BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ---------------------------------

PHẠM BÁCH KHOA

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI – 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

---------------------------------

PHẠM BÁCH KHOA

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế (Khoa học Quản lý)

Mã số: 9310110

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Người hướng dẫn khoa học:

1. GS.TS. NGÔ THẮNG LỢI 2. TS. VŨ NHỮ THĂNG

HÀ NỘI – 2021

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam kết bằng danh dự cá nhân rằng Luận án này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật./.

Hà Nội, ngày tháng 9 năm 2021

Nghiên cứu sinh

Phạm Bách Khoa

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i

MỤC LỤC ...................................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................. vi

DANH MỤC BẢNG .................................................................................................. viii

DANH MỤC HÌNH ...................................................................................................... ix

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 2

3. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................. 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 4

5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 4

6. Những đóng góp mới của luận án .......................................................................... 7

7. Kết cấu của luận án ................................................................................................ 8

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG .......... 9

1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài .............................................................................. 9

1.1.1. Các nghiên cứu về thuế và thuế bảo vệ môi trường ........................................ 9 1.1.2. Các nghiên cứu về quản lý nhà nước về thuế và thuế bảo vệ môi trường .... 14

1.2. Các nghiên cứu trong nước ............................................................................... 16

1.2.1. Các nghiên cứu về thuế và thuế bảo vệ môi trường ...................................... 16 1.2.2. Các nghiên cứu về quản lý nhà nước về thuế và thuế bảo vệ môi trường .... 21

1.3. Đánh giá tổng quan nghiên cứu ........................................................................ 26

1.3.1. Những nội dung luận án kế thừa từ kêt quả các nghiên cứu trước ............... 26

1.3.2. Những khoảng trống nghiên cứu và định hướng nghiên cứu của luận án .... 27

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ............................................................................................ 31

2.1. Cơ sở lý luận về thuế bảo vệ môi trường ......................................................... 31

2.1.1. Khái luận chung về thuế bảo vệ môi trường ................................................. 31

2.1.2. Các lý thuyết liên quan đến thuế bảo vệ môi trường .................................... 35 2.1.3. Những kết luận về cơ sở lý luận đối với thuế bảo vệ môi trường.................. 37

2.2. Quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường ................................................. 38

iii

2.2.1. Lý thuyết về thất bại thị trường và sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với

thuế bảo vệ môi trường............................................................................................ 38 2.2.2. Khái niệm, ý nghĩa và nguyên tắc quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường41 2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường ................................ 43 2.2.4. Mục tiêu quản lý thuế và tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường............................................................................................ 51

2.3. Kinh nghiệm thế giới và một số bài học rút ra cho Việt Nam trong quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ............................................................... 51

2.3.1. Kinh nghiệm các nước trên thế giới .............................................................. 52 2.3.2. Các bài học rút ra cho Việt Nam ................................................................... 62

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM .................................................................. 65

3.1. Khái quát lịch sử và bộ máy quản lý nhà nước đối với thuế BVMT ở Việt Nam ............................................................................................................................ 65

3.1.1. Lịch sử thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam ................................................. 65 3.1.2. Bộ máy quản lý nhà nước đối với thuế BVMT ở Việt Nam ......................... 66

3.2. Đánh giá thực trạng các nội dung quản lý nhà nước đối với Thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam ............................................................................................. 67

3.2.1. Thực trạng xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ............................................................................... 68

3.2.2. Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường 74 3.2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ...................................................................................................................... 78 3.2.4. Thực trạng hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế bảo vệ

môi trường ............................................................................................................... 84

3.3. Đánh giá chung về thực hiện quản lý nhà nước về Thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam .................................................................................................................... 91

3.3.1. Đánh giá thành công theo các mục tiêu thuế bảo vệ môi trường .................. 91 3.3.2. Đánh giá hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế ................................. 95

CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM ............................................................................................................. 102

4.1. Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường trong các công trình đã công bố ............................................ 102

iv

4.1.1. Nhóm nhân tố vĩ mô và liên quan đến Cơ quan quản lý nhà nước ............. 102

4.1.2. Nhóm nhân tố liên quan đến đối tượng nộp thuế, tính chất hoạt động, đặc điểm của doanh nghiệp .......................................................................................... 104 4.1.3. Nhóm nhân tố quốc tế liên quan đến bảo vệ môi trường ............................ 105

4.2. Mô hình, giả thuyết và thiết kế nghiên cứu đánh giá tác động của các nhân tố ảnh hưởng ............................................................................................................ 107

4.2.1. Đề xuất mô hình và giả thuyết nghiên cứu lý thuyết .................................. 107 4.2.2. Phát triển thang đo nghiên cứu chính thức .................................................. 109

4.2.3. Thiết kế nghiên cứu định lượng .................................................................. 112 4.2.4. Kiểm định thang đo nghiên cứu .................................................................. 113

4.3. Phân tích hồi quy bội và kiểm định mô hình, giả thuyết nghiên cứu ......... 117

4.3.1. Phân tích hồi quy bội và kiểm định mô hình nghiên cứu ............................ 117 4.3.2. Kiểm định các giả thuyết nghiên cứu về tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường ................................... 119 4.3.3. Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về thuế bảo

vệ môi trường ở Việt Nam .................................................................................... 121

CHƯƠNG 5: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM .......................... 134

5.1. Những căn cứ đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam ......................................................... 134

5.1.1. Bối cảnh quốc tế .......................................................................................... 134 5.1.2. Bối cảnh trong nước .................................................................................... 135 5.1.3. Chủ trương của Đảng và nhà nước .............................................................. 135

5.2. Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam ................................................ 136

5.2.1. Đề xuất quan điểm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam ................................................................................................ 136

5.2.2. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường138

5.3. Một số kiến nghị đối với Nhà nước ................................................................ 151

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 153

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .......................................................................................................... 155

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 156

PHỤ LỤC ................................................................................................................... 163

v

Phụ lục 1: Hệ thống văn bản pháp luật về thuế bảo vệ môi trường tại Việt Nam163

Phụ lục 2: Các lĩnh vực áp dụng các loại thuế, phí bảo vệ môi trường phổ biến hiện nay trên thế giới .............................................................................................. 165

Phụ lục 3: Các câu hỏi khung phỏng vấn chuyên gia, các nhà nghiên cứu và cán bộ quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường .................................................. 168

Phụ lục 4: Danh sách các chuyên gia nghiên cứu và quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường ................................................................................................... 169

Phụ lục 5: Bảng hỏi điều tra các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế BVMT . 171

Phụ lục 6: Bảng hỏi khảo sát điều tra đối với các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường .................................. 179

Phụ lục 7: Mô tả đặc điểm mẫu điều tra .............................................................. 187

Phụ lục 8: Phân tích miêu tả kết quả khảo sát điều tra ...................................... 189

vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BVMT : Bảo vệ môi trường

CFA : Phân tích thành tố khẳng định (Confirmatory factor analysis)

CNTT : Công nghệ thông tin

CPTPP

: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership)

EFA : Phân tích thành tố khám phá (Exploratory factor analysis)

ESCAP : Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương Liên Hiệp Quốc

(Economic and Social Commission for Asia and the Pacific)

EU : Liên minh Châu Âu (European Union)

EU : Liên minh Châu Âu (European Union)

EVFTA : Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam (EU-

Vietnam Free Trade Agreement)

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) FDI

: Tổng sản phẩm nội địa (Gross Domestic Product) GDP

: Tổng sản phẩm nội địa (Gross Domestic Product) GDP

: Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon HCFC

: Quỹ tiền tệ thế giới (International Monetary Fund) IMF

: Đóng góp do quốc gia tự quyết định (Nationally Determined INDC

Contributions)

: Ngân sách nhà nước NSNN

: Ngân sách Trung ương NSTW

: Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organisation for Economic OECD

Cooperation and Development)

: Quản lý nhà nước QLNN

: Phần mềm phân tích thống kê (Statistical Package for the Social SPSS

Sciences)

vii

SXKD : Sản xuất kinh doanh

TCHQ : Tổng Cục Hải Quan

TNDN : Thu nhập cá nhân

TTĐB : Tiêu thụ đặc biệt

UBND : Ủy Ban Nhân Dân

UNESCAP hay ESCAP: Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương Liên Hiệp

Quốc (Economic and Social Commission for Asia and the Pacific)

UNESCAP : Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương Liên Hiệp Quốc

(United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific)

UNFCCC : Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi Khí hậu (United

Nations Framework Convention on Climate Change)

UNFCCC : Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi Khí hậu (United

Nations Framework Convention on Climate Change)

WB : Ngân hàng thế giới (World Bank)

XNK : Xuất nhập khẩu

viii

DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Kết quả khảo sát thực trạng hoạt động xây dựng và ban hành luật pháp và chính sách thuế BVMT .................................................................................................. 72 Bảng 3.2: Kết quả khảo sát thực trạng tổ chức bộ máy quản lý thuế BVMT ............... 76

Bảng 3.3: Tỷ lệ thu Thuế BVMT so với GDP và thu NSNN giai đoạn 2012-2019 ..... 81 Bảng 3.4: Số thu thuế BVMT chi tiết các nhóm hàng hóa từ năm 2012-2019 ............. 82 Bảng 3.5: Kết quả khảo sát thực trạng hoạt động tổ chức quản lý thuếBVMT ............ 83 Bảng 3.6: Kết quả thanh tra, kiểm tra giai đoạn 2011-2019 của Tổng cục Thuế .......... 86

Bảng 3.7: Kết quả khảo sát thực trạng hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế BVMT .................................................................................................... 87 Bảng 3.8: Kết quả khảo sát thực trạng hiệu quả QLNN đối với thuế BVMT ............... 95 Bảng 4.1: Bộ thang đo các biến trong mô hình nghiên cứu ........................................ 109 Bảng 4.2: Kết quả phân tích thành tố khám phá (EFA) đối với các biến độc lập ....... 114 Bảng 4.3: Hệ số Cronbach’s Alpha của 7 Biến độc lập và Biến phụ thuộc ................ 115 Bảng 4.4: Kết quả phân tích thành tố khám phá (EFA) đối với Biến phụ thuộc ........ 117

Bảng 4.5: Phân tích tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu ..... 118 Bảng 4.6: Kết quả phân tích hồi quy bội ..................................................................... 118 Bảng 4.7: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan đến nhận

thức và trách nhiệm môi trường của đối tượng nộp thuế BVMT ................................ 122 Bảng 4.8: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tốliên quan đến thương mại quốc tế và xu thế bảo hộ thương mại bằng hàng ràokỹ thuật môi trường ............ 124 Bảng 4.9: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan tình hình

hoạt động SXKD của đối tượng nộp thuế BVMT ....................................................... 125 Bảng 4.10: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan đến Cơ quan quản lý nhà nước về BVMT ............................................................................... 127 Bảng 4.11: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan quy trình

thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT ......................................................................... 129 Bảng 4.12: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan đến ngành thuế về BVMT .................................................................................................. 130 Bảng 4.13: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan xu thế BVMT tại Việt Nam .................................................................................................... 133

ix

DANH MỤC HÌNH Hình 2.1: Tổng quan về thuế BVMT trong các công cụ kinh tế ................................... 32 Hình 2.2: Các công cụ chính sách môi trường và mức độ can thiệp của nhà nước ...... 41

Hình 3.1: Tổ chức bộ máy quản lý thuế hiện hành tại Việt Nam .................................. 66 Hình 4.1: Mô hình nghiên cứu thuyết tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác QLNN đối với thuế BVMT ............................. Error! Bookmark not defined.

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thứ nhất, bảo vệ môi trường (BVMT) là một trong những vấn đề nhận được sự quan tâm toàn cầu từ nhiều năm trở lại đây bởi tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng cùng sự bùng nổ dân số thế giới đã khiến môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng.

Theo đó, một số quốc gia đã có chính sách điều chỉnh han chế tác hại của ô nhiễm môi trường, góp phần nâng cao ý thức BVMT. Điển hình, Thụy Sĩ đã thu lệ phí tiếng ồn máy bay từ năm 1981; Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển đã giới thiệu cải cách thuế năng lượng từ năm 1990; Bỉ áp dụng thuế phát thải cơ vào năm 1993,… Đây là những chính

sách tài khóa mà rất nhiều nước tiến tiến trên thế giới đã áp dụng bằng cách sử dụng công cụ phổ biến là thuế và phí môi trường. Luật thuế BVMT, ở Việt Nam, được ban hành và đưa vào thực thi tương đối muộn (có hiệu lực từ 01/01/012); tuy nhiên cũng là dấu mốc ghi nhận sự nỗ lực của nhà nước trong việc BVMT.

Thứ hai, tại Việt Nam, hiện nay, tình trạng ô nhiễm môi trường đang diễn biến theo chiều hướng xấu khi liên tiếp phải đối đầu với một số hiện tượng đáng lo ngại, chẳng hạn như hiện tượng cá chết hàng loạt do nhiễm độc biển ở miền Trung, hạn hán

ở Tây Nguyên và các tỉnh miền Tây, cũng như tình trạng xâm nhập mặn ở vùng Tây Nam Bộ,… Công tác QLNN về thuế BVMT vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả QLNN.

Thứ ba, cho đến nay, Việt Nam đã ký kết nhiều văn bản liên quan đến môi trường, trong đó phải kể đến các văn kiện quan trọng như: Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu 1992, Công ước về đa dạng sinh học 1992, Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển qua biên giới chất thải độc hại và việc loại bỏ chúng

năm 1995,… Đặc biệt, việc ban hành Luật thuế BVMT năm 2010 và chính thức có hiệu lực năm 2012 có ý nghĩa rất lớn, thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về BVMT. Qua gần 8 năm triển khai thực hiện, chính sách thuế BVMT cơ bản đã đạt được các mục tiêu, yêu cầu đề ra như: đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế

bền vững, khuyến khích phát triển kinh tế đi liền giảm ô nhiễm môi trường; nâng cao ý thức BVMT của toàn xã hội; thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam với cộng đồng quốc tế; động viên hợp lý đóng góp của xã hội, tạo thêm nguồn thu để giải quyết vấn đề môi trường,… Tuy nhiên, do chính sách thuế BVMT ở Việt Nam là một chính sách mới nên trong quá trình triển khai thực hiện đã phát sinh những vướng mắc và hạn chế từ xây dựng chính sách, tổ chức triển khai, công tác thanh tra kiểm tra, cũng

như mục tiêu thực hiện cải cách thuế BVMT, điều này cần thiết phải được nghiên cứu,

2

đánh giá một cách tổng thể, đầy đủ, toàn diện để từ đó đề xuất khắc phục những điểm

yếu, hạn chế, vướng mắc và sửa đổi, bổ sung hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với thuế BVMT trong thời gian tới.

Thứ tư, theo số liệu thống kê từ Bộ Tài chính, số thu từ thuế BVMT tăng trưởng đều qua các năm. Nếu số thu năm 2012 – năm đầu tiên thực hiện Luật thuế BVMT – mới chỉ đạt 11.160 tỷ đồng thì đến năm 2019 đã tăng gần 6 lần đạt 64.463 tỷ đồng; chiếm tỷ trọng 4,16% tổng thu NSNN và đóng góp 1,07% vào GDP hàng năm. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi Luật này đã phát sinh một số bất cập như: đối tượng chịu thuế còn hạn

hẹp, thời điểm tính thuế đối với mặt hàng xăng dầu chưa đồng bộ, cách tính thuế và thu thuế chưa hợp lý giữa các đối tượng, chưa làm rõ sự khác nhau cơ bản giữa thuế BVMT và phí môi trường, mục đích nguồn thu thuế chưa rõ ràng, công tác quản lý thuế còn nhiều

yếu kém,… Chính vì thế, cần nghiên cứu đánh giá hoạt động quản lý nhà nước (QLNN) đối với thuế BVMT để quá trình thực thi đạt hiệu quả cao nhất.

Thứ năm, hiện nay, tại Việt Nam, số lượng các công trình nghiên cứu về QLNN đối với thuế BVMT chưa nhiều, đa phần mới chỉ dừng lại ở những bài viết mang tính

đóng góp cho dự thảo của Luật thuế BVMT, nhiều nghiên cứu chỉ dưới gốc độ tiêu chí chứ không đi sâu dưới góc độ QLNN, hoặc chỉ về vấn đề BVMT. Thực tế cho thấy chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào các vấn đề liên quan đến thuế BVMT như thực trạng pháp luật, thực trạng QLNN, thực trạng thực thi,… của luật này. Điều này cho

thấy cần có một nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về QLNN đối với thuế BVMT, trước hết là xây dựng tổng quan nghiên cứu, đưa ra đánh giá nghiên cứu, xác định khoảng trống nghiên cứu và định hướng nghiên cứu một cách chính xác và phù hợp.

Xuất phát từ những lý do nêu trên và mong muốn đóng góp vào việc nghiên cứu chủ đề BVMT ở khía cạnh QLNN, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam” để thực hiện Luận án Tiến sĩ. Luận án này nhằm nghiên cứu thực trạng QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam hiện nay,

từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện hoạt động này trong thời gian tới.

2. Mục đích nghiên cứu

• Mục đích chung

Luận án đặt mục tiêu góp phần hoàn thiện lý thuyết về QLNN đối với thuế

BVMT; trên cơ sở đó đánh giá thực trạng, đề xuất định hướng và hệ thống các giải pháp có tính khoa học hoàn thiện công tác QLNN về thuế BVMT tại Việt Nam trong thời gian tới, nhằm bảo đảm được các mục tiêu QLNN về thuế BVMT của Việt Nam.

3

• Mục tiêu cụ thể

Về lý luận: Luận án tập trung làm rõ các nội dung sau:

(i) Những vấn đề mang tính nguyên tắc và yêu cầu đặt ra trong công tác QLNN

đối với thuế BVMT;

(ii) Nội hàm QLNN đối với thuế BVMT: xây dựng và ban hành các chính sách thu thuế BVMT; thiết lập bộ máy QLNN đối với thuế BVMT; tổ chức thực hiện chính

sách thuế BVMT; thanh tra kiểm tra và xử lý hành vi vi phạm chính sách thu thuế BVMT;

(iii) Mục tiêu và tiêu chí đánh giá mục tiêu QLNN đối với thuế BVMT;

(iv) Các nhân tố ảnh hưởng đến QLNN đối với thuế BVMT để có cái nhìn tổng

quan về bối cảnh QLNN, kết hợp với thực trạng các nội hàm QLNN và đánh giá mục tiêu QLNN đối với thuế BVMT trong thời gian qua, đề đề xuất các giải pháp hoàn thiện.

Về thực tiễn:

(i) Luận án thực hiện nghiên cứu kinh nghiệm QLNN đối với thuế BVMT của

một số nước trên thế giới.

(ii) Luận án phân tích thực trạng các nội dung QLNN về thuế BVMT tại Việt

Nam trong giai đoạn hiện nay.

(iii) Luận án đánh giá QLNN về thuế BVMT, bao gồm: đánh giá các mục tiêu QLNN, và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến công tác QLNN về thuế BVMT tại Việt Nam.

(iv) Luận án đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN về thuế

BVMT tại Việt Nam trong thời gian tới.

3. Câu hỏi nghiên cứu

Trong bối cảnh nghiên cứu đã trình bày, câu hỏi nghiên cứu tổng quát của luận án được đặt là: Việt Nam cần làm gì để hoàn thiện hơn nữa công tác QLNN đối với thuế BVMT trong thời gian tới?

Các câu hỏi nghiên cứu phụ được chi tiết hóa gồm:

1. Cơ sở lý thuyết về QLNN đối với thuế BVMT: nguồn gốc hình thành và mục tiêu của thuế BVMT là gì? Bản chất các nội dung, các nhân tố ảnh hưởng và tiêu chí đánh giá hiệu quả QLNN về thuế BVMT?

4

2. Thực trạng nội dung và thực thi QLNN về thuế BVMT tại Việt Nam hiện nay

như thế nào? Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả QLNN về thuế BVMT? Những thành công trong QLNN về thuế BVMT tại Việt Nam là gì? Có gì bất cập, khó khăn gì? Nguyên nhân do đâu?

3. Các quan điểm và giải pháp nào cần triển khai thực hiện để hoàn thiện QLNN đối với thuế BVMT, cũng như đảm bảo sự tuân thủ nộp thuế của đối tượng đóng thuế BVMT tại Việt Nam trong thời gian tới?

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

• Đối tượng nghiên cứu: QLNN về thuế BVMT ở Việt Nam.

• Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung nghiên cứu: Luận án phân tích và làm rõ thực trạng QLNN đối với thuế BVMT trên phương diện tác giả là một nhà nghiên cứu công tác tại Bộ Tài chính, tập trung vào 4 nhóm nội dung chính: (1) Xây dựng và ban hành các chính sách thuế BVMT; (2) Tổ chức bộ máy và phân cấp QLNN đối với thuế BVMT; (3) Thực

hiện QLNN đối với thuế BVMT và (4) Thanh tra kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến thuế BVMT.

Về thời gian nghiên cứu: Do Luật thuế BVMT có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012, nên luận án sẽ tập trung nghiên cứu thực trạng QLNN đối với thuế BVMT trong giai đoạn 2012-2019 để có thể làm rõ những thay đổi trong QLNN trước và sau khi Luật thuế BVMT có hiệu lực thi hành. Các phương hướng và đề xuất giải pháp hoàn thiện QLNN đối với thuế BVMT áp dụng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030.

Về không gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu thực trạng QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam. Với đặc thù là quốc gia đang phát triển và Luật thuế BVMT chỉ mới được triển khai áp dụng năm 2012, việc nghiên cứu công tác QLNN đối với thuế

BVMT là rất cần thiết và có ý nghĩa thiết thực với phát triển kinh tế - môi trường tại Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu

 Phương pháp thu thập dữ liệu

Trong luận án này, tác giả sử dụng một số phương pháp thu thập dữ liệu cụ thể

như sau:

- Dữ liệu thứ cấp: Các dữ liệu thứ cấp trong nghiên cứu này được thu thập từ các báo cáo cập nhật của các cơ quan, tổ chức (Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Tài

5

nguyên Môi trường, Tổng cục thống kê, Tổng Cục Thuế, WB...); báo cáo tổng kết từ

các chương trình, dự án cũng như các kết quả đã công bố của các hội nghị, hội thảo, các cuộc điều tra, khảo sát và đề tài NCKH do các tổ chức, cá nhân có liên quan trong và ngoài nước thực hiện. Ngoài ra, các dữ liệu thứ cấp còn được thu thập từ sách, báo, các kết quả từ các công trình khoa học có liên quan tới thực trạng QLNN đối với thuế BVMT trong những năm gần đây.

Bên cạnh đó, nguồn dữ liệu thứ cấp quan trọng khác phục vụ cho nghiên cứu này là các văn bản pháp lý hiện hành tại Việt Nam có liên quan đến QLNN về thuế

BVMT như Luật BVMT, Luật Thuế BVMT, … Đây là nguồn dữ liệu thứ cấp hữu ích, cung cấp các thông tin quan trọng về các quy định hiện hành của nhà nước liên quan đến công tác QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam.

- Dữ liệu sơ cấp qua phỏng vấn: Trong nghiên cứu này, tác giả thu thập dữ liệu sơ cấp bằng phương pháp phỏng vấn sâu với 28 chuyên gia, nhà nghiên cứu, cán bộ QLNN trong lĩnh vực QLNN về thuế BVMT (Phụ lục 4) nhằm phân tích thực trạng QLNN đối với thuế BVMT cũng như tham vấn để xây dựng Phiếu điều tra phục vụ

đánh giá. Đây là kỹ thuật nghiên cứu định tính, theo đó, những người tham gia phỏng vấn được yêu cầu phát biểu cảm nhận, đánh giá của họ về vấn đề nghiên cứu. Mục đích của các cuộc phỏng vấn chuyên sâu cá nhân chú trọng thu thập ý kiến đánh giá của các nhà quản lý và các chuyên gia về QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam hiện nay,

luận án sử dụng phỏng vấn bán cấu trúc (dựa theo danh mục các câu hỏi hoặc các chủ đề cần đề cập đến, Phụ lục 3) để có thể tìm hiểu sâu về vấn đề nghiên cứu.

Sau khi xác định rõ mục tiêu và phương pháp phỏng vấn, tác giả xác định các

đối tượng tham gia phỏng vấn, và tiến hành liên hệ để lên kế hoạch về thời gian và địa điểm phỏng vấn. Các nội dung phỏng vấn được xây dựng trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu đã được xác định trước. Nội dung phỏng vấn chuyên sâu tập trung vào các vấn đề chính như: (1) Thực trạng các chính sách thuế BVMT tại Việt Nam; (2) Thực trạng

công tác QLNN đối với thuế BVMT; (3) Những khó khăn trong QLNN đối với thuế BVMT; (4) Định hướng QLNN đối với thuế BVMT.

- Dữ liệu sơ cấp qua khảo sát điều tra:

Trên cơ sở Phiếu điều tra khảo sát đã hoàn thiện sau phỏng vấn chuyên sâu, tác giả đã tiếp tục tiến hành khảo sát đối với 68 chuyên gia, nhà quản lý về QLNN đối với thuế BVMT. Đây là đối tượng chuyên sâu vừa hiểu về công tác QLNN, xây dựng cơ chế chính sách cũng như các vấn đề liên quan đến đối tượng nộp thuế, hoạt động của

doanh nghiệp trong lĩnh vực thuế BVMT.

6

Đồng thời, để củng cố thêm dữ liệu sơ cấp cho nghiên cứu, tác giả tiến hành

một cuộc khảo sát điều tra bảng hỏi đối với 155 doanh nghiệp về QLNN đối với thuế BVMT trên cả nước. Đây là đối tượng vừa phải chịu thuế và đi đóng thuế thay người tiêu dùng cuối cùng; vì vậy, đối tượng này có thể cung cấp nhiều thông tin hữu ích và đưa ra các đánh giá chính xác về hiệu quả QLNN đối với thuế BVMT.

Để triển khai khảo sát điều tra, trước tiên, tác giả xác định mục đích khảo sát điều tra. Theo đó, mục đích khảo sát điều tra là nghiên cứu thực trạng công tác QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam hiện nay. Bảng hỏi gồm hai nội dung chính là thông

tin của doanh nghiệp tham gia khảo sát và thực trạng QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam hiện nay. Kết quả thu về từ khảo sát hai đối tượng trên hình thành mẫu nghiên cứu là 223 phiếu, gồm: 68 phiếu chuyên gia 155 phiếu doanh nghiệp là đối

tượng chịu thuế BVMT (Phụ lục 7 và Phụ lục 8).

 Phương pháp phân tích dữ liệu

- Đối với dữ liệu thứ cấp, tác giả sử dụng kết hợp cả hai phương pháp quy nạp và suy diễn nhằm đưa ra các lập luận của mình trên cơ sở những kiến thức, kinh nghiệm và

các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Cả hai phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong phần cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng công tác QLNN đối với thuế BVMT hiện nay. Đồng thời, các chỉ số thống kê mô tả như trung bình, độ lệch chuẩn, phần trăm, tốc độ phát triển, tốc độ phát

triển bình quân... là các chỉ số thống kế dùng để phân tích dữ liệu thứ cấp.

- Đối với dữ liệu sơ cấp quan phỏng vấn và khảo sát điều tra, tác giả sử dụng

một số phương pháp phân tích dữ liệu sau đây:

+ Tổng hợp, phân tích thống kê: Các dữ liệu phỏng vấn được tổng hợp lại và phân loại theo từng nội dung cụ thể liên quan đến QLNN về thuế BVMT. Hoạt động này tạo thuận tiện cho quá trình nghiên cứu của tác giả. Trong trường hợp một số thông tin phỏng vấn chưa rõ ràng, tác giả gọi điện lại cho người tham gia phỏng vấn để

xác nhận với họ. Dữ liệu phỏng vấn thu thập được tổng hợp phân tích kết hợp với kết quả khảo sát nhằm đánh giá thực trạng các nội dung QLNN, đánh giá thực hiện các mục tiêu QLNN đối với thuế BVMT.

+ Phương pháp định lượng: Đánh giá tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả QLNN đối với thuế BVNT. Cụ thể, tác giả sử dụng phần mềm Excel và SPSS để tổng hợp, phân tích dữ liệu sơ cấp khảo sát trên cơ sở mô hình lý thuyết được đề xuất, lượng hóa mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng với kết quả QLNN bằng

7

phương pháp phân tích hồi quy, đồng thời để đánh giá mức độ quan trọng (mức độ tác

động, giải thích) của mỗi biến độc lập tới biến phụ thuộc, kết luận có hay không bác bỏ các giả thuyết về tác động của mỗi nhân tố ảnh hưởng tới QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, để phân tích các dữ liệu này, tác giả sử dụng các phép thống kê như phần trăm, trung bình ... nhằm đánh giá tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam.

6. Những đóng góp mới của luận án

6.1. Về lý luận:

Thứ nhất, luận án đã tiếp cận trên góc độ quản lý nhà nước (QLNN) về thuế bảo vệ môi trường (BVMT) nhằm khắc phục thất bại của thị trường đối với khía cạnh tác động ngoại lai của môi trường, bao gồm: (i) Xây dựng và ban hành các chính sách thu

thuế BVMT; (ii) Bộ máy QLNN về thuế BVMT; (iii) Tổ chức thực hiện chính sách thuế BVMT; (iv) Thanh tra kiểm tra và xử lý hành vi vi phạm chính sách thu thuế BVMT. Cách tiếp cận này là mới so với một số nghiên cứu trước đây ở Việt Nam, chủ

yếu tập trung vào nghiên cứu các khía cạnh để hoàn thiện luật thuế như nội dung thuế, các loại thuế, phương pháp tính thuế, hoặc các chính sách thuế BVMT. Đó là cách tiếp cận nghiên cứu của khoa học quản lý.

Thứ hai, phần lớn, các nghiên cứu về thuế BVMT trong thời gian gần đây ở Việt Nam đơn thuần đứng trên góc độ tài chính. Điểm mới của luận án là giải quyết vấn đề theo hai góc độ là tài chính và môi trường. Quan trọng hơn, luận án nhấn mạnh góc độ thứ hai: quản lý nhà nước về thuế BVMT phải nhằm đến mục tiêu chủ yếu là phải bảo vệ được môi trường. Theo đó, luận án xác định nhóm tiêu chí đầu tiên đánh giá hiệu quả QLNN về thuế BVMT là đáp ứng được yêu cầu về BVMT, sau đó mới là nhóm tiêu chí về tăng thu từ thuế. Điều đó có nghĩa là tiêu chí tăng thu từ thuế phải được ưu tiên thấp hơn mục tiêu về BVMT. Đây là quan điểm mới so với các quan

điểm truyền thống về mục tiêu của thuế. Từ quan điểm đó nên nhóm nhân tố liên quan đến BVMT đã được luận án xem là chủ đạo khi lập luận về hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến QLNN về thuế BVMT của luận án.

6.2. Về thực tiễn:

- Ngoài việc sử dụng mô hình định lượng để chỉ ra được 6 nhân tố tác động đến hiệu quả của QLNN về thuế BVMT, điểm mới của luận án là còn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, và thang đo Likert để nghiên cứu, chỉ ra được trạng thái của các

nhân tố này hiện nay như thế nào ở Việt Nam. Trong khi còn nhiều quan điểm cho rằng

8

hiệu quả hành thu thuế BVMT thấp hiện nay là do hạn chế năng lực tài chính của doanh

nghiệp, hay tính bất hợp lý của chính sách thuế, các thủ tục quy trình nộp thuế thiếu khoa học, thì qua phân tích bằng mô hình định lượng, luận án đã kết luận nút thắt chính là: (i) Nhận thức và trách nhiệm môi trường và sự tự nguyện của doanh nghiệp; (ii) Bộ máy quản lý nhà nước về thuế BVMT hoạt động còn thiếu hiệu quả; (iii) Tổ chức thực thi, thanh kiểm tra và xử phạt vi phạm theo pháp luật BVMT chưa nghiêm minh. Những phát hiện mới này của luận án là cơ sở để luận án đề xuất những giải pháp đột phá trong tăng cường QLNN về thuế BVMT.

- Luận án đã khẳng định, BVMT và thúc đẩy sự phát triển bền vững của kinh tế- xã hội của đất nước là mục tiêu hàng đầu chương trình hoàn thiện QLNN về thuế BVMT. Các giải pháp chính được đề cập trong luận án hướng tới giải quyết các nút thắt ảnh hưởng không tích cực nhất đến QLNN về thuế BVMT, đó là: (i) Hoàn thiện các khía cạnh kinh tế của thuế BVMT nhằm nâng cao trách nhiệm doanh nghiệp đến BVMT; (ii) Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thuế BVMT, nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện thuế BVMT; (iii) Hoàn thiện hoạt động thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế BVMT.

7. Kết cấu của luận án

Luận án được kết cấu gồm 5 Chương, không kể phần mở đầu và kết luận, cụ

thể gồm:

• Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến quản lý

nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

• Chương 2: Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi

trường

• Chương 3: Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

ở Việt Nam

• Chương 4: Đánh giá tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản

• Chương 5: Định hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với

lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam

thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam.

9

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài

Thuế BVMT đã được các học giả trên thế giới nghiên cứu từ cuối những năm 1990, và nở rộ trong 2 thập niên gần đây. Các nghiên cứu chủ yếu chú trọng phân tích về vai trò và tác động của thuế BVMT. Từ năm 2010 đến nay, các nghiên cứu nước ngoài tập trung vào việc hoàn thiện và đổi mới thuế BVMT về thực tiễn. Các nghiên cứu tiêu biểu gồm:

1.1.1. Các nghiên cứu về thuế và thuế bảo vệ môi trường

- YipChi Man (2018), “On the labor market consequences of environmental taxes”, Journal of Environmental Economics and Management, Volume 89, Pages 136-152.

Nghiên cứu “Hậu quả thị trường lao động của thuế môi trường”chỉ ra tác động của thuế BVMT đến thị trường lao động một quốc gia. Cụ thể, nghiên cứu chú trọng phân tích và đánh giá ảnh hưởng của thuế BVMT đối với thị trường lao động trong các ngành sản xuất sử dụng nhiều năng lượng. Trong đó, tác giả cho rằng việc đánh thuế BVMT nhiều hơn đối với thị trường lao động phổ thông tại các doanh nghiệp này là không hoàn toàn hợp lý.

Điều này sẽ dẫn tới tình trạng thất nghiệp, đặc biệt là các lao động nam có trình độ học vấn trung bình. Bằng chứng cho thấy tình trạng thất nghiệp của bộ phận nam giới có trình độ học vấn thấp ngày càng gia tăng tại một số quốc gia trên thế giới do mức thuế BVMT áp dụng cho vị trí công việc của họ cao khiến họ chán nản và quyết định rời khỏi lực lượng lao động. Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả cho rằng các quốc gia cần cân nhắc việc đánh thuế BVMT đối với các ngành sản xuất sử dụng nhiều năng lượng bởi điều này ảnh hưởng lớn đến thị trường lao động các ngành này.

- OueslatiWalid (2015), “Growth and welfare effects of environmental tax reform and public spending policy”, Economic Modelling, Volume 45, Pages 1-13.

Nghiên cứu“Tác động tăng trưởng và phúc lợi của cải cách thuế môi trường và chính sách chi tiêu công”phân tích tác động của thuế BVMT đến tăng trưởng và các phúc lợi xã hội của một quốc gia. Cụ thể, tác giả cho rằng cải cách thuế BVMT và chính sách chi tiêu công tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội. Tác giả sử dụng mô hình tăng trưởng nội sinh hai ngành trong đó tính đến các tương tác giữa lĩnh vực y tế, giáo dục và môi trường. Từ đó, tác giả nhận thấy cải cách thuế

10

BVMT tác động tích cực thay đổi cơ cấu chi tiêu công giúp cải thiện tăng trưởng và phúc lợi dài hạn.

Tuy nhiên, điều này dẫn đến chi phí phúc lợi tương đối cao trong giai đoạn chuyển tiếp.Hơn nữa, giảm thuế trên tiền lương có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, mạnh hơn là giảm thuế trên lợi nhuận. Ngoài ra, phúc lợi xã hội cũng phụ thuộc vào các nhân tố khác, như chi tiêu cho giáo dục;mặt khác giảm ô nhiễm cũng tác động tích cực đến tích lũy vốn nhân lực. Khi cải cách thuế BVMT gắn liền với sự thay đổi trong cơ cấu chi tiêu công, tác động đến tăng trưởng và phúc lợi vẫn tích cực, nhưng với mức độ thay đổi.

- Abdullah Sabah, Morley Bruce (2014), “Environmental taxes and economic growth: Evidence from panel causality tests”, Energy Economics, Volume 42, Pages 27-33.

Nghiên cứu“Thuế môi trường và tăng trưởng kinh tế: bằng chứng từ các bài kiểm tra nhân quả”nhằm mục đích xác định rõ tác động của thuế BVMT đến tăng trường kinh tế. Cụ thể, các tác giả tập trung làm rõ mối quan hệ giữa thuế BVMT và tăng trưởng kinh tế thông qua sử dụng các biện pháp khác nhau về thuế BVMT với GDP cũng như tiết kiệm ròng được điều chỉnh. Kết quả cho thấy một số bằng chứng về quan hệ dài hạn giữa tăng trưởng kinh tế và tăng doanh thu từ thuế BVMT, tuy nhiên cũng có một số bằng chứng về mối quan hệ ngắn hạn theo hướng ngược lại. Nhìn chung, dân số và chính sách trợ cấp kinh tế ít ảnh hưởng đến mối quan hệ dài hạn giữa tăng trưởng kinh tế và tăng doanh thu từ thuế BVMT, mặc dù chính sách trợ cấp có một số tác động ngắn hạn đối với tăng trưởng.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra tác động dài hạn của GDP và tiết kiệm được điều chỉnh ròng đối với thuế BVMT và vận tải. Tuy nhiên, có rất ít bằng chứng về quan hệ dài hạn theo hướng khác với dữ liệu thuế BVMT và giao thông của EU hoặc OECD. Kết quả này không thay đổi đáng kể khi các nhân tố khác được xem xét, chẳng hạn như dân số và chính sách trợ cấp môi trường.

- OueslatiWalid (2014), “Environmental tax reform: Short-term versus long- term macroeconomic effects”, Journal of Macroeconomics, Volume 40, Pages 190-201.

Nghiên cứu“Cải cách thuế môi trường: Tác động kinh tế vĩ mô ngắn hạn so với dài hạn” xem xét các tác động kinh tế vĩ mô của thuế BVMT trong một nền kinh tế đang phát triển. Một mô hình tăng trưởng nội sinh dựa trên tích lũy vốn nhân lực được sử dụng để mô phỏng số lượng các tác động tăng trưởng của những cải cách thuế BVMT khác nhau và tính toán tác động của chúng đối với phúc lợi trong ngắn hạn và dài hạn. Kết quả cho thấy mức độ tác động phụ thuộc vào loại cải cách thuế và sự hiện

11

diện của chi phí điều chỉnh cho đầu tư. Mặc dù, cải cách thuế xanh nhằm mục đích sử dụng nguồn thu từ thuế BVMT để giảm thuế đối với tiền lương luôn cải thiện tăng trưởng, hiệu quả phúc lợi dài hạn của thuế phụ thuộc vào chi phí điều chỉnh vốn. Hơn nữa, hiệu quả phúc lợi ngắn hạn luôn luôn là tiêu cực đối với bất kể kịch bản cải cách thuế nào tại các nền kinh tế đang phát triển.

- LiuAntung Anthony (2013), “Tax evasion and optimal environmental taxes”, Journal of Environmental Economics and Management, Volume 66, Issue 3, Pages 656-670.

Nghiên cứu về“Trốn thuế và thuế môi trường tối ưu”chỉ ra tác động của thuế BVMT đến kinh tế - xã hội của một quốc gia. Đặc biệt, tác giả đưa ra lập luận mới về tác động của một số hành vi liên quan đến thuế BVMT. Tác giả cho rằng một số thuế BVMT, đặc biệt là thuế đối với xăng hoặc điện, khó trốn hơn thuế đối với lao động hoặc thu nhập. Khi cơ sở thuế được thay đổi theo cách trung lập về doanh thu đối với các loại thuế BVMT này, kết quả là làm giảm đáng kể số tiền trốn thuế. Sử dụng thuế carbon làm ví dụ,tình trạng trốn thuế được chứng minh là làm giảm mạnh các chi phí phục vụ cho việc kiểm soát khí thải, từ đó ảnh hưởng đến tình hình vĩ mô chung, đặc biệt là tại các quốc gia có mức độ trốn thuế cao.Nhóm tác giả đã phát hiện sự thay đổi trung lập về doanh thu đối với thuế BVMT có thể có chi phí cực kỳ thấp hoặc tiêu cực, ngay cả khi thuế carbon được thực hiện. Đồng thời, nghiên cứu đã xem xét cẩn thận vấn đề trốn thuế khi thiết kế thuế carbon.

- Wiesmeth Hans (2013), Environmental Economics: Theory and Policy in Equilibrium, Springer-Verlag Berlin and Heidelberg GmbH & Co. KG

Nghiên cứu“Kinh tế môi trường: Lý thuyết và chính sách cân bằng” đã nêu lên các nội dung quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề môi trường bằng các công cụ kinh tế, đặc biệt là vai trò của thuế BVMT trong việc kiểm soát các vấn đề kinh tế. Cụ thể, nghiên cứu đã chỉ rõ ở một mức độ nhất định, suy thoái môi trường là kết quả của các hoạt động kinh tế, cho nên mâu thuẫn giữa kinh tế và sinh thái được xem là hiển nhiên. Để giải quyết vấn đề này, việc sử dụng công cụ thuế BVMT có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế và môi trường của các quốc gia.

Chính bởi vậy, trong nghiên cứu này, tác giả đã tập trung giải thích vai trò của thuế BVMT, đồng thời thực hiện các phân tích chuyên sâu về phương pháp cân bằng đối với kinh tế môi trường. Nghiên cứu thảo luận sự cần thiết phải có các cơ chế áp dụng thuế BVMT phù hợp, ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế, để giải quyết các vấn đề môi trường. Ngoài ra, nghiên cứu tiến hành một cuộc khảo sát để làm rõ vấn đề này.

Theo kết quả khảo sát của nghiên cứu này, các chính sách môi trường hiện tại trên thế giới khá đa dạng, gồm các quy định, công cụ và các cuộc đàm phán liên quan

12

đến môi trường, ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế, trong đó thuế BVMT có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, sự hiểu biết đầy đủ về kinh tế môi trường và vai trò của thuế BVMT cần được đẩy mạnh hơn nữa trong việc ban hành các chính sách môi trường tại các quốc gia.

- Böcher Michael (2012), “A theoretical framework for explaining the choice of instruments in environmental policy”, Forest Policy and Economics, Volume 16, Pages 14-22.

Nghiên cứu“Khung lý thuyết để giải thích sự lựa chọn các công cụ trong chính sách môi trường”bằng việc tập trung nghiên cứu vai trò của thuế BVMT và chính sách nhà nước về thuế BVMT tại Đức, nghiên cứu chia quá trình cải cách chính sách nhà nước về thuế BVMT ở Đức thành hai giai đoạn chính. Trong giai đoạn đầu tiên, nhìn chung, ý tưởng về chính sách cải cách thuế BVMTđã được hình thành sau khi cấu trúc chính sách môi trường được thay đổi. Nhờ vậy, một liên minh bao gồm những người ủng hộ thuế BVMT được hình thành và chịu ảnh hưởng bởi sự phát triển thể chế trong bối cảnh Liên minh Châu Âu. Như vậy, trong giai đoạn này, vai trò của thuế BVMT đã được nhìn nhận một cách đầy đủ.

Trong giai đoạn thứ hai, trọng tâm của quy trình cải cách chính sách đã chuyển sang các cấu hình phân phối. Lợi ích và quyền lực trở nên quan trọng hơn, và điều này đã làm giảm khả năng thay đổi chính sách môi trường. Các nhân tố thể chế liên quan đến hệ thống chính trị Đức đã phân định phạm vi lựa chọn thực tế mà các chủ thể chính sách có thể đưa ra liên quan đến chính sách môi trường. Nhìn chung, ở giai đoạn này, thuế BVMT chưa được nhìn nhận đúng với vai trò của nó, việc ra quyết định của các chủ thể chính trị đối với thuế BVMT ở mức độ không cao.

Nhìn chung, trong nghiên cứu này, tác giả đã tập trung nhấn mạnh vai trò của thuế BVMT trong chính sách môi trường của các quốc gia. Đồng thời, theo tác giả, vai trò của thuế BVMT đôi khi chưa được nhìn nhận và đánh giá một cách chính xác bởi các chủ thể chính trị, điều này làm giảm hiệu quả của công cụ thuế BVMT.

- Cornelia Piciu Gabriela and LenutaTrica Carmen (2012), “Trends in the Evolution of Environmental Taxes”, Procedia Economics and Finance, Volume 3, Pages 716-721.

Nghiên cứu“xu hướng phát triển của thuế môi trường”đã làm rõ vai trò quan trọng của thuế BVMT như một công cụ tác động tích cực đến sự phát triển môi trường trên cơ sở quan điểm của các nhà chính trị.Những tác động của các hoạt động kinh tế đối với môi trường ngày càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Vì vậy, việc áp dụng thuế mô-đun sẽ cho phép Liên minh châu Âu triển khai hiệu quả các giải pháp BVMT trên cơ sở thu thuế công bằng đối với các công dân của EU.

13

Thuế mô-đun dựa trên một loại thuế đã được áp dụng ở các nước châu Âu và trong hệ thống tài chính của liên minh, không mang lại bất kỳ tác dụng phụ nào đối với hiệu quả và công bằng của nền kinh tế. Các tác giả cho rằng một cơ chế cân bằng nên được phát triển giữa các thành viên của quốc gia để bù đắp cho sự thay đổi trong thu nhập từ mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, sự cân bằng giữa các thành viên quốc gia về hàng hóa và dịch vụ chưa được áp dụng phải được thiết lập.

- Westin Richard (1994), “International trade and environmental taxes”,

Renewable Energy, Volume 5, Issues 5–8, Pages 1293-1299.

Trong nghiên cứu“Thương mại quốc tế và thuế môi trường” tác giả cho rằng cuộc khủng hoảng môi trường là tiền đề của các đề xuất thuế nhằm kiểm soát thiệt hại cho môi trường Trái Đất. Tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của thuế BVMT như một giải pháp hữu ích cho ngành năng lượng thay thế bởi có thể tạo gánh nặng tài chính cho các dạng năng lượng không mong muốn. Về cơ bản, những đề xuất thuế BVMT này rất hấp dẫn, nhưng đồng thời cũng là đối tượng của các cuộc tranh luận bởi vì thuế có tác động đáng kể đến các mô hình ngoại thương.

Theo nghiên cứu này, thuế BVMT có vai trò quan trọng thông qua những tác động đến luật thương mại quốc tế dựa theo các hiệp ước đa phương mà nhiều quốc gia đã ký kết, trong đó chủ yếu là các quốc gia phát triển. Vì vậy, các hiệp ước này cần được thực hiện nghiêm túc, đồng thời phải được kiểm soát cẩn thận nhằm đảm bảo tính hiệu quả của việc thực thi thuế BVMT. Ngoài ra, đối với các quốc gia, các vấn đề liên quan đến thuế BVMT trong việc thiết lập thương mại quốc tế cần được cân nhắc cẩn thận.

- Baumol và Oates (1988), The Theory of Environmental Policy, Cambridge:

Cambridge University Press, 2nd ed.

Trong nghiên cứu“Lý thuyết và chính sách môi trường” này, vai trò của thuế BVMT đối với sự hiệu quả của nền kinh tế thị trường được các tác giả chú trọng quan tâm. Trước tiên, các tác giả hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về xây dựng chính sách môi trường tại các quốc gia. Nghiên cứu chú trọng xác định các nhân tố bên ngoài tác động đến sự hoạt động hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Kết quả phân tích cho thấy, bộ thuế Pigouvian rất hữu ích trong việc điều chỉnh tác động ngoại lai. Thuế Pigouvian đưa ra mức thuế bằng với những thiệt hại xã hội cận biên, từ đó có thể duy trì tính hiệu quả trong môi trường cạnh tranh.

Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng áp dụng phân tích kinh tế vào việc thiết kế một chính sách môi trường khả thi và hiệu quả. Dựa trên thiết kế và thực thi các biện pháp chính sách trong một môi trường hành chính điển hình, trong đó cơ quan môi trường trước tiên xác định một bộ tiêu chuẩn môi trường (ví dụ, nồng độ chất ô nhiễm cho

14

phép), các tác giả đã thiết lập một khung chính sách môi trường để đạt được các tiêu chuẩn này. Theo đó, các hệ thống phí và giấy phép phát thải có thể được sử dụng để đạt được các tiêu chuẩn định trước về chất lượng môi trường. Ngoài ra, một số công cụ chính sách khác cũng có thể được nghiên cứu áp dụng trong điều kiện cụ thể của từng quốc gia.

1.1.2. Các nghiên cứu về quản lý nhà nước về thuế và thuế bảo vệ môi trường

- Hafstead Marc, Williams III Roberton (2018), “Unemployment and environmental regulation in general equilibrium”, Journal of Public Economics, Volume 160, Pages 50-65.

Trong nghiên cứu “Thất nghiệp và điều tiết môi trường trong trạng thái cân bằng chung”, tác giả tập trung nghiên cứu QLNN về thuế BVMT. Cụ thể, tác giả đã phân tích các tác động của chính sách và công tác quản lý môi trường, đặc biệt là thuế BVMT đối với vấn đề việc làm và thất nghiệp. Nghiên cứu cho rằng việc áp thuế BVMT sẽ làm giảm đáng kể việc làm trong ngành công nghiệp gây ô nhiễm, nhưng điều này được giải quyết bằng việc gia tăng việc làm trong các khu vực không hoặc ít gây ô nhiễm. Kết quả là, mặc dù chính sách liên quan đến thuế BVMT gây ra sự thay đổi đáng kể về việc làm giữa các ngành, những hiệu quả ròng về việc làm nói chung (và thất nghiệp) là rất nhỏ, ngay cả trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, định mức (tiêu chuẩn) môi trường gây ra sự thay đổi đáng kể trong ngành nghề so với thuế phát thải, với các tác động ròng gần tương tự nhau.

Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách muốn giảm thiểu sự thay đổi việc làm giữa các ngành thì nên ưu tiên giải pháp sử dụng các tiêu chuẩn môi trường thay vì thuế BVMT. Kết quả nghiên cứu cho thấy các quốc gia cần phải thận trọng trong việc triển khai các chính sách và công tác QLNN đối với thuế BVMT để đảm bảo cân bằng về các tác động của chúng.

- Bachus Kris (2017), The use of environmental taxation as a regulatory

policy instrument, PhD. Thesis, Faculteit Sociale Wetenschappen.

Trong nghiên cứu “Sử dụng thuế môi trường như một công cụ chính sách quản lý”, tác giả cho rằng Nhà nước cần thiết phải sử dụng thuế BVMT như một công cụ điều tiết trong quản lý chính sách môi trường. Một số vấn đề liên quan đến công cụ này được tác giả nghiên cứu cụ thể, bao gồm:vai trò của thuế BVMT trong hệ thống các công cụ chính sách, mô hình ra quyết định, so sánh thuế BVMT với các công cụ liên quan, áp dụng thuế BVMT trong chính sách hỗn hợp, đo lường hiệu quả, tác dụng phụ của thuế BVMT, tiềm năng của thuế BVMT với sự phát triển bền vững ...

Có thể đánh giá, đây là một trong những công trình nghiên cứu có quy mô và bao quát khá đầy đủ các nội dung quan trọng liên quan đến thuế BVMT và công tác

15

QLNN đối với loại thuế này. Nhìn chung, nghiên cứu này đã đóng góp những cơ sở lý luận và thực tiễn hữu ích về việc sử dụng công cụ thuế BVMT trong QLNN về môi trường hiện nay.

- Kreiser Larry, Andersen Mikael Skou, Olsen Birgitte Egelund, Speck Stefan, Milne Janet, Ashiabor Hope (2015), Environmental Pricing: Studies in Policy Choices and Interactions, Edward Elgar Pub.

Trong nghiên cứu“Định giá môi trường: nghiên cứu lựa chọn chính sách và tương tác”, các tác giả nhấn mạnh đến công tác QLNN về thuế BVMT. Hiện nay, việc áp dụng thuế BVMT đã bị hạn chế trong công tác quản lý ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nghiên cứu tìm hiểu phạm vi định giá môi trường (environmental pricing)và xem xét nhiều kinh nghiệm quốc gia trong hội nhập chính sách môi trường, để xác định việc sử dụng thuế và chính sách hiệu quả nhất cho môi trường bền vững.

Theo các tác giả, hiện nay, thuế BVMT thường được quản lý kết hợp với các công cụ điều tiết khác. Tuy nhiên, vấn đề bất cập hiện nay là các quốc gia còn thiếu kiến thức nghiêm trọng về cách thức QLNN đối với các công cụ chính sách và thuế khác nhau. Vì vậy, các tác giả chú trọng nghiên cứu và thảo luận về tiềm năng để sử dụng rộng rãi hơn thuế BVMT kết hợp với các công cụ chính sách khác và chỉ rõ những hạn chế hiện tại trong công tác quản lý thuế BVMT phải được giải quyết. Các nghiên cứu thực nghiệm về các chiến lược chính sách được thảo luận cụ thể để làm tiền đề đề xuất các giải pháp khả thi. Đồng thời, các tác giả cho rằng định giá môi trường là một giải pháp hữu ích đối với các quốc gia trong việc thực thi luật môi trường, kinh tế môi trường và phát triển bền vững môi trường.

- Goulder và Parry (2008), “Instrument Choice in Environmental Policy,” Review of Environmental Economics and Policy, Vol. 2, No. 2, pp. 152–74.

Nghiên cứu “Lựa chọn công cụ trong chính sách môi trường”, mục tiêu quan trọng của nghiên cứu này là chỉ rõ ra những điểm mạnh và điểm yếu trong công tác QLNN về các công cụ chính sách môi trường (trong đó bao gồm thuế BVMT), từ đó đề xuất công cụ phù hợp trong từng điều kiện cụ thể nhằm đảm bảo hiệu quả QLNN. Xuất phát từ mục tiêu đó, các tác giả tiến hành tổng hợp các vấn đề liên quan trong các nghiên cứu gần với thời điểm nghiên cứu, từ đó đưa ra các bài học hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách.

Đồng thời, nghiên cứu này cũng thiết lập ý tưởng cho rằng thuế BVMT là một nguồn thu tiềm năng đặc biệt hiệu quả của chính phủ. Đồng thời, thông qua công cụ này, các quốc gia có thể kiểm soát tốt các vấn đề liên quan đến BVMT, đồng thời định hướng các hoạt động (đặc biệt là các hoạt động kinh tế) theo hướng thân thiện với môi trường. Vì vậy, công tác QLNN về thuế BVMT cần được quan tâm hơn nữa.

16

- Bontems Philippe, Bourgeon Jean-Marc (2005), “Optimal environmental taxation and enforcement policy”, European Economic Review, Volume 49, Issue 2, Pages 409-435.

Trong nghiên cứu “Chính sách thực thi và đánh thuế môi trường tối ưu”, nhóm tác tác giả phân tích và đánh giá công tác QLNN vềthuế BVMT tối ưu trong điều kiện (i) cơ quan quản lý không xác định được chính xác thiệt hại xã hội của ô nhiễm môi trường, (ii) các hình phạt đối với việc trốn thuế bị hạn chế và (iii) giám sát ô nhiễm môi trường tốn kém. Nhóm tác giả cho rằng tùy thuộc vào điều kiện thực tế của từng quốc gia, các nhà hoạch định sẽ đưa ra các chính sách thực thi và đánh thuế BVMT tối ưu một cách phù hợp để thu được hiệu quả cao nhất.

Đồng thời, để đảm bảo hiệu quả của QLNN về thuế BVMT, việc ban hành chính sách trên cơ sở cân nhắc đến điều kiện kinh tế - xã hội quốc gia và những tác động vĩ mô của chúng là rất quan trọng nhằm đảm bảo được tính ổn định của các chính sách. Bên cạnh công cụ thuế, các tác giả cho rằng việc sử dụng tiêu chuẩn ô nhiễm môi trường cũng nên được xem xét bởi công cụ này cũng rất hiệu quả nếu có các chính sách kèm theo phù hợp.

- BaileyIan (2002), “European environmental taxes and charges: economic theory and policy practice”, Applied Geography, Volume 22, Issue 3, Pages 235-251.

Trong nghiên cứu “Thuế và phí môi trường Châu Âu: lý thuyết kinh tế và thực hành chính sách” tác giả đặc biệt quan tâm đến vấn đề QLNN về thuế BVMT trên cả góc độ lý thuyết và thực tiễn tại các quốc gia châu Âu. Tác giả đã chỉ ra các lợi ích về môi trường và kinh tế của thuế BVMT và các chính sách cũng như cơ chế QLNN dựa trên thị trường. Mở đầu nghiên cứu, tác giả khẳng định tầm quan trọng của thuế và phí môi trường cũng như cơ chế quản lý thuế BVMT. Đồng thời, tác giả hệ thống hóa các lý thuyết kinh tế liên quan đến thuế và phí môi trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy cơ chế QLNN dựa trên thị trường đối với các khoản thuế và phí môi trường tại các nước châu Âu có tác động cải thiện môi trường trong khi vẫn duy trì lợi ích kinh tế của các bên liên quan. Vì vậy, các quốc gia nên đầu tư nghiên cứu và triển khai áp dụng cơ chế quản lý này nhằm đảm bảo hiệu quả triển khai các chính sách thuế và phí BVMT.

1.2. Các nghiên cứu trong nước

Tại Việt Nam, thuế BVMT mới được quan tâm trong hơn 10 năm gần đây, từ khi các dự thảo Luật thuế BVMT ra đời, các nhà nghiên cứu trong nước mới quan tâm hơn đến vấn đề này. Có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu như sau:

1.2.1. Các nghiên cứu về thuế và thuế bảo vệ môi trường

- Phạm Thị Mỹ Linh (2019), Các nhân tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế của doanh nghiệp Việt Nam: nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội, LATS, Đại học Kinh tế Quốc dân.

17

Nghiên cứu này phân tích và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế của doanh nghiệp Việt Nam. Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế của các doanh nghiệp Việt Nam. Tác giả nhận ra mối liên hệ mới: nhân tố sở hữu có tác động tích cực đến hành vi tự nguyện tuân thủ thuế của người nộp thuế trên cơ sở mẫu nghiên cứu các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Cũng theo kết quả nghiên cứu, nhân tố danh tiếng hay hình ảnh của doanh nghiệp có mối quan hệ thuận chiều với tuân thủ thuế tự nguyện. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cho phép các nhà quản lý nhận thức rằng nhân tố tuân thủ thuế tự nguyện có tác động mạnh hơn đến tuân thủ thuế bắt buộc. Bên cạnh đó, nhân tố khả năng bị kiểm tra và xử phạt có tác động mạnh nhất đến hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế, đặc biệt là nhân tố khả năng bị kiểm tra. Nhân tố chuẩn mực xã hội cũng có tác động đáng kể đến tuân thủ bắt buộc. Tuy nhiên, nghiên cứu này không tìm thấy được mối quan hệ giữa nhân tố đạo đức thuế đến hành vi tuân thủ thuế của các doanh nghiệp Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội, mặc dù nhiều nghiên cứu trước đây đều khẳng định đây là một nhân tố chủ quan có vai trò quan trọng, tác động lớn đến hành vi tuân thủ thuế.

- Trung Tâm Thông Tin Khoa Học Lập Pháp (2018), Thuế BVMT một số nước trên thế giới – kinh nghiệm cho Việt Nam, Viện Nghiên Cứu Lập Pháp - Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội.

Vai trò quan trọng của thuế BVMT đối với quản lý và BVMT được nhấn mạnh rõ trong chuyên đề này. Cụ thể, chuyên đề tập trung phân tích các loại thuế và phí BVMT hiện đang được một số nước trên thế giới áp dụng và đã mang lại hiệu quả cao trong quản lý và BVMT, bao gồm thuế năng lượng/nhiên liệu, thuế phương tiện, thuế BVMT, phí khai thác nước, phí xử lý rác thải…Trên cơ sở nghiên cứu thực tế chính sách thuế BVMT tại các quốc gia tiêu biểu như Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thuỵ Điển…, đề tài đã rút ra những điểm tiêu biểu để làm bài học cho Việt Nam.

Từ kết quả nghiên cứu về kinh nghiệm của các nước và những đánh giá về chính sách thuế BVMT hiện hành của Việt Nam, đề tài đã đưa ra các kiến nghị về đối tượng chịu thuế, mức thuế suất đối với một số sản phẩm, hàng hóa. Các kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa quan trọng để Nhà nước Việt Nam có những sự điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp luật về thuế BVMT để nâng cao hiệu quả BVMT của nước ta.

- Nguyễn Đình Chiến (2017), “Chính sách thuế nhằm bảo vệ môi trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Tài chính ngày 18/07/2017.

Trong nghiên cứu này, tác giả cho rằng, vấn đề BVMT hiện là mối quan tâm hàng đầu trên thế giới. Thuế BVMT đóng vai trò là công cụ chính sách BVMT đang

18

được nhiều nước áp dụng triển khai. Tác giả nhấn mạnh rằng việc áp dụng công cụ thuế BVMT có tác động mạnh mẽ đến kinh tế, xã hội và môi trường của các quốc gia. Chính vì vậy, việc triển khai áp dụng thuế BVMT nếu không hiệu quả sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực đối với quốc gia.

Trong những năm gần đây, chính sách thuế BVMT của Việt Nam đã có một số thành công; mặc dù vậy, hiệu quả và tác động đến vấn đề BVMT vẫn còn nhiều nhiều hạn chế. Thực tế này đã gây ra những tác động tiêu cực đến kinh tế, xã hội và môi trường; nội dung và hoạt động triển khai các chính sách và thuế BVMT được hiểu và triển khai chưa triệt để, đồng bộ, dẫn đến những tác động tiêu cực đối với quốc gia.

- Đinh Trọng Khang (2016), “BVMT bằng công cụ thuế, phí môi trường và hiệu quả của giải pháp hiện nay ở Việt Nam”, Tạp chí Giao thông vận tải, số tháng 8-2016.

Hiện nay, tại Việt Nam, các biện pháp BVMT hiện đang được áp dụng bao gồm công cụ thuế, phí BVMT được thể hiện trong Luật Thuế BVMT và hệ thống phí BVMT đối với một số loại hàng hóa gây ô nhiễm. Bài báo tập trung phân tích khái niệm và vai trò của thuế và phí BVMT trong công tác QLNN và sự thay đổi hành vi ứng xử của các chủ thể tiêu dùng, sản xuất và kinh doanh trong cộng đồng. Để chứng minh tính hiệu quả của các loại phí BVMT trong việc cải thiện và giảm thiểu mức độ ô nhiễm môi trường, tác giả đã tập trung phân tích việc áp dụng các loại phí này vào thực tế tại một số quốc gia trên thế giới như Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc.

Dựa trên kết quả phân tích thực trạng sử dụng công cụ thuế và phí BVMT tại Việt Nam, bài báo cho thấy những hạn chế như sự thiếu đồng bộ về hệ thống chính sách quản lý của Nhà nước và chính sách BVMT, sự phân công trách nhiệm chưa rõ ràng và hiệu quả, mức thuế suất áp dụng cho các mặt hàng chưa hợp lý…Trên cơ sở đó, bài báo đã đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công cụ thuế và phí BVMT nhằm hạn chế ô nhiễm và suy thoái môi trường.

- Ho Hoang-Anh

(2016), Business Compliance with Environmental Regulations: Evidence from Vietnam, WorldFish (ICLARM) – Economy and Environment Program for Southeast Asia (EEPSEA)

Xuất phát từ vai trò quan trọng của thuế BVMT, trong nghiên cứu“Tuân thủ các quy định về môi trường của doanh nghiệp: bằng chứng từ Việt Nam” tác giả thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm về nhiều nhân tố khác nhau nhằm nâng cao ý thức và trách nhiệm tuân thủ các điều luật về môi trường tại Việt Nam. Cuộc nghiên cứu dựa trên dữ liệu khảo sát 3 vòng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta (2007, 2009 và 2011), đây là giai đoạn Luật thuế BVMT chưa có hiệu lực. Nghiên cứu này cung cấp những bằng chứng thực nghiệm dễ hiểu về việc xác định hành vi tuân thủ

19

luật pháp về BVMT tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhận thức về luật môi trường có mối liên hệ mạnh mẽ và chặt chẽ đến hành vi tuân thủ luật pháp của các tầng lớp nhân dân.

Nghiên cứu cũng chứng minh được rằng việc nộp phí BVMT có mối liên hệ mật thiết đối với khả năng BVMT. Trong khi đó, các nhân tố như áp lực từ cộng đồng và thị trường cũng như năng lực tuân thủ không có mối liên hệ nhiều với hành vi tuân thủ luật pháp. Kết quả nghiên cứu của đề tài này có những tác động tích cực đến chính sách nâng cao hành vi tuân thủ pháp luật của người dân tại Việt Nam. Thứ nhất, Chính phủ cần tăng cường đối thoại và hỗ trợ người dân bằng cách phân tích chi tiết hiệu quả của các loại chi phí. Thứ hai, Việt Nam cần cân nhắc hiệu quả chi phí của việc sử dụng nhiều tài nguyên vào việc kiểm tra và giáo dục cộng đồng. Cuối cùng, các nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào tác động của việc công bố công khai tình hình thực tế của môi trường đối với các hành vi tuân thủ pháp luật môi trường.

- Nguyễn Thị Thanh Hoài (2014), “Sử dụng chính sách thuế nhằm BVMT ở

Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1-2014.

Nghiên cứu làm rõ vai trò quan trọng của thuế BVMT đối với việc điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế nhằm duy trì và cải thiện sự trong sạch của môi trường, tiết kiệm khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp và xã hội. Trong chính sách thuế hiện hành về BVMT của Việt Nam, có thể kể đến các loại thuế bao gồm thuế BVMT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài nguyên. Thuế BVMT hiện hành của Việt Nam vừa tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa góp phần nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân về việc BVMT, đồng thời điều tiết hoạt động sản xuất và kinh doanh nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Bên cạnh những tác động tích cực, chính sách thuế BVMT hiện hành của Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Cụ thể, thuế BVMT chưa góp phần khuyến khích các doanh nghiệp triển khai các giải pháp xử lý chất thải, chưa góp phần giảm thiểu các hành vi tiêu dùng các sản phẩm có ảnh hưởng xấu đến môi trường;đồng thời, thuế BVMT tại Việt Nam chưa thúc đẩy nhận thức sâu sắc của các tầng lớp nhân dân về tầm quan trọng của nó. Điều này dẫn đến đa số người dân còn thờ ơ và chưa có trách nhiệm đối với các chính sách thuế của nhà nước hiện nay.

Trên cơ sở thực trạng về chính sách thuế BVMT hiện hành của Việt Nam, đề tài đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả BVMT của nước ta. Cụ thể, Việt Nam cần đẩy mạnh ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp có tham gia BVMT. Bên cạnh đó, Việt Nam cần khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng sạch, cũng như

20

quản lý nghiêm ngặt hoạt động khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên; đặc biệt là trong dài hạn cần nghiên cứu và xây dựng thuế carbon.

- Vũ Văn Cương (2013), Pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn, LATS, Trường Đại học Luật Hà Nội.

Luận án nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án hệ thống hoá các quan điểm và một số vấn đề lý luận về quan hệ quản lý thuế và pháp luật điều chỉnh quan hệ quản lý thuế; cấu trúc và các nhân tố chi phối nội dung pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đưa ra kết luận khoa học về thực trạng pháp luật quản lý thuế và thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, cũng như xác định rõ nguyên nhân của thực trạng.

Từ đó, luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Nhìn chung, đây là một công trình nghiên cứu có tính hệ thống về pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Vì vậy, luận án rất hữu ích trong nghiên cứu và giảng dạy khoa học pháp lý phục vụ cho một số hoạt động cụ thể như hoạch định chính sách; quản lý hoạt động trong các cơ quan tài chính, thuế, hải quan…

- Nguyen Van Chan, CoxheadIan (2011), “Vietnam’s environment protection incidence”, Journal of Economics and impacts and

tax: Possible Development Vol.13, No.1, pp. 5 – 18.

Bài báo đánh giá các tác động về mặt kinh tế và môi trường trong ngắn hạn và dài hạn của thuế BVMT, cụ thể là việc thực hiện Luật Thuế BVMT được Quốc hội ban hành và bắt đầu có hiệu lực từ năm 2012. Kết quả dự báo từ kịch bản mô phỏng dựa trên mô hình trạng thái cân bằng tổng thể đối với nền kinh tế Việt Nam, sử dụng phần mềm Mô hình cân bằng tổng thể (GEMPACK). Tùy thuộc vào các giả định khác nhau về sự biến động của các nhân tố, kết quả số học của mô phỏng cho thấy sự sụt giảm mạnh trong ngắn hạn và giảm dần trong thời gian dài của tốc độ tăng trưởng GDP.

Theo kết quả của mô hình, việc áp dụng Luật Thuế BVMT sẽ ít có khả năng trực tiếp mang lại hiệu quả kinh tế một cách tích cực nhưng sẽ giúp cải thiện môi trường tự nhiên và nâng cao chất lượng cuộc sống. Các kết quả mô phỏng cũng nhấn mạnh sự cần thiết của các chính sách và biện pháp đi kèm của Chính phủ như phân phối lại doanh thu từ Thuế BVMT trong các chương trình khác nhau nhằm cải thiện môi trường tự nhiên và hỗ trợ các ngành công nghiệp phụ thuộc nhiều vào năng lượng.

21

- Lê Thị Kim Oanh (2010): Bàn về áp dụng nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả” trong chính sách môi trường”, Tạp chí khoa học và công nghệ, đại học Đà Nẵng – Số 4 (39).

Nghiên cứu phân tích vai trò của thuế BVMT trong chính sách môi trường. Cụ thể, tác giả nghiên cứu làm rõ nội hàm của nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả” (PPP), trong đó đề cao vai trò của việc phân bổ cũng như nội dung phí môi trường bao hàm trong phạm vi của PPP. Bài viết đi sâu phân tích xem ai sẽ là người chi trả các chi phí kiểm soát và ngăn ngừa ô nhiễm được đưa ra bởi các cơ quan chức năng khi gây ô nhiễm môi trường. Chi phí PPP được tính vào giá cả của hàng hóa và phụ thuộc vào cấu trúc thị trường.

Trong công nghiệp, phí ô nhiễm được thu dưới dạng phí sử dụng để bù đắp chi phí của dịch vụ xử lý nước thải và phí xả thải và tính chất khuyến khích xử lý ô nhiễm. Việc làm rõ bản chất của nguyên tắc PPP sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình triển khai và thực hiện các công cụ chính sách môi trường trong thực tế để nâng cao hiệu quả BVMT. - Nguyễn Quang Tuấn, Lê Thị Thảo (2008), “Luật Thuế môi trường – giải pháp quản lý và bảo vệ môi trường”, Tạp Chí Nghiên Cứu Lập Pháp, Số 8/2008.

Trong nghiên cứu này, vai trò của thuế BVMT được hai tác giả chú trọng làm rõ thông qua đề cập đến sự cần thiết của việc xây dựng nên một bộ luật riêng về thuế BVMT, đó là Luật thuế BVMT. Theo thực trạng về thuế BVMT được phân tích trong đề tài, mặc dù việc quản lý và BVMT chủ yếu dựa vào chính sách pháp luật và các công cụ pháp lý, giáo dục và truyền thông nhưng các loại thuế BVMT và hoạt động thu, chi các loại thuế này vẫn chưa được quy định trong một bộ luật riêng nào.

Hiện nay, thuế BVMT tại Việt Nam được đề cập và quy định trong nhiều văn bản pháp luật cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành luật như Bộ luật Hình sự 1985, Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp (1993), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (2005, 2008), Pháp lệnh Thuế tài nguyên (1990)…Tuy nhiên, tất cả đều không cụ thể và thiếu tính hệ thống, gây nên những hạn chế nhất định trong việc quản lý, BVMT và điều chỉnh các hành vi của các cá nhân, tổ chức trong cộng đồng.

Xuất phát từ tính cấp bách của vấn đề và từ việc phân tích các quan điểm khác nhau về xây dựng Luật môi trường, tác giả cũng đề xuất hướng xây dựng Luật môi trường tại Việt Nam dựa trên các nội dung bao gồm đối tượng chịu thuế, đối tượng đánh thuế, căn cứ tính thuế và thuế suất, đối tượng không thuộc diện chịu thuế, đối tượng miễn hoặc giảm thuế.

1.2.2. Các nghiên cứu về quản lý nhà nước về thuế và thuế bảo vệ môi trường

- Phạm Nữ Mai Anh (2019), Quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện

tử ở Việt Nam, LATS, Học viện Tài chính.

22

Luận án tập trung nghiên cứu quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam. Thông qua phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA và hồi quy mô hình, luận án xác định 04 nhân tố có ảnh hưởng đến tính tuân thủ tự nguyện của các doanh nghiệp, cụ thể là: (1) kiểm soát của cơ quan thuế; (2) sự đáp ứng thông tin của cơ quan thuế; (3) năng lực phục vụ của cán bộ thuế; và (4) ý thức của doanh nghiệp.

Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án cũng làm rõ được thực trạng quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử thời gian qua cả về những kết quả đạt được, cũng như các hạn chế và nguyên nhân của hạn chế. Từ đó, luận án đưa ra các giải pháp khả thi để cải thiện hoạt động quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam. Như vậy, thông qua luận án này, tác giả đã làm rõ thêm mục tiêu của quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử, đặc biệt là các nội dung quan trọng của quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử.

- Nguyễn Quang Hưng (2018), Hoàn thiện hoạt động thanh tra thuế tại Việt

Nam, LATS, Đại học Kinh tế Quốc dân.

Luận án nhằm mục tiêu hoàn thiện hoạt động thanh tra thuế tại Việt Nam thông qua hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động thanh tra thuế. Thông qua việc tổng hợp các kết quả nghiên cứu trước đó về hoạt động thanh tra thuế, tác giả đã xây dựng hai khung mô hình nghiên cứu về hoạt động thanh tra thuế. Mô hình nghiên cứu thứ nhất là về các nhân tố tác động đến kết quả hoạt động thanh tra thuế và tác động lan tỏa của kết quả hoạt động thanh tra thuế (mô hình này có 10 giả thuyết nghiên cứu). Mô hình nghiên cứu thứ hai là về các nhân tố ảnh hưởng đến sự đồng thuận của người nộp thuế đối với kết luận thanh tra và tác động lan tỏa của sự đồng thuận (mô hình này có 5 giả thuyết nghiên cứu).

Sau khi xây dựng mô hình nghiên cứu, tác giả tiến hành phân tích các thông tin, số liệu từ báo cáo của ngành thuế và kết quả khảo sát đánh giá của cán bộ thanh tra, người nộp thuế và chuyên gia tư vấn thuế - kế toán - kiểm toán. Kết quả nghiên cứu chỉ ra thực trạng hoạt động thanh tra thuế tại Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2015. Đồng thời, trong luận án, tác giả chú trọng chỉ rõ những kết quả, hạn chế, nguyên nhân chính dẫn đến những kết quả cũng như hạn chế đó của hoạt động thanh tra thuế tại Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2015. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất các khuyến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động thanh tra thuế tại Việt Nam.

- Đinh Nam Thắng (2016), Định hướng hoàn thiện chính sách thuế BVMT

giai đoạn 2016 – 2020, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ Tài chính.

Đề tài tập trung nghiên cứu công tác QLNN về thuế BVMT tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020. Tác giả trình bày cụ thể và chi tiết về quản lý thuế BVMT, đặc biệt là những vướng mắc và chồng chéo giữa các Luật và chính sách liên quan đến thuế

23

BVMT đều được đề tài phân tích một cách rõ ràng. Những kết quả đạt được trong quá trình triển khai thuế BVMT ở Việt Nam được phân tích một cách cụ thể. Từ khi được đưa vào áp dụng, thuế BVMT đã góp phần hạn chế sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây ô nhiễm, khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bổ sung một nguồn thu đáng kể vào ngân sách nhà nước.

Bên cạnh những điểm tích cực, đề tài cũng chỉ rõ những hạn chế trong quá trình triển khai QLNN về thuế BVMT trong thời gian qua về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, thời điểm tính thuế, khung thuế suất, phương pháp tính thuế... Dựa trên kết quả nghiên cứu, đề tài đã đề xuất các giải pháp và kiến nghị mang tính thực tiễn cao nhằm hoàn thiện chính sách thuế BVMT của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2016 – 2020.

- Nguyễn Đình Chiến (2016), “Hoàn thiện các quy định về thuế BVMT ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 01 (150) – 2016.

Công tác QLNN về thuế BVMT tại Việt Nam được tác giả đặc biệt quan tâm và làm rõ. Sau khi xây dựng cơ sở lý luận hoàn thiện đối với QLNN về thuế BVMT (thông qua các quy định về thuế BVMT), đề tài đi sâu vào đánh giá thực trạng của công tác QLNN về chính sách thuế BVMT ở Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu chỉ rõ hiện nay, công tác QLNN về thuế BVMT ở Việt Nam được thể hiện thông qua các sắc thuế bao gồm thuế BVMT, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế tài nguyên. Đề tài cũng đánh giá những điểm hạn chế của QLNN về thuế BVMT hiện hành như chính sách còn mang tính chung chung, hạn chế trong năng lực thẩm định mức độ tác động đến môi trường, sự triển khai còn chưa triệt để. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, đề tài đã đề xuất một số giải pháp tập trung vào các sắc thuế nhằm hoàn thiện chính sách thuế BVMT ở Việt Nam.

- Lưu Ngọc Thơ (2013), Quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn ở Việt Nam

hiện nay, LATS, Học viện Tài chính.

Nội dung chính của luận án là nghiên cứu hoạt động quản lý thuế đối với các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam hiện nay. Trước tiên, tác giả hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn. Một số nội dung chính bao gồm: (i) mô hình tổ chức bộ máy và việc tổ chức thực hiện pháp luật thuế trong hoạt động quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn ở cơ quan thuế nội địa, (ii) kinh nghiệm quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn ở một số quốc gia trên thế giới.

Trên cơ sở đó, tác giả rút ra kinh nghiệm cho công tác quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án chỉ ra thực trạng quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn ở Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn ở Việt Nam.

24

- Nguyễn Hoàng (2013), Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

Nội dung chính của luận án là hoạt động quản lý nhà nước đối với thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam. Tác giả triển khai nghiên cứu sâu về chính sách và cơ chế quản lý thu thuế thu nhập cá nhân hiện hành, với sự tham gia của các chuyên gia và các đối tác quốc tế. Thông qua mô hình kinh tế lượng, điều tra khảo sát thử nghiệm về tuân thủ thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn Hà Nội, tác giả tập trung chỉ ra những thành công và hạn chế trong công tác QLNN đối với thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.

Từ đó, luận án tập trung đề xuất lộ trình cải cách chính sách thuế. Cụ thể, tác giả cho rằng việc rút gọn dần số thuế suất vào 2 kỳ cải cách thuế tiếp theo năm 2017 và 2022 là rất cần thiết, đồng thời cần sử dụng mô hình toán đánh giá tác động của việc cải cách đến nghĩa vụ ngân sách của người nộp thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.

- Bùi Thanh (2013), “Tăng cường QLNN về bảo vệ môi trường để phát triển bền vững”, Tạp chí Cộng sản, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, ngày 9/7/2013.

Bài báo nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của công tác QLNN về thuế BVMT của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Trong phạm vi nội dung của bài báo, những thành tựu của công tác QLNN trong BVMT được trình bày một cách cụ thể, bao gồm hệ thống chính sách và pháp luật ngày càng hoàn thiện, tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương được thiết lập đồng bộ và dần kiện toàn, nguồn vốn đầu tư cho hoạt động BVMT ngày càng tăng, sự tham gia của các tầng lớp nhân dân vào BVMT ngày càng được nâng cao…

Tuy nhiên, theo tác giả, công tác QLNN về thuế BVMT vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Cụ thể, nhận thức của các cơ quan QLNN và người dân về BVMT chưa cao, ý thức BVMT chưa trở thành thói quen, nhận thức về tăng trưởng kinh tế xanh, bền vững của các cấp chính quyền còn hạn chế, hệ thống pháp luật còn mang tính chung chung và nặng về nguyên tắc, cơ chế và chính sách BVMT còn lạc hậu và chậm đổi mới, bộ máy QLNN về môi trường còn cồng kềnh và chưa thực sự phát huy được tối đa hiệu quả QLNN về BVMT…

Bài báo cũng đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường QLNN trong BVMT, bao gồm (1) tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cơ quan QLNN, đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục ý thức BVMT cho nhân dân, (2) hoàn thiện chính sách và pháp luật về BVMT, (3) tăng cường nguồn tài chính cho hoạt động bảo vệ và cải tạo môi trường. - Nguyễn Thị Thùy Dương (2011), Quản lí thuế ở Việt Nam trong điều kiện

hội nhập kinh tế quốc tế, LATS, Đại học Kinh tế Quốc dân.

25

Nội dung trọng tâm của luận án là phân tích và đánh giá hoạt động quản lí thuế ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Với mục tiêu hoàn thiện hoạt động quản lý thuế, tác giả hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến đề tài; đồng thời chú trọng nghiên cứu hoạt động quản lý thuế ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua kết quả nghiên cứu, có thể thấy rằng, hoạt động quản trị chiến lược trong quản lý thuế ở Việt Nam vẫn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, việc tuân thủ nghiêm pháp luật thuế chưa được đánh giá cao. Công tác quản lý thuế còn một số hạn chế, đặc biệt là về uy trình và thời gian xử lý khiếu kiện của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc thay đổi chính sách và thủ tục quản lý thuế còn thiếu sự quan tâm, tiếp thu góp ý từ người nộp thuế.

Đồng thời, luận án đã chỉ ra những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến công tác quản lý thuế tại Việt Nam. Cụ thể, hội nhập kinh tế cho phép gia tăng hợp tác thuế giữa các nước, từ đó thúc đẩy cạnh tranh thuế và góp phần quan trọng vào việc đối phó với tình trạng trốn và tránh thuế quốc tế. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tác giả cho rằng việc giải quyết tốt mối quan hệ với người nộp thuế cần được chứ trọng hơn nữa. Đồng thời, Việt Nam cần chủ động xây dựng mô hình phân tích để dự báo và ứng dụng vào công tác quản trị thuế.

- Nguyễn Thị Lệ Thúy (2009), Hoàn thiện quản lý thu thuế của nhà nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của doanh nghiệp (nghiên cứu tình huống của Hà Nội) LATS, Đại học Kinh tế Quốc dân.

Luận án nhằm mục tiêu hoàn thiện công tác quản lý thu thuế của nhà nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả chú trọng vào một số vấn đề lý luận liên quan đến quản lý thu thuế nhà nước đối với doanh nghiệp nhằm tăng cường việc tuân thủ của doanh nghiệp, đặc biệt là tuân thủ tự nguyện.

Trong luận án này, tác giả triển khai khảo sát và nghiên cứu hành vi tuân thủ thuế của các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Từ đó, tác giả khẳng định tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước về thuế đối với việc tăng cường tuân thủ thuế của các doanh nghiệp. Đồng thời, kết quả nghiên cứu chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến việc tuân thủ thuế của các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế, từ đó nâng cao mức độ tuân thủ thuế của các doanh nghiệp Việt Nam.

- Trần Vũ Hải (2009), “Một số vấn đề về việc ban hành Luật thuế môi trường

ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 4/2009.

26

Đề tài nghiên cứu công tác QLNN về thuế BVMT dưới góc độ việc ban hành Luật thuế BVMT ở Việt Nam. Căn cứ vào các điều luật được đề cập trong Luật Môi trường 2005, đề tài đi sâu phân tích khái niệm “Thuế BVMT” dưới nhiều góc độ. Cùng với mức độ ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng, sự thiếu hệ thống và chồng chéo về mặt luật pháp, yêu cầu bức thiết của công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế khiến cho việc ban hành Luật thuế BVMT ở Việt Nam trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Bên cạnh đó, đề tài phân tích những nguyên tắc tiếp cận khi xây dựng Luật thuế BVMT như (1) nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả”, nguyên tắc “người được hưởng lợi phải trả”, (2) Luật phải đảm bảo khuyến khích việc BVMT, (3) cần tách bạch giữa thuế BVMT và thuế tài nguyên, (4) một số loại phí môi trường cần phải duy trì vì thuế BVMT không thể hoàn toàn thay thuế phí môi trường. Trên cơ sở các nguyên tắc đưa ra, bài báo đưa ra một số đề xuất đề xây dựng Luật thuế BVMT. Cụ thể, cần quy định rõ đối tượng phải nộp thuế, hệ thống các chỉ tiêu để xác định mức độ gây ô nhiễm của chủ thể, quy định về ưu đãi thuế (miễn thuế, giảm thuế).

1.3. Đánh giá tổng quan nghiên cứu

1.3.1. Những nội dung luận án kế thừa từ kêt quả các nghiên cứu trước

Qua những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước kể trên, có thể thấy, các nhà nghiên cứu đã hệ thống được những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản liên quan đến QLNN về thuế BVMT, luận án có thể sử dụng mang tính chất kế thừa, cụ thể như sau:

Thứ nhất, các nghiên cứu trong và ngoài nước đã làm rõ vai trò và tác động của thuế BVMT đến các nhân tố vĩ mô của một quốc gia như kinh tế, xã hội, môi trường... Đồng thời, các nhà nghiên cứu cũng quan tâm đến vai trò quan trọng của các chính sách và công tác QLNN đối với thuế BVMT.

Thứ hai, các nghiên cứu đã tập trung vào vấn đề QLNN đối với thuế BVMT, trong đó, đa phần quan tâm đến cải cách hành chính và thuế BVMT trên cơ sở phân tích các vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình thực thi thuế BVMT trong thời gian qua, từ đó đề xuất một số kiến nghị sửa đổi Luật thuế BVMT.

Thứ ba, các công trình nghiên cứu, đặc biệt là các công trình ngoài nước đã tiếp cận công tác QLNN từ nhiều góc độ khác nhau như góc độ về chính sách, về cơ chế quản lý từ khi thuế BVMT được thi hành. Từ đó phản ánh các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến QLNN về thuế BVMT một cách chi tiết, rõ nét, đưa ra được các đánh giá mang tính chuyên sâu về hoạt động này trong các bối cảnh nghiên cứu khác nhau.

Thứ tư, trong những năm gần đây, cùng với những biến động bất thường của môi trường sinh thái trong nước và toàn cầu, cũng như ý thức BVMT ngày càng được nâng cao, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã có đóng góp đáng kể vào

27

tiến trình hoàn thiện QLNN đối với thuế BVMT, góp phần nâng cao vai trò của thuế BVMT đối với các vấn đề mang tính vĩ mô của một quốc gia và toàn cầu, hỗ trợ đắc lực cho quá trình phát triển bền vững của các quốc gia.

Thứ năm, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra được những hạn chế chủ yếu của công tác QLNN về thuế BVMT trong những năm gần đây, cụ thể như nhận thức của các cơ quan QLNN và người dân về BVMT chưa cao; ý thức BVMT chưa trở thành thói quen, nhận thức về tăng trưởng kinh tế xanh, bền vững của các cấp chính quyền còn hạn chế, hệ thống pháp luật còn mang tính chung chung và nặng về nguyên tắc, cơ chế và chính sách BVMT vẫn còn những nội dung chưa phù hợp và chậm đổi mới, bộ máy QLNN về môi trường còn cồng kềnh và chưa thực sự phát huy được tối đa hiệu quả QLNN về BVMT…

Thứ sáu, trên cơ sở kết quả nghiên cứu, các tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường QLNN trong BVMT, bao gồm tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cơ quan QLNN, đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục ý thức BVMT cho người dân; hoàn thiện chính sách và pháp luật về BVMT; tăng cường nguồn tài chính cho hoạt động bảo vệ và cải tạo môi trường ...

1.3.2. Những khoảng trống nghiên cứu và định hướng nghiên cứu của luận án

1.3.2.1. Khoảng trống nghiên cứu về lý luận

Cho đến nay, mặc dù đã có những công trình nghiên cứu liên quan tới chủ đề, tuy nhiên, các nghiên cứu này vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định về mặt lý luận cụ thể như sau:

Thứ nhất, quan điểm về nội hàm, vai trò, tác động của thuế BVMT cho đến nay vẫn chưa được thống nhất và đầy đủ. Đa số các nghiên cứu chỉ nhấn mạnh vai trò quan trọng của thuế BVMT đối với việc điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế nhằm duy trì và cải thiện sự trong sạch của môi trường, tiết kiệm khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Trong khi đó, vai trò của thuế BVMT đối với vấn đề hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp và xã hội chưa được chú trọng nghiên cứu. Đây là vấn đề mang tính thực tiễn cao, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra, những tác động của thuế BVMT đến nay vẫn chưa được các học giả nghiên cứu sâu và đi đến thống nhất, đặc biệt là tác động thúc đẩy cải cách đổi mới công nghệ và tăng nguồn vốn đầu tư cải tạo môi trường.

Thứ hai, những nội hàm QLNN về thuế BVMT như hoạch định xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện, thanh tra kiểm tra vẫn chưa được đầu tư nghiên cứu cụ thể. Các nghiên cứu mới chỉ ra rằng các chính sách QLNN về thuế BVMT còn mang tính chung chung và quá trình triển khai còn chưa hiệu quả. Tuy nhiên, một số vấn đề khác

28

liên quan đến QLNN về thuế BVMT như hạn chế trong năng lực thẩm định mức độ tác động đến môi trường vẫn chưa được các nhà nghiên cứu làm rõ.

Thứ ba, mục tiêu QLNN về thuế BVMT vẫn chưa được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước chú trọng nghiên cứu và làm rõ; đa phần chỉ nhấn mạnh tăng thu ngân sách nhà nước hoặc BVMT. Trong khi mục tiêu QLNN là vấn đề rất quan trọng nhằm đảm bảo hiệu quả thực thi thuế BVMT. Tính hiệu quả và tính tuân thủ thuế BVMT vẫn chưa được các tác giả quan tâm đúng mức nhằm chỉ ra thực trạng của vấn đề này một cách sâu sắc.

Thứ tư, cho đến nay, chưa có phương pháp cụ thể nào để đánh giá sự phù hợp hay không phù hợp ở góc độ từ dưới lên (đối tượng chịu thuế). Thực tế cho thấy báo cáo đánh giá tác động của thuế BVMT hiện nay do người lập chính sách đánh giá là chủ yếu.

Thứ năm, các nghiên cứu đã nêu lên các lý luận cơ bản về những vấn đề liên quan đến QLNN đối với thuế BVMT, đồng thời phân tích và đánh giá chi tiết thực trạng của vấn đề nghiên cứu, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện QLNN đối với thuế BVMT. Tuy nhiên, mỗi một nghiên cứu chỉ mới đề cập tới một mảng lý luận liên quan tới chủ đề của nghiên cứu đó. Đồng thời, chưa có nghiên cứu nào tổng hợp đầy đủ các lý luận về QLNN đối với thuế BVMT trong bối cảnh hiện nay. Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ tổng hợp, bổ sung, sắp xếp hệ thống lý luận để phù hợp nhất với đề tài lựa chọn.

Thứ sáu, phần lớn các công trình nghiên cứu đã khẳng định vai trò của QLNN đối với thuế BVMT. Các tác giả đi sâu nghiên cứu từ lý luận và thực tiễn và nhận thấy vai trò ngày càng quan trọng của QLNN về thuế BVMT đối với toàn bộ nền kinh tế, xã hội và cộng đồng. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới chỉ chủ yếu phân tích vai trò của QLNN đối với thuế BVMT một cách chung chung chứ chưa hướng đến các đối tượng cụ thể, chẳng hạn như các doanh nghiệp, người tiêu dung là đối tượng nộp thuế BVMT. Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ bổ sung hạn chế này thông qua nghiên cứu tổng hợp lý luận và thực tiễn khảo sát điều tra đối tượng doanh nghiệp cũng như các chuyên gia, nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý trong công tác QLNN về thuế BVMT.

Thứ bảy, các công trình nghiên cứu tập trung phân tích về các hạn chế, bất cập và khó khăn trong QLNN đối với hoạt động BVMT và chính sách thuế. Tuy nhiên, cho đến nay, theo hiểu biết của tác giả, có rất ít công trình nghiên cứu phân tích cụ thể và toàn diện những khó khăn trong QLNN đối với hoạt động thu thuế BVMT, đặc biệt trong điều kiện hội nhập sâu, rộng và phức tạp như hiện nay.

1.3.2.2. Khoảng trống nghiên cứu về thực tiễn

Thứ nhất, cho đến nay, có rất ít nghiên cứu đánh giá đầy đủ và chính xác thực trạng QLNN về thuế BVMT ở Việt Nam hiện nay. Một vài nghiên cứu mới chỉ đưa ra

29

được những vướng mắc và chồng chéo giữa các Luật và chính sách liên quan đến thuế BVMT. Các nghiên cứu phần lớn chưa chỉ ra được cụ thể các hạn chế của công tác QLNN về thuế BVMT nhằm cung cấp cái nhìn khách quan về hoạt động này tại Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, theo hiểu biết của tác giả, các nghiên cứu đã công bố chưa phân tích các nguyên nhân về những bất cập trong QLNN về thuế BVMT. Trong khi đó, việc xác định chính xác những nguyên nhân khách quan và chủ quan của những bất cập có ý nghĩa quan trọng, cho phép các nhà nghiên cứu đề xuất các giải pháp có tính khả thi và hiệu quả cao hơn.

Thứ ba, cho đến nay, các nghiên cứu đã công bố đa phần sử dụng phương pháp định tính, nghiên cứu định lượng còn hạn chế về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả QLNN đối với thuế BVMT. Điều này khiến các bất cập, hạn chế trong công tác QLNN về thuế BVMT chưa được khắc phục một cách triệt để và hiệu quả.

Thứ tư, thời gian của các dữ liệu nghiên cứu phổ biến trong giai đoạn từ trước năm 2014, trong khi trong giai đoạn sau năm 2014, tại Việt Nam, nhiều chủ trương, chính sách đối với thuế nói chung và thuế BVMT nói riêng đã có nhiều thay đổi. Điều này ảnh hưởng đáng kể đến cách thức và quy trình QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam. Vì vậy, thông qua nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung phân tích và đánh giá thực trạng QLNN đối với thuế BVMT trong những năm gần đây với các số liệu được cập nhật mới nhất từ các nguồn chính thống, uy tín nhằm phản ánh chính xác thực trạng vấn đề nghiên cứu.

Thứ năm, xuất phát từ những hạn chế về phương pháp nghiên cứu, đa số các công trình nghiên cứu chỉ sử dụng một phương pháp nghiên cứu cụ thể, chẳng hạn như phương pháp định tính hoặc phương pháp định lượng. Việc sử dụng kết hợp hai phương pháp nghiên cứu này vẫn còn hạn chế, đặc biệt là đối với các nghiên cứu của các tác giả trong nước. Vì vậy, các nghiên cứu phần lớn chưa chỉ ra được một cách toàn diện thực trạng QLNN đối với thuế BVMT. Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ sử dụng kết hợp cả hai phương pháp (định tính và định lượng) nhằm phản ánh một cách toàn diện và chi tiết thực trạng QLNN đối với thuế BVMT, làm tiền đề để xây dựng các giải pháp có tính khả thi cao.

Thứ sáu, các nghiên cứu về thực trạng QLNN đối với thuế BVMT còn mang tính khái quát cao. Có một số nghiên cứu về QLNN đối với thuế BVMT nhưng chưa được tiến hành trên các phương diện cụ thể, chưa bao quát hết đủ các vấn đề liên quan đến công tác QLNN đối với thuế BVMT như Ban hành luật pháp và chính sách thuế BVMT; Kiện toàn tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực QLNN đối với thuế BVMT; Tổ chức quản lý thuế BVMT: ứng dụng công nghệ thông tin vào tuyên truyền, hướng dẫn

30

quy trình, các biện pháp nghiệp vụ; và Thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT. Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ nghiên cứu đầy đủ các nội dung đã đề cập nêu trên.

Thứ bảy, nhìn chung, theo đánh giá của tác giả, các công trình nghiên cứu, đặc biệt là các nghiên cứu trong nước đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác QLNN đối với thuế BVMT còn chung chung, tính ứng dụng thực tế còn chưa cao. Trong nghiên cứu này, cùng với việc sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng nhằm đánh giá chính xác thực trạng QLNN đối với thuế BVMT, tác giả sẽ đưa ra các giải pháp có tính khả thi cao hơn, mang lại ý nghĩa thiết thực đối với các cơ quan QLNN, doanh nghiệp và cộng đồng.

1.3.2.3. Định hướng nghiên cứu của luận án

Trên cơ sở tổng hợp, phân tích, đánh giá những công trình đã công bố, tác giả nhận thấy các nghiên cứu về QLNN đối với thuế BVMT còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Hiện còn nhiều nội dung cả về cơ sở lý luận và thực tiễn cần được giải quyết, đòi hỏi nghiên cứu sâu hơn về công tác QLNN đối với thuế BVMT trong bối cảnh hiện nay. Cụ thể:

Về lý luận, luận án sẽ tập trung làm rõ cơ sở lý luận về QLNN đối với thuế BVMT, đặc biệt nội hàm QLNN đối với thuế BVMT. Đồng thời, luận án sẽ làm rõ mục tiêu và tiêu chí đánh giá mục tiêu QLNN đối với thuế BVMT, cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến QLNN đối với thuế BVMT để có cái nhìn tổng quan về bối cảnh QLNN, kết hợp với thực trạng các nội hàm QLNN và đánh giá mục tiêu QLNN đối với thuế BVMT trong thời gian qua, đề đề xuất các giải pháp hoàn thiện.

Về thực tiễn, luận án sẽ phân tích thực trạng các nội dung QLNN về thuế BVMT tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; tiếp cận trên phương diện là một nhà nghiên cứu công tác tại Bộ Tài chính, tác giả đánh giá hoạt động QLNN về thuế BVMT, và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến công tác QLNN về thuế BVMT tại Việt Nam; từ đó luận án sẽ đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN về thuế BVMT tại Việt Nam trong thời gian tới.

31

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

2.1. Cơ sở lý luận về thuế bảo vệ môi trường

2.1.1. Khái luận chung về thuế bảo vệ môi trường

2.1.1.1. Lịch sử và nguồn gốc

Dưới góc độ tiếp cận kinh tế, Pigou (1920) xây dựng khung lý thuyết đầu tiên về thuế BVMT. Pigou (1920) đưa ra giải pháp sử dụng thuế để giải quyết vấn đề gây ô nhiễm của các doanh nghiệp. Đây là giải pháp cổ điển liên quan tới mức thuế tối ưu chính và mức chi phí xử lý ô nhiễm của doanh nghiệp. Cụ thể, mức thuế BVMT của mỗi đơn vị sản phẩm gây ra ô nhiễm môi trường được tính bằng chi phí ngoại ứng do đơn vị sản phẩm này gây ra.

Các loại thuế làm gia tăng chi phí các hoạt động gây ô nhiễm môi trường, đồng thời khuyến khích các hoạt động BVMT, cũng như gia tăng nguồn lực phục vụ cho hoạt động xử lý môi trường sau ô nhiễm do các hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp gây ra. Thuế BVMT tác động trực tiếp tới kinh tế của các đối tượng tác động

tiêu cực tới môi trường, làm gia tăng chi phí tạo ra ảnh hưởng của các đối tượng này. Ngoài ra, việc áp dụng thuế BVMT góp phần tạo ra số thu để chi trả cho những tổn hại môi trường, và các biện pháp để giảm ô nhiễm môi trường trong tương lai. Không

dừng lại tại đó, theo Pigou (1920), thuế BVMT còn góp phần cải thiện, thay đổi hành vi của các cá nhân, doanh nghiệp hay toàn xã hội trong hoạt động BVMT.

Lý thuyết đầu tiên về thuế BVMT của Pigou (1920) là nền tảng xây dựng nguyên tắc giảm thiểu chi phí phát triển trong thế kỉ 20 (Surrey, 1973). Thuế BVMT là

một trong những công cụ kinh tế quan trọng để các nhà nước quản lý và BVMT.

2.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và mục đích

• Khái niệm

Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thuế BVMT tùy thuộc vào luật pháp

của mỗi gia hay khu vực. Tuy nhiên, có hai cách định nghĩa cơ bản.

Thứ nhất, theo nghĩa hẹp, Thuế BVMT là loại thuế được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật liên quan (Baumol và Oates, 1988; Wiesmeth, 2013).

32

Thứ hai, thuế BVMTlà các khoản đóng góp của các chủ thể có các hành vi tác động tiêu cực đến môi trường. Ngoài ra, tại một số quốc gia coi các loại thuế sử dụng căn cứ có liên quan đặc biệt tới môi trường đều là thuế BVMT. Một số căn cứ được sử dụng phổ biến như nồng độ CO2, SO2, NO2, một số chất hủy hoại tầng ozon, tiếng ồn, chất lượng nguồn nước,... (Abdullah và Morley, 2014; LiuAntung, 2013)

OECD (2004) định nghĩa thuế BVMT là các khoản thanh toán bắt buộc được xác lập dựa trên các căn cứ liên quan tới môi trường mà các doanh nghiệp có nghĩa vụ thực hiện với chính phủ. Theo Cottrell và các cộng sự (2017), thuế là khoản thu đối

với những chủ thể có tác động tiêu cực tới môi trường. Theo đó, các doanh nghiệp gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm hành vi của mình đồng thời phải chịu trách nhiệm thanh toán chi phí để thực hiện các biện pháp giảm ô nhiễm (Phụ lục 2). Milne (2011) nhấn

Công cụ kinh tế

Quyền cơ bản

Chi phí cơ bản

Thuế

Các khoản ngoài thuế

Thuế môi trường

Chi phí thuế môi trường

Phí/Lệ phí

Trợ cấp

Thuế chất thải

Thuế sản phẩm

Được phép hoạt động

Thuế tài nguyên

mạnh vai trò của các công cụ thuế trên thị trường cũng như khẳng định mối quan hệ giữa thuế BVMT và một số công cụ khác của các nhà nước.

Hình 2.1: Tổng quan về thuế BVMT trong các công cụ kinh tế

Nguồn: Milne (2011, tr.422)

Thuế BVMT là một trong các công cụ kinh tế được nhà nước sử dụng nằm đạt được các mục tiêu cơ bản trong hoạt động BVMT. Theo Milne (2011) có 3 loại thuế BVMT cơ bản, bao gồm (1) Thuế chất thải, (2) Thuế tài nguyên và (3) Thuế sản phẩm. Trong đó, Thuế chất thải là loại thuế đánh vào đánh vào sự thải ra ô nhiễm vào các

môi trường như đất, nước, không khí. Thuế chất thải được tính toán căn cứ trên khối lượng, nồng độ chất thải cuối cùng được đưa ra ngoài môi trường; Thuế tài nguyên là khoản thu đối với các chủ thể sử dụng tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho các hoạt

33

động sản xuất; Thuế sản phẩm là loại thuế đánh vào các sản phẩm có khả năng gây hại

cao cho môi trường trong quá trình sản xuất, sử dụng hay tiêu hủy;

Ngoài ra, chi phí thi hành thuế BVMT cũng là một trong các khoản thu liên quan đến hoạt động quản lý môi trường. Bên cạnh thuế, các nhà nước cũng sử dụng một số công cụ kinh tế khác như các khoản ngoài thuế như phí hoặc lệ phí sử dụng môi trường, và các hình thức trợ cấp. Tuy nhiên, khác với thuế, phí hay lệ phí không áp dụng với tất cả các đối tượng cá nhân hay doanh nghiệp mà chỉ sử dụng trong các trường hợp cụ thể được quy định trong pháp luật của mỗi quốc gia.

Còn tại Việt Nam, theo khoản 1 Điều 3 Luật BVMT 2020 quy định: “Môi trường là hệ thống các nhân tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”. Chính vì vậy, BVMT là mục tiêu hàng đầu trong giai đoạn phát triển công nghiệp như hiện nay. Sử dụng công cụ kinh tế trong BVMT là việc kích thích các chủ thể tích cực thực hiện các hoạt động có lợi cho môi trường và cộng đồng thông qua việc sử dụng các lợi ích vật chất. Cụ thể hơn, theo Khoản 1 Điều 2 Luật Thuế BVMT định nghĩa “Thuế bảo vệ môi trường là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường”. Theo đó, thuế BVMT tại Việt Nam tập trung chủ yếu vào các hoạt động sản xuất, nhập khẩu một số sản phẩm có thể gây tác động tiêu cực tới môi trường và sức khỏe con người. Đây cũng là khái niệm mà luận án đồng thuận và sử dụng trong quá tình thực

hiện nghiên cứu này.

• Đặc điểm

Căn cứ vào khái niệm và mục đích, thuế BVMT có các đặc điểm sau (Bailey,

2002; Milne, 2011; Metcalf, 2015):

Thứ nhất, thuế BVMT là thuế gián thu, được tính thêm vào giá bán của sản phẩm, hàng hóa.Theo đó, người tiêu dùng cuối cùng phải chịu thuế thay cho nhà SXKD.

Thứ hai, tính đặc thù của đối tượng chịu thuế BVMT. Đối tượng chịu thuế BVMT bao gồm các sản phẩm có tác động tiêu cực tới môi trường trong quá trình chúng được sử dụng. Cụ thể, Khoản 1 Điều 2 Luật Thuế BVMT, đối tượng chịu thuế chỉ là hoạt động sử dụng hàng hóa, tức là không bao hàm quá trình sản xuất ra các sản phẩm đó.

Thứ ba, thuế BVMT được xem là công cụ kinh tế quan trọng của nhà nước trong việc quản lý và BVMT. Cụ thể, loại thuế này mang lại hiệu quả cao đối với quản

34

lý BVMT so với việc ban hành các quyết định hành chính khác.Bên cạnh đó, thuế

BVMT góp phần gia tăng việc sử dụng công nghệ, đặc biệt là công nghệ tiên tiến và thân thiện với môi trường.

Thứ tư, thuế BVMT là công cụ gia tăng thu cho ngân sách nhà nước. Nhờ vậy, loại thuế này làm giảm áp lực lên ngân sách quốc gia. Theo đó, các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm gây hại cho môi trường trong quá trình sử dụng có nghĩa vụ phải đóng các khoản thuế, khi đó ngân sách nhà nước sẽ có thêm một khoản thu đáng kể.

Thứ năm, thuế BVMT có tính chất khác với phí, lệ phí BVMT. Cụ thể, về chủ thể, người chịu phí và người nộp phí BVMT là chủ thể sản xuất xả thải ra môi trường còn người đóng thuế BVMT là người sử dụng sản phẩm. Về hành vi, phí/lệ phí BVMT đánh vào hành vi xả chất thải ra môi trường trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của

các chủ thể (thu đối với chủ thể xả chất thải gây ô nhiễm môi trường, ví dụ như phí nước thải sinh hoạt). Trong khi đó, thuế BVMT chỉ tập trung vào một số sản phẩm tiêu dùng gây ô nhiễm nhằm hạn chế việc sử dụng sản phẩm này. Về mức thu, phí BVMT được xác định theo nguyên tắc bù đắp chi phí xử lý ô nhiễm môi trường. Còn thuế

BVMT được nhà nước quy định căn cứ vào nhu cầu sử dụng khoản thuế BVMT. Ngoài ra, phí BVMT mang tính chất xử phạt hành vi vi phạm tác động tiêu cực tới môi trường, còn thuế BVMT là quyền và nghĩa vụ phải thực hiện của các doanh nghiệp.

• Mục đích

Về cơ bản, thuế BVMT có năm mục đích cơ bản (Bailey, 2002; Metcalf, 2015):

Thứ nhất, thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững trên cơ sở phát triển kinh tế gắn với giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Thuế BVMT làm gia tăng chi phí của các doanh nghiệp, từ đó hạn chế một phần các hoạt động tác động tiêu cực tới môi trường. Đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp tìm ra các giải pháp, công nghệ mới thân thiện hơn với

môi trường.

Thứ hai, nâng cao nhận thức của các tổ chức, cá nhân trong sản xuất và tiêu dùng, từ đó cải thiện ý thức và hành vi BVMT của toàn xã hội nhằm giảm thiểu phát

thải ô nhiễm tại nguồn.Nói cách khác, thuế BVMT thay đổi hành vi của các chủ thể liên quan, hướng đến những ảnh hưởng tích cực tới môi trường thông qua tác động trực tiếp vào lợi ích kinh tế của họ.

Thứ ba, là công cụ kinh tế quan trọng để nhà nước quản lý các hoạt động có tác động tiêu cực tới môi trường. Căn cứ vào các tiêu chuẩn môi trường, nhà nước điều hành quản lý, kiểm soát, điều chỉnh các hoạt động SXKD và nhập khẩu gây ảnh hưởng

35

xấu tới môi trường. Mặt khác, đây cũng là cơ sở để các cá nhân, doanh nghiệp tự điều

chỉnh hành vi của mình.

Thứ tư, góp phần tạo thêm nguồn thu để giải quyết vấn đề BVMT. Thông qua khoản thu thuế BVMT, nhà nước có thêm nguồn nhân sách phục vu cho các hoạt động khắc phục, BVMT hiện tại và tương lai. Trong thời kì bùng nổ công nghiệp hóa như hiện nay, hoạt động khắc phục và BVMT ngày càng trở nên phức tạp, đòi hỏi công nghệ xử lý hiện đại, cũng như các giải pháp công nghệ đảm bảo phát triển bền vững . Chính vì vậy, thuế BVMT đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển

nguồn lực thực hiện các hoạt động BVMT trong tương lai.

Thứ năm, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và ứng dụng những quy định công nghệ thân thiện với môi trường để giảm thiểu chất thải, chất gây ô nhiễm. Đồng thời,

thuế BVMT góp phần tiết kiệm nguyên liệu, chi phí sản xuất, qua đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.

2.1.2. Các lý thuyết liên quan đến thuế bảo vệ môi trường

2.1.2.1. Lý luận về chi phí môi trường của Pigou

Pigou (1932) đã đưa ra ý tưởng về việc đánh thuế đối với tình trạng ô nhiễm, tương ứng với thiệt hại cận biên xã hội mà ô nhiễm gây ra. Loại thuế này, còn gọi là chi phí Pigou (Pigouvian Pricing), “nội hoá các chi phí bên ngoài” của ô nhiễm bằng cách tăng chi phí tư nhân bằng với chi phí xã hội của các thiệt hại từ ô nhiễm. Thuế Pigou được biết đến là một khoản thuế đối với nhà sản xuất và doanh nghiệp liên quan đến vấn đề về ô nhiễm môi trường. Pigou cho rằng thuế BVMT có thể phản ánh chi phí của các hoạt động tư nhân mà xã hội phải chịu và áp dụng chúng vào các hoạt động tạo ra chi phí (Pigou, 1920). Bằng cách nội bộ hóa các chi phí bên ngoài đó, thuế có thể phản ánh chi phí môi trường thực sự của khu vực tư nhân và đưa khoản chi phí này vào việc ra các quyết định của khu vực tư nhân.

Một lý thuyết liên quan khác cho rằng những người gây ô nhiễm phải trả tiền cho chính phủ để triển khai các biện pháp kiểm soát ô nhiễm (OECD, 1972), nguyên tắc này gần giống với nguyên tắc nội địa hóa chi phí (OECD, 1992).Tiếp cận theo quan điểm về giảm thiểu chi phí, thuế BVMT được thiết lập nhằm đảm bảo được mức độ mong muốn về giảm ô nhiễm tổng hợp trên cơ sở vẫn đảm bảo được hiệu quả kinh tế của những cá nhân gây ô nhiễm (Surrey, 1973).Theo lý thuyết lợi ích kép (Pearce, 1991), hay còn được biết đến với tên gọi Lý thuyết cải cách thuế sinh thái của Weizsäcker và Jesinghaus(1992), thuế BVMT sẽ tạo ra lợi ích đầu tiên là môi trường, và giảm thuế sẽ tạo ra lợi ích thứ hai là kinh tế (Milne, 2003).

36

2.1.2.2. Học thuyết chi phí xã hội

Theo học thuyết chi phí xã hội (Social Costs Theory), Chính phủ cung cấp năng lượng (ví dụ như dầu mỏ, điện ...) và tài nguyên thiên nhiên (ví dụ như nước, than đá) với giá thấp hơn chi phí sản xuất cận biên. Điều này dẫn đến tình trạng quá tải và suy thoái môi trường. Trong khi đó, tồn tại một số hạng mục không được hạch toán trong cấu trúc chi phí của một doanh nghiệp, chẳng hạn như những chi phí xã hội khác nhau không thể thanh toán riêng lẻ, gồm các dịch vụ mà chính phủ cung cấp như: giáo dục kỹ thuật, các chương trình y tế và vệ sinh công cộng ... Đồng thời, các thiệt hại do

doanh nghiệp gây ra cho xã hội cũng không được ghi chép lại, ví dụ: nạn phá rừng, ô nhiễm sông ngòi, khói bụi ... Điều này làm nảy sinh nhiều vấn đề và được giải quyết bằng các biện pháp khác nhau; vì vậy, doanh nghiệp phải chịu ít nhất một phần chi phí

triển khai các biện pháp này thông qua các khoản thuế.

Kapp (1950) là người tiên phong về kinh tế sinh thái không chỉ vì đây là hạng mục quan trọng liên quan đến chi phí xã hội mà nó còn là một giải pháp thay thế cho lý thuyết tân cổ điển về ngoại ứng. Kapp định nghĩa chi phí xã hội là tất cả các tổn thất

trực tiếp và gián tiếp bị gánh chịu bởi người thứ ba hoặc cộng đồng, và là kết quả của các hoạt động kinh tế không bị hạn chế. Những thiệt hại xã hội này có thể ở dạng thiệt hại cho sức khỏe con người; suy giảm giá trị tài sản và sự cạn kiệt tài nguyên tự nhiên; hoặc cũng có thể là sự suy giảm các giá trị vô hình (Kapp, 1972).

Lý thuyết của Kapp cho thấy chi phí xã hội ở mức độ lớn là một hiện tượng phi thị trường bởi vì các mối quan hệ giữa sản xuất, môi trường và cá nhân, không phải là quan hệ thị trường tự nguyện, mà là các mối quan hệ một chiều không tự nguyện. Do mối

quan hệ quyền lực bất đối xứng, những người mang chi phí xã hội thường quá yếu để tự bảo vệ mình trước sự dịch chuyển chi phí này. Cụ thể, bất cứ khi nào chi phí xã hội được chuyển sang các bộ phận yếu hơn về kinh tế và chính trị của xã hội mà không được bồi thường sẽ dẫn đến sự phân phối lại chi phí sản xuất, từ đó tác động đến thu nhập thực tế.

2.1.2.3. Lý thuyết sinh thái học và khai thác tài nguyên thiên nhiên

Lý thuyết Kinh tế học và khai thác tài nguyên thiên nhiên (Ecological Economics&Economics of Natural Resource Extraction) có lịch sử tương đối dài.

Hotelling (1931) đã phát triển một lý thuyết về ảnh hưởng của sự cạn kiệt dầu hoặc khoáng sản, và đề xuất cách tính tỷ lệ cạn kiệt tối ưu cho các tài nguyên (dựa trên tỷ lệ chiết khấu nhất định). Trong kinh tế học tiêu chuẩn (tân cổ điển), các nhà nghiên cứu tin rằng trong trường hợp tài nguyên khan hiếm và những người tham gia thị trường biết rằng

chúng khan hiếm, thì giá tài nguyên sẽ tăng và các tài nguyên thay thế sẽ bắt đầu mang lại

37

lợi nhuận. Theo cách này, tài nguyên khan hiếm dần dần sẽ được thay thế bằng các tài

nguyên khác. Điều này tương ứng với mô hình tính bền vững yếu (weak sustainability).

Nhìn chung, Lý thuyết kinh tế học tiêu chuẩn lạc quan hơn nhiều so với Lý thuyết sinh thái học. Cụ thể, Lý thuyết kinh tế học tiêu chuẩn tin tưởng vào khả năng của giá cả và thị trường để điều khiển các phản ứng hành vi của người sản xuất và người tiêu dùng. Khai thác không bền vững hay nói đúng hơn là sự khan hiếm tài nguyên thiên nhiên ngày càng tăng, dẫn đến phản ứng thay thế, tiết kiệm, tái chế vật liệu, và đổi mới công nghệ ở cấp độ quy trình và sản phẩm, thông qua giá cả.Ngược

lại, kinh tế sinh thái lại bi quan hơn về những phản ứng như vậy và thường đề cập đến luật entropy, ngụ ý những thay đổi không thể đảo ngược. Theo đó, kinh tế sinh thái nhấn mạnh tính bền vững mạnh mẽ (strong sustainability) trong khai thác các nguồn

tài nguyên. Cụ thể, việc khai thác tài nguyên không tái tạo chỉ bền vững trên góc độ lý thuyết. Tuy nhiên, việc khai thác bền vững các nguồn tài nguyên tái tạo là có thể nếu có sự hiểu biết đầy đủ về tốc độ sinh sản và tăng trưởng.

Các nhà kinh tế sinh thái liên kết trực tiếp tăng trưởng kinh tế với việc khai thác

tài nguyên thiên nhiên (tái tạo hoặc không tái tạo). Một số người thậm chí liên kết nó với xung đột môi trường. Hầu hết các nhà nghiên cứu tin rằng tỷ lệ thiệt hại đối với thiên nhiên và môi trường mà tiếp tục tăng trưởng sẽ gần như chắc chắn dẫn đến thảm họa sinh thái, chẳng hạn như xói mòn đất, phá rừng, sự nóng lên toàn cầu và mất đa

dạng sinh học. Vì vậy, họ cho rằng đối với các quốc gia có nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo, tốt nhất là nên quản lý tài nguyên thiên nhiên kết hợp với xây dựng năng lực, giám sát tài chính và cải thiện tính minh bạch trong khai thác tài nguyên. Trong

đó, tăng thuế tài nguyên đối với hoạt động khai thác tài nguyên không tái tạo góp phần nâng cao tính bền vững theo thời gian. Đồng thời, thuế khai thác tài nguyên tái tạo góp phần quản lý nguồn tài nguyên này theo hướng bền vững hơn. Bên cạnh đó, chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến khối lượng tài nguyên được khai thác hiện tại và lượng

tài nguyên phục vụ cho tương lai.

2.1.3. Những kết luận về cơ sở lý luận đối với thuế bảo vệ môi trường

Tổng kết lại, tác giả đưa ra kết luận về cơ sở lý luận đối với thuế BVMT như sau:

Thứ nhất, thuế BVMT là thuế gián thu (Bailey, 2002; Metcalf, 2015), nghĩa là số tiền thuế phải nộp được tính cùng với giá khi mua sản phẩm. Trong trường hợp này, đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế là hai nhóm đối tượng khác nhau, dẫn đến sự dịch chuyển số tiền thuế phải nộp từ các doanh nghiệp sản xuất nhóm hàng hóa có thể gây

hại tới môi trường trong quá trình sử dụng sang đối tượng sử dụng sản phẩm. Số thuế

38

phải nộp được doanh nghiệp sản xuất coi như một loại chi phí để tính toán ra giá thành

sản phẩm. Tuy nhiên, hình thức đánh thuế này không đẩy giá cả lên quá cao, mà ngược lại còn góp phần gia tăng tính cạnh tranh của sản phẩm về lâu dài (Bachus, 2017). Đây là điểm khác biệt giữa thuế BVMT và các loại thuế trực thu khác như thuế thu nhập.

Thứ hai, thuế BVMT là một trong những công cụ kinh tế được sử dụng hiệu quả trong quản lý và BVMT. Nguyên tắc đóng thuế là người nào sử dụng sản phẩm gây ô nhiễm thì phải nộp thuế (Kreiser và cộng sự, 2015; Goulder và Parry, 2008).

Thứ ba, mục tiêu của thuế BVMT là kêu gọi sự đóng góp trách nhiệm của xã hội trong việc BVMT. Thuế BVMT tạo thêm nguồn thu giải quyết vấn đề môi trường, góp phần hạn chế sản xuất, sử dụng, nhập khẩu các loại hàng hóa có thể gây ảnh hưởng tới mối trường (BaileyIan, 2002; Bontems và Bourgeon, 2005). Đây cũng là cách thức

để nhà nước tác động tới nhận thức, hành vi của xã hội trong việc BVMT sống. Như vậy, không chỉ có làm gia tăng nguồn thu của nhà nước hay là công cụ điều tiết kinh tế xã hội, thuế BVMT còn có mục đích BVMT.

Thứ tư, thuế BVMT được tính theo cách đặc trưng, khác với các loại thuế gián thu, trực thu khác. Theo đó, thuế BVMT được tính căn cứ dựa trên khối lượng hàng hóa tiêu thụ chịu thuế, và tính với mức thuế tuyệt đối, được xây dựng dựa trên mục tiêu chính của thuế BVMT nhằm hạn chế tối đa các tác động tiêu cực đến mô trường. Nếu thuế BVMT được tính theo cách truyền thống sẽ không phản ánh được mực độ

gây hại tới môi trường, đồng thời không cảnh báo được tới người sử dụng. Người sản xuất chắc chắn biết sản phẩm gây hại tới môi trường, còn người sử dụng có thể không biết. Chính vì vậy, việc đánh vào khối lượng sản phẩm, hay giá thành sản phẩm sẽ

khiến người tiêu dùng biết được sản phẩm gây hại tới môi trường nào bị đánh thuế.

Thứ năm, ngoài thuế BVMT, tùy vào các mục đích khác nhau mà Nhà nước sẽ kết hợp với các loại thuế khác nhau nhằm đạt được mục đích cao nhất trong việc BVMT. Thuế BVMT không phải là khoản thu duy nhất để phục vụ hoạt động BVMT;

tuy nhiên đây là khoản thu chính và thường xuyên.

2.2. Quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

2.2.1. Lý thuyết về thất bại thị trường và sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường

2.2.1.1. Thất bại thị trường và ảnh hưởng ngoại lai đối với môi trường

Một cách khái quát, thất bại thị trường là tình trạng thị trường phân bổ kém hiệu

quả các nguồn lực gây ra một số hậu quả như độc quyền, ảnh hưởng ngoại lai, hàng

39

hóa công cộng, ô nhiễm môi trường,.. (Bator và Francis, 1958). Trong nghiên cứu này,

tác giả tập trung nghiên cứu dưới góc độ thất bại thị trường trong việc BVMT. Theo đó, sự phát triển của thị trường cũng như hoạt động phát triển kinh tế của con người và dẫn đến việc sử dụng quá mức tài nguyên thiên nhiên, cũng như gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường trong khi các nhà nước chưa thể giải quyết, xử lý triệt để các vấn đề này. Nền kinh tế thị trường về cơ bản hoạt động hiệu quả, đem lại nhiều lợi ích kinh tế. Nền kinh tế thị trường cung cấp nhiều lợi ích cho người tiêu dùng và nhà sản xuất thông qua giảm thiểu tối đa chi phí với hàng hóa và dịch vụ chất lượng tốt hơn.

Cạnh tranh trong kinh tế thị trường thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và sáng tạo hơn, từ đó giúp tăng năng suất tăng trưởng trên toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động phát triển này lại không mang lại kết quả tốt nhất cho môi trường và

sức khỏe con người (Ho Hoang-Anh, 2016). Quá trình gia tăng sản xuất công nghiệp khiến con người tác động nhiều hơn tới môi trường. Bắt đầu từ khâu sử dụng nguyên liệu, sản xuất hàng hóa, tiêu dùng hàng hóa và tiêu hủy sản phẩm. Thị trường ngày càng phát triển và không thể tự giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan tới môi

trường, kinh tế công nghiệp càng phát triển, môi trường càng ô nhiễm. Cùng với đó, nền kinh tế thị trường chú trọng vào lợi nhuận tạo ra, chính vì vậy, hoạt động nghiên cứu, phát triển công nghệ không được chú trọng. Hầu hết các công nghệ sử dụng vẫn đang là công nghệ cũ, máy móc cũ, điều này khiến các doanh nghiệp không đủ khả

năng xử lý các tác nhân gây ô nhiễm trước khi đưa ra ngoài môi trường.

Trong khi đó, nguồn lực cho hoạt động BVMT lại không được phân bổ một cách hợp lý. Chính vì vậy, đòi hỏi nhà nước cần phải thu thuế và quản lý thuế BVMT

nhằm đảm bảo nguồn lực phục vụ cho hoạt động này. Như vậy, từ thất bại của thị trường trong BVMT đòi hỏi cần có sự can thiệp quản lý của nhà nước.

2.2.1.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường

Sự cần thiết của công tác QLNN đối với thuế BVMT thể hiện qua các nội

dung sau:

Thứ nhất, xuất phát từ thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay. Như đã trình bày ở trên, quá trình phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tạp

ra nhiều tác động tiêu cực tới môi trường. Ô nhiễm không khí không chỉ tồn tại ở một vùng hay một quốc gia mà đã lan rộng ra phạm vi toàn cầu. Không chỉ ô nhiễm môi trường không khí mà còn môi trường đất, nước, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Ô nhiễm môi trường đang trở thành vấn nạn cấp bách cần phải giải quyết của toàn thế

giới. Chính vì vậy, hoạt động thu thuế và quản lý thuế BVMT của nhà nước là vô cùng

40

cần thiết. Nếu không có sự QLNN, tình trạng ô nhiễm môi trường sẽ ngày trở nên

nghiêm trọng hơn với cấp độ rộng hơn (Đinh Trọng Khang, 2016).

Thứ hai, xuất phát từ thực trạng nhận thức của xã hội. Hiện nay, ý thức BVMT của các cá nhân, doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung chưa được đề cao. Các doanh nghiệp chưa có nhiều trách nhiệm trong giải quyết, đóng góp chi phí để giải quyết các vấn đề liên quan tới môi trường (Nguyễn Thị Thanh Hoài, 2014; Nguyễn Đình Chiến, 2017). Bên cạnh đó, để có môi trường không ô nhiễm, đòi hỏi tất cả mọi người chung tay BVMT chứ không chỉ dừng lại ở một hay một vài nhóm doanh

nghiệp. Vì vậy, cần có nhà nước với các công cụ thuế BVMT có thể đảm bảo tính đồng bộ nguồn lực, giải pháp và phạm vi quản lý rộng lớn (Nguyen Van Chan, CoxheadIan, 2011; Lê Thị Kim Oanh, 2010).

Thứ ba, thuế là khoản thu lớn và cần được phân bổ sử dụng hợp lý, phù hợp với mục tiêu và lợi ích của toàn xã hội. Mỗi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đều có mục tiêu lợi ích khác nhau, chỉ có nhà nước – chủ thể quản lý xã hội hướng tới mục tiêu chung của tất cả mọi người. Mặt khác, các tổ chức, doanh nghiệp không có đủ khả

năng để quản lý hiệu quả khoản thu lớn như thuế. Chính vì vậy, nhà nước là chủ thể duy nhất có thể phân bổ nguồn thu từ thuế và sử dụng chúng với mục đích đảm bảo môi trường cho toàn xã hội (Nguyễn Quang Tuấn và Lê Thị Thảo, 2008; Nguyễn Đình Chiến, 2016).

Thứ tư, xuất phát từ năng lực quản lý của nhà nước. Bản thân các doanh nghiệp không thể giải quyết triệt để vấn về ô nhiễm môi trường này do thiếu nguồn lực, thiếu khả năng tiếp cận công nghệ cũng như bộ máy quản lý. Chính vì vậy đòi hỏi cần có sự

tham gia quản lý của nhà nước, với đầy đủ nguồn lực và bộ máy quán lý thực hiện (Bùi Thanh, 2013; Deke, 2008; Trần Vũ Hải, 2009).

Thứ năm, đảm bảo nguồn chi cho hoạt động BVMT. Thực tế sẽ không có cá nhân hay tổ chức nào có thể chi trả toàn bộ hoạt động xử lý và BVMT cho các quốc

gia. Chính vì vậy, để đảm bảo nguồn thu phục vụ cho hoạt động này, nhà nước cần đứng ra thu thuế BVMT. Hoàn thiện QLNN đối với thuế BVMT góp phần bổ sung thêm nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu BVMT cũng như phục vu

các hoạt động khắc phục các môi trường đang bị ô nhiễm. Bên cạnh đó, QLNN đối với thuế BVMT góp phần bù đắp các khoản chi, các khoản vay trong và ngoài nước cho hoạt động BVMT, giúp nhà nước điều chỉnh cán cân kinh tế (Harrington và cộng sự, 2004).

41

Nhà nước sử dụng nhiều công cụ để thực hiện hoạt động quản lý của mình. Tuy

nhiên có 4 (bốn) loại cơ bản, bao gồm (i) công cụ thông tin; (ii) công cụ hợp tác; (iii) công cụ kinh tế, (iv) công cụ điều tiết (Böcher, 2012; Howlett, 2011). Nhà nước sử dụng công cụ thông tin nhằm cung cấp đến các đối tượng nguồn thông tin cần thiết, từ đó thay đổi nhận thức, hành vi của các đối tượng này. Công cụ hợp tác sử dụng các cuộc đàm phán theo cơ chế phối hợp. Các cuộc đàm phán được diễn giữa các doanh nghiệp tư nhân hoặc giữa khối tư nhân và nhà nước để thiết lập các biện pháp tự nguyện dẫn đến tự nguyện thỏa thuận.

Nhà nước sử dụng các công cụ kinh tế nhằm điều phối giá cả thị trường,thông qua đó tác động đến hành vi BVMT của các doanh nghiệp. Thuế BVMT tăng làm tăng chi phí cho hành vi gây ô nhiễm môi trường môi trường. Bên cạnh đó, nhà nước cũng

Công cụ hợp tác

Công cụ thông tin

Công cụ kinh tế

Công cụ điều tiết

Kiểm soát trực tiếp

Thỏa thuận tự nguyện Thảo luận Thương lượng ...

Thuế môi trường Phí Cấp giấy phép Trợ cấp Hỗ trợ tài chính

Thông tin môi trường Giáo dục kiến thức Biểu tượng ...

Thấp

Cao

Mức độ can thiệp của nhà nước

thi hành một số chính sách khuyến khích, trợ cấp kinh tế nhằm thúc đẩy thay đổi hành vi của các doanh nghiệp. Cuối cùng công cụ điều tiết là hoạt động kiểm soát trực tiếp thông qua bộ máy quản lý của nhà nước lên các doanh nghiệp tư nhân.

Hình 2.2: Các công cụ chính sách môi trường và mức độ can thiệp của nhà nước

Nguồn: Böcher (2012, tr.15)

Theo đó, công cụ thông tin và công cụ hợp tác không đòi hỏi nhiều sự can thiệp của nhà nước. Còn lại mức độ can thiệp của nhà nước trong hai công cụ kinh tế và điều tiết khá cao. Nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước trong thi hành các chính sách thuế, hỗ trợ, việc cấp giấy phép hoạt động và kiểm soát trực tiếp các hành vi có thể gây hại tới môi trường (Böcher, 2012).

2.2.2. Khái niệm, ý nghĩa và nguyên tắc quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

Quản lý nhà nước (QLNN) ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước. Công tác QLNN phụ thuộc vào thời kì lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. QLNN là hình thức quản lý xã hội đặc biệt, thể hiện tính quyền lực nhà nước. Theo đó, các nhà nước sử dụng pháp luật của mình để điều chỉnh các mối

42

quan hệ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công tác QLNN hướng tới đáp ứng các nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. QLNN bao gồm toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp. QLNN được thực hiện bởi các cơ quan hành pháp theo quy định. Thuế nói chung và thuế BVMT nói riêng là một trong những đối tượng quản lý của nhà nước (Nguyễn Thị Thùy Dương, 2011; Lưu Ngọc Thơ, 2013).

Trong luận án này, QLNN đối với thuế BVMT được định nghĩa là quá trình tác động có mục đích, có ý thức của Nhà nước vào việc huy động các nguồn thu từ thuế BVMT, tập trung vào ngân sách nhà nước thông qua các văn bản pháp lý, các phương pháp và các tổ chức, các cơ quan chức năng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Từ khái niệm trên cho thấy, trong QLNN đối với thuế BVMT gồm các tác nhân như sau: Chủ thể quản lý thuế BVMT là Nhà nước, với cơ quan lập pháp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến thuế BVMT; cơ quan hành pháp (cơ quan thuế, cơ quan hải quan) đảm nhận công tác thu và nộp thuế BVMT; và các cơ quan chuyên môn hỗ trợ cơ quan hành pháp tổ chức và thực hiện thu thuế BVMT; Ngoài ra, mặc dù không được đề cập đến trong định nghĩa trên về QLNN đối với thuế BVMT, còn có các cơ quan tư pháp, là hệ thống tòa án các cấp, có nhiệm vụ xử lý những hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp liên quan đến thuế BVMT. Trong pháp vi của mình, luận án giới hạn tập trung vào các cơ quan lập pháp và hành pháp; không đi sâu vào nhánh tư pháp trong nghiên cứu về QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam hiện nay.

Công tác quản lý thuế nói chung và Thuế BVMT cần tuân thủ các nguyên tắc

cơ bản như sau (Nguyễn Hoàng, 2013; Nguyễn Quang Hưng, 2018):

Một là tuân thủ pháp luật. Tất cả các công tác QLNN về thuế BVMT, từ khâu xây dựng các quy phạm pháp luật, chính sách thuế, đến khâu triển khai, kiểm tra phải đảm bảo phù hợp với quy định của Hiến pháp, trong khuôn khổ pháp luật quy định, cũng như phù hợp với các điều ước, thông lệ quốc tế hay các quy định chung về thuế quốc tế mà các quốc gia đã ký kết.

Hai là đảm bảo tính thống nhất trong quản lý. Theo đó, để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động quản lý thuế BVMT, hoạt động quản lý phải đảm bảo thống nhất các quy định trong tất cả các khâu từ Trung ương tới Địa phương. Các văn bản, giải pháp quản lý của các địa phương phải đồng nhất với các quy định chung. Thực hiện phân cấp quản lý thuế BVMT một cách thống nhất theo luật pháp quy định giữa các cơ quan liên quan tới quá trình quản lý thuế BVMT.

Ba là đảm bảo tính công bằng trong quản lý. Hoạt động quản lý thuế BVMT phải đảm bảo đối tượng công bằng, bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế, các pháp

43

nhân và thể nhân, không phân biệt đối xử giữa các đối tượng nộp thuế, đảm bảo không có trường hợp đặc cách, vùng cấm nào.

Bốn là đảm bảo tính công khai, minh bạch. Toàn bộ các hoạt động trong quy trình QLNN đối với thuế BVMT phải được công khai hóa. Các văn bản pháp luật phải được niêm yết công khai để đối tượng nộp thuế nắm được quy trình, đồng thời giảm thiểu tiêu cực trong công tác thu thuế BVMT. Ngoài ra, một số hoạt động khác như tuyên truyền, tư vấn, giải thích cũng phải rõ ràng, dễ hiểu, công khai.

Năm là đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả quản lý. Cơ quan QLNN về thuế BVMT phải xây dựng đảm bảo quy trình quản lý phù hợp với bối cảnh, tình hình, đặc điểm hoạt động SXKD của đối tượng nộp thuế. Trong hoạt động quản lý không quá cứng nhắc, cần linh hoạt để tạo thuận lợi cho đối tượng nộp thuế, từ đó tiết kiệm tối đa chi phí cũng như thời gian, vật chất và tiền bạc, góp phần phát huy hiệu quả của công tác quản lý thuế BVMT.

2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

Đối tượng QLNN là hệ thống các chính sách liên quan và cơ chế hoạt động của bộ máy thi hành chính sách. Vì vậy, QLNN có tác động rất lớn và lâu dài đối với nguồn thu của ngân sách nhà nước. Về kinh tế, nguồn thu từ thuế BVMT chiếm tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế quốc gia, nhưng về mặt xã hội, ý thức BVMT của các doanh nghiệp, tổ chức và người dân sẽ được cải thiện đáng kể.

2.2.3.1. Xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật và chính sách về thuế BVMT

Cách thức, trình tự xây dựng và ban hành là ba nội dung chính để cho ra đời các văn bản luật nói chung, trong đó có luật thuế. Trong ba nội dung này, các chủ thể với những vị trí, chức năng và quyền hạn khác nhau sẽ tiến hành liên tiếp nhiều hành vi có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để nhằm mục đích biến những kế hoạch, mục tiêu và mong muốn của giai cấp cầm quyền thành những quy tắc mang tính chất pháp lý được thể hiện dưới hình thức văn bản pháp luật. Nhìn chung, quy trình xây dựng các văn bản nói chung và văn bản thuế nói riêng gồm năm bước: lập chương trình xây dựng văn bản pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, thông qua và cuối cùng là công bố văn bản luật (OECD, 2011).

Cụ thể quy trình xây dựng văn bản luật thuế bao gồm các bước sau đây:

Bước một, lập chương trình xây dựng luật: đây là bước giúp việc soạn thảo và ban hành các văn bản luật không bị chậm trễ, tránh trường hợp công tác xây dựng văn bản luật thuế không đạt tiến độ thời gian. Nhờ thế, các văn bản luật được xây dựng và ban hành đúng theo nội dung và mục tiêu đã đề ra trước đó, giúp nhà nước kịp thời ban

44

hành những văn bản luật cần thiết để điều chính các hoạt động và mối quan hệ trong xã hội.

Bước hai, xây dựng dự thảo văn bản luật: để tiến hành bước này, Ban soạn thảo sẽ được thành lập và sẽ tiến hành các công việc bao gồm: tổng kết quá trình thực thi các văn bản luật trong thực tế; đánh giá tính hiệu quả của các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan đến dự án; nghiên cứu tư liệu và các thông tin có liên quan đến dự án; chuẩn bị đề cương và soạn thảo nội dung cần đề cập; lập các chương trình trưng cầu ý kiến các đối tượng có liên quan đến văn bản luật với những hình thức và nội dung phù hợp…

Bước ba, thẩm tra, thẩm định dự án luật: dự thảo sẽ được xem xét một cách toàn diện bởi các cơ quan có thẩm quyền, sau đó sẽ được trình lên các tổ chức, ban ngành có thẩm quyền ban hành văn bản luật.

Bước bốn, thảo luận và thông qua văn bản luật ở kỳ họp của Quốc hội: cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét và chấp nhận toàn bộ nội dung dự thảo để ban hành văn bản luật. Việc xem xét này có thể tiến hành tại một hoặc hoặc nhiều kỳ họp của Quốc hội.

Bước năm, công bố văn bản luật: chính là bước công khai hóa, chính thức hóa về mặt nhà nước đối với văn bản luật đã được ban hành để tạo điều kiện cho các văn bản này phát sinh hiệu lực. Nhờ thế, văn bản luật sẽ đảm bảo được tính công khai và minh bạch. Cuối cùng, lệnh công bố văn bản luật của Quốc hội sẽ được Chủ tịch nước ban hành.

2.2.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thuế BVMT

Tổ chức bộ máy QLNN về thuế BVMT chính là việc xác định cơ cấu tổ chức bộ máy sao cho phù hợp với nguồn lực hiện có để có thể phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả nhất trong công tác tuyên truyền, thực thi luật thuế. Từ đó, hệ thống QLNN về thuế BVMT mới đảm bảo tính khoa học, thống nhất, đầy đủ để quản lý thuế hiệu quả. Có như vậy, các chính sách, pháp luật thuế BVMT sẽ được tuân thủ, bảo đảm thu đúng, thu đủ cả về thời gian và số lượng tiền thuế vào ngân sách nhà nước và phù hợp với thực tế (OECD, 2011).

Về mô hình tổ chức quản lý thuế, có các mô hình cơ bản như sau:

Thứ nhất, mô hình tổ chức quản lý theo sắc thuế: các bộ phận, phòng ban sẽ quản lý một hoặc một số loại thuế cụ thể. Ưu điểm của mô hình này là nhà nước có thể quản lý chuyên sâu từng loại thuế; ứng phó linh hoạt với những thay đổi của luật thuế cũng như những biện pháp quản lý đối với từng loại thuế. Các quốc gia có nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, mô hình tài chính vẫn bộc lộ nhiều bất cập với nhiều quy định và thủ tục khác nhau trong quá trình quản lý từng loại thuế dễ dàng áp dụng mô hình này.

45

Nhược điểm của mô hình này là tốn kém về chi phí quản lý (do các bộ phận khác nhau lại có cùng chức năng quản lý), chi phí tuân thủ pháp luật (của đối tượng nộp thuế và cả cơ quan thuế). Ngoài ra, mô hình này dễ dẫn đến hiện tượng thông đồng giữa người nộp thuế và người chịu trách nhiệm quản lý thuế. Để áp dụng mô hình này cần nhiều cán bộ chuyên trách dẫn đến bộ máy quản lý cồng kềnh, phức tạp. Ở Việt Nam,vào đầu những năm 1990, mô hình này được áp dụng đối với tất cả các loại thuế. Hiện nay, nó vẫn được áp dụng với thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng,…

Thứ hai, mô hình tổ chức bộ máy theo nhóm đối tượng nộp thuế: trong mô hình này, từng nhóm đối tượng nộp thuế sẽ được phân ra thành các nhóm nhỏ hơn theo quy mô, ngành nghề kinh doanh, hình thức sở hữu để dễ quản lý cho các bộ phận, phòng ban. Như vậy, các loại thuế khác nhau sẽ do các phòng ban khác nhau phụ trách và thực hiện tất cả các chức năng quản lý thuế có liên quan. Mô hình này có ba ưu điểm, đó là: (1) đặc điểm của từng nhóm đối tượng nộp thuế sẽ được quản lý một cách phù hợp và chặt chẽ; (2) các phương pháp quản lý thuế và phân bổ nguồn lực được tiến hành thuận lợi dựa trên các đặc điểm của từng nhóm đối tượng nộp thuế; và (3) là cơ sở để giám sát hoạt động thực hiện và đánh giá nhiệm vụ thu ngân sách đối với từng nhóm đối tượng nộp thuế cụ thể. Tuy nhiên, mô hình này khó triển khai trong trường hợp đối tượng nộp thuế và loại hình SXKD ngày càng phát triển về số lượng và chủng loại. Không những thế, tình trạng chồng chéo khi chỉ đạo thực hiện các luật thuế rất dễ xảy ra, kéo theo hiện tượng tham nhũng nếu nhà nước không kiểm tra giám sát thường xuyên. Ngoài ra, bộ máy quản lý dành cho mô hình này cồng kềnh, phát sinh nhiều chi phí. Mô hình này được áp dụng ở nước ta trong giai đoạn cải cách thuế bước I và II và được thực hiện ở cấp Cục và Chi cục nhưng nhìn chung hiệu quả quản lý chưa cao khi số lượng và loại hình doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng.

Thứ ba, mô hình tổ chức bộ máy theo chức năng: trong quy trình quản lý thuế, các phòng ban với mối quan hệ chặt chẽ với nhau sẽ thực hiện một hoặc một số chức năng khác nhau, chẳng hạn có phòng ban sẽ xử lý tờ khai và dữ liệu thuế, có phòng ban sẽ đảm nhận nhiệm vụ thanh tra thuế,… theo đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Mô hình này có ưu điểm là linh hoạt, ứng phó được với những thay đổi về chính sách và đối tượng nộp thuế. Không những thế, mô hình này có tính hiệu quả cao vì tạo tính tự giác cao đối tượng nộp thuế cũng như giảm thiểu tiêu cực và tham nhũng trong quản lý thuế. Nhược điểm của mô hình này là khó thích ứng và phát huy hiệu quả nếu như đối tượng nộp thuế không hiểu rõ về nội dung luật và thái độ tự giác kém. Hiện nay, nhiều nước đang phát triển đang áp dụng mô hình này và Việt Nam cũng đã áp dụng từ năm 1990 đến nay. Trong quá trình áp dụng, mô hình này thường được kết hợp với nguyên tắc quản lý theo nhóm đối tượng nộp thuế và nguyên tắc quản lý theo sắc thuế.

46

Thứ tư, mô hình kết hợp giữa các nguyên tắc quản lý thuế: bao gồm các hình thức kết hợp sau: (1) nguyên tắc quản lý theo sắc thuế - nguyên tắc quản lý theo chức năng – nguyên tắc quản lý theo quy mô đối tượng; (2) nguyên tắc quản lý theo chức năng –nguyên tắc quản lý theo quy mô đối tượng –nguyên tắc quản lý theo sắc thuế; và (3) nguyên tắc quản lý theo đối tượng –nguyên tắc quản lý theo chức năng –nguyên tắc quản lý theo sắc thuế, trong đó nguyên tắc đầu tiên là nguyên tắc chính. Trong đó, mô hình thứ hai được sử dụng phổ biến tại các nước phát triển và đang phát triển trong điều kiện thực hiện cơ chế tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Còn hình thức kết hợp thứ ba được một số nước tiên tiến trên thế giới hiện nay áp dụng. Theo đó, nhóm đối tượng nộp thuế được chia theo quy mô (nhỏ, vừa, lớn) hoặc theo nhóm ngành (điện lực, ngân hàng, bảo hiểm,…). Trong đó lại thành lập các bộ quản lý theo chức năng, chẳng hạn như bộ phận quản lý nợ thuế, bộ phận hỗ trợ, kê khai và kế toán thuế, bộ phận thanh tra thuế,…

Tổ chức bộ máy QLNN về thuế BVMT cần dựa trên nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước, trong đó tuân theo các quy định về phân chia địa giới giữa các tỉnh, thành phố, huyện, xã,…. Hiện nay, ở Việt Nam, đối với thuế BVMT đang áp dụng nguyên tắc quản lý theo địa giới hành chính, bao gồm: Tổng cục thuế và Tổng cục Hải qua(tại cấp Trung ương); Cục thuế và Cục Hải quan các tỉnh, thành phố (tại cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), Chi cục thuế và Chi cục hải quan(tại cấp huyện),và bộ phận quản lý thuế (tại xã, phường, hoặc liên xã, liên phường thuộc chi cục thuế quận, huyện tại cấp xã).

2.2.3.3. Tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT

Để hiểu rõ về tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT, trước hết, tác giả làm rõ khái niệm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật thuế BVMT. Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật, “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” (Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007). Thực hiện pháp luật do các chủ thể thực hiện với cách thức khác nhau, là hành vi của mỗi cá nhân hay hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế. Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp, phù hợp với những quy định của pháp luật và có lợi cho toàn xã hội. Thực hiện pháp luật được chủ thể thực hiện trên sự tự nhận thức là cần thiết phải xử sự theo đúng quy định của pháp luật đồng thời cũng được thực hiện dựa trên việc ảnh hưởng từ những người xung quanh; Hoặc việc thực hiện những hành vi này nhờ vào việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hoặc do các chủ thể sợ bị áp dụng những biện pháp đó.

Pháp Luật thuế BVMT là nằm trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Thực hiện pháp luật Thuế BVMT được hiểu như sau: “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt

47

động có mục đích của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội và mọi công dân nhằm đưa các quy phạm pháp luật trở thành những hành vi thực tế hợp pháp”. Tổ chức thực hiện pháp luật môi trường có ba đặc điểm chính như sau: Thứ nhất, việc thực hiện pháp luật là chuỗi hành vi có mục đích; Thứ hai, chủ thể thực hiện pháp luật là các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội; Thứ ba, thực hiện pháp luật là nhằm hiện thực hóa các quy phạm pháp luật về BVMT.

Như vậy, tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT là quá trình biến các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, nhằm đưa ra các quy phạm về thuế BVMT trở thành những hành vi hợp pháp. Với cách tiếp cận này thì tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT là quá trình biến các quy định của pháp luật thành những hành vi thực tế hợp pháp thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy Bộ Tài chính, các cơ quan thu tại địa phương (Tổng cục thuế, Cục thuế; Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan) nhằm hiện thực hoá mục tiêu của thuế BVMT được đề ra. Cụ thể, tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT là khâu tổ chức, phân công trách nhiệm cho các bộ phận trong cơ quan thuế; xác lập mối quan hệ phối hợp giữa các bộ phận một cách hữu hiệu trong việc thực thi các chính sách thuế BVMT. Xuất phát từ mục tiêu nâng cao nhận thức của toàn xã hội về BVMT, Luật quản lý thuế và Luật thuế BVMT là cơ sở pháp lý, là công cụ tài chính quan trọng góp phần thực hiện công tác BVMT, được xây dựng trên nguyên tắc người gây ô nhiễm phải nộp thuế.

Về phương thức quản lý, nhà nước có thể quản lý thuế thông qua các mệnh lệnh hành chính, bằng các biện pháp kinh tế, có thể kết hợp các phương thức khuyến khích như khen thưởng, thi đua,... Để triển khai thực thi thuế BVMT, nhiều văn bản hướng dẫn đã được ban hành tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng cường QLNN về môi trường, tiếp tục quá trình xây dựng và cải cách hệ thống thuế đồng bộ, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, hỗ trợ, hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực thi pháp luật về thuế. Các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật thuế BVMT đã được các cơ quan có thẩm quyền ban hành trên cơ sở đảm bảo phù hợp với Hiến pháp, thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, và đảm bảo các cam kết của Chính phủ với cộng đồng quốc tế.

Cách thức tổ chức quản lý thuế BVMT là việc sử dụng sự hỗ trợ của công nghệ thông tin (CNTT)trong việc tuyên truyền, hướng dẫn quy trình cũng như các biện pháp nghiệp vụ. Trong đó, tuyên truyền quản lý thuế BVMT đến các doanh nghiệp đối tượng nộp thuế là một nội dung quan trọng, nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm và tính tự giác tuân thủ pháp luật thuế của đối tượng nộp thuế, giúp cho đối tượng nộp thuế chủ động và tự chịu trách nhiệm về việc tính toán chính xác số thuế phải nộp và thực hiện tốt nghĩa vụ với NSNN. Qua đó không những góp phần thực thi hiệu quả thực

48

hiện thuế BVMT, tăng số thu cho NSNN mà còn tạo sự gắn kết giữa cơ quan thu thuế (cơ quan Thuế, cơ quan Hải quan) và đối tượng nộp thuế. Cụ thể, ngay từ khi Luật thuế BVMT có hiệu lực thi hành, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, các Cục Thuế, Tổng cục Hải quan, các Cục Hải quan đã chỉ đạo triển khai thi hành Luật và hướng dẫn đến cán bộ, công chức, viên chức và đối tượng nộp thuế bằng nhiều hình thức đa dạng như thông qua các đài truyền hình, sách báo, tạp chí, tờ rơi, pano, khẩu hiệu, tổ chức hội thảo, tọa đàm; tổ chức đào tạo, tập huấn, hội nghị đối thoại doanh nghiệp về thuế, hải quan, kịp thời giải đáp các thắc mắc, khó khăn phát sinh trong quá trình kê khai, nộp thuế của đối tượng nộp thuế BVMT; Các đơn vị thu thuế đã triển khai công bố đường dây nóng để ghi nhận, giải đáp vướng mắc; tổ chức hội nghị phố biến chính sách thuế và đối thoại doanh nghiệp tại địa phương. Tổ chức tọa đàm thu nhận ý kiến đối tượng nộp thuế. Mọi thủ tục hành chính thuế, chính sách thuế đều được công khai tại nơi giao dịch nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng nộp thuế.

2.2.3.4. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế BVMT

Hoạt động thanh tra, kiểm tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định, chủ yếu là nhà nước và đặt trong phạm vi quyền hạn nhất định. Xét về nghĩa, chủ thể thanh tra có phạm vi hẹp hơn kiểm tra. Chủ thể thực hiện thanh tra là cơ quan nhà nước được giao thẩm quyền còn kiểm tra là hoạt động thường xuyên của mọi chủ thể quản lý. Thanh tra, kiểm tra giám sát được xem là hoạt động, công cụ không thể thiếu trong quản lý; giúp Nhà nước quản lý, điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong xã hội đảm bảo tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật (OECD, 2011). Theo Luật Thanh tra (2010): “Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.” Thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế BVMT là một hoạt động thuộc thanh tra nhà nước.

Nghiên cứu về hoạt động thanh tra thuế, một số tác giả trên thế giới đã đưa ra định nghĩa. Theo Kircher (2008): “Thanh tra thuế là kiểm tra báo cáo thuế của một tổ chức hay cá nhân do cơ quan thuế thực hiện để xác định mức độ tuân thủ luật và chính sách thuế của Nhà nước đang áp dụng”. Còn ở Việt Nam hoạt động thanh tra thuế được Tổng cục Thuế (2010) xác định: “Thanh tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình thực hiện thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế, nhằm bảo đảm pháp luật thuế được thực thu nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế-xã hội”. Hoạt động thanh tra thuế nhằm kết luận về việc chấp hành các quy định pháp luật thuế, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, góp phần hoàn thiện chính

49

sách, cơ chế quản lý thuế; phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thuế BVMT, đảm bảo sự tuân thủ của các đối tượng nộp thuế.

Từ các định nghĩa trên có thể hiểu, thanh tra, kiểm tra thuế BVMT là một hoạt động thanh tra chuyên ngành của cơ quan có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực. Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế BVMT do các cơ quan thuế, hải quan nhà nước hoặc các cơ quan hành chính có thẩm quyền thực hiện đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có phát sinh hoạt động liên quan đến nghĩa vụ thuế. Nội dung của hoạt động thanh tra kiểm tra liên quan đến việc chấp hành pháp luật thuế BVMT.

Nguyên tắc của hoạt động thanh tra thuế nói chung đã được quy định rõ trong các văn bản pháp luật. Tại Điều 7, Luật Thanh tra do Quốc hội ban hành năm 2010 chỉ rõ hai nguyên tắc của công tác thanh tra nói chung bao gồm. Thứ nhất, “Tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời”. Nguyên tắc thứ hai là “Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.”

Thanh tra, kiểm tra là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hệ thống quản lý thuế của cơ quan thuế, cơ quan hải quan. Đây còn được xác định là một hoạt động có vai trò to lớn trong việc chống thất thu thuế của ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, hoạt động này thúc đẩy sự tuân thủ những quy định pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, hoàn thiện chính sách pháp luật thuế, thu thập thông tin cho hệ thống quản lý và hỗ trợ cho đối tượng nộp thuế.

Cơ quan Thuế, Hải quan có chức năng kiểm tra, thanh tra thuế BVMT đối với đối tượng nộp thuế, công tác này được thực hiện tại Trụ sở cơ quan Thuế, Hải quan và tại Trụ sở của đối tượng nộp thuế. Đây là nội dung quan trọng trong quy trình quản lý thuế của Nhà nước (Nguyễn Thị Lệ Thúy, 2009). Pháp luật cũng phân biệt rõ ràng nội dung kiểm tra và nội dung thanh tra thuế.

Đối với công tác kiểm tra thuế BVMT, theo Luật quản lý Thuế 2019, hoạt động này chú trọng vào một số nội dung chính sau: Thứ nhất là kiểm tra các đối tượng nộp thuế BVMT trong việc tuân thủ theo những quy định của pháp luật về khai báo và lập hồ sơ thuế. Nội dung này diễn ra chủ yếu tại cơ quan Thuế, Hải quan. Để thực hiện nội dung kiểm tra các hồ sơ khai thuế, cơ quan Thuế, Hải quan phải đối chiếu các hồ sơ theo quy định và yêu cầu của pháp luật, đối chiếu tình hình khai báo với cơ sở thực tế của người nộp thuế để xác minh tính đầy đủ, chính xác của mỗi hồ sơ. Nếu hồ sơ đầy đủ tài liệu, chính xác, không có dấu hiệu vi phạm thì chấp nhận. Trong trường hợp Cơ quan Thuế, Hải quan phát hiện hồ sơ khai thuế chưa đầy đủ các tài liệu theo quy định

50

của pháp luật, cơ quan Thuế, Hải quan gửi thông báo tới kịp thời đối tượng nộp thuế để có những phương án bổ sung kịp thời. Thứ hai, cơ quan Thuế, Hải quan thực hiện kiểm tra các đối tượng nộp thuế về việc chấp hành thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Đối với nội dung này, các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải chấp hành lưu trữ các chứng từ, sao kê, báo cáo kinh doanh, báo cáo tài chính và báo cáo thuế theo quy định của Nhà nước. Nội dung kiểm tra của cơ quan nhà nước tập trung vào kiểm tra tính hợp pháp của các chứng từ, tính trung thực của các báo cáo; kiểm tra việc chấp hành quy trình kê khai, xác định mức thuế, số thuế phải nộp, số thuế được khấu trừu, số thuế được hoàn lại so với hồ sơ kê khai ban đầu. Nội dung thanh tra, kiểm tra này khá phức tạp nhưng lại có tác dụng lớn trong việc xác minh tính trung thực của đối tượng nộp thuế trong khi thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà Nước và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Các đối tương phải đảm bảo nộp thuế BVMT đủ và đúng thời hạn. Nội dung kiểm tra này nhằm ngăn chặn các hành vi cố ý nộp chậm ảnh hưởng đến việc thu nộp thuế, ngăn chặn những “mầm mống” của việc có ý định chiếm đoạt tiền thuế, trốn thuế của Nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện các cá nhân, tổ chức, cá nhân tự kê khai và nộp thuế vào Kho Bạc Nhà nước như hiện nay.

Đối với công tác thanh tra thuế BVMT, pháp luật quy định rõ ràng gồm hai loại là thanh tra theo kế hoạch hoặc thanh tra bất thường. Thanh tra theo kế hoạch chỉ áp dụng với những đối tượng có ngành nghề kinh doanh đa dạng thì thanh tra định kỳ một năm không quá một lần. Thanh tra bất thường được áp dụng cho các đối tượng nộp thuế có dấu hiệu vi phạm thuế hoặc thanh tra để giải quyết các khiếu nại, tố cáo theo chỉ thị của các cơ quan quản lý thuế cấp trên hoặc của theo yêu cầu của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Để thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra thuế BVMT, cơ quan Thuế, Hải quan triển khai ban hành các quy trình nghiệp vụ, bố trí cán bộ thuế làm công tác thanh tra đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được yêu cầu. Trong đó, việc kiểm tra, thanh tra thuế BVMT cần phải thực hiện theo các nguyên tắc thanh tra nói chung được quy định tại Luật quản lý Thuế số 38/2019/QH14 ban hành năm 2019.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế BVMT có vai trò quan trọng và mang lại lợi ích rất lớn đối với quốc gia. Thứ nhất, hoạt động thanh tra kiểm tra thuế BVMT làm tăng cường tính tự giác của các chủ thể phát sinh nghĩa vụ đóng thuế trong xã hội, đảm bảo với người nộp thuế rằng luôn có một cơ quan quản lý nhà nước bên cạnh và giám sát việc thực hiện nghĩa vụ đóng thuế của họ, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Thứ hai, công tác kiểm tra đảm bảo phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế BVMT để có các biện pháp ngăn chặn, xử lý, răn đe nhằm chống thất thu thuế cho ngân sách nhà nước và đảm bảo cân đối cho khoản ngân sách chi cho BVMT, đảm bảo thực hiện nghiêm túc pháp luật về thuế BVMT, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức đối với việc BVMT.

51

2.2.4. Mục tiêu quản lý thuế và tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

Hiệu quả QLNN đối với thuế BVMT là kết quả của sự tác động của các cơ quan QLNN lên các lĩnh vực hoạt động liên quan, ảnh hưởng đến môi trường, nhằm đảo bảo hoàn thành các mục tiêu đã đề ra về thuế BVMT. Cụ thể, hai mục tiêu phổ biến phản ánh hiệu quả QLNN đối với thuế BVMT được các tổ chức và học giả thừa nhận trong và ngoài nước (Boyne, 2002; OECD, 2005, 2011; Walker và Andrews, 2013; Trần Đình Thắng, 2019; Nguyễn Thị Ngọc Diễm, 2018) gồm:

Thứ nhất, QLNN đối với thuế BVMT trước hết nhằm mục tiêu bảo vệ môi

trường, thể hiện qua hai tiêu chí đánh giá hiệu quả:

- Tính hợp lý - khả thi, thể hiện qua mức độ hoàn thành kế hoạch chiến lược đề

ra của công tác QLNN về thuế BVMT.

- Tính phù hợp: liên quan đến sự phù hợp của các mục tiêu định hướng; sự phù hợp trong quy định của pháp luật; phù hợp về nội dung, phương pháp điều hành; sự phù hợp về nội dung, phương thức, hình thức, kiểm tra, thanh tra, giám sát.

Thứ hai, QLNN về thuế BVMT nhằm mục tiêu tăng thu vì thuế, nhằm khắc phục xu hướng giảm thu thuế do hôi nhập kinh tế khu vực và thế giới. Mục tiêu này thể hiện qua hai tiêu chí đánh giá hiệu quả:

- Tính hiệu lực hay tuân thủ: thể hiện các mục tiêu của QLNN về thuế BVMT có thể hiện được tính đúng đắn không; và mức độ thực hiện mục tiêu có cao không. Theo nghĩa hẹp, hiệu lực QLNN về thuế BVMT được đo lườпg thôпg qua việc so sánh giữa kết quả của việc thực hiện các nội dung QLNN về thuế BVMT với các mục tiêu đã đề ra.

- Tính hiệu quả, thể hiện qua đánh giá về sự tương quan giữa chi phí của công

tác QLNN với chất lượng QLNN đối với thuế BVMT.

2.3. Kinh nghiệm thế giới và một số bài học rút ra cho Việt Nam trong quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường

QLNN đối với thuế BVMT từ lâu đã được các nhà nghiên cứu, các học giả nước ngoài đi sâu nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong những năm gần đây, một số quốc gia đã có công trình nghiên cứu lớn mang ý nghĩa quan trọng đối với môi trường và phát triển kinh tế xã hội. Một số quốc gia được lựa chọn nghiên cứu theo hai tiêu chí: (i) quốc gia có nền kinh tế tương đồng ở châu Á, và có bước phát triền trước so với Việt Nam, gồm các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore; và (ii)

52

quốc gia có nền kinh tế phát triển, có hệ thống QLNN đối với thuế BVMT tiên tiến, gồm: Đan Mạch, Hà Lan, Pháp, Đức, Anh, Hoa Kỳ.

2.3.1. Kinh nghiệm các nước trên thế giới

2.3.1.1. Các nước châu Á

• Kinh nghiệm Trung Quốc

Ô nhiễm môi trường tại Trung Quốc trong những năm gần đây luôn là vấn đề được xã hội và nhà nước quan tâm và luôn nỗ lực khắc phục. Cụ thể thông qua các hoạt động QLNN về thuế BVMT như sau:

Về xây dựng và ban hành các chính sách, các văn bản về thuế BVMT tại Trung Quốc được xây dựng nhằm quy định các sản phẩm đánh thuế và các mức thuế cho từng sản phẩm. Bắt đầu từ năm 2018, Luật thuế BVMT tại Trung Quốc chính thức có hiệu lực, đánh dấu mốc quan trọng của Trung Quốc khi thay đổi từ phí môi trường sang thuế BVMT. Luật thuế BVMT Trung Quốc quy định áp thuế đối với 4 hoạt động gây ô nhiễm là ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, thải chất thải rắn và tiếng ồn.

Việc xây dựng và chính thức áp dụng hệ thống văn bản pháp luật về thuế cũng như cách thức tổ chức quản lý về thuế BVMT đã mang lại những kết quả đáng kể cho nền kinh tế cũng như môi trường và xã hội Trung Quốc. Theo ước tính, Trung Quốc có thể thu được gần 8 tỷ USD từ thuế BVMT cho mỗi năm. Ngoài ra, thuế BVMT còn có ý nghĩa quan trọng trong việc kỳ vọng xoá bỏ tình trạng thiếu minh bạch, rõ ràng trong việc thu các loại phí môi trường tại Trung Quốc trong những năm qua.

Về tổ chức bộ máy QLNN, Trung Quốc tiến hành xây dựng dựa trên nguyên tắc phân quyền cho các chính quyền địa phương. Theo đó, chính quyền địa phương tại Trung Quốc có quyền tự đưa ra mức thuế đối với các loại sản phẩm có gây ô nhiễm môi trường dựa trên đặc điểm sản phẩm, điều kiện địa lý và tình trạng kinh tế khác nhau. Riêng tại Bắc Kinh, chính quyền quyết định áp dụng mức thuế BVMT ở mức cao nhất. Chính quyền trung ương chỉ đưa ra các mức giới hạn về thuế cho các sản phẩm ô nhiễm như khoảng từ 1,2 - 12 nhân dân tệ cho mỗi đơn vị không khí ô nhiễm và từ 1,4 - 14 nhân dân tệ cho mỗi đơn vị nước ô nhiễm (Luật thuế BVMT Trung Quốc năm 2018).

Về tổ chức thực hiện chính sách, Trung Quốc tiến hành thu thuế BVMT đối với nguồn nhiên liệu như than đá có hàm lượng lưu huỳnh. Trước tốc độ phát triển nhanh của nền kinh tế, Trung Quốc đã có những chính sách điều chỉnh đối với mức thuế và việc tổ chức thực hiện đối với thuế BVMT để phù hợp với tình hình môi trường hiện nay.

53

Về thanh tra kiểm tra và xử lý hành vi vi phạm chính sách, Trung Quốc là quốc gia luôn nêu cao vai trò của công tác thanh tra kiểm tra hằng năm về thuế, trong đó có thuế BVMT. Bộ phận chuyên môn về thanh tra thuế được thành lập, chịu trách nhiệm về kết quả thanh tra, kiểm tra thuế trước nhà nước và nhân dân Trung Quốc. Quy định về việc kỷ luật, xử phạt đối với các trường hợp gian lận, không minh bạch về thuế nói chung, thuế BVMT nói riêng luôn được thực hiện một cách nghiêm ngặt, đảm bảo công bằng cho xã hội.

• Kinh nghiệm Hàn Quốc

Hàn Quốc là quốc gia nổi tiếng với văn hoá BVMT, tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp chế tạo đã khiến môi trường bị phá huỷ với tốc độ nhanh chóng. Theo báo cáo thống kê năm 2004 của Bộ Môi trường Hàn Quốc, lượng khí CO2 thải ra của Hàn Quốc là 590 triệu tấn, chiếm 1,8% lượng khí thải CO2 toàn cầu. Nhiều thành phố lớn, đặc biệt là Thủ đô Seoul đã lâm vào tình trạng khủng hoảng rác đã gây ra những phản ứng mạnh mẽ dân chúng.

Về xây dựng và ban hành các chính sách, Hàn Quốc đã có nhiều điều chỉnh, xây dựng chính sách mới để hoàn thiện Luật BVMT. Năm 1990, Hàn Quốc chính thức tách Luật BVMT thành các bộ luật riêng biệt, quy định về các mức thuế, phí tạo thành công cụ quản lý trong cả kinh tế và BVMT tại Hàn Quốc. Hàn Quốc áp dụng thu thuế BVMT đối với nguồn nhiên liệu như dầu Diesel (23,3 KRW/lít), dầu nhẹ (9KRW/lít), xăng không chì là 94,5 KRW/lít. Ngoài ra, Hàn Quốc quy định một số khoản phí chính hiện đang được áp dụng như phí BVMT không khí, phí BVMT nước, phí quản lý rác thải. Trong đó, các quy định về phí BVMT không khí được áp dụng cho các đối tượng như phương tiện xe ô tô lớn, nhà xưởng có nhiều chất thải công nghiệp. Phí BVMT nước được thu gián tiếp thông qua các cơ quan hành chính địa phương về phí khai thác nguồn nước ngầm của khu vực. Phí quản lý rác thải được quy định thu từ việc bán túi ni lông đựng rác thải, nguồn thu này được sự dụng cho tái chế và xử lý chất thải không tái chế.

Về bộ máy QLNN, thanh tra, kiểm tra Thuế BVMT, Bộ Môi trường Hàn Quốc là cơ quan QLNN có trách nhiệm chủ trì thực thi những quy định của Luật thuế BVMT; và các chính quyền địa phương có vai trò quan trọng trong thực hiện các chính sách và công tác QLNN về thuế BVMT. Có thể nói, bộ máy quản lý về thuế BVMT được tổ chức và thực hiện với sự liên kết chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, toà án và Bộ Môi trường. Toà án hành chính, dân sự và hình sự có trách nhiệm thi hành các Luật về môi trường, xử lý các trường hợp vi phạm được chỉ ra từ quá trình thanh tra, kiểm tra thuế BVMT. Chính quyền các địa phương có quyền kiểm tra thực hiện thuế, phê duyệt hoặc thi hành các sắc lệnh, trong có có các sắc lệnh hành chính bao gồm đình chỉ hoạt động kinh

54

doanh, thu hồi giấy phép, đóng cửa các cơ sở trong trường hợp phát hiện vi phạm về thuế BVMT. Bộ máy quản lý về thuế BVMT Hàn Quốc được đánh giá là chuyên nghiệp và tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động trong việc tổ chức thực hiện cũng như tổ chức thanh tra, kiểm tra thuế BVMT đối với các đối tượng liên quan.

Về tổ chức thực hiện chính sách, thuế BVMT được thực thi cùng với công tác quản lý thuế BVMT có hiệu quả của Hàn Quốc đã mang lại những kết quả có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với chính phủ và nhân dân Hàn Quốc. Nổi bật, Hàn Quốc trở thành quốc gia có văn hoá cộng đồng cùng tham gia BVMT và tiết kiệm tài nguyên, giảm thiểu ô nhiễm không khí, chất thải. Đồng thời, ngân sách thu từ thuế BVMT có thể đảm bảo thực thu hoạt động quản lý BVMT, cũng như các chính sách an sinh xã hội, tái chế và xử lý chất thải.

• Kinh nghiệm Singapore

Singapore là quốc gia phát triển dẫn đầu về kinh tế khu vực Đông Nam Á và là quốc gia du lịch nổi tiếng với môi trường xanh, sạch, đẹp. Một trong những công cụ hỗ trợ Singapore đạt được kết quả đó chính là thuế BVMT.

Về xây dựng chính sách và tổ chức bộ máy QLNN, Singapore đã xây dựng hệ thống văn bản pháp luật, cũng như tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện nghiêm túc thuế BVMT. Đồng thời, Singapore không ngừng điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống văn bản, hệ thống tổ chức thuế BVMT đảm bảo thuế BVMT phù hợp với điều kiện và bối cảnh kinh tế và xã hội của quốc gia.

Về tổ chức thực hiện chính sách, thuế BVMT của Singapore áp dụng thu đối với việc sử dụng năng lượng hoặc nhiên liệu, trong đó mức thuế suất đối với nhiên liệu như xăng dầu, than đá được xác định căn cứ vào hàm lượng lưu huỳnh trong các sản phẩm. Ngoài ra, Singapore xây dựng và áp dụng biểu giá phí đánh vào nhu cầu oxi sinh hoá và tổng chất rắn lơ lửng của tất cả các cơ sở công nghiệp. Mức phí được xác định trên cơ sở nồng độ các chất ô nhiễm và lượng nước thải. Cụ thể, Singapore quy định rõ khung nồng độ cho phép của oxi sinh hoá và tổng chất rắn lơ lửng được thải vào hệ thống công cộng là 400 mg/lít, nếu ở trong khoảng này, các cơ sở không phải đóng phí BVMT. Tuy nhiên, nếu nồng độ oxi sinh hoá ở mức 401-600mg/lít thì phải đóng mức phí là 0,12$ Singapore/m3, nếu nồng độ oxi sinh hoá ở mức 1.601-1.800mg/lít thì mức phí tăng lên là 0,84$ Singapore/m3 và nếu ở giữa hai khoảng này, mức phí sẽ tăng lên một cấp cho mỗi 200mg/lít. Bên cạnh đó, Singapore có hệ thống các văn bản quy định cụ thể về từng mức phí BVMT cho từng loại sản phẩm khác nhau.

Hệ thống thuế BVMT tại Singapore vận hành đảm bảo thực hiện các chiến lược quan trọng của quốc gia. Trong đó có nội dung xây dựng hình ảnh với bộ máy

55

cơ quan thi hành thuế đáng tin cậy. Bộ máy tổ chức quản lý thuế được xây dựng từ cơ sở đến trung ương với nguyên tắc luôn chủ động hỗ trợ tuân thủ và có những hành động kịp thời, hiệu quả ngăn chặn hành vi không tuân thủ, đảm bảo công bằng cho mọi người dân.

Về thanh tra, kiểm tra, bên cạnh việc xây dựng bộ máy quản lý thuế khoa học và có hiệu quả, cơ quan thuế BVMT Singapore còn chủ động xây dựng chiến lược và cách thức thanh tra, kiểm tra thuế BVMT dựa trên đánh giá rủi ro tuân thủ (xác định, khoanh vùng rủi ro cụ thể, đặt trình tự ưu tiên cho khu vực có rủi ro cao hơn), phác thảo những sản phẩm áp thuế BVMT có khả năng sai phạm (xác định các sai phạm thường gặp). Từ đó, cơ quan thuế Singapore thanh tra, kiểm tra chấp hành thuế với kết quả chính xác hơn, đảm bảo công bằng xã hội và tiết kiệm chi phí.

2.3.1.2. Các nước châu Âu và Hoa Kỳ

• Kinh nghiệm Đan Mạch

Đan Mạch là một trong những nước phát triển đã tiến hành thu thuế BVMT đối với các hoạt động gây ô nhiễm môi trường đầu tiên, và cũng là nước có nhiều kinh nghiệm QLNN đối với thuế BVMT ngay từ những năm 1990. Thực tế trong những năm gần đây về phát triển kinh tế cùng bùng nổ dân số đã khiến môi trường các nước phát triển ô nhiễm nghiêm trọng, QLNN đối với thuế BVMT ngày càng được thắt chặt. QLNN đối với thuế BVMT tại Đan Mạch được thực hiện khá đồng bộ, từ việc tổ chức bộ máy QLNN đến xây dựng các văn bản pháp luật, thuế suất về thuế BVMT, từ khâu tổ chức thực hiện thu thuế BVMT đến công tác thanh tra, kiểm tra kết quả thực hiện về thuế.

Về xây dựng và ban hành các chính sách, thuế BVMT tại Đan Mạch được quy định các mức cụ thể cho từng sản phẩm khi sử dụng gây tác động xấu với môi trường. Cụ thể như đối với thuốc trừ sâu, sau khi xác định được mức độc tính liên quan đến sức khoẻ con người, khuếch tán và đa dạng sinh học, mức thuế là 14,36 EUR/đơn vị độc tính (đã có thay đổi so với năm 2013). Thuế BVMT đối với sản phẩm thuốc trừ sâu được chi trả bởi các nhà sản xuất và nhập khẩu thuốc trừ sâu. Hay như thuế BVMT đối với việc chôn lấp chất thải được quy định trong văn bản pháp luật về thuế (năm 2015) là 63,67 EUR/tấn. Để phát huy hiệu quả QLNN đối với thuế BVMT, chính phủ Đan Mạch đã từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thuế cho các sản phẩm, dịch vụ, đặc biệt đối với các loại thuế quan trọng như thuế đối với thuốc trừ sâu, thuế đối với cấp nước, thuế đối với sản phẩm bao bì và thuế NOx.

Về thiết lập bộ máy QLNN, Đan Mạch đã tổ chức bộ máy QLNN về thuế BVMT khoa học, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, đồng bộ trong nguyên tắc quản lý về thuế. Từ đó, Đan Mạch có cơ sở để thực hiện tốt công tác

56

QLNN đối với thuế BVMT. Trên cơ sở về bộ máy QLNN và hệ thống các văn bản pháp luật về thuế BVMT, Đan Mạch đã thực hiện thuế BVMT thực sự có hiệu quả.

Đan Mạch sử dụng thuế BVMT như công cụ hỗ trợ đối với hoạt động BVMT và phát triển kinh tế. Năm 2013, tổng thu từ thuế BVMT tại Đan Mạch đã chiếm 4,25% tổng GDP, đạt mức thuế BVMT cao nhất trong 10 năm kể từ năm 2004. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng GDP Đan Mạch cũng được đánh giá cao, mức tăng trưởng bình quân năm 2014 là 1,3% tính theo giá trị thực. Ngoài ra, tổ chức thực hiện thu thuế BVMT được Đan Mạch xem như là công cụ điều tiết hành vi của người dân ví như khuyến khích người dân sử dụng nước tiết kiệm, thải rác ít, ứng dụng khoa học trong xử lý nước thải và chất thải. Điều đó cho thấy những giải pháp tăng cường QLNN về thuế BVMT đã đạt được những kết quả to lớn.

Về tổ chức thực hiện chính sách, Đan Mạch tiến thành thu thuế BVMT đối với một số hoá chất có gốc Nox, Sox, NH4, CO hay các hoá chất sử dụng trong nông nghiệp như thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm. Trước thực tế đó, Đan Mạch đã áp dụng các biện pháp QLNN, thực hiện các biện pháp điều chỉnh thuế BVMT để giảm thiểu ô nhiễm môi trường đồng thời góp phần phát triển kinh tế xã hội bền vững (Hogg và các cộng sự, 2016).

Về thanh tra kiểm tra và xử lý hành vi vi phạm, Đan Mạch chú trọng thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế BVMT. Đan Mạch được xem là một trong những quốc gia đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, đầu tư cơ sở hạ tầng và áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra việc thực hiện về thuế BVMT. Nhìn chung, Đan Mạch là quốc gia phát triển có nhiều kinh nghiệm trong QLNN đối với thuế BVMT mà nhiều quốc gia trên thế giới học hỏi, hợp tác trao đổi kinh nghiệm.

• Kinh nghiệm Hà Lan

Công tác quản lý về thuế BVMT tại Hà Lan được đánh giá phát huy hiệu quả cao, giúp khuyến khích thay đổi hành vi người dân theo hướng BVMT, đồng thời đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách quốc gia. Năm 2013, doanh thu thuế BVMT tính theo phần trăm GDP là 3,31% cổ phần, tỷ lệ cao thứ năm trong EU28, đóng góp xã hội cung cấp phần lớn nhất trong tổng thu nhập thuế. Hoạt động QLNN đối với thuế BVMT tại Hà Lan thể hiện qua các mặt sau:

Về xây dựng và ban hành các chính sách, Hà Lan đã xây dựng hệ thống văn bản pháp luật quản lý chặt chẽ đối với thuế BVMT và cả quá trình thực hiện cũng như kiểm tra công tác thuế. Nổi bật, hệ thống văn bản quy định về thuế năng lượng, nhiên liệu được xây dựng khá cụ thể đối với các sản phẩm, như xăng dầu, than đá, ga tự nhiên, điện. Hầu hết các mức thuế BVMT đều nằm trong mức trung bình của EU-28.

57

Thuế BVMT đối với các loại dầu khoáng tại Hà Lan được đánh giá thấp hơn mức trung bình của EU-28, một số trường hợp có thể được miễn trừ hoặc hoàn lại có thể được áp dụng cho dầu hoả sử dụng cho động cơ máy bay và cho các hoạt động dầu khoáng để đẩy tàu (trừ tàu thủ công tư nhân). Ngoài ra, đối với người Hồi Giáo, thuế BVMT cũng được điều chỉnh như việc đánh vào cung cấp điện và khí đốt tự nhiên. Có thể thấy, chính phủ Hà Lan có những điều chỉnh thuế BVMT để phù hợp hơn đối với điều kiện dân cư, điều kiện phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.

Các chính sách miễn giảm và hoàn thuế BVMT cũng được quy định cụ thể trong hệ thống các văn bản pháp luật. Năm 2013, Hà Lan có điều chỉnh về thuế BVMT đối với việc sản xuất điện trong thoả thuận năng lượng rằng sẽ tiếp tục áp dụng miễn thuế đối với than sử dụng cho sản xuất điện vào năm 2016. Ngoài ra, năm 2013 Hà Lan cũng đã áp dụng chính sách phụ thu thuế năng lượng đối với khí đốt và điện tự nhiên để tài trợ cho chương trình năng lượng tái tạo. Các mức thuế BVMT áp dụng hầu hết được xây dựng tăng đều đặn trong giai đoạn 2013-2016. Vì vậy, để quản lý hiệu quả thuế BVMT chính phủ Hà Lan đã nhìn nhận và có kế hoạch cho trung hạn và dài hạn.

Về thiết lập bộ máy QLNN đối với thuế BVMT, Hà Lan áp dụng cơ chế tổ chức mang tính phân chia trách nhiệm. Trách nhiệm, vai trò thiết lập ra các văn bản pháp luật, tổ chức bộ máy và nguyên tắc thực hiện thuộc về cấp trung ương. Cấp tỉnh và địa phương chịu trách nhiệm thực hiện theo các quy định của cấp trên. Công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế BVMT được tiến hành dưới sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp quản lý. Việc phân cấp quản lý thuế BVMT tại Hà Lan làm giảm tải gánh nặng cho từng cấp quản lý.

Về tổ chức thực hiện chính sách thuế BVMT, Hà Lan là một quốc gia sử dụng thuế BVMT mạnh mẽ vừa để tăng thu ngân sách nhà nước, vừa khuyến khích giảm lượng chất thải ra môi trường. Tại Hà Lan, thuế BVMT phần lớn là thuế đánh vào năng lượng. Năm 2013, 58,3% tổng doanh thu thuế BVMT là từ thuế đánh vào năng lượng. Cùng với những diễn biến thất thường và thường xuyên biến động đối với thị trường khai thác tài nguyên và năng lượng, Chính phủ Hà Lan đã có những điều chỉnh thuế BVMT để phù hợp với tình hình thực tế. QLNN của Hà Lan đối với thuế BVMT đã phát huy hiệu quả trong tăng thu ngân sách, đảm bảo các hoạt động bảo vệ, chăm sóc môi trường và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường đến sức khỏe cũng như môi trường sống của người dân (Hogg và các cộng sự, 2016).

• Kinh nghiệm Pháp

Pháp cũng là một trong những quốc gia đẩy mạnh áp dụng Thuế BVMT cho mục đích BVMT, xây dựng nền tảng phát triển bền vững cho nền kinh tế và xã hội của quốc gia.

58

Về xây dựng và ban hành các chính sách, Thuế BVMT chiếm tỷ lệ lớn tại Pháp là thuế thu đối với nhiên liệu vận tải, thuế phương tiện khi lưu hành thải ra khí CO2 và thuế ô nhiễm - tài nguyên. Ở Pháp, mức thuế ngầm định đối với xăng không chì dựa trên hàm lượng năng lượng là 18,97 EUR/GJ, động cơ Diesel là 11,9 EUR/GJ hoặc thấp hơn 35% so với xăng. Sau lạm phát, Pháp đã điều chỉnh thuế suất đối với xăng không chì về mức tối thiểu, miễn thuế đối với khí đốt tự nhiên. Tuy nhiên, thuế BVMT đối với nhiên liệu vận tải được đánh giá có mức thuế khá cao so với các quốc gia khác.

Pháp cũng đã xây dựng các văn bản quy định cụ thể về mức thuế ô nhiễm và tài nguyên cho từng sản phẩm. Cụ thể, từ năm 2014 đối với chất thải sinh hoạt và công nghiệp, mức thuế thu từ 4 EUR – 100 EUR/tấn, ô nhiễm không khí (NO2, NOx, VOCs, HCl) lên đến 260 EUR/tấn. Ngoài ra, Pháp cũng áp dụng thuế lưu thông đối với xe hơi hàng năm của công ty với múc thuế tùy thuộc vào lượng khí thải được đo bằng gam CO2 phát ra trên mỗi Km. Nhìn chung, Pháp đã xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật quy định chi tiết, cụ thể và chặt chẽ về thuế BVMT. Từ đó tạo nên nền tảng cho sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế xã hội.

Về thiết lập bộ máy QLNN, tại Pháp, bộ máy quản lý về thuế BVMT được xây dựng phù hợp với cơ chế tổ chức chính quyền và quản lý kinh tế tài chính quốc gia. Hệ thống tổ chức thu thuế BVMT thực hiện chức năng quản lý thống nhất trong cả nước. Trên cơ sở đó, các chính sách, văn bản pháp luật về thuế BVMT được thực hiện đồng bộ và đảm bảo công bằng, khách quan từ trung ương đến địa phương. Đồng thời, tổ chức bộ máy QLNN của Pháp đối với thuế BVMT đã tạo cơ sở để Pháp phát huy hiệu quả trong tăng thu ngân sách, đảm bảo các hoạt động bảo vệ, chăm sóc môi trường và hạn chế những tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường từ thuế BVMT.

Về tổ chức thực hiện chính sách thuế BVMT, số thuế BVMT năm 2013 chiếm 2,03% tổng GDP. Giống với Hà Lan, tỷ lệ thu thuế BVMT lớn nhất được thu thông qua thuế đánh vào năng lượng, chiếm 1,6% GDP. Ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính không sâu sắc như những quốc gia khác tuy nhiên vẫn ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP. Trước thực tế đó, Pháp đã có những điều chỉnh chính sách tài chính, chính sách xã hội trong đó có cả các chính sách về thuế BVMT (Hogg và các cộng sự, 2016).

Một trong những kết quả nổi bật từ công tác điều chỉnh, quản lý thuế BVMT mang lại cho nước Pháp là sự tăng trưởng ổn định của GDP hàng năm, tỷ lệ thuế lớn nhất ở Pháp năm 2014 đã được hiện thực hoá thông qua các khoản đóng góp an sinh xã hội. Có thế thấy, thuế BVMT ở Pháp có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế, môi trường cũng như các vấn đề về an sinh xã hội.

Về thanh tra kiểm tra và xử lý hành vi vi phạm chính sách, Pháp được xem là một trong những quốc gia thực hiện nghiêm khắc và quản lý chặt chẽ nhất. Bộ phận

59

chuyên môn về thanh tra thuế được thành lập, chịu trách nhiệm về kết quả thanh tra, kiểm tra thuế trước Chính phủ Pháp. Vì vậy, có thể thấy Pháp là quốc gia xây dựng hệ thống thuế BVMT toàn diện từ xây dựng văn bản pháp luật đến tổ chức bộ máy quản lý, tổ chức thực hiện đến công tác thanh tra thuế. Cả quá trình quản lý thuế BVMT đảm bảo đáp ứng các mục tiêu cơ bản là tăng thu ngân sách phục vụ hoạt động cải thiện môi trường, bảo vệ sức khoẻ và nhiệm vụ khuyến khích hành vi tích cực của người dân trong hoạt động thường ngày.

• Kinh nghiệm Đức

Ở một quốc gia phát triển đứng trong Top đầu của thế giới như Đức, thuế BVMT được áp dụng ngay từ những năm 1990 nhằm nỗ lực hạn chế ô nhiễm môi trường từ phát triển kinh tế. Năm 2003, Đức có mức tăng trưởng âm, giá trị GDP giảm so với năm trước. Từ năm 2004 trở đi, nền kinh tế Đức bắt đầu tăng trưởng ổn định những với mức thấp. Song song với đó, gánh nặng về các vấn đề môi trường, xã hội đòi hỏi chính phủ Đức tiến hành điều chỉnh một số chính sách về thuế, trong đó có thuế BVMT.

Về xây dựng và ban hành các chính sách, thuế BVMT tại Đức gồm có 3 loại chính là thuế năng lượng, thuế vận tải và thuế ô nhiễm và tài nguyên. Tương tự như các nước Hà Lan, Pháp và Đan Mạch, thuế năng lượng là thuế mang lại nguồn thu lớn nhất trong thuế BVMT tại Đức. Hệ thống các văn bản pháp luật về thuế BVMT đã được chính phủ Đức xây dựng khá hoàn thiện, đảm bảo cho quá trình tổ chức thực hiện cho cả hệ thống, các mức thuế cũng được quy định cụ thể và chi tiết cho từng sản phẩm (Hogg và các cộng sự, 2016).

Các quy định cụ thể về thuế BVMT cho thấy, Đức thu thuế đối với việc sử dụng năng lượng/nhiên liệu xăng, dầu, than đá với mức thuế suất có phân biệt theo hàm lượng lưu huỳnh trong mỗi sản phẩm. Bên cạnh đó, Đức cũng đã điều chỉnh một số văn bản quy định về thuế phương tiện trong bộ thuế BVMT đối với các phương tiện lưu hành thải khí CO2. Cụ thể, thuế phương tiện được xác định theo lượng khí CO2 mà phương tiện thải ra và theo dung lượng của phương tiện đó. Năm 2011, Đức đã tiến hành áp dụng mới thuế ô nhiễm và tài nguyên đối với nhiên liệu hạt nhân. Cơ sở thuế liên quan đến các thanh nhiên liệu và dựa trên trọng lượng với tỷ lệ 145 EUR cho mỗi gram Plutoni hoặc Uranium. Qua đó có thể thấy, để quản lý thuế BVMT, Đức đã xây dựng và từng bước điều chỉnh hệ thống văn bản pháp luật phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia.

Về thiết lập bộ máy QLNN, tại Đức, được xây dựng dựa trên nguyên tắc phân cấp phân quyền quản lý nhằm giảm nhẹ gánh nặng trách nhiệm quản lý cho các cấp trong quá trình tổ chức thực hiện thu thuế BVMT. Nổi bật trong công tác quản lý thuế

60

BVMT tại Đức là xây dựng hệ thống đại lý thuế và sử dụng có hiệu quả với hơn 90.000 người hành nghề tư vấn thuế. Quyền lực của cơ quan thuế tại Đức quy định tại Luật Quản lý thuế và một số luật có liên quan.

Về tổ chức thực hiện chính sách, Đức thành lập riêng bộ phận phân tích, tiên lượng số thu từng loại thuế để tham khảo, phục vụ công tác chỉ đạo điều hành và bộ phận điều tra, tố tụng về thuế, tạo điều kiện cho cơ quan thuế thực thi công vụ. Các chức năng về quản lý thuế cũng như thanh tra, kiểm tra thuế được gắn kết với nhau thông quan hệ thống dữ liệu tập trung. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan quản lý thực hiện thanh tra, kiểm tra quá trình thực hiện luật thuế BVMT của các tổ chức cá nhân.

Quá trình điều chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về thuế cũng như cách thức tổ chức quản lý về thuế BVMT đã mang lại những kết quả đáng kể cho nền kinh tế cũng như môi trường và xã hội nước Đức. Bên cạnh đó, số thu thuế BVMT lên tới 2,09% GDP của Đức năm 2013. Năm 2014, phần tổng doanh thu thuế BVMT của Đức cho các khoản đóng góp an sinh xã hội ở mức cao 41,8%, GDP tăng trưởng 1,6%. Hành vi của đại đa số người dân Đức cũng hướng tới mục tiêu BVMT, hạn chế sử dụng các sản phẩm công nghiệp có ảnh hưởng xấu đến môi trường.

• Kinh nghiệm Vương quốc Anh

Vương quốc Anh là quốc gia phát triển đã trải qua sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong suốt giai đoạn 2003-2007 với mức tăng trưởng GDP trung bình 2,82% mỗi năm. Cùng với sự phát triển đó, Vương quốc Anh phải đối mặt với thực tế ô nhiễm môi trường nghiêm trọng từ các chất thải công nghiệp. Anh cũng là một trong những quốc gia có hệ thống văn bản pháp luật về thuế BVMT được xây dựng và điều chỉnh toàn diện. Vương quốc Anh đã có những điều chỉnh về chính sách đối với thuế, phí sử dụng môi trường hợp lý để điều chỉnh hành vi của người dân và từng bước khắc phục những tác động tiêu cực từ môi trường.

Về xây dựng và ban hành các chính sách, tương tự các quốc gia châu Âu, Vương quốc Anh đã xây dựng hệ thống các văn bản quy định về ba loại thuế BVMT chính là thuế năng lượng, thuế lưu thông và thuế ô nhiễm, tài nguyên. Các quy định cụ thể về thuế BVMT cho thấy, Vương quốc Anh thu thuế đối với việc sử dụng năng lượng/nhiên liệu xăng, dầu, than đá với mức thuế suất có phân biệt theo hàm lượng lưu huỳnh trong mỗi sản phẩm. Hầu hết tất cả các mức thuế đều vượt mức trung bình của EU-28. Giống với Hà Lan, Vương quốc Anh thực hiện miễn thuế đối với sản phẩm dầu sử dụng trong hoạt động thủ công hàng hải (trừ nghề thủ công tư nhân), miễn thuế đối với dầu dùng làm nhiên liệu lọc dầu, dầu dùng trong lò cao. Mức thuế lưu thông được xác định tuỳ thuộc vào loại nhiên liệu phương tiện sử dụng và hàm lượng khí thải CO2 theo tiêu chuẩn kỹ thuật (Hogg và các cộng sự, 2016).

61

Ngoài ra, Vương Quốc Anh còn là một trong số ít quốc gia châu Âu sử dụng thuế BVMT đối với túi ni lông, hiện tại mức thuế trong văn bản quy định về thuế BVMT đối với việc sử dụng túi ni lông tại Vương quốc Anh là 15 cent/túi. Việc quy định thuế đối với túi ni lông để hướng tới mục tiêu giảm dần việc sử dụng túi ni lông khó phân huỷ trong tiêu dùng và phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời là nguồn thu sử dụng cho tái chế và xử lý chất thải không tái chế.

Về tổ chức thực hiện chính sách thuế BVMT, Vương quốc Anh đã đạt được kết quả có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế cũng như môi trường và xã hội. Năm 2013, thuế BVMT đóng góp 2,48% vào GDP của Vương quốc Anh. Năm 2014, phần tổng doanh thu thuế BVMT của Vương quốc Anh cho các khoản đóng góp an sinh xã hội ở mức cao 40,3%, GDP tăng trưởng 1,96%. Hành vi của đại đa số người dân Anh cũng hướng tới mục tiêu BVMT, hạn chế sử dụng các sản phẩm công nghiệp có ảnh hưởng xấu đến môi trường.

• Kinh nghiệm Hoa Kỳ

Về xây dựng và ban hành các chính sách, là nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, Hoa Kỳ phải đối mặt với nguy cơ ô nhiễm nặng nề nhất, đặc biệt là ô nhiễm khói bụi và ô nhiễm nguồn nước; vì vậy các luật liên quan đến BVMT luôn được chính phủ Hoa Kỳ quan tâm và chú trọng thực hiện, trong đó có luật về thuế BVMT, phí rác thải, phí gây ồn, phí sử dụng môi trường, ngay từ việc xây dựng văn bản pháp luật, tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức thanh tra, kiểm tra quá trình thực hiện.

Tương tự với các quốc gia khác, chính sách thuế BVMT được sử dụng như công cụ kinh tế để giải quyết các vấn đề môi trường, giảm gánh nặng môi trường và khuyến khích các hoạt động thân thiên với môi trường. Thực tế, Hoa Kỳ là quốc gia thứ hai về phát thải CO2, chiếm 84% lượng khí thải nhà kính đối với nhiên liệu hóa thạch. Thuế Carbon là một trong những loại thuế BVMT phổ biến nhất tại Hoa Kỳ. Theo chế độ thuế carbon, chính phủ đưa ra mức giá mà các nhà phát thải phải trả cho mỗi tấn khí thải nhà kính mà họ phát ra để các doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ thực hiện các bước cần thiết như chuyển đổi nhiên liệu hoặc áp dụng công nghệ mới để giảm lượng khí thải để tránh phải trả thuế.

Thuế BVMT tại Hoa Kỳ được áp dụng đối với sản phẩm là nhiên liệu, phương tiện và cả tài nguyên. Cụ thể, chính sách thuế BVMT được áp dụng cho việc khai thác khoáng sản tại một số Bang của Hoa Kỳ. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn tiến hành thu thuế BVMT đối với việc mua bán và sử dụng xe cơ giới hướng tới mục đích điều tiết sử dụng các loại xe cơ giới. Theo quy định, mức thuế đối với xe cơ giới dao động trong khoản từ 1.000- 7.700 USD đối với mua bán xe không có hiệu về năng lượng và căn cứ từng chặng đường

62

mà xe đó có thể đi trên một đơn vị Galông. Từ đó hướng tới mục tiêu hạn chế ô nhiễm môi trường và huy động thêm nguồn thu cho ngân sách quốc gia (Metcalf, 2015).

Về thiết lập bộ máy QLNN, Hoa Kỳ sử dụng hệ thống bộ máy được tổ chức theo nguyên tắc đảm bảo trách nhiệm song hành và Cục BVMT là cơ quan có thẩm quyền cao nhất về thuế BVMT. Theo đó, trách nhiệm chính trong việc quản lý thuế BVMT tại Hoa Kỳ thuộc về chính quyền các Bang.Chính phủ của quốc gia này chịu trách nhiệm song hành với các Bang và can thiệp nếu như hoạt động quản lý thuế của các Bang không có khả năng đảm bảo được các tiêu chuẩn ban đầu (tiêu chuẩn này được quy định bởi Cục BVMT Hoa Kỳ).

2.3.2. Các bài học rút ra cho Việt Nam

Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước về QLNN đối với thuế

BVMT, một số bài học được rút ra cho Việt Nam trong thời gian tới như sau:

• Về xây dựng và ban hành các chính sách thu thuế BVMT:

- Thứ nhất, thuế BVMT là công cụ kinh tế quan trọng và có ý nghĩa lâu dài, vì vậy việc xây dựng và ban hành cần phải thực hiện một cách khoa học, cẩn trọng và có chọn lọc. Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Đan Mạch, Hà Lan, Singapore và các nước trong việc không ngừng điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống văn bản, hệ thống tổ chức thuế BVMT đảm bảo thuế BVMT phù hợp với điều kiện và bối cảnh kinh tế và xã hội của quốc gia.Môi trường pháp lý phải phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị xã hội, đồng thời phải đảm bảo rõ ràng, minh bạch giữa các luật, không chồng chéo giữa các quy định về luật thuế, luật môi trường và các văn bản quy định về thuế BVMT cũng như thông lệ trên thế giới.

- Thứ hai, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Đan Mạch, Trung Quốc trong việc quy định các mức cụ thể cho từng sản phẩm khi sử dụng gây tác động xấu với môi trường. Đánh thuế BVMT phải thực hiện theo nguyên tắc người nào sử dụng sản phẩm dịch vụ gây ô nhiễm môi trường người đó phải nộp thuế. Cụ thể, mức thuế BVMT cho từng sản phẩm cần được quy định trên cơ sở chi phí của đối tượng gây ô nhiễm, hệ thống giám sát ô nhiễm, điều kiện địa lý, tỷ lệ lạm phát. Căn cứ tính thuế phải đảm bảo đầy đủ toàn diện. Ngoài ra, không được lạm dụng công cụ thuế BVMT vào các mục đích khác, không phải vì mục tiêu BVMT, an sinh xã hội.

Việt Nam cần rà soát danh mục sản phẩm chịu thuế đảm bảo tính chính xác, đầy đủ và công bằng. Kinh nghiệm của Đan Mạch để mở rộng đối tượng chịu thuế BVMT một số hoá chất có gốc Nox, Sox, NH4, CO hay các hoá chất sử dụng trong nông nghiệp như thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm. Kinh nghiệm của Vương Quốc Anh trong việc quy định đối tượng chịu thuế BVMT là túi ni lông. Xuất phát từ thực tế hiện

63

nay tại Việt Nam có nhiều sản phẩm không nằm trong danh mục sản phẩm chịu thuế nhưng quá trình sử dụng lại gây tác động xấu đến môi trường ở diện rộng, ảnh hưởng đến sinh thái tự nhiên, sức khoẻ con người như phân bón hoá học, chất tẩy rửa, chất kích thích, khí than, khí tự nhiên. Trên thế giới đã có nhiều quốc gia áp dụng thuế BVMT đối với các sản phẩm này do tác động tiêu cực đến môi trường. Vì vậy cần xem xét để rà soát và bổ sung kịp thời vào danh mục các sản phẩm chịu thuế BVMT, đảm bảo quản lý chặt chẽ về thuế.

- Thứ ba, bên cạnh việc xây dựng chính sách thu thuế BVMT, việc hoàn thiện, bổ sung và triển khai thực hiện một số chính sách ưu đãi về thuế nhằm khuyến khích hành vi tiết kiệm năng lượng, giảm gánh nặng thuế cho nền kinh tế cũng là một biện pháp được nhiều quốc gia lựa chọn. Đây được xem là biện pháp có thể khuyến khích người tiêu dùng thay đổi hành vi tiêu dùng theo hướng sử dụng sản phẩm sạch, sản phẩm an toàn với môi trường hoặc giúp các nhà sản xuất có động lực trong việc ứng dụng công nghệ sạch, nguyên liệu mới trên cơ sở BVMT.

• Về thiết lập bộ máy QLNN đối với thuế BVMT:

- Thứ nhất, cần tổ chức bộ máy QLNN đối với thuế BVMT chặt chẽ, thực hiện nghiêm túc từ Trung ương đến Địa phương. Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Pháp về tổ chức bộ máy QLNN về thuế BVMT khoa học, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, đồng bộ trong nguyên tắc quản lý về thuế. Bộ máy quản lý về thuế BVMT được xây dựng phù hợp với cơ chế tổ chức chính quyền và quản lý kinh tế tài chính quốc gia, có sự liên kết với toà án và các cơ quan chức năng BVMT liên quan.

- Thứ hai, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành có liên quan để kịp thời triển khai thực hiện văn bản thuế cũng như kịp thời giải quyết những vướng mắc, những sai phạm về thuế BVMT. Ngoài ra, kinh nghiệm của Trung Quốc và Hàn Quốc trong việc tổ chức bộ máy tổ chức quản lý thuế BVMT theo nguyên tắc phân cấp phân quyền dưới sự điều hành, quản lý của Chính phủ với mục đích giảm nhẹ gánh nặng giải quyết công việc cho các cơ quan nhà nước từ Địa phương đến Trung ương cũng đáng để chúng ta nghiên cứu. Đồng thời phải quy định rõ trách nhiệm của từng cấp quản lý trong việc tổ chức thực hiện thuế cũng như để xảy ra sai phạm trong quản lý thuế BVMT.

- Thứ ba, Việt Nam cũng cần nghiên cứu kinh nghiệm của Đức để xây dựng hệ thống đại lý thuế với lực lượng người hành nghề tư vấn thuế hiệu quả và được quy định tại Luật Quản lý thuế và một số luật có liên quan.

- Thứ tư, để phát huy hiệu quả QLNN về thuế BVMT cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền từ Trung ương đến Địa phương trên cơ sở nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, doanh nghiệp. Kịp thời phát hiện điều chỉnh hệ thống

64

văn bản pháp luật theo hướng hoàn thiện gắn với tình hình phát triển kinh tế xã hội, khoa học công nghệ cùng sự liên kết với các quốc gia trong và ngoài khu vực vì mục tiêu BVMT, phát triển bền vững.

• Về tổ chức thực hiện chính sách thuế BVMT:

- Thứ nhất, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm các nước trong việc đẩy mạnh công tác phổ biến pháp luật, công tác tuyên truyền về BVMT, tuyên truyền đóng góp thuế BVMT để nâng cao nhận thức người dân, phấn đấu vì một quốc gia, một thế giới xanh.

- Thứ hai, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Trung Quốc và Singapore trong việc đánh giá chính sách để kịp thời điều chỉnh mức thuế BVMT khi có sử thay đổi về kinh tế, xã hội cũng như tình hình thực tế của các ngành, các sản phẩm chịu thuế. Việc điều chỉnh được thực hiện dựa trên hai nguyên tắc chính là: (1) mức độ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường của sản phẩm chịu thuế; (2) mức thuế của sản phẩm chịu thuế phải phù hợp với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ.

• Về thanh tra kiểm tra và xử lý hành vi vi phạm chính sách thu thuế BVMT:

- Thứ nhất, bên cạnh việc xây dựng bộ máy quản lý thuế khoa học và có hiệu quả, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Singapore trong việc chủ động xây dựng chiến lược và cách thức thanh tra, kiểm tra thuế BVMT dựa trên đánh giá rủi ro tuân thủ (xác định, khoanh vùng rủi ro cụ thể, đặt trình tự ưu tiên cho khu vực có rủi ro cao hơn), phác thảo những sản phẩm áp thuế BVMT có khả năng sai phạm (xác định các sai phạm thường gặp). Từ đó, đảm bảo công tác thanh tra, kiểm tra chấp hành thuế BVMT với kết quả chính xác hơn, đảm bảo công bằng xã hội và tiết kiệm chi phí.

- Thứ hai, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Đan Mạch, Đức được xem là một trong những quốc gia đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, đầu tư cơ sở hạ tầng và áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra việc thực hiện về thuế BVMT. Các chức năng về quản lý thuế cũng như thanh tra, kiểm tra thuế được gắn kết với nhau thông quan hệ thống dữ liệu tập trung. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan quản lý thực hiện thanh tra, kiểm tra quá trình thực hiện luật thuế BVMT của các tổ chức cá nhân.

- Thứ ba, cần phải công khai minh bạch các nguồn thu về thuế BVMT cũng như các nhiệm vụ chi sử dụng từ thuế BVMT, công khai kết quả xử lý các vi phạm về thuế BVMT. Xây dựng kế hoạch và lộ trình thuế BVMT để tránh các gánh nặng về thuế, có kế hoạch sử dụng nguồn thu với những mục tiêu phát triển bền vững, BVMT, chăm sóc sức khoẻ và an sinh xã hội. Từ đó thiết lập sự đồng thuận giữa nhân dân, người chịu thuế và chính phủ, đảm bảo hiệu quả trong cả công tác quản lý và thực hiện thuế BVMT.

65

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

3.1. Khái quát lịch sử và bộ máy quản lý nhà nước đối với thuế BVMT ở Việt Nam

3.1.1. Lịch sử thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam

Trong giai đoạn trước năm 2010, Việt Nam chưa ban hành sắc thuế riêng về BVMT nhằm hạn chế các hoạt động sản xuất và tiêu dùng các loại hàng hoá gây ô

nhiễm môi trường trong quá trình sử dụng. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam đã ban hành và tổ chức thực thi một số biện pháp tài chính nhằm khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động xử lý ô nhiễm môi trường. Đồng thời, các biện pháp

này cũng góp phần tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên có hạn cũng như khôi phục môi trường thông qua việc huy động sự đóng góp của các đối tượng xả thải. Một số biện pháp tài chính tiêu biểu có thể kể đến như triển khai: (i) Thuế tài nguyên, Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế thu nhập doanh nghiệp, Thuế đất, Thuế sử dụng

đất nông nghiệp; và (ii) các khoản Phí, Lệ phí dành cho các hoạt động liên quan tới môi trường như: Phí BVMT đối với nước thải, Phí BVMT đối với khai thác khoáng sản, Phí BVMT đối với chất thải rắn. Ngoài ra, Chính phủ cũng có những ưu đãi cho

hoạt động BVMT đối với một số chính sách thuế như:Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu, Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế thu nhập doanh nghiệp.

Một mặt, các chính sách về môi trường đã nâng cao nhận thức của các tổ chức, cá nhân về BVMT, từ đó thay đổi một phần hành vi của cộng đồng trong việc giữ gìn

và BVMT. Mặt khác, thông qua việc thu phí BVMT, chính phủ có thêm nguồn thu phục vụ cho các khoản chi đầu tư liên quan đến môi trường, chẳng hạn như giải quyết các vấn đề về môi trường. Tuy nhiên, nguồn thu từ các loại phí BVMT vẫn còn hạn chế do tác động, hiệu quả các loại phí không cao, tính pháp lý thấp, mức thu thấp. Đối

với các chính sách thuế, mục tiêu BVMT không phải là mục tiêu chính, vì vậy hoạt động sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường chưa được tác động trực tiếp thông qua việc khuyến khích đầu tư vào các dự án làm sạch

môi trường và sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường. Vì vậy, ban hành và tổ chức thực thi chính sách thuế riêng về BVMT là vấn đề cần cấp thiết thực hiện.

Ngày 15/11/2010, Quốc hội đã thông qua Luật thuế BVMT. Chủ tịch nước ký Lệnh số 14/2010/L-CTN về việc công bố Luật thuế BVMT vào ngày 29/11/2010 và có

66

hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012. Về cơ bản, Luật thuế BVMT đề cập đến đối

tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, đối tượng nộp thuế, căn cứ tính thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thuế và hoàn thuế BVMT. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản dưới luật để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật thuế này (chi tiết Phụ lục 1).

3.1.2. Bộ máy quản lý nhà nước đối với thuế BVMT ở Việt Nam

Bộ máy QLNN về thuế nước ta hiện nay được tổ chức theo chiều dọc từ Trung ương đến địa phương. Đứng đầu là Chính Phủ, ngành thuế cấp trên và chủ tịch UBND

cùng cấp chịu trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan quản lý thuế đặt tại mỗi địa phương. Bộ máy quản lý thuế BVMT là một bộ phận nằm trong tổng thể tổ chức bộ máy quản lý thuế Nhà nước hiện hành, được thành lập theo Nghị định số 281-HĐBT ngày

7/8/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc thành lập hệ thống thu thuế nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính. Cụ thể, tổ chức bộ máy quản lý thu thuế hiện hành bao gồm hệ thống thu nội địa (Tổng Cục thuế) và hệ thống thu thuế XNK (Tổng cục Hải quan).

CHÍNH PHỦ

Bộ Tài chính

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

Tổng cục Thuế

Tổng cục hải quan

Kho bạc trung ương, KB các tỉnh, Tp; KB các Quận, huyện

Cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

UBND quận, huyện

Cục hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

Chi cục thuế quận, huyện

Chi cục hải quan cửa khẩu

Hình 3.1: Tổ chức bộ máy quản lý thuế hiện hành tại Việt Nam

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các văn bản Bộ Tài chính

- Tổ chức bộ máy thu thuế nội địa (Tổng Cục thuế): Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính được quy định

67

tại Quyết định số 15/2021/QĐ-TTg ngày 30/3/2021 và Quyết định số 41/2018/QĐ-TTg

ngày 25/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, tổ chức bộ máy quản lý thuế nội địa được tổ chức theo mô hình chức năng, tập trung vào vai trò cung cấp thông tin và dịch vụ hỗ trợ cho các đối tượng nộp thuế; mặt khác tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Cùng với sự phát triển của đất nước, cơ cấu tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục Thuế cũng đổi mới, cập nhật liên tục để đáp ứng và phù hợp với yêu cầu và bối cảnh mới, gắn liền với các, trong giai đoạn 2007-2009 theo Quyết định số 76/2007/QĐ-TTg ngày 28/05/2007. Từ 2009 đến

nay theo Quyết định số 115/2009/QĐ-TTg ngày 28/09/2009, bộ máy quản lý thu thuế Nhà nước được tổ chức thống nhất từ trung ương đến cơ sở, cùng thực hiện nhiệm vụ tổ chức thực hiện các Luật thuế trong cả nước.

- Tổ chức bộ máy thu thuế XNK (Tổng Cục hải quan): Hệ thống Hải quan trước

đây trực thuộc Chính phủ, kể từ 4/9/2002, được chuyển vào trực thuộc Bộ Tài chính

theo Quyết định 113/2002/QĐ-TTg ngày 4/9/2002 của Thủ tướng Chính phủ, được tổ

chức thành 3 cấp: Tổng cục Hải quan (cấp trung ương), Cục hải quan tỉnh, liên tỉnh và

Chi cục hải quan cửa khẩu. Hệ thống hải quan đảm nhiệm việc quản lý thu thuế đối với

hàng hoá xuất, nhập khẩu như: thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế tiêu thụ đặc biệt

hàng nhập khẩu; thuế BVMT của hàng hóa nhập khẩu; thuế giá trị gia tăng hàng nhập

khẩu; thu nhập đối với hàng là quà biếu, quà tặng vượt quá tiêu chuẩn miễn thuế. Trong

quá trình thực thi, cùng với quá trình cải cách hành chính nhà nước, cải cách thủ tục hải

quan và sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, cơ cấu tổ chức bộ máy và chức năng,

nhiệm vụ của Tổng cục Hải quan cũng thường xuyên được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng

yêu cầu thực tiễn, yêu cầu cải cách hành chính và thủ tục hải quan và yêu cầu của hội

nhập. Các văn bản quy định cơ cấu tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Tổng

cục Hải quan trong các giai đoạn: (1) Từ 4/9/2002: Nghị định số 96/2002/NĐ-CP ngày

19/11/2002 của Chính phủ; (2) Từ 15/03/2010: Quyết định số 02/2010/QĐ-TTg ngày

15/03/2010 của Thủ tướng Chính phủ.; (3) Từ 17/12/2015 đến nay: Quyết định số

65/QĐ-TTg của ngày 17/12/2015 của Chính phủ.

3.2. Đánh giá thực trạng các nội dung quản lý nhà nước đối với Thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam

Để quản lý thuế BVMT, Nhà nước đã xây dựng hệ thống văn bản pháp luật thuế BVMT (Luật, Nghị định, Thông tư) và các văn bản hướng dẫn, theo đó, các cơ

quan QLNN có thẩm quyền thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình trong QLNN đối với thuế BVMT. Trên cơ sở phân tích các văn bản pháp luật hiện này về thế

68

BVMT, kết hợp với kết quả phỏng vấn chuyên gia về các nội dung QLNN đối với thuế

BVMT, thực trạng các công tác QLNN này được làm rõ cụ thể như sau:

3.2.1. Thực trạng xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường

Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, BVMT là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ. Chính vì thế, Luật thuế BVMT số 57/2010/QH12 đã được ban hành ngày 15/11/2010 tại Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2012. Sau đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài chính theo thẩm

quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật như Nghị quyết, Nghị định, Thông tư để làm rõ, bổ sung, sửa đổi và hướng dẫn thi hành Luật Thuế BVMT.

Hiện nay, việc xác định cấu trúc pháp luật thuế BVMT có nhiều cách tiếp cận

khác nhau. Tuy nhiên cách tiếp cận phổ biến là căn cứ vào nội dung quy phạm pháp luật điều chỉnh thì cấu trúc pháp luật thuế BVMT bao gồm 2 bộ phận cơ bản sau:

- Bộ phận pháp luật quy định về nội dung sắc thuế. Bộ phận pháp luật này quy định các vấn đề như: Đối tượng nộp thuế; đối tượng chịu thuế; đối tượng không thuộc

diện chịu thuế; căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế; hoàn thuế, miễn giảm thuế …

- Bộ phận pháp luật quy định về quản lý thuế: gồm các quy định về đăng ký thuế, kê khai, khấu trừ thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, xử lý vi phạm pháp luật về thuế và các biện pháp quản lý thuế. Các quy phạm thuộc nhóm này có trong

Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành .

Nhìn chung, Luật Thuế BVMT đã thúc đẩy hoạt động sản xuất và tiêu dùng các loại hàng hóa thân thiện với môi trường thông qua việc nâng cao nhận thức và trách

nhiệm của cộng đồng về môi trường. Vì vậy, có thể nói, Luật Thuế BVMT là tiền đề căn bản để Việt Nam hướng tới phát triển kinh tế bền vững trong dài hạn bởi phát triển kinh tế đã dần gắn liền với giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, cụ thể ở các nội dung sau:

• Về đối tượng chịu thuế

Điều 3 Luật thuế BVMT xác định 08 nhóm đối tượng chịu thuế BVMT là những hàng hóa thiết yếu trong đời sống, bao gồm: (i) Xăng, dầu, mỡ, nhờn; (ii) Than đá; (iii) Dung dịch HCFC (hydro-chloro-fluoro-carbon); (iv) Túi ni lông; (v) Thuốc diệt cỏ (loại hạn chế sử dụng); (vi) Thuốc trừ mối (hạn chế sử dụng); (vii) Thuốc bảo

quản lâm sản (hạn chế sử dụng); và (viii) Thuốc khử trùng kho (hạn chế sử dụng).Việc lựa chọn đối tượng chịu thuế có mức độ ảnh hưởng đến môi trường nghiêm trọng

69

trong giai đoạn đầu thực hiện là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam.

Đối tượng chịu thuế BVMT có thể được bổ sung thêm tùy vào từng giai đoạn; vì vậy, Khoản 9, Điều 3, Luật Thuế BVMT quy định “Trường hợp xét thấy cần thiết phải bổ sung đối tượng chịu thuế khác cho phù hợp với từng thời kỳ thì ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quy định”. Cụ thể, để bảo đảm tính công bằng, Quốc hội sẽ bổ sung thêm các đối tượng gây ô nhiễm khác vào diện chịu thuế BVMT.

Về đối tượng không chịu thuế, quy định như trong Luật chưa thật sự hợp lý vì Luật Thuế BVMT không những cần xác định trách nhiệm BVMT ở Việt Nam mà còn

phải BVMT chung trên trái đất, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Vì vậy, cần thiết phải quy định nghĩa vụ nộp thuế BVMT đối với các hàng hóa xuất khẩu gây tác động tiêu cực đến môi trường trong quá trình sử dụng. Bên cạnh đó, một số

hàng hóa có khả năng gây ô nhiễm môi trường khi được sử dụng nhưng chưa được đưa vào nhóm đối tượng chịu thuế BVMT. Một số mặt hàng khác tác động xấu đến môi trường cần xem xét đưa vào diện chịu thuế như: máy tính điện tử, vải, đồ da, pin, ắc quy,... Trong từng điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, cần xác định bổ sung đối tượng chịu thuế BVMT. Có 03 nguyên tắc cần đảm bảo khi tiến hành bổ sung thêm một số sản phẩm gây ô nhiễm môi trường khác vào diện chịu thuế BVMT, cụ thể: (i) phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia và các thông lệ quốc tế; (ii) những hàng hoá sản xuất, nhập khẩu gây tác động xấu đến môi trường khi sử dụng; (iii) đảm

bảo tính khả thi và sự hài hoà với phát triển kinh tế, đặc biệt không tác động tiêu cực đến năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu trong nước trên thị trường quốc tế.

• Về đối tượng nộp thuế

Điều 5 Luật Thuế BVMT xác định người nộp thuế bao gồm các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có hoạt động sản xuất và nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế

BVMT. Như vậy, so với Luật BVMT năm 2005, Luật Thuế BVMT năm 2010 đã bổ sung thêm đối tượng nộp thuế là các chủ thể nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế BVMT. Việc bổ sung thêm nhóm chủ thể này giải quyết được kẽ hở trốn thuế, từ

đó khắc phục được hạn chế của Luật BVMT năm 2005. Cụ thể, để trốn thuế BVMT, thay vì sản xuất các sản phẩm gây hại môi trường, các chủ thể sẽ nhập khẩu chúng để tránh phải nộp loại thuế này.

Điều 11 Luật Thuế BVMT năm 2010 quy định đối tượng nộp thuế BVMT được

hoàn thuế đã nộp trong các trường hợp cụ thể một cách hợp lý, đảm bảo lợi ích của đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên, Luật chưa quan tâm đến vấn đề ưu đãi thuế như miễn, giảm thuế BVMT. Trong khi đó, áp dụng ưu đãi thuế góp phần quan trọng vào việc

70

thúc đẩy các tổ chức, cá nhân sản xuất có ý thức hơn trong việc hạn chế tác động tiêu

cực của hoạt động sản xuất đối với môi trường. Bên cạnh đó, các chủ thể này sẽ giảm thiểu việc xả thải chất độc hại ra môi trường bằng cách áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến, sản xuất hàng hóa thân thiện với môi trường hơn thông qua đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sạch.

Thuế BVMT là thuế gián thu, với mục đích khuyến khích người tiêu dùng (là chủ thể gây ô nhiễm do sử dụng sản phẩm có hại đến môi trường) sử dụng hàng hóa thân thiện với môi trường. Vì vậy, suy cho cùng, chính người tiêu dùng là người phải

nộp thuế BVMT do loại thuế này đã được tính vào giá bán của hàng hóa một cách hợp lý nhằm tránh các phản ứng gay gắt của người tiêu dùng.

• Về căn cứ tính thuế

Theo Điều 6 Luật Thuế BVMT: “Căn cứ tính thuế bảo vệ môi trường là số lượng hàng hóa tính thuế và mức thuế suất tuyệt đối”. Trong đó, số lượng hàng hóa tính thuế tùy thuộc vào từng loại hàng hóa nhất định. Cụ thể, số lượng hàng hóa tính thuế là số lượng hàng hóa nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu. Số lượng hàng hóa tính thuế là số lượng hàng hóa sản xuất bán ra, trao đổi, tiêu dùng nội bộ, tặng cho đối với hàng hóa sản xuất trong nước. Như vậy, việc quy định rõ ràng số lượng hàng hóa

tính thuế góp phần hạn chế chi phí phát sinh trong quản lý thuế BVMT.

Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định tính thuế BVMT theo mức thuế tuyệt đối là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Về cơ bản, phương pháp này

khá đơn giản, tạo sự chủ động trong quá trình tính toán giá thành sản phẩm và thu ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, phương pháp này dễ dàng thay đổi theo điều kiện thực tế và không phụ thuộc vào biến động giá cả hàng hóa trên thị trường. Tuy nhiên, phương pháp này gây ra một số khó khăn gây khó khăn trong thực thi pháp luật với

điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. Cụ thể, tình trạng trượt giá khó kiểm soát đòi hỏi khung tính thuế và mức thuế tuyệt đối phải thay đổi liên tục.

• Về biểu khung thuế và mức thuế cụ thể

Nhằm đảm bảo tính ổn định trong quá trình quản lý thuế, pháp luật xây dựng các mức thuế tuyệt đối tối thiểu và tối đa trên cơ sở mức độ gây tác động tiêu cực đến

môi trường và kế thừa chính sách thu hiện hành đối với phí xăng dầu, phí BVMT. Tuy nhiên, theo Biểu khung thuế tại Điều 8 Luật thuế BVMT, tính thuyết phục của mức thuế tuyệt đối đối với một số đối tượng chịu thuế còn chưa cao. Bên cạnh đó, có thể thấy, khả năng áp dụng thống nhất với cùng một mặt hàng tại các địa phương khác

71

nhau còn chưa cao do khoảng cách giữa mức thuế tối thiểu và mức thuế tối đa của một

loại hàng hóa là khá lớn. Thuế lại được thu theo nguyên tắc mức thuế tuyệt đối, trong khi đó mức thuế đáng lý phải xác định căn cứ vào hàm lượng các chất độc hại trong hàng hóa. Ngoài ra, mức thuế chưa hợp lý giữa các đối tượng: mức độ gây tác động xấu đến môi trường của các loại nhiên liệu là khác nhau nhưng chịu cùng một mức thuế, đối tượng gây hại cho môi trường hơn chịu mức thuế thấp hơn. Không những thế, trong khi mức thu thuế của Việt Nam hiện tại còn thấp, một số sản phẩm đang chịu quá nhiều loại thuế ngoài thuế BVMT khiến giá cả sản phẩm tăng cao. Trong thời

gian qua, Ủy ban thường vụ Quốc Hội đã có quy định Biểu thuế BVMT và 02 lần điều chỉnh, thay thế cụ thể: (1) Nghị quyết số 1269/2011/UBTVQH12 ngày 14/7/2011 về Biểu thuế BVMT; (2) Nghị quyết số 888a/2015/UBTVQH13 ngày 14/7/2015 về sử đổi

bổ sung Nghị quyết số 1269/2011/UBTVQH12; và được thay thế bằng Nghị quyết số 579/2-18/UBTVQH14 ngày 26/9/2018.

Đánh giá một cách khái quát, các văn bản pháp luật về thuế BVMT quy định thuế BVMT là loại thuế gián thu, đánh vào sản phẩm và hàng hóa có ảnh hưởng tiêu

cực đến môi trường trong quá trình sử dụng, bao gồm 8 (tám) nhóm sản phẩm chịu thuế. Đối tượng nộp thuế BVMT là những tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có sản xuất hoặc nhập khẩu các hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế được quy định trong Luật mà không có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng như loại hình doanh nghiệp.

Những văn bản này đã tạo môi trường đầu tư ổn định, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước phục vụ quá trình phát triển kinh tế bền vững.

Các văn bản luật thuế BVMT có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, thống nhất với các văn bản khác có liên quan nhằm tạo dựng môi trường pháp lý bình đẳng và công bằng; tạo hệ thống pháp luật đầy đủ về chính sách thu liên quan đến BVMT; khuyến khích các tổ chức, hộ gia đinh, cá nhân phát triển kinh tế đi liền với giảm thiểu ô nhiễm môi trường, từ đó dần nâng cao trách nhiệm và nhận thức của toàn xã hội đối với vấn đề này. Các văn bản luật này cũng là công cụ tài chính để khuyến khích người dân sản xuất và sử dụng các sản phẩm thân hiện với môi trường, tránh những mặt hàng có tác động xấu đến môi trường như xăng dầu, than đá, lưu huỳnh, dung dịch HCFC,... từ đó góp phần BVMT và phát triển kinh tế xã hội bền vững.

Nhìn chung, Luật thuế BVMT đã dần ổn định theo thời gian, minh bạch, rõ ràng và được áp dụng một cách thống nhất trong các trường hợp đã được quy định, mặc dù còn một số hạn chế như kết quả khảo sát cho thấy chỉ đạt 3,19/5 điểm của các doanh nghiệp là đối tượng chịu thuế BVMT tham gia khảo sát điều tra. Đồng thời, dựa

72

trên mức độ gây tác động đến môi trường hoặc chi phí dùng để khắc phục hậu quả của các hành động gây tổn hại đến môi trường, Luật Thuế BVMT quy định Biểu khung thuế BVMT với mức thuế theo mức tuyệt đối tối thiểu và tuyệt đối tối đa. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi và linh hoạt cho việc điều hành và thực thi luật, đồng thời không gây xáo trộn đến việc quản lý thu và đến hoạt động sản xuất tiêu dùng. Việc kê khai, tính thuế và nộp thuế BVMT quy định trong luật được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về quản lý thuế, không mâu thuẫn hay cản trở việc tổ chức thu các loại thuế hiện hành. Điều này đảm bảo việc thực hiện các chính sách thuế diễn ra thuận tiện, đồng bộ và thống nhất.

Ngoài những mặt tích cực, nội dung của các văn bản pháp luật về thuế BVMT còn một số hạn chế. Phạm vi điều chỉnh tại Điều 1 của Luật Thuế BVMT chưa bao quát hết tất cả các nội dung quy định tại Luật khi chỉ đề cấp đến những quy định về đối tượng chịu/ không chịu thuế, đối tượng nộp thuế, căn cứ tính thuế, khai thuế, nộp thuế và hoàn thuế. Trong khi đó, trong Luật này còn quy định các nội dung về biểu khung thuế,phương pháp tính thuế và thời điểm tính thuế còn nhiều điểm chưa hợp lý. Các mức thế BVMT được quy định tại luật thuế mới chỉ đóng góp một phần làm sạch môi trường do nguồn thu từ thu BVMT vẫn còn chưa đáng kể.

Bảng 3.1: Kết quả khảo sát thực trạng hoạt động xây dựng và ban hành

luật pháp và chính sách thuế BVMT

Mã Tiêu chí Điểm TB Độ lệch chuẩn

Q1 3,17 1,190 Luật thuế BVMT được áp dụng như nhau đối với tất cả đối tượng nộp thuế ở trong những hoàn cảnh giống nhau.

Luật thuế BVMT ổn định theo thời gian, minh bạch, rõ ràng

Q2 3,19 1,095

và được áp dụng một cách thống nhất trong các trường hợp đã được quy định.

Nội dung và ngôn từ của luật thuế BVMT dễ hiểu với doanh nghiệp và được thực hiện trong một khoảng thời gian dài, Q3 3,30 1,250

ổn định.

Q4 3,15 1,210

Hệ thống thuế BVMT được tổ chức phù hợp, không vượt quá mức cho phép, trong bối cảnh kinh tế xã hội đất nước và các đối tượng nộp thuế như quý doanh nghiệp.

Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát

73

Kết quả khảo sát cho thấy tính công bằng vẫn còn hạn chế, chỉ được đánh giá ở

mức trung bình 3,17/5 điểm. Trong Luật quy định 8 nhóm chịu thuế, trong đó có mặt hàng xăng, dầu mỡ nhờn. Tuy nhiên, trong các văn bản dưới luật lại quy định chỉ có xăng, dầu, mỡ nhờn gốc hóa thạch mới là đối tượng chịu thuế. Như vậy, để đảm bảo tính rõ ràng và tính pháp lý cao, nội dung này cần phải được quy định tại Luật, chứ không phải tại các văn bản dưới luật. Mặt khác, theo các văn bản pháp luật về Thuế xuất nhập khẩu, hàng hóa trung chuyển không thuộc đối tượng chịu thuế vì chúng không tác động đến môi trường. Nhưng mặt hàng này lại chưa được quy định tại Luật BVMT rõ ràng xem có

thuộc đối tượng chịu thuế hay không chịu thuế. Tương tự đối với nhóm hàng hóa nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để trực tiếp gia công, sản xuất hàng hóa xuất khẩu không thuộc đối tượng chịu thuế, nhưng không được quy định cụ thể tại Luật.

Các văn bản hướng dẫn các sản phẩm chịu thuế trong các Nghị định, Thông tư còn chưa thực sự rõ ràng, đặc biệt là quy định về túi nilong thuộc đối tượng chịu thuế. Chính điều này đã gây ra nhiều khó khăn trong quá trình triển khai Luật bởi tính pháp lý trong nội dung này chưa cao. Hay việc cho dung dịch HCFC vào đối tượng chịu

thuế, tuy là một nỗ lực của nhà nước nhưng lại chưa được hướng dẫn cụ thể trong các văn bản luật và dưới luật. Riêng đối với nhóm mặt hàng xăng, dầu, mỡ nhờn, mặc dù đã được quy định chi tiết trong luật, vẫn chưa có sự chênh lệch về giá bán của các sản phẩm này hiện nay. Do đó, chỉ nhận được mức đánh giá ở mức khá 3,30/5 điểm theo

kết quả khảo sát điều tra các doanh nghiệp là đối tượng chịu thuế BVMT.

Liên quan đến thời điểm tính thuế BVMT, hiện nay, đối với hàng hóa sản xuất, trao đổi, cho tặng, thời điểm tính thuế BVMT được xác định từ khi chuyển giao quyền

sở hữu hoặc quyền sử dụng. Đối với hàng hóa nhập khẩu, thời điểm tính thuế BVMT được xác định khi đăng ký tờ khai hải quan. Tuy nhiên, đối với mặt hàng xăng dầu sản xuất ra hoặc nhập khẩu từ các nước khác, thời điểm tính thuế được quy định trong luật là thời điểm đầu mối kinh doanh loại mặt hàng này bắt đầu bán ra, dẫn đến khó khăn

trong việc quản lý cũng như trong việc kê khai, nộp thuế. Quy định nêu trên dễ dẫn đến việc các đơn vị lợi dụng việc nhập khẩu xăng dầu nhưng không bán ra mà chỉ dùng cho sản xuất, có thể dẫn đến thất thu ngân sách. Ngoài ra, quy định nêu trên chưa

đồng nhất với quy định về khai thuế, nộp thuế BVMT đối với hàng hóa khác thuộc đối tượng chịu thuế BVMT nhập khẩu; và chưa thuận lợi để triển khai thực hiện quy định tại Luật NSNN năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2017) là thuế BVMT thu từ hàng hóa nhập khẩu là khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100%. Do đó,

cần sửa đổi quy định về thời điểm tính thuế BVMT đối với xăng dầu cho phù hợp.

74

Mức thu thuế BVMT hiện nay được tính theo mức thu tuyệt đối trên số lượng

đơn vị sản phẩm chịu thuế. Đồng thời, luật cũng đưa ra mức tiền thuế tối thiểu - tối đa đối với một sản phẩm chịu thuế, từ đó có thể xác định được mức thuế phù hợp trong từng giai đoạn cụ thể. Mặc dù cách tính này phù hợp với thông lệ quốc tế và đặc thù của thuế BVMT, vẫn chưa có sự tương xứng giữa mức thu cụ thể đối với một số loại hàng hóa so với mức độ ô nhiễm môi trường mà chúng gây ra (đặc biệt là túi nilon), vì vậy cần điều chỉnh lại cho phù hợp.

Về đơn vị tính thuế BVMT, hiện nay, theo Luật Thuế BVMT, mặt hàng dầu mazut đang có đơn vị tính là “lít”. Trong khi đó, theo tiêu chuẩn TCN 01:2000 được ban hàng trong Quyết định số 1783/2000/QĐ-BTM ngày 26/12/2000 của Bộ Thương mại, mặt hàng này lại có đơn vị tính là “kilogram”. Vi thế, khi kê khai và nộp thuế

BVMT, đối tượng nộp thuế phải quy đổi từ “kilogram” sang “lít” bằng cách thủ công, dẫn đến nhiều trường hợp thiếu chính xác.

Có thể thấy, việc ban hành và thực thi luật thuế BVMT đã dần hoàn thiện hệ thống luật pháp về môi trường để nước ta có thể thực thi đầy đủ những cam kết về môi

trường với cộng đồng quốc tế. Ngoài ra, các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế BVMT đã được nhà nước ban hành dần đồng bộ. Những văn bản này có vai trò định hướng hành vi của các chủ thể theo hướng BVMT, giảm thiểu ô nhiễm. Không những thế, thuế BVMT còn có tác dụng nâng cao ý thức người dân và các tổ chức, doanh

nghiệp trong việc tìm kiếm, áp dụng công nghệ sạch để giảm thiểu các ảnh hưởng xấu đến môi trường. Nhờ thế, nhà nước dễ dàng quản lý các vấn đề về môi trường dựa trên cơ sở pháp lý này, không những thế còn góp phần xây dựng hệ thống thuế đồng bộ,

minh bạch, đảm bảo đối tượng nộp thuế hiểu đúng về luật và thực hiện nghiêm chỉnh.

3.2.2. Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường

Bộ máy quản lý thuế BVMT có vai trò then chốt trong hệ thống bộ máy quản lý thuế Nhà nước hiện hành, và là một bộ phận nằm trong tổng thể tổ chức bộ máy quản

lý thuế Nhà nước hiện hành, như đã giới thiệu khái quát trong phần 3.1.2 nêu trên. Cụ thể, tổ chức bộ máy quản lý thu thuế hiện hành bao gồm:

a) Đối với thuế nội địa, Tổng cục thuế là cơ quan đứng đầu, có nhiệm vụ tư vấn

soạn thảo các văn bản pháp luật về thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành các Luật

thuế; xây dựng và điều hành kế hoạch thu trong cả nước và từng địa phương; tổ chức

phổ biến, hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ thực hiện các Luật thuế trong cả nước; nghiên

cứu hoàn thiện cơ cấu bộ máy quản lý Nhà nước về thuế và sử dụng cán bộ; tổ chức

75

công tác thanh tra, kiểm tra quá trình chấp hành các Luật thuế để việc thực hiện các

Luật thuế đạt được kết quả cao; giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế.

Các cục thuế địa phương là tổ chức trực thuộc Tổng cục thuế được tổ chức tại

tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Cơ cấu bộ máy Của cục thuế bao

gồm một số phòng chức năng và một số phòng nghiệp vụ, phòng thu thuế được tổ

chức theo đối tượng thu thuế. Cục thuế có nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu: phổ biến,

hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức thi hành các Luật thuế; xây dựng và chỉ đạo thực hiện

kế hoạch thu trong toàn địa bàn và từng Chi cục thuế trực thuộc; hướng dẫn kiểm tra

các Chi cục thực hiện các nghiệp vụ quản lý, giải quyết các khiếu nại về thuế; trực tiếp

thực hiện việc thu thuế và thu khác đối với các đối tượng thuộc trách nhiệm quản lý

trên địa bàn.

Các Chi cục thuế là tổ chức trực thuộc Cục thuế, được tổ chức tại tất cả các

quận, huyện. Cơ cấu bộ máy Chi cục thuế gồm các tổ chuyên môn, nghiệp vụ và các

đội, tổ, trạm trực tiếp quản lý việc thu thuế.Chi cục thuế có nhiệm vu, quyền hạn: xây

dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thu chi tiết đối với từng Luật thuế phát sinh trên

địa bàn Huyện; tổ chức thực hiện các nghiệp vụ quản lý các đối tượng nộp thuế; đôn

đốc, kiểm tra các đối tượng nộp thuế trong việc chấp hành Luật thuế.

b) Đối với thuế trong hoạt động xuất nhập khẩu, Tổng cục Hải quan thực hiện

chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; đấu tranh chống

buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa... qua biên giới.

Cơ quan Hải quan Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất,

dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chính phủ. Tổ chức hải quan Việt Nam bao gồm:Tổng

cục Hải quan, Cục Hải quan tỉnh hoặc liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và

cấp tương đương, Hải quan cửa khẩu, Ðội kiểm soát hải quan.Trong khi thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hải quan Việt Nam phối hợp chặt chẽ với chính quyền

địa phương các cấp, các lực lượng vũ trang, cơ quan Nhà nước khác, tổ chức xã hội,

dựa vào nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

Thực tế, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong việc

quản lý thuế theo Luật thuế BVMT, bộ máy nhà nước đã từng bước kiện toàn, sắp xếp

dựa theo chức năng tại các Cơ quan Thuế và Cơ quan Hải quan các cấp từ Trung ương

đến địa phương. Cụ thể, nhận được đánh giá từ phía các doanh nghiệp là đối tượng

chịu thuế BVMT đạt mức khá cao 3,70/5 điểm. Thực tế, tổ chức bộ máy cơ quan quản

lý thuế được chuyển đổi sang mô hình quản lý theo chức năng và tổ chức thống nhất từ

76

Trung ương đến địa phương nhằm đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất. Theo đó,

Ngành Thuế gồm có Tổng cục Thuế, 63 Cục thuế, 415 Chi cục thuế. Ngành Hải quan

có Tổng cục Hải quan, 35 Cục Hải quan, các chi cục Hải quan cửa khẩu.

Bảng 3.2: Kết quả khảo sát thực trạng tổ chức bộ máy quản lý thuế BVMT

Mã Tiêu chí Điểm TB Độ lệch chuẩn

Bộ máy QLNN đối với thuế BVMT được tổ chức một cách

Q5 3,70 1,198

hợp lý, đảm bảo thực hiện đầy đủ các chức năng của mình, đảm bảo điều hành các hoạt động quản lý thu thuế BVMT.

Bộ máy QLNN đối với thuế BVMT được tổ chức căn cứ vào mục tiêu, năng lực của cán bộ chuyên trách và khả năng ứng Q6 3,16 1,307

dụng công nghệ vào quản lý để bộ máy được tinh gọn, hiệu quả.

Bộ máy QLNN về thuế BVMT được tổ chức dựa trên nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước, tuân theo các quy định về Q7 3,53 1,110

phân chia địa giới giữa các tỉnh, thành phố, huyện, xã…

Nguồn: Kết quả điều tra

Bộ máy quản lý thuế BVMT được tổ chức căn cứ vào mục tiêu, năng lực của cán bộ chuyên trách và khả năng ứng dụng công nghệ vào quản lý để bộ máy được tinh gọn, hiệu quả, mặc dù còn một số hạn chế như đánh giá khảo sát chỉ đạt 3,16/5

điểm. Đồng thời, tổ chức bộ máy được bố trí rộng khắp đến cấp hành chính quận huyện. Trong trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ hoặc bất thường liên quan đến thu thuế, sẽ có những đầu mối làm nhiệm vụ thu thập thông tin để điều tra làm rõ, sau đó chia sẻ

kết quả điều tra trong nội bộ như Thanh tra Tổng cục thuế, Thanh tra TCHQ (đối với cấp độ trung ương), các Phòng thanh tra thuộc Cục thuế, Cục Hải quan tại các tỉnh, thành phố.

Bộ máy QLNN về thuế BVMT được tổ chức dựa trên nguyên tắc quản lý hành

chính nhà nước, tuân theo các quy định về phân chia địa giới giữa các tỉnh, thành phố, huyện, xã… Tiêu chí này nhận được đánh giá khá cao 3,53/5 điểm từ các doanh nghiệp là đối tượng chịu thuế BVMT tham gia khả sát điều tra. Cụ thể, bộ máy quản lý thuế đối với thuế BVMT ngày càng được sắp xếp một cách hiệu quả, cơ bản đáp ứng

được yêu cầu và nhiệm vụ mà nhà nước giao phó. Tại các địa phương, UBND, Sở Tài nguyên và Môi trường đã chủ động phối hợp với các ban ngành, địa phương ban hành

77

thêm nhiều quy định về cơ chế quản lý thuế, từ đó kịp thời đáp ứng được những yêu

cầu và mục tiêu đề ra mà vẫn đảm bảo sự phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. Những hoạt động này vừa đảm bảo thu đúng, thu đủ nộp ngân sách nhà nước, vừa đảm bảo được các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, gắn với BVMT và phát triển bền vững tại địa phương.

Bên cạnh những thành công đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong công tác tổ chức bộ máy nhà nước về quản lý thuế. Thực tế, hệ thống pháp luật về tố tụng ở nước ta chưa cho phép các cơ quan quản lý thuế thực hiện điều tra hình sự, khởi tố ban

đầu với một số trường hợp vi phạm về hóa đơn hay trốn thuế. Vì thế, tổ chức bộ máy thuế từ cấp trung ương đến địa phương chưa có hỗ trợ, đóng góp hiệu quả giúp lực lượng điều tra hình sự phát hiện và xử lý các vi phạm về thuế, thu thuế. Đồng thời

chưa đảm bảo được tính liên tục trong việc theo dõi sự tuân thủ pháp luật và xử lý vi phạm hành chính theo Luật. Điều này làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác QLNN trong lĩnh vực thuế nói chung, và thu thuế nói riêng. Dần dần, môi trường hoạt động dành cho các chủ thể tham gia kinh doanh không đảm bảo được tính công bằng.

Chức năng cưỡng chế thuế có vai trò then chốt trong công tác quản lý thuế. Về cơ bản, chức năng này đã được quy định trong luật thuế; tuy nhiên, bộ máy QLNN về thu thuế chưa thể thực hiện được chức năng này do chưa có đủ cơ sở pháp lý và điều kiện để triển khai. Hiện nay, việc thực thi chức năng cưỡng chế thuế có hiệu quả chưa

cao do vẫn còn được lồng ghép vào hoạt động thanh tra do cơ quan thuế chưa thực hiện được chức năng quản lý thuế một cách độc lập.

Hiện nay, tổ chức quản lý thuế đối với thuế BVMT vẫn đan xem quản lý theo

đối tượng và theo chức năng. Chính vì thế, một số chức năng quản lý thuế, trong đó có thu thuế và xử lý các vấn đề liên quan đến nội dung, chính sách, chế độ,... chưa được phân định rõ ràng. Tình trạng nhiệm vụ bị chồng chéo còn xảy ra tại một số bộ phận quản lý thuế và bộ phận nghiệp vụ, dẫn đến nhiều chức năng không được thực hiện tốt.

Bên cạnh đó, một số bộ phận khác trong cơ cấu bộ máy thu thuế chưa thực sự được chuyên môn hóa theo chức năng nên chưa phát huy được hiệu quả của mình.

Trong nền kinh tế mở và hội nhập toàn cầu, số lượng các doanh nghiệp ngày

càng tăng, trình độ SXKD cũng ngày được cải tiến, các hình thức hợp tác kinh doanh giữa các thành phần kinh tế ngày một phát triển để hình thành nhiều hình thức kinh doanh tổng hợp,... Điều này khiến cho bộ máy QLNN về thu thuế khó xác định được đối tượng nộp thuế là doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hay tư nhân để phân công quản

lý thuế cho hiệu quả và phù hợp.

78

3.2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường

Với nhu cầu giải quyết các vấn đề môi trường ngày càng tăng, việc thực hiện chính sách thuế BVMT đã góp phần huy động sự đóng góp của xã hội, tạo thêm nguồn thu cho NSNN. Thuế BVMT đã thể hiện tốt vai trò của một công cụ kinh tế trong định hướng, điều tiết của Nhà nước với việc tiêu dùng các sản phẩm, hàng hóa gây ô nhiễm môi trường. Sau một thời gian triển khai thực hiện, chính sách thuế BVMT đã đạt được cơ bản những yêu cầu bước đầu, giảm thiểu các tác động trong sản xuất và sử

dụng sản phẩm có hại đến môi trường sinh thái, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới và cam kết quốc tế.

Tuy nhiên, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT vẫn còn

một số hạn chế nhất định. Việc ban hành hệ thống chính sách thuế còn chưa đồng bộ, cụ thể như Luật Thuế BVMT có hiệu lực ngày 01/01/2012 nhưng nhưng đến tháng 3/2013 mới ban hành Thông tư số 30/2013/TT-BTC ngày 18/3/2013 của Bộ Tài Chính hướng dẫn hoàn lại tiền thuế BVMT đối với túi ni lông làm bao bì đóng gói sẵn hàng

hóa theo nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính Phủ. Việc không đồng bộ trong thời gian ban hành các Luật, Thông tư chính sách đã dẫn đến hiện tượng chồng chéo trong thực thi thu thuế dẫn tới giảm hiệu quả của hoạt động quản lý thu thuế. Có nhiều văn bản hướng dẫn, quy định ban hành trong nhiều thời kỳ từ 2010 đế

nay, tuy nhiên đến nay Bộ Tài chính mới có Thông tư số 32/VBHN-BTC ngày 17/6/2019 hợp nhất văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

Thuế BVMT.

Theo kết quả khảo sát điều tra, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật BVMT phổ biến luật đầy đủ đến doanh nghiệp ngày càng được chú trọng và đạt điểm trung bình cao nhất trong số các tiêu chí liên quan đến hoạt động tổ

chức quản lý thuế BVMT (đạt 3,58/5 điểm). Trong quá trình nâng cao trách nhiệm và nhận thức của xã hội đối với việc BVMT, thực hiện thu thuế BVMT đã góp phần quan trọng. Nhờ quy định phải nộp thuế BVMT đối với hoạt động sản xuất, nhập khẩu đã

khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất và người tiêu dùng lựa chọn các sản phẩm thân thiện với môi trường. Việc nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, doanh nghiệp và toàn xã hội đang dần trở nên hiệu quả, có ý nghĩa, người dân đã có ý thức hơn trong việc lựa chọn các sản phẩm với nhãn xanh thân thiện môi trường, hạn chế xả rác thải

và chống ô nhiễm, tích cực thực hiện BVMT. Đồng thời, thuế BVMT đã gia tăng thêm

79

nguồn thu cho NSNN, từ đó góp phần ổn định nguồn thu thuế nội địa và bù đắp một

phần giảm thu NSNN do cắt giảm mức thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế về môi trường.

Tuy nhiên, mặc dù ngành thuế trong quá trình quản lý thuế BVMT đã rất quan tâm đến công tác tuyên truyền hỗ trợ để các doanh nghiệp có thể hiểu về các quy định, chính sách thuế, hình thức khai, tính và nộp thuế nhưng các hình thức tuyên truyền vẫn chưa thực sự phong phú và đa dạng, chưa có sự đánh giá ưu nhược điểm của các hình thức tuyên truyền tại từng địa phương để rút kinh nghiệm trong việc lựa chọn những

hình thức phù hợp với trình độ nhận thức của doanh nghiệp tại các địa phương khác nhau. Bên cạnh đó, công tác thanh kiểm tra thu thuế vẫn chưa kiểm tra được toàn bộ các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có hoạt động sản xuất hoặc nhập khẩu các sản phẩm

thuộc nhóm đối tượng chịu thuế BVMT gây tình trạng thất thoát cho ngân sách nhà nước. Như vậy, công tác tuyên truyền và hoạt động hỗ trợ thanh kiểm tra thu thuế - là hai chức năng quan trọng trong công tác QLNN về thuế, đề cao tính tự giác của đối tượng nộp thuế - chưa phát huy được hiệu quả của mình trong công tác quản lý thuế.

Về hoạt động tổ chức thực thi pháp luật BVMT, kết quả điều tra cho thấy hoạt động này hiện nay chưa được triển khai quyết liệt và hiệu quả tại Việt Nam. Điểm trung bình của tiêu chí này chỉ là 3,13/5 điểm. Hiện nay, nguồn lực trong công tác tổ chức thực thi pháp luật BVMT, đặc biệt là giám sát thực thi thực hiện BVMT ở Việt Nam là tương đối thấp. Theo Đề án “Kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý môi trường từ Trung ương đến địa phương giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, tổng số cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng làm công tác BVMT là 17.724 người tính đến cấp xã. Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về môi trường còn hạn chế, nên sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động BVMT là rất cần thiết. Tuy nhiên, tại Việt Nam, các cơ chế huy động nguồn lực ngoài nhà nước và đảm bảo sự tham gia của cộng đồng vào BVMT chưa được xây

dựng một cách hiệu quả. Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thực thi, giám sát pháp luật môi trường nói chung và thuế BVMT nói riêng chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.

Ngoài ra, việc ứng dụng tiến bộ về khoa học, công nghệ trong công tác quản lý thuế chưa được chú trọng. Việc sử dụng tin học trong các quy trình hoạt động thu thuế, quản lý thuế đã được thực hiện, tuy nhiên chưa được triển khai một cách đồng bộ nên hiệu quả chưa cao. Những bất cập, vướng mắc giữa hệ thống quy trình nhiều cấp trong

ứng dụng tin học chưa được khắc phục triệt để. Nguyên nhân chủ yếu là do hạ tầng

80

công nghệ thông tin, môi trường làm việc và trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân

lực vẫn chưa đáp ứng kì vọng.

Đáng chú ý, theo kết quả khảo sát điều tra, các văn bản quy phạm pháp luật BVMT tại Việt Nam thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện kịp thời và phù hợp với bối cảnh và những biến động thực tiễn. Điểm trung bình đạt 3,40/5 điểm. Điều này đã tạo thêm nguồn lực để giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường tại Việt Nam một cách kịp thời, cũng như đảm bảo khả năng cạnh tranh của nền kinh tế với các sản phẩm nội địa do Việt Nam sản xuất.

Hiện nay, công tác tổ chức quản lý thuế BVMT tại Việt Nam đã đạt được nhiều

kết quả đáng khích lệ, thể hiện qua công tác thu thuế BVMT. Kết quả thực hiện thu thuế BVMT trong giai đoạn 2012-2019 được thể hiện trong các bảng dưới đây.

Cụ thể, kết quả thống kê của Bộ Tài chính cho thấy, tổng số thu thuế BVMT

tăng trưởng ổn định kể từ năm 2012 là năm đầu tiên thực hiện Luật Thuế BVMT, đạt

11.160 tỷ đồng; đến năm 2019 đã tăng gần 6 lần đạt 64.463 tỷ đồng; chiếm tỷ trọng

4,16% tổng thu NSNN và đóng góp 1,07% vào GDP hàng năm; tỷ trọng thu thuế

BVMT trên tổng thuế nội địa tăng từ 2,654% năm 2012 lên 5,06% năm 2019; trong

đó, số thu thuế BVMT đối với nhóm hàng xăng dầu chiếm chủ yếu (93,57%) tổng số

thu thuế BVMT qua các năm.

Việc quản lý thuế BVMT góp phần tăng thu NSNN. Bên cạnh các chính sách

thu trong công tác BVMT hiện hành như các loại Phí BVMT, Thuế TNDN, Thuế

TTĐB, Thuế XNK,… thì thuế BVMT đã tạo thêm nguồn thu ổn định cho NSNN, giảm

bớt gánh nặng tài chính cho Nhà nước trong việc quản lý và chi đầu tư cho BVMT. Có

thể thấy, số thu thuế BVMT tăng trưởng ổn định qua các năm, nhờ vậy đã cải thiện

được nguồn thu thuế nội địa khi ngân sách nhà nước còn hạn chế. Bên cạnh đó, nguồn

thu thuế này đã phần nào bù đắp được tình trạng giảm thu ngân sách do cắt giảm mức

thuế nhập khẩu trong quá trình Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế.

81

Bảng 3.3: Tỷ lệ thu Thuế BVMT so với GDP và thu NSNN giai đoạn 2012-2019

Đơn vị tính: tỷ đồng

STT 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Chỉ tiêu

3.245.419 3.584.262 3.937.856 4.192.862 4.530.398 5.005.975 5.542.332 6.037.348 1 Tổng sản phẩm quốc nội (GDP theo giá hiện hành)

Tổng thu NSNN 754.572 828.348 877.697 997.785 1.039.000 1.310.552 1.436.045 1.551.074 2

Tổng thu thuế nội địa 422.870 513.090 537.997 740.062 829.000 983.000 1.149.622 1.273.884 3

11.160 11.512 11.970 27.020 44.323 45.133 47.923 64.463 4 Tổng thu thuế BVMT

Tỷ lệ thu thuế BVMT so với 0,34 0,32 0,30 0,64 0,98 0,90 0,86 1,07 5 GDP(%)

1,48 1,39 1,36 2,71 4,27 3,44 3,34 4,16 6 Tỷ lệ thu từ thuế BVMT so với tổng thu NSNN (%)

2,64 2,24 2,22 3,65 5,35 4,17 4,17 5,06 7 Tỷ lệ thu từ thuế BVMT so với tổng thu thuế nội địa (%)

Nguồn: Niên giám thống kê và Bộ Tài chính

82

Bảng 3.4: Số thu thuế BVMT chi tiết các nhóm hàng hóa từ năm 2012-2019

Đơn vị tính: tỷ đồng

Chỉ tiêu (tỷ đồng)

Nhóm hàng sản xuất trong nước

Than đá

Nhóm hàng hóa nhập khẩu

STT Tổng số thu thuế BVMT 1 1.1 Xăng 1.2 Dầu diesel 1.3 Dầu hỏa 1.4 Dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn 1.5 1.6 Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon Túi ni lông 1.7 Thuốc diệt cỏ 1.8 1.9 Nhiên liệu bay 2 2.1 Xăng 2.2 Nhiên liệu bay 2.3 Dầu diesel 2.4 Dầu hỏa 2.5 Dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn 2012 27.020 11.160 5.899 3.656 26 226 516 9 827 0 0 0 0 0 0 0 0 2013 11.160 11.036 6.210 3.525 45 210 581 0 168 0 296 477 274 20 180 0 2 2014 11.512 8.059 4.410 2.421 11 186 577 21 71 0 362 3.911 2.098 235 1.522 3 53 2015 11.970 14.260 7.977 4.485 22 309 794 0 69 0 603 12.759 6.599 1.084 4.800 4 272 2016 44.323 22.798 11.702 8.454 13 863 766 0 56 2 942 21.258 10.279 2.133 8.273 6 567 2017 45.133 17.114 8.550 6.209 8 340 791 0 54 0 1.161 27.672 14.543 2.026 10.538 13 551 2018 47.923 18.003 8.914 6.504 6 433 852 0 54 0 1.240 28.983 15.262 2.093 11.010 11 607 2019 64.463 24.297 12.250 8.650 16 680 1.329 0 64 0 1.308 38.666 20.659 2.208 14.625 27 1.147

3 0 0 0 0 267 363 936 1.499 Nhóm hàng hóa khác sản xuất trong nước và nhập khẩu

Nguồn: Bộ Tài chính

83

Việc sử dụng nguồn thu từ thuế BVMT, Luật NSNN quy định “các khoản thu

từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật được tổng hợp

đầy đủ vào cân đối NSNN, theo nguyên tắc không gắn với nhiệm vụ chi cụ thể”. Tổng

chi NSNN cho các hoạt động BVMT giai đoạn 2012-2019 là khoảng 231.857 tỷ đồng.

Trong đó, tổng số chi thường xuyên cho BVMT là 130.131 tỷ đồng; tổng chi đầu tư

phát triển của NSTW (chủ yếu thuộc 02 ngành: ngành tài nguyên môi trường và ngành

cấp nước, xử lý rác thải, nước thải) là khoảng 60.246 tỷ đồng; và tổng chi từ dự phòng

NSTW để phòng, chống, khắc phục hậu quả bão lũ, hạn hán, thiên tai nói chung và hỗ

trợ các địa phương xử lý các nhiệm vụ đột xuất trong năm là khoảng 40.480 tỷ đồng.

Ngoài ra, NSNN chi trả cho việc thực hiện một số nhiệm vụ BVMT như các chương

trình, dự án khoa học công nghệ ứng dụng công nghệ xanh.

Bảng 3.5: Kết quả khảo sát thực trạng hoạt động tổ chức quản lý thuế BVMT

Mã Tiêu chí Điểm TB Độ lệch chuẩn

Q8 3,53 1,138 Nhà nước ban hành văn bản quy phạm pháp luật về BVMT được triển khai kịp thời và hiệu quả.

Q9 3,58 1,231 Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật BVMT phổ biến luật đầy đủ đến quý doanh nghiệp.

Q10 3,13 1,186 Hoạt động tổ chức thực thi pháp luật BVMT được triển khai quyết liệt và hiệu quả.

Các văn bản quy phạm pháp luật BVMT được sửa đổi, bổ

Q11 3,40 1,118

sung, hoàn thiện kịp thời và phù hợp với bối cảnh và những biến động thực tiễn.

Nguồn: Kết quả điều tra

Từ kết quả điều tra trên cho thấy công tác tổ chức quản lý thuế BVMT tại Việt

Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng mừng. Điều này được thể hiện chi tiết qua kết quả khảo sát điều tra khi đa phần các tiêu chí đánh giá đều đạt điểm trung bình trên 3,30 điểm, ngoại trừ tiêu chí về hoạt động tổ chức thực thi pháp luật BVMT đạt 3,13/5 điểm. Cụ thể, trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm

pháp luật về BVMT được triển khai kịp thời và hiệu quả. Điểm trung bình của tiêu chí này theo kết quả khảo sát điều tra là 3,53/5 điểm.

84

3.2.4. Thực trạng hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế bảo vệ môi trường

Hiện nay, số liệu thống kê công tác thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề cho lĩnh vực Thuế BVMT chưa được thống kê và phân tách cụ thể. Có rất ít các chương trình thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề về Thuế BVMT do chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra được xây dựng bao trùm lên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước. Các cuộc thanh tra được các cơ quan thanh tra tổng thể, trong đó có nội dung thanh tra, kiểm tra Thuế BVMT. Thanh tra Tổng cục Thuế,Thanh tra Tổng cục Hải

quan và Thanh tra Bộ Tài chính là 03 đơn vị chuyên môn thuộc Bộ Tài chính, có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính trong công tác thanh tra kiểm tra và xử lý các vi phạm liên quan đến lĩnh vực thuế..., trong đó có Thuế BVMT. Trong phạm vi Luận

án tập trung đánh giá, phân tích thực trạng hoạt động thanh tra của Ngành Thuế.

a) Về tổ chức bộ máy thanh tra, kiểm tra ngành Thuế

- Tổ chức bộ máy của Thanh tra Tổng cục Thuế:

Căn cứ theo Quyết định số 115/2009/QĐ-TTg ngày 28/9/2009 của Thủ tướng

Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính, căn cứ Luật thanh tra năm 2010 và các văn bản quy định có liên quan, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 109/QĐ-BTC ngày 14/01/2010 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Tổng cục

Thuế, theo đó Thanh tra Tổng cục Thuế (sau đây gọi tắt là Thanh tra Thuế) thực hiện chức năng thanh tra thuế, kiểm tra thuế đối với người nộp thuế; thanh tra giải quyết tố cáo về hành vi trốn thuế, gian lận thuế của người nộp thuế trong phạm vi quản lý nhà

nước của Tổng cục Thuế. Cơ cấu tổ chức Thanh tra Tổng cục Thuế được tổ chức thành 05 phòng: (1) Phòng Thanh tra thuế doanh nghiệp lớn; (2) Phòng Thanh tra thuế doanh nghiệp vừa và nhỏ; (3) Phòng Tổng hợp và Thanh tra thuế các đối tượng khác; (4) Phòng Phúc tra, Giải quyết tố cáo và Giám định về thuế; (5) Phòng thanh tra giá

chuyển nhượng.

Sau ngày 15/11/2018, thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc

hội, Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 03/02/2018 của Chính phủ và thực hiện Quyết định số 41/QĐ-TTg ngày 25/09/2018 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 2156/QĐ-BTC ngày 15/11/2018 quy định nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các Vụ và Văn phòng thuộc Tổng cục Thuế và Quyết

định số 1836/QĐ-BTC ngày 08/10/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và

85

cơ cấu tổ chức của Cục Thuế trực thuộc Tổng cục Thuế. Theo đó, Vụ Thanh tra -

Kiểm tra thuế là cơ quan tham mưu, giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế thuộc chức năng, nhiệm vụ được giao của Tổng cục Thuế và không còn đơn vị cấp phòng (đến năm 2020 được giao 68 biên chế công chức).

Từ tháng 5/2021, Vụ Thanh tra – Kiểm tra thuế được chuyển đổi thành Cục Thanh tra – Kiểm tra thuế theo Quyết định số 15/2021/QĐ-TTg ngày 30/3/2021 của Thủ tướng Chỉnh phủ. Cơ cấu tổ chức Cục Thanh tra – Kiểm tra thuế được tổ chức thành các phòng chức năng, nghiệp vụ.

- Tổ chức bộ máy thanh tra, kiểm tra của Cục Thuế địa phương

Trước ngày 15/11/2018, tại cấp Cục Thuế tỉnh, thành phố được tổ chức một số phòng Kiểm tra thuế và phòng Thanh tra thuế tùy theo quy mô, số thu, số lượng doanh

nghiệp, tính chất đặc thù, yêu cầu quản lý thuế để thực hiện chức thanh tra, kiểm tra theo quy định tại Quyết định số 108/QĐ-BTC ngày 14/01/2010 và Quyết định số 1483/QĐ-BTC ngày 29/07/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cục Thuế trực thuộc Tổng cục Thuế; Tại cấp Chi cục Thuế,

bộ phận kiểm tra thực hiện chức năng kiểm tra theo quy định tại Quyết định số 503/QĐ-TCT ngày 29/3/2010 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Chi cục Thuế trực thuộc Cục Thuế.

Sau ngày 15/11/2018, tại cấp Cục Thuế tỉnh, bộ phận được giao thực hiện chức

năng thanh tra, kiểm tra là các Phòng Thanh tra - Kiểm tra. Số lượng phòng Thanh tra - Kiểm tra được thành lập tại từng Cục Thuế tỉnh căn cứ trên quy mô số thu, quy mô số lượng doanh nghiệp quản lý và đảm bảo không vượt quá số lượng tối đa phòng

Thanh tra - Kiểm tra thuế quy định tại Quyết định số 41/2018/QĐ-TTg ngày 25/09/2018 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1836/QĐ-BTC ngày 08/10/2018 và Quyết định số 320/QĐ-BTC ngày 28/02/2019 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Trên cơ sở quy mô, đặc điểm của đối tượng quản lý của từng địa phương, tại

cấp Cục Thuế tỉnh đã thành lập các phòng Thanh tra - Kiểm tra chuyên sâu theo đối tượng, theo chuyên ngành, lĩnh vực quản lý, trong đó một phòng chức năng được giao làm đầu mối xây dựng và triển khai kế hoạch thanh tra, kiểm tra, tổng hợp, báo

cáo kết quả thanh tra, kiểm tra toàn Cục. Tổ chức bộ máy thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra tại 63 Cục Thuế tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương tổng cộng có 174 phòng thanh tra, kiểm tra với trên 9.200 cán bộ, công chức (chưa tính bộ phận kiểm tra tại các chi cục thuế).

86

Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra

(Vụ Thanh tra - Kiểm tra thuế thuộc Tổng cục Thuế với các Phòng Thanh tra - Kiểm tra thuế thuộc Cục Thuế) là mối quan hệ chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ công tác thanh tra, kiểm tra.

Đơn vị tính: triệu đồng

Bảng 3.6: Kết quả thanh tra, kiểm tra giai đoạn 2011-2019 của Tổng cục Thuế

Chỉ tiêu

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Số

cuộc

tra,

50.210

59.419

64.119

67.053

79.297

91.419

103.211

95.936

96.243

thanh kiểm tra

7.626.380

12.121.203 12.317.161 11.323.418 11.784.062 16.817.311 18.458.965 17.962.487 18.246.537

Tổng số truy thu, truy hoàn, phạt

577.739

850.121

1.180.761

1.033.947

1.191.281

1.154.013

1.718.739

2.215.830

2.531.217

10.841.903 14.885.730 15.015.620 21.591.187 22.726.224 19.697.374 37.335.701 39.403.852 42.241.204

Giảm khấu trừ Giảm lỗ

Tổng số xử qua lý

19.046.021 27.857.054 28.513.542 33.948.552 35.701.566 37.668.698 57.513.405 59.582.169 63.018.958

tra,

thanh kiểm tra

379,33

468,82

444,70

506,29

450,23

412,04

557,24

621,06

654,79

Số xử lý bình quân 1 cuộc TTKT

Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tổng cục Thuế

Như vậy, có thể thấy mặc dù số liệu thanh tra, kiểm tra thuế BVMT chưa được phân tách rõ trong tổng thể, nhưng qua kết quả 9 năm từ 2011-2019 toàn ngành thanh tra, kiểm tra được 706.907 doanh nghiệp; với tổng số xử lý qua thanh tra, kiểm tra là

362.849,6 tỷ đồng, trong đó: tổng số thuế truy thu, truy hoàn và phạt qua thanh tra, kiểm tra là 126.657,5 tỷ đồng; giảm khấu trừ là 12.453,6 tỷ đồng, tổng số giảm lỗ là 223.738,8 tỷ đồng.

Số lượng doanh nghiệp được thanh tra, kiểm tra tăng qua các năm: năm 2012

tăng 18,3% so với năm 2011; năm 2013 tăng 7,9% so với năm 2012; năm 2014 tăng 4,6% so với năm 2013; năm 2015 tăng 18,3% so với năm 2014... Số thuế xử lý qua thanh tra, kiểm tra cũng liên tục tăng qua các năm: năm 2012 tăng 46,3% so với năm

2011; năm 2013 tăng 2,4% so với năm 2012; năm 2014 tăng 19,1% so với năm 2013,... Hiệu quả công tác thanh tra kiểm tra thuế cũng tốt hơn thể hiện qua số thu

87

bình quân cho 1 cuộc thanh tra, kiểm tra tăng đáng kể từ 379,33 triệu/cuộc năm 2011

tăng lên 654,79 triệu/cuộc năm 2019.

Theo kết quả khảo sát điều tra, hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế BVMT tại Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Đầu tiên phải kể đến việc tuân thủ các quy định của Luật quản lý thuế và các quy định pháp luật khác có liên quan đến thuế BVMT và tuân thủ quy trình thanh tra. Cụ thể, hoạt động thanh tra, kiểm tra nộp thuế BVMT đối với các doanh nghiệp được triển khai tuân thủ tốt các quy định của Luật quản lý thuế và các quy định pháp luật khác có liên quan đến thuế

BVMT và tuân thủ quy trình thanh tra, điểm trung bình của tiêu chí này là 3,61/5 điểm.

Việt Nam đã xây dựng một hệ thống chính sách và pháp luật về BVMT tương đối hoàn chỉnh. Luật thuế BVMT ra đời cho thấy sự quan tâm từ phía Nhà nước đối

với công tác thu - chi cho BVMT. Để thực hiện nghiêm túc và quản lý hiệu quả các chủ thể theo quy định của pháp luật, Cơ quan Thuế trong nhiều năm qua luôn tăng cường kiểm tra thuế BVMT đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các mặt hàng nằm trong danh mục đối tượng chịu thuế BVMT, đảm bảo các chủ thể chấp hành

nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ đóng thuế BVMT.

Năm 2019, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Chỉ thị số 01/CT-BT về việc tăng cường kiểm soát việc thanh tra, kiểm tra thuế. Đối tượng thanh tra, kiểm tra theo yêu cầu tập trung vào doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế, doanh nghiệp lớn nhiều năm

chưa thanh, kiểm tra, doanh nghiệp hoàn thuế lớn hoặc các doanh nghiệp liên kết có rủi ro cao về giá chuyển nhượng. Công tác thanh tra, kiểm tra được thực hiện liên tục theo tuần, theo tháng và theo quý.

Bảng 3.7: Kết quả khảo sát thực trạng hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý

vi phạm pháp luật thuế BVMT

Tiêu chí

Điểm TB

Độ lệch chuẩn

3,61

0,971

Q12

Hoạt động thanh tra, kiểm tra nộp thuế BVMT đối với quý doanh nghiệp được triển khai tuân thủ các quy định của Luật quản lý thuế và các quy định pháp luật khác có liên quan đến thuế BVMT và tuân thủ quy trình thanh tra.

2,68

1,041

Q13

Các cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế như quý doanh nghiệp được thu thập và phân tích một cách chính xác, khách quan, trung thực.

Q14 Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT đảm bảo

3,17

0,997

nguyên tắc không cản trở các hoạt động bình thường của người nộp thuế như quý doanh nghiệp.

Q15

3,49

0,915

Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT đảm bảo phát hiện ngăn ngừa các trường hợp vi phạm luật thuế BVMT như tại và trong lĩnh vực của quý doanh nghiệp.

88

Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát

Công tác thanh tra, kiểm tra thuế BVMT hiện nay đối với doanh nghiệp có thể thông qua nhiều cơ quan và có sự phối hợp giữa các cơ quan như: Cơ quan Thuế, cơ quan Thanh tra Nhà nước, Thanh tra Bộ Tài chính, Thanh tra chuyên ngành, Cơ quan Kiểm toán Nhà nước... Việc phối hợp lập kế hoạch làm việc theo chức năng giữa các cơ quan nói trên đã được thực hiện ngay từ đầu năm theo hướng tránh trùng lắp, đảm bảo đã có một cơ quan Nhà nước thanh tra, kiểm tra hay đối chiếu với Người nộp thuế thì cơ quan khác sẽ không thực hiện nữa, các đơn vị cơ sự phối hợp chặt chẽ với nhau để đảm bảo tính hiệu quả.

Quy trình thanh tra thuế được Tổng cục thuế ban hành và áp dụng thống nhất áp luật trên toàn quốc, trong từng chuyên ngành kiểm tra làm cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế BVMT trở nên hiệu quả hơn, nâng cao năng lực của Cơ quan Thuế trong việc phát hiện và ngăn chặn những hành vi không tuân thủ pháp luật về thuế BVMT. Hơn thế nữa, các cơ quan Thuế từ Trung ương đến địa phương luôn chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực thanh tra thuế, phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đầu năm 2012, số cán bộ thanh tra, kiểm tra chỉ đạt 5.776 người chiếm 14,6% tổng số cán bộ thuế; thì đến cuối năm 2019 số cán bộ thanh tra, kiểm tra đã lên tới trên 10 ngàn người chiếm trên 23% tổng số cán bộ thuế. Các cán bộ thanh tra được đào tạo đúng chuyên môn, có trình độ, có đạo đức nghề nghiệp.

Tuy nhiên, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế BVMT ở nước ta vẫn còn nhiều khó khăn và bất cập. Ngân hàng thế giới (2016) đánh giá kết quả hoạt động thanh tra thuế ở Việt Nam là kém so với các nước khác trên thế giới. Thực tế cũng cho thấy những khó khăn và bất cập trong việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện thuế BVMT của các doanh nghiệp và các cá nhân phát sinh hoạt động chịu thuế. Việc giám sát thực thi thuế BVMT nhìn chung vẫn chưa hiệu quả dẫn tới tình trạng thất thu hàng nghìn tỷ đồng. Theo kết quả hoạt động thanh tra thuế năm 2019, tỉ lệ số cuộc thanh tra thuế chỉ bằng 15.3% tổng số đối tượng nộp thuế là doanh nghiệp. Đối với lĩnh vực thanh tra về thuế BVMT, chỉ nguyên đối tượng là túi nilon, tình trạng thu thuế nhỏ giọt so với sức sản xuất và tiêu thụ túi nylon ở Việt Nam đã cho thấy việc kiểm tra, giám sát đối với các doanh nghiệp sản xuất túi nilon, đối với các cá nhân, tổ chức sử dụng túi nilon của nhà nước vẫn còn khá lỏng lẻo, để thất thu một khoản thuế lớn cho ngân sách nhà

89

nước. Việc nhận diện hình dạng túi ni lông có thuộc đối tượng chịu thuế BVMT hay không còn gặp rất nhiều vướng mắc do các quy định Luật thuế BVMT và các văn bản hướng dẫn thực hiện luật chỉ quy định túi ni lông thuộc diện chịu thuế là loại túi, bao bì chung chung, chưa cụ thể rõ ràng.

Cơ quan QLNN hiện nay đang gặp khó khăn trong việc kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện việc kê khai, nộp thuế của các doanh nghiệp, công ty kinh doanh xăng dầu do những quy định của các văn bản pháp luật trong việc kê khai, nộp thuế BVMT đối với các Công ty kinh doanh xăng dầu. Trong đó pháp luật quy định, các công ty kinh doanh xăng dầy đầu mối thực hiện kê khai, nộp thuế BVMT khi xuất để tiêu dung nội bộ và xuất bán cho các đối tượng, trừ xuất bán cho các công ty kinh doanh xăng dầu đầu mối khác và các đơn vị trực thuộc hạch toán độc lập hoặc các đơn vị khác trong cùng hệ thống mà công ty kinh doanh xăng dầu đầu mối có số vốn chi phối trên 50%. Việc tăng cường công tác cải cách hành chính, cho phép các doanh nghiệp được tự kê khai, nộp thuế, điều này cũng mang đến những bất lợi đối với việc thu thuế, phí tài nguyên. Bởi việc kiểm tra từng phương án vận chuyển và kiểm tra từng hóa đơn mua bán của các doanh nghiệp không phải câu chuyện dễ, chưa kể các trường hợp mua bán không có hóa đơn.

Thực tế trong thời gian qua, công tác giám sát và đánh giá hoạt động thanh tra thuế BVMT vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Trách nhiệm của lãnh đạo các bộ phận thanh tra trong việc giám sát đoàn thanh tra tuân thủ theo các quy định của pháp luật, tuân thủ theo các nguyên tắc, giám sát chất lượng cuộc thanh tra vẫn chưa cụ thể rõ ràng và đáp ứng được yêu cầu quản lý. Còn thiếu nhiều tiêu chí để đánh giá hiệu quả của hoạt động thanh tra. Bên cạnh đó, rất ít các số liệu liên quan đến công tác thanh tra thuế BVMT được công khai trên các trang thông tin điện tử. Điều này làm cho việc đánh giá hoạt động thanh tra cũng như sử dụng kết quả thanh tra vào mục đích quản lý chưa được thực hiện tốt.

Kết quả khảo sát điều tra cho thấy, hiện nay, các cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế là các doanh nghiệp được thu thập và phân tích chưa thực sự chính xác, khách quan, trung thực. Điểm trung bình của tiêu chí này chỉ đạt 2,68/5 điểm. Từ trước giai đoạn 2010, cơ quan Thuế, Hải quan đã bắt đầu triển khai thu thập và xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác lập kế hoạch thanh tra và lựa chọn đối tượng nộp thuế thực hiện thanh tra theo phương án. Cục thuế và Cục Hải quan từ Trung ương đến các địa phương đều tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng các phần mềm để gán điểm rủi rỏ về thuế cho từng đối tượng nộp thuế và thực hiện lập công tác thanh tra hằng năm đối với những đối tượng nộp thuế có điểm rủi ro cao.

90

Tuy nhiên, về cơ bản, hệ thống cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến các doanh nghiệp nộp thuế chưa được thu thập và phân tích một cách khách quan và trung thực. Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở dữ liệu về thuế chưa đầy đủ thông tin, chưa đáp ứng được yêu cầu thanh tra thuế BVMT. Quy định về BVMT trong các văn bản quy phạm pháp luật còn chưa cụ thể, chi tiết, đặc biệt là trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Bên cạnh đó, sự trùng lặp, chồng chéo và mâu thuẫn trong xây dựng pháp luật khiến cho quá trình thanh tra, kiểm gặp nhiều khó khăn trong việc xác định đối tượng chịu thuế BVMT.

Cũng theo kết quả khảo sát điều tra, hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT chưa thực hiện tốt nguyên tắc không cản trở các hoạt động bình thường của doanh nghiệp nộp thuế. Điểm trung bình của tiêu chí này là 3,17/5 điểm cho thấy vẫn còn tình trạng thanh tra, kiểm tra bị chồng chéo, gây ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường của doanh nghiệp nộp thuế.

Ngoài ra, còn một số vấn đề phát sinh trong việc xử lý vi phạm luật thuế BVMT. Cụ thể, công tác thanh tra và kiểm tra thực hiện thuế BVMT có thể được thực hiện bởi các cơ quan có liên quan khác ngoài cơ quan thuế; Thanh tra Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước cũng thực hiện cũng thực hiện công việc thanh tra chuyên ngành, đối chiếu sự tuân thủ theo quy định về pháp luật về thuế BVMT. Mặc dù các chế tài xử phạt hành chính về thuế hiện tại là khá đầy đủ và bao quát nhưng áp dụng trong thực tế vẫn còn bộc lộ một số vấn đề. Bên cạnh đó, quy trình xử lý các hành vi vi phạm thuế BVMT còn có vụ việc không được xử lý một cách thỏa đáng, cũng như gây ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường của doanh nghiệp nộp thuế.

Mặt khác, phương pháp thanh tra thuế theo cơ chế quản lý rủi ro còn mới, cơ sở dữ liệu chưa đầy đủ nên vận hành chưa hiệu quả, tác động không nhỏ đến các hoạt động bình thường của doanh nghiệp nộp thuế. Sự chưa hiệu quả này biểu hiện ở chỗ các phương pháp thủ tục cần để tiến hành thanh tra thuế BVMT chưa thực sự khoa học và khách quan cũng như phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam. Nhìn chung, quy trình thanh tra thuế đang dần tiệm cận với quy trình thanh tra chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra hiện nay vẫn chưa phát huy được hết sức mạnh. Trong đó, quá trình thanh tra vẫn còn thiên nhiều về xử lý thủ công, các công việc thực hiện trên giấy tờ hành chính gây chậm trễ thời gian. Quy trình thanh tra còn bỏ qua một số bước như phỏng vấn, tham quan thực tế cơ sở SXKD của đối tượng nộp thuế.

Nhờ sự quan tâm, chỉ đạo sát sao từ phía cơ quan nhà nước, trong những năm trở lại đây số tiền nộp vào NSNN thu từ thuế BVMT tăng năm sau cao hơn năm trước. Bên cạnh đó số lượng các vụ vi phạm được xử lý trong “lách thuế” BVMT cũng tăng đáng

91

kể. Điều này chứng tỏ công tác thanh tra, kiểm tra có hiệu quả và đã phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm luật thuế BVMT. Điểm trung bình theo kết quả khảo sát điều tra về tiêu chí hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT đảm bảo phát hiện ngăn ngừa các trường hợp vi phạm luật thuế BVMT đạt 3,49/5 điểm.

UBND tại các cấp cũng phối hợp chỉ đạo đến các cơ quan thuế địa phương, cơ quan thuế trong thời gian vừa qua đã liên tục thực hiện rà soát công tác quản lý, lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế BVMT đối với các tổ chức, hộ kinh doanh sản xuất túi ni lông trên địa bàn; UBND giao cho Cục Thuế tại các địa phương tổ chức thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp kê khai sai thuế BVMT, không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin hoặc còn sai sót trong hồ sơ khai thuế BVMT.

Đặc biệt là tăng cường kiểm tra, kiểm soát đối với các tổ chức, hộ kinh doanh có hoạt động sản xuất túi ni lông khó phân hủy, túi ni lông tự phân hủy sinh học và túi ni lông thân thiện với môi trường trên địa bàn về chấp hành thực hiện thuế BVMT. Bên cạnh đó, cơ quan thuế còn phối hợp với các cơ quan liên quan hoàn thành công tác hoàn thuế, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các tổ chức, cá nhân phát sinh thuế BVMT để đảm bảo thu đúng, thu đủ các khoản thu vào ngân sách và xử lý dứt điểm các khoản còn nợ đọng.

Nhìn chung, những khó khăn và bất cập trong công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế BVMT do một số nguyên nhân. Về nguồn lực phục vụ cho công tác thanh tra thuế, xét tổng thể, tổ chức bộ máy thanh tra, kiểm tra thuế chưa phù hợp so với số lượng đối tượng nộp thuế bao gồm cả doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân. Mặc dù đã có những dấu hiệu tích cực trong việc tăng cường số lượng và chất lượng của cán bộ thanh tra nhưng con số này vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu thực tế. Bên cạnh đó, tổ chức nội bộ các bô phận thực hiện chức năng thanh tra thuế chưa được chuyên môn hóa cao và thiếu bộ phận kiểm soát chất lượng thanh tra. Theo đánh giá của đội ngũ tư vấn quốc tế, chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra thuế của Việt Nam nhìn chung chất lượng chưa cao, thiếu hụt nhiều kiến thức và kĩ năng.

3.3. Đánh giá chung về thực hiện quản lý nhà nước về Thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam

3.3.1. Đánh giá thành công theo các mục tiêu thuế bảo vệ môi trường

3.3.1.1. Đánh giá thực hiện mục tiêu thuế bảo vệ môi trường vì môi trường

Một cách khái quát, mục tiêu thuế BVMT vì môi trường đã được thực hiện tương đối tốt tại Việt Nam trong thời gian qua, thể hiện qua hai tiêu chí đánh giá là tính hợp lý – khả thi và tính phù hợp của thuế BVMT.

92

Việc thực thi thuế BVMT góp phần nâng cao ý thức BVMT của các chủ thể trong xã hội, giúp thay đổi hành vi của họ trong hoạt động sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường, hướng đến phát triển kinh tế bền vững. Không những vậy, thuế BVMT còn góp phần định hướng hành vi của các chủ thể trong hoạt động tiêu dùng, sản xuất và kinh doanh, giảm thiểu các hành vi gây ô nhiễm môi trường (như nhận thức việc sử dụng xăng, dầu, than đá thải ra khí các-bon, lưu huỳnh; sử dụng dung dịch HCFC gây hiệu ứng nhà kính, suy giảm tầng ozon, biến đổi khí hậu…); giúp họ ý thức được việc chi trả chi phí “gây ô nhiễm môi trường” (nhân tố ngoại ứng) vào giá bán hàng hóa, qua đó thúc đẩy các doanh nghiệp ý thức hơn trong việc nghiên cứu và triển khai các giải pháp nhằm hạn chế tác động bất lợi cho môi trường, tăng cường ứng dụng các công nghệ sạch và sử dụng nguyên liệu thay thế để sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường, góp phần sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên đang dần trở nên cạn kiệt.

Đồng thời, thuế BVMT góp phần giúp Việt Nam thực hiện cam kết với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực BVMT. Tới thời điểm này, Việt Nam đã tham gia tích cực vào nhiều công ước và hiệp ước đa phương về BVMT như: Công ước Ramsar (1989), Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (1992); Công ước Vienna về bảo vệ tầng ozon; Công ước Liên hợp quốc về Luật biển; Công ước về Đa dạng sinh học (1994)... Việc ban hành thuế BVMT là một động thái thể hiện nỗ lực của Việt Nam trong việc tuân thủ việc thực thi pháp luật quốc tế về môi trường. Biểu hiện rõ nét nhất là việc đưa các sản phẩm có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao như: xăng, dầu, mỡ nhờn, than, dung dịch HCFC… vào đối tượng chịu thuế BVMT, cho thấy nỗ lực nghiêm túc thực hiện cam kết của Việt Nam trong “Cơ chế phát triển sạch” (CDM) tại Nghị định thư Kyoto về kiểm soát khí thải nhà kính (có hiệu lực từ ngày 16/02/2005).

Mặt khác, việc áp dụng thu thuế vào các sản phẩm hàng hóa khi sử dụng tác động xấu đến môi trường còn góp phần thúc đẩy doanh nghiệp cải cách đổi mới công nghệ để tìm ra các nguồn năng lượng thay thế thân thiện với môi trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, qua đó đẩy nhanh quá trình tiếp cận cuộc CMCN 4.0. Bằng chứng rõ nét nhất là việc phát triển công nghệ năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió, nhiên liệu sinh học... đang được triển khai tích cực tại Việt Nam trong vài năm gần đây. Sự cải tiến về công nghệ kết hợp với việc nâng cao kiến thức về vật liệu theo hướng phù hợp với quy định của Luật thuế BVMT sẽ kích thích sự phát triển mạnh mẽ của ngành năng lượng tái tạo, được đánh giá là có tiềm năng phát triển dài hạn đến năm 2050, đặc biệt là lĩnh vực năng lượng gió, địa nhiệt và nhiên liệu sinh khối...

Bên cạnh những tác động tích cực, ở một khía cạnh nào đó, Luật thuế BVMT có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Các giải pháp BVMT (như khuyến

93

khích đầu tư vào các dự án làm sạch môi trường, khuyến khích đầu tư sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường, …) chỉ góp một phần nhỏ vào mục tiêu BVMT, chưa thể tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến hành vi tiêu dùng và hoạt động sản xuất các sản phẩm gây tác động tiêu cực đến môi trường. Đồng thời, các quy định khuyến khích tổ chức khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên vẫn chưa thúc đẩy các tổ chức trong việc giảm thiểu thiệt hại đối với môi trường do chỉ được đề cập rải rác ở các chính sách thuế, chưa thể hiện rõ ý nghĩa của việc BVMT. Vì vậy, hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã không quan tâm đến các tác hại tiêu cực đối với môi trường mà chỉ chạy theo mục tiêu lợi nhuận.

Có thể thấy, nhận thức của các đối tượng chịu thuế BVMT còn nhiều hạn chế. Mặc dù Luật thuế BVMT đã có hiệu lực từ 2012 nhưng đa số các đối tượng liên quan vẫn không thực sự hiểu hết tầm quan trọng và ý nghĩa của sắc thuế này đối với việc BVMT. Điều này đã dẫn đến hạn chế trong việc sử dụng những sản phẩm ít gây ô nhiễm để thay thế. Mặt khác, thuế BVMT là một loại thuế gián thu nhưng lại ít được quan tâm bởi người tiêu dùng. Tình trạng này xuất phát từ việc danh mục sản phẩm chịu thuế BVMT hiện nay mới chỉ gói gọn trong một số loại hàng hóa nên mức độ phổ rộng còn nhiều hạn hẹp. Bên cạnh đó, không thể không kể đến ý thức hiểu biết pháp luật của người dân nói chung và các đối tượng chịu thuế BVMT còn nhiều hạn chế, trong khi công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật của nước ta vẫn còn nhiều yếu kém.

Nhìn từ khía cạnh tư pháp, hoạt động giám sát thực thi chính sách thiếu hiệu quả và việc xử lý các hành vi vi phạm chưa triệt để dẫn đến vấn đề ô nhiễm môi trường chưa được kiểm soát chặt chẽ. Nguồn lực chuyên trách về BVMT ở Việt Nam, so với nhiều quốc gia trong khu vực, còn khiêm tốn. Những hạn chế khiến việc phòng tránh và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật BVMT tại Việt Nam còn yếu kém, thể hiện qua sự gia tăng số lượng các vụ việc vi phạm cũng như mức độ nghiêm trọng. Mặt khác, pháp luật vẫn chưa đảm bảo cơ chế phù hợp để huy động sự tham gia, đóng góp của mọi tổ chức, cá nhân tham gia BVMT; Nhà nước vẫn chưa có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với người có hành vi vi phạm gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Vì lẽ đó mà hiện nay việc BVMT dường như vẫn chỉ là việc của các cơ quan quản lý chứ chưa thực sự trở thành sự nghiệp của toàn dân.

Kết quả khảo sát điều tra cho thấy hoạt động QLNN về thuế BVMT thời gian qua đã cơ bản đảm bảo thu đúng, thu đủ về đối tượng và thời gian nộp thuế, nhưng mới chỉ ở mức trung bình khá với 3,64/5 điểm đánh giá. Tương tự, tính thu đủ và phù hợp về số lượng tiền thuế BVMT cũng chỉ đạt điểm đánh giá 3,65/5 điểm.

3.3.1.2. Đánh giá thực hiện mục tiêu thuế bảo vệ môi trường vì thu thuế

94

Đối với mục tiêu thuế BVMT vì thu thuế, thể hiện qua hai tiêu chí đánh giá là tính tuân thủ và tính hiệu quả. Thuế BVMT đã góp phần tăng thu ngân sách nhà nước (NSNN) để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó có nhiệm vụ chi cho BVMT

Thuế BVMT không phải là khoản thu mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp, không quy định sử dụng cho các nhiệm vụ chi cụ thể mà để thực hiện các nhiệm vụ chi chung theo quy định của Luật NSNN và được Quốc hội phê duyệt hàng năm. Với số thu thuế BVMT bình quân trong giai đoạn 2012-2019 đạt khoảng 32.600 tỷ đồng/năm; Tỷ lệ thu thuế BVMT bình quân hằng năm so với tổng thu NSNN đã tăng từ hơn 1% lên hơn 4% (năm 2019 là 4,07%), đã góp phần làm tăng thu NSNN để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội của đất nước, trong đó có nhiệm vụ chi cho BVMT (Tổng chi NSNN cho các nhiệm vụ BVMT bình quân năm cao hơn số thu thuế BVMT).

Số liệu thống kê từ Bộ Tài chính cho thấy nguồn thu cho ngân sách Nhà nước từ thuế BVMT được ổn định hơn (Bảng 2 và 3), góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, bao gồm cả các hoạt động BVMT. Các số liệu thống kê của Bộ Tài chính cho thấy, số thu từ thuế BVMT tăng liên tục và ổn định qua các năm từ khi Luật BVMT được ban hành năm 2012 đến nay, những khó khăn của nguồn thu thuế nội địa trong giai đoạn thu ngân sách được giải quyết đáng kể, phần nào bù đắp tình trạng giảm thu ngân sách nhà nước do cắt giảm mức thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế.

Luật thuế BVMT đã góp phần đảm bảo mục tiêu xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, thống nhất với các văn bản khác có liên quan, góp phần tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng; góp phần xây dựng hệ thống chính sách thuế, phí và lệ phí đồng bộ, thống nhất trong lĩnh vực BVMT; là giải pháp tài chính giúp hạn chế sản xuất, sử dụng sản phẩm, hàng hóa kém thân thiện với môi trường, từ đó góp phần BVMT và tác động tích cực đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước theo hướng phát triển bền vững gắn với BVMT. Chính bởi tầm quan trọng to lớn đối với BVMT, luật thuế BVMT tiếp tục là một trong những sắc thuế tiếp tục được Chính phủ xây dựng để hoàn thiện đến năm 2020 với mục tiêu thu thuế vào các hàng hóa khi sử dụng gây ô nhiễm môi trường.

Tuy nhiên, vẫn còn sự thiếu rõ ràng trong các quy định về BVMT trong các văn bản quy phạm pháp luật đã khiến cho đa số người dân chưa phân biệt được thuế và phí BVMT. Khi có những mặt hàng bị đánh nhiều loại thuế khác nhau, người dân sẽ bị rơi vào tình trạng hoang mang, rằng đã có phí BVMT, nhưng vẫn phải chi trả thuế BVMT, không khác nào hiện tượng thuế chồng thuế. Chính sự lúng túng này dẫn đến

95

tâm lý, những luồng dư luận không tốt khiến cho việc thực hiện thuế BVMT không đạt được mục đích như ban đầu đề ra.

Ngoài ra, việc giám sát, quản lý và thực hiện việc thu thuế đối với BVMT của Nhà nước vẫn còn lúng túng, hạn chế. Việc thiếu đầy đủ, thiếu đồng bộ và chồng chéo trong các quy định quản lý Nhà nước có liên quan tới chính sách tài chính nói chung trong công tác BVMT một phần xuất phát từ việc chậm ban hành các quy định liên quan đến phí, thuế BVMT, bên cạnh việc chồng chéo của quá nhiều các văn bản quy định dẫn đến khó khăn trong công tác thực hiện.

Cụ thể, kết quả khảo sát điều tra cho thấy hoạt động QLNN về thuế BVMT thời gian qua đã được tiến hành khá hợp lý theo quy định pháp luật và bối cảnh ngành chịu thuế BVMT, với mức điểm đánh giá đạt 3,78/ 5 điểm. Tiêu chí thứ hai phản ảnh hoạt động QLNN đối với thuế BVMT cũng đạt 3,85/ 5 điểm theo kết qua khảo sát điều tra, khẳng định thời gian qua hoạt động QLNN đã được triển khai thực thi phù hợp với với các mục tiêu định hướng, quy định của pháp luật về thuế BVMT tại Việt Nam.

Bảng 3.8: Kết quả khảo sát thực trạng hiệu quả QLNN đối với thuế BVMT

Mã Tiêu chí Điểm TB Độ lệch chuẩn

Y1 Công tác QLNNvề thuế BVMTthời gian qua đã thu 3,64 1,308 (Q43) đúng, thu đủ về đối tượng và thời gian nộp thuế.

Y2 Công tác QLNNvề thuế BVMT thời gian qua đã thu đủ 3,65 0,955 (Q44) và phù hợp về số lượng tiền thuế BVMT.

Công tác QLNNvề thuế BVMT thời gian qua được tiến hành hợp lý theo quy định pháp luật và bối cảnh ngành 3,78 1,207 Y3 (Q45) chịu thuế BVMT.

Y4 Công tác QLNN đối với thuế BVMT thời gian qua được triển khai thực thi phù hợp với với các mục tiêu định hướng, 3,85 1,235 (Q46) quy định của pháp luật về thuế BVMT tại Việt Nam.

Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát

3.3.2. Đánh giá hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế

3.3.2.1. Những hạn chế

Ở Việt Nam, hiện nay, khái niệm thuế môi trường được hiểu là loại thuế gián thu (người nộp thuế và người chịu thuế không phải là một), thu vào sản phẩm, hàng hoá khi sử dụng gây tác động tiêu cực đến môi trường. Mặc dù Việt Nam đã ban hành

96

một hệ thống chính sách BVMT khá hoàn chỉnh, song vấn đề đối phó với ô nhiễm môi trường bằng những quy định pháp luật vẫn khá mới mẻ nên còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, gây khó khăn cho việc thực thi pháp luật cho các chủ thể nộp thuế cũng như các cơ quan quản lý thuế:

Thứ nhất, về xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật quản lý nhà nước đối với thuế BVMT, hiện nay, luật thuế BVMT chưa thực sự minh bạch, công bằng, rõ ràng và được áp dụng một cách thống nhất trong các trường hợp đã được quy định. Các quy định về BVMT trong các văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn chưa cụ thể, đặc biệt là rất mờ nhạt trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác, gây khó khăn cho việc thực thi, chưa kể đến sự trùng lặp, chồng chéo và những mâu thuẫn trong xây dựng pháp luật khiến cho quá trình áp dụng càng thêm nhiều khó khăn. Luật BVMT quy định đánh thuế BVMT cho 8 loại hàng hóa hiện nay vẫn chưa bao quát hết các loại sản phẩm, hàng hóa có nguy cơ gây tác động tiêu cực đến môi trường. Hiện nay, có nhiều sản phẩm, hàng hóa mà việc sử dụng chúng có tác động tiêu cực đến môi trường nhưng chưa được bổ sung vào diện điều chỉnh của Luật Thuế BVMT, ví như: khí thải công nghiệp, thuốc lá, chất thải phóng xạ…

Bên cạnh đó, theo kết quả khảo sát điều tra, luật thuế BVMT chưa thực sự được áp dụng như nhau đối với tất cả đối tượng nộp thuế ở trong những hoàn cảnh giống nhau. Nhìn chung, hiện nay, cách tính thuế chưa hợp lý; mức thuế chưa hợp lý giữa các đối tượng; chưa làm rõ sự khác nhau cơ bản giữa thuế BVMT và phí môi trường; mục đích nguồn thu thuế chưa rõ ràng… Một số mặt hàng hiện nay đang phải đối mặt sự chồng chéo giữa thuế và phí BVMT như xăng, dầu, than đá, nhựa... Luật thuế BVMT hiện hành xác định tính thuế theo mức thuế tuyệt đối, tạo sự đơn giản và minh bạch trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, chênh lệch giữa mức thuế tối thiểu và mức thuế tối đa đối với một loại hàng hóa là tương đối lớn và không có quy định về cách xác định các mức, dẫn tới sự không thống nhất trong quá trình triển khai áp dụng đối với các doanh nghiệp cùng sản xuất một mặt hàng nhưng tại các địa phương khác nhau. Việc không rõ ràng này dễ gây nảy sinh tiêu cực trong việc thu và nộp thuế.

Ngoài ra, hệ thống thuế BVMT chưa được tổ chức phù hợp, đôi khi vượt quá mức cho phép, trong bối cảnh kinh tế xã hội đất nước và các đối tượng nộp thuế. Cụ thể, hệ thống thuế BVMT chưa thực sự đồng bộ dẫn đến mục đích quan trọng nhất là BVMT còn kém hiệu quả. Ví dụ, Nhà nước tăng thuế xăng dầu nhằm mục đích khuyến khích các doanh nghiệp cải tiến công nghệ để tiết kiệm nhiên liệu, cải thiện môi trường. Tuy nhiên, thực tế hiện nay là việc tăng thuế xăng chủ yếu sẽ ảnh hưởng đến người tiêu dùng do doanh nghiệp sẽ tính toán chi phí tăng thêm vào giá thành sản phẩm, hay việc xây dựng mới các tuyến đường theo hình thức đối tác công - tư về nguyên tắc là tăng

97

vận tốc xe lưu thông, giảm ùn tắc, giảm nhiên liệu tiêu thụ, nhằm giúp môi trường được cải thiện hơn, song nếu việc thu phí quá cao sẽ dẫn đến không có nhiều xe lưu thông trên đường, việc đầu tư sẽ lãng phí và không hiệu quả về mọi mặt.

Thứ hai, về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với thuế BVMT, hiện nay, bộ máy QLNN đối với thuế BVMT chưa thực sự được tổ chức căn cứ vào mục tiêu, năng lực của cán bộ chuyên trách và khả năng ứng dụng công nghệ vào quản lý để bộ máy được tinh gọn, hiệu quả. Đặc biệt, tổ chức bộ máy thuế từ cấp trung ương đến địa phương chưa có hỗ trợ hiệu quả giúp lực lượng điều tra hình sự phát hiện và xử lý các vi phạm về thuế và thu thuế, đồng thời chưa đảm bảo được tính liên tục trong việc theo dõi sự tuân thủ pháp luật và xử lý vi phạm hành chính theo Luật. Điều này làm giảm tính công bằng về môi trường hoạt động dành cho các chủ thể tham gia kinh doanh.

Thêm vào đó, việc thực thi chức năng cưỡng chế thuế vẫn chưa mang lại hiệu quả cao do vẫn còn được lồng ghép vào hoạt động thanh tra. Một số chức năng quản lý thuế, trong đó có thu thuế và xử lý các vấn đề liên quan đến nội dung, chính sách, chế độ,... chưa được phân định rõ ràng khiến xảy ra tình trạng nhiệm vụ bị chồng chéo tại một số bộ phận quản lý thuế và bộ phận nghiệp vụ.

Thứ ba, về tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT, hình thức tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật BVMT đến doanh nghiệp vẫn chưa thực sự phong phú và đa dạng, chưa có sự đánh giá ưu nhược điểm của các hình thức tuyên truyền tại từng địa phương để rút kinh nghiệm trong việc lựa chọn những hình thức phù hợp với trình độ nhận thức của doanh nghiệp tại các địa phương khác nhau. Bên cạnh đó, công tác thanh kiểm tra thu thuế vẫn chưa kiểm tra được toàn bộ các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có hoạt động sản xuất hoặc nhập khẩu các sản phẩm thuộc nhóm đối tượng chịu thuế BVMT gây tình trạng thất thoát cho ngân sách nhà nước.

Bên cạnh đó, hoạt động tổ chức thực thi pháp luật BVMT hiện nay chưa được triển khai quyết liệt và hiệu quả tại Việt Nam. Đáng chú ý, việc ứng dụng tiến bộ về khoa học, công nghệ trong công tác quản lý thuế chưa được chú trọng, chưa được triển khai một cách đồng bộ nên hiệu quả chưa cao. Đặc biệt, các bất cập, vướng mắc giữa hệ thống quy trình nhiều cấp trong ứng dụng tin học chưa được khắc phục triệt để.

Thứ tư, về hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế BVMT, các cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến doanh nghiệp nộp thuế chưa được thu thập và phân tích một cách thực sự chính xác, khách quan và trung thực. Hệ thống cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến các doanh nghiệp nộp thuế tại Việt Nam chưa được thu thập và phân tích một cách khách quan và trung thực. Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở dữ liệu về thuế chưa có đầy đủ thông tin để đáp ứng được yêu cầu

98

thanh tra thuế BVMT. Đồng thời, hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT chưa thực hiện tốt nguyên tắc không cản trở các hoạt động bình thường của doanh nghiệp nộp thuế. Nhìn nhận một cách khách quan, hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp nộp thuế BVMT bị chồng chéo, gây ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường của doanh nghiệp nộp thuế.

Đặc biệt, việc kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp sản xuất túi nilon, các cá nhân, tổ chức sử dụng túi nilon của nhà nước vẫn còn lỏng lẻo, gây thất thu một khoản thuế lớn cho ngân sách nhà nước. Thêm vào đó, các cơ quan QLNN hiện nay đang gặp khó khăn trong việc kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện việc kê khai, nộp thuế BVMT của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Ngoài ra, vẫn còn tồn tại một số vấn đề phát sinh trong việc xử lý vi phạm luật thuế BVMT. Mặc dù các chế tài xử phạt hành chính về thuế khá đầy đủ nhưng khi áp dụng vào thực tế vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề. Hiện nay, phương pháp thanh tra thuế theo cơ chế quản lý rủi ro còn mới nên hiệu quả vận hành chưa cao.

Ngoài ra, hoạt động giám sát thực thi chính sách thiếu hiệu quả và việc xử lý các hành vi vi phạm chưa triệt để dẫn đến vấn đề ô nhiễm môi trường chưa được kiểm soát chặt chẽ. Nguồn lực chuyên trách về BVMT ở Việt Nam, so với nhiều quốc gia trong khu vực, còn khiêm tốn. Những hạn chế khiến việc phòng tránh và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật BVMT tại Việt Nam còn yếu kém, thể hiện qua sự gia tăng số lượng các vụ việc vi phạm cũng như mức độ nghiêm trọng của chúng. Thêm vào đó, nhiều vụ việc vi phạm không được xử lý một cách thỏa đáng do quy trình xử lý các hành vi vi phạm còn nhiều hạn chế. Báo cáo Chỉ số Công lý (được thực hiện bởi UNDP năm 2012) chỉ ra rằng chỉ có khoảng 12% số người có khiếu nại hoặc khiếu kiện tới chính quyền để đề nghị khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm hoặc bồi thường thiệt hại (Chương trình phát triển liên hiệp quốc, 2013). Đáng chú ý, trong đó, các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ giải quyết 30% số khiếu nại này, 48% khiếu nại chưa giải quyết xong và 22% khiếu nại không được giải quyết cũng như không nhận được bất kỳ phản hồi nào. Mặt khác, pháp luật vẫn chưa đảm bảo cơ chế phù hợp để huy động sự tham gia, đóng góp của mọi tổ chức, cá nhân tham gia BVMT; Nhà nước vẫn chưa có biện pháp xử lý thích hợp đối với người có hành vi vi phạm gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Vì lẽ đó mà hiện nay việc BVMT dường như vẫn chỉ là việc của các cơ quan quản lý chứ chưa thực sự trở thành sự nghiệp của toàn dân.

3.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế

Những hạn chế nảy sinh trong quá trình áp dụng và thực hiện Luật thuế đối với

BVMT xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do các nguyên nhân chính sau:

99

Thứ nhất, đối với các hạn chế về xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật quản lý nhà nước đối với thuế BVMT, nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống cơ quan xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật quản lý nhà nước đối với thuế BVMT còn hạn chế về nguồn lực, cơ cấu, chức năng. Ngoài ra, việc áp dụng một số thông lệ quốc tế trong xây dựng chính sách quản lý nhà nước đối với thuế BVMT tại Việt Nam đôi khi không thực sự phù hợp. Cụ thể, việc pháp luật quy định tính thuế BVMT theo mức thuế tuyệt đối gây ra một số khó khăn trong thực thi pháp luật với điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay do tình trạng trượt giá khó kiểm soát đòi hỏi khung tính thuế và mức thuế tuyệt đối phải thay đổi liên tục. Luật cũng đưa ra mức tiền thuế tối thiểu - tối đa đối với một sản phẩm chịu thuế, điều này mặc dù phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng lại chưa tạo sự tương xứng giữa mức thu cụ thể đối với một số loại hàng hóa so với mức độ ô nhiễm môi trường mà chúng gây ra (đặc biệt là túi nilon).

Thứ hai, đối với các hạn chế về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với thuế BVMT, nguyên nhân của các hạn chế này chủ yếu là do hệ thống pháp luật về tố tụng ở Việt Nam chưa cho phép các cơ quan quản lý thuế thực hiện điều tra hình sự, khởi tố ban đầu với một số trường hợp vi phạm về hóa đơn hay trốn thuế. Bộ máy QLNN về thu thuế chưa thể thực hiện được chức năng cưỡng chế thuế trong quản lý thuế do chưa có đủ cơ sở pháp lý và điều kiện để triển khai. Hiện nay, việc thực thi chức năng cưỡng chế thuế có hiệu quả chưa cao do vẫn còn được lồng ghép vào hoạt động thanh tra do cơ quan thuế chưa thực hiện được chức năng quản lý thuế một cách độc lập. Bên cạnh đó, nền kinh tế mở và hội nhập toàn cầu, số lượng các doanh nghiệp ngày càng tăng, trình độ SXKD cũng ngày được cải tiến, các hình thức hợp tác kinh doanh giữa các thành phần kinh tế ngày một phát triển cũng là một trong những nhân tố gây ra các hạn chế về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với thuế BVMT bởi điều này khiến bộ máy QLNN về thu thuế khó xác định được đối tượng nộp thuế.

Thứ ba, đối với các hạn chế về tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT, nguyên nhân một phần là do việc không đồng bộ trong thời gian ban hành các Luật, Thông tư chính sách đã dẫn đến hiện tượng chồng chéo trong thực thi thu thuế dẫn tới giảm hiệu quả của hoạt động quản lý thu thuế. Chẳng hạn như Luật Thuế BVMT có hiệu lực ngày 01/01/2012 nhưng đến tháng 3/2013 mới ban hành Thông tư số 30/2013/TT-BTC ngày 18/3/2013 hướng dẫn hoàn lại tiền thuế BVMT đối với túi ni lông làm bao bì đóng gói sẵn hàng hóa theo nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính Phủ. Trong quá trình thực hiện có rất nhiều văn bản hướng dẫn Luật nhưng đến ngày 17/6/2019 mới ban hành Thông tư số 32/VBHN-BTC ngày hợp nhất văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế BVMT.

100

Một nguyên nhân khác dẫn đến các hạn chế trong tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT là nguồn lực trong công tác tổ chức thực thi, đặc biệt là giám sát thực thi thực hiện BVMT ở Việt Nam vẫn còn hạn chế về số lượng và chất lượng. Các cơ chế huy động nguồn lực ngoài nhà nước và đảm bảo sự tham gia của cộng đồng vào BVMT chưa được xây dựng hiệu quả. Đặc biệt, một nguyên nhân quan trọng khác là cơ sở vật chất và hạ tầng của ngành thuế chưa đáp ứng được yêu cầu công tác QLNN đối với thuế BVMT. Hạ tầng công nghệ thông tin và môi trường làm việc vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc sử dụng tin học trong các quy trình hoạt động thu thuế cũng như quản lý thuế chưa được triển khai đồng bộ.

Hơn nữa, sự thiếu rõ ràng trong các quy định về BVMT trong các văn bản quy phạm pháp luật đã khiến cho đa số người dân chưa phân biệt được thuế và phí BVMT. Khi có những mặt hàng bị đánh nhiều loại thuế khác nhau, người dân sẽ bị rơi vào tình trạng hoang mang, rằng đã có phí BVMT, nhưng vẫn phải chi trả thuế BVMT, không khác nào hiện tượng thuế chồng thuế. Chính sự lúng túng này dẫn đến tâm lý, những luồng dư luận không tốt khiến cho việc thực hiện thuế BVMT không đạt được mục đích như ban đầu đề ra.

Thứ tư, đối với các hạn chế về hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế BVMT, việc kiểm tra, giám sát đối với các doanh nghiệp sản xuất túi nilon, các cá nhân, tổ chức sử dụng túi nilon vẫn còn hạn chế chủ yếu là do việc nhận diện hình dạng túi ni lông có thuộc đối tượng chịu thuế BVMT hay không còn nhiều vướng mắc do các quy định và các văn bản hướng dẫn thực hiện luật quy định chưa rõ ràng về túi ni lông thuộc diện chịu thuế. Sự trùng lặp, chồng chéo và mâu thuẫn trong xây dựng pháp luật khiến cho quá trình thanh tra, kiểm tra gặp nhiều khó khăn trong việc xác định đối tượng chịu thuế BVMT.

Bên cạnh đó, những hạn chế về thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật BVMT còn do công tác giám sát và đánh giá hoạt động thanh tra thuế BVMT vẫn chưa được quan tâm đúng mức tại Việt Nam. Các tiêu chí để đánh giá hiệu quả của hoạt động thanh tra còn chưa đầy đủ và hoàn thiện. Các số liệu liên quan đến công tác thanh tra thuế BVMT ít được công khai trên các trang thông tin điện tử. Hệ thống cơ sở vật chất, đặc biệt là hệ thống cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến các doanh nghiệp nộp thuế chưa được hoàn thiện một cách đầy đủ. Quá trình thanh tra vẫn chủ yếu được xử lý thủ công, được thực hiện trên giấy tờ hành chính gây chậm trễ thời gian. Nguồn lực phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế chưa phù hợp so với số lượng đối tượng nộp thuế. Đặc biệt, nhận thức của doanh nghiệp về thuế BVMT và các nghĩa vụ về thuế BVMT vẫn còn hạn chế, gây khó khăn lớn cho công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật

101

thuế BVMT. Điều này cũng được thể hiện trong kết quả khảo sát điều tra về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về thuế BVMT ở Việt Nam.

Nhìn chung, việc giám sát, quản lý và thực hiện việc thu thuế đối với BVMT của Nhà nước còn nhiều lúng túng, hạn chế. Việc thiếu đầy đủ, thiếu đồng bộ và chồng chéo trong các quy định quản lý Nhà nước có liên quan tới chính sách tài chính nói chung trong công tác BVMT một phần xuất phát từ việc chậm ban hành các quy định liên quan đến phí, thuế BVMT, bên cạnh việc chồng chéo của quá nhiều các văn bản quy định dẫn đến khó khăn trong công tác thực hiện. Một vấn đề muôn thủa mà ngành thuế cũng không ngoại lệ là sự thiếu hụt nguồn nhân lực chuyên nghiệp, chất lượng cao. Việc rà soát, nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách… đòi hỏi đội ngũ giám định phải là những người có trình độ chuyên môn cao, trong khi đó, hiện nay ngành thuế đang thiếu đội ngũ chuyên nghiệp.

102

CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

4.1. Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường trong các công trình đã công bố

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận các công trình nghiên cứu đã công bố, tác giả

tổng hợp ba nhóm nhân tố sau đây:

4.1.1. Nhóm nhân tố vĩ mô và liên quan đến Cơ quan quản lý nhà nước

• Nhân tố chính trị - kinh tế - xã hội

Ở các nước phát triển, vấn đề môi trường được các đảng phái, tổ chức sử dụng triệt để thu hút sự ủng hộ chính trị từ quần chúng và các tổ chức xã hội. Nhiều đảng phái chính trị mang màu sắc môi trường đã xuất hiện. Đảng Xanh (Green Party) ở các

nước Châu Âu là tổ chức chính trị của những người BVMT (Hogg và cộng sự, 2016).

Hiệu quả của công tác quản lý thuế BVMTcũng phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế - xã hội. Một nền kinh tế bền vững cần được xây dựng dựa trên việc phát triển và sự cần thiết phải chăm sóc môi trường, hai nhân tố kinh tế và môi trường

không thể tách rời nhau. Sự liên kết giữa kinh tế và môi trường được đề cập lần đầu tiên trong Báo cáo Brundtland. Cụ thể, báo cáo cho rằng: “Môi trường sinh thái và nền kinh tế ngày càng trở nên hòa quyện lẫn nhau xét cả ở cấp độ vùng, khu vực, quốc gia lẫn quốc tế”(UN, 1987).

Trình độ dân trí là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến ý thức chấp hành pháp luật nói chung và thuế BVMT nói riêng.Để bảo vệ và tôn trọng quyền lợi của con người, cũng như bảo vệ sự phát triển của môi trường, nhiều công ước, hiệp định quốc tế đã đặt

vị trí và tầm quan trọng của con người lên hàng đầu, nhằm nhấn mạnh con người nếu muốn phát triển trong một môi trường lành mạnh thì cần phải ý thức hơn trong tất cả mọi hoạt động liên quan đến môi trường. Mặc dù việc định hướng và kiểm soát hoạt

động của con người được thực hiện chủ yếu thông qua các công cụ pháp luật và chính sách, song vai trò của dư luận xã hội, của giáo dục cộng đồng cũng cần phải được coi trọng. Đáng tiếc là những công cụ định hướng và kiểm tra mang tính xã hội rộng rãi chưa được sử dụng triệt để trong lĩnh vực BVMT ở nước ta. Hầu hết những đối tượng

chịu thuế như: xăng, nhiên liệu bay, thuốc diệt cỏ, diệt mối, thuốc bảo quản lâm sản

103

thuộc loại hạn chế sử dụng nếu không được sử dụng, bảo quản và xử lý hiệu quả sẽ gây

ô nhiễm không khí, nguồn nước, ảnh hưởng đến tính mạng và sức khỏe con người.

• Chính sách của Nhà nước và tính nghiêm minh của luật pháp

Thuế BVMT là sắc thuế trực tiếp tác động đến mọi hàng hóa tiêu dùng của người dân cũng như trong mọi điều kiện nên mang nhiều yếu tố nhạy cảm và phức tạp. Hoạt động quản lý thuế chịu sự tác động của môi trường pháp lý trong nước, bao gồm thể chế kinh tế, các chính sách và sự thống nhất trong thừa hành pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước (Hogg và cộng sự, 2016). Chính vì vậy, cần phải có các biện pháp triển khai khả thi, cụ thể; đồng thời, các chính sách và biện pháp cần được thực hiện một cách thận trọng,có sự đánh giá tác động, để tránh sai sót gây ra những hiệu ứng bất lợi từ xã hội. Ngoài ra, các giải pháp xử lý những vướng mắc trong chính sách thuế cần được đề xuất phù hợp. Bên cạnh đó, cần đơn giản hóa quy trình quyết toán và hoàn thuế về thủ tục nhưng không gây thất thu. Đặc biệt, phương thức giải quyết cần nhanh gọn và đảm bảo thuận tiện cho các đối tượng nộp thuế. Ngoài ra, các biện pháp triển khai chính sách khả thi và hiệu quả sẽ tạo tác động mạnh mẽ đến QLNN, góp phần tháo gỡ và hoàn thiện QLNN về thuế.

Trong đời sống pháp luật, các hành vi vi phạm sẽ giảm bớt khi cơ quan thừa hành thực hiện nghiêm minh các văn bản pháp luật quy định. Cơ quan thuế và các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nộp thuế sẽ thực hiện các quy định nghiêm túc hơn nếu họ nhận thức được rằng các vi phạm liên quan sẽ bị phát hiện và trừng phạt nghiêm khắc. Bên cạnh đó, hiệu quả của công tác QLNN đối với thuế BVMT nói chung và công tác quản lý thuế nói riêng sẽ được nâng cao nhờ hoạt động thanh tra, kiểm tra (Đặng Thị Bạch Vân, 2014).

• Hiệu lực của bộ máy quản lý thuế BVMT

Hiệu lực của bộ máy quản lý thuế là nhân tố có ảnh hưởng lớn tới QLNN đối với thuế BVMT. Các thể chế quản lý kinh tế - xã hội được xây dựng và thực hiện đồng bộ sẽ góp phần phát huy tối đa hiệu lực bộ máy quản lý thuế, từ đó đảm bảo hiệu quả vận hành chính sách thuế BVMT. Bên cạnh đó, hiệu lực của công tác quản lý thuế cũng ảnh hưởng khi các cơ quan QLNN thực hiện trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân phối kết hợp theo qui định trong Luật Quản lý thuế (Phạm Thị Mỹ Linh, 2019). Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý thuế thống nhất góp phần quan trọng vào việc bảo đảm thành công cho hoạt động đổi mới và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực thuế. Bên cạnh đó, tính thống nhất của bộ máy quản lý thuế là điều kiện cơ bản để thống nhất chế độ thuế do Nhà nước quản lý. Để hoàn thiện QLNN đối với thuế BVMT, đòi hỏi cấp thiết việc

104

cần có kế hoạch chủ động phối hợp với các địa phương và cơ quan hữu quan theo từng phương án cụ thể từ cơ quan thuế.

• Trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ thuế BVMT

Trình độ và đạo đức của công chức thuế là nhân tố có vai trò quan trọng trong công tác QLNN đối với thuế BVMT. Đội ngũ công chức thuế đảm nhận đủ các nhiệm vụ liên quan đến thuế BVMT như ban hành chính sách, tổ chức triển khai chính sách, tổ chức bộ máy quản lý thuế, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm liên quan đến thuế BVMT. Chính vì vậy, công chức thuế, đặc biệt là các nhà lãnh đạo cấp cao cần nắm vững kiến thức chuyên môn và những kỹ năng cần thiết để từ đó có thể tham mưu vào việc ban hành chính sách thuế không những đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện kinh tế xã hội thay đổi mà còn đảm bảo được những mục tiêu của công tác quản lý thuế BVMT.

• Cơ sở vật chất của ngành thuế

Việc đảm bảo cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của ngành thuế cho phép các cơ quan thuế đảm bảo thực hiện tốt các quy định về chính sách liên quan đến phương thức kê khai, nộp thuế, thu thuế, quyết toán thuế,… Cơ sở vật chất của ngành thuế liên quan đến sự phát triển của hệ thống ngân hàng của một quốc gia. Cụ thể, sự phát triển của hệ thống ngân hàng và hệ thống thông tin tích hợp góp phần nâng cao tính hiệu quả và kịp thời của hoạt động quản lý thuế. Tuy nhiên, xây dựng và phát triển hệ thống thông tin tích hợp đòi hỏi chi phí đầu tư lớn và chỉ có hiệu quả trong dài hạn. Nhìn chung, việc phát triển cơ sở vật chất của ngành thuế yêu cầu chi phí ban đầu khá lớn. Tuy nhiên, nếu ngành thuế đảm bảo được sự phát triển này sẽ cho phép nâng cao hiệu quả và tiết kiệm chi phí của việc quản lý thuế so với phương pháp thủ công.

4.1.2. Nhóm nhân tố liên quan đến đối tượng nộp thuế, tính chất hoạt động, đặc điểm của doanh nghiệp

• Tình hình và đặc điểm hoạt động SXKD của đối tượng nộp thuế

Nhóm này bao gồm một số nhân tố như đặc điểm về ngành nghề, quy mô, loại hình, lĩnh vực hoạt động, kinh nghiệm hoạt động, thương hiệu; nhận thức về vai trò của thuế BVMT, hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Về đặc thù ngành nghề và loại hình doanh nghiệp, gắn liền với đặc thù hoạt động SXKD của doanh nghiệp, cũng như liên quan đến biểu giá thuế BVMT ở mỗi ngành quy định theo các nhóm khác nhau, các mức độ thanh kiểm tra và cả QLNN cũng có thể khác nhau, do đó có tác động trực tiếp đến hiệu quả QLNN về thuế BVMT. Doanh nghiệp có tuổi hoạt động càng cao, đồng nghĩa chuyên sâu và hiểu rõ lĩnh vực của mình bào gồm cả nghĩa vụ thuế BVMT, mặt khác đã có uy tín và thương

105

hiệu nên khả năng hoàn thành nghĩa vụ về thuế BVMT sẽ càng cao. Và nếu nhận thức về vai trò của doanh nghiệp về thuế BVMT càng cao thì sẽ càng thuận tiện cho việc thu thuế BVMT; nói cách khác thuận tiện cho việc QLNN.

Vấn đề hiệu quả kinh doanh, đặc biệt là tài chính, của doanh nghiệp có vai trò quyết định đến hành vi thực hiện thuế BVMT của doanh nghiệp. Nếu tài chính càng khả quan, việc hoàn thành nghĩa vụ này càng có ý nghĩa không chỉ về mặt QLNN mà còn cả với doanh nghiệp khi tuân thủ pháp luật và nâng cao vị thế thương hiệu của mình. Ngược lại, nếu tình hình tài chính khó khăn, doanh nghiệp sẽ cắt giảm tối đa mọi chi phí, có thể bao gồm cả trốn thuế, chậm nộp thuế để ưu tiên tồn tại, và khi đó tác động tiêu cực đến hiệu quả QLNN về thuế BVMT (Đặng Thị Bạch Vân, 2014).

• Phương thức và thủ tục thanh toán

Phương thức và thủ tục thanh toán ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động nộp thuế của đối tượng nộp thuế BVMT, cũng như hoạt động quản lý thuế và kiểm tra, thanh tra thu thuế. Nếu như các khoản được thanh toán qua hệ thống ngân hàng sẽ tạo điều kiện thuận tiện trong việc quản lý của cơ quan thuế. Chính vì vậy,một điều kiện tất yếu để có thể thực hiện tốt công tác quản lý thuế đối với cá nhân, doanh nghiệp khi mà chỉ khi hình thức thanh toán qua tài khoản cùng với hệ thống ngân hàng được phát triển. Phương thức thu thuế BVMT thông qua hệ thống ngân hàng mang lại hiệu quả, giảm thiểu chi phí tuân thủ cho cả cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế BVMT.

• Trình độ dân trí và nhận thức của đối tượng nộp thuế

Đối tượng nộp thuế càng có ý thức tuân thủ khi dân trí càng cao, hiểu biết về nghĩa vụ với nhà nước, trách nhiệm với cộng đồng càng sâu sắc. Bên cạnh đó, thu nhập cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp cũng giúp các cá nhân dễ dàng chấp nhận các loại thuế BVMT trên hàng hóa tiêu dùng. Với nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải chi trả”, thuế BVMT buộc trách nhiệm cho chi phí do hoạt động gây ô nhiễm từ các chủ thể gây ô nhiễm và các liên đới phải được thực hiện bằng cách đưachi phí ngoại ứng vào giá. Nếu nền kinh tế không ổn định, doanh thu của một doanh nghiệp không đủ để trang trải trả chi phí liên quan đến BVMT cũng như không có ý thức đầy đủ về nghĩa vụ nộp thuế, dễ có khả năng doanh nghiệp “trốn thuế” hoặc sản xuất các sản phẩm gây ảnh hưởng đến môi trường (Đặng Thị Bạch Vân, 2014).

4.1.3. Nhóm nhân tố quốc tế liên quan đến bảo vệ môi trường

• Thương mại quốc tế

Ngày nay, thương mại và môi trường là hai lĩnh vực chính sách, phụ thuộc mạnh mẽ lẫn nhau và có tầm quan trọng lớn nhất đối với phúc lợi trong thế giới toàn

106

cầu hóa. Tuy nhiên, thương mại tự do là một “vấn đề cũ”, được kích thích và phụ

thuộc vào các lực lượng thị trường tự do, trong khi môi trường vẫn được coi là một vấn đề tương đối mới mẻ, dựa trên các can thiệp pháp lý với hệ thống thị trường.Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, thương mại tự do sẽ gây hại cho môi trường vì nó nhằm mục đích hiệu quả và tăng trưởng kinh tế trong khi tăng trưởng dẫn đến suy thoái môi trường. Trong bối cảnh hiện nay, thương mại đã được thiết lập tốt giữa các nước công nghiệp và các nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng trong các công nghệ môi trường hoặc trong các mặt hàng thân thiện với môi trường thách thức của một

chính sách môi trường quốc tế để giải quyết thành công các vấn đề môi trường địa phương hoặc xuyên biên giới (Nguyễn Thị Thùy Dương, 2011). Hay như Liên minh Châu Âu (EU) đã giới thiệu các chương trình Công cụ hỗ trợ trước khi gia nhập (IPA -

Pre-Accession Assistance) để hỗ trợ các quốc gia trong quá trình gia nhập EU. Một trong những mục tiêu của chương trình này là "Nâng cao hiệu quả và sự gắn kết của viện trợ bằng một khuôn khổ duy nhất nhằm tăng cường năng lực thể chế, hợp tác xuyên biên giới, phát triển kinh tế và xã hội và phát triển nông thôn". Ngoài ra, nhiều nước công nghiệp đã thành lập các tổ chức để cung cấp trợ giúp cho các vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển của các quốc gia chuyển đổi với mục đích giúp các quốc gia chuyển đổi làm sạch môi trường và ngăn chặn suy thoái môi trường trong tương lai.

• Xu thế BVMT trên thế giới

Những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu ngày càng dễ dàng cảm nhận. Thống kê về tính dễ bị tổn thương đối với biến đổi khí hậu của các quốc gia thành viên của Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương Liên Hiệp Quốc (UNESCAP hay ESCAP - Economic and Social Commission for Asia and the Pacific) tái khẳng định tính cấp thiết của việc ngăn chặn biến đổi khí hậu nguy hiểm và không thể đảo ngược đối với khu vực. Năm 2015, 84% trong số 19,2 triệu dân di cư do thiên tai xảy ra ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương (UNESCAP, 2016). Do đó, các chính phủ trong khu vực ngày càng nhận thức rõ và cam kết giải quyết các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu và giảm phát thải carbon một cách hiệu quả. Các quốc gia trong khu vực tuyên bố các chiến lược giảm phát thải trong các Báo cáo đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết khẳng định đệ trình lên Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC - United Nations Framework Convention on Climate Change). Đáng chú ý, theo báo cáo của UNESCAP (2016), 21 quốc gia có ý định sử dụng các công cụ dựa trên thị trường để định giá carbon cũng như đo lường, báo cáo, xác minh để giảm lượng khí thải. Các lĩnh vực chính mà các quốc gia tập trung vào là năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất, cũng như giao thông và chất thải, tất cả đều có thể được áp dụng thuế BVMT (UNESCAP, 2016). Ý thức cấp bách về vấn đề biến đổi khí

107

hậu không còn nghi ngờ gì nữa đã góp phần đẩy nhanh ký kết và hiệu lực của Thỏa thuận Paris 2015 vào tháng 11/2016. Trong thỏa thuận, các quốc gia thành viên UNFCCC đã đồng ý về con đường chuyển đổi toàn cầu với mục đích giữ cho nhiệt độ toàn cầu tăng lên trong thế kỷ này thấp hơn 2 độ C so với mức trước công nghiệp và theo đuổi những nỗ lực nhằm hạn chế sự tăng nhiệt độ xuống 1,5 độ C. Bên cạnh việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững cho năm 2030, một loạt các mục tiêu để xóa đói giảm nghèo, bảo vệ hành tinh và đảm bảo thịnh vượng, các thỏa thuận quốc tế này đang gây áp lực lên các nhà hoạch định chính sách từ bên ngoài biên giới để thực hiện thay đổi chính sách liên quan đến thuế BVMT.

4.2. Mô hình, giả thuyết và thiết kế nghiên cứu đánh giá tác động của các nhân tố ảnh hưởng

4.2.1. Đề xuất mô hình và giả thuyết nghiên cứu lý thuyết

Trên cơ sở khung lý luận đã phát triển của Luận án, kết hợp với kết quả phỏng vấn các chuyên gia về thuế BVMT, tác giả đã chọn lọc, gộp một số nhân tố để xây dựng mô hình nghiên cứu tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác QLNN về thuế BVMT như trong hình sau:

Nhân tố vĩ mô và liên quan đến cơ quan QLNN về thuế BVMT

H1

• Nhân tố chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội (H11) • Nhân tố liên quan đến ngành thuế BVMT (H12) • Thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT (H13)

Nhân tố liên quan đến đối tượng nộp thuế BVMT

H2

• Tình hình và đặc điểm SXKD (H21) • Trình độ dân trí và nhận thức (H22)

Hiệu quả công tác QLNN đối với Thuế BVMT

H3

Nhân tố Quốc tế liên quan đến BVMT

• Thương mại quốc tế (H31) • Xu thế BVMT trên thế giới (H32)

Hình 4.1: Mô hình nghiên cứu tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác QLNN đối với thuế BVMT

108

Trong mô hình nghiên cứu lý thuyết trên, hiệu quả công tác QLNN đối với thuế

BVMT được tác giả lựa chọn sử dụng từ các tiêu chí đánh giá hoạt động này đã tổng hợp ở phần trên. Cụ thể, như đã trình bày trong phần cơ sở lý luận, hiệu quả được đo lường bằng đánh giá đồng ý hay sự hài lòng của các nhà QLNN và nhà quản lý các doanh nghiệp là đối tượng chịu thuế BVMT theo bốn tiêu chí: tính hiệu lực hay tuân thủ, tính hiệu quả, tính hợp lý và tính phù hợp của công tác QLNN đối với thuế BVMT.

Về các biến độc lập, được nhận định có tác động đến hiệu quả công tác QLNN

đối với thuế BVMT, đó là 3 nhóm nhân tố ảnh hưởng như đã trình bày ở trên, cụ thể:

• Nhóm nhân tố vĩ mô và liên quan đến Cơ quan quản lý nhà nước, gồm: Nhân tố chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội; Nhân tố liên quan đến ngành thuế BVMT; Thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT.

• Nhóm nhân tố liên quan đến đối tượng nộp thuế, tính chất hoạt động, đặc điểm của đối tượng nộp thuế, gồm: Tình hình và đặc điểm hoạt động SXKD; Trình độ dân trí và nhận thức của đối tượng nộp thuế BVMT.

• Nhóm nhân tố quốc tế liên quan đến BVMT, điển hình như: hoạt động

thương mại quốc tế, và xu thế BVMT trên thế giới.

Từ mô hình nghiên cứu lý thuyết và lý luận đã phát triển, tác giả đề xuất 3

Nhóm với 7 Giả thuyết nghiên cứu như sau:

• H1: Công tác QLNN đối với Thuế BVMT chịu tác động đáng kể của các nhân tố vĩ mô và liên quan đến cơ quan QLNN về thuế BVMT. Cụ thể:

o H11: Nhân tố chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội của đất nước có tác động trực tiếp và cùng chiều đến hiệu quả công tác QLNN về Thuế BVMT;

o H12: Các nhân tố liên quan đến ngành thuế (như hệ thống pháp luật thuế BVMT, trình độ phẩm chất cán bộ, cơ sở hạ tầng, hiệu lực bộ máy) có tác động trực tiếp và tích cực đến hiệu quả công tác QLNN về Thuế BVMT;

o H13: Phương thức và thủ tục thanh toán thuận tiện có tác động trực tiếp và cùng chiều đến hiệu quả công tác QLNN về Thuế BVMT;

• H2: Công tác QLNN đối với Thuế BVMT chịu tác động đáng kể của các

nhân tố liên quan đến đối tượng nộp thuế. Cụ thể:

109

o H21: Tình hình và đặc điểm hoạt động SXKD có tác động trực tiếp

và cùng chiều đến hiệu quả công tác QLNN về Thuế BVMT;

o H12: Trình độ dân trí và nhận thức của đối tượng nộp thuế có tác động trực tiếp và cùng chiều đến hiệu quả công tác QLNN về Thuế BVMT;

• H3: Công tác QLNN đối với Thuế BVMT chịu tác động đáng kể của các

nhân tố quốc tế liên quan đến BVMT. Cụ thể:

o H31: Hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia có tác động trực tiếp và cùng chiều đến hiệu quả công tác QLNN về Thuế BVMT;

o H32: Xu thế BVMT trên thế giới có tác động trực tiếp và cùng chiều

đến hiệu quả công tác QLNN về Thuế BVMT tại Việt Nam.

4.2.2. Phát triển thang đo nghiên cứu chính thức

Trên cơ sở tổng hợp các công trình nghiên cứu trước đó về chủ đề, các biến

quan sát được xác lập và chuẩn hóa với bộ thang đo các biến (Items) trong mô hình. Tác giá xác định mô hình nghiên cứu chính thức gồm: (i) 27 Biến quan sát của 7 Biến độc lập, tương ứng với 7 nhân tố tác động thuộc 3 Nhóm mà Luận án đã lựa chọn phân tích, và (ii) 4 Biến quan sát của Biến phụ thuộc là hiệu quả công tác QLNN về thuế BVMT.

Bảng 4.1: Bộ thang đo các biến trong mô hình nghiên cứu

Các biến quan sát Nguồn tác giả Biến nghiên cứu

• X11 - câu hỏi Q16: Bối cảnh và quan điểm chính trị của Đảng và Nhà nước về thuế BVMT

• X12 - câu hỏi Q17: Chính sách của Nhà nước

và tính nghiêm minh của luật pháp 1. Nhân tố chính trị, pháp tế, luật, kinh xã hội của đất nước (X1) • X13 - câu hỏi Q18: Sự phát triển kinh tế, mức

sống người dân được cải thiện Hafstead Williams (2018), Oueslati (2014), và Abdullah Morley (2014); Yip (2018)

• X14 - câu hỏi Q19: Bối cảnh xã hội, trình độ và

nhận thức người dân về BVMT

• X21 - câu hỏi Q20: Hệ thống luật thuế BVMT được xây dựng minh bạch, chặt chẽ, đúng đối tượng.

2. Nhân tố liên đến quan ngành thuế BVMT (X2) Lugo và Maritza (2014), Nguyễn (2013), Hoàng và Castiglione

110

Các biến quan sát Nguồn tác giả Biến nghiên cứu

• X22 - câu hỏi Q21: Trình độ và phẩm chất đạo

đức của đội ngũ cán bộ thuế BVMT cộng sự (2018), Phạm Nữ Mai Anh (2019) • X23 - câu hỏi Q22: Cơ sở vật chất và hạ tầng

của ngành thuế

• X24 - câu hỏi Q23: Các hoạt động tổ chức thực thi, thanh kiểm tra và xử phạt vi phạm theo pháp luật BVMT

• X25 - câu hỏi Q24: Bộ máy quản lý nhà nước

về thuế BVMT hoạt động hiệu quả

• X31 - câu hỏi Q25: Thủ tục nộp thuế BVMT

cải thiện

• X32 - câu hỏi Q26: Phương thức thanh toán và 3. Thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT(X3) hoạch toán thuế BVMT cải thiện Maritza (2014); và Castiglione cộng sự (2018), Nguyễn Thị Lệ Thúy (2009) • X33 - câu hỏi Q27: Các quy trình thanh kiểm

tra cải thiện

• X41 - câu hỏi Q28: Doanh thu SXKD

• X42 - câu hỏi Q29: Lợi nhuận

• X43 - câu hỏi Q30: Quy mô nhân sự Lugo và Maritza (2014); Fauziati Kassim và (2018)

4. Tình hình hoạt động SXKD của đối tượng nộp thuế BVMT (X4) • X44 - câu hỏi Q31: Hiệu quả tổng thể trong

thời gian qua

• X51 - câu hỏi Q32: Mức độ hiểu biết về thuế

BVMT

• X52 - câu hỏi Q33: Trách nhiệm xã hội trong

việc nộp thuế BVMT

• X53 - câu hỏi Q34: Tự nguyện tuân thủ trách 5. Nhận thức và trách nhiệm môi trường của đối tượng thuế nộp BVMT (X5) nhiệm nộp thuế BVMT

• X54 - câu hỏi Q35: Nộp thuế BVMT đóng góp Kircher (2008); và Fauziati Kassim (2018); Lugo và Maritza Phạm (2014), Nữ Mai Anh Phạm (2019), Thị Mỹ Linh (2019) tích cực và hình ảnh, thương hiệu

111

Các biến quan sát Nguồn tác giả Biến nghiên cứu

• X61 - câu hỏi Q36: Thương mại quốc tế tăng

mạnh

• X62 - câu hỏi Q37: Chủ nghĩa bảo hộ thương

mại kiểu mới

• X63 - câu hỏi Q38: Hàng rào kỹ thuật và tiêu

chuẩn về môi trường 6. Thương mại quốc tế và xu thế bảo hộ mại thương bằng hàng rào kỹ thuật môi trường (X6) (1994); Westin Abdullah và Morley (2014); (2000), Kohn Thị Nguyễn Dương Thùy (2011)

• X71 - câu hỏi Q39: Xu thế lan tỏa mạnh mẽ Xu thế

BVMT trên thế giới 7. BVMT (X7)

• X72 - câu hỏi Q40: Sức ép quốc tế và trong

nước về BVMT

OECD (2011); Kircher (2008), Thị Nguyễn Dương Thùy (2011) • X73 - câu hỏi Q41: Vai trò và ảnh hưởng của

các tổ chức BVMT

• X74 - câu hỏi Q42: Xử lý nghiêm khắc các

hành động gây tổn hại đến môi trường

• Y1 - câu hỏi Q43: Tính hiệu lực và tuân thủ - Công tác QLNN đối với thuế BVMT thời gian qua đã thu đúng, thu đủ về đối tượng và thời gian nộp thuế.. 8. Hiệu quả tác công QLNN đối với thuế BVMT (Y)

Jackson (1982); Walker và cộng sự (2010); Walker và Andrews Trần (2013); Thắng, Đình (2019); Nguyễn Thị Ngọc Diễm, (2018)

• Y2 - câu hỏi Q44: Tính hiệu quả - Công tác QLNN đối với thuế BVMT thời gian qua đã thu đủ và phù hợp về số lượng tiền thuế BVMT. • Y3 - câu hỏi Q45: Tính hợp lý và khả thi -Công tác QLNN về thuế BVMT đối với đối tượng nộp thuế BVMT thời gian qua được tiến hành hợp lý theo quy định pháp luật và bối cảnh ngành và đơn vị đối tượng.

• Y4 - câu hỏi 46: Tính phù hợp - Công tác QLNN đối với thuế BVMT thời gian qua được triển khai thực thi phù hợp với với các mục tiêu định hướng, quy định của pháp luật về thuế BVMT tại Việt Nam.

112

Thang đo nghiên cứu trên sẽ là cơ sở để tác giả tiến hành khảo sát điều tra bảng

hỏi và phân tích định lượng tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác QLNN về thuế BVMT tại Việt Nam.

4.2.3. Thiết kế nghiên cứu định lượng

Nghiên cứu định lượng nhằm thu thập dữ liệu để kiểm định thang đo, mô hình và giả thuyết nghiên cứu lý thuyết đã xác lập về tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến công tác QLNN về thuế BVMT ở Việt Nam.

Để thu thập bộ dữ liệu này, tác giả triển khai phương pháp điều tra xã hội học.

Cụ thể như sau:

a) Đối tượng điều tra

Khảo sát điều tra hướng đến 2 loại đối tượng là (i) các doanh nghiệp là đối

tượng nộp thuế BVMT và (ii) chuyên gia, các nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý nhà nước về thuế BVMT.

b) Thiết kế bảng hỏi

Các nội dung bảng hỏi được tổng hợp từ các nghiên cứu trước đó, đã trình bày

trong phần tổng quan chương 1 và phần cơ sở lý luận chương 2, về QLNN về thuế nói chung và thuế BVMT nói riêng. Sau đó, bảng hỏi tiếp tục được hoàn thiện trên cơ sở kết quả phỏng vấn chuyên sâu và tham vấn trực tiếp các chuyên gia trong lĩnh vực QLNN về thuế BVMT. Bảng hỏi cuối cùng chuyển các thang đo quan sát chuẩn hóa

theo thang Likert 5 theo các mức độ đồng ý với từng phát biểu hay không với ước định: 1 – Không đồng ý / Không tốt / Rất kém; 2 – Không đáng kể / Đa phần không đồng ý / Kém ; 3 – Chấp nhận được / Trung bình; 4 – Đồng ý / Tốt / Mạnh; 5 – Hoàn

toàn đồng ý / Rất tốt / Rất mạnh.

Bảng hỏi được thiết kế thành 2 mẫu tương ứng với 2 đối tượng như sau:

+ Mẫu bảng hỏi 1 gồm 27 Biến quan sát của 7 Biến độc lập (tương ứng 7 nhân tố ảnh hưởng); 4 Biến quan sát của Biến phụ thuộc về hiệu quả QLNN về thuế BVMT và các câu hỏi về thông tin chung dành cho đáp viên là các doanh nghiệp đối tượng nộp thuế BVMT.

+ Mẫu bảng hỏi 2 gồm 27 Biến quan sát của 7 Biến độc lập (tương ứng 7 nhân tố ảnh hưởng); 4 Biến quan sát của Biến phụ thuộc về hiệu quả QLNN về thuế BVMT và các câu hỏi về thông tin chung dành cho đáp viên là chuyên gia, các nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý nhà nước về thuế BVMT.

113

Về cơ bản Mẫu bảng hỏi 1 (Phụ lục 5) và Mẫu bảng hỏi 2 (Phụ lục 6) đều có số lượng câu hỏi tương ứng với các Biến độc lập và Biến phụ thuộc tương đồng nhau về nội dung điều tra, các câu hỏi điều tra được chủ đích xây dựng đảm bảo việc điều tra được khách quan giữa các chuyên gia, nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý nhà nước, cũng như đối tượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Thuế BVMT.

c) Quy mô mẫu và tính đại diện mẫu:

Quy mô tối thiểu của một mẫu khảo sát điều tra được xác định theo phương pháp lấy mẫu thực hành. Cụ thể, yêu cầu đặt ra là mỗi phát biểu cần tối thiểu 4-6 đáp

viên, tình trung bình là 5 đáp viên. Như vậy, để kiểm định mô hình và giải thuyết nghiên cứu lý thuyết, sử dụng mẫu bảng hỏi 1 và 2, gồm 42 biến quan sát tương đương 42 câu hỏi, quy mô tối thiểu của mẫu khảo sát 1 này n= 42*5= 210 đối tượng. Dự tính

hệ số thu hồi phiếu khoảng 60-70%, tác giả xác định số phiếu sẽ phát ra là 300 phiếu. Kết quả thực tế thu về 249 phiếu, trong đó có 26 phiếu không hợp lệ vì thiếu thông tin nên bị loại bỏ, cuối cùng còn lại quy mô mẫu nghiên cứu gồm 223 phiếu khảo sát của 155 doanh nghiệp và 68 chuyên gia, nhà nghiên cứu và cán bộ QLNN. Cơ cấu và đặc

điểm mẫu nghiên cứu được mô tả trong Phụ lục 7 lớn hơn số lượng mẫu tối thiểu, đảm bảo tính đại diện của mẫu nghiên cứu.

- Thời gian thực hiện khảo sát: trong tháng 06 – 9/2020.

- Phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên thuận tiện theo danh sách các doanh nghiệp

thuộc lĩnh vực nộp thuế BVMT của Tổng cục Thuế, kết hợp với quan hệ cá nhân của tác giả với một số doanh nghiệp này.

- Số liệu thu thập được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS 22.

4.2.4. Kiểm định thang đo nghiên cứu

Sử dụng phương pháp phân tích thành tố chính (Principal Component Analysis) với phép xoay varimax, tác giả thực hiện phân tích EFA để đánh giá độ hội tụ của các biến quan sát theo từng thành phần của mô hình nghiên cứu lý thuyết.

a) Phân tích thành tố khám phá (EFA) các biến quan sát của biến độc lập

Kết quả phân tích thành tố khám phá (EFA) đối với 42 biến quan sát của 7 biến độc lập thu được giá trị KMO = 0,863 (>0,5) với mức ý nghĩa Sig = 0,000 (<0,05), cho

thấy phân tích EFA là thích hợp. Tại các Eigenralue >1, phân tích EFA đã trích được 7 thành tố chính với 42 biến quan sát và với phương sai lũy kế đạt 79,919% (>0,5). Điều này có nghĩa là 7 thành tố chính giải thích được 79,919% tổng số thông tin của 42 biến quan sát, nên phân tích thành tố đạt yêu cầu.

114

Bảng 4.2: Kết quả phân tích thành tố khám phá (EFA) đối với các biến độc lập

KMO and Bartlett's Test

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. Bartlett's Test of Sphericity

Approx. Chi-Square Df

0.863 5804.608 351

Sig.

0.000

Rotated Component Matrix

Thành tố chính

3

7

1 9.820

3.082

Eigenvalue Phương sai lũy kế (%)

14.035

38.736

61.584

0.926 0.907 0.852

X74 X72 X73 X71 X54 X51 X53 X52 X43 X42 X44 X41 X21 X24 X22 X25 X23 X33 X32 X31 X61 X62 X63 X12 X14 X11 X13

4 1.761 50.25 8 0.854 0.848 0.824 0.695 0.649

5 6 1.487 1.151 1.069 79.91 71.46 9 4 0.856 0.835 0.723 0.674 0.647 0.540 0.486

0.897 0.860 0.660 0.653

2 3.208 26.91 2 0.850 0.762 0.745 0.716

0.947 0.924 0.904 0.899

Nguồn: Xử lý dữ liệu điều tra bằng SPSS 22

115

b) Phân tích thành tố khẳng định (CFA) đối với từng biến độc lập

Tiếp theo, phân tích thành tố khẳng định (CFA) được tiến hành đối với từng biến độc lập để kiểm định lần nữa thang đo của từng biến. Kết quả phân tích thu được cho thấy các hệ số Cronbach’s Alpha của thang đo các biến độc lập và phụ thuộc đều lớn hơn 0,7, tức các thang đo đều được chấp nhận; các hệ số tương quan biến tổng của các biến quan sát trong mỗi thang đo đều lớn hơn 0.3 và không có trường hợp loại bỏ biến quan sát nào có thể làm cho Cronbach’s Alpha của thang đo tương ứng lớn hơn giá trị Cronbach’s Alpha hiện tại của biến đó. Vì vậy, tất cả các biến quan sát đều được

chấp nhận và các thang đo của 7 Biến độc lập và Biến phụ thuộc cũng đều được kiểm định hợp lệ.

Bảng 4.3: Hệ số Cronbach’s Alpha của 7 Biến độc lập và Biến phụ thuộc

Trung bình Alpha Tương quan thang đo Biến quan sát biến tổng nếu loại biến Phương sai thang đo nếu loại biến nếu loại biến

1. Nhân tố chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội của đất nước (X1):

11.426

4.759

0.568

0.817

X11

11.709

3.892

0.715

0.751

X12

11.650

3.778

0.738

0.740

X13

11.641

4.420

0.598

0.805

X14

KMO = 0,789; Cronbach's Alpha = 0,827

2. Nhân tố liên quan đến ngành thuế BVMT (X2):

12.291

7.793

0.749

0.770

X21

12.148

8.640

0.656

0.799

X22

12.359

9.186

0.527

0.835

X23

12.650

8.994

0.705

0.788

X24

12.596

9.521

0.576

0.820

X25

KMO = 0,715; Cronbach's Alpha = 0,837

3. Thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT (X3):

7.619

4.147

0.864

0.929

X31

7.641

4.736

0.877

0.924

X32

7.646

4.005

0.911

0.891

X33

KMO = 0,758; Cronbach's Alpha = 0,942

116

4. Tình hình hoạt động SXKD của đối tượng nộp thuế BVMT (X4):

X41

0.877

0.904

9.632

10.855

X42

0.853

0.912

10.000

10.838

X43

0.773

0.937

9.475

11.521

X44

0.880

0.903

9.637

10.773

KMO = 0,724; Cronbach's Alpha = 0,935

5. Nhận thức và trách nhiệm môi trường của đối tượng nộp thuế BVMT (X5):

X51

0.846

0.879

8.812

11.235

X52

0.776

0.903

8.265

12.132

X53

0.780

0.904

8.924

13.008

X54

0.854

0.877

8.749

10.567

KMO = 0,805; Cronbach's Alpha = 0,917

6. Thương mại quốc tế và xu thế bảo hộ bằng hàng rào kỹ thuật môi trường (X6):

X61

0.737

0.848

7.637

3.070

X62

0.835

0.770

7.731

2.297

X63

0.752

0.844

7.332

3.259

KMO = 0,712; Cronbach's Alpha = 0,877

7. Xu thế BVMT (X7):

X71

0.864

0.948

11.345

7.957

X72

0.916

0.936

10.919

8.453

X73

0.861

0.949

11.157

8.133

X74

0.930

0.928

11.619

7.444

KMO = 0,821; Cronbach's Alpha = 0,955

8. Hiệu quả công tác QLNN về thuế BVMT (Y):

Y1

0.901

0.797

11.287

8.314

Y2

0.536

0.928

11.269

12.315

Y3

0.802

0.839

11.139

9.418

Y4

0.813

0.835

11.076

9.197

KMO = 0,779; Cronbach's Alpha = 0,899

Nguồn: Xử lý dữ liệu điều tra bằng SPSS 22

Như vậy, kết quả phân tích EFA kiểm định thang đo và hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha cho thấy 27 Biến quan sát của 7 Biến độc lập và 4 Biến quan sát của Biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu lý thuyết đảm bảo được tính hội tụ và tính

nhất quán nội tại. Từ đó, cho phép tác giả thực hiện kiểm định mô hình và các giả thuyết nguyên cứu ở phần tiếp sau đây.

117

c) Kiểm định thang đo của Biến phụ thuộc

Với phương pháp tiến hành tương tự như trên đối với Biến phụ thuộc, kết quả phân tích thành tố chính được giá trị KMO = 0,779 (>0,5) với mức ý nghĩa Sig = 0,000 (<0,05), cho thấy phân tích EFA đạt yêu cầu. Giá trị Eigenralue = 3 >1, thành tố chính duy nhất đạt phương sai lũy kế 75,011% (>0,5), hay giải thích đến 75,011% tổng số thông tin của 4 Biến quan sát, nên phân tích thành tố đạt yêu cầu.

Bảng 4.4: Kết quả phân tích thành tố khám phá (EFA) đối với Biến phụ thuộc

KMO and Bartlett's Test

Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy.

0.779

Approx. Chi-Square

632.852

Bartlett's Test of Sphericity

Df

6

Sig.

0.000

Eigenvalue Alpha Biến Hệ số tải Phương sai lũy kế (%) quan sát thành tố

Y1

0.952

Y2

0.689

Y3

0.896

Y4

0.903

Hiệu suất QLNN về thuế BVMT 3.000 75.011 0.889

Nguồn: Xử lý dữ liệu bằng SPSS 22

4.3. Phân tích hồi quy bội và kiểm định mô hình, giả thuyết nghiên cứu

4.3.1. Phân tích hồi quy bội và kiểm định mô hình nghiên cứu

Mô hình và giả thuyết nghiên cứu lý thuyết được kiểm định qua mẫu nghiên cứu tổng hợp cả 2 đối tượng (doanh nghiệp và nhà nghiên cứu, chuyên gia, nhà QLNN về thuế BVMT) bằng phần mềm SPSS 22. Cụ thể như sau:

a) Phân tích tương quan các biến độc lập

Để đánh giá mức độ tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu, tác

giả phân tích hệ số tương quan Pearson. Kết quả phân tích SPSS thu được như sau:

118

X2

X3

X4

X5

X6

X7

X1

X1

0.001

0.532**

0.632**

0.626**

0.503**

-0.215**

1

X2

1

-0.061

0.017

-0.117

0.049

0.027

X3

1

0.483**

0.445**

0.363**

-0.170*

X4

1

0.581**

0.608**

-.0266**

X5

1

0.537**

-0.379**

X6

1

0.333**

X7

1

Ghi chú: * có ý nghĩa thống kê p=0,05, n=223 ** có ý nghĩa thống kê p=0,01, n=223

Bảng 4.5: Phân tích tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu

Nguồn: Xử lý dữ liệu điều tra bằng SPSS 22

Kết quả trên cho thấy hệ số tương quan Pearson có ý nghĩa thống kê giữa các cặp biến dao động trong khoảng 0,001 đến 0,632 (<0,7), cho phép khẳng định giá trị phân biệt giữa các biến độc lập hay các khái niệm nghiên cứu đạt được với độ tin cậy 95%; tính đa công tuyến giữa các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu có thể loại bỏ.

b) Phân tích hồi quy bội tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến công tác

quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

Kết quả phân tích hồi quy bội theo phương pháp Enter thu được như bảng dưới.

Hệ số chưa chuẩn hóa

Hệ số chuẩn hóa

Đa cộng tuyến

Model

B

Độ lệch chuẩn

Beta

T

Sig.

Dung sai VIF

1

(Constant)

0.000

0.030

0.000

1.000

0.192***

0.044

0.192 4.376

0.000

0.456 2.192

X1

0.088**

0.030

0.088 2.900

0.004

0.960 1.042

X2

0.124**

0.036

0.124 3.426

0.001

0.670 1.493

X3

0.229***

0.044

0.229 5.202

0.000

0.456 2.193

X4

0.308***

0.043

0.308 7.115

0.000

0.471 2.122

X5

0.276***

0.040

0.276 6.911

0.000

0.554 1.803

X6

0.022

0.033

0.022 0.660

0.510

0.828 1.208

X7

R = 0,900; R2 = 0,810; Adjusted R2 = 0,804; Giá trị F = 131,136***, Sig (F) = 0,000

Ghi chú: * mức ý nghĩa thống kê p <0,05 ** mức ý nghĩa thống kê p <0,01 *** mức ý nghĩa thống kê p <0,001

Bảng 4.6: Kết quả phân tích hồi quy bội

Nguồn: Xử lý dữ liệu điều tra bằng SPSS 22

119

Từ kết quả phân tích SPSS hồi quy bội thu được, cho phép kết luận như sau:

- Hệ số VIF đều <4; khẳng định không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập trong mô hình hồi quy bội (Rogerson, 2001); nói cách khác kết quả giải thích và dự báo của mô hình hồi quy bội không bị làm sai lệch bởi sự tương quan không đáng kể giữa các biến độc lập.

- Hệ số R2 = 81% (> 50%) có nghĩa mô hình hồi quy bội giải thích hay phản ảnh được 81% thực tế hay tổng thông tin của 7 Biến độc lập đưa vào mô hình. Như vậy, mô hình hồi quy bội này phù hợp với bộ dữ liệu đã thu thập và phản ảnh đảm bảo thực tế

nghiên cứu tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả QLNN về thuế BVMT.

- Đại lượng thống kê F = 131,136 với Sig = 0,000 cho thấy mô hình hồi quy có ý nghĩa về mặt tổng thể, nói cách khác có thể sử dụng để giải thích và dự báo được thực tế

về tác động của của các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả QLNN về thuế BVMT.

- Mô hình hồi quy bội đạt được có thể đươc biểu diễn bằng công thức sau:

Y = 0,0000000000000000455+ 0,192*X1 + 0,088*X2 + 0,124*X3 + 0,229*X4

+ 0,308*X5 + 0,276*X6 + 0,022*X7

4.3.2. Kiểm định các giả thuyết nghiên cứu về tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

Trên cơ sở kết quả phân tích hồi quy bội, tác giả tiến hành kiểm định các giả

thuyết đối với từng biến độc lập, cụ thể:

• Biến X1 - Nhân tố chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội của đất nước có tác động tích cực cùng chiều (B = 0,192) đến hiệu quả QLNN về thuế BVMT với ngưỡng tin cậy 99% (Sig. = 0,000). Nói cách khác, nhân tố này càng tốt, càng được cải thiện tích cực thì hiệu quả QLNN về thuế BVMT càng cao. Giả thuyết H11 được khẳng định đúng.

• Biến X2 - Nhân tố liên quan đến ngành thuế BVMT, đạt giá trị B = 0,088 và Sig. = 0,004, thể hiện mối quan hệ tích cực cùng chiều giữa biến này với hiệu quả QLNN về thuế BVMT với ngưỡng tin cậy 99%. Kết quả này khẳng định giả thuyết H12 đúng: ngành thuế càng được tổ chức và vận hành hợp lý và hiệu quả thì công tác QLNN về thuế BVMT càng thu được

kết quả tích cực. Nói cách khác, các nguồn lực của ngành thuế, từ cơ sở hạ tầng đến nguồn nhân lực đều có vai trò quan trọng trong công tác QLNN về thuế BVMT.

120

• Biến X3 - Thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT có tác động tích cực cùng chiều (B = 0,124) đến hiệu quả QLNN về thuế BVMT với ngưỡng tin cậy

95% (Sig. = 0,001), qua đó khẳng định giả thuyết H13 đúng. Cụ thể, quy trình thủ tục thanh toán càng thuận tiện thì hiệu quả QLNN về thuế BVMT càng cao. Nói cách khác, càng thuận tiện cho việc thu và quản lý thuế cũng như thuận tiên cho việc nộp thuế của các đối tượng chịu thuế BVMT.

Kết quả trên cho phép khẳng định giả thuyết H1: Công tác QLNN đối với Thuế BVMT chịu tác động đáng kể của các nhân tố vĩ mô và liên quan đến cơ quan QLNN về thuế BVMT.

• Biến X4 - Tình hình hoạt động SXKD của đối tượng nộp thuế BVMT, đạt giá trị B = 0,229 và Sig. = 0,000, thể hiện mối quan hệ tích cực cùng chiều giữa

biến này với hiệu quả QLNN về thuế BVMT với ngưỡng tin cậy 99%. Như vậy, giả thuyết H21 được khẳng định đúng: tình hình hoạt động SXKD của các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế càng tích cực, thì họ sẽ có nguồn kinh phí và tâm lý tự nguyện nộp thuế, đồng nghĩa hiệu quả QLNN về thuế BVMT càng cao.

• Biến X5 - Nhận thức và trách nhiệm môi trường của đối tượng nộp thuế BVMT có tác động tích cực cùng chiều (B = 0,308) đến hiệu quả QLNN về thuế BVMT với ngưỡng tin cậy 99% (Sig. = 0,000). Như vậy, nhận thức về vai trò của thuế BVMT và trách nhiệm nộp thuế là nghĩa vụ của đối tượng

nộp thuế có tính quyết định đến hành vi nộp thuế của họ, cũng như góp phần đảm bảo hiệu quả QLNN về thuế BVMT. Giả thuyết H22 được khẳng định đúng.

Kết quả trên cho phép khẳng định giả thuyết H2: Công tác QLNN đối với Thuế

BVMT chịu tác động đáng kể của các nhân tố liên quan đến đối tượng nộp thuế

• Biến X6 - Thương mại quốc tế và xu thế bảo hộ bằng hàng rào kỹ thuật môi trường, đạt giá trị B = 0,276 và Sig. = 0,000, thể hiện mối quan hệ tích cực cùng chiều giữa biến này với hiệu quả QLNN về thuế BVMT với ngưỡng tin cậy 99%. Kết quả này khẳng định giả thuyết H31: hoạt động thương mại

quốc tế và xu thế bảo hộ bằng hàng rào kỹ thuật môi trường trong các giao dịch xuất nhập khẩu cũng có vai trò tích cực, đòi hỏi các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế BVMT phải tuân thủ trách nhiệm nộp thuế BVMT, góp

phần nâng cao hiệu quả QLNN về thuế BVMT.

121

• Biến X7 – Xu thế BVMT trên thế giới lại không có tác động đáng kể đến hiệu quả QLNN về thuế BVMT tại Việt Nam ở ngưỡng tin cậy 95% (B =

0,022; Sig. = 0,510). Có thể thấy xu thế BVMT này mặc dù đang lan tỏa mạnh mẽ trên thế giới, nhưng vẫn còn mới tại Việt Nam và có lẽ chỉ giới hạn ở một số bộ phận người dân và thành phần kinh tế, nên tác động chưa đủ lớn đến hiệu quả QLNN về thuế BVMT. Giả thuyết H32, vì vậy không

được khẳng định đúng.

Kết quả trên chỉ cho phép khẳng định giả thuyết H3 đúng 1 phần: Công tác QLNN đối với Thuế BVMT chỉ chịu tác động đáng kể của nhân tố thương mại quốc tế và xu thế bảo hộ bằng hàng rào kỹ thuật môi trường; nhưng không chịu tác động của

xu thế BVMT trên thế giới bắt đầu lan tới Việt Nam.

Một cách khái quát, đánh giá về cường độ ảnh hưởng của các nhân tố, theo hệ số B của kết quả phân tích hồi quy định lượng, nhân tố X5 - Nhận thức và trách nhiệm

môi trường của đối tượng nộp thuế BVMT có tác động mạnh nhất đến hiệu quả QLNN về thuế BVMT (với giá B = 0,308 lớn nhất); tiếp theo lần lượt là nhân tố X6 - Thương mại quốc tế và xu thế bảo hộ bằng hàng rào kỹ thuật môi trường (B = 0,276), nhân tố X4 – Tình hình hoạt động SXKD của đối tượng nộp thuế BVMT (B = 0,229), nhân tố

X1 - Nhân tố chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội của đất nước (B = 0,192), nhân tố X3 - Thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT (B = 0,124), nhân tố X2 - Nhân tố liên quan đến ngành thuế BVMT (B = 0,008).

4.3.3. Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam

Kết hợp phân tích kết quả định lượng trên đây và kết quả phỏng vấn đã tiến hành, phần này phân tích đánh giá chi tiết các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý

nhà nước về thuế BVMT ở Việt Nam. Cụ thể, theo cường độ tác động từ mạnh xuống thấp, như sau:

• Nhận thức và trách nhiệm môi trường của đối tượng nộp thuế BVMT (X5)

Về nhận thức của doanh nghiệp về thuế BVMT, nhìn chung các doanh nghiệp ngày càng nhận thức rõ hơn về trách nhiệm BVMT mặc dù vẫn ở mức thấp chỉ đạt

điểm đánh giá 2,77/5 điểm. Trong những năm vừa qua, các điều khoản cam kết về môi trường trong các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đã là một phần không thể thiếu trong các cam kết hội nhập đó. Hiện nay, đa phần các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam tham gia ký kết và đang đàm phán đều có

122

cam kết, nghĩa vụ về môi trường, cho thấy sự coi trọng của các quốc gia trong quá

trình phát triển kinh tế luôn đảm bảo sự phát triển bền vững, như tại Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – liên minh Châu Âu EU (EVFTA) chủ yếu đề cập đến một số vấn đề môi trường bao gồm: Biến đổi khí hậu, các vấn đề môi trường (nói chung), bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý chất thải, đào tạo và giáo dục về môi trường. Còn riêng Hiệp định CPTPP đã dành hẳn 1 chương riêng để cam kết các vấn đề về môi trường. đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam đã hiểu biết rõ hơn về thuế BVMT và trách

nhiệm đóng thuế BVMT của mình.

Bảng 4.7: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan đến nhận thức và trách nhiệm môi trường của đối tượng nộp thuế BVMT

Mã Tiêu chí Điểm TB Độ lệch chuẩn

Doanh nghiệp hiểu biết rất rõ về thuế BVMT. 2,77 1,300 X51 (Q32)

3,32 1,231 X52 (Q33) Việc nộp thuế BVMT thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

X53 Doanh nghiệp tự nguyện và tuân thủ đầy đủ các 2,66 1,087 (Q34) nghĩa vụ về thuế BVMT.

2,83 1,400 X54 (Q35) Thực hiện nghĩa vụ thuế BVMT góp phần tích cực vào thương hiệu và hình ảnh của doanh nghiệp.

Nguồn: Kết quả điều tra

Đánh giá về quan điểm của doanh nghiệp đối với vấn đề trách nhiệm xã hội, rằng nộp thuế BVMT tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước về môi trường, để từ đó nhà nước có chi phí cải tạo môi trường, thực hiện các biện pháp BVMT, chính điều này đã thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội từ hoạt động kinh doanh của mình. Vấn đề này đã có sự tiến bộ đáng kể khi các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế BVMT tham gia khảo sát nhận định ở mức trung bình khá với 3,32/5 điểm.

Đánh giá về tự nguyện và tuân thủ các nghĩa vụ về thuế BVMT của doanh nghiệp, kết quả khảo sát cho thấy chỉ ở mức trung bình kém với 2,66/5 điểm. Chúng ta có thể nhận định rằng khi sự phát triển vượt bậc của hoạt động SXKD tạo nên lợi nhuận đạt được mức kỳ vọng cho mỗi doanh nghiệp, thì doanh nghiệp đó dễ dàng chấp

123

nhận và tuân thủ các nghĩa vụ về thuế BVMT, điển hình là việc tự nguyện đóng thuế BVMT, đúng, đủ, kịp thời của doanh nghiệp.

Đánh giá về tác động của nghĩa vụ thuế BVMT đến thương hiệu và hình ảnh của doanh nghiệp, các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế BVMT vẫn còn nhận thức hạn chế với điểm đánh giá ở mức trung bình 2,83/5 điểm. Dù sao, họ đã dần thừa nhận rằng hành động chung tay này tạo ra hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ giúp nâng thương hiệu và hình ảnh của doanh nghiệp đến gần công chúng hơn. Tại Việt Nam, trong các công ty gia công sản xuất xuất khẩu, một trọng những nhân tố hàng đầu để quyết định nhãn hàng đó có được phép sản xuất tại doanh nghiệp đó hay không chính là nhân tố BVMT và tuân thủ các quy định về thuế BVMT của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, việc thực hiện nghĩa vụ đóng thuế BVMT góp phần tích cực vào thương hiệu và hình ảnh của doanh nghiệp. Vì vậy, những năm gần đây tại Việt Nam, các doanh nghiệp đã thực hiện tốt nghĩa vụ đóng thuế của mình để giữ gìn hình ảnh và thương hiệu của mình, từ đó thu ngân sách nhà nước về thuế BVMT tại Việt Nam đã tăng lên ổn định, công tác quản lý nhà nước về thuế BVMT tại việt nam cũng thuận lợi hơn.

• Thương mại quốc tế và xu thế bảo hộ thương mại bằng hàng rào kỹ thuật

môi trường (X6)

Hoạt động thương mại quốc tế (xuất nhập khẩu, FDI) của Việt Nam phát triển mạnh giúp gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường đa dạng các loại hàng hóa tham gia xuất nhập khẩu, đạt điểm đánh giá khá cao 3,71/5 điểm. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt Nam đã chuyển sang cân bằng xuất nhập khẩu, thậm chí là xuất siêu.

Hoạt động thương mại quốc tế phát triển mạnh ở Việt Nam thời gian qua đồng thời cũng là tác động tiêu cực tới môi trường tự nhiên Việt Nam. Nhiều vấn đề môi trường phức tạp đã và sẽ nảy sinh đòi hỏi phải xem xét phòng ngừa, khắc phục trong quá trình mở cửa giao thương và thu hút nguồn vốn FDI. Các doanh nghiệp FDI hiện nay về cơ bản là những doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình, do đó, tiêu tốn nhiều tài nguyên thiên nhiên, lượng phát thải lớn.

Chủ nghĩa bảo hộ thương mại kiểu mới bằng hàng rào kỹ thuật, các tiêu chuẩn quốc tế BVMT ngày càng phổ biến và dần tác động mạnh đến nền kinh tế Việt

Nam.Theo thống kê của Cục Phòng vệ Thương mại- Bộ Công Thương, tính đến 2019, đã có hơn 120 vụ việc khởi xướng điều tra phòng vệ thương mại có liên quan tới hàng xuất khẩu của Việt Nam, gồm 75 vụ việc chống bán phá giá, 10 vụ việc chống trợ cấp, 22 vụ việc tự vệ và 17 vụ việc lẩn tránh thuế. Mỹ là nước điều tra chống bán phá giá

124

nhiều nhất với Việt Nam (13 vụ), tiếp đó là Ấn Độ (11 vụ), Úc (7 vụ), EU, Brazil, Thổ

Nhĩ Kỳ (6 vụ). Mỹ đồng thời là nước có tỷ lệ áp thuế chống bán phá giá cao nhất với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Các mặt hàng bị điều tra chủ yếu là sắt, thép, sợi, da giày, các sản phẩm cao su... Đối với chống trợ cấp, Mỹ tiếp tục là nước điều tra nhiều nhất với Việt Nam (05 vụ), tiếp đó là Canada, Úc (2 vụ) và EU (1 vụ). Các vụ kiện phòng vệ thương mại và các rào cản bảo hộ đã gây ra những tác động tiêu cực đáng kể cho doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.

Bảng 4.8: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan đến thương mại quốc tế và xu thế bảo hộ thương mại bằng hàng rào kỹ thuật môi trường

Mã Tiêu chí Điểm TB Độ lệch chuẩn

3,71 0,874 X61 (Q36) Hoạt động thương mại quốc tế (xuất nhập khẩu, FDI) của Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua đã có tác động tiêu cực đến môi trường.

3,62 1,058 X62 (Q37) Chủ nghĩa bảo hộ thương mại kiểu mới bằng hàng rào kỹ thuật, các tiêu chuẩn quốc tế BVMT ngày càng phổ biến và tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam

4,02 0,805 X63 (Q38) Doanh nghiệp thường xuyên đối mặt với các hàng rào kỹ thuật và/hay các tiêu chuẩn quốc gia – quốc tế về BVMT trong hoạt động SXKD.

Nguồn: Kết quả điều tra

Sự phổ biến của chủ nghĩa bảo hộ thương mại bằng hàng rào kỹ thuật và các tiêu chuẩn quốc tế về BVMT (mức điểm đánh giá cao 4,02/5 điểm) ngày càng cao vô tình tác động tích cực hơn đến công tác QLNN về thuế BVMT của Việt Nam. Càng thắt chặt hàng rào kỹ thuật, bắt buộc mức độ tối thiểu của các tiêu chuẩn như an toàn, vệ sinh, môi trường,…càng nâng cao. Do đó, để tránh lãng phí tiền bạc, thời gian vào các vụ việc bên hàng rào kỹ thuật, các doanh nghiệp, tổ chức phải càng nghiêm túc

trong nhận thức về sự quan trọng của BVMT, đảm bảo quá trình sản xuất an toàn, vệ sinh đồng thời phải hạn chế nhất mức độ tác động lên môi trường. Mức thuế của các doanh nghiệp cũng phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng tới môi trường của hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Khi chịu sự tác động hai chiều, một là mức thuế BVMT trong nước tính theo lượng phát thải của doanh nghiệp, một là tính chặt chẽ ngày một cao của hàng rào kỹ thuật, doanh nghiệp buộc phải thay đổi phù hợp hơn để phát triển.

125

Doanh nghiệp thay đổi cách hoạt động, sử dụng kỹ thuật tiên tiến hơn, giảm thiểu tối

đa chất thải ra môi trường, từ đó chủ động hơn trong việc nộp thuế BVMT do mức thuế giảm đi, ngoài ra còn thuận lợi hơn trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ nâng cao doanh thu, lợi nhuận cho bản thân. Có sự thay đổi phù hợp, lợi ích nhận được lớn hơn và theo chiều hướng tốt hơn cho cộng đồng, lâu dần hình thành trong các doanh nghiệp ý thức riêng về môi trường, về các vấn đề sức khỏe con người song song với mục tiêu giá trị tài chính của doanh nghiệp. Công tác QLNN về thuế BVMT nhờ đó cũng hoạt động chính xác, có hiệu quả hơn.

• Tình hình và đặc điểm hoạt động SXKD của đối tượng nộp thuế BVMT

(X4)

Trong những năm gần đây, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm doanh thu của các doanh nghiệp đạt đến mức kỳ vọng, nhất là trong 3 năm gần đây. Theo số liệu của Tổng cụ Thống kê (2019), tổng doanh thu thuần của các doanh

nghiệp tại Việt Nam năm 2018 đạt 23,64 triệu tỷ đồng, tăng 14,4% so với năm 2017. Các tổ chức quốc tế uy tín và nhiều quốc gia, đối tác đánh giá cao và khẳng định Việt Nam tiếp tục là một điểm sáng trong khu vực và toàn cầu. Nước ta được xếp thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc so với năm

2018. Bên cạnh sự phát triển đó của các doanh nghiệp, kéo theo ảnh hưởng tới môi trường ngày một nghiêm trọng, vì vậy BVMT và trách nhiệm đóng thuế BVMT càng phải được đặc biệt quan tâm. Một nền kinh tế để phát triển bền vững cần được xây

dựng dựa trên việc phát triển và BVMT, đây là hai nhân tố không thể tách rời.

Doanh thu của một doanh nghiệp là đối đối tượng chịu thuế BVMT đạt mức trung bình khá trong những năm gần đây, với 3,28/5 điểm. Từ khi áp dụng Thuế BVMT (năm 2012), tổng số thu từ sắc thuế này liên tục tăng (tăng gấp 6 lần, từ hơn

11.000 tỷ đồng năm 2012, lên gần 70.000 tỷ đồng năm 2019) từ đó nhà nước sẽ tăng nguồn thu phục vụ cho việc quản lý nhà nước về thuế BVMT, cũng như tăng nguồn thu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho quản lý nhà nước về thuế BVMT.

Về lợi nhuận, đây là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng phản ánh hiệu quả của SXKD của doanh nghiệp.Ở Việt Nam trong 3 năm gần đây, do nền kinh tế ngày một mở cửa, công nghiệp hóa hiện đại hóa được đẩy mạnh, lợi nhuận của các doanh nghiệp đang đạt mức kỳ vọng, mặc dù vẫn ở mức trung bình theo đánh giá của doanh nghiệp

tham gia khảo sát, chỉ đạt 2,91/5 điểm. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê từ Tổng cục Thống kê Việt Nam (2019), chỉ tính riêng năm 2018, tổng lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp đạt 895,56 nghìn tỷ đồng, tăng 2,1% so với năm 2017. Nếu lợi nhuận

126

của một doanh nghiệp cao, họ sẽ có nhiều khả năng tài chính để chi phí cho các khoản

thuế, trong đó có thuế BVMT. Do lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng lên trong thời gian gần đây, mà nhiều doanh nghiệp được thành lập và hoạt động dẫn đến số lượng đối tượng nộp thuế tăng lên, từ đó chi phí cho một đồng thuế thu sẽ giảm xuống, ảnh hưởng tích cực đến việc quản lý của nhà nước về thuế BVMT.

Bảng 4.9: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan tình hình hoạt động SXKD của đối tượng nộp thuế BVMT

Mã Tiêu chí Điểm TB Độ lệch chuẩn

X41 Doanh thu SXKD của các doanh nghiệp là đối tượng 3,28 1,188 (Q28) nộp thuế BVMT đạt mức kỳ vọng trong 3 năm gần đây.

2,91 1,214 X42 (Q29) Lợi nhuận của các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế BVMT đạt mức kỳ vọng trong 3 năm gần đây.

Quy mô nhân sự của các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế BVMT tăng trưởng ổn định, đạt mức kỳ vọng 3,44 1,183 X43 (Q30) trong 3 năm gần đây.

3,28 1,198 X44 (Q31) Thị phần và tăng trưởng hoạt động SXKD của doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế BVMT đạt mức kỳ vọng trong 3 năm gần đây.

Nguồn: Kết quả điều tra

Đánh giá về quy mô nhân sự, trong những năm gần đây, do việc tăng trưởng kinh tế đạt mức kỳ vọng nên quy mô về nhân sự trong các doanh nghiệp cũng tăng trưởng ổn định, đạt mức điểm đánh giá khá 3,44/5 điểm. Tại thời điểm 31/12/2018, tổng số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp đang hoạt động là 14,82 triệu

người, tăng 2,1% so với cùng thời điểm năm 2017 đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề môi trường và thuế BVMT của Việt Nam. Đội ngũ nhân sự đầy đủ và có tay nghề cao sẽ giúp cho doanh nghiệp có công việc kinh doanh thuận lợi, sản

phẩm (dịch vụ) tăng sẽ kéo theo lợi nhuận và doanh thu tăng lên, Thuế BVMT phải thu của nhà nước đối với các doanh nghiệp cũng tăng lên, tạo nguồn thu cho nhà nước để đảm bảo các chính sách an sinh xã hội về môi trường, cũng như có thêm chi phí cho quản lý nhà nước về thuế BVMT, việc quản lý nhà nước về thuế BVMT sẽ dễ dàng hơn.

127

Ngoài các nhân tố kể trên, thị phần và tăng trưởng hoạt động SXKD trong 3 năm gần đây cũng đang đạt mức kỳ vọng, đạt điểm đánh giá trung bình khá 3.28/5 điểm. Do việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng SXKD đòi hỏi nhu cầu sử dụng mặt hàng gây ảnh hưởng tới môi trường tăng lên rất nhiều, thị phần của các mặt hàng như Xăng dầu, mỡ nhờn; than đá; túi ni lông; thuốc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng… tăng cao. Từ khi áp dụng thuế BVMT (năm 2012), tổng số thu từ sắc thuế này liên tục tăng (tăng gần gấp 6 lần, từ hơn 11.000 tỷ đồng năm 2012, lên 64,463 tỷ đồng trong năm 2019), trong đó xăng, dầu chiếm 93,57%. Sản lượng tiêu thụ

tăng và hoạt động SXKD của doanh nghiệp ngày càng mở rộng làm cho doanh thu và lợi nhuận cũng tăng lên. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho mức thuế BVMT của mỗi doanh nghiệp Việt Nam được tăng lên đáng kể trong những năm gần đây, những

con số đáng kể đã được nêu ra ở trên. Mức tăng trưởng về thuế này cũng đều làm cho việc quản lý nhà nước về thuế BVMT được dễ dàng và cải thiện hơn.

• Nhân tố chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội của đất nước (X1)

Một cách khái quát, bối cảnh chính trị nước ta hiện nay tác động tích cực đến môi trường cũng như tăng hiệu quả QLNN về thuế BVMT khi Đảng cộng sản Việt Nam đưa vấn đề môi trường vào cương lĩnh, chiến lược hành động của mình nhằm

tăng thêm tính chất toàn diện, đúng đắn và khả thi của cương lĩnh, nâng cao vai trò lãnh đạo, thực hiện tốt nhiệm vụ QLNN về thuế BVMT. Kết quả khảo sát điều tra với điểm trung bình đạt 4,05/5 điểm khẳng định bối cảnh chính trị thuận lợi hiện nay ở

nước ta.

Liên quan đến các chính sách của Nhà nước và tính nghiêm minh của luật pháp, mặc dù đạt điểm trung bình khá 3,77/5 điểm, nhưng vẫn còn một số hạn chế. Nhiều ý kiến cho rằng bên cạnh một số lỗ hổng trong công tác QLNN để xảy ra tình trạng hối lộ,

trốn thuế,.. thì đa phần các công tác QLNN có tính nghiêm minh nhất định.

Về tình hình phát triển kinh tế và mức sống người dân, trong những gần đây, nền kinh tế Việt Nam được đánh giá phát triển tương đối nhanh và ổn định. Bất chấp

môi trường kinh tế toàn cầu trở nên thách thức hơn, nền kinh tế nước ta vẫn đứng vững nhờ sức cầu mạnh trong nước và nền sản xuất định hướng xuất khẩu. Ngay cả trong giai đoạn dịch bệnh Covid đang diễn biến phức tạp, mặc dù chịu ảnh hưởng nghiêm trọng, tăng trưởng kinh tế giảm mạnh so với các năm trước (GDP năm 2018 đạt 7.08%

và 2019 đạt 7.02%), cũng không được xem là rơi vào tình trạng suy thoái mà duy trì được mức tăng trưởng dương trong khi nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Nền kinh tế phát triển còn góp phần đẩy chất lượng cuộc sống của người dân lên cao,

128

mức sống người dân cũng ngày càng cải thiện hơn, thể hiện qua điểm khảo sát điều tra

đạt 3,83/5 điểm ở mức khá cao.

Bảng 4.10: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan đến Cơ quan quản lý nhà nước về BVMT

Mã Tiêu chí Điểm TB Độ lệch chuẩn

4,05 0,724 X11 (Q16) Bối cảnh và quan điểm chính trị của Đảng và Nhà nước về thuế BVMT trong thời gian qua thúc đẩy hoạt động thu thuế và QLNN đối với thuế BVMT.

X12 Chính sách của Nhà nước và tính nghiêm minh của luật pháp được tuân thủ và thực thi nghiêm túc trong công 3,77 0,864 (Q17) tác QLNN đối với thuế BVMT.

3,83 0,881 X13 (Q18) Sự phát triển kinh tế, mức sống người dân được cải thiện trong thời gian qua tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thu thuế và QLNN đối với thuế BVMT.

Bối cảnh xã hội, trình độ và nhận thức người dân về

3,83 0,802 X14 (Q19) BVMT nâng cao trong thời gian qua thúc đẩy hoạt động thu thuế và QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam.

Nguồn: Kết quả điều tra, khảo sát

Về bối cảnh xã hội, trình độ và nhận thức người dân về BVMT, sau hơn 30 năm đổi mới, nước ta nay đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phù hợp với kết quả khảo sát đạt 3,83/5 điểm. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn trước, thể hiện rõ nét nhất ở năng suất lao động của toàn xã hội được nâng cao, tạo tốc độ tăng trưởng khá và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tiềm lực quốc gia. Dân số

ngày càng tăng là động lực cho sự phát triển nguồn nhân lực về lâu dài, người dân chú trọng hơn vào giáo dục, nâng cao trình độ học thức về khoa học, kỹ thuật, y học,.. đẩy mạnh cải thiện chất lượng nhân lực hơn nữa để đáp ứng kịp thời mục tiêu toàn cầu

hóa. Bên cạnh sự đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển đất nước, con người cũng chú trọng hơn vào nhân tố sức khỏe, nhận thức được tầm quan trọng của sức khỏe trong quá trình hướng đến đích thành công. Khi nhu cầu y tế được chú trọng, mức độ ảnh hưởng từ môi trường cũng được lưu tâm hơn.

Trình độ dân trí cao hơn, kéo theo ý thức về sự quan trọng của BVMT cũng được nâng cao, người dân có xu hướng tập trung hơn vào các vấn đề môi trường: sản phẩm sinh

129

hoạt hằng ngày, sản phẩm nông nghiệp, nhu yếu phẩm,..có thân thiện với môi trường

hay gây ra tác hại lớn cho môi trường; tập trung tìm hiểu cách để giảm thiểu tối đa tác động xấu tới môi trường trong quá trình sản xuất, sinh hoạt; xử lý và phân loại rác thải phù hợp.

• Quy trình thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT (X3)

Về thủ tục nộp thuế BVMT, trong những năm gần đây, nhờ sự phát triển đi lên của các doanh nghiệp trong nước, bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp mới được thành lập, vì vậy mà các thủ tục nộp thuế BVMT đã được nhà nước cải thiện để đơn giản và minh bạch hơn, được các doanh nghiệp tham gia khảo sát đánh giá tốt với 3,83/5 điểm. Do có sự cải thiện này từ hệ thống quản lý nhà nước về thuế BVMT mà chi phí tuân

thủ thuế của doanh nghiệp giảm đi đáng kể, cụ thể là: Chi phí tiền và thời gian tiếp nhận thông tin về chính sách thuế, tiếp cận thông tin về thủ tục nộp thuế giảm đi do đã có nhiều kênh tra cứu trực tuyến rất thuận tiện cho doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế

BVMT. Chi phí và thời gian lập các chứng từ thuế, kê khai và quyết toán thuế giảm đi đáng kể do hệ thống quản lý thuế của nhà nước đã được cập nhật thường xuyên để đơn giản hơn, dễ quản lý hơn. Các chi phí khác như: chi phí ngầm để có được hóa đơn chứng từ, chi phí cho thanh tra thuế, các chi phí về thời gian chờ đợi giải quyết các thủ

tục hành chính thuế cũng giảm rõ rệt do việc quản lý nhà nước về thuế BVMT ngày càng nâng cao tính minh bạch và lấy hiệu quả quản lý lên hàng đầu.

Bảng 4.11: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan quy trình thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT

Mã Tiêu chí Điểm TB Độ lệch chuẩn

3,83 1,129 X31 (Q25) Thủ tục nộp thuế BVMT đã được cải thiện ngày càng đơn giản và minh bạch hơn trong thời gian gần đây.

Phương thức thanh toán và hoạch toán thuế BVMT đã X32 3,81 0,973 (Q26) được cải thiện và ngày càng thuận tiện hơn trong thời gian gần đây.

3,81 1,128 X33 (Q27) Các quy trình thanh kiểm tra đã được cải thiện và ngày càng minh bạch, thuận tiện hơn trong thời gian gần đây.

Nguồn: Kết quả điều tra

130

Về phương thức thanh toán và hoạch toán thuế BVMT, cũng được đánh giá khá tốt với 3,81/5 điểm. Trong những năm gần đây, Thuế BVMT đã được các doanh nghiệp thanh toán qua hệ thống ngân hàng, điều này giảm thiểu được thời gian chờ thanh toán thuế của doanh nghiệp cũng như tiết kiệm chi phí thanh toán thuế cho doanh nghiệp.

Đánh giá về các quy trình thanh kiểm tra đối với thuế BVMT, những năm gần đây, đã được cải thiệt rõ rệt và ngày càng minh bạch, đạt 3,81/5 điểm khá cao theo đánh giá của các doanh nghiệp tham gia khảo sát. Việc thanh tra kiểm tra về thuế

BVMT ngày càng khả thi, cụ thể, đồng thời và chính xác hơn để kịp thời phát hiện các sai sót trong việc chấp hành đóng thuế bảo thuế bảo hiểm môi trường và kịp thời phát hiện các doanh nghiệp có hành vi trốn thuế để xử lý nghiêm minh, đám bảo thuế

BVMT phải thu đúng, thu đủ. Đồng thời, việc thanh tra kiểm tra của nhà nước về thuế BVMT trong những năm gần đây đã bớt các thủ tục hành chính rườm ra, tiết kiệm thời gian và chi phí quản lý của nhà nước. Hơn nữa, việc thanh tra kiểm tra của nhà nước về thuế BVMT ngày càng minh bạch và mang tính chất khách quan, tạo nên sự công bằng

trong cho doanh nghiệp nói riêng và xã hội nói chung, điều này tạo cho doanh nghiệp nhận thức tốt hơn về trách nhiệm đóng thuế BVMT, nâng cao tinh thần tự nguyện đóng thuế của doanh nghiệp giúp đơn giản hóa việc quản lý nhà nước về thuế BVMT.

• Nhân tố liên quan đến ngành thuế về BVMT (X2)

Hệ thống luật thuế BVMT ở Việt Nam, theo các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự hài lòng về tính minh bạch, chặt chẽ, đúng đối tượng nộp thuế khi chỉ đánh giá ở mức trung bình chỉ đạt 3,22/5 điểm. Tuy nhiên, tác giả nhìn nhận rằng, luật thuế BVMT ngày càng được xây dựng minh bạch, chặt chẽ, áp dụng với đúng đối tượng nộp thuế. Toàn bộ các điều luật, chính sách thuế đều được công khai đầy đủ, rõ ràng, mọi người

dân đều có thể dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu.

Đánh giá về trình độ và đạo đức của công chức thuế, vốn là nhân tố có vai trò quan trọng trong công tác QLNN đối với thuế BVMT, theo kết quả khảo sát ở mức

khá với 3.36/5 điểm. Nhìn chung các công chức thuế đều có trình độ, phẩm chất đạo đức tốt, trung thành với Tổ quốc, phấn đấu với vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; gần dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu dân, phục vụ dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn

một số cá nhân đi ngược tổ chức, làm trái quy định nhằm trục lợi cá nhân như: nhận hối lộ, làm giấy tờ khống,.. làm ảnh hưởng hiệu quả, chất lượng làm việc của tổ chức.

131

Bảng 4.12: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan đến ngành thuế về BVMT

Mã Tiêu chí Điểm TB Độ lệch chuẩn

3,22 1,045 X21 (Q20) Hệ thống luật thuế BVMT được xây dựng minh bạch, chặt chẽ, đúng đối tượng nộp thuế.

Trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ thuế X22 3,36 0,958 (Q21) BVMT đáp ứng được yêu cầu công tác QLNN đối với thuế BVMT.

3,15 0,974 X23 (Q22) Cơ sở vật chất và hạ tầng của ngành thuế đáp ứng được yêu cầu công tác QLNN đối với thuế BVMT.

Các hoạt động tổ chức thực thi, thanh kiểm tra và xử X24 2,86 0,840 (Q23) phạt vi phạm theo pháp luật BVMT được triển khai quyết liệt và hiệu quả.

2,91 0,847 X25 (Q24) Bộ máy quản lý nhà nước về thuế BVMT hoạt động hiệu quả đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và thu đúng thu đủ trong thời gian qua.

Nguồn: Kết quả điều tra khảo sát

Về cơ sở vật chất và hạ tầng của ngành thuế, nhìn chung vẫn còn hạn chế, chỉ đạt 3,15/5 điểm khảo sát, mặc dù ngày càng được cải thiện để có một hệ thống CNTT hiện đại, ứng dụng tin học trong hầu hết các chức năng quản lý của cơ quan thuế với

hệ thống thông tin thuế từ cơ sở dữ liệu tập trung, đầy đủ theo yêu cầu quản lý của cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế. Hệ thống tin học ngành Thuế trong thời gian qua cũng đã phát huy hiệu quả tích cực với công tác quản lý thuế như việc xử lý thông tin quản lý thuế chính xác, kịp thời đáp ứng được nhu cầu quản lý thuế, giảm bớt thao tác xử lý

thủ công, trợ giúp phát hiện các trường hợp kê khai sai, nhanh chóng nắm được tình hình nộp thuế và nợ thuế hàng ngày, xử lý phạt nộp chậm theo đúng luật.

Đồng thời, các hoạt động tổ chức thực thi, thanh kiểm tra và xử phạt vi phạm theo pháp luật BVMT được triển khai quyết liệt và hiệu quả, bất chấp sự không hài lòng của các doanh nghiệp là đối tượng chịu thuế BVMT chỉ đánh giá thấp ở mức 2,86/5 điểm.Nhìn chung, quy trình thanh kiểm tra thuế tuân thủ rõ ràng các yêu cầu trong Luật BVMT. Đối với thanh kiểm tra, thanh tra thường xuyên được tiến hành trên

cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành; thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá

132

nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo

liên quan đến hành vi hành chính, quyết định hành chính của công chức quản lý thuế, phòng, chống tham nhũng hoặc do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao.

Liên quan đến Bộ máy quản lý thuế BVMT, hiệu lực của bộ máy quản lý thuế là nhân tố có ảnh hưởng lớn tới QLNN đối với thuế BVMT. Các thể chế quản lý kinh tế - xã hội được ban hành và thực hiện đồng bộ sẽ góp phần phát huy tối đa hiệu lực bộ máy quản lý thuế, từ đó đảm bảo hiệu quả vận hành chính sách thuế BVMT. Việc

phân cấp bộ máy quản lý thuế hỗ trợ cải thiện độ chính xác trong quản lý QLNN về thuế BVMT, giảm được tối đa các sai sót, rủi ro về thông tin doanh nghiệp nộp thuế cũng như các giấy tờ thu chi ngân sách từ thuế BVMT. Các cán bộ thuộc các bộ phận

thực hiện nghiêm túc, đúng nhiệm vụ, thực hiện thanh tra, đôn đốc kịp thời các doanh nghiệp, hộ gia đình trong việc kết hợp sản xuất, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng môi trường sống.

• Xu thế BVMT (X7)

Xu thế BVMT trên thế giới ngày càng lan rộng và có tác động ngày càng sâu rộng đến các lĩnh vực hoạt động nhạy cảm với môi trường tại Việt Nam. Các doanh

nghiệp là đối tượng chịu thuế BVMT cũng thừa nhận điều này khi đánh giá ở mức 3,67/5 điểm. Khi các tác động của biến đổi khí hậu ngày càng trở nên rõ ràng và mối quan tâm của công chúng ngày càng tăng cao, chúng ta có thể sẽ thấy sự leo thang của

các cuộc biểu tình của người dân, sự gia tăng vận động của nhân viên và sự gián đoạn chuỗi cung ứng nhiên liệu hóa thạch của các nhà hoạt động khí hậu. Cả khu vực nhà nước và tư nhân sẽ cần tập trung vào quá trình chuyển đổi nhanh chóng sang năng lượng các-bon thấp, cũng như đầu tư thực tế vào các giải pháp thu giữ các-bon, nhằm

giảm thiểu việc đốt than, dầu và khí đốt quy mô lớn đang diễn ra. Với tần suất ngày càng tăng của các hiện tượng thời tiết cực đoan và ngày càng nhiều dữ liệu về tác động của chúng, các công ty sẽ phải đối mặt với áp lực ngày càng lớn từ các nhà hoạch định

chính sách và nhà đầu tư về việc nghiêm túc hóa rủi ro khí hậu.

Sức ép quốc tế về BVMT ngày càng cao đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của đất nước vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đạt điểm đánh giá cao 4,09/5 điểm. Sức ép quốc tế về BVMT đang vừa là thách thức đồng thời

cũng là cơ hội lớn để nước ta thay đổi phương pháp sản xuất, hướng đến mục tiêu lâu dài, ổn định và an toàn. Tuy giai đoạn đầu sẽ tràn đầy sự khó khăn và thách thức, nhưng muốn phát triển lâu dài thì thay đổi là chắc chắn phải trải qua.

133

Bảng 4.13: Kết quả khảo sát thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố liên quan

xu thế BVMT tại Việt Nam

Mã Tiêu chí Điểm TB Độ lệch chuẩn

Xu thế BVMT trên thế giới và trong nước ngày càng lan rộng và có tác động ngày càng sâu rộng đến các lĩnh vực 3,67 1,025 X71 (Q39) hoạt động nhạy cảm với môi trường.

4,09 0,893 X72 (Q40) Sức ép quốc tế và trong nước về BVMT ngày càng cao đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của đất nước vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

X73 Vai trò và ảnh hưởng của các tổ chức BVMT trong và 3,86 0,994 (Q41) ngoài nước ngày càng lớn tại Việt Nam.

X74 Các hành động gây tổn hại đến môi trường ngày càng bị 3,39 1,068 (Q42) lên án và xử lý nghiêm khắc tại Việt Nam.

Nguồn: Kết quả điều tra

Vai trò và ảnh hưởng của các tổ chức BVMT trong và ngoài nước ngày càng lớn tại Việt Nam, đạt điểm đánh giá khá cao 3,86/5 điểm. Đến nay, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường đã được mở rộng thông qua nhiều đối tác song phương như Nhật Bản, Trung Quốc…, các tổ chức quốc tế như Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Bảo tồn

Thiên nhiên Thế giới (IUCN)... Các tổ chức BVMT cả trong và ngoài nước hiện nay đều đóng vai trò và sức ảnh hưởng ngày càng lớn tới người dân, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên – tầng lớp mới dẫn dắt và phát triển nền kinh tế trong tương lai.

Mặt khác, các hành động gây tổn hại đến môi trường ngày càng bị lên án và xử lý nghiêm khắc tại Việt Nam. Ngoài giáo dục, ý thức của con người cũng được hình thành dựa trên áp lực. Áp lực truyền thông cũng là một loại áp lực, khi hành vi của mình bị chỉ trích, lên án gay gắt, con người có xu hướng đi theo đám đông (trường hợp

các vấn đề môi trường là hợp lý) khi nhận thức được hành vi đi ngược xã hội và gây ra thiệt hại, tổn thất cho xã hội của mình, hình thành ý thức mạnh mẽ về vấn đề môi trường, ý thức cao thì khả năng tuân thủ nghĩa vụ thuế càng cao.

134

CHƯƠNG 5: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

5.1. Những căn cứ đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam

5.1.1. Bối cảnh quốc tế

Tăng trưởng của khu vực châu Á – Thái Bình Dương nhanh nhưng chưa bền vững. Trong 20 năm qua, GDP của khu vực này tăng gấp 3 lần, vượt qua tốc độ phát triển của các khu vực đã công nghiệp hóa như Châu Âu. Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng của các quốc gia thuộc khu vực này đi kèm với tỷ lệ tiêu thụ năng lượng hóa

thạch cao, phát thải khí nhà kính GHG từ năng lượng, nông nghiệp, vận tải, ô nhiễm cục bộ và cạn kiệt tài nguyên. Cường độ tiêu thụ năng lượng ở các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương cao hơn nhiều so với các nước phát triển. Tài nguyên thiên nhiên ở

khu vực này cũng đang giảm dần do tốc độ khai thác và tiêu thụ tài nguyên thiện nhiên từ năm 1970 đến năm 2020 đã tăng hơn 6 lần. Ngày nay, xói mòn nước, xói mòn gió và suy thoái đất là vấn đề rất nghiêm trọng ở các quốc gia châu Á như Bangladesh, Campuchia, Malaysia, Pakistan, Thái Lan và Việt Nam (FAO, 2015). Bên cạnh đó, tình trạng thiên tai ngày càng nghiêm trọng đã gây ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân trên toàn thế giới.

Tại nhiều quốc gia phát triển thuộc khu vực châu Á- Thái Bình Dương, ngân sách để đầu tư cho cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội là một thách thức lớn. Các quốc gia này có tỷ lệ thuế trên GDP ở mức thấp hơn so với các nước OECD như Nhật Bản hay

Đức. Khi nguồn ngân sách hạn chế, mức độ linh hoạt của chính phủ trong việc đầu tư phát triển cũng hạn chế theo. Yêu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng ở các quốc gia đang phát triển như Lào, Campuchia, Việt Nam, Uzbekistan, Tajikistan, Kyrgyzstan và Afghanishtan cao hơn nhiều, đặc biệt là về vận tải. Do đó, tại các quốc gia đang phát

triển có tỷ lệ thuế trên GDP thấp, việc thu thuế BVMT để gia tăng nguồn ngân sách quốc nội là rất phù hợp, giúp tăng doanh thu nội địa theo thời gian, cải thiện năng lực cung cấp dịch vụ của chính phủ. Thuế BVMT có thể giải quyết tất cả những vấn đề bao

gồm khai thác quá mức tài nguyên không thể tái tạo, xả thải quá mức ra môi trường.

Các quốc gia thuộc khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã tuyên bố rằng chiến

lược giảm thiểu carbon trong Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định (INDC) và được đệ trình lên UNFCCC. Các lĩnh vực chính mà các quốc gia tập trung vào là năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất, cũng như giao thông và chất thải, tất

135

cả đều có thể được nhắm mục tiêu bởi thuế BVMT (UNESCAP, 2016). Trong hiệp

định Paris 2015, các thành viên của UNFCCC đã khẳng định đồng ý với con đường phát triển với mục đích duy trì mức tăng nhiệt độ trái đất trong thế kỷ này dưới 2oC. Các chiến dịch nâng cao nhận thức của con người như chiến lịch Line Redraw của Line do ADB tài trợ đã đã thu hút rất đông đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng.

5.1.2. Bối cảnh trong nước

Ở nước ta hiện nay, sự tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên chứ chưa dựa vào ứng dụng công nghệ cao, tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao

nhưng kèm theo đó là tình trạng ô nhiễm môi trường đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Những đối tượng chịu thuế BVMT như các nhà máy sản xuất và chế biến, đặc biệt là nhà máy nhiệt điện đã sử dụng quá mức tài nguyên, tạo ra nhiều chất độc hại

gây ô nhiễm đất, nước và không khí, gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người và làm trái đất nóng lên. Theo thống kê của Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA), tổng phát thải CO2 của Việt Nam chủ yếu do các nhà máy nhiệt điện và nhóm ngành công nghiệp – xây dựng. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất công và nông nghiệp ở nước ta

vẫn còn sử dụng công nghệ lạc hậu. Trong nông nghiệp, tập quán canh tác lạc hậu, sử dụng quá mức hóa chất (thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ) và việc đốt rơm rạ bừa bãi, trong khi đó, hoạt động công nghiệp xả thải trực tiếp ra môi trường mà không có bất kỳ một phương pháp xử lý chất thải nào. Đặc biệt, quá trình đô thị hóa diễn ra quá nhanh với

sự tăng lên của phương tiện giao thông cơ giới, các khu công nghiệp, mật độ dân số việc xả thải rác sinh hoạt, các loại khí độc hại, tiếng ồn khiến cho chất lượng đất, nước và không khí tại các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh giảm sút

nghiêm trọng. Cùng với đó, các thảm họa thiên nhiên như hạn hán, bão, lũ lụt và triều cường đã và đang tác động trực tiếp đến đời sống của con người.

5.1.3. Chủ trương của Đảng và nhà nước

- Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về hoàn thiện chính sách thuế nhằm mục tiêu cơ cấu lại nguồn thu NSNN mà Bộ Chính trị và Quốc hội đã đặt ra tại các Nghị quyết số 07-NQ/TW và Nghị quyết số 25/2016/QH14. Khắc phục những vướng mắc của Luật thuế BVMT hiện hành,nghiên cứu bổ sung thêm đối tượng chịu thuế BVMT; nghiên cứu điều chỉnh khung và mức thuế BVMT nhằm đảm bảo chính sách thuế BVMT là một công cụ kinh tế quan trọng góp phần hạn chế việc sản xuất, sử dụng hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, khuyến khích việc sản xuất, sử dụng hàng hóa thân thiện với môi trường, hướng tới phát triển bền vững; đảm bảo mức thuế BVMT tiếp cận dần với mức độ ô nhiễm của các loại hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế.

136

- Việc BVMT là trách nhiệm của mọi người, mọi nhà, mọi cơ quan và tổ chức. Bất kỳ đối tượng nào được hưởng lợi từ môi trường, bao gồm cá nhân, hộ gia đình, cơ quan và tổ chức, đều phải có nghĩa vụ đóng góp tài chính để BVMT. Những đối tượng nào có hành vi gây tổn hại đến môi trường đều phải chịu các hình thức xử phạt do luật pháp quy định.

- Việc BVMT cần gắn liền với sự phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo tồn sự đa dạng sinh học và ứng phó với sự biến đổi khí hậu, trên cơ sở sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và giảm thiểu lượng chất thải chưa qua xử lý thải ra môi trường. BVMT trong nước phải gắn liền với BVMT toàn cầu, phù hợp với đặc điểm văn hóa, xã hội và tự nhiên của Việt Nam và không gây phương hại đến chủ quyền quốc gia.

- Nhà nước luôn luôn khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, hộ gia đình, cơ quan và tổ chức thực hiện các hành động nhằm BVMT, bảo tồn đa dạng sinh học, khai thác, sử dụng tiết kiệm và hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, sản xuất và sử dụng năng lượng sạch và năng lượng tái tạo, tái sử dụng và tái chế rác thải để hạn chế ô nhiễm môi trường. Đối với những hoạt động SXKD theo hướng xanh, Nhà nước có cơ chế khuyến khích và hỗ trợ về mặt tài chính và đất đai.

Nhà nước còn chú trọng xây dựng nguồn lực để BVMT bao gồm nguồn nhân lực, công nghệ và vốn. Về công nghệ, Đảng và nhà nước chú trọng phát triển công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường. Về vốn, nhà nước chú trọng đa dạng hóa các nguồn đầu tư BVMT, việc BVMT được bố trí một khoản chi riêng trong ngân sách tối thiểu 1%, đồng thời tỷ lệ này sẽ tăng dần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước. Ngoài ra, Nhà nước cũng đề cao việc mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế về BVMT, đồng thời thực hiện đầy đủ các cam kết về BVMT.

5.2. Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam

5.2.1. Đề xuất quan điểm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề tài đề xuất một số quan điểm nhằm hoàn

thiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT ở Việt Nam, cụ thể như sau:

Thứ nhất, việc BVMT là yêu cầu quan trọng, cấp bách và là vấn đề sống còn của nhân loại trên toàn cầu chứ không riêng gì Đất nước Việt Nam. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam gắn liền với chiến

lược BVMT để tạo có được sự tăng trưởng bền vững. Có như thế, sự tăng trưởng kinh tế mới đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại, đảm bảo được tiềm năng và cơ hội

137

cho các thế hệ trong tương lai. Việc đầu tư kinh phí, ngân sách cho hoạt động gìn giữ

và BVMT chính là đầu tư cho sự phát triển bền vững.

Thứ hai, thực hiện pháp luật về thuế BVMT cần phải có sự phù hợp với lý luận khoa học về BVMT. Quá trình thực hiện Luật thuế BVMT cần đặc biệt lưu ý đến các vấn đề mang tính lý luận khoa học về BVMT để có sự vận dụng đúng đắn và hiệu quả, từ đó giải quyết tốt các vấn đề phát sinh trong thực hiện luật thuế BVMT. Việc vận

dụng lý luận khoa học về BVMT cần phải linh hoạt để đảm bảo sự phù hợp với trình độ và năng lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, không nên áp dụng quá cứng nhắc nhưng cũng không được xa rời lý luận khoa học.

Thứ ba, QLNN đối với thuế BVMT ở Việt Nam cần phải có sự phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ nhất định. Thuế, phí

BVMT có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đóng góp vào nguồn ngân sách nhà nước để nhà nước có kinh phí thực hiện các dự án bảo vệ, gìn giữ môi trường, bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên và khắc phục những sai phạm của các tổ chức, cá nhân trong BVMT. Thực hiện QLNN đối với thuế BVMT là góp phần thúc đẩy sự phát triển

bền vững của kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, việc thu thuế, phí quá cao, không hợp lý, không đúng đối tượng hoặc không hiệu quả sẽ khiến cho nền kinh tế bị trì trệ, vai trò bảo thuế BVMT không còn phát huy đầy đủ tác dụng như mong muốn.

Thứ tư, thực hiện QLNN đối với thuế BVMT cần phải gắn liền với việc thực hiện tổng thể các quy định, chính sách và luật pháp có liên quan trong hệ thống pháp luật Việt Nam. QLNN đối với thuế BVMT là một phần không thể tách trời trong toàn bộ hệ thống pháp luật của đất nước. Do đó, quá trình thực hiện QLNN về thuế BVMT không phải là việc làm độc lập, riêng biệt mà cần có sự phối hợp, hỗ trợ, tương tác

giữa tất cả các quy định pháp lý có liên quan. Tuy nhiên, để hiệu quả QLNN được nâng cao, cần hạn chế tối đa sự chồng chéo, xung đột trong nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn của các cá nhân, cơ quan chức năng.

Thứ năm, QLNN về thuế BVMT cần phải phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, các hiệp định và hiệp ước thương mại. Việc thực hiện QLNN về thuế BVMT (bao gồm

cả hoạt động thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế BVMT) cần phải xuất phát từ tình hình thực tiễn về kinh tế, xã hội, môi trường, nguồn lực và mục tiêu phát triển của Việt Nam trong các giai đoạn phát triển. Việc hoạch định, thực thi, thanh kiểm tra thực thi các chính sách và luật pháp về thuế BVMT không thể đòi hỏi sự tiến bộ quá nhanh

chóng, ở mức độ quá cao so với thực lực của đất nước. Ngược lại, QLNN đối với hoạt động BVMT và thuế BVMT cần có sự tiếp thu, học hỏi có chọn lọc kinh nghiệm của các

138

quốc gia trên thế giới, vận dụng từng bước trên cơ sở tuân thủ các quy tắc và cam kết

trong các hiệp định, hiệp ước mà Việt Nam đã tham gia ký kết nhằm chung tay BVMT toàn cầu, khẳng định và củng cố hình ảnh, uy tín của đất nước đối với bạn bè quốc tế.

Thứ sáu, để QLNN đối với thuế BVMT có hiệu quả, cần thực hiện đồng bộ và có hệ thống các giải pháp, chính sách và chiến lược do Đảng và Nhà nước đề ra. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả QLNN đối với thuế BVMT bao gồm:(i) Nghiên cứu,

sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật về BVMT; (ii) nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ phục vụ trong bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương; (iii) đẩy mạnh công tác xử lý các hành vi tham ô, tham nhũng và lạm dụng chức quyền trong quá trình thực thi luật pháp; (iv) chú trọng đầu tư vào hoạt động giáo

dục, đào tạo, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của nhân dân…

Thứ bảy, từng bước nâng cao tỷ lệ thuế BVMT trên GDP, bởi thuế BVMT là giải pháp kinh tế tài chính quan trọng, là nguồn đóng góp đáng kể vào NSNN để giảm thiểu ô nhiễm môi trường và sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên không có khả năng tái tạo, từ đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo hướng bền

vững. Tăng thuế BVMT sẽ đồng nghĩa với việc làm giảm tốc độ phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước sẽ có giải pháp, chính sách để ứng phó với vấn đề này, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ khai thác tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo sang khai thác và sản xuất nguồn tài nguyên xanh, sạch. Việc phân phối nguồn ngân sách nhà

nước cho các hoạt động BVMT cần được nghiên cứu, tính toán một cách kỹ lưỡng, đồng thời đảm bảo nguyên tắc rõ ràng, minh bạch và hiệu quả.

5.2.2. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường

5.2.2.1. Giải pháp xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về thuế bảo vệ môi trường

Để giải quyết hạn chế và nguyên nhân thứ nhất về xây dựng và ban hành các

văn bản pháp luật quản lý nhà nước đối với thuế BVMT, cũng như dựa trên quan điểm thứ nhất về hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT ở Việt Nam, đề tài đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về thuế

BVMT tại Việt Nam. Các giải pháp này cũng hướng đến giải quyết, khắc phục các vấn đề từ kết quả nghiên cứu định lượng về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về thuế BVMT ở Việt Nam đó là hệ thống luật thuế BVMT được xây dựng chưa thực sự minh bạch, chặt chẽ, và đúng đối tượng nộp thuế. Các giải

pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, để khắc phục hạn chế thứ nhất về luật thuế BVMT chưa thực sự minh bạch và rõ ràng, trong thời gian tới, Luật thuế BVMT cần được nghiên cứu, sửa đổi và

139

bổ sung các quy định về phạm vi điều chỉnh, giải thích từ ngữ (túi nilon, dung dịch

HCFC) để đảm bảo các thuật ngữ sử dụng trong luật chính xác, tránh việc gây khó khăn trong việc nhận biết thế nào là túi ni lông thuộc diện chịu thuế. Vì vậy, đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản này cho phù hợp.

Thứ hai, để giải quyết hạn chế thứ nhất về tính thiếu công bằng của thuế BVMT, cụ thể, phạm vi đối tượng chịu thuế trong luật còn hạn hẹp, chưa đảm bảo

được nhân tố công bằng khi đánh thuế bởi hiện nay còn nhiều loại sản phẩm và hàng hóa khi sử dụng có khả năng gây ô nhiễm môi trường (chẳng hạn như chất tẩy rửa trong công nghiệp, thuốc lá, ắc quy, phân bón, chất thải phóng xạ,...), cần bổ sung thêm các loại sản phẩm, hàng hóa khi dùng sẽ gây ra ô nhiễm môi trường. Đồng thời,

xây dựng lộ trình hợp lý trong việc mở rộng đối tượng chịu thuế cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế nước nhà và khả năng tài chính của đối tượng nộp thuế.

Về đối tượng chịu thuế, cần xác định các đối tượng có khả năng gây ra mức độ ô nhiễm môi trường một cách đáng kể, đồng thời cần có biện pháp xác định mức độ ô nhiễm do đối tượng đó gây ra nhằm đảm bảo cho việc áp dụng luật thuế BVMT có căn

cứ rõ ràng và minh bạch. Luật thuế BVMT cần liệt kê đầy đủ, rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu các đối tượng thuộc diện chịu thuế.

- Về xăng, dầu, mỡ nhờn, tại Khoản 1 Điều 3 của Luật Thuế BVMT 2014 có quy định các loại xăng, dầu, mỡ nhờn thuộc đối tượng chịu thuế BVMT, tuy nhiên so với Khoản 1 Điều 2 của Nghị định số 67/2011/NĐ-CP ban hành ngày 08/08/2011 của

Chính phủ quy định, chỉ những loại xăng, dầu, mỡ nhờn có nguồn gốc hóa thạch mới phải chịu thuế này. Vì vậy, cần bổ sung cụm từ “có nguồn gốc hóa thạch” vào Khoản 1 Điều 3 Luật Thuế BVMT 2014.

- Về dung dịch HCFC, đề nghị đưa các loại chất hỗn hợp có chứa HCFC vào diện chịu thuế bằng cách bổ sung cụm từ “bao gồm các chất hỗn hợp có chứa hợp chất HCFC” vào Khoản 4 Điều 1 của Luật Thuế BVMT 2014.

- Về túi ni lông thuộc diện chịu thuế, ngày nay có nhiều loại túi ni lông có khả

năng tự phân hủy và không gây hại cho môi trường, vì vậy đề nghị bổ sung cụm từ “loại trừ các loại bao bì đóng gói sẵn hàng hóa và các loại túi ni lông thân thiện với môi trường theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường” vào Khoản 4 Điều 3 của Luật Thuế BVMT 2014. Bên cạnh đó, thực tế triển khai luật cho thấy còn rất nhiều tổ

chức, cơ sở lợi dụng kẽ hở của luật để lách luật, khiến cho việc áp dụng và thu thuế ni lông còn nhỏ giọt, gây thất thu ngân sách nhà nước rất lớn. Đề nghị bổ sung, sửa đổi nội dung quy định về túi ni lông sao cho chặt chẽ nhất để siết chặt QLNN đối với loại

sản phẩm này.

140

- Đề nghị bổ sung vào đối tượng chịu thuế các loại tài nguyên không có khả

năng phục hồi bao gồm các loại khoáng sản thiên nhiên (các loại quặng), nguồn đất, nguồn nước, rừng nguyên sinh, các loại gỗ và động vật quý hiếm…Đồng thời áp dụng mức thuế suất cao đối với việc khai thác và sử dụng các loại tài nguyên này.

- Ngoài ra, thực tế có nhiều hàng hóa khi sử dụng, thải bỏ gây ô nhiễm môi trường với các mức độ khác nhau cần được nghiên cứu, rà soát kỹ để bổ sung vào đối

tượng chịu thuế BVMT như:

+ Các chất tẩy rửa: được sử dụng rất nhiều trong vệ sinh và được sử dụng rộng rãi, phổ biến tại nhiều nơi. Trong chất tẩy rửa đều có chứa các hóa chất tổng hợp và các hóa chất này đều có thể gây hại cho sức khỏe con người, cũng như gây ô nhiễm không khí khi sử dụng. Tuy nhiên, chất tẩy rửa gồm rất nhiều các sản phẩm như bột

giặt, nước làm mềm vải, nước rửa chén, xà bông tắm, kem đánh răng... với thành phần cấu tạo và tính chất lý, hóa khác nhau. Do đó, để bổ sung chất tẩy rửa vào đối tượng chịu thuế BVMT cần phải định danh và phân loại rõ ràng và tránh thuế chồng thuế.

+ Phân bón hóa học: Tại Việt Nam, phân vô cơ được sử dụng phổ biến trong thực tiễn sản xuất gây tiềm ẩn lớn về nguy cơ ô nhiễm môi trường nước, đất và không khí. Phân hữu cơ chưa qua xử lý cũng gây ô nhiễm đất nghiêm trọng, vì trong phân có

chứa lượng lớn các vi sinh vật gây bệnh như E.Coli gây bệnh đường ruột, các ấu trùng sán lá, thương hàn,... Phân hữu cơ sau khi gây ô nhiễm cho môi trường đất sẽ dễ dàng làm thay đổi tính chất của các hệ mạch nước ngầm và có thể gây đột biến gen đối với

một số loại cây trồng. Tuy nhiên, đây cũng là sản phẩm có rất nhiều loại khác nhau (khoảng hơn 13.000 sản phẩm), vậy việc lựa chọn các sản phẩm nào để đánh thuế cũng cần phải định danh cụ thể.

- Pin: Trong pin thường có các kim loại nặng như chì, thủy ngân, cadmium và thạch tín… đều là những chất cực độc, nguy hiểm cho não, thận, tim mạch và khả năng sinh sản của con người

- Chất kích thích tăng trưởng: Chất kích thích tăng trưởng dùng cho thực vật bao gồm các hoạt chất như NAA, Gibberellin, Xytokinin. Các chất này là nguyên nhân gây rối loạn nhịp tim, tăng huyết áp, liệt cơ, run cơ, phù nề, thậm chí dẫn đến ung thư cho người sử dụng thực phẩm có chứa chất kích thích tăng trưởng.

Về đối tượng không chịu thuế, tại điểm a, Khoản 2 Điều 4 của Luật BVMT 2014, đối tượng không chịu thuế BVMT bao gồm “hàng hóa vận chuyển quá cảnh hoặc chuyển khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam…” Tuy nhiên, tại điểm a Khoản

4, Điều 2 của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, ngoài hàng hóa quá cảnh, chuyển

141

khẩu còn có hàng hóa trung chuyển. Vì vậy, đề nghị bổ sung cụm từ “hàng hóa trung

chuyển” vào Điểm a, Khoản 2, Điều 4 của Luật Thuế BVMT 2014.

Chuyển quy định về hoàn thuế đối với hàng hóa tạm nhập, tái xuất tại Khoản 3

và Khoản 5 Điều 11 sang đối tượng không chịu thuế tại Điều 4 trong Luật Thuế BVMT 2014. Đồng thời, bổ sung quy định về các loại hàng được sản xuất từ việc nhập khẩu nguyên liệu, vật tư để gia công hoặc sản xuất sau đó đem xuất khẩu nằm trong

đối tượng không chịu thuế BVMT vào Điều 4 trong Luật Thuế BVMT 2014.

Thứ ba, cần xây dựng biểu thuế hợp lý với các đối tượng chịu thuế. Cần có sự tính toán và thống kê toàn diện đối với những sản phẩm/ hàng hóa có mức tác động không lớn; hoặc những sản phẩm/ hàng hóa có gây ô nhiễm ở hiện tại nhưng chưa có sản phẩm thay thế để đưa ra mức thuế hợp lý, đảm bảo tính cạnh tranh, tính ổn định cho các mặt hàng này. Trong ngắn hạn, có thể áp dụng thuế suất 0% hoặc có các chính sách ưu đãi, giảm thuế, miễn thuế để tạo lộ trình thích hợp, giúp đối tượng nộp thuế thích ứng dần dần với loại thuế này. Cụ thể:

Về phương pháp tính thuế, phương pháp tính thuế cần được nghiên cứu, xây dựng dựa trên cơ sở khoa học và cần phải đơn giản, thuận tiện, dễ áp dụng, dễ quản lý để làm cơ sở tính toán số thuế phải nộp dựa vào mức độ gây ô nhiễm và thiệt hại cho môi trường và chi phí dự kiến cần thiết để bù đắp những thiệt hại và tổn thất đó.

Để giải quyết hạn chế thứ nhất về việc vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn trong xây dựng pháp luật về thuế BVMT, cụ thể, so sánh giữa Điều 6 và Điều 7 của Luật Thuế BVMT 2014, chưa có sự thống nhất giữa “số lượng hàng hóa tính thuế” và “số lượng đơn vị hàng hóa chịu thuế”, gây nhầm lẫn và không rõ ràng trong việc tính toán thuế BVMT. Vì vậy, đề nghị sửa đổi cụm từ “số lượng đơn vị hàng hóa chịu thuế” trong Điều 7 của Luật Thuế BVMT 2014 thành “số lượng hàng hóa tính thuế” để có sự thống nhất giữa Điều 6 và Điều 7 của luật này.

Về biểu khung thuế, mục đích của biểu khung thuế BVMT là nhằm giảm dần việc sử dụng các loại sản phẩm có tác động tiêu cực đến môi trường và làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Biểu khung thuế được thiết lập theo từng mức độ gây tác động xấu đến môi trường và căn cứ vào nhu cầu, thực trạng phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, biểu khung thuế BVMT trong Luật Thuế BVMT 2014 vẫn còn một số bất cập như mức thuế BVMT đối với mặt hàng xăng dầu đang được áp ở mức bằng hoặc gần bằng mức tối đa trong khung thuế trong khi đó Việt Nam cam kết với quốc tế là cắt giảm dần thuế nhập khẩu đối với mặt hàng xăng dầu.

Đề nghị tăng thuế BVMT đối với các loại tài nguyên không có khả năng tái tạo,

đặc biệt là với xăng, dầu, mỡ nhờn, các loại khoáng sản thiên nhiên dựa trên việc tính

142

toán các nhân tố như việc đảm bảo lợi ích quốc gia khi cắt giảm dần thuế nhập khẩu

xăng dầu theo cam kết trong các hiệp định thương mại tự do, chủ động ứng phó khi giá dầu thế giới biến động bất thường, mức độ ô nhiễm môi trường do tiêu thụ xăng dầu gây ra, tỷ lệ thuế trên giá cơ sở của Việt Nam, nâng cao ý thực trách nhiệm của cộng đồng đối với công tác BVMT, đảm bảo tính ổn định của luật và đảm bảo thực hiện cam kết BVMT của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế.

Nghiên cứu, quy định và áp dụng mức thuế ưu đãi đối với các loại xăng dầu sinh học trên cơ sở đồng bộ và thống nhất với các Luật liên quan nhằm khuyến khích sản xuất và sử dụng xăng dầu sinh học, và hạn chế sử dụng xăng dầu có nguồn gốc hóa thạch.

Đối với hợp chất hydro-chloro-fluoro-carbon, hiện tại pháp luật Việt Nam chưa có lệnh cấm sử dụng loại hợp chất này. Mức thuế áp dụng đối với hợp chất này đang ở

mức cao nhất trong khung thuế, tuy nhiên để đẩy nhanh tốc độ loại bỏ hoàn toàn hợp chất này, đề nghị nghiên cứu và điều chỉnh lại mức thuế BVMT đối với dung dịch HCFC và các hỗn hợp chứa hợp chất HCFC nhằm nhanh chóng loại bỏ hoàn toàn việc sử dụng hợp chất này theo Nghị định thư Montreal.

Túi ni lông thuộc đối tượng chịu thuế là loại sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường, và mức thuế hiện tại đối với loại hàng hóa này vẫn còn quá nhẹ và chưa

có tác dụng thay đổi hành vi của người sử dụng. Vì vậy, đề nghị tăng mức thuế BVMT đối với túi ni lông thuộc diện chịu thuế lên mức thuế cao nhất, đồng thời có cơ chế khuyến khích sản xuất và sử dụng các loại túi ni lông thân thiện với môi trường.

Về thời điểm tính thuế, theo quy định tại Khoản 4 Điều 9 của Luật BVMT 2014, thời điểm tính thuế BVMT chưa phù hợp và thống nhất với quy định tại Khoản

2 Điều 5 của Nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ và điểm b.1 Khoản 4 Điều 15 của Thông tư số 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013. Theo Nghị định và Thông tư này, thuế BVMT, các công ty kinh doanh xăng, dầu đầu mối không cần thực hiện kê khai, nộp thuế BVMT đối với lượng xăng, dầu xuất bán

các công ty kinh doanh xăng dầu đầu mối khác. Tuy nhiên, trong Luật Thuế BVMT 2014 không quy định rõ điều này. Vì vậy, đề nghị sửa đổi thời điểm tính thuế BVMT lúc xuất bán xăng dầu sang thời điểm nhập khẩu đối với xăng dầu nhập khẩu và thời

điểm bán ra đối với xăng dầu sản xuất trong nước.

Về khấu trừ thuế đối với xăng dầu gốc hóa thạch được mua hoặc nhập khẩu để

sản xuất xăng dầu sinh học, đề nghị khấu trừ hoàn toàn phần thuế BVMT tương ứng với tỷ lệ xăng dầu gốc hóa thạch trong xăng, dầu sinh học, tương ứng với khoản thuế BVMT áp dụng cho xăng, dầu gốc hóa thạch được mua hoặc nhập khẩu để sản xuất

143

lượng xăng, dầu sinh học đó nhằm loại bỏ tình trạng thu thuế hai lần đối với cùng một

lượng xăng, dầu sinh học xuất bán.

Thứ tư, về mức thuế đối với một số đối tượng chịu thuế: các nguyên tắc mà luật đang sử dụng chưa có căn cứ pháp lý để đảm bảo tính phù hợp, ổn định khi xác định một mức thuế, dẫn đến tình trạng tùy tiện, thiếu căn cứ khi đưa ra quy định về mức thuế cụ thể. Chính vì thế, cần thu hẹp biên độ của biểu khung thuế để tạo sự ổn định cho luật, tạo tâm lý thoái mái cho các ngành sản xuất trong nước cũng như các doanh nghiệp khi xác định kế hoạch sản xuất, giá cả. Ngoài ra, khung biểu thuế của một số mặt hàng còn chưa hợp lý và chưa thống nhất tiêu chí áp xác định mức thuế khiến một số mức thuế quy định chưa tương xứng với mức độ gây ô nhiễm của sản phẩm. Để khắc phục, cần học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia đi trước để đưa ra bộ tiêu chí rõ ràng khi xác định mức thuế phải nộp để đảm bảo công bằng đối với các mặt hàng chịu thuế, đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích của nhà nước và đối tượng nộp thuế.

Thứ năm, để khắc phục hạn chế và nguyên nhân thứ nhất về hệ thống thuế BVMT chưa được tổ chức phù hợp, đôi khi vượt quá mức cho phép, trong bối cảnh kinh tế xã hội đất nước và các đối tượng nộp thuế, cần bổ sung thêm vào Luật thuế BVMT các chính sách ưu đãi, miễn, giảm thuế đối với một số đối tượng để giảm bớt những tác động xấu đến môi trường trong quá trình hoạt động. Chẳng hạn như các doanh nghiệp chuyển đổi sang công nghệ sạch sẽ được giảm thuế trong một khoảng thời gian nhất định; doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng công nghệ giảm ô nhiễm môi trường sẽ được miễn thuế trong giai đoạn nghiên cứu; các chất thải nếu có hàm lượng gây ô nhiễm dưới mức tối thiểu (theo tiêu chuẩn môi trường) sẽ được miến thuế.Hơn nữa, đề nghị miễn thuế đối với những doanh nghiệp, cơ sở SXKD có sản phẩm gây ô nhiễm nhưng mức độ gây ô nhiễm dưới mức tối thiểu theo tiêu chuẩn môi trường để thúc đẩy hoạt động SXKD của nhóm đối tượng này.

Thứ sáu, cần đưa ra các chế tài nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm nghĩa vụ nộp thuế để hạn chế việc đối tượng lợi dụng sự cho phép tự giác của nhà nước để trốn lậu thuế. Song song với đó, các văn bản luật thuế BVMT cần hoàn thiện các quy định về chế tài, xử lý nghiêm những vi phạm trong lĩnh vực thuế để nâng cao

ý thức của người dân trong việc thực thi luật này.

Thứ bảy, cần chuyển thời điểm tính thuế BVMT đối với sản phẩm xăng dầu từ thời điểm đầu mối kinh doanh xăng dầu bán ra sang thời điểm nhập khẩu (đối với xăng dầu nhập khẩu) và thời điểm bán ra (đối với xăng dầu sản xuất trong nước) để phù hợp với luật ngân sách nhà nước năm 2015, kịp huy động tiền thuế vào ngân sách nhà nước, tạo luận lợi cho doanh nghiệp trong việc kê khải, quản lý và nộp thuế, và tạo thuận lợi cho các cơ quan quản lý trong việc giám sát quá trình thực hiện.

144

Thứ tám, hoàn thiện các quy định về pháp luật về BVMT để đủ sức tác động vào quá trình xã hội, nhận thức của người dân trên cả ba mặt: (1) khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, (2) giữ gìn và BVMT, và (3) ngăn ngừa các sự cố và phục hồi môi trường trong trường hợp bị tàn phá bởi các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Cụ thể, khung pháp luật BVMT phải gắn với mục tiêu kinh tế và ổn định xã hội; ban hành các văn bản dưới luật về hướng dẫn và thi hành một số trường hợp cụ thể phát sinh trong thực tế; hệ thống pháp luật cần hoàn thiện tương ứng với các công ước quốc tế, các hiệp định song phương và đa phương mà nước ta đang tham gia.

Việc áp dụng công cụ thuế, phí để điều chỉnh hành vi gây ô nhiễm môi trường là chưa đủ, mà cần có sự áp dụng các luật pháp liên quan, trong đó bao gồm Bộ Luật hình sự. Đối với các hành vi gây hủy hoại môi trường một cách nghiêm trọng và không thể phục hồi, không thể áp dụng thuế hoặc phí để điều chỉnh, các hành vi gian lận thuế hoặc trốn thuế thì cần phải có sự xử phạt nghiêm khắc hơn. Tại Điều 233, Điều 234, Điều 235, Điều 236, Điều 237, Điều 239, Điều 243 và 244 của Bộ Luật hình sự 2015 có quy định phạm vi và mức xử phạt đối với các loại tội phạm gây hủy hoại môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Để nâng cao tính răn đe và hạn chế tối đa khả năng gây hủy hoại của các đối tượng này, đề nghị nâng mức hình phạt cao hơn so với mức xử phạt hiện tại.

5.2.2.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

Để khắc phục hạn chế và nguyên nhân thứ hai về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với thuế BVMT, đồng thời vận dụng quan điểm thứ sáu về hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT ở Việt Nam, đề tài đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thuế BVMT. Các giải pháp này cũng nhằm giải quyết các vấn đề từ kết quả nghiên cứu định lượng về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về thuế BVMT ở Việt Nam như Bộ máy quản lý nhà nước về thuế BVMT hoạt động chưa hiệu quả, chưa thực sự đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và thu đúng thu đủ trong thời gian qua.

Thứ nhất, để giải quyết hạn chế thứ hai về bộ máy QLNN đối với thuế BVMT chưa thực sự được tổ chức căn cứ vào mục tiêu, năng lực của cán bộ chuyên trách, cần xây dựng bộ máy QLNN hiệu quả để quản lý tốt việc áp dụng thuế vào thực tế và tăng cường công tác thanh tra, giám sát quá trình thực hiện thuế. Các cán bộ tại các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền cần được đào tạo thường xuyên cả về đạo đức và chuyên môn nghiệp vụ để triển khai luật thuế vào thực tế. Đồng thời, công tác phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành từ trung ương đến địa phương cần chặt chẽ và thống nhất hơn nữa để

nâng cao năng lực quản lý của nhà nước.

145

Đặc biệt, để khắc phục hạn chế này, cần sắp xếp lại và tinh giản bộ máy QLNN

đối với thuế BVMT nhằm khắc phục sự cồng kềnh, chồng chéo và nhiều nấc, cắt giảm các thủ tục rườm rà và không cần thiết, giúp quá trình quản lý hoạt động kê khai và nộp thuế được nhanh, gọn, hiệu quả. Việc tinh giản bộ máy nhà nước cần đi kèm với việc bố trí, sắp xếp và bổ sung nguồn nhân lực, vật lực vào những vị trí còn trống để đảm bảo đủ nguồn lực cho công tác quản lý thuế BVMT.

Thứ hai, với hạn chế thứ hai về khả năng ứng dụng công nghệ vào quản lý bộ máy, cần triển khai mạnh mẽ việc xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số nhằm ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ để đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng lực quản lý, điều hành thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của cơ quan

quản lý Thuế BVMT.

Thứ ba, để khắc phục hạn chế thứ hai về một số chức năng quản lý còn chưa được phân định rõ ràng khiến xảy ra tình trạng nhiệm vụ bị chồng chéo, cần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa cơ quan quản lý Thuế BVMT trung ương với địa phương; khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn. Đồng thời, phân định rõ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân, bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, thông suốt và hiệu quả; phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp. Nghiên cứu, triển khai các biện pháp đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan quản

lý nhà nước về Thuế BVMT các cấp trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ các tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.

Thứ tư, tập trung đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức, có cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao. Chú trọng tăng cường

kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu và của đội ngũ công chức, viên chức để hoàn thành hiệu quả nhiệm vụ được giao.

Thứ năm, để khắc phục hạn chế thứ hai trong công tác tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thuế BVMT, cần xây dựng bộ máy QLNN về Thuế BVMT đảm bảo các điều kiện cần thiết gắn với tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về thuế BVMT các cấp với các đơn vị chức năng. Điều này giúp hỗ trợ quá trình thu thập, xác minh tính chính xác của thông tin, cũng như bao quát tất cả các đối tượng phục vụ cho công tác quản lý.

5.2.2.3. Giải pháp hoàn thiện hoạt động tổ chức thực hiện Thuế bảo vệ môi trường

Để giải quyết hạn chế và nguyên nhân của hạn chế thứ ba về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với thuế BVMT, đồng thời vận dụng quan điểm thứ hai, thứ ba,

146

thứ tư và thứ bảy về hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT ở Việt Nam, đề

tài đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động tổ chức thực hiện Thuế BVMT trong thời gian tới. Các giải pháp này cũng nhằm giải quyết các vấn đề từ kết quả nghiên cứu định lượng về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về thuế BVMT ở Việt Nam như: Hiểu biết của doanh nghiệp về thuế BVMT còn hạn chế; Doanh nghiệp chưa thực sự tự nguyện và tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ về thuế BVMT; Cơ sở vật chất và hạ tầng của ngành thuế chưa đáp ứng được yêu cầu công tác QLNN đối với thuế BVMT.…

Thứ nhất, để khắc phục hạn chế thứ ba về các vấn đề liên quan đến hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giải thích, và giáo dục pháp luật BVMT đến doanh nghiệp, cần

tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền về luật thuế BVMT có kế hoạch, nội dung bài bản, dễ hiểu giúp quần chúng nhân dân, đặc biệt là những người có nghĩa vụ nộp thuế hiểu rõ tầm quan trọng của thuế BVMT. Các hình thức tuyên truyền cần phải liên

tục được đa dạng hóa (ti vi, đài, mạng internet, báo chí,...), xây dựng các chuyên trang, chuyên mục để viết những tin bài về nội dung này phong phú.

Thứ hai, đối với nguyên nhân thứ ba về các nguồn lực trong công tác tổ chức thực thi còn hạn chế, cần tăng số thu Thuế BVMT trong GDP thông qua việc tiếp tục cải tiến nhằm đơn giản hóa thủ tục, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào hệ thống quản lý. Nâng cao hiệu quả công tác kê khai thuế bao gồm hồ sơ khai thuế, rà soát và

điều chỉnh kịp thời những trường hợp kê khai thuế không đúng quy định, điều chỉnh các số liệu về nghĩa vụ thuế của các cá nhân, tổ chức sau khi nhận được hồ sơ khai thuế, cập nhật và điều chỉnh thông tin của đối tượng nộp thuế theo đúng quy định của

pháp luật, trong trường hợp phát hiện các trường hợp chậm kê khai thuế, trốn thuế, kê khai thuế không đúng sự thật, Cục thuế địa phương phối hợp với các cơ quan chức năng để có các biện pháp xử phạt hành chính thích đáng, nghiêm khắc.

Cùng với những tiến bộ khoa học, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong nộp thuế điện tử đã tạo thuận lợi tối đa trong việc kê khai, nộp và quản lý thuế BVMT. Vì

vậy, cần nghiên cứu, cải tiến ứng dụng nộp thuế điện tử, nâng cao chất lượng đường truyền để ứng dụng ngày càng thân thiện với người dùng. Tăng cường giáo dục, tuyên truyền, hỗ trợ và hướng dẫn công tác kê khai thuế nhằm xây dựng và nâng cao ý thức trách nhiệm của đối tượng nộp thuế BVMT là một biện pháp quan trọng trong việc

nâng cao hiệu quả công tác kê khai thuế.

Thứ ba, việc sử dụng nguồn thu từ thuế trong NSNN cần công khai, minh bạch. Khi người nộp thuế có thể tham gia giám sát và thấy được lợi ích mà thuế BVMT đem lại thì việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế sẽ được thực hiện hiệu quả hơn. Việc chi ngân

147

sách BVMT cần có sự tách bạch giữa chi phí trực tiếp và gián tiếp phục vụ công tác

gìn giữ, bảo vệ và phục hồi môi trường. Chi BVMT bao gồm chi đầu tư cơ sở hạ tầng, chi phục hồi khắc phục hậu quả…

Cần nghiên cứu bổ sung điều khoản quy định về hoạt động thu thuế BVMT và chi ngân sách nhà nước cho BVMT vào Luật thuế BVMT sửa đổi. Việc không quy định rõ ràng, minh bạch con số thực thu, thực chi khiến cho nhân dân nghi ngờ, không

đặt niềm tin vào hiệu quả thực hiện QLNN đối với thuế BVMT, từ đó có tư tưởng thoái thác và không muốn nộp thuế BVMT.

Thứ tư, để giải quyết hạn chế thứ ba về hoạt động tổ chức thực thi pháp luật BVMT hiện nay chưa được triển khai quyết liệt và hiệu quả, các cơ quan chức năng cần có kế hoạch, định hướng cũng như đầu tư trong việc phát triển các sản phẩm thay

thế đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, như tiến hành tổ chức các dự án nghiên cứu; các cuộc thi tìm kiếm tài năng cải thiện môi trường. Đồng thời tích cực học hỏi kinh nghiệm của các nước đã phát triển; kêu gọi sự ủng hộ của các cá nhân tổ chức có khả năng trong việc BVMT.

Thứ năm, nâng cao vai trò của cộng đồng trong việc giám sát thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật về BVMT ở địa phương, cơ sở. Người dân có thể trực

tiếp tham gia giải quyết vấn đề môi trường tại địa phương vì họ chính là những người sinh sống, hiểu biết và nắm rõ những tác động của các dự án đến môi trường, ảnh hưởng tới sức khỏe, sinh hoạt và các quyền lợi chính đáng mà họ được hưởng.

Thứ sáu, kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy cơ sở vật chất và hạ tầng của ngành thuế chưa đáp ứng được yêu cầu công tác QLNN đối với thuế BVMT, vì vậy,

trong thời gian tới, cần phải đầu tư hơn nữa vào việc cải thiện hệ thống cơ sở vật chất và hạ tầng, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với thuế BVMT. Việc đầu tư cơ sở vật chất phải là một quá trình lâu dài, có trọng tâm, trọng điểm để đáp ứng yêu cầu quản lý từng thời kỳ cụ thể.

5.2.2.4. Giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế bảo vệ môi trường

Để khắc phục hạn chế và nguyên nhân thứ tư về hoạt động thanh tra, kiểm tra

xử lý vi phạm pháp luật thuế BVMT, đồng thời vận dụng quan điểm thứ năm về hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế BVMT ở Việt Nam, Luận án đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế BVMT tại Việt Nam trong thời gian tới. Việc thực hiện các giải pháp này cũng nhằm giải quyết các vấn đề từ kết

quả nghiên cứu định lượng về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về

148

thuế BVMT ở Việt Nam, cụ thể là: Các hoạt động tổ chức thực thi, thanh kiểm tra và xử

phạt vi phạm theo pháp luật BVMT chưa được triển khai quyết liệt và hiệu quả.

Thứ nhất, đối với hạn chế và nguyên nhân thứ tư về các quy định và các văn bản hướng dẫn thực hiện luật vẫn chưa rõ ràng, cụ thể, cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về thuế BVMT, điều chỉnh bổ sung Luật thuế BVMT và các văn bản dưới luật để công tác thanh tra, kiểm tra được thực hiện dễ dàng hơn. Trong đó cần:

- Rà soát bổ sung các quy định trong việc tính thuế; các đối tượng phải chịu thuế, đối tượng nộp thuế và được hoàn thuế trong các văn bản pháp luật. Để làm được

điều này, Nhà nước cần xây dựng phương pháp luận, phương pháp tính toán để xác minh một cách chính xác mức độ gây ô nhiễm của từng loại hàng hóa được nhập khẩu, sản xuất, từng loại hình cơ sở sản xuất để có cơ sơ khoa học cho việc phát hiện, bổ

sung một số đối tượng thuộc diện chịu thuế BVMT. Hơn thế nữa, khi có cơ sở để tính toán mức độ gây ô nhiễm để quy đối tượng phải chịu thuế BVMT thì công tác kiểm tra, thanh tra cũng được tăng tính minh bạch.

- Rà soát lại các văn bản pháp luật có liên quan đến thuế BVMT, có điều chỉnh những mâu thuẫn giữa các văn bản về sự hợp lý. Giữa các văn bản pháp luật phải có sự đồng bộ thì công tác thanh tra kiểm tra dễ dàng hơn và rõ ràng hơn; điều này giúp tránh tình trạng đối tượng nộp thuế lợi dụng những sơ hở trong các văn bản pháp luật để lách luật và trốn thuế.

- Bổ sung các quy định về xử lý vi phạm thuế BVMT. Từ trước đến nay, hầu

hết các vụ xử lý vi phạm thuế BVMT chỉ dừng lại ở mức xử phạt hành chính, do vậy cần tăng tính răn đe cho việc xử lý vi phạm luật Thuế, từ xử phạt hành chính sang xử phạt hình sự đối với những đối tượng có hành vi trốn thuế làm thất thu một khoản lớn cho Ngân sách nhà nước, đặc biệt là những doanh nghiệp sản xuất các loại sản phẩm có hại cho môi trường.

- Hiện nay, việc nộp thuế BVMT hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức của đối tượng nộp thuế theo cơ chế tự khai tự nộp dẫn đến tình trạng một số cá nhân, doanh nghiệp lợi dụng sự cho phép này Nhà nước để trốn lậu thuế. Do đó, phía Nhà nước cần đưa ra các chế tài nghiêm khắc để xử lý các hành vi vi phạm nghĩa vụ nộp thuế BVMT. Các

văn bản pháp luật cần hoàn thiện các quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực thuế, xử lý thật nghiêm các vụ đã xảy ra vi phạm để các tổ chức cá nhân còn lại tự nâng cao ý thức của mình trong việc tuân thủ theo quy định của pháp luật về thuế BVMT.

Thứ hai, để giải quyết hạn chế về tình trạng thất thu một khoản thuế lớn cho ngân sách nhà nước, Tổng cục thuế, Tổng cục Hải quan và Cục Thuế, Cục Hải quan các tỉnh phối hợp cùng với các cơ quan chức năng có thẩm quyền nhằm đẩy mạnh

149

công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện, xử lý các trường hợp gian lận hoặc trốn nộp thuế BVMT, giải quyết tình trạng nợ đọng thuế. Các cơ quan chức năng về quản lý thuế BVMT tiến hành đẩy nhanh tiến độ và giải quyết triệt để những kiến nghị của các cơ quan kiểm toán nhà nước, cơ quan thanh tra và những đơn khiếu nại từ phía các tổ chức, cá nhân liên quan đến những sai phạm trong công tác kê khai và nộp thuế.

Thứ ba, trong hạn chế thứ tư về hoạt động giám sát thực thi chính sách thiếu hiệu quả và việc xử lý các hành vi vi phạm chưa triệt để dẫn đến vấn đề ô nhiễm môi trường chưa được kiểm soát chặt chẽ, trong thời gian tới, cần đầu tư để hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế BVMT từ kế hoạch thanh tra trở thành chiến lược thanh tra thuế theo xu hướng của các quốc gia phát triển trên thế giới.

Mục tiêu của việc xây dựng chiến lược thanh tra thuế BVMT là để chuyển đổi từ hướng tập trung chống gian lận, chống thất thu thuế sang hướng đảm bảo khả năng quản lý bao quát của cơ quan Thuế, cơ quan Hải quan, nâng chất lương thanh tra, kiểm tra và nâng khả ngăn chặn chung các hành vi vi phạm. Để có thể xây dựng được chiến lược thanh tra thuế cơ quan QLNN cần phải thực hiện đánh giá, phân tích rủi ro thu thuế BVMT một cách tổng thể, chọn lọc các trường hợp cần tiến hành thanh tra bằng cả áp dụng công nghệ thông tin tự động kết hợp với chọn lọc thủ công. Xây dựng chiến lược thanh tra sẽ giúp cơ quan QLNN chủ động hơn trong việc ngăn chặn các hành vi vi phạm luật thuế BVMT, nâng cao trách nhiệm và sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế đối với pháp luật cũng như ý thức trách nhiệm trong việc BVMT.

- Đổi mới công tác thanh tra: (1) thay đổi từ thanh tra trên diện rộng theo cảm tính thành thanh tra theo hệ thống tiêu thức lựa chọn khoa học. Từ đó việc lựa chọn đối tượng thanh tra đi vào theo chiều sâu và tập trung hơn vào nhóm đối tượng nộp thuế có vi phạm luật thuế BVMT; (2) công tác thanh tra thuế tập trung nhiều hơn ở trụ sở của cơ quan Thuế, cơ quan Hải quan thông qua việc thu thập thông tin, phân tích, đánh giá rủi ro, hướng dẫn đối tượng nộp thuế khắc phục ngay tại cơ quan Thuế, Hải quan.

- Nâng cao chất lượng công tác thanh tra thuế, Nhà nước cần nghiên cứu về các chuẩn mực quốc tế trong công tác thanh tra thuế của cơ quan thuế, học hỏi những mô hình, phương pháp thanh tra trên thế giới, từ đó xây dựng mô hình và phương pháp thanh tra phù hợp với Việt Nam và phù hợp với địa phương. Bên cạnh đó, cơ quan Thuế cần phối hợp mạnh hơn nữa với các cơ quan ban ngành có liên quan trong công tác thanh tra thuế, cùng phối hợp để đào tạo thêm về năng lực kỹ năng thanh tra, kiểm tra chuyên sâu cho các cán bộ thanh tra.

Thứ tư, để giải quyết vấn đề nguồn lực - một trong những nguyên nhân quan trọng của hạn chế thứ tư về hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế BVMT, cần cải thiện bộ máy, tổ chức, nhân lực thanh tra kiểm tra thuế BVMT, cụ thể:

150

- Tiếp tục kiện toàn xây dựng chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức của Cục Thanh tra – Kiểm tra thuế của Tổng cục Thuế trên cơ sở chuyển đổi từ Vụ Thanh tra – Kiểm tra thuế; Nghiên cứu chuyển đổi Vụ Thanh tra Tổng cục Hải quan hoạt động theo mô hình Cục thuộc Tổng cục Hải quan để đảm bảo vai trò chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới trong hệ thống các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành trong đó có Thanh tra Thuế BVMT.

- Tổ chức hoạt động thanh tra thuế ở các cấp chuyên sâu và chuyên nghiệp. Ngoài bộ phận thanh tra với trách nhiệm thanh tra thuế BVMT với các đối tượng nộp thuế lớn cũng cần thành lập các bộ phận chịu trách nhiệm các chức năng như tham mưu chiến lược thanh tra, định hướng tổ chức triển khai công tác thanh tra thuế; dự báo, đánh giá trước và sau hoạt động thanh tra thuế.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra có chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm để dễ dàng hơn trong việc quản lý và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế BVMT một cách hiệu quả. Việc thực thi thuế BVMT có thực sự hiệu quả hay không phụ thuộc một phần rất lớn vào công tác quản lý từ phía Nhà nước, đặc biệt là công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan chức năng có thẩm quyền. Nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra là một nhiệm vụ khó khăn nên nó phải được gắn trách nhiệm cho các cán bộ có năng lực cao trong QLNN, có am hiểu, kiến thức về lĩnh vực thanh tra chuyên ngành, ở đây là thuế BVMT; đặc biệt cán bộ thanh tra phải là người có đạo đức nghề nghiệp. Trước những diễn biến phức tạp của tình trạng tham nhũng, hối lộ, “con ông cháu cha”. Trước mắt cần tập huấn nghiệp vụ thanh tra thuế chuyên sâu cho các cán bộ thanh tra ở các Chi cục thuế, Hải quan.

- Bên cạnh việc hoàn thiện bộ máy thanh tra thuế ở các cấp, cơ quan thuế cần chú trọng đến việc phân bổ nguồn lực cán bộ thanh tra bởi vì nguồn nhân lực cho việc thanh tra hiện tại còn quá ít so với số lượng đối tượng cần thanh tra. Việc phân bổ nguồn lực phải đảm bảo thực hiện đúng các chức năng, nhiệm vụ, và hoàn thành kế hoạch được giao. Phân bổ bằng cách bố trí, luân chuyển, tăng cường cán bố thanh tra thuế tại các chi cục thuế địa phương và giữa các địa phương khác nhau.

Thứ năm, xây dựng quy chế giám sát hoạt động thanh tra thuế thật chặt chẽ là giải pháp hữu ích để khắc phục hạn chế thứ tư về hoạt động giám sát còn kém hiệu quả, lỏng lẻo, việc xử lý chưa nghiêm minh. Cụ thể, cần ban hành quy chế giám sát hoạt động thanh tra thuế tên toàn quốc nằm theo dõi và nắm bắt được việc chấp hành pháp luật và quy trình thanh thuế cũng như việc tuân thủ các chuẩn mực đạo đức, các quy tắc ứng xử của cán bộ thanh tra. Việc áp dụng quy chế giám sát đúng quy định, đảm bảo tính hợp lý, khách quan, minh bạch giúp cơ quan thuế hoàn thành mục tiêu giám sát và nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động thanh tra.

151

Thực tế cũng cho thấy công tác đánh giá thanh tra thuế BVMT ở nước ta trong thời gian chưa được chú trọng. Do vậy trong thời gian tới công tác này cần được thực hiện tốt hơn, vì đây là cơ sở thực tế giúp Cơ quan Thuế, Hải quan có thể đánh giá được hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra và có những điều chỉnh sao cho phù hợp, kịp thời.

Thứ sáu, để giải quyết hạn chế thứ tư về hệ thống cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu, cần xây dựng hệ thống công cụ hỗ trợ hoạt động thanh tra thuế; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thanh tra chuyên ngành Thuế.

- Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu bằng cách thu thập thông tin trực tiếp được cung cấp từ đối tượng nộp thuế và qua theo dõi trực tiếp của Cơ quan Thuế, thu thập thông tin gián tiếp từ các nguồn tin bên ngoài.

- Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc khai thác và phân tích phân tích cơ sở dữ liệu, đánh giá rủi ro thu thuế BVMT. Ứng dựng các phần mềm hỗ trợ lập báo cáo, mẫu biểu, tài liệu làm việc, hồ sơ thanh tra… một cách tự động, các Phần mềm thống kê và đánh giá kết quả của hoạt động thanh tra. Bên cạnh đó, Cơ quan thanh tra Thuế, Hải quan cần xây dựng sổ tay thanh tra thuế, xây dựng bộ tài liệu hướng dẫn ghi nhận quá trình thanh tra làm cơ sở dữ liệu cho việc thanh tra sau nay.

5.3. Một số kiến nghị đối với Nhà nước

Như đã phân tích ở trên, việc ban hành và thực thi chính sách thuế BVMT ở nước ta còn nhiều hạn chế. Hiệu quả thu thuế BVMT chịu sự tác động của tổng thể của nhiều nhân tố khác nhau, từ các nhân tố xuất phát từ phía các cơ quan thuế, đến các nhân tố về mặt chính sách. Do đó, để nâng cao hiệu quả thu thuế trong thời gian tới, cần xem xét một số đề xuất đối với các cơ quan quản lý Nhà nước và Bộ Tài chính nhằm hoàn thiện chính sách quản lý thuế đối với BVMT một cách hiệu quả như sau:

Thứ nhất, để hoàn thiện các quy định pháp luật của Luật thuế BVMT, Nhà nước cần chú trọng cải cách thuế BVMT thông qua việc sửa đổi và bổ sung luật này, từ đó cải thiện được tính đồng bộ của hệ thống chính sách liên quan. Để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống chính sách và quản lý thuế của Việt Nam với khu vực và thế giới. Việc hoàn thiện thuế BVMT ở Việt Nam cần tuân thủ các nguyên tắc đánh thuế BVMT như: đảm bảo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả thuế BVMT; thuế BVMT phải cụ thể và thực tế; mức thuế phải xây dựng phù hợp với mức độ gây hại với môi trường.

Mặt khác, Chính phủ cần bổ sung các quy định cụ thể về thưởng, phạt môi trường, đặc biệt là các vấn đề về bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả để tránh trường hợp xảy ra các vụ xả thải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng như Vedan hay Formosa; rà soát, bổ sung các quy định cụ thể trong việc tính thuế, phí các mặt hàng phải chịu thuế, phí; đối tượng nộp thuế và được hoàn thuế; Rà soát, điều chỉnh các chính sách hiện hành có liên quan đến BVMT để xây dựng một hệ thống pháp luật

152

hoàn chỉnh về BVMT có sự đồng bộ giữa thuế, phí BVMT với các chế tài kiểm soát về giá, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, khắc phục ô nhiễm...

Thứ hai, Nhà nước cần nghiên cứu triển khai các giải pháp về ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp có hoạt động BVMT như chuyển sang sử dụng các nguyên nhiên liệu sạch trong SXKD… Một số biện pháp ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp như tăng gấp đôi chi phí xử lý chất thải khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm khuyến khích các doanh nghiệp xử lý chất thải; hỗ trợ doanh nghiệp xử lý chất thải,… Bên cạnh đó, Nhà nước cần đẩy mạnh các hoạt động đầu tư vào các dự án làm sạch môi trường thông qua việc cải thiện các quy định liên quan. Chẳng hạn như, áp dụng ưu đãi thuế để thúc đẩy phát triển nguồn năng lượng sạch, quản lý chặt chẽ tài nguyên thiên nhiên; quy định thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp (10%) trong quá trình triển khai dự án… Nhà nước nên triển khai cơ chế ưu đãi thuế tối ưu và mức thuế suất thấp đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực khai thác nguồn năng lượng sạch như năng lượng gió, năng lượng mặt trời… Việc áp dụng cơ chế ưu đãi này thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào nguồn năng lượng sạch, không gây ô nhiễm môi trường.

Thứ ba, song song việc hoàn thiện pháp luật BVMT, Nhà nước cần cải thiện các quy định tiêu chuẩn liên quan đến môi trường như: quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường… Bên cạnh đó, các quy định về đánh giá tác động môi trường; quản lý chất thải; BVMT đất, nước, không khí; nguồn lực BVMT; thiết chế BVMT; xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến BVMT… cần được Nhà nước chú trọng quan tâm và hoàn thiện.

Thứ tư, không ngừng tăng cường hoạt động thanh tra thuế BVMT tại Việt Nam. Thời gian qua, hàng chục nghìn tỷ đồng tiền thuế gian lận đã được thu hồi cho ngân sách nhà nước; những hành vi gian lận về thuế về cơ bản đã được phát hiện, xử lý, trong đó có cả thuế BVMT. Hoạt động thanh tra thuế tại Việt Nam cũng góp phần tuyên truyền pháp luật thuế, thúc đẩy doanh nghiệp chấp hành pháp luật thuế, hoàn thiện chính sách pháp luật thuế. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra kết quả của hoạt động thanh tra thuế tại Việt Nam chưa tương xứng với các chi phí, nguồn lực phục vụ thanh tra mà cơ quan thuế đã bỏ ra. Chính vì vậy, việc tăng cường giám sát các hoạt động kiểm sát, thanh tra trong lĩnh vực thuế BVMT chắc chắn sẽ giúp nâng cao hiệu quả thực thi thuế BVMT.

Thứ năm, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức BVMT trong các tầng lớp nhân dân. Ý thức của người dân là cốt lõi cho sự phát triển của xã hội. Để pháp luật môi trường được thực hiện một cách nghiêm minh, đầy đủ đòi hỏi phải nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của toàn xã hội.

153

KẾT LUẬN

Hiện nay, BVMT là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn cầu từ nhiều năm trở lại đây bởi tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng cùng sự bùng nổ dân số thế giới đã khiến môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tại Việt Nam, hiện nay, tình trạng ô nhiễm môi trường đang diễn biến theo chiều hướng xấu khi liên tiếp phải đối đầu với một số hiện tượng đáng lo ngại, chẳng hạn như hiện tượng nhiễm độc

biển ở miền Trung làm cá chết hàng loạt, hạn hán ở Tây Nguyên và các tỉnh miền Tây, tình trạng xâm nhập mặn ở vùng Tây Nam Bộ,… Công tác QLNN về thuế BVMT vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả QLNN.

Luận án đã nghiên cứu lý luận về công tác QLNN về thuế BVMT. Cụ thể tác

giả đã tập trung làm rõ (i) những vấn đề mang tính nguyên tắc và yêu cầu đặt ra trong công tác quản lý thuế BVMT; (ii) bốn nội dung công tác quản lý thuế BVMT: Xây dựng và ban hành các chính sách thu thuế BVMT; Thiết lập bộ máy quản lý thuế

BVMT; tổ chức thực hiện chính sách thuế BVMT; và Thanh tra kiểm tra và xử lý hành vi vi phạm chính sách thu thuế BVMT. Đồng thời, tác giả cũng làm rõ những nhân tố tác động đến công tác QLNN đối với thuế BVMT trong mối quan hệ với hiệu quả hoạt động này. Để đánh giá hiệu quả của công tác QLNN đối với thuế BVMT, tác giả đã

tổng hợp các tiêu chí đánh giá. Từ đó, lựa chọn đo lường hiệu quả công tác QLNN đối với thuế BVMT theo 4 tiêu chí: (i) tính hiệu lực hay tuân thủ; (ii) tính hiệu quả; (iii) tính hợp lý – khả thi; và (iv) tính phù hợp. Ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả

QLNN về thuế BVMT cũng được làm rõ, gồm: (i) nhân tố liên quan đến Cơ quan quản lý nhà nước; (ii) nhân tố liên quan đến đối tượng nộp thuế, tính chất hoạt động, đặc điểm của đối tượng nộp thuế; và (iii) nhân tố quốc tế liên quan đến BVMT. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phỏng vấn đối với một số doanh nghiệp điển hình và các chuyên

gia, các nhà nghiên cứu và cán bộ QLNN về thuế BVMT, mô hình nghiên cứu lý thuyết và các giả thuyết nghiên cứu đã được xây dựng và phát triển, cũng như hoàn thiện thang đo các biến nghiên cứu trong mô hình.

Kết quả quan trọng tiếp theo của luận án là đánh giá cụ thể thực trạng QLNN đối với thuế BVMT, theo bốn nội dung: (i) Thực trạng xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về thuế BVMT; (ii) Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý thuế BVMT; (iii) Thực trạng hoạt động tổ chức quản lý thuế BVMT; và (iv) Thực trạng hoạt động thanh

tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật thuế BVMT.

Tác giả cũng tiến hành phân tích định lượng kiểm định mô hình hồi quy tác động của các nhân tốt ảnh hưởng. Kết quả cho thấy 6/7 nhân tố có tác động tích cực

154

đến hiệu quả QLNN về thuế BVMT, cụ thể, với cường độ tác động giảm dần như sau:

(1) nhân tố nhận thức và trách nhiệm môi trường của đối tượng nộp thuế BVMT; (2) nhân tố thương mại quốc tế và xu thế bảo hộ bằng hàng rào kỹ thuật môi trường; (3) tình hình hoạt động SXKD của đối tượng nộp thuế BVMT; (4) nhân tố chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội của đất nước; (5) thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT; và (6) nhân tố liên quan đến ngành thuế BVMT. Kết hợp với kết quả phỏng vấn, tác giả cũng đã phân tích đánh giá chi tiết và diễn giải về các nhân tố này, gồm cả nhân tố về xu thế BVMT tại Việt Nam, vốn không có tác động đáng kể đến hiệu quả QLNN về thuế

BVMT theo kết quả định lượng hồi quy.

Trên cơ sở phân tích thực trạng, đánh giá những thành công, hạn chế của công tác QLNN về thuế BVMT trong thời gian qua, kết hợp với các quan điểm và định

hướng hoàn thiện của Đảng và Nhà nước, luận án đã đề xuất bốn nhóm giải pháp hoàn thiện QLNN đối với thuế BVMT, cụ thể: (i) các giải pháp xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về thuế BVMT; (ii) các giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thuế BVMT; (iii) các giải pháp hoàn thiện hoạt động tổ chức thực hiện

thuế BVMT; (iv) và các giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra, kiểm tra thực hiện thuế BVMT. Đồng thời, luận án cũng làm rõ một số điều kiện tổ chức thực hiện giải pháp, cũng như một số kiến nghị đối với Nhà nước và Bộ Tài chính nhằm hoàn thiện công tác QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam trong thời gian tới.

Bên cạnh những thành công và đóng góp trên, luận án cũng còn một số hạn chế như: Số liệu thứ cấp từ các báo cáo của các cơ quan, Bộ Tài chính, Tổng cục thuế, Thanh tra còn ít; Luận án mới tập trung đánh giá công tác quản lý Thuế BVMT

từ các cơ quan Tổng Cục thuế, đối với các cơ quan Tổng cục Hải quan chưa được đề cập nhiều; giới hạn về số lượng và phạm vi đối tượng khảo sát tập trung ở một số tỉnh thành lớn; tiếp cận từ các báo cáo công tác thanh tra, kiểm tra Thuế BVMT còn ít, hạn chế... Đây cũng là những định hướng nghiên cứu tương lại của tác giả trong

thời gian tới./.

155

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1.

Phạm Bách Khoa (2020), “Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 30, tr.3.

2.

Phạm Bách Khoa (2020), “Phân tích lý luận và đề xuất định hướng hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, số 739, tr.3.

3.

Phạm Bách Khoa (2020), “Quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường: Kinh nghiệm ở một số quốc gia và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, số 740, tr.44.

4.

Phạm Bách Khoa (2020), “Quản lý nhà nước đối với thuế bảo vệ môi trường ở Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, bền vững”, Diễn đàn Tài chính Việt Nam 2020, mã ISBN: 978-604-79-2611-4, tr.327.

156

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Abdullah Sabah, Morley Bruce (2014), “Environmental taxes and economic growth: Evidence from panel causality tests”, Energy Economics, Volume 42, P.27-33.

2. Allingham, M.G., Sandmo, A.(1972), “Income Tax Evasion: A Theoretical

Analysis”, Journal of Public Economics, vol. 3-4, pp. 323-338.

3. Bachus Kris (2017), The use of environmental taxation as a regulatory policy

instrument, PhD. Thesis, Faculteit Sociale Wetenschappen.

4. BaileyIan (2002), “European environmental taxes and charges: economic theory and policy practice”, Applied Geography, Volume 22, Issue 3, Pages 235-251.

5. Bator Francis M. (1958), “The Anatomy of Market Failure”, The Quarterly

Journal of Economics, vol. 72, issue 3, 351-379.

6. Baumol W.J., OatesE.W. (1988), The Theory of Environmental Policy,

Cambridge: Cambridge University Press, 2nd ed.

7. Bộ tài chính - Tổng cục thuế (2013), Quyết định 688/QĐ-TCT về việc ban hành hệ thống chỉ số đánh giá hoạt động quản lý thuế, Bộ tài chính - Tổng cục thuế.

8. Böcher Michael (2012), “A theoretical framework for explaining the choice of instruments in environmental policy”, Forest Policy and Economics, Volume 16, Pages 14-22.

9. Bontems Philippe, BourgeonJean-Marc (2005), “Optimal environmental taxation and enforcement policy”, European Economic Review, Volume 49, Issue 2, Pages 409-435.

indicators of 10. Boyne George A. (2002), “Concepts and

local authority performance: An evaluation of the statutory framework in England and Wales”, Public Money and Management, 22:17–24.

11. Bùi Thanh (2013), “Tăng cường QLNN về bảo vệ môi trường để phát triển bền vững”, Tạp chí Cộng sản, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí

Minh, ngày 9/7/2013.

12. Castiglione C., Infante D., Smirnova J. (2018),“Non-trivial Factors as Determinants of the Environmental Taxation Revenues in 27 EU Countries”. Economies, Volume:6, Issue: 1, pp. 1-20.

157

13. Chính Phủ (2016), Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Luật thuế bảo

vệ môi trường.

14. CorneliaPiciu Gabriela, LenutaTrica Carmen (2012), “Assessing the Impact and Effectiveness of Environmental Taxes”, Procedia Economics and Finance, Volume 3, Pages 728-733.

15. Cottrell Jacqueline, Ludewig Damian, Runkel Matthias, Schlegelmilch Kai, Zerzawy Florian (2017), Environmental Tax Reform in Asia and the Pacific, ESCAP – Economic and Social Commission for Asia and the Pacific.

16. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật môi trường, tái bản lần thứ 6, trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công An Nhân Dân năm 2009, 96- 2009/CXB/91-11/CAND.

17. Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp

luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

18. Đặng Thị Bạch Vân (2014), “Xoay quanh vấn đề người nộp thuế và tuân thủ

thuế”, Phát triển & Hội nhập, Số 16 (26) - Tháng 05-06/2014.

19. Deke O. (2008), Environmental Policy Instruments for Conserving Global

Biodiversity. Springer, Berlin.

20. Đinh Nam Thắng (chủ nhiệm, 2016), Định hướng hoàn thiện chính sách thuế

BVMT giai đoạn 2016 – 2020, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ Tài chính.

21. Đinh Trọng Khang (2016), “BVMT bằng công cụ thuế, phí môi trường và hiệu quả của giải pháp hiện nay ở Việt Nam”, Tạp chí Giao thông vận tải, số tháng 8-2016.

22. Fauziati P, Kassim A. (2018),“The effect of business characteristics on tax

compliance costs”.Management Science Letters, 8(5), 353-358.

23. Goulder L.H., Parry I.W.H. (2008), “Instrument Choice in Environmental Policy,” Review of Environmental Economics and Policy, Vol. 2, No. 2, pp. 152–74.

24. Hafstead Marc A.C., Williams III Roberton C. (2018), “Unemployment and environmental regulation in general equilibrium”, Journal of Public Economics, Volume 160, Pages 50-65.

25. Ho Hoang-Anh (2016), Business Compliance with Environmental Regulations: Evidence from Vietnam, WorldFish (ICLARM) – Economy and Environment Program for Southeast Asia (EEPSEA).

158

26. Hoàng Thị Thúy Ngọc (2010), Quản lý thuế đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, LATS, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

27. Hogg Dominic và các cộng sự (2016), Study on assessing the environmental fiscal reform potential for the EU28, Luxembourg: Publications Office of the European Union.

28. Hotelling H. (1931), “The economics of exhaustible resources”, Journal of

Political Economy, 39 (2): 137–175.

29. Howlett M. (2011), Designing Public Policies. Principles and Instruments.

Routledge, London and New York.

30. Jackson Peter. (1982), The political economy of bureaucracy. Oxford, UK:

Phillip Allen.

31. Kapp K.W. (1950), The Social Costs of Private Enterprise, Harvard University

Press, Cambridge (MA).

32. Kapp K.W. (1972), Environmental disruption and protection, Socialismand the

Environment. Spokesman Books, Nottingham, pp. 13–24.

33. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận chung về Nhà

nước và Pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

34. Kircher E.E (2008), “Enforced versus Voluntary Tax Compliance: The Slippery Framework”, Journal of Economic Psychology, Number 29(2), p.210-225.

35. Kirchler, E., Hoelzl, E. and Wahl, I. (2008), “Enforced versus Voluntary Tax Compliance: The “Slippery Slope” Framework”, Journal of Economic Psychology, vol. 29, no. 2, pp. 210-225.

36. KohnRobert E. (2000), “The effect of environmental taxes on the volume of international trade”, Ecological Economics, Volume 34, Issue 1, Pages 77-87.

37. KreiserLarry, AndersenMikael Skou, OlsenBirgitte Egelund, SpeckStefan, MilneJanet E., AshiaborHope (2015), Environmental Pricing: Studies in Policy Choices and Interactions, Edward Elgar Pub.

38. Lê Hồng Hạnh, Vũ Thu Hạnh (chủ biên, 2009), Giáo trình Luật môi trường, tái

bản lần thứ 5, Nxb Công An Nhân Dân, Đại học Luật Hà Nội.

159

39. Lê Thị Kim Oanh (2010), “Bàn về áp dụng nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả” trong chính sách môi trường”, Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng – Số 4 (39).

40. LiuAntung Anthony (2013), “Tax evasion and optimal environmental taxes”, Journal of Environmental Economics and Management, Volume 66, Issue 3, P.656-670.

41. Lugo José E. Berríos, EspinaMaritza I. (2014), “Determinant Factors for the Development of Entrepreneurial Activity: A Correlational Study”, Esic Market Economics and Business Journal, Vol. 45, Issue 1, January-April 2014, 147-160.

42. Lưu Ngọc Thơ (2013), Quản lý thuế đối với doanh nghiệp lớn ở Việt Nam hiện

nay, LATS, Học viện Tài chính.

43. Metcalf Gilbert E. (2015), “A Conceptual Framework for Measuring the Effectiveness of Green Fiscal Reforms”, Green Growth Knowledge Platform (GGKP) - Third Annual Conference: Fiscal Policies and the Green Economy Transition: Generating Knowledge – Creating Impact, 29-30 January, 2015, University of Venice, Venice, Italy.

44. Milne J.E. (2003), “Environmental Taxation: Why Theory Matters”, in J. Milne et al., eds., Critical Issues in Environmental Taxation, vol. 1, Richmond Law & Tax Ltd., Richmond, UK, 3–26.

45. Milne Janet E. (2011), “Environmental Taxation in the United States: The Long

View”, Lewis and Clark Law Review, 417 (2011).

46. Mumford A. (2001),Taxing culture, Aldershot: Ashgate.

47. Ngân hàng thế giới - World Bank (2016), Shock waves: Managing the Impacts of Climate Change on Poverty. World Bank Climate Change and Development Series.

48. Nguyễn Đình Chiến (2016), “Hoàn thiện các quy định về thuế BVMT ở Việt

Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 01 (150) – 2016.

49. Nguyễn Đình Chiến (2017), “Chính sách thuế nhằm bảo vệ môi trường trong

điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Tài chính ngày 18/07/2017.

50. Nguyễn Hoàng (2013), Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế thu nhập cá

nhân ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

160

51. Nguyễn Quang Hưng (2018), Hoàn thiện hoạt động thanh tra thuế tại Việt Nam,

Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

52. Nguyễn Quang Tuấn, Lê Thị Thảo (2008), “Luật Thuế môi trường – giải pháp quản lý và bảo vệ môi trường”, Tạp Chí Nghiên Cứu Lập Pháp, Số 8/2008.

53. Nguyễn Thị Lệ Thúy (2009), Hoàn thiện quản lý thu thuế của nhà nước nhằm tăng cường sự tuận thủ thuế của doanh nghiệp (nghiên cứu tình huống của Hà Nội) LATS, Đại học Kinh tế Quốc dân.

54. Nguyễn Thị Thanh Hoài (2014), “Sử dụng chính sách thuế nhằm BVMT ở Việt

Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1-2014.

55. Nguyễn Thị Thùy Dương (2011), Quản lí thuế ở Việt Nam trong điều kiện hội

nhập kinh tế quốc tế, LATS, Đại học Kinh tế Quốc dân.

56. Nguyen Van Chan, CoxheadIan (2011), “Vietnam’s environment protection tax: Possible impacts and incidence”, Journal of Economics and Development, Vol.13, No.1, pp. 5 – 18.

57. OECD (1972), “Guiding Principles Concerning International Economic Aspects of Environmental Policies”, Organisation for Economic Co-operation and Development, C(72)128, adopted 26 May 1972, reprinted.

58. OECD (1992), “The Polluter-pays Principle: OECD Analysis

and Recommendations”, Organisation for Economic Co-operation, OCDE/DG(92)81.

59. OECD (2004), Green tax reforms in OECD countries: an overview, OECD

Publishing.

60. OECD (2005), “Moderizing government: The way forward”. Organization for Economic Co-operation and Development (OECD), Paris, France: OECD.

61. OECD (2011), Environmental taxation. A guide for policy makers. OECD

Publishing.

62. OECD (2013), Climate and carbon. Aligning prices and policies. OECD

Publishing.

63. OueslatiWalid (2014), “Environmental tax reform: Short-term versus long-term macroeconomic effects”, Journal of Macroeconomics, Volume 40, P.190-201.

64. OueslatiWalid (2015), “Growth and welfare effects of environmental tax reform and public spending policy”, Economic Modelling, Volume 45, Pages 1-13.

161

65. Pearce D. (1991),“The Role of Carbon Taxes in Adjusting to Global Warming”,

The Economic Journal, 101, 938–48.

66. Phạm Nữ Mai Anh (2019), Quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử ở

Việt Nam, LATS, Học viện Tài chính.

67. Phạm Thị Mỹ Linh (2019), Các nhân tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế của doanh nghiệp Việt Nam: nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội, LATS, Đại học Kinh tế Quốc dân.

68. Pigou Arthur C. (1920, 1932), The Economics of Welfare, London: MacMillan

and Co.

69. Quốc Hội (2010), Luật Thanh tra 2010, Quốc Hội CHXHCN Việt Nam, Số

56/2010/QH12.

70. Quốc Hội (2010), Luật Thanh tra 2010, Quốc Hội CHXHCN Việt Nam.

71. Quốc Hội (2010), Luật Thuế bảo vệ môi trường 2010, Quốc Hội CHXHCN Việt

Nam, số 57/2010/QH12.

72. Quốc Hội (2014), Luật quản lý Thuế 2014, Quốc Hội CHXHCN Việt Nam, Số

38/2019/QH14.

73. Quốc Hội (2020), Luật bảo vệ môi trường 2020, Quốc Hội CHXHCN Việt Nam,

số 72/2020/QH14.

74. Rogerson P. A. (2001). Statistical methods for geography. London: Sage.

75. Surrey Stanley S. (1973), Pathways to tax reform: the concept of tax

expenditures, Harvard University Press.

76. Tổng cục Thống kê (2019), Niên giám thống kê Việt Nam 2019, NXB Thống kê.

77. Trần Vũ Hải (2009), “Một số vấn đề về việc ban hành Luật thuế môi trường ở

Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 4/2009.

78. Trung Tâm Thông Tin Khoa Học Lập Pháp (2018), Thuế bảo vệ môi trường một số nước trên thế giới – kinh nghiệm cho Việt Nam, Viện Nghiên Cứu Lập Pháp - Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội.

79. UN – United Nations (1987), Report of the World Commission on Environment

and Development: Our Common Future, United Nations.

80. UNESCAP (2016), The Economics of Climate Change in the Asia-Pacific

region, UNESCAP.

162

81. UNESCAP (2017), Environmental Tax Reform in Asia and the Pacific,

UNESCAP.

82. Vũ Văn Cương (2013), Pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn, LATS, Trường Đại học Luật Hà Nội.

83. Walker Richard M., Boyne George A., Gene A. Brewer (2010), Public management and performance: Research directions. Cambridge: Cambridge Univ. Press.

84. WalkerRichard M., AndrewsRhys (2013), “Local Government Management and Performance: A Review of Evidence”, Journal of Public Administration Research and Theory, Volume 25, Issue 1, January 2015, Pages 101–133.

85. Weizsäcker E. U. von, Jesinghaus J. (1992), Ecological Tax Reform, Zed Books,

London & New Jersey.

86. Wenzel, M. (2003), “Tax Compliance and the Psychology of Justice: Mapping the Field”, in Braithwaite, V., (ed.), Taxing Democracy: Understanding Tax Avoidance and Evasion, Aldershot: Ashgate, 2003, pp. 41-69.

87. Wenzel, M. (2005a), “Misperceptions of Social Norms about Tax Compliance: From Theory to Intervention”, Journal of Economic Psychology, vol. 26, no. 6, pp. 862-883.

88. Wenzel, M. (2005b), “Motivation or Rationalisation? Causal Relations between Ethics, Norms and Tax Compliance”, Journal of Economic Psychology, vol. 26, no. 4, pp. 491-508.

89. Westin Richard A. (1994), “International trade and environmental taxes”,

Renewable Energy, Volume 5, Issues 5–8, Pages 1293-1299.

90. Wiesmeth Hans (2013), Environmental Economics: Theory and Policy in

Equilibrium, Springer-Verlag Berlin and Heidelberg GmbH & Co. KG.

91. Yaniv, G. (2009), “The Tax Compliance Demand Curve: A Diagrammatical Approach to Income Tax Evasion”, Journal of Economic Literature, vol. 40, no. 2, pp. 213-224.

92. Yip Chi Man (2018), “On the labor market consequences of environmental taxes”, Journal of Environmental Economics and Management, Volume 89, P.136-152.

163

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Hệ thống văn bản pháp luật về thuế bảo vệ môi trường tại Việt Nam

Số

Nội dung

Ngày thông qua

17/06/2019

TT số 32/VBHN- BTC

Văn bản hợp nhất: Thông tư hướng dẫn thi hành nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế BVMT

15/11/2018

TT số 106/2018/TT-BTC

Thông tư sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 5 thông tư số 152/2011/TT-BTC ngày 11/11/2011 hướng dẫn thi hành nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế BVMT

CV 3390/BTC-

15/03/2016

CST

Công văn 3390/BTC-CST về thuế bảo vệ môi trường đối với dung dịch HCFC

01/09/2015

CV12128/BTC- CST

Công văn số 12128/BTC-CST về Thu thuế BVMT đối với dung dịch HCFC

27/04/2015

TT số 60/2015/TT- BTC

Thông tư 60/2015/TT-BTC sửa đổi Thông tư 152/2011/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 67/2011/NĐ- CP về quy định thi hành Luật thuế bảo vệ môi trường do Bộ Tài chính ...

28/08/2014

TT số 126/2014/TT-BTC

Thông tư 126/2014/TT-BTC quy định thủ tục về kê khai, thu nộp thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt và các khoản thu khác đối với hàng hóa xuất, ...

28/02/2014

QĐ số 1371/QĐ- BCT

Quyết định 1371/QĐ-BCT ngày 19/02/2014 của Bộ Công thương bổ sung Danh mục máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu trong nước đã sản xuất được

17/02/2014

TT số 25/2014/TT- BTC

Thông tư 25/2014/TT-BTC quy định phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ

20/12/2013

TT số 201/2013/TT-BTC

Thông tư 201/2013/TT-BTC hướng dẫn áp dụng Thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) trong quản lý thuế

164

Số

Nội dung

Ngày thông qua

03/12/2013

TT số 181/2013/TT-BTC

Thông tư 181/2013/TT-BTC hướng dẫn thực hiện chính sách thuế và ưu đãi thuế đối với chương trình, dự án sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính ...

10/09/2013

TT số 128/2013/TT-BTC

Thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu

28/09/2012

TT số 159/2012/TT-BTC

Thông tư 159/2012/TT-BTC sửa đổi Thông tư 152/2011/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 67/2011/NĐ- CP hướng dẫn Luật thuế bảo vệ môi trường do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban ...

14/09/2012

NĐ số 69/2012/NĐ-CP

Nghị định sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 2 nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 08 tháng 8 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thuế bảo vệ môi trường

11/11/2011

TT số 152/2011/TT-BTC

Thông tư 152/2011/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 67/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật thuế Bảo vệ môi trường do Bộ Tài chính ban hành

08/08/2011

NĐ số 67/2011/NĐ-CP

Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thuế bảo vệ môi trường

15/12/2010

TT số 205/2010/TT-BTC

Thông tư 205/2010/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 40/2007/NĐ-CP quy định về xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu do Bộ Tài ...

15/11/2010 Luật thuế bảo vệ môi trường

Luật số 57/2010/QH12

165

Phụ lục 2: Các lĩnh vực áp dụng các loại thuế, phí bảo vệ môi trường phổ biến hiện nay trên thế giới

Lĩnh vực

Công cụ

Ví dụ

Thuế trước bạ dựa trên lượng khí thải CO2

Pháp: Thuế trước bạ ô tô (hệ thống thưởng phạt) (IEEP 2014)

Thuế lưu thông hàng năm

Tây Ban Nha: Thuế lưu thông xe cơ giới (CFE 2017)

Giao thông vận tải

Phí cầu đường / hệ thống tem nhãn

Vương quốc Anh: Phí đường bộ Luân Đôn (IEEP 2014)

Phí chống ùn tắc

Vương quốc Anh: Phí chống ùn tắc (Giao thông vận tải London 2017

Phí chống ô nhiễm không khí

Hoa Kỳ: Phí giấy phép khí thải (EPA 2001

Đức: Thuế năng lượng (BMF 2016

Thuế đánh vào nhiên liệu vận tải

Năng lượng

Thuế đối với nhiên liệu sưởi ấm, ví dụ: dầu, khí

Ấn Độ: Thuế đối với mặt hàng than (IEEP 2014)

Đức: Thuế năng lượng (BMF 2016

Thuế đánh vào năng lượng sử dụng để phát điện và thuế tiêu thụ điện

Hà Lan: Thuế năng lượng (IEEP 2014

Thuế đánh vào hàm lượng CO2 trong các nguồn năng lượng

Thuế phát thải CO2

Carbon

Canada (Columbia thuộc Anh): thuee CO2 tax

Giá sàn Carbon

Vương quốc Anh: Giá sàn Carbon (Trung tâm kinh tế và chính sách biến đổi khí hậu 2013)

Cộng hòa Séc: Phí ô nhiễm không khí (IEEP 2014)

Không khí

Phí ô nhiễm không khí, chẳng hạn như SO2, VOC, NOx, SO2, PM, NH2, các kim loại nặng, CO, NH3,…

Phí phạt do không đạt tiêu chuẩn chất lượng không khí

Trung Quốc: Luật bảo vệ môi trường (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 2014)

166

Lĩnh vực

Công cụ

Ví dụ

Phí mua vé máy bay

Đức: Trách nhiệm của hành khách hàng không (IEEP 2014)

Đan Mạch: Định giá nước (IEEP 2014

Phí và thuế cho hoạt động cung cấp nước

Nước

Phí nước thải

Đan Mạch: Định giá nước (IEEP 2014)

Mexico: Scolel’te ( Dự án Plan Vivo 2017)

Thanh toán cho các dịch vụ môi trường

Phí bảo tồn, ví dụ: phí vào cổng công viên quốc gia

Nam Phi: Phí bảo tồn Dailey (Các công viên Quốc gia Nam Phi 2017)

Thuế đất, ví dụ: thuế thay đổi sử dụng đất, thuế đất cao ở biên giới

Úc: đấu giá đa kết quả với hoạt động thay đổi việc sử dụng đất (PP) (Sinh thái học 2006)

Đa dạng sinh học

Phí quản lý thủy sản

Iceland: Thuế tài nguyên thủy sản, hệ thống hạn ngạch đánh bắt được phép giao dịch (IEEP 2014)

Phí không chấp hành

Litva: Phí cho hoạt động chặt cây không tuân thủ theo các quy định pháp luật (Sinh thái học 2006)

Thuế chôn lấp

Vương quốc Anh: Thuế chôn lấp (IEEP 2014)

Rác thải

Thuế thiêu đốt

Pháp: Thuế chung cho các hoạt động gây ô nhiễm (IEEP 2014)

Đức (IEEP 2014)

Chương trình Thải bao nhiêu thanh toán bấy nhiêu (PAYT)

Thuế đánh vào tài nguyên thiên nhiên

Latvia: Thuế tài nguyên thiên nhiên (IEEP 2014)

Tiền bản quyền khai thác tài nguyên

Indonesia: Tiền bản quyền khai thác (Viện quản trị tài nguyên thiên nhiên 2017)

Nguồn tài nguyên

Thuế thuê (ví dụ: thuế thuê tài nguyên

Iceland: Thuế tài nguyên thủy sản, hệ thống hạn ngạch đánh bắt được phép giao dịch (IEEP 2014)

167

Lĩnh vực

Công cụ

Ví dụ

Phí người dùng (ví dụ: tiền hoa hồng)

Angola: Tiền hoa hồng (Broadway/Keen 2009)

Thuế gộp

Vương quốc Anh: Thuế gộp (Chính phủ ương quốc Anh 2017

Indonesia: Tiền bản quyền khai thác (Viện quản trị tài nguyên thiên nhiên 2017)

Các hoạt động tương tự: thỏa thuận phân chia sản phẩm, đấu giá, tham gia cổ phần, các yêu cầu cung cấp cơ sở hạ tầng

Thuế thuốc trừ sâu và phân bón Na Uy: Thuế thuốc trừ sâu (IEEP 2014)

Nông nghiệp

Phí thải nitơ

Thụy Điển: Thuế đối với khí thải nitơ oxit (OECD 2013)

Nguồn:Cottrell và các cộng sự (2017)

168

Phụ lục 3: Các câu hỏi khung phỏng vấn chuyên gia, các nhà nghiên cứu và cán bộ quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

1. Đánh giá về các nội dung QLNN đối với thuế BVMT

o Về hoạt động xây dựng và ban hành luật pháp và chính sách thuế BVMT

o Về hoạt động tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ QLNN đối với thuế BVMT

o Về hoạt động tổ chức quản lý thuế BVMT

o Về hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT

2. Đánh giá về tác động của các nhân tố sau đến công tác QLNN đối với thuế BVMT

o Tác động của các nhân tố chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội của đất nước

o Nhân tố liên quan đến ngành thuế về BVMT

o Quy trình thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT

o Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

o Nhận thức và trách nhiệm môi trường của doanh nghiệp

o Thương mại quốc tế và xu thế bảo hộ thương mại bằng hàng rào kỹ thuật

môi trường

o Xu thế BVMT

3. Đánh giá của về công tác QLNN đối với thuế BVMT

o Thu đúng, thu đủ về đối tượng và thời gian nộp thuế.

o Thu đủ và phù hợp về số lượng tiền thuế BVMT.

o Được tiến hành hợp lý theo quy định pháp luật và bối cảnh các ngành kinh

doanh chịu thuế BVMT.

o Được triển khai thực thi phù hợp với với các mục tiêu định hướng, quy định

của pháp luật về thuế BVMT tại Việt Nam.

169

Phụ lục 4: Danh sách các chuyên gia nghiên cứu và quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

• Các nhà quản lý nhà nước

1. TS. Trần Quang Chiểu

Ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội

2. TS. Mai Thu Vân Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ

3. Phạm Đình Thi Nguyên Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài

Chính

4. Nguyễn Như So

Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc Hội;

Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Tập đoàn DABACO Việt Nam

5. TS. Nguyễn Thành Hưng Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài Chính

6. Lưu Đức Huy Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế, Tổng cục Thuế

7. Trần Văn Vượng Nguyên Chánh thanh tra Bộ Tài chính

8. TS. Trần Huy Trường Chánh Thanh tra Bộ Tài chính

9. Nguyễn Thế Mạnh Phó Tổng cục trưởng Tổng cục thuế;

Nguyên Cục trưởng Cục Thuế Hà Nội;

Nguyên Phó Chánh thanh tra Bộ Tài chính

10. Lương Hải Hưng Phó Vụ Thanh tra kiểm tra TCHQ

11. Phạm Văn Lai Nguyên Chánh thanh tra Tổng Cục Thuế,

Vụ trưởng Vụ kiểm tra nội bộ, Tổng Cục Thuế

12. Lê Thị Loan

Trưởng phòng Chính sách Thuế tài sản và tài nguyên, Vụ CST, BTC

Trưởng phòng, Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài Chính 13. Nguyễn Thị Ngọc

Vụ trưởng Vụ Kê khai và Kế toán thuế 14. Lê Thị Duyên Hải

15. Nguyễn Hùng Anh

Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, Tổng cục Hải quan

170

16. Âu Anh Tuấn Cục trưởng Cục thuế Xuất Nhập khẩu

17. Mai Sơn Cục trưởng Cục thuế Hà Nội

18. Lê Duy Minh Cục trưởng Cục thuế Tp Hồ Chí Minh

19. Đinh Ngọc Thắng Cục trưởng Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh

20. Phạm Quang Toàn Cục trưởng Cục CNTT, Tổng cục Thuế

• Các chuyên gia, các nhà nghiên cứu

Giám Đốc Học Viện Tài chính 1. PGS.TS. Nguyễn Trọng Cơ

2. PGS.TS Nguyễn Đào Tùng Phó Giám Đốc Học viện Tài chính

3. TS. Vũ Duy Nguyên

Phó trưởng khoa Thuế - Hải Quan, Học viện Tài chính

4. PGS.TS Vương Thị Thu Hiền Khoa Thuế Hải quan, Học viện Tài chính

5. PGS.TS Phạm Tiến Đạt Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính

sách tài chính

6. TS. Hoàng Đức Long

Hiệu trưởng Trường Đại học Tài chính – Marketing

7. PGS.TS Đỗ Thị Hải Hà

Trưởng Khoa khoa học quản lý, Trưởng Kinh tế Quốc dân

8. PGS.TS Lê Thu Hoa Nguyên Trưởng Khoa Kinh tế môi trường, Đại

học Kinh tế Quốc dân

171

Phụ lục 5: Bảng hỏi điều tra các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế BVMT

BẢNG HỎI KHẢO SÁT ĐIỀU TRA

Về hoạt động quản lý nhà nước đối với Thuế bảo vệ môi trường

(Đối với doanh nghiệp là đối tượng nôp Thuế bảo vệ môi trường)

Cuộc khả sát này nằm trong trong chương trình nghiên cứu sinh tại trường Đại học Kinh tế Quốc Dân Hà Nội, nhằm đánh giá thực trạng quản lý nhà nước (QLNN) về thuế bảo vệ môi trường (BVMT) và đề xuất hoàn thiện các nội dung thuế và giải

pháp hoàn thiện công tác QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam.

Chúng tôi cam kết mọi thông tin trong phạm vi khảo sát điều tra này sẽ được

bảo mật và chỉ phục vụ điều tra này.

Kính mong quý vị vui lòng trả lời đầy đủ và xác thực các câu hỏi dưới đây.

Xin chân thành cảm ơn!

A. Đánh giá của quý vị vềcông tác QLNN đối với thuế BVMT

Xin quý vị cho biết đánh giá của mình bằng cách ghi (X)vào cột nhận định sau:

(Đánh giá theo thang điểm từ 1 – Không đồng ý / Không tốt; 2 – Không đáng kể ; 3 – Chấp nhận được / Trung bình; 4 – Đồng ý / Tốt; 5 – Hoàn toàn đồng ý / Rất tốt)

• Hoạt động xây dựng và ban hành luật pháp và chính sách thuế BVMT

Nhận định Đánh giá

1 2 3 4 5

1. Luật thuế BVMT được áp dụng như nhau đối với tất cả đối tượng nộp thuế ở trong những hoàn cảnh giống nhau.

2. Luật thuế BVMT ổn định theo thời gian, minh bạch, rõ ràng và được áp dụng một cách thống

nhất trong các trường hợp đã được quy định.

3. Nội dung và ngôn từ của luật thuế BVMT dễ

hiểu với doanh nghiệp và được thực hiện trong

172

một khoảng thời gian dài, ổn định.

4. Hệ thống thuế BVMT được tổ chức phù hợp, không vượt quá mức cho phép, trong bối cảnh

kinh tế xã hội đất nước và các đối tượng nộp thuế như quý doanh nghiệp.

• Hoạt động tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ QLNN đối với thuế BVMT

Đánh giá Nhận định

1 2 3 4 5

5. Bộ máy QLNN đối với thuế BVMT được tổ

chức một cách hợp lý, đảm bảo thực hiện đầy đủ

các chức năng của mình, đảm bảo điều hành các hoạt động quản lý thu thuế BVMT.

6. Bộ máy QLNN đối với thuế BVMT được tổ

chức căn cứ vào mục tiêu, năng lực của cán bộ chuyên trách và khả năng ứng dụng công nghệ

vào quản lý để bộ máy được tinh gọn, hiệu quả.

7. Bộ máy QLNN về thuế BVMT được tổ chức dựa trên nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước, tuân theo các quy định về phân chia địa

giới giữa các tỉnh, thành phố, huyện, xã…

• Hoạt động tổ chức quản lý thuế BVMT

Nhận định Đánh giá

1 2 3 4 5

8. Nhà nước ban hành văn bản quy phạm pháp luật về BVMT được triển khai kịp thời và hiệu quả.

9. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giải thích,

giáo dục pháp luật BVMT phổ biến luật đầy đủ đến quý doanh nghiệp.

173

10. Hoạt động tổ chức thực thi pháp luật BVMT

được triển khai quyết liệt và hiệu quả.

11. Các văn bản quy phạm pháp luật BVMT được

sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện kịp thời và phù hợp với bối cảnh và những biến động thực tiễn.

• Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT

Nhận định Đánh giá

1 2 3 4 5

12. Hoạt động thanh tra, kiểm tra nộp thuế BVMT đối với quý doanh nghiệp được triển khai tuân

thủ các quy định của Luật quản lý thuế và các quy định pháp luật khác có liên quan đến thuế BVMT và tuân thủ quy trình thanh tra.

13. Các cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế như quý doanh nghiệp được

thu thập và phân tích một cách chính xác, khách quan, trung thực.

14. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT đảm bảo nguyên tắc không cản trở các

hoạt động bình thường của người nộp thuế như quý doanh nghiệp.

15. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT đảm bảo phát hiện ngăn ngừa các trường hợp vi phạm luật thuế BVMT như tại và trong

lĩnh vực của quý doanh nghiệp.

174

B. Đánh giá của quý vị về tác động của các nhân tố sau đến công tác QLNN đối với thuế BVMT

Xin quý vị cho biết đánh giá của mình bằng cách ghi (X)vào cột nhận định sau:

(Đánh giá theo thang điểm từ 1 – Không đồng ý / Không tốt; 2 – Không đáng kể ; 3 – Chấp nhận được / Trung bình; 4 – Đồng ý / Tốt; 5 – Hoàn toàn đồng ý / Rất tốt)

Đánh giá Các nhân tố

1 2 3 4 5

Nhân tố chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội của đất nước

16. Bối cảnh và quan điểm chính trị của Đảng và Nhà nước về thuế BVMT trong thời gian qua thúc đẩy hoạt động thu thuế và QLNN đối với thuế BVMT.

17. Chính sách của Nhà nước và tính nghiêm minh của luật pháp được tuân thủ và thực thi nghiêm túc trong công tác QLNN đối với thuế BVMT.

18. Sự phát triển kinh tế, mức sống người dân được cải thiện trong thời gian qua tạo điều kiện thuận

lợi cho hoạt động thu thuế và QLNN đối với thuế BVMT.

19. Bối cảnh xã hội, trình độ và nhận thức người dân về BVMT nâng cao trong thời gian qua thúc đẩy

hoạt động thu thuế và QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam.

Nhân tố liên quan đến ngành thuế về BVMT

20. Hệ thống luật thuế BVMT được xây dựng minh bạch, chặt chẽ, đúng đối tượng nộp thuế như trường hợp quý doanh nghiệp.

21. Trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ thuế BVMT đáp ứng được yêu cầu công tác QLNN đối với thuế BVMT.

22. Cơ sở vật chất và hạ tầng của ngành thuế đáp

175

ứng được yêu cầu công tác QLNN đối với thuế BVMT.

23. Các hoạt động tổ chức thực thi, thanh kiểm tra và xử phạt vi phạm theo pháp luật BVMT được triển khai quyết liệt và hiệu quả.

24. Bộ máy QLNN về thuế BVMT hoạt động hiệu quả đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và

thu đúng thu đủ trong thời gian qua.

Quy trình thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT

25. Thủ tục nộp thuế BVMT đã được cải thiện ngày càng đơn giản và minh bạch hơn trong thời gian gần đây.

26. Phương thức thanh toán và hoạch toán thuế

BVMT đã được cải thiện và ngày càng thuận tiện hơn trong thời gian gần đây.

27. Các quy trình thanh kiểm tra đã được cải thiện và ngày càng minh bạch, thuận tiện hơn trong thời gian gần đây.

Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

28. Doanh thu sản xuất kinh doanh của quý doanh nghiệp đạt mức kỳ vọng trong 3 năm gần đây.

29. Lợi nhuận của quý doanh nghiệp đạt mức kỳ

vọng trong 3 năm gần đây.

30. Quy mô nhân sự của quý doanh nghiệp tăng

trưởng ổn định, đạt mức kỳ vọng trong 3 năm gần đây.

31. Thị phần và tăng trưởng hoạt động sản xuất kinh doanh của quý doanh nghiệp đạt mức kỳ vọng trong 3 năm gần đây.

Nhận thức của doanh nghiệp

32. Quý doanh nghiệp hiểu biết rất rõ về thuế

176

BVMT.

33. Việc nộp thuế BVMT thể hiện trách nhiệm xã hội của quý doanh nghiệp từ hoạt động kinh

doanh trong lĩnh vực có tác hại đến môi trường.

34. Quý doanh nghiệp hoàn toàn tự nguyện và tuân

thủ đầy đủ các nghĩa vụ về thuế BVMT.

35. Thực hiện nghĩa vụ thuế BVMT góp phần tích cực vào thương hiệu và hình ảnh của quý doanh

nghiệp.

Thương mại quốc tế và xu thế bảo hộ thương mại bằng hàng rào kỹ thuật môi trường

36. Hoạt động thương mại quốc tế (xuất nhập khẩu, FDI) của Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong

thời gian qua đã có tác động tiêu cực đến môi trường.

37. Chủ nghĩa bảo hộ thương mại kiểu mới bằng

hàng rào kỹ thuật, các tiêu chuẩn quốc tế BVMT ngày càng phổ biến và tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam

38. Quý doanh nghiệp thường xuyên đối mặt với các hàng rào kỹ thuật và/hay các tiêu chuẩn quốc gia – quốc tế về BVMT trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Xu thế BVMT

39. Xu thế BVMT trên thế giới và trong nước ngày càng lan rộng và có tác động ngày càng sâu rộng đến các lĩnh vực hoạt động nhạy cảm với môi

trường.

40. Sức ép quốc tế và trong nước về BVMT ngày càng cao đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của đất nước vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

177

41. Vai trò và ảnh hưởng của các tổ chức BVMT

trong và ngoài nước ngày càng lớn tại Việt Nam.

42. Các hành động gây tổn hại đến môi trường ngày càng bị lên án và xử lý nghiêm khắc tại Việt Nam.

C. Đánh giá của quý vị vềcông tác QLNN đối với thuế BVMT

Xin quý vị cho biết đánh giá của mình bằng cách ghi (X)vào cột nhận định sau:

(Đánh giá theo thang điểm từ 1 – Không đồng ý / Không tốt; 2 – Không đáng kể ; 3 – Chấp nhận được / Trung bình; 4 – Đồng ý / Tốt; 5 – Hoàn toàn đồng ý / Rất tốt)

Nhận định Đánh giá

1 2 3 4 5

43. Công tác QLNN về thuế BVMT đối với quý

doanh nghiệp nói riêng và các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế BVMT nói chung, thời gian qua đã thu đúng, thu đủ về đối tượng và thời gian nộp thuế.

44. Công tác QLNN về thuế BVMT đối với quý

doanh nghiệp nói riêng và các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế BVMT nói chung thời gian qua đã thu đủ và phù hợp về số lượng tiền thuế

BVMT.

45. Công tác QLNN về thuế BVMT đối với quý

doanh nghiệp nói riêng và các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế BVMT nói chung, thời gian qua được tiến hành hợp lý theo quy định pháp

luật và bối cảnh ngành và đơn vị quý vi.

46. Công tác QLNN đối với thuế BVMT thời gian

qua được triển khai thực thi phù hợp với với các mục tiêu định hướng, quy định của pháp luật về

thuế BVMT tại Việt Nam.

178

D. Thông tin chung

47. Tên doanh nghiệp QLNN: ...........................................................................................

Địa chỉ ..............................................................................................................................

Tel: ................................................

48. Họ tên người đại diện trả lời: ........................................................................................

49. Vị trí hiện tại trong đơn vị: ...................................................

50. Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp chịu thuế BVMT (theo Điều 1 Thông tư

152/2011/TT-BTC):

 Nhóm 1: Xăng dầu, mỡ nhờn

 Nhóm 2: Than đá

 Nhóm 3: Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (HCFC)

 Nhóm 4: Túi ni lông

 Nhóm 5: Thuốc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng

 Nhóm 6: Thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế sử dụng

 Nhóm 7: Thuốc bảo quản lâm sản thuộc loại hạn chế sử dụng

 Nhóm 8: Thuốc khử trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng

51. Năm thành lập hay tuổi doanh nghiệp:

< 3 năm  3-10 năm  11-20 năm  21-30 năm > 30 năm

52. Quy mô của đơn vị:

a) Về lao động (chỉ tính nhân sự chính thức: người):

 Dưới 10 LĐ  10-100  101-300  301-1000 >1000 LĐ

b) Về doanh thu (VND):

 Dưới 3 tỷ  3-10 tỷ  11-100 tỷ 101-1000 tỷ > 1000 tỷ

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Quý vị!

179

Phụ lục 6: Bảng hỏi khảo sát điều tra đối với các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý nhà nước về thuế bảo vệ môi trường

BẢNG HỎI KHẢO SÁT ĐIỀU TRA

Vềhoạt động quản lý nhà nước đối với Thuế bảo vệ môi trường

(Đối với Chuyên gia nghiên cứu và quản lý nhà nước về Thuế bảo vệ môi trường)

Cuộc khả sát này nằm trong trong chương trình nghiên cứu sinh tại trường Đại học Kinh tế Quốc Dân Hà Nội, nhằm đánh giá thực trạng quản lý nhà nước (QLNN) về thuế bảo vệ môi trường (BVMT) và đề xuất hoàn thiện các nội dung thuế và giải pháp hoàn thiện công tác QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam.

Chúng tôi cam kết mọi thông tin trong phạm vi khảo sát điều tra này sẽ được

bảo mật và chỉ phục vụ điều tra này.

Kính mong quý vị vui lòng trả lời đầy đủ và xác thực các câu hỏi dưới đây.

Xin chân thành cảm ơn!

A. Đánh giá của quý vị vềcông tác QLNN đối với thuế BVMT

Xin quý vị cho biết đánh giá của mình bằng cách ghi (X)vào cột nhận định sau:

(Đánh giá theo thang điểm từ 1 – Không đồng ý / Không tốt; 2 – Không đáng kể ; 3 – Chấp nhận được / Trung bình; 4 – Đồng ý / Tốt; 5 – Hoàn toàn đồng ý / Rất tốt)

• Hoạt động xây dựng và ban hành luật pháp và chính sách thuế BVMT

Nhận định Đánh giá

1 2 3 4 5

1. Luật thuế BVMT được áp dụng như nhau đối với tất cả đối tượng nộp thuế ở trong những

hoàn cảnh giống nhau.

2. Luật thuế BVMT ổn định theo thời gian, minh bạch, rõ ràng và được áp dụng một cách thống nhất trong các trường hợp đã được quy định.

180

3. Nội dung và ngôn từ của luật thuế BVMT dễ

hiểu với mọi đối tượng và được thực hiện trong

một khoảng thời gian dài, ổn định.

4. Hệ thống thuế BVMT được tổ chức phù hợp, không vượt quá mức cho phép, trong bối cảnh kinh tế xã hội đất nước và các đối tượng nộp

thuế.

• Hoạt động tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ QLNN đối với thuế BVMT

Đánh giá Nhận định

1 2 3 4 5

5. Bộ máy QLNN đối với thuế BVMT được tổ

chức một cách hợp lý, đảm bảo thực hiện đầy đủ các chức năng của mình, đảm bảo điều hành các hoạt động quản lý thu thuế BVMT.

6. Bộ máy QLNN đối với thuế BVMT được tổ

chức căn cứ vào mục tiêu, năng lực của cán bộ chuyên trách và khả năng ứng dụng công nghệ vào quản lý để bộ máy được tinh gọn, hiệu quả.

7. Bộ máy QLNN về thuế BVMT được tổ chức dựa trên nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước, tuân theo các quy định về phân chia địa giới giữa các tỉnh, thành phố, huyện, xã…

• Hoạt động tổ chức quản lý thuế BVMT

Nhận định Đánh giá

1 2 3 4 5

8. Nhà nước ban hành văn bản quy phạm pháp luật về BVMT được triển khai kịp thời và hiệu quả.

9. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giải thích,

181

giáo dục pháp luật BVMT phổ biến luật đầy đủ đến các đối tượng nộp thuế BVMT.

10. Hoạt động tổ chức thực thi pháp luật BVMT

được triển khai quyết liệt và hiệu quả.

11. Các văn bản quy phạm pháp luật BVMT được

sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện kịp thời và phù hợp với bối cảnh và những biến động thực tiễn.

• Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT

Nhận định Đánh giá

1 2 3 4 5

12. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT được triển khai tuân thủ các quy định của Luật quản lý thuế và các quy định pháp luật khác có liên quan đến thuế BVMT và tuân thủ quy trình thanh tra.

13. Các cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế được thu thập và phân tích một cách chính xác, khách quan, trung thực.

14. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT đảm bảo nguyên tắc không cản trở các

hoạt động bình thường của người nộp thuế.

15. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế BVMT đảm bảo phát hiện ngăn ngừa các trường hợp vi phạm luật thuế BVMT.

B. Đánh giá của quý vị về tác động của các nhân tố sau đến công tác QLNN đối với thuế BVMT

Xin quý vị cho biết đánh giá của mình bằng cách ghi (X)vào cột nhận định sau:

(Đánh giá theo thang điểm từ 1 – Không đồng ý / Không tốt; 2 – Không đáng kể ; 3 –

Chấp nhận được / Trung bình; 4 – Đồng ý / Tốt; 5 – Hoàn toàn đồng ý / Rất tốt)

182

Các nhân tố Đánh giá

1 2 3 4 5

Nhân tố chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội của đất nước

16. Bối cảnh và quan điểm chính trị của Đảng và Nhà nước về thuế BVMT trong thời gian qua thúc đẩy hoạt động thu thuế và QLNN đối với thuế BVMT.

17. Chính sách của Nhà nước và tính nghiêm minh của luật pháp được tuân thủ và thực thi nghiêm

túc trong công tác QLNN đối với thuế BVMT.

18. Sự phát triển kinh tế, mức sống người dân được cải thiện trong thời gian qua tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thu thuế và QLNN đối với thuế BVMT.

19. Bối cảnh xã hội, trình độ và nhận thức người dân về BVMT nâng cao trong thời gian qua thúc đẩy hoạt động thu thuế và QLNN đối với thuế BVMT tại Việt Nam.

Ngành thuế về BVMT

20. Hệ thống luật thuế BVMT được xây dựng minh

bạch, chặt chẽ, đúng đối tượng nộp thuế.

21. Trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ thuế BVMT đáp ứng được yêu cầu công tác QLNN đối với thuế BVMT.

22. Cơ sở vật chất và hạ tầng của ngành thuế đáp

ứng được yêu cầu công tác QLNN đối với thuế BVMT.

23. Các hoạt động tổ chức thực thi, thanh kiểm tra và xử phạt vi phạm theo pháp luật BVMT được

triển khai quyết liệt và hiệu quả.

24. Bộ máy QLNN về thuế BVMT hoạt động hiệu

183

quả đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và thu đúng thu đủ trong thời gian qua.

Thủ tục, hồ sơ thanh toán thuế BVMT

25. Thủ tục nộp thuế BVMT đã được cải thiện ngày càng đơn giản và minh bạch hơn trong thời gian gần đây.

26. Phương thức thanh toán và hoạch toán thuế

BVMT đã được cải thiện và ngày càng thuận

tiện hơn trong thời gian gần đây.

27. Các quy trình thanh kiểm tra đã được cải thiện và ngày càng minh bạch, thuận tiện hơn trong thời gian gần đây.

Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

28. Doanh thu sản xuất kinh doanh của các đơn vị là đối tượng nộp thuế BVMT khả quan trong 3 năm gần đây.

29. Lợi nhuận của các đơn vị là đối tượng nộp thuế

BVMT khả quan trong 3 năm gần đây.

30. Quy mô nhân sự của các đơn vị đối tượng nộp

thuế có sự tăng trưởng ổn định, đạt mức kỳ vọng trong 3 năm gần đây.

31. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành là đối tượng nộp thuế BVMT khả quan trong 3 năm gần đây.

Nhận thức của doanh nghiệp

32. Các đối tượng nộp thuế có sự hiểu biết rõ về

thuế BVMT.

33. Việc nộp thuế BVMT đã được các đối tượng

nộp thuế nhìn nhận là trách nhiệm gắn liền với hoạt động kinh doanh của mình trong lĩnh vực

có tác hại đến môi trường.

184

34. Các đối tượng nộp thuế hoàn toàn tự nguyện và tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ về thuế BVMT.

35. Các đối tượng nộp thuế đã nhìn nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế BVMT như một phần xây dựng thương hiệu và hình ảnh của mình.

Thương mại quốc tế và xu thế bảo hộ thương mại bằng hàng rào kỹ thuật môi trường

36. Hoạt động thương mại quốc tế (xuất nhập khẩu, FDI) của Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua đã có tác động tiêu cực đến môi trường.

37. Chủ nghĩa bảo hộ thương mại kiểu mới bằng

hàng rào kỹ thuật, các tiêu chuẩn quốc tế BVMT ngày càng phổ biến và tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam

38. Các doanh nghiệp Việt Nam thường xuyên đối mặt với các hàng rào kỹ thuật và/hay các tiêu

chuẩn quốc gia – quốc tế về BVMT trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu.

Xu thế BVMT

39. Xu thế BVMT trên thế giới và trong nước ngày càng lan rộng và có tác động ngày càng sâu rộng đến các lĩnh vực hoạt động nhạy cảm với môi trường.

40. Sức ép quốc tế và trong nước về BVMT ngày càng cao đối với Việt Nam trong quá trình hội

nhập ngày càng sâu rộng của đất nước vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

41. Vai trò và ảnh hưởng của các tổ chức BVMT

trong và ngoài nước ngày càng lớn tại Việt Nam.

185

42. Các hành động gây tổn hại đến môi trường ngày càng bị lên án và xử lý nghiêm khắc tại Việt

Nam.

C. Đánh giá của quý vị vềcông tác QLNN đối với thuế BVMT

Xin quý vị cho biết đánh giá của mình bằng cách ghi (X)vào cột nhận định sau:

(Đánh giá theo thang điểm từ 1 – Không đồng ý / Không tốt; 2 – Không đáng kể ; 3 – Chấp nhận được / Trung bình; 4 – Đồng ý / Tốt; 5 – Hoàn toàn đồng ý / Rất tốt)

Nhận định Đánh giá

1 2 3 4 5

43. Công tác QLNN đối với thuế BVMT thời gian qua đã thu đúng, thu đủ về đối tượng và thời

gian nộp thuế.

44. Công tác QLNN đối với thuế BVMT thời gian qua đã thu đủ và phù hợp về số lượng tiền thuế BVMT.

45. Công tác QLNN đối với thuế BVMT thời gian qua đã thu được kết quả khích lệ, hoàn thành kế

hoạch chiến lược của Đảng, Nhà nước và Bộ Tài chính đã đề ra.

46. Công tác QLNN đối với thuế BVMT thời gian

qua được triển khai thực thi phù hợp với với các

mục tiêu định hướng, quy định của pháp luật về thuế BVMT tại Việt Nam.

D. Thông tin chung

47. Họ tên chuyên gia: ........................................................................................................

Đơn vị công tác: ............................................................................................................

Chức vụ hiện tại: ..........................................................................................................

48. Độ tuổi:

186

 Dưới 30 tuổi  30-39 tuổi  40-49 tuổi  50-60 tuổi > 60 tuổi

49. Học hàm, học vị:

 Giáo sư, Phó giáo sư  Tiến sĩ  Thạc sĩ

 Đại học, kỹ sư  Dưới đại học và khác: ............................................

50. Đơn vị công tác:

 Cơ quan QLNN

 Các viện nghiên cứu & trường đại học

 Các cơ quan, đơn vị ngoài nhà nước (Cty luật, tư vấn, đầu tư .... )

 Các chuyên gia, nhà nghiên cứu độc lập

 Khác: .......................................................................................................................

51. Lĩnh vực chuyên gia:

Thuế BVMT

 Pháp luật, thuế nói chung

BVMT và phát triển bền vững

 Khác (đầu tư, tư vấn ...): .........................................................................................

52. Thâm niên chuyên gia:

< 5 năm kinh nghiệm  từ 5 đến dưới 10 năm  từ 10 đến dưới 20 năm

 từ 20 đến dưới 30 năm > 30 năm kinh nghiệm

Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của Quý vị!

187

Phụ lục 7: Mô tả đặc điểm mẫu điều tra

Mã Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ %

Tổng số mẫu Trong đó: Doanh nghiệp Chuyên gia, nhà nghiên cứu và cán bộ QLNN 223 155 68 100 69,51 30,49

Mẫu doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế BVMT

Q50

100 13,55 12,90 155 21 20 16 15

Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp: - Nhóm 1: Xăng dầu, mỡ nhờn - Nhóm 2: Than đá - Nhóm 3: Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon - Nhóm 4: Túi ni lông - Nhóm 5: Thuốc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử

dụng

- Nhóm 6: Thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế sử 32 22 13 10,32 9,68 20,65 14,19 dụng 16

- Nhóm 7: Thuốc bảo quản lâm sản hạn chế sử 8,39 10,32 dụng

- Nhóm 8: Thuốc khử trùng kho hạn chế sử dụng

Q51 155 100

23 47 44 14,84 30,32 28,39

Tuổi doanh nghiệp: - < 3 năm - 3-10 năm - 11-20 năm - 21-30 năm - > 30 năm 24 17 15,48 10,97

155 25 32 100 16,13 20,65

Q52 a Quy mô lao động của doanh nghiệp: - Dưới 10 người - 10-100 người - 101-300 người - 301-1000 người - >1000 người 60 23 15 38,71 14,84 9,68

100 Q53 b Doanh thu bình quân hàng nằm của doanh nghiệp: 155

15 31 52 32 9,68 20,00 33,55 20,65 - Dưới 3 tỷ - 3-10 tỷ - 11-100 tỷ - 101-1000 tỷ

188

- > 1000 tỷ 25 16,13

Mẫu chuyên gia, nhà nghiên cứu và nhà QLNN

Q48 Độ tuổi:

68 7 100 10,29

16 13 18 23,53 19,12 26,47

14 20,59

- Dưới 30 tuổi - 30-39 tuổi - 40-49 tuổi - 50-60 tuổi - > 60 tuổi Học hàm, học vị: Q49

68 15 17 31 100 22,06 25,00 45,59

- Giáo sư, Phó giáo sư - Tiến sĩ - Thạc sĩ - Đại học, kỹ sư 5 7,35

Q50 Đơn vị công tác:

68 16 13 100 23,53 19,12

- Cơ quan quản lý nhà nước - Các viện nghiên cứu & trường đại học - Các cơ quan, đơn vị ngoài nhà nước - Các chuyên gia, nhà nghiên cứu độc lập 32 7 47,06 10,29

Q51

68 19 100 27,94

Lĩnh vực chuyên gia: - Thuế BVMT - Pháp luật, thuế nói chung - BVMT và phát triển bền vững 25 24 36,76 35,29

Q52 Thâm niên:

68 8 13 100 11,76 19,12

- < 5 năm kinh nghiệm - từ 5 đến dưới 10 năm - từ 10 đến dưới 20 năm - từ 20 đến dưới 30 năm - > 30 năm kinh nghiệm 24 11 12 35,29 16,18 17,65

Nguồn: Xử lý dữ liệu điều tra bằng SPSS 22

189

Phụ lục 8: Phân tích miêu tả kết quả khảo sát điều tra

Descriptive Statistics

N Minimum Maximum Mean

Std. Deviation

Q1 Q2

3.17 3.19

5 5

1.190 1.095

223 223

1 1

Q3

3.30

5

1.250

223

1

Q4 Q5 Q6

3.15 3.70 3.16

5 5 5

1.210 1.198 1.307

223 223 223

1 1 1

Q7 Q8 Q9 Q10

3.53 3.53 3.58 3.13

5 5 5 5

1.110 1.138 1.231 1.186

223 223 223 223

1 1 1 1

Q11 Q12 Q13 Q14

3.40 3.61 2.68 3.17

5 5 5 5

1.118 0.971 1.041 0.997

223 223 223 223

1 1 1 1

Q15 Q16 Q17

3.49 4.05 3.77

5 5 5

0.915 0.724 0.864

223 223 223

1 2 2

Q18 Q19

3.83 3.83

5 5

0.881 0.802

223 223

2 2

Q20 Q21

3.22 3.36

5 5

1.045 0.958

223 223

1 1

Q22 Q23 Q24 Q25

3.15 2.86 2.91 3.83

5 5 5 5

0.974 0.840 0.847 1.129

223 223 223 223

1 1 1 1

Q26 Q27

3.81 3.81

5 5

0.973 1.128

223 223

1 1

Q28

3.28

5

1.188

223

1

Q29 Q30 Q31 Q32

2.91 3.44 3.28 2.77

5 5 5 5

1.214 1.183 1.198 1.300

223 223 223 223

1 1 1 1

Q33 Q34 Q35 Q36

3.32 2.66 2.83 3.71

5 5 5 5

1.231 1.087 1.400 0.874

223 223 223 223

1 1 1 2

Q37 Q38 Q39

3.62 4.02 3.67

5 5 5

1.058 0.805 1.025

223 223 223

2 2 2

Q40 Q41 Q42 Q43

4.09 3.86 3.39 3.64

5 5 5 5

0.893 0.994 1.068 1.308

223 223 223 223

2 2 2 1

Q44 Q45

3.65 3.78

5 5

0.955 1.207

223 223

1 1

3.85

5

1.235

1

223 223

Q46 Valid N (listwise)

190

 Mẫu khảo sát điều tra với các câu hỏi chung cho tất cả các đối tượng

Q1

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

9.4

21

9.4

9.4

Valid

1

20.2

45

20.2

29.6

2

28.7

64

28.7

58.3

3

26.9

60

26.9

85.2

4

14.8

33

14.8

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q2

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

5.4

12

5.4

5.4

Valid

1

22.9

51

22.9

28.3

2

32.3

72

32.3

60.5

3

26.5

59

26.5

87.0

4

13.0

29

13.0

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q3

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

9.9

22

9.9

9.9

Valid

1

15.2

34

15.2

25.1

2

32.3

72

32.3

57.4

3

20.2

45

20.2

77.6

4

22.4

50

22.4

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q4

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

11.7

26

11.7

11.7

Valid

1

18.8

42

18.8

30.5

2

24.7

55

24.7

55.2

3

32.3

72

32.3

87.4

4

12.6

28

12.6

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q5

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

6.7

15

6.7

6.7

Valid

1

8.1

18

8.1

14.8

2

26.0

58

26.0

40.8

3

26.5

59

26.5

67.3

4

32.7

73

32.7

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q6

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

1

29

13.0

13.0

13.0

46

20.6

20.6

33.6

2

51

22.9

22.9

56.5

3

55

24.7

24.7

81.2

4

42

18.8

18.8

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

191

Q7

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

7

3.1

3.1

3.1

Valid

1

39

17.5

17.5

20.6

2

54

24.2

24.2

44.8

3

74

33.2

33.2

78.0

4

49

22.0

22.0

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q8

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

10

4.5

4.5

4.5

Valid

1

33

14.8

14.8

19.3

2

62

27.8

27.8

47.1

3

65

29.1

29.1

76.2

4

53

23.8

23.8

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q9

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

16

7.2

7.2

7.2

Valid

1

28

12.6

12.6

19.7

2

55

24.7

24.7

44.4

3

59

26.5

26.5

70.9

4

65

29.1

29.1

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q10

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

15

6.7

6.7

6.7

Valid

1

61

27.4

27.4

34.1

2

66

29.6

29.6

63.7

3

43

19.3

19.3

83.0

4

38

17.0

17.0

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q11

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

14

6.3

6.3

6.3

Valid

1

26

11.7

11.7

17.9

2

84

37.7

37.7

55.6

3

55

24.7

24.7

80.3

4

44

19.7

19.7

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q12

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

1

9

4.0

4.0

4.0

2

23

10.3

10.3

14.3

3

43

19.3

19.3

33.6

4

120

53.8

53.8

87.4

5

28

12.6

12.6

100.0

Total

100.0

223

100.0

192

Q13

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

1

17.9

40

17.9

17.9

2

20.6

46

20.6

38.6

3

38.1

85

38.1

76.7

4

22.4

50

22.4

99.1

5

.9

2

.9

100.0

Total

223

100.0

100.0

Q14

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

1

5.4

12

5.4

5.4

2

19.3

43

19.3

24.7

3

35.9

80

35.9

60.5

4

32.3

72

32.3

92.8

5

7.2

16

7.2

100.0

Total

223

100.0

100.0

Q15

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

1

3.6

8

3.6

3.6

2

6.7

15

6.7

10.3

3

38.1

85

38.1

48.4

4

39.9

89

39.9

88.3

5

11.7

26

11.7

100.0

Total

223

100.0

100.0

Q16

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

2

2.2

5

2.2

2.2

3

17.0

38

17.0

19.3

4

54.3

121

54.3

73.5

5

26.5

59

26.5

100.0

Total

100.0

223

100.0

Q17

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

2

4.9

11

4.9

4.9

3

36.8

82

36.8

41.7

4

35.0

78

35.0

76.7

5

23.3

52

23.3

100.0

100.0

Total

223

100.0

193

Q18

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

4.5

10

4.5

4.5

Valid

2

35.4

79

35.4

39.9

3

33.2

74

33.2

73.1

4

26.9

60

26.9

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q19

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

4.5

10

4.5

4.5

Valid

2

28.3

63

28.3

32.7

3

46.6

104

46.6

79.4

4

20.6

46

20.6

100.0

5

Total

100.0

100.0

223

Q20

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

5.8

13

5.8

5.8

Valid

1

21.5

48

21.5

27.4

2

24.2

54

24.2

51.6

3

41.7

93

41.7

93.3

4

6.7

15

6.7

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q21

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

4.9

11

4.9

4.9

Valid

1

9.4

21

9.4

14.3

2

39.9

89

39.9

54.3

3

35.9

80

35.9

90.1

4

9.9

22

9.9

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q22

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

7.6

17

7.6

7.6

Valid

1

14.3

32

14.3

22.0

2

36.8

82

36.8

58.7

3

37.7

84

37.7

96.4

4

3.6

8

3.6

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q23

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

7.6

17

7.6

7.6

Valid

1

19.7

44

19.7

27.4

2

52.0

116

52.0

79.4

3

20.2

45

20.2

99.6

4

.4

1

.4

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

194

Q24

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

6.7

15

6.7

6.7

Valid

1

18.4

41

18.4

25.1

2

53.4

119

53.4

78.5

3

19.7

44

19.7

98.2

4

1.8

4

1.8

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q25

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

1.3

3

1.3

1.3

Valid

1

17.0

38

17.0

18.4

2

13.9

31

13.9

32.3

3

32.3

72

32.3

64.6

4

35.4

79

35.4

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q26

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

1.3

3

1.3

1.3

Valid

1

7.2

16

7.2

8.5

2

28.7

64

28.7

37.2

3

34.5

77

34.5

71.7

4

28.3

63

28.3

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q27

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

1.8

4

1.8

1.8

Valid

1

13.9

31

13.9

15.7

2

22.4

50

22.4

38.1

3

25.6

57

25.6

63.7

4

36.3

81

36.3

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q28

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

7.2

16

7.2

7.2

Valid

1

19.3

43

19.3

26.5

2

30.9

69

30.9

57.4

3

23.3

52

23.3

80.7

4

19.3

43

19.3

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q29

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

13.5

30

13.5

13.5

Valid

1

26.5

59

26.5

39.9

2

26.5

59

26.5

66.4

3

22.4

50

22.4

88.8

4

5

25

11.2

11.2

100.0

Total

223

100.0

100.0

195

Q30

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

4.0

9

4.0

4.0

Valid

1

21.1

47

21.1

25.1

2

26.0

58

26.0

51.1

3

24.7

55

24.7

75.8

4

24.2

54

24.2

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q31

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

6.7

15

6.7

6.7

Valid

1

22.0

49

22.0

28.7

2

27.4

61

27.4

56.1

3

24.7

55

24.7

80.7

4

19.3

43

19.3

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q32

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

19.7

44

19.7

19.7

Valid

1

25.6

57

25.6

45.3

2

26.0

58

26.0

71.3

3

15.2

34

15.2

86.5

4

13.5

30

13.5

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q33

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

7.6

17

7.6

7.6

Valid

1

19.7

44

19.7

27.4

2

27.8

62

27.8

55.2

3

22.9

51

22.9

78.0

4

22.0

49

22.0

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q34

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

15.2

34

15.2

15.2

Valid

1

31.4

70

31.4

46.6

2

30.0

67

30.0

76.7

3

18.8

42

18.8

95.5

4

4.5

10

4.5

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q35

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

20.6

46

20.6

20.6

Valid

1

27.8

62

27.8

48.4

2

3

37

16.6

16.6

65.0

4

39

17.5

17.5

82.5

5

39

17.5

17.5

100.0

Total

223

100.0

100.0

196

Q36

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

2

Valid

18

8.1

8.1

8.1

3

72

32.3

32.3

40.4

4

89

39.9

39.9

80.3

5

44

19.7

19.7

100.0

Total

223

100.0

100.0

Q37

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

2

Valid

38

17.0

17.0

17.0

3

69

30.9

30.9

48.0

4

56

25.1

25.1

73.1

5

60

26.9

26.9

100.0

Total

223

100.0

100.0

Q38

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

2

Valid

12

5.4

5.4

5.4

3

34

15.2

15.2

20.6

4

115

51.6

51.6

72.2

5

62

27.8

27.8

100.0

223

100.0

Total

100.0

Q39

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

2

Valid

40

17.9

17.9

17.9

3

46

20.6

20.6

38.6

4

85

38.1

38.1

76.7

5

52

23.3

23.3

100.0

Total

223

100.0

100.0

Q40

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

2

Valid

12

5.4

5.4

5.4

3

43

19.3

19.3

24.7

4

80

35.9

35.9

60.5

5

88

39.5

39.5

100.0

Total

223

100.0

100.0

Q41

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

2

Valid

23

10.3

10.3

10.3

3

59

26.5

26.5

36.8

4

68

30.5

30.5

67.3

5

73

32.7

32.7

100.0

Total

223

100.0

100.0

197

Q42

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

56

25.1

25.1

25.1

Valid

2

67

30.0

30.0

55.2

3

56

25.1

25.1

80.3

4

44

19.7

19.7

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q43

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

18

8.1

8.1

8.1

Valid

1

31

13.9

13.9

22.0

2

44

19.7

19.7

41.7

3

51

22.9

22.9

64.6

4

79

35.4

35.4

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q44

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

7

3.1

3.1

3.1

Valid

1

15

6.7

6.7

9.9

2

66

29.6

29.6

39.5

3

95

42.6

42.6

82.1

4

40

17.9

17.9

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q45

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

9

4.0

4.0

4.0

Valid

1

33

14.8

14.8

18.8

2

38

17.0

17.0

35.9

3

60

26.9

26.9

62.8

4

83

37.2

37.2

100.0

5

Total

223

100.0

100.0

Q46

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

13

5.8

5.8

5.8

Valid

1

26

11.7

11.7

17.5

2

33

14.8

14.8

32.3

3

61

27.4

27.4

59.6

4

90

40.4

40.4

100.0

5

100.0

Total

223

100.0

 Mẫu khảo sát điều tra doanh nghiệp

Q50

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

1

21

9.4

13.5

13.5

20

9.0

12.9

26.5

2

16 15 32 22

7.2 6.7 14.3 9.9

10.3 9.7 20.6 14.2

36.8 46.5 67.1 81.3

3 4 5 6

13 16

5.8 7.2

8.4 10.3

89.7 100.0

7 8

100.0

155 68

69.5 30.5

Total System

Missing

223

100.0

Total

198

Q51

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

23

10.3

14.8

14.8

1

Valid

47 44 24 17

21.1 19.7 10.8 7.6

30.3 28.4 15.5 11.0

45.2 73.5 89.0 100.0

2 3 4 5

100.0

Total System

155 68 223

69.5 30.5 100.0

Missing Total

Q52a

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

25 32

11.2 14.3

16.1 20.6

16.1 36.8

1 2

60

26.9

38.7

75.5

3

90.3 100.0

14.8 9.7 100.0

23 15 155 68

10.3 6.7 69.5 30.5

4 5 Total System

Missing

223

100.0

Total

Q52b

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

15

6.7

9.7

9.7

1

Valid

31 52 32 25

13.9 23.3 14.3 11.2

20.0 33.5 20.6 16.1

29.7 63.2 83.9 100.0

2 3 4 5

100.0

Total System

155 68 223

69.5 30.5 100.0

Missing Total

199

 Mẫu khảo sát điều tra chuyên gia, nhà nghiên cứu và cán bộ QLNN

CG48

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

3.1 7.2 5.8 8.1

7 16 13 18

10.3 23.5 19.1 26.5

10.3 33.8 52.9 79.4

1 2 3 4

6.3

14

20.6

100.0

5

100.0

30.5 69.5

68 155

Total System

Missing

100.0

223

Total

CG49

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

6.7 7.6

15 17

22.1 25.0

22.1 47.1

1 2

92.6 100.0

45.6 7.4 100.0

13.9 2.2 30.5 69.5

31 5 68 155

3 4 Total System

Missing

100.0

223

Total

CG50

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

7.2

16

23.5

23.5

1

Valid

5.8 14.3 3.1

13 32 7

19.1 47.1 10.3

42.6 89.7 100.0

2 3 4

30.5

68

100.0

Total

System

69.5 100.0

155 223

Missing Total

CG51

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

Valid

27.9 64.7 100.0

8.5 11.2 10.8 30.5

19 25 24 68

27.9 36.8 35.3 100.0

1 2 3 Total

System

69.5 100.0

155 223

Missing Total

CG52

Frequency

Percent

Valid Percent

Cumulative Percent

3.6

8

11.8

11.8

1

Valid

5.8 10.8 4.9

13 24 11

19.1 35.3 16.2

30.9 66.2 82.4

2 3 4

100.0

17.6 100.0

5 Total System

5.4 30.5 69.5 100.0

12 68 155 223

Missing Total

200

Phụ lục 9: Kết quả phân tích hồi quy

Model Summary

Model

R

R Square

Adjusted R Square

Std. Error of the Estimate

1

.900a

.810

.804

.44266049

a. Predictors: (Constant), X7, X2, X3, X6, X1, X5, X4

ANOVAa

Model

Sum of Squares

df

Mean Square

F

Sig.

1 Regression

179.871

7

25.696

131.136

.000b

Residual

42.129

215

.196

Total

222.000

222

a. Dependent Variable: Y

b. Predictors: (Constant), X7, X2, X3, X6, X1, X5, X4

Coefficientsa

Unstandardized Coefficients

Standardized Coefficients

Collinearity Statistics

Model

Std. Error

Beta

t

Sig.

Tolerance

VIF

B

1

(Constant)

0.030

0.000

1.000

0.000

X1

0.044

0.192

4.376

0.000

0.456

2.192

0.192

X2

0.030

0.088

2.900

0.004

0.960

1.042

0.088

X3

0.036

0.124

3.426

0.001

0.670

1.493

0.124

X4

0.044

0.229

5.202

0.000

0.456

2.193

0.229

X5

0.043

0.308

7.115

0.000

0.471

2.122

0.308

X6

0.040

0.276

6.911

0.000

0.554

1.803

0.276

X7

0.033

0.022

0.660

0.510

0.828

1.208

0.022

a. Dependent Variable: Y

Collinearity Diagnosticsa

Variance Proportions

Model

Eigenvalue

Condition Index

(Constant)

X1

X2

X3

X4

X5

X6

X7

1

1

.00

.03

.00

.03

.03

.03

.03

.02

1.000

3.301

2

.00

.00

.87

.00

.00

.01

.01

.00

1.787

1.033

3

1.00

.00

.00

.00

.00

.00

.00

.00

1.817

1.000

4

.00

.03

.00

.11

.01

.00

.01

.67

1.904

.910

5

.00

.00

.05

.57

.05

.01

.22

.19

2.338

.604

6

.00

.22

.03

.21

.02

.27

.37

.00

2.649

.471

7

.00

.04

.02

.06

.63

.32

.23

.08

3.009

.364

8

.00

.68

.03

.02

.27

.36

.12

.03

3.230

.316