BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HÀ THỊ ÁNH TUYẾT

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HÀ THỊ ÁNH TUYẾT

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG

Mã số: 60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH ĐỨC HƯNG

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và

được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Thừa Thiên Huế, ngày 27 tháng 12 năm 2017

Học viên

Hà Thị Ánh Tuyết

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện Luận văn Thạc sỹ tại Cơ sở

Học viện Hành chính khu vực miền Trung, em đã nhận được sự quan tâm,

giúp đỡ của quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình, đã tạo điều kiện

về thời gian, hướng dẫn nội dung, cung cấp tài liệu và những thông tin cần

thiết.

Trước tiên, em xin chân thành cảm ơn đến Cơ sở Học viện Hành

chính khu vực miền Trung, Khoa Sau đại học Học viện Hành chính Quốc

gia cùng tất cả quý thầy, cô giáo của Học viện Hành chính Quốc gia đã

giảng dạy tận tình và truyền đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ em trong

quá trình học tập và nghiên cứu.

Em xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến TS.Trịnh Đức Hưng, đã tận

tình hướng dẫn và có những đóng góp quý báu để em hoàn thành Luận văn

này.

Xin chân thành cảm ơn tới các sở, ban, ngành và UBND các huyện,

thị xã, thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam đã hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều

kiện trong suốt quá trình thu thập số liệu điều tra phục vụ nghiên cứu.

Cảm ơn người thân, bạn bè đồng nghiệp đã cổ vũ tinh thần và giúp đỡ để

hoàn thành luận văn này.

Tuy có nhiều cố gắng, nhưng luận văn không tránh khỏi những thiếu

sót, hạn chế. Em kính mong quý thầy, cô và những người quan tâm đến đề

tài có những đóng góp, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.

Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn./.

Học viên

Hà Thị Ánh Tuyết

MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

MỤC LỤC

Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN

THỐNG .................................................................................................... 8

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài .......................................................... 8

1.1.1. Khái niệm làng nghề ..................................................................................... 8

1.1.2. Khái niệm về làng nghề truyền thống ........................................................ 8

1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống ............. 10

1.1.4. Tổ chức bộ máy trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống ........................................................................................................ 11

1.2. Nội dung, đặc điểm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống và

các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống ............................................................................................................. 12

1.2.1. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống ......................................................................................................................... 12

1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống ................................................................................................... 21

1.3. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một số

tỉnh và bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Nam ........................................... 27

1.3.1. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một số

tỉnh ........................................................................................................... 27

1.3.2. Bài học về quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một số

tỉnh của nước ta mà tỉnh Quảng Nam cần học tập ..................................... 31

Chương 2. THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

TẠI QUẢNG NAM ................................................................................ 35

2.1. Thực trạng làng nghề truyền thống ở Quảng Nam ................................... 35

2.1.1. Khái quát về tỉnh Quảng Nam ........................................................ 35

2.1.2. Khái quát về làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam.................... 36

2.2. Đặc điểm làng nghề truyền thống và quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam .................................................................... 38

2.2.1. Đặc điểm làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam ........................ 38

2.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tỉnh

Quảng Nam .............................................................................................. 40

2.3. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

của tỉnh Quảng Nam .............................................................................................. 42

2.3.1.Việc ban hành, hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện văn bản

quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường trong hoạt động

quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống .................................... 42

2.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam ...................................... 45

2.3.3. Nguồn nhân lực trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống tỉnh Quảng Nam ............................................................................. 49

2.3.4. Xây dựng và thực hiện chính sách quản lý phát triển đối với làng

nghề truyền thống ..................................................................................... 51

2.3.5. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề truyền thống .... 54

2.3.6. Xã hội hóa và hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý nhà nước đối

với các làng nghề truyền thống ................................................................. 55

2.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống trên

địa bàn tỉnh Quảng Nam ........................................................................................ 58

2.4.1. Những yếu tố thuận lợi cho hoạt động quản lý nhà nước đối với các

làng nghề truyền thống ............................................................................. 58

2.4.2. Những điểm hạn chế cho hoạt động quản lý nhà nước đối với các

làng nghề truyền thống ............................................................................. 60

2.4.3. Nguyên nhân những thuận lợi và hạn chế đối với hoạt động quản lý

nhà nước của các làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam ...................... 62

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN

LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM ............................................................. 67

3.1. Phương hướng quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tỉnh Quảng

Nam ........................................................................................................................... 67

3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tỉnh

Quảng Nam .............................................................................................................. 71

3.2.1. Nâng cao hiệu quả việc ban hành, hướng dẫn và tổ chức triển khai

thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường

trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống .......... 71

3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy trong quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống tỉnh Quảng Nam .................................................................... 75

3.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam ......................................... 79

3.2.4. Chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền thống ..................... 81

3.2.5. Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra làng nghề truyền thống trong

hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề ................................................. 84

3.2.6. Xã hội hóa, hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý, phát triển làng

nghề truyền thống ..................................................................................... 86

3.3. Kiến nghị ........................................................................................... 88

3.3.1 Kiến nghị với Trung ương ............................................................... 88

3.3.2 Kiến nghị với địa phương ............................................................... 88

KẾT LUẬN ............................................................................................. 92

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH,HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CN-TTCN : Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp

Đ/c : Địa chỉ

: Hợp tác xã HTX

: Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản JICA

: Khoa học và Công nghệ KH&CN

: Kinh tế - xã hội KT-XH

NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

: Nhà xuất bản Nxb

: Tài nguyên và Môi trường TN&MT

: Trách nhiệm hữu hạn TNHH

: Thành phố TP

: Tiểu thủ công nghiệp TTCN

: Uỷ ban nhân dân UBND

VH-TTDL : Văn hóa - Thể thao Du lịch

: Tổ chức thương mại thế giới WTO

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1 Các dự án hỗ trợ đầu tư cho các làng nghề truyền thống được

phân bố theo các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh ......................56

Bảng 2.2. Số liệu về hoạt động thanh kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà

nước đối với các làng nghề truyền thống ...................................................58

Bảng 2.3 Các dự án hỗ trợ đầu tư cho các làng nghề truyền thống có sự

tham gia huy động đóng góp từ nhân dân ..................................................60

Bảng 2.4 Các dự án do các tổ chức phi Chính phủ hỗ trợ đầu tư cho các

làng nghề truyền thống ...............................................................................61

DANH MỤC SƠ ĐỒ

53

Sơ đồ 1. Sơ đồ thực trạng tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề tỉnh Quảng Nam

83

Sơ đồ 2. Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (theo mô hình mới)

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Quảng Nam là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống, gắn liền với những

giá trị văn hoá truyền thống, tạo ra những sản phẩm nổi tiếng, được nhiều

người tiêu dùng biết đến. Các làng nghề đã tồn tại và phát triển đến ngày hôm

nay bằng công sức, trí tuệ của các thế hệ đi trước, đi kèm với những dấu ấn

văn hoá - lịch sử kết tinh trong từng sản phẩm, cùng với sự ưu đãi của thiên

nhiên ban tặng cho con người đất Quảng. Các làng nghề đã tạo ra việc làm

thường xuyên cho lao động và tăng thu nhập cho lao động nông nhàn; lao

động tham gia làng nghề và có thu nhập từ làng nghề không bị giới hạn,

người già, trẻ em, thậm chí người khuyết tật vẫn có thể tham gia; làng nghề

còn là giải pháp, giữ chân người lao động ở lại địa phương, giảm bớt áp lực

về việc làm tại các thành phố lớn, góp phần bình ổn xã hội, đảm bảo an ninh

quốc phòng.

Các làng nghề Quảng Nam với cách thức hình thành, tổ chức và hoạt

động sản xuất kinh doanh rất đa dạng với nhiều hình thức khác nhau, phân bố

tại các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh. Hoạt động quản lý nhà nước được

tăng cường: Tổ chức thực hiện có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật;

hướng dẫn triển khai các cơ chế chính sách về phát triển làng nghề; tổ chức

đào tạo tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý

nhà nước về làng nghề; nhà nước đã hỗ trợ cho các cơ sở làng nghề trong bảo

tồn, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo

các tiêu chí chất lượng sản phẩm; thực hiện tốt giải pháp bảo vệ môi trường

tại các làng nghề truyền thống và xây dựng thương hiệu, tìm kiếm mở rộng thị

trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và ngoài nước,...

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động quản lý nhà nước vẫn còn

1

nhiều tồn tại, hạn chế, nhiều khó khăn cần tháo gỡ. Hoạt động quản lý nhà

nước vẫn chưa kịp thời, việc bảo tồn và phát triển một số làng nghề truyền

thống thời gian qua vẫn chưa đạt hiệu quả, dẫn đến một số làng nghề truyền

thống đang đứng trước nguy cơ bị mai mọt cao. Từ năm 2011 đến nay, chính

quyền địa phương cũng đã có nhiều nỗ lực trong hoạt động quy hoạch phát

triển làng nghề, ban hành các chính sách khuyến khích hỗ trợ làng nghề, thay

đổi tổ chức quản lý tại các làng nghề truyền thống,...Tuy nhiên, sản xuất kinh

doanh của các làng nghề truyền thống vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy,

vấn đề đặt ra là phải nâng cao, tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về

làng nghề truyền thống, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,

nông nghiệp nông thôn tỉnh Quảng Nam.

Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, hoạt động quản lý nhà

nước đối với làng nghề nói chung và làng nghề tỉnh Quảng Nam nói riêng cần

được triển khai một cách toàn diện hơn trên nhiều khía cạnh, từ việc ban hành

hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động quản lý làng nghề

truyền thống, tổ chức triển khai thực hiện trong thực tế, thanh tra, kiểm tra kết

quả thực hiện; quản lý từ khâu sản xuất đảm bảo theo đúng quy trình đến khâu

tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Trong đó, việc giảm thiểu ô nhiễm môi

trường tại các làng nghề truyền thống cũng là một vấn đề cấp thiết cần giải

quyết trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Đặc biệt, trong quá trình hội nhập, đã mở ra cơ hội lớn trong việc phát

triển kinh tế, nhưng bên cạnh đó phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó

phải tuân thủ các cam kết quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn

chất lượng hàng hóa,... Vì vậy, việc hướng dẫn các làng nghề tạo lập, quản lý

thương hiệu, nâng cao chất lượng hàng hóa cho các sản phẩm làng nghề truyền

thống trở thành nhiệm vụ mang tính chiến lược, quyết định sự thành bại trên thị

2

trường trong và ngoài nước trong quá trình hội nhập.

Ngoài ra, hoạt động quản lý nhà nước về ngành nghề, làng nghề nông

thôn ở tỉnh Quảng Nam đang xảy ra tình trạng chồng chéo giữa các cơ quan

quản lý nhà nước ở cấp tỉnh (giữa sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

(NN&PTNT) với sở Công Thương) và ở cấp huyện (giữa phòng Nông nghiệp

và Phát triển Nông thôn với Phòng Kinh tế Hạ tầng),….

Từ những vấn đề nêu trên, em chọn nội dung “Quản lý nhà nước đối

với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên

cứu. Việc nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, đề ra các

giải pháp tác động tích cực để hoạt động quản lý đối với làng nghề truyền

thống ngày càng hiệu quả, phát huy vai trò của làng nghề truyền thống trong

tiến trình hội nhập và đặc biệt là trong tiến trình xây dựng nông thôn mới của

cả nước.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Làng nghề, làng nghề truyền thống Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng

Nam nói riêng đã có những đóng góp to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã

hội những năm qua. Tuy nhiên, hiện nay, các làng nghề, làng nghề truyền

thống đang đứng trước nguy cơ mai mọt dần và đang phải đối mặt với nhiều

khó khăn về nhân lực, quy mô, tài chính, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, kỹ thuật

công nghệ, thị trường,… Tình trạng ô nhiễm môi trường từ các làng nghề

cũng đã ở mức báo động. Đã có nhiều sách, công trình khoa học nghiên cứu

về làng nghề trên cả nước ở mọi góc cạnh, như:

- “Làng nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam” của tác giả Bùi Văn

Vượng, 2002, nhà xuất bản (Nxb) Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Đây là công trình

giới thiệu một cách tổng quan về các làng nghề truyền thống ở Việt Nam, với

nhiều thông tin có giá trị tham khảo cao.

- “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá

3

trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,HĐH)” của tác giả Trần Minh

Yến, 2003 NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu

mang tính tổng quan và đặc biệt nhấn mạnh về vai trò của làng nghề truyền

thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước ta hiện nay.

- Đề tài “Nghiên cứu tiêu thụ sản phẩm của một số làng nghề huyện

Việt Yên, tỉnh Bắc Giang” đã đề cập đến khó khăn về vấn đề tiêu thụ sản

phẩm ngành nghề của một số làng nghề trên địa bàn huyện, phân tích và

hướng những yếu tố ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ, từ đó định hướng

những giải pháp góp phần đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của làng nghề;

- Đề tài “Nghiên cứu áp dụng mô hình xử lý chất thải cho các hộ sản

xuất đá mỹ nghệ tại Non Nước” của Tiến sĩ Vương Nam Đàn, 2006; đề tài đã

đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường ở khu vực làng nghề Non Nước, điều

kiện môi trường lao động, tình trạng sức khỏe người lao động, từ đó đề xuất

các biện pháp, mô hình xử lý chất thải, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và

bảo vệ môi trường tại các cơ sở sản xuất trong khu vực làng nghề.

- Đề tài “Nghiên cứu phát triển làng nghề Quảng Ngãi” của Tiến sĩ Hồ

Minh Kỳ, năm 2011; đề tài đã khai thác và cung cấp các thông tin liên quan

đến vấn đề nguyên liệu, thị trường, sản phẩm, nguồn nhân lực, môi trường,…

đề xuất các chính sách hỗ trợ và các giải pháp phát triển làng nghề.

Tại Quảng Nam cũng đã có công trình khoa học nghiên cứu về Làng

nghề như:

Đề tài “Phát huy vai trò của làng nghề trong sự nghiệp xây dựng nông

thôn mới tỉnh Quảng Nam”của tác giả Nguyễn Thanh Tài, năm 2012; đề tài

thực hiện nhằm đề xuất các nhóm giải pháp phát triển bền vững làng nghề,

phát huy vai trò làng nghề trong sự nghiệp xây dựng nông thôn mới hiện nay

và trong tương lai của tỉnh Quảng Nam.

Ngoài ra, còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học và nhiều

4

công trình, luận văn, luận án khác có đề cập ít nhiều đến vấn đề này; song các

công trình đó chưa đề cập thấu đáo, toàn diện đến sự tác động tích cực của

làng nghề đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội (KT-XH) của địa phương;

chưa thấy được những bất cập trong công tác quản lý và phát triển làng nghề

của tỉnh; chưa đề cập các tác động nghịch chiều, kìm hãm sự phát triển,

nguyên nhân và giải pháp phát triển các làng nghề trong quá trình hội nhập.

Đồng thời, hiện nay, Chính phủ đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều

kiện cho việc xây dựng và phát triển làng nghề; các làng nghề bắt đầu có tín

hiệu hồi sinh và phát triển. Tuy nhiên, thực tế, các làng nghề vẫn phải đối mặt

với những thách thức không nhỏ, khi mà cần phải có sự chuyển mình, kịp

theo xu thế phát triển trong quá trình hội nhập.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu những

khía cạnh khác nhau của làng nghề, làng nghề truyền thống và đưa ra những

giải pháp phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đi

vào nghiên cứu chuyên sâu về quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3. 1. Mục đích của luận văn

Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

- Hệ thống hóa các kiến thức về làng nghề truyền thống, quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống.

- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của các làng nghề truyền

thống, hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tại Quảng

Nam; tìm ra những thuận lợi và khó khăn về hoạt động quản lý nhà nước đối

5

với làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam.

- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước đối

với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2016.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh về hoạt động quản lý, quản lý nhà nước cũng như những quan điểm

của Đảng trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam và

các văn bản quản lý nhà nước về quản lý và phát triển làng nghề truyền thống.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như thống kê, so

sánh, phân tích, tổng hợp, phương pháp chuyên gia,... nhằm đánh giá đúng

thực trạng, từ đó tìm ra các giải pháp thích hợp cho việc quản lý, phát triển

các làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam.

Luận văn cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên

cứu có liên quan; đồng thời, dựa vào các chủ trương, đường lối của Đảng và

chính sách của nhà nước về phát triển làng nghề truyền thống.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6

6.1. Ý nghĩa lý luận

Góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước nói

chung và quản lý làng nghề nói riêng. Kinh nghiệm quản lý làng nghề của các

địa phương khác trong cả nước và bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm nguồn tài

liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động quản lý, hoạt động xây dựng chính

sách phát triển làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam nói riêng cũng

như của các địa phương khác trong cả nước nói chung.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bố cục của luận

văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về làng nghề truyền thống và quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống

Chương 2: Thực trạng làng nghề truyền thống và hoạt động quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Quan điểm của Đảng và một số giải pháp quản lý nhà nước

7

đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam.

Chương 1

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài

1.1.1. Khái niệm làng nghề

Làng theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, là một nhóm người quay

quần ở một nơi nhất định trong nông thôn, làng là một tế bào của xã hội người

Việt, một tập hợp dân cư chủ yếu theo quan hệ láng giềng, một không gian

lãnh thổ nhất định, ở đó tập hợp những người quần tụ lại cùng sinh sống và

sản xuất [11].

Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn,

phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các

hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm

khác nhau [1].

Thực tế cho thấy, làng nghề là nơi mà ở đó có những hộ thuộc một số

dòng tộc nhất định sinh sống. Trong các làng nghề này tồn tại đan xen các

mối quan hệ kinh tế, xã hội phong phú và phức tạp. Làng nghề là những làng

ở nông thôn có những nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao

động và thu nhập so với nghề nông.

Như vậy làng nghề là một thiết chế kinh tế xã hội ở nông thôn, được

cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất

định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là

chính, giữa họ có mối liên kết chặt chẽ về kinh tế, xã hội và văn hóa.

1.1.2. Khái niệm về làng nghề truyền thống

Làng nghề truyền thống, trước hết nó được tồn tại và phát triển lâu đời

trong lịch sử, trong đó bao gồm một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống,

8

là nơi hội tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều hộ gia

đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ trợ

nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt các

thành viên luôn có ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc. Làng

nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời, trải qua thử thách của thời gian

vẫn duy trì và phát triển, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Trong các

làng nghề truyền thống thường có đại bộ phận dân số làm nghề cổ truyền hoặc

một vài dòng họ chuyên làm nghề theo kiểu cha truyền con nối, nghĩa là việc

dạy nghề được thực hiện theo phương pháp truyền nghề.

Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình

thành từ lâu đời [1].

Theo Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn; làng nghề, làng nghề truyền thống được công

nhận dựa trên các tiêu chí sau:

Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:

Thứ nhất, có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt

động ngành nghề nông thôn.

Thứ hai, có hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính

đến thời điểm đề nghị công nhận.

Thứ ba, phải chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Làng nghề truyền thống được công nhận phải đạt tiêu chí làng nghề và

có ít nhất một nghề truyền thống theo quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-

BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng

dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP, cụ thể:

Thứ nhất, nghề của làng nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm

tính đến thời điểm đề nghị công nhận.

Thứ hai, nghề của làng nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn

9

hoá dân tộc.

Thứ ba, nghề của làng nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ

nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.

Thứ tư, số hộ và số lao động trong làng nghề truyền thống đạt từ 30% trở

lên so với tổng số lao động của làng.

Thứ năm, sản phẩm làm ra có tính thẩm mỹ mang đậm nét yếu tố và bản

sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

Thứ sáu, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến

thời điểm đề nghị công nhận.

Thứ bảy, chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.

1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

- Khái niệm quản lý:

Quản lý gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nên trong thực

tế có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý; nhưng có một cách tiếp cận nhận

được sự ủng hộ của nhiều nhà khoa học và nhà quản lý thực tiễn, đó là: Quản

lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý

nhằm đạt mục tiêu dự kiến [6, tr.9].

- Khái niệm quản lý nhà nước:

Quản lý nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng

pháp luật làm công cụ quản lý chủ yếu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển

của xã hội. Những hoạt động này nhằm bảo đảm cho hệ thống pháp luật quốc

gia đi vào cuộc sống. Đây là chức năng cơ bản của nhà nước. Hoạt động quản

lý nhà nước đạt hiệu quả cao phải trên cơ sở bảo đảm tính khoa học về hoạch

định, tổ chức, điều hành, kiểm tra, giám sát [18, tr.62].

- Khái niệm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống:

Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống là việc áp dụng hệ

thống các công cụ quản lý bao gồm pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế

10

hoạch tác động vào đối tượng quản lý để hướng dẫn các làng nghề truyền

thống của địa phương phát triển theo định hướng đã đặt ra trên cơ sở sử dụng

hiệu quả các nguồn lực nhà nước.

Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống nhằm phát triển làng

nghề theo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, quốc gia và

kiểm soát làng nghề phát triển một cách bền vững. Vì vậy, để quản lý làng

nghề, nhà nước dùng các công cụ như pháp luật, chính sách,… trong hoạt

động quản lý; cụ thể như:

+ Thông qua hệ thống pháp luật, một mặt, nhà nước tuyên bố các

quyền và nghĩa vụ của các chủ thể hoạt động trong làng nghề truyền thống,

đặc biệt là quyền và nghĩa vụ, chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước

đối với làng nghề. Nếu hệ thống luật pháp tiến bộ và phù hợp, sẽ khuyến

khích làng nghề phát triển. Ngược lại, hệ thống luật pháp lạc hậu, bảo thủ sẽ

cản trở sự phát triển của làng nghề truyền thống.

+ Quản lý nhà nước không chỉ nhằm kiểm soát làng nghề truyền thống

mà quan trọng hơn là định hướng cho làng nghề truyền thống phát triển.

Trong hoạt động quản lý, nhà nước cần có các chiến lược, quy hoạch để định

hướng cho các làng nghề phát triển một cách bền vững. Mặt khác, có qui

hoạch, nhà nước mới kiểm tra, kiểm soát được sự phát triển của làng nghề

truyền thống, từ đó có các chính sách điều chỉnh phù hợp với tình hình thực

tế.

1.1.4. Tổ chức bộ máy trong quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống

Có nhiều định nghĩa khác nhau về tổ chức tùy thuộc vào phương diện

nghiên cứu của các ngành khoa học, nhưng về cơ bản khái niệm tổ chức được

thống nhất ở các điểm chính sau:

- Bao gồm tập hợp người, nhóm người;

11

- Có sự phân công phối hợp, hoạt động chung;

- Hướng đến mục tiêu chung [4,tr.15].

Tổ chức là một hệ thống tập hợp của một nhóm người (hai hay nhiều

người), tiến hành hoạt động chung, có sự phối hợp một cách có ý thức, có

phạm vi tương đối rõ ràng, hoạt động nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu

chung [4, tr.16].

Tổ chức hành chính nhà nước được nhà nước trao quyền lực pháp lý để

làm phương tiện thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Các cơ quan hành

chính nhà nước có quyền lực pháp lý và được sử dụng quyền đó để cưỡng bức

xã hội làm những việc theo ý chí nhà nước.

Hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống là thực

hiện chức năng quản lý theo ngành, lĩnh vực cụ thể, được phân cấp quản lý từ

Trung ương đến địa phương.

1.2. Nội dung, đặc điểm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống

1.2.1. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống

1.2.1.1 Chủ thể quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

Chủ thể quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước đối với làng

nghề nói riêng là nhà nước, nhà nước giao cho các tổ chức, cơ quan nhà nước

như sau:

Ở Trung ương, Chính phủ thống nhất quản lý và giao quyền quản lý

cho các Bộ quản lý như sau:

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chịu trách nhiệm quản lý

nhà nước đối với các ngành nghề nông thôn.

- Bộ Công Thương chịu trách nhiệm quản lý doanh nghiệp ở nông thôn,

12

triển khai chính sách khuyến công, xúc tiến thương mại, quản lý các khu, cụm

công nghiệp làng nghề, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn thực

hiện công tác bảo vệ môi trường, đáp ứng việc di dời các cơ sở sản xuất trong

làng nghề.

- Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) chịu trách nhiệm xây dựng

và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch,

kế hoạch, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường đối với làng nghề; hướng dẫn,

kiểm tra việc thực hiện các hồ sơ, thủ tục về môi trường; theo dõi và xác định

các làng nghề ô nhiễm và đề xuất phương án xử lý; tổ chức thu phí về bảo vệ

môi trường; kiểm tra, giám sát tình hình tuân thủ các quy định của pháp luật

và xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường tại làng nghề; nghiên cứu, ứng dụng

và phổ biến công nghệ xử lý môi trường phù hợp với làng nghề.

- Bộ Công an có trách nhiệm điều tra, phát hiện, xử lý nghiêm, kịp thời

các hành vi tội phạm về bảo vệ môi trường tại các làng nghề.

- Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm quản lý các công nghệ sản

xuất nhằm đưa các công nghệ mới ứng dụng trong sản xuất để tăng năng suất

và chất lượng sản phẩm; hạn chế việc đưa công nghệ cũ, lạc hậu vào làng

nghề và khu vực dân cư nông thôn gây ô nhiễm môi trường.

- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm về bảo tồn, phát huy,

phát triển các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó

có các giá trị văn hóa của sản phẩm làng nghề truyền thống.

Ở địa phương, ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh thống nhất quản lý,

chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc quy hoạch, phát triển làng nghề,

quản lý các làng, khu, cụm công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh; bố trí

nguồn lực cần thiết và chỉ đạo, kiểm tra việc triển khai các nhiệm vụ về quản

lý phát triển làng nghề của UBND cấp huyện, đặc biệt là UBND cấp xã. Tại

các xã, phường và thị trấn có làng nghề có trách nhiệm tuyên truyền, phổ

13

biến, hướng dẫn và giám sát các cơ sở sản xuất tại các làng nghề trong tổ chức

hoạt động sản xuất và tuân thủ các quy định của phát luật (UBND các cấp

giao quyền quản lý cho các sở, ban ngành và các phòng ban liên quan tham

mưu trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề, làng nghề truyền

thống).

Đối tượng chịu sự quản lý đối với các làng nghề truyền thống là các cơ

sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống.

1.2.2.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

Thứ nhất, ban hành, hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện văn bản

quy phạm pháp luật,văn bản hành chính thông thường trong hoạt động quản

lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

Để quản lý các làng nghề truyền thống nhà nước cần ban hành và chỉ

đạo thực hiện các luật, chính sách theo đúng chức năng và thẩm quyền đối với

từng cấp. Nhà nước tại các địa phương cần chỉ đạo và tổ chức thực hiện các

văn bản cấp trên có hiệu quả và ban hành các văn bản nhằm hướng dẫn, tổ

chức thực hiện và cụ thể hóa các văn bản cấp trên. Việc ban hành các văn bản

của địa phương phải xuất phát từ yêu cầu thực tế của địa phương và không

được trái với các văn bản của cấp trên.

Việc ban hành văn bản nhằm tạo điều kiện cho các làng nghề truyền

thống phát triển một cách thuận tiện, mở rộng thị trường tiêu thụ và tăng thu

nhập cho những người lao động tại làng nghề. Bên cạnh đó, nhà nước cũng

thực hiện việc chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện các văn bản tới các đối

tượng chịu ảnh hưởng. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật buộc

phải có sự tham gia của tất cả các cấp, các ngành có liên quan và cả những

chủ thể thực thi văn bản.

Trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, nhà

14

nước phải có trách nhiệm cung cấp và thông tin kịp thời đến các cơ sở của

làng nghề về những thông tin cần thiết và liên quan đến hoạt động phát triển

làng nghề truyền thống.

Thứ hai, Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý

nhà nước đối với làng nghề truyền thống

Trong các quy định của Nhà nước có quy định rất cụ thể về bộ máy tổ

chức quản lý nhà nước tại địa phương về các lĩnh vực khác nhau trong đó có

lĩnh vực làng nghề, làng nghề truyền thống. Bộ máy này được quản lý từ

UBND cấp tỉnh, giao quyền quản lý cho các sở, ban, ngành cấp tỉnh tới các

phòng chuyên môn cấp huyện và chịu sự quản lý trực tiếp của UBND cấp

huyện. Cơ quan chuyên môn cấp huyện chịu sự chỉ đạo quản lý về tổ chức,

biên chế, công tác của UBND huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra

chuyên môn nghiệp vụ của sở, ban, ngành cấp tỉnh và dưới cùng là UBND

cấp xã. Bên cạnh đó, còn có một số cơ quan liên quan tham gia phối hợp

trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tại địa

phương từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã.

Thứ ba, nguồn nhân lực quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống

Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống rất cần đội ngũ cán

bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo hoạt động thực thi công vụ.

Nhà nước cần quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực

cho hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống. Nếu tuyển

dụng, đào tạo không đáp ứng được nhu cầu thực tế thì sẽ không đáp ứng được

yêu cầu công việc của địa phương. Đồng thời, việc bồi dưỡng, đào tạo các chủ

doanh nghiệp làng nghề ở nông thôn về các kiến thức về kinh tế thị trường, về

pháp luật trọng kinh doanh là rất cấp bách nhằm đảm bảo và nâng cao hơn nữa

15

hiệu quả trong kinh doanh, để kinh doanh đúng pháp luật.

Thứ tư, xây dựng và thực hiện chính sách quản lý phát triển làng nghề

truyền thống

Chính sách công trong quản lý nhà nước đối với làng nghề là hệ thống

các chính sách có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, như: Chính sách về tín

dụng; chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng; chính sách về môi trường; chính sách

về khoa học và công nghệ (KH&CN),... Môi trường kinh doanh của các làng

nghề truyền thống liên quan đến toàn bộ yếu tố kinh tế, xã hội, tự nhiên tác

động đến hoạt động sản xuất kinh doanh ở các làng nghề truyền thống. Vì

vậy, chính sách phát triển làng nghề truyền thống là tổng hợp của nhiều chính

sách kinh tế xã hội.

Chính sách công trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

nhằm định hướng và điều tiết hoạt động của làng nghề, kích thích sự phát

triển làng nghề, tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi để phát triển

làng nghề. Chính sách phát triển làng nghề truyền thống thường do Chính

phủ, Bộ ngành Trung ương quyết định như các Nghị định của Chính phủ,

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư, Quyết định của Bộ ngành.

Đồng thời, các địa phương căn cứ vào chính sách cấp trên và thực trạng của

mình để ban hành các chính sách phù hợp.

Chính sách công trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

là tập hợp tất cả những chủ trương và hành động của nhà nước nhằm tạo cơ

chế cho các làng nghề truyền thống hoạt động và phát triển bằng việc tác

động nhằm khuyến khích, huy động tập trung nguồn lực, khai thác tối ưu tiềm

năng, thế mạnh của địa phương trong việc phát triển làng nghề truyền thống

theo mục tiêu đã đề ra.

Xây dựng và thực hiện chính sách giúp cho các hộ tham gia sản xuất

làng nghề thấy được định hướng, mục tiêu phát triển, lĩnh vực phát triển các

16

ngành nghề của địa phương từ đó có hướng phát triển. Tuy nhiên, chính sách

đó có thật sự có hiệu quả cần phải nằm trong quy hoạch phát triển kinh tế xã

hội của các địa phương, phù hợp với địa phương và phải được cụ thể hóa và

mang tính đồng bộ.

Thứ năm, Tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề

truyền thống

Trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, hoạt

động thanh tra và kiểm tra có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy các làng nghề

phát triển.

Thanh tra không chỉ có ý nghĩa quan trọng mà còn là một nhu cầu tất yếu

trong quản lý hành chính nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống nói riêng. Mục đích của hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ

hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước

có thẩm quyền biện pháp khắc phục, phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi

phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, các nhân thực hiện đúng quy định của

pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt

động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của cơ quan, tổ chức, cá nhân [10, tr.7].

Kiểm tra thì cho đến nay nhà nước ta chưa có văn bản quy phạm pháp

luật có định nghĩa cụ thể về kiểm tra, nhưng trên phương diện lý luận thực

tiễn thì kiểm tra là khái niệm rộng thể hiện ở nhiều góc độ như:

+ Kiểm tra là hoạt động thường xuyên của từng cơ quan Nhà nước, tổ

chức chính trị – xã hội, tổ chức kinh tế nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của

chính mình. Qua kiểm tra các cơ quan, tổ chức đánh giá đúng mực việc làm

của mình, từ đó đề ra chủ trương, biện pháp, phương hướng hoạt động tiếp

theo một cách hợp lý hơn. Trong trường hợp này, kiểm tra mang ý nghĩa xem

xét, nhìn lại việc làm của chính mình để tự điều chỉnh, hay tìm biện pháp thực

17

hiện nhiệm vụ tốt hơn hiệu quả hơn.

+ Kiểm tra là hoạt động của cơ quan, tổ chức, thủ trưởng cấp trên với

cấp dưới của mình nhằm đánh giá mọi mặt hoặc từng vấn đề do cấp dưới đã

thực hiện. Trong trường hợp này, kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực thuộc,

vì thế cơ quan hoặc thủ trưởng cấp trên sau khi kiểm tra có quyền áp dụng các

biện pháp như: biểu dương, khen thưởng khi cấp dưới làm tốt hoặc các biện

pháp cưỡng chế để xử lý đối với cấp dưới khi họ có khuyết điểm hoặc vi

phạm pháp luật.

Hoạt động quản lý nhà nước về thanh tra, kiểm tra đối làng nghề truyền

thống được thể hiện thông qua các hình thức như: cơ quan nhà nước tổ chức

thanh tra, kiểm tra đối với các làng truyền thống trong việc chấp hành các quy

định của nhà nước về quy hoạch sản xuất, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm

trong quá trình sản xuất, kinh doanh; đảm bảo vệ sinh môi trường trong hoạt

động sản xuất, kinh doanh, hướng dẫn cơ sở sản xuất về phương hướng hoạt

động và tuân thủ các văn bản quy định của cấp trên,…

Việc thanh tra, kiểm tra, các hoạt động của các làng nghề truyền thống

cần được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất tùy thuộc vào đối tượng và yêu cầu

thực tế nhằm phát hiện những sai sót và kịp thời xử lý những vi phạm tại các

cơ sở sản xuất kinh doanh nếu có.

Thứ 6, Xã hội hóa hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống

Nhà nước với một ngân sách eo hẹp và những nhu cầu lớn về nhiều loại

dịch vụ tối cần thiết khác cần được bảo đảm thì không thể bao cấp cho mọi loại

dịch vụ, sản phẩm, nhu cầu thiết yếu của người dân, cho dù có thu phí dịch vụ.

Trước những mâu thuẫn ngày càng gay gắt trong quan hệ cung cấp dịch vụ

công, nhiều chính phủ đã tiến hành xã hội hóa các dịch vụ này.

Xã hội hóa là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về

18

nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các

nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn

hóa, ... phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn là một xu thế lâu dài và

mang tính quy luật. Xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của

nhà nước, giảm bớt phần ngân sách nhà nước; trái lại nhà nước thường xuyên

tìm kiếm các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho các dịch vụ công, đồng

thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó [18, tr.74].

Thực hiện xã hội hóa hoạt động quản lý và phát triển làng nghề truyền

thống là giải pháp quan trọng để thúc đẩy làng nghề truyền thống phát triển

một cách bền vững. Xã hội hóa trong hoạt động quản lý làng nghề truyền

thống tập trung vào các dịch vụ như xã hội hóa trong dịch vụ đào tạo, xã hội

hóa trong dịch vụ quản lý môi trường tại các làng nghề truyền thống, xã hội

hóa trong việc kêu gọi người dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng tại các làng

nghề truyền thống,... và sự tham gia hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ

trong hoạt động quản lý, phát triển làng nghề truyền thống.

1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống là sự tác động liên

tục, có tổ chức của nhà nước đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh tại các làng

nghề truyền thống nhằm duy trì và phát triển bền vững các làng nghề truyền

thống theo các mục tiêu mà nhà nước đặt ra. Quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống được thể hiện bởi các đặc điểm sau:

1.2.2.1. Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống khá phức tạp,

liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.

Nhà nước trao thẩm quyền cho các cơ quan quản lý để thực hiện chức

năng nhiệm vụ của mình. Thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước đối

với làng nghề là tổng thể những quyền, nghĩa vụ mang tính quyền lực - pháp

lý do pháp luật quy định. Trên cơ sở, hiến pháp, luật, các cơ quan quản lý nhà

19

nước đối với làng nghề truyền thống ra quyết định mang tính pháp lý bắt buộc

các cơ sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống phải tuân thủ.

Các cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống chỉ hành động

trong phạm vi thẩm quyền của mình. Hiện nay, hoạt động quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống có sự tham gia của các ngành như: Ngành

nông nghiệp – quản lý nhà nước đối với ngành nghề nông thôn; ngành công

thương – quản lý xúc tiến thương mại cho các sản phẩm làng nghề; ngành tài

nguyên môi trường – quản lý sử dụng đất đai và vấn đề môi trường tại các

làng nghề; ngành khoa học và công nghệ - quản lý việc ứng dụng công nghệ

trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ xây xây dựng thương hiệu cho

các sản phẩm làng nghề;…

1.2.2.2. Hoạt động quản lý nhà nước đối với các làng nghề truyền

thống rất nhạy cảm, phức tạp.

Cách thức tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở sản

xuất tại các làng nghề đã trở thành nét văn hóa riêng của làng nghề, thành thói

quen của những người lao động tại nơi đây. Vì vậy, khi nhà nước tác động

những chính sách, cơ chế mới rất khó khăn và cần có sự đồng thuận của tất cả

các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề. Ví dụ, phương thức hoạt động

sản xuất tại các làng nghề truyền thống gốm sứ, muốn thay đổi nguyên liệu

dùng để nung sản phẩm là rơm, rạ, than, củi,… bằng cách dùng nhiệt, ga,…

để hạn chế ô nhiễm môi trường, tăng năng suất lao động, giảm chi phí giá

thành,… nhưng để thay đổi thói quen sản xuất của làng nghề là cả một vấn đề

lớn trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống. Nhà

nước phải dùng các phương pháp khác nhau trong hoạt động quản lý như giáo

dục thuyết phục, phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế và cả các

công cụ như pháp luật,… một cách hài hòa thì mới thực hiện tốt hoạt động

20

quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

1.2.2.3. Các cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

được sử dụng nguồn lực công để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình

Nhà nước sử dụng nguồn nhân lực, nguồn tài chính để đảm bảo các

hoạt động thực thi công vụ (tiền lương, thiết bị hỗ trợ hoạt động quản lý, công

tác phí,..) và hỗ trợ cho các cơ sở tại các làng nghề truyền thống trong hoạt

động sản xuất, kinh doanh. Ví dụ như nhà nước hỗ trợ đào tạo nghề cho các

lao động của làng nghề thông qua các buổi tập huấn; hỗ trợ các cơ sở tham gia

các chương trình xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm,…

1.2.2.4. Hoạt động quản lý nhà nước đối với các làng nghề truyền

thống mang tính pháp lý và bình đẳng với các đối tượng

Sử dụng đúng đắn quyền lực, thực hiện đúng đắn chức năng và quyền

hạn được trao khi thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, chú trọng đến việc nâng cao

uy tín chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực trí tuệ của người thực thi công

vụ. Phải kết hợp chặt chẽ yếu tố thẩm quyền và uy quyền để để nâng cao được

hiệu lực và hiệu quả hoạt động của một nhà nước, của nhân dân và vì nhân

dân phục vụ [18,tr.54].

Hoạt động quản lý nhà nước đối với các làng nghề truyền thống chịu sự

tác động của các chủ thể trong hệ thống chính trị; vậy, phải chịu sự kiểm soát

của các cơ quan dân cử, các nhóm lợi ích, dư luận quần chúng, các cơ quan

thông tin đại chúng và cử tri. Tất cả các hoạt động quản lý nhà nước đối với

làng nghề đều hướng tới mục tiêu phục vụ người dân, lấy đó làm xuất phát

điểm cho việc xây dựng hệ thống thể, chế, chính sách. [18,tr.56]

1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống

1.2.3.1 Yếu tố về thể chế

Thể chế hành chính nhà nước là hệ thống các quy định xác định mối

21

quan hệ hành chính giữa nhà nước với các đối tượng trong xã hội, hệ thống

quy định quản lý nội bộ cơ quan hành chính, thủ tục hành chính và tài phán

hành chính. Thể chế hành chính nhà nước là căn cứ để xác lập mức độ và

phạm vi can thiệp của nhà nước đối với các cơ sở sản xuất trong làng nghề

truyền thống; là căn cứ để thiết lập nên bộ máy hành chính nhà nước đối với

hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, là căn cứ để xây dựng

đội ngũ nhân sự trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống và là cơ sở để điều chỉnh, sử dụng các nguồn lực của xã hội trong hoạt

động quản lý nhà nước đối với làng nghề. Vì vậy, thể chế hoá của nhà nước

về các mặt tài chính, tiền tệ, giá cả, đầu tư, ngân sách,... phù hợp hay không

phù hợp với kinh tế thị trường cũng ảnh hưởng lớn đến quản lý nhà nước đối

với làng nghề truyền thống.

1.2.3.2 Yếu tố về chính sách

Có nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển làng nghề, trong đó yếu tố

chính sách đóng vai trò quan trọng. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội

quốc gia, vùng, ngành, địa phương, lãnh thổ, loại hình doanh nghiệp… đều

tác động đến mục tiêu, nội dung và phương thức quản lý của nhà nước đối với

làng nghề truyền thống. Quá trình hội nhập và phát triển đòi hỏi cùng với quá

trình đổi mới chính sách. Hệ thống các chính sách của nhà nước tác động rất

lớn và quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và làng nghề

truyền thống nói riêng. Nhà nước thông qua việc xây dựng và ban hành chính

sách, pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hộ và các

doanh nghiệp, đồng thời hỗ trợ về vật chất để tăng cường năng lực của các cơ

sở, doanh nghiệp, hộ gia đình trong việc sản xuất kinh doanh tại làng nghề. Vì

vậy, chính sách là một trong những yếu tố quyết định hiệu quả của hoạt động

quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

22

1.2.3.3. Yếu tố về văn hóa truyền thống, phong tục tập quán

Yếu tố truyền thống có vai trò ảnh hưởng nhất định đối với sự phát

triển làng nghề. Các nghệ nhân là những người có tay nghề cao trong các làng

nghề, là hạt nhân để bảo tồn duy trì và phát triển làng nghề. Những luật, quy

định, tập quán của các làng nghề đã tạo ra những phong cách riêng về đạo đức

nghề nghiệp, tạo nên nét độc đáo để phát triển sản phẩm làng nghề và là các

yếu tố quan trọng để phát triển làng nghề. Vậy, bên cạnh việc gìn giữ những

yếu tố truyền thống, các làng nghề truyền thống phải biết tiếp thu những yếu

tố mới, cải tiến và loại bỏ những quy ước, tập tục lạc hậu,… để các sản phẩm

làng nghề luôn giữ được yếu tố truyền thống kết tinh trong sản phẩm và phải

đáp ứng được thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, các tập tục

lạc hậu đã ăn sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân làng nghề,

vậy nên đây là một trong những vấn đề khó khăn của hoạt động quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống.

1.2.3.4. Yếu tố về cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng là điều kiện quan trọng để làng nghề phát triển. Các làng

nghề chỉ có thể phát triển mạnh ở những nơi có hệ thống kết cấu hạ tầng đảm

bảo và đồng bộ. Cơ sở hạ tầng bao gồm: Hệ thống giao thông vận tải, thông

tin liên lạc, điện, nước,… Hiện nay, trong quá trình hội nhập, cạnh tranh gay

gắt, thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng khắp, nguồn nguyên liệu không sẵn có

tại làng nghề nên nhu cầu về hệ thống giao thông vận tải rất quan trọng; hệ

thống giao thông vận tải tốt rất thuận lợi trong việc vận chuyển nguyên liệu,

tạo điều kiện mở rộng thị trường,…Tuy nhiên, hiện nay phần lớn các làng

nghề truyền thống còn đang gặp rất nhiều khó khăn vì điều kiện cơ sở hạ tầng

còn yếu kém và chưa đồng bộ. Vì vậy, đây cũng là yếu ảnh hưởng đến việc

đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

23

1.2.3.5. Yếu tố về nguồn lực

Nghệ nhân: Là những người giỏi nghề nhờ quá trình tích luỹ kinh

nghiệm và rèn luyện tay nghề. Nghệ nhân của các làng nghề làm chủ những

công nghệ sản xuất tinh xảo, đạt tới mức nghệ thuật cao. Nghệ nhân làng nghề

truyền thống không chỉ là những người nắm giữ những bí quyết riêng trong

việc sáng tạo những sản phẩm độc đáo, tinh tế, nghệ nhân còn là người giữ

nghề, bảo đảm cho làng nghề truyền thống tồn tại và phát triển. Nhờ có tài

năng và những bí quyết riêng rất đặc biệt như vậy nên nhiều nghệ nhân làng

nghề truyền thống tạo ra những mặt hàng chất lượng cao và độc đáo mà

không nơi nào khác có thể sản xuất được. Tuy nhiên, hiện nay các nghệ nhân

tại các làng nghề truyền thống tuổi đều cao, nhà nước chưa có chính sách tôn

vinh, khuyến khích và tạo điều kiện để các nghệ nhân đào tạo đội ngũ kế cận

cho các làng nghề truyền thống. Điều này, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động

quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Nguồn lực về vốn: Đa phần các cơ sở sản xuất trong làng nghề là qui

mô hộ gia đình và trong hoạt động sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó

khăn nên khả năng tích lũy vốn của các chủ cơ sở là rất thấp, rất khó khăn

trong việc đảm bảo nguồn vốn. Các làng nghề muốn mở rộng sản xuất, đầu tư

trang thiết bị mới, mở rộng thị trường,… đều phải cần có vốn. Việc đầu tư

vốn phụ thuộc vào quy mô sản xuất, đặc điểm sản xuất của từng sản phẩm.

Ngày nay, các sản phẩm làng nghề muốn cạnh trạnh trên thị trường đòi hỏi

cần phải chuyên môn hóa trong tất cả các hoạt động sản xuất, vì vậy nhu cầu

về vốn rất lớn. Vì vậy, để các làng nghề truyền thống tiếp cận được với các

nguồn vốn là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động quản lý

nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Nguồn nhân lực: Đa số làng nghề sản xuất sản phẩm mang tính truyền

thống do vậy mà lao động trong làng nghề được đào tạo cũng theo lối truyền

24

thống. Những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề là những người

truyền nghề, dạy nghề. Các làng nghề hiện tại đa phần lao động là những

người đứng tuổi đã theo đuổi nghề từ lâu; những lao động trẻ phần lớn có tâm

lý không muốn theo đuổi nghề. Ngày nay, việc phát triển sản xuất theo CNH,

HĐH, hội nhập, thị trường cạnh tranh đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực cao.

Các chủ cơ sở sản xuất tại các làng nghề đòi hỏi ngoài kinh nghiệm quản lý

còn cần phải nghệ thuật quản lý, tinh thông, phải am hiểu tất cả các kiến thức

về kinh tế, xã hội, lực lương lao động tại các làng nghề phải thể hiện tính

chuyên môn hóa cao,… nhằm đáp ứng nhu cầu của tình hình mới. Bên cạnh

đó, nguồn lực cán bộ quản lý nhà nước đối với làng nghề đa phần là kiêm

nhiệm, chưa được đào tạo chuyên sâu nên cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt

động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Thị trường tiêu thụ: Phần lớn sản xuất tại các làng nghề còn mang nặng

tính chất tự cung, tự cấp do sự hạn chế về khả năng tiếp cận thông tin với thị

trường bên ngoài; đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế khả năng

cung cầu trên thị trường đối với các sản phẩm làng nghề; cản trợ các hoạt

động tiếp nhận, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các công nghệ mới

trong hoạt động sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống. Nếu không

nắm bắt kịp thời các thông tin về thị trường, về thị hiếu của người tiêu dùng,

về bản sắc dân tộc và văn hóa đặc trưng riêng của thị trường các vùng miền,

các nước,… thì các làng nghề khó mà chủ động trong sản xuất, ảnh hưởng rất

lớn đến khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ của các sản phẩm làng nghề

truyền thống. Vì vậy, việc tìm tìm kiếm, tạo lập thị trường là một trong những

nhiệm vụ quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống.

1.2.3.6. Yếu tố hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế vừa tạo cơ hội mới vừa đặt ra những thách thức

25

không nhỏ đối với sự tồn tại và phát triển của làng nghề truyền thống.

- Những cơ hội mới chủ yếu cho làng nghề truyền thống của Việt Nam

do hội nhập quốc tế tạo ra bao gồm:

Mở rộng thị trường xuất khẩu cho các làng nghề truyền thống, tạo ra cơ

hội lớn trong giao lưu kinh tế văn hoá giữa các làng nghề truyền thống của

các địa phương với các nước trên thế giới.

Giúp làng nghề truyền thống khắc phục hạn chế về không gian, thời gian

và những khó khăn trở ngại khác trong tiếp cận thị trường thế giới, là cơ hội để

làng nghề truyền thống tìm kiếm cơ hội kinh doanh và mở rộng kinh doanh.

Hội nhập quốc tế là cơ hội để làng nghề truyền thống có thể thu hút vốn,

công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, phát triển

nhân lực thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ trong quá trình

hội nhập,…

- Những thách thức chính đối với các làng nghề truyền thống trong hội

nhập quốc tế, gồm:

+ Thị trường thế giới luôn biến động khó lường, không ổn định, hậu

quả của khủng hoảng tài chính khu vực và toàn cầu có tác động làm giảm sức

mua nói chung của thị trường, gây tác động tiêu cực rất lớn tới các chủ thể sản

xuất kinh doanh các sản phẩm mang đậm nét văn hóa như các mặt hàng của

làng nghề truyền thống.

+ Hội nhập là cơ hội để tăng lượng khách du lịch đến Việt Nam là thị

trường tiềm năng của các sản phẩm làng nghề truyền thống, vì đa phần các

khách du lịch đều muốn mua những sản phẩm có tính đặc trưng, đậm nét văn

hóa bản địa nhưng các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa biết cách quảng bá,

phổ biến và giới thiệu sản phẩm.

Vì vậy, quá trình hội nhập đòi hỏi cán bộ quản lý nhà nước về làng

nghề và các doanh nghiệp phải năng động, chuyên nghiệp, nhạy bắn và nguồn

26

nhân lực cao. Tuy nhiên, cán bộ quản lý còn thiếu, chưa chuyên nghiệp và

phần lớn các làng nghề truyền thống kế hoạch sản xuất không ổn định, mô

hình tổ chức sản xuất chủ yếu ở các làng nghề là hộ gia đình, nhưng các hộ

gia đình lại không có đủ năng lực, kỷ năng, kinh nghiệm cũng như độ nhạy

bắn trong việc tìm kiếm và phát triển thị trường.

1.3. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một

số tỉnh và bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Nam

1.3.1. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một số

tỉnh

1.3.1.1. Kinh nghiệm của thành phố Huế

Vùng đất Thừa Thiên Huế qua thống kê có hơn 200 làng nghề thủ công

truyền thống. Hiện tại, số nghề và làng nghề truyền thống ở Thừa Thiên Huế

đang hoạt động là 88 làng nghề, trong đó có 69 làng nghề truyền thống.

Những nghề tiêu biểu như: mộc gia dụng, mộc mỹ nghệ, đúc đồng, mây tre

đan, thêu, dệt thổ cẩm, nón lá, may áo dài, sản xuất vật liệu xây dựng, bún

bánh, chế biến nông sản thực phẩm truyền thống cùng nhiều khác đã được

khôi phục tại các địa phương. Bên cạnh đó, có một số nghề mới được du nhập

như đan sợi nhựa, sợi mây xuất khẩu, thêu hàng, mây tre xiên, thêu móc,

compsit mỹ nghệ, chiến biến cau khô xuất khẩu,…

Một số nghề và làng nghề truyền thống phát triển mạnh vừa cung cấp

sản phẩm cho đời sống xã hội, vừa đang thu hút các khách du lịch đến du lịch,

góp phần tạo nên những giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc và đặc trưng của

vùng đất cố đô. Một số làng nghề cũng mạnh dạn đầu tư, tăng năng lực sản

xuất, chú ý đến thương hiệu và chất lượng sản phẩm, một số cơ sở sản xuất

trong làng nghề truyền thống đã di dời vào cụm làng nghề tập trung để thuận

lợi cho việc liên kết, hợp tác, tăng năng lực cạnh tranh trong xu thế hội nhập.

Ngoài ra, thông qua chương trình khuyến công, nhiều nghề và làng

27

nghề truyền thống ở Huế gắn với du lịch được đầu tư khôi phục, phát triển

như: Nghề may áo dài truyền thống Huế, nghề làm nón lá, kẹo mè

xửng,…Địa phương rất quan tâm đến chính sách phát triển vùng nguyên liệu

cho các sản phẩm làng nghề truyền thống.

Sự phát triển nghề và làng nghề truyền thống ở Huế góp phần tăng thu

nhập cho dân cư nông thôn, ổn định cuộc sống; góp phần chuyển dịch cơ cấu

lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới; góp phần tăng

kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) của tỉnh.

Nâng cao đời sống người dân ở vùng có làng nghề truyền thống lên từ 3-5 lần.

Các loại hình dịch vụ cùng hoạt động du lịch đã đóng góp 48% -49% GDP địa

phương, đồng thời góp phần thu hút lượng khách đến Thừa Thiên Huế hàng

năm từ 2,5 -3 triệu lượt, trong đó gần 1 triệu là khách nước ngoài [22].

1.3.1.2. Kinh nghiệm của tỉnh Hà Giang

Việc phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống tỉnh Hà Giang được

các cấp, ngành quan tâm chỉ đạo, nhân dân hưởng ứng tham gia nên từ năm

2011 đến nay, trên địa bàn tỉnh đã phát triển được 33 làng nghề, làng nghề

truyền thống (có 29 làng nghề và 4 làng nghề truyền thống).

Các làng nghề, làng nghề truyền thống sau khi được tỉnh công nhận đã

nhanh chóng ổn định về tổ chức, bầu các chức danh tổ trưởng, tổ phó để quản

lý, chỉ đạo, điều hành công việc; phân công, giao nhiệm vụ cho từng bộ phận

theo điều kiện sản xuất, kinh doanh và đặc thù hoạt động của từng ngành

nghề; căn cứ vào chỉ tiêu, kế hoạch của huyện, của cấp ủy, chính quyền xã về

tình hình phát triển phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, tiềm năng, lợi thế

của làng nghề, hàng năm đều có xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh và

được thông qua tập thể bàn bạc, thống nhất phương án trước khi tổ chức triển

khai thực hiện. Đồng thời, địa phương luôn tìm kiếm và tranh thủ các nguồn

28

hỗ trợ từ các tổ chức phi chính phủ để phát triển làng nghề truyền thống.

Đến nay, các làng nghề đã sản xuất được trên 40 loại sản phẩm khác

nhau. Các sản phẩm làng nghề đã có nhãn hiệu, nhãn hiệu tập thể, thương

hiệu hàng hóa được người tiêu dùng tin tưởng, sử dụng.

Các làng nghề thực hiện tốt công tác tổ chức sản xuất, công tác xúc tiến

thương mại và biết khai thác tiềm năng, lợi thế, chủ động, linh hoạt nắm bắt thị

trường, nhu cầu sử dụng của người dân, đảm bảo chất lượng do vậy sản phẩm

luôn được khách hàng tin tưởng đã chinh phục được khách hàng.

Từ việc chỉ đạo của Tỉnh, của các cấp, các ngành, sự tham gia nhiệt tình

có trách nhiệm của người dân, trong thời gian qua các làng nghề đã thu hút

được nhiều hộ gia đình, người lao động tham gia vào các hoạt động sản xuất,

kinh doanh. Các làng nghề, làng nghề truyền thống không ngừng phát triển cả

về số lượng, chất lượng và quy mô hoạt động, sản phẩm từng bước được sản

xuất theo hướng hàng hóa, công tác xúc tiến thương mại được quan tâm, một

số sản phẩm đã có nhãn hiệu hàng hóa. Phát triển làng nghề, làng nghề truyền

thống đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông

nghiệp nông thôn; giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; tạo thêm việc

làm, nâng cao thu nhập, góp phần xây dựng nông thôn mới của tỉnh [19].

1.3.1.3. Kinh nghiệm của tỉnh Thái Bình

Hàng trăm làng nghề truyền thống ở Thái Bình tồn tại lâu đời không

chỉ là nguồn kinh tế chính của người dân nơi đây, mà còn góp phần tạo nên

bản sắc văn hóa cho mỗi vùng quê. Ðể bảo tồn và phát triển làng nghề, tỉnh

ủy Thái Bình đã ra Nghị quyết về bảo tồn và phát triển làng nghề. Từ 53 làng

nghề hoạt động cầm chừng, nay Thái Bình đã có 290 làng nghề, tạo việc làm

cho hàng chục nghìn lao động mỗi năm. Mặc dù được mệnh danh là một

trong những "đất nghề"của cả nước, nhưng các làng nghề sản xuất tiểu thủ

công nghiệp của tỉnh Thái Bình một thời gian dài rơi vào khủng hoảng, trì trệ

29

vì mất thị trường xuất khẩu truyền thống ở các nước Ðông Âu. Từ 82 làng

nghề, đến năm 2000 cả tỉnh chỉ còn 53 làng nghề hoạt động cầm chừng và

chủ yếu dựa vào thị trường trong nước.

Trước sự đi xuống của các làng nghề truyền thống, tỉnh ủy Thái Bình

đã giao cho ngành công nghiệp của tỉnh xây dựng đề án khôi phục và phát

triển làng nghề giai đoạn từ năm 2000 đến 2005 và từ năm 2005 đến 2010.

Trên cơ sở của đề án, Ðảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết về phát triển làng

nghề, Nghị quyết đầu tiên của Ðảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2000 - 2005, xây dựng,

phát triển làng nghề và xác định phát triển nghề, làng nghề là một trong năm

mục tiêu trọng tâm phát triển kinh tế của tỉnh thời kỳ CNH, HÐH đất nước.

Đến nay, cả tỉnh có khoảng 290 làng nghề được cấp bằng công nhận,

100% số xã, phường không nơi nào "trắng nghề". Mỗi năm, các làng nghề

giải quyết việc làm cho từ 15 nghìn đến 20 nghìn lao động với thu nhập từ

600.000 – 2.000.000 đồng/người/tháng. Sản phẩm của làng nghề chiếm

khoảng 30% giá trị sản xuất công nghiệp của toàn tỉnh. Các làng nghề phát

triển ổn định, trở thành những thương hiệu làng nghề nổi tiếng vừa góp phần

phát triển kinh tế và thúc đẩy phát triển du lịch của địa phương [17].

1.3.1.4. Kinh nghiệm của tỉnh Thanh Hóa

Thanh Hóa được biết đến với nhiều nghề truyền thống. Để làng nghề

ngày càng phát huy được những giá trị tốt đẹp, đặc biệt là gìn giữ nét văn hóa

đặc trưng của mỗi làng nghề truyền thống, tỉnh Thanh Hóa có quyết định

công nhận 30 làng nghề, làng nghề truyền thống và 10 nghề truyền thống.

Theo đó, nghề truyền thống, làng nghề và làng nghề truyền thống được hưởng

các chính sách ưu đãi về phát triển ngành nghề nông thôn theo quy định tại

Nghị định số 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ và các chính sách có liên quan.

Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, chúng ta thấy rõ hơn giá

trị, ý nghĩa nhân văn cao cả, nét đẹp của mỗi làng nghề truyền thống được

30

hình thành nên bởi lớp người đi trước và được gìn giữ, phát huy giá trị bởi thế

hệ con cháu mai sau. Họ không chỉ là những nghệ nhân mà thực sự đang là

những người “giữ lửa” cho mỗi làng nghề. Bởi họ không làm việc chỉ vì lợi

ích kinh tế, đôi khi chỉ là gìn giữ cho con cháu một cái nghề, gìn giữ một nét

đặc trưng của quê hương. Và điểm chung của những làng nghề truyền thống

đó chính là tinh thần đoàn kết của cộng đồng dân cư, đặc biệt là việc cùng

nhau giữ gìn cho được tinh hoa văn hóa mà ông cha để lại trong mỗi nghề

truyền thống,…[9].

1.3.2. Bài học về quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một số

tỉnh của nước ta mà tỉnh Quảng Nam cần học tập

Từ những kinh nghiệm trong hoạt động quản lý và phát triển làng nghề

truyền thống nêu trên, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho hoạt động quản

lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam như

sau:

Thứ nhất, để hạn chế tình trạng “ly hương” đang ngày càng diễn ra ở

hầu hết ở các làng quê trong cả nước, các địa phương đều có chiến lược phát

triển, khôi phục các làng nghề truyền thống, xem đây là nhiệm vụ quan trọng

để phát triển kinh tế địa phương.

Thứ hai, để các làng nghề truyền thống phát triển bền vững cần có sự

quan tâm, hỗ trợ của nhà nước thông qua việc ban hành các chính sách hỗ trợ,

khuyến khích các làng nghề truyền thống phát triển và phát huy sự nổ lực tự

vươn lên của những người lao động tại làng nghề truyền thống.

Thứ ba, cần phải xây dựng vùng nguyên liệu ổn định cho các làng nghề

truyền thống thông qua công tác quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu cho

các làng nghề truyền thống, điều này rất quan trọng, đây là cơ sở để duy trì

hoạt động sản xuất, kinh doanh của các làng nghề truyền thống.

Thứ tư, tăng cường công tác bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực quản lý

31

và lực lượng lao động tại các làng nghề truyền thống. Quan tâm và có chế độ

ưu đãi đối với nghệ nhân, thợ cả, thợ giỏi tại các làng nghề truyền thống, chú

trọng đào tạo thế hệ trẻ cho các lao động tại các làng nghề truyền thống.

Thứ năm, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho các cơ

sở sản xuất tại các làng nghề phát triển bền vững; nhà nước quan tâm hỗ trợ

xây dựng thương hiệu cho sản phẩm làng nghề truyền thống, tìm kiếm, mở

rộng thị trường cho sản phẩm làng nghề.

Thứ sáu, phải tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ trong

việc quản lý và phát triển các làng nghề truyền thống.

32

Thứ bảy, phát triển làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch.

Tiểu kết chương 1

Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống là yêu cầu tất yếu để

khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, góp phần phát triển kinh tế xã

hội của địa phương.

Hệ thống hóa các khái niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống và

quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, đặc điểm của làng nghề

truyền thống và đặc điểm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

rất quan trọng, là cơ sở lý luận để nắm vững hoạt động quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống, đánh giá thực trạng hoạt động và đề xuất

giải pháp quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Xác định chủ thể quản lý đối với làng nghề truyền thống: Ở Trung

ương, Chính phủ thống nhất quản lý và giao quyền quản lý cho các Bộ, ngành

liên quan quản lý. Ở địa phương, UBND các cấp thống nhất quản lý và giao

quyền quản lý cho các sở, ban ngành và các phòng ban liên quan tham mưu

trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Nội dung quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống bao gồm:

- Ban hành, hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy phạm

pháp luật,văn bản hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống;

- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống;

- Nguồn nhân lực quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống;

- Xây dựng và thực hiện chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền

thống;

- Tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề truyền thống;

33

- Xã hội hóa hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Để hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống có hiệu

quả cần phải nắm vững các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống; trên cơ sở đó, các chủ thể quản lý biết

tận dụng các yếu tố có lợi trong hoạt động quản lý và biết hạn chế đến mức

thấp nhất đối với các yếu tố bất lợi đối với hoạt động của làng nghề. Đồng

thời, trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống cần

phải biết kế thừa và học tập kinh nghiệm từ các mô hình quản lý có hiệu

quả, đó là kinh nghiệm trong quản lý về phát triển sản xuất, xúc tiến

thương mại, nâng cao nguồn lực, hoạt động thanh tra, kiểm đối với làng

nghề truyền thống,… nhằm để tổ chức tốt hoạt động quản lý nhà nước đối

với làng nghề truyền thống của địa phương.

Hệ thống hóa các kiến thức về làng nghề truyền thống và quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống là cơ sở để tìm ra các giải pháp tốt nhất

34

trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Chương 2

THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ

NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TẠI QUẢNG NAM

2.1. Thực trạng làng nghề truyền thống ở Quảng Nam

2.1.1. Khái quát về tỉnh Quảng Nam

Quảng Nam là một tỉnh ven biển thuộc vùng phát triển kinh tế trọng

điểm của miền Trung, có 16 huyện, thị xã và 2 thành phố, trong đó có 9 huyện

miền núi. Tổng diện tích tự nhiên của Quảng Nam là 1,040,683 ha được hình

thành từ chín loại đất khác nhau gồm cồn cát và đất cát ven biển, đất phù sa

sông, đất phù sa biển, đất xám bạc màu, đất đỏ vàng,... Quảng Nam là tỉnh có

quy mô dân số và lao động trung bình, mật độ dân số thưa so với các tỉnh ở

Việt Nam. Dân số của tỉnh năm 2001 là gần 1.4 triệu người và năm 2015 là

1.48 triệu người. Trong đó, khoảng 82% dân số sống ở nông thôn.

Quảng Nam là vùng đất hội tụ các yếu tố về tự nhiên phong phú, đa

dạng về núi rừng, trung du, đồng bằng, sông nước và biển đảo. Vùng đất ấy

nhiều thổ sản và là vùng đất hội tụ và giao thoa các nền văn hóa khác nhau.

Chính các yếu tố này quyết định đến sự hình thành và phát triển làng, làng

nghề xứ Quảng.

Làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam có lịch sử hình thành rất lâu,

có những làng nghề được hình thành từ hơn 500 năm. Làng nghề truyền thống

có vị trí quan trọng trong sản xuất, đời sống của nhân dân. Trong quá trình tồn

tại, phát triển, chung với số phận làng nghề của cả nước, làng nghề Quảng

Nam có những thăng trầm nhất định. Thời kỳ trước năm 1975, làng nghề sản

xuất phân tán, phát triển chậm, phần lớn lao động của làng nghề di chuyển đi

làm ăn nơi khác hoặc chuyển đến vùng ven đô thị để duy trì sản xuất, lúc này

35

sản lượng sản xuất không lớn.

Sau ngày đất nước thống nhất, Ðảng và Nhà nước ta có những chính

sách đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó tập trung khôi phục và

phát làng nghề, làng nghề truyền thống. Từ đó nhiều làng nghề khôi phục và

phát triển. Sản phẩm sản xuất được nhà nước bao cấp việc cung cấp nguyên

liệu và bao tiêu sản phẩm. Có thể nói rằng, đây là thời kỳ hưng thịnh của các

làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, các sản phẩm phần lớn được xuất

khẩu sang thị trường các nước Ðông Âu và Liên xô (cũ).

Khi nền kinh tế đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường, các cơ sở sản

xuất của làng nghề gặp nhiều khó khăn, bế tắc một mặt do thị trường truyền

thống tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ bị mất, một mặt do cơ sở hoạt động chưa

thích ứng với cơ chế thị trường nên dần dần giảm sút trong hoạt động sản xuất

kinh doanh. Tuy vậy, vẫn có một số làng nghề đã duy trì và phát triển.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, sự quan

tâm, hỗ trợ của các sở ban ngành, sự chỉ đạo trực tiếp của Chính quyền địa

phương trong công tác triển khai thực hiện chủ trương của Chính phủ về

khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, công nghiệp nông thôn.

Nhiều làng nghề được khôi phục và phát triển, đặc biệt đã có một số làng

nghề truyền thống đã phát triển trở thành điểm tham quan của khách du lịch.

2.1.2. Khái quát về làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam

2.1.2.1. Số lượng, sự phân bố làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh

Theo số liệu khảo sát và thu thập từ các cơ quan quản lý, các địa

phương của tỉnh, đến tháng 01 năm 2016, toàn tỉnh Quảng Nam có 46 làng

nghề truyền thống, được phân bố ở các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh

(danh sách cụ thể các làng nghề truyền thống được thể hiện ở phụ lục 1 đính

kèm), trong đó có 22 làng nghề truyền thống được UBND tỉnh công nhận.

Các làng nghề truyền thống phân bố không đều giữa các địa phương,

36

phần lớn tập trung ở các huyện đồng bằng (Đại Lộc, Điện Bàn, Hội An, Duy

Xuyên, Thăng Bình), các huyện miền núi rất ít làng nghề. Tình hình cụ thể về

số lượng và sự phân bố làng nghề, làng nghề truyền thống được thể hiện ở

phụ lục 2 đính kèm.

Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có một số làng nghề truyền thống đã bị

mai mọt, đến nay chỉ còn lại danh tiếng, hoạt động sản xuất chỉ mang tính

phục vụ cho sinh hoạt của các hộ sản xuất, không mang tính hàng hóa hoặc có

những làng nghề không còn hoạt động sản xuất, như làng nghề mây tre An

Thanh, xã Điện Thắng, thị xã Điện Bàn; làng nghề dệt vải Nông Sơn, xã Điện

Phước, thị xã Điện Bàn; làng nghề xơ dừa xã Tam Hải, huyện Núi Thành.

Nhiều làng nghề truyền thống bị mai mọt là do sự phát triển nhanh của

Khoa học và Công nghệ mà các làng nghề truyền thống không thay đổi kịp,

nguồn nguyên liệu cho sản xuất không được quy hoạch và phát triển, không

có vốn để đầu tư và phát triển, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm,...

2.1.2.2. Nguồn nhân lực tại các làng nghề truyền thống

Theo số liệu điều tra và thu thập thông tin từ các làng nghề truyền

thống trên địa bàn tỉnh về lao động, hiện nay lao động ở hầu hết các làng nghề

truyền thống là thành viên của hộ gia đình; trong đó, chủ hộ là lao động chính,

thường xuyên, con cháu trong gia đình là lao động phụ. Chất lượng lao động

trong các làng nghề thấp, các lao động chủ yếu được đào tạo theo hình thức

truyền nghề trong gia đình, cầm tay chỉ việc. Độ tuổi lao động tại các làng

nghề đa phần là nằm ở độ tuổi từ 40 tuổi đến 60 tuổi. Hầu hết chủ hộ sản xuất

chưa được đào tạo kiến thức về quản trị kinh doanh hay kinh tế thị trường

[13].

Lao động trong các làng nghề truyền thống nhìn chung có thu nhập

tương đối ổn định. Theo kết quả khảo sát các làng nghề trên, thu nhập bình

quân của một lao động/tháng khoảng 2,5 triệu đồng/tháng, bên cạnh đó, có

37

một số làng nghề thu nhập tương đối cao từ 5 triệu đồng/tháng, giải quyết

được đáng kể nhu cầu cuộc sống. Số lao động tại các làng nghề truyền thống

được UBND tỉnh công nhận được thể hiện chi tiết ở phụ lục 3 đính kèm.

2.1.2.3. Môi trường tại các làng nghề truyền thống

Trong hoạt động sản xuất, các làng nghề đều phát sinh các chất thải gây

ô nhiễm môi trường như: Khí thải (khói, bụi, tiếng ồn); nước thải (nước chế

biến nước mắm, nước làm bún, nước phở sắn, nước nhuộm chiếu,...); chất thải

rắn (đay, cói, phẩm màu, phôi bào, dăm bào, gỗ vụn, vải thừa, mây tre, đất sét

nung, bột đồng, than tro,...). Các chất thải này đã được các hộ tự thải trực tiếp

ra không khí, thải trực tiếp ra đất hoặc xử lý thông qua các hình thức như:

Xây dựng hầm rút nước thải hoặc tận dụng làm thức ăn cho chăn nuôi; tự đốt,

tập trung rác thải tại 01 khu vực trong làng nghề, hợp đồng Công ty Môi

trường đô thị thu gom. Nhìn chung, do quy mô nhỏ lẻ, không tập trung, hoạt

động sản xuất làng nghề không ảnh hưởng nhiều đến môi trường, chỉ có một

số làng nghề gây ô nhiễm cục bộ nhưng không đáng kể [13].

2.2. Đặc điểm làng nghề truyền thống và quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam

2.2.1. Đặc điểm làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam

Với bề dày văn hóa của vùng đất Quảng Nam, với sự phong phú, đa

dạng các tiểu vùng sinh thái; tỉnh Quảng Nam có nhiều sản vật nổi tiếng gắn

liền với các làng nghề truyền thống. Vì vậy, làng nghề truyền thống tỉnh

Quảng Nam có những đặc điểm sau:

- Làng nghề truyền thống với các hoạt động ngành nghề đa dạng, sản

phẩm phong phú, đã có đóng góp tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống cho lao động nông thôn, góp phần

quan trọng trong tiến trình xây dựng nông thôn mới và giữ gìn nét văn hóa

38

truyền thống đặc sắc của mỗi miền quê xứ Quảng. Cụ thể, được phân thành

các nhóm nghề: Nghề chế biến nông, lâm, hải sản; nghề thủ công mỹ nghệ;

nghề dệt, nghề may.

- Nguồn nguyên liệu sản xuất tại các làng nghề ngày càng khan hiếm,

không ổn định, giá cao; mẫu mã sản phẩm của làng nghề không đa dạng; giá

thành sản phẩm càng cao, sức cạnh tranh kém.

- Sản xuất tại các làng nghề truyền thống đa số còn manh mún, nhỏ lẻ,

thiếu liên kết, năng suất thấp. Theo số liệu thống kê, hiện nay trong 22 làng

nghề truyền thống được UBND tỉnh công nhận, số cơ sở sản xuất đăng ký

theo mô hình doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) và tổ hợp tác rất ít, chỉ có 13

đơn vị, trong khi đó mô hình quản lý hộ gia đình lên đến 1991 hộ; số liệu chi

tiết được thể hiện ở phụ lục 4 [13]. Vì vậy, trình độ quản lý trực tiếp tại các

làng nghề truyền thống là rất hạn chế, chủ yếu theo quy mô hộ gia đình, các

hộ tự kiêm nhiệm tất cả các khâu từ quản lý đến cung cấp nguyên liệu, tìm

kiếm thị trường để tiêu thụ sản phẩm. Đó là nguyên nhân cơ bản khiến làng

nghề vẫn manh mún, nhỏ lẻ, chưa thể phát triển mạnh, vì kinh doanh hộ khó

tiếp cận với vốn vay, công nghệ, thị trường,…

- Chất lượng lao động tại các làng nghề còn thấp, phần lớn lao động tại

các làng nghề đều ở tuổi trung niên, lớn tuổi, già yếu, mất sức lao động; tư

duy sản xuất tiểu nông, sản xuất theo kiểu lấy công làm lời, tâm lý ngại thay

đổi; chưa thích ứng, năng động, nhạy bén với cơ chế thị trường và đa số chưa

qua đào tạo.

- Hiện nay, thị trường tiêu thụ, các sản phẩm làng nghề truyền thống

chủ yếu là tự tiêu thụ, thị trường tiêu thụ tập trung ở địa phương Quảng Nam

và các tỉnh thành lân cận. Đặc biệt, tỉnh Quảng Nam có hai di sản văn hóa thế

giới là đô thị cổ Hội An và Khu di tích Mỹ Sơn, cùng nhiều cảnh quan thiên

39

nhiên tuyệt đẹp, nên hằng năm lượng khách du lịch đến Quảng Nam thăm

quan rất lớn, lên đến 4 triệu lượt người/năm, đây là thị trường tiềm năng để

tiêu thụ các sản phẩm làng nghề truyền thống.

- Các làng nghề truyền thống của tỉnh có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, ít sử

dụng hóa chất độc hại, lượng chất thải phát sinh không nhiều nên đa số các

làng nghề chưa gây tác động lớn đến môi trường ở mức báo động. Theo khảo

sát từ các địa phương, việc xử lý môi trường tại đa số ở các làng nghề ở các

địa phương đều tốt; tuy nhiên, có 6/46 làng nghề đã và đang gây ô nhiễm môi

trường cục bộ; số liệu cụ thể được thể hiện ở phụ lục 1 đính kèm.

- Nhiều làng nghề truyền thống trong hoạt động sản xuất, kinh doanh

có gắn với hoạt động phát triển du lịch. Theo kết quả khảo sát có 24/46 làng

nghề truyền thống trong hoạt động sản xuất, kinh doanh có gắn với hoạt động

phát triển du lịch, kết hợp vừa bán sản phẩm làng nghề vừa là điểm đến của

khách tham quan du lịch (số liệu cụ thể được thể hiện ở phụ lục 1 đính kèm).

- Về chiều hướng phát triển của các làng nghề truyền thống, theo khảo

sát có 15/46 làng nghề có chiều hướng phát triển tốt, 24/46 làng nghề chiều

hướng phát triển bình thường và 5/46 làng nghề có chiều hướng mai một (số

liệu cụ thể được thể hiện ở phụ lục 1 đính kèm).

2.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tỉnh

Quảng Nam

- Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam rất

khó khăn và phức tạp.

Các làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam phân bố rất rộng,

phân bố tại 14 huyện, thị xã, thành phố và với số lượng làng nghề truyền

thống lên đến 46 làng nghề truyền thống, với cách thức hình thành, tổ chức và

hoạt động sản xuất kinh doanh rất đa dạng với nhiều hình thức khác nhau, nên

40

hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống khó tập trung.

Đồng thời, cùng với sự hội nhập và quá trình toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh

vực khác nhau của nhân loại như thông tin, công nghệ, môi trường, hiểm họa

thiên nhiên, ràng buộc tài chính,... việc quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống đều phải chịu sự chi phối của các quốc gia khác; ví dụ như về giá

cả của các sản phẩm trên thị trường phải phù hợp, có tính cạnh tranh với các

quốc gia khác; chất lượng của các sản phẩm làng nghề cũng đòi hỏi cao hơn,...

- Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống mang tính tổ chức cao.

Các cơ sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống phải luôn

tuân thủ các quy định của cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề; ví dụ

như việc tuân thủ trong quy hoạch, trong các biện pháp bảo vệ môi trường

làng nghề, vấn đề an toàn thực phẩm và cả chiến lược phát triển của làng nghề

vẫn phải nằm trong sự kiểm soát, quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước.

Ví dụ, các làng nghề muốn thay đổi quy mô, quy hoạch vùng nguyên

liệu,... đều phải phù hợp với quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

Các làng nghề truyền thống chỉ có thể tồn tại và phát triển mạnh khi

việc quản lý nhà nước về làng nghề có hiệu quả. Vì vậy, nhận thức được vai

trò của hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề nên trong những năm

qua, địa phương luôn hoàn thiện công tác tổ chức để hoạt động quản lý đạt

hiệu quả. Phân chia nhiệm vụ quản lý đối với từng sở ngành liên quan trong

hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề.

- Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam

luôn có tính mục tiêu, chiến lược, chương trình, kế hoạch.

Bảo tồn và phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống tỉnh luôn gắn

với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; khai thác các

tiềm năng lợi thế của địa phương, tạo ra những sản phẩm đặc trưng, mang dấu

ấn, thương hiệu của làng nghề Quảng Nam; phát triển làng nghề để góp phần

41

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, tạo việc làm, tăng thu

nhập, xóa đói giảm nghèo, giảm dần khoảng cách thu nhập giữa thành thị và

nông thôn; phát triển làng nghề phải trên cơ sở phát triển hài hòa giữa sản

xuất hàng hóa với bảo vệ môi trường và gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa

truyền thống của địa phương.

2.3. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống của tỉnh Quảng Nam

2.3.1.Việc ban hành, hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện văn bản

quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường trong hoạt động

quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

Tỉnh Quảng Nam đã chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt các văn bản của

cấp trên; đồng thời, trên cơ sở các văn bản của cấp trên và dựa trên tình hình

thực tế của địa phương, UBND tỉnh Quảng Nam đã ban hành và tổ chức thực

hiện các văn bản liên quan đến quy định, hỗ trợ phát triển các làng nghề

truyền thống trên địa bàn tỉnh.

Trong thời gian từ năm 2011 đến nay, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn

bản để khuyến khích hỗ trợ phát triển làng nghề truyền thống của địa phương.

Sau khi các văn bản được ban hành, các văn bản được phổ biến đến các tổ

chức, cá nhân có liên quan trên địa bàn tỉnh thông qua các hình thức như tuyên

truyền phổ biến trên các phương tiện thông tin, hội thảo, tập huấn và văn bản

được chuyển đến các tổ chức cá nhân có liên quan. Phần lớn các văn bản sau

khi ban hành đã được áp dụng vào thực tế và đem lại hiệu quả trong việc phát

triển các làng nghề truyền thống của địa phương; cụ thể như sau:

- Để kịp thời khuyến khích, thúc đẩy việc đăng ký xác lập quyền sở hữu

công nghiệp tại địa phương và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên

tiến phục vụ quá trình hoạt động quản lý, sản xuất, kinh doanh của các cá

nhân, tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, UBND tỉnh đã ban hành Quyết số

42

20/2012/QĐ-UBND ngày 03/7/2012 của UBND tỉnh về việc ban hành Quy

định hỗ trợ xác lập quyền sở hữu công nghiệp và áp dụng các hệ thống quản

lý chất lượng tiên tiến trên địa bàn tỉnh. Theo đó, từ năm 2012 đến nay đã hỗ

trợ 525.000.000đ/ 53doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền

thống trong hoạt động đăng ký xác lập quyền, hỗ trợ xây dựng hệ thống quản

lý chất lượng cho doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.

- Nhằm khuyến khích, động viên, phát huy vai trò của các nghệ nhân,

thợ giỏi ở địa phương trong việc khôi phục nghề truyền thống, du nhập nghề

mới về địa phương, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 35/2013/QĐ-

UBND ngày 26/12/2013 của UBND tỉnh về việc ban hành quy chế xét tặng

danh hiệu nghệ nhân, thợ giỏi, người có công đưa nghề về địa phương. Đến

nay, trong toàn tỉnh đã có 10 nghệ nhân vinh dự được Chủ tịch nước công

nhận danh hiệu nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú và UBND tỉnh công

nhận danh hiệu nghệ nhân, thợ giỏi cho 16 cá nhân.

- Hiện nay, trên thị trường có nhiều sản phẩm giả mạo, được sản xuất

từ nơi khác và dán nhãn là sản xuất tại Quảng Nam. Vì vậy, người tiều dùng

khó xác định được nguồn gốc và xuất xứ của sản phẩm. Trước thực trạng đó,

ngày 07/5/2015 của UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 1619/QĐ-UBND

về việc ban hành “Con dấu xác thực” đối với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ

và Tiêu chí xét chọn sản phẩm thủ công mỹ nghệ được sử dụng “Con dấu xác

thực” tại Quảng Nam. Văn bản được ban hành nhằm giúp người tiêu dùng,

khách du lịch chọn đúng sản phẩm thủ công mỹ nghệ, sản phẩm làng nghề

truyền thống sản xuất tại địa phương, UBND tỉnh giao cho Hiệp hội thủ công

mỹ nghệ tỉnh Quảng Nam là cơ quan sở hữu và quản lý “Con dấu xác thực”.

Đến nay, một số sản phẩm của làng nghề truyền thống đã được cấp con dấu

xác thực như: Đúc đồng Phước Kiều, mộc Kim Bồng, gốm Thanh Hà, Đan lát

Tam Vinh,… Văn bản nhận được sự đồng thuận rất cao từ người tiêu dùng.

- Để có cơ sở xét công nhận làng nghề, làng nghề truyền thống theo các

43

văn bản của cấp trên và phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, UBND

tỉnh đã ban hành Quyết định số 19/2015/QĐ-UBND ngày 09/7/2015 về việc

ban hành quy định công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền

thống tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, trên toàn tỉnh đã có 6 làng nghề, 22 làng

nghề truyền thống được UBND tỉnh công nhận còn tồn tại và phát triển. Đây

là cơ sở để nhà nước khuyến khích, hỗ trợ các chính sánh để làng nghề ngày

càng phát triển và tạo động lực cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các

làng nghề đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.

- UBND tỉnh đã phê duyệt và ban hành đề án quản lý chất thải rắn tại

các vùng nông thôn tỉnh Quảng Nam đến năm 2020 tại Quyết định 3983/QĐ-

UBND ngày 06/12/2012; thực hiện đề án, các địa phương, trong đó có các

làng nghề truyền thống đã hình thành các tổ chức dịch vụ thu gom rác thải,

người dân khu vực nông thôn tích cực hưởng ứng, kết quả mang lại rất khả

quan; đến nay có 75,8% số xã xây dựng nông thôn mới có điểm thu gom rác

thải sinh hoạt [23].

Ngoài ra, cơ quan quản lý thường xuyên tăng cường công tác tuyên

truyền, phổ biến văn bản cấp trên, kiến thức pháp luật về doanh nghiệp, làng

nghề, về hội nhập kinh tế quốc tế WTO; tổ chức các hội thảo, tập huấn về các

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam, nhằm giúp doanh nghiệp, làng nghề

trên địa bàn tỉnh nắm bắt kịp thời các văn bản cấp trên, quy định pháp luật,

phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của các cơ sở tại làng nghề.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động quản lý nhà nước về

việc ban hành, hướng dẫn, tổ chức, triển khai thực hiện văn bản quy phạm

pháp luật, văn bản hành chính thông thường tại địa phương vẫn còn nhiều bất

cấp; cụ thể như:

- Một số văn bản đã ban hành, tuy nhiên không thể áp dụng thực hiện,

do thiếu thực tế, thiếu nguồn kinh phí triển khai và đồng thời còn mang tính

chất chung chung, không cụ thể, ví dụ như: UBND tỉnh đã ban hành Quyết

44

định số 2298/QĐ-UBND ngày 26/7/2013 về Đề án điều chỉnh, bổ sung quy

hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN) trên địa ban

tỉnh Quảng Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025; Đề án có đề cập một

số nội dung có cụ thể về ngành nghề nông thôn, làng nghề nhưng chưa đủ để

là Quy hoạch về phát triển ngành nghề nông thôn theo tinh thần Nghị định số

66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 và Thông tư số 116 /2006/TT- BNN, ngày

18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng dẫn thực

hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của

Chính phủ - phát triển ngành nghề nông thôn. Vì vậy, đến nay tỉnh Quảng

Nam vẫn chưa có quy hoạch phát triển sản xuất làng nghề tập trung. Hoặc

Quyết định số 1222/QĐ-UBND, ngày 07/4/2015 của UBND tỉnh về việc phê

duyệt Đề án Phát triển làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch trên

địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015 – 2020, Đề án đã ban hành nhưng

không có kinh phí thực hiện.

- Hầu hết tại các địa phương có các làng nghề truyền thống cũng chưa

xây dựng được các văn bản riêng về hoạt động quản lý và phát triển làng nghề

truyền thống cho địa phương mình. Hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn và

phổ biến các văn bản liên quan chưa được triệt để. Ví dụ, như chính sách về

hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề chưa phổ biến kịp

thời đến các làng nghề truyền thống.

- Chưa xây dựng được quy hoạch ngành nghề nông thôn, vì vậy đa số

nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất của các làng nghề truyền thông đều

bị khan hiếm, không có sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý với các hộ

sản xuất kinh doanh trong làng nghề,...

2.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam

Thứ nhất, hoạt động quản lý nhà nước đối với các làng nghề còn phân

45

tán, chồng chéo.

Hoạt động quản lý nhà nước không có sự thống nhất trong đầu mối quản

lý; vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước của địa phương đối với làng nghề

truyền thống còn lúng túng và nhiều bất cập; mỗi sở, ngành thực hiện chức

năng khác nhau, cụ thể như sau:

Theo Quyết định số 35/2015/QĐ-UBND ngày 3/12/2015 của UBND

tỉnh Quảng Nam về việc ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

và cơ cấu tổ chức của Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Nam, theo đó Sở NN

&PTNT là cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương về làng nghề, có trách

nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá tình hình phát triển của các làng nghề

nông thôn trên địa bàn tỉnh.

Theo Quyết định số 30/2015/QĐ-UBND ngày 27/10/2015 của UBND

tỉnh Quảng Nam về việc ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

và cơ cấu tổ chức của Sở Công thương tỉnh Quảng Nam, có quy định, theo đó

Sở Công thương là cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương về tiểu thủ công

nghiệp. Sở Công thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ

chức thực hiện chương trình, đề án, cơ chế, chính sách, kế hoạch phát triển

doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh (bao gồm

các ngành nghề, làng nghề nông thôn, các HTX thuộc lĩnh vực công thương).

Ngoài ra, còn có các Sở, ngành khác được UBND tỉnh giao quyền quản

lý: Quản lý nhà nước về công nghệ, quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ là Sở

KH&CN tại Quyết định số 20/2015/QĐ-UBND ngày 13/7/2015 của UBND tỉnh

Quảng Nam về việc Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam. Quản lý nhà nước về môi

trường làng nghề là Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) được quy định

tại Quyết định số 22/2015/QĐ-UBND ngày 30/7/2015 của UBND tỉnh Quảng

Nam về việc Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của

46

Sở Tài nguyên và Môi trường. Quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị

văn hóa là Sở Văn hóa – Thể thao Du lịch (VH-TTDL) được quy định tại

Quyết định số 27/2008/QĐ-UBND ngày 15/8/2008 của UBND tỉnh Quảng

Nam về việc Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam,…

Thứ hai, hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

trên địa bàn tỉnh chưa có sự thống nhất và theo tính thứ bậc.

Hiện nay, mặc dù việc quản lý nhà nước về ngành nghề, làng nghề ở tỉnh

đã giao Sở NN&PTNT quản lý; tuy nhiên, ở cấp huyện, cơ quan tham mưu

UBND huyện trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề đa số do

phòng Kinh tế Hạ tầng đảm nhận (riêng chỉ có huyện Duy Xuyên, huyện Phú

Ninh,thành phố Tam Kỳ, thị xã Điện Bàn, thành phố Hội An thì giao cho

Phòng NN&PTNT/phòng kinh tế quản lý). Đây là việc bất cập trong hoạt động

quản lý nhà nước theo ngành dọc; vì theo quy định về chức năng quản lý nhà

nước về hoạt động chuyên môn từ tỉnh xuống huyện thì phòng Kinh tế Hạ tầng

do Sở Công thương quản lý; tuy nhiên, ở cấp tỉnh hoạt động quản lý nhà nước

đối với làng nghề thuộc chức năng của Sở NN&PTNT. Do đó, Sở NN&PTNT

đang gặp khó khăn trong chỉ đạo điều hành. Mọi hoạt động quản lý nhà nước

theo chiều dọc từ tỉnh xuống huyện không được chỉ đạo xuyên suốt.

Cán bộ xã, phường, thị trấn là lực lượng trực tiếp quản lý các hoạt động

sản xuất kinh doanh tại địa phương; tuy nhiên, trong thời gian qua chính

quyền địa phương chưa chú tâm đến việc xây dựng, đào tạo lực lượng này

tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Dựa trên quy định chức năng nhiệm vụ của các sở ngành, địa phương liên

quan trên địa bàn tỉnh và phiếu điều tra khảo sát, chúng tôi mô phỏng lại bộ máy

tổ chức hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống của tỉnh

47

Quảng Nam qua sơ đồ 1.

UBND cấp tỉnh

Sở NN&PTNT

Sở Công Thương

Sở KH&CN

Sở VH –TT DL

Sở TN&MT

Tham mưu hoạt động nhà nước về môi trường làng nghề

Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (trong đó có cả các làng nghề)

Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về công nghệ, sở hữu trí tuệ

Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, phát triển du lịch gắn với làng nghề

UBND cấp huyên

P.NN&PTNT/Kinh tế

P.Kinh tế - hạ tầng

P.VH,TT&DL

P. TN-MT

Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề Nông thôn

Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về môi trường làng nghề

Tham mưu hoạt động nhà nước về làng nghề (gồm 13 huyện)

Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, phát triển du lịch gắn với làng nghề

UBND cấp xã

Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề (gồm 5 huyện/thị xã/thành phố: Tam Hội An, Điện Bàn Phú Ninh và Duy Xuyên)

Ban NN/Kinh tế

Sơ đồ 1. Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề tỉnh Quảng Nam

48

Nhìn vào sơ đồ ta thấy, bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với

làng nghề truyên thống của tỉnh Quảng Nam rất cồng kềnh, ở cấp tỉnh gồm

năm (05) sở ngành cùng tham gia quản lý, ở cấp huyện do hai (02) phòng

chuyên môn khác nhau tham gia quản lý,… điều này rất khó khăn trong hoạt

động điều hành quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

2.3.3. Nguồn nhân lực trong quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống tỉnh Quảng Nam

Nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống của tỉnh chưa đủ, chưa hợp lý.

Đối với cấp tỉnh, Sở NN&PTNT là cơ quan quản lý nhà nước về ngành

nghề, làng nghề; tổ chức hành chính nhà nước trực thuộc sở NN&PTNT giúp

Sở tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các

làng nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh là Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh.

Chi cục Phát triển nông thôn chịu sự chỉ đạo, quản lý của Sở NN&PTNT theo

quy định của pháp luật. Bộ máy tổ chức gồm: Chi cục trưởng và 02 Phó Chi

cục trưởng; 04 phòng chuyên môn nghiệp vụ, trong đó có phòng Phát triển

Nông thôn, có nhiệm vụ tham mưu quản lý nhà nước về hoạt động làng nghề

của tỉnh. Phòng Phát triển Nông thôn có 01 trưởng phòng, 01 phó phòng và

03 chuyên viên, có trình độ đại học trở lên, chuyên ngành kỹ sư nông nghiệp,

kinh tế nông nghiệp phát triển nông thôn. Với lực lượng như vậy, rất khó

khăn trong hoạt động quản lý nhà nước đối với 46 làng nghề truyền thống

phân bố rải rác ở 14 huyện thị xã thành phố trong cả tỉnh (Vì ngoài nhiệm vụ

quản lý nhà nước về làng nghề, phòng Phát triển nông thôn còn thực hiện các

49

chức năng quản lý nhà nước khác như: xây dựng nông thôn mới, đào tạo nghề

cho lao động nông thôn, hoạt động quản lý nhà nước về tích tụ ruộng đất, mỗi

xã một sản phẩm,...)

Ở cấp huyện, phòng Kinh tế/ Kinh tế Hạ tầng (một số địa phương là

phòng NN&PTNT/phòng Kinh tế) đảm nhận nhiệm vụ quản lý nhà nước về

làng nghề tại địa phương; đa số các phòng bố trí 01 chuyên viên phụ trách

hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề tại địa phương (một số địa phương

bố trí 02 cán bộ như thành phố Hội An, thị xã Điện Bàn, huyện Quế Sơn,

huyện Đông Giang). Chuyên viên phụ trách hoạt động về làng nghề thực hiện

rất nhiều nhiệm vụ quản lý nhà nước ở các lĩnh vực khác trong đó có kiêm

nhiệm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về làng nghề. Vì vậy, hoạt động

quản lý nhà nước đối với làng nghề tại địa phương không được đẩy mạnh và

không chặt chẽ. Qua phiếu khảo sát điều tra tại các địa phương hầu hết các

nguồn lực thực hiện quản lý nhà nước về làng nghề tại địa phương còn gặp rất

nhiều khó khăn trong quá trình thực thi công vụ như: Thiếu kinh nghiệm,

không được đào tạo, tập huấn nhiều, việc tiếp cận các văn bản cấp trên còn sơ

sài, chưa nắm rõ các đầu công việc để báo cáo cơ quan quản lý cấp trên.

Chuyên viên phụ trách hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề tại các

phòng Kinh tế Hạ tầng và phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của các

huyện/thị xã/thành phố trên địa bàn tỉnh đều có trình độ đại học; tuy nhiên, về

chuyên ngành đào tạo của các chuyên viên ở mỗi địa phương khác nhau; bao

gồm: Cử nhân kinh tế phát triển nông thôn, kỹ sư nông nghiệp, cử nhân kinh

tế, cử nhân môi trường, cử nhân sinh học,....

Nhìn chung, với đội ngũ nguồn nhân lực hiện có tại địa phương mới

đáp ứng nhu cầu cơ bản về quản lý nhà nước đối với làng nghề, làng nghề

50

truyền thống. Để hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề, làng nghề truyền

thống có những bước đột phá cần phải tăng cường nguồn nhân lực cho các địa

phương. Chỉ có tạo ra nguồn nhân lực quản lý chuyên nghiệp, có kiến thức,

kinh nghiệm, chuyên môn vững, thì mới có thể phát triển các làng nghề theo

hướng bền vững và lâu dài.

2.3.4. Xây dựng và thực hiện chính sách quản lý phát triển đối với làng

nghề truyền thống

Thứ nhất, Để đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh tại các làng

nghề truyền thống của tỉnh, UBND tỉnh đã hỗ trợ vốn đầu tư cho các làng

nghề truyền thống thông qua các dự án đầu tư phát triển làng nghề.

Từ năm 2011 đến năm 2016, các địa phương trong toàn tỉnh đã xây

dựng và ban hành thực hiện 12 dự án hỗ trợ đầu tư cho các làng nghề truyền

thống với tổng nguồn vốn là 114.615 triệu đồng, trong đó, nguồn vốn từ ngân

sách nhà nước là 85.481 triệu đồng [13].

Có thể thấy, trong những năm qua, nhà nước đã quan tâm đến việc khôi

phục và phát triển các làng nghề truyền thống; tuy nhiên, mức kinh phí hỗ trợ

vẫn còn hết sức hạn chế, từ năm 2011 đến 2016 chỉ hỗ trợ 12 dự án cho 12

làng nghề truyền thống trên 22 làng nghề truyền thống được công nhận. Đồng

thời, từ năm 2011 đến năm 2016, bằng nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi, UBND

tỉnh mới phân bổ cho các địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng làng nghề với số

tiền được phân bổ là 27.177 triệu đồng; mức hỗ trợ mới đạt khoảng 32% so

với mức kinh phí được xây dựng trong các dự án (27.177 triệu đồng/85.481

triệu đồng).

Các nội dung hỗ trợ chủ yếu tập trung hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng là

đường giao thông làng nghề, nhà trưng bày, cổng chào; không chú trọng vào

các chính sách hỗ trợ về vốn, lãi suất, kĩ thuật, trang thiết bị để giúp cho các

51

làng nghề dễ dàng trong công tác triển khai sản xuất kinh doanh. Số liệu cụ

thể về các dự án và nguồn vốn được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước được thể

hiện tại bảng số liệu 2.1[13].

TT

Danh mục dự án

Chủ đầu tư

Tổng vốn đầu tư

Ngân sách nhà nước hỗ trợ

Bảng 2.1 Các dự án hỗ trợ đầu tư cho các làng nghề truyền thống được phân bố theo các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh (tính đến năm 2016)

6,258

4,600

1.500

1

UBND xã Tam Vinh

3,255

3,255

1.500

2

14,899

7,812

1,450

3

UBND huyện Quế Sơn UBND huyện Duy Xuyên

9,737

6,976

1,250

4

UBND thị xã Điện Bàn

Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống đan lát xã Tam Vinh, Tam Kỳ Đường vào làng nghề chổi đót Quế Xuân 1 Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa Mã Châu gắn với phát triển du lịch Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống đúc nhôm, đồng Phước Kiều gắn với phát triển du lịch xã Điện Phương

7,614

7,614

2,000

5

7,740

7,740

1.400

6

UBND TP Hội An Huyện Nam Giang

9,978

9,978

1,500

7

UBND huyện Duy Xuyên

38,808

25.000

8.577

Trung tâm làng nghề tre - dừa nước Cẩm Thanh Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống dệt thổ cẩm Zara, xã Tabhing Đầu tư xây dựng hạ tầng gắn với phát triển du lịch Làng nghề dệt chiếu An Phước Làng nghề Đông Khương

8

3.598

2.877

1.800

9

Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống dệt chiếu cói Thạnh Tân

9,986

6,929

3.500

10 Làng nghề thủ công mỹ nghệ Dó Trầm Hương, xã Quế Trung

UBND thị xã Điện Bàn UBND xã Tam Thăng, Tam Kỳ UBND huyện Nông Sơn

2.742

1.500

1.500

11 Làng nghề truyền thống mộc

UBND huyện Phú Ninh

Văn Hà

52

Đơn vị tính: triệu đồng Ngân sách nhà nước đã hỗ trợ

1.200

1.200

1.200

UBND huyện Thăng Bình

12 Nâng cấp đường cảnh quang vào làng nghề nướcmắm Cửa Khe, xã Bình Dương

Tổng cộng

114.615

85.481

27.177

(Nguồn: Báo cáo Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Nam) Thứ hai, Quảng Nam bước đầu cũng đã có chính sách hỗ trợ các làng

nghề truyền thống xác lập quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm.

Tính đến tháng 01 năm 2016, hiện nay, trên toàn tỉnh đã có 14 /46 sản

phẩm làng nghề truyền thống được nhà nước hỗ trợ bảo hộ quyền sở hữu công

nghiệp dưới các hình thức nhãn hiệu tập thể. Các làng nghề truyền thống trên

địa bàn tỉnh đã xác lập quyền sở hữu công nghiệp dưới hình thức nhãn hiệu

tập thể được thể hiện chi tiết ở phụ lục 5 đính kèm.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc đăng ký nhãn hiệu cho các sản

phẩm đặc trưng, sản phẩm làng nghề, ngày 26 tháng 10 năm 2016 của UBND

tỉnh Quảng Nam đã ban hành Kế hoạch số số 5308/KH-UBND về việc “Tạo

lập, quản lý và phát triển quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm đặc, sản

phẩm làng nghề truyền thống”. Mục tiêu của Kế hoạch là đến năm 2020, hoàn

thành việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho 32 sản phẩm đặc

trưng, sản phẩm làng nghề; xây dựng và vận hành có hiệu quả mô hình hệ

thống tổ chức quản lý, phát triển quyền sở hữu nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu

chứng nhận cho 26 sản phẩm đặc trưng, sản phẩm làng nghề.

Nhìn chung, vấn đề xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề

bắt đầu đã được quan tâm nhưng vẫn chưa đúng mức, chưa chủ động, tích cực

trong việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, điều này ảnh hưởng rất lớn

đến việc khai thác thị trường và tạo lòng tin cho người tiêu dùng đối với các

sản phẩm làng nghề.

Thứ ba, hỗ trợ các chính sách phát triển làng nghề truyền thống gắn với

phát triển du lịch cũng được UBND tỉnh Quảng Nam quan tâm. Một số làng

53

nghề tại thị xã Điện Bàn, thành phố Hội An, huyện Duy Xuyên,… được sự hỗ

của nhà nước nên bện cạnh việc phát triển sản xuất, các làng nghề đã thu hút

một lượng khách du lịch rất lớn đến địa phương.

2.3.5. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề truyền thống

Thanh tra, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý nhà

nước, được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Hoạt động

thanh tra, kiểm tra nếu được diễn ra đúng quy định và thường xuyên theo định kỳ

hoặc đột xuất khi cần thiết sẽ giúp cho làng nghề truyền thống phát triển bền

vững.

Khi tổ chức thanh tra, kiểm tra sẽ kịp thời phát hiện những sai trái trong

hoạt động của các làng nghề truyền thống để xử phạt, hướng dẫn cho các làng

nghề thực hiện tốt hơn.

Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế, hoạt động quản lý nhà nước về thanh

tra, kiểm tra hầu hết không diễn ra theo đúng quy định, không tổ chức thanh

kiểm tra định kỳ và không thường xuyên; vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống chưa được chặt chẽ và còn nhiều hạn chế. Bên

cạnh đó, một số địa phương thiếu quan tâm, không điều tra, khảo sát, không

thanh tra, kiểm tra để nắm thông tin về tình hình hoạt động tại các làng nghề

truyền thống (huyện Thăng Bình, huyện Phú Ninh); do vậy, rất lúng túng khi

cập nhật các số liệu, không phản ánh đúng thực tế tại làng nghề truyền thống.

Số liệu cụ thể về hoạt động thanh, kiểm tra tại các làng nghề truyền

54

thống được thể hiện tại bảng số liệu 2.2.

Bảng 2.2. Số liệu về hoạt động thanh kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà

nước đối với các làng nghề truyền thống

TT Tên huyện, thị xã,

thành phố

thực hoạt thanh

Định kỳ thực hoạt hiện động thanh, kiểm tra Không hiện động kiểm tra

Hoạt động thanh kiểm tra các làng nghề truyền thống tại địa phương Không thường xuyên thực hiện hoạt động kiểm thanh, tra

x

Sở NN&PTNT Thị xã Điện Bàn Thành phố Hội An Huyện Đại Lộc Huyện Duy Xuyên Huyện Quế Sơn Huyện Nông Sơn Huyện Thăng Bình Huyện Phú Ninh x x x x x x x x

x

x

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Thành phố Tam Kỳ 11 Huyện Núi Thành 12 Huyện Bắc Trà My 13 Huyện Nam Giang 14 Huyện Tây Giang 15 Huyện Đông Giang

x x x x (Nguồn: Thu thập từ phiếu điều tra của Luận Văn)

2.3.6. Xã hội hóa và hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý nhà nước đối

với các làng nghề truyền thống

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc ưu tiên đầu tư ngân sách để thực

hiện các cơ chế, chính sách, nhưng do nguồn kinh phí còn hạn hẹp, nên việc

phân bổ ngân sách hằng năm để thực hiện một số đề án, cơ chế còn thấp, chưa

đáp ứng được nhu cầu thực tế. Một số đề án, như: Đề án phát triển sản xuất

nông, lâm sản góp phần giảm nghèo khu vực miền núi tỉnh Quảng Nam giai

đoạn 2014 – 2016; Đề án phát triển làng nghề truyền thống, gắn với du lịch...

55

đã được UBND tỉnh có quyết định phê duyệt, nhưng thiếu kinh phí để triển

khai thực hiện. Xác định nhân dân là lực lượng đông đảo nhất, là chủ thể

trong xây dựng làng nghề truyền thống của địa phương, thời gian qua, công

tác tuyên truyền, vận động luôn được các địa phương chú trọng, triển khai sâu

rộng tới quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau, nội dung

truyền tải phong phú, đa dạng nên đã tạo được những chuyển biến lớn, khích

lệ cả về tư tưởng, nhận thức và hành động, nhân dân tích cực đóng góp ngày

công, hiến đất, tiền mặt để xây dựng các công trình phục vụ xây dựng nông

thôn mới trong đó có phục vụ sản xuất làng nghề truyền thống; cụ thể như

sau:

Trong 5 năm qua đã bê tông hóa hơn 1.552 km đường giao thông nông

thôn và 390 km giao thông nội đồng, cứng hóa 2.798 km giao thông nông

thôn, nâng tổng chiều dài đường giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh được

bê tông hóa lên 4.200 km/6.560 km (đạt tỉ lệ 66%), bộ mặt nông thôn không

ngừng đổi mới. Kinh phí đã huy động trên 1.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách

tỉnh hỗ trợ trên 450 tỷ đồng, ngân sách huyện là nhân dân đóng góp trên 550

tỷ đồng [23]. Sự tham gia của nhân dân trong việc thực hiện các dự án phát

triển làng nghề sản xuất được thể hiện ở bảng số liệu 2.3 [13].

TT

Danh mục dự án

Chủ đầu tư

Tổng vốn đầu tư

Bảng 2.3 Các dự án hỗ trợ đầu tư cho các làng nghề truyền thống có sự tham gia huy động đóng góp từ nhân dân

6.258

Trong đó ngân sách nhà nước hỗ trợ 4.600

1.658

UBND xã Tam Vinh

1 Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống đan lát xã Tam Vinh, Tam Kỳ

14.899

7.812

7.087

UBND huyện Duy Xuyên

2 Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa Mã Châu gắn với phát triển du

56

ĐVT: Triệu đồng Vốn huy động từ nhân dân và nguồn khác

lịch

9.737

6.976

2.761

UBND thị xã Điện Bàn

3 Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống đúc nhôm, đồng Phước Kiều gắn với phát triển du lịch xã Điện Phương Làng nghề Đông Khương

4

38.808

25.000

13.808

3.598

2.877

721

UBND thị xã Điện Bàn UBND xã Tam Thăng

6

9.986

6.929

3.057

7

2.742

1.500

1.242

5 Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống dệt chiếu cói Thạnh Tân, xã Tam Thăng, Tam Kỳ Làng nghề thủ công mỹ nghệ Dó Trầm Hương, xã Quế Trung, Làng nghề truyền thống mộc Văn Hà

UBND huyện Nông Sơn UBND huyện Phú Ninh

Tổng cộng

114.615 85.481

29.134

(Nguồn: Báo cáo Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Nam)

Nhìn vào bảng số liệu, tỷ lệ đóng góp của người dân đạt 25%, thể hiện

tinh thần và trách nhiệm của người dân trong vấn đề xã hội hóa về quản lý và

phát triển làng nghề truyền thống.

Vai trò của quần chúng nhân dân, doanh nghiệp và chủ đầu tư là rất

quan trọng để phát triển các làng nghề truyền thống. Qua khảo sát, trong năm

qua các địa phương đều huy động vốn trong nhân dân để phát triển làng nghề

truyền thống (tham gia ngày công lao động, hiến đất để phát triển đường giao

thông vào làng nghề truyền thống,…) nhưng ở mức rất thấp.

Bên cạnh sự hỗ trợ, đầu tư của nhà nước và huy động các nguồn lực

trong nhân dân, các tổ chức quốc tế cũng đã quan tâm, hỗ trợ phát triển nhiều

chương trình, dự án, trong đó, có một số chương trình, dự án có liên quan đến

hỗ trợ phát triển các làng nghề. Một số dự án do các tổ chức phi chính phủ hỗ

57

trợ phát triển làng nghề truyền thống được thể hiện ở bảng số liệu 2.4

Bảng 2.4 Các dự án do các tổ chức phi Chính phủ hỗ trợ đầu tư cho các

làng nghề truyền thống [13]

TT 1 Tổ chức tài trợ ILO, SILT

2

Danh mục dự án Tăng cường hoạt động du lịch tại các huyện sâu trong đất liền ở Quảng Nam Phát triển sản phẩm thủ công dấu ấn và du lịch làng nghề tại Quảng Nam

3 thác Quỹ Tín Hàn Quốc tài trợ với sự phối hợp với các đối tác có liên quan JICA

Phát triển kinh tế địa phương nhờ phát triển sản phẩm mới, xây dựng thương hiệu và phân phối sản phẩm nông nghiệp, hàng thủ công mỹ nghệ lấy trọng tâm là Trạm dừng nghỉ đường bộ

4 Dự án phát triển du lịch bền vững tại Thừa Thiên UNESCO, ILO

5 JICA

Huế- Quảng Nam giai đoạn 2014-2015 Phát triển kênh bán hàng thông qua liên kết giữa địa phương với sản phẩm địa phương và du lịch – Mở rộng sản xuất rau an toàn và Phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống” Nội dung của các dự án hỗ trợ tập trung vào các nội dung: Hỗ trợ mua

sắm máy móc, thiết bị; các điểm trưng bày, bán hàng sản phẩm đặc trưng; tư

vấn kỹ thuật; xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề; đào tạo, tập

huấn về các kỹ năng quản lý, kỹ năng làm du lịch gắn với phát triển làng nghề

truyền thống, cách tìm kiếm thị trường, cách quảng bá sản phẩm làng nghề,...

Việc hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, đã giúp cho các đối tượng làng nghề nâng

cao được nhận thức, kỹ năng, tư duy quản lý, tay nghề, góp phần thúc đẩy sự

phát triển của làng nghề tại Quảng Nam.

2.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

2.4.1. Những yếu tố thuận lợi cho hoạt động quản lý nhà nước đối

58

với các làng nghề truyền thống

- Tỉnh Quảng Nam rất quan tâm và có nhiều chủ trương, chính sách phát

triển làng nghề truyền thống tại các địa phương trên toàn tỉnh: UBND tỉnh đã

ban hành chính sách điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển công nghiệp tiểu

thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; chính sách tặng danh hiệu nghệ

nhân, thợ giỏi, người có công đưa nghề về địa phương. Nhận thức được vai trò

của nguồn nhân lực, tỉnh đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển, tôn vinh các

nghệ nhân, thợ giỏi trong làng nghề; vì vậy, lực lượng thợ giỏi, tay nghề cao

của tỉnh rất lớn.

- Quảng Nam là tỉnh đi lên từ nông nghiệp, có lượng đất phù sa màu

mở thuận lợi để phát triển các loại cây trồng; vì vậy, tỉnh Quảng Nam có

nhiều lợi thế để phát triển vùng nguyên liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất

của làng nghề. Đồng thời, tỉnh ta có bờ biển kéo dài 125 km là tiềm năng để

khai thác thủy sản và phát triển các làng nghề truyền thống về chế biến hải

sản như sản xuất nước mắm,… hoạt động quản lý nhà nước rất thuận lợi trong

việc mở rộng quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với các làng nghề

truyền thống.

- Người Quảng Nam lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ và có

truyền thống sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ từ bao đời nay, hình thành lên

các làng nghề nổi tiếng, sản phẩm làng nghề được người tiêu dùng trong và

ngoài nước ưa chuộng ,… rất thuận lợi để triển khai hoạt động quản lý phát

triển làng nghề.

- Được sự quan tâm của nhà nước thông qua các chương trình, đề án,

dự án và đề tài khoa học công nghệ, một số làng nghề truyền thống đã được

hỗ trợ các công nghệ, thiết bị mới vào các công đọan sản xuất, kết hợp giữa

kỹ thuật hiện đại và kỹ thuật truyền thống để nâng cao chất lượng sản phẩm,

tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên

59

thị trường.

- Việt Nam được đánh giá là nước có môi trường chính trị, an ninh xã

hội đảm bảo. Đồng thời, Chính phủ nước ta đã có những nỗ lực trong việc thể

chế hóa hệ thống pháp luật, cải cách hành chính nhất là sau khi tham gia WTO

đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt

động sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống nói riêng, là cơ sở để đẩy

mạnh hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

2.4.2. Những điểm hạn chế cho hoạt động quản lý nhà nước đối với các

làng nghề truyền thống

- Trong thời gian qua, Trung ương, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế chính

sách, quy định có liên quan đến phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn.

Tuy nhiên, việc tổ chức triển khai còn rất nhiều hạn chế, nên hiệu ứng tác động

của chính sách còn rất mờ nhạt, chưa kích thích cho làng nghề phát triển.

- Tỉnh chưa có Quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn, do đó, Dự

án bảo tồn, phát triển làng nghề của tỉnh (2008 - 2015) trong những năm qua

tiến hành một cách chậm chạp, từ đó kéo dài sự phát triển ngành nghề ở các

huyện, thành phố. Các địa phương mới chỉ tập trung cho đầu tư phát triển các

khu, cụm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, thu hút các doanh nghiệp có

nguồn vốn, kỹ thuật tương đối lớn, chưa tập trung chăm lo phát triển các hộ

nghề, làng nghề truyền thống.

- Chất lượng nguồn nhân lực tại các làng nghề truyền thống rất thấp,

các chủ cơ sở sản xuất không có kinh nghiệm trong quản lý, tìm kiếm, phát

triển thị trường. Lực lượng lao động trực tiếp tại các làng nghề chưa qua đào

tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Đồng thời, các cơ sở đào tạo nghề của tỉnh chất lượng

và số lượng không cao.

- Các chủ cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền thống rất khó khăn

trong việc tiếp cận các nguồn vốn; đồng thời, quy mô sản xuất của các cơ sở

60

nhỏ lẻ, nơi sản xuất cũng là nơi nhà ở, vốn tự có của các chủ thể sản xuất kinh

doanh của các cơ sở sản xuất kinh doanh của các làng nghề truyền thống rất

thấp. Vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước về triển khai các chương trình phát

triển làng nghề truyền thống rất khó khăn.

- Hiện nay, trên thị trường xuất hiện các loại sản phẩm cùng loại với

sản phẩm của các làng nghề nhưng sản xuất bằng máy nên giá cả cạnh tranh

rất thấp. Đồng thời, công nghệ, thiết bị máy móc sản xuất của các cơ sở sản

xuất tại các làng nghề truyền thống đa phần là lạc hậu, không đồng bộ, vì vậy

khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường rất thấp. Các yếu tố là một

trong những khó khăn lớn trong hoạt động quản lý nhà nước về giá cả, tìm

kiếm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm làng nghề truyền thống.

- Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa dẫn đến việc giảm lực lượng

lao động tại các làng nghề. Tỉnh có chính sách khuyến khích doanh nghiệp

đầu tư về nông thôn nên công nghiệp nông thôn khá phát triển; chính sách

phát triển các khu công nghiệp Điện Nam Điện Ngọc, khu công nghiệp Chu

Lai,… Đã thu hút một số lượng lớn lao động trẻ tại các cơ sở sản xuất của

làng nghề truyền thống; dẫn đến nguy cơ thiếu lao động trong các cơ sở sản

xuất của các làng nghề truyền thống. Đồng thời, con em trong các gia đình

sản xuất tại làng nghề không mặn mà với nghề truyền thống, nhiều nghề

truyền thống chưa có đội ngũ trẻ kế thừa. Vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước

về phát triển nguồn nhân lực, nguồn lao động tại các làng nghề truyền thống

rất khó khăn.

- Chủ các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống chưa quan tâm

đến vấn đề xây dựng thương hiệu, thiết kế mẫu mã, kiểu dáng cho sản phẩm;

vì vậy, trên thị trường xuất hiện rất nhiều sản phẩm công nghiệp giả mạo sản

phẩm làng nghề truyền thống; vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước về sở hữu

61

trí tuệ cũng gặp phải những khó khăn nhất định trong việc thực hiện các chính

sách xây dựng, quản lý và phát triển quyền sở hữu công nghiệp cho các sản

phẩm làng nghề truyền thống.

2.4.3. Nguyên nhân những thuận lợi và hạn chế đối với hoạt động quản lý

nhà nước của các làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam

2.4.3.1. Nguyên nhân những thuận lợi của hoạt động quản lý nhà nước

đối với các làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam

- Việc khôi phục và phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống là chủ

trương của đảng và nhà nước ta; hiện nay, Chính phủ đã ban hành nhiều

chương trình, đề án, dự án liên quan đến phát triển ngành nghề ở nông thôn;

đặc biệt, cả nước đang triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới là cơ

sở, điều kiện để các làng nghề đầu tư, mở rộng và phát triển. Thông qua

chương trình xây dựng nông thôn mới, hệ thống giao thông đi lại tại nông

thôn được nâng cấp, rất thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các

làng nghề truyền thống.

- Trong thời gian qua, Chính phủ đang nỗ lực xây dựng một Chính phủ

kiến tạo và liêm chính, vì vậy, trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề

có nhiều thuận lợi, việc quản lý tại các làng nghề sẽ thuận lợi hơn, các doanh

nghiệp tại các làng nghề có nhiều cơ hội để phát triển, các thủ tục trong đầu tư

phát triển của các cơ sở tại các làng nghề được thuận tiện.

- Quá trình xây dựng xã nông thôn mới được triển khai trên địa bàn tỉnh

đã có chuyển biến tích cực, ý thức của nhân dân được nâng cao. Các quy

hoạch về nông thôn mới cơ bản đã hoàn chỉnh là cơ sở để định hướng phát

triển làng nghề truyền thống trong thời gian đến.

- Nước ta gia nhập thành viên của WTO đã mở ra hướng đi mới cho các

cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống; các cơ sở đã có cách nhìn khác

về việc tạo ra sản phẩm chất lượng, mẫu mã đẹp để đáp ứng thị hiếu của người

62

tiêu dùng trong và ngoài nước. Các cơ quan quản lý nhà nước tiếp cận được các

thông tin mới về thị trường, công nghệ sản xuất sản phẩm, tìm kiếm các nguồn

vốn vay hợp lý, các nguồn tại trợ để hỗ trợ các làng nghề truyền thống.

- Quảng Nam là vùng đất hội tụ các yếu tố về tự nhiên phong phú, đa

dạng về núi rừng, trung du, đồng bằng, sông nước và biển đảo. Vùng đất ấy

nhiều sản phẩm đặc trưng của địa phương. Cùng với quá trình hình thành và

phát triển, lại là vùng đất hội tụ và giao thoa các nền văn hóa khác nhau.

Chính các yếu tố này quyết định đến sự hình thành và phát triển làng, làng

nghề xứ Quảng – là điều kiện để mở rộng quy mô sản xuất tại các làng nghề

truyền thống của địa phương.

2.4.3.2. Nguyên nhân những hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước

đối với các làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam

- Nhà nước thiếu cơ chế vận hành thông suốt hệ thống chính sách về

ngành nghề nông thôn, làng nghề từ Trung ương đến cơ sở, đem chính sách

về với người dân để người dân hiểu sử dụng chính sách một cách có hiệu quả.

- Nhiều chính sách được ban hành chưa thỏa đáng và không kịp thời

nên không áp dụng vào thực tế. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan

quản lý nhà nước chưa được chặt chẽ, chưa theo quy trình.

- Bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

còn nhiều bất cập, cồng kềnh; nguồn nhân lực quản lý hoạt động nhà nước đối

với làng nghề còn yếu kếm, chưa đáp ứng được yêu cầu trong quá trình hội

nhập.

- Phát triển làng nghề truyền thống tuy có sự quan tâm của nhiều cấp,

nhiều ngành song nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp. Bản thân các hộ sản xuất lại

không đủ vốn để mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất. Các cơ sở nghề chưa

tiếp cận được các nguồn vốn vay với lãi suất thấp, hầu hết các làng nghề

truyền thống sản xuất với quy mô nhỏ, sản phẩm làm ra phục vụ cho thị

63

trường nội địa là chủ yếu, sức cạnh tranh còn yếu. Bản thân mỗi làng nghề

truyền thống chưa có doanh nghiệp đầu đàn làm đầu mối cho việc tổ chức sản

xuất và tiêu thụ sản phẩm.

- Sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân địa phương về chủ trương của

Đảng và Nhà nước về phát triển ngành nghề nông thôn, bảo tồn và phát triển

làng nghề truyền thống chưa trở thành hành động mạnh mẽ của người dân.

Nhiều địa phương còn ỷ lại trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước nên hoạt

64

động xã hội hóa quản lý nhà nước đối với

Tiểu kết chương 2

Các làng nghề truyền thống của Quảng Nam xuất hiện sớm, tồn tại trong

quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các làng nghề đã đóng góp tích

cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho

người dân. Nhưng, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như hoạt động

sản xuất tại các làng nghề còn manh mún, nhỏ lẻ, thiếu liên kết, việc tiếp cận

các nguồn vốn còn khó khăn, sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường còn

kém,…

Trước thực trạng đó, hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề đã được

đẩy mạnh, nhiều cơ chế, chính sách được triển khai thực hiện để duy trì và phát

triển các làng nghề truyền thống. Các tổ chức phi chính phủ cũng đã quan tâm

đến việc hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển các làng nghề truyền thống. Tuy

nhiên, nguồn lực hỗ trợ của Trung ương, tỉnh còn nhiều hạn chế, chủ yếu hỗ trợ

đầu tư cơ sở hạ tầng, chưa quan tâm nhiều đến việc hỗ trợ phát triển sản xuất,

tiêu thụ sản phẩm. Bộ máy quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

thiếu đồng bộ, phân tán, còn chồng chéo giữa các cơ quan quản lý nhà nước;

chưa có sự liên kết và thể hiện tính thứ bậc trong công tác quản lý nhà nước đối

với các làng nghề truyền thống. Thiếu cán bộ quản lý làng nghề tại các địa

phương, đặc biệt chưa chú tâm đến việc đào tạo nguồn nhân lực quản lý tại địa

phương, nhất là cấp huyện, cấp xã. Hoạt động quản lý nhà nước về thanh tra,

kiểm tra đối với các làng nghề truyền thống chưa được tăng cường, rất mờ

nhạt, làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống. Xã

hội hóa trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề được đẩy mạnh,

bước đầu đã huy động được sự đóng góp, tham gia quản lý của người dân đối

với hoạt động quản lý, góp phần phát triển làng nghề truyền thống tại địa

65

phương, nhưng vẫn còn ở mức thấp.

Từ việc phân tích đánh giá thực trạng của hoạt động quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống, đã xác định được những yếu tố thuận lợi,

những điểm hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống và tìm ra nguyên nhân của những yếu tố thuận lợi trong hoạt

động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống cũng như những

nguyên nhân của những điểm hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước đối

với làng nghề truyền thống. Đây là cơ sở để đề xuất các giải pháp trong hoạt

động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, nhằm góp phần duy trì

66

và phát triển các làng nghề một cách bền vững và hiệu quả nhất.

Chương 3

3.1. Phương hướng quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tỉnh

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

Quảng Nam

Thứ nhất, quản lý phát triển làng nghề truyền thống là một bộ phận

trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và tuân thủ chặt chẽ quy

hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

Quảng Nam vẫn còn là tỉnh khó khăn, mức thu nhập của người lao

động còn thấp so với mức bình quân chung của cả nước. Chuyển dịch cơ cấu

kinh tế vẫn còn chậm, nông nghiệp vẫn là một trong những ngành kinh tế

chính của tỉnh. Nếu thực hiện nông nghiệp thuần túy thì nông thôn khó mà

thoát khỏi cảnh nghèo khó, người dân chỉ bám trụ vào cây lúa thì không đủ để

trang trải cho sinh hoạt hằng ngày. Vì vậy, cần đẩy mạnh quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn; đẩy mạnh

phát triển làng nghề truyền thống nhằm giải quyết việc làm cho người lao

động, thu hút lao động từ nông nghiệp sang tiểu thủ công nghiệp, làm cơ sở

nền tảng để phát triển công nghiệp. Quá trình đó chính là quá trình chuyển

dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn của tỉnh. Để thực

hiện các nội dung này, cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản

lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI, nhiệm

kỳ 2015-2020, đã xác định mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020, tỉnh Quảng

Nam trở thành tỉnh khá của cả nước, sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo

hướng hiện đại, trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế có chú trọng đến phát triển

nông nghiệp và nông thôn, về phát triển kinh tế gắn kết giữa phát triển du lịch

67

với các ngành tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống”.

Là một tỉnh có khoảng 1,5 triệu dân, nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao

trong sản xuất kinh tế địa phương trên 82%, thời tiết khí hậu diễn biến rất

phức tạp, để có thể phát triển và thoát khỏi tỉnh khó khăn, thì làng nghề có vai

trò đặc biệt trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Vì vậy, trong

chiến lược phát triển kinh tế địa phương đã xác định vị trí vai trò của làng

nghề. Xây dựng và quy hoạch phát triển làng nghề truyền thống của từng

huyện, xã cần gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của tỉnh,

huyện, xã đi đối với phát triển thương mại, du lịch. Ngành nghề, làng nghề là

một bộ phận quan trọng của phát triển công nghiệp của tỉnh. Việc quy hoạch

làng nghề truyền thống có gắn kết với quy hoạch chung thì mới khai thác được

các lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của địa phương, phải phù hợp

với nguồn lực của từng địa phương là cơ sở để làng nghề truyền thống đầu tư

phát triển.

Quy định về bộ máy tổ chức quản lý hoạt động các làng nghề truyền

thống hợp lý. Để quản lý các làng nghề truyền thống hiệu quả phải phân định

rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý nội bộ tại các làng nghề

truyền thống. Trong đó cần phân công, phân cấp quản lý rõ ràng, tránh chồng

chéo chức năng lẫn nhau.

Xây dựng hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách theo hướng tạo ra môi

trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của làng nghề truyền thống.

Phát triển làng nghề truyền thống phải theo hướng đa dạng hóa hình thức sở

hữu, mô hình tổ chức sản xuất, kết hợp kỹ thuật hiện đại với cổ truyền trong

sản xuất để tạo ra những sản phẩm có chất lượng và mang tính nghệ thuật.

Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông, điện,

nước,… nhằm tạo điều kiện để làng nghề truyền thống mở rộng quy mô sản

xuất, thị trường tiêu thụ, nâng cao năng suất lao động, đây cũng là một trong

68

những định hướng góp phần phát triển làng nghề truyền thống thống của tỉnh.

Thứ hai, bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống gắn với Chương

trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; khai thác các tiềm năng lợi

thế của địa phương, tạo ra những sản phẩm đặc trưng, mang dấu ấn, thương

hiệu của làng nghề Quảng Nam.

Làng nghề phát triển vừa là tác nhân góp phần tích cực trong quá trình

xây dựng nông thôn mới đồng thời được thừa hưởng các chính sách, các

chương trình mục tiêu dành cho nông thôn mới.

Các chính sách ưu đãi cho nông thôn cũng chính là ưu đãi cho kinh tế

làng nghề truyền thống như chính sách quy hoạch nông thôn mới trong đó có

quy hoạch làng nghề. Theo đó, làng nghề truyền thống sẽ được quy hoạch phát

triển, phân tích, đánh giá đầy đủ thực trạng, tiềm năng, xác định rõ mục tiêu,

định hướng cụ thể cho từng loại hình ngành nghề, từng loại hình sản phẩm,

đồng thời có các giải pháp triển khai một cách khả thi, hiệu quả thiết thực. Các

làng nghề truyền thống được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống xử lý

chất thải..., góp phần giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề.

Đồng thời, Quảng Nam còn là nơi có nhiều làng nghề truyền thống

được hình thành và phát triển từ nhiều đời nay. Ở đây, trải qua bao thế kỷ,

nghề và làng nghề truyền thống đã ra đời, tồn tại và phát triển như một phần

không thể tách rời của lịch sử mỗi làng quê, thôn xóm của vùng đất này. Vì

vậy, các sản phẩm làng nghề truyền thống đều gắn liền với giá trị văn hóa

không thể tách rời. Do đó, cần phải phát huy và gìn giữ những trị văn hóa

được đúc kết trong từng sản phẩm, tạo ra những lợi thế để cạnh tranh sản

phẩm trên thị trường.

Thứ ba, phát triển làng nghề phải trên cơ sở phát triển hài hòa giữa sản

xuất hàng hóa với bảo vệ môi trường và gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa

69

truyền thống của địa phương.

Làng nghề truyền thống đã có từ hàng trăm năm, gắn liền với bản sắc

văn hóa dân tộc và góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế xã hội của đất nước.

Nhiều làng nghề truyền thống hiện nay trên địa bàn tỉnh đã được khôi phục,

đầu tư phát triển với quy mô và kỹ thuật cao hơn, hàng hóa không những

phục vụ nhu cầu trong nước mà còn cho xuất khẩu với giá trị lớn. Cùng với

những thay đổi tích cực để thích nghi trong giai đoạn hội nhập của đất nước

với nền kinh tế thế giới, các làng nghề cũng phải đối mặt với nhiều thách

thức, trong đó có vấn đề ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, các doanh

nghiệp, cơ sở sản xuất chạy theo lợi nhuận, đánh mất đi giá trị văn hóa truyền

thống được kết tinh trong từng sản phẩm làng nghề truyền thống. Vì vậy, nhà

nước, các cấp, các ngành phải cùng chung tay để gìn giữ phát triển các làng

nghề truyền thống như gìn giữ giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc ta, phát triển

làng nghề truyền thống theo hướng bền vững.

Thứ tư, “Cần cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị

gia tăng và phát triển bền vững; thúc đẩy phát triển làng nghề truyền thống”.

Nội dung này được nêu trong Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng

Nam lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015-2020, trong các nhóm giải pháp phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015- 2020. Vì vậy, việc tăng

cường, củng cố và đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nước đối với các làng

nghề truyền thống, là một trong các giải pháp để phát triển làng nghề truyền

thống của địa phương.

Trước thực trạng, hiện nay, có một số các làng nghề truyền thống bị

mai mọt trong đó có cả các làng nghề truyền thống được UBND tỉnh công

nhận nhưng vẫn không duy trì được hoạt động sản xuất, do thiếu nguồn

nguyên liệu, nhân lực cũng như những định hướng phát triển. Quản lý nhà

70

nước đối với làng nghề truyền thống có vai trò điều tiết các nguồn lực, phân

bổ hợp lý nguồn tài nguyên phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề của

địa phương, nhằm đưa ra các giải pháp để các làng nghề phát triển bền vững.

Đồng thời, hiện nay, UBND tỉnh đang đưa ra chiến lược, xây dựng và

phát triển mỗi làng một sản phẩm, là cơ sở để khôi phục và phát triển các sản

phẩm của làng nghề truyền thống.

3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống

tỉnh Quảng Nam

Trước thực trạng trên, để thực hiện tốt hoạt động quản lý nhà nước về làng

nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:

3.2.1. Nâng cao hiệu quả việc ban hành, hướng dẫn và tổ chức triển khai

thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường

trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

Một là, rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính

thông thường không còn phù hợp, không có khả năng thực hiện, nhằm loại

bỏ. Ví dụ như một số văn bản sau:

- Quyết định số 37/2001/QĐ-UBND ngày 30/7/2001 của UBND tỉnh

Quảng Nam quy định về khuyến khích đầu tư phát triển ngành nghề tiểu thủ

công nghiệp, làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh. Quy định này đã xuất

hiện nhiều bất cập, không phù hợp với tình hình hiện tại của địa phương.

- Quyết định số 1222/QĐ-UBND, ngày 07/4/2015 của UBND tỉnh về

việc phê duyệt Đề án Phát triển làng nghề truyền thống gắn với phát triển du

lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015 – 2020; Quyết định này đã

được ban hành hai năm, tuy nhiên cũng không có kinh phí để triển khai thực

hiện, cần xem xét rà soát lại để thay văn bản mới có tính khả thi, nhằm góp

phần phát triển du lịch của làng nghề truyền thống.

Hai là, tiếp tục phát huy một số cơ chế chính sách hiện có của Trung

71

ương, tỉnh có tác động đến phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống như:

- Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn tại Quyết

định 132/2001/QĐ-TTg ngày 07/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ;

- Quyết định 23/2010/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt Đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010-2015

và định hướng đến năm 2020”;

- Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 22/4/2010 của Chính phủ về chính

sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nghị định số

61/2010/NĐ-CP ngày 04/6/2010 của Chính phủ Chính sách khuyến khích

doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn;

- Quyết định 1216/QĐ-TTg ngày 05/9/2012 phê duyệt Chiến lược Bảo

vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 - là chính sách

về khoa học công nghệ và chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và xử lý môi

trường làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn,...

Ba là, ban hành các văn bản quy pháp pháp luật phù hợp với thực tế sản

xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất của làng nghề tại địa phương, nhằm

giúp các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh có điều

kiện phát triển sản phẩm làng nghề truyền thống; đặc biệt, ưu tiên phát triển

các làng nghề có công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, làng nghề có

doanh thu cao, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động với mức thu

nhập ổn định.

- Hiện nay, đa số các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống còn

thiếu những kiến thức về thị trường, cách thức quảng bá, giới thiệu sản

phẩm,... Vì vậy, cần ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế hỗ

trợ các cơ sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống trong lĩnh

vực xúc tiến thương mại.

- Sản phẩm làng nghề truyền thống, yếu tố truyền thống được kết tinh

72

trong từng sản phẩm là quan trọng nhất, sản phẩm làng nghề mang tính nghệ

thuật rất cao. Những làng nghề truyền thống đang tồn tại là những làng nghề

biết kết hợp tinh hoa, nghệ thuật của truyền thống và tiến bộ của khoa học

công nghệ, bắt kịp với sự đổi mới của đất nước, tuân thủ sự vận động của cơ

chế thị trường, nắm bắt thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng. Ví dụ làng

nghề truyền thống đúc đồng Phước Kiều đưa công nghệ nấu luyện làm khuôn

hiện đại vào thay cho thủ công, song vẫn vận dụng bàn tay khéo léo của nghệ

nhân, người thợ vào khâu trạm trổ, điêu khắc tạo ra những sản phẩm mang

tính nghệ thuật cao được người tiêu dùng trong và nước đón nhận. Nghề gỗ ở

các làng nghề truyền thống như mộc Kim Bồng đã đưa thiết bị cơ khí vào

thay cho lao động thủ công, song phần chế biến tinh xảo vẫn được các nghệ

nhân chủ công,... Vì vậy, để các làng nghề truyền thống phát triển bền vững

cần ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất,

thiết bị máy móc để hỗ trợ hoạt động sản xuất của các cơ sở ở những công

đoạn cần thiết có sự phụ trợ của máy móc, nhằm tạo ra sản phẩm vẫn giữ

được nét truyền thống được kết tinh trong sản phẩm, vừa tạo ra được sản

phẩm có thể cạnh tranh trên thị trường.

Bốn là, cần xây dựng quy hoạch hoạch tổng thể cho các làng nghề

truyền thống trong phạm vi cả tỉnh theo quy định tại Nghị định số

66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề

nông thôn.

Việc quy hoạch phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy

hoạch sử dụng đất đai, vùng thương mại, vùng nguyên liệu, phát triển du lịch

và theo hướng bền vững. Việc quy hoạch các làng nghề truyền thống còn xây

dựng theo hướng quy hoạch những làng nghề truyền thống chỉ chuyên phục

vụ du lịch, những làng nghề truyền thống chỉ chuyên phục vụ sản xuất, và

những những làng nghề truyền thống vừa phục vụ cho sản xuất vừa phục vụ

73

cho phát triển du lịch.

Thực hiện khảo sát quy hoạch, thiết kế xây dựng cần tập trung đến

chiều hướng phát triển của các làng nghề truyền thống: Những làng nghề

truyền thống mà sản phẩm đang là nhu cầu của thị trường, nhưng bị suy giảm

về năng suất sản xuất và chất lượng sản phẩm, sẽ tập trung đầu tư, hỗ trợ để

bảo tồn và khôi phục (làng nghề mộc Văn Hà, dệt vải tơ lụa Mã Châu,Đúc

đồng Phước Kiều…); đối với làng nghề truyền thống sản xuất các mặt hàng

mà hiện nay thị trường không có nhu cầu thì cần phải mạnh dạn xóa bỏ và

thay thế bằng nghề mới; (làng nghề nón lá Quế Minh, làng nghề xơ dừa Tam

Hải,…) đối với những làng nghề có tiềm năng phát triển, thị trường được mở

rộng cần quan tâm và có hướng đầu tư phù hợp để nâng cao vị thế, sức cạnh

tranh của sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước (làng nghề nước mắm

Cửa Khe, làng nghề nước mắm Trung Phường, làng nghề rau Trà Quế, gốm

Thanh Hà, Mộc Kim Bồng,…).

Quy hoạch phát triển làng nghề truyền thống theo hướng hình thành

các cụm công nghiệp làng nghề nhằm chuyển một số cơ sở sản xuất kinh

doanh khỏi khu dân cư để khỏi ô nhiễm môi trường và thuận lợi trong hoạt

động sản xuất kinh doanh như thuận tiện trong việc thu mua, vận chuyển

nguyên liệu; mở rộng và tìm kiếm thị trường tiêu thụ, quảng bá cho sản

phẩm,… Cần chủ động quy hoạch vùng nguyên liệu tương ứng với các sản

phẩm làng nghề, có kế hoạch đầu tư, gây dựng những loại giống nguyên liệu

có chất lượng cao, đảm bảo chất lượng sản phẩm, tập trung quy hoạch các

vùng nguyên liệu gỗ, may, tre, cói,... Nguyên liệu sản xuất của các làng nghề

truyền thống chủ yếu là khai thác tự nhiên hoặc các sản phẩm của nông

nghiệp. Chính vì vậy, với những nguyên liệu tự nhiên, các làng nghề truyền

thống cần có kế hoạch khai thác hợp lý, hạn chế việc khai thác ồ ạt, có tính

chất tận diệt. Căn cứ vào vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của tỉnh Quảng

74

Nam, quy hoạch vùng nguyên liệu theo hướng khoanh nuôi bảo vệ rừng tự

nhiên, rừng trồng hiện có, trồng mới và tạo nguồn nguyên liệu cho nghề thủ

công mỹ nghệ. Đẩy mạnh việc thâm canh, tăng năng suất cây trồng đối với

cây công nghiệp và cây nguyên liệu phục vụ cho sản xuất tại các làng nghề

truyền thống.

Tăng cường sự phối hợp của các cấp, các ngành để hoàn thành thủ tục,

công khai quy hoạch, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư vào sản

xuất trong các làng nghề truyền thống. Cần thực hiện sự phân cấp rõ ràng

trong quy hoạch để tránh tình trạng chồng chéo trong quản lý.

Năm là, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống, coi việc hướng dẫn, giúp đỡ phát triển làng nghề truyền thống là trách

nhiệm của các cấp, các ngành.

Khi có văn bản mới ban hành cần tổ chức tập huấn, phổ biến, hướng dẫn

các tổ chức, cá nhân có liên quan triển khai thực hiện. Cán bộ quản lý nhà

nước đối với làng nghề phải thường xuyên xuống cơ sở, hướng dẫn các cơ sở

nắm bắt kịp thời các thông tin, chính sách mới để các cơ sở sản xuất, kinh

doanh tại làng nghề có định hường phát triển. Tiếp tục đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và nhà

nước về bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, các chương trình phát

triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm của địa phương.

3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy trong quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống tỉnh Quảng Nam

Để thực hiện tốt hoạt động tổ chức về quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống cần tập trung vào các giải pháp sau:

- Một là, cần có sự thống nhất giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về làng

nghề truyền thống cho cơ quan chuyên môn ở cấp tỉnh, cấp huyện theo quy

định của văn bản cấp trên. Tăng cường hiệu lực quản lý, tập trung một đầu

75

mối về hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề.

Hiện nay, UBND tỉnh quy định Sở NN&PTNT quản lý các hộ, cá nhân

của làng nghề; Sở Công thương quản lý doanh nghiệp ở nông thôn trong đó

có làng nghề; ngoài ra, còn có các sở ngành khác tham gia phối hợp quản lý,

điều này dẫn đến hiệu quả hoạt động của các làng nghề chưa cao. Đồng thời,

trong thực tế khi có vấn đề cần giải quyết nhưng vì có nhiều cơ quan cùng

tham gia trong bộ máy tổ chức quản lý nên thường đùn đẩy trách nhiệm trong

quản lý, giải quyết không nhanh gọn các vấn đề phát sinh trong quá trình sản

xuất, kinh doanh của các làng nghề truyền thống. Để tránh tình trạng phân tán

như hiện nay, thống nhất đầu mối quản lý; cụ thể như sau:

Ở cấp tỉnh thành lập Ban quản lý làng nghề, làng nghề truyền thống trên

địa bàn tỉnh, trực thuộc UBND tỉnh, là cơ quan đầu mối ở tỉnh tham mưu UBND

tỉnh trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề, làng nghề truyền thống.

Ban quản lý làng nghề có toàn quyền quyết định các vấn về quản lý nhà nước

đối với làng nghề, làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh; trong những trường

hợp cần thiết, Ban quản lý làng nghề chủ trì và phối hợp với các sở, ban, ngành

chức năng của tỉnh để giải quyết vấn đề.

Ví dụ những vấn đề có tính phối hợp tham gia của nhiều cơ quan quản lý

chuyên sâu như về xây dựng nhãn hiệu, xúc tiến thương mại, xử lý ô nhiễm môi

trường, xây dựng liên kết tạo chuỗi sản phẩm làng nghề,...

Ở cấp huyện tập trung về đầu mối quản lý là giao Phòng Nông nghiệp

và Phát triển Nông thôn/Phòng Kinh tế tham mưu, giúp UBND cấp huyện

thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương về ngành nghề, làng nghề

ở nông thôn, theo quy định tại Thông tư liên bộ số 14/2015/TTLB-

BNNPTNT-BNV ngày 25/3/2015 của Liên Bộ: Bộ Nông nghiệp và PTNT và

Bộ Nội vụ; đồng thời, Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn/Phòng

Kinh tế chịu sự quản lý của Ban quản lý làng nghề về hoạt động quản lý nhà

76

nước đối với làng nghề truyền thống của địa phương.

Ở cấp xã, tăng cường và phát huy vai trò của UBND cấp xã trong hoạt

động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, đẩy mạnh việc tuyên

truyền về giá trị của sản phẩm làng nghề, bảo vệ môi trường làng nghề, góp

phần thúc đẩy làng nghề phát triển một cách bền vững. Bộ phận tham mưu

giúp việc cho UBND cấp xã trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống là Ban Nông nghiệp xã.

Thứ hai, cần tăng cường sự phối hợp, chỉ đạo điều hành trong hoạt

động quản lý nhà nước giữa cấp tỉnh và các địa phương trong tỉnh

Để nắm bắt kịp thời thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước đối với

làng nghề truyền thống giữa các cấp quản lý cần có quy định về công tác báo

cáo định kỳ của các cơ quan tham mưu ở cấp huyện, xã về hoạt động quản lý

làng nghề truyền thống ở địa phương đối với cơ quan quản lý nhà nước về

làng nghề truyền thống ở cấp tỉnh (Ban quản lý làng nghề) và ngược lại là sự

chỉ đạo thường xuyên, xuyên suốt của cơ quan cấp tỉnh đối với các cơ quan

quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ở cấp huyện, cấp xã.

Từ việc đề xuất mô hình quản lý như đã nêu trên, chúng tôi mô phỏng

lại sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống của tỉnh Quảng Nam. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý được thể hiện ở

UBND tỉnh

Ban Quản lý làng nghề

UBND huyện

Phòng NN&PTNT/ Kinh tế

UBND xã

Ban Nông nghiệp

77

sơ đồ 2.

Sơ đồ 2. Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng

nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (theo mô hình mới)

Bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

thực hiện theo mô hình trên sẽ tinh gọn, quy về một đầu mối quản lý và tăng

tính trách nhiệm, tránh được tình trạng đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau trong

hoạt động thực thi công vụ ở từng bộ phận, từng cấp tham mưu trong hoạt

động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống. Ở cấp tỉnh bộ phận

tham mưu giúp việc là Ban quản lý làng nghề, ở cấp huyện là phòng

NN&PTNT/Kinh tế và ở cấp xã là Ban Nông nghiệp xã.

Thứ ba, UBND các huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh nghiên cứu,

đưa nội dung phát triển làng nghề truyền thống vào Nghị quyết chuyên đề của

cấp ủy, chính quyền địa phương để chỉ đạo phát triển làng nghề truyền thống

gắn với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

- Thứ tư, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước đối với

làng nghề truyền thống của UBND cấp xã, xem đây là một trong các nội dung

quan trọng của Đề án phát triển sản xuất, tăng thu nhập của cư dân nông thôn,

khi thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới.

Tăng cường hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

trong điều kiện hiện nay cần sự trực tiếp chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính

quyền địa phương.

UBND cấp xã cần theo dõi và nắm chắc tình hình sản xuất, kinh doanh

của các hộ, các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống, tăng cường

công tác kiểm tra, kiểm soát để báo cáo các cơ quan quản lý nhà nước cấp

trên nhằm đưa ra các quyết định đúng đắn, có tính khả thi cao trong hoạt động

78

quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

3.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam

Để đảm bảo nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước đối với

làng nghề truyền thống, cần tập trung vào các giải pháp sau:

- Nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống chưa chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, cán bộ quản lý nhà

nước đối với làng nghề truyền thống ở các địa phương chủ yếu là kiêm nhiệm,

thường biến động về tổ chức nên việc tiếp cận, bám sát nội dung hoạt động

quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống bị hạn chế. Vì vậy, cần bố trí cán

bộ chuyên trách tại UBND các huyện, thị xã, thành phố thực hiện chức năng

quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, nhằm đảm bảo sự ổn định

và nâng cao năng lực quản lý của cán bộ chuyên trách. Để thể hiện được tính

chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa thì trước hết trong công tác bố trí cán bộ

phải bố trí đúng ngành nghề khi tuyển dụng, trong quá trình công tác cần phát

huy năng lực của cán bộ để đào tạo nâng cao tay nghề mang tính chuyên

nghiệp; ví dụ như cán bộ chuyên về lĩnh vực báo cáo viên, tuyên truyền –

hướng dẫn phổ biến các văn bản, chính sách của nhà nước, cán bộ chuyên về

hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo kỹ năng tiếp thị, quảng bá, tìm kiếm mở rộng thị

trường,…

- Cần có kế hoạch cụ thể, định kỳ trong việc đào tạo nâng cao kỹ năng

quản lý nhà nước cho các cán bộ tham gia công tác quản lý nhà nước về làng

nghề truyền thống tại các địa phương.

+ Quy định ít nhất một năm hai lần tổ chức tập huấn cho cán bộ quản lý

nhà nước đối với làng nghề truyền thống từ cấp huyện đến cấp xã, có thể tập

huấn thông qua hình thức trực tuyến hoặc giới thiệu trực tiếp.

+ Trong các chương trình đào tạo kỹ năng quản lý làng nghề truyền

79

thống cần phải dựa vào các giáo trình, đi từ lý thuyết đến thực hành, khắc phục

tình trạng việc đào tạo không có giáo trình, chủ yếu được biên soạn theo kinh

nghiệm sẽ không đảm bảo tính khoa học, logic và thiếu hẳn phần lý thuyết.

+ Việc phổ biến các thông tin, kỹ năng quản lý có thể dưới hình thức văn

bản hướng dẫn hoặc phổ biến trên các tạp chí chuyên ngành để cán bộ quản lý

dễ tiếp cận và tìm hiểu.

- Cần có chế độ ưu đãi để thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, các

nghệ nhân, thợ giỏi tham gia vào phát triển ngành nghề, làng nghề. Ví dụ như

tham mưu ban hành các chính sách thu hút nhân tài tham gia trong hoạt động

quản lý nhà nước đối với làng nghề; như hỗ trợ các chế độ đãi ngộ về tiền

thưởng, bố trí chỗ ở cho cán bộ,...

- Đào tạo và xây dựng mạng lưới Ban quản lý làng nghề ở các

xã/phường (là thanh viên Ban Nông nghiệp của xã/phường), đây là lực lượng

nòng cốt để đề xuất, xây dựng và trực tiếp triển khai thực hiện các chương

trình phát triển làng nghề truyền thống nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động

quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ở địa phương.

- Cần có cơ chế khuyến khích hỗ trợ nghệ nhân, thợ giỏi truyền nghề và

tăng cường việc giao lưu học hỏi kinh nghiệm giữa các làng nghề có cùng

nhóm nghề.

+ Duy trì việc tổ chức các hoạt động phong tặng, tôn vinh các danh

hiệu nghệ nhân, thợ giỏi cho các làng nghề truyền thống. Có chính sách trợ

giúp chi phí tổ chức lớp học đào tạo nghề tại các làng nghề để khuyến khích

các nghệ nhân mở lớp truyền nghề, truyền bí quyết, người thiết kế mẫu sản

phẩm trong các làng nghề truyền thống.

+ Tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích và giúp đỡ nghệ nhân lao

động sáng tạo, tham gia nghiên cứu, truyền dạy nghề cho lớp trẻ: Các nghệ

80

nhân, thợ giỏi được tổ chức truyền nghề trực tiếp và được thu tiền của học

viên theo nguyên tắc thỏa thuận, được miễn các loại thuế trọng hoạt động

truyền, dạy nghề.

+ Hằng năm, cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

cần tổ chức các hoạt động như tham quan, học tập kinh nghiệm tại các mô

hình làng nghề phát triển cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh của các làng

nghề.

- Tập trung làm tốt công tác đào tạo nghề phi nông nghiệp cho lao động

ở các làng nghề; nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách hỗ trợ về đóng

bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn cho người lao động tại các

làng nghề.

- Thực hiện hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại các làng

nghề theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”;

Nghị quyết số 12/2016/NQ-HĐND ngày 19/7/2016 của HĐND tỉnh về cơ chế

hỗ trợ đào tạo lao động cho chương trình, dự án trọng điểm và các doanh

nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020 và các văn bản có liên quan.

3.2.4. Chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền thống

Để phát triển các làng nghề truyền thống, các doanh nghiệp, hợp tác xã,

tổ hợp tác và các hộ gia đình đơn lẻ tham gia sản xuất, kinh doanh tại các làng

nghề không thể thực hiện hiệu quả nếu không có vai trò quản lý Nhà nước

trong việc định hướng, hỗ trợ cho các làng nghề truyền thống và thông qua

công cụ chủ yếu là các chính sách. Một số giải pháp về xây dựng cơ chế,

chính sách cụ thể cần phải thực hiện để phát triển làng nghề truyền thống tại

địa phương:

Thứ nhất, cần tạo mọi điều kiện để huy động các nguồn vốn trong nước

và nguồn vốn nước ngoài để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các cơ

81

sở sản xuất, kinh doanh tại làng nghề truyền thống.

Có nguồn kinh phí ngân sách hỗ trợ bù lãi suất chênh lệch nhằm thu hút

các nhà đầu tư sản xuất, kinh doanh vào các làng nghề truyền thống.

Có sự hỗ trợ cần thiết khi làng nghề truyền thống có các dự án, hợp

đồng lớn như mở rộng thị trường xuất khẩu, mở rộng cơ sở sản xuất,… cần có

nhu cầu về vốn lớn.

Ưu tiên cho các đối tượng làng nghề truyền thống vay vốn ưu đãi, với

thủ tục đơn giản, lãi suất vay phù hợp với đặc điểm sản xuất ngành nghề từ

các chương trình của tỉnh thông qua các quỹ như ngân hàng Chính sách xã hội

tỉnh, Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ,...

Có vốn, các cơ sở sản xuất mới có thể đầu tư máy móc mới, áp dụng

công nghệ hiện đại ở những khâu sản xuất cần thiết có sự phụ trợ của máy

móc, thiết bị cũng như mở rộng quy mô sản xuất. Vì vậy, Nhà nước cần có

chính sách thông thoáng để các cơ sở sản xuất có tiềm năng phát triển nhưng

thiếu vốn dễ tiếp cận nguồn vốn như có cơ chế cho vay ưu đãi, ưu đãi thuế.

Thứ hai, cần có chính sách phát triển các làng nghề truyền thống sản

xuất ra sản phẩm mang hiệu quả kinh doanh cao, có thị trường xuất khẩu như

nghề mộc, đồ đồng, thực phẩm,… Để khuyến khích làng nghề phát triển cần có

chính sách miễn, giảm thuế thuê đất mở rộng sản xuất, thuế thu nhập doanh

nghiệp, thuế tài nguyên và các loại thuế có liên quan khác theo quy định.

Cùng với vốn, mặt bằng sản xuất cũng đang là một khó khăn mà các

làng nghề truyền thống muốn mở rộng quy mô sản xuất đang gặp phải. Vì

vậy, Nhà nước cùng cần có cơ chế, chính sách thông thoáng, ưu tiên việc giao

đất, ký hợp đồng cho thuê đất cho các cơ sở sản xuất trong các làng nghề

truyền thống.

Thứ ba, bên cạnh việc hỗ trợ về vốn, mặt bằng sản xuất thì việc tạo

điều kiện cho các làng nghề tiếp cận được các thông tin về công nghệ, khoa

82

học - kỹ thuật, thị trường để xây dựng chiến lược xuất khẩu hàng hóa hiệu quả

đáp ứng yêu cầu của thị trường là hết sức ý nghĩa. Vì vậy, cần có cơ chế cung

cấp thông tin cần thiết cho nghệ nhân, chủ sản xuất,… trong các làng nghề

truyền thống, hỗ trợ khả năng, kỹ năng khai thác và xử lý thông tin cho các

làng nghề, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các làng nghề tham gia hội chợ, triển

lãm, hội thảo… để họ tự tiếp cận thông tin.

Thứ tư, cần tăng cường và thực hiện hiệu quả chương trình năng suất

chất lượng trên địa bàn tỉnh, thông qua chương trình có các chính sách hỗ trợ

về tài chính để các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong làng nghề thực hiện đổi

mới công nghệ, thực hiện các công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường và các

công nghệ xử lý môi trường.

Thứ năm, tạo mọi điều kiện cho các cá nhân, tổ chức tư nhân được

tham gia và hưởng lợi từ những chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học

công nghệ liên quan đến phát triển làng nghề truyền thống do nhà nước tài

trợ.

Thứ sáu, cần đẩy mạnh cơ chế hỗ trợ việc tạo lập và quản lý phát triển

quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm của làng nghề truyền thống.

Nhìn chung, vấn đề xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề

truyền thống vẫn chưa được chính quyền địa phương và các cơ sở sản xuất tại

các làng nghề truyền thống quan tâm đúng mức, chưa chủ động, tích cực trong

việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc

khai thác thị trường và tạo lòng tin cho người tiêu dùng đối với các sản phẩm

làng nghề truyền thống. Trong quá trình hội nhập, vấn đề xây dựng thương

hiệu trở nên rất cần thiết, đó là điều kiện để sản phẩm làng nghề truyền thống

có thể vươn xa hơn, tránh bị sao chép và cạnh tranh không lành mạnh. Để thực

hiện được nội dung này, cần triển khai các giải pháp cụ thể sau:

- Tăng cường hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức cho chính

83

quyền địa phương, chủ các cơ sở sản xuất kinh doanh và người lao động tại

các làng nghề truyền thống về vai trò của thương hiệu trong việc phát triển

sản phẩm. Việc tập huấn, tuyên truyền cần phải thực hiện theo phương châm

thiết thực, dễ hiểu, gắn sát với đối tượng và thực tế tại làng nghề.

- Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước trong quá trình tạo lập, quảng bá

và phát triển thương hiệu các làng nghề truyền thống, như: khuyến khích, tạo

điều kiện thuận lợi cho làng nghề truyền thống đầu tư vào xây dựng thương

hiệu, đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong việc lập hồ sơ tạo lập thương

hiệu, tạo điều kiện và hướng dẫn làng nghề truyền thống tạo lập thương hiệu

một cách nhanh chóng; hỗ trợ trong đào tạo, huấn luyện, cung cấp thông tin,

tư vấn cho làng nghề truyền thống xây dựng thương hiệu.

- Rà soát lại các sản phẩm làng nghề đã được UBND tỉnh công nhận

nhưng chưa đăng ký quyền sở hữu công nghiệp cho sản phẩm và cả những

sản phẩm đã được đăng ký nhưng chưa biết cách quản lý và phát triển để xây

dựng kế hoạch tạo lập và quản lý phát triển thương hiệu đối với các sản phẩm

có tiềm năng phát triển. Bên cạnh đó, tiến hành lên kế hoạch tạo lập quyền sở

hữu công nghiệp cho những sản phẩm làng nghề truyền thống chưa được

UBND tỉnh công nhận nhưng có chiều hướng phát triển tốt.

- UBND tỉnh cần quan tâm bố trí kinh phí để triển khai Kế hoạch số

5308/KH-UBND ngày 26/10/2016 của UBND tỉnh về “Tạo lập, quản lý và

phát triển quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm đặc trưng, sản phẩm

làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016 – 2020”. Kế hoạch

thực hiện là một trong những giải pháp để tạo lập, quản lý và phát triển

thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề truyền thống.

3.2.5. Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra làng nghề truyền thống

trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề

Thanh tra, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý nhà

84

nước, được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Hoạt động

thanh tra, kiểm tra nếu được diễn ra đúng quy định và thường xuyên theo định kỳ

hoặc đột xuất khi cần thiết sẽ giúp cho làng nghề truyền thống phát triển bền

vững. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra làng nghề

truyền thống trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề cần thực hiện

các giải pháp sau:

Thứ nhất, thực hiện nghiêm túc việc thanh tra, kiểm tra trong hoạt động

sản xuất, kinh doanh của các cơ sở tại làng nghề truyền thống theo đúng quy

định của pháp luật, đẩy mạnh việc giáo dục ý thức pháp luật cho người dân,

khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của

pháp luật về sản xuất, kinh doanh và tổ chức sản xuất, kinh doanh.

Thứ hai, đối với cơ quan quản lý nhà nước về làng nghề ở cấp tỉnh cần

có kế hoạch thanh tra, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với từng làng nghề

truyền thống, qua đó để nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh của từng làng

nghề truyền thống để có định hướng trong quy hoạch, phát triển các làng nghề

của tỉnh.

Thứ ba, đối với Phòng chuyên môn cấp huyện có chức năng quản lý

nhà nước về làng nghề truyền thống cần phối hợp với UBND xã, phường có

làng nghề truyền thống điều tra khảo sát, nắm thông tin về tình hình hình hoạt

động tại làng nghề và báo cáo Ban quản lý làng nghề tổng hợp, báo cáo tham

mưu UBND tỉnh theo dõi, chỉ đạo, theo định kỳ, hằng quý, 6 tháng, 1 năm

hoặc đột xuất.

Thứ tư, nâng cao vai trò, chức năng, nhiệm vụ quản lý của cấp xã,

thường xuyên kiểm tra, kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh

nghiệp, các đơn vị sản xuất nhằm uốn nắn kịp thời những mặt yếu kém, lệch

lạc và có hình thức xử lý thích đáng đối với các cơ sở vi phạm pháp luật.

Thứ năm, trong hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề

85

truyền thống cần tăng cường thanh tra, kiểm tra công tác bảo vệ môi trường,

trong đó tập trung vào những loại hình hoạt động của các làng nghề có nguy

cơ gây ô nhiễm môi trường cao, khu vực môi trường nhạy cảm; xử lý nghiêm

các vi phạm về bảo vệ môi trường.

Thứ sáu, cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống cần

có kế hoạch phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực

thẩm, về môi trường tại địa phương trong hoạt động thanh tra, kiểm tra về

việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đảm bảo an toàn về môi trường,... để

tránh tình trạng kiểm tra chồng chéo, gây phiền hà, cản trở sản xuất kinh

doanh, góp phần cho các làng nghề truyền thống được phát triển bền vững.

Thực hiện tốt hoạt động thanh tra, kiểm tra sẽ kịp thời cung cấp các

thông tin về những tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, cung cấp kịp thời thông tin

ban đầu về thị trường cho các làng nghề, từ đó sẽ tạo điện kiện cho các làng

nghề nắm bắt các thông tin thị trường để có những định hướng, thay đổi hợp

lý trong quá trình sản xuất, kinh doanh.

3.2.6. Xã hội hóa, hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý, phát triển làng

nghề truyền thống

Thứ nhất, tuyên truyền nâng cao nhận thức, tư tưởng của cán bộ cơ sở

và người lao động tại các làng nghề truyền thống về vai trò, ý nghĩa kinh tế -

xã hội quan trọng của làng nghề truyền thống đối với sự nghiệp CNH, HĐH ở

nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, nhằm kêu gọi sự tham gia

của nhân dân vào hoạt động quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của

địa phương.

- Kêu gọi sự tham gia và đóng góp của người dân vào việc xây dựng và

phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho làng nghề truyền thống của địa

phương: Tham gia phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn, phát triển

86

mạng lưới cung cấp điện, phát triển hệ thống thông tin liên lạc,... ngoài sự hỗ

trợ chủ lực của nhà nước, cần huy động đóng góp trực tiếp, tại chỗ của dân cư

và các cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền thống.

- Cùng với việc gia tăng phát triển cả về số lượng làng nghề và loại

ngành nghề, ô nhiễm môi trường càng gia tăng, để đảm bảo vấn đề đảm bảo

an toàn môi trường tại các làng nghề thì ngoài những chính sách của nhà nước

như công tác quy hoạch, sản xuất sạch hơn, cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản

xuất,... thì rất cần sự tham gia huy động của cộng đồng đóng góp nguồn lực

cho công tác bảo vệ môi trường. Phát triển phong trào quần chúng tham gia

bảo vệ môi trường phải tác động trực tiếp đến nhận thức của người dân các

làng nghề truyền thống. Qua đó tuyên truyền, vận động và huy động sự tham

gia của toàn thể cộng đồng vào hoạt động bảo vệ môi trường. Dựa trên ý chí,

nguyện vọng, sự tự nguyện thỏa thuận và cũng là những quy tắc xử sự chung

trong việc xây dựng và thực hiện quy ước, cam kết về bảo vệ môi trường

trong các làng nghề truyền thống.

Thứ hai, cần đẩy mạnh “xã hội hóa” trong công tác đào tạo nghề, bên

cạnh hệ thống trường lớp, các cơ sở công lập cần thu hút các tổ chức xã hội,

hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp, các nghệ nhân tại các làng nghề truyền

thống tham gia vào việc dạy nghề; tổ chức những lớp dạy nghề ngay tại mỗi

làng nghề, học viên là lao động trong làng, thầy dạy là những nghệ nhân, thợ

giỏi.

Thứ ba, tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế như UNESCO,

JICA, ILO,... nhằm hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho làng nghề truyền thống,

hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, mở rộng các kênh bán hàng, mở rộng thị

87

trường tiêu thụ sản phẩm.

3.3. Kiến nghị

3.3.1 Kiến nghị với Trung ương

- Chính phủ sớm ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định

66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề

nông thôn, trên cơ sở đó địa phương ban hành cơ chế, chính sách về ngành

nghề, làng nghề nông thôn phù hợp với Nghị định của Chính phủ.

- Hiện nay, đa phần cán bộ quản lý nhà nước về ngành nghề nông thôn

nói chung và làng nghề nói riêng còn rất lúng túng và chưa chuyên sâu, vì

vậy, kiến nghị Chính phủ ban hành sổ tay hướng dẫn quản lý nhà nước về

ngành nghề nông thôn, làng nghề nông thôn.

- Chính phủ xây dựng cơ chế huy động mọi nguồn vốn, tăng cường hỗ

trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước cho hoạt động xúc tiến thương mại, đào

tạo, bồi dưỡng, đổi mới ứng dụng khoa học công nghệ và phát triển sản xuất,

cải tạo, xử lý môi trường tại các làng nghề truyền thống.

- Chính phủ xây dựng cơ chế nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước

ngoài, các tổ chức phi Chính phủ đầu tư vào lĩnh vực phát triển liên quan đến

- Việc quản lý nhà nước đối với các làng nghề truyền thống còn phân

làng nghề truyền thống.

tán, chồng chéo: Chính phủ quy định Bộ NN&PTNT quản lý các hộ, cá nhân

ở nông thôn; Bộ Công thương quản lý doanh nghiệp ở nông thôn, nhưng mỗi

tỉnh lại phân công khác nhau dẫn đến phân tán, chồng chéo,…điều này khiến

hiệu quả hoạt động của các làng nghề chưa cao. Để tránh phân tán như hiện

nay, kiến nghị Chính phủ thống nhất đầu mối quản lý.

3.3.2 Kiến nghị với địa phương

- Thực hiện khảo sát, lập quy hoạch tổng thể cho các làng nghề truyền

88

thống trên cả tỉnh, tránh lập quy hoạch ngắn hạn, tự phát, thiếu đồng bộ.

- Quy hoạch, cải tạo vùng nguyên liệu cho một số làng nghề truyền

thống: Vùng nguyên liệu đất sét cho làng nghề gốm Thanh Hà, vùng nguyên

liệu cói lát cho các làng nghề đan lát,....

- Tăng cường sự chỉ đạo quản lý Nhà nước của UBND tỉnh và UBND

huyện đối với làng nghề truyền thống, đặc biệt bổ sung cán bộ chuyên trách và

tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở sản xuất, kinh

doanh tại các làng nghề truyền thống để cung cấp và nắm bắt kịp thời các thông

tin phục vụ, hỗ trợ cho làng nghề phát triển.

- Xây dựng chuyên trang làng nghề tại cổng thông tin điện tử của tỉnh để

quảng bá, giới thiệu về các làng nghề truyền thống của tỉnh.

- Tăng nguồn kinh phí khuyến nông, khuyến công hằng năm để hỗ trợ

cho các đối tượng tại làng nghề với các nội dung hỗ trợ như: Xây dựng sản

phẩm nông nghiệp an toàn theo chuỗi giá trị; xây dựng thương hiệu, đăng ký

nhãn hiệu; mua sắm trang thiết bị; tham quan học tập,…

- Xây dựng các mô hình điểm về xử lý môi trường làng nghề; sửa chữa,

nâng cấp hệ thống xử lý ô nhiễm tại cơ sở ngành nghề tại làng nghề; xây dựng

hệ thống xử lý nước thải làng nghề; xây dựng hệ thống thu gom, phân loại

chất thải rắn.

- Đề nghị UBND huyện/thị xã/thành phố ban hành Quyết định quy định

chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của phòng

NN&PTNT/Kinh tế theo quy định tại Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT –

BNNPTNT –BNV của Bộ NN&PTNT và Bộ Nội vụ; trong đó có quy định

chức năng tham mưu quản lý nhà nước về ngành nghề, làng nghề nông thôn.

Đồng thời, chỉ đạo việc bàn giao chức năng quản lý nhà nước về ngành nghề,

làng nghề nông thôn từ Phòng Kinh tế Hạ tầng về cho phòng

89

NN&PTNT/Kinh tế để đảm bảo thống nhất trong quản lý.

Tiểu kết chương 3

Việc phát triển các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh đã góp

phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập, tạo việc làm cho lao động

nông nhàn, cải thiện và nâng cao đời sống nông thôn, góp phần giảm nghèo.

Đồng thời, các làng nghề truyền thống đã tận dụng được nguồn nguyên liệu

tại chỗ, dư thừa của địa phương để tạo ra hàng hóa có giá trị kinh tế. Đồng

thời, giá trị làng nghề truyền thống không chỉ ở việc tạo ra việc làm, những

giá trị kinh tế, mà cao hơn là sản phẩm làng nghề truyền thống gắn với những

giá trị của người Việt từ văn hóa như ăn, mặc, ở, sản xuất, hoạt động văn hóa

nghệ thuật,... Việc gìn giữ giá trị của văn hóa làng nghề truyền thống là giữ lại

những giá trị văn hóa của cả dân tộc. Do đó, tăng cường hoạt động quản lý

nhà nước đối với làng nghề truyền thống là rất quan trọng; điều này trong

quan điểm của Đảng đã nêu rõ; cụ thể quan điểm của Đảng bộ tỉnh Quảng

Nam đã khẳng định:

Thứ nhất, quản lý phát triển làng nghề truyền thống là một bộ phận

trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và tuân thủ chặt chẽ quy

hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

Thứ hai, bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống gắn với Chương

trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; khai thác các tiềm năng lợi

thế của địa phương, tạo ra những sản phẩm đặc trưng, mang dấu ấn, thương

hiệu của làng nghề Quảng Nam.

Thứ ba, phát triển làng nghề phải trên cơ sở phát triển hài hòa giữa sản

xuất hàng hóa với bảo vệ môi trường và gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa

truyền thống của địa phương.

Thứ tư, “Cần cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị

90

gia tăng và phát triển bền vững; thúc đẩy phát triển làng nghề truyền thống”.

Dựa trên những quan điểm của Đảng và thực trạng hoạt động quản lý

nhà nước đối với làng nghề truyền thống, luận văn đã đề xuất một số giải

pháp để nâng cao hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống

tỉnh, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao hơn cần phải thực hiện theo các quan

điểm và đồng bộ các giải pháp từ hoạt động tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực

đến việc thực hiện, hướng dẫn và ban hành các văn bản, chính sách để quản lý

và phát triển làng nghề truyền thống, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI, nhiệm kỳ

91

2015 – 2020.

KẾT LUẬN

Các làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam được hình thành, xây

dựng và phát triển từ rất lâu, là nét đẹp văn hóa tạo ra đặc trưng cho bản sắc

dân tộc của địa phương. Trong thời gian qua, làng nghề truyền thống đã có

những đóng góp tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tăng thêm thu

nhập, cải thiện đời sống cho lao động nông thôn; góp phần quan trọng trong

tiến trình xây dựng nông thôn mới; giữ gìn nét văn hóa truyền thống đặc sắc

của mỗi miền quê xứ Quảng. Do đó, các làng nghề truyền thống cần được sự

quan tâm, tạo điệu kiện thuận lợi từ phía Nhà nước, địa phương và sự nổ lực tự

vươn lên của mỗi làng nghề để các làng nghề ngày càng được phát triển hơn.

Từ những vấn đề đã nêu, luận văn đã giải quyết được những vấn đề sau:

Thứ nhất, luận văn đã hệ thống hóa được tình hình nghiên cứu về làng

nghề, làng nghề truyền thống để tìm hiểu và kế thừa những kết quả nghiên

cứu, đồng thời tiếp tục đi sâu nghiên cứu về hoạt động quản lý nhà nước đối

với làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam.

Thứ hai, trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những kết quả nghiên cứu đã

được các nhà khoa học nghiên cứu, các nhà quản lý đưa ra, luận văn đã hệ

thống hóa một số khái niệm liên quan đến quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống, tìm ra sự cần thiết phải quản lý và các yếu tố ảnh hưởng đến

hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.

Thứ ba, từ việc nghiên cứu những kinh nghiệm về quản lý và phát triển

làng nghề, làng nghề truyền thống của một số địa phương khác, luận văn đã

rút ra được những bài học kinh nghiệm có giá trị cho hoạt động quản lý và

phát triển làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam.

Thứ tư, trên cơ sở thu thập, tổng hợp số liệu, tài liệu và xử lý số liệu,

luận văn đã phân tích được thực trạng của làng nghề truyền thống trên địa bàn

tỉnh Quảng Nam và hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

92

thống của tỉnh từ năm 2011 đến 2016. Từ đó, luận văn đã chỉ rõ những yếu tố

thuận lợi, những hạn chế và nguyên nhân của những yếu tố thuận lợi, những

hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống của

tỉnh Quảng Nam.

Thứ năm, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng về hoạt

động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh

Quảng Nam, luận văn đã đưa ra những giải pháp để tiếp tục quản lý làng nghề

truyền thống của tỉnh Quảng trong thời gian đến. Cụ thể gồm các giải pháp

sau:

- Nâng cao hiệu quả việc ban hành, hướng dẫn và tổ chức triển khai

thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường

trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống;

- Kiện toàn tổ chức bộ máy trong quản lý nhà nước đối với làng nghề

truyền thống tỉnh Quảng Nam;

- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước

đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam;

- Tăng cường chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền thống;

- Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra làng nghề truyền thống trong

hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề;

- Xã hội hóa, hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý, phát triển làng

nghề truyền thống.

Em mong rằng kết quả nghiên cứu của Luận văn được chính quyền tỉnh

Quảng Nam và các địa phương có điều kiện tương đồng với tỉnh Quảng Nam

tham khảo và áp dụng vào thực tế trong hoạt động quản lý nhà nước đối với

93

làng nghề truyền thống./.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 1. Hà Thị Ánh Tuyết (2010) Ứng dụng công nghệ vi sinh để sản xuất

phân hữu cơ vi sinh phục vụ sản xuất nông nghiệp an toàn tại Quảng

Nam, Dự án Khoa học công nghệ cấp Bộ, chủ nhiệm dự án.

2. Hà Thị Ánh Tuyết (2013), Xây dựng chỉ dẫn địa lý Ngọc Linh cho sản

phẩm sâm củ của hai tỉnh Quảng Nam và KonTum, dự án khoa học cấp

Bộ, thành viên thư ký dự án.

3. Hà Thị Ánh Tuyết (2014), Quản lý và phát triển nhãn hiệu tập thể cho

một số sản phẩm đặc trưng của tỉnh Quảng Nam, đề tài khoa học cấp

tỉnh, chủ nhiệm đề tài.

4. Hà Thị Ánh Tuyết (2014), Quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý Trà My

cho sản phẩm quế vỏ, dự án khoa học cấp Bộ, thành viên dự án.

5. Hà Thị Ánh Tuyết (2017), Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền

thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Tạp chí Khoa học và Sáng tạo tỉnh

Quảng Nam (167-168).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2006), Thông tư 116/2006/TT-

BNN hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số

66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành

nghề nông thôn, Hà Nội.

2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, UBND tỉnh Nam Định (2012),

Hội thảo phát triển làng nghề gắn với du lịch, Nam Định.

3. Cục thống kê tỉnh Quảng Nam (2015), Niên giám thống kê 2015, Nxb

Thống kê, Quảng Nam.

4. Ngô Thành Can, Nguyễn Thị Ngọc Lan (2016), Tổ chức hành chính nhà

nước lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

5. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh

lần thứ XXI, Nxb , Quảng Nam.

6. Nguyễn Hữu Hải (2014), Quản lý học đại cương, Nxb Chính trị Quốc gia

– Sự thật, Hà Nội.

7. Nguyễn Hữu Hải (2016), Chính sách công, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự

thật, Hà Nội,

8. Vũ Ngọc Hoàng (2016), Làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định trong hội

nhập Quốc tế, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, HàNội.

9. Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa (2015), Mỗi làng nghề truyền thống, một

nét đẹp riêng của người xứ Thanh, Công thông tin điện tử Hội Nông

dân tỉnh Thanh Hóa, Thanh Hóa.

10. Luật Thanh tra (2011), Nxb Tư pháp, Hà Nội.

11. Nguyễn Tấn Nhan, Phú Văn Hẳn (2013), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ

điển Bách khoa, Hà Nội.

12. Nguyễn Thị Kim Ngân (2015), Quản lý nhà nước về phát triển làng nghề

truyền thống trên địa bàn huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội, Luận

văn thạc sỹ quản lý kinh tế, Hà Nội.

13. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam (2016), Báo cáo kết

quả khảo sát thực trạng làng nghề, làng nghề truyền thống được

công nhận trên địa bàn tỉnh và đề xuất những giải pháp đẩy mạnh

trong thời gian đến, Quảng Nam.

14. Sở Công thương tỉnh Quảng Nam (2016), Báo cáo tình hình hỗ trợ sản

xuất tiểu thủ công nghiệp làng nghề năm 2015, Quảng Nam.

15. Sở Công thương tỉnh Quảng Nam (2016), Báo cáo tình hình phát triển

Tiểu thủ công nghiệp năm 2016, Quảng Nam.

16. Nguyễn Thanh Tài (2012), Phát huy vai trò của làng nghề trong sự

nghiệp xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Nam, Đề tài khoa học

cấp tỉnh, Liên minh HTX tỉnh Quảng Nam chủ trì, Quảng Nam.

17. Ngô Thành Trung (2014), Quản lý nhà nước đối với các làng nghề trên

địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.

18. Trần Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Hải (2015), Quản lý công, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

19. Tỉnh Hà Giang (2016), Tình hình phát triển và hiệu quả hoạt động của

các làng nghề, làng nghề truyền thống sau khi được công nhận,

Công thông tin điện tử tỉnh Hà Giang, Hà Giang.

20. Tỉnh ủy Quảng Nam (2016), Nghị quyết số 17/2016/NQ-HĐND ngày

19/7/2016 của HĐND tỉnh về Chiến lược phát triển khoa học và công

nghệ tỉnh Quảng Nam đến năm 2025, tầm nhìn 2030, Quảng Nam.

21. Từ điển Tiếng Việt.

22. UBND tỉnh Quảng Nam (2013), Kỷ yếu Hội thảo giải pháp phát triển kinh

tế làng nghề gắn với phát triển du lịch tỉnh Quảng Nam, Quảng Nam.

23. UBND tỉnh Quảng Nam (2016), Kết quả 5 năm thực hiện Chương trình

mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2015;

mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện giai đoạn 2016 - 2020 tỉnh

Quảng Nam, Quảng Nam.

PHỤ LỤC

1. Danh sách các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

2. Các làng nghề, làng nghề truyền thống được phân bố theo các huyện, thị

xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (tính đến năm 2016).

3. Số lao động tại các làng nghề truyền thống được UBND tỉnh Quảng

Nam công nhận.

4. Thống kế số hộ sản xuất tại các làng nghề truyền thốngđược UBND tỉnh

Quảng Nam công nhận.

5. Danh sách các làng nghề, làng nghề truyền thống đã đăng ký xác lập

quyền sở hữu công nghiệp.

6. Mẫu phiếu điều tra.

7. Hình ảnh một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Quảng Nam.

Tên làng nghề/địa điểm

Xu hướng phát triển

TT

Thị trường/khả năng tiêu thụ sản phẩm

Vấn đề xử lý môi trường tại các làng nghề

Phát triển làng nghề có gắn với hoạt động phát triển du lịch

Thành phố Hội An

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

1

Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không:

Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

2

Tốt : Không tốt:

3

Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

4

Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

Làng nghề truyền thống mộc Kim Bồng Đ/c: Thôn Trung Hà, xã Cẩm Kim Làng nghề truyền thống Gốm Thanh Hà Đ/c: Thôn Nam Diệu, xã Thanh Hà Làng nghề truyền thống rau trà Quế Đ/c: Thôn Trà Quế, xã Cẩm Hà Làng nghề truyền thống tre dừa Đ/c: Thôn Trung Hà, xã Cẩm Kim

Huyện Duy Xuyên

5

6

7

8

Làng nghề Tơ lụa Mã Châu, thị trấn Nam Phước Làng nghề Dệt vải Phú Bông-Thi Lai, xã Duy Trinh Làng nghề Dệt Chiếu Bàn Thạch, xã Duy Vinh Làng nghề Dệt chiếu An Phước, xã Duy Phước

Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:

Phụ lục 1. Danh sách các làng nghề truyền thống trên địa bàn Quảng Nam

9

Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

Làng nghề chế biến hải sản An Lương, xã Duy Hải

10

Huyện Nông Sơn Có: Không:

Thuận lợi: Khó khăn:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

11

Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

Làng nghề thủ công mỹ nghệ bó Trầm hương, Nông Sơn Làng nghề trồng cây ăn quả Đại Bình, xã Quế Trung

12

Làng nghề Hương, TT Hà Lam

13

14

15

Làng nghề nước mắm Cửa Khe – Bình Dương Làng nghề rau sạch Hưng Mỹ- Bình Triều Làng nghề Đan tre Bình Phụng- Bình Quế

Huyện Thăng Bình Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không:

Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:

Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:

16

Làng nghề làm rượu cồn Tà Vạt

17

Làng nghề sản xuất ớt ARiêu

Làng nghề sản xuất chè dây

18

Huyện Đông Giang Có: Không: Có: Không: Có: Không:

Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:

Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:

19

Làng nghề dệt Thổ cẩm thôn PơRrong, xã Lăng

Thuận lợi: Khó khăn:

Huyện Tây Giang Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

20

Bánh tráng , Thị trấn Ái Nghĩa

21

22

Hương Phú Lộc, thôn Phú Lộc, xã Đại An Trống Lâm Yên, xã Đại Minh

23

Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:

Huyện Đại Lộc Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:

24

25

Làng nghề đan lờ truyền thống , thôn Trung An, Thị trấn Ái Nghĩa Làng nghề sản xuất dầu rái xã Đại Thạnh Làng lò rèn, thôn Thạnh Phú, xã Đại Chánh

Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không: Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:

26

27

28

29

30

Thị xã Điện Bàn Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không:

Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:

Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:

Đúc Đồng Phước Kiều, xã Điện Phương Chiếu chẻ Triêm Tây, xã Điện Phương Bánh tráng Phú Triêm, xã Điện Phương Nước mắm Hà Quảng, phường Điện Dương Làng nghề mỹ nghệ đát nung – làng Đông Khương, xã Điện Phương

31

Làng nghề đan đát Tam Vinh, Thạch Đức, Phú Thịnh

Thuận lợi: Khó khăn:

Huyện Phú Ninh Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

32

Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

Làng nghề truyền thống Văn Hà, thôn Văn Hà, Tam Thành

33

Làng nghề nước mắm Tam Tiến

Thuận lợi: Khó khăn:

34

Làng nghề mây tre Thuận lợi: Khó khăn:

Huyện Núi Thành Có: Không: Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:

35

36

37

38

39

Làng bún Phương Hòa, phường Hòa Thuận Làng nghề dệt chiếu cối, Thôn Thạch Tân Làng nghề rèn Hồng Lư, Hòa Hương Làng nghề đóng sửa tàu thuyền Tam Phú Làng nghề sản xuất nước mắm Tam Thanh

Thành Phố Tam Kỳ Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không:

Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:

Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:

40

41

Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:

Huyện Quế Sơn Có: Không: Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:

42

Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

43

Làng nghề mộc Đông Phú, thị trấn Đông Phú Làng nghề mây tre đan Quế Xuân 2, thôn Phú Bình, xã Quế Xuân 2 Làng nghề rèn Quế Châu, thôn Phú Đa, xã Quế Châu Làng nghề gốm Quế An

Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

Huyện Bắc Trà My

44

Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

45

Thuận lợi: Khó khăn:

Có: Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

Làng nghề sản xuất rượu cần, xã Trà Bui, huyện Bắc Trà My Làng nghề sản xuất bánh tráng gạo, xã Trà Sơn, huyện Bắc Trà My

46

Huyện Nam Giang Có: Không:

Thuận lợi: Khó khăn:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Tốt : Không tốt:

Làng nghề dệt thổ cẩm Zara, xã Tabing

Phụ lục 2. Các làng nghề, làng nghề truyền thống được phân bố theo

các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (tính đến năm

2016)

TT Tên huyện, thị xã, làng Ghi chú

thành phố Số nghề

Thị xã Điện Bàn Thành phố Hội An Huyện Đại Lộc Huyện Duy Xuyên Huyện Quế Sơn Huyện Nông Sơn Huyện Phước Sơn Huyện Hiệp Đức Huyện Thăng Bình

Thành phố Tam Kỳ

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Huyện Phú Ninh 11 12 Huyện Núi Thành 13 Huyện Tiện Phước 14 Huyện Nam Trà My 15 Huyện Bắc Trà My 16 Huyện Nam Giang 17 Huyện Tây Giang 18 Huyện Đông Giang

Tổng cộng Tỷ lệ % so với tổng số làng nghề 11 9 13 11 9 4 - - 9 4 11 4 - - 4 2 2 7 5 4 6 5 4 2 0 0 4 2 5 2 0 0 2 1 1 3 46

Phụ lục 3. Số lao động tại các làng nghề truyền thống được UBND

Tổng số lao động tham gia

Thu nhập BQ ở lao động (tr. đồng/lđ/th)

Lao động thời vụ

1 2 3

Trong đó Lao động thường xuyên 47 52 219

47 52 374

0 0 155

5.25 3.00 4.20

4

78

47

31

4.00

5

30

0

30

1.50

6

6

0

6

3.00

7

130

0

130

2.50

8

120

0

120

0.60

9

510

154

356

1.50

10

293

0

293

3.00

11

505

0

505

2.50

12

40

0

40

2.50

13

250

150

100

1.50

14

85

0

85

4.50

15

550

175

375

4.00

16 17

20 279

10 0

10 279

4.10 1.65

18

150

0

150

1.20

19

88

0

88

5.00

Làng nghề mộc Kim Bồng Làng nghề gốm Thanh Hà Làng nghề trồng rau Trà Quế Làng nghề đúc đồng Phước Kiều Làng nghề dệt chiếu chẽ Triêm Tây Làng nghề chế biến nước mắm Hà Quảng Làng nghề bánh tráng Phú Triêm Làng nghề dệt chiếu An Phước Làng nghề dệt chiếu Bàn Thạch Làng nghề dệt vải Phú Bông – Thi Lai Làng nghề dệt vải tơ lụa Mã Châu Làng nghề chế biến hải sản Trung Phường Làng nghề hương Quán Hương Làng nghề chế biến nước mắm Cửa Khe Làng nghề trồng rau Hưng Mỹ Làng nghề mộc Văn Hà Làng nghề đan lát Tam Vinh Làng nghề dệt chiếu Thạch Tân Làng nghề bún Phương Hòa

tỉnh Quảng Nam công nhận [13] TT Tên làng nghề

20

100

100

0

3.00

21

36

20

16

1.20

22

87

0

87

0.50

Làng nghề mây, tre, trúc Núi Thành Làng nghề chế biến nước mắm Tam Tiến Làng nghề dệt thổ cẩm thôn Pơrning

Phụ lục 4. Thống kế số hộ sản xuất tại các làng nghề truyền thống

được UBND tỉnh Quảng Nam công nhận

TT Tên làng nghề

Tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh DN HTX THT Hộ 0 0 0 4 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 5 12 21 202 12 22 6 60 70 294 174 245 10 120 41 294 6 132 140 44 0 36 50 1.991 0 0 1 0 0 0 0 0 1 0 0 0 1 1 0 1 0 0 0 0 0 0 5 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 3

Làng nghề mộc Kim Bồng 1 Làng nghề gốm Thanh Hà 2 Làng nghề trồng rau Trà Quế 3 Làng nghề đúc đồng Phước Kiều 4 Làng nghề dệt chiếu chẽ Triêm Tây 5 Làng nghề chế biến nước mắm Hà Quảng 6 Làng nghề bánh tráng Phú Triêm 7 Làng nghề dệt chiếu An Phước 8 9 Làng nghề dệt chiếu Bàn Thạch 10 Làng nghề dệt vải Phú Bông – Thi Lai 11 Làng nghề dệt vải tơ lụa Mã Châu 12 Làng nghề chế biến hải sản Trung Phường 13 Làng nghề hương Quán Hương 14 Làng nghề chế biến nước mắm Cửa Khe 15 Làng nghề trồng rau Hưng Mỹ 16 Làng nghề mộc Văn Hà 17 Làng nghề đan lát Tam Vinh 18 Làng nghề dệt chiếu Thạch Tân 19 Làng nghề bún Phương Hòa 20 Làng nghề mây, tre, trúc Núi Thành 21 Làng nghề chế biến nước mắm Tam Tiến 22 Làng nghề dệt thổ cẩm thôn Pơrning Tổng cộng

Phụ lục 5. Danh sách các làng nghề, làng nghề truyền thống đã đăng

Địa chỉ

Chủ sở hữu

1

Xã Đại Minh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam

Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp - kinh doanh tổng hợp Đại Minh

2

Xã Đại Hoà, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam

Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp - kinh doanh tổng hợp Đại Hoà

3

Khu 3, thị trấn ái Nghĩa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam

Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp - kinh doanh tổng hợp ái Nghĩa

4

truyền thống Trống Lâm Yên - LAM YEN DRUM Làng nghề truyền thống Trống Lâm Yên LAM YEN DRUM MAKING VILLAGE Hương Phú Lộc - PHU LOC INCENSE Làng Nghề Truyền Thống Hương Phú Lộc PHU LOC INCENSE MAKING VILLAGE Bánh Tráng Đại Lộc - Dai Loc Rice Paper Đặc Sản Truyền Thống Địa Phương LOCAL TRADITIONAL SPECIALITY BT ĐL Dai Loc Dist Bánh phở sắn – Đông Phú

Thị trấn Đông Phú, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

5

Đồ gỗ mỹ nghệ - Quế Sơn

Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và kinh doanh tổng hợp thị trấn Đông Phú Hợp Tác Xã Nông nghiệp Quế Trung

6 Mộc Kim Bồng - Hội An

Trung Phước, xã Quế Trung, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam (nay là huyện Nông Sơn) Thôn Trung Hà, xã Cẩm Kim, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam

7

Nước mắm – Cửa Khe

Xã Bình Dương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

8

Nước mắm – Tam Thanh

Xã Tam Thanh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam

9

Đúc Nhôm Đồng - Phước Kiều Thôn Thanh Chiêm, xã

Điện Phương, huyện

Hợp tác xã dịch vụ - du lịch làng nghề truyền thống Kim Bồng Hợp tác xã Dịch vụ sản xuất và kinh doanh tổng hợp Bình Dương Tổ hợp tác sản xuất nước mắm Tam Thanh Hội nghề đúc Phước Kiều

ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp TT Tên nhãn hiệu của làng nghề

10 Rau Trà Quế Hội An

Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam Xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam

11 Trầm hương thô – Tiên Phước Thôn Cẩm Tây, xã

12 Gốm Thanh Hà - Hội An

Tiên Cẩm, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam Số 4 Ngô Gia Tự, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

13 Dệt thổ cẩm DHROONG

Hợp tác xã nông nghiệp Cẩm Hà Hợp tác xã dịch vụ Sản xuất Chế biến Nông Lâm Cẩm Hà Hiệp hội sản xuất- kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ Hội An Tổ hợp tác dệt thổ cẩm Dhrôồng

Thôn Dhrôồng, xã Tàlu, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

Hội nông dân xã Cẩm Thanh

14 Tre Dừa Cẩm Thanh - Hội An Thôn 6, xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

Phụ lục 6: Mẫu phiếu điều tra

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Quảng Nam, ngày …. tháng … năm 2016

PHIẾU KHẢO SÁT (Thuộc đề tài: Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam) Kính gửi:…………………………………………………………

Điện thoại: ………………

………………………………………………………........

Thị trường/khả năng tiêu thụ sản phẩm

Xu hướng phát triển

Tên làng nghề/địa điểm

Thuận lợi: Khó khăn:

Phát triển làng nghề có gắn với hoạt động phát triển du lịch Có : Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

Thuận lợi: Khó khăn:

Có : Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

I. Thông tin chung: 1. Người khảo sát: ……………………. ( Sở Khoa học và Công nghệ; 54 Hùng Vương, Tam Kỳ, Quảng Nam) Cơ quan được khảo sát:…………………………………………………… Địa chỉ: 4. Điện thoại liên lạc: ……………………………………………….......... II. Nội dung khảo sát: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết: 1. Đơn vị/cơ quan phụ trách quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tại địa phương: - Trước năm 2015: - Năm 2015 đến nay: 2. Tổng số làng nghề của địa phương: - Số làng nghề truyền thống hiện nay: - Số làng nghề truyền thống đã mai một: - Số làng nghề truyền thống đã được UBND Quảng Nam công nhận: - Số làng nghề mới hình thành: 3. Hiện trạng các làng nghề hiện có tại địa phương: 3.1 Làng nghề truyền thống: Thứ tự

điểm

Xu hướng phát triển

1

Thị trường/khả năng tiêu thụ sản phẩm Thuận lợi: Khó khăn:

Có gắn với hoạt động phát triển du lịch Có : Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

2

Thuận lợi: Khó khăn:

Có : Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

3.2 Làng nghề truyền thống đã được UBND Quảng Nam công nhận: Thứ tự Tên làng nghề/địa

Thứ tự Tên làng nghề/địa

Xu hướng phát triển

điểm

1

Thị trường/khả năng tiêu thụ sản phẩm Thuận lợi: Khó khăn:

Có gắn với hoạt động phát triển du lịch Có : Không:

Tốt: Bình thường: Mai một:

2

Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:

Có : Không: Có : Không:

Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:

3.3 Làng nghề mới hình thành:

3.4 Danh sách làng nghề truyền thống đã mai một: 4. Việc ban hành các chính sách quản lý thúc đẩy phát triển làng nghề truyền thống tại địa phương trong thời gian qua (liệt kê các văn bản có liên quan đã được UBND tỉnh, UBND huyện ban hành và áp dụng tại địa phương) 5. Chính sách để thu hút nghệ nhân tâm huyết với nghề + Có + Không có 6. Chính sách của địa phương trong việc quy hoạch phát triển làng nghề: - Có: - Không: Liệt kê văn bản đã ban hành (nếu có) 7. Địa phương có chiến lược phát triển làng nghề gắn với du lịch:

Liệt kê văn bản đã ban hành (nếu có)

- Có: - Không: 8. Nguồn nhân lực hiện có tham gia trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tại địa phương: - Số lượng nguồn nhân lực: - Trình độ: + Trên đại học: ..... người. + Đại học: ...... người + Cao đẳng, Trung cấp: ...... người. - Về khả năng đáp ứng nhu cầu quản lý làng nghề của nguồn nhân lực: + Đáp ứng nhu cầu quản lý làng nghề: + Không đáp ứng nhu cầu quản lý làng nghề: 9. Hoạt động đào tạo nhằm phát triển nghề cho làng nghề truyền thống: - Có hoạt động đào tạo: - Không có hoạt động đào tạo: 10. Chất lượng lao động tại các làng nghề: - Độ tuổi đa số của lao động tại các làng nghề + Từ 18 tuổi đến 40 tuổi: + Từ 40 tuổi đến 60 tuổi: + Trên 60 tuổi: Trình độ nghề: + Đã qua đào tạo: + Chưa qua đào tạo, làm việc theo kinh nghiệm: - Khả năng quản lý điều hành làng nghề: + Tốt: + Bình thường: + Không tốt: 11. Hoạt động thanh kiểm tra làng nghề truyền thống tại địa phương: - Định kỳ thực hiện hoạt động thanh kiểm tra: - Không thường xuyên thực hiện hoạt động thanh kiểm tra: - Không thực hiện hoạt động thanh kiểm tra: 12. Hình thức hoạt động thanh kiểm tra làng nghề truyền thống tại địa phương: - Yêu cầu gửi báo cáo định kỳ về hoạt động của làng nghề: - Kiểm tra tại làng nghề: 13. Các chương trình hỗ trợ phát triển làng nghề truyền thống từ 2011 đến nay: - Các chương trình của trung ương, địa phương hỗ trợ phát triển làng nghề truyền thống:.

Không đầu tư:

Xác nhận của tổ chức được lấy ýkiến

- Các chương trình khác hỗ trợ phát triển làng nghề truyền thống (từ các tổ chức quốc tế,...): 14. Việc huy động vốn trong nhân dân để phát triển làng nghề: - Có: + Mức độ đóng góp: . Cao: . Thấp: - Không: 15. Về việc đầu tư cơ sở vật chất để phát triển làng nghề từ 2011 đến nay Có đầu tư: Tổng kinh phí đầu tư:................................ Trong đó: Năm 2011 Năm 2012: Năm 2013: Năm 2014: Năm 2015: Năm 2016: 16. Việc tiếp cận các nguồn vay hỗ trợ phát triển làng nghề truyền thống: Dễ tiếp cận: Khó tiếp cận: Ý kiến khác: 17. Vấn đề xử lý môi trường tại các làng nghề: - Tốt: - Không tốt: 18. Những khó khăn mà hiện nay mà các làng nghề truyền thống của địa phương đang gặp phải: 19. Những thuận lợi của địa phương trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trong thời gian qua: ……………………………………………………………………………………… 20. Vấn đề xã hội hóa của làng nghề tại địa phương ………………………………………………………………………………………… 21. Những Khó khăn của địa phương trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống thời gian qua: 22. Kiến nghị của địa phương trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống thời gian đến: Người điều tra

Phụ lục 7. Một số hình ảnh của làng nghề truyền thống

Làng nghề làm gốm Thành Hà, Hội An

Làng mộc Kim Bồng Hội An

Làng nghề bánh tráng Đại Lộc

Làng nghề ở Đại Lộc

Làng nghề trống Lâm Yên

Làng nghề làm nhang hương Đại Lộc

Làng nghề đan lát Tam Vinh, Phú Ninh

Làng nghề mộc Văn Hà