Quản lý DNNN, bao giờ đứa trẻ “to xác” mới lớn? Không có những điều chỉnh kịp thời về công tác nhân sự, không có chứng cứ xác thực để đánh giá ai hoàn thành nhiệm vụ và ngược lại, nên mới chỉ có khoảng 4-5% lãnh đạo các DNNN bị thay thế do không hoàn thành nhiệm vụ.
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Quản lý DNNN, bao giờ đứa trẻ “to xác” mới lớn?
- Quản lý DNNN, bao giờ đứa trẻ “to xác” mới lớn?
Không có những điều chỉnh kịp thời về công tác nhân sự,
không có chứng cứ xác thực để đánh giá ai hoàn thành
nhiệm vụ và ngược lại, nên mới chỉ có khoảng 4-5% lãnh
đạo các DNNN bị thay thế do không hoàn thành nhiệm vụ.
Tiến cử người tài, chuyện viển vông
Báo SGTT dẫn lời Phó Vụ trưởng vụ Đổi mới doanh
nghiệp (Văn phòng Chính phủ) Phạm Tuấn Anh, cho biết,
một trong những rào cản trong công tác cán bộ tại nhiều
DNNN hiện nay là lãnh đạo được dùng như công chức,
viên chức, chỉ được thay thế khi đến tuổi về hưu, hoặc có vi
phạm nghiêm trọng.
Do vậy, nhiều doanh nghiệp, dù tìm được người tài cũng
khó tiến cử vì không thay nổi nhân sự cấp cao hiện hành.
Kết quả điều tra do Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương
vừa công bố cho thấy, trong khối DNNN, đại diện chủ sở
hữu tham gia hoạt động quản lý, điều hành chỉ mang tính
- hình thức; thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành
viên (HĐQT/HĐTV) có người đang đồng thời là cán bộ
của bộ, UBND cấp tỉnh và cơ quan quản lý nhà nước khác.
Điều đó có nghĩa, những nhân sự chủ chốt này ít dành thời
gian, nguồn lực cho hoạch định chiến lược, quản lý, giám
sát, đảm bảo hiệu quả của các doanh nghiệp này.
TS. Trần Viết Cường, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết, tỷ
lệ các chuyên gia từ bên ngoài (chuyên gia kinh tế độc lập,
nhà khoa học, tổ chức tư vấn, kiểm toán…) tham gia
HĐQT/HĐTV của các DNNN gần như rất ít ỏi, đặc biệt
không có trường hợp nào với các doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước, do vậy không đảm bảo tính độc lập, khách quan
và điều kiện để thực hiện chức năng bảo đảm lợi ích các
bên có liên quan trong quản trị doanh nghiệp.
Kết quả điều tra cũng cho thấy, doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước, HĐQT không có thẩm quyền bổ nhiệm tổng
giám đốc, thiếu cơ sở và chưa thường xuyên giám sát, đánh
giá về cả HĐQT và những người giữ vị trí điều hành.
- “Vậy nên có số thành viên HĐQT/HĐTV, tổng giám đốc,
giám đốc bị đánh giá “không hoàn thành nhiệm vụ là không
đáng kể”, ông Cường dẫn giải.
Thiếu cơ sở để đánh giá
Một trong những nguyên nhân được nhóm nghiên cứu chỉ
ra rằng, trên thực tế, 68% doanh nghiệp không ban hành
các văn bản, quy chế, cơ chế với nội dung cần thiết là cơ sở
để đánh giá kết quả hoạt động của HĐQT/HĐTV.
Đó là hạn chế cả về phương diện quản trị doanh nghiệp và
thiếu cơ sở để giám sát, đánh giá về những người giữ chức
danh đại diện trực tiếp chủ sở hữu nhà nước tại DNNN.
Do vậy, trong các doanh nghiệp này không thể có những
điều chỉnh kịp thời về công tác nhân sự, không thể có các
chứng cứ xác thực để đánh giá ai hoàn thành nhiệm vụ và
ngược lại. Đây là lý do giải thích kết quả điều tra là chỉ có
5,1% doanh nghiệp cho biết đã có trường hợp thành viên
HĐQT/HĐTV, chủ tịch công ty bị thay thế do không hoàn
thành nhiệm vụ.
Tương tự, HĐQT/chủ tịch công ty cũng không thể có cơ sở
để đánh giá tổng giám đốc hay giám đốc do mình bổ
- nhiệm. Điều này cũng tương ứng với tỷ lệ chỉ có 4,1%
doanh nghiệp đã từng xảy ra trường hợp tổng giám đốc bị
HĐQT thay thế do không hoàn thành nhiệm vụ.
“Trong khi đó, công tác giám sát, đánh giá nội bộ bị buông
lỏng, không hiệu quả, trông chờ vào giám sát từ bên
ngoài”, ông Cường nói và giải thích, một trong những
nguyên nhân là do nhiều kiểm soát viên vẫn là người nội
bộ, ăn lương của doanh nghiệp nên tính chất khách quan sẽ
khó đảm bảo.
TS. Trần Thị Thanh Hồng, Văn phòng Trung ương Đảng,
lo ngại, tình trạng kém chất lượng trong giám sát nội bộ các
DNNN hiện nay, không những làm giảm hiệu quả của
doanh nghiệp đó mà còn làm giảm hiệu lực giám sát từ bên
ngoài.
“Các giám sát phần lớn thông qua báo cáo định kỳ của tập
đoàn với chủ sở hữu, do vậy nội dung, độ tin cậy của báo
cáo rất quan trọng. Một trong những nguyên nhân khiến
cho sai phạm của Vinashin nghiêm trọng, là do sự không
trung thực trong báo cáo của tập đoàn với chủ sở hữu”, bà
Hồng dẫn chứng.
- Ban kiểm soát doanh nghiệp, lập cho vui
Dẫn một câu chuyện khác về phân bổ lương và quyền hạn
của ban kiểm soát trong doanh nghiệp, báo SGTT cho thấy
một thực tế là ở nhiều doanh nghiệp hiện nay, việc lập ra
ban kiểm soát chỉ là cho đủ các vai vế theo quy định.
Những báo cáo của trưởng ban kiểm soát tại đại hội cổ
đông cũng rất sơ sài, hầu hết là khen ngợi thay vì đưa ra
các ý kiến phản biện theo hướng xây dựng.
Không ít báo cáo còn cho rằng, hội đồng quản trị và lãnh
đạo doanh nghiệp đã tạo điều kiện tốt cho ban kiểm soát
hoạt động thay vì khẳng định việc hợp tác là trách nhiệm
của mỗi bên theo luật định.
Theo quy định của luật Doanh nghiệp và các văn bản
hướng dẫn thực hiện luật này, ban kiểm soát thực chất là
một công cụ giám sát hội đồng quản trị và những người
điều hành doanh nghiệp.
Ban kiểm soát đại diện cho lợi ích của cổ đông và công ty.
Ban này thực hiện việc kiểm soát toàn bộ hệ thống tài chính
và việc thực hiện các quy chế của công ty. Ban này cũng có
- thể thực hiện việc kiểm tra bất thường và can thiệp vào hoạt
động của công ty khi cần.
Thực chất ban kiểm soát thay mặt chủ sở hữu để giám sát
các hoạt động điều hành doanh nghiệp giúp cho việc bảo
toàn và sinh lời vốn của chủ sở hữu, đem lại lợi ích cho các
cổ đông.
Tuy nhiên, với mức lương tương đương trưởng phòng lấy
nguồn trả lương từ doanh nghiệp, ban kiểm soát mất đi sự
độc lập cần phải có. Những người trong ban kiểm soát trở
thành nhân viên dưới quyền của hội đồng quản trị và những
người điều hành doanh nghiệp.
“Thậm chí kiểm soát viên được xếp theo hệ thống lương
hành chính lại đòi kiểm soát được hoạt động của các tập
đoàn! Trách nhiệm cao mà quyền lợi thì ít nên không làm
được”, ông Hoàng Nguyên Học, Phó tổng giám đốc Tổng
công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), nói
với SGTT.
Ông Học cho rằng, cần tách sự phụ thuộc của ban kiểm
soát vào doanh nghiệp trước hết từ việc trả lương. Lương
của ban kiểm soát hiện do hội đồng cổ đông quyết định.
- Theo ông Học, ở những tập đoàn, tổng công ty nhà nước và
những doanh nghiệp nhà nước đang giữ cổ phần chi phối,
ban kiểm soát đang giám sát việc sử dụng, sinh lời của
phần vốn nhà nước thì chủ sở hữu phải là người trả lương
cho ban kiểm soát.