:

Việc BV&PH sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa đòi hỏi công nhận

phẩm giá bình đẳng và tôn trọng tất cả các nền văn hóa bao gồm cả nền

văn hóa của những người thuộc các dân tộc bản địa và thiểu số. Trong

nguyên tắc phát triển bền vững đa dạng văn hóa là một tài sản phong phú

cho các cá nhân và xã hội. Việc bảo vệ, phát huy đa dạng văn hóa là một

yêu cầu thiết yếu đối với sự phát triển bền vững và lợi ích của các thế hệ

hôm nay và mai sau [124, tr.5-6].

Nhận thức được giá trị và tầm quan trọng của Công ước BV&PH sự đa dạng

của các biểu đạt văn hóa, Việt Nam đã ký phê chuẩn Công ước 2005 vào ngày

07/8/2007. Việt Nam là một trong những quốc gia có trách nhiệm đóng góp thiết

thực trong quá trình thực thi Công ước 2005, điều đó được thể hiện rất rõ khi Việt

Nam đảm nhiệm thành công vai trò Phó Chủ tịch Ủy ban liên Chính phủ và Phó

Chủ tịch Đại hội đồng Công ước UNESCO nhiệm kỳ (2011-2015).

Các công ước của UNESCO về lĩnh vực văn hóa một lần nữa khẳng định vai

trò và tầm quan trọng của văn hóa nói chung và DSVH nói riêng trong đời sống

đương đại. Đây cũng là những khung pháp lý quốc tế quan trọng để nước ta có cơ

sở pháp lý vận dụng linh hoạt trong quá trình ban hành và thực thi các quy định

42

pháp luật, chính sách nhằm QL DSVH trong cộng đồng 54 dân tộc sao cho phù hợp

với thông lệ quốc tế. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia tích cực tham gia

có hiệu quả vào việc thực thi các công ước quốc tế về văn hóa.

Luận án vận dụng các Công ước nêu trên vào giải quyết các nội dung của

luận án gồm: khái niệm, phân loại DSVH, đánh giá trực trạng và đề xuất giải pháp

về QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn cụ thể như các điều: bảo vệ

(Điều 2); sự tham gia của các cộng đồng, nhóm người; cá nhân và các tổ chức phi

chính phủ có liên quan (Điều 11, 15) [123].

1.2.3.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước

Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về

phát triển văn hóa, QL văn hóa nói chung và QL DSVH nói riêng luôn được quan

tâm và được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp luật như:

hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, chỉ thị, quyết định, chương trình, kế

hoạch… Trong khuôn khổ nội dung của luận án, NCS lựa chọn những văn bản liên

quan đến vấn đề DSVH, tổng hợp lại để có cái nhìn khái quát về các chủ trương của

Đảng trong lĩnh vực này.

Từ khi thành lập Đảng đến nay, quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò văn hoá

luôn nhất quán. Hệ tư tưởng đó được thể hiện xuyên suốt từ Đề cương văn hoá năm

1943 đến Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung

ương khóa XI.

Trong từng giai đoạn cách mạng của Việt Nam, quan điểm và đường lối của

Đảng về văn hoá nói chung và QL DSVH nói riêng thể hiện rõ trong các văn kiện

của Đảng các khóa VIII, IX, X, XI. Đặc biệt, trong Nghị quyết TW 5 khóa VIII và

Nghị quyết TW 9 khóa XI, các quan điểm có sự thay đổi uyển chuyển, linh hoạt phù

hợp với thực tiễn, nhưng tựu chung lại có tám quan điểm cơ bản về quản lý và phát

huy DSVH, cụ thể:

- Phát triển văn hóa là nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân

với cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể văn hóa;

43

- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực

thúc đẩy sự phát triển KT-XH.

- Tài sản văn hóa là nguồn lực nội sinh thúc đẩy phát triển KT-XH bền vững

của đất nước;

- BV&PH nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu

tinh hoa văn hóa nhân loại và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc;

- Phát triển nền văn hoá Việt Nam thống nhất trong đa dạng của cộng đồng

các dân tộc;

- Xây dựng nền văn hoá Việt Nam với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân

chủ và khoa học;

- Phát triển văn hóa là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, có lối sống

tốt đẹp nhằm xây dựng, bảo vệ, phát triển con người và sự nghiệp văn hóa trong

thời đại mới. Đồng thời, phát triển văn hóa cần phải hài hòa, cân bằng giữa phát

triển giữa kinh tế và văn hóa;

- Xây dựng môi trường văn hóa chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng

trong quá trình trao truyền và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong

đời sống;

Văn hóa là một trong những lĩnh vực được Nhà nước quan tâm; coi đó là một

trong ba trụ cột để phát triển đất nước. Ngay sau khi Nhà nước được thành lập, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 65/SL ngày 23/11/1945 về việc bảo tồn cổ tích

trên phạm vi cả nước Việt Nam.

Trải qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, xây dựng và đổi mới đất nước,

Quốc hội đã sửa đổi Hiến pháp qua các năm 1959, 1980, 1992 và 2013 nhằm đáp

ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ trong xây dựng và phát triển đất nước. Cùng

với đó là quan điểm QL văn hóa luôn được Nhà nước quan tâm thể hiện qua việc:

(1) tôn trọng các giá trị DSVH truyền thống của dân tộc; (2) hoạch định và thực thi

các chính sách BV&PH các dân tộc; (3) khuyến khích mọi sự sáng tạo, hưởng thụ

của chủ thể văn hóa; (4) nâng cao đời sống vật chất và nhu cầu hưởng thụ văn hóa

của nhân dân [PL 7.1, tr.213].

44

Tại Điều 38, Hiến pháp 1980 đã khẳng định: Cùng với việc bảo vệ và phát

triển những giá trị văn hoá và tinh thần của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá thế

giới, xây dựng nếp sống xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ nếp sống lạc hậu, bài trừ mê tín dị

đoan. Nhà nước ta còn đặc biệt quan tâm đến công tác bảo tồn các di tích lịch sử và

văn hoá, các công trình mỹ thuật công cộng, các danh lam, thắng cảnh được tu bổ

và bảo vệ. Công tác bảo tồn, bảo tàng được chú trọng (Điều 46, Hiến pháp 1980).

Với phương châm Đảng, Nhà nước và nhân dân cùng làm, việc phát huy nội lực và

huy động mọi nguồn lực cho QL DSVH cũng như nâng cao mức hưởng thụ văn hóa

của nhân dân ngày càng được quan tâm hơn.

Đồng thời, DSVH được coi là nguồn lực nội sinh phát triển KT-XH, thể hiện

tại điều 34, Hiến pháp 1992: Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các DSVH dân

tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, BV&PH tác dụng của các di

tích lịch sử, cách mạng, các DSVH, các công trình nghệ thuật, các danh lam, thắng

cảnh (Điều 60, Hiến pháp 2013); Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá

trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41,

Hiến pháp 2013).

Sự nhất quán về chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta coi trọng

lĩnh vực DSVH, là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH được thể hiện thông qua

các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Đây là căn cứ quan trọng nhằm cụ thể hóa các

cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn đặt ra. Điều này được thể hiện ở một số

văn bản sau:

Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2001) ban hành Luật Di sản văn hóa, số

28/2001/QH10 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, số

32/2009/QH12;

Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010, về Quy định chi tiết thi hành một

số điều của Luật Di sản văn hóa và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản

văn hóa;

Quyết định số 1270/QĐ-TTg, ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ về

việc phê duyệt Đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm

2020;

45

Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/11/2011 về công tác dân tộc; Nghị

định số 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014, về xét tặng danh hiệu NNND, NNƯT trong lĩnh

vực DSVH phi vật thể.

Mới đây, Quốc hội đã banh hành Nghị quyết số 88/2014/QH14 ngày

18/11/2019 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và

miền núi giai đoạn 2021 - 2030; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 12/NQ-CP

ngày 15/2/2020 về triển khai thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH14 ngày

18/11/2019 của Quốc hội.

Luận án đã vận dụng các quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật và các văn

bản dưới luật của Nhà nước ban hành nhằm phân định tổ chức QLNN, vai trò của các tổ

chức, cá nhân; DSVH vật thể và DSVH phi vật thể theo Luật Di sản văn hóa và các nghị

định, quyết định của Chính phủ và đề xuất mô hình QL DSVH trên cơ sở các quy định

về tổ chức của Nhà nước.

1.3. Mối quan hệ hữu cơ giữa quản lý Nhà nước, quản lý của cộng đồng

và các bên liên quan khác

Từ những vấn đề lý luận nêu trên, luận án vận dụng các vấn đề lý luận đó

vào nghiên cứu hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn trong

thời gian vừa qua để thấy rõ thực trạng QL, từ đó góp phần nhận diện và bàn luận

các giải pháp QL DSVH dân tộc Sán Dìu trong các giai đoạn tiếp theo.

Luận án nhận thấy Công ước 2003 đề cao mối quan hệ giữa quốc gia với

cộng đồng thông qua việc tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn cộng đồng QL

DSVH, tạo hành lang pháp lý và nguồn lực để cộng đồng tham gia QL DSVH. Để

hiện thực hóa vai trò của cộng đồng, cộng đồng phải là chủ thể văn hóa có quyền

quyết định các tài sản văn hóa và thực hành văn hóa, Ủy ban Liên chính phủ Công

ước 2003 đã thông qua bộ “Nguyên tắc đạo đức” gồm 12 điều với nội dung về vai

trò tự quyết của cộng đồng trong việc quản lý và thực hành DSVH. Sự tham gia chủ

động, tích cực của Việt Nam đã giúp Việt Nam hoàn thiện các cơ chế chính sách

QL DSVH, trong đó nổi bật vai trò của các cơ quan QLNN, QL của cộng đồng và

các bên liên quan khác, cụ thể:

46

Vai trò và trách nhiệm của Nhà nước về mặt vĩ mô là ban hành các chủ

trương, hệ thống hành lang pháp lý thông qua hiến pháp, pháp luật và các văn bản

dưới luật (chỉ thị, thông tư, quyết định, văn bản hướng dẫn), mặt vi mô ở các địa

phương ban hành các văn bản quy định và có trách nhiệm hướng dẫn thi hành cụ thể

nhiệm vụ QL DSVH theo hệ thống QLNN từ trung ương đến địa phương nhằm thực

hiện địa vị hiến định, thẩm quyền mà cấp đó đảm nhận. Nhà nước chỉ đạo, tổ chức

thực hiện, hướng dẫn cộng đồng và huy động các bên liên quan hỗ trợ nguồn lực xã

hội để QL DSVH.

Nhà nước tạo điều kiện để cộng đồng thực hành văn hóa. QL DSVH có thể

thông qua việc phát huy các nguồn lực sẵn có trong cộng đồng nhằm sáng tạo, phát

triển tạo ra các nguồn lợi từ DSVH như thu nhập từ du lịch cộng đồng, du lịch văn

hóa, làng nghề thủ công truyền thống góp phần phát triển sinh kế của gia đình và

phát triển KT-XH của địa phương.

Cộng đồng có trách nhiệm thực hiện và phối hợp với các cơ quan nhà nước,

tổ chức, cá nhân để thực hiện các nội dung QLNN theo điều 54 của Luật Di sản văn

hóa với vai trò là chủ thể quản lý, sáng tạo và thực hành các DSVH. Cộng đồng

tham gia vào hoạt động nâng cao nhận thức, trực tiếp thực hiện các hoạt động QL

DSVH. Chính cộng đồng là người duy trì, thực hành và thụ hưởng chính sách về

BV&PH giá trị DSVH thông qua việc nắm giữ DSVH được Nhà nước xem xét công

nhận như: NNND, NNƯT hay việc xếp hạng các DSVH cấp địa phương, cấp quốc

gia cũng như đệ trình UNESCO công nhận DSVH đại diện của nhân loại.

Vai trò QL của cộng đồng tham gia BV&PH giá trị DSVH là yếu tố cơ bản

của quá trình phát triển cộng đồng. Trong đó, QLNN về DSVH là chỉ đạo, điều

hành; chính quyền các cấp có vai trò tổ chức thực hiện, hỗ trợ cộng đồng trong quá

trình BV&PH giá trị DSVH.

Vai trò và trách nhiệm của các bên liên quan như doanh nghiệp, các tổ chức

phi chính phủ, viện/trung tâm nghiên cứu... tham gia thực hiện với tư cách là chủ đầu

tư, cơ quan phối hợp, cơ quan tư vấn các dự án, chương trình, kế hoạch... Các bên

liên quan đóng vai trò là động lực thúc đẩy quá trình QL DSVH đạt được những mục

tiêu đề ra và có các sản phẩm làm lợi cho chính cộng đồng và các bên liên quan.

47

Công ước 2003 và Luật Di sản văn hóa được đề cập ở trên cho ta thấy mối

quan hệ hữu cơ giữa QLNN về DSVH với vai trò của cộng đồng và các bên liên

quan khác trong QL DSVH. Đó là mối quan hệ chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ từ phía

QLNN về DSVH và sự phối hợp, thực hiện của cộng đồng và các bên liên quan

khác đối với thực hành DSVH của mình thông qua sự chỉ đạo bằng hệ thống văn

bản của Đảng, Nhà nước ban hành. Mối quan hệ hữu cơ này cũng được phân định

khá rõ ràng ở bảng dưới đây:

TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN

Cấu trúc

CÁC NHÓM HỘI/TỔ CHỨC TRONG CỘNG ĐỒNG Không chính thức, luân phiên. Hội viên quyết định phương thức hoạt động và bầu ra ban điều hành Chính thức, theo hệ thống cấp bậc, được tổ chức để thực thi các nhiệm vụ khác nhau. Bổ nhiệm, phân công các ban điều hành, quản lý.

Tự nguyện, không có lương Có lương

Tự nguyện, dân chủ Hoạt động dựa trên các nguyên tắc, quy định và hiệu lực

Các nghiên cứu, số liệu, điều tra Các câu chuyện, kinh nghiệm thực tế

Trung gian hướng dẫn Quản lý, chuyên gia

Đồng thuận, bình đẳng Tập trung quyền kiểm soát vào những người lãnh đạo

Công dân, thành viên Khách hàng, đối tượng thụ hưởng, người tiêu dùng Hình thức tham gia Phương thức hoạt động Hình thức truyền tải thông tin Vai trò thành viên Phương thức phân quyền Tập trung đến người dân như

Động lực hành động Mong muốn thay đổi điều gì đó tốt đẹp hơn, cải thiện tình hình hiện tại Điều khoản quy định trong hợp đồng lao động, sự phân công giao trách nhiệm, sự thăng tiến trong nghề nghiệp…

Bảng 1.1: Hai phương diện để xây dựng cộng đồng và sự khác biệt giữa chúng

(Nguồn: [83, tr.52]) NCS vận dụng cơ sở lý luận quản lý DSVH và lý thuyết các bên liên quan để

đưa ra khung phân tích lý thuyết của luận án trên hai phương diện chủ yếu là vai trò

của QLNN và quản lý của cộng đồng trong các hoạt động QL DSVH dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, cụ thể như sau:

48

DSVH

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG

Chỉ đạo, quản lý, hỗ trợ

QL CỦA CỘNG ĐỒNG

Chủ trương, đường lối của Đảng

Kinh tế và hội nhập quốc tế

1. Chỉ đạo thực hiện chiến lược và chính sách của Trung ương

1. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong thực hành và hưởng thụ DSVH

2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về DSVH

Cơ chế, chính sách

3. Tổ chức hoạt động nghiệp vụ QL DSVH dân tộc Sán Dìu

Tổ chức bộ máy

2. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong việc trao truyền và sáng tạo DSVH

Nguồn lực

Các nhân tố văn hóa

3. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong khai thác, sử dụng và phát huy DSVH

Xã hội hóa

4. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong việc giới thiệu, quảng bá DSVH

QLNN VỀ DSVH Quyết định, phối hợp, thực hiện 4. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về DSVH 5. Tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học 6. Huy động và sử dụng các nguồn lực để QL DSVH 7. Tổ chức việc động viên khen thưởng 8. Thanh tra, kiểm tra, và xử lý vi phạm pháp luật về DSVH

Khoa học công nghệ và truyền thông

DSVH DÂN TỘC SÁN DIU ĐƯỢC QL HIỆU QUẢ

Sơ đồ 2.1. Khung lý thuyết nghiên cứu QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

(Nguồn: NCS tổng hợp)

49

Trong nghiên cứu QL DSVH, việc vận dụng các quan điển QL DSVH và lý

thuyết các bên liên quan, nhằm xác định quyền và trách nhiệm của cơ quan QLNN về

DSVH và QL của cộng đồng. Trên cơ sở đó xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ cụ thể

của các bên trong quá trình quản lý. Phân tích vai trò các bên liên quan trong công tác

QL DSVH là cơ sở khoa học quan trọng để đánh giá và xác định được thực trạng công

tác QL DSVH, từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này.

Từ nhận định nêu trên, NCS vận dụng lý thuyết QL DSVH và lý thuyết các

bên liên quan nhằm biện giải các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn trong các hoạt

động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; mối

quan hệ hữu cơ giữa QLNN về DSVH và phát huy vai trò của cộng đồng trong

quá trình QL DSVH đã được phân tích về thực trạng ở chương 2 của luận án. Trên

cơ sở thực trạng đã nêu, căn cứ vào các văn bản pháp lý cũng như cơ sở thực tiễn

của hoạt động này, NCS vận dụng các vấn đề lí luận trên nhằm đề xuất một số giải

pháp nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả QLNN về DSVH và phát huy vai trò QL

của cộng đồng trong các hoạt động QL DSVH của dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo

Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

Tiểu kết

Qua tổng quan tình hình nghiên cứu các công trình về QL DSVH cũng như

các công trình nghiên cứu về dân tộc Sán Dìu và DSVH dân tộc Sán Dìu, có thể

thấy, đây là lĩnh vực nhận được nhiều sự quan tâm của các tổ chức nghiên cứu, nhà

quản lý và nhà khoa học. Các nghiên cứu được tổng quan tập trung trình bày những

quan điểm, giới thiệu và phân tích mối quan hệ giữa QL DSVH với các vấn đề

đương đại. Nhiều công trình tổng kết hoạt động quá trình QL DSVH của địa

phương. Bên cạnh đó, các học giả nước ngoài đã trình bày quan điểm và kinh

nghiệm QL DSVH của các quốc gia trong khu vực và quốc tế. Các công trình tổng

quan về dân tộc Sán Dìu và DSVH dân tộc Sán Dìu chủ yếu là mô tả dân tộc chí

theo phương pháp tiếp cận của ngành Văn hóa học, Nhân học và Dân tộc học…

Điều này, cho thấy chưa có công trình nào tiếp cận một cách hệ thống về vấn đề

50

QLNN về DSVH và thực trạng QL của cộng đồng trong BV&PH giá trị DSVH dân

tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn - đây là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu.

Từ những nhận định về cơ sở khoa học và căn cứ vào văn bản pháp lý quốc

tế và Việt Nam, luận án áp dụng khung lý thuyết phân tích về mối quan hệ giữa

QLNN về DSVH cũng như thực trạng quản lý của cộng đồng trong BV&PH giá trị

DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Từ đó, luận án

nhận diện những thuận lợi, khó khăn và thách thức trong QL DSVH dân tộc Sán

Dìu hiện nay gặp phải, nhằm đưa ra giải pháp phù hợp trong bối cảnh phát triển

năng động ở huyện đảo Vân Đồn.

51

Chương 2

DI SẢN VĂN HÓA VÀ QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA

DÂN TỘC SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH

2.1. Di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

2.1.1. Giới thiệu chung về huyện đảo Vân Đồn

Huyện đảo Vân Đồn là một huyện hải đảo nằm ở phía Đông Nam của tỉnh

Quảng Ninh, được hợp thành bởi 02 quần đảo Cái Bầu và Vân Hải, có tọa độ địa lý

từ 20040’ đến 21012’ vĩ độ bắc và từ 107019’ đến 107042’ kinh độ đông [98, tr.91].

Huyện đảo Vân Đồn có vị trí tiếp giáp: phía Bắc và phía Đông Bắc giáp các

huyện: Tiên Yên, Đầm Hà; phía Đông Nam giáp huyện đảo Cô Tô, vịnh Bắc Bộ;

phía Tây giáp các thành phố: Cẩm Phả, Hạ Long và vịnh Hạ Long [PL 1, tr.176].

Vân Đồn có tổng diện tích 2.171,33km², trong đó diện tích đất tự nhiên là:

59.676 ha gồm trên 600 hòn đảo lớn nhỏ nằm trong vịnh Bái Tử Long, trong đó có

hơn 20 đảo đất có người cư trú. Đảo Cái Bầu có thị trấn Cái Rồng và 06 xã, với diện

tích rộng 303,26km² (chiếm 55%). Vùng đảo phía ngoài trải rộng 248,07km² (chiếm

45%) gồm 05 xã đảo [98, tr.91].

Huyện đảo Vân Đồn có 12 đơn vị hành chính, gồm thị trấn Cái Rồng (được

đặt là huyện lỵ) và 11 xã; trong đó có 06 xã bãi ngang thuộc đảo Cái Bầu: Đài

Xuyên, Bình Dân, Đoàn Kết, Vạn Yên, Hạ Long, Đông Xá; 05 xã tuyến đảo thuộc

quần đảo Hải Vân: Minh Châu, Quan Lạn, Bản Sen, Ngọc Vừng, Thắng Lợi với

79 thôn, khu phố. Vân Đồn cách thành phố Hạ Long khoảng 50km về phía Tây;

cách thành phố Móng Cái khoảng 100km về phía Đông; cách thành phố Hải

Phòng 80km và cách thủ đô Hà Nội 175km.

Dân số toàn huyện trên 4,6 vạn người, có 14 thành phần dân tộc cùng sinh

sống, trong đó: dân tộc Kinh chiếm đa số, còn lại 13 thành phần DTTS với trên

6.600 người, chiếm 14,39% dân số toàn huyện, gồm các DTTS: Sán Dìu, Hoa, Dao,

Tày, Nùng, Mường, Thái, Giáy, Sán Chay, Mông, Raglay, Tà Ôi, Pu Péo. Các xã có

số lượng thành phần DTTS tập trung đông chủ yếu ở các xã: Bình Dân, Đoàn Kết,

Đông Xá, Vạn Yên, Đài Xuyên.

52

2.1.2. Dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

Dân tộc Sán Dìu tự nhận là Sơn Diêu nhân “Dzan Déo nhin, 山遥人”. Địa vực

cư trú chủ yếu của dân tộc Sán Dìu, từ phía tả ngạn sông Hồng cho đến các tỉnh

trung du ở khu vực miền núi phía Bắc. Dân tộc Sán Dìu có mặt ở các vùng đồi núi

thấp, các triền núi hay địa hình bán sơn địa.

Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01/4/2019, thành phần

dân tộc Sán Dìu ở Quảng Ninh có 20,668 người, chiếm 1.57% dân số toàn tỉnh,

cư trú tại 14/14 huyện, thị xã, thành phố, trong đó có 04 thành phố, 02 thị xã và

08 huyện [PL 2.1, tr.178]. Dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn có 4.892 người

chiếm 10.66% so với dân số toàn huyện, đứng thứ hai sau dân tộc Kinh và sinh

sống tại các xã: Đông Xá, Hạ Long, Bình Dân, Đoàn Kết, trong đó, đông nhất tại xã

Bình Dân với 1.401 người, chiếm tới 95% dân số trên toàn xã. Nơi đây là một trong

những nơi cư trú đầu tiên của dân tộc Sán Dìu khi di cư vào Việt Nam [PL 2.2, tr.179].

2.1.3. Di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

DSVH gồm nhiều thành tố của văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Tuy

nhiên, trong phạm vi nội dung của luận án, NCS lựa chọn di tích lịch sử - văn hóa

(loại hình DSVH vật thể); lễ hội Đại phan và Soọng cô (loại hình DSVH phi vật thể)

là những thành tố liên quan mật thiết trong đời sống văn hóa của dân tộc Sán Dìu từ

truyền thống đến hiện đại. Trong đời sống hiện nay, các thành tố văn hóa đó đã có

những biến đổi nhất định cần được nghiên cứu, phân tích để có những giải pháp phù

hợp góp phần BV&PH giá trị DSVH của dân tộc Sán Dìu trong đời sống đương đại.

- Di tích lịch sử - văn hóa

Âm Sán Dìu Ý lời ca

Soọng théo sếnh cô hô thếnh thoóng Hát tình ca ca ngợi đình làng

Lếnh sín bảo tạch ngoi son hoeng Linh thiêng phù hộ quê hương ta

Lếnh sín bảo tạch son hoeng hảo Linh thiêng phù hộ làng xóm tốt

Son thói son my bảo pếnh on Đầu làng cuối xóm được bình an1

Xã Bình Dân có 04 miếu, trong đó có 01 miếu Tổ tại trung tâm xã, được đặt

1Theo lời của ông Từ Văn Lâm, thôn Vòng Tre, xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

tại thôn Vòng Tre do xã quản lý và đã được đầu tư xây dựng khu thờ cúng trong năm

53

2020, còn lại các miếu khác do thôn quản lý. Theo truyền thuyết của địa phương, đây

là các ngôi miếu cổ có từ lâu đời gắn liền với sự hình thành và phát triển của dân tộc

Sán Dìu ở Bình Dân. Miếu Tổ thờ Thành Hoàng là vị thần được tôn thờ chính trong

ngôi Miếu của làng. Ba ngôi miếu còn lại được thờ ở các thôn (Đồng Cống, Đống Đá,

Đầm Tròn) các vị thần được thờ tự chủ yếu là thờ thổ thần, sơn thần, thủy thần, các vị

tổ tiên dòng họ có công khai hoang lập làng của cộng đồng dân tộc Sán Dìu tại huyện

đảo Vân Đồn. Tuy nhiên, do thiên tai và chiến tranh nên trong nhân dân đã mất hết

các thư tịch cổ ghi chép về nguồn gốc lịch sử của Miếu. Phong tục thờ cúng các vị

thần linh theo nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng cộng đồng. Các thôn làng của dân tộc

Sán Dìu thờ hệ thống thần linh của cộng đồng thôn làng, miếu thờ các vị thượng đẳng

thần như: Đương Cảnh thành hoàng, Cao Sơn đại vương, Sơn thần, Thổ thần, Thủy

thần, Thành hoàng làng tại miếu. Với quan niệm “Đất có thổ công, sông có hà bá”,

mỗi xóm thôn đều có miếu thờ thần.

Về kiến trúc, các miếu thường được đặt ở trung tâm xã hoặc thôn nơi đất

thắng cảnh và trên gò cao, xung quanh miếu có nhiều cây cổ thụ. Các miếu được

người dân phát tâm, xây dựng xây dựng và khá đơn sơ chỉ xây gạch mộc, lợp gói

xi măng, không có cửa, chỉ có miếu thành hoàng ở xã mới được đầu tư xây dựng

với quy mô nhỏ. Không gian thờ tự của các miếu cũng chỉ có các bát hương không

có hoành phi, câu đối, bát bửu… Hiện trạng di tích đang xuống cấp trầm trọng vì

chưa có kế hoạch trùng tu tôn tạo. Các miếu cũng chưa được chính quyền lập hồ

sơ xếp hạng di tích.

- Lễ hội Đại phan (Tả Thai phan, 打大番)

Lễ hội Đại phan là hệ thống tích hợp tín ngưỡng lớn nhất của dân tộc Sán

Dìu. Với nội dung cốt lõi là cầu an, cầu siêu cho cả thế giới trần gian và địa ngục

muốn thoái khỏi cảnh trầm luôn khổ đau với lực lượng siêu nhiên chứng minh sự

hóa giải của tam giới. Đại phan là sợi dây gắn kết cộng đồng trong một việc lớn của

làng, của vùng. Mục đích là cầu bình an cho con người không bị cảnh chết chóc

tang thương bởi nghịch cảnh; cầu mùa màng tốt tươi không bị thiên tai địch họa;

cầu siêu độ thế cho các cô hồn, ác quỷ còn vương vấn, quấy quả xóm làng, cầu siêu

cho các vong hồn được siêu thoát về miền Tây phương cực lạc. Bên cạnh đó, các

54

nghi lễ cấp sắc cho cá nhân muốn làm thầy cúng hay tấn phong lên cấp cũng được

tiến hành trong lễ hội này. Các làn điệu dân ca cũng được diễn xướng lên bởi những

nhóm người dân tham gia lễ hội; các trò chơi dân gian của các thanh niên hay em

nhỏ cũng được tổ chức… Tất cả các giá trị đó đã làm lên lễ hội Đại phan đậm bản

sắc dân tộc Sán Dìu.

Lễ Đại phan là biểu tượng giá trị tâm linh kết nối thế giới thần linh (Phật,

thánh, thần) với thế giới trần gian thông qua cây Phan lớn nhất của đại lễ. Phật,

thánh, thần giáng thế trần gian từ ngọn phan vào tới lễ đàn. Lễ hội được tổ chức 5-7

ngày với sự hiện diện của thầy cúng cao tay với các chức danh trong lễ đàn gồm: 1.

Thông dẫn sư 通引師; 2. Tấu điệp sư 奏牒師; 3. Tấu cáo sư 奏誥師; 4. Chứng

大番師; 8. Giám độ sư 監度師; 9. Chủ trì sư 主持師 cùng sự tham gia của hàng

minh sư 證明師; 5. Bảo cử sư 保舉師; 6. Bỉnh chân sư 秉真師; 7. Đại phan sư

nghìn người dân... [PL 3.1, tr.180-181].

- Soọng cô

Dân tộc Sán Dìu ở Vân Đồn vốn có tính cần cù, chăm chỉ trong lao động, say

sưa trong hoạt động vui chơi giải trí. Cộng đồng đã sáng tạo ra nhiều loại hình giải

trí như: các làn điệu dân ca, truyện kể dân gian, ca dao, tục ngữ,... Trong quá

trình lao động sản xuất, cộng đồng thường ứng khẩu thành thơ ca, hát đối với nhau

để xua tan những vất vả, nhọc nhằn, những âu lo của cuộc sống, hướng đến niềm

vui trong cuộc sống giản dị.

Các làn điệu Soọng cô đã đi vào tâm khảm của mỗi người tự lúc nào không

hay. Chỉ biết các em nhỏ đã tập theo các anh chị những câu hát mượt mà, thắm tình

quê hương đất nước. Những cụ già mỗi khi được nghe Soọng cô lại thấy bao kỷ

niệm của tuổi thanh xuân ùa về.

Soọng cô là lối hát dân gian truyền thống của dân tộc Sán Dìu, được hát theo

lối cố định, bài bản, từ một bài gốc mà tùy theo hoàn cảnh của buổi hát sẽ có ứng

tác cho phù hợp “ịt théo cô, pạc théo mị”. Theo chữ Nôm - Sán Dìu, Soọng cô

“唱歌”, nghĩa là xướng ca (ca hát). Cộng đồng có tích truyện cổ kể về nguồn gốc

Soọng cô gắn liền với bà chúa thơ Lưu Tam Muội [PL 3.2, tr.182-186].

55

Soọng cô được lưu truyền bằng hai hình thức: truyền khẩu và ghi lại bằng

chữ Nôm - Sán Dìu. Trong đó, hình thức truyền khẩu Soọng cô là chủ yếu, vì

trong cộng đồng, hình thức này ai cũng có thể tiếp nhận được, từ già đến trẻ, từ

nam đến nữ, người biết chữ và không biết chữ đều có thể tập hát, người biết

nhiều dạy người biết ít, người biết ít dạy người chưa biết. Hình thức ghi lại bằng

chữ Nôm - Sán Dìu chỉ có trong một bộ phận nhỏ những người biết chữ, chủ yếu

là thầy cúng.

Trước tiên phải nói rằng Soọng cô là lối hát có tính cộng đồng cao, được

thể hiện qua đối đáp giữa chủ và khách, giữa làng này với làng kia, giữa nam và

nữ… Môi trường diễn xướng khá tự do, đa dạng cả về không gian và thời gian

như: trong lễ hội, bên suối, trên rừng, dưới nương, mừng nhà mới, đám cưới, đi

chơi làng…

Nội dung của Soọng cô rất phong phú, đề cập đến tình yêu quê hương, đất

nước, tình yêu đôi lứa, ca ngợi trong lao động, ướm hỏi tỏ tình, thăm hỏi gia đình…

Tất cả đều mượn những ca từ mộc mạc, giản dị nhưng ý nhị, tình tứ, mượt mà và

khéo léo trong từng câu ca [PL 3.3, tr.186-193].

Các bài hát Soọng cô theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, mỗi câu bảy chữ, mỗi

đoạn bốn câu. Tuy nhiên, cũng có một số lượng lớn các bài Soọng cô có bốn câu

nhưng câu đầu ba chữ, ba câu sau bảy chữ. Giai điệu trong Soọng cô có hai lối hát:

hát ngân hay hát du (ếnh cô), là cách hát sử dụng trường hơi cao nhất với nhiều

âm luyến láy, tạo nên sự kéo dài về trường độ. Hát cộc hay hát nói (coóng cô) là

cách hát đi thẳng vào lời ca, âm luyến láy và trường độ ở mức vừa.

Thang âm điệu thức của Soọng cô có 5 âm, dựa trên loại thang âm 4 và thang

âm 5. Nhịp trong Soọng cô ổn định về trường độ, thường sử dụng nhịp 2/4 hay 4/4

và có khi là nhịp tự do. Trong khi diễn xướng, để lời ca được mềm mại, mượt mà,

dân tộc Sán Dìu đệm thêm những từ: ơ, ớ, ờ… và được đặt ở những cao độ khác

nhau. Âm vực khi hát không quá lớn, nhịp điệu đều đều, độ trầm bổng không cao.

Đây chính là đặc trưng riêng để làm nên chất nhạc của làn điệu Soọng cô Sán Dìu.

56

2.2. Thực trạng quản lý Nhà nước về di sản văn hóa ở huyện đảo Vân Đồn,

tỉnh Quảng Ninh

2.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về di sản văn hóa tại tỉnh Quảng

Ninh và huyện đảo Vân Đồn

Theo Điều 55 của Luật Di sản văn hóa quy định:

(1) Chính phủ thống nhất QLNN về DSVH. (2) Bộ Văn hoá - Thông tin

chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về DSVH. (3) Các

bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm QLNN

về DSVH. theo phân công của Chính phủ. Chính phủ quy định cụ thể

trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

trong việc phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin để thực hiện thống nhất

QLNN về DSVH. (4) Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ

và quyền hạn của mình thực hiện việc QLNN về DSVH.ở địa phương

theo phân cấp của Chính phủ [85].

Do vậy, tổ chức bộ máy QLNN về DSVH ở tỉnh Quảng Ninh được phân

thành ba cấp, cụ thể như sau:

Cấp tỉnh: tại kỳ họp thứ 23, ngày 08/4/2016 của HĐND tỉnh nhiệm kỳ 2011-

2016, đại biểu HĐND tỉnh Quảng Ninh đã thông qua Nghị quyết thành lập Sở Du

lịch và kiện toàn Sở VH,TT&DL thành Sở VH&TT. Ngày 28/4/2016, UBND tỉnh

ban hành Quyết định số 1271/QĐ-UBND về việc kiện toàn Sở VH,TT&DL thành

Sở VH&TT tỉnh Quảng Ninh và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu

tổ chức bộ máy của Sở VH&TT tỉnh Quảng Ninh.

Theo đó, Sở VH&TT là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh; thực hiện

chức năng QLNN về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và quảng cáo trên địa bàn

tỉnh theo quy định của pháp luật. Sở VH&TT chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức,

biên chế và hoạt động của UBND tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn,

kiểm tra, thanh tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ VH,TT&DL [126]. Sở

VH&TT tỉnh Quảng Ninh có nhiệm vụ và quyền hạn về QLNN về DSVH [PL 7.2,

tr.213-214]. Trong cơ cấu tổ chức của Sở VH&TT có Phòng Quản lý Di sản là

57

đơn vị chuyên môn có chức năng tham mưu giúp Giám đốc Sở thực hiện QLNN

về nghiệp vụ Di sản [PL 7.3, tr.214-215]. Như vậy, từ năm 2016 đến nay, các hoạt

động QLNN về DSVH ở tỉnh Quảng Ninh được đặt trong phạm vi quyền hạn của

Sở VH&TT tỉnh Quảng Ninh.

- Cấp huyện: Phòng Văn hoá và Thông tin chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp

từ UBND cấp huyện về tổ chức, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức, vị trí

việc làm, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ

của Sở VH&TT, Sở Du lịch, Sở Thông tin và Truyền thông. Phòng Văn hoá và

Thông tin là cơ quan chuyên môn thuộc UNBD cấp huyện; thực hiện chức năng

tham mưu, giúp UBND cấp huyện QLNN về văn hoá, gia đình, thể thao, du lịch và

quảng cáo [PL 7.4, tr.215-217].

- Cấp xã: Nhiệm vụ QLNN về văn hóa nói chung và DSVH nói riêng được

quy định chung trong chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn tại chính quyền cơ sở.

Theo đó, chính quyền cấp xã có Ban Văn hóa - Xã hội chịu trách nhiệm tham mưu

trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, thông tin, thể dục, thể thao và các

chính sách dân tộc, tôn giáo tại địa phương. “UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức

bảo vệ cấp thiết DSVH; tiếp nhận những khai báo về DSVH để chuyển lên cấp trên;

kiến nghị về xếp hạng di tích; phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời hành vi làm ảnh

hưởng đến an toàn của DSVH; ngăn chặn và xử lý các hoạt động mê tín dị đoan

theo thẩm quyền” [68, tr.297].

2.2.2. Thực trạng nguồn nhân lực quản lý Nhà nước về di sản văn hóa tại

tỉnh Quảng Ninh và huyện đảo Vân Đồn

Nguồn nhân lực QLNN về DSVH ở cấp tỉnh là Sở VH&TT, lãnh đạo Sở

gồm: 01 Giám đốc có nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo chung về công tác văn hóa và

DSVH; 01 Phó Giám đốc trực tiếp phụ trách QLNN về DSVH trên địa bàn tỉnh.

Nhân lực Phòng Quản lý Di sản hiện nay có 02 Phó phòng, trong đó có Phó phòng

phụ trách có trình độ chuyên môn thạc sĩ Quản lý Văn hóa và 01 Phó phòng có trình

độ chuyên môn cử nhân Xã hội học, cử nhân Tôn giáo và 03 chuyên viên có trình

độ cử nhân văn hóa.

58

Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Vân Đồn có 11 cán bộ, công chức trong

đó có 08/11 người có trình độ Đại học, 03/11 người có trình độ Thạc sĩ. Về nhiệm

vụ của lãnh đạo và công chức Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Vân Đồn: Trưởng

phòng phụ trách chung toàn cơ quan, chịu trách nhiệm trước Huyện ủy, HĐND,

UBND huyện và ngành dọc cấp trên về việc tham mưu trong quản lý và chỉ đạo các

hoạt động về văn hoá, gia đình, thể dục thể thao, du lịch,… ; Phó Trưởng phòng phụ

trách công tác Quản lý DSVH, di tích danh thắng, văn hóa dân tộc; Phó Trưởng

phòng phụ trách lĩnh vực thể dục thể thao.

Với nguồn nhân lực đó, trong những năm qua, Sở VH&TT tỉnh Quảng Ninh

đã chỉ đạo Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Vân Đồn triển khai các hoạt động

QL DSVH các dân tộc trên toàn huyện nói chung, DSVH dân tộc Sán Dìu nói riêng.

Thực tiễn quản lý văn hóa cho thấy trong giai đoạn hiện nay công tác bảo tồn và

phát huy giá trị DSVH trên địa bàn huyện đang gặp nhiều khó khăn, thách thức.

Một trong những khó khăn dễ nhận thấy là đội ngũ công chức Phòng Văn hóa -

Thông tin huyện Vân Đồn vừa thiếu lại vừa yếu. Thiếu do cán bộ bị luân chuyển

liên tục như trường hợp ông Hồ Anh Tuấn, Phó Trưởng phòng phụ trách lĩnh vực

QLNN về DSVH vào tháng 5/2020, được điều chuyển về nhận công tác tại Trung

tâm Chính trị của huyện và phân công ông Lương Văn Bằng, Phó Trưởng phòng

phụ trách lĩnh vực thể thao kiêm thêm nhiệm vụ QLNN về DSVH; yếu do các cán

bộ chưa được đào tạo đúng chuyên ngành, một lúc kiêm nhiều nhiệm vụ khác nhau

và vị trí việc làm cũng thường xuyên thay đổi.

Ở cấp xã: có 01 Phó Chủ tịch UBND xã trực tiếp phụ trách chỉ đạo công tác

văn hóa - xã hội, trong đó có nhiệm vụ QLNN về DSVH trên địa bàn xã; giúp việc

cho lãnh đạo xã về công tác triển khai thực hiện chính sách văn hóa có 01 công

chức phụ trách lĩnh vực văn hoá - xã hội.

2.2.3. Hoạt động quản lý Nhà nước về di sản văn hóa ở huyện đảo Vân Đồn

2.2.3.1. Chỉ đạo thực hiện chiến lược và chính sách của Trung ương

Trong quá trình QLNN về DSVH, Đảng bộ và Chính quyền các cấp tỉnh

Quảng Ninh, trong đó có huyện Vân Đồn đã chỉ đạo, thực hiện dựa trên các quy

định của Luật Di sản văn hóa (số 28/2001/QH10) và Luật sửa đổi bổ sung một số

59

điều của Luật Di sản văn hóa (số 32/2009/QH12). Luật Di sản văn hóa quy định

đầy đủ, chi tiết các nội dung về QL DSVH vật thể và phi vật thể, các quy định về

QLNN về DSVH; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với DSVH… Đây là

những căn cứ quan trọng để tỉnh Quảng Ninh và huyện Vân Đồn thực thi các chính

sách QL DSVH tại địa phương.

Tuy nhiên, Luật Di sản văn hóa được hiện thực hóa trong quá trình chỉ đạo,

triển khai thực hiện, tỉnh Quảng Ninh đã căn cứ vào các văn bản hướng dẫn thi

hành như áp dụng Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ về

Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và luật sửa đổi, bổ

sung năm 2009 được cụ thể hóa tại điều 3 của Nghị định số 98/2010/NĐ-CP [PL

7.5, tr.217]. Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Ninh cũng đã thực hiện Chiến lược Phát

triển văn hoá đến năm 2020 [PL 7.6, tr.218] trong xây dựng quy hoạch tổng thể

QL DSVH trên địa bàn tỉnh; thực hiện các chính sách được quy định tại Nghị định

số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về Công tác dân tộc, cụ thể tại điều 13 quy

định chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa được thể hiệnnhiệm vụ chính là xây

dựng, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia để bảo tồn và phát huy các giá trị

văn hóa truyền thống; hỗ trợ việc đầu tư, giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa

DTTS [PL 7.7, tr.218-219]; Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 về Phê

duyệt Đề án Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020 với

mục tiêu tổng quát và 10 nhiệm vụ trọng tâm với nội dung cơ bản là huy động sức

mạnh của toàn xã hội nhằm phát triển văn hóa dân tộc; phát huy vai trò của các

chủ thể văn hóa; tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và khích lệ sáng

tạo các giá trị văn hóa mới; tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa

các hoạt động văn hóa [PL 7.8, tr.219-220].

Ngoài ra, tỉnh Quảng Ninh nói chung và huyện Vân Đồn nói riêng còn tổ

chức chỉ đạo, thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực QL

DSVH như: Quyết định số 2356/QĐ-TTg ngày 04/12/2013 của Thủ tướng Chính

phủ về việc Ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân

tộc đến năm 2020 [PL 7.9, tr.220]; Quyết định số 2493/QĐ-TTg ngày 22/12/2016

của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án Kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng

60

bày, tuyên truyền DSVH truyền thống điển hình của các DTTS Việt Nam, giai đoạn

2017-2020 [PL 7.10, tr.221].

Huyện đảo Vân Đồn đã chú trọng phát triển KT-XH gắn liền với QL DSVH.

Vì vậy, việc thực hiện Quyết định số 2723/QĐ-BVHTTDL, ngày 03/8/2016 của Bộ

VH,TT&DL về việc phê duyệt dự án Gắn kết phát triển kinh tế và bảo tồn, phát

triển văn hóa các DTTS đã được huyện Vân Đồn quan tâm chỉ đạo, thực hiện. Bên

cạnh việc chú trọng phát triển KT-XH bằng việc khai thác nguồn nội lực văn hóa của địa

phương. Huyện Vân Đồn đã quan tâm thực hiện các mục tiêu về nâng cao đời sống vật

chất, tinh thần của nhân dân trong các phong trào xây dựng nông thôn mới; xây dựng nếp

sống văn minh trong tiệc cưới, tang lễ và lễ hội.

Vân Đồn là địa phương có vị thế địa chính trị, kinh tế - xã hội và quốc phòng

- an ninh đặc biệt quan trọng trong nước và quốc tế. Vân Đồn nằm trên đường trung

chuyển chiến lược từ khu vực Đông Á xuống Đông Nam Á, ASEAN - Trung Quốc,

giữ vai trò quan trong trong quy hoạch phát triển vành đai kinh tế ven biển Vịnh

Bắc bộ, tam giác phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và trong chuỗi đô thị

quan trọng của vùng đồng bằng sông Hồng. Với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng

đó, Vân Đồn đã được Trung ương chú trọng quy hoạch phát triển qua từng giai đoạn

như: Quyết định số 2622/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc

Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2030; Quyết định số 1856/QĐ-TTg ngày 27/12/2018 của Thủ tướng

Chính phủ về việc Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH KKT Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 232/QĐ-TTg ngày

26/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt nhiệm vụ điều chỉnh quy hoạch

chung xây dựng KKT Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2040, tầm nhìn đến năm

2050 và thành lập Ban Quản lý KKT Vân Đồn trực thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh theo

Quyết định số 544/QĐ-TTg ngày 21/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ.

Chính vì vậy, huyện đảo Vân Đồn là một trong ba địa phương cùng với Bắc

Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang) có tốc độ phát triển KT-XH

cao cùng với việc thực hiện nhiều khâu đột phá chiến lược, trong đó phải nói đến là

lập quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH và các quy hoạch ngành, địa phương. Để

có tầm nhìn chiến lược, tỉnh Quảng Ninh đã mời các tổ chức hàng đầu về lập quy

61

hoạch như Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến

năm 2050 và ngoài 2050 do tổ chức Nikken Sekkel Civil Engineering LTD tư vấn.

Trong đó đáng chú ý quy hoạch tiểu vùng KKT Vân Đồn là khu hành chính kinh tế

với không gian phát triển về du lịch - dịch vụ, phát huy lợi thế của vùng về di tích

lịch sử văn hóa và phát triển văn hóa du lịch thông qua việc phát huy các DSVH các

DTTS, đặc biệt là các di sản của dân tộc Sán Dìu thông qua các hoạt động về tham

quan du lịch và trải nghiệm các loại hình văn hóa truyền thống.

Theo Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH huyện Vân Đồn đến năm 2020,

tầm nhìn đến năm 2030 do UBND huyện Vân Đồn làm chủ đầu tư và Trung tâm Tư

vấn phát triển và Đào tạo tư vấn đến năm 2030, Vân Đồn được xây dựng thành khu

vực phát triển KT-XH năng động để thu hút mạnh đầu tư và làm động lực thúc đẩy

sự phát triển KT-XH tỉnh Quảng Ninh, địa phương được đánh giá là vùng kinh tế

trọng điểm ở khu vực phía Bắc. Du lịch là ngành phát triển kinh tế trọng điểm của

Vân Đồn, đảm trách vai trò trung tâm trong định hướng phát triển với các loại hình

du lịch sinh thái biển, du lịch thể thao, vui chơi giải trí biển, du lịch gắn với nông

nghiệp và du lịch văn hóa,.... Loại hình du lịch văn hóa nhằm vào việc khai thác các

tiềm năng, thế mạnh về các giá trị văn hóa truyền thống để phát triển thành sản

phẩm du lịch như: lễ hội Đại phan; tục cưới xin, lễ sinh nhật, loại hình Soọng cô

hay chương trình tham quan làng bản của dân tộc Sán Dìu. Đây là loại hình du lịch

đặc sắc khi du khách đến Vân Đồn. Ngoài việc sử dụng dịch vụ cao cấp mang đẳng

cấp quốc tế, du khách còn được thăm quan, thưởng thức giá trị văn hóa đặc sắc của

dân tộc Sán Dìu được diễn ra ngay trong những khu dân cư sinh sống đông đúc và

lâu đời tại Vân Đồn.

2.2.3.2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản pháp luật về di sản văn hóa

Tỉnh Quảng Ninh nói chung và huyện Vân Đồn nói riêng đã xây dựng, ban

hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về DSVH, cụ thể như sau:

Cấp tỉnh: UBND tỉnh Quảng Ninh quan tâm đến công tác QL DSVH trong

việc chỉ đạo, điều hành phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển sự

nghiệp văn hóa - thông tin Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020

[141]. Để có căn cứ triển khai lập quy hoạch, UBND tỉnh Quảng Ninh quyết định

phê duyệt Đề cương và kinh phí Dự án lập Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa

62

DTTS tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 [142]. Năm

2007, UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch Bảo tồn và phát

triển văn hóa các DTTS tỉnh Quảng Ninh và giao Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Sở

VH&TT) làm chủ đầu tư lập quy hoạch đối với các DTTS có số dân trên 10.000

người (tính đến thời điểm ngày 31/10/2006) gồm các dân tộc: Dao; Tày; Sán Dìu;

Sán Chay. Những DTTS được UBND tỉnh chỉ đạo tập trung nghiên cứu toàn diện

văn hóa truyền thống với số lượng dân số tương đối lớn và sinh sống tập trung

thành cộng đồng làng bản. Các DTTS còn lại có số dân ít hơn và cư trú rải rác ở các

địa phương trong tỉnh thì tiến hành nghiên cứu những giá trị văn hóa dân tộc đặc sắc

hoặc có nguy cơ mai một cao để lập quy hoạch bảo tồn và phát triển mà không

nghiên cứu toàn diện.

Theo Quyết định số 4071/QĐ-UBND ngày 01/11/2007, dân tộc Sán Dìu được

của UBND tỉnh Quảng Ninh cho phép thực hiện việc bảo tồn văn hóa với những nội

dung cơ bản, gồm: bảo tồn và phát triển các giá trị DSVH vật thể như kiến trúc, nhà

ở, trang phục, công cụ lao động sản xuất, nhạc cụ, khí cụ và các đồ gốm xứ truyền

thống; bảo tồn và phát triển các giá trị DSVH phi vật thể như bảo tồn và lưu giữ các

loại hình văn học - nghệ thuật dân gian, phong tục tập quán, lễ hội dân gian; bảo tồn

và phát triển các nghề thủ công truyền thống; bảo tồn, phát huy và phát triển các tri

thức dân gian, văn hóa ẩm thực. Trung tâm văn hóa dân tộc Sán Dìu (xã Bình Dân,

huyện Vân Đồn) cũng được xây dựng nhằm bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc gắn

với phát triển kinh tế du lịch và phát triển đời sống người dân trong vùng [125].

Nguồn kinh phí thực hiện Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các dân

tộc thiểu số tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 theo

Quyết định số 4071/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 được thực hiện từ nguồn ngân

sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội với tổng nhu cầu kinh phí là

129.650.000.000 đồng, gồm các hợp phần:

Nhu cầu

Phân kỳ

kinh phí

Nguồn

TT

Nội dung

thực hiện

(triệu

kinh phí

đồng)

Điều tra khảo sát đánh giá thực trạng

1

2008-2010

500

- Ngân sách

văn hóa các DTTS Quảng Ninh để có

63

giải pháp bảo tồn và phát huy

Bảo tồn và phát huy các giá trị văn

- Ngân sách

2

2008-2015

30.000

hóa vật thể

- Xã hội hóa

Bảo tồn và phát huy các giá trị văn

- Ngân sách

3

2008-2015

3000

hóa vật thể

- Xã hội hóa

Các dự án đầu tư điều tra sưu tầm

- Ngân sách

4

2007-2020

nghiên cứu các giá trị DSVH các

69.500

- Xã hội hóa

DTTS tỉnh Quảng Ninh

Phát triển sự nghiệp văn hóa thông tin,

- Ngân sách

5

2007-2020

nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho

26.650

- Xã hội hóa

nhân dân các DTTS

Tổng

129.650

Bảng 2.1: Nguồn kinh phí thực hiện Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các

dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020

(Nguồn: Quyết định số 4071/QĐ-UBND)

Trong 05 nội dung nêu trên, ngoài nhiệm vụ chung về QL DSVH các DTTS

tỉnh Quảng Ninh, có thể nhận thấy kết quả các nhiệm vụ về QL DSVH dân tộc Sán

Dìu như dự án điều tra, sưu tầm, nghiên cứu về văn hóa dân gian truyền thống dân

tộc Sán Dìu ở Quảng Ninh đã được thực hiện trong 02 năm (2007-2008) với tổng

nguồn ngân sách là 500.000.000 đồng. Theo kế hoạch trong giai đoạn năm 2009-

2012 sẽ triển khai thực hiện dự án bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Sán Dìu ở

xã Bình Dân, huyện Vân Đồn với tổng kinh phí là 7.000.000.000 đồng từ nguồn

ngân sách và xã hội hóa, nhưng cho đến nay vẫn chưa thực hiện được.

Hộp 2.1. Lý giải về việc chậm trễ triển khai dự án bảo tồn

và phát triển văn hóa dân tộc Sán Dìu ở xã Bình Dân, huyện Vân Đồn

Việc thực hiện dự án điều tra, sưu tầm, nghiên cứu về văn hóa dân gian truyền

thống của người Sán Dìu ở Quảng Ninh đã giúp chính quyền từ tỉnh đến xã, đặc

biệt cộng đồng nhận diện được các giá trị văn hóa cổ truyền của người Sán Dìu,

để từ đó có những giải pháp QL được hiệu quả hơn. Dự án bảo tồn và phát triển

văn hóa dân tộc Sán Dìu xã Bình Dân, huyện Vân Đồn chưa bố trí được nguồn

64

lực nên chưa triển khai nhiệm vụ này.

(Nam, tuổi 62, thành phố Hạ Long, PVS tháng 5/2018)

QL DSVH DTTS, trong đó có dân tộc Sán Dìu, được cấp ủy, chính quyền

quan tâm thực hiện trong Đề án Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân

tộc trong sự nghiệp phát triển KT-XH nhanh, bền vững gắn với bảo vệ vững chắc

quốc phòng - an ninh tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

Từ đề án Tỉnh ủy Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày

29/5/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Quyết định số 1988/QĐ-UBND ngày

07/8/2013 của UBND tỉnh Quảng Ninh, theo đó nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về QL

DSVH dân tộc, gồm:

Tăng cường đầu tư phát triển văn hóa, thể thao và du lịch ở vùng DTTS;

khuyến khích phát triển các môn thể thao dân tộc; tiếp tục hoàn thiện hệ thống thiết

chế văn hóa cộng đồng; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các

DTTS; nghiên cứu xây dựng Đề án thành lập các làng dân tộc (Làng dân tộc Dao

Thanh Phán và Dao Thanh Y ở huyện Hoành Bồ, làng dân tộc Tày ở huyện Bình

Liêu, làng dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn, làng dân tộc Sán Chay ở huyện Ba

Chẽ) [PL 7.12, tr.221-222].

Trong công tác chỉ đạo thực hiện chủ trương của Đảng về QL DSVH,

UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 2994/KH-UBND ngày 08/10/2015 về

việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình hành động của Ban

Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW (khóa XI) về xây

dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền

vững đất nước. Mục tiêu của Quyết định số 2994/KH-UBND ngày 08/10/2015

đã nêu rõ: “Xây dựng con người Quảng Ninh phát triển toàn diện, hướng đến

chân - thiện- mỹ, mang tính đặc trưng tinh hoa văn hóa dân tộc kết hợp với

những yếu tố tốt đẹp của thời đại”, trong đó mục tiêu cụ thể của “công tác bảo

tồn và phát huy DSVH: Đầu tư bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, di

65

tích cánh mạng đạt chất lượng về khoa học, phục vụ giáo dục truyền thống và

phát triển kinh tế du lịch” [PL 7.13, tr.222]

Nhằm tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện về QL DSVH, Tỉnh ủy

Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 09/3/2018 của Ban

Chấp hành Đảng bộ tỉnh về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng

Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững [PL 7.11, tr.221]. Theo đó, UBND

tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Chương trình hành động số 105/CTr-UBND ngày

02/8/2018 về triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU của Ban Chấp hành

Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng

yêu cầu phát triển bền vững. Nhiệm vụ cụ thể gồm:

Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách của tỉnh trong việc bảo tồn và

phát triển văn hóa nhằm phát huy giá trị đặc sắc về văn hóa các dân tộc;

thông qua sự gắn kết giữa văn hóa và du lịch để những giá trị đặc sắc trở

thành nguồn lực, sức mạnh thúc đẩy sự phát triển trong đó xây dựng một

số thôn, làng, bản trở thành “bảo tàng sống” nhằm bảo tồn, phát huy bản

sắc văn hóa truyền thống đặc sắc trong tỉnh và trở thành sản phẩm du lịch

độc đáo để thu hút du khách [127].

Tại công văn chỉ đạo số 1859/UBND-TM4 ngày 26/3/2019 của UBND tỉnh

Quảng Ninh về việc xây dựng Đề án thành lập các Làng DTTS của tỉnh với nhiệm

vụ bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đặc trưng của các dân tộc, tạo sinh kế và

phát triển bền vững, cung cấp sản phẩm du lịch cho khách trong và ngoài nước;

phát huy tinh thần, trách nhiệm, ý thức tự giác tham gia xây dựng làng DTTS của

chính người dân; vận động, tranh thủ nguồn lực xã hội trong quá trình xây dựng

các làng dân tộc; xây dựng Đề án gắn với xây dựng chính sách hỗ trợ du lịch cộng

đồng. Công văn nêu trên có nội dung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ đặt ra trong các

nghị quyết, quyết định và chương trình hành động của Tỉnh ủy và UBND tỉnh

Quảng Ninh về công tác QL DSVH các DTTS trên địa bàn tỉnh, trong đó dân tộc

Sán Dìu tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn được chọn là nơi xây dựng làng DTTS.

66

Cấp huyện: Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Ban Thường vụ Huyện ủy đã

ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo về phát triển

KT-XH, phát triển văn hóa, xây dựng Nông thôn mới và bảo đảm quốc phòng -

an ninh, trong đó nhiều nội dung tập trung ưu tiên cho phát triển KT-XH, bảo

đảm an ninh chính trị, an toàn xã hội và nâng cao đời sống nhân dân vùng DTTS.

Những văn bản này cũng chỉ đạo các cơ quan, ban ngành, Mặt trận Tổ quốc và

các đoàn thể triển khai thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động gắn với

thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động.

Công tác QL DSVH được quan tâm thực hiện thông qua việc giữ gìn và phát

huy giá trị các lễ hội, các di tích, danh thắng... HĐND huyện đã xây dựng và ban

hành Nghị quyết số 105/NQ-HĐND ngày 20/12/2019 về việc Thông qua Đề án Bảo

tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân

Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2020-2022. Thực hiện Nghị quyết số 105/NQ-

HĐND ngày 20/12/2019, UBND huyện Vân Đồn đã ban hành Quyết định số

2427/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 và Kế hoạch số 1517/KH-UBND ngày 29/6/2020

về triển khai thực hiện Nghị quyết nêu trên với mục tiêu:

Bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa dân

tộc Sán Dìu trên địa bàn huyện mang tính chất đầu tư tổng hợp, đồng bộ,

khôi phục lại tất cả các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể trọng tâm của

người Sán Dìu; trên cơ sở đó nhân rộng và phát huy các giá trị văn hóa

vật thể, phi vật thể truyền thống đặc trưng của người Sán Dìu gắn với

phát triển kinh tế du lịch, góp phần thúc đẩy đời sống kinh tế - xã hội của

huyện [129].

Các nhiệm vụ đặt ra trong công tác BV&PH giá trị DSVH người Sán Dìu ở

huyện Vân Đồn được thực hiện ở giai đoạn 2020-2022 với nguồn kinh phí:

2.668.580.000 đồng, trong đó: nguồn ngân sách nhà nước: 2.296.580.000 đồng;

nguồn xã hội hóa: 372.000.000 đồng. Về các nhiệm vụ trước mắt trong 06 tháng

cuối năm 2020, Phòng Văn hóa - Thông tin đang thực hiện nhiệm vụ chủ trì tham

mưu triển khai mở lớp dạy tiếng Sán Dìu; mở lớp truyền dạy dân ca Sán Dìu; bảo

tồn ngữ văn dân gian Sán Dìu và tổ chức lễ hội Đại phan vào quý IV/2020.

67

Trước thực trạng đặt ra đối với công tác QL DSVH các DTTS trên địa bàn

tỉnh Quảng Ninh nói chung và dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn nói riêng, có

thể nhận thấy cơ quan chức năng từ cấp tỉnh đến huyện đã quan tâm và ban hành

khá toàn diện cơ chế, chính sách thuận lợi để chính quyền các cấp cũng như cộng

đồng có thể thực hiện được các biện pháp cụ thể trong QL DSVH.

2.2.3.3. Tổ chức hoạt động nghiệp vụ quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu

ở huyện đảo Vân Đồn

* Hoạt động kiểm kê, phân loại DSVH huyện đảo Vân Đồn với kết quả cụ

thể như sau:

TT

Loại hình

Toàn tỉnh

Huyện Vân Đồn

1 Tập quán xã hội 2 Nghệ thuật trình diễn 3 Lễ hội truyền thống 4 Tiếng nói, chữ viết 5 Nghề thủ công truyền thống 6 Tri thức dân gian 7 Ngữ văn dân gian

Tổng 72 28 64 7 23 0 10 204 1 2 2 2 2 4 0 13

DSVH người Sán Dìu tại huyện Vân Đồn 0 0 1 1 2 2 0 6

Bảng 2.2. Tổng hợp từ Danh mục kiểm kê DSVH phi vật thể tỉnh Quảng Ninh của Sở Văn hóa và Thể thao ngày 22/9/2016 (Nguồn: NCS tổng hợp)

Bảng số liệu trên cho thấy, Sở VH&TT đã tiến hành kiểm kê DSVH phi vật

thể trên địa bàn toàn tỉnh và bước đầu nhận diện bức tranh tổng thể về DSVH phi

vật thể gồm có 204 di sản, với đầy đủ loại hình của cộng đồng các dân tộc tỉnh

Quảng Ninh. Tuy nhiên, công tác kiểm kê DSVH của toàn tỉnh và địa phương lại

chưa có sự đồng nhất, cụ thể loại hình tri thức dân gian cấp tỉnh không có di sản nào

trong khi đó huyện Vân Đồn có 4 DSVH. Khi đối chiếu cụ thể hơn vào dân tộc Sán

Dìu tại huyện Vân Đồn, có nhiều loại hình DSVH của dân tộc Sán Dìu rất đặc sắc,

nhưng chưa được đưa vào danh mục kiểm kê như: tập quán xã hội; nghệ thuật trình

diễn dân gian; ngữ văn dân gian… Tại các địa phương có đông người dân tộc Sán

Dìu sinh sống như các tỉnh: Tuyên Quang, Thái Nguyên và Vĩnh Phúc loại hình

68

nghệ thuật trình diễn dân gian và ngữ văn dân gian đã được xây dựng hồ sơ và được

Bộ VH,TT&DL công nhận là DSVH phi vật thể cấp quốc gia tại các Quyết định số

1877/QĐ-BVHTTDL ngày 08/6/2015; Quyết định số 3465/QĐ-BVHTTDL ngày

13/10/2015; Quyết định số 4069/QĐ-BVHTTDL ngày 30/10/2018. Qua đây, cho

thấy công tác kiểm kê chưa được khoa học và cũng chưa đầy đủ.

Thực tế kiểm kê các loại hình DSVH của dân tộc Sán Dìu cho thấy: tiếng nói

được bảo tồn tốt và được sử dụng trong đời sống hàng ngày, chữ viết đang bị mai

một và chỉ còn lưu giữ bởi một số thầy cúng và thầy thuốc người dân tộc Sán Dìu.

Lễ hội Đại phan được phục dựng vào năm 2008, từ đó đến nay chưa được tổ chức

lại lần nào. Nghề thủ công truyền thống, gồm: nghề đan lát để sử dụng trong sinh

hoạt hiện nay vẫn duy trì nhưng không phát triển và có nguy cơ mai một, nghề dệt

chiếu hiện nay không còn. Tri thức dân gian về chữa bệnh vàng da, thận và xương

khớp đang được duy trì nhưng có nguy cơ bị mai một. Tri thức liên quan đến ẩm

thực như cách làm khâu nhục, các loại bánh chưng, tày lòng ệp, bánh lồng gà, bánh

bạc đầu…vẫn còn được duy trì.

Tại cấp huyện, Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Vân Đồn chủ trì, phối hợp với

ban ngành, địa phương đã tiến hành khảo sát giá trị văn hóa vật thể gồm: miếu thờ

Thành hoàng; trang phục truyền thống [130].

* Hoạt động QL DSVH người Sán Dìu

- Các hoạt động QL DSVH vật thể

Về hoạt động tu bổ, tôn tạo DSVH vật thể của người Sán Dìu ở huyện đảo

Vân Đồn, phương án trùng tu, tôn tạo đã được xây dựng và đang trong quá trình

thực hiện, cụ thể như:

Nhà Văn hóa dân tộc tại xã Bình Dân là công trình văn hóa thuộc dự án đầu

tư của Bộ VH,TT&DL xây dựng năm 2006 với mục đích là nơi sinh hoạt văn hóa

cộng đồng, tổ chức các lớp học cộng đồng, nơi trưng bày những sản phẩm văn hóa

đặc trưng và giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Sán Dìu. Tuy

nhiên, qua nhiều năm sử dụng công trình phần ngoại thất đang xuống cấp nghiêm

trọng, phần nội thất gần như chưa trưng bày các hiện vật về đời sống văn hóa của

dân tộc Sán Dìu. Trước thực trạng đó, UBND huyện Vân Đồn giao UBND xã Bình

69

Dân là cơ quan chủ trì có trách nhiệm trùng tu, tôn tạo nhà văn hóa dân tộc, thời

gian thực hiện năm 2020, nguồn kinh phí đang được phân khai theo Quyết định số

1427/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 của UBND huyện Vân Đồn [129].

Khôi phục nguyên gốc Miếu Thành hoàng tại xã Bình Dân với những nghi

lễ, phong tục thờ tự, nghi lễ rước các thần linh từ Miếu về trung tâm lễ hội Đại

phan. Khôi phục miếu trên nền đất cũ với tổng diện tích khuôn viên 45m², trong

đó diện tích miếu là 25m². UBND huyện Vân Đồn giao UBND xã Bình Dân phối

hợp Phòng Văn hóa - Thông tin và các đơn vị có liên quan triển khai nhiệm vụ

khôi phục Miếu Thành hoàng, thời gian thực hiện năm 2020, nguồn kinh phí đang

được phân khai theo Quyết định số 1427/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 của UBND

huyện Vân Đồn.

- Các hoạt động QL DSVH phi vật thể

Năm 2008, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh đã phối hợp với UBND

huyện Vân Đồn tổ chức phục dựng lễ hội Đại phan, công tác phục dựng lễ hội được

tổ chức thực hiện như sau:

Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Ninh lập hồ sơ khoa học nghiên cứu lễ

hội Đại phan; xây dựng dự toán kinh phí phục dựng lễ hội và chủ trì, tổ chức thực

hiện phục dựng lễ hội Đại phan tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn.

UBND huyện Vân Đồn: Chỉ đạo các phòng, ban chức năng thuộc huyện thực

hiện hướng dẫn, giám sát và đảm bảo an ninh trật tự khi tổ chức phục dựng lễ hội.

Phòng Văn hóa - Thông tin thực hiện các nhiệm vụ: xây dựng văn bản hướng

dẫn; lập danh sách khách mời lễ hội; trực tiếp xây dựng chương trình tổng thể hoạt

động lễ hội; xây dựng sơ đồ phối cảnh không gian, ma két trang trí từng nội dung hoạt

động của lễ hội và tổ chức triển khai thực hiện; chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị chuẩn bị

nội dung, nhân lực, cơ sở vật chất và tổ chức tập luyện theo kịch bản lễ hội; xây dựng

và điều hành kịch bản lễ hội; tổ chức các hoạt động báo chí phục vụ công tác tuyên

truyền trước, trong và sau lễ hội trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và

ngoài huyện; triển khai công tác tuyên truyền trực quan bằng pano, băng zôn, khẩu

hiệu,… trên các tuyến đường chính vào xã, đường dẫn vào khu tổ chức lễ hội.

Công an huyện thực hiện nhiệm vụ: xây dựng phương án đảm bảo an ninh,

70

trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ, phòng chống cháy

rừng; phối hợp với UBND xã Bình Dân sắp xếp trật tự hàng quán, kiểm tra việc treo

biển niêm yết giá từng loại mặt hàng tại các quán; đảm bảo an ninh trật tự, an toàn

các nghi lễ và hoạt động lễ hội khác; xây dựng và triển khai phương án phân luồng,

phân tuyến đảm bảo an toàn giao thông trên các tuyến đường vào khu tổ chức lễ

hội. Bố trí, sắp xếp vị trí đỗ xe của đại biểu và du khách thập phương.

Trung tâm y tế thực hiện nhiệm vụ: tổ chức phun thuốc muỗi phòng dịch tại

khu vực Lễ hội; chủ trì phối hợp cùng với xã kiểm tra đảm bảo công tác vệ sinh an

toàn thực phẩm tại Lễ hội và các cơ sở lưu trú trên địa bàn; khảo sát địa điểm, bố trí

các đội cấp cứu lưu động tại lễ hội.

Từ một lễ hội đã bị gián đoạn không tổ chức vào những năm 60 của thế kỷ

trước cho đến năm 2008, huyện Vân Đồn đã phục dựng lễ hội Đại phan thành công,

theo kế hoạch vào quý IV/2020, lễ hội Đại phan được tổ chức với nguồn ngân sách

của huyện Vân Đồn theo Kế hoạch số 1517/KH-UBND ngày 29/6/2020.

Năm 2015, UBND xã Bình Dân thành lập CLB Sọong cô xã Bình Dân. CLB

hoạt động tương đối hiệu quả, sinh hoạt mỗi tháng ít nhất 01 lần/tháng. Các thành

viên trong CLB tự nguyện đóng góp kinh phí để tổ chức sinh hoạt tại địa phương và

đi giao lưu với các tỉnh khác.

Bên cạnh những thuận lợi, việc tổ chức hoạt động của CLB cũng gặp những

khó khăn như: chính quyền chưa hỗ trợ kinh phí cho CLB hoạt động; CLB hoạt

động với nguồn kinh phí tự đóng góp nên cũng gặp nhiều khó khăn trong việc đi

giao lưu với các huyện bạn, các tỉnh bạn; tầng lớp thanh thiếu niên không am hiểu

về nét đẹp truyền thống, tiếng hát dân ca Sán Dìu, còn e ngại và không thích tham

gia vào các hoạt động của CLB.

2.2.3.4. Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa

Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về DSVH trên

địa bàn tỉnh và huyện Vân Đồn rất đa dạng, từ các hội nghị trực tuyến, ấn phẩm sách,

báo, pano áp phíc, tơ rơi đến các buổi tuyên truyền tại nhà văn hóa thôn, cụ thể:

71

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Ninh về xây dựng và phát triển

văn hóa của tỉnh tại Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 05/4/2019, Tỉnh ủy Quảng

Ninh tổ chức hội nghị quán triệt, triển khai Nghị quyết số 11-NQ/TU về xây dựng

và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.

Hội nghị đã quán triệt từ lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, Đoàn Đại biểu

Quốc hội tỉnh; các Ban xây dựng Đảng Tỉnh ủy, các sở, ngành, tổ chức, đoàn thể và

186 xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh dự họp thông qua hệ thống trực tuyến.

Trên quan điểm văn hóa, con người là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là

nguồn lực để phát triển KT-XH, là sức mạnh nội sinh quan trọng phục vụ cho sự

phát triển bền vững của tỉnh, đồng chí Nguyễn Văn Đọc, nguyên Bí thư Tỉnh ủy

Quảng Ninh nhấn mạnh các cấp ủy, chính quyền địa phương, nhân dân các dân tộc

trong tỉnh cần bảo vệ, giữ gìn và phát huy bền vững những giá trị truyền thống tốt

đẹp; chỉ ra và từng bước loại trừ những phong tục tập quán lạc hậu, những hủ tục;

chăm lo, nuôi dưỡng, khẳng định những giá trị mới đang hình thành.

Ngoài ra, Ban Dân tộc tỉnh thực hiện lồng ghép các buổi tuyên truyền, vận

động vào các đề án, các lớp bồi dưỡng cho cán bộ xã, thôn và người có uy tín trong

đồng bào DTTS, trong đó có nội dung về QL DSVH, cụ thể như: Đề án Đẩy mạnh

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào vùng

DTTS và miền núi giai đoạn 2017-2021 theo Quyết định số 1163/QĐ-TTg ngày

08/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 1163); Quyết định số 498/QĐ-TTg

ngày 14/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hôn

và hôn nhân cận huyết thống trong vùng DTTS giai đoạn 2015-2025.

Huyện Vân Đồn tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ thôn bản,

Người có uy tín trong đồng bào DTTS. Thông qua các lớp bồi dưỡng, tập huấn này,

những người tham gia lớp học đã gương mẫu thực hiện và tích cực tuyên truyền,

vận động người dân trong cộng đồng thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới,

việc tang và lễ hội được duy trì nghiêm túc, bảo đảm thuần phong mỹ tục theo đúng

quy định, Hương ước, quy ước của khu dân cư; tích cực hưởng ứng tham gia các

phong trào, các cuộc vận động, đặc biệt là cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây

72

dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; Xây dựng nếp sống văn minh đô thị; Xây

dựng nông thôn mới. Nhiều hộ gia đình DTTS đã dần thay đổi được các thói quen,

hủ tục lạc hậu trong sinh hoạt.

2.2.3.5. Tổ chức nghiên cứu khoa học

Năm 2007, Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Quảng Ninh thực hiện nhiệm vụ

khoa học công nghệ cấp tỉnh Sưu tầm, nghiên cứu, đề xuất giải pháp bảo tồn và

phát huy giá trị văn hoá dân gian cổ truyền của người Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh.

Thời gian thực hiện 16 tháng (từ tháng 9/2007 đến tháng 12/2008), kinh phí thực

hiện 500.000.000 đồng. Mục tiêu của đề tài là sưu tầm, nghiên cứu, đề xuất giải

pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân gian cổ truyền của dân tộc Sán Dìu ở

tỉnh Quảng Ninh.

Đề tài đã tiến hành điều tra, sưu tầm DSVH phi vật thể và vật thể của dân tộc

Sán Dìu ở Quảng Ninh; phục dựng ba hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian của dân

tộc Sán Dìu tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, gồm: lễ hội Đại

phan, hát Soọng cô và múa Hành quang.

Đề tài điều tra sưu tầm DSVH truyền thống: phạm vi điều tra tại 60 thôn của

30 xã, phường, thị trấn thuộc 08 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh có số người dân

tộc Sán Dìu sinh sống trên 500 người trở lên trong đó có huyện Vân Đồn (thị trấn

Cái Rồng, các xã Đoàn Kết, Hạ Long, Vạn Yên, Bình Dân, Đông Xá, Đài Xuyên).

Đề tài tổng hợp, phân tích, xử lý số liệu, xây dựng các chuyên đề: Chuyên đề

1: Văn hoá ăn, ở, mặc và nghề truyền thống của dân tộc Sán Dìu; chuyên đề 2: Tín

ngưỡng, phong tục tập quán của dân tộc Sán Dìu tỉnh Quảng Ninh; chuyên đề 3:

Văn học, nghệ thuật dân gian của dân tộc Sán Dìu tỉnh Quảng Ninh; chuyên đề 4:

Các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân gian truyền thống của dân tộc

Sán Dìu tỉnh Quảng Ninh.

Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Viện Văn hoá - Thông

tin (nay là Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam), Bảo tàng Văn hoá các dân

tộc Việt Nam, Hãng phim Xanh, UBND huyện Vân Đồn, UBND xã Bình Dân tiến

hành nghiên cứu để phục dựng 03 hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian của người Sán

73

Dìu tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, gồm: nghiên cứu phục dựng lễ

hội Đại phan, đây là lễ hội có quy mô lớn với các lễ thức nông nghiệp, cầu an, cầu siêu,

cấp sắc....; Soọng cô là hình thức hát đối đáp giữa nam và nữ chứa đựng nhiều bài dân

ca phản ánh sinh hoạt có giá trị thẩm mỹ, giá trị tư tưởng và đạo đức của dân tộc Sán

Dìu; thể loại múa Hành quang (Háng cong) là điệu múa dâng thần và tiễn thần trong

nghi lễ cấp sắc của dân tộc Sán Dìu. Mặc dù được sử dụng trong lễ cấp sắc, nhưng đây

cũng là một thể loại múa tạo không khí vui tươi trong các hoạt động giải trí, bởi nó mô

phỏng lại các hoạt động lao động sản xuất như hoàng mẫu giã gạo, xay thóc, hoàng

mẫu xây đập đào kênh, trồng cây, chăm sóc bản thân, giải trí thư giãn như chải đầu hay

thuỷ ngư vọng nguyệt,... Đây là một trong những điệu múa đặc trưng cho bản sắc văn

hóa, có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ của dân tộc Sán Dìu.

Năm 2019, HĐND chỉ đạo UBND huyện Vân Đồn xây dựng Đề án Bảo tồn,

phát huy giá trị văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc Sán Dìu, huyện Vân

Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2020-2022. Mục đích của Đề án là:

Khôi phục để BV&PH một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian tích

hợp nhiều yếu tố văn hóa đặc trưng của dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo

Vân Đồn; Khai thác và phát huy những tiềm năng văn hóa, văn nghệ

truyền thống trong đời sống văn hóa của nhân dân các dân tộc huyện Vân

Đồn; góp phần bảo tồn kho tàng văn hóa dân tộc các vùng miền trong

huyện; Nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền và toàn thể nhân

dân trong BV&PH giá trị DSVH của dân tộc Sán Dìu gắn với phát triển

kinh tế du lịch góp phần thúc đẩy đời sống KT-XH phát triển trong lộ

trình trở thành KKT Vân Đồn [49].

Năm 2019-2020, Ban Dân tộc được UBND tỉnh giao nhiệm vụ xây dựng đề

án làng DTTS, gồm các nội dung chính sau:

(1) Khảo sát, đánh giá thực trạng và hoạch định các tiêu chí, nội dung, định

mức xây dựng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa một số làng DTTS gắn

với phát triển bền vững giai đoạn 2020-2025; (2) Xác định mục tiêu; phạm

vi xây dựng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa một số làng DTTS theo lộ

74

trình, từng giai đoạn, thời gian cụ thể; (3) Tổng hợp, phân tích, dự tính nhu

cầu vốn để xây dựng và phát triển một số làng DTTS; (4) Xác định các

nhiệm vụ trọng tâm theo lộ trình, giai đoạn đối với sở, ngành liên quan và

chính quyền, nhân dân các địa phương có làng DTTS trong quá trình xây

dựng và phát triển Làng; (5) Đưa ra giải pháp thực hiện, trình Hội đồng

nhân dân tỉnh ban hành cơ chế hỗ trợ việc xây dựng, bảo tồn và phát huy

bản sắc văn hóa một số làng DTTS theo hướng phát triển bền vững phù hợp

xu thế hội nhập [128].

Qua đó, Ban Dân tộc tỉnh đã phối hợp với UBND huyện Vân Đồn tiến hành

khảo sát, xây dựng đề án trình UBND tỉnh Quảng Ninh về việc cho phép xây dựng

làng dân tộc Sán Dìu tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn. Trong quý I/2020, Ban Dân

tộc đã hoàn thiện Dự thảo lần 01 Đề án làng DTTS, đồng thời nghiên cứu, bổ sung

thêm một số nội dung để phù hợp với Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng

bào DTTS, miền núi giai đoạn 2021-2030 theo Nghị quyết 88/2019/QH14 của Quốc

hội phê duyệt ngày 18/11/2019.

2.2.3.6. Huy động và sử dụng các nguồn lực để quản lý di sản văn hóa.

Chính quyền các cấp quan tâm đầu tư, hỗ trợ kinh phí cho lĩnh vực DSVH từ

các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án, đề tài nghiên cứu khoa học từ nguồn

ngân sách sự nghiệp hàng năm; lồng ghép các chương trình, nguồn đầu tư của các

ngành KT-XH khác như: thể thao, công tác dân tộc, tôn giáo, du lịch và chương

trình xây dựng nông thôn mới. Các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đã và đang

triển khai nhiều dự án về QL DSVH, như: UNESCO, iSEE, Hội Văn nghệ dân gian

Việt Nam,…

Việc QL DSVH có sự đóng góp tích cực, hiệu quả của chủ thể văn hóa chính

là cộng đồng dân tộc Sán Dìu. Cần phát huy nội lực, ý thức tự thân của cộng đồng

trong việc xây dựng và khai thác hiệu quả thiết chế văn hóa thông tin cơ sở để phục

vụ công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu góp phần làm phong phú thêm đời sống văn

hóa cộng đồng. Đồng thời, đó cũng là động lực để cộng đồng phát triển KT-XH

cũng như bảo tồn, sử dụng và khai thác bền vững DSVH. Năm 2008, Sở VH&TT tổ

75

chức phục dựng lễ hội Đại phan từ nguồn ngân sách nhà nước và cùng sự ủng hộ về

ngày công lao động của người dân; mỗi hộ gia đình trong xã Bình Dân đóng góp

50.000 đồng/hộ; mỗi thôn có một mâm lễ dâng cúng tại lễ hội; rất nhiều người dân

tộc Sán Dìu từ các địa phương khác đến dự và đóng góp kinh phí cho lễ hội.

Để đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động QL DSVH và khơi dậy niềm tự hào

dân tộc thông qua hoạt động về nguồn, giáo dục di sản từ các nghệ nhân truyền dạy

tri thức văn hóa truyền thống cho con cháu, nhiều trường học đã mời các nghệ nhân

đến truyền dạy tại các lớp học trên địa bàn các xã có đông người Sán Dìu sinh sống

như các xã: Bình Dân, Đoàn Kết, Đông Xá…

2.2.3.7. Tổ chức việc động viên khen thưởng

Năm 2002, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam ban hành Quy chế công nhận

danh hiệu “NNDG”; năm 2003 Quốc hội ban hành Luật Thi đua, Khen thưởng có nội

dung về danh hiệu “NNND, NNƯT” để phong tặng cho các cá nhân có nhiều năm

trong nghề, kế tục, gìn giữ, sáng tạo và phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền

thống (Điều 65). Năm 2005, Luật Thi đua, Khen thưởng sửa đổi, bổ sung điều 65

“Danh hiệu NNND, NNUT để tặng cho cá nhân có công BV&PH giá trị DSVH phi vật

thể”. Việc sửa đổi nội dung lần này đã bao trùm hết tất cả các loại hình của DSVH.

Cụ thể hóa Luật Di sản văn hóa và Luật Thi đua, Khen thưởng, Chính phủ đã

ban hành Nghị định 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014 quy định xét tặng danh hiệu

“NNND và “NNƯT” trong lĩnh vực DSVH phi vật thể và tổ chức xét tặng danh hiệu

NNƯT lần thứ nhất năm 2015. Nghị định 62/2014/NĐ-CP đánh dấu một sự nỗ lực của

Chính phủ Việt Nam trong việc thực thi Công ước 2003, Luật Di sản văn hóa cũng

như ban hành các văn bản pháp luật quốc gia, bổ sung hệ thống hành lang pháp lý ghi

danh những nghệ nhân, người đóng vai trò chủ chốt trong việc trao truyền và thực hành

di sản [38, tr.158].

Hàng năm, Chi hội Văn nghệ dân gian huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh đều

xây dựng hồ sơ đề nghị Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam xét tặng danh hiệu NNDG

cho các nghệ nhân người DTTS trên địa bàn huyện. Hiện nay, có 04 nghệ nhân là

người dân tộc Sán Dìu thuộc xã Bình Dân, huyện Vân Đồn được phong tặng NNDG.

76

2.2.3.8. Hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết

khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa

Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động QL DSVH có vai trò

quan trọng nhằm ngăn ngừa các vi phạm về QL DSVH. Việc giám sát hoạt động

được thực hiện định kỳ, thường xuyên thông qua các hình thức kiểm tra, thanh tra

đột xuất hoặc kiểm tra, thanh tra khi có đơn tố cáo, khiếu nại.

Luật Di sản văn hóa năm 2001 quy định rõ nội dung và nhiệm vụ thanh tra

Nhà nước về công tác văn hóa, thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về DSVH.

Theo đó, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ quan trọng của các cấp,

ngành nhằm đảm bảo việc quản lý DSVH được thực thi hiệu quả, đúng pháp luật. Đoàn

kiểm tra của Chính phủ, Bộ, liên bộ, liên ngành thường xuyên thanh, kiểm tra công tác

QLNN về DSVH tại các tỉnh thành phố. UBND cấp tỉnh, cấp huyện thường xuyên chỉ

đạo thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra. Cơ quan chuyên môn như Sở VH&TT cũng

thường xuyên thanh kiểm tra các hoạt động về QL DSVH còn các xã thì thường xuyên

kiểm tra, hướng dẫn thực hiện công tác QL DSVH tại cơ sở.

2.3. Thực trạng quản lý của cộng đồng đối với di sản văn hóa dân tộc

Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

2.3.1. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong thực hành và hưởng thụ di sản

văn hóa

Công ước BV&PH sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa của UNESCO đã

khẳng định vai trò quan trọng của cộng đồng trong QL DSVH “không có văn hóa

nếu không có người dân và cộng đồng”. Đồng thời, Công ước khẳng định, văn hóa

là sản phẩm của con người sáng tạo ra trong quá trình sinh hoạt, lao động và các sản

phẩm văn hóa quay trở lại phục vụ nhu cầu đời sống của cộng đồng. Văn hóa chính

là tài sản của cộng đồng, do cộng đồng sáng tạo, nuôi dưỡng và trao truyền từ thế hệ

này sang thế hệ khác, tạo nên bản sắc văn hóa riêng của từng dân tộc. Do vậy, cộng

đồng chính là chủ thể sáng tạo, thực hành và cũng chính là đối tượng hưởng thụ các

giá trị văn hóa. Chủ thể DSVH có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng; khẳng định

77

DSVH đó có bản sắc riêng, thuộc về cộng đồng chứ không pha lẫn sắc thái văn hóa

với cộng động khác.

Tỉnh Quảng Ninh có nhiều thành phần DTTS, trong đó có các DTTS: Dao,

Tày, Sán Dìu, Sán Chay với số dân trên 15.000 người, sinh sống mật cư thành cộng

đồng làng bản, cư trú đan xen nhau, như: dân tộc Sán Dìu cư trú cùng dân tộc Tày

(huyện Đông Triều); dân tộc Sán Dìu cư trú cùng dân tộc Dao (huyện Đầm Hà,

huyện Vân Đồn);… Trong quá trình sinh sống, lao động sản xuất, mỗi dân tộc có

một sắc thái văn hóa riêng được thể hiện qua không gian cư trú, văn hóa vật thể, phi

vật thể. Trong quá trình cư trú đan xen lâu đời, tuy mỗi dân tộc thể hiện giá trị văn

hóa riêng có của dân tộc mình nhưng lại cũng tiếp thu một cách linh hoạt và sáng

tạo giá trị văn hóa của dân tộc cận cư.

Kết quả điều tra xã hội học tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn2 cho thấy: khi

được hỏi ông/bà có hiểu biết gì về lễ hội Đại phan có 68% người trả lời “biết rất

nhiều” do năm 2008 Sở VH&TT phục dựng thành công lễ hội Đại phan và những

năm sau được nhiều địa phương khác trong tỉnh tổ chức. Bên cạnh đó có 33/213

người chiếm 15% người trả lời biết rất ít vì họ không tham gia trực tiếp lễ hội mà

chỉ biết qua các phương tiện truyền thông.

(Nguồn: NCS tổng hợp)

Thực hành lễ hội Đại phan là những người thực hành tín ngưỡng dân gian

2 Điều tra xã hội học tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh vào tháng 8 năm 2019.

trong cộng đồng. Để tổ chức lễ hội Đại phan tại xã Bình Dân phải là người có cấp

78

bậc cao nhất trong hệ thống cấp bậc thầy cúng. Theo đó, người thầy có chức sắc cao

nhất là Giám độ sư đứng ra chủ trì toàn bộ các thực hành tín ngưỡng, từ tập hợp hơn

33 thầy cúng (13 thầy cúng tại xã Bình Dân, 08 thầy cúng ở các huyện khác trong

tỉnh và 12 thầy cúng từ Đồng Nai) đến để phân công công việc, nhóm thì viết sớ,

nhóm lo chuẩn bị lễ, nhóm thực hiện các bài cúng tế. Trong lễ Đại phan cũng diễn

ra hệ thống các nghi lễ như: trấn trạch, cầu an, cầu phúc, cầu siêu, phong sắc cho

các thầy cúng muốn lên cấp cao hơn. Trong lễ hội Đại phan tổ chức năm 2008, xã

Bình Dân có 01 thầy cúng được phong chức Đại phan sư, 03 thầy phong chức Tổng

xuyến và 05 người trải qua lễ nhập đạo tràng để bước đầu học thực hành tín

ngưỡng. Lễ hội Đại phan tổ chức là dịp cộng đồng dân tộc Sán Dìu không chỉ trong

huyện đảo Vân Đồn mà còn có đông đảo người Sán Dìu trong và ngoài tỉnh và các

dân tộc Kinh, Dao, Hoa, Tày… về tham dự và có thể xin tham gia một số tiết lễ

trong lễ hội Đại Phan như cầu an, cầu thọ, lội than… sự tham gia và hưởng thụ các

giá trị trong lễ hội Đại phan luôn là món ăn tinh thần không thể thiếu trong cộng

đồng dân tộc Sán Dìu.

Về lĩnh vực dân ca được những người cao tuổi trong cộng đồng chủ yếu thực

hành chiếm 32% (68/213 người) và một số ít người trẻ tuổi sinh hoạt trong CLB

Soọng cô của xã chiếm 17% (37/213 người) biết nhiều dân ca, còn lại phần lớn là

biết ít và không biết đến các loại hình dân ca.

(Nguồn: NCS tổng hợp)

Những người biết hát dân ca đều sinh hoạt thường xuyên một tuần một lần

trong CLB Soọng cô xã Bình Dân với độ tuổi trẻ nhất từ 35 tuổi và cao tuổi nhất là

79

trên 80 tuổi. Những dịp đi giao lưu hay chính quyền các cấp tổ chức các sự kiện văn

hóa thì CLB tập luyện thường xuyên hơn. Hiện nay, để trẻ hóa các hội viên trong

CLB là một vấn đề rất khó khăn, việc thực hành các làm điệu dân ca được các bậc

cao niên, đặc biệt là các NNDG truyền dạy những hội viên trẻ trong CLB.

Kết quả trên cho thấy, về cơ bản các giá trị DSVH vẫn được cộng đồng dân

tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn gìn giữ, BV&PH. Tuy nhiên, mức độ hiểu biết

về DSVH có sự khác nhau về độ tuổi, cụ thể ở độ tuổi từ 41 đến trên 60 tuổi (từ 41-

50 tuổi; 51-60 tuổi; trên 60 tuổi) mức độ hiểu biết về phong tục, tập quán tốt hơn

nhiều so với độ tuổi còn lại (ở độ tuổi từ 18 tuổi đến 40 tuổi). Điều đó cho thấy, giá

trị DSVH của dân tộc Sán Dìu vẫn được cộng đồng gìn giữ và coi đó là tài sản vô

giá của dân tộc. Bên cạnh đó, cũng nói lên một thực tế trong giới trẻ hiện nay, nhiều

người còn chưa hiểu biết nhiều về phong tục, tập quán của dân tộc mình.

Hộp 2.2. Hoạt động của cộng đồng dân tộc Sán Dìu

Bản sắc văn hóa Sán Dìu về cơ bản hiện nay vẫn được bảo tồn và duy trì khá tốt,

tuy nhiên cũng cần thẳng thắn nhìn nhận các giá trị văn hóa đó đang dần mai một, vì

xã hội ngày càng phát triển các thế hệ trẻ có nhiều mối quan tâm hơn trong học tập,

trong công việc, trong các mối quan hệ xã hội. Do vậy, cộng đồng dân tộc Sán Dìu

chúng tôi hằng năm tổ chức các buổi gặp mặt, giao lưu cộng đồng dân tộc Sán Dìu

cả nước, tổ chức luân phiên từng tỉnh có đông người dân tộc Sán Dìu sinh sống để

thắt chặt tình đoàn kết cũng như bảo vệ DSVH của dân tộc mình

(Nữ, tuổi 65, thành phố Cẩm Phả, PVS tháng 3/2020)

Nhìn ra các địa phương khác, cho thấy các giá trị văn hóa truyền thống dân

tộc Sán Dìu không chỉ được khẳng định trong cộng đồng dân tộc Sán Dìu mà còn

lan tỏa đến các dân tộc khác như: tại khu du lịch tâm linh Tây Thiên (huyện Tam

Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc), nhân viên mặc trang phục truyền thống dân tộc Sán Dìu

phục vụ khách du lịch; lễ hội Đại Phan - một lễ hội tín ngưỡng lớn nhất của người

Sán Dìu được dân tộc Dao (huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh) xin cấp phép của Sở

VH&TT tỉnh Quảng Ninh để tổ chức vào năm 2015; ở các khu du lịch của thành

phố Hạ Long, Vân Đồn, đặc biệt là các khu dân cư, thực khách dễ dàng được

80

thưởng thức các món ăn truyền thống của dân tộc Sán Dìu như: bánh bạc đầu,

bánh tày loòng ệt, bánh lá ngải, khau nhục… do chính tay dân tộc Sán Dìu hay

người dân tộc khác thực hiện. Như vậy, vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng dân

tộc Sán Dìu trong QL DSVH không chỉ trong cộng đồng mà đã lan tỏa đến các

dân tộc khác. Về mối quan hệ giữa sáng tạo văn hóa và sử dụng, thụ hưởng văn

hóa thì cộng đồng dân tộc Sán Dìu là chủ thể sáng tạo, các cộng đồng dân tộc khác

sinh sống cùng trên địa bàn là chủ thể khai thác, sử dụng và phát huy giá trị văn

hóa truyền thống đó. Các giá trị văn hóa này trở thành nguồn lực nội sinh thúc đẩy

KT-XH phát triển.

Qua đây, ta thấy vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng dân tộc Sán Dìu ở

tỉnh Quảng Ninh nói chung và huyện đảo Vân Đồn nói riêng luôn được khẳng

định và phát huy trong mọi bối cảnh; thông qua quá trình giao lưu, tiếp xúc văn

hóa, các giá trị DSVH ngày càng được củng cố, làm giàu thêm kho tàng DSVH

của dân tộc Sán Dìu. Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng thế hệ trẻ

chính là chủ nhân tương lai của các DSVH nhưng ngày càng ít người thực hành và

hưởng thụ DSVH, không hẳn họ quay lưng lại với DSVH của ông cha mà cần phải

xem xét đến cách thức giáo dục di sản đối với thế hệ trẻ.

2.3.2. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong việc trao truyền và sáng tạo di sản

văn hóa

Môi trường nuôi dưỡng các giá trị DSVH của dân tộc Sán Dìu luôn được

thay đổi cho phù hợp với xu hướng hiện nay. Loại hình dân ca đối đáp giao duyên

với môi trường diễn xướng truyền thống thường ở các con suối, bìa rừng, trên

nương, dưới đồng… Hiện nay, để phù hợp với đời sống hiện đại, các không gian hát

được mở rộng tại nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng, tại các sự kiện trình diễn, quảng

bá văn hóa… Trong những năm gần đây, việc đưa di sản vào trường học đã được

chính quyền xã Bình Dân và các ban ngành của huyện Vân Đồn quan tâm. Nhà

trường bố trí thời gian hợp lý mời các nghệ nhân dạy học sinh học tiếng Sán Dìu,

học hát dân ca Sán Dìu. Việc tạo ra môi trường nuôi dưỡng các giá trị DSVH ngày

càng đa dạng giúp DSVH luôn có cơ hội được trao truyền cho nhiều thế hệ kế tiếp.

81

Việc trao truyền DSVH được thể hiện ở hai cấp độ khác nhau. Một là, trao

truyền giá trị văn hóa truyền thống thường nhật như phong tục tập quán, sinh hoạt

đời sống, lao động sản xuất được con cháu học tập, tiếp thu qua việc ông bà, cha mẹ

và cộng đồng dạy dỗ, hướng dẫn thường ngày.

Hộp 2.3. Sự khác biệt trong môi trường sinh hoạt văn hóa Sán Dìu

Vợ chồng tôi ở cùng con trai út. Con trai, con dâu và các cháu nội đều nghe nói

tiếng Sán Dìu rất tốt, cũng biết nhiều về phong tục tập quán vì gia đình vẫn giữ

được nếp xưa. Tuy nhiên, con trai thứ lấy vợ người Kinh rồi ở riêng, nên các cháu ít

biết tiếng, các phong tục tập quán cũng không biết nhiều so với các cháu bên này.

(Nữ, tuổi 82, xã Bình Dân, PVS tháng 6/2020)

Hai là, việc trao truyền các tri thức văn hóa mang tính kỹ thuật, kỹ năng như

các bài thuốc gia truyền, cách thực hành tín ngưỡng, kỹ thuật trong các loại hình hát

dân ca… Việc trao truyền, trước hết là sự truyền dạy của các bậc cao niên, nghệ

nhân, người trưởng thành cho các thế hệ con cháu trong gia đình, dòng tộc và cộng

đồng. Đối tượng tiếp thu DSVH chủ yếu là thế hệ trẻ và nhằm mục đích bảo tồn và

phát huy các giá trị DSVH trong đời sống đương đại.

Hộp 2.4. Các phẩm chất và kỹ năng cần có để làm thầy cúng và thầy thuốc

Muốn học làm thầy, trước hết phải học làm người có tâm, có chữ tín, biết đạo hiếu.

Sau đó, người muốn học làm thầy cúng là phải học chữ nho, phải qua lễ cấp sắc tại

nhà hoặc lễ Đại phan để sư phụ truyền dạy các tri thức về thực hành tâm linh cũng

như học làm thầy thuốc thì phải học về các huyệt đạo, bài thuốc trong chữa bệnh.

(Nam, tuổi 48, xã Bình Dân, PVS tháng 6/2019)

Hiện nay, việc trao truyền các giá trị DSVH không chỉ bó hẹp trong gia đình

và cộng đồng mà còn được chính quyền quan tâm đưa DSVH vào trường học. Năm

2008, NNDG Trương Thị Chúc tham gia lớp truyền dạy Soọng cô của dân tộc Sán

Dìu do Sở VH&TT tổ chức. Đến nay, NNDG Trương Thị Chúc đã truyền dạy được

cho 32 học trò, trong đó, có những học trò tiêu biểu như: Từ Thị Kém, Từ Thị Sinh,

Tô Thị Tạ, Dư Thị Ngọc (đều ở thôn Voòng Tre, xã Bình Dân, huyện Vân Đồn).

Ngoài ra, trong cộng đồng còn tổ chức các lớp dạy chữ Nôm - Sán Dìu do thầy cúng

82

truyền dạy một cách bài bản theo cách thức dạy học truyền thống. Thông qua bài

học, các học viên hiểu biết hơn về phong tục, tập quán của dân tộc mình.

Năm 2013-2014, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã phối hợp với chính quyền

cấp xã và cộng đồng dân tộc Sán Dìu ở xã Giáp Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc

Giang sưu tầm, nghiên cứu, dịch thuật, lập bảng chữ Sán Dìu và tổ chức lớp học

tiếng Sán Dìu cho chính cộng đồng dân tộc Sán Dìu nơi đây.

Hộp 2.5. Người tham gia thực hiện Dự án bảo tồn chữ viết Sán Dìu

Tôi là thành viên trong nhóm sưu tầm, biên dịch một số sách nho cổ do Viện

Nghiên cứu Hán Nôm lựa chọn. Đồng thời, tôi cũng là người trực tiếp dạy chữ nho

và tiếng Sán Dìu cho các học viên. Tôi nhận thấy đây là việc làm hết sức ý nghĩa,

thiết thực cho dân tộc tôi, nên rất cần được nhân rộng.

(Nam, tuổi 56, xã Giáp Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, PVS tháng 5/2018)

Công tác QL DSVH không những ở trong cộng đồng, mà còn được các

trường học trên địa bàn huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang lồng ghép vào

chương trình học tập và sinh hoạt như: Trường THPT Sơn Nam, xã Sơn Nam,

huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã phối hợp cùng với một số hạt nhân văn

nghệ ở xã thành lập CLB “Tiếng hát Soọng cô”. CLB có 10 học sinh của 3 khối lớp,

mỗi tháng sinh hoạt 2 buổi. Các em được truyền dạy những bài hát giao duyên gắn

với đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất và hát đối đáp trong lễ hội, ngày tết với

nội dung ca ngợi quê hương giàu đẹp… Bên cạnh đó, trường còn tổ chức các buổi

ngoại khóa với các chủ đề: Thanh niên với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc Sán Dìu; Hội thi tiếng hát Soọng cô... Đây là sân chơi lành mạnh, bổ ích,

góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Những nỗ lực của cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong QL DSVH đã đạt được

những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, không ít cá nhân không mặn mà, thậm chí thờ

ơ với DSVH. Kết quả điều tra xã hội học ở xã Bình Dân, huyện đảo Vân Đồn cho

thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó nổi bật là những

nguyên nhân sau: (1) Ông bà, cha mẹ không chú tâm truyền dạy cho con cháu:

194/213 người; (2) Con cháu không chịu học: 165/213 người; (3) Do thiếu kiến

83

thức kinh nghiệm bảo tồn: 160/213 người; (4) Do chính quyền không quan tâm hỗ

trợ: 138/213 người; (5) Không phù hợp với lối sống hiện nay: 66/213 người.

Với câu hỏi “Theo ông/bà, con cháu không chịu học những giá trị văn hóa

truyền thống của người Sán Dìu do nguyên nhân nào?”, kết quả điều tra cho thấy

những nguyên nhân cơ bản sau: (1) Bận công việc, học tập: 178/213 người; (2) Cho

rằng lỗi thời, lạc hậu: 143/213 người; (3) Có biết cũng không dùng đến: 113/213

người; (4) Không phù hợp với lối sống hiện nay: 76/213 người. Từ kết quả trên, cho

thấy lý do bận công việc và học tập chiếm số lượng lớn, đó cũng là lý do phù hợp

với hoàn cảnh đặt ra trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, bản chất của quá trình QL

DSVH dân tộc không quá phụ thuộc vào thời gian, kinh phí, không quá khó khăn để

học hỏi cũng như truyền dạy, mà vấn đề mấu chốt là thái độ, ý thức và vấn đề tự

thân của mỗi thành viên trong cộng đồng, trong việc gìn giữ những giá trị quý báu

của ông cha để lại. Do vậy, QL DSVH của người Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

không đơn giản, nhưng cũng không hẳn là vấn đề khó khăn, phức tạp. Vấn đề nằm

ở nhận thức và nhu cầu của cộng đồng, biết khơi dậy niềm tự hào của dân tộc, biết

phát huy nội lực của DSVH như một nguồn lực tinh thần, nguồn lực sinh kế mới, tự

DSVH hồi sinh mạnh mẽ.

Trong quá trình trao truyền DSVH, để phù hợp với thực tiễn đặt ra, cộng

đồng đã sáng tạo những giá trị cũng như các yếu tố văn hóa mới để phù hợp hơn

trong những bối cảnh cụ thể. Tiếng nói và chữ viết là tiêu chí đầu tiên để xác định

thành phần của một dân tộc, bởi đó là hệ thống tín hiệu để nhận biết và truyền đạt

thông tin. Theo các nhà nghiên cứu, tiếng Sán Dìu đã tiếp thu một thổ ngữ ở Quảng

Đông (Trung Quốc) và mượn chữ Hán để sáng tạo, ghi âm cho tiếng Sán Dìu. Chữ

Nôm - Sán Dìu được thầy cúng, thầy thuốc sử dụng trong các bài cúng, sách phong

thủy và ghi chép các bài thuốc dân gian.

Trong quá trình khôi phục chữ viết, người Sán Dìu đã mượn ký tự Latin để

ghi âm tiếng Sán Dìu. Hệ chữ đó được cộng đồng ứng dụng nhiều trong việc ghi các

bài hát dân ca. Ưu điểm của chữ hệ Latin là hầu hết mọi người đều có thể đọc và ghi

chép. Tuy nhiên, hạn chế của hệ chữ Latin ghi âm tiếng Sán Dìu là chỉ mang tính

tương đối, chưa có sự thống nhất và chưa có những ký tự chuyên biệt để ghi âm.

84

Năm 2013, tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa là người đầu tiên nghiên cứu một

cách hệ thống, đầy đủ, khoa học về hệ thống ngữ âm tiếng Sán Dìu trong luận án tác

giả Ngôn ngữ học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc

gia Hà Nội). Sau đó, tác giả đã công bố cuốn sách “Ngữ âm tiếng Sán Dìu” [115].

Với kết quả đó, năm 2018, Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa

Sán Dìu đã phối hợp với tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa đến các địa phương, trong

đó có xã Bình Dân, huyện Vân Đồn để hướng dẫn và trao đổi với cộng đồng về

tiếng nói và chữ viết của dân tộc Sán Dìu.

Nhiều năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc giảng

dạy tiếng Dao Thanh Phán cho cán bộ lãnh đạo các địa phương có đông đồng bào

dân tộc Dao Thanh Phán sinh sống là chương trình rất có ý nghĩa của tỉnh Quảng

Ninh; Qua đó, cán bộ, lãnh đạo ở các địa phương có công cụ giao tiếp để tích cực

triển khai chủ trương, chính sách, các qui định của trung ương, của tỉnh, của địa

phương về xây dựng Đảng, phát triển KT-XH, đảm bảo quốc phòng - an ninh. Vấn

đề không chỉ dạy tiếng DTTS trong cộng đồng mà cũng cần có những hoạt động

dạy tiếng DTTS, cụ thể là tiếng Sán Dìu ở cán bộ công tác tại những địa phương có

đông người Sán Dìu sinh sống.

Di sản dân ca của dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn phong phú và đa

dạng, được cộng đồng ứng tác và truyền miệng qua bao đời nay. Trong quá trình

sáng tạo và lưu truyền các bài dân ca, người Sán Dìu không chỉ truyền lại cho các

thế hệ sau bằng hình thức truyền miệng mà những thầy cúng, thầy thuốc, những

người biết chữ Nôm - Sán Dìu đã ghi chép lại thành những cuốn ca thư cổ. Nói đến

dân ca là nói đến các lời ca của mẹ ru con trên lưng, chị ru em trong nôi, bà ru cháu

bên bếp lửa, hay các bài giao duyên, hẹn hò của nam thanh nữ tú trong hội xuân,

ngày cưới, lễ hội Đại phan… Trong bối cảnh hiện nay, để làm phong phú hơn kho

tàng dân ca của cộng đồng và phù hợp với đời sống, cộng đồng đã sáng tác thêm

nhiều bài dân ca mới ca ngợi Đảng, Bác Hồ trong đó sử dụng các giai điệu, niêm

luật của dân ca truyền thống và được ghi lại bởi hệ thống chữ Latin.

Trong nhiều lần điền dã tại huyện đảo Vân Đồn, đặc biệt ở xã Bình Dân,

NCS đã sưu tầm được 30 bài dân ca sáng tác mới, trong đó có 22 bài ca ngợi Đảng,

Bác Hồ; 08 bài ca ngợi việc phát triển kinh tế, đời sống ấm no. So sánh với số lượng

các bài dân ca theo lời mới tại các địa phương khác như: xã Na Quán, huyện Đồng

85

Hỷ, tỉnh Thái Nguyên là 57 bài, trong đó có 35 bài ca ngợi Đảng, Bác Hồ; 22 bài ca

ngợi việc phát triển kinh tế, đời sống ấm no; xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh

Phúc có 34 bài dân ca sáng tác mới, trong đó con số lần lượt là 24 và 10 bài. Qua đó

cho thấy, sự sáng tạo của người dân và cộng đồng là không ngừng. Sự sáng tạo này

đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng DSVH của dân tộc Sán Dìu huyện đảo

Vân Đồn nói riêng và dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam nói chung.

Kết quả điều tra xã hội học tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn cho thấy, khi

được hỏi “Theo ông/bà, những phong tục, tập quán nào dưới đây của dân tộc Sán

Dìu hiện nay được cộng đồng còn lưu giữ?” có 213 người được phỏng vấn đã bày tỏ

quan điểm về các thành tố văn hóa vật thể đã bị mai một nhanh nhóng như: Kiến

trúc đình, miếu có 49/213 người trả lời “thay đổi nhiều”, chiếm 23,0%; 104/213

người trả lời ở mức độ “hoàn toàn thay đổi”, chiếm 48,8%.... Ngược lại, các giá trị

văn hóa phi vật thể được người phỏng vấn trả lời ở các mức độ “không thay đổi” và

“ít thay đổi” ở mức cao, cụ thể: Lễ Đại phan ở mức độ “không thay đổi” có 147/213

người (chiếm 69,0%); ở mức độ “ít thay đổi ” có 23/213 người (chiếm 10,8%); Dân

ca ở mức độ “không thay đổi” có 48/213 người (chiếm 22.5%); ở mức độ “ít thay

đổi ” có 56/213 người (chiếm 26.3%).

(Nguồn: NCS tổng hợp)

86

Trong bối cảnh hiện nay, đời sống của người dân được nâng cao, các tiện ích,

tiện nghi về đồ dùng, trang thiết bị sản xuất và sinh hoạt hiện đại dần thay thế cho các

đồ dùng, vật dụng truyền thống nên giá trị văn hóa vật thể cũng thay đổi nhanh chóng.

Tuy nhiên, các giá trị văn hóa phi vật thể như: Tín ngưỡng dân gian, lễ hội, món ăn

truyền thống… đã đi vào tâm thức của cộng đồng vẫn là những món ăn tinh thần không

thế thiếu trong đời sống văn hóa của cộng đồng dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn.

2.3.3. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong việc khai thác, sử dụng và phát

huy di sản văn hóa

DSVH Sán Dìu là sản phẩm của cộng đồng và do cộng đồng sáng tạo, tích

lũy, trao truyền, nên DSVH Sán Dìu tồn tại và phát triển như thế nào phải do cộng

đồng quyết định. Ở đây, vai trò quyết định nằm ở hai cấp độ đó là:

1) Tham gia quyết định cùng với cơ quan quản lý nhà nước về DSVH với

những nhiệm vụ cụ thể như: Lựa chọn nghệ nhân để xây dựng hồ sơ NNND,

NNUT, NNDG; lựa chọn loại hình DSVH đưa vào danh mục kiểm kê DSVH; quyết

định và lựa chọn loại hình, tổ chức và phương pháp trong việc tổ chức các sự kiện

văn hóa tại cộng đồng… Điều này cần có sự thống nhất giữa chính quyền, cộng

đồng và các bên liên quan để đi đến quyết định có lợi và hài hòa cho các tổ chức

công - tư và cộng đồng.

Hộp 2.6. Sự tham gia của người trong thực hiện chính sách

UBND xã và các ban ngành của xã, thôn đã chủ động, hướng dẫn người dân phát

triển KT-XH. Về công tác văn hóa - xã hội, xã đã hướng dẫn người dân thực hiện

quyền dân chủ trong việc bình xét lựa chọn người có uy tín, nghệ nhân hay tham gia

bàn bạc và tổ chức các lễ hội lớn của xã.

(Nam, tuổi 69, xã Bình Dân, PVS tháng 7/2018)

2) Cộng đồng tự quyết các hoạt động văn hóa truyền thống tại cộng đồng.

Vai trò tự quyết của cộng đồng trong quá trình QL DSVH dân tộc Sán Dìu cũng cần

được thể hiện cho phù hợp với thực tiễn, cần có sự bàn luận, thống nhất của cộng

đồng và cơ quan QLNN về DSVH. Tuy nhiên, trong quá trình bảo tồn cộng đồng

luôn chủ động, linh hoạt trong từng vấn đề cụ thể.

87

Hộp 2.7. Hoạt động của CLB Soọng cô

Năm 2014, một số ông bà yêu thích hát Soọng cô tự lập ra CLB Soọng cô. Đến năm 2015, UNBD xã Bình Dân đã ban hành quyết định thành lập CLB Soọng cô và hoạt động bài bản hơn. Kinh phí do các hội viên tự nguyện đóng góp để phục vụ các hoạt động truyền dạy, giao lưu với các CLB trong và ngoài tỉnh.

(Nữ, tuổi 36, xã Bình Dân, PVS tháng 6/2020)

Hộp 2.8. Quá trình thực hành lễ Đại phan

Trong toàn bộ quá trình thực hiện lễ hội Đại phan, các thực hành về nghi lễ về lễ

vật, thời gian, số lượng thầy cúng đều do thầy Giám Độ sư quyết định. Chính quyền

chỉ tham gia vào công tác quản lý hành chính và trật tự trị an.

(Nam, tuổi 48, xã Bình Dân, PVS tháng 6/2020)

Vai trò cộng đồng được thể hiện qua tính chủ động, tích cực trong tiếp nhận,

nắm bắt các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.

Thực tế cho thấy, nhiều người dân đã có sự quan tâm đến các văn bản chính sách về

văn hóa. Tuy chưa hiểu đầy đủ và chi tiết về nội dung chính sách nhưng cộng đồng

cũng nhận thức được tinh thần cơ bản của Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày

16/7/1998 của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII)

về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội

nghị Trung ương 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt

Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước… Chính sự hiểu biết của người

dân và cộng đồng đã giúp cộng đồng nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của QL

DSVH dân tộc Sán Dìu trong đời sống hiện nay; đồng thời, khuyến khích họ phát

huy các giá trị văn hóa. Cộng đồng nhận thức được việc QL DSVH dân tộc Sán Dìu

là vấn đề tự thân của mỗi thành viên trong cộng đồng, chứ không phải việc của

chính quyền hay của tổ chức khác.

Hộp 2.9. Vai trò người có uy tín trong cộng đồng

Là người uy tín của thôn, tôi biết mình là cầu nối giữa người dân và chính quyền nên

88

tôi đã cùng với cộng đồng và chính quyền xã tích cực đề nghị chính quyền ban ngành

các cấp quan tâm đầu tư, hỗ trợ bảo tồn văn hóa Sán Dìu, đặc biệt trong việc khôi

phục miếu Thành hoàng, tổ chức lại lễ hội Đại phan và mở các lớp dạy tiếng Sán Dìu,

lớp Soọng cô cho thế hệ trẻ.

(Nam, tuổi 69, xã Bình Dân, PVS tháng 7/2018)

Năm 2008, Sở VH,TT&DL phục dựng lễ hội Đại phan và từ đó đến nay, mặc

dù cộng đồng mong muốn được cơ quan QLNN tiếp tục duy trì, phát huy nhưng

hơn 10 năm qua lễ hội chưa được quan tâm tổ chức dưới góc độ QLNN. Tuy nhiên,

bằng sự chủ động, tích cực trong QL DSVH, cộng đồng dân tộc Sán Dìu ở các địa

phương khác trong tỉnh đã xin cấp phép của liên ngành tỉnh (Sở VH&TT, Sở Nội

vụ, Ban Dân tộc và Công an tỉnh) để đứng ra tổ chức Lễ Đại phan, cụ thể như: xã

Quảng An, huyện Đầm Hà (2013); xã Cộng Hòa, thành phố Cẩm Phả (2016); xã

Thống nhất, huyện Hoành Bồ (2017).

Thực trạng trên cho thấy, từ mô hình kết hợp vai trò tự quản của cộng đồng

với sự trợ giúp của nhà nước như phục dựng lễ hội Đại phan năm 2008 tại xã Bình

Dân đã chuyển sang mô hình quản lý và tổ chức mang tính cộng đồng tự quản có sự

kiểm tra, giám sát của các cơ quan QLNN. Bên cạnh đó, cộng đồng tự quản DSVH

của mình thông qua quy ước của thôn xóm và các tổ chức thiết chế truyền thống

như phường hội tương trợ giúp đỡ nhau. Họ đã tập hợp, liên kết lại vì việc chung

của làng, có người đứng đầu lãnh đạo, phân công từng nhóm công việc cụ thể. Mọi

thành viên tham gia các công việc đều nhiệt tình, trách nhiệm với phần việc được

giao. Kết thúc lễ hội hay các công việc của làng, các thành viên trong ban tổ chức

họp rút kinh nghiệm và tự giải thể ban tổ chức khi kết thúc buổi họp.

Cộng đồng Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn tích cực phối hợp, hợp tác với

chính quyền, cơ quan chức năng trong việc QL DSVH dân tộc Sán Dìu như: tham

gia kiểm kê DSVH, lập hồ sơ NNDG; tham dự các sự kiện văn hóa Đại hội đại biểu

DTTS huyện đảo Vân Đồn năm 2019, Hội thi thể dục - thể thao huyện, Canaval Hạ

Long; phối hợp với các cơ quan truyền thông, báo chí Trung ương và địa phương để

giới thiệu, quảng bá văn hóa truyền thống người Sán Dìu; phối hợp với các cơ quan,

nhà khoa học nghiên cứu về văn hóa dân tộc Sán Dìu như: chủ động phối hợp với

89

nhà nghiên cứu Nhân học Nguyễn Văn Chính (Trường Đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) và nhà nghiên cứu Nhân học Yasuda Masaco,

nhà nghiên cứu Nhân học Naraoda (Trường Đại học Kyoto) nghiên cứu về sinh kế

người Hoa, người Sán Dìu tại huyện Vân Đồn; tác giả Nguyễn Thị Kim Thoa đưa

nhiều đoàn sinh viên nghiên cứu về tiếng Sán Dìu; nhà nghiên cứu Cao Tiên Cúc và

Tả Hà đến từ Trường Đại học Dân tộc Quảng Tây nghiên cứu về văn hóa người Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn…

Vai trò chủ động, tích cực còn được thể hiện khi phối hợp với các tổ chức

phi quan phương tiến hành những hoạt động QL DSVH như: CLB Soọng cô xã

Bình Dân định kỳ 02 buổi/tuần tổ chức tập luyện các bài hát dân ca hay các đoạn

trích nghi lễ cấp sắc, cưới xin để tham gia các sự kiện văn hóa ở địa phương hoặc đi

giao lưu với các địa phương trong tỉnh như: Cẩm Phả, Hạ Long và các tỉnh: Vĩnh Phúc,

Bắc Giang, Thái Nguyên… Trong chương trình Liên hoan dân ca Sán Dìu lần thứ nhất

do Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa Sán Dìu (Hội Văn nghệ dân

gian Việt Nam) tổ chức tại huyện Vân Đồn, các nghệ nhân CLB Soọng cô xã Bình Dân

đạt giải Nhất với thể loại trích đoạn “Đón dâu”. CLB dân ca do những người dân trong

cộng đồng lập ra là sân chơi của những người yêu thích dân ca.

Hộp 2.10. Trao truyền Soọng cô

Ngay từ những ngày đầu tiên đi dạy các cháu trong xã hát, ai cũng thích và phấn

khởi lắm. Bà tuổi cao mắt kém nhưng các cháu nhờ bà dạy hát cho là bà nhận lời

ngay. Nhiều buổi tối phải đi bộ, không nhìn rõ đường cũng sợ, nhưng vẫn quyết tâm

đi vì các cháu muốn học thì mình phải cố. Bây giờ có người chịu học là quý lắm rồi

(Nữ, tuổi 82, Bình Dân, PVS tháng 6/2020)

Trong cộng đồng có nhiều tổ chức phi quan phương tạo nên nhiều hình thức

sinh hoạt đa dạng, đáp ứng được các nhu cầu sinh hoạt của cộng đồng, từ lao động

sản xuất đến vui chơi giải trí. Đây cũng là cách thức để tăng tính cố kết cộng đồng,

làm cho giá trị cộng đồng ngày càng bền chặt, giúp nhau phát triển KT-XH, qua đó

các giá trị DSVH ngày càng được khẳng định thông qua quản lý, thực hành và

truyền dạy tại cộng đồng.

90

2.3.4. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu trong việc quảng bá, giới thiệu di sản

văn hóa

Nhận thức được DSVH là tài sản vô giá, là nguồn lực góp phần thúc đẩy phát

triển KT-XH, nên việc khai thác, giới thiệu và quảng bá các giá trị DSVH được coi

là trách nhiệm cũng như niềm tự hào của cộng đồng. QL DSVH phải gắn với cộng

đồng, lấy cộng đồng làm trung tâm, bởi vì cộng đồng chính là đối tượng sáng tạo và

lưu truyền các giá trị văn hóa.

Có ba hình thức cơ bản mà qua đó, vai trò của cộng đồng trong việc quảng

bá, giới thiệu DSVH được thể hiện rất rõ, là: 1) Vai trò của cộng đồng trong việc

quảng bá, giới thiệu DSVH thông qua bảo tàng; 2) Vai trò của cộng đồng trong việc

quảng bá, giới thiệu DSVH trong các sự kiện văn hóa; 3) Vai trò của cộng đồng

trong việc quảng bá, giới thiệu DSVH tại cộng đồng.

Tại Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh, DSVH các DTTS nói chung và dân tộc Sán

Dìu nói riêng được quan tâm, chú trọng đầu tư, trưng bày theo từng dân tộc và đây

cũng là điểm hấp dẫn thu hút đông đảo khách tham quan. Cách trưng bày tại Bảo

tàng tỉnh Quảng Ninh đã giúp khách tham quan có cái nhìn toàn cảnh về văn hóa

các DTTS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Các nét sinh hoạt văn hóa tiêu biểu được

giới thiệu như chợ phiên vùng cao Bình Liêu, lễ cấp sắc của dân tộc Dao, Soóng cọ

của dân tộc Sán Chay, Then của dân tộc Tày, lễ cưới hỏi của dân tộc Sán Dìu… Tuy

nhiên, qua quan sát cho thấy, việc trưng bày chưa khoa học, các hiện vật và nội

dung trưng bày dày đặc, chưa thể hiện rõ các đặc trưng DSVH của dân tộc Sán Dìu.

Từ năm 2012 đến nay, mỗi kỳ tổ chức Carnaval Hạ Long đều có sự tham gia

của nhiều tiết mục nghệ thuật dân gian của các DTTS trong tỉnh như: Múa xúc tép

của dân tộc Sán Chay (Bình Liêu); trích đoạn cấp sắc của dân tộc Dao (Hoành Bồ);

trang phục Dao Thanh Y, Dao Thanh Phán (Tiên Yên, Uông Bí) và trích đoạn leo

gươm, múa hành quang lễ Đại phan của dân tộc Sán Dìu (Vân Đồn)… Việc trình

diễn các tiết mục văn nghệ dân gian truyền thống của các DTTS trong tỉnh đã tạo sức

lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng các DTTS tỉnh Quảng Ninh nói chung và dân tộc

Sán Dìu nói riêng. Có thể nói, khát vọng và niềm tự hào của các dân tộc là được thể

hiện DSVH của mình ra thế giới với sự chiêm ngưỡng của du khách, sự giao lưu văn

hóa giữa các đoàn nghệ thuật, giữa dân tộc đa số với DTTS, giữa người Việt Nam và

91

các đoàn nghệ thuật quốc tế cùng tham gia biểu diễn tại Carnaval. Sắc màu văn hóa

của dân tộc Sán Dìu và các DTTS trong tỉnh là “món ăn lạ” đặc sắc và hấp dẫn khán

giả trong các màn trình diễn nghệ thuật dân gian. Đây là điểm mới kết hợp giữa

truyền thống và hiện đại, giúp quảng bá hình ảnh và con người Quảng Ninh với bạn

bè quốc tế. Ngoài ra, cộng đồng dân tộc Sán Dìu huyện đảo Vân Đồn phối hợp với

chính quyền các cấp tham gia nhiều đoàn biểu diễn tại các cuộc thi, liên hoan vùng,

toàn quốc do Bộ, ngành Trung ương và địa phương tổ chức.

Hộp 2.11. Cơ hội được giao lưu

Tôi nhiều lần tham gia biểu diễn Carnaval Hạ Long cũng như tham gia Ngày hội

văn hóa do tỉnh và trung ương tổ chức. Tôi rất tự hào vì đã thể hiện được bản sắc

văn hóa của dân tộc mình với bạn bè các dân tộc khác. Thông qua những hoạt động

đó, bạn bè trong nước và quốc tế sẽ hiểu hơn về văn hóa và con người Sán Dìu.

(Nữ, tuổi 58, xã Bình Dân, PVS, tháng 7/2018)

Trong sinh hoạt, cộng đồng ý thức được DSVH là báu vật của các bậc tiền

nhân kết tinh từ ngàn đời, nên việc QL DSVH được xem là trách nhiệm và nghĩa vụ

của từng thành viên trong cộng đồng. Việc sáng tạo, nuôi dưỡng và trao truyền luôn

được cộng đồng thực hành. Đây là nguồn lực giúp tái tạo sức lao động, phục vụ đời

sống tinh thần của cộng đồng. Ngoài ra, các giá trị DSVH là nguồn lực nội sinh thúc

đẩy phát triển sinh kế, điển hình là nhiều hộ gia đình đã phát triển các giá trị văn

hóa thành hàng hóa phục vụ nhu cầu thị trường. Minh chứng là nhiều món ăn như:

bánh chưng gù, bánh lá ngải, bánh tày lồng ệp, bánh bạc đầu, khau nhục và các cây

lương thực, thực phẩm như: ngô, khoai, sắn, cải xanh, dưa muối… phục vụ khách

du lịch ở các bãi biển ở Vân Đồn và chùa Cái Bầu.

Với câu hỏi phỏng vấn “Khi địa phương có hoạt động du lịch thì ông/bà và

người thân có muốn tham gia vào hoạt động đó để giới thiệu bản sắc văn hóa của

dân tộc mình với du khách và tạo ra nghề mới có thu nhập ổn định hay không?”, câu

trả lời “Rất quan tâm” có 154/213 người, chiếm 72% và 59/213 người trả lời với

mức độ “Quan tâm”, chiếm 28%; không có người nào trả lời ở các mức độ “Quan

tâm ít” hay “Không quan tâm”. Điều đó cho thấy, cộng đồng chủ động, tích cực và

92

sẵn sàng chuyển đổi sinh kế trong bối cảnh mới, khi huyện đảo Vân Đồn thành Khu

kinh tế. Hiện nay, Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn đi vào hoạt động đã thu hút

được 386 người dân tộc Sán Dìu đến làm việc.

(Nguồn: NCS tổng hợp)

Kinh nghiệm quản lý và tổ chức sự kiện giới thiệu, quảng bá DSVH dân tộc

Sán Dìu ở huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc cũng là một bài học quý. Chính quyền

huyện Tam Đảo, cấp xã và cộng đồng đã lồng ghép chuỗi Lễ hội văn hóa tâm linh

Tây Thiên gắn với Ngày hội văn hóa dân tộc Sán Dìu như tổ chức làm mâm cỗ ngày

tết hay tổ chức các trò chơi dân gian. Đặc biệt, chính quyền phối hợp với cộng đồng

dân tộc Sán Dìu huyện Tam Đảo mời các đoàn nghệ nhân Sán Dìu 04 tỉnh (Quảng

Ninh, Bắc Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên) đến tham dự và thi hát Soọng cô. Về

phương thức đón tiếp, Chính quyền chỉ đạo và hỗ trợ mỗi cộng đồng thuộc cấp xã

đón tiếp 01 đoàn nghệ nhân của một tỉnh về giao lưu tại cộng đồng, UBND huyện

Tam Đảo hỗ trợ kinh phí để cấp xã và cộng đồng đón tiếp các đoàn.

Hộp 2.12. Hoạt động lễ hội Tây Thiên gắn với văn hóa Sán Dìu

Người dân, du khách, đặc biệt cộng đồng dân tộc Sán Dìu không chỉ ở Vĩnh Phúc mà ở

cả các tỉnh phía Bắc đều rất phấn khởi khi các hoạt động biểu diễn, quảng bá văn hóa

Sán Dìu trở thành “món ăn” không thể thiếu trong lễ hội Tây Thiên hằng năm.

(Nam, tuổi 64, xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, PVS tháng 5/2019)

Một kinh nghiệm khác của UBND huyện đã chỉ đạo và tổ chức Lễ hội Hoàng

Cần gắn với Ngày hội văn hóa, thể thao dân tộc Sán Dìu từ năm 2018 đến 2020 với

phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Việc tổ chức Lễ hội đã huy động

93

được sức dân trong việc sưu tầm hiện vật trưng bày, khôi phục tục hát Soọng cô,

nấu các món ăn truyền thống, tổ chức các trò chơi dân gian… Qua nhiều năm, giá

trị DSVH chưa được thể hiện, đặc biệt thế hệ trẻ chưa biết đến DSVH truyền thống

của dân tộc mình, nay được chính quyền các huyện Tiên Yên quan tâm chỉ đạo, đầu

tư, hỗ trợ cùng cộng đồng tổ chức. Đây là hoạt động văn hóa thường niên của chính

quyền và cộng đồng, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ không chỉ trong cộng đồng dân tộc

Sán Dìu, mà còn thu hút đông đảo người dân trong tỉnh và du khách đến tham quan.

Để ba hình thức quảng bá, giới thiệu DSVH có hiệu quả, ngoài sự vào cuộc

quyết liệt của cơ quan QLNN về DSVH và nỗ lực của cộng đồng, còn có vai trò đặc

biệt của các bên liên quan khác. Các bên liên quan có thể là nhà tư vấn chuyên môn,

marketing, trung tâm tổ chức sự kiện, doanh nghiệp, cơ quan nghiên cứu, tư vấn…

Các bên liên quan khác có vai trò là động lực thúc đẩy cho quá trình giới thiệu và

quảng bá DSVH đến công chúng được nhanh hơn, hiệu quả hơn, đem lại lợi ích cả

về mặt KT-XH lẫn phát triển cộng đồng địa phương thông qua các hoạt động du

lịch cộng đồng, du lịch văn hóa… Các bên liên quan hợp tác, thương thảo với cơ

quan QLNN và cộng đồng để lập các chương trình, dự án phát huy DSVH thành sản

phẩm văn hóa phục vụ nhu cầu của nhân dân và khách du lịch.

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích về phát triển KT-XH, phát triển cộng

đồng trong hợp tác giữa các bên liên quan cũng có nhiều mặt hạn chế. Đó là việc

phân chia quyền, trách nhiệm và lợi ích khi các bên liên quan hợp tác với cộng

đồng; vai trò chủ thể, quyền quyết định thực hành DSVH của cộng đồng bị lấn át

bởi lợi ích kinh tế; phá vỡ không gian văn hóa truyền thống, các giá trị DSVH bị

sân khấu hóa làm biến dạng; tệ nạn xã hội gia tăng… Đây là những yếu tố có thể

xảy ra khi sự hợp tác của cơ quan QLNN, cộng đồng và các bên liên quan đặt lợi

ích kinh tế lên hàng đầu hoặc giữa các bên thiếu chặt chẽ trong cơ chế phối hợp

quản lý, hay chưa tìm được tiếng nói chung trong quá trình phối hợp.

94

2.4. Sự tham gia của các bên liên quan khác trong quản lý di sản văn

hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

2.4.1. Các tổ chức chính trị xã hội, hội đoàn

- Các tổ chức chính trị - xã hội như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí

Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân đã tích cực phối hợp với chính quyền

địa phương trong công tác QL DSVH của dân tộc Sán Dìu. Đoàn Thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh xã Bình Dân đóng vai trò nòng cốt trong các phong trào văn hóa,

văn nghệ và tích cực đưa các giá trị văn hóa truyền thống như hát Soọng cô, trò chơi

dân gian, ôn lại truyền thống lịch sử của dân tộc Sán Dìu trong các buổi sinh hoạt

của thanh thiếu niên nhi đồng. Các tổ chức chính trị xã hội, hội đoàn đã phối hợp

với chính quyền địa phương tổ chức đón tiếp, giao lưu với các đoàn khách khi đến

giao lưu văn hóa Sán Dìu tại xã Bình Dân, huyện đảo Vân Đồn.

- Theo thống kê của UBND xã Bình Dân, từ khi thành lập CLB Soọng cô của

xã vào năm 2005, CLB Soọng cô đã đón 23 đoàn từ các địa phương trong và ngoài

tỉnh đến giao lưu như CLB Soọng cô phường Quang Hanh, thành phố Cẩm Phả;

CLB Soọng cô phường Hà Phong, thành phố Hạ Long; CLB Soọng cô xã Giáp Sơn,

huyện Lục Ngạn (Bắc Giang); CLB Soọng cô xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo (Vĩnh

Phúc); CLB Soọng cô xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang)….

Sự phối hợp của các tổ chức chính trị xã hội, hội đoàn có vị trí, vai trò quan

trọng trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn. Vị trí đó được thể

hiện trong các hoạt động phối hợp với chính quyền địa phương và cộng đồng để tổ

chức thực hiện hiệu quả các sự kiện văn hóa diễn ra tại cộng đồng như tổ chức phục

dựng lễ hội Đại phan năm 2008; tổ chức giao lưu với các đoàn trong và ngoài tỉnh;

tuyên truyền vận động các đoàn viên, hội viên thực hiện nếp sống văn minh, giữ gìn

và phát huy bản sắc dân tộc.

2.4.2. Các cơ quan truyền thông

DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn được QL hiệu quả thông qua

các tổ chức truyền thông đại chúng như đài phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện

tử, mạng xã hội… Với từ khóa “văn hóa Sán Dìu huyện Vân Đồn” kết quả tìm kiếm

95

trên Google cho kết quả khoảng 151.000 (0,46 giây). Điều đó cho thấy, DSVH dân

tộc Sán Dìu không những được QL trong cộng đồng mà còn được quảng bá trên các

phương tiện truyền thông như: Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài tiếng nói Việt

Nam (VOV), Báo Nhân dân, Báo Du lịch, Báo Công thương, Báo Quảng Ninh, Đài

Phát thanh - truyền hình Quảng Ninh (QTV), Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng

Ninh, Cổng thông tin điện tử huyện Vân Đồn…Nhiều chương trình, tin bài, phim

tài liệu được sản xuất với các nội dung như: Nét đẹp truyền thống của dân tộc Sán

Dìu ở Bình Dân, Người Sán Dìu Quảng Ninh giữ gìn văn hóa dân tộc, Khúc hát

Soọng cô của sơn ca núi, Lễ hội Đại phan của người dân tộc Sán Dìu trong video

Khám phá Việt Nam trên VTV1…

Một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ của thời đại công nghệ số hiện

nay là sự phát triển của mạng xã hội như facebook, zalo, youtube, twitter, instagram

nên các cá nhân, nhóm cộng đồng mạng đã đưa giá trị DSVH Sán Dìu với những

không gian cư trú khác nhau xích lại gần nhau hơn. Các cá nhân là người dân tộc

Sán Dìu không chỉ thể hiện DSVH của mình tại cộng đồng cư trú mà còn thể hiện trên

không gian mạng. Kết quả tìm kiếm từ khóa “cộng đồng Sán Dìu” trên mạng xã hội có

hơn 30 trang facebook là các nhóm cộng đồng mạng trao đổi về thông tin, hình ảnh về

bản sắc văn hóa Sán Dìu. Trong hơn 30 trang đó có trang Cộng đồng dân tộc Sán Dìu

tỉnh Quảng Ninh với 2.968 người thích và 3.142 người theo dõi trang. Trang mạng

Cộng đồng dân tộc Sán Dìu tỉnh Quảng Ninhhoạt động với mục tiêu: Dân tộc Sán Dìu

(Quảng Ninh) cùng phục hưng tất cả những nét đặc sắc văn hoá, lễ hội, tiếng nói, chữ

viết, hát, gắn kết và làm quen giữa các thành viên của dân tộc.

Vai trò của truyền thông có tác động rất lớn đến hiệu quả của công tác QL

DSVH dân tộc Sán Dìu cả nước nói chung và ở huyện đảo Vân Đồn nói riêng.

Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, cộng đồng đã giúp thế hệ trẻ

hiểu rõ hơn các giá trị DSVH của dân tộc, cũng là dịp để lớp tuổi cao niên ôn lại

những truyền thống văn hóa đang dần bị mai một. Các chương trình, bài viết giới

thiệu về DSVH dân tộc Sán Dìu không chỉ dừng lại ở góc độ giới thiệu về nét đẹp

văn hóa Sán Dìu mà còn chỉ ra được những thuận lợi, khó khăn cũng như những giá

96

trị DSVH dân tộc Sán Dìu đang bị mai một trong quá trình phát triển cần phải được

chính quyền, đoàn thể và cộng đồng quan tâm BV&PH trong bối cảnh hiện nay.

2.4.3. Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa Sán Dìu

Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa Sán Dìu là một tổ chức

xã hội nghề nghiệp thuộc Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam có tư cách pháp nhân,

con dấu và tài khoản riêng, trụ sở chính tại huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Trung

tâm là cơ quan chuyên sâu nghiên cứu và hỗ trợ cộng đồng dân tộc Sán Dìu cả nước

về bảo tồn và phát triển văn hóa Sán Dìu.

Năm 2019, Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa Sán Dìu đã

phối hợp với Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Vân Đồn và UBND thị trấn Cái

Rồng tổ chức giao lưu Cộng đồng dân tộc Sán Dìu toàn quốc tại huyện Vân Đồn

với sự tham dự của hơn 500 đại biểu là người dân tộc Sán Dìu đến từ các địa

phương: Hà Nội, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang,

Thái Nguyên, Đồng Nai, Lâm Đồng. Nằm trong chuỗi sự kiện này, Trung tâm tổ

chức Liên hoan Dân ca lần thứ I năm 2019, với sự tham gia dự thi của các tiết mục

dân ca đặc sắc đến từ nhiều địa phương. Kết quả, CLB Soọng cô xã Bình Dân,

huyện Vân Đồn đạt giải Nhất với thể loại trích đoạn đón dâu. Trung tâm cũng đã tổ

chức các đoàn đại biểu dân tộc Sán Dìu đến thăm, giao lưu văn hóa và tặng quà cho

các hộ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn.

Trong các hoạt động ở huyện Vân Đồn, Trung tâm đã phối hợp với chính

quyền cấp huyện đang triển khai các nhiệm vụ về bảo tồn tiếng nói, chữ viết Sán

Dìu; ngữ văn dân gian Sán Dìu; tư vấn tổ chức lễ hội Đại phan vào cuối năm 2020

theo Quyết định số 51/2019/QĐ-UBND ngày 31/10/2019 của UBND huyện Vân

Đồn. Trung tâm đã phối hợp với chính quyền xã Bình Dân và các nhà khoa học, các

nghệ nhân, thầy cúng tổ chức biên soạn sách dạy tiếng Sán Dìu theo hệ chữ Latin.

Với những hoạt động thiết thực và ý nghĩa trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu,

Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa Sán Dìu đã và đang phối hợp

tích cực và hiệu quả với chính quyền các cấp huyện Vân Đồn để triển khai các

nhiệm vụ BV&PH giá trị văn hóa Sán Dìu trong năm 2020 và những năm tiếp theo.

97

2.5. Thực trạng cơ chế phối hợp trong quản lý di sản văn hóa dân tộc

Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

Thành công trong công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

sẽ là kết quả của mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa QLNN, quản lý của cộng đồng

và các bên liên quan khác. Mối quan hệ này được thể hiện thông qua chức năng

QLNN về DSVH trong quá trình chỉ đạo, ban hành, thực thi cơ chế chính sách,

hướng dẫn, hỗ trợ cộng đồng QL DSVH; vai trò của cộng đồng trong việc phối hợp

với các cơ quan QLNN về DSVH triển khai thực hiện các nhiệm vụ QL DSVH tại

địa phương; vai trò của cộng đồng khi phối hợp với các bên liên quan khác trong

việc cung cấp thông tin và phát huy giá trị của DSVH dân tộc Sán Dìu.

- Vai trò định hướng các hoạt động quản lý DSVH: thực tế cho thấy từ khi

Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 của Ban Chấp hành Trung ương tại

Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt

Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày

09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI)

về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát

triển bền vững đất nước đi vào cuộc sống, cho đến nay đã có nhiều đợt tổng kết

nhằm rút ra bài học kinh nghiệm về QL DSVH. Sau đó, một loạt các cơ chế

chính sách về QL DSVH nói riêng từ trung ương đến tỉnh, huyện được triển khai

tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để thực hiện công tác QL DSVH. Cụ thể, Ban

Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU

ngày 09/3/2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát triển văn

hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; HĐND huyện

Vân Đồn ban hành Nghị quyết số 105/NQ-HĐND ngày 20/12/2019 về việc

Thông qua Đề án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian truyền thống của

dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2020-2022,…

- Vai trò QLNN là lực lượng hỗ trợ cho DSVH được BV&PH theo định

hướng của nhà nước được thể hiện ở ba mặt sau:

98

Thứ nhất: hỗ trợ về pháp lý, tạo điều kiện cho việc quản lý DSVH được diễn

ra theo đúng mục tiêu với cơ chế, chính sách, cụ thể như: cộng đồng dân tộc Sán

Dìu đề nghị UBND xã Bình Dân thành lập CLB Soọng cô; UBND xã Bình Dân

tham mưu trình UBND huyện Vân Đồn hỗ trợ cộng đồng hoàn thiện thủ tục, hồ sơ

trình UBND tỉnh cấp phép tổ chức lễ hội Đại phan… Trong quá trình cộng đồng

thực hành DSVH luôn có sự quản lý, kiểm tra, giám sát về mặt hành chính của các

cơ quan chuyên môn.

Thứ hai: công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu được hỗ trợ kinh phí hoạt động

từ ngân sách nhà nước, cụ thể UBND xã Bình Dân cân đối ngân sách năm 2019 hỗ

trợ 50.000.000 đồng xây miếu Thành hoàng; hỗ trợ các hoạt động giao lưu Soọng

cô, tiếp đón nhiều đoàn đến giao lưu với kinh phí 10.000.000 đồng/năm.

Thứ ba: hỗ trợ chuyên môn, nghiệp vụ DSVH thông qua các lớp bồi dưỡng,

tập huấn cho đối tượng: cán bộ thôn, nghệ nhân, người có uy tín…

- Vai trò QLNN là vai trò nòng cốt được thể hiện trong công tác chỉ đạo,

quản lý và vận hành bộ máy QLNN thông qua chính sách văn hóa nhằm nâng cao

đời sống nhân dân và đảm bảo phát triển KT-XH ổn định. Mặt khác, vai trò này còn

là cầu nối giữa cơ quan QLNN với cộng đồng và các nhà khoa học, doanh nghiệp,

tổ chức, đoàn thể xã hội trong việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ, dự án về các hoạt

động QL DSVH dân tộc Sán Dìu trên địa bàn huyện Vân Đồn.

Cơ chế phối hợp giữa cơ quan QLNN về DSVH thông qua bộ máy hành

chính thực hiện chính sách trên cơ sở luật pháp và văn bản dưới luật nhằm cụ thể

hóa các nhiệm vụ như xét tặng danh hiệu NNND, NƯT, kiểm kê DSVH, hoạt động

kiểm tra, đánh giá…. Cộng đồng thực hiện vai trò là chủ thể văn hóa thông qua các

thực hành văn hóa đối với di sản như hát Soọng cô, lễ cấp sắc, tổ chức các nghi lễ

hàng năm tại đình, miếu…; đồng thời cũng phản ánh, đề xuất tâm tư, nguyện vọng

của cộng đồng nhằm đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân và giúp cơ quan QLNN

điều chỉnh, bổ sung các cơ chế, chính sách cho phù hợp với thực tiễn và nguyện

vọng chính đáng của người dân và cộng đồng.

99

Về cơ bản, công tác QL DSVH đã phát huy hiệu quả khi có sự đồng thuận

của cộng đồng với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng bàn, cùng làm, cùng

kiểm tra, giám sát và thụ hưởng”, phối hợp nhịp nhàng giữa vai trò QLNN và

cộng đồng. Tuy nhiên, cơ chế phối hợp của cơ quan chức năng, chính quyền địa

phương với người dân và cộng đồng tại huyện Vân Đồn đôi lúc chưa thực sự

chặt chẽ nên hiệu quả công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện chưa cao.

Các nhiệm vụ thực hiện chủ yếu được triển khai theo sự chỉ đạo từ Sở VH&TT,

UBND huyện. Các hoạt động nghiệp vụ như kiểm kê DSVH thực hiện chưa đầy

đủ, không bám sát với thực tiễn. Ví dụ, trong danh mục kiểm kê DSVH của dân

tộc Sán Dìu tại huyện Vân Đồn do Phòng Văn hoá và Thông tin huyện Vân Đồn

thực hiện có 04 DSVH, nhưng trên thực tế số lượng DSVH có trong huyện là

nhiều hơn con số đó; công tác lập danh sách và xây dựng hồ sơ đề nghị cấp có

thẩm quyền phê duyệt, vinh danh nghệ nhân theo Nghị định số 62/2014/NĐ-CP

của Chính phủ ngày 25/6/2014 về xét tặng danh hiệu NNƯT, NNND trong lĩnh

vực DSVH phi vật thể chưa hiệu quả. Công tác chuyên môn QLNN về DSVH của

Phòng Văn hóa - Thông tin mặc dù đã có sự chủ động nhưng các nhiệm vụ về

quản lý DSVH vẫn chưa được triển khai thường xuyên.

Hộp 2.13. Hạn chế trong QLNN về DSVH tại huyện Vân Đồn

Các nhiệm vụ chưa được triển khai thường xuyên do nhiều nguyên nhân, cả chủ

quan và khách quan như: kinh phí dành cho công tác BV&PH DSVH rất hạn chế,

lãnh đạo và chuyên viên chuyên quản thường xuyên thay đổi, nhân lực phục vụ cho

công tác vừa thiếu vừa yếu.

(Nữ, tuổi 52, huyện Vân Đồn, PVS tháng 6/2020)

Trong cộng đồng vẫn có một bộ phận không nhỏ người dân còn thờ ơ, bàng

quang, thậm chí quay lưng với DSVH truyền thống. Họ cho rằng DSVH dân tộc

Sán Dìu trở lên lỗi thời, lạc hậu và không phù hợp với đời sống hiện nay.

Hộp 2.14. Ý kiến trái chiều về BV&PH giá trị DSVH Sán Dìu

Bây giờ người ta học tiếng Anh, tiếng Trung đi làm giàu, mình ra đường nói tiếng

100

dân tộc họ cho là lạc hậu rồi. Các bà suốt ngày hát ề à không nhạc, nghe không

hiểu, chán lắm.

(Nam, tuổi 73, xã Bình Dân, PVS tháng 5/2018)

Qua phân tích về thực trạng cơ chế phối hợp giữa cơ quan QLNN và cộng

đồng trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn cho thấy có mối quan

hệ tác động quan lại giữa vai trò QLNN và cộng đồng. Đó là mối quan hệ chỉ đạo,

thực thi của nhà nước và vai trò quyết định, phối hợp thực hiện chính sách của cộng

đồng trong thực hành DSVH cũng như sáng tạo, nuôi dưỡng, trao truyền DSVH.

Mối quan hệ này được thực hiện dựa trên quan điểm của UNESCO, của Đảng, Nhà

nước và vấn đề “tự thân” của cộng đồng dân tộc Sán Dìu tại huyện đảo Vân Đồn.

Ngoài mối quan hệ phối hợp giữa QLNN và cộng đồng còn có các bên liên

quan khác tham gia vào quá trình BV&PH giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo

Vân Đồn như: (1) Bộ VH,TT&DL xây dựng nhà văn hóa dân tộc tại xã Bình Dân năm

2006; (2) Đoàn nghệ nhân của các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Phúc và các CLB Soọng cô ở

địa phương trong tỉnh về xã Bình Dân giao lưu Soọng cô; (3) Các cá nhân, doanh

nghiệp hỗ trợ tài chính khi tổ chức lễ hội Đại phan (bởi kinh phí để tổ chức lễ hội là rất

lớn, lên tới hơn 1 tỷ đồng); (4) Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát triển văn hóa

Sán Dìu đã có nhiều hoạt động tích cực góp phần bảo vệ DSVH Sán Dìu như tổ chức

Liên hoan Dân ca Sán Dìu lần thứ nhất tại huyện Vân Đồn, tổ chức giao lưu giữa các

đoàn nghệ nhân với UBND xã và cộng đồng dân tộc Sán Dìu tại Bình Dân…

Tóm lại, vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn nổi bật hai

mô hình quản lý khá rõ, cụ thể:

Một là: mô hình kết hợp vai trò tự quản của cộng đồng với sự trợ giúp của

nhà nước thông qua các hoạt động BV&PH giá trị di sản Soọng cô và lễ hội Đại

phan. Nhà nước giữ vai trò định hướng, chỉ đạo, hỗ trợ thông qua nguồn nhân lực

và các cơ chế chính sách hiện hành; cộng đồng giữ vai trò chủ thể, quyết định văn

hóa trực tiếp đến thực hành giá trị văn hóa mình đang nắm giữ.

101

Hai là: mô hình quản lý và tổ chức mang tính chất cộng đồng tự quản, cụ

thể: khi nắm rõ chủ chương, đường lối và chính sách của Đảng, Nhà nước và nhu

cầu, nguyện vọng chính đáng của người dân và cộng đồng, cộng đồng đã tự tổ chức,

tự quản lý và trực tiếp thực hành các giá trị văn hoá đó. Có thể nhắc đến việc vận

hành hoạt động của CLB Soọng cô xã Bình Dân, tổ chức các nghi lễ cúng tế tại

miếu Thành hoàng hàng nằm, tổ chức quản lý và thực hành các nghi lễ Đại phan….

Vai trò của các cơ quan QLNN là cấp phép hoạt động, kiểm tra, giám sát về mặt

hành chính đối với thực hành văn hóa có quy mô như lễ Đại phan, các đoàn nghệ

nhân Soọng cô ngoài địa phương đến giao lưu.

Hai mô hình trên cho thấy, các hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn phù hợp với thực tiễn đặt ra, làm phong phú hơn trong hoạt

động quản lý và thực hành văn hóa của cộng đồng.

2.6. Thực trạng các nguồn lực trong quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

Từ việc nhận diện các giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu, đánh giá thực trạng

QLNN về DSVH và thực trạng QL cộng đồng, có thể phân tích một số vấn đề đặt ra

từ góc độ lý thuyết và thực tiễn trong hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện

đảo Vân Đồn. Dựa vào khung phân tích SWOT, NCS nhận diện 03 nguồn lực cơ

bản trong hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, gồm: nguồn

lực con người, nguồn lực cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính.

Điểm mạnh (Strenghts) Cơ hội (Opportunities)

1. Nguồn lực con người 1. Nguồn lực con người

- Nguồn lực con người sử dụng trong công tác QLNN về DSVH ở huyện Vân Đồn đang từng bước được kiện toàn theo vị trí việc làm với hướng tinh gọn, chuyên môn hóa cao. - Nguồn lực con người sử dụng trong công tác QLNN về DSVH từ cấp tỉnh đến xã cơ bản đầy đủ; từ lãnh đạo đến chuyên viên, theo vị trí việc làm, được bố trí thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn về quản lý DSVH.

- Nguồn lực con người tại cộng đồng: nhận thức của cộng đồng ngày càng nâng cao; có nhiều ngành nghề đào tạo - Nguồn lực con người tại cộng đồng có cơ cấu dân số trẻ, nguồn lao động dồi dào, chất lượng lao động ngày càng cao. Đây là nguồn lực quan trọng góp

102

phần BV&PH giá trị DSVH và phát triển KT-XH.

phù hợp với các hoạt động BV&PH giá trị DSVH như du lịch, quản lý văn hóa, báo chí; phát huy nguồn lực văn hóa là một sinh kế mới cho cộng đồng.

2. Nguồn lực cơ sở vật chất: Có đầy đủ hệ thống nhà văn hóa từ cấp thôn đến cấp xã nhằm phục vụ hiệu quả các sự kiện văn hóa, nghệ thuật, thể thao quần chúng.

2. Nguồn lực cơ sở vật chất: Các nhà văn hóa cấp thôn, xã bước được đầu tư xây dựng, nâng cấp đạt chuẩn theo tiêu chí Nông thôn mới; Miếu Thành hoàng được đầu tư xây mới theo nguồn ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội. Các cơ sở hạ tầng thiết yếu như đường nội thôn, đường từ trung tâm xã đến các thôn, hệ thống điện lưới, trạm xá, bưu điện, Internet,... được đầu tư tốt.

số 1427/QĐ-UBND

3. Nguồn lực tài chính cho công tác BV&PH giá trị DSVH người Sán Dìu ngày càng được quan tâm và đầu tư nhằm nâng cao đời sống tinh thần và tạo sinh kế mới cho cộng đồng.

3. Nguồn lực tài chính: Đã bố trí kinh phí cho các hoạt động BV&PH giá trị DSVH người Sán Dìu, cụ thể theo Quyết định ngày 26/6/2020 của UBND huyện Vân Đồn thì ngân sách dành cho công việc này là 2.668.580.000 đồng trong 03 năm (2020-2022).

Điểm yếu (Weaknesses) Thách thức (Threats)

1. Nguồn lực con người 1. Nguồn lực con người

- Nhân lực trong hệ thống QLNN cần cập nhật những kiến thức mới và nâng cao trình độ quản lý chuyên môn.

- Cán bộ đảm nhiệm công tác QLNN về DSVH ở huyện Vân Đồn có những hạn chế về chuyên môn (không được đào tạo đúng chuyên ngành); các vị trí việc làm thường xuyên bị thay đổi. - Vai trò trong việc tổ chức tự quản của cộng đồng bị suy giảm.

- Nguồn lực con người tại cộng đồng có tham gia trực tiếp liên quan đến lĩnh vực DSVH rất ít, chủ yếu là người cao tuổi với phong trào bảo tồn bản sắc văn hóa - Nhận thức của cộng đồng trong BV&PH giá trị DSVH chưa đồng đều, giới trẻ có xu hướng chạy theo các hình thức giải trí hiện đại.

2. Nguồn lực cơ sở vật chất không đủ đáp ứng nhu cầu khi có các sự kiện liên thôn, liên xã hoặc các nhu cầu về du lịch.

2. Nguồn lực cơ sở vật chất: Các nhà văn hóa cấp thôn đa phần chưa đạt chuẩn (theo tiêu chí Nông thôn mới); tình trạng xuống cấp ngày càng gia tăng, thêm vào đó các công trình phụ trợ như tường rào, sân chơi… chưa được đầu tư, hoặc đang xuống cấp.

- Sự bùng phát của công nghệ thông tin quá mức gây nhiễu loạn trong cách tiếp cận và hưởng thụ văn hóa, ảnh hưởng đến đời sống của cộng đồng.

103

3. Nguồn lực tài chính

3. Nguồn lực tài chính cho công tác BV&PH giá trị DSVH người Sán Dìu còn thấp.

Sự bất ổn về kinh tế thế giới cũng như trong nước dẫn đến xu hướng giảm đầu tư vào tỉnh Quảng Ninh và huyện Vân Đồn, gây trở ngại cho việc thực hiện hóa các quy hoạch của huyện.

Bảng 2.3. Nhận diện các nguồn lực trong hoạt động QL DSVH người Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn thông qua khung phân tích SWOT (Nguồn: NCS tổng hợp)

2.7. Đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước, quản lý của cộng đồng và

các bên liên quan trong quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo

Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

2.7.1. Những kết quả đạt được

2.7.1.1. Trong quản lý Nhà nước về di sản văn hóa

- Cấp ủy và chính quyền huyện Vân Đồn đã chỉ đạo thực hiện chiến lược,

quy hoạch, kế hoạch, chính sách QLNN về DSVH trên địa bàn huyện theo đúng

tinh thần Nghị quyết TW 5 khóa VIII; Nghị quyết TW 9 khóa XI; Luật Di sản văn

hóa, các văn bản của Chính phủ và tỉnh Quảng Ninh.

- Huyện đã thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách DSVH của tỉnh Quảng

Ninh như: Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 29/5/2013; NQ số 11-NQ/TU ngày

09/3/2018; QĐ số 4071/QĐ-UBND ngày 01/11/2007; QĐ số 1988/QĐ-UBND ngày

07/8/2013; Quyết định số 2994/QĐ-UBND ngày 08/10/2015; Chương trình hành

động số 105/CTr-UBND ngày 02/8/2018…

- Huyện Vân Đồn đã phối hợp với Sở VH&TT thực hiện các nghiệp vụ về

QLNN về DSVH trên địa bàn huyện như: tổ chức, chỉ đạo xây dựng danh sách đề

nghị cấp có thẩm quyền phong tặng danh hiệu NNƯT, NNDG; tổ chức kiểm kê

DSVH phi vật thể. HĐND chỉ đạo UBND huyện Vân Đồn xây dựng Đề án Nghiên

cứu, bảo tồn và phát huy Lễ hội Đại phan và các giá trị văn hóa dân gian truyền

thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; ban hành Nghị quyết

số 105/NQ-HĐND ngày 20/12/2019 về thông qua Đề án bảo tồn, phát huy giá trị

văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng

104

Ninh giai đoạn 2020-2022. Huyện quan tâm tới vấn đề phát triển sự nghiệp văn hóa,

phong trào văn nghệ, thể dục thể thao; chú trọng xây dựng các thiết chế văn hóa

như: Trung tâm văn hóa xã, nhà văn hóa thôn/khu, sân vui chơi thanh thiếu niên,

các phong trào cũng như hoạt động văn hóa thể dục thể thao được triển khai và phát

triển sâu rộng. Công tác triển khai việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc

hiếu, hỷ, lễ hội được duy trì bảo đảm theo quy định, hương ước, quy ước của khu

dân cư và thuần phong mỹ tục.

- Tổ chức tốt công tác tuyên truyền về công tác dân tộc và chính sách dân tộc

của Đảng và Nhà nước. Thông qua đó, cộng đồng các DTTS nói chung và cộng

đồng dân tộc Sán Dìu nói riêng trên địa bàn huyện tích cực hưởng ứng tham gia

phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; Xây dựng

nếp sống văn minh đô thị; Xây dựng nông thôn mới...

- Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; bồi dưỡng đội ngũ cán bộ

chuyên môn về DSVH; thực hiện công tác khảo cứu, sưu tầm, BV&PH giá trị văn học

dân gian, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, văn hóa ẩm thực, trò chơi dân gian...

- Huy động, quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn lực BV&PH giá trị DSVH.

Cộng đồng dân tộc Sán Dìu xã Bình Dân, huyện Vân Đồn được Bộ VH,TT&DL xây

dựng nhà văn hóa năm 2006; ngân sách dành cho khoa học, công nghệ của tỉnh được

Sở VH&TT phê duyệt với đề tài Sưu tầm, nghiên cứu, đề xuất giải pháp bảo tồn và

phát huy giá trị văn hoá dân gian cổ truyền của người Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh;

- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện khen thưởng trong việc BV&PH giá trị DSVH;

phòng Văn hóa - Thông tin huyện phối hợp với Chi hội Văn nghệ dân gian huyện

Vân Đồn lập hồ sơ đề nghị Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam xét tặng danh hiệu

NNDG cho các nghệ nhân người DTTS trên địa bàn huyện, đến nay trên địa bàn

huyện có 04 NNDG là người dân tộc Sán Dìu thuộc xã Bình Dân;

- Công tác thanh tra, kiểm tra đã được thực hiện định kỳ, đột xuất hoặc theo

chuyên đề trong việc chấp hành pháp luật, đặc biệt việc chấp hành luật DSVH.

UBND huyện chỉ đạo Phòng Văn hóa - Thông tin thường xuyên thực hiện công tác

105

kiểm tra, hướng dẫn chính quyền cơ sở thực hiện việc BV&PH giá trị DSVH trên

địa bàn huyện và kịp thời giải quyết khiếu nại về DSVH.

2.7.1.2. Trong phát huy vai trò quản lý của cộng đồng

QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn là trách nhiệm, nghĩa vụ

và quyền lợi của mỗi thành viên và cả cộng đồng nơi đây. Cộng đồng nhận thức rất

rõ DSVH thuộc về chính họ do ông cha sáng tạo, duy trì và tích lũy từ ngàn đời nên

việc gìn giữ giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu luôn được cộng đồng quan tâm, nuôi

dưỡng, trao truyền cho các thế hệ.

Cộng đồng đã thể hiện được vai trò chủ thể văn hóa không chỉ trong việc

sáng tạo, nuôi dưỡng và trao truyền mà còn trong cả thực tiễn, các hoạt động QL

DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn luôn biết nắm bắt thông tin, tìm hiểu

các cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước về DSVH. Sự chủ động, tích cực đó

đã giúp cộng đồng tự chủ, tự quản các hoạt động QL DSVH, nâng cao mức hưởng

thụ đời sống của người dân và cộng đồng.

Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, cộng đồng đã

phát huy các giá trị DSVH của dân tộc vươn xa hơn phạm vi làng xã. Hình ảnh

con người, văn hóa Sán Dìu được giới truyền thông quan tâm sản xuất các chương

trình phim, bài giới thiệu về DSVH Sán Dìu. Không những thế, DSVH dân tộc

Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn còn được quảng bá tại các bảo tàng, các sự kiện

văn hóa quan trọng của trung ương và tỉnh Quảng Ninh. Ngay trong cộng đồng, từ

khi huyện đảo Vân Đồn trở thành KKT thì giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu ngày

càng được phát huy gắn với phát triển du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng.

Tóm lại, hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu có sự tham gia trách nhiệm,

hiệu quả của cơ quan, chính quyền các cấp với vai trò chỉ đạo, quản lý, điều hành,

hướng dẫn và hỗ trợ cộng đồng. Cộng đồng luôn ý thức QL DSVH là nghĩa vụ và

trách nhiệm của từng thành viên trong cộng đồng. Sự tham gia của cộng đồng trong

QL DSVH thể hiện sự đồng thuận trong nhận thức, chủ động, tích cực; là vấn đề tự

thân với mong muốn QL DSVH dân tộc Sán Dìu ngày càng ổn định và bền vững.

106

2.7.2. Những hạn chế, bất cập

2.7.2.1. Từ góc độ quản lý Nhà nước

- Sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền tuy đã thể hiện sự quan tâm nhưng

chưa quyết liệt. Do vậy, hoạt động quản lý, tham mưu về DSVH trên địa bàn huyện,

đặc biệt là DSVH giá trị của DTTS chưa được triển khai thường xuyên. Sự chỉ đạo

chưa được kịp thời dứt điểm như: HĐND huyện chỉ đạo xây dựng Đề án Nghiên

cứu, bảo tồn và phát huy lễ hội Đại phan và các giá trị văn hóa dân gian truyền

thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh từ năm 2017 nhưng

đến tháng 12/2019 mới được phê duyệt. Sự chậm trễ này làm ảnh hưởng đến tiến

độ, nội dung đề án đặt ra.

- Năng lực tổ chức bộ máy QLNN về DSVH trong chỉ đạo, lãnh đạo, kiểm

tra về DSVH còn hạn chế với nguồn nhân lực và vị trí việc làm thường xuyên thay

đổi. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ trong quá trình triển khai chính sách. Công tác

thanh tra, kiểm tra chưa thường xuyên, chưa nắm rõ các vấn đề thực tiễn đặt ra.

- Trình độ và năng lực của cán bộ chuyên trách ở cả cấp huyện và cấp xã

chưa đáp ứng được với nhu cầu. Một số cán bộ chưa được đào tạo đúng chuyên

ngành; việc đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn chưa được thường xuyên; cán bộ còn

thiếu kinh nghiệm trong QL và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cộng đồng. Đặc

biệt, vị trí làm việc về QL DSVH luôn biến động. Khi cán bộ phụ trách vừa bắt

nhịp với nhiệm vụ chuyên môn lại được điều chuyển sang vị trí khác, đây là hạn

chế lớn trong công tác chỉ đạo, điều hành và tham mưu.

- Việc triển khai chính sách, chương trình, kế hoạch đối với hoạt động QL

DSVH chưa cụ thể. DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn chưa được thống kê đầy

đủ, chưa được nghiên cứu một cách tổng thể cũng như đánh giá toàn diện nên gây trở

ngại cho việc hoạch định chính sách và đưa ra giải pháp QL DSVH.

- Hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn không được tổ

chức thường xuyên mà thường kết hợp, lồng ghép với chương trình, dự án của

huyện, của tỉnh. Hoạt động phục dựng lễ hội Đại phan và hát Soọng cô do Sở

VH&TT tiến hành từ năm 2008 đến nay chưa được tổ chức.

107

- Công tác xã hội hóa các hoạt động QL DSVH chưa có cơ chế rõ ràng, thiếu

định hướng, thiếu cơ chế khuyến khích để kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức, cá

nhân và cộng đồng nên chưa phát huy hiệu quả huy động các nguồn lực.

- Công tác chỉ đạo việc vinh danh còn chậm, chế độ đãi ngộ nghệ nhân chưa

được triển khai. Tính đến thời điểm này đã có 04 nghệ nhân được phong tặng danh

hiệu NNDG danh hiệu do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, một tổ chức chính trị

xã hội nghề nghiệp phong tặng và cũng do Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Quảng Ninh

chỉ đạo Chi hội Văn nghệ dân gian huyện Vân Đồn xây dựng hồ sơ. Trên địa bàn

huyện đảo Vân Đồn đến nay chưa có NNƯT hay NNND được Chủ tịch nước phong

tặng theo Nghị định 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014 mặc dù, huyện có nhiều

DSVH phi vật thể và có nhiều nghệ nhân tiêu biểu đang nắm giữ.

2.7.2.2. Từ góc độ vai trò quản lý của cộng đồng

- Cộng đồng chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của DSVH trong đời

sống hiện nay. Một bộ phận không nhỏ trong cộng đồng còn thờ ơ, vô trách nhiệm

trong việc QL DSVH. Họ cho rằng việc đó là của ngành văn hóa, của nhà nước;

thậm chí có một số ý kiến cho rằng DSVH đã trở nên lỗi thời, lạc hậu không phù

hợp với lối sống hiện nay; một lý do khác cho rằng tác động mạnh mẽ của đời sống

kinh tế nên người quan tâm đến việc QL DSVH của chính dân tộc mình ngày ít đi.

- Vai trò chủ động, tích cực chưa được phát huy hiệu quả: Việc các cơ quan

QLNN về DSVH can thiệp sâu, thậm chí làm thay việc của cộng đồng đã làm giảm

vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng. Cộng đồng đứng bên ngoài những quyết

định về QL, thực hành DSVH của chính mình.

- Cộng đồng và các tổ chức phi quan phương khi tham gia tự quản, quyết định

các hoạt động QL DSVH dễ dẫn đến mối quan hệ giữa quyền lực và lợi ích chưa được

hài hòa. Lợi ích nhóm trong cộng đồng nảy sinh làm giảm tính cố kết cộng đồng, điều

này làm ảnh hưởng đến QL DSVH tại cộng đồng.

2.7.3. Nguyên nhân

2.7.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu

- Thuận lợi về điều kiện tự nhiên và xã hội

108

Vân Đồn là địa phương có đầy đủ các yếu tố tự nhiên thuận lợi cho phát triển

KT-XH như: có biển, rừng, đồng bằng với các dạng tài nguyên phong phú và đa

dạng. Huyện đảo từng là thương cảng Vân Đồn phát triển cực thịnh dưới thời Lý -

Trần. Vân Đồn còn là nơi ghi dấu trận chiến đánh thắng quân Nguyên - Mông. Với

vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao thương, Vân Đồn hứa hẹn sẽ trở thành KKT

trong tương lai, là động lực tăng trưởng KT-XH của cả vùng và tỉnh Quảng Ninh.

- Đường lối, chính sách đúng đắn, toàn diện về công tác văn hóa và DSVH

của UNESCO, của Đảng và Nhà nước được tỉnh Quảng Ninh đã cụ thể hóa thông

qua việc ban hành các nghị quyết, quyết định của Tỉnh ủy, HĐND, UBND. Điều

quan trọng, sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền huyện Vân Đồn chính là nhân tố

quyết định trong việc QL DSVH dân tộc Sán Dìu trên địa bàn huyện.

- Bộ máy QLNN về DSVH ngày càng hoàn thiện: Phòng Văn hóa - Thông

tin đã phân công cán bộ chuyên trách về các nhiệm vụ tham mưu, thực hiện chức

năng QLNN về DSVH trên địa bàn huyện. Chất lượng đội ngũ cán bộ dần được

nâng cao, trình độ chuyên môn thông qua các lớp đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng hay

các đợt đi tham quan học tập kinh nghiệm.

- Những năm gần đây, thành tựu nổi bật về phát triển KT-XH của địa

phương là môi trường và điều kiện thuận lợi để công tác QL DSVH đạt được những

kết quả đáng ghi nhận. Đời sống của cộng đồng được nâng cao, nhu cầu hưởng thụ

văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng. Các giá trị văn hóa truyền thống được đông

đảo người dân và cộng đồng quan tâm.

- Tác động tích cực trong bối cảnh hội nhập và phát triển đã mang đến nhiều

thuận lợi trong công tác QL DSVH. Các tri thức khoa học kỹ thuật mới không chỉ

phục vụ cho nhu cầu phát triển KT-XH của địa phương mà còn được áp dụng hiệu

quả trong công tác QL DSVH.

2.7.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế

- Tổ chức bộ máy QLNN về DSVH vừa yếu lại vừa thiếu, rất ít cán bộ được

đào tạo đúng chuyên ngành. Cán bộ phải phụ trách nhiều công việc nên chất lượng

tham mưu và QL DSVH trên địa bàn huyện nói chung và DSVH dân tộc Sán Dìu

nói riêng bị hạn chế.

109

- Các hoạt động QLNN về DSVH chủ yếu hoạt động bằng ngân sách của

Nhà nước. Việc huy động các nguồn lực tham gia vào hoạt động QL DSVH không

nhiều gây hạn chế trong triển khai các hoạt động nói trên.

- Cơ quan QLNN về DSVH chưa thực hiện tốt trách nhiệm hỗ trợ cộng đồng

nên công tác hỗ trợ còn manh mún, nhỏ lẻ.

- Năng lực của cán bộ cấp cơ sở trực tiếp làm việc với cộng đồng còn hạn

chế, chưa được cập nhật kiến thức và nghiệp vụ thường xuyên nên trong quá trình

thực hiện nhiệm vụ còn gặp nhiều khó khăn.

- Cơ chế phối hợp giữa QLNN và cộng đồng trong QL DSVH chưa nhịp

nhàng, cụ thể: chính quyền chỉ đạo, can thiệp sâu vào việc thực hành di sản của

cộng đồng, trong khi đó cộng đồng coi việc QL DSVH là nhiệm vụ của Nhà nước.

- Tiếng nói của cộng đồng được ghi nhận nhưng còn chậm trong giải quyết.

Việc đề xuất BV&PH giá trị DSVH được ghi nhận nhưng chưa được thực hiện.

- Quá trình hội nhập và toàn cầu hóa văn hóa diễn ra mạnh mẽ, các giá trị

DSVH bị mai một, thất truyền nhanh. Trong khi đó, các loại hình văn hóa mới, lai

căng lại từng ngày xâm thực vào đời sống văn hóa của cộng đồng.

2.8. Một số yếu tố tác động

Trong quá trình hình thành và phát triển ở bất kỳ lĩnh vực, ngành nghề nào

cũng có yếu tố tác động trực tiếp hay gián tiếp, ở những quy mô, mức độ, đa chiều,

đa diện khác nhau. Đối với công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân

Đồn cũng không nằm ngoại lệ. Với chức năng QLNN về DSVH và vai trò của cộng

đồng trong QL DSVH có những thuận lợi, khó khăn nhất định. Những thuận lợi,

khó khăn đó chịu sự tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tạo

nên. Để kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu và làm sáng tỏ câu hỏi nghiên cứu đặt ra,

NCS nhận diện một số yếu tố tác động cơ bản sau:

- Tác động của chủ trương, đường lối của Đảng

+ Trước hết cần khẳng định công tác văn hóa là một trong những lĩnh

vực được Đảng rất quan tâm kể từ khi ra đời đến nay. Điều đó được thể hiện

xuyên suốt thông qua văn kiện của Đảng, từ Đề cương văn hóa năm 1943 đến

110

các kỳ Đại hội Đảng. Đây được coi là kim chỉ nam định hướng chỉ đạo, điều

hành của các cơ quan chức năng Nhà nước cũng như quần chúng nhân dân với

vai trò là chủ thể sáng tạo và thực hành văn hóa trong công tác QL DSVH. Đặc

biệt, sau khi Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng (khóa VIII)

về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân

tộc đi vào cuộc sống đã tạo hiệu ứng lan tỏa tốt trong nhân dân. Nhiều DSVH

như lễ hội Đại phan, Soọng cô… được khôi phục và phát huy.

+ Kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được trong việc thực hiện

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), BCH Trung ương Đảng đã ban hành Nghị

quyết số 33 tại Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng

văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và Đại

hội XII, quan điểm đó được bổ sung và hoàn thiện về xây dựng văn hóa gắn liền

xây dựng con người là mối quan hệ biện chứng, vì con người là chủ thể sáng tạo

văn hóa và cũng là đối tượng thụ hưởng giá trị văn hóa của chính mình tạo ra.

Chỉ đạo chủ trương, đường lối của Đảng về công tác văn hóa, tỉnh Quảng

Ninh đã chủ trương thực hiện trong Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 09/3/2018 của

Tỉnh ủy Quảng Ninh về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp

ứng yêu cầu phát triển bền vững đã nêu: “xây dựng một số thôn, làng, bản trở thành

“bảo tàng sống” nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống đắc sắc

trong tỉnh và trở thành sản phẩm du lịch”.

Như vậy, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác QL DSVH luôn nhất

quán và luôn được đổi mới để phù hợp với từng giai đoạn. Do vậy, việc ban hành cơ

chế chính sách đòi hỏi cần thường xuyên cập nhật, đổi mới trong công tác QLNN về

văn hóa để theo kịp với vấn đề thực tiễn đặt ra.

- Tác động của kinh tế và hội nhập quốc tế

+ Yếu tố tác động của kinh tế và hội nhập quốc tế ở huyện đảo Vân Đồn

được NCS nhận định là một trong những yếu tố quan trọng nhất, có tác động mạnh

mẽ đến các yếu tố khác. Bởi, Vân Đồn được đánh giá là khu vực phát triển cực

mạnh trong tương lai, một cực tăng trưởng không chỉ cho tỉnh Quảng Ninh mà cho

111

cả vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Vì vậy, thực tế cho thấy quá trình phát triển

mạnh mẽ của Vân Đồn sẽ tạo ra một hệ thống chính sách công mới, một nguồn lực

mới về nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, dịch vụ chất lượng cao…

+ Huyện đảo Vân Đồn đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của quá trình

CNH, HĐH và đã có những thành tựu vượt bậc trong phát triển KT-XH. Bức tranh

về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cả vùng đô thị, nông thôn, miền núi

đều thay đổi rõ nét. Quá trình CNH, HĐH đã và đang tạo ra thế và lực mới để

huyện đảo Vân Đồn tự tin hội nhập vươn mình ra hội nhập thế giới. Công tác QL

DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn cần coi trọng và phát triển, bởi DSVH sẽ

là nguồn lực quan trọng thúc đẩy phát triển KT-XH, phát triển sinh kế bền vững cho

cộng đồng dân tộc Sán Dìu gắn với các hoạt động của ngành du lịch, dịch vụ khi

Vân Đồn có một vị thế mới là KKT, một điểm động lực tăng trưởng kinh tế của tỉnh

và cả vùng thu hút sự đầu tư của tổ chức quốc tế vào huyện đảo.

+ Vân Đồn với một vị thế chiến lược trong phát triển KT-XH và đảm bảo

quốc phòng - an ninh vùng Đông Bắc. Mọi nguồn lực của Nhà nước và tư nhân đều

tập trung đầu tư mạnh vào vùng đất này, tạo cho Vân Đồn phát triển toàn diện cả về

kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, trong đó cộng đồng các DTTS tại huyện đảo

Vân Đồn cũng được quan tâm tăng cường đầu tư, hỗ trợ nhằm thức đẩy các dân tộc

Dao, Tày, Hoa, trong đó dân tộc Sán Dìu là một trong những DTTS đông nhất của

huyện, tập trung nguồn lực đầu tư, hỗ trợ trong công tác QL DSVH được đẩy mạnh

nhằm phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Mặc khác, đây là nguồn

vốn sinh kế quan trọng thúc đẩy phát triển KT-XH, đặc biệt phát triển du lịch.

+ Cần tính toán đến thách thức, hạn chế cũng như quản trị các rủi ro trong

quá trình phát triển bền vững như: bài toán về cân bằng giữa QL DSVH dân tộc Sán

Dìu với phát triển kinh tế; lựa chọn các phương thức bảo vệ DSVH dân tộc Sán Dìu

trong bối cảnh hiện nay; phát triển du lịch dựa vào cộng đồng một cách bền vững…

- Tác động của chính sách ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng trong quá

trình QL DSVH thông qua hệ thống luật pháp như: nghị định, quyết định,… Về

mặt QLNN về DSVH, chính quyền các cấp đã cơ bản ban hành đầy đủ các văn

112

bản QL DSVH. Tuy nhiên, hệ thống văn bản quản lý và tổ chức các hoạt động

QL DSVH không phải lúc nào cũng kịp thời và bao quát, giải quyết triệt để các

vấn đề thực tiễn đặc ra. Có nhiều vấn đề nảy sinh chưa được quy định cụ thể,

hoặc chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn trong các văn bản hiện hành. Do đó, cần

có văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết của cơ ban quản lý chuyên ngành.

- Tác động của tổ chức bộ máy: tỉnh Quảng Ninh nói chung và huyện Vân

Đồn nói riêng đang đẩy mạnh công tác tinh giản bộ máy bên chế, sắp xếp lại vị trí

việc làm theo hướng tinh gọn. Đây là điều kiện thuận lợi để tổ chức hoạt động về sự

phân cấp, phân quyền được rõ ràng, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng

Văn hóa - Thông tin và Trung tâm Truyền thông văn hóa huyện Vân Đồn được quy

định cụ thể. Tuy nhiên, có một số nhiệm vụ trong quá trình giải quyết còn chồng

chéo, khi xác định nhiệm vụ chưa rõ ràng theo chức năng của từng cơ quan.

- Tác động của nguồn lực

+ Nguồn lực con người: đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa tại Phòng Văn

hóa - Thông tin; Trung tâm Truyền thông - Văn hóa huyện Vân Đồn và công chức

văn hóa cấp xã đã được bố trí theo vị trí việc làm, trình độ chuyên môn ngày một

nâng cao thông qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn. Tuy nhiên, vấn đề tồn

tại của công tác sắp xếp bộ máy biên chế là việc sáp nhập, chia tách tổ chức đơn vị

gây nên sự xáo trộn, cán bộ kiệm nhiệm nhiều nhiệm vụ cùng lúc. Đặc biệt, cán bộ

cấp cơ sở phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ nên dễ dẫn đến tâm lý chán nản trong

công việc, làm việc cho có, cho xong, chất lượng tham mưu chưa hiệu quả.

+ Nguồn lực cơ sở vật chất: trụ sở làm việc tại huyện Vân Đồn và xã Bình

Dân được trang bị khá đầy đủ, hiện đại. Tuy nhiên, các trang thiết bị phục vụ công

tác chuyên môn như: máy scan, máy ghi âm, máy quay,… chưa được trang bị đầy

đủ, hoặc đã trang bị tuy nhiên ít sử dụng hay trong quá trình sử dụng chưa được bảo

quản kỹ lưỡng nên hạn chế trong khi công tác tại cơ sở.

+ Nguồn lực vật chất: tài chính chi cho hoạt động QL DSVH còn hạn chế.

Chính quyền đã quan tâm nhưng còn nhỏ lẻ, manh mún nên hiệu quả chưa cao.

- Tác động của các nhân tố văn hóa

113

Đời sống của người dân huyện đảo Vân Đồn nói chung và dân tộc Sán Dìu

nơi đây nói riêng ngày một nâng cao, nên nhận thức cũng như ý thức về QL DSVH

của chính cộng đồng được người dân quan tâm hơn. Các thực hành văn hóa truyền

thống hiện nay như tổ chức lễ hội, sử dụng và phát triển ngôn ngữ dân tộc, triển

khai các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa được cộng đồng chú trọng trong chính

môi trường văn hóa của gia đình, dòng họ, trường học…, cùng với sự hỗ trợ của các

cơ quan chuyên môn về tư liệu hóa DSVH, về cơ sở vật chất, về phối hợp bồi

dưỡng nâng cao nhận thức về DSVH cho dân tộc Sán Dìu tại địa phương. Vì vậy, ý

thức và nhận thức của cộng đồng được nâng cao, vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu

nơi đây được coi là vấn đề “tự thân” của mỗi thành viên trong cộng đồng.

Vân Đồn là địa phương có ngành du lịch phát triển mạnh với đầy đủ các

loại hình du lịch như du lịch tâm linh (chùa Cái Bầu, đền Cặp Tiên, đền Trần

Khánh Dư, đình Quan Lạn), du lịch sinh thái biển. Đặc biệt, huyện đảo Vân Đồn

có nhiều thành phần DTTS sinh sống, trong đó dân tộc Sán Dìu chiếm tỷ lệ

10,66% dân số toàn huyện đây là một thế mạnh, tiền năng rất lớn nhằm phát huy

giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu trở thành các sản phẩn du lịch văn hóa, du lịch

cộng đồng. Hiện tại, giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu như văn hóa ẩm thực, cây

trồng, vật nuôi bản địa đã phục vụ nhu cầu của khách du lịch, giá trị DSVH phi

vật thể như: Soọng cô, lễ Đại phan, múa hành quang… đã tham gia sự kiện tuần

lễ Carnaval Hạ Long hằng năm.

- Tác động của xã hội hóa các hoạt động văn hóa đang ngày càng nhận được

sự quan tâm của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và cá

nhân. Họ nhận thức được rằng tài sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân

Đồn chính là một nguồn vốn quan trọng để phát triển kinh tế. Thực tiễn cho thấy,

huyện đảo Vân Đồn giàu tiền năng, thế mạnh phát triển loại hình du lịch văn hóa,

du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm với các hoạt động tìm hiểu phong tục tập

quán, trải nghiệm cuộc sống, thưởng thức các món ăn, thức uống truyền thống của

dân tộc Sán Dìu…, rõ ràng DSVH dân tộc Sán Dìu là nguồn lực quan trọng giúp

114

phát triển KT-XH. Chính vì vậy, QL DSVH dân tộc Sán Dìu không chỉ cộng đồng

chủ thể quan tâm mà cần sự đầu tư, hỗ trợ của các tổ chức bên ngoài cộng đồng.

- Tác động của khoa học, công nghệ lên vấn đề QL DSVH dân tộc Sán Dìu

nằm ở hai mức độ khác nhau. Khi tổ chức, cá nhân áp dụng một cách hiệu quả khoa

học và công nghệ bằng phương pháp tiên tiến, công nghệ hiện đại như máy quét

không gian 3 chiều, sử dụng chất liệu trong bảo quản trùng tu, tôn tạo di tích chống

ẩm mốc, mối mọt sẽ có một hiệu ứng tốt là DSVH được bảo vệ trong môi trường ổn

định, tăng tuổi thọ cho các kiến trúc nhà ở truyền thống, các ngôi miếu thành hoàng.

Ngược lại, khi chưa áp dụng khoa học, công nghệ, hoặc áp dụng một cách máy

móc, áp dụng không khoa học thì không những không bảo vệ tốt DSVH mà càng

làm cho DSVH xuống cấp, hư tại hay mai một một cách nhanh chóng.

- Tác động của thông tin, truyền thông đến QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện Vân Đồn đã được quan tâm truyền thông, giới thiệu quảng bá trên phương

tiện thông tin đại chúng như: VTV, QTV, báo Quảng Ninh,... Tuy nhiên, tần suất

xuất hiện còn thấp, chất lượng nội dung chưa cao, chưa phản ánh những giá trị

DSVH của dân tộc Sán Dìu.

Tóm lại: Một số yếu tố đã có những tác động trực tiếp đến các hoạt động QL

DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn. Những tác động đó đã có những ảnh

hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, ở mức độ, quy mô khác nhau đến DSVH, tạo ra

những mặt tích cực cũng như hạn chế trong QL DSVH. Thông qua cơ chế tác động

đó mà cộng đồng có những cơ hội phát triển, bên cạnh đó cũng gặp những khó

khăn, thách thức cần được giải quyết trong quá trình QL DSVH dân tộc Sán Dìu.

Điều đó phù hợp với giả thuyết cũng như câu hỏi nghiên cứu của luận án đặt ra. Vì

vậy, NCS cho rằng giả thuyết nghiên cứu đưa ra là phù hợp với thực tiễn.

Tiểu kết

Huyện đảo Vân Đồn được coi là thủ phủ của dân tộc Sán Dìu tỉnh Quảng

Ninh, nơi mật cư đông nhất của dân tộc Sán Dìu toàn tỉnh. Dân tộc Sán Dìu ở huyện

đảo Vân Đồn, đặc biệt ở xã Bình Dân còn giữ được khá nhiều DSVH vật thể và phi

vật thể độc đáo, đặc sắc và hấp dẫn. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập và phát triển

115

hiện nay, huyện đảo Vân Đồn đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ trở thành

KKT của vùng. Do vậy, những tác động của KT-XH sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống

của dân tộc Sán Dìu.

Những kết quả trong các hoạt động QL DSVH được các cơ quan QLNN nỗ

lực triển khai và cộng đồng luôn chủ động, tích cực trong các hoạt động thực hành

DSVH nhằm duy trì, nuôi dưỡng và trao truyền. Tuy nhiên, vẫn còn gặp nhiều khó

khăn như: công tác tham mưu và thực hiện QLNN về DSVH còn chậm triển khai,

đội ngũ cán bộ vừa thiếu vừa yếu, thường xuyên luân chuyển cán bộ. Vai trò QL

của cộng đồng chưa thực sự phát huy hiệu quả, thậm chí một bộ phận thờ ơ, quay

lưng lại với DSVH.

Công tác QL DSVH dân tộc Sán Dìu huyện đảo Vân Đồn đạt được hiệu quả

nhất định, ngoài các chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cần có sự vào

cuộc tích cực, chủ động của cộng đồng; đồng thời, cần giải quyết tốt các mối quan

hệ trong quá trình QL DSVH, đặc biệt mối quan hệ giữa QLNN về DSVH với cộng

đồng và mối quan hệ giữa QL DSVH với phát triển KT-XH tại địa phương.

116

Chương 3

BÀN LUẬN VỀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA

DÂN TỘC SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH

3.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về quản lý di sản văn hóa

3.1.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia ở phương Đông

3.1.1.1. Kinh nghiệm từ Trung Quốc

QL văn hóa ở Trung Quốc được chia làm ba cấp: cấp vĩ mô, cấp trung và cấp

vi mô. Trung Quốc đặc biệt quan tâm đến vấn đề QL DSVH thông qua các chương

trình giáo dục cộng đồng. Chương trình Mỗi người đều có trách nhiệm bảo vệ

DSVH của đất nước do Bộ Văn hóa công bố từ năm 1989, đã được triển khai trong

cả nước. Các cơ quan QLNN, đơn vị sự nghiệp công lập như bảo tàng, nhà tưởng

niệm… đã tích cực sưu tầm, giới thiệu đến nhân dân và du khách các DSVH. Các

phương tiện truyền thông thường xuyên đề cập đến tầm quan trọng của giá trị văn

hóa, lịch sử, thẩm mỹ và khoa học của DSVH.

Ngày 25 tháng 02 năm 2011, cơ quan lập pháp cao nhất của Trung Quốc

đã thông qua Luật Di sản văn hóa phi vật thể nhằm thể thế hóa các quy định

trong QL DSVH cho cộng đồng. Luật quy định, DSVH phi vật thể bao gồm: văn

học truyền khẩu, các loại hình nghệ thuật biểu diễn, nghề thủ công truyền thống,

các loại thuốc và tập tục dân gian. Luật quy định Quốc vụ viện và các cơ quan

cấp tỉnh phải lập một danh sách hạng mục DSVH phi vật thể để công nhận cấp

độ quốc gia và cấp tỉnh, thành phố. Các cơ quan này, có nhiệm vụ hỗ trợ và chịu

trách nhiệm bảo vệ các di sản được ghi danh trong các danh mục. Bên cạnh đó,

nhà nước quan tâm hỗ trợ công tác bảo vệ DSVH phi vật thể cho cộng đồng ở

những vùng DTTS, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn [38, tr.62-63].

Nhờ có những chính sách kịp thời và hiệu quả mà công tác QL DSVH của

Trung Quốc đã được nâng cao từ việc huy động các nguồn lực đến quản lý đào tạo,

tập huấn hỗ trợ cộng đồng như thành lập Trung tâm quốc tế về đào tạo DSVH phi

vật thể ở Châu Á - Thái Bình Dương (CRIHAP), nhằm đào tạo và hỗ trợ cộng đồng

trong công tác QL giá trị DSVH. Bên cạnh đó, Trung Quốc quan tâm đến công tác

117

chỉ đạo thi đua khen thưởng, vinh danh cá nhân và cộng đồng có những đóng góp

thiết thực, hiệu quả trong bảo tồn DSVH.

Vai trò của cộng đồng trong QL DSVH được Nhà nước Trung Quốc coi

trọng. Bởi cộng đồng vừa là chủ thể sáng tạo, gìn giữ, trao truyền và phát triển các

loại hình DSVH, vừa thay mặt nhà nước đứng ra quản lý, tổ chức thực hành DSVH

cũng như các hoạt động văn hóa tại cộng đồng với phương châm DSVH do cộng

đồng sáng tạo ra thì phải do cộng đồng bảo vệ, quản lý và quyết định.

Như vậy, Trung Quốc đã có những chính sách phù hợp trong công tác QL

DSVH. Nhờ vậy, DSVH không những được bảo vệ hiệu quả mà còn là nguồn lực

thúc đẩy phát triển KT-XH, quảng bá du lịch, nâng cao đời sống tinh thần, ý thức

dân tộc của từng cá nhân và mỗi dân tộc ở Trung Quốc.

3.1.1.2. Kinh nghiệm từ Nhật Bản

Để thực hiện tốt công tác bảo vệ DSVH tại Nhật Bản và thống nhất trong

quản lý DSVH từ trung ương đến các địa phương, Chính phủ Nhật Bản có Bộ Giáo

dục, Văn hóa, Khoa học, Thể thao và Công nghệ (MEXT) là cơ quan chịu trách

nhiệm quản lý, chỉ đạo, điều hành các hoạt động QL DSVH.

Việc bảo vệ DSVH được Nhật Bản quan tâm từ rất sớm. Ngay từ thời Minh

Trị, nhà nước đã ban hành Luật về các đền thờ, miếu thờ cổ (1897), Luật bảo vệ kho

tàng quốc gia (1929) và năm 1950, Nhật Bản ban hành Luật bảo vệ tài sản văn hóa.

Bộ luật ra đời nhằm thực hiện bảo vệ DSVH trên cơ sở xác lập quyền sở hữu các

các công dân, các cơ quan sự vụ, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ. “Các chủ

sở hữu tài sản văn hóa những người hữu quan sẽ chịu trách nhiệm bảo quản chúng

một cách tốt nhất và khai thác các giá trị văn hóa của chúng với một ý thức đầy đủ

rằng: đó là những tài sản quý báu của quốc gia” được quy định tại Khoản 2, điều 4

của Bộ luật [72, tr.57-58].

Để thực hiện hiệu quả việc bảo vệ DSVH, Chính phủ Nhật Bản đã sử dụng

nguồn lực hỗ trợ cộng đồng bằng cách huy động nhiều chuyên gia - những người

hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực văn hóa vật thể, phi vật thể như loại hình nghệ

thuật truyền thống, các nghề thủ công mỹ nghệ vào Ban Tài sản văn hóa thuộc Cục

118

Văn hóa Nhật Bản để lên danh sách và có kế hoạch bảo vệ các tài sản quý giá của

quốc gia. Bên cạnh việc bảo vệ tài sản văn hóa, Nhật Bản cũng xây dựng nhiều

chương trình giới thiệu quảng bá DSVH, đất nước, con người xứ mặt trời mọc.

Công tác giáo dục DSVH được Nhật Bản chú trọng với sự tham gia hiệu quả

từ cộng đồng bằng cách đưa DSVH vào trường học với sự truyền dạy của nghệ

nhân. Các chương trình dạy DSVH có nhiều hình thức bắt buộc và tự nguyện để học

sinh các cấp có thể tiếp cận, hiểu biết về DSVH của địa phương mình.

Cộng đồng người dân Nhật Bản luôn có sự đồng thuận cao đối với các chính

sách bảo vệ DSVH thông qua các hoạt động nuôi dưỡng, trao truyền mở giúp cộng

đồng, đặc biệt thế hệ trẻ dễ dàng tiếp nhận tại trường học, bảo tàng với sự tham gia

tích cực và hiệu quả của nghệ nhân. Lễ hội diễn ra không vì mục đích thương mại hay

vụ lợi trong lợi ích nhóm mà thuần túy là tình cảm, trách nhiệm và nghĩa vụ của từng

cá nhân đối với cộng đồng và là niềm tự hào đối với quê hương nơi mình sinh ra.

3.1.1.3. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc

Ở Hàn Quốc, Bộ Văn hóa và Du lịch là cơ quan thực hiện chức năng QLNN

về QL sự nghiệp văn hóa, du lịch và thể thao.

Chỉ đạo hoạt động bảo vệ DSVH có Tổng cục Di sản văn hóa (CHA), cơ

quan chịu trách nhiệm trực tiếp và tất cả các vấn đề liên quan đến di sản của Hàn

Quốc. Hệ thống QL chặt chẽ từ Tổng cục DSVH đến các địa phương, cũng như việc

khuyến khích cá nhân, cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ đã giúp cho Hàn Quốc

khôi phục và bảo vệ thành công nhiều loại hình DSVH có nguy cơ biến mất trong

thời kỳ CNH, HĐH. Hoạt động của Tổng cục DSVH chủ yếu là có trách nhiệm bảo

vệ và QL, phát huy DSVH. Tổng cục cũng tổ chức nhiều sự kiện và triển lãm làm

tăng thêm tầm nhìn của DSVH, bao gồm trình diễn truyền thống, làng nghề thủ

công mỹ nghệ. Họ cũng sưu tầm DSVH và áp dụng số hóa để phát huy việc truyền

dạy cố định một cách có hệ thống. Tổng cục có trách nhiệm đề cử các di sản trong

danh sách vinh danh của UNESCO. Bên cạnh đó, Tổng cục còn tổ chức nhiều hoạt

động, sự kiện để quảng bá giới thiệu về DSVH phi vật thể của các cộng đồng.

Chính hoạt động này mang lại cho cộng đồng lợi ích kinh tế lẫn hiệu quả quảng bá

119

hình ảnh văn hóa của cộng đồng chủ nhân nói riêng và hình ảnh quốc gia nói chung

[38, tr.78-79].

Luật bảo vệ Di sản văn hóa đã được Hàn Quốc quan tâm từ những năm

1950 và Luật bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể (CHPA) được thông qua ngày 10

tháng 01 năm 1962, góp phần quan trọng trong việc chấp thuận quan điểm mang

tính thể chế về QL DSVH phi vật thể. Điều chỉnh bổ sung Luật bảo vệ tài sản văn

hóa với vai trò trung tâm của cộng đồng: Luật bảo vệ tài sản văn hóa của Hàn

Quốc cho rằng “nguyên tắc của bảo vệ, quản lý và vận hành bất kể DSVH nào cần

phải bảo vệ chúng trong hình thức nguyên bản”… Hệ thống văn bản pháp luật hỗ

trợ cộng đồng đó là chính phủ cho phép các địa phương chủ động đưa ra các quy

định bảo vệ DSVH. Để thực hiện được điều đó, không chỉ có sự cố gắng của chính

phủ, của cơ quan địa phương mà quan trọng hơn cả là ý thức bảo vệ di sản của

người dân và sự nhận thức đúng đắn về giá trị DSVH phi vật thể của người dân

Hàn Quốc [38, tr. 77-78].

3.1.1.4. Kinh nghiệm từ Thái Lan

Tổ chức quản lý văn hóa của Thái Lan gồm các cơ quan hành chính công và

bán công. Bộ Giáo dục là cơ quan chịu trách nhiệm về các vấn đề văn hóa. Văn

phòng của Ủy ban Văn hóa quốc gia được thành lập năm 1979 và trở thành một ban

của Bộ Giáo dục. Chức năng của văn phòng là phối hợp, xúc tiến và phát triển các

hoạt động văn hóa của các cơ quan tư nhân và nhà nước ở phạm vi quốc gia và quốc

tế [30, tr.122]. Ngoài cơ quan QLNN về văn hóa, Thái Lan có hệ thống 32 bảo tàng

quốc gia và Trung tâm Văn hóa Thái Lan đều giúp cho người dân có cơ hội tham

gia các hoạt động giải trí văn hóa, biểu diễn nghệ thuật và giáo dục.

Chính sách văn hóa quốc gia Thái Lan được công bố vào năm 1981 theo tinh

thần của Điều luật thứ 114 của Hiến pháp Hoàng gia Vương quốc Thái Lan, trong

đó ghi rõ: Nhà nước thúc đẩy và bảo tồn văn hóa quốc gia. Cốt lõi của chính sách

có thế tóm tắt như sau: hỗ trợ bảo tồn văn hóa Thái Lan trong các lĩnh vực thông

qua giáo dục, nghiên cứu, cổ vũ và phát triển để văn hóa có thể trở thành một công

cụ quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề của đời sống cá nhân cũng như vấn

120

đề phát triển xã hội, kinh tế, chính trị và tăng cường quyền độc lập tự chủ của quốc

gia…. Thúc đẩy văn hóa truyền thống trong nước và văn hóa truyền thống của dân

tộc nhằm khắc sâu văn hóa truyền thống và văn hóa khu vực. Đồng thời, kích thích

sự hòa hợp dân tộc, làm cho cộng đồng dân tộc đa dạng trở thành một thể thống

nhất trong hòa bình [30, tr.127].

Thế giới biết đến Thái Lan là xứ sở chùa tháp với Phật giáo trở thành quốc

giáo. Nhờ sự phát triển di sản của chùa tháp, Thái Lan đã trở thành điểm đến du lịch

hấp dẫn của khách du lịch quốc tế. Thái Lan đã dành kinh phí lớn cho đầu tư một số

dự án văn hóa, những công trình hoàn mỹ như cung điện Hoàng gia, vườn du lịch

Noongnook, khu du lịch Pattaya, khu du lịch biển Phuket… những trung tâm du

lịch này đã thu hút lượng lớn khách đến tham quan, nghỉ dưỡng và giải trí. Bên

cạnh những thành công đó, Thái Lan đang đứng trước thách thức lớn về hạ tầng đáp

ứng vận tải hay các vấn đề của “kinh đô du lịch sex”… Đây là, vấn đề nan giải đối

với Thái Lan trong việc giải quyết mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển.

3.1.1.5. Kinh nghiệm từ Ấn Độ

Ấn Độ là một quốc gia giàu DSVH và có nền văn hóa trải qua hơn 5000 năm

phát triển và sự ra đời của các tôn giáo. Điều đáng nói ở đây là Chính phủ Ấn Độ

hầu như không quan tâm đến nhiều đến khía cạnh khai thác nguồn tài nguyên to lớn

này. Dù vậy, những DSVH của Ấn Độ rất ít bị hủy hoại (ngoại từ những ảnh hưởng

của thiên tai). Vậy điều kỳ lạ gì đang diễn ra ở các DSVH của Ấn Độ từ hơn 5000

năm qua và vẫn đang tồn tại một cách sống động trong thời đại ngày nay.

Ở Ấn Độ, DSVH phi vật thể tồn tại một cách gần như tự nhiên. Các loại hình

sinh hoạt văn hóa tự chúng đã tạo ra môi trường tồn tại ngay trong một xã hội hiện

đại. Hiếm thấy một quốc gia nào phát triển nhanh về mặt kinh tế mà lại bảo tồn một

cách gần như “nguyên trạng” các sinh hoạt văn hóa dân gian như Ấn Độ.

Ý thức của người dân Ấn Độ trong việc bảo tồn các loại hình hoạt động văn

hóa rất cao. Một buổi hành lễ của tôn giáo sẽ làm ngưng trệ toàn bộ hoạt động của

một khu vực buôn bán và họ sẵn sàng nghỉ việc để chờ các hoạt động đó kết thúc

rồi mới tiếp tục. Thậm chí, những hoạt động hành chính pháp quyền… cũng

121

nhường chỗ cho các sinh hoạt văn hóa. Chẳng hạn, Trường Đại học Delhi, một

trong những trường đại học lớn nhất Ấn Độ, có tới ¼ số ngày học chính thức phải

nghỉ trùng với các ngày lễ của các tôn giáo. Tại các gia đình, người Ấn có thể trình

diễn bất cứ loại hình nhạc cụ nào để phục vụ các nghi lễ gia đình của họ, thậm chí

có gia đình còn sử dụng dàn loa công suất lớn. Tất nhiên, cảnh sát và chính quyền

không bao giờ can thiệp vào những hoạt động đó. Ở Ấn Độ rất hiếm khi chúng ta

thấy các phương tiện thông tin nói về vấn đề bảo tồn, khôi phục không gian sống

của các DSVH phi vật thể một cách cấp thiết như ở Việt Nam, mà dường như cả

nước Ấn Độ đã là một sân khấu dân gian lớn. Đặc biệt, sân khấu đó vẫn luôn “sáng

đèn” trong hơn 5000 năm qua [72, tr.62-63].

3.1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia phương Tây

3.1.2.1. Kinh nghiệm từ Anh

Đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, Vương quốc Anh đã thành lập Bộ Di sản

quốc gia. Đến năm 1997, Bộ Di sản quốc gia đổi thành Bộ Văn hóa, Truyền thông

và Thể thao. Bộ có chức năng, nhiệm vụ trong việc định hướng xây dựng và phát

triển văn hóa. Đồng thời, Chính phủ thành lập và trợ cấp cho các hoạt động của Hội

đồng di sản, Bảo tàng quốc gia, Hội đồng nghệ thuật, Thư viện…

Mục đích cơ bản của chính sách văn hóa Vương quốc Anh là làm cho những

điều tốt nhất trong cuộc sống có thể đến với người dân được nhiều nhất. Các mục

tiêu bao gồm tăng khả năng tiếp cận, tham gia của mọi người dân vào đời sống văn

hóa quốc gia và nâng cao chất lượng các hoạt động hiện có, làm thỏa mãn nhu cầu

của mọi người về những điều tốt đẹp. Chúng đóng vai trò trọng tâm trong những

mục tiêu xã hội, kinh tế và giáo dục lớn hơn của chính phủ. Để đạt được những mục

đích này, chính phủ đã xác định các mục tiêu hành động như sau:

(1). Duy trì và phát triển chất lượng, sự đổi mới và khả năng sáng tạo;

tạo ra một thị trường cạnh tranh và hiệu quả, bao gồm cả việc loại bỏ

những quy định không cần thiết cũng như các khó khăn cản trở để phát

triển các ngành du lịch và sáng tạo; (2). Mở rộng khả năng cho mọi

người trong việc tiếp cận với đời sống văn hóa, thể thao; (3). Phát triển

122

tiềm năng giáo dục của các tài nguyên văn hóa và thể thao quốc gia;

nâng cao các tiêu chuẩn về giáo dục và đào tạo văn hóa; bảo đảm cung

cấp đầy đủ các khả năng cho các ngành sáng tạo và du lịch; (4). Bảo đảm

cho mọi người có cơ hội phát triển tài năng và đạt được thành tích xuất

sắc trong các lĩnh vực văn hóa, truyền thông và thể thao; (5). Duy trì sự

hỗ trợ của nhà nước đối với xổ số quốc gia và bảo đảm những khoản tiền

được huy động sẽ được dùng để hỗ trợ cho các ưu tiên của Bộ Văn hóa,

Truyền thông và Thể thao hoặc các ưu tiên quốc gia khác; (6). Thúc đẩy

vai trò của các lĩnh vực quản lý thuộc Bộ Văn hóa, Truyền thông và Thể

thao trong quá trình xây dựng lại đô thị và nông thôn trong việc duy trì

sự ổn định, hạn chế việc tách rời khỏi xã hội [30, tr.74 -75].

Việc giữ gìn DSVH ở nước Anh thể hiện rõ: Tính năng động, hiệu quả trong

hoạt động của hệ thống bảo tàng. Cách trưng bày, giới thiêu di vật, hiện vật trong hệ

thống bảo tàng ở Vương quốc Anh vừa đảm bảo tính khoa học vừa sinh động, hấp

dẫn người xem. “Ngoài việc đưa những nội dung giáo dục lịch sử vào chương trình

học các cấp, hoạt động của hệ thống bảo tàng với chức năng vừa lưu giữ hiện vật

quốc gia lại vừa minh họa lịch sử” [72, tr.65]. Nước Anh luôn đổi mới cách trưng

bày bảo tàng để cho du khách tham quan không cảm thấy nhàm chán.

3.1.2.2. Kinh nghiệm từ Mỹ

Đối với nước Mỹ, trong Hiến pháp của mình, Tổng thống hay Quốc hội

không được giao nhiệm vụ QL văn hóa. Do đó, chính quyền trung ương hay các

tiểu bang không trực tiếp can thiệp vào chính sách văn hóa. Các tiểu bang và các cơ

sở văn hóa công cộng hay tư nhân đều căn cứ vào tình hình cụ thể mà hoạch định

chính sách văn hóa riêng cho mình và nhờ vậy nó làm cho văn hóa Mỹ trở nên

phong phú… Nước Mỹ luôn đề cao sự tự do trong sáng tạo và thể hiện điều này qua

cách quản lý của mình [30, tr.98].

Như vậy, nước Mỹ không có chính sách trực tiếp đối với lĩnh vực văn hóa

mà theo quan điểm của Mỹ, văn hóa là một sản phẩm hàng hóa. Văn hóa là hàng

hóa, thông qua các điều khoản của luật thuế mà áp dụng việc thu, miễn giảm thuế

123

đối với các hoạt động phát triển văn hóa. Các ngành công nghiệp văn hóa của Mỹ,

các sản phẩm văn hóa, đặc biệt thông qua phim ảnh Hollywood, công nghiệp âm

nhạc đã có nguồn thu rất lớn cho nền kinh tế Mỹ.

3.1.3. Bài học từ kinh nghiệm

Cơ cấu tổ chức và phương thức quản lý của một số quốc gia trên thế giới về

QL DSVH đều tập trung quyền lực vào nhà nước, thông qua hệ thống pháp luật

QLNN và tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị sự nghiệp chính phủ, các tổ chức

phi chính phủ, tổ chức quốc tế và cá nhân tham gia hoạt động QL DSVH. Một số

quốc qua như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản đều có Bộ chuyên quản về văn hóa

và có bộ luật quy định rất rõ về DSVH. Bên cạnh đó, Ấn Độ, Mỹ là hai quốc gia có

chính sách văn hóa đặc thù riêng, mang đậm màu sắc văn hóa của các tổ chức cộng

đồng hay tư nhân, các hoạt động văn hóa nói chung và DSVH nói riêng đã có hiệu

quả, tác động lớn đến sự phát triển KT-XH, bởi các quốc gia này luôn trao quyền

sáng tạo, thực hành văn hóa cho người dân và cộng đồng.

Huy động nguồn lực hỗ trợ cộng đồng: chính phủ các quốc gia đều có

những cơ chế chính sách và thành lập tổ chức hoạt động phi lợi nhuận nhằm hỗ trợ

cộng đồng bảo vệ DSVH. Cơ chế tài chính hỗ trợ cho QL DSVH như: đầu tư xây

dựng cung điện, đền đài, chùa tháp; hỗ trợ chương trình nghệ thuật biểu diễn, nghề

thủ công mỹ nghệ; hỗ trợ hoạt động trưng bày hiện vật tại bảo tàng; tập trung

nguồn lực trong việc giáo dục di sản, quảng bá DSVH văn hóa đến du khách.

Các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản chú trọng đến việc trao truyền

DSVH đến thế hệ tương lai, thông qua việc truyền thừa DSVH tại cộng đồng có di

sản. Nghệ nhân đã được quan tâm hơn và là “vật báu sống” trong việc nắm giữ

DSVH phi vật thể. Ấn Độ là quốc gia duy trì DSVH gần như nguyên bản, DSVH

gắn liền với tôn giáo đã ăn sâu vào tâm thức của người dân và cộng đồng và trở

thành niềm tin trong đời sống văn hóa thường ngày.

Trong việc QL DSVH cần phải chú ý đến vai trò chủ đạo của Nhà nước. Cần

có chính sách đầu tư thích hợp của nhà nước, trong đầu tư chú ý cân nhắc kỹ lưỡng

về thứ hạn, mức độ - như kinh nghiệm của Trung Quốc đã chỉ ra. Cần có sự phân

cấp rõ ràng trong việc quản lý DSVH như kinh nghiệm từ Vương quốc Anh. Đồng

124

thời, nhà nước phải quan tâm đến vấn đề quy hoạch DSVH, đào tạo đội ngũ chuyên

sâu về lĩnh vực quản lý DSVH, cần thực thi hiệu quả trong việc khai thác, sử dụng

chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân.

Kinh nghiệm QL DSVH nói chung và DSVH người Sán Dìu ở huyện đảo

Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh nói riêng cần được tiếp thu một cách linh hoạt, sáng tạo

từ kinh nghiệm quốc tế như: phân cấp, phân quyền trong QLNN về DSVH; phương

thức quản lý trong chỉ đạo, điều hành hoạt động QL DSVH; huy động nguồn lực xã

hội; hỗ trợ cộng đồng đặc biệt là nghệ nhân; phát huy vai trò tự quản, chủ động, tích

cực của cộng đồng trong nuôi dưỡng, trao truyền và giới thiệu, quảng bá DSVH.

3.2. Bàn luận về quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu

3.2.1. Bối cảnh, cơ hội và thách thức đối với việc quản lý di sản văn hóa

dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

Nhận diện và đánh giá đúng tiềm năng, thế mạnh đồng thời nắm bắt cơ hội,

vượt qua thách thức là điểm mấu chốt đặt nền tảng của sự thành công. Huyện đảo

Vân Đồn, đã và đang trong quá trình chuyển mình từ một huyện đảo không mấy

phát triển thành một KKT có những bước đột phá mới nhờ có những thế mạnh sau:

Thứ nhất, đánh giá những điều kiện thuận lợi về tự nhiên và KT-XH của

huyện, Đảng và Chính phủ đã đặt ra cho Vân Đồn những cơ hội phát triển nhanh,

vững chắc. Đây là chủ trương lớn đã được thông qua tại nhiều kỳ đại hội, do vậy

cần quan tâm triển khai thực hiện, làm từng bước vững chắc, vừa làm vừa rút kinh

nghiệm. Đồng ý cho thành lập ba đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt: Vân Đồn

(tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang)

trực thuộc tỉnh, nhằm khai thác tốt nhất các tiềm năng khu vực có lợi thế vượt trội,

thu hút mạnh vồn nguồn đầu tư, công nghệ cao, phương thức quản lý mới tiên tiến,

hình thành khu vực tăng trưởng cao, tạo thêm nguồn lực và động lực, góp phần thúc

đẩy nhanh phát triển và tái cơ cấu kinh tế cho tỉnh, vùng cả nước. Cơ cấu, mô hình

tổ chức chính quyền đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Luật Đơn vị hành chính

- kinh tế đặc biệt quy định [Thông báo số 21-TB/TW].

125

Xây dựng KKT Vân Đồn trở thành đô thị biển đảo xanh, hiện đại,

thông minh; là trung tâm kinh tế và văn hóa của khu vực với trọng

tâm phát triển là ngành dịch vụ và các ngành sử dụng khoa học, công

nghệ tiên tiến, phát triển ngành nghề mới, công nghệ mới, trình độ

cao, trọng tâm là dịch vụ logistics, du lịch cao cấp, công nghiệp giải

trí hiện đại mang tầm quốc tế, công nghiệp công nghệ cao; trung tâm

khởi nghiệp, sáng tạo và giao thương quốc tế của khu vực [111].

Tiềm năng phát triển KT-XH của Vân Đồn rất lớn, có thể nói hội tụ đầy đủ

yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hòa, khi đặt Vân Đồn trong mối quan hệ phát triển

chung của tỉnh Quảng Ninh, của cả vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, đồng thời gắn

với sự phát triển vành đai kinh tế ven biển vịnh Bắc bộ, tiếp giáp với Đông Bắc Á

đặc biệt thị trường Trung Quốc giàu tiềm năng.

Vân Đồn thuộc vành đai kinh tế Hạ Long - Vân Đồn - Hải Hà - Móng Cái, là

cửa ngõ ra biển của cả vùng Bắc bộ. Đây sẽ là động lực của miền Đông tỉnh Quảng

Ninh, là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, hỗ trợ các tỉnh phía nam sông

Hồng và các vùng khác.

Vân Đồn nằm trong khu vực nhiều công trình, dự án lớn thuộc hai hành

lang, một vành đai của Việt Nam đang được triển khai và sẽ tác động tích cực đến

sự phát triển KT-XH của Vân Đồn.

Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, giá trị DSVH độc đáo, nguồn lao

động dồi dào là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành dịch vụ - du lịch

chất lượng cao.

Bên cạnh những tiềm năng, thuận lợi, Vân Đồn đang đứng trước những khó

khăn, thách thức trên con đường phát triển như:

Nền kinh tế nhỏ, kết cấu hạ tầng yếu kém, dân trí chưa cao, thiếu nước sạch

là những hạn chế chính đối với phát triển Vân Đồn hiện nay.

Thách thức cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư, phát triển nhanh nhưng phải

đảm bảo bền vững là những thách thức không nhỏ liên quan đến các vấn đề về kết

cấu hạ tầng, nguồn nhân lực chất lượng thấp, nhiều vấn đề liên quan đến mô hình

126

quản lý... chưa đủ để tạo tiền đề phát triển nhanh, bền vững. Đây là những thách

thức ngay trong nội tại nền kinh tế của huyện đảo Vân Đồn

Vân Đồn đang đối mặt với những thách thức lớn khi phải thực hiện nhiệm vụ

kép trong chiến lược vừa phát triển KKT Vân Đồn với các cơ chế, chính sách mở,

vừa phải chú trọng đảm bảo quốc phòng - an ninh vùng biển đảo Vân Đồn. Có thể

nói trong giai đoạn hiện nay, Vân Đồn đang có một vị trí chiến lược với vai trò đặc

biệt quan trọng của một trung tâm phát triển tổng hợp với vị thế mang tầm quốc tế

trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Vấn đề đặt ra cho sự phát triển của Vân

Đồn với các khu đô thị hiện đại, thông minh mang đẳng cấp quốc tế nhưng trong

quá trình phát triển cần phải duy trì, BV&PH và phát triển các giá trị DSVH truyền

thống của dân tộc. Đó cũng là lợi thế giúp Vân Đồn phát triển nhưng vẫn có nét độc

đáo, hấp dẫn riêng có, chính nhờ vào công tác QL DSVH. Đồng thời, đảm bảo cân

bằng giữa phát triển kinh tế gắn với phát huy văn hóa truyền thống là một thách

thức lớn trong bối cảnh phát triển Vân Đồn trong giai đoạn hiện nay.

3.2.2. Vấn đề quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu

Qua thực tiễn nghiên cứu luận án, NCS nhận thấy DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn đã có những biến đổi đáng kể. Những biến đổi văn hóa dân tộc

Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn là tất yếu của quy luật xã hội. Tuy nhiên, trước

những hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, NCS nhận thấy

một số vấn đề cần được trao đổi và luận bàn, nhằm phân tích một cách thấu đáo hơn

những vấn đề đặt ra đối với các hoạt động của các cơ quan QLNN, của cộng đồng

và các bên liên quan khác hướng đến mục tiêu QL tốt DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn trong bối cảnh hiện nay và cần có giải pháp QL DSVH đó phục

vụ đời sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng, đồng thời phục vụ hiệu quả trong

phát triển KT-XH một cách bền vững. Do vậy, luận án đưa ra một số bàn luận sau:

Thứ nhất, dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn có những lợi thế riêng về

DSVH cần được phát huy trong quá trình phát triển KT-XH của địa phương

Quảng Ninh có 02 huyện đảo, gồm: huyện đảo Vân Đồn và huyện Cô Tô.

Tuy nhiên, trong số những người dân thuộc các DTTS sinh sống ở hai huyện đảo

127

này, thì người dân tộc Sán Dìu cư trú đông nhất ở huyện đảo Vân Đồn, cho nên,

ngoài những đặc điểm chung về KT-XH, sẽ có những đặc thù riêng về mặt sinh kế,

văn hóa của dân tộc Sán Dìu nơi đây, mà nơi khác không có và đó cũng chính là

những nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng trong phát triển KH-XH, đặc biệt hai

huyện đảo đặt trọng tâm du lịch là ngành kinh tế trọng điểm của địa phương. Do

vậy, phát triển du lịch sinh thái biển kết hợp với việc phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc Sán Dìu trở thành sản phẩm du lịch riêng có của cộng đồng các DTTS tỉnh

Quảng Nình và là điểm đặc thù của dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam.

+ Vân Đồn là một huyện đảo có lợi thế về sự đa dạng của tài nguyên thiên

nhiên như biển đảo, núi đồi, các loại khoảng sản. Đặc biệt, sự kết nối đan xen về đa

dạng văn hóa tạo nên nguồn lực văn hóa trong phát triển KH-XH của dân tộc Sán

Dìu với các dân tộc anh em như Kinh, Dao, Hoa, Tày... Đa dạng văn hóa DTTS tạo

ra nhiều sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn du khách đến trải nghiệm và tham quan.

Thứ hai, cơ chế chính sách cần bổ sung hoặc làm rõ thêm về quyền lợi và

trách nhiệm của cộng đồng trong QL DSVH

Tạo cơ chế, chính sách mở để người dân và cộng đồng thực sự làm chủ trong

quyết định về thực hành văn hóa, từ khi lên ý tưởng, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện

và thực hành văn hóa. Nhà nước/chính quyền các cấp thực hiện đúng vai trò chỉ

đạo, định hướng, quản lý hành chính và kiểm tra giám sát không can thiệp sâu vào

công việc của cộng đồng, đặc biệt không làm thay hoặc quyết định thay cộng đồng.

Chính quyền cần nhìn nhận vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng, họ là

người trong cuộc nên mọi quyết định đúng pháp luật, phù hợp với thuần phong mỹ

tục của cộng đồng cần được tôn trọng, khuyến khích cộng đồng thực hành các giá

trị văn hóa đó như tổ chức lễ hội Đại phan nhằm cầu cho quốc thái dân an, làng quê

yên bình,; Soọng cô giúp con người xích lại gần nhau hơn, giải tỏa những mệt nhọc sau

những ngày mùa vất vả, giúp các đôi trai gái nên duyên vợ chồng...

Vai trò của tổ chức, cá nhân và cộng đồng trong luật DSVH, Nghị định số

98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 đã có quy định trong QL DSVH, tuy nhiên cần

128

được cụ thể hóa thành các văn bản dưới luật để đảm bảo hành lang pháp lý mở cho

cộng đồng được tự quyết định và tổ chức các thực hành văn hóa của cộng đồng.

Thứ ba, bảo vệ DSVH là cơ sở để giáo dục về DSVH

DSVH của dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn hiện nay còn hay mất và

có phù hợp với cuộc sống hiện tại hay không? Đây cũng là một câu hỏi lớn không

chỉ đối với dân tộc Sán Dìu mà còn đối với các dân tộc khác. Ngay tại xã Bình Dân,

xã được coi là “thủ phủ”, “lõi văn hóa” của dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh

cũng đang đứng trước những quy cơ mai một, thất truyền các DSVH nhanh chóng.

Do vậy, vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục về DSVH là hết sức quan trọng và cần

thiết. Từ kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy không phải tất cả các DSVH đều

được giữ một cách nguyên vẹn như lễ hội Đại phan vì nếu giữ nguyên vẹn thì thời

gian tổ chức kéo dài, lễ vật lớn; Soọng cô với nhiều bài hát không phù hợp với lối

sống hiện đại; Miếu thờ thành hoàng cũng không thể dựng tranh tre nứa lá như thời

xưa. Tất cả các giá trị văn hóa đó được biến đổi để phù hợp với đời sống hiện nay

và cũng giúp cho quá trình giáo dục di sản được thế hệ trẻ dễ dàng tiếp nhận hơn.

Việc giáo dục DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn cũng cần kết

hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại. Không phải tất cả giá trị

truyền thống đều là lạc hậu, lỗi thời và không phải tất cả những cái mới đều là tốt.

Về bản chất không có tri thức nào cao hay thấp mà vấn đề sử dụng và phát huy nó

trong từng điều kiện phù hợp. Trong quá trình QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện

đảo Vân Đồn cần ứng dụng các tri thức hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào

việc giáo dục DSVH như làm nhạc nên cho các bài Soọng cô bằng nhạc cụ đàn bầu,

sáo trúc giúp cho người học dễ dàng học hơn; hay trong lễ Đại phan việc dùng máy

quét, sao chụp các văn tự cổ cũng tiết kiệm được rất nhiều thời gian và kinh phí.

Thứ tư, Mối quan hệ giữa QL DSVH dân tộc Sán Dìu với phát triển du lịch

Mối quan hệ hữu cơ giữa QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

với phát triển du lịch chính là phương thức hữu hiệu để phát huy các giá trị DSVH,

vì có BV&PH các giá trị văn hóa của làn điệu Soọng cô, lễ hội Đại phan và miếu

thành hoàng tốt thì mới có thể phát triển các sản phẩm du lich văn hóa, du lịch cộng

129

đồng và khi phát triển du lịch tốt chính là cơ sở để QL DSVH Sán Dìu ở huyện Vân

Đồn được tốt lên thông qua hai khía cạnh:

Một là, thông qua các hoạt động khai thác dịch vụ du lịch, dân tộc Sán Dìu

được giao lưu, tiếp xúc du khách mọi nơi, giúp họ nâng tầm hiểu biết, thấy được sự

đa dạng văn hóa và tự hào về văn hóa của dân tộc mình. Từ đó, họ củng cố và có ý

thức, trách nhiệm hơn trong QL DSVH. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy mặt trái khi

giao lưu, tiếp xúc các luồng văn hóa mới đưa vào các DSVH dễ làm méo mó, biến

dạng các DSVH truyền thống.

Hai là, thông qua phát triển du lịch có nguồn kinh phí để phục vụ công tác

QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn được hiệu quả hơn.

3.3. Một số định hướng cơ bản về quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

3.3.1. Định hướng chung

“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển

bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”

[7]. Với ý nghĩa và vị trí vô cùng quan trọng, văn hoá luôn được Đảng ta quan tâm,

chỉ đạo xuyên suốt trong tiến trình lịch sử cánh mạng nước ta từ Đề cương văn hóa

năm 1943 đến các văn kiện của Đại hội Đảng qua các thời kỳ. Đặc biệt, hai nghị

quyết về văn hóa (Nghị quyết TW 5 khóa VIII và Nghị quyết TW 9 khóa XI), đã

làm thay đổi một cách toàn diện và tạo ra sự khởi sắc trong bức tranh văn hóa toàn

cảnh của Việt Nam trong thời kỳ mới, với mục tiêu:

Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,

hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn,

dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững

chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển

bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, công bằng, văn minh [7].

Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương

về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển

130

bền vững đất nước, xác định nâng cao hiệu quả QLNN về văn hóa là 1 trong 4 giải

pháp quan trọng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ văn hóa trong tình hình mới. Nghị

quyết, nhấn mạnh: “Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về văn

hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của

công nghệ thông tin, truyền thông”. Đây là vấn đề cơ bản, cấp bách trong công tác

chỉ đạo, điều hành quản lý của ngành văn hóa trong bối cảnh mới cần thực hiện

sáng tạo nhằm đưa Nghị quyết vào cuộc sống, làm tăng hiệu quả QLNN về DSVH.

Trong công tác QL DSVH vùng DTTS, Thủ tướng Chính phủ có Quyết

định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 về Phê duyệt Đề án Bảo tồn, phát triển

văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu tổng quát:

- Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các DTTS phù hợp

với tình hình thực tế, đặc biệt chú trọng địa bàn các dân tộc có nguy cơ bị

biến dạng văn hóa cao (các dân tộc rất ít người không có điều kiện tự bảo

vệ văn hóa của mình; bảo tồn và phát triển văn hóa các DTTS tại khu

vực biên giới, hải đảo, khu vực tái định cư của các thủy điện); phát huy

vai trò của các chủ thể văn hóa trong phát triển văn hóa truyền thống của

các dân tộc;

- Tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu

số; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới; góp phần giảm dần sự

chênh lệch về mức sống và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các dân

tộc, gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo tồn và phát triển văn hóa các

dân tộc;

- Tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động

văn hóa, huy động mọi nguồn lực cho bảo tồn và phát triển văn hóa các

DTTS Việt Nam, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển

văn hóa, đặc biệt tại các địa bàn trọng điểm: Vùng đồng bào dân tộc,

vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo [110].

131

Những định hướng trên cho thấy, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước là đầy đủ trong công tác QL DSVH. Đặc biệt, sự quan tâm của Nhà nước

trong công tác QL DSVH vùng DTTS được chú trọng, coi đây là nguồn lực nội sinh

giúp cộng đồng DTTS duy trì, phát huy bản sắc văn hóa và là nguồn lực gắn với

phát triển KT-XH tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng vùng DTTS.

3.3.2. Định hướng cụ thể

Từ định hướng chung của QLNN về DSVH như trên, để có cơ sở xây dựng

định hướng hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, NCS dựa

trên một số quan điểm quản lý như sau:

Một là: về cơ chế QL DSVH thực hiện theo phương châm “Nhà nước quản

lý, cộng đồng làm chủ, các bên liên quan hỗ trợ”. QLNN đóng vai trò định hướng,

chỉ đạo, quản lý và điều hành; cộng đồng đóng vai trò làm chủ với tư cách chủ thể

sáng tạo và thực hành văn hóa, đồng thời thực hiện việc giám sát hiệu quả hoạt

động của QLNN về DSVH; các bên liên quan khác hỗ trợ các nguồn lực về con

người, cơ sở vật chất, tài chính, chuyên môn…

Hai là: QL DSVH phải đảm bảo tính nguyên vẹn và giữ gìn lâu dài các

DSVH, phải đặt mục tiêu cân bằng tổng thể, hài hòa giữa các lợi ích bảo tồn DSVH

gắn với phát triển KT-XH, trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên tham gia.

Ba là: QL DSVH phải luôn gắn với cộng đồng, dựa vào cộng đồng và vì lợi

ích của cộng đồng với mục tiêu chính DSVH thuộc về cộng đồng và do cộng đồng

quyết định DSVH.

Bốn là: QL DSVH phải gắn chặt chẽ và mật thiết với phát triển KT-XH của

huyện đảo Vân Đồn. DSVH phải là nguồn vốn quan trọng thúc đẩy KT-XH phát

triển, tạo sinh kế bền vững cho người dân.

Từ cơ sở nêu trên, NCS căn cứ vào thực tiễn hoạt động QL DSVH dân tộc

Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn nhằm định hướng các nội dung cụ thể sau:

Thứ nhất, thể chế hóa văn bản quy phạm pháp luật. Đây là vấn đề hiện thực

hóa các cơ chế chính sách vào thực tiễn. Cụ thể, UBND tỉnh Quảng Ninh đã sớm

ban hành Quyết định số 4071/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của UBND tỉnh Quảng

132

Ninh về việc phê duyệt Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các DTTS tỉnh

Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 với mục tiêu tổng quát:

Bảo tồn và phát triển những giá trị DSVH dân tộc, truyền thống của các

DTTS; tăng cường xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong vùng đồng

bào các DTTS cư trú; Bảo vệ, tôn tạo và phát huy các di tích, lịch sử, văn

hóa, danh lam thắng cảnh, môi trường sinh thái; đẩy mạnh công tác xây

dựng gia đình văn hóa, thôn văn hóa, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa

gắn liền xóa bỏ hủ tục lạc hậu, phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân

tộc; nâng cao dân trí, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo quốc phòng - an ninh

trong điều kiện phát triển bền vững [125].

Từ quyết định của cấp tỉnh, UBND huyện Vân Đồn đã phê duyệt Đề án theo

Quyết định số 1427/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 và Kế hoạch số 1517/KH-UBND

ngày 29/6/2020 về triển khai thực hiện Đề án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân

gian truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn

2020-2022 với mục tiêu cụ thể:

Khảo sát giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc Sán Dìu trên địa

bàn; bảo tồn và phát huy công năng nhà văn hóa dân tộc, miếu thờ Tổ ở

xã Bình Dân; bảo tồn thông qua hình thức các lớp truyền dạy để phát huy

các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể trọng tâm trang phục, ẩm thực, cây

trồng, vật nuôi, âm nhạc, dân ca dân vũ, trò chơi dân gian, ngữ văn dân

gian và tiếng nói, chữ viết, nghề thủ công truyền thống, nghi lễ cấp sắc,

lễ Đại phan [129].

Thứ hai, kiện toàn bộ máy QLNN về công tác văn hóa vừa đảm bảo định

biên theo quy định của Nhà nước. Đồng thời có chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài,

đặc biệt là người DTTS có trình độ chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển của

KKT Vân Đồn nói chung và công tác giá trị DSVH huyện Vân Đồn nói chung.

Thứ ba, định hướng phát triển kinh tế của huyện đảo Vân Đồn gắn với đổi

mới phương thức thu hút đầu tư, thực hiện xã hội hóa đầu tư phát triển theo các hình

thức BOT, BTO, BT… Đặc biệt, trong lĩnh vực văn hóa cần phát triển các không

gian sáng tạo dựa trên các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc.

133

Thứ tư, phát triển văn hóa và QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân

Đồn gắn với việc triển khai thực hiện phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hóa và cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị

văn minh trên địa bàn huyện Vân Đồn thực sự đi vào chiều sâu nhằm nâng cao chất

lượng đời sống văn hóa cộng đồng.

Thứ năm, phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở văn hóa phục vụ nhu cầu duy trì,

thực hành DSVH; đẩy mạnh QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn là

“vũ khí mềm” bảo vệ chủ quyền, nơi tiền tiêu vùng biển đảo của Tổ quốc.

3.4. Giải pháp quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

3.4.1. Căn cứ và nguyên tắc đề xuất giải pháp

Nhận diện, phân tích và đánh giá thực trạng QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn là một việc khó khăn và phức tạp, đòi hỏi NCS cần có cái nhìn

tổng quan về KT-XH địa phương, đồng thời nắm được các vấn đề trong lĩnh vực

DSVH nói chung và DSVH của dân tộc Sán Dìu nói riêng. Để nhìn nhận và phân

tích những kết quả đạt được, những khó khăn, thách thức cũng như xu hướng vận

động của DSVH trong quá trình hội nhập; bước đầu đề xuất một số giải pháp phù

hợp với tình hình thực tiễn về QLNN về DSVH, phát huy vai trò cộng đồng và các

bên liên quan trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn trong thời gian

tới; căn cứ thực trạng nêu trên, NCS dựa vào các căn cứ và nguyên tắc cơ bản sau:

3.4.1.1. Căn cứ đề xuất giải pháp

- Căn cứ lý luận: các vấn đề thực tiễn cần được nghiên cứu, soi chiếu qua

lăng khoa học nhằm đảm bảo tính khách quan, hệ thống của vấn đề nghiên cứu đặt

ra. Trong nghiên cứu DSVH, việc vận dụng các lý thuyết quản lý DSVH, lý thuyết

vai trò các bên liên quan… nhằm phân tích và đánh giá hoạt động quản lý, QL DSVH

dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn hiện nay đang gặp những thuận lợi, khó khăn

nào. Đồng thời, nhận diện những tiền năng, thế mạnh, cơ hội và thách thức trong quá

trình phát triển một cách khách quan khoa học phù hợp với nhu cầu thực tiễn đặt ra.

- Căn cứ pháp lý: trên phương diện quốc tế, UNESCO đã nỗ lực và tích cực

ban hành các công ước quốc tế về DSVH như: Công ước Bảo vệ di sản văn hóa và

thiên nhiên thế giới (1972); Công ước Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (2003);

134

Công ước Bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa (2005)… Điều

đó khẳng định vai trò quan trọng của DSVH đối với sự phát triển văn hóa, văn minh

của nhân loại trong mọi thời đại. Công ước quốc tế được coi là kim chỉ nam cho các

quốc gia thành viên tham gia vận dụng một cách khoa học, linh hoạt trong quá trình

BV&PH giá trị DSVH tại mỗi quốc gia.

Quốc hội và Chính phủ đã ban hành các cơ chế chính sách về phát triển văn

hóa nói chung và DSVH nói riêng, cụ thể: năm 2001 Quốc hội khóa X tại kỳ họp

thứ 9 ngày 29/6/2001 đã thông qua Luật Di sản văn hóa, (số 28/2001/QH10) gồm 7

chương và 74 điều; Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 ngày 18/6/2009, Luật sửa đổi

bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa (số 32/2009/QH12) được thông qua.

Luật Di sản văn hóa là văn bản đầy đủ và hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay về vấn

đề QL DSVH ở nước ta. Ngoài ra, về vấn đề này còn có nhiều luật liên quan trực

tiếp đến vấn đề DSVH như: xây dựng, trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa;

luật thi đua khen thưởng, vinh danh NNND, NNUT trong lĩnh vực QL DSVH phi

vật thể...

Các văn bản dưới luật đã được chính phủ và các bộ, ngành trung ương cụ thể

hóa như: Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ về Quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và luật sửa đổi, bổ sung một

số điều của Luật Di sản văn hóa; Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về

Công tác dân tộc; Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 về Phê duyệt Đề án

Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020; Quyết định số

2723/QĐ-BVHTTDL, ngày 03/8/2016 của Bộ VH,TT&DL về việc phê duyệt dự án

Gắn kết phát triển kinh tế và bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS....

Chính quyền các cấp tỉnh Quảng Ninh đã kịp thời xây dựng và ban hành

Quyết định số 1988/QĐ-UBND ngày 07/8/2013 của UBND tỉnh Quảng Ninh về

việc ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày

29/5/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh; Quyết định số 2994/QĐ-

UBND ngày 08/10/2015, về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương

trình hành động của BCH Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW (khóa

135

XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát

triển bền vững đất nước.

Huyện Vân Đồn đã ban hành Nghị quyết số 105/NQ-HĐND ngày

20/12/2019; Quyết định số 1427/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 và Kế hoạch số

1517/KH-UBND ngày 29/6/2020 về triển khai thực hiện Đề án Bảo tồn, phát huy

giá trị văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh giai đoạn 2020-2022.

- Căn cứ thực tiễn: trong bất kỳ lĩnh vực phát triển nào thì vấn đề thực tiễn

luôn được coi trọng, bởi các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn trong quá trình vận hành.

Do vậy, việc đánh giá đúng thực tiễn đặt ra nhằm đề xuất giải pháp theo kịp xu

hướng phát triển của xã hội. Qua phân tích, đánh giá thực trạng QL DSVH người

Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn đang có những tiềm năng, thế mạnh và cơ hội tốt

trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các hoạt động QL DSVH gặp phải những khó

khăn, thách thức nhất định trong quá trình vận hành của các bên liên quan cần có

hướng đi phù hợp trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, xác định những yếu tố tác

động ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả QLNN và vai trò quản lý của cộng đồng

trong QL DSVH người Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn tại mục 3.2 (chương 3) của

luận án là những căn cứ thực tiễn quan trọng trong đề xuất các giải pháp.

3.4.1.2. Nguyên tắc đề xuất giải pháp

- Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà

nước: đây là nguyên tắc trọng yếu quyết định sự thành công của quá trình QL

DSVH thông qua các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của

Nhà nước. Mục tiêu lãnh đạo, quản lý văn hóa nói chung và DSVH nói riêng là duy

trì sự ổn định và phát huy sự sáng tạo trong khả năng của người dân và cộng đồng

nhằm BV&PH nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong bối

cảnh hội nhập và phát triển.

- Nguyên tắc đảm bảo tính dân chủ, tự do sáng tạo và hoạt động văn hóa:

nguyên tắc này khẳng định vai trò chủ thể văn hóa thuộc về nhân dân, do nhân dân

sáng tạo và đề cao những đóng góp của cá nhân và cộng đồng trong QL DSVH.

136

Đặc biệt, đối với các nghệ nhân, những người nắm giữ tri thức văn hóa dân gian

của dân tộc và được coi là “vật báu sống” của quốc gia, cần phải có các cơ chế,

chính sách nhằm phát huy tinh thần làm chủ, tự do sáng tạo, truyền thừa trong

hoạt động DSVH.

- Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và đồng bộ: nhiệm vụ QL DSVH dân

tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn thuộc về chức năng QLNN và vai trò QL của cộng

đồng. Việc thực hiện nguyên tắc này đảm bảo hệ thống giải pháp được đề xuất có

sự đồng bộ toàn diện theo nhu cầu từ dưới lên và sự chỉ đạo, hướng dẫn từ trên

xuống. Tính hệ thống và đồng bộ thể hiện mối quan hệ hữu cơ, biện chứng tác động

qua lại, tương hỗ lẫn nhau tạo nên hiệu lực, hiệu quả của QLNN; phát huy vai trò

cộng đồng và tăng cường sự tham gia của các bên liên quan khác trong QL DSVH

dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn.

- Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa - phát triển: DSVH nói chung và DSVH

dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn là một quá trình hình thành và phát triển lâu dài

tạo nên các cơ tầng văn hóa nối tiếp nhau trong quá trình lao động, sáng tạo của

người dân và cộng đồng. Trong tiến trình phát triển văn hóa, cần có sự điều chỉnh,

quản lý sao cho phù hợp với thực tiễn đặt ra. Do vậy, nguyên tắc này đảm bảo các

giải pháp được đề xuất trong quản lý và việc phát huy DSVH cần phải được chú

trọng, đảm bảo tính kế thừa các giá trị DSVH truyền thống cũng như các giá trị văn

hóa mới trong bối cảnh phát triển bền vững.

- Nguyên tắc đảm bảo tính đồng thuận: nguyên tắc này đảm bảo quá trình

hoạch định và thực thi chính sách xã hội nói chung và chính sách DSVH nói riêng

với sự tham gia của người dân và cộng đồng có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi văn

hóa là “của dân, do dân và vì dân”. Các chính sách muốn đi vào cuộc sống phải hợp

lòng dân, xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân và phù hợp với

thực tiễn quản lý xã hội.

- Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi: các giải pháp đề xuất phải dựa trên luận

cứ khoa học; quan điểm, chính sách hiện hành của Đảng, Nhà nước và vấn đề thực

tiễn đang đặt ra trong QLNN về DSVH cũng như vai trò cộng đồng nhằm đảm bảo

137

các đề xuất QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn sát thực tiễn, có tính khả

thi cao. Có như vậy mới phát huy được các thành tựu đã đạt được đồng thời giải

quyết triệt để tồn tại, hạn chế của công tác QLNN về DSVH và vai trò cộng đồng

trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Vân Đồn hiện nay.

3.4.2. Đề xuất một số giải pháp quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu

3.4.2.1. Nhóm giải pháp quản lý Nhà nước về di sản văn hóa

- DSVH là tài sản quý giá của dân tộc Sán Dìu sáng tạo, hun đúc và lưu truyền

qua nhiều thế hệ đã tạo nên bản sắc văn hóa Sán Dìu. Đảng bộ, chính quyền các cấp

tỉnh Quảng Ninh và huyện đảo Vân Đồn cần tập trung chỉ đạo, thực hiện các chủ

trương, chính sách về DSVH, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức đến hành

động, phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các cấp ngành giữa cơ quan QLNN và

cộng đồng nhằm có những cơ chế QL DSVH trong tình hình mới.

- Giải pháp về cơ chế, chính sách QLNN về DSVH của địa phương

+ Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về DSVH của tỉnh Quảng Ninh và

huyện đảo Vân Đồn cơ bản đầy đủ, thể hiện tính toàn diện và đồng bộ trong quản lý

và phát huy DSVH. Do vậy, chính quyền cấp huyện, cấp xã cần chủ động trong

công tác tham mưu, ban hành cơ chế, chính sách cụ thể về DSVH đảm bảo sự tham

gia chủ động, tích cực của cộng đồng trong QL DSVH.

+ Đẩy mạnh thực hiện công tác xây dựng, hoàn thiện, thẩm định và phê

duyệt các quy hoạch mới. Quy hoạch cần đảm bảo tính hệ thống và toàn diện đến

vấn đề phát triển KT-XH, trong đó cần tính tới việc khai thác các nguồn vốn văn

hóa DTTS, đặc biệt là văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo nhằm phát huy nội lực,

tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng sau khi chuyển đổi nghề nghiệp do hết đất canh

tác phải chuyển sang các ngành dịch vụ. Do vậy, phát triển du lịch văn hóa, du lịch

cộng đồng là một hướng đi mới gắn với việc QL DSVH dân tộc Sán Dìu trong các

hoạt động sinh kế của cộng đồng.

+ Trong quy hoạch dân cư phải quan tâm đến QL DSVH. Tại xã Bình Dân

có 95% dân số là dân tộc Sán Dìu, đây được coi là “lõi văn hóa” của dân tộc Sán

138

Dìu tỉnh Quảng Ninh, cần quy hoạch làng dân tộc Sán Dìu nhằm bảo tồn các DSVH

truyền thống gắn với phát triển KT-XH, đặc biệt gắn với phát triển du lịch.

+ Tập trung phối hợp cùng cộng đồng tham gia xây dựng và ban hành quy

ước, hương ước mang màu sắc văn hóa riêng có của từng thôn xóm, tránh hiện

tượng “hành chính hóa” hương ước, quy ước nơi nào cũng giống nhau. Đồng thời,

phát huy vai trò luật tục, vai trò cộng đồng tự quản trong phong trào Toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào xây dựng nông thôn mới.

- Giải pháp kiện toàn bộ máy QLNN về DSVH: cần phân cấp rõ ràng, tránh

cồng kềnh, chồng chéo, nhiều cơ quan cùng tham gia một nhiệm vụ trong khi cán

bộ của cơ quan lại thiếu người và chưa có chuyên môn sâu. Các nhiệm vụ giữa

Phòng Văn hóa - Thông tin và Trung tâm Truyền thông - văn hóa huyện Vân Đồn

cần phải xác định rõ ràng trong quy định cũng như trong chỉ đạo, điều hành.

- Giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý DSVH

+ Tăng cường công tác bồi dưỡng, tập huấn các khóa học ngắn hạn cho cán

bộ văn hóa cơ sở. Nội dung kiến thức cần phải tập trung giải quyết các vấn đề thực

tiễn đặt ra trong công tác quản lý. Tránh tình trạng thời gian tổ chức các lớp bồi

dưỡng, tập huấn ngắn ngày mà kiến thức quá rộng, không trọng tâm làm cho học

viên không nắm được vấn đề cơ bản và khó áp dụng vào thực tiễn của địa phương.

+ Đào tạo theo nhu cầu của UBND xã và các ban, ngành chức năng về lĩnh

vực văn hóa. Theo nhu cầu thực tiễn của cơ quan, lãnh đạo quyết định cử cán bộ

tham gia vào các chương trình đào tạo chuyên ngành từ bậc đại học đến sau đại học

nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành văn hóa.

+ Có cơ chế, chính sách tuyển dụng thu hút nguồn nhân lực có trình độ

chuyên môn cao, đặc biệt là con em dân tộc Sán Dìu tại địa phương đã tốt nghiệp

loại khá, giỏi về làm việc.

- Giải pháp tuyên truyền, phổ biến DSVH

+ Đa dạng hóa bằng nhiều hình thức tuyên truyền, quảng bá và phổ biến

DSVH dân tộc Sán Dìu gắn với đặc thù của huyện đảo Vân Đồn trên các phương

tiện thông tin đại chúng. Các sự kiện văn hóa ở khu vực, quốc gia và quốc tế nhằm

giới thiệu đến công chúng biết đến nhiều hơn về DSVH dân tộc Sán Dìu và các

139

DTTS khác ở huyện đảo Vân Đồn kết hợp với du lịch biển tạo nên những sản phẩm

du lịch riêng.

+ Ngoài tuyên truyền, quảng bá và phổ biến DSVH ra bên ngoài cũng cần

chú trọng đến công tác tuyên truyền, vận động chính cộng đồng, đặc biệt là thế hệ

trẻ hiểu rõ hơn và tích cực hơn trong QL DSVH của chính dân tộc mình. Gắn kết

giữa thế hệ trẻ dân tộc Sán Dìu hiểu rõ hơn, để cảm thấy tự hào về DSVH của dân

tộc mình kết hợp với đào tạo các ngành nghề như: hướng dẫn viên, nấu ăn, nghề thủ

công mỹ nghệ, kiến thức về du lịch cộng đồng, bảo tàng, nghệ thuật biểu diễn... để

khai thác các giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu tạo sinh kế mới cho thế hệ trẻ.

+ Xây dựng các mô hình QL DSVH dân tộc Sán Dìu, thành lập các CLB sinh

hoạt và trình diễn các DSVH phi vật thể tại cộng đồng và điểm du lịch.

+ Tổ chức các cuộc thi, hội thi, hội diễn liên quan đến các DSVH dân tộc

Sán Dìu, các hoạt động bảo vệ, giáo dục tại vùng lõi của di sản là làng văn hóa dân

tộc Sán Dìu nói riêng và các xã có đông cộng đồng dân tộc Sán Dìu sinh sống.

+ Từ kết quả sưu tầm, nghiên cứu khoa học, chính quyền các cấp cần tăng

cường in ấn, xuất bản sách, báo, tạp chí... nhằm tuyên truyền rộng rãi, cung cấp

thông tin cho đồng bào, đặc biệt là thế hệ trẻ. Tăng tần suất và thời lượng đưa tin,

phát sóng các chương trình văn hoá dân tộc trên đài phát thanh truyền hình từ trung

ương đến địa phương.

- Giải pháp về giáo dục DSVH trong cộng đồng và nhà trường

+ Cần thiết kế và đưa vào chương trình giáo dục chính thức và phi chính thức

với nhiều nội dung tự chọn và bắc buộc như kinh nhiệm của Nhật Bản nhằm nâng

cao nhận thức của học sinh về DSVH. Thông qua các môn học lịch sử, địa lý, ngữ

văn… lồng ghép việc giáo dục DSVH bằng nhiều hình thức từ trực quan đến mời

NNDG tại xã Bình Dân đến lớp học các cấp để trực tiếp giới thiệu, hướng dẫn thực

hành DSVH. Ngoài ra, khuyết khích các học sinh đến nhà các NNDG tại xã để được

học trong môi trường thực hành văn hóa của cộng đồng.

+ Các hình thức giáo dục ngoại khóa được nhà trường phối hợp với gia đình

học sinh và các tổ chức xã hội thực hiện. Học sinh được học tập và thực hành

DSVH dân tộc Sán Dìu ở mọi lúc mọi nơi thông qua các hoạt động tham quan, trải

140

nghiệm tại bảo tàng, không gian văn hóa, khu du lịch về nguồn, làng nghề truyền

thống, sự kiện văn hóa, lễ hội Đại phan… Việc trải nghiệm DSVH đem lại cho học

sinh những cảm nhận thú vị và hứng thú trong tìm hiểu và thực hành văn hóa.

+ UBND huyện Vân Đồn phối hợp với các cơ quan chuyên môn và NNDG cần

đưa DSVH vào trường từ cấp tiểu học đến cấp trung học phổ thông nhằm nâng cao

nhận thức của học sinh trong việc giáo dục và kế thừa di sản của chính ông cha để lại,

đúng theo tinh thần của Hướng dẫn liên tịch số 73/HĐ-BGDĐT-BVHTTDL, ngày

16/01/2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

- Chính quyền các cấp chủ trì, phối hợp với cộng đồng và các bên liên quan

tăng cường hoạt động QL DSVH tại cộng đồng như:

+ Tổ chức các hội thi, giao lưu dân ca, hội chợ, hội xuân tại cộng đồng.

+ Lựa chọn các nét đẹp trong lễ cưới truyền thống để khôi phục và phát huy

các nét đẹp đó vào trong lễ cưới hiện nay sao cho phù hợp với thuần phong mỹ tục.

+ Khôi phục lễ hội truyền thống gắn với trò chơi dân gian, dân ca, ẩm thực

truyền thống như thành lập các đội thi nhằm tăng cường tình đoàn kết, tính cố kết

cộng đồng trong BV&PH giá trị DSVH trong đời sống hiện nay.

+ Cần tham khảo một kinh nghiệm của Chính phủ Nhật Bản về việc huy

động nhiều chuyên gia - người hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực văn hóa vật thể,

phi vật thể vào Ban Tài sản văn hóa để có những kế hoạch cụ thể nhằm BV&PH giá

trị DSVH dân tộc Sán Dìu. Kinh nghiệm này được đề cập ở mô hình QL DSVH dân

tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn với việc tham gia của các nhà khoa học.

- Giải pháp về tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học về QL DSVH:

+ Cần có cơ chế chính sách tăng cường phát triển đội ngũ hoạt động nghiên

cứu khoa học tại địa phương và cộng tác viên khoa học tại các trường đại học, viện

nghiên cứu của cả nước nhằm nghiên cứu các vấn đề thực tiễn đặt ra; các chính sách

cho nghệ nhân trong QL DSVH tại cộng đồng.

+ Cần có chương trình tổng điều tra, kiểm kê kho tàng giá trị văn hoá vật thể,

phi vật thể của dân tộc Sán Dìu, chương trình sưu tầm, sao chụp, số hóa, biên dịch

kho tàng sách cổ về bài cúng, dân ca, tục ngữ... liên quan đến nghi lễ vòng đời nói

riêng và văn hoá dân tộc Sán Dìu nói chung.

141

+ Lồng ghép các chương trình hoạt động thông tin, tuyên truyền trong làng

xã; khai thác làn điệu dân ca, các điệu múa trong lễ hội Đại phan,... bằng cách ghi

âm, ghi chép, quay phim; đào tạo, truyền dạy con em tiếp thu vốn văn hoá cổ truyền

thông qua nhiều loại hình nghệ thuật.

- Giải pháp về hợp tác với tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế về hoạt

động QL DSVH

+ Hợp tác thực hiện với các tổ chức, cá nhân trong sản xuất các chương trình giao

lưu văn hóa, quảng bá hình ảnh “đất và người” Vân Đồn trên phương tiện thông tin đại

chúng, đặc biệt là các chương trình quốc tế giới thiệu về Việt Nam trong đó có di sản

vịnh Bái Tử Long và di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu tại huyện đảo Vân Đồn.

+ Tăng cường chương trình giao lưu văn nghệ tại các sự kiện văn hóa quốc gia

nhằm giao lưu giữa các đoàn nghệ thuật, nắm bắt cơ hội hợp tác văn hóa nghệ thuật.

+ Hợp tác đào tạo thông qua chương trình, dự án do tổ chức phi chính phủ

hay các tổ chức chuyên môn quốc tế tài trợ. Tuy nhiên, trong hợp tác cũng cần phải

lựa chọn phương pháp tiếp nhận, tiếp thu sáng tạo khoa học, kỹ thuật tiên tiến nhằm

áp dụng những kiến thức và công nghệ vào công tác QL DSVH một cách hiệu quả.

- Giải pháp về huy động các nguồn lực xã hội trong việc QL DSVH

+ Tăng cường huy động các nguồn lực xã hội từ cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức,

cá nhân không chỉ tại địa phương, mà cần có cơ chế, chính sách thiết thực, hiệu quả

nhằm thu hút ngày càng nhiều các nguồn lực xã hội tham gia cùng địa phương. Cụ thể

cần huy động các nguồn lực xã hội hóa trong việc đầu tư, tôn tạo lại các miếu để có cơ sở

thờ tự khang trang hơn từ các nguồn xã hội hóa của các danh nghiệp, khách du lịch thông

qua các hoạt động tham quan…

+ Cần xây dựng mỗi thôn/bản một nhà sinh hoạt cộng đồng theo đúng nghĩa

của nó. Nhà sinh hoạt cộng đồng cũng là một bảo tàng nhỏ để giáo dục DSVH

truyền thống thông qua các buổi sinh hoạt văn hoá và các hiện vật, văn hoá phẩm...

- Giải pháp về vinh danh, thi đua, khen thưởng: UBND huyện Vân Đồn cần

tăng cường công tác lập danh sách, xây dựng hồ sơ đề nghị cấp có thẩm quyền công

nhận danh hiệu NNND, NNƯT, NNDG những người đang nắm giữ tri thức DSVH

quý báu và đang ngày đêm trao truyền các DSVH cho các thế hệ. Họ cần được tôn

142

vinh, công nhận và có cơ chế chính sách khai thác kho “vật báu sống”. Đồng thời,

chính quyền cần có những biện pháp hỗ trợ cần thiết và kịp thời để nghệ nhân có cơ

hội thực hành, trao truyền DSVH được hiệu quả hơn.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong quá trình triển khai

và thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch, dự án phát triển KT-XH của

địa phương. Công việc này đặc biệt quan trọng đối với các vấn đề về chính sách dân

tộc, chính sách văn hóa nhằm đẩy mạnh công cuộc giảm nghèo và nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng.

3.4.2.2. Nhóm giải pháp phát huy vai trò quản lý của cộng đồng

- Giải pháp về nâng cao nhận thức của cộng đồng trong QL DSVH

+ Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đặc biệt là chủ

trương đường lối của Đảng như: Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014; Nghị

quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998, Luật Di sản văn hóa;…

+ Giúp cộng đồng nhận diện tốt hơn nữa về vị trí, vai trò quan trọng của giá

trị DSVH trong đời sống đương đại. Việc QL DSVH người Sán Dìu phải xuất phát

từ chính nhu cầu của cộng đồng và chính cộng đồng phải là người có trách nhiệm

QL DSVH của dân tộc mình. Nhà nước và các bên liên quan có vai trò định hướng,

phối hợp và hỗ trợ cộng đồng trong QL DSVH.

+ Cộng đồng dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn cần nhận thức DSVH là

một tài sản, nguồn vốn sinh kế trong phát huy nội lực nhằm phát triển KT-XH, đặc

biệt gắn liền với phát triển du lịch. Từ tâm thế bảo vệ một cách thụ động, bảo vệ

theo chương trình, chính sách của Nhà nước, của các tổ chức bên ngoài cộng đồng

thì cộng đồng cần chủ động hơn với tâm thế làm cho chính mình. Chỉ có nhận thức

đúng đắn về tài sản văn hóa Sán Dìu phải được dân tộc Sán Dìu nắm giữa, trao

quyền và quyết định các thực hành văn hóa mới có thể BV&PH giá trị DSVH một

cách hiệu quả và bền vững.

+ Cần thực hiên hiệu quả chính sách lập hồ sơ, phong tặng các danh hiệu

nghệ nhân trong cộng đồng dân tộc Sán Dìu, để tích cực khai thác DSVH được các

nghệ nhân nắm giữ và tổ chức trao truyền cho cộng đồng thông qua gia đình, dòng

họ, trường học và các CLB. Bên cạnh đó, cũng cần chăm lo đến đời sống của nghệ

143

nhận, đặc biệt thực hiện đầy đủ các chính sách nghệ nhân được hưởng. Những nghệ

nhân đã được Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền phong tặng cũng cần quan

tâm đến các nghệ nhân chưa được phong tặng nhưng họ có những đóng góp lớn

trong thực hành và trao truyền các DSVH.

- Giải pháp về đảm bảo sự tham gia chủ động, tích cực của cộng đồng

+ Vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu

đã được khẳng định qua quá trình hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, để tăng cường

hơn nữa vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng, chính quyền địa phương cần trao

quyền cho cộng đồng tự quản lý, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm trong thực

hành văn hóa, Nhà nước chỉ giữ vai trò định hướng, quản lý về mặt hành chính.

+ Cộng đồng chủ động trong việc tổ chức thực hành văn hóa, từ lập kế

hoạch, tổ chức thực hiện cho đến việc bầu ra ban tổ chức, quản lý, điều hành, đối

nội, đối ngoại, huy động nguồn lực…. mọi quyết định do cộng đồng bàn bạc, thống

nhất và quyết định. Chỉ như vậy, cộng đồng mới thực sự phát huy vai trò chủ thể

sáng tạo, duy trì và phát huy DSVH của dân tộc mình.

+ Cần đẩy mạnh thực hiện việc giáo dục DSVH trong cộng đồng lấy bài học

kinh nghiệm của Trung Quốc về giáo dục DSVH trong toàn dân nhằm góp phần

nâng cao ý thức và trách nhiệm trong giáo dục DSVH. “Những tài sản văn hóa là do

nhân dân tạo nên, chỉ khi nào bản thân tài sản ấy được nhân dân nhận thức đúng

đắn, khi ấy nó mới có những giá trị đích thực [30].

- Giải pháp về phát huy vai trò gia đình, dòng họ và cộng đồng trong việc

trao truyền DSVH.

+ Thứ nhất: mỗi cá nhân phải nhận thức và ý thức được tầm quan trọng của

DSVH, từ đó luôn có ý thức học hỏi vốn văn hoá cổ truyền của dân tộc để bảo tồn,

làm giàu và phát huy giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu.

+ Thứ hai: gia đình thực hiện chức năng, vai trò và trách nhiệm truyền dạy

DSVH dân tộc nhằm hình thành và hoàn thiện nhân cách dựa trên những nét đẹp

văn hoá truyền thống của dân tộc. Cha mẹ trong từng gia đình của dân tộc Sán Dìu

ở huyện đảo Vân Đồn cần phải trao truyền các thực hành văn hóa cho con em mình

một cách tự nhiên và thuần thục. Hãy để DSVH của dân tộc Sán Dìu thấm sâu vào

tâm hồn của con em mình như một kinh nghiệm của Ấn Độ bất kỳ nhạc cụ, điệu

144

nhảy nào các thành viên trong gia đình đều thực hành một cách tự nhiên.

+ Thứ ba: tăng cường vai trò của dòng họ, gia tộc trong việc giáo dục con

cháu về cội nguồn dân tộc, hiếu kính, trao truyền DSVH, bí kíp gia truyền... những

tri thức văn hoá đó cần được sống mãi, không bị mai một và thất truyền.

+ Thứ tư: cộng đồng là nơi giữ gìn nhiều yếu tố văn hoá, phong tục tập quán

truyền thống. Tuy nhiên, phải biết “gạn đục khơi trong”, phải nhận thức cho đúng giá

trị văn hoá đích thực, biết loại bỏ những hủ tục, mê tín không còn phù hợp đã được

khoa học chứng minh; biết làm sống lại và nhân lên các mỹ tục như: các điệu dân ca,

Soọng cô, hội xuân, lễ hội truyền thống... những giá trị đã làm nên bản sắc dân tộc.

+ Thứ năm: cộng đồng cần tích cực hơn nữa trong quá trình tiếp nhận các

DSVH dân tộc Sán Dìu từ các nghệ nhân, thầy cúng, người có uy tín, những người

am hiểu văn hóa truyền thống. Các nghệ nhân cũng nên chủ động trong việc trao

truyền các DSVH cộng đồng để DSVH luôn được phát huy, từ đó sáng tạo và làm

giàu thêm kho tàng DSVH dân tộc.

+ Thứ sáu: DSVH là tài sản chung của cộng đồng, việc QL DSVH là quyền

lợi và trách nhiệm của mỗi thành viên trong cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Do

vậy, giáo dục DSVH dân tộc Sán Dìu là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi cá nhân

và cộng đồng theo phương châm người biết nhiều dạy người biết ít; nghệ nhân trao

truyền các kỹ thuật về tri thức văn hóa cho học trò; trong gia đình, dòng họ, ông bà,

cha mẹ truyền dạy con cháu những bí kíp gia truyền…

+ Thứ bảy: cần tăng cường thúc đẩy các hoạt động thực hành DSVH trong

cộng đồng như các cuộc hát Soọng cô, tổ chức lễ hội Đại phan, với sự thực hành,

trình diễn của các nghệ nhân, thầy cúng những người nắm giữ và thực hành DSVH.

Khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc với quê hương mình sinh ra thông qua các

thực hành văn hóa không vì mục đích thương mại, lợi ích nhóm mà thuần túy là tình

cảm, trách nhiệm của từng cá nhân đối với cộng đồng. Đây là một kinh nghiệm quý

từ Nhật Bản về bài học tự hào về DSVH.

- Giải pháp đảm bảo tính tự quản, tránh lợi ích nhóm trong cộng đồng:

DSVH là tài sản chung của cộng đồng, do cộng đồng quản lý, được điều hành hoạt

động thông qua các tổ chức do cộng đồng bầu chọn. Do vậy, mọi thành viên trong

145

cộng đồng đều có quyền tham gia, bằng cách đề cử, ứng cử vào vị trí phù hợp và

được cộng đồng bầu chọn. Việc bầu chọn một cách dân chủ, công khai và minh

bạch sẽ làm tăng hiệu quả tự quản của cộng đồng, tránh tình trạng lợi ích nhóm.

Mọi quyền lực, lợi ích tập thể rơi vào tay của một người, một nhóm người sẽ gây

mất ổn định, chia rẽ trong cộng đồng.

- Giải pháp về huy động các nguồn lực xã hội trong việc QL DSVH

+ Các nguồn lực trong cộng đồng vô cùng to lớn kể cả sức người và sức của.

Nếu biết khích lệ, đặt đúng vị trí và vai trò chủ động của người dân cũng như cộng

đồng thì sẽ huy động được tối đa nhân lực, trí lực, vật lực phục vụ cho các công

việc của cộng đồng. Vì họ hiểu rằng đóng góp cho cộng đồng chính là xây dựng đời

sống tinh thần cho chính cá nhân, gia đình và cộng đồng.

+ Cộng đồng huy động sự tham gia ủng hộ mọi mặt về kinh phí, chuyên

môn của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tại địa phương. Ngoài ra, các tổ

chức, cá nhân thông qua mạng lưới xã hội của các thành viên trong cộng đồng

có thể kết nối, lan tỏa, đóng góp nguồn lực giúp cộng đồng có thêm nhiều điều

kiện thuận lợi để QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn một cách

tích cực, hiệu quả. Lễ hội Đại phan là một minh chứng rất cụ thể và rõ ràng

trong việc khai thác, sử dụng và phát huy DSVH thông qua việc mời một đội ngũ

thày cúng hùng hậu để thực hành các nghi lễ; kêu gọi, tìm nguồn đầu tư hỗ trợ từ

doanh nghiệp, cộng đồng và khách tham dự lên đến 1 tỷ đồng/lễ hội. Chính sức

mạnh của cộng đồng là cơ hội để DSVH luôn có sức sống trong cộng đồng.

- Giải pháp về giới thiệu, quảng bá DSVH dân tộc Sán Dìu

+ Cần có chương trình cụ thể, bài bản và có lộ trình từng bước trong việc

giới thiệu, quảng bá DSVH dân tộc Sán Dìu gắn với đời sống văn hóa truyền thống

cùng cảnh quan thiên nhiên biển đảo, tạo nên nét đẹp riêng có, đặc sắc của đất và

người Sán Dìu ở vùng đảo Vân Đồn gắn với các hoạt động du lịch.

+ Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giới thiệu về văn hóa dân tộc Sán

Dìu tại huyện đảo Vân Đồn thông qua các sự kiện văn hóa cấp vùng, quốc gia, quốc

146

tế, các kênh thông tin đại chúng trong nước và nước ngoài gắn liền với tiền năng và

thế mạnh sự phát triển mạnh mẽ trong hệ sinh thái của KKT Vân Đồn.

3.4.2.3. Nhóm giải pháp về cơ chế phối hợp giữa quản lý Nhà nước, cộng

đồng và các bên liên quan trong quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện

đảo Vân Đồn

- Tăng cường công tác phối hợp giữa cơ quan QLNN, cộng đồng và các bên

liên quan khác trong QL DSVH: thực tế cho thấy QL DSVH nặng về quản lý hành

chính qua các quyết định, kế hoạch, báo cáo bằng mệnh lệnh hành chính từ trên

xuống mà ít có sự thảo luận, chủ động phối hợp của cộng đồng và các bên liên quan

khác. Do vậy, cần có cơ chế làm việc từ dưới lên, cần có sự hợp tác, thương thảo

với cộng đồng trước khi quyết định hay ban hành chính sách để đảm bảo các giải

pháp quản lý phù hợp với thực tiễn, phù hợp nguyện vọng của cộng đồng.

- Để DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn thực sự có sức sống, tạo

sự lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng và quảng bá, giới thiệu hình ảnh con người

và DSVH đặc sắc của dân tộc Sán Dìu cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa

QLNN, cộng đồng và các bên liên quan khác. Việc phối hợp đó thể hiện sự tôn

trọng DSVH, bình quyền trong phân cấp, phân quyền, nhà nước không làm thay,

không can thiệp quá sâu vào các công việc tự quyết, tự quản của cộng đồng để

cộng đồng tự chủ trong sáng tạo và thực hành văn hóa.

- QL DSVH ngoài sự tham gia chủ động, tích cực của chủ thể văn hóa là

cộng đồng, với sự định hướng, hỗ trợ và quản lý về mặt hành chính của nhà nước

còn rất cần sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội nghề nghiệp, các

trung tâm nghiên cứu khoa học, các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp…

Chính các tổ chức, cá nhân này làm việc trực tiếp với cộng đồng, hỗ trợ cộng đồng

trong nhận diện và nâng cao công tác QL DSVH, xóa bỏ các rào cản bất lợi gặp

phải trong quá trình QL DSVH. Do vậy, nhà nước cần có cơ chế, chính sách khuyến

khích các bên tham gia cùng cộng đồng chủ động thực hiện QL DSVH tại cơ sở.

- Cần phải đặt DSVH dân tộc Sán Dìu là một nguồn vốn (vốn văn hóa) trong

phát triển KT-XH của huyện đảo Vân Đồn và có chiến lược khai thác, phát triển

147

nguồn vốn đó trở thành sinh kế bền vững, một ngành dịch vụ mũi nhọn của KKT

Vân Đồn mà trong các quy hoạch về KKT Vân Đồn đang bỏ ngỏ. Cần có những tư

duy sáng tạo, đột phá nhằm phát huy DSVH dân tộc Sán Dìu trở thành những sản

phẩm riêng có, độc đáo của du khách khi đến với Vân Đồn. Dựa trên những bài học

kinh nghiệm về phát triển văn hóa sáng tạo của các nước Anh, Mỹ. Vân Đồn có

những tham khảo quý trong hoạch định chính sách cũng như phối hợp của các bên

liên quan cụ thể là cộng đồng và các doanh nghiệp.

- Cần có chiến lược QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn gắn

với phát triển du lịch thông qua việc tham gia tích cực và hiệu quả của các doanh

nghiệp lữ hành, tạo ra sản phẩm du lịch mang đẳng cấp quốc tế nhưng vẫn giữ được

hồn cốt của DSVH. Một kinh nghiệm quý từ Thái Lan về phát triển sản phẩm du

lịch gắn với chùa tháp và các thực hành tôn giáo. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu cần

vận dụng trong phát triển sản phẩm du lịch gắn với lễ hội Đại phan.

- QL DSVH cần nguồn kinh phí để hoạt động. Do vậy, giải pháp về vốn cần

được sự quan tâm chia sẻ của các bên liên quan từ cơ quan QLNN, chính quyền

các cấp, cộng đồng và các tổ chức chính trị - xã hội, hội đoàn, doanh nghiệp, tổ

chức phi chính phủ, khách du lịch… thông quanhững hình thức đầu tư, hỗ trợ hoạt

động có thu, nhằm tổ chức lễ hội Đại phan bằng cách thức trình diễn theo nhu cầu

của khách du lịch, mở lớp truyền dạy tiếng Sán Dìu, Soọng cô, ẩm thực, trò chơi

dân gian hay duy tu bảo dưỡng các miếu… đều cần có nguồn vốn từ ngân sách

Nhà nước, xã hội hóa và các nguồn vốn hợp pháp khác.

3.5. Đề xuất mô hình quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu gắn với

phát triển du lịch

Dựa vào thực trạng và những phân tích về QL DSVH của dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn, luận án đề mô hình QL DSVH gắn với phát triển du lịch tại

huyện đảo Vân Đồn, cụ thể như sau:

3.5.1. Mục tiêu

Vấn đề QL DSVH lâu nay luôn được gắn cho chính quyền các cấp, người

dân và cộng đồng chỉ là đối tượng thực hiện chính sách, thụ hưởng chính sách. Họ

148

chưa nhận ra hay chưa thể đóng vai trò QL, quyết định DSVH mà mình nắm giữ,

cộng đồng tham gia với tư cách là đối tượng QL nên mọi công việc liên quan đến

QL DSVH chủ yếu do chính quyền QL, tổ chức thực hiện. Cộng đồng dân tộc Sán

Dìu tham gia các hoạt động BV&PH giá trị DSVH thực hiện nhiệm vụ từ chính

quyền địa phương các cấp. Do vậy, để trả lời câu hỏi DSVH là của ai, giành cho

ai? Và tại sao phải QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn? Chỉ khi

nào chính quyền và cộng đồng trả lời được thấu đáo các câu hỏi trên mới có thể

tạo sự chuyển biến mạnh mẽ từ cách nhìn từ QL của cả cơ quan QLNN và cộng

đồng. Để trả lời câu hỏi trên cần xác định mục tiêu của quá trình QL DSVH, bên

cạnh những mục tiêu đã có phải tạo thế cân bằng lợi ích giữa các bên liên quan

được khái quát bằng các câu hỏi theo lý thuyết 5W2H, cụ thể:

5W2H Hiện tại Hướng tới

- Chính quyền địa phương - Đối tác trong nước và quốc tế

- Cộng đồng dân tộc Sán Dìu - Cộng đồng dân tộc Sán Dìu - Khách du lịch nội địa, quốc tế Ai/cho ai (Who/ Whom) - Khách du lịch nội địa

- Mục tiêu chính trị Tại sao (Why) - Mục tiêu thỏa mãn nhu cầu các bên liên quan - Mục tiêu cộng đồng

- Mục tiêu DSVH của cộng đồng hướng tới cộng đồng

Bảng 3.1. Mục tiêu trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu huyện đảo Vân Đồn

(Nguồn: NCS tổng hợp)

3.5.2. Nguyên tắc quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo

Vân Đồn trong mô hình quản lý gắn với phát triển du lịch

Để định dạng một mô hình tối ưu cho QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện

đảo Vân Đồn là công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Dựa trên khung phân tích

lý thuyết về quản lý các bên liên quan, đề xuất mô hình này là mong muốn khiêm

tốn trong nhận thức hạn hẹp của NCS trong việc hoàn thiện hơn mô hình QL

DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn trên các nguyên tác cơ bản sau:

149

- Thay đổi vai trò QLNN và hướng tới cân bằng hơn quyền và lợi ích giữa

các bên liên quan.

- Quản lý và tổ chức các hoạt động làng dân tộc Sán Dìu là một sản phẩm

văn hóa độc đáo gắn liền với sản phẩm du lịch trọn gói.

- Cộng đồng dân tộc Sán Dìu có năng lực quản lý làm chủ các sản phẩm du

lịch văn hóa.

Ba nguyên tắc này được cụ thể trong bảng dưới đây:

Nguyên tắc Nội dung của nguyên tắc

lợi - Chính quyền các cấp cần thay đổi tư duy trong hoạch định và thực thi chính sách từ quan điểm quản lý từ trên xuống cần tăng quyền, trao quyền cho cộng đồng tham gia bàn bạc quyết định đảm bảo quyền văn hóa được tôn trọng.

Thay đổi vai trò QLNN và hướng tới cân bằng hơn quyền và ích giữa các bên liên quan

- Cộng đồng dân tộc Sán Dìu là chủ thể thực hành, sáng tạo, trao truyền và giới thiệu DSVH độc đáo của mình, có ý thức chủ động và tự nguyện tham gia QL DSVH, đông thời tạo việc làm và thu nhập cho cộng đồng.

- Các bên liên quan khác cũng cần được tham gia, đóng góp về chuyên môn, đầu tư, hỗ trợ về các nguồn lực khác. Bên cạnh đó cũng cần được đảm bảo về lợi ích, công nhận khi có sự tham gia.

- Một không gian của làng văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn phải đảm bảo hài hòa, tích hợp một cách sáng tạo dựa theo 03 quan điểm QL DSVH (bảo tồn nguyên vẹn; bảo tồn trên cơ sở kế thừa; bảo tồn và phát triển).

- Nội dung của mô hình đảm bảo tính độc đáo, riêng có, hấp dẫn đối với khách du lịch. Quản lý và tổ chức các hoạt động làng dân tộc Sán Dìu là một sản phẩm văn hóa độc đáo gắn liền với sản phẩm du lịch trọn gói

- Đảm bảo một sản phẩm du lịch trọn gói về thiết kế tour, tuyến, điểm du lịch; không gian tham quan, trải nghiệm; các dịch vụ ăn uống, ngủ nghỉ, quà lưu niệm; dịch vụ giải trí…

- Năng lực tổ chức vận hành.

- Năng lực huy động và phân bổ nguồn lực phục vụ các hoạt động QL DSVH trong cộng đồng dân tộc Sán Dìu.

- Năng lực sáng tạo văn hóa. Cộng đồng dân tộc Sán Dìu có năng lực quản lý làm chủ các sản phẩm du lịch văn hóa

- Năng lực maketting, truyền thông…

Bảng 3.2. Nguyên tắc QL DSVH dân tộc Sán Dìu

150

ở huyện đảo Vân Đồn gắn với phát triển du lịch

(Nguồn: NCS tổng hợp) 3.5.3. Sự tham gia của các bên liên quan trong mô hình quản lý di sản

văn hóa dân tộc Sán Dìu gắn với phát triển du lịch ở huyện đảo Vân Đồn

Sau quá trình nghiên cứu, NCS đề xuất mô hình QL DSVH dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn gắn với phát triển du lịch, mô hình cần đảm bảo sự

tham gia của tối thiểu 05 bên, gồm: Nhà nước (đại diện chính quyền, cơ quan

chuyên môn các cấp); cộng đồng - chủ thể nắm giữ và thực hành DSVH; nhà khoa

học (tổ chức, cá nhân có chuyên môn sâu về DSVH, quản lý văn hóa, kinh tế du

lịch,…; doanh nghiệp (công ty lữ hành, tổ chức sự kiện…) và khách du lịch.

Tỉnh Quảng Ninh, chủ trương lựa chọn xã Bình Dân, huyện Vân Đồn là địa

phương xây dựng làng dân tộc Sán Dìu gắn với phát triển du lịch. Do vậy, cần có

cơ chế phối hợp giữa cơ quan QLNN, cộng đồng và các bên liên quan khác trong

quá trình xây dựng, quản lý và vận hành làng dân tộc Sán Dìu, cụ thể như:

Các bên Yêu cầu

- Chính quyền và cơ quan chuyên môn các cấp QLNN về DSVH và du lịch tại làng dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

- Phân bổ và giám sát việc sử dụng ngân sách Nhà nước và các nguồn vốn hợp pháp khác trong đầu tư, hỗ trợ xây dựng, quản lý và vận hành làng dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn Nhà nước

- Tham gia với vai trò đại diện của chính quyền trong tổ chức của cộng đồng

- Xúc tiến, quảng bá điểm đến, giới thiệu văn hóa, sản phâm du lịch làng dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn theo các kênh chính thức của Nhà nước.

- Thành lập tổ tư vấn về BV&PH giá trị DSVH tại cộng đồng với các đối tượng là các bậc cao niên am hiểu bản sắc văn hóa Sán Dìu, người có uy tín trong đồng bào DTTS, nghệ nhân, thầy cúng, thầy thuốc, cán bộ đương chức và cán bộ hưu trí…

Cộng đồng

- Sau khi mô hình QL DSVH Sán Dìu được đầu tư xây dựng và đi vào hoạt động thì thành lập một tổ chức như: hợp tác xã, ban quản lý, doanh nghiệp xã hội, trong có ít nhất 70% thành viên trong tổ chức là người dân tộc Sán Dìu, thành phần dân tộc Sán Dìu có thể lấy từ tổ tư vấn. Các thành phần tham gia khác đó là đại diện chính

151

quyền cấp xã hoặc cấp huyện và các bên liên quan khác như: các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, các tổ chức khoa học....

- Phối hợp các cơ quan QLNN và các bên liên quan khác trong quá trình xây dựng Làng dân tộc Sán Dìu. Đồng thời, tuyên truyền, vận đồng cộng đồng nhận thức vai trò và trách nhiệm của từng cá nhân trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn gắn với xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.

- Cơ chế vận hành, gồm có người đứng đầu tổ chức phải là dân tộc Sán Dìu có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực quản lý, chính quyền các cấp tham gia với vai trò thành viên hướng dẫn và giám sát theo quy định QLNN. Cách thức triển khai các hoạt động cần kết hợp vai trò tự quản của cộng đồng với sự trợ giúp của Nhà nước phải có cách làm sáng tạo, linh hoạt nhưng vẫn đảm bảo được tính chân thực của di sản. Làng dân tộc Sán Dìu là hạt nhân cốt lõi trong QL DSVH là cơ sở để lan tỏa ra toàn xã, toàn huyện và các địa phương khác.

- Cần có cơ chế cụ thể trong hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu tại cộng đồng như: các văn bản triển khai xuống thôn cần biên tập, biên dịch cụ thể, ngắn ngọn, dễ hiểu bằng tiếng Sán Dìu xuống từng thôn và hộ gia đình đây là cách học tiếng Sán Dìu một cách hiệu quả nhất. Hàng ngày, các thông tin được phát thành song ngữ tiếng Việt và tiếng Sán Dìu. Các chương trình văn nghệ của thôn, của xã phải có tối thiểu 50% các tiết mục văn nghệ về văn hóa Sán Dìu, cấp huyện tối thiểu 30% .

- Nghiên cứu và tư vấn chuyên nghiệp, thận trọng trong BV&PH giá trị DSVH dân tộc Sán Dìu đảm bảo giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển hài hòa với các dịch vụ du lịch đi kèm.

Nhà khoa học

- Cảnh báo và khuyến cáo đến các bên liên quan khác về những nguy cơ, hệ lụy khi chú trọng phát triển KT-XH, đặc biệt về phát triển du lịch nhanh làm phá vỡ các yếu tố truyền thống, nảy sinh các tệ nạm xã hội…

- Thiết kế tour, tuyến, điểm du lịch gắn với làng văn hóa dân tộc Sán Dìu ởi huyện đảoVân Đồn

- Phối hợp với chính quyền và cộng đồng hoàn thiện cơ sở hạ tầng dịch vụ phục vụ khách du lịch Doanh nghiệp

- Chủ động cung ứng nhân lực chuyên nghiệp hay đào tạo nhân lực tại cộng đồng tham gia phục vụ khách du lịch

- Giới thiệu, quảng bá, maketting các sản phẩm du lịch tại làng dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn

152

- Tổ chức thực hiện các tour du lịch trọn gói và các sản phẩm văn hóa của cộng đồng dân tộc Sán Dìu gắn với các hoạt động du lịch

- Sử dụng, tham quan, trải nghiệm các sản phẩm du lịch tại làng dân tộc Sán Dìu huyện đảo Vân Đồn

Khách du lịch - Giới thiệu, quảng bá hình ảnh, đất và người dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn thông qua chuyến du lịch

- Phản ánh, tham gia ý kiến xây dựng sản phẩm du lịch tại làng dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn được hoàn thiện và chuyên nghiệp hơn

Bảng 3.3. Sự tham gia của các bên liên quan trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn (Nguồn: NCS tổng hợp) Tiểu kết

Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới là bài học kinh nghiệm quý

giúp cho các bên liên quan thực hiện các hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu

ngày một hiệu quả hơn.

Trên cơ sở nhận diện, phân tích, đánh giá thực trạng QL DSVH dân tộc Sán

Dìu ở huyện đảo Vân Đồn; dựa vào định hướng của Đảng; căn cứ vào cơ sở pháp lý

mà UNESCO cũng như Việt Nam về DSVH. Dựa vào những kinh nghiệm QL

DSVH của quốc tế và bối cảnh thực tiễn của huyện đảo Vân Đồn bên cạnh những

tác động ảnh hưởng đến quá trình QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện Đảo Vân

Đồn, NCS đã đề xuất một số nhóm giải pháp và mô hình nhằm nâng cao hiệu quả

QLNN về DSVH cũng như phát huy vai trò QL của cộng đồng và tăng cường hợp

tác của các bên liên quan trong QL DSVH tại địa phương.

153

KẾT LUẬN

Đề tài luận án Quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân

Đồn, tỉnh Quảng Ninh đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn

QLNN về DSVH và vai trò QL của cộng đồng trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Với các kết quả nghiên cứu được trình bày ở

trên, có thể rút ra một số kết luận như sau:

1. Nghiên cứu QL DSVH là vấn đề không mới nhưng nhận được nhiều sự

quan tâm của các quốc gia, tổ chức, cá nhân, nhà khoa học, nhà quản lý. Bởi lẽ,

DSVH là tài sản do con người sáng tạo ra và là đối tượng thụ hưởng các giá trị

DSVH. Quá trình sáng tạo, duy trì, bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường xã hội

và cách thức thụ hưởng DSVH đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, đòi hỏi cần có sự

QL của các cấp, các ngành. Do vậy, vấn đề QL DSVH không phải là mới nhưng

chưa bao giờ cũ bởi tính thời sự của vấn đề này. QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn lại càng trở nên mới, cấp thiết hơn khi đã có nhiều công trình

nghiên cứu về DSVH dân tộc Sán Dìu. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước được tiếp

cận theo chuyên ngành Văn hóa học, Nhân học, Lịch sử, Văn học mà chưa có công

trình nào nghiên cứu hệ thống và toàn diện về vấn đề QL DSVH theo cách tiếp cận

chuyên ngành Quản lý Văn hóa. Đây là vấn đề đã được nghiên cứu, bổ sung trong

kho tàng tri thức khoa học về QL DSVH được thể hiện trong luận án này.

2. Dân tộc Sán Dìu di cư vào Việt Nam cách đây khoảng 400 năm và

Quảng Ninh là điểm đặt chân đầu tiên của dân tộc Sán Dìu trên đất Việt Nam. Từ

đây dân tộc Sán Dìu di cư đến các tỉnh: Bắc Giang, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Thái

Nguyên và Tuyên Quang. Tỉnh Quảng Ninh là một trong 06 tỉnh có dân tộc Sán

Dìu cư trú đông nhất. Đặc biệt, huyện đảo Vân Đồn được coi là “thủ phủ” của dân

tộc Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh, chiếm tỷ lệ 10,66% so với dân số toàn huyện. Nơi

cư trú lý tưởng của dân tộc Sán Dìu là các gò đồi, vùng bán sơn địa, nơi có điều

kiện tự nhiên thuận lợi cho việc sản xuất cũng như sinh hoạt. Làng của dân tộc

Sán Dìu có sức mạnh đoàn kết to lớn với sự cố kết của các dòng họ trong thiết chế

truyền thống; các tổ chức phi quan phương. Sự cố kết chặt chẽ, tương trợ giúp đỡ

154

lẫn nhau trong cộng đồng chính là chất keo giúp cộng đồng sáng tạo, duy trì, trao

truyền, QL DSVH từ truyền thống đến đời sống hiện nay.

3. Xuất phát từ tính cộng đồng bền chặt, mọi thành viên trong cộng đồng

đều có nghĩa vụ, trách nhiệm trên tinh thần tự nguyện, tự giác trong QL DSVH.

Điều này được thể hiện qua giá trị DSVH vật thể, phi vật thể được cộng đồng thực

hành văn hóa, sáng tạo, nuôi dưỡng và trao truyền qua nhiều thế hệ. DSVH của dân

tộc Sán Dìu chứa đựng nhiều giá trị nhân văn, thể hiện cách ứng xử thân thiện, hài

hòa giữa con người với con người, giữa con người với môi trường tự nhiên và xã

hội. Do vậy, DSVH của dân tộc Sán Dìu là chất keo gắn kết các thành viên trong

cộng đồng, tạo nên một cộng đồng đoàn kết, vững mạnh. Tuy nhiên, cùng với sự

phát triển KT-XH trong những năm đất nước đổi mới, quá trình CNH, HĐH đã và

đang tác động mạnh mẽ đến DSVH của dân tộc Sán Dìu. Những biến đổi văn hoá

đang diễn ra theo nhiều xu hướng, tác động đến đời sống của cộng đồng cả về mặt

tích cực lẫn tiêu cực. Vấn đề đặt ra hiện nay đối với cơ quan QLNN, cộng đồng và

các bên liên quan khác trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu như thế nào để giá trị

DSVH luôn trường tồn và phát huy một cách hiệu quả trong đời sống đương đại.

Đây là một vấn đề lớn, một bài toán khó nhưng cần có lời giải nhằm tìm ra giải

pháp đồng bộ, khả thi để ứng dụng vào thực tiễn.

4. Dưới cách tiếp cận của chuyên ngành Quản lý văn hóa, đề tài Quản lý di

sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, đã được NCS

vận dụng các quan điểm QL DSVH và lý thuyết các bên liên quan. Hai lý thuyết

được NCS áp dụng để biện giải các vấn đề về cơ cấu tổ chức bộ máy QLNN về

DSVH, nguồn nhân lực, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn trong quản lý,

điều hành, thực thi chính sách QLNN về DSVH; phân tích vai trò QL của cộng

đồng trong quá trình sáng tạo, thực hành, nuôi dưỡng, trao truyền và giới thiệu,

quảng bá DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn và vai trò trong phối hợp,

hỗ trợ của các bên liên quan. Thông qua khung phân tích lý thuyết, NCS đã tổng

hợp và phân tích cơ chế phối hợp giữa QLNN về DSVH, vai trò QL của cộng đồng

và các bên liên quan khác trong QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn.

5. Với mục đích nghiên cứu của luận án là áp dụng lý luận, các quan điểm

và chính sách của UNESCO, của Đảng và Nhà nước vào giải quyết các vấn đề thực

155

tiễn hoạt động QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn. NCS đã tập trung

làm rõ hai nội dung cơ bản: 1) Nhận diện, phân tích, đánh giá thực trạng QL DSVH

dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn thông qua việc nghiên cứu tài liệu thứ cấp là

văn bản quy phạm pháp luật của UNESCO, trung ương và tỉnh Quảng Ninh cùng

với các thông tin thu được từ điều tra thực địa bằng phương pháp phỏng vấn sâu,

điều tra xã hội học… Từ đó, luận án làm rõ chức năng QLNN với vai trò chỉ đạo,

điều hành, quản lý về mặt hành chính, đầu tư, hỗ trợ cộng đồng trong QL DSVH;

cộng đồng vừa là chủ thể sáng tạo, thực hành, nuôi dưỡng và trao truyền DSVH,

vừa có vai trò tự chủ, tự quản các hoạt động QL DSVH tại cộng đồng và sự tham

gia của các bên liên quan. Thực trạng đó cũng nêu lên những yếu tố tác động và

định vị các nguồn lực góp phần QL DSVH của dân tộc Sán Dìu trong giai đoạn hiện

nay. 2) Trên cơ sở đó, NCS căn cứ vào định hướng các quan điểm của Đảng, cơ sở

pháp lý của UNESCO, nhà nước về DSVH, căn cứ vào cơ sở lý luận và thực tiễn

đặt ra nhằm đề xuất các nhóm giải pháp và mô hình QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở

huyện đảo Vân Đồn trong giai đoạn hiện nay.

Trên phương diện nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong

đề tài luận án Quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh, NCS đã nhận thức sâu sắc về cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động

đang diễn ra hết sức sinh động. Thực tiễn này cũng đặt ra nhiều vấn đề khoa học

cần được tiếp tục nhận diện để nghiên cứu trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu

dài. NCS nhận thấy, vấn đề cần được quan tâm đầu tư về nhân lực, trí lực và vật lực

để nghiên cứu mở rộng trong thời gian sắp tới như: vấn đề QL DSVH trong bối

cảnh chuyển đổi mô hình QLNN từ mô hình UBND huyện Vân Đồn trở thành Ban

Quản lý KKT Vân Đồn; tác động của quá trình đô thị hóa đến văn hóa truyền thống

của dân tộc Sán Dìu, huyện Vân Đồn; QL DSVH dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân

Đồn gắn với phát triển du lịch... Bên cạnh những kết quả đạt được, luận án còn

nhiều hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện trong quá trình công tác

sau này./.

156

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Trần Quốc Hùng (2017), Dân tộc Sán Dìu - Hội tụ và phát triển, Nxb Lao

động, Hà Nội.

2. Trần Quốc Hùng (2017), “Một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị dân

ca trong cưới hỏi của dân tộc Sán Dìu giai đoạn hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Dân

tộc, số 17, tr.14-17.

3. Trần Quốc Hùng (2018), “Góp thêm tư liệu về tên tự nhận của tộc người

Sán Dìu ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu khoa học của Nghiên cứu sinh

2017, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.91-104.

4. Trần Quốc Hùng (2019), “Du lịch sinh thái cộng đồng sinh kế mới của dân

tộc Sán Dìu ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu khoa học của Nghiên cứu

sinh 2018, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.169-179.

5. Trần Quốc Hùng (2019), “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống

dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang gắn với phát triển du lịch sinh thái cộng đồng”, Kỷ

yếu Hội thảo quốc tế Du lịch Lâm Bình, Tuyên Quang tiềm năng, thực trạng và giải

pháp, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, tr.639-648.

6. Trần Quốc Hùng (2020), “Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa dân tộc Sán

Dìu tiếp cận từ quan điểm quản lý di sản”, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 1,

tr.121-127.

7. Trần Quốc Hùng (2020), “Vai trò của cộng đồng trong bảo vệ và phát huy

các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh”, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 2, tr.117-124.

157

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu tiếng Việt

1. Lê Văn An, Ngô Tùng Đức (2016), Sổ tay hướng dẫn Phát triển cộng đồng, Nxb

Thanh niên, Hà Nội.

2. Nguyễn Lâm Tuấn Anh (2016), “Tính cộng đồng của làng - xã Bắc bộ và phong

trào xây dựng nông thôn mới hiện nay”, Tạp chí Văn hóa học, số 6 (28),

tr.26-32.

3. Trịnh Lê Anh (2016), “Sản phẩm du lịch văn hóa và văn hóa quản lý du lịch ở

Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa học, số 6 (28), tr.68-76.

4. Đào Ngọc Anh (2016), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa người H’Mông thông

qua du lịch cộng đồng ở bản Sín Chải, huyện SaPa, tỉnh Lào Cai, Luận án

Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.

5. Đặng Văn Bài (2001), “Vấn đề quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bảo tồn di sản

văn hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 4, tr.11-13.

6. Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) (1998), Nghị

quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998, về Xây dựng và phát triển nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Hà Nội.

7. Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) (2014), Nghị

quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương về Xây

dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển

bền vững đất nước, Hà Nội.

8. Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2018), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy

giá trị di sản văn hóa làng cổ Thổ Hà gắn với phát triển du lịch, Nxb Hà

Nội, Hà Nội.

9. Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

10. Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hóa Việt Nam - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn,

Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội

11. Nguyễn Chí Bền (2016), “Sức mạnh nội sinh và yêu cầu hiện đại hóa văn hóa

dân tộc thời kỳ mới”, Tạp chí Văn hóa học, số 2 (24), tr.3-16.

158

12. Nguyễn Chí Bền (Chủ biên) (2010), Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật

thể Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

13. Trương Quốc Bình (2016), “Bảo vệ và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa

phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học, Đại

học quốc gia Hà Nội, tập 32, số 1S (2016), tr.68-76.

14. Trương Quốc Bình (2009), “Đổi mới hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị kho

tàng di sản văn hóa”, Tạp chí Cộng sản, số 2, tr.19-23.

15. Diệp Trung Bình (1987), Dân ca Sán Dìu, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

16. Diệp Trung Bình (2002), Lễ hội cổ truyền các dân tộc Hoa, Sán Dìu ở Việt

Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.

17. Diệp Trung Bình (2005), Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của người Sán

Dìu ở Việt Nam, Bảo tàng Văn hoá dân tộc, Thái Nguyên

18. Diệp Trung Bình (2008), Văn hoá ẩm thực người Sán Dìu, Nxb Văn hoá dân

tộc, Hà Nội.

19. Bộ Giáo dục & Đào tạo, Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam (1998), Đại

từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

20. Bộ Nội vụ (2012), Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30/10/2012 của Bộ Nội

vụ về Hướng dẫn chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng

công chức xã, phường, thị trấn, Hà Nội.

21. Bonifaxi (2002), Chuyên khảo về người Mán quần cộc, Bản dịch của Viện Dân

tộc học, Hà Nội.

22. Chính phủ (2011), Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/11/2011 của Chính

phủ về công tác dân tộc, Hà Nội.

23. Chính phủ (2014), Nghị định số 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014 Về xét tặng

danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản

văn hóa phi vật thể, Hà Nội.

24. Chính phủ (2020), Nghị định số 12/NQ-CP ngày 15/02/2020, Triển khai thực

hiện Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Quốc hội

về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc

thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, Hà Nội.

159

25. Trịnh Ngọc Chung (2016), Quản lý di sản thế giới ở Việt Nam (Qua nghiên cứu

trường hợp Cô đô Huế và đô thị Hội An), Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện

Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.

26. Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Quý Đôn (2000), “Tục cưới xin của đồng bào Sán Dìu ở Tam Đảo”,

Tạp chí Dân tộc và thời đại, số 18, tr.23-24.

28. Phạm Duy Đức (2008), Quan điểm của Mác - Lênin về văn hoá, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

29. Bùi Hữu Đức (Chủ biên) (2013), Khoa học quản lý, Nxb Giáo dục Việt Nam,

Hà Nội.

30. Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn (Đồng Chủ biên) (2012), Quản lý Văn hóa Việt

Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

31. Nguyễn Thị Thu Hà (2016), Quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch ở đô

thị cô Hội An, tỉnh Quảng Nam, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa

Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.

32. Trần Văn Hà (2000), “Lễ cấp sắc của người Sán Dìu”, Tạp chí Dân tộc học, số

1, tr.41-47.

33. Nguyễn Hồng Hà (2014), “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong bối cảnh

toàn cầu hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 4, tr.14-18.

34. Nguyễn Thẩm Thu Hà (2016), Tri thức địa phương trong sử dụng và bảo vệ tài

nguyên thiên nhiên của người Sán Dìu tỉnh Tuyên Quang, Luận án tiến sĩ

Nhân học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

35. Phạm Thanh Hà (2011), Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn

cầu hóa hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Thanh Hải (1960), “Vài nét khái quát về người Sán Dìu ở khu Hồng Quảng’’,

Tập san Dân tộc, số 2, tr.33-39.

37. Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên) (2014), Quản lý học đại cương, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

160

38. Nguyễn Thị Hiền (2017), Quản lý Nhà nước và vai trò cộng đồng trong bảo vệ

và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

39. Nguyễn Thị Hiền (2018), “Mối quan hệ giữa quản lý Nhà nước và vai trò cộng đồng

trong bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể qua kinh nghiệm của Trung

Quốc, Hàn Quốc, và Nhật Bản”, Tạp chí Văn hóa học, số 1 (35), tr.53-65.

40. Nguyễn Thị Hiền (2019), “Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể theo công ước

2003, luật Di sản văn hóa và vai trò cộng đồng”, Tạp chí Văn hóa học, số 3

(43), tr.3-10.

41. Nguyễn Thị Hiền, Hoàng Cầm (2019), “Công ước 2003 của UNESCO, tính

cộng đồng của Xòe Thái và vấn đề bảo vệ di sản trong quá trình di sản hóa”,

Tạp chí Văn hóa học, số 6 (46), tr.16-24.

42. Nguyễn Xuân Hòa (2018), Sinh kế của người Sán Dìu ở vùng đệm vườn quốc

gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, Luận án Tiến sĩ Nhân học, Học viện Khoa học

Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

43. Hội đồng nhân dân tỉnh tỉnh Quảng Ninh (2016), Nghị quyết số 238/NQ-

HĐND ngày 08/4/2016, Về việc thành lập Sở Du lịch tỉnh Quảng Ninh; kiện

toàn Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh thành Sở Văn hóa và

Thể thao tỉnh Quảng Ninh; Quảng Ninh.

44. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2015), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản lịch

sử - văn hóa phục vụ phát triển du lịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), Từ

điển Bách khoa Việt Nam N-S, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

46. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2010), Tổng kiểm kê Di sản văn nghệ dân

gian của 54 dân tộc Việt Nam, thực hiện kế hoạch tầm nhìn 2010, Tập 1,

Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

47. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Giáo trình Lý luận văn hóa và

đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

48. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), Từ

điển Bách khoa Việt Nam 3, Nxb từ điển Bách khoa, Hà Nội.

161

49. Hội đồng nhân dân huyện Vân Đồn (2019), Nghị quyết số 105/NQ-HĐND ngày

20/12/2019 về Thông qua Đề án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian

truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai

đoạn 2020-2022, Quảng Ninh.

50. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang (2000), Phát triển cộng đồng, Tập 1: Lý

thuyết và vận dụng, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

51. Nguyễn Thế Hùng (2008), “Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ,

xây dựng và phát triển đất nước”, In trong cuốn Một con đường tiếp cận di

sản văn hóa, tập 4, Nxb Thế giới, Hà Nội

52. Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Kim Dung, Tổng kết 10 năm thực hiện Công ước

UNESCO 2003 về bảo vệ DSVH phi vật thể ở Việt Nam, tr.170.

53. Nguyễn Thế Hùng (2014), “Công tác bảo vệ, phát huy di sản văn hóa năm 2013

và phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2014”, Tạp chí Di sản văn hóa,

số 1, tr. 5-7.

54. Lâm Quang Hùng (2001), Người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc, Hội Sử học Vĩnh Phúc,

Vĩnh Phúc.

55. Lâm Quang Hùng (2013), Văn hóa ẩm thực người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc, Nxb

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

56. Nguyễn Quốc Hùng (2000), “Quanh việc quản lý và phát huy tác dụng di sản

văn hóa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 2, tr. 50-53.

57. Nguyễn Thị Ngọc Huyền và cộng sự (2012), Giáo trình Quản lý học, Nxb Đại

học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

58. Đỗ Thị Thanh Hương (2018), Quản lý di sản văn hóa làng của người Mường

tỉnh Hòa Bình với phát triển du lịch (Trường hợp xóm Mỗ 2, xã Bình Thanh,

huyện Cao Phong và xóm Ải, xã Phong Phú, huyện Tân Lạc), Luận án Tiến

sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.

59. Nguyễn Thị Thu Hường (2015), Quản lý di sản văn hóa ở làng trong quá trình

đô thị hóa (trường hợp thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), Luận án Tiến sĩ Văn

hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.

162

60. Phạm Thị Thúy Hương, Phạm Thị Bích Ngọc (Đcb, 2018), Giáo trình Hành vi

tổ chức, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

61. Trương Xuân Hữu (2009) “Tục lệ làm nhà mới với xây dựng nếp sống văn hóa của

người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc”, Thông báo Dân tộc học năm 2009, tr.169-170.

62. J.H. Fichter (1973), Xã hội học, Nxb Hiện đại, Sài Gòn.

63. Lê Thị Kim Lan (2007), Bài giảng Phát triển cộng đồng, Trường Đại học Khoa

học, Đại học Huế, Thừa Thiên - Huế.

64. Dương Thùy Linh (2019), Sinh kế vùng gò đồi của người Sán Dìu ở tỉnh Thái

Nguyên, Luận án Tiến sĩ Việt Nam học, Trường Đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

65. Lê Hồng Lý (2009), Giáo trình quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

66. Đặng Thị Bích Liên (2013), “Huy động sức mạnh của toàn ngành tiếp tục đẩy

mạnh hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa”, Tạp chí Di sản

văn hóa, số 1, tr.5-6.

67. Nguyễn Thị Quế Loan (2017), Bản sắc văn hóa ẩm thực của người Sán Dìu ở

Thái Nguyên, Nxb Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.

68. Nguyễn Thị Kim Loan (Chủ biên), Nguyễn Trường Tân, (2014), Quản lý di sản

văn hóa, Nxb Văn hóa - Thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.

69. Từ Thị Loan (2012), “Một số mô hình quản lý, tổ chức lễ hội cổ truyền”, Tạp

chí Văn hóa Nghệ thuật, số 340, tr. 48-53.

70. Nguyễn Văn Lưu (2016), “Văn hóa du lịch nguồn lực phát triển du lịch bền

vững”, Tạp chí Văn hóa học, số 5 (27), tr. 67-78.

71. Hoàng Phương Mai (2016), Gia đình của người Sán Dìu vùng chân núi Tam Đảo,

Luận án Tiến sĩ Nhân học, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

72. Trần Thị Hồng Minh (2014), Vấn đề giữ gìn và phát huy di sản văn hóa ở Thừa

Thiên Huế hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

73. Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Thị Thu Trang (2012), “Vai trò của cộng đồng

nhìn từ góc độ bảo tồn di sản văn hóa”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4 (41),

tr.18-23.

163

74. Nguyễn Đình Minh (Chủ biên) (2016), Đề cương về văn hoá Việt Nam năm

1943 giá trị lịch sử và hiện thực, Nxb Quân đội nhân dân.

75. Hữu Ngọc (Chủ biên) (1995), Từ điển văn hoá cổ truyền Việt Nam, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

76. Lê Đại Năm (2015), Các bài hát Thềnh sèn cô của dân tộc Sán Dìu dịch ra tiếng phổ

thông và sáng tác hát giao duyên lời mới, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

77. Nhiều tác giả (1996), Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số

Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

78. Nhiều tác giả (2005), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt

Nam, Viện Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

79. Nguyễn Hồng Nhung (2017), ““Các bên tham gia”: Một quan điểm quản lý di sản văn

hóa trong quá trình đô thị hóa”, Tạp chí Văn hóa học, số 1 (29), tr. 54-63.

80. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

81. Lê Thị Thu Phượng (2017), Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa tộc

người trong mối quan hệ với phát triển du lịch (Nghiên cứu trường hợp

người Dao Quần trắng thôn Ngòi Tu, xã Vũ Linh, huyện Yên Bình, tỉnh Yên

Bái), Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt

Nam, Hà Nội.

82. Vũ Hào Quang (2002), Xã hội học quản lý, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

83. Lương Hồng Quang (2018), Phát triển văn hóa dựa vào cộng đồng: các tranh

luận lý thuyết và thực tiễn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

84. Lương Hồng Quang (2010), “Các tổ chức phi quan phương trong làng - xã vùng

châu thổ Bắc Bộ (Trường hợp Hội đồng niên)”. In trong sách Hiện đại và

động thái của truyền thống ở Việt Nam: Những cách tiếp cận nhân học,

Lương Văn Hy, Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nxb Đại học Quốc gia

thành phố Hồ Chí Minh, 2010, tr.307-329, thành phố Hồ Chí Minh.

85. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2001), Luật Di sản văn hóa, số

28/2001/QH10, Hà Nội.

86. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2009), Luật sửa đổi bổ sung một số điều

của Luật Di sản văn hóa, số 32/2009/QH12.

164

87. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2019), Nghị quyết số 88/2014/QH14 ngày

18/11/2019 của Quốc hội về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội

vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, Hà Nội.

88. Sở Xây dựng tỉnh Quảng Ninh, Nikken Sekkei Civil Engineering LTD (2014),

Thuyết minh tổng hợp Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Quảng Ninh đến năm

2030, tầm nhìn đến năm 2050 và ngoài 2050, Hạ Long.

89. Bùi Hoài Sơn (2007), Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt ở châu thổ

Bắc bộ từ năm 1945 đến nay, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

90. Bùi Hoài Sơn (2010), “Di sản cho ai và câu chuyện về tổ chức lễ hội truyền

thống ở Việt Nam”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 3 (32), tr.10-14.

91. Bùi Hoài Sơn (2010), “Quản lý lễ hội truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ - qua các

văn bản quản lý từ năm 1945 đến 1986”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 4 (33),

tr.24 - 36.

92. Bùi Hoài Sơn (2011), “Quản lý lễ hội truyền thống của người Việt ở châu thổ

Bắc Bộ - nhìn từ các văn bản quản lý từ sau đổi mới đến nay”, Tạp chí Di

sản Văn hóa, số 1 (34).

93. Bùi Hoài Sơn (2013), “Di sản để làm gìvà môṭ số câu chuyện quản lý di sản ở

Việt Nam”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 3 (44), tr.18-22.

94. Bùi Hoài Sơn (2016), “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản ở Phú Thọ nhìn từ

cộng đồng”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn - phát huy giá trị di

sản văn hóa ở tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hiện nay, tháng 5/2016.

95. Trần Hữu Sơn (2018), “Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số với phát triển du

lịch cộng đồng”, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 21, tr.101-105.

96. Nguyễn Hạnh Sơn (2005), “Người Sán Dìu làm nhà mới”, Tạp chí Văn hóa (Bộ

Văn hóa - Thông tin), số 22, tr.7.

97. Tạp chí Cộng sản - Tỉnh ủy Bình Phước (2017), Phát triển du lịch bền vững tại

các tỉnh, thành phố phía Nam: Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc

gia sự thật, Hà Nội.

165

98. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2001), Địa chí Quảng Ninh, tập 1,

Nxb Thế giới, Hà Nội.

99. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2001), Địa chí Quảng Ninh, tập 3,

Nxb Thế giới, Hà Nội.

100. Vương Xuân Tình (Chủ biên) (2014), Văn hóa với phát triển bền vững ở vùng

biên giới Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

101. Phạm Hồng Tung (2009), “Cộng đồng: Khái niệm, cách tiếp cận và phân loại

trong nghiên cứu”, Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, số 12, tr.21.

102. Phạm Thị Phương Thái (Chủ biên) (2014) và cộng sự, Nghi lễ tang ma của người

Sán Dìu từ góc nhìn văn hóa, Nxb Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên.

103. Nguyễn Ngọc Thanh (Chủ biên) (2011), Văn hóa truyền thống dân tộc Sán Dìu

ở Tuyên Quang, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

104. Bùi Quang Thanh (2020), “Một số giải pháp bảo vệ và phát huy giá trị di sản

văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, Một số kết quả nghiên cứu khoa

học 2019, Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà

Nội, tr. 352-368.

105. Chu Thái Thành (2007), “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”, Tạp

chí Cộng sản, số 14, tr.134.

106. Đinh Thị Thu Thảo (2017), “Phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền

núi - Tiền năng, thách thức”, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 20, tr. 94-98.

107. Bùi Quang Thắng (2017), Hành trình vào văn hóa học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

108. Ngô Đức Thịnh (2014), Giá trị văn hóa Việt Nan - truyền thống và biến đổi,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

109. Ngô Đức Thịnh (2007), “Bảo tồn tồn và phát huy văn hóa phi vật thể”, Tạp chí

Cộng sản, số 15, tr.135.

110. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1270/QĐ-TTg, ngày 27/7/2011,

về việc phê duyệt Đề án bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt

Nam đến năm 2020, Hà Nội.

111. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 1856/QĐ-TTg ngày 27/12/2018,

Về việc Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội KKT Vân

Đồn, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội.

166

112. Vũ Hồng Thuật, Trần Văn Sùng (2019), “Vai trò của cộng đồng trong việc

quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật Xòe Thái Tây Bắc trong xã hội

đương đại”, Tạp chí Văn hóa học, số 6 (46), tr. 25-35.

113. Trung tâm Trao đổi giáo dục Việt Nam (2012), Tài liệu tập huấn phương pháp

tiếp cận phát triển cộng đồng dựa vào nội lực và do người dân làm chủ

(Phương pháp tiếp cận ABCD), Kiên Giang.

114. Nguyễn Thị Kim Thoa (2008), “Những tương đồng ngữ âm giữa tiếng Sán Dìu

ở Việt Nam và tiếng Hán hiện đại”, Tạp chí Ngôn ngữ, (2), tr.43-56.

115. Nguyễn Thị Kim Thoa (2018), Ngữ âm tiếng Sán Dìu, Nxb Đại học quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

116. Kiều Thị Thiên Trang (2018), Bảo tồn và phát huy giá trị trang phục truyền

thống người Sán Dìu tại xã Đạo trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, Luận

văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa, Trường Đại học Sư phạm nghệ thuật Trung

ương, Hà Nội.

117. Ôn Thái Trần (1999), Kinh sách dạy con, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

118. Ôn Thái Trần (2001), Vua bàn cổ, Nxb Kim đồng, Hà Nội.

119. Ôn Thái Trần (2001), Hoi then dip thi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

120. Ôn Thái Trần (2009), Người dẫn đường (những khúc hát Sán Dìu), Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội.

121. Ngô Văn Trụ, Nguyễn Xuân Cần (Chủ biên) (2003), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc

Giang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

122. UNESCO (1972), Công ước Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, họp

phiên thứ 17 tại Paris.

123. UNESCO (2003), Công ước Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, họp phiên thứ

32 tại Paris.

124. UNESCO (2005), Công ước Bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt

văn hóa, họp phiên thứ 33 tại Paris.

125. UBND tỉnh Quảng Ninh (2007), Quyết định số 4071/QĐ-UBND ngày

01/11/2007 của UBND tỉnh Quảng Ninh, về việc phê duyệt Quy hoạch bảo

167

tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ninh đến năm

2010 và định hướng đến năm 2020, Quảng Ninh.

126. UBND tỉnh Quảng Ninh (2016), Quyết định số 1271/2016/QĐ-UBND ngày

28/4/2016, về việc Kiện toàn Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng

Ninh thành Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Quảng Ninh và quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy của Sở Văn hóa và Thể thao

tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh.

127. UBND tỉnh Quảng Ninh (2018), Chương trình hành động số 105/CTr-UBND

ngày 02/8/2018, Triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TU của Ban

Chấp hành Đảng bộ tỉnh về xây dựng và phát triển văn hóa, con người

Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, Quảng Ninh.

128. UBND tỉnh Quảng Ninh (2019), Đề án Hỗ trợ xây dựng, bảo tồn và phát huy

giá trị văn hóa một số làng dân tộc thiểu số gắn với phát triển bền vững tỉnh

Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, Quảng Ninh.

129. UBND huyện Vân Đồn (2020), Quyết định số 1427/QĐ-UBND ngày

26/6/2020 về Phê duyệt Đề án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian

truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai

đoạn 2020-2022, Quảng Ninh.

130. UBND huyện Vân Đồn (2020), Kế hoạch số 1517/KH-UBND ngày 29/6/2020

về Triển khai thực hiện Đề án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian

truyền thống của dân tộc Sán Dìu huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai

đoạn 2020-2022, Quảng Ninh.

131. Lê Ngọc Văn (2019), Khái niệm cộng đồng và văn hóa ứng xử cộng đồng, Tạp

chí Văn hóa học, số 5 (45), tr. 3-7.

132. Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề về bảo vệ và phát triển di sản văn hóa dân

tộc, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

133. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Bảng tra chữ Sán Dìu, Hà Nội.

134. Viện Nghiên cứu miền núi (1999), Du lịch cộng đồng vì bảo tồn và phát triển,

Dự án Bảo tồn vườn quốc gia Cát Tiên, Việt Nam.

168

B. Tài liệu tiếng nước ngoài

135. Arthur Perdesen (2002), Managing Tourism at World Heritage Sites: a Practical

Manual for World Heritage Site Managers (Quản lý du lịch tại các khu di sản

thế giới: Tài liệu hướng dẫn thực tiễn cho các nhà quản lý Khu di sản.

136. Ashworth G.J - Larkham P.J (1994), Building a new heritage: tourism, culture

and identity in the new Europe (Xây dựng một di sản mới: du lịch, văn hóa

và bản sắc mới ở châu Âu), Routledge.

137. Ashworth, G.J., (1997), “Elements of Planning and Managing Heritage Sites”

(Các yếu tố quy hoạch và quản lý di sản) in Nuryanti, W., Tourism and

Heritage Management, Gadjah Mada University Press, p. 165-191.

138. Brian Garrod, Alan Fyall (2000), Managing heritage tourism (Quản lý du lịch

di sản), Annals of tourism research, Vol 27, No 3, p.682-708. 115. Hilary du

Cros & Yok - Shiu F. Lee (2007), Cultural heritage management in China:

Preserving the cities of the Pearl River Delta (Quản lý di sản văn hóa ở

Trung Quốc: Bảo tồn các thành phố của đồng bằng sông Châu), London &

New York, London.

139. Bryan, J. M. (2003), In What to do when stakeholders matter: A guide to

stakeholder identification and analysis technique, London School of

Economics and Political Science. (Phải làm gì khi các bên liên quan quan

trọng: Hướng dẫn về kỹ thuật phân tích và nhận dạng các bên liên quan,

Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị Luân Đôn).

140. Freeman, R. E. (1984), Strategic management: A stakeholder approach:

Boston Pitman. (Quản trị chiến lược: Cách tiếp cận các bên liên quan:

Boston Pitman).

141. Friedman, Andrew L & Miles, Samantha (2006), Stakeholders: Theory and

practice. Oxford: Oxford University Press, (Các bên liên quan: Lý thuyết và

thực hành)

169

142.John Carman & Marie Louise Stig Sorensen (2009), Heritage Studies:

Methods and Approaches (Nghiên cứu di sản: Các phương pháp và cách tiếp

cận), London & New York.

143. Jia Wen (2007), Stakeholder Participation Approach in Urban Cultural Heritage

Management and Conservation (Cách tiếp cận các bên liên quan tham gia trong

quản lý và bảo tồn di sản văn hóa đô thị). Luận văn thạc sĩ về nghiên cứu di sản

thế giới. Brandenburg University of Technology Cottbus, Đức.

144. McKercher, B., & Du Cros, H. (2002), Cultural Tourism – The Partnership

Between Tourism and Cultural Heritage Management (Du lịch văn hóa - Mối

quan hệ giữa du lịch và quản lý di sản văn hóa), The Haworth Hospitality

Press, New York.

145. Peter Howard (2002), Heritage: Management, Interpretation, Identity (Di sản:

quản lý, diễn giải và bản sắc ), Continnuum, London.

147. Stephen P. Ronbbins, Rolf Bergman, Lan Stagg (1997), Management, Prentice

hall, p.6.

148. Zhan Chang Yuan (2010), Culture Industrial management (Quản lý công

nghiệp văn hóa), Tsinghua university.

民院民族研究所出版社.

149. 范宏貴(1986), 越南北方少数族民 (Dân tộc thiểu số phía bắc Việt Nam),

广西民族出版社.

150. 范宏貴(1999), 越南民族和民族问題 (Vấn đề dân tộc và dân tộc Việt Nam),

民族出版社, 2006-7.

151. 范宏貴, 刘志强(2006), 中越边境贸易研究 (Nghiên cứu biên giới Việt - Trung),

152. 陈智睿 (2018),中越跨界民族語言文化概述 (Một số vấn đề văn hóa, ngôn ngữ

dân tộc Việt - Trung), 百色学院学报,第31卷, 第1期, 74-79页.

170

C. Tài liệu Website

153.https://www.irci.jp/wp_files/wpcontent/uploads/2019/04/GUIDELINES_VN-

1.pdf, truy cập ngày 10/11/2019.

154.https://vandon.quangninh.gov.vn/Trang/DanhSachBaiVietGioiThieu.aspx?Cat=

T%C3%A0i+nguy%C3%AAn+thi%C3%AAn+nhi%C3%AAn, Cổng thông

tin điện tử huyện Vân Đồn, Giới thiệu chung/ Tài nguyên thiên nhiên, truy

cập ngày 10/11/2019.

155.https://vandon.quangninh.gov.vn/Trang/ChiTietBVGioiThieu.aspx?bvid=220&

Cat=Di+t%C3%ADch+l%E1%BB%8Bch+s%E1%BB%AD+-

+V%C4%83n+h%C3%B3a Cổng thông tin điện tử huyện Vân Đồn, Giới

thiệu chung/ Di tích lịch sử - văn hóa, truy cập ngày 10/11/2019.

156.https://www.vanhoanghean.com.vn, truy cập ngày 22/12/2018, Lê Thị Minh Lý

(2015), Vai trò của chủ thể và cộng đồng trong việc bảo vệ di sản văn hóa

phi vật thể, đăng trên

157.http://thegioidisan.vn, truy cập ngày 22/02/2019, An Nhiên (2018), Trao quyền

bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể cho cộng đồng và các NGOs, đăng trên

158. http://quydisan.org.vn, truy cập ngày 22/02/2019, Nguyễn Thị Thu Trang,

Cộng đồng với việc bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, đăng trên

159.http://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/bao-ve-va-phat-huy-gia-tri-di-san-van-

hoa-viet-nam-vi-su-phat-trien-ben-vung-491901.html, truy cập ngày

26/6/2020

160.http://www.cema.gov.vn/can-co-giai-phap-thiet-thuc-de-bao-ve-phat-huy-gia-

tri-van-hoa-dan-gian-cac-dan-toc-thieu-so-viet-nam.htm, truy cập ngày

26/6/2020

161.http://vicas.org.vn/articledetail.aspx?articleid=1200&sitepageid=582, truy cập

ngày 26/6/2020.

162.https://vietnambiz.vn/li-thuyet-cac-ben-lien-quan-stakeholder-theory-la-gi-

20200311164333782.htm, truy cập ngày 28/6/2019.

171

Phụ lục 3: DI SẢN VĂN HÓA NGƯỜI SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH MỤC LỤC VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Phụ lục 1: MỘT SỐ BẢN ĐỒ ................................................................... 172 Phụ lục 2: CÁC BẢNG SỐ LIỆU VỀ DÂN SỐ ........................................ 174 ĐỒN ........................................................................................................... 177 Phụ lục 4: PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC VỀ QUẢN LÝ VĂN HÓA 190 Phụ lục 5: KẾT QUẢ THU THẬP THÔNG TIN ..................................... 195 Phụ lục 6: MỘT SỐ HÌNH ẢNH .............................................................. 204 Phụ lục 7: TRÍCH DẪN MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP QUY ...................... 209 QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU

Phụ lục 8DANH SÁCHNHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN, Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH CHUYÊN GIA ........................................................................................... 220

Viết thường

PHỤ LỤC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Hà Nội - 2021

172

MỤC LỤC

Trang

Phụ lục 1: Một số bản đồ…………………………………………... 173

Phụ lục 2: Các bảng số liệu về dân số……………………………... 175

Phụ lục 3: Di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn……… 177

Phụ lục 4: Phiếu điều tra xã hội học về quản lý văn hóa phiếu thu

thập thông tin………………………………………………………. 191

Phụ lục 5: Kết quả thu thập thông tin kết quả điều tra…………….. 196

Phụ lục 6: Một số hình ảnh………………………………………… 204

Phụ lục 7: Trích dẫn một số văn bản pháp quy……………………. 210

Phụ lục 8: Danh sách những người cung cấp thông tin, chuyên gia. 220

173

Phụ lục 1: MỘT SỐ BẢN ĐỒ

Bản đồ 1: Địa giới huyện đảo Vân Đồn (Nguồn: Địa chí Quảng Ninh, tập 1, tr. 90)

174

Bản đồ 2: Điều chỉnh quy hoạch sử dựng đất đến năm 2020 huyện đảo Vân Đồn

(Nguồn: NCS chụp tại UBND xã Bình Dân, tháng 8/2020)

175

Phụ lục 2: CÁC BẢNG SỐ LIỆU VỀ DÂN SỐ

PL2.1. Số dân dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh

TT Địa phương Tỷ lệ (%)

Dân số (người) 1,161 Thành phố Hạ Long 1 5.61

Thành phố Móng Cái 197 2 0.95

Thành phố Cẩm Phả 6,227 3 30.12

4 4.70 Huyện Đầm Hà 972

5 2.03 Huyện Hải Hà 421

6 9.92 Huyện Tiên Yên 2,051

7 0.99 Huyện Ba Chẽ 205

8 0.13 Huyện Bình Liêu 28

9 24.10 Huyện Vân Đồn 4,982

10 0.23 Huyện Cô Tô 48

11 15.87 Huyện Hoành Bồ 3,281

12 4.58 Thị xã Đông Triều 947

13 Thành phố Uông Bí 98 0.47

14 0.24 Thị xã Quảng Yên 50

100 TỔNG 20,668

(Nguồn:Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01/4/2019;

Cục Thống kê tỉnh Quảng Ninh)

176

PL 2.2. Thành phần DTTS huyện đảo Vân Đồn

TT Dân tộc Dân số (người) Tỷ lệ (%)

Sán Dìu 4.893 10.66 1

2 Tày 188 0.4

3 Hoa 359 0.78

4 Dao 920 2.0

5 Mường 94 0.16

6 Thái 61 0.13

7 Nùng 54 0.11

8 Sán Chay 22 0.04

9 11 0.02 Các dân tộc khác

14.3 TỔNG 6.602

(Nguồn: Theo Báo cáo chính trị Đại hội DTTS năm 2019)

177

Phụ lục 3: DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN

PL 3.1. Trình tự của Lễ hội Đại phan và một số đặc trưng tiêu biểu * Ngày thứ nhất - Buổi sáng + Dựng gác vương đàn và Ngũ nhạc lầu (đàn tế và lầu nhạc), trang trí. + Phong sơn triều và Khởi mã triều (chuẩn bị nghi lễ cúng sơn thần thổ đại). - Buổi chiều + Lễ dự cáo triều và phong sơn triều (tổ chức lễ cúng sơn thần thổ địa, cẩn

báo tổ chức lễ hội).

+ Lễ lập phướn (dụng thí phan): Thí Phan làm bằng cây tre tươi to và dài suốt ngọn. Trên đỉnh chót của Thí Phan treo một tấm phan màu đỏ dài theo cây, tấm vải này tượng trưng cho chiếc cầu nối âm dương, mặt đất và các tầng trời.

* Ngày thứ hai - Buổi sáng: + Lễ chém thảo triều, lễ rước thành hoàng, lễ dựng cây treo phướn. - Buổi trưa: + Lễ ngọ triều (củng cơm trưa), ăn trưa. - Buổi chiều: + Lễ mãn triều, phát tấu (lễ cúng cơm chiều). - Buổi tối: + Lễ ngũ đại thiên vương, chạy đàn, múa hành quang + Vui chơi, văn nghệ, hát Soọng cô. * Ngày thứ ba - Buổi sáng: + Khởi mã triều, mổ trâu, giết lợn tế thần. - Buổi chiều: + Lễ leo gươm (dựng cây leo gươm, cây nêu âm dương và làm nghi lễ

leo gươn)

- Buổi tối: + Giao lưu văn nghệ (dàn dựng chương trình văn nghệ 60 phút gồm các loại hình văn hóa văn nghệ đặc sắc của các địa phương toàn Huyện); chay đàn, đốt củi, chuẩn bị cho lễ lội than. +Lễ cấp sắc.

178

+ Lễ lội than. - Giã hội. Về dân vũ: Các điệu múa ít thấy hiện hữu trong đời sống sinh hoạt của đồng bào như một hình thức giải trí, mà các điệu múa, nhảy chủ yếu thực hành trong các nghi thức cúng tế trong tín ngưỡng dân gian (lễ Đại phan, cấp sắc, ma chay, giải hạn...); múa hành quanh tiếp thánh (hang coong chép sệnh), chạy đàn (kết lạy than), dâng đèn (bỉn tanh), múa gậy (lại thẹt sóng), múa cờ (théo khí), múa tù và linh đao (théo ngói coọc lếnh tao), múa gà (théo cay), nhảy ngũ phương (théo ngú pong), nhảy triều (théo séo)...

Về điêu khắc - hội họa: Hai loại hình nghệ thuật dân gian này còn khá khiêm tốn, phạm vi và nhu cầu sử dụng cũng tương đối hẹp, không phải là những vật để trang trí nhà cửa. Đặc biệt, những sản phẩm tượng, ấn, tranh đều là những vật linh dùng trong tín ngưỡng dân gian.

Tượng dùng trong tín ngưỡng là các tượng: Thích Ca Mâu Ni Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Bát Đại Kim Cương, rồng, cóc... Chất liệu để tạc lên những bức tượng này cũng khá đa dạng, có thể là gỗ, đồng, đá. Ấn và lệnh bài dùng trong việc thực hành tín ngưỡng, tùy theo tính chất của buổi lễ mà có dấu thích hợp như: làm chay, giải hạn thì dùng dấu Phật; cấp sắc, Đại phan, ma chay... dùng cả dấu Phật và dấu của Đạo giáo. Dù làm lễ to hay nhỏ, đã dùng dấu thì phải dùng cùng với lệnh bài của thầy. Dấu và lệnh bài được khắc bằng gỗ, người chuyên khắc ấn và lệnh bài thường chọn các loại gỗ nhẹ và dai để tạo độ bền.

Tranh thờ được dùng trong tín ngưỡng dân gian. Những gia đình làm thầy cúng có thờ bộ tranh Tam thanh treo trên ban thờ gian chính giữa nhà. Bộ tranh Tam thanh có hai loại, gồm: nhất họa nhất thần, tức là bộ tranh có ba bức tranh, mỗi bức tranh chỉ họa một vị thần; loại thứ hai: nhất họa đa thần, bộ tranh có ba bức tranh, mỗi bức tranh đều có một vị thần chủ và đoàn tùy tùng phụng sự và họa thêm các con vật, đồ vật phục vụ các vị thần chấp sự.

Một bộ tranh dân gian dùng trong tín ngưỡng có 24 bức tranh, được chia làm hai loại: tranh cúng chay và tranh cúng mặn, hay còn gọi là tranh Phật giáo (cúng chay) và tranh Đạo giáo (cúng mặn).

Khi đến tiết lễ cúng chay, thầy cúng làm lễ mở và treo tranh, sau đó cung thỉnh Tam bảo cùng chư Phật. Lễ vật có hoa quả, cháo trắng..., thường dùng trong các lễ ma chay, Đại phan, tạ long thần, thổ địa, giải hạn... Lễ cúng mặn là thầy cúng làm lễ mở tranh và cung thỉnh Tam bảo, thánh, thần về chứng giám. Lễ vật thường tùy vào tính chất buổi lễ mà có tam sinh, ngũ sinh...

Các bức tranh đều có kích cỡ rộng 50cm, dài 70cm. Trong tranh thờ dân gian

179

chủ yếu có các bộ tranh như: Tam thanh (Sam sênh), Tam bảo (Sam báo), Ngũ quan (Ngú cun), Ngũ quỷ (Ngú củi), Thành hoàng (Thai Voóng), Tổ tiên (Chú sen)...

PL 3.2. Truyện cổ về nguồn gốc Soọng cô3 Xưa kia, nhà có mấy anh em, Lưu Tam Muội là con gái út trong gia đình ở Quảng Đông cô là cô gái miền sơn cước xinh đẹp như tiên, có tiếng hát ngọt và trong như suối ngân giữa đại ngàn. Nghe tin cô Lưu Tam Muội có tài hát hay, hát giỏi chưa có ai hát hay hơn cô. Một hôm, có ba anh họ Đào, họ Lê, họ Lý ở Quảng Tây chở ba thuyền sách sang để gặp cô Lưu Tam Muội cùng nhau thi tài hát giao duyên. Khi ba chàng trai xuôi dòng sông trong xanh xuống Quảng Đông gặp một cô thôn nữ đang quẩy gánh lấy nước, ba chàng trai liền hỏi thăm đường đến nhà Lưu Tam Muội. Lưu Tam Muội liền nói: nếu ba anh hát đối được bài hát của cô thì sẽ chỉ đường đến nhà Lưu Tam Muội cho.

Lưu Tam Muội hát:

Sẹng Thao mạo kẹn thao pha phát Sẹng Lỷ mạo kẹn lỷ pha hoi Sẹng Lay mạo kẹn lay thén thi Sam chạc thai cô nả lói

Dịch

Họ Đào chưa thấy hoa đào nở Họ Lý chưa thấy hoa mận ra Hộ Lê chưa thấy cày ruộng đất Hỏi ba anh đến từ nơi nao

Với tài hát đối đáp xuất chúng của cô Lưu Tam Muội, ba anh đã tìm trong từng cuốn sách hát mà không thể đối được, tức giận các anh đã bỏ ba thuyền sách xuống sông rồi về Quảng Tây. Cô Lưu Tam Muội thấy tiếc ba truyền sách liên lấy đòn gánh nước quẩy vớt được mấy quyên sách hát và được cô truyền đến bây giờ.

Từ ngày vớt được mấy cuốn sách hát về cô Lưu Tam Muội càng say xưa ca hát và ngày ngày có nhiều người tìm đến để được hát cùng cô. Anh trai cô tức giận lắm vì thấy em gái mình không chụi làm lụng chì chỉ suốt ngày ca hát và tiếp khách. Anh trai mắng cô, cô đáp lại lời anh bằng tiếng hát.

3 Theo lời kể của NNDG Tô Thị Tạ, thôn Đầm Tròn, xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

Thai cô lao mói hy lao lén Thai cô lao mói háo cheo hạt Mói mú cheo hạt hạt mú loi Ông tách loỏng nén mói hỵ cạ

180

Thai cô ộc hạ sọng sênh soi

Dịch

Anh mắng em hay tiếp khách Em không tiếp khách khách không đến Đợi hai năm em đi lấy chồng Thềm nhà anh đã mọc đầy rêu

Khi cô gái hát xong anh trai tức lắm không làm gì được nên anh nghĩ cần phải nghĩ ra cách gì đó để có việc cho cô em mình làm. Anh trai liền nhặt một rổ đá cho vào chảo đun khi nào đá bung nở thì vớt lên đem cheo trên bờ dào rồi em mới được đi đâu thì đi.

Thai cô sen kém cọi sọc thói bí mói chen Chen sộc sạc thói cạ pẹt sọng Thai cô bì mói hi lao lén

Dịch

Anh tức quá, anh nhặt đá cho em ninh Em đun nở bung chín đá Anh mới cho em đi chơi

Anh lên nhà, cô Lưu Tam Mói liền nhặt cử từ bỏ đá đi và cho củ từ vào chảo

đun cho củ từ nở ra rồi vớt lên đem đi cheo cọc dào rồi đi chơi xuân.

Một hôm cô Lưu Tam Muội cùng chị dâu đi cấy lúa, khi ra đồng chị dâu cấy lúa còn Lưu Tam Muội thì ngồi trên cây cau hát, chị dâu tức lắm nhưng không nói gì chỉ có cấy đường của mình và để lại đường cấy của cô Lưu Tam Muội. Chiều về đến nhà chị dâu kể lại chuyện đi cấy cho chông nghe: em gái của anh đi cấy mà không cấy chỉ ngồi hát tối giận lắm nên tôi để lại phần của nó không tin anh đi mà xem. Anh trai cô Lưu bèn vác cuốc ra đồng thăm xem thực hư thế nào. Khi ra đến ruộng anh trai thấy ruộng cấy đã cấy hoàn chỉnh và rất đẹp nữa. Khi về nhà anh chông với với vợ là tôi đã đi kiểm tra và thấy ruộng cấy đã xong và rất đẹp. Thì ra khi chị dâu về, cô Lưu Tam Muội được các nàng tiên trên trời xuống cấy giúp nên ruộng cấy mới xong và cấy đẹp đến thế.

1. Mùa xuân hoa Mận ngày ngày nở Cành hòa Đào ngày ngày nở thắm Nhà nông ngày mùa cày cấy tốt Anh ở Quảng Tây (Đông) sang em chơi 2. Em là cô gái Lưu Tam Muội Em ở Quảng Đông, Nam Ninh thôn

181

Ba thuyền sách hát biết không hết Không biết bài nào là của em 3. Em là cô gái Lưu Tam Muội Em ở Quảng Đông, Nam Ninh thôn Ba thuyền sách hát biết không hết Bài hát hay ngân vang đất trời 4. Em là cô gái Lưu Tam Muội Em ở Quảng Đông sang đây chơi Hôm nay em đến làng anh chơi Cùng nhau vui hát hái hoa xuân 5. Em là cô gái Lưu Tam Muội Anh ở Quảng tây đi đón em Hôm nay em đến làng anh chơi Cùng nhau vui hát đón xuân sang 6. Em là cô gái Lưu Tam Muội Bài hát hay nhiều người đến chơi Anh nay chưa biết tâm tình em Biết được tình em cùng vui chơi 7. Đôi ta có tình cùng vui chơi Cùng đi cùng về hái hoa chơi Đôi ta có tình chung một ý Đôi ta có tình chung một lối 8. Em là cô gái Lưu Tam Muội Em là cô gái Quảng Đông thôn Ba thuyền sách hát chưa biết hết Thiên hạ nghe thấy mát trong lòng 9. Em là cô gái Lưu Tam Muội Bài hát cất lên mát lòng anh Bài hát cất lên đi đón em

182

Không biết nơi nao mà tìm 10. Em nay ở tại Quảng Đông thôn Bài hát cất lên mát lòng người Em ở Quảng Đông tới làng anh Bài hát cất lên thương người ơi. 11. Em có bài hát hát với anh Bài hát cất lên mát lòng anh Hôm nay em đến làng anh chơi Cùng nhau vui chơi cùng nhau ca hát 12. Em ở Quảng Đông anh Quảng Tây Vườn hồng hé nở rực sắc thắm Em với hoa lại anh đưa đi Với đi với lại lại gặp nhau 13. Đôi ta có tình chung một ý Vườn hồng hé nở rực sắc thắm Anh muốn hái một cành hoa hồng Đôi ta có duyên sẽ gặp nhau 14. Đôi ta có tình chung một ý Com bướm bay đi tìm hoa rừng Tìm đến hoa nở chưa kết trái Nụ hoa dơi xuống thật tiếc thay 15. Đương thời mười tám không gặp anh Nay thì tuổi già không thành đôi Nụ hoa dơi xuống theo nước trôi Duyên ta thấy hoa hái không được 16. Cô gái sơn nữ thật thông minh Em ở Quảng Đông đường xá xa Hôm nay em đến làng anh chơi Có tình có nghĩ không muốn về

183

17. Anh ở muôn phương đường xa đến Nghe bài em hát lòng xôn xao Hôm nay em đến làng anh chơi Nghe thấy bài hát em đến chơi Từ ngày bỏ lỡ lời mời của ba chàng trai đến xin hát, cô Lưu Tam Muội tiếc lắm, hối hận vì đã không mời được các chàng trai phương xa vào làng hát. Những cuốn sách vớt được, cô đã học thuộc và sáng tác được rất nhiều bài hát hay. Ngày này qua ngày khác, rồi năm này qua năm khác, cô chỉ say mê hát. Khi cô Lưu Tam Muội chết, nhân dân tôn cô là thánh ca và các bài hát của cô được lưu truyền đến ngày nay.

4 NNDG Tô Thị Tạ, thôn Đầm Tròn và NNDG Trương Thị Choong thôn Vòng Tre, xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh cung cấp.

PL 3.3. Hát Soọng cô khi đến làng bạn chơi4 Nội dung của Soọng cô rất phong phú, thể hiện sự đa dạng và độc đáo trong văn nghệ dân gian của người Sán Dìu. Soọng cô không bài hát nào giống bài hát nào, không giọng ca nào giống nhau, tất cả đều có đặc trưng riêng thể hiện cho tâm hồn, tình cảm và khát vọng con người, họ hát vào thời điểm nông nhàn, lễ hội hay các đám cưới, hỏi thanh niên nam, nữ người dân tộc Sán Dìu thường rủ nhau đi hát Soọng Cô. Qua mỗi làng họ dừng lại hát một đêm hay nhiều đêm rồi cùng rủ nhau đến các làng khác để hát. Nam hát Duộn xuân nhoong chỉ ký si tậu Ký si lu ôi tậu nguôi mậu ti Loong lỉ hị lan mậu huội ổc Síu kin táp huội nguôi muôn mi. Duộn xuân nhoong chỉ ký si tậu Ký si lu ôi tậu nguôi mậu liên Loong lỉ hị lan mậu huội ổc Síu kin táp huội nguôi muôn liêng. Dịch Nơi xa nàng đến khi nào Đến khi nào mà anh không biết, Anh đi làm ở đồi núi xa, Khăn mặt anh vắt trên cánh cửa.

184

Nữ hát Ki mản nhoong luôi tậu nỉ ca Kiện loong cô hiếng luôn di ma Nguôi da li liêng mậu hểnh sọong Kiên loong thuôi sọong sáp, kim pha Ki mản nhoong luôi tậu nỉ ca Kiện loong cô hiếng luôn di ma Nguôi da li liêng mậu hểnh sọong Kiên loong thuôi sọong sáp, kim pha Dịch Tối nay em đến nhà chàng Thấy chàng hát mà lòng em xao xuyến Bình thường em không hay hát Em thấy chàng đẹp trai, hay hát nên muốn hát cùng. Nam hát Thuôi soong sáp pha hai nghi sáp Síu soọng chuôi liên hai nghi chuôi Loong hai phin không liéu ốc ngí Ná lộ kim pha sáp soọng thuôi Thuôi soong sáp pha hai nghi sáp Síu soọng chuôi liên hai nghi chuôi Loong hai phin không liéu ốc ngí Ná lộ kim pha sáp soọng thuôi Dịch anh đẹp trai cũng là em khen Bàn tay kheo léo cũng do em đặt Anh sinh ra trong gia đình nghèo khó Đâu Có gì đẹp để em khen. Nữ hát Sọong thiêu sênh cô hô xuân thuôi Xuân thuôi xuân mỉ vât nuôi nuôi Loong xuân dịu tuôi hú dông si Nhoong luôi lu duộn tếch cha thuôi.

185

- Sọong thiêu sênh cô hô xuân thuôi Xuân thuôi xuân mỉ vât nuôi nuôi Loong xuân dịu tuôi hú dông si Nhoong luôi lu duộn tếch cha thuôi. Dịch Em hát bài tình cảm hô dân làng Đầu làng, cuối xóm đâu đâu cũng đẹp Xóm chàng có cây to bóng mát Em từ xa đến được che đầu (che nắng, che mưa). Trước những lời hát ca ngợi quê hương ngọt ngào từ cô gái chàng trai đáp lại: Nam hát Nhoong hai sông mênh sếch lị ngỉ Sọong cô luôi hô nguôi xuân thuôi Loong xuân dịu tuôi hú dông si Nhim nhoong cha hị du cha fuôi. - Nhoong hai sông mênh sếch lị ngỉ Sọong cô luôi hô nguôi xuân thuôi Loong xuân dịu tuôi hú dông si Nhim nhoong cha hị du cha fuôi. Dịch Nàng thông minh, khéo léo, hiểu lí lẽ Hát bài ca ngợi đến làng anh Làng anh có cây to che mát Nàng thích che đi rồi che lại. Nữ hát Soọng thiêu sênh cô hô chí muôi Lị piên chí muôi sộ muôi muôi Lị piên chí muôi muôi muôi sộ Chịa thiêu liếu lu liêu pha huôi - Soọng thiêu sênh cô hô chí muôi Lị piên chí muôi sộ muôi muôi

186

Lị piên chí muôi muôi muôi sộ Chịa thiêu liếu lu liêu pha huôi Dịch Hát bài tình cảm gọi chị em Bốn bên chị em ngồi gần gần Bốn bên chị em ngồi gần lại Mượn nơi đây để hát soọng Đôi trai gái hát rất nhiều, họ có cảm tình với nhau và cất lên tiếng hát ngọt

ngào cho đối phương của mình.

Nữ hát Phac cuôi si thuốc thạn sun cu Nhoong chỉ mậu lôông long mậu hu Sai cat u hai tan sin cuôi Lâu nghi kiết long ngi hai mu. Dịch Em chưa có chồng chàng chưa vợ Cả hai đều chưa sánh cùng ai Kết đôi cùng chàng chàng có chịu không. Nam hát Nguôi da hêếnh Cheếch phạ kí long dịu lông hu Cheếch phạ kí lông dịu long tuội Nghi hêếnh saac long liên nguôi mu. Dịch Anh cũng muốn Anh chỉ sợ nàng đã có chồng (có đôi) Anh chỉ sợ nàng đã có đôi Nàng đã có đôi nàng có chịu kết đôi cùng ta. Nữ hát Sác mao vuôn lá da dông di Sác lôông liêên ngi da mênh si Ngin hô ông sê ểnh muôi dip ốc mun Tuội miên mậu liên tậu kỉ si. Dịch

187

Rỡ nhà đổi danh còn đơn giản Bỏ chồng để lấy anh vẫn chưa muộn Người ta còn thuê người làm mối đến nhà Hai ta đối mặt đợi đến khi nào. Nam hát Kỉ mản têếch hôông háo pha liên Huộn kiện liên pha mậu tếếch liên Muốn tếênh thiên thi luôi phuội hap Têếch kiết sêênh long huội ngạn xiên. Dịch Tối nay được gặp chàng đẹp trai Muốn lấy làm chồng nhưng không lấy được Ước gì trời đất cho mình kết duyên Được kết sánh đôi cùng chàng. Nam hát Kỉ mản tếếch hôông nguôi lim huôi Háo pha mậu tểêch không duôn chuôi Háo xuôn mậu tểêch không xuân xi Không xuân xi loọc tếch uôn diên. Dịch Tối nay được gặp nàng anh rất mừng Nàng đẹp mà anh không được sánh cùng. Nữ hát Mi kiêu ngạn lại quân in hút Sêênh loong lang tếêch sị liên pha Loong sin lang têếch chôông nhoong i Loong niệm diếp dị coong hún sa. Dịch Chàng đẹp trai như một bức vẽ Chàng đẹp trai như một cành hoa Dáng người chàng làm em vừa ý Chàng đẹp như được tô điểm phấn son. Nam hát

188

Nhoong uội mên phac piên sa hủn Nhoong uội thuôi hôông piên sáp pha Nhoong uội lieu thiêu siếu sêch pan Ngi uội hôông liu cháo chị ca. Dịch Nàng muốn đẹp trang điểm phấn son Nàng muốn đầu đẹp phải cài hoa Nàng muốn duyên dáng phải ăn điều độ (ít cơm) Nàng mốn vô tư phải lấy chồng sớm. Nữ hát Thiên coong liếu Moong cộ nam lan chôốc diêp voong Chôốc diêp voong voong hai nguôi ốc Liu li ngá khuội hai long phoong Dịch Trời đã sáng Nhìn sang hướng nam là tre vàng Lá tre vàng vàng là nhà của em ng ôi nhà ngói đỏ là nhà của chàng. Chàng trai hiểu được nỗi nhớ nhà của cô gái nhưng anh muốn níu giữ nàng

lại, giữ ở lại mấy ngày để tìm cách đưa nàng về tận nhà:

Nam hát Liu nhoong chuộn Liu nhoong si chuộn nguôi xuân thuôi Si chuộn xuân thuôi lam ngu ngit Man man lộ xuân lộng nhoong phuôi Dịch Giữ nàng lại Giữ nàng ở lại làng anh Ở lại làng anh ba, năm ngày Từ từ lấy thuyền đưa nàng về nhà. Nữ hát Mậu lấy liu nhoong nhoong da chuận Nhoong kim si chuận nghi xuân thuôSi chuận xuân thuôi lam ngu ngít

189

Loong mậu loộng nguôi nguôi mậu phuôi. Dịch Không giữ em cũng ở lại Em sẽ ở lại làng của chàng Ở lại làng chàng ba đến năm ngày Chàng không tiễn em, em cũng về. Chàng trai thấy nuối tiếc chưa nói chuyện nhiều, chưa hát được nhiều cùng cô gái. Trời đã sáng chàng suy nghĩ không biết phải làm thế nào, một phần chàng muốn đi theo, một phàn chàng muốn ở nhà phụng dưỡng cha mẹ. Khi cô gái về chàng trai dặn.

Nữ hát Kin chiêu sút muôn gia hun hụ Hun hụ háo liên tại chảc cui Soong duôn li lan mậu ngin pủ Ha duôn li lan mậu min vui. Dịch Sáng nay ra cửa cha mẹ dặn Dặn em đi chơi phải đưa chàng về Trên vườn rào rách không ai vá Dưới vườn rào rách không ai rào. Nam hát Nhoong hị cui Cíu cíu du chuộn la ha loong Mậu mút pí nhoong chạ síu lịn Cấy duôn cam chạ du meênh soong Dịch Nàng đi về Lâu lâu nàng lại đến thăm anh Anh không có gì cho nàng làm tin Vườn mía chưa được mọc dài Nữ hát Nhoong muổn teếch Muổn teếch lâu loong không ít xuân Muôn teếch lâu loong không ít ốc Lấu loong không ốc không thai

190

Dịch Em muốn được Muốn mình được ở chung một làng Muốn cùng chàng ở cùng một gia đình Cùng chàng chung nhà chung cổng vào. Nam hát Nhoong cui hị Mun nhoong cui hị kí si luôi Kí si nhoong luôi cóong nguôi thiệng Mại phiên pi noong mại phiên luôi. Dịch Nàng về đi Hỏi nàng đi về bao giờ đến Bao giờ nàng đến cho anh biết Mua sẵn trầu cau để đón nàng. Nữ hát Nhoong hị cui Sô ít mậu luôi sô ngi luôi Sô lam mậu luôi mậu lấy liếng Sông dịu háo pha phiết sị chuôi. Dịch Em đi về Mùng một không đến mùng hai đến Mùng ba không đến chàng đừng mong Bên em đã có người khác rồi. Nam hát Liên nhoong mậu tẩu lôộng nhoong hị Lậng nhoong hị tậu thai lôi choống Lộng tậu lu choông liêng hun síu Miên xiên ngạn lui loóc lôông long Dịch Giữ nàng không được tiễn nàng về Tiễn nàng đi được một quãng đường xa Tiễn được một quãng phải tạm biệt nhau Nước mắt hai ta chảy ròng ròng.

191

Phụ lục 4: PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC VỀ QUẢN LÝ VĂN HÓA

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN "Quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh" (Đối tượng: Người dân)

Thưa các Quý Ông, Bà Phiếu điều tra này được sử dụng để hỏi ý kiến của ông/bà về việc quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu hiện nay nhằm củng cố tính cố kết cộng đồng, tinh thần đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển. Ông bà vui lòng đánh dấu (X) cho những câu trả lời theo ông/bà là phù hợp.

Kính mong ông/bà dành thời gian để trả lời phiếu điều tra này.

Trân trọng cảm ơn! I. THÔNG TIN CHUNG 1. Họ và tên……………………………………………………………………

Nữ

2. Năm sinh…………………………… 3. Giới tính: Nam 4. Dân tộc:

Sán Dìu

Kinh

Khác (xin ghi rõ)………….

5. Địa chỉ: Thôn/bản………………………………..Xã/phường….......………………… Huyện/Thị xã/Thành phố………………………………………..…………… 6. Trình độ văn hóa

Không biết chữ

Hết Tiểu học

Hết Trung học cơ sở

Hết Trung học phổ thông

7. Trình độ chuyên môn

Sơ cấp

Trung cấp

Cao đẳng

Đại học

Sau Đại học

192

8. Ông/bà hiểu biết như thế nào về các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình hay không?

Biết rất nhiều

Biết nhiều

Biết ít

Biết rất ít Không biết

9. Theo ông/bà những giá trị văn hóa nào của người Sán Dìu hiện nay gia đình ông/bà còn lưu giữ? (trả lời theo mức độ: 1.Không thay đổi so với nguyên bản; 2. Ít thay đổi so với nguyên bản; 3. Thay đổi nhiều so với nguyên bản; 4. Hoàn toàn thay đổi so với nguyên bản; 5. Không biết)

1

2

3

4

5

Kiến trúc đình miếu

Lễ Đại phan

Dân ca

3

4

5

1

2

10. Theo ông/bà những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu dưới đây mà ông/bà cảm thất tự hào và cần phải giữ gìn, phát huy? (trả lời theo mức độ: 1.Rất tự hào, 2 Tự hào, 3. Ít tự hào, 4, Không tự hào; 5. Không biết) Kiến trúc đình, miếu

Lễ Đại phan

Dân ca

11. Theo ông/bà những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu bị mai một do nguyên nhân nào? (có thể chọn nhiều phương án và xếp theo mức độ quan trọng từ 1 đến 5)

Ông bà, cha mẹ không chú tâm truyền dạy cho con cháu

Con cháu không chịu học

Do thiếu kiến thức kinh nghiệm bảo tồn

Do chính quyền không quan tâm hỗ trợ

Không phù hợp với lối sống hiện nay

Lý do khác (xin ghi rõ)…………………………………………

193

12. Theo ông/bà, con cháu không chịu học những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu do nguyên nhân nào? (có thể chọn nhiều phương án và xếp theo mức độ quan trọng từ 1 đến 5)

Bận công việc, học tập

Cho rằng lỗi thời,lạc hậu

Có biết cũng không dùng đến

Không phù hợp với lối sống hiện nay

Lý do khác (xin ghi rõ)……………………………………

13. Theo ông/bà ở địa phương có hoạt động du lịch thì ông/bà có muốn tham gia vào hoạt động du lịch để giới thiệu bản sắc văn hóa của dân tộc mình với du khách tạo ra nghề mới có thu nhập ổn định hay không? (trả lới phương án 1, 2 hỏi tiếp câu 17a, trả lới phương án 3, 4 hỏi tiếp câu 17b)

2. Cần thiết

3. Không cần thiết

1. Rất cần thiết

5. Không biết

4. Rất không cần thiết 14a. Ông/bà thấy cần thiết có hoạt động du lịch ở địa phương thì ông/bà quan tâm đến những vấn đề gì?(trả lời theo mức độ: 1.Rất quan tâm; 2. Quan tâm; 3. Ít quan tâm; 4. Không quan tâm; 5. Không biết)

1

3

4

5

2 Những mong muốn khi tham gia vào hoạt động du lịch Có một nghề nghiệp mới ổn định

Nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống

Có kinh phí để bảo tồn và phát huy văn hóa của dân tộc Giới thiệu du khách về văn hóa dân tộc mình

Hưởng lợi từ hạ tầng xã hội khi du lịch phát triển Khả năng của gia đình khi tham gia vào hoạt động du lịch Cung cấp thực phẩm đặc trưng của vùng

Cung cấp dịch vụ vận chuyển

194

Cung cấp dịch vụ lưu trú

Cung cấp dịch vụ ăn uống

Cung cấp dịch vụ trải nghiệm

Cung cấp dịch vụ hướng dẫn

Bán hàng lưu niệm, đặc sản

Dịch vụ khác……………………………

Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Kiến trúc đình, miếu

Lễ Đại phan

Dân ca

Bồi dưỡng nâng cao kiến thức về văn hóa dân tộc và nhiệp vụ du lịch Học tiếng Sán Dìu

Học phong tục - tập quán văn hóa Sán Dìu Học ngoại ngữ

Học nghiệp vụ hướng dẫn viện du lịch

Học tập kinh nghiệm, thực tế

Học nghiệp vụ quản lý nhà hàng, khách sạn Loại hình khác…………………………..

14b. Lý do nào ông/bà thấy không cần thiết có hoạt động du lịch ở địa phương? (có thể chọn nhiều phương án và xếp theo mức độ quan trọng từ 1 đến 8)

1. Đang có nghề nghiệp ổn định và có thu nhâp tốt

2. Kinh doanh du lịch không hiệu quả

3. Không biết kinh doanh du lịch

4. Thiếu vốn để kinh doanh

5. Không có kiến thức và kinh nghiệm

195

6. Làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc

7. Tệ nạn xã hội gia tăng 8. Lý do khác (xin ghi rõ) 15. Theo ông/bà để bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu gắn với phát triển du lịch thì cần phải làm gì? ………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… 16. Ông/bà có kiến nghị đề xuất gì với chính quyền địa phương? ………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………

Người phỏng vấn: (Ký và ghi rõ họ tên)

.........., ngày ....... tháng ....... năm 2019 Người điền phiếu

196

Phụ lục 5: KẾT QUẢ THU THẬP THÔNG TIN KẾT QUẢ ĐIỀU TRA "Quản lý di sản văn hóa dân tộc Sán Dìu ở huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh" (Đối tượng: Người dân)

I. THÔNG TIN CHUNG

- Đối tượng điều tra: người dân và cộng đồng tại điểm nghiên cứu.

- Tổng số phiếu phát ra: 215; tổng số phiếu thu về: 215; tổng số phiếu

đạt yêu cầu: 213.

- Cách thức thu thập thông tin: Trực tiếp xuống xã Bình Dân báo cáo

lãnh đạo xã tạo điều kiện điều tra tại các thôn trong xã có đông người Sán Dìu

sinh sống, có sự hỗ trợ của cán bộ Văn hóa - Xã hội. Hình thức phỏng vấn

diễn ra tại nhà dân. NCS đã hướng dẫn cán bộ Văn hóa xã cùng tham gia

phỏng vấn trực tiếp người dân theo từng nội dung trong phiếu điều tra.

Các phiếu điều tra sau khi thu về sẽ qua xử lý sơ bộ nhằm làm sạch

bảng hỏi và loại các phiếu không đạt yêu cầu. Các phiếu đạt yêu cầu sẽ được

sử dụng và xử lý bằng phương pháp thống kê mô tả để có được kết quả phục

vụ việc đưa ra các nhận định, đánh giá và phân tích khoa học.

Độ tuổi

Tỉ lệ %

II. KẾT QUẢ THỐNG KÊ 1. Họ và tên: không thống kê 2. Độ tuổi người trả lời phỏng vấn Số lượng (người)

18-30 31-40 41-50 51-60 trên 60 Tổng

7,0 27,7 18,8 17,4 29,1 100

15 59 40 37 62 213

197

3. Giới tính người trả lời phỏng vấn Giới tính

Số lượng (người)

Tỉ lệ %

Nam Nữ Tổng

112 101 213

52,6 47,4 100

4. Thành phần dân tộc người trả lời phỏng vấn

Dân tộc

Tỉ lệ %

Số lượng (người)

Sán Dìu

213

100

5. Địa chỉ người trả lời phỏng vấn

Địa chỉ

Tỉ lệ %

Số lượng (người)

51 28 46 26 62 213

Đồng Đá Đồng Dọng Đồng Cống Đầm Tròn Vòng Tre Tổng

24,0 13,1 21,6 12,2 29,1 100

6. Trình độ học vấn của người trả lời phỏng vấn

Trình độ

Tỉ lệ %

Số lượng (người)

41 66 55 51 213

Không biết chữ Hết Tiểu học Hết trung học cơ sở Hết Trung học phổ thông Tổng

19,2 31,0 25,8 23,9 100

198

7. Trình độ chuyên môn của người trả lời phỏng vấn

Trình độ

Tỉ lệ %

Số lượng (người)

Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng Đại học Không trả lời Tổng

7 13 10 19 164 213

3,3 6,1 4,7 8,9 77,0 100

8. Ông/bà hiểu biết như thế nào về các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình hay không?

Món ăn truyền thống

Kiến trúc đình miếu

Trang phục truyền thống

Giá trị

SL

%

SL

%

SL

%

80 75 44 9 5 0

31 67 58 18 37 2

Biết rất nhiều Biết nhiều Biết ít Biết rất ít Không biết Không trả lời Tổng

37,6 35,2 20,7 4,2 2,3 0 213 100,0

14,6 31,5 27,2 8,5 17,4 0,9 213 100,0

41 46 60 5 33 28 213

19,2 21,6 28,2 2,3 15,5 13,1 100,0

8. Ông/bà hiểu biết về phong tục - tập quán của dân tộc mình hay không?

1.Tiếng nói

2. Lễ cấp sắc

5. Dân ca

4. Lễ Đại phan

Giá trị

3. Lễ tết truyền thống

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL %

74 87 52 0 0 0 213

34,7 40,8 24,4 0 0 0 100

137 33 17 0 16 10 213

64,3 150 46 15,5 0 8,0 17 0 0 7,5 4,7 0 100 213

70,4 21,6 0 8,0 0 0 100

145 25 0 33 0 10 213

68 68,1 37 11,7 51 0 18 15,5 16 0 4,7 23 100 213

31,9 17,4 23,9 8,5 7,5 10,8 100

Biết rất nhiều Biết nhiều Biết ít Biết rất ít Không biết Không trả lời Tổng

199

9. Theo ông/bà những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu hiện nay gia đình ông/bà còn lưu giữ?

Lễ Đại phan

Dân ca

Kiến trúc Đình, miếu

Giá trị

SL

%

SL

%

SL %

Không thay đổi Ít thay đổi Thay đổi nhiều Hoàn toàn thay đổi Không biết Không trả lời Tổng

3 40 49 104 17 0 213

1,4 18,8 23,0 48,8 8,0 0 100

147 23 17 10 0 16 213

48 69,0 56 10,8 62 8,0 3 4,7 16 0 7,5 28 100 213

22,5 26,3 29,1 1,4 7,5 13,1 100

10a. Theo ông/bà những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu dưới đây mà ông/bà cảm thấy tự hào và cần phải giữ gìn, phát huy

Món ăn truyền thống

Trang phục truyền thống

Giá trị

Kiến trúc nhà truyền thống

SL

%

SL

%

SL

%

Rất tự hào Tự hào Ít tự hào Không tự hào Không biết Không trả lời Tổng

63,8 19,2 6,1 2,3 0 8,5 100

51,6 32,9 4,7 2,3 0 8,5 100

179 16 0 0 0 18 213

136 41 13 5 0 18 213

110 70 10 5 0 18 213

84,0 7,5 0 0 0 8,5 100 10b. Theo ông/bà những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu dưới đây mà ông/bà cảm thất tự hào và cần phải giữ gìn, phát huy?

Tiếng nói

Lễ Đại phan

Dân ca

Kiến trúc Đình, miếu

Giá trị

SL

SL

SL

%

SL

%

SL %

Rất tự hào Tự hào Ít tự hào Không tự hào

189 24 0 0

136 41 13 5

136 41 13 5

84,0 11,3 2,3 0

184 19 10 0

86,4 127 29 8,9 18 4,7 0 0

59,6 13,6 8,5 0

200

0 0

Không biết Không trả lời Tổng

0 0 213

0 18 213

0 18 213

2,3 0 100

0 0 213

21 18 100 213

9,9 8,5 100

11. Theo ông/bà những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu bị mai một do nguyên nhân nào? 1. Ông bà, cha mẹ không chú tâm truyền dạy cho con cháu: 194/213 người 2. Con cháu không chịu học: 165/213 người 3. Do thiếu kiến thức kinh nghiệm bảo tồn: 160/213 người 4. Do chính quyền không quan tâm hỗ trợ: 138/213 người 5. Không phù hợp với lối sống hiện nay: 66/213 người 12. Theo ông/bà, con cháu không chịu học những giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu do nguyên nhân nào? 1. Bận công việc, học tập: 178/213 người 2. Cho rằng lỗi thời,lạc hậu: 143/213 người 3. Có biết cũng không dùng đến: 113/213 người 4. Không phù hợp với lối sống hiện nay: 76/213 người 13. Theo ông/bà ở địa phương có hoạt động du lịch thì ông/bà có muốn tham gia vào hoạt động du lịch để giới thiệu bản sắc văn hóa của dân tộc mình với du khách tạo ra nghề mới có thu nhập ổn định hay không?

Mức độ Tỷ lệ (%)

Rất quan tâm Quan tâm Tổng Số lượng (người) 154 59 213 72,3 27,7 100

201

14. Ông/bà thấy cần thiết có hoạt động du lịch ở địa phương thì ông/bà quan tâm đến những vấn đề gì? 14.1. Những mong muốn khi tham gia vào hoạt động du lịch

Giá trị

1. Có một nghề nghiệp mới ổn định

2. Nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống

4. Giới thiệu du khách về văn hóa dân tộc mình

3. Có kinh phí để bảo tồn và phát huy văn hóa của dân tộc

5. Hưởng lợi từ hạ tầng xã hội khi du lịch phát triển

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL %

133 56 11 0 0 13 213

62,4 146 56 26,3 11 5,2 0 0 0 0 6,1 0 100 213

68,5 26,3 5,2 0 0 0 100

62,4 26,3 5,2 0 0 6,1 100

133 56 11 0 0 13 213

138 64 11 0 0 0 213

64,8 125 46 30,0 24 5,2 0 0 0 0 18 0 100 213

58,7 21,6 11,3 0 0 8,5 100

Rất quan tâm Quan tâm Ít quan tâm Không quan tâm Không biết Không trả lời Tổng 14.2. Khả năng của gia đình khi tham gia vào hoạt động du lịch

Giá trị

3. Cung cấp dịch vụ lưu trú

6. Cung cấp dịch vụ hướng dẫn

7. Bán hàng lưu niệm, đặc sản

2. Cung cấp dịch vụ vận chuyển

4. Cung cấp dịch vụ ăn uống

5. Cung cấp dịch vụ trải nghiệm

1. Cung cấp thực phẩm đặc trưng của vùng

SL %

SL %

SL %

SL %

SL %

SL %

SL %

Rất quan tâm

165 77,5 111 52,1

96 45,1 114 53,5

96 45,1 106 49,8 160

Quan tâm

37 17,4

78 36,6

76 35,7

72 33,8

90 42,3

93 43,7

42

14

11

14

11

6,6

5,2

5,2

27 12,7

6,6

0

0

0

6,1

6,1

13

13

0

0

0

6,1 0

0 14

13 0

0 0

0 0

0 0

0 0

0 0

0 0

6,6 0 0 0

0 0 0

14 0 0 0 0 6,6 213 100 213 100 213 100 213 100 213 100 213

75, 1 19, 7 11 5,2 0 0 0 100 213 100

Ít quan tâm Không quan tâm Không biết Không trả lời Tổng

202

14.3. Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống

Lễ Đại phan

Dân ca

Kiến trúc Đình, miếu

Giá trị

SL

%

SL

%

SL %

Rất quan tâm Quan tâm Ít quan tâm Không quan tâm Không biết Không trả lời Tổng

186 9 0 0 18 0 213

87,3 4,2 0 0 8,5 0 100

175 9 0 0 13 16 213

82,2 199 14 4,2 0 0 0 0 0 6,1 7,5 0 100 213

93,4 6,6 0 0 0 0 100

14.4. Bồi dưỡng nâng cao kiến thức về văn hóa dân tộc và nhiệp vụ du lịch

3. Học ngoại ngữ

Giá trị

1. Học tiếng Sán Dìu

5. Học tập kinh nghiệm, thực tế

2. Học phong tục tập quán văn hóa Sán Dìu

4. Học nghiệp vụ hướng dẫn viện du lịch

6. Học nghiệp vụ quản lý nhà hàng, khách sạn

SL %

SL %

SL %

SL %

SL %

SL %

191 89,7 188 88,3 5,6 0

4,2 0

12 0

9 0

86 40,4 103 48,4 193 90,6 112 52,6 60 28,2 82 38,5 5,2 11 5,2 11

87 40,8 5,2 11

4,2 5,2

9 11

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0 6,1

0 6,1

0 5,6

0 12

0 13

16 18

0 0

0 0

16 7,5 0 14 8,5 13 213 100 213 100 213 100 213 100 213 100 213

7,5 6,6 100

Rất quan tâm Quan tâm Ít quan tâm Không quan tâm Không biết Không trả lời Tổng

203

14b. Lý do nào ông/bà thấy không cần thiết có hoạt động du lịch ở địa phương? 1. Đang có nghề nghiệp ổn định và có thu nhâp tốt: 68/213 người 2. Kinh doanh du lịch không hiệu quả: 17/213 người 3. Không biết kinh doanh du lịch: 17/213 người 4. Thiếu vốn để kinh doanh: 71/213 người 5. Không có kiến thức và kinh nghiệm: 17/213 người 6. Làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc: 30/213 người 7. Tệ nạn xã hội gia tăng: 15/213 người 15. Theo ông/bà để bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu gắn với phát triển du lịch thì cần phải làm gì?

Tỉ lệ (%)

Số lượng (người)

8,9 28,6 19 61

0,5 62,0 100 1 132 213

1. Dạy tiếng và học chữ Sán Dìu 2. Khôi phục bảo vệ và phát huy các nét đẹp văn hóa Sán Dìu 3. Cả 1 và 2 4. Không trả lời Tổng 16. Ông/bà có kiến nghị đề xuất gì với chính quyền địa phương?

Đề xuất Tỉ lệ (%)

Số lượng (người)

9 43 4,2 20,2

1. Dạy tiếng và học chữ Sán Dìu 2. Khôi phục bảo vệ và phát huy các nét đẹp văn hóa Sán Dìu 3. Cần có chính sách cụ thể và phù hợp hơn 3 1,4

30 14,1

4. Chính quyền các cấp quan tâm và cấp kinh phí hoạt động 5. Cả 1 và 2 6. Không trả lời Tổng 1 127 213 0,5 59,6 100

204

Phụ lục 6: MỘT SỐ HÌNH ẢNH

Ảnh 1: Trụ sở Đảng ủy, HĐND, UBND xã Bình Dân, tháng 5/2019. (Nguồn: NCS)

Ảnh 2: Miếu Thành hoàng và Bài cúng tại miếu, xã Bình Dân, tháng 8/20120. (Nguồn: NCS)

205

Ảnh 3: Các bát hương được thờ tại Miếu Thôn Đồng, xã Bình Dân, tháng 9/2018. (Nguồn: NCS)

Ảnh 4: Ông Lưu Văn Can và NCS (ngoài cùng phía bên phải) chụp tại Miếu Thôn Đồng, xã Bình Dân, tháng 9/2018. (Nguồn: NCS)

206

Ảnh 5: Nhà Văn hóa cộng đồng xã Bình Dân tháng 9/2018. (Nguồn: NCS)

Ảnh 6: Hiện trạng Nhà Văn hóa cộng đồng xã Bình Dân tháng 9/2018. (Nguồn: NCS)

207

Ảnh 7: Các nông cụ phục vụ sản xuất, sinh hoạt được trưng bày trong nhà văn hóa cộng đồng xã Bình Dân, tháng 3/2018. (Nguồn: NCS)

Ảnh 8: Bằng công nhận danh hiệu NNDG của bà Trương Thị Choong tháng 3/2018. (Nguồn: NCS)

208

Ảnh 9: TS. Nguyễn Thị Kim Thoa (ngoài cùng phía bên phải) hướng dẫn Hội viên CLB Soọng cô xã Bình Dân sử dụng bộ chữ latin trong các bài hát, tháng 3/2020. (Nguồn: NCS)

Ảnh 10: Lễ hội Đại phan tại huyện Đầm Hà, tháng 6/2015. (Nguồn: NCS)

209

Ảnh 11: Nghi lễ leo gươm trong lễ Đại phan của người Sán Dìu tại xã Bình Dân, huyện Vân Đồn năm 2008. (Nguồn: Trần Minh)

Ảnh 12: Tiết mục dự thi: Đón dâu: của CLB Soọng cô xã Bình Dân đạt giải Nhất tại liên hoan dân ca lần thứ Nhất tại huyện Vân Đồn, tháng 8/2019

(Nguồn: NCS)

210

Phụ lục 7: TRÍCH DẪN MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP QUY

PL 7.1. Hiến pháp qua các năm thể hiện quan điểm của Nhà nước ta về

BV&PH giá trị DSVH

“Các dân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi phong tục tập quán, dùng tiếng nói chữ viết, phát triển văn hoá dân tộc mình. Nhà nước ra sức giúp đỡ các DTTS mau tiến kịp trình độ kinh tế và văn hoá chung [Điều 3, Hiến pháp 1959].

“Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà nước có kế hoạch xoá bỏ từng bước sự chênh lệch giữa các dân tộc về trình độ phát triển kinh tế và văn hoá” [Điều 5, Hiến pháp 1980].

“Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS [Điều 5, Hiến pháp 1992].

“Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” [Điều 5, Hiến pháp 2013].

PL 7.2. Quyết định số 1271/2016/QĐ-UBND Tại Điều 2: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Quảng Ninh có nhiệm vụ và quyền hạn về

QLNN về DSVH, gồm:

a) Tổ chức thực hiện quy chế, giải pháp huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở địa phương sau khi được phê duyệt;

b) Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể ở địa phương; cấp giấy phép nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài;

c) Quản lý, hướng dẫn tổ chức các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, lễ hội truyền thống, tín ngưỡng gắn với di tích, nhân vật lịch sử ở địa phương;

d) Tổ chức kiểm kê, lập danh mục, lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử - văn

hóa và danh lam thắng cảnh ở địa phương;

đ) Thỏa thuận chủ trương lập dự án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật; thẩm định dự án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật; thỏa thuận thiết kế bản vẽ thi công bảo quản, tu bổ,

211

phục hồi di tích cấp tỉnh ở địa phương; hướng dẫn, tổ chức thực hiện tu sửa cấp thiết và các dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích thuộc địa phương quản lý sau khi được phê duyệt;

e) Thẩm định dự án cải tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài khu vực bảo vệ di tích cấp tỉnh ở địa phương có khả năng ảnh hưởng đến cảnh quan, môi trường của di tích;

g) Tiếp nhận hồ sơ, hướng dẫn thủ tục, trình cấp có thẩm quyền cấp giấy phép thăm dò, khai quật khảo cổ, khai quật khẩn cấp; theo dõi, giám sát việc thực hiện nội dung giấy phép khai quật ở địa phương;

h) Thẩm định hiện vật và hồ sơ hiện vật đề nghị công nhận bảo vật quốc gia của bảo tàng cấp tỉnh, ban hoặc trung tâm quản lý di tích, bảo tàng ngoài công lập, tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc đang quản lý hợp pháp hiện vật ở địa phương;

i) Tổ chức việc thu nhận, bảo quản các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do tổ chức, cá nhân giao nộp và thu giữ ở địa phương theo quy định của pháp luật; tổ chức đăng ký và quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; cấp chứng chỉ hành nghề đối với chủ cửa hàng mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; cấp giấy phép làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích quốc gia, di tích cấp tỉnh, bảo tàng cấp tỉnh và sở hữu tư nhân ở địa phương; cấp, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động giám định cổ vật của cơ sở giám định cổ vật tại địa phương;

k) Xác nhận điều kiện đối với việc thành lập bảo tàng cấp tỉnh và điều kiện

được cấp giấy phép hoạt động đối với bảo tàng ngoài công lập ở địa phương.

PL 7.3. Phòng Quản lý Di sản là đơn vị chuyên môn có chức năng tham mưu giúp Giám đốc Sở thực hiện QLNN về nghiệp vụ Di sản thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn như sau:

a) Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tham mưu giúp Giám đốc Sở dự thảo quyết định, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 năm và hàng năm các đề án, dự án, chương trình phát triển, thực hiện xã hội hóa, các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực Di sản trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

b) Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tham mưu giúp Giám đốc Sở quyết định thành lập, giải thể các Hội đồng chuyên ngành về di sản trong phạm vi quyền hạn của Sở.

c) Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tham mưu giúp Giám đốc Sở hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án, chương trình sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt; phối hợp thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về di sản.

212

d) Hướng dẫn thủ tục và cấp giấy phép nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hoá phi vật thể trên địa bàn tỉnh cho tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài;

e) Tham mưu giúp Giám đốc Sở công tác tổng hợp, theo dõi công tác kiểm kê, phân loại, lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh thuộc địa bàn tỉnh;

g) Tham mưu thỏa thuận chủ trương lập dự án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật; thẩm định dự án, báo cáo kinh tế kỹ thuật, thỏa thuận bản vẽ thi công bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích cấp tỉnh ở địa phương; hướng dẫn, tổ chức thực hiện cấp thiết và các dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích thộc địa phương quản lý sau khi được phê duyệt

h) Thẩm định dự án cải tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài khu vực bảo

vệ di tích cấp tỉnh có khả năng ảnh hưởng đến cảnh quan, môi trường của di tích;

i). Tham mưu tổ chức việc thu nhận, bảo quản các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia

do tổ chức, cá nhân giao nộp và thu giữ ở địa phương theo quy định của pháp luật;

k). Đăng ký và tổ chức quản lý di vật, cổ vật quốc gia trong phạm vi tỉnh; cấp giấy phép làm bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc bảo tàng tỉnh và sở hữu cá nhân;

l). Hướng dẫn nghiệp vụ bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể

theo đề nghị của tổ chức, cá nhân nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể;

m) Quản lý, hướng dẫn tổ chức các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá, lễ hội truyền thống, tín ngưỡng gắn với di tích, nhân vật lịch sử tại địa phương; xây dựng tượng đài, tranh hoành tráng;

n). Tham mưu hướng dẫn công tác đặt tên, đổi tên đường, phố và các công

trình công cộng trên địa bàn tỉnh;

0) Quản lý và theo dõi việc thực hiện chính sách văn hoá dân tộc, bảo tồn, phát huy, phát triển các giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể của cộng đồng các dân tộc cư trú trên địa bàn tỉnh;

PL 7.4. Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BVHTTDL-BNV Nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng Văn hoá và Thông tin tại Điều 5, gồm: 1. Trình UBND cấp huyện ban hành quyết định, chỉ thị; kế hoạch dài hạn, 05 (năm) năm và hàng năm; đề án, chương trình phát triển văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước, xã hội hoá trong lĩnh vực QLNN được giao.

2. Trình Chủ tịch UBND cấp huyện dự thảo các văn bản về lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo thuộc thẩm quyền ban hành của Chủ tịch UBND cấp huyện.

213

3. Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, đề án, chương trình đã được phê duyệt; hướng dẫn, thông tin tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý, hoạt động phát triển sự nghiệp văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo; chủ trương xã hội hoá hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao; phòng, chống bạo lực trong gia đình.

4. Hướng dẫn các tổ chức, đơn vị và nhân dân trên địa bàn huyện thực hiện phong trào văn hoá, văn nghệ; phong trào luyện tập thể dục, thể thao; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; xây dựng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, khu phố văn hoá, đơn vị văn hoá; bảo vệ các di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh; bảo vệ, tôn tạo, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên du lịch, môi trường du lịch, khu du lịch, điểm du lịch trên địa bàn.

5. Hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của các Thư viện, Trung tâm Văn hóa, Trung tâm Thể dục thể thao hoặc Trung tâm Văn hóa - Thể thao, các thiết chế văn hoá cơ sở, các cơ sở hoạt động dịch vụ văn hoá, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo điểm vui chơi công cộng thuộc phạm vi quản lý của Phòng trên địa bàn.

6. Giúp UBND cấp huyện QLNN đối với tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân; hướng dẫn và kiểm tra hoạt động các hội và tổ chức phi chính phủ hoạt động trên địa bàn thuộc các lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo theo quy định của pháp luật.

7. Hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo đối với các chức danh chuyên môn thuộc UBND xã, phường, thị trấn.

8. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về hoạt động văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo trên địa bàn huyện; giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân về lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo theo quy định của pháp luật.

9. Thực hiện công tác thống kê, báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình hoạt động văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo theo quy định của UBND cấp huyện và Giám đốc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch.

10. Quản lý tổ chức bộ máy, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức, thực hiện chế độ tiền lương, chính sách, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đối với công chức thuộc phạm vi quản lý theo quy định của pháp luật và theo phân công của UBND huyện.

214

11. Quản lý tài chính; tài sản được giao theo quy định của pháp luật và phân

công của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

12. Thực hiện các nhiệm vụ khác do UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp

huyện giao hoặc theo quy định của pháp luật PL 7.5. Nghị định số 98/2010/NĐ-CP Tại Điều 2. Di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể 1. Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: a) Tiếng nói, chữ viết; b) Ngữ văn dân gian; c) Nghệ thuật trình diễn dân gian; d) Tập quán xã hội và tín ngưỡng; đ) Lễ hội truyền thống; e) Nghề thủ công truyền thống; d) Tri thức dân gian. 2. Di sản văn hóa vật thể bao gồm: a) Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh (sau đây gọi là di tích); b) Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Điều 3 quy định: 1. Xây dựng và thực hiện chương trình mục tiêu bảo tồn các di sản văn hóa

tiêu biểu.

2. Khen thưởng tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; xét tặng danh hiệu vinh dự nhà nước và thực hiện các chính sách ưu đãi về tinh thần và vật chất đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt.

3. Nghiên cứu áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào các hoạt động sau đây: a) Thăm dò, khai quật khảo cổ; bảo quản, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích; b) Thẩm định, quản lý sưu tập, bảo quản hiện vật, chỉnh lý, đổi mới nội

dung, hình thức trưng bày và hoạt động giáo dục của bảo tàng;

c) Sưu tầm, lưu giữ và phổ biến giá trị di sản văn hóa phi vật thể; thành lập

ngân hàng dữ liệu về di sản văn hóa phi vật thể.

4. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn trong lĩnh vực bảo vệ và

phát huy giá trị di sản văn hóa.

5. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đóng góp về tinh thần và vật chất hoặc trực tiếp tham gia các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

6. Mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; xây dựng và thực hiện các dự án hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật.

215

PL 7.6. Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06/5/2009 của Thủ tướng Chính

phủ về Chiến lược Phát triển văn hoá đến năm 2020, trong đó quy định:

- Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc. Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc là nhiệm vụ then chốt của Chiến lược phát triển văn hoá. Tập trung điều tra toàn diện, nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hoá và văn hoá phi vật thể; các loại hình nghệ thuật cổ truyền đặc sắc, văn hoá dân gian của từng địa phương, từng vùng văn hoá, từng vùng dân tộc; nghề thủ công truyền thống, lễ hội tiêu biểu, kho tàng Hán Nôm. Kết hợp hài hoà việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch bền vững.

Điều tra, sưu tầm, xây dựng “ngân hàng dữ liệu” về văn hoá vật thể và văn

hoá phi vật thể tiêu biểu.

Đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để bảo quản, giữ gìn lâu dài tài liệu, hiện vật tại các bảo tàng, cơ quan lưu trữ tư liệu lịch sử, văn hoá, nghệ thuật ở Trung ương và địa phương.

Thực hiện các hình thức tôn vinh các nghệ sĩ, nghệ nhân tiêu biểu và cơ chế

chính sách để các nghệ nhân phổ biến, truyền dạy nghề cho thế hệ trẻ.

- Bảo tồn và phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số. Văn hoá các dân tộc thiểu số là tài sản quý giá góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng mà thống nhất của văn hoá Việt Nam. Giữ gìn bản sắc và sự đa dạng của văn hoá các dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chính trị - xã hội to lớn ở kỷ nguyên toàn cầu hoá. Có thể nói, thực chất của vấn đề dân tộc là vấn đề văn hoá.

Coi trọng và tổ chức thực hiện các chương trình về bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hoá, văn học, nghệ thuật, đặc biệt là hỗ trợ sự phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc thiểu số. Có chính sách và giải pháp cụ thể xây dựng đội ngũ trí thức trong các dân tộc thiểu số; phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn học, nghệ thuật dân tộc thiểu số. Ưu tiên tài trợ cho các tác giả dân tộc thiểu số có tài năng, sáng tạo các tác phẩm về đề tài dân tộc và miền núi.

Đẩy mạnh các hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số. Thông qua hoạt động du lịch văn hoá được tổ chức, quản lý tốt, góp phần nâng cao đời sống tinh thần, tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo cho đồng bào vùng dân tộc, miền núi.

PL 7.7. Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về Công tác dân tộc Tại điều 13 quy định chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa được thể hiện:

216

1. Hỗ trợ việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.

2. Hỗ trợ việc giữ gìn và phát triển chữ viết của các dân tộc có chữ viết. Các dân tộc thiểu số có trách nhiệm gìn giữ văn hóa truyền thống tốt đẹp, tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình phù hợp với quy định của pháp luật.

3. Xây dựng, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; hỗ trợ việc đầu tư, giữ gìn, bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng.

4. Đồng bào dân tộc thiểu số được ưu đãi, hưởng thụ văn hóa; hỗ trợ xây dựng, khai thác sử dụng có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

5. Bảo tồn, phát huy các lễ hội truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc, định kỳ tổ chức ngày hội văn hóa - thể thao dân tộc theo từng khu vực hoặc từng dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

PL 7.8. Quyết định số 581/QĐ-TTg và Nghị định số 05/NĐ-CP. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 về Phê duyệt Đề án "Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020" với mục tiêu tổng quát:

- Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm phát triển văn hóa dân tộc, góp phần để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo đảm toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia.

- Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số phù hợp với tình hình thực tế, đặc biệt chú trọng địa bàn các dân tộc có nguy cơ bị biến dạng văn hóa cao (các dân tộc rất ít người không có điều kiện tự bảo vệ văn hóa của mình; bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số tại khu vực biên giới, hải đảo, khu vực tái định cư của các thủy điện). Phát huy vai trò của các chủ thể văn hóa trong phát triển văn hóa truyền thống của các dân tộc.

- Tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Góp phần giảm dần sự chênh lệch về mức sống và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các dân tộc, gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc.

- Tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, huy động mọi nguồn lực cho bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, đặc biệt

217

tại các địa bàn trọng điểm: Vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo”

Các nhiệm vụ trọng tâm của Quyết định số 1270/QĐ-TTg, cụ thể như: - Chủ thể văn hóa, cộng đồng kế thừa và thực hành văn hóa có một vai trò to lớn và là nhân tố quyết định trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống của các DTTS.

- Coi trọng và tổ chức thực hiện các chương trình về bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật, đặc biệt là hỗ trợ sự phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc thiểu số.

- Ưu tiên đầu tư cho việc giữ gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống các dân tộc thiểu số; sưu tầm, phục hồi và phát triển một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ thất truyền.

- Đẩy mạnh các hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số kết hợp với các chương trình phát triển kinh tế, phát triển nghề thủ công truyền thống, du lịch cộng đồng kết hợp với xóa đói giảm nghèo.

- Phát triển và hiện đại hóa mạng lưới thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng các sản phẩm văn hóa, thông tin phù hợp. Đẩy mạnh và phát huy hiệu quả công cụ phát thanh, truyền hình phù hợp vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

- Xây dựng đồng bộ và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa cộng đồng, thực sự phát huy vai trò của cộng đồng trong tổ chức các hoạt động cộng đồng phát huy hiệu quả thực sự của các thiết chế văn hóa.

- Tăng cường các hoạt động giao lưu văn hóa cấp địa phương, vùng, miền và

toàn quốc.

- Xây dựng các chính sách khuyến khích hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam.

- Hoàn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa. - Ban hành bộ chỉ số về phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam. PL 7.9. Quyết định số 2356/QĐ-TTg ngày 04/12/2013 của Thủ tướng Chính phủvề việc Ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 với nhiệm vụ: với nhiệm vụ: “Phát triển toàn diện văn hóa DTTS; chính sách giữ gìn, bảo tồn, tôn vinh và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết, tập quán, tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của đồng bào DTTS; xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa gắn với việc bảo quản, gìn giữ, bảo tồn di tích lịch sử ở từng vùng, từng địa phương; xây dựng nếp sống văn minh, bài trừ mê tín, dị đoan, hủ tục lạc hậu.

218

PL 7.10. Quyết định số 2493/QĐ-TTg ngày 22/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án Kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của các DTTS Việt Nam, giai đoạn 2017-2020 với mục tiêu: Huy động nguồn lực của toàn xã hội cùng tham gia gìn giữ, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc; tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và ý thức bảo vệ, phát huy giá trị DSVH của toàn xã hội, các chủ thể văn hóa và tổ chức, cá nhân có liên quan;có các giải pháp đồng bộ, khả thi nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền DSVH truyền thống điển hình của các DTTS Việt Nam để BV&PH giá trị DSVH truyền thống điển hình của các DTTS Việt Nam một cách lâu dài, bền vững; giới thiệu, quảng bá DSVH truyền thống điển hình của các DTTS Việt Nam; thu hút sự quan tâm, trải nghiệm của công chúng, nhất là các đối tượng học sinh, sinh viên.

PL 7.11. Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 09/3/2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, theo đó Nghị quyết đề ra các mục tiêu cụ thể sau: 100% các địa phương xây dựng chương trình, kế hoạch, đề án gìn giữ, bảo tồn và phát huy các bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp, từng bước loại bỏ các hủ tục; 100% các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh đã xếp hạng được bảo tồn, phát huy giá trị; xây dựng một số thôn, làng, bản trở thành “bảo tàng sống” nhằm bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống đặc sắc trong tỉnh và trở thành sản phẩm du lịch; 100% khu dân cư có và thực hiện tốt hương ước, quy ước nếp sống văn minh phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tuân thủ quy định của pháp luật; 100% thanh, thiếu nhi các trường học được giáo dục về giá trị lịch sử - văn hóa truyền thống Quảng Ninh, kỹ năng sống, giao tiếp, ứng xử văn minh.

Nghị quyết đã đặt ra các nhiệm vụ và giải pháp bao gồm: Bảo tồn và phát triển văn hóa mang bản sắc của Quảng Ninh gắn với phát triển KT-XH; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh; xây dựng con người Quảng Ninh phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; tập trung huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhà nước và xã hội, phát triển văn hóa, con người Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững; tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ qốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

PL 7.12. Quyết định số 1988/QĐ-UBND ngày 07/8/2013, về Ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 29/5/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân tộc trong

219

sự nghiệp phát triển KT-XH nhanh, bền vững gắn với bảo vệ vững chắc quốc phòng - an ninh tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030,Quảng Ninh.

PL 7.13. Quyết định số 2994/QĐ-UBND ngày 08/10/2015, về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình hành động của BCH Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước,Quảng Ninh.

220

Phụ lục 8

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN, CHUYÊN GIA

(theo thứ tự A-B-C)

Vị trí công tác, địa chỉ

Thời gian cung cấp

TT Họ tên I Các chuyên gia 1 NVC 2 ĐVB 3 BXĐ 4 NTH

Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội Bộ VH,TT&DL Viện Dân tộc học, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam Công ty TNHH Bảo tồn văn hóa Việt

5 6

TTTH THS

Trường Đại học Khoa học Thái Nguyên Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian ứng dụng

7 ĐTT

Học viện Dân tộc

8 ĐTTT Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam Trường Đại học Ngoại thương 9 NTKT

10 NTT

Học viện Dân tộc

Tháng 4/2019 Tháng 5/2019 Tháng 5/2019 Lần 1: Tháng 10/2018 Lần 2: Tháng 6/2019 Tháng 10/2019 Lần 1: Tháng 6/2017 Lần 2: Tháng 11/2019 Lần 1: Tháng 7/2018 Lần 2: Tháng 11/2019 Tháng 7/2019 Lần 1: Tháng 7/2019 Lần 2: Tháng 02/2020 Lần 1: Tháng 3/2018 Lần 2: Tháng 12/2019

II Nhà Quản lý 1 HMA 2 NTG

Ban Dân tộc tỉnh Vĩnh Phúc Phòng Di sản Sở Văn hóa, Thể thao tỉnh Quảng Ninh

3

PLG

Phòng Văn hóa thông tin, UBND huyện Vân Đồn

4

TDĐ

UBND phường Quang Hanh, thành phố Cẩm Phả

Tháng 4/2019 Lần 1: Tháng 3/2018 Lần 2: Tháng 12/2018 Lần 3: Tháng 4/2019 Lần 1: Tháng 9/2018 Lần 2: Tháng 10/2018 Lần 3: Tháng 4/2019 Lần 4: Tháng 8/2020 Tháng 12/2018

5 NQH 6 NTN1 UBND huyện Vân Đồn

Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh

7 NTN2

Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh

8

PTH

Phòng Văn hóa thông tin, UBND huyện Vân Đồn

9 HAT

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ninh

10 HQT

Chi hội Văn học nghệ thuật các DTTS tỉnh Quảng Ninh Tháng 4/2019 Tháng 4/2019 Tháng 4/2019 Tháng 4/2019 Lần 1: Tháng 9/2018 Lần 2: Tháng 10/2018 Lần 3: Tháng 4/2019 Tháng 4/2019

221

11 TVT

Phòng Văn hóa thông tin, UBND huyện Tiên Yên

12 ÂTT

Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ninh

13 NTT

14 LVD

Phòng Quản lý Khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Ninh UBND xã Bình Dân, huyện Vân Đồn

15 TTS1

UBND xã Bình Dân, huyện Vân Đồn

16 TTS2

Chuyên viên địa chính, UBND xã Bình Dân, huyện Vân Đồn

17 TVD

Hội Nông dân xã Bình Dân, huyện Vân Đồn

18 PTV

Tháng 4/2019 Lần 1: Tháng 9/2018 Lần 2: Tháng 10/2018 Lần 3: Tháng 8/2020 Tháng 4/2019 Lần 1: Tháng 9/2018 Lần 2: Tháng 4/2019 Lần 3: Tháng 8/2020 Lần 1: Tháng 9/2018 Lần 2: Tháng 10/2018 Lần 3: Tháng 4/2019 Lần 4: Tháng 8/2020 Lần 1: Tháng 10/2018 Lần 2: Tháng 4/2019 Lần 3: Tháng 8/2020 Lần 1: Tháng 9/2018 Lần 2: Tháng 10/2018 Lần 3: Tháng 4/2019 Trung tâm Bảo tồn và phát huy DSVH tỉnh Quảng Ninh Lần 1: Tháng 9/2018 Lần 2: Tháng 4/2019 Lần 3: Tháng 8/2020

III Người am hiểu phong tục tập quán văn hóa Sán Dìu 1 NVA 2 HVT LĐN 3 LVB 4 TBD 5 TTT1 6

xã Giáp Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xã Quý Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang Xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc Xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang Xã Phúc Thuân, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên Xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

7 8 9

LVC TTT2 TTK

Xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh Xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh Xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

10 TTT3

Xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

11 TTT4

Phường Quang Hanh, tp Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh

Phường Hà Phong, tp Hạ Long, tỉnh Quảng, Ninh

Tháng 6/2019 Tháng 6/2019 Tháng 5/2019 Tháng 5/2019 Tháng 5/2019 Lần 1: Tháng 9/2018 Lần 2: Tháng 5/2019 Lần 3: Tháng 8/2020 Tháng 5/2019 Tháng 5/2019 Lần 1: Tháng 9/2018 Lần 2: Tháng 5/2019 Lần 1: Tháng 9/2018 Lần 2: Tháng 5/2019 Lần 3: Tháng 8/2020 Lần 1: Tháng 9/2018 Lần 2: Tháng 5/2019 Lần 3: Tháng 8/2020 Tháng 6/2019

12 TBM