BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HÀ THỊ ÁNH TUYẾT
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HÀ THỊ ÁNH TUYẾT
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH ĐỨC HƯNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Thừa Thiên Huế, ngày 27 tháng 12 năm 2017
Học viên
Hà Thị Ánh Tuyết
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện Luận văn Thạc sỹ tại Cơ sở
Học viện Hành chính khu vực miền Trung, em đã nhận được sự quan tâm,
giúp đỡ của quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình, đã tạo điều kiện
về thời gian, hướng dẫn nội dung, cung cấp tài liệu và những thông tin cần
thiết.
Trước tiên, em xin chân thành cảm ơn đến Cơ sở Học viện Hành
chính khu vực miền Trung, Khoa Sau đại học Học viện Hành chính Quốc
gia cùng tất cả quý thầy, cô giáo của Học viện Hành chính Quốc gia đã
giảng dạy tận tình và truyền đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ em trong
quá trình học tập và nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến TS.Trịnh Đức Hưng, đã tận
tình hướng dẫn và có những đóng góp quý báu để em hoàn thành Luận văn
này.
Xin chân thành cảm ơn tới các sở, ban, ngành và UBND các huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam đã hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều
kiện trong suốt quá trình thu thập số liệu điều tra phục vụ nghiên cứu.
Cảm ơn người thân, bạn bè đồng nghiệp đã cổ vũ tinh thần và giúp đỡ để
hoàn thành luận văn này.
Tuy có nhiều cố gắng, nhưng luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót, hạn chế. Em kính mong quý thầy, cô và những người quan tâm đến đề
tài có những đóng góp, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn./.
Học viên
Hà Thị Ánh Tuyết
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
MỤC LỤC
Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG .................................................................................................... 8
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài .......................................................... 8
1.1.1. Khái niệm làng nghề ..................................................................................... 8
1.1.2. Khái niệm về làng nghề truyền thống ........................................................ 8
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống ............. 10
1.1.4. Tổ chức bộ máy trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống ........................................................................................................ 11
1.2. Nội dung, đặc điểm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống và
các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống ............................................................................................................. 12
1.2.1. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống ......................................................................................................................... 12
1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống ................................................................................................... 21
1.3. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một số
tỉnh và bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Nam ........................................... 27
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một số
tỉnh ........................................................................................................... 27
1.3.2. Bài học về quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một số
tỉnh của nước ta mà tỉnh Quảng Nam cần học tập ..................................... 31
Chương 2. THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
TẠI QUẢNG NAM ................................................................................ 35
2.1. Thực trạng làng nghề truyền thống ở Quảng Nam ................................... 35
2.1.1. Khái quát về tỉnh Quảng Nam ........................................................ 35
2.1.2. Khái quát về làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam.................... 36
2.2. Đặc điểm làng nghề truyền thống và quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam .................................................................... 38
2.2.1. Đặc điểm làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam ........................ 38
2.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tỉnh
Quảng Nam .............................................................................................. 40
2.3. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
của tỉnh Quảng Nam .............................................................................................. 42
2.3.1.Việc ban hành, hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện văn bản
quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường trong hoạt động
quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống .................................... 42
2.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam ...................................... 45
2.3.3. Nguồn nhân lực trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống tỉnh Quảng Nam ............................................................................. 49
2.3.4. Xây dựng và thực hiện chính sách quản lý phát triển đối với làng
nghề truyền thống ..................................................................................... 51
2.3.5. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề truyền thống .... 54
2.3.6. Xã hội hóa và hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý nhà nước đối
với các làng nghề truyền thống ................................................................. 55
2.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam ........................................................................................ 58
2.4.1. Những yếu tố thuận lợi cho hoạt động quản lý nhà nước đối với các
làng nghề truyền thống ............................................................................. 58
2.4.2. Những điểm hạn chế cho hoạt động quản lý nhà nước đối với các
làng nghề truyền thống ............................................................................. 60
2.4.3. Nguyên nhân những thuận lợi và hạn chế đối với hoạt động quản lý
nhà nước của các làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam ...................... 62
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM ............................................................. 67
3.1. Phương hướng quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tỉnh Quảng
Nam ........................................................................................................................... 67
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tỉnh
Quảng Nam .............................................................................................................. 71
3.2.1. Nâng cao hiệu quả việc ban hành, hướng dẫn và tổ chức triển khai
thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường
trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống .......... 71
3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy trong quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống tỉnh Quảng Nam .................................................................... 75
3.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam ......................................... 79
3.2.4. Chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền thống ..................... 81
3.2.5. Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra làng nghề truyền thống trong
hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề ................................................. 84
3.2.6. Xã hội hóa, hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý, phát triển làng
nghề truyền thống ..................................................................................... 86
3.3. Kiến nghị ........................................................................................... 88
3.3.1 Kiến nghị với Trung ương ............................................................... 88
3.3.2 Kiến nghị với địa phương ............................................................... 88
KẾT LUẬN ............................................................................................. 92
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH,HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CN-TTCN : Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
Đ/c : Địa chỉ
: Hợp tác xã HTX
: Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản JICA
: Khoa học và Công nghệ KH&CN
: Kinh tế - xã hội KT-XH
NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
: Nhà xuất bản Nxb
: Tài nguyên và Môi trường TN&MT
: Trách nhiệm hữu hạn TNHH
: Thành phố TP
: Tiểu thủ công nghiệp TTCN
: Uỷ ban nhân dân UBND
VH-TTDL : Văn hóa - Thể thao Du lịch
: Tổ chức thương mại thế giới WTO
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Các dự án hỗ trợ đầu tư cho các làng nghề truyền thống được
phân bố theo các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh ......................56
Bảng 2.2. Số liệu về hoạt động thanh kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà
nước đối với các làng nghề truyền thống ...................................................58
Bảng 2.3 Các dự án hỗ trợ đầu tư cho các làng nghề truyền thống có sự
tham gia huy động đóng góp từ nhân dân ..................................................60
Bảng 2.4 Các dự án do các tổ chức phi Chính phủ hỗ trợ đầu tư cho các
làng nghề truyền thống ...............................................................................61
DANH MỤC SƠ ĐỒ
53
Sơ đồ 1. Sơ đồ thực trạng tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề tỉnh Quảng Nam
83
Sơ đồ 2. Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (theo mô hình mới)
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Quảng Nam là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống, gắn liền với những
giá trị văn hoá truyền thống, tạo ra những sản phẩm nổi tiếng, được nhiều
người tiêu dùng biết đến. Các làng nghề đã tồn tại và phát triển đến ngày hôm
nay bằng công sức, trí tuệ của các thế hệ đi trước, đi kèm với những dấu ấn
văn hoá - lịch sử kết tinh trong từng sản phẩm, cùng với sự ưu đãi của thiên
nhiên ban tặng cho con người đất Quảng. Các làng nghề đã tạo ra việc làm
thường xuyên cho lao động và tăng thu nhập cho lao động nông nhàn; lao
động tham gia làng nghề và có thu nhập từ làng nghề không bị giới hạn,
người già, trẻ em, thậm chí người khuyết tật vẫn có thể tham gia; làng nghề
còn là giải pháp, giữ chân người lao động ở lại địa phương, giảm bớt áp lực
về việc làm tại các thành phố lớn, góp phần bình ổn xã hội, đảm bảo an ninh
quốc phòng.
Các làng nghề Quảng Nam với cách thức hình thành, tổ chức và hoạt
động sản xuất kinh doanh rất đa dạng với nhiều hình thức khác nhau, phân bố
tại các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh. Hoạt động quản lý nhà nước được
tăng cường: Tổ chức thực hiện có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật;
hướng dẫn triển khai các cơ chế chính sách về phát triển làng nghề; tổ chức
đào tạo tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý
nhà nước về làng nghề; nhà nước đã hỗ trợ cho các cơ sở làng nghề trong bảo
tồn, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo
các tiêu chí chất lượng sản phẩm; thực hiện tốt giải pháp bảo vệ môi trường
tại các làng nghề truyền thống và xây dựng thương hiệu, tìm kiếm mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm trong nước và ngoài nước,...
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động quản lý nhà nước vẫn còn
1
nhiều tồn tại, hạn chế, nhiều khó khăn cần tháo gỡ. Hoạt động quản lý nhà
nước vẫn chưa kịp thời, việc bảo tồn và phát triển một số làng nghề truyền
thống thời gian qua vẫn chưa đạt hiệu quả, dẫn đến một số làng nghề truyền
thống đang đứng trước nguy cơ bị mai mọt cao. Từ năm 2011 đến nay, chính
quyền địa phương cũng đã có nhiều nỗ lực trong hoạt động quy hoạch phát
triển làng nghề, ban hành các chính sách khuyến khích hỗ trợ làng nghề, thay
đổi tổ chức quản lý tại các làng nghề truyền thống,...Tuy nhiên, sản xuất kinh
doanh của các làng nghề truyền thống vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy,
vấn đề đặt ra là phải nâng cao, tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về
làng nghề truyền thống, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
nông nghiệp nông thôn tỉnh Quảng Nam.
Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, hoạt động quản lý nhà
nước đối với làng nghề nói chung và làng nghề tỉnh Quảng Nam nói riêng cần
được triển khai một cách toàn diện hơn trên nhiều khía cạnh, từ việc ban hành
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động quản lý làng nghề
truyền thống, tổ chức triển khai thực hiện trong thực tế, thanh tra, kiểm tra kết
quả thực hiện; quản lý từ khâu sản xuất đảm bảo theo đúng quy trình đến khâu
tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Trong đó, việc giảm thiểu ô nhiễm môi
trường tại các làng nghề truyền thống cũng là một vấn đề cấp thiết cần giải
quyết trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Đặc biệt, trong quá trình hội nhập, đã mở ra cơ hội lớn trong việc phát
triển kinh tế, nhưng bên cạnh đó phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó
phải tuân thủ các cam kết quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn
chất lượng hàng hóa,... Vì vậy, việc hướng dẫn các làng nghề tạo lập, quản lý
thương hiệu, nâng cao chất lượng hàng hóa cho các sản phẩm làng nghề truyền
thống trở thành nhiệm vụ mang tính chiến lược, quyết định sự thành bại trên thị
2
trường trong và ngoài nước trong quá trình hội nhập.
Ngoài ra, hoạt động quản lý nhà nước về ngành nghề, làng nghề nông
thôn ở tỉnh Quảng Nam đang xảy ra tình trạng chồng chéo giữa các cơ quan
quản lý nhà nước ở cấp tỉnh (giữa sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
(NN&PTNT) với sở Công Thương) và ở cấp huyện (giữa phòng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn với Phòng Kinh tế Hạ tầng),….
Từ những vấn đề nêu trên, em chọn nội dung “Quản lý nhà nước đối
với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên
cứu. Việc nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, đề ra các
giải pháp tác động tích cực để hoạt động quản lý đối với làng nghề truyền
thống ngày càng hiệu quả, phát huy vai trò của làng nghề truyền thống trong
tiến trình hội nhập và đặc biệt là trong tiến trình xây dựng nông thôn mới của
cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Làng nghề, làng nghề truyền thống Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng
Nam nói riêng đã có những đóng góp to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã
hội những năm qua. Tuy nhiên, hiện nay, các làng nghề, làng nghề truyền
thống đang đứng trước nguy cơ mai mọt dần và đang phải đối mặt với nhiều
khó khăn về nhân lực, quy mô, tài chính, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, kỹ thuật
công nghệ, thị trường,… Tình trạng ô nhiễm môi trường từ các làng nghề
cũng đã ở mức báo động. Đã có nhiều sách, công trình khoa học nghiên cứu
về làng nghề trên cả nước ở mọi góc cạnh, như:
- “Làng nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam” của tác giả Bùi Văn
Vượng, 2002, nhà xuất bản (Nxb) Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Đây là công trình
giới thiệu một cách tổng quan về các làng nghề truyền thống ở Việt Nam, với
nhiều thông tin có giá trị tham khảo cao.
- “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá
3
trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,HĐH)” của tác giả Trần Minh
Yến, 2003 NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu
mang tính tổng quan và đặc biệt nhấn mạnh về vai trò của làng nghề truyền
thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước ta hiện nay.
- Đề tài “Nghiên cứu tiêu thụ sản phẩm của một số làng nghề huyện
Việt Yên, tỉnh Bắc Giang” đã đề cập đến khó khăn về vấn đề tiêu thụ sản
phẩm ngành nghề của một số làng nghề trên địa bàn huyện, phân tích và
hướng những yếu tố ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ, từ đó định hướng
những giải pháp góp phần đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của làng nghề;
- Đề tài “Nghiên cứu áp dụng mô hình xử lý chất thải cho các hộ sản
xuất đá mỹ nghệ tại Non Nước” của Tiến sĩ Vương Nam Đàn, 2006; đề tài đã
đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường ở khu vực làng nghề Non Nước, điều
kiện môi trường lao động, tình trạng sức khỏe người lao động, từ đó đề xuất
các biện pháp, mô hình xử lý chất thải, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và
bảo vệ môi trường tại các cơ sở sản xuất trong khu vực làng nghề.
- Đề tài “Nghiên cứu phát triển làng nghề Quảng Ngãi” của Tiến sĩ Hồ
Minh Kỳ, năm 2011; đề tài đã khai thác và cung cấp các thông tin liên quan
đến vấn đề nguyên liệu, thị trường, sản phẩm, nguồn nhân lực, môi trường,…
đề xuất các chính sách hỗ trợ và các giải pháp phát triển làng nghề.
Tại Quảng Nam cũng đã có công trình khoa học nghiên cứu về Làng
nghề như:
Đề tài “Phát huy vai trò của làng nghề trong sự nghiệp xây dựng nông
thôn mới tỉnh Quảng Nam”của tác giả Nguyễn Thanh Tài, năm 2012; đề tài
thực hiện nhằm đề xuất các nhóm giải pháp phát triển bền vững làng nghề,
phát huy vai trò làng nghề trong sự nghiệp xây dựng nông thôn mới hiện nay
và trong tương lai của tỉnh Quảng Nam.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học và nhiều
4
công trình, luận văn, luận án khác có đề cập ít nhiều đến vấn đề này; song các
công trình đó chưa đề cập thấu đáo, toàn diện đến sự tác động tích cực của
làng nghề đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội (KT-XH) của địa phương;
chưa thấy được những bất cập trong công tác quản lý và phát triển làng nghề
của tỉnh; chưa đề cập các tác động nghịch chiều, kìm hãm sự phát triển,
nguyên nhân và giải pháp phát triển các làng nghề trong quá trình hội nhập.
Đồng thời, hiện nay, Chính phủ đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều
kiện cho việc xây dựng và phát triển làng nghề; các làng nghề bắt đầu có tín
hiệu hồi sinh và phát triển. Tuy nhiên, thực tế, các làng nghề vẫn phải đối mặt
với những thách thức không nhỏ, khi mà cần phải có sự chuyển mình, kịp
theo xu thế phát triển trong quá trình hội nhập.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu những
khía cạnh khác nhau của làng nghề, làng nghề truyền thống và đưa ra những
giải pháp phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đi
vào nghiên cứu chuyên sâu về quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3. 1. Mục đích của luận văn
Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa các kiến thức về làng nghề truyền thống, quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của các làng nghề truyền
thống, hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tại Quảng
Nam; tìm ra những thuận lợi và khó khăn về hoạt động quản lý nhà nước đối
5
với làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước đối
với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về hoạt động quản lý, quản lý nhà nước cũng như những quan điểm
của Đảng trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam và
các văn bản quản lý nhà nước về quản lý và phát triển làng nghề truyền thống.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như thống kê, so
sánh, phân tích, tổng hợp, phương pháp chuyên gia,... nhằm đánh giá đúng
thực trạng, từ đó tìm ra các giải pháp thích hợp cho việc quản lý, phát triển
các làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam.
Luận văn cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên
cứu có liên quan; đồng thời, dựa vào các chủ trương, đường lối của Đảng và
chính sách của nhà nước về phát triển làng nghề truyền thống.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước nói
chung và quản lý làng nghề nói riêng. Kinh nghiệm quản lý làng nghề của các
địa phương khác trong cả nước và bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm nguồn tài
liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động quản lý, hoạt động xây dựng chính
sách phát triển làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam nói riêng cũng
như của các địa phương khác trong cả nước nói chung.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bố cục của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về làng nghề truyền thống và quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống
Chương 2: Thực trạng làng nghề truyền thống và hoạt động quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Quan điểm của Đảng và một số giải pháp quản lý nhà nước
7
đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam.
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm làng nghề
Làng theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, là một nhóm người quay
quần ở một nơi nhất định trong nông thôn, làng là một tế bào của xã hội người
Việt, một tập hợp dân cư chủ yếu theo quan hệ láng giềng, một không gian
lãnh thổ nhất định, ở đó tập hợp những người quần tụ lại cùng sinh sống và
sản xuất [11].
Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn,
phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các
hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm
khác nhau [1].
Thực tế cho thấy, làng nghề là nơi mà ở đó có những hộ thuộc một số
dòng tộc nhất định sinh sống. Trong các làng nghề này tồn tại đan xen các
mối quan hệ kinh tế, xã hội phong phú và phức tạp. Làng nghề là những làng
ở nông thôn có những nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao
động và thu nhập so với nghề nông.
Như vậy làng nghề là một thiết chế kinh tế xã hội ở nông thôn, được
cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất
định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là
chính, giữa họ có mối liên kết chặt chẽ về kinh tế, xã hội và văn hóa.
1.1.2. Khái niệm về làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống, trước hết nó được tồn tại và phát triển lâu đời
trong lịch sử, trong đó bao gồm một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống,
8
là nơi hội tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là nơi có nhiều hộ gia
đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có sự liên kết, hỗ trợ
nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt các
thành viên luôn có ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc. Làng
nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời, trải qua thử thách của thời gian
vẫn duy trì và phát triển, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Trong các
làng nghề truyền thống thường có đại bộ phận dân số làm nghề cổ truyền hoặc
một vài dòng họ chuyên làm nghề theo kiểu cha truyền con nối, nghĩa là việc
dạy nghề được thực hiện theo phương pháp truyền nghề.
Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình
thành từ lâu đời [1].
Theo Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn; làng nghề, làng nghề truyền thống được công
nhận dựa trên các tiêu chí sau:
Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:
Thứ nhất, có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt
động ngành nghề nông thôn.
Thứ hai, có hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính
đến thời điểm đề nghị công nhận.
Thứ ba, phải chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Làng nghề truyền thống được công nhận phải đạt tiêu chí làng nghề và
có ít nhất một nghề truyền thống theo quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-
BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng
dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP, cụ thể:
Thứ nhất, nghề của làng nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm
tính đến thời điểm đề nghị công nhận.
Thứ hai, nghề của làng nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn
9
hoá dân tộc.
Thứ ba, nghề của làng nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ
nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.
Thứ tư, số hộ và số lao động trong làng nghề truyền thống đạt từ 30% trở
lên so với tổng số lao động của làng.
Thứ năm, sản phẩm làm ra có tính thẩm mỹ mang đậm nét yếu tố và bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Thứ sáu, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến
thời điểm đề nghị công nhận.
Thứ bảy, chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
- Khái niệm quản lý:
Quản lý gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nên trong thực
tế có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý; nhưng có một cách tiếp cận nhận
được sự ủng hộ của nhiều nhà khoa học và nhà quản lý thực tiễn, đó là: Quản
lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý
nhằm đạt mục tiêu dự kiến [6, tr.9].
- Khái niệm quản lý nhà nước:
Quản lý nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng
pháp luật làm công cụ quản lý chủ yếu nhằm duy trì sự ổn định và phát triển
của xã hội. Những hoạt động này nhằm bảo đảm cho hệ thống pháp luật quốc
gia đi vào cuộc sống. Đây là chức năng cơ bản của nhà nước. Hoạt động quản
lý nhà nước đạt hiệu quả cao phải trên cơ sở bảo đảm tính khoa học về hoạch
định, tổ chức, điều hành, kiểm tra, giám sát [18, tr.62].
- Khái niệm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống:
Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống là việc áp dụng hệ
thống các công cụ quản lý bao gồm pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế
10
hoạch tác động vào đối tượng quản lý để hướng dẫn các làng nghề truyền
thống của địa phương phát triển theo định hướng đã đặt ra trên cơ sở sử dụng
hiệu quả các nguồn lực nhà nước.
Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống nhằm phát triển làng
nghề theo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, quốc gia và
kiểm soát làng nghề phát triển một cách bền vững. Vì vậy, để quản lý làng
nghề, nhà nước dùng các công cụ như pháp luật, chính sách,… trong hoạt
động quản lý; cụ thể như:
+ Thông qua hệ thống pháp luật, một mặt, nhà nước tuyên bố các
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể hoạt động trong làng nghề truyền thống,
đặc biệt là quyền và nghĩa vụ, chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước
đối với làng nghề. Nếu hệ thống luật pháp tiến bộ và phù hợp, sẽ khuyến
khích làng nghề phát triển. Ngược lại, hệ thống luật pháp lạc hậu, bảo thủ sẽ
cản trở sự phát triển của làng nghề truyền thống.
+ Quản lý nhà nước không chỉ nhằm kiểm soát làng nghề truyền thống
mà quan trọng hơn là định hướng cho làng nghề truyền thống phát triển.
Trong hoạt động quản lý, nhà nước cần có các chiến lược, quy hoạch để định
hướng cho các làng nghề phát triển một cách bền vững. Mặt khác, có qui
hoạch, nhà nước mới kiểm tra, kiểm soát được sự phát triển của làng nghề
truyền thống, từ đó có các chính sách điều chỉnh phù hợp với tình hình thực
tế.
1.1.4. Tổ chức bộ máy trong quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống
Có nhiều định nghĩa khác nhau về tổ chức tùy thuộc vào phương diện
nghiên cứu của các ngành khoa học, nhưng về cơ bản khái niệm tổ chức được
thống nhất ở các điểm chính sau:
- Bao gồm tập hợp người, nhóm người;
11
- Có sự phân công phối hợp, hoạt động chung;
- Hướng đến mục tiêu chung [4,tr.15].
Tổ chức là một hệ thống tập hợp của một nhóm người (hai hay nhiều
người), tiến hành hoạt động chung, có sự phối hợp một cách có ý thức, có
phạm vi tương đối rõ ràng, hoạt động nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu
chung [4, tr.16].
Tổ chức hành chính nhà nước được nhà nước trao quyền lực pháp lý để
làm phương tiện thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Các cơ quan hành
chính nhà nước có quyền lực pháp lý và được sử dụng quyền đó để cưỡng bức
xã hội làm những việc theo ý chí nhà nước.
Hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống là thực
hiện chức năng quản lý theo ngành, lĩnh vực cụ thể, được phân cấp quản lý từ
Trung ương đến địa phương.
1.2. Nội dung, đặc điểm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống
1.2.1. Chủ thể và nội dung quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống
1.2.1.1 Chủ thể quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
Chủ thể quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước đối với làng
nghề nói riêng là nhà nước, nhà nước giao cho các tổ chức, cơ quan nhà nước
như sau:
Ở Trung ương, Chính phủ thống nhất quản lý và giao quyền quản lý
cho các Bộ quản lý như sau:
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chịu trách nhiệm quản lý
nhà nước đối với các ngành nghề nông thôn.
- Bộ Công Thương chịu trách nhiệm quản lý doanh nghiệp ở nông thôn,
12
triển khai chính sách khuyến công, xúc tiến thương mại, quản lý các khu, cụm
công nghiệp làng nghề, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn thực
hiện công tác bảo vệ môi trường, đáp ứng việc di dời các cơ sở sản xuất trong
làng nghề.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) chịu trách nhiệm xây dựng
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường đối với làng nghề; hướng dẫn,
kiểm tra việc thực hiện các hồ sơ, thủ tục về môi trường; theo dõi và xác định
các làng nghề ô nhiễm và đề xuất phương án xử lý; tổ chức thu phí về bảo vệ
môi trường; kiểm tra, giám sát tình hình tuân thủ các quy định của pháp luật
và xử lý vi phạm về bảo vệ môi trường tại làng nghề; nghiên cứu, ứng dụng
và phổ biến công nghệ xử lý môi trường phù hợp với làng nghề.
- Bộ Công an có trách nhiệm điều tra, phát hiện, xử lý nghiêm, kịp thời
các hành vi tội phạm về bảo vệ môi trường tại các làng nghề.
- Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm quản lý các công nghệ sản
xuất nhằm đưa các công nghệ mới ứng dụng trong sản xuất để tăng năng suất
và chất lượng sản phẩm; hạn chế việc đưa công nghệ cũ, lạc hậu vào làng
nghề và khu vực dân cư nông thôn gây ô nhiễm môi trường.
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm về bảo tồn, phát huy,
phát triển các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó
có các giá trị văn hóa của sản phẩm làng nghề truyền thống.
Ở địa phương, ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh thống nhất quản lý,
chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc quy hoạch, phát triển làng nghề,
quản lý các làng, khu, cụm công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh; bố trí
nguồn lực cần thiết và chỉ đạo, kiểm tra việc triển khai các nhiệm vụ về quản
lý phát triển làng nghề của UBND cấp huyện, đặc biệt là UBND cấp xã. Tại
các xã, phường và thị trấn có làng nghề có trách nhiệm tuyên truyền, phổ
13
biến, hướng dẫn và giám sát các cơ sở sản xuất tại các làng nghề trong tổ chức
hoạt động sản xuất và tuân thủ các quy định của phát luật (UBND các cấp
giao quyền quản lý cho các sở, ban ngành và các phòng ban liên quan tham
mưu trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề, làng nghề truyền
thống).
Đối tượng chịu sự quản lý đối với các làng nghề truyền thống là các cơ
sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống.
1.2.2.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
Thứ nhất, ban hành, hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện văn bản
quy phạm pháp luật,văn bản hành chính thông thường trong hoạt động quản
lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
Để quản lý các làng nghề truyền thống nhà nước cần ban hành và chỉ
đạo thực hiện các luật, chính sách theo đúng chức năng và thẩm quyền đối với
từng cấp. Nhà nước tại các địa phương cần chỉ đạo và tổ chức thực hiện các
văn bản cấp trên có hiệu quả và ban hành các văn bản nhằm hướng dẫn, tổ
chức thực hiện và cụ thể hóa các văn bản cấp trên. Việc ban hành các văn bản
của địa phương phải xuất phát từ yêu cầu thực tế của địa phương và không
được trái với các văn bản của cấp trên.
Việc ban hành văn bản nhằm tạo điều kiện cho các làng nghề truyền
thống phát triển một cách thuận tiện, mở rộng thị trường tiêu thụ và tăng thu
nhập cho những người lao động tại làng nghề. Bên cạnh đó, nhà nước cũng
thực hiện việc chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện các văn bản tới các đối
tượng chịu ảnh hưởng. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật buộc
phải có sự tham gia của tất cả các cấp, các ngành có liên quan và cả những
chủ thể thực thi văn bản.
Trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, nhà
14
nước phải có trách nhiệm cung cấp và thông tin kịp thời đến các cơ sở của
làng nghề về những thông tin cần thiết và liên quan đến hoạt động phát triển
làng nghề truyền thống.
Thứ hai, Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý
nhà nước đối với làng nghề truyền thống
Trong các quy định của Nhà nước có quy định rất cụ thể về bộ máy tổ
chức quản lý nhà nước tại địa phương về các lĩnh vực khác nhau trong đó có
lĩnh vực làng nghề, làng nghề truyền thống. Bộ máy này được quản lý từ
UBND cấp tỉnh, giao quyền quản lý cho các sở, ban, ngành cấp tỉnh tới các
phòng chuyên môn cấp huyện và chịu sự quản lý trực tiếp của UBND cấp
huyện. Cơ quan chuyên môn cấp huyện chịu sự chỉ đạo quản lý về tổ chức,
biên chế, công tác của UBND huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra
chuyên môn nghiệp vụ của sở, ban, ngành cấp tỉnh và dưới cùng là UBND
cấp xã. Bên cạnh đó, còn có một số cơ quan liên quan tham gia phối hợp
trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tại địa
phương từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã.
Thứ ba, nguồn nhân lực quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống
Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống rất cần đội ngũ cán
bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo hoạt động thực thi công vụ.
Nhà nước cần quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực
cho hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống. Nếu tuyển
dụng, đào tạo không đáp ứng được nhu cầu thực tế thì sẽ không đáp ứng được
yêu cầu công việc của địa phương. Đồng thời, việc bồi dưỡng, đào tạo các chủ
doanh nghiệp làng nghề ở nông thôn về các kiến thức về kinh tế thị trường, về
pháp luật trọng kinh doanh là rất cấp bách nhằm đảm bảo và nâng cao hơn nữa
15
hiệu quả trong kinh doanh, để kinh doanh đúng pháp luật.
Thứ tư, xây dựng và thực hiện chính sách quản lý phát triển làng nghề
truyền thống
Chính sách công trong quản lý nhà nước đối với làng nghề là hệ thống
các chính sách có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, như: Chính sách về tín
dụng; chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng; chính sách về môi trường; chính sách
về khoa học và công nghệ (KH&CN),... Môi trường kinh doanh của các làng
nghề truyền thống liên quan đến toàn bộ yếu tố kinh tế, xã hội, tự nhiên tác
động đến hoạt động sản xuất kinh doanh ở các làng nghề truyền thống. Vì
vậy, chính sách phát triển làng nghề truyền thống là tổng hợp của nhiều chính
sách kinh tế xã hội.
Chính sách công trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
nhằm định hướng và điều tiết hoạt động của làng nghề, kích thích sự phát
triển làng nghề, tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi để phát triển
làng nghề. Chính sách phát triển làng nghề truyền thống thường do Chính
phủ, Bộ ngành Trung ương quyết định như các Nghị định của Chính phủ,
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư, Quyết định của Bộ ngành.
Đồng thời, các địa phương căn cứ vào chính sách cấp trên và thực trạng của
mình để ban hành các chính sách phù hợp.
Chính sách công trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
là tập hợp tất cả những chủ trương và hành động của nhà nước nhằm tạo cơ
chế cho các làng nghề truyền thống hoạt động và phát triển bằng việc tác
động nhằm khuyến khích, huy động tập trung nguồn lực, khai thác tối ưu tiềm
năng, thế mạnh của địa phương trong việc phát triển làng nghề truyền thống
theo mục tiêu đã đề ra.
Xây dựng và thực hiện chính sách giúp cho các hộ tham gia sản xuất
làng nghề thấy được định hướng, mục tiêu phát triển, lĩnh vực phát triển các
16
ngành nghề của địa phương từ đó có hướng phát triển. Tuy nhiên, chính sách
đó có thật sự có hiệu quả cần phải nằm trong quy hoạch phát triển kinh tế xã
hội của các địa phương, phù hợp với địa phương và phải được cụ thể hóa và
mang tính đồng bộ.
Thứ năm, Tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề
truyền thống
Trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, hoạt
động thanh tra và kiểm tra có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy các làng nghề
phát triển.
Thanh tra không chỉ có ý nghĩa quan trọng mà còn là một nhu cầu tất yếu
trong quản lý hành chính nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống nói riêng. Mục đích của hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ
hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền biện pháp khắc phục, phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi
phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, các nhân thực hiện đúng quy định của
pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân [10, tr.7].
Kiểm tra thì cho đến nay nhà nước ta chưa có văn bản quy phạm pháp
luật có định nghĩa cụ thể về kiểm tra, nhưng trên phương diện lý luận thực
tiễn thì kiểm tra là khái niệm rộng thể hiện ở nhiều góc độ như:
+ Kiểm tra là hoạt động thường xuyên của từng cơ quan Nhà nước, tổ
chức chính trị – xã hội, tổ chức kinh tế nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của
chính mình. Qua kiểm tra các cơ quan, tổ chức đánh giá đúng mực việc làm
của mình, từ đó đề ra chủ trương, biện pháp, phương hướng hoạt động tiếp
theo một cách hợp lý hơn. Trong trường hợp này, kiểm tra mang ý nghĩa xem
xét, nhìn lại việc làm của chính mình để tự điều chỉnh, hay tìm biện pháp thực
17
hiện nhiệm vụ tốt hơn hiệu quả hơn.
+ Kiểm tra là hoạt động của cơ quan, tổ chức, thủ trưởng cấp trên với
cấp dưới của mình nhằm đánh giá mọi mặt hoặc từng vấn đề do cấp dưới đã
thực hiện. Trong trường hợp này, kiểm tra thực hiện trong quan hệ trực thuộc,
vì thế cơ quan hoặc thủ trưởng cấp trên sau khi kiểm tra có quyền áp dụng các
biện pháp như: biểu dương, khen thưởng khi cấp dưới làm tốt hoặc các biện
pháp cưỡng chế để xử lý đối với cấp dưới khi họ có khuyết điểm hoặc vi
phạm pháp luật.
Hoạt động quản lý nhà nước về thanh tra, kiểm tra đối làng nghề truyền
thống được thể hiện thông qua các hình thức như: cơ quan nhà nước tổ chức
thanh tra, kiểm tra đối với các làng truyền thống trong việc chấp hành các quy
định của nhà nước về quy hoạch sản xuất, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm
trong quá trình sản xuất, kinh doanh; đảm bảo vệ sinh môi trường trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, hướng dẫn cơ sở sản xuất về phương hướng hoạt
động và tuân thủ các văn bản quy định của cấp trên,…
Việc thanh tra, kiểm tra, các hoạt động của các làng nghề truyền thống
cần được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất tùy thuộc vào đối tượng và yêu cầu
thực tế nhằm phát hiện những sai sót và kịp thời xử lý những vi phạm tại các
cơ sở sản xuất kinh doanh nếu có.
Thứ 6, Xã hội hóa hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống
Nhà nước với một ngân sách eo hẹp và những nhu cầu lớn về nhiều loại
dịch vụ tối cần thiết khác cần được bảo đảm thì không thể bao cấp cho mọi loại
dịch vụ, sản phẩm, nhu cầu thiết yếu của người dân, cho dù có thu phí dịch vụ.
Trước những mâu thuẫn ngày càng gay gắt trong quan hệ cung cấp dịch vụ
công, nhiều chính phủ đã tiến hành xã hội hóa các dịch vụ này.
Xã hội hóa là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về
18
nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn
hóa, ... phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn là một xu thế lâu dài và
mang tính quy luật. Xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của
nhà nước, giảm bớt phần ngân sách nhà nước; trái lại nhà nước thường xuyên
tìm kiếm các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách chi cho các dịch vụ công, đồng
thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó [18, tr.74].
Thực hiện xã hội hóa hoạt động quản lý và phát triển làng nghề truyền
thống là giải pháp quan trọng để thúc đẩy làng nghề truyền thống phát triển
một cách bền vững. Xã hội hóa trong hoạt động quản lý làng nghề truyền
thống tập trung vào các dịch vụ như xã hội hóa trong dịch vụ đào tạo, xã hội
hóa trong dịch vụ quản lý môi trường tại các làng nghề truyền thống, xã hội
hóa trong việc kêu gọi người dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng tại các làng
nghề truyền thống,... và sự tham gia hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ
trong hoạt động quản lý, phát triển làng nghề truyền thống.
1.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống là sự tác động liên
tục, có tổ chức của nhà nước đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh tại các làng
nghề truyền thống nhằm duy trì và phát triển bền vững các làng nghề truyền
thống theo các mục tiêu mà nhà nước đặt ra. Quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống được thể hiện bởi các đặc điểm sau:
1.2.2.1. Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống khá phức tạp,
liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.
Nhà nước trao thẩm quyền cho các cơ quan quản lý để thực hiện chức
năng nhiệm vụ của mình. Thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước đối
với làng nghề là tổng thể những quyền, nghĩa vụ mang tính quyền lực - pháp
lý do pháp luật quy định. Trên cơ sở, hiến pháp, luật, các cơ quan quản lý nhà
19
nước đối với làng nghề truyền thống ra quyết định mang tính pháp lý bắt buộc
các cơ sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống phải tuân thủ.
Các cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống chỉ hành động
trong phạm vi thẩm quyền của mình. Hiện nay, hoạt động quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống có sự tham gia của các ngành như: Ngành
nông nghiệp – quản lý nhà nước đối với ngành nghề nông thôn; ngành công
thương – quản lý xúc tiến thương mại cho các sản phẩm làng nghề; ngành tài
nguyên môi trường – quản lý sử dụng đất đai và vấn đề môi trường tại các
làng nghề; ngành khoa học và công nghệ - quản lý việc ứng dụng công nghệ
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ xây xây dựng thương hiệu cho
các sản phẩm làng nghề;…
1.2.2.2. Hoạt động quản lý nhà nước đối với các làng nghề truyền
thống rất nhạy cảm, phức tạp.
Cách thức tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở sản
xuất tại các làng nghề đã trở thành nét văn hóa riêng của làng nghề, thành thói
quen của những người lao động tại nơi đây. Vì vậy, khi nhà nước tác động
những chính sách, cơ chế mới rất khó khăn và cần có sự đồng thuận của tất cả
các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề. Ví dụ, phương thức hoạt động
sản xuất tại các làng nghề truyền thống gốm sứ, muốn thay đổi nguyên liệu
dùng để nung sản phẩm là rơm, rạ, than, củi,… bằng cách dùng nhiệt, ga,…
để hạn chế ô nhiễm môi trường, tăng năng suất lao động, giảm chi phí giá
thành,… nhưng để thay đổi thói quen sản xuất của làng nghề là cả một vấn đề
lớn trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống. Nhà
nước phải dùng các phương pháp khác nhau trong hoạt động quản lý như giáo
dục thuyết phục, phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế và cả các
công cụ như pháp luật,… một cách hài hòa thì mới thực hiện tốt hoạt động
20
quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
1.2.2.3. Các cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
được sử dụng nguồn lực công để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình
Nhà nước sử dụng nguồn nhân lực, nguồn tài chính để đảm bảo các
hoạt động thực thi công vụ (tiền lương, thiết bị hỗ trợ hoạt động quản lý, công
tác phí,..) và hỗ trợ cho các cơ sở tại các làng nghề truyền thống trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Ví dụ như nhà nước hỗ trợ đào tạo nghề cho các
lao động của làng nghề thông qua các buổi tập huấn; hỗ trợ các cơ sở tham gia
các chương trình xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm,…
1.2.2.4. Hoạt động quản lý nhà nước đối với các làng nghề truyền
thống mang tính pháp lý và bình đẳng với các đối tượng
Sử dụng đúng đắn quyền lực, thực hiện đúng đắn chức năng và quyền
hạn được trao khi thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, chú trọng đến việc nâng cao
uy tín chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực trí tuệ của người thực thi công
vụ. Phải kết hợp chặt chẽ yếu tố thẩm quyền và uy quyền để để nâng cao được
hiệu lực và hiệu quả hoạt động của một nhà nước, của nhân dân và vì nhân
dân phục vụ [18,tr.54].
Hoạt động quản lý nhà nước đối với các làng nghề truyền thống chịu sự
tác động của các chủ thể trong hệ thống chính trị; vậy, phải chịu sự kiểm soát
của các cơ quan dân cử, các nhóm lợi ích, dư luận quần chúng, các cơ quan
thông tin đại chúng và cử tri. Tất cả các hoạt động quản lý nhà nước đối với
làng nghề đều hướng tới mục tiêu phục vụ người dân, lấy đó làm xuất phát
điểm cho việc xây dựng hệ thống thể, chế, chính sách. [18,tr.56]
1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống
1.2.3.1 Yếu tố về thể chế
Thể chế hành chính nhà nước là hệ thống các quy định xác định mối
21
quan hệ hành chính giữa nhà nước với các đối tượng trong xã hội, hệ thống
quy định quản lý nội bộ cơ quan hành chính, thủ tục hành chính và tài phán
hành chính. Thể chế hành chính nhà nước là căn cứ để xác lập mức độ và
phạm vi can thiệp của nhà nước đối với các cơ sở sản xuất trong làng nghề
truyền thống; là căn cứ để thiết lập nên bộ máy hành chính nhà nước đối với
hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, là căn cứ để xây dựng
đội ngũ nhân sự trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống và là cơ sở để điều chỉnh, sử dụng các nguồn lực của xã hội trong hoạt
động quản lý nhà nước đối với làng nghề. Vì vậy, thể chế hoá của nhà nước
về các mặt tài chính, tiền tệ, giá cả, đầu tư, ngân sách,... phù hợp hay không
phù hợp với kinh tế thị trường cũng ảnh hưởng lớn đến quản lý nhà nước đối
với làng nghề truyền thống.
1.2.3.2 Yếu tố về chính sách
Có nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển làng nghề, trong đó yếu tố
chính sách đóng vai trò quan trọng. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội
quốc gia, vùng, ngành, địa phương, lãnh thổ, loại hình doanh nghiệp… đều
tác động đến mục tiêu, nội dung và phương thức quản lý của nhà nước đối với
làng nghề truyền thống. Quá trình hội nhập và phát triển đòi hỏi cùng với quá
trình đổi mới chính sách. Hệ thống các chính sách của nhà nước tác động rất
lớn và quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và làng nghề
truyền thống nói riêng. Nhà nước thông qua việc xây dựng và ban hành chính
sách, pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hộ và các
doanh nghiệp, đồng thời hỗ trợ về vật chất để tăng cường năng lực của các cơ
sở, doanh nghiệp, hộ gia đình trong việc sản xuất kinh doanh tại làng nghề. Vì
vậy, chính sách là một trong những yếu tố quyết định hiệu quả của hoạt động
quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
22
1.2.3.3. Yếu tố về văn hóa truyền thống, phong tục tập quán
Yếu tố truyền thống có vai trò ảnh hưởng nhất định đối với sự phát
triển làng nghề. Các nghệ nhân là những người có tay nghề cao trong các làng
nghề, là hạt nhân để bảo tồn duy trì và phát triển làng nghề. Những luật, quy
định, tập quán của các làng nghề đã tạo ra những phong cách riêng về đạo đức
nghề nghiệp, tạo nên nét độc đáo để phát triển sản phẩm làng nghề và là các
yếu tố quan trọng để phát triển làng nghề. Vậy, bên cạnh việc gìn giữ những
yếu tố truyền thống, các làng nghề truyền thống phải biết tiếp thu những yếu
tố mới, cải tiến và loại bỏ những quy ước, tập tục lạc hậu,… để các sản phẩm
làng nghề luôn giữ được yếu tố truyền thống kết tinh trong sản phẩm và phải
đáp ứng được thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, các tập tục
lạc hậu đã ăn sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân làng nghề,
vậy nên đây là một trong những vấn đề khó khăn của hoạt động quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống.
1.2.3.4. Yếu tố về cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là điều kiện quan trọng để làng nghề phát triển. Các làng
nghề chỉ có thể phát triển mạnh ở những nơi có hệ thống kết cấu hạ tầng đảm
bảo và đồng bộ. Cơ sở hạ tầng bao gồm: Hệ thống giao thông vận tải, thông
tin liên lạc, điện, nước,… Hiện nay, trong quá trình hội nhập, cạnh tranh gay
gắt, thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng khắp, nguồn nguyên liệu không sẵn có
tại làng nghề nên nhu cầu về hệ thống giao thông vận tải rất quan trọng; hệ
thống giao thông vận tải tốt rất thuận lợi trong việc vận chuyển nguyên liệu,
tạo điều kiện mở rộng thị trường,…Tuy nhiên, hiện nay phần lớn các làng
nghề truyền thống còn đang gặp rất nhiều khó khăn vì điều kiện cơ sở hạ tầng
còn yếu kém và chưa đồng bộ. Vì vậy, đây cũng là yếu ảnh hưởng đến việc
đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
23
1.2.3.5. Yếu tố về nguồn lực
Nghệ nhân: Là những người giỏi nghề nhờ quá trình tích luỹ kinh
nghiệm và rèn luyện tay nghề. Nghệ nhân của các làng nghề làm chủ những
công nghệ sản xuất tinh xảo, đạt tới mức nghệ thuật cao. Nghệ nhân làng nghề
truyền thống không chỉ là những người nắm giữ những bí quyết riêng trong
việc sáng tạo những sản phẩm độc đáo, tinh tế, nghệ nhân còn là người giữ
nghề, bảo đảm cho làng nghề truyền thống tồn tại và phát triển. Nhờ có tài
năng và những bí quyết riêng rất đặc biệt như vậy nên nhiều nghệ nhân làng
nghề truyền thống tạo ra những mặt hàng chất lượng cao và độc đáo mà
không nơi nào khác có thể sản xuất được. Tuy nhiên, hiện nay các nghệ nhân
tại các làng nghề truyền thống tuổi đều cao, nhà nước chưa có chính sách tôn
vinh, khuyến khích và tạo điều kiện để các nghệ nhân đào tạo đội ngũ kế cận
cho các làng nghề truyền thống. Điều này, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Nguồn lực về vốn: Đa phần các cơ sở sản xuất trong làng nghề là qui
mô hộ gia đình và trong hoạt động sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó
khăn nên khả năng tích lũy vốn của các chủ cơ sở là rất thấp, rất khó khăn
trong việc đảm bảo nguồn vốn. Các làng nghề muốn mở rộng sản xuất, đầu tư
trang thiết bị mới, mở rộng thị trường,… đều phải cần có vốn. Việc đầu tư
vốn phụ thuộc vào quy mô sản xuất, đặc điểm sản xuất của từng sản phẩm.
Ngày nay, các sản phẩm làng nghề muốn cạnh trạnh trên thị trường đòi hỏi
cần phải chuyên môn hóa trong tất cả các hoạt động sản xuất, vì vậy nhu cầu
về vốn rất lớn. Vì vậy, để các làng nghề truyền thống tiếp cận được với các
nguồn vốn là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động quản lý
nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Nguồn nhân lực: Đa số làng nghề sản xuất sản phẩm mang tính truyền
thống do vậy mà lao động trong làng nghề được đào tạo cũng theo lối truyền
24
thống. Những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề là những người
truyền nghề, dạy nghề. Các làng nghề hiện tại đa phần lao động là những
người đứng tuổi đã theo đuổi nghề từ lâu; những lao động trẻ phần lớn có tâm
lý không muốn theo đuổi nghề. Ngày nay, việc phát triển sản xuất theo CNH,
HĐH, hội nhập, thị trường cạnh tranh đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực cao.
Các chủ cơ sở sản xuất tại các làng nghề đòi hỏi ngoài kinh nghiệm quản lý
còn cần phải nghệ thuật quản lý, tinh thông, phải am hiểu tất cả các kiến thức
về kinh tế, xã hội, lực lương lao động tại các làng nghề phải thể hiện tính
chuyên môn hóa cao,… nhằm đáp ứng nhu cầu của tình hình mới. Bên cạnh
đó, nguồn lực cán bộ quản lý nhà nước đối với làng nghề đa phần là kiêm
nhiệm, chưa được đào tạo chuyên sâu nên cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Thị trường tiêu thụ: Phần lớn sản xuất tại các làng nghề còn mang nặng
tính chất tự cung, tự cấp do sự hạn chế về khả năng tiếp cận thông tin với thị
trường bên ngoài; đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế khả năng
cung cầu trên thị trường đối với các sản phẩm làng nghề; cản trợ các hoạt
động tiếp nhận, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các công nghệ mới
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống. Nếu không
nắm bắt kịp thời các thông tin về thị trường, về thị hiếu của người tiêu dùng,
về bản sắc dân tộc và văn hóa đặc trưng riêng của thị trường các vùng miền,
các nước,… thì các làng nghề khó mà chủ động trong sản xuất, ảnh hưởng rất
lớn đến khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ của các sản phẩm làng nghề
truyền thống. Vì vậy, việc tìm tìm kiếm, tạo lập thị trường là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống.
1.2.3.6. Yếu tố hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế vừa tạo cơ hội mới vừa đặt ra những thách thức
25
không nhỏ đối với sự tồn tại và phát triển của làng nghề truyền thống.
- Những cơ hội mới chủ yếu cho làng nghề truyền thống của Việt Nam
do hội nhập quốc tế tạo ra bao gồm:
Mở rộng thị trường xuất khẩu cho các làng nghề truyền thống, tạo ra cơ
hội lớn trong giao lưu kinh tế văn hoá giữa các làng nghề truyền thống của
các địa phương với các nước trên thế giới.
Giúp làng nghề truyền thống khắc phục hạn chế về không gian, thời gian
và những khó khăn trở ngại khác trong tiếp cận thị trường thế giới, là cơ hội để
làng nghề truyền thống tìm kiếm cơ hội kinh doanh và mở rộng kinh doanh.
Hội nhập quốc tế là cơ hội để làng nghề truyền thống có thể thu hút vốn,
công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, phát triển
nhân lực thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư, dịch vụ trong quá trình
hội nhập,…
- Những thách thức chính đối với các làng nghề truyền thống trong hội
nhập quốc tế, gồm:
+ Thị trường thế giới luôn biến động khó lường, không ổn định, hậu
quả của khủng hoảng tài chính khu vực và toàn cầu có tác động làm giảm sức
mua nói chung của thị trường, gây tác động tiêu cực rất lớn tới các chủ thể sản
xuất kinh doanh các sản phẩm mang đậm nét văn hóa như các mặt hàng của
làng nghề truyền thống.
+ Hội nhập là cơ hội để tăng lượng khách du lịch đến Việt Nam là thị
trường tiềm năng của các sản phẩm làng nghề truyền thống, vì đa phần các
khách du lịch đều muốn mua những sản phẩm có tính đặc trưng, đậm nét văn
hóa bản địa nhưng các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa biết cách quảng bá,
phổ biến và giới thiệu sản phẩm.
Vì vậy, quá trình hội nhập đòi hỏi cán bộ quản lý nhà nước về làng
nghề và các doanh nghiệp phải năng động, chuyên nghiệp, nhạy bắn và nguồn
26
nhân lực cao. Tuy nhiên, cán bộ quản lý còn thiếu, chưa chuyên nghiệp và
phần lớn các làng nghề truyền thống kế hoạch sản xuất không ổn định, mô
hình tổ chức sản xuất chủ yếu ở các làng nghề là hộ gia đình, nhưng các hộ
gia đình lại không có đủ năng lực, kỷ năng, kinh nghiệm cũng như độ nhạy
bắn trong việc tìm kiếm và phát triển thị trường.
1.3. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một
số tỉnh và bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Nam
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một số
tỉnh
1.3.1.1. Kinh nghiệm của thành phố Huế
Vùng đất Thừa Thiên Huế qua thống kê có hơn 200 làng nghề thủ công
truyền thống. Hiện tại, số nghề và làng nghề truyền thống ở Thừa Thiên Huế
đang hoạt động là 88 làng nghề, trong đó có 69 làng nghề truyền thống.
Những nghề tiêu biểu như: mộc gia dụng, mộc mỹ nghệ, đúc đồng, mây tre
đan, thêu, dệt thổ cẩm, nón lá, may áo dài, sản xuất vật liệu xây dựng, bún
bánh, chế biến nông sản thực phẩm truyền thống cùng nhiều khác đã được
khôi phục tại các địa phương. Bên cạnh đó, có một số nghề mới được du nhập
như đan sợi nhựa, sợi mây xuất khẩu, thêu hàng, mây tre xiên, thêu móc,
compsit mỹ nghệ, chiến biến cau khô xuất khẩu,…
Một số nghề và làng nghề truyền thống phát triển mạnh vừa cung cấp
sản phẩm cho đời sống xã hội, vừa đang thu hút các khách du lịch đến du lịch,
góp phần tạo nên những giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc và đặc trưng của
vùng đất cố đô. Một số làng nghề cũng mạnh dạn đầu tư, tăng năng lực sản
xuất, chú ý đến thương hiệu và chất lượng sản phẩm, một số cơ sở sản xuất
trong làng nghề truyền thống đã di dời vào cụm làng nghề tập trung để thuận
lợi cho việc liên kết, hợp tác, tăng năng lực cạnh tranh trong xu thế hội nhập.
Ngoài ra, thông qua chương trình khuyến công, nhiều nghề và làng
27
nghề truyền thống ở Huế gắn với du lịch được đầu tư khôi phục, phát triển
như: Nghề may áo dài truyền thống Huế, nghề làm nón lá, kẹo mè
xửng,…Địa phương rất quan tâm đến chính sách phát triển vùng nguyên liệu
cho các sản phẩm làng nghề truyền thống.
Sự phát triển nghề và làng nghề truyền thống ở Huế góp phần tăng thu
nhập cho dân cư nông thôn, ổn định cuộc sống; góp phần chuyển dịch cơ cấu
lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới; góp phần tăng
kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) của tỉnh.
Nâng cao đời sống người dân ở vùng có làng nghề truyền thống lên từ 3-5 lần.
Các loại hình dịch vụ cùng hoạt động du lịch đã đóng góp 48% -49% GDP địa
phương, đồng thời góp phần thu hút lượng khách đến Thừa Thiên Huế hàng
năm từ 2,5 -3 triệu lượt, trong đó gần 1 triệu là khách nước ngoài [22].
1.3.1.2. Kinh nghiệm của tỉnh Hà Giang
Việc phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống tỉnh Hà Giang được
các cấp, ngành quan tâm chỉ đạo, nhân dân hưởng ứng tham gia nên từ năm
2011 đến nay, trên địa bàn tỉnh đã phát triển được 33 làng nghề, làng nghề
truyền thống (có 29 làng nghề và 4 làng nghề truyền thống).
Các làng nghề, làng nghề truyền thống sau khi được tỉnh công nhận đã
nhanh chóng ổn định về tổ chức, bầu các chức danh tổ trưởng, tổ phó để quản
lý, chỉ đạo, điều hành công việc; phân công, giao nhiệm vụ cho từng bộ phận
theo điều kiện sản xuất, kinh doanh và đặc thù hoạt động của từng ngành
nghề; căn cứ vào chỉ tiêu, kế hoạch của huyện, của cấp ủy, chính quyền xã về
tình hình phát triển phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, tiềm năng, lợi thế
của làng nghề, hàng năm đều có xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh và
được thông qua tập thể bàn bạc, thống nhất phương án trước khi tổ chức triển
khai thực hiện. Đồng thời, địa phương luôn tìm kiếm và tranh thủ các nguồn
28
hỗ trợ từ các tổ chức phi chính phủ để phát triển làng nghề truyền thống.
Đến nay, các làng nghề đã sản xuất được trên 40 loại sản phẩm khác
nhau. Các sản phẩm làng nghề đã có nhãn hiệu, nhãn hiệu tập thể, thương
hiệu hàng hóa được người tiêu dùng tin tưởng, sử dụng.
Các làng nghề thực hiện tốt công tác tổ chức sản xuất, công tác xúc tiến
thương mại và biết khai thác tiềm năng, lợi thế, chủ động, linh hoạt nắm bắt thị
trường, nhu cầu sử dụng của người dân, đảm bảo chất lượng do vậy sản phẩm
luôn được khách hàng tin tưởng đã chinh phục được khách hàng.
Từ việc chỉ đạo của Tỉnh, của các cấp, các ngành, sự tham gia nhiệt tình
có trách nhiệm của người dân, trong thời gian qua các làng nghề đã thu hút
được nhiều hộ gia đình, người lao động tham gia vào các hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Các làng nghề, làng nghề truyền thống không ngừng phát triển cả
về số lượng, chất lượng và quy mô hoạt động, sản phẩm từng bước được sản
xuất theo hướng hàng hóa, công tác xúc tiến thương mại được quan tâm, một
số sản phẩm đã có nhãn hiệu hàng hóa. Phát triển làng nghề, làng nghề truyền
thống đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn; giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; tạo thêm việc
làm, nâng cao thu nhập, góp phần xây dựng nông thôn mới của tỉnh [19].
1.3.1.3. Kinh nghiệm của tỉnh Thái Bình
Hàng trăm làng nghề truyền thống ở Thái Bình tồn tại lâu đời không
chỉ là nguồn kinh tế chính của người dân nơi đây, mà còn góp phần tạo nên
bản sắc văn hóa cho mỗi vùng quê. Ðể bảo tồn và phát triển làng nghề, tỉnh
ủy Thái Bình đã ra Nghị quyết về bảo tồn và phát triển làng nghề. Từ 53 làng
nghề hoạt động cầm chừng, nay Thái Bình đã có 290 làng nghề, tạo việc làm
cho hàng chục nghìn lao động mỗi năm. Mặc dù được mệnh danh là một
trong những "đất nghề"của cả nước, nhưng các làng nghề sản xuất tiểu thủ
công nghiệp của tỉnh Thái Bình một thời gian dài rơi vào khủng hoảng, trì trệ
29
vì mất thị trường xuất khẩu truyền thống ở các nước Ðông Âu. Từ 82 làng
nghề, đến năm 2000 cả tỉnh chỉ còn 53 làng nghề hoạt động cầm chừng và
chủ yếu dựa vào thị trường trong nước.
Trước sự đi xuống của các làng nghề truyền thống, tỉnh ủy Thái Bình
đã giao cho ngành công nghiệp của tỉnh xây dựng đề án khôi phục và phát
triển làng nghề giai đoạn từ năm 2000 đến 2005 và từ năm 2005 đến 2010.
Trên cơ sở của đề án, Ðảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết về phát triển làng
nghề, Nghị quyết đầu tiên của Ðảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2000 - 2005, xây dựng,
phát triển làng nghề và xác định phát triển nghề, làng nghề là một trong năm
mục tiêu trọng tâm phát triển kinh tế của tỉnh thời kỳ CNH, HÐH đất nước.
Đến nay, cả tỉnh có khoảng 290 làng nghề được cấp bằng công nhận,
100% số xã, phường không nơi nào "trắng nghề". Mỗi năm, các làng nghề
giải quyết việc làm cho từ 15 nghìn đến 20 nghìn lao động với thu nhập từ
600.000 – 2.000.000 đồng/người/tháng. Sản phẩm của làng nghề chiếm
khoảng 30% giá trị sản xuất công nghiệp của toàn tỉnh. Các làng nghề phát
triển ổn định, trở thành những thương hiệu làng nghề nổi tiếng vừa góp phần
phát triển kinh tế và thúc đẩy phát triển du lịch của địa phương [17].
1.3.1.4. Kinh nghiệm của tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hóa được biết đến với nhiều nghề truyền thống. Để làng nghề
ngày càng phát huy được những giá trị tốt đẹp, đặc biệt là gìn giữ nét văn hóa
đặc trưng của mỗi làng nghề truyền thống, tỉnh Thanh Hóa có quyết định
công nhận 30 làng nghề, làng nghề truyền thống và 10 nghề truyền thống.
Theo đó, nghề truyền thống, làng nghề và làng nghề truyền thống được hưởng
các chính sách ưu đãi về phát triển ngành nghề nông thôn theo quy định tại
Nghị định số 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ và các chính sách có liên quan.
Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, chúng ta thấy rõ hơn giá
trị, ý nghĩa nhân văn cao cả, nét đẹp của mỗi làng nghề truyền thống được
30
hình thành nên bởi lớp người đi trước và được gìn giữ, phát huy giá trị bởi thế
hệ con cháu mai sau. Họ không chỉ là những nghệ nhân mà thực sự đang là
những người “giữ lửa” cho mỗi làng nghề. Bởi họ không làm việc chỉ vì lợi
ích kinh tế, đôi khi chỉ là gìn giữ cho con cháu một cái nghề, gìn giữ một nét
đặc trưng của quê hương. Và điểm chung của những làng nghề truyền thống
đó chính là tinh thần đoàn kết của cộng đồng dân cư, đặc biệt là việc cùng
nhau giữ gìn cho được tinh hoa văn hóa mà ông cha để lại trong mỗi nghề
truyền thống,…[9].
1.3.2. Bài học về quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của một số
tỉnh của nước ta mà tỉnh Quảng Nam cần học tập
Từ những kinh nghiệm trong hoạt động quản lý và phát triển làng nghề
truyền thống nêu trên, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho hoạt động quản
lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam như
sau:
Thứ nhất, để hạn chế tình trạng “ly hương” đang ngày càng diễn ra ở
hầu hết ở các làng quê trong cả nước, các địa phương đều có chiến lược phát
triển, khôi phục các làng nghề truyền thống, xem đây là nhiệm vụ quan trọng
để phát triển kinh tế địa phương.
Thứ hai, để các làng nghề truyền thống phát triển bền vững cần có sự
quan tâm, hỗ trợ của nhà nước thông qua việc ban hành các chính sách hỗ trợ,
khuyến khích các làng nghề truyền thống phát triển và phát huy sự nổ lực tự
vươn lên của những người lao động tại làng nghề truyền thống.
Thứ ba, cần phải xây dựng vùng nguyên liệu ổn định cho các làng nghề
truyền thống thông qua công tác quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu cho
các làng nghề truyền thống, điều này rất quan trọng, đây là cơ sở để duy trì
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các làng nghề truyền thống.
Thứ tư, tăng cường công tác bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực quản lý
31
và lực lượng lao động tại các làng nghề truyền thống. Quan tâm và có chế độ
ưu đãi đối với nghệ nhân, thợ cả, thợ giỏi tại các làng nghề truyền thống, chú
trọng đào tạo thế hệ trẻ cho các lao động tại các làng nghề truyền thống.
Thứ năm, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho các cơ
sở sản xuất tại các làng nghề phát triển bền vững; nhà nước quan tâm hỗ trợ
xây dựng thương hiệu cho sản phẩm làng nghề truyền thống, tìm kiếm, mở
rộng thị trường cho sản phẩm làng nghề.
Thứ sáu, phải tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ trong
việc quản lý và phát triển các làng nghề truyền thống.
32
Thứ bảy, phát triển làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch.
Tiểu kết chương 1
Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống là yêu cầu tất yếu để
khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, góp phần phát triển kinh tế xã
hội của địa phương.
Hệ thống hóa các khái niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống và
quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, đặc điểm của làng nghề
truyền thống và đặc điểm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
rất quan trọng, là cơ sở lý luận để nắm vững hoạt động quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống, đánh giá thực trạng hoạt động và đề xuất
giải pháp quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Xác định chủ thể quản lý đối với làng nghề truyền thống: Ở Trung
ương, Chính phủ thống nhất quản lý và giao quyền quản lý cho các Bộ, ngành
liên quan quản lý. Ở địa phương, UBND các cấp thống nhất quản lý và giao
quyền quản lý cho các sở, ban ngành và các phòng ban liên quan tham mưu
trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Nội dung quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống bao gồm:
- Ban hành, hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật,văn bản hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống;
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống;
- Nguồn nhân lực quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống;
- Xây dựng và thực hiện chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền
thống;
- Tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề truyền thống;
33
- Xã hội hóa hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Để hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống có hiệu
quả cần phải nắm vững các yếu tố tác động đến hoạt động quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống; trên cơ sở đó, các chủ thể quản lý biết
tận dụng các yếu tố có lợi trong hoạt động quản lý và biết hạn chế đến mức
thấp nhất đối với các yếu tố bất lợi đối với hoạt động của làng nghề. Đồng
thời, trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống cần
phải biết kế thừa và học tập kinh nghiệm từ các mô hình quản lý có hiệu
quả, đó là kinh nghiệm trong quản lý về phát triển sản xuất, xúc tiến
thương mại, nâng cao nguồn lực, hoạt động thanh tra, kiểm đối với làng
nghề truyền thống,… nhằm để tổ chức tốt hoạt động quản lý nhà nước đối
với làng nghề truyền thống của địa phương.
Hệ thống hóa các kiến thức về làng nghề truyền thống và quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống là cơ sở để tìm ra các giải pháp tốt nhất
34
trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Chương 2
THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TẠI QUẢNG NAM
2.1. Thực trạng làng nghề truyền thống ở Quảng Nam
2.1.1. Khái quát về tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam là một tỉnh ven biển thuộc vùng phát triển kinh tế trọng
điểm của miền Trung, có 16 huyện, thị xã và 2 thành phố, trong đó có 9 huyện
miền núi. Tổng diện tích tự nhiên của Quảng Nam là 1,040,683 ha được hình
thành từ chín loại đất khác nhau gồm cồn cát và đất cát ven biển, đất phù sa
sông, đất phù sa biển, đất xám bạc màu, đất đỏ vàng,... Quảng Nam là tỉnh có
quy mô dân số và lao động trung bình, mật độ dân số thưa so với các tỉnh ở
Việt Nam. Dân số của tỉnh năm 2001 là gần 1.4 triệu người và năm 2015 là
1.48 triệu người. Trong đó, khoảng 82% dân số sống ở nông thôn.
Quảng Nam là vùng đất hội tụ các yếu tố về tự nhiên phong phú, đa
dạng về núi rừng, trung du, đồng bằng, sông nước và biển đảo. Vùng đất ấy
nhiều thổ sản và là vùng đất hội tụ và giao thoa các nền văn hóa khác nhau.
Chính các yếu tố này quyết định đến sự hình thành và phát triển làng, làng
nghề xứ Quảng.
Làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam có lịch sử hình thành rất lâu,
có những làng nghề được hình thành từ hơn 500 năm. Làng nghề truyền thống
có vị trí quan trọng trong sản xuất, đời sống của nhân dân. Trong quá trình tồn
tại, phát triển, chung với số phận làng nghề của cả nước, làng nghề Quảng
Nam có những thăng trầm nhất định. Thời kỳ trước năm 1975, làng nghề sản
xuất phân tán, phát triển chậm, phần lớn lao động của làng nghề di chuyển đi
làm ăn nơi khác hoặc chuyển đến vùng ven đô thị để duy trì sản xuất, lúc này
35
sản lượng sản xuất không lớn.
Sau ngày đất nước thống nhất, Ðảng và Nhà nước ta có những chính
sách đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó tập trung khôi phục và
phát làng nghề, làng nghề truyền thống. Từ đó nhiều làng nghề khôi phục và
phát triển. Sản phẩm sản xuất được nhà nước bao cấp việc cung cấp nguyên
liệu và bao tiêu sản phẩm. Có thể nói rằng, đây là thời kỳ hưng thịnh của các
làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, các sản phẩm phần lớn được xuất
khẩu sang thị trường các nước Ðông Âu và Liên xô (cũ).
Khi nền kinh tế đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường, các cơ sở sản
xuất của làng nghề gặp nhiều khó khăn, bế tắc một mặt do thị trường truyền
thống tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ bị mất, một mặt do cơ sở hoạt động chưa
thích ứng với cơ chế thị trường nên dần dần giảm sút trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Tuy vậy, vẫn có một số làng nghề đã duy trì và phát triển.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, sự quan
tâm, hỗ trợ của các sở ban ngành, sự chỉ đạo trực tiếp của Chính quyền địa
phương trong công tác triển khai thực hiện chủ trương của Chính phủ về
khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, công nghiệp nông thôn.
Nhiều làng nghề được khôi phục và phát triển, đặc biệt đã có một số làng
nghề truyền thống đã phát triển trở thành điểm tham quan của khách du lịch.
2.1.2. Khái quát về làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam
2.1.2.1. Số lượng, sự phân bố làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh
Theo số liệu khảo sát và thu thập từ các cơ quan quản lý, các địa
phương của tỉnh, đến tháng 01 năm 2016, toàn tỉnh Quảng Nam có 46 làng
nghề truyền thống, được phân bố ở các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh
(danh sách cụ thể các làng nghề truyền thống được thể hiện ở phụ lục 1 đính
kèm), trong đó có 22 làng nghề truyền thống được UBND tỉnh công nhận.
Các làng nghề truyền thống phân bố không đều giữa các địa phương,
36
phần lớn tập trung ở các huyện đồng bằng (Đại Lộc, Điện Bàn, Hội An, Duy
Xuyên, Thăng Bình), các huyện miền núi rất ít làng nghề. Tình hình cụ thể về
số lượng và sự phân bố làng nghề, làng nghề truyền thống được thể hiện ở
phụ lục 2 đính kèm.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có một số làng nghề truyền thống đã bị
mai mọt, đến nay chỉ còn lại danh tiếng, hoạt động sản xuất chỉ mang tính
phục vụ cho sinh hoạt của các hộ sản xuất, không mang tính hàng hóa hoặc có
những làng nghề không còn hoạt động sản xuất, như làng nghề mây tre An
Thanh, xã Điện Thắng, thị xã Điện Bàn; làng nghề dệt vải Nông Sơn, xã Điện
Phước, thị xã Điện Bàn; làng nghề xơ dừa xã Tam Hải, huyện Núi Thành.
Nhiều làng nghề truyền thống bị mai mọt là do sự phát triển nhanh của
Khoa học và Công nghệ mà các làng nghề truyền thống không thay đổi kịp,
nguồn nguyên liệu cho sản xuất không được quy hoạch và phát triển, không
có vốn để đầu tư và phát triển, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm,...
2.1.2.2. Nguồn nhân lực tại các làng nghề truyền thống
Theo số liệu điều tra và thu thập thông tin từ các làng nghề truyền
thống trên địa bàn tỉnh về lao động, hiện nay lao động ở hầu hết các làng nghề
truyền thống là thành viên của hộ gia đình; trong đó, chủ hộ là lao động chính,
thường xuyên, con cháu trong gia đình là lao động phụ. Chất lượng lao động
trong các làng nghề thấp, các lao động chủ yếu được đào tạo theo hình thức
truyền nghề trong gia đình, cầm tay chỉ việc. Độ tuổi lao động tại các làng
nghề đa phần là nằm ở độ tuổi từ 40 tuổi đến 60 tuổi. Hầu hết chủ hộ sản xuất
chưa được đào tạo kiến thức về quản trị kinh doanh hay kinh tế thị trường
[13].
Lao động trong các làng nghề truyền thống nhìn chung có thu nhập
tương đối ổn định. Theo kết quả khảo sát các làng nghề trên, thu nhập bình
quân của một lao động/tháng khoảng 2,5 triệu đồng/tháng, bên cạnh đó, có
37
một số làng nghề thu nhập tương đối cao từ 5 triệu đồng/tháng, giải quyết
được đáng kể nhu cầu cuộc sống. Số lao động tại các làng nghề truyền thống
được UBND tỉnh công nhận được thể hiện chi tiết ở phụ lục 3 đính kèm.
2.1.2.3. Môi trường tại các làng nghề truyền thống
Trong hoạt động sản xuất, các làng nghề đều phát sinh các chất thải gây
ô nhiễm môi trường như: Khí thải (khói, bụi, tiếng ồn); nước thải (nước chế
biến nước mắm, nước làm bún, nước phở sắn, nước nhuộm chiếu,...); chất thải
rắn (đay, cói, phẩm màu, phôi bào, dăm bào, gỗ vụn, vải thừa, mây tre, đất sét
nung, bột đồng, than tro,...). Các chất thải này đã được các hộ tự thải trực tiếp
ra không khí, thải trực tiếp ra đất hoặc xử lý thông qua các hình thức như:
Xây dựng hầm rút nước thải hoặc tận dụng làm thức ăn cho chăn nuôi; tự đốt,
tập trung rác thải tại 01 khu vực trong làng nghề, hợp đồng Công ty Môi
trường đô thị thu gom. Nhìn chung, do quy mô nhỏ lẻ, không tập trung, hoạt
động sản xuất làng nghề không ảnh hưởng nhiều đến môi trường, chỉ có một
số làng nghề gây ô nhiễm cục bộ nhưng không đáng kể [13].
2.2. Đặc điểm làng nghề truyền thống và quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam
2.2.1. Đặc điểm làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam
Với bề dày văn hóa của vùng đất Quảng Nam, với sự phong phú, đa
dạng các tiểu vùng sinh thái; tỉnh Quảng Nam có nhiều sản vật nổi tiếng gắn
liền với các làng nghề truyền thống. Vì vậy, làng nghề truyền thống tỉnh
Quảng Nam có những đặc điểm sau:
- Làng nghề truyền thống với các hoạt động ngành nghề đa dạng, sản
phẩm phong phú, đã có đóng góp tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống cho lao động nông thôn, góp phần
quan trọng trong tiến trình xây dựng nông thôn mới và giữ gìn nét văn hóa
38
truyền thống đặc sắc của mỗi miền quê xứ Quảng. Cụ thể, được phân thành
các nhóm nghề: Nghề chế biến nông, lâm, hải sản; nghề thủ công mỹ nghệ;
nghề dệt, nghề may.
- Nguồn nguyên liệu sản xuất tại các làng nghề ngày càng khan hiếm,
không ổn định, giá cao; mẫu mã sản phẩm của làng nghề không đa dạng; giá
thành sản phẩm càng cao, sức cạnh tranh kém.
- Sản xuất tại các làng nghề truyền thống đa số còn manh mún, nhỏ lẻ,
thiếu liên kết, năng suất thấp. Theo số liệu thống kê, hiện nay trong 22 làng
nghề truyền thống được UBND tỉnh công nhận, số cơ sở sản xuất đăng ký
theo mô hình doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) và tổ hợp tác rất ít, chỉ có 13
đơn vị, trong khi đó mô hình quản lý hộ gia đình lên đến 1991 hộ; số liệu chi
tiết được thể hiện ở phụ lục 4 [13]. Vì vậy, trình độ quản lý trực tiếp tại các
làng nghề truyền thống là rất hạn chế, chủ yếu theo quy mô hộ gia đình, các
hộ tự kiêm nhiệm tất cả các khâu từ quản lý đến cung cấp nguyên liệu, tìm
kiếm thị trường để tiêu thụ sản phẩm. Đó là nguyên nhân cơ bản khiến làng
nghề vẫn manh mún, nhỏ lẻ, chưa thể phát triển mạnh, vì kinh doanh hộ khó
tiếp cận với vốn vay, công nghệ, thị trường,…
- Chất lượng lao động tại các làng nghề còn thấp, phần lớn lao động tại
các làng nghề đều ở tuổi trung niên, lớn tuổi, già yếu, mất sức lao động; tư
duy sản xuất tiểu nông, sản xuất theo kiểu lấy công làm lời, tâm lý ngại thay
đổi; chưa thích ứng, năng động, nhạy bén với cơ chế thị trường và đa số chưa
qua đào tạo.
- Hiện nay, thị trường tiêu thụ, các sản phẩm làng nghề truyền thống
chủ yếu là tự tiêu thụ, thị trường tiêu thụ tập trung ở địa phương Quảng Nam
và các tỉnh thành lân cận. Đặc biệt, tỉnh Quảng Nam có hai di sản văn hóa thế
giới là đô thị cổ Hội An và Khu di tích Mỹ Sơn, cùng nhiều cảnh quan thiên
39
nhiên tuyệt đẹp, nên hằng năm lượng khách du lịch đến Quảng Nam thăm
quan rất lớn, lên đến 4 triệu lượt người/năm, đây là thị trường tiềm năng để
tiêu thụ các sản phẩm làng nghề truyền thống.
- Các làng nghề truyền thống của tỉnh có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, ít sử
dụng hóa chất độc hại, lượng chất thải phát sinh không nhiều nên đa số các
làng nghề chưa gây tác động lớn đến môi trường ở mức báo động. Theo khảo
sát từ các địa phương, việc xử lý môi trường tại đa số ở các làng nghề ở các
địa phương đều tốt; tuy nhiên, có 6/46 làng nghề đã và đang gây ô nhiễm môi
trường cục bộ; số liệu cụ thể được thể hiện ở phụ lục 1 đính kèm.
- Nhiều làng nghề truyền thống trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
có gắn với hoạt động phát triển du lịch. Theo kết quả khảo sát có 24/46 làng
nghề truyền thống trong hoạt động sản xuất, kinh doanh có gắn với hoạt động
phát triển du lịch, kết hợp vừa bán sản phẩm làng nghề vừa là điểm đến của
khách tham quan du lịch (số liệu cụ thể được thể hiện ở phụ lục 1 đính kèm).
- Về chiều hướng phát triển của các làng nghề truyền thống, theo khảo
sát có 15/46 làng nghề có chiều hướng phát triển tốt, 24/46 làng nghề chiều
hướng phát triển bình thường và 5/46 làng nghề có chiều hướng mai một (số
liệu cụ thể được thể hiện ở phụ lục 1 đính kèm).
2.2.2. Đặc điểm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tỉnh
Quảng Nam
- Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam rất
khó khăn và phức tạp.
Các làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam phân bố rất rộng,
phân bố tại 14 huyện, thị xã, thành phố và với số lượng làng nghề truyền
thống lên đến 46 làng nghề truyền thống, với cách thức hình thành, tổ chức và
hoạt động sản xuất kinh doanh rất đa dạng với nhiều hình thức khác nhau, nên
40
hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống khó tập trung.
Đồng thời, cùng với sự hội nhập và quá trình toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh
vực khác nhau của nhân loại như thông tin, công nghệ, môi trường, hiểm họa
thiên nhiên, ràng buộc tài chính,... việc quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống đều phải chịu sự chi phối của các quốc gia khác; ví dụ như về giá
cả của các sản phẩm trên thị trường phải phù hợp, có tính cạnh tranh với các
quốc gia khác; chất lượng của các sản phẩm làng nghề cũng đòi hỏi cao hơn,...
- Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống mang tính tổ chức cao.
Các cơ sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống phải luôn
tuân thủ các quy định của cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề; ví dụ
như việc tuân thủ trong quy hoạch, trong các biện pháp bảo vệ môi trường
làng nghề, vấn đề an toàn thực phẩm và cả chiến lược phát triển của làng nghề
vẫn phải nằm trong sự kiểm soát, quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước.
Ví dụ, các làng nghề muốn thay đổi quy mô, quy hoạch vùng nguyên
liệu,... đều phải phù hợp với quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Các làng nghề truyền thống chỉ có thể tồn tại và phát triển mạnh khi
việc quản lý nhà nước về làng nghề có hiệu quả. Vì vậy, nhận thức được vai
trò của hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề nên trong những năm
qua, địa phương luôn hoàn thiện công tác tổ chức để hoạt động quản lý đạt
hiệu quả. Phân chia nhiệm vụ quản lý đối với từng sở ngành liên quan trong
hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề.
- Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam
luôn có tính mục tiêu, chiến lược, chương trình, kế hoạch.
Bảo tồn và phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống tỉnh luôn gắn
với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; khai thác các
tiềm năng lợi thế của địa phương, tạo ra những sản phẩm đặc trưng, mang dấu
ấn, thương hiệu của làng nghề Quảng Nam; phát triển làng nghề để góp phần
41
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, tạo việc làm, tăng thu
nhập, xóa đói giảm nghèo, giảm dần khoảng cách thu nhập giữa thành thị và
nông thôn; phát triển làng nghề phải trên cơ sở phát triển hài hòa giữa sản
xuất hàng hóa với bảo vệ môi trường và gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống của địa phương.
2.3. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống của tỉnh Quảng Nam
2.3.1.Việc ban hành, hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện văn bản
quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường trong hoạt động
quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
Tỉnh Quảng Nam đã chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt các văn bản của
cấp trên; đồng thời, trên cơ sở các văn bản của cấp trên và dựa trên tình hình
thực tế của địa phương, UBND tỉnh Quảng Nam đã ban hành và tổ chức thực
hiện các văn bản liên quan đến quy định, hỗ trợ phát triển các làng nghề
truyền thống trên địa bàn tỉnh.
Trong thời gian từ năm 2011 đến nay, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn
bản để khuyến khích hỗ trợ phát triển làng nghề truyền thống của địa phương.
Sau khi các văn bản được ban hành, các văn bản được phổ biến đến các tổ
chức, cá nhân có liên quan trên địa bàn tỉnh thông qua các hình thức như tuyên
truyền phổ biến trên các phương tiện thông tin, hội thảo, tập huấn và văn bản
được chuyển đến các tổ chức cá nhân có liên quan. Phần lớn các văn bản sau
khi ban hành đã được áp dụng vào thực tế và đem lại hiệu quả trong việc phát
triển các làng nghề truyền thống của địa phương; cụ thể như sau:
- Để kịp thời khuyến khích, thúc đẩy việc đăng ký xác lập quyền sở hữu
công nghiệp tại địa phương và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên
tiến phục vụ quá trình hoạt động quản lý, sản xuất, kinh doanh của các cá
nhân, tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, UBND tỉnh đã ban hành Quyết số
42
20/2012/QĐ-UBND ngày 03/7/2012 của UBND tỉnh về việc ban hành Quy
định hỗ trợ xác lập quyền sở hữu công nghiệp và áp dụng các hệ thống quản
lý chất lượng tiên tiến trên địa bàn tỉnh. Theo đó, từ năm 2012 đến nay đã hỗ
trợ 525.000.000đ/ 53doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền
thống trong hoạt động đăng ký xác lập quyền, hỗ trợ xây dựng hệ thống quản
lý chất lượng cho doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.
- Nhằm khuyến khích, động viên, phát huy vai trò của các nghệ nhân,
thợ giỏi ở địa phương trong việc khôi phục nghề truyền thống, du nhập nghề
mới về địa phương, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 35/2013/QĐ-
UBND ngày 26/12/2013 của UBND tỉnh về việc ban hành quy chế xét tặng
danh hiệu nghệ nhân, thợ giỏi, người có công đưa nghề về địa phương. Đến
nay, trong toàn tỉnh đã có 10 nghệ nhân vinh dự được Chủ tịch nước công
nhận danh hiệu nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú và UBND tỉnh công
nhận danh hiệu nghệ nhân, thợ giỏi cho 16 cá nhân.
- Hiện nay, trên thị trường có nhiều sản phẩm giả mạo, được sản xuất
từ nơi khác và dán nhãn là sản xuất tại Quảng Nam. Vì vậy, người tiều dùng
khó xác định được nguồn gốc và xuất xứ của sản phẩm. Trước thực trạng đó,
ngày 07/5/2015 của UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 1619/QĐ-UBND
về việc ban hành “Con dấu xác thực” đối với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ
và Tiêu chí xét chọn sản phẩm thủ công mỹ nghệ được sử dụng “Con dấu xác
thực” tại Quảng Nam. Văn bản được ban hành nhằm giúp người tiêu dùng,
khách du lịch chọn đúng sản phẩm thủ công mỹ nghệ, sản phẩm làng nghề
truyền thống sản xuất tại địa phương, UBND tỉnh giao cho Hiệp hội thủ công
mỹ nghệ tỉnh Quảng Nam là cơ quan sở hữu và quản lý “Con dấu xác thực”.
Đến nay, một số sản phẩm của làng nghề truyền thống đã được cấp con dấu
xác thực như: Đúc đồng Phước Kiều, mộc Kim Bồng, gốm Thanh Hà, Đan lát
Tam Vinh,… Văn bản nhận được sự đồng thuận rất cao từ người tiêu dùng.
- Để có cơ sở xét công nhận làng nghề, làng nghề truyền thống theo các
43
văn bản của cấp trên và phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, UBND
tỉnh đã ban hành Quyết định số 19/2015/QĐ-UBND ngày 09/7/2015 về việc
ban hành quy định công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền
thống tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, trên toàn tỉnh đã có 6 làng nghề, 22 làng
nghề truyền thống được UBND tỉnh công nhận còn tồn tại và phát triển. Đây
là cơ sở để nhà nước khuyến khích, hỗ trợ các chính sánh để làng nghề ngày
càng phát triển và tạo động lực cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các
làng nghề đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
- UBND tỉnh đã phê duyệt và ban hành đề án quản lý chất thải rắn tại
các vùng nông thôn tỉnh Quảng Nam đến năm 2020 tại Quyết định 3983/QĐ-
UBND ngày 06/12/2012; thực hiện đề án, các địa phương, trong đó có các
làng nghề truyền thống đã hình thành các tổ chức dịch vụ thu gom rác thải,
người dân khu vực nông thôn tích cực hưởng ứng, kết quả mang lại rất khả
quan; đến nay có 75,8% số xã xây dựng nông thôn mới có điểm thu gom rác
thải sinh hoạt [23].
Ngoài ra, cơ quan quản lý thường xuyên tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến văn bản cấp trên, kiến thức pháp luật về doanh nghiệp, làng
nghề, về hội nhập kinh tế quốc tế WTO; tổ chức các hội thảo, tập huấn về các
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam, nhằm giúp doanh nghiệp, làng nghề
trên địa bàn tỉnh nắm bắt kịp thời các văn bản cấp trên, quy định pháp luật,
phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của các cơ sở tại làng nghề.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động quản lý nhà nước về
việc ban hành, hướng dẫn, tổ chức, triển khai thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật, văn bản hành chính thông thường tại địa phương vẫn còn nhiều bất
cấp; cụ thể như:
- Một số văn bản đã ban hành, tuy nhiên không thể áp dụng thực hiện,
do thiếu thực tế, thiếu nguồn kinh phí triển khai và đồng thời còn mang tính
chất chung chung, không cụ thể, ví dụ như: UBND tỉnh đã ban hành Quyết
44
định số 2298/QĐ-UBND ngày 26/7/2013 về Đề án điều chỉnh, bổ sung quy
hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN) trên địa ban
tỉnh Quảng Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025; Đề án có đề cập một
số nội dung có cụ thể về ngành nghề nông thôn, làng nghề nhưng chưa đủ để
là Quy hoạch về phát triển ngành nghề nông thôn theo tinh thần Nghị định số
66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 và Thông tư số 116 /2006/TT- BNN, ngày
18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng dẫn thực
hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của
Chính phủ - phát triển ngành nghề nông thôn. Vì vậy, đến nay tỉnh Quảng
Nam vẫn chưa có quy hoạch phát triển sản xuất làng nghề tập trung. Hoặc
Quyết định số 1222/QĐ-UBND, ngày 07/4/2015 của UBND tỉnh về việc phê
duyệt Đề án Phát triển làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015 – 2020, Đề án đã ban hành nhưng
không có kinh phí thực hiện.
- Hầu hết tại các địa phương có các làng nghề truyền thống cũng chưa
xây dựng được các văn bản riêng về hoạt động quản lý và phát triển làng nghề
truyền thống cho địa phương mình. Hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn và
phổ biến các văn bản liên quan chưa được triệt để. Ví dụ, như chính sách về
hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề chưa phổ biến kịp
thời đến các làng nghề truyền thống.
- Chưa xây dựng được quy hoạch ngành nghề nông thôn, vì vậy đa số
nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất của các làng nghề truyền thông đều
bị khan hiếm, không có sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý với các hộ
sản xuất kinh doanh trong làng nghề,...
2.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam
Thứ nhất, hoạt động quản lý nhà nước đối với các làng nghề còn phân
45
tán, chồng chéo.
Hoạt động quản lý nhà nước không có sự thống nhất trong đầu mối quản
lý; vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước của địa phương đối với làng nghề
truyền thống còn lúng túng và nhiều bất cập; mỗi sở, ngành thực hiện chức
năng khác nhau, cụ thể như sau:
Theo Quyết định số 35/2015/QĐ-UBND ngày 3/12/2015 của UBND
tỉnh Quảng Nam về việc ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Nam, theo đó Sở NN
&PTNT là cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương về làng nghề, có trách
nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá tình hình phát triển của các làng nghề
nông thôn trên địa bàn tỉnh.
Theo Quyết định số 30/2015/QĐ-UBND ngày 27/10/2015 của UBND
tỉnh Quảng Nam về việc ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Sở Công thương tỉnh Quảng Nam, có quy định, theo đó
Sở Công thương là cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương về tiểu thủ công
nghiệp. Sở Công thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ
chức thực hiện chương trình, đề án, cơ chế, chính sách, kế hoạch phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh (bao gồm
các ngành nghề, làng nghề nông thôn, các HTX thuộc lĩnh vực công thương).
Ngoài ra, còn có các Sở, ngành khác được UBND tỉnh giao quyền quản
lý: Quản lý nhà nước về công nghệ, quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ là Sở
KH&CN tại Quyết định số 20/2015/QĐ-UBND ngày 13/7/2015 của UBND tỉnh
Quảng Nam về việc Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam. Quản lý nhà nước về môi
trường làng nghề là Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) được quy định
tại Quyết định số 22/2015/QĐ-UBND ngày 30/7/2015 của UBND tỉnh Quảng
Nam về việc Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
46
Sở Tài nguyên và Môi trường. Quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa là Sở Văn hóa – Thể thao Du lịch (VH-TTDL) được quy định tại
Quyết định số 27/2008/QĐ-UBND ngày 15/8/2008 của UBND tỉnh Quảng
Nam về việc Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam,…
Thứ hai, hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
trên địa bàn tỉnh chưa có sự thống nhất và theo tính thứ bậc.
Hiện nay, mặc dù việc quản lý nhà nước về ngành nghề, làng nghề ở tỉnh
đã giao Sở NN&PTNT quản lý; tuy nhiên, ở cấp huyện, cơ quan tham mưu
UBND huyện trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề đa số do
phòng Kinh tế Hạ tầng đảm nhận (riêng chỉ có huyện Duy Xuyên, huyện Phú
Ninh,thành phố Tam Kỳ, thị xã Điện Bàn, thành phố Hội An thì giao cho
Phòng NN&PTNT/phòng kinh tế quản lý). Đây là việc bất cập trong hoạt động
quản lý nhà nước theo ngành dọc; vì theo quy định về chức năng quản lý nhà
nước về hoạt động chuyên môn từ tỉnh xuống huyện thì phòng Kinh tế Hạ tầng
do Sở Công thương quản lý; tuy nhiên, ở cấp tỉnh hoạt động quản lý nhà nước
đối với làng nghề thuộc chức năng của Sở NN&PTNT. Do đó, Sở NN&PTNT
đang gặp khó khăn trong chỉ đạo điều hành. Mọi hoạt động quản lý nhà nước
theo chiều dọc từ tỉnh xuống huyện không được chỉ đạo xuyên suốt.
Cán bộ xã, phường, thị trấn là lực lượng trực tiếp quản lý các hoạt động
sản xuất kinh doanh tại địa phương; tuy nhiên, trong thời gian qua chính
quyền địa phương chưa chú tâm đến việc xây dựng, đào tạo lực lượng này
tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Dựa trên quy định chức năng nhiệm vụ của các sở ngành, địa phương liên
quan trên địa bàn tỉnh và phiếu điều tra khảo sát, chúng tôi mô phỏng lại bộ máy
tổ chức hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống của tỉnh
47
Quảng Nam qua sơ đồ 1.
UBND cấp tỉnh
Sở NN&PTNT
Sở Công Thương
Sở KH&CN
Sở VH –TT DL
Sở TN&MT
Tham mưu hoạt động nhà nước về môi trường làng nghề
Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (trong đó có cả các làng nghề)
Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về công nghệ, sở hữu trí tuệ
Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, phát triển du lịch gắn với làng nghề
UBND cấp huyên
P.NN&PTNT/Kinh tế
P.Kinh tế - hạ tầng
P.VH,TT&DL
P. TN-MT
Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề Nông thôn
Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về môi trường làng nghề
Tham mưu hoạt động nhà nước về làng nghề (gồm 13 huyện)
Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, phát triển du lịch gắn với làng nghề
UBND cấp xã
Tham mưu hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề (gồm 5 huyện/thị xã/thành phố: Tam Hội An, Điện Bàn Phú Ninh và Duy Xuyên)
Ban NN/Kinh tế
Sơ đồ 1. Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề tỉnh Quảng Nam
48
Nhìn vào sơ đồ ta thấy, bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với
làng nghề truyên thống của tỉnh Quảng Nam rất cồng kềnh, ở cấp tỉnh gồm
năm (05) sở ngành cùng tham gia quản lý, ở cấp huyện do hai (02) phòng
chuyên môn khác nhau tham gia quản lý,… điều này rất khó khăn trong hoạt
động điều hành quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
2.3.3. Nguồn nhân lực trong quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống tỉnh Quảng Nam
Nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống của tỉnh chưa đủ, chưa hợp lý.
Đối với cấp tỉnh, Sở NN&PTNT là cơ quan quản lý nhà nước về ngành
nghề, làng nghề; tổ chức hành chính nhà nước trực thuộc sở NN&PTNT giúp
Sở tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các
làng nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh là Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh.
Chi cục Phát triển nông thôn chịu sự chỉ đạo, quản lý của Sở NN&PTNT theo
quy định của pháp luật. Bộ máy tổ chức gồm: Chi cục trưởng và 02 Phó Chi
cục trưởng; 04 phòng chuyên môn nghiệp vụ, trong đó có phòng Phát triển
Nông thôn, có nhiệm vụ tham mưu quản lý nhà nước về hoạt động làng nghề
của tỉnh. Phòng Phát triển Nông thôn có 01 trưởng phòng, 01 phó phòng và
03 chuyên viên, có trình độ đại học trở lên, chuyên ngành kỹ sư nông nghiệp,
kinh tế nông nghiệp phát triển nông thôn. Với lực lượng như vậy, rất khó
khăn trong hoạt động quản lý nhà nước đối với 46 làng nghề truyền thống
phân bố rải rác ở 14 huyện thị xã thành phố trong cả tỉnh (Vì ngoài nhiệm vụ
quản lý nhà nước về làng nghề, phòng Phát triển nông thôn còn thực hiện các
49
chức năng quản lý nhà nước khác như: xây dựng nông thôn mới, đào tạo nghề
cho lao động nông thôn, hoạt động quản lý nhà nước về tích tụ ruộng đất, mỗi
xã một sản phẩm,...)
Ở cấp huyện, phòng Kinh tế/ Kinh tế Hạ tầng (một số địa phương là
phòng NN&PTNT/phòng Kinh tế) đảm nhận nhiệm vụ quản lý nhà nước về
làng nghề tại địa phương; đa số các phòng bố trí 01 chuyên viên phụ trách
hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề tại địa phương (một số địa phương
bố trí 02 cán bộ như thành phố Hội An, thị xã Điện Bàn, huyện Quế Sơn,
huyện Đông Giang). Chuyên viên phụ trách hoạt động về làng nghề thực hiện
rất nhiều nhiệm vụ quản lý nhà nước ở các lĩnh vực khác trong đó có kiêm
nhiệm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về làng nghề. Vì vậy, hoạt động
quản lý nhà nước đối với làng nghề tại địa phương không được đẩy mạnh và
không chặt chẽ. Qua phiếu khảo sát điều tra tại các địa phương hầu hết các
nguồn lực thực hiện quản lý nhà nước về làng nghề tại địa phương còn gặp rất
nhiều khó khăn trong quá trình thực thi công vụ như: Thiếu kinh nghiệm,
không được đào tạo, tập huấn nhiều, việc tiếp cận các văn bản cấp trên còn sơ
sài, chưa nắm rõ các đầu công việc để báo cáo cơ quan quản lý cấp trên.
Chuyên viên phụ trách hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề tại các
phòng Kinh tế Hạ tầng và phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của các
huyện/thị xã/thành phố trên địa bàn tỉnh đều có trình độ đại học; tuy nhiên, về
chuyên ngành đào tạo của các chuyên viên ở mỗi địa phương khác nhau; bao
gồm: Cử nhân kinh tế phát triển nông thôn, kỹ sư nông nghiệp, cử nhân kinh
tế, cử nhân môi trường, cử nhân sinh học,....
Nhìn chung, với đội ngũ nguồn nhân lực hiện có tại địa phương mới
đáp ứng nhu cầu cơ bản về quản lý nhà nước đối với làng nghề, làng nghề
50
truyền thống. Để hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề, làng nghề truyền
thống có những bước đột phá cần phải tăng cường nguồn nhân lực cho các địa
phương. Chỉ có tạo ra nguồn nhân lực quản lý chuyên nghiệp, có kiến thức,
kinh nghiệm, chuyên môn vững, thì mới có thể phát triển các làng nghề theo
hướng bền vững và lâu dài.
2.3.4. Xây dựng và thực hiện chính sách quản lý phát triển đối với làng
nghề truyền thống
Thứ nhất, Để đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh tại các làng
nghề truyền thống của tỉnh, UBND tỉnh đã hỗ trợ vốn đầu tư cho các làng
nghề truyền thống thông qua các dự án đầu tư phát triển làng nghề.
Từ năm 2011 đến năm 2016, các địa phương trong toàn tỉnh đã xây
dựng và ban hành thực hiện 12 dự án hỗ trợ đầu tư cho các làng nghề truyền
thống với tổng nguồn vốn là 114.615 triệu đồng, trong đó, nguồn vốn từ ngân
sách nhà nước là 85.481 triệu đồng [13].
Có thể thấy, trong những năm qua, nhà nước đã quan tâm đến việc khôi
phục và phát triển các làng nghề truyền thống; tuy nhiên, mức kinh phí hỗ trợ
vẫn còn hết sức hạn chế, từ năm 2011 đến 2016 chỉ hỗ trợ 12 dự án cho 12
làng nghề truyền thống trên 22 làng nghề truyền thống được công nhận. Đồng
thời, từ năm 2011 đến năm 2016, bằng nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi, UBND
tỉnh mới phân bổ cho các địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng làng nghề với số
tiền được phân bổ là 27.177 triệu đồng; mức hỗ trợ mới đạt khoảng 32% so
với mức kinh phí được xây dựng trong các dự án (27.177 triệu đồng/85.481
triệu đồng).
Các nội dung hỗ trợ chủ yếu tập trung hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng là
đường giao thông làng nghề, nhà trưng bày, cổng chào; không chú trọng vào
các chính sách hỗ trợ về vốn, lãi suất, kĩ thuật, trang thiết bị để giúp cho các
51
làng nghề dễ dàng trong công tác triển khai sản xuất kinh doanh. Số liệu cụ
thể về các dự án và nguồn vốn được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước được thể
hiện tại bảng số liệu 2.1[13].
TT
Danh mục dự án
Chủ đầu tư
Tổng vốn đầu tư
Ngân sách nhà nước hỗ trợ
Bảng 2.1 Các dự án hỗ trợ đầu tư cho các làng nghề truyền thống được phân bố theo các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh (tính đến năm 2016)
6,258
4,600
1.500
1
UBND xã Tam Vinh
3,255
3,255
1.500
2
14,899
7,812
1,450
3
UBND huyện Quế Sơn UBND huyện Duy Xuyên
9,737
6,976
1,250
4
UBND thị xã Điện Bàn
Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống đan lát xã Tam Vinh, Tam Kỳ Đường vào làng nghề chổi đót Quế Xuân 1 Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa Mã Châu gắn với phát triển du lịch Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống đúc nhôm, đồng Phước Kiều gắn với phát triển du lịch xã Điện Phương
7,614
7,614
2,000
5
7,740
7,740
1.400
6
UBND TP Hội An Huyện Nam Giang
9,978
9,978
1,500
7
UBND huyện Duy Xuyên
38,808
25.000
8.577
Trung tâm làng nghề tre - dừa nước Cẩm Thanh Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống dệt thổ cẩm Zara, xã Tabhing Đầu tư xây dựng hạ tầng gắn với phát triển du lịch Làng nghề dệt chiếu An Phước Làng nghề Đông Khương
8
3.598
2.877
1.800
9
Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống dệt chiếu cói Thạnh Tân
9,986
6,929
3.500
10 Làng nghề thủ công mỹ nghệ Dó Trầm Hương, xã Quế Trung
UBND thị xã Điện Bàn UBND xã Tam Thăng, Tam Kỳ UBND huyện Nông Sơn
2.742
1.500
1.500
11 Làng nghề truyền thống mộc
UBND huyện Phú Ninh
Văn Hà
52
Đơn vị tính: triệu đồng Ngân sách nhà nước đã hỗ trợ
1.200
1.200
1.200
UBND huyện Thăng Bình
12 Nâng cấp đường cảnh quang vào làng nghề nướcmắm Cửa Khe, xã Bình Dương
Tổng cộng
114.615
85.481
27.177
(Nguồn: Báo cáo Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Nam) Thứ hai, Quảng Nam bước đầu cũng đã có chính sách hỗ trợ các làng
nghề truyền thống xác lập quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm.
Tính đến tháng 01 năm 2016, hiện nay, trên toàn tỉnh đã có 14 /46 sản
phẩm làng nghề truyền thống được nhà nước hỗ trợ bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp dưới các hình thức nhãn hiệu tập thể. Các làng nghề truyền thống trên
địa bàn tỉnh đã xác lập quyền sở hữu công nghiệp dưới hình thức nhãn hiệu
tập thể được thể hiện chi tiết ở phụ lục 5 đính kèm.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đăng ký nhãn hiệu cho các sản
phẩm đặc trưng, sản phẩm làng nghề, ngày 26 tháng 10 năm 2016 của UBND
tỉnh Quảng Nam đã ban hành Kế hoạch số số 5308/KH-UBND về việc “Tạo
lập, quản lý và phát triển quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm đặc, sản
phẩm làng nghề truyền thống”. Mục tiêu của Kế hoạch là đến năm 2020, hoàn
thành việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho 32 sản phẩm đặc
trưng, sản phẩm làng nghề; xây dựng và vận hành có hiệu quả mô hình hệ
thống tổ chức quản lý, phát triển quyền sở hữu nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu
chứng nhận cho 26 sản phẩm đặc trưng, sản phẩm làng nghề.
Nhìn chung, vấn đề xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề
bắt đầu đã được quan tâm nhưng vẫn chưa đúng mức, chưa chủ động, tích cực
trong việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, điều này ảnh hưởng rất lớn
đến việc khai thác thị trường và tạo lòng tin cho người tiêu dùng đối với các
sản phẩm làng nghề.
Thứ ba, hỗ trợ các chính sách phát triển làng nghề truyền thống gắn với
phát triển du lịch cũng được UBND tỉnh Quảng Nam quan tâm. Một số làng
53
nghề tại thị xã Điện Bàn, thành phố Hội An, huyện Duy Xuyên,… được sự hỗ
của nhà nước nên bện cạnh việc phát triển sản xuất, các làng nghề đã thu hút
một lượng khách du lịch rất lớn đến địa phương.
2.3.5. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề truyền thống
Thanh tra, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý nhà
nước, được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Hoạt động
thanh tra, kiểm tra nếu được diễn ra đúng quy định và thường xuyên theo định kỳ
hoặc đột xuất khi cần thiết sẽ giúp cho làng nghề truyền thống phát triển bền
vững.
Khi tổ chức thanh tra, kiểm tra sẽ kịp thời phát hiện những sai trái trong
hoạt động của các làng nghề truyền thống để xử phạt, hướng dẫn cho các làng
nghề thực hiện tốt hơn.
Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế, hoạt động quản lý nhà nước về thanh
tra, kiểm tra hầu hết không diễn ra theo đúng quy định, không tổ chức thanh
kiểm tra định kỳ và không thường xuyên; vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống chưa được chặt chẽ và còn nhiều hạn chế. Bên
cạnh đó, một số địa phương thiếu quan tâm, không điều tra, khảo sát, không
thanh tra, kiểm tra để nắm thông tin về tình hình hoạt động tại các làng nghề
truyền thống (huyện Thăng Bình, huyện Phú Ninh); do vậy, rất lúng túng khi
cập nhật các số liệu, không phản ánh đúng thực tế tại làng nghề truyền thống.
Số liệu cụ thể về hoạt động thanh, kiểm tra tại các làng nghề truyền
54
thống được thể hiện tại bảng số liệu 2.2.
Bảng 2.2. Số liệu về hoạt động thanh kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà
nước đối với các làng nghề truyền thống
TT Tên huyện, thị xã,
thành phố
thực hoạt thanh
Định kỳ thực hoạt hiện động thanh, kiểm tra Không hiện động kiểm tra
Hoạt động thanh kiểm tra các làng nghề truyền thống tại địa phương Không thường xuyên thực hiện hoạt động kiểm thanh, tra
x
Sở NN&PTNT Thị xã Điện Bàn Thành phố Hội An Huyện Đại Lộc Huyện Duy Xuyên Huyện Quế Sơn Huyện Nông Sơn Huyện Thăng Bình Huyện Phú Ninh x x x x x x x x
x
x
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Thành phố Tam Kỳ 11 Huyện Núi Thành 12 Huyện Bắc Trà My 13 Huyện Nam Giang 14 Huyện Tây Giang 15 Huyện Đông Giang
x x x x (Nguồn: Thu thập từ phiếu điều tra của Luận Văn)
2.3.6. Xã hội hóa và hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý nhà nước đối
với các làng nghề truyền thống
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc ưu tiên đầu tư ngân sách để thực
hiện các cơ chế, chính sách, nhưng do nguồn kinh phí còn hạn hẹp, nên việc
phân bổ ngân sách hằng năm để thực hiện một số đề án, cơ chế còn thấp, chưa
đáp ứng được nhu cầu thực tế. Một số đề án, như: Đề án phát triển sản xuất
nông, lâm sản góp phần giảm nghèo khu vực miền núi tỉnh Quảng Nam giai
đoạn 2014 – 2016; Đề án phát triển làng nghề truyền thống, gắn với du lịch...
55
đã được UBND tỉnh có quyết định phê duyệt, nhưng thiếu kinh phí để triển
khai thực hiện. Xác định nhân dân là lực lượng đông đảo nhất, là chủ thể
trong xây dựng làng nghề truyền thống của địa phương, thời gian qua, công
tác tuyên truyền, vận động luôn được các địa phương chú trọng, triển khai sâu
rộng tới quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau, nội dung
truyền tải phong phú, đa dạng nên đã tạo được những chuyển biến lớn, khích
lệ cả về tư tưởng, nhận thức và hành động, nhân dân tích cực đóng góp ngày
công, hiến đất, tiền mặt để xây dựng các công trình phục vụ xây dựng nông
thôn mới trong đó có phục vụ sản xuất làng nghề truyền thống; cụ thể như
sau:
Trong 5 năm qua đã bê tông hóa hơn 1.552 km đường giao thông nông
thôn và 390 km giao thông nội đồng, cứng hóa 2.798 km giao thông nông
thôn, nâng tổng chiều dài đường giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh được
bê tông hóa lên 4.200 km/6.560 km (đạt tỉ lệ 66%), bộ mặt nông thôn không
ngừng đổi mới. Kinh phí đã huy động trên 1.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách
tỉnh hỗ trợ trên 450 tỷ đồng, ngân sách huyện là nhân dân đóng góp trên 550
tỷ đồng [23]. Sự tham gia của nhân dân trong việc thực hiện các dự án phát
triển làng nghề sản xuất được thể hiện ở bảng số liệu 2.3 [13].
TT
Danh mục dự án
Chủ đầu tư
Tổng vốn đầu tư
Bảng 2.3 Các dự án hỗ trợ đầu tư cho các làng nghề truyền thống có sự tham gia huy động đóng góp từ nhân dân
6.258
Trong đó ngân sách nhà nước hỗ trợ 4.600
1.658
UBND xã Tam Vinh
1 Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống đan lát xã Tam Vinh, Tam Kỳ
14.899
7.812
7.087
UBND huyện Duy Xuyên
2 Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa Mã Châu gắn với phát triển du
56
ĐVT: Triệu đồng Vốn huy động từ nhân dân và nguồn khác
lịch
9.737
6.976
2.761
UBND thị xã Điện Bàn
3 Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống đúc nhôm, đồng Phước Kiều gắn với phát triển du lịch xã Điện Phương Làng nghề Đông Khương
4
38.808
25.000
13.808
3.598
2.877
721
UBND thị xã Điện Bàn UBND xã Tam Thăng
6
9.986
6.929
3.057
7
2.742
1.500
1.242
5 Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống dệt chiếu cói Thạnh Tân, xã Tam Thăng, Tam Kỳ Làng nghề thủ công mỹ nghệ Dó Trầm Hương, xã Quế Trung, Làng nghề truyền thống mộc Văn Hà
UBND huyện Nông Sơn UBND huyện Phú Ninh
Tổng cộng
114.615 85.481
29.134
(Nguồn: Báo cáo Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Nam)
Nhìn vào bảng số liệu, tỷ lệ đóng góp của người dân đạt 25%, thể hiện
tinh thần và trách nhiệm của người dân trong vấn đề xã hội hóa về quản lý và
phát triển làng nghề truyền thống.
Vai trò của quần chúng nhân dân, doanh nghiệp và chủ đầu tư là rất
quan trọng để phát triển các làng nghề truyền thống. Qua khảo sát, trong năm
qua các địa phương đều huy động vốn trong nhân dân để phát triển làng nghề
truyền thống (tham gia ngày công lao động, hiến đất để phát triển đường giao
thông vào làng nghề truyền thống,…) nhưng ở mức rất thấp.
Bên cạnh sự hỗ trợ, đầu tư của nhà nước và huy động các nguồn lực
trong nhân dân, các tổ chức quốc tế cũng đã quan tâm, hỗ trợ phát triển nhiều
chương trình, dự án, trong đó, có một số chương trình, dự án có liên quan đến
hỗ trợ phát triển các làng nghề. Một số dự án do các tổ chức phi chính phủ hỗ
57
trợ phát triển làng nghề truyền thống được thể hiện ở bảng số liệu 2.4
Bảng 2.4 Các dự án do các tổ chức phi Chính phủ hỗ trợ đầu tư cho các
làng nghề truyền thống [13]
TT 1 Tổ chức tài trợ ILO, SILT
2
Danh mục dự án Tăng cường hoạt động du lịch tại các huyện sâu trong đất liền ở Quảng Nam Phát triển sản phẩm thủ công dấu ấn và du lịch làng nghề tại Quảng Nam
3 thác Quỹ Tín Hàn Quốc tài trợ với sự phối hợp với các đối tác có liên quan JICA
Phát triển kinh tế địa phương nhờ phát triển sản phẩm mới, xây dựng thương hiệu và phân phối sản phẩm nông nghiệp, hàng thủ công mỹ nghệ lấy trọng tâm là Trạm dừng nghỉ đường bộ
4 Dự án phát triển du lịch bền vững tại Thừa Thiên UNESCO, ILO
5 JICA
Huế- Quảng Nam giai đoạn 2014-2015 Phát triển kênh bán hàng thông qua liên kết giữa địa phương với sản phẩm địa phương và du lịch – Mở rộng sản xuất rau an toàn và Phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống” Nội dung của các dự án hỗ trợ tập trung vào các nội dung: Hỗ trợ mua
sắm máy móc, thiết bị; các điểm trưng bày, bán hàng sản phẩm đặc trưng; tư
vấn kỹ thuật; xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề; đào tạo, tập
huấn về các kỹ năng quản lý, kỹ năng làm du lịch gắn với phát triển làng nghề
truyền thống, cách tìm kiếm thị trường, cách quảng bá sản phẩm làng nghề,...
Việc hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, đã giúp cho các đối tượng làng nghề nâng
cao được nhận thức, kỹ năng, tư duy quản lý, tay nghề, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của làng nghề tại Quảng Nam.
2.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
2.4.1. Những yếu tố thuận lợi cho hoạt động quản lý nhà nước đối
58
với các làng nghề truyền thống
- Tỉnh Quảng Nam rất quan tâm và có nhiều chủ trương, chính sách phát
triển làng nghề truyền thống tại các địa phương trên toàn tỉnh: UBND tỉnh đã
ban hành chính sách điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển công nghiệp tiểu
thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; chính sách tặng danh hiệu nghệ
nhân, thợ giỏi, người có công đưa nghề về địa phương. Nhận thức được vai trò
của nguồn nhân lực, tỉnh đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển, tôn vinh các
nghệ nhân, thợ giỏi trong làng nghề; vì vậy, lực lượng thợ giỏi, tay nghề cao
của tỉnh rất lớn.
- Quảng Nam là tỉnh đi lên từ nông nghiệp, có lượng đất phù sa màu
mở thuận lợi để phát triển các loại cây trồng; vì vậy, tỉnh Quảng Nam có
nhiều lợi thế để phát triển vùng nguyên liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất
của làng nghề. Đồng thời, tỉnh ta có bờ biển kéo dài 125 km là tiềm năng để
khai thác thủy sản và phát triển các làng nghề truyền thống về chế biến hải
sản như sản xuất nước mắm,… hoạt động quản lý nhà nước rất thuận lợi trong
việc mở rộng quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với các làng nghề
truyền thống.
- Người Quảng Nam lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ và có
truyền thống sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ từ bao đời nay, hình thành lên
các làng nghề nổi tiếng, sản phẩm làng nghề được người tiêu dùng trong và
ngoài nước ưa chuộng ,… rất thuận lợi để triển khai hoạt động quản lý phát
triển làng nghề.
- Được sự quan tâm của nhà nước thông qua các chương trình, đề án,
dự án và đề tài khoa học công nghệ, một số làng nghề truyền thống đã được
hỗ trợ các công nghệ, thiết bị mới vào các công đọan sản xuất, kết hợp giữa
kỹ thuật hiện đại và kỹ thuật truyền thống để nâng cao chất lượng sản phẩm,
tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên
59
thị trường.
- Việt Nam được đánh giá là nước có môi trường chính trị, an ninh xã
hội đảm bảo. Đồng thời, Chính phủ nước ta đã có những nỗ lực trong việc thể
chế hóa hệ thống pháp luật, cải cách hành chính nhất là sau khi tham gia WTO
đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt
động sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống nói riêng, là cơ sở để đẩy
mạnh hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
2.4.2. Những điểm hạn chế cho hoạt động quản lý nhà nước đối với các
làng nghề truyền thống
- Trong thời gian qua, Trung ương, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế chính
sách, quy định có liên quan đến phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn.
Tuy nhiên, việc tổ chức triển khai còn rất nhiều hạn chế, nên hiệu ứng tác động
của chính sách còn rất mờ nhạt, chưa kích thích cho làng nghề phát triển.
- Tỉnh chưa có Quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn, do đó, Dự
án bảo tồn, phát triển làng nghề của tỉnh (2008 - 2015) trong những năm qua
tiến hành một cách chậm chạp, từ đó kéo dài sự phát triển ngành nghề ở các
huyện, thành phố. Các địa phương mới chỉ tập trung cho đầu tư phát triển các
khu, cụm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, thu hút các doanh nghiệp có
nguồn vốn, kỹ thuật tương đối lớn, chưa tập trung chăm lo phát triển các hộ
nghề, làng nghề truyền thống.
- Chất lượng nguồn nhân lực tại các làng nghề truyền thống rất thấp,
các chủ cơ sở sản xuất không có kinh nghiệm trong quản lý, tìm kiếm, phát
triển thị trường. Lực lượng lao động trực tiếp tại các làng nghề chưa qua đào
tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Đồng thời, các cơ sở đào tạo nghề của tỉnh chất lượng
và số lượng không cao.
- Các chủ cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền thống rất khó khăn
trong việc tiếp cận các nguồn vốn; đồng thời, quy mô sản xuất của các cơ sở
60
nhỏ lẻ, nơi sản xuất cũng là nơi nhà ở, vốn tự có của các chủ thể sản xuất kinh
doanh của các cơ sở sản xuất kinh doanh của các làng nghề truyền thống rất
thấp. Vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước về triển khai các chương trình phát
triển làng nghề truyền thống rất khó khăn.
- Hiện nay, trên thị trường xuất hiện các loại sản phẩm cùng loại với
sản phẩm của các làng nghề nhưng sản xuất bằng máy nên giá cả cạnh tranh
rất thấp. Đồng thời, công nghệ, thiết bị máy móc sản xuất của các cơ sở sản
xuất tại các làng nghề truyền thống đa phần là lạc hậu, không đồng bộ, vì vậy
khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường rất thấp. Các yếu tố là một
trong những khó khăn lớn trong hoạt động quản lý nhà nước về giá cả, tìm
kiếm thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm làng nghề truyền thống.
- Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa dẫn đến việc giảm lực lượng
lao động tại các làng nghề. Tỉnh có chính sách khuyến khích doanh nghiệp
đầu tư về nông thôn nên công nghiệp nông thôn khá phát triển; chính sách
phát triển các khu công nghiệp Điện Nam Điện Ngọc, khu công nghiệp Chu
Lai,… Đã thu hút một số lượng lớn lao động trẻ tại các cơ sở sản xuất của
làng nghề truyền thống; dẫn đến nguy cơ thiếu lao động trong các cơ sở sản
xuất của các làng nghề truyền thống. Đồng thời, con em trong các gia đình
sản xuất tại làng nghề không mặn mà với nghề truyền thống, nhiều nghề
truyền thống chưa có đội ngũ trẻ kế thừa. Vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước
về phát triển nguồn nhân lực, nguồn lao động tại các làng nghề truyền thống
rất khó khăn.
- Chủ các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống chưa quan tâm
đến vấn đề xây dựng thương hiệu, thiết kế mẫu mã, kiểu dáng cho sản phẩm;
vì vậy, trên thị trường xuất hiện rất nhiều sản phẩm công nghiệp giả mạo sản
phẩm làng nghề truyền thống; vì vậy, hoạt động quản lý nhà nước về sở hữu
61
trí tuệ cũng gặp phải những khó khăn nhất định trong việc thực hiện các chính
sách xây dựng, quản lý và phát triển quyền sở hữu công nghiệp cho các sản
phẩm làng nghề truyền thống.
2.4.3. Nguyên nhân những thuận lợi và hạn chế đối với hoạt động quản lý
nhà nước của các làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam
2.4.3.1. Nguyên nhân những thuận lợi của hoạt động quản lý nhà nước
đối với các làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam
- Việc khôi phục và phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống là chủ
trương của đảng và nhà nước ta; hiện nay, Chính phủ đã ban hành nhiều
chương trình, đề án, dự án liên quan đến phát triển ngành nghề ở nông thôn;
đặc biệt, cả nước đang triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới là cơ
sở, điều kiện để các làng nghề đầu tư, mở rộng và phát triển. Thông qua
chương trình xây dựng nông thôn mới, hệ thống giao thông đi lại tại nông
thôn được nâng cấp, rất thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các
làng nghề truyền thống.
- Trong thời gian qua, Chính phủ đang nỗ lực xây dựng một Chính phủ
kiến tạo và liêm chính, vì vậy, trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề
có nhiều thuận lợi, việc quản lý tại các làng nghề sẽ thuận lợi hơn, các doanh
nghiệp tại các làng nghề có nhiều cơ hội để phát triển, các thủ tục trong đầu tư
phát triển của các cơ sở tại các làng nghề được thuận tiện.
- Quá trình xây dựng xã nông thôn mới được triển khai trên địa bàn tỉnh
đã có chuyển biến tích cực, ý thức của nhân dân được nâng cao. Các quy
hoạch về nông thôn mới cơ bản đã hoàn chỉnh là cơ sở để định hướng phát
triển làng nghề truyền thống trong thời gian đến.
- Nước ta gia nhập thành viên của WTO đã mở ra hướng đi mới cho các
cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống; các cơ sở đã có cách nhìn khác
về việc tạo ra sản phẩm chất lượng, mẫu mã đẹp để đáp ứng thị hiếu của người
62
tiêu dùng trong và ngoài nước. Các cơ quan quản lý nhà nước tiếp cận được các
thông tin mới về thị trường, công nghệ sản xuất sản phẩm, tìm kiếm các nguồn
vốn vay hợp lý, các nguồn tại trợ để hỗ trợ các làng nghề truyền thống.
- Quảng Nam là vùng đất hội tụ các yếu tố về tự nhiên phong phú, đa
dạng về núi rừng, trung du, đồng bằng, sông nước và biển đảo. Vùng đất ấy
nhiều sản phẩm đặc trưng của địa phương. Cùng với quá trình hình thành và
phát triển, lại là vùng đất hội tụ và giao thoa các nền văn hóa khác nhau.
Chính các yếu tố này quyết định đến sự hình thành và phát triển làng, làng
nghề xứ Quảng – là điều kiện để mở rộng quy mô sản xuất tại các làng nghề
truyền thống của địa phương.
2.4.3.2. Nguyên nhân những hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước
đối với các làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam
- Nhà nước thiếu cơ chế vận hành thông suốt hệ thống chính sách về
ngành nghề nông thôn, làng nghề từ Trung ương đến cơ sở, đem chính sách
về với người dân để người dân hiểu sử dụng chính sách một cách có hiệu quả.
- Nhiều chính sách được ban hành chưa thỏa đáng và không kịp thời
nên không áp dụng vào thực tế. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan
quản lý nhà nước chưa được chặt chẽ, chưa theo quy trình.
- Bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
còn nhiều bất cập, cồng kềnh; nguồn nhân lực quản lý hoạt động nhà nước đối
với làng nghề còn yếu kếm, chưa đáp ứng được yêu cầu trong quá trình hội
nhập.
- Phát triển làng nghề truyền thống tuy có sự quan tâm của nhiều cấp,
nhiều ngành song nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp. Bản thân các hộ sản xuất lại
không đủ vốn để mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất. Các cơ sở nghề chưa
tiếp cận được các nguồn vốn vay với lãi suất thấp, hầu hết các làng nghề
truyền thống sản xuất với quy mô nhỏ, sản phẩm làm ra phục vụ cho thị
63
trường nội địa là chủ yếu, sức cạnh tranh còn yếu. Bản thân mỗi làng nghề
truyền thống chưa có doanh nghiệp đầu đàn làm đầu mối cho việc tổ chức sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân địa phương về chủ trương của
Đảng và Nhà nước về phát triển ngành nghề nông thôn, bảo tồn và phát triển
làng nghề truyền thống chưa trở thành hành động mạnh mẽ của người dân.
Nhiều địa phương còn ỷ lại trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước nên hoạt
64
động xã hội hóa quản lý nhà nước đối với
Tiểu kết chương 2
Các làng nghề truyền thống của Quảng Nam xuất hiện sớm, tồn tại trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các làng nghề đã đóng góp tích
cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho
người dân. Nhưng, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như hoạt động
sản xuất tại các làng nghề còn manh mún, nhỏ lẻ, thiếu liên kết, việc tiếp cận
các nguồn vốn còn khó khăn, sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường còn
kém,…
Trước thực trạng đó, hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề đã được
đẩy mạnh, nhiều cơ chế, chính sách được triển khai thực hiện để duy trì và phát
triển các làng nghề truyền thống. Các tổ chức phi chính phủ cũng đã quan tâm
đến việc hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển các làng nghề truyền thống. Tuy
nhiên, nguồn lực hỗ trợ của Trung ương, tỉnh còn nhiều hạn chế, chủ yếu hỗ trợ
đầu tư cơ sở hạ tầng, chưa quan tâm nhiều đến việc hỗ trợ phát triển sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm. Bộ máy quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
thiếu đồng bộ, phân tán, còn chồng chéo giữa các cơ quan quản lý nhà nước;
chưa có sự liên kết và thể hiện tính thứ bậc trong công tác quản lý nhà nước đối
với các làng nghề truyền thống. Thiếu cán bộ quản lý làng nghề tại các địa
phương, đặc biệt chưa chú tâm đến việc đào tạo nguồn nhân lực quản lý tại địa
phương, nhất là cấp huyện, cấp xã. Hoạt động quản lý nhà nước về thanh tra,
kiểm tra đối với các làng nghề truyền thống chưa được tăng cường, rất mờ
nhạt, làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống. Xã
hội hóa trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề được đẩy mạnh,
bước đầu đã huy động được sự đóng góp, tham gia quản lý của người dân đối
với hoạt động quản lý, góp phần phát triển làng nghề truyền thống tại địa
65
phương, nhưng vẫn còn ở mức thấp.
Từ việc phân tích đánh giá thực trạng của hoạt động quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống, đã xác định được những yếu tố thuận lợi,
những điểm hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống và tìm ra nguyên nhân của những yếu tố thuận lợi trong hoạt
động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống cũng như những
nguyên nhân của những điểm hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước đối
với làng nghề truyền thống. Đây là cơ sở để đề xuất các giải pháp trong hoạt
động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, nhằm góp phần duy trì
66
và phát triển các làng nghề một cách bền vững và hiệu quả nhất.
Chương 3
3.1. Phương hướng quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tỉnh
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
Quảng Nam
Thứ nhất, quản lý phát triển làng nghề truyền thống là một bộ phận
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và tuân thủ chặt chẽ quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Quảng Nam vẫn còn là tỉnh khó khăn, mức thu nhập của người lao
động còn thấp so với mức bình quân chung của cả nước. Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế vẫn còn chậm, nông nghiệp vẫn là một trong những ngành kinh tế
chính của tỉnh. Nếu thực hiện nông nghiệp thuần túy thì nông thôn khó mà
thoát khỏi cảnh nghèo khó, người dân chỉ bám trụ vào cây lúa thì không đủ để
trang trải cho sinh hoạt hằng ngày. Vì vậy, cần đẩy mạnh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn; đẩy mạnh
phát triển làng nghề truyền thống nhằm giải quyết việc làm cho người lao
động, thu hút lao động từ nông nghiệp sang tiểu thủ công nghiệp, làm cơ sở
nền tảng để phát triển công nghiệp. Quá trình đó chính là quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn của tỉnh. Để thực
hiện các nội dung này, cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản
lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI, nhiệm
kỳ 2015-2020, đã xác định mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020, tỉnh Quảng
Nam trở thành tỉnh khá của cả nước, sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo
hướng hiện đại, trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế có chú trọng đến phát triển
nông nghiệp và nông thôn, về phát triển kinh tế gắn kết giữa phát triển du lịch
67
với các ngành tiểu thủ công nghiệp, làng nghề truyền thống”.
Là một tỉnh có khoảng 1,5 triệu dân, nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao
trong sản xuất kinh tế địa phương trên 82%, thời tiết khí hậu diễn biến rất
phức tạp, để có thể phát triển và thoát khỏi tỉnh khó khăn, thì làng nghề có vai
trò đặc biệt trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Vì vậy, trong
chiến lược phát triển kinh tế địa phương đã xác định vị trí vai trò của làng
nghề. Xây dựng và quy hoạch phát triển làng nghề truyền thống của từng
huyện, xã cần gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của tỉnh,
huyện, xã đi đối với phát triển thương mại, du lịch. Ngành nghề, làng nghề là
một bộ phận quan trọng của phát triển công nghiệp của tỉnh. Việc quy hoạch
làng nghề truyền thống có gắn kết với quy hoạch chung thì mới khai thác được
các lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của địa phương, phải phù hợp
với nguồn lực của từng địa phương là cơ sở để làng nghề truyền thống đầu tư
phát triển.
Quy định về bộ máy tổ chức quản lý hoạt động các làng nghề truyền
thống hợp lý. Để quản lý các làng nghề truyền thống hiệu quả phải phân định
rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý nội bộ tại các làng nghề
truyền thống. Trong đó cần phân công, phân cấp quản lý rõ ràng, tránh chồng
chéo chức năng lẫn nhau.
Xây dựng hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách theo hướng tạo ra môi
trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của làng nghề truyền thống.
Phát triển làng nghề truyền thống phải theo hướng đa dạng hóa hình thức sở
hữu, mô hình tổ chức sản xuất, kết hợp kỹ thuật hiện đại với cổ truyền trong
sản xuất để tạo ra những sản phẩm có chất lượng và mang tính nghệ thuật.
Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông, điện,
nước,… nhằm tạo điều kiện để làng nghề truyền thống mở rộng quy mô sản
xuất, thị trường tiêu thụ, nâng cao năng suất lao động, đây cũng là một trong
68
những định hướng góp phần phát triển làng nghề truyền thống thống của tỉnh.
Thứ hai, bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống gắn với Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; khai thác các tiềm năng lợi
thế của địa phương, tạo ra những sản phẩm đặc trưng, mang dấu ấn, thương
hiệu của làng nghề Quảng Nam.
Làng nghề phát triển vừa là tác nhân góp phần tích cực trong quá trình
xây dựng nông thôn mới đồng thời được thừa hưởng các chính sách, các
chương trình mục tiêu dành cho nông thôn mới.
Các chính sách ưu đãi cho nông thôn cũng chính là ưu đãi cho kinh tế
làng nghề truyền thống như chính sách quy hoạch nông thôn mới trong đó có
quy hoạch làng nghề. Theo đó, làng nghề truyền thống sẽ được quy hoạch phát
triển, phân tích, đánh giá đầy đủ thực trạng, tiềm năng, xác định rõ mục tiêu,
định hướng cụ thể cho từng loại hình ngành nghề, từng loại hình sản phẩm,
đồng thời có các giải pháp triển khai một cách khả thi, hiệu quả thiết thực. Các
làng nghề truyền thống được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống xử lý
chất thải..., góp phần giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề.
Đồng thời, Quảng Nam còn là nơi có nhiều làng nghề truyền thống
được hình thành và phát triển từ nhiều đời nay. Ở đây, trải qua bao thế kỷ,
nghề và làng nghề truyền thống đã ra đời, tồn tại và phát triển như một phần
không thể tách rời của lịch sử mỗi làng quê, thôn xóm của vùng đất này. Vì
vậy, các sản phẩm làng nghề truyền thống đều gắn liền với giá trị văn hóa
không thể tách rời. Do đó, cần phải phát huy và gìn giữ những trị văn hóa
được đúc kết trong từng sản phẩm, tạo ra những lợi thế để cạnh tranh sản
phẩm trên thị trường.
Thứ ba, phát triển làng nghề phải trên cơ sở phát triển hài hòa giữa sản
xuất hàng hóa với bảo vệ môi trường và gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa
69
truyền thống của địa phương.
Làng nghề truyền thống đã có từ hàng trăm năm, gắn liền với bản sắc
văn hóa dân tộc và góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế xã hội của đất nước.
Nhiều làng nghề truyền thống hiện nay trên địa bàn tỉnh đã được khôi phục,
đầu tư phát triển với quy mô và kỹ thuật cao hơn, hàng hóa không những
phục vụ nhu cầu trong nước mà còn cho xuất khẩu với giá trị lớn. Cùng với
những thay đổi tích cực để thích nghi trong giai đoạn hội nhập của đất nước
với nền kinh tế thế giới, các làng nghề cũng phải đối mặt với nhiều thách
thức, trong đó có vấn đề ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất chạy theo lợi nhuận, đánh mất đi giá trị văn hóa truyền
thống được kết tinh trong từng sản phẩm làng nghề truyền thống. Vì vậy, nhà
nước, các cấp, các ngành phải cùng chung tay để gìn giữ phát triển các làng
nghề truyền thống như gìn giữ giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc ta, phát triển
làng nghề truyền thống theo hướng bền vững.
Thứ tư, “Cần cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị
gia tăng và phát triển bền vững; thúc đẩy phát triển làng nghề truyền thống”.
Nội dung này được nêu trong Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng
Nam lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015-2020, trong các nhóm giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015- 2020. Vì vậy, việc tăng
cường, củng cố và đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nước đối với các làng
nghề truyền thống, là một trong các giải pháp để phát triển làng nghề truyền
thống của địa phương.
Trước thực trạng, hiện nay, có một số các làng nghề truyền thống bị
mai mọt trong đó có cả các làng nghề truyền thống được UBND tỉnh công
nhận nhưng vẫn không duy trì được hoạt động sản xuất, do thiếu nguồn
nguyên liệu, nhân lực cũng như những định hướng phát triển. Quản lý nhà
70
nước đối với làng nghề truyền thống có vai trò điều tiết các nguồn lực, phân
bổ hợp lý nguồn tài nguyên phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề của
địa phương, nhằm đưa ra các giải pháp để các làng nghề phát triển bền vững.
Đồng thời, hiện nay, UBND tỉnh đang đưa ra chiến lược, xây dựng và
phát triển mỗi làng một sản phẩm, là cơ sở để khôi phục và phát triển các sản
phẩm của làng nghề truyền thống.
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống
tỉnh Quảng Nam
Trước thực trạng trên, để thực hiện tốt hoạt động quản lý nhà nước về làng
nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
3.2.1. Nâng cao hiệu quả việc ban hành, hướng dẫn và tổ chức triển khai
thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường
trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
Một là, rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính
thông thường không còn phù hợp, không có khả năng thực hiện, nhằm loại
bỏ. Ví dụ như một số văn bản sau:
- Quyết định số 37/2001/QĐ-UBND ngày 30/7/2001 của UBND tỉnh
Quảng Nam quy định về khuyến khích đầu tư phát triển ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp, làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh. Quy định này đã xuất
hiện nhiều bất cập, không phù hợp với tình hình hiện tại của địa phương.
- Quyết định số 1222/QĐ-UBND, ngày 07/4/2015 của UBND tỉnh về
việc phê duyệt Đề án Phát triển làng nghề truyền thống gắn với phát triển du
lịch trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015 – 2020; Quyết định này đã
được ban hành hai năm, tuy nhiên cũng không có kinh phí để triển khai thực
hiện, cần xem xét rà soát lại để thay văn bản mới có tính khả thi, nhằm góp
phần phát triển du lịch của làng nghề truyền thống.
Hai là, tiếp tục phát huy một số cơ chế chính sách hiện có của Trung
71
ương, tỉnh có tác động đến phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống như:
- Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn tại Quyết
định 132/2001/QĐ-TTg ngày 07/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ;
- Quyết định 23/2010/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án “Phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010-2015
và định hướng đến năm 2020”;
- Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 22/4/2010 của Chính phủ về chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nghị định số
61/2010/NĐ-CP ngày 04/6/2010 của Chính phủ Chính sách khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn;
- Quyết định 1216/QĐ-TTg ngày 05/9/2012 phê duyệt Chiến lược Bảo
vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 - là chính sách
về khoa học công nghệ và chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và xử lý môi
trường làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn,...
Ba là, ban hành các văn bản quy pháp pháp luật phù hợp với thực tế sản
xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất của làng nghề tại địa phương, nhằm
giúp các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh có điều
kiện phát triển sản phẩm làng nghề truyền thống; đặc biệt, ưu tiên phát triển
các làng nghề có công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, làng nghề có
doanh thu cao, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động với mức thu
nhập ổn định.
- Hiện nay, đa số các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống còn
thiếu những kiến thức về thị trường, cách thức quảng bá, giới thiệu sản
phẩm,... Vì vậy, cần ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế hỗ
trợ các cơ sở sản xuất, kinh doanh tại các làng nghề truyền thống trong lĩnh
vực xúc tiến thương mại.
- Sản phẩm làng nghề truyền thống, yếu tố truyền thống được kết tinh
72
trong từng sản phẩm là quan trọng nhất, sản phẩm làng nghề mang tính nghệ
thuật rất cao. Những làng nghề truyền thống đang tồn tại là những làng nghề
biết kết hợp tinh hoa, nghệ thuật của truyền thống và tiến bộ của khoa học
công nghệ, bắt kịp với sự đổi mới của đất nước, tuân thủ sự vận động của cơ
chế thị trường, nắm bắt thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng. Ví dụ làng
nghề truyền thống đúc đồng Phước Kiều đưa công nghệ nấu luyện làm khuôn
hiện đại vào thay cho thủ công, song vẫn vận dụng bàn tay khéo léo của nghệ
nhân, người thợ vào khâu trạm trổ, điêu khắc tạo ra những sản phẩm mang
tính nghệ thuật cao được người tiêu dùng trong và nước đón nhận. Nghề gỗ ở
các làng nghề truyền thống như mộc Kim Bồng đã đưa thiết bị cơ khí vào
thay cho lao động thủ công, song phần chế biến tinh xảo vẫn được các nghệ
nhân chủ công,... Vì vậy, để các làng nghề truyền thống phát triển bền vững
cần ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất,
thiết bị máy móc để hỗ trợ hoạt động sản xuất của các cơ sở ở những công
đoạn cần thiết có sự phụ trợ của máy móc, nhằm tạo ra sản phẩm vẫn giữ
được nét truyền thống được kết tinh trong sản phẩm, vừa tạo ra được sản
phẩm có thể cạnh tranh trên thị trường.
Bốn là, cần xây dựng quy hoạch hoạch tổng thể cho các làng nghề
truyền thống trong phạm vi cả tỉnh theo quy định tại Nghị định số
66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề
nông thôn.
Việc quy hoạch phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy
hoạch sử dụng đất đai, vùng thương mại, vùng nguyên liệu, phát triển du lịch
và theo hướng bền vững. Việc quy hoạch các làng nghề truyền thống còn xây
dựng theo hướng quy hoạch những làng nghề truyền thống chỉ chuyên phục
vụ du lịch, những làng nghề truyền thống chỉ chuyên phục vụ sản xuất, và
những những làng nghề truyền thống vừa phục vụ cho sản xuất vừa phục vụ
73
cho phát triển du lịch.
Thực hiện khảo sát quy hoạch, thiết kế xây dựng cần tập trung đến
chiều hướng phát triển của các làng nghề truyền thống: Những làng nghề
truyền thống mà sản phẩm đang là nhu cầu của thị trường, nhưng bị suy giảm
về năng suất sản xuất và chất lượng sản phẩm, sẽ tập trung đầu tư, hỗ trợ để
bảo tồn và khôi phục (làng nghề mộc Văn Hà, dệt vải tơ lụa Mã Châu,Đúc
đồng Phước Kiều…); đối với làng nghề truyền thống sản xuất các mặt hàng
mà hiện nay thị trường không có nhu cầu thì cần phải mạnh dạn xóa bỏ và
thay thế bằng nghề mới; (làng nghề nón lá Quế Minh, làng nghề xơ dừa Tam
Hải,…) đối với những làng nghề có tiềm năng phát triển, thị trường được mở
rộng cần quan tâm và có hướng đầu tư phù hợp để nâng cao vị thế, sức cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước (làng nghề nước mắm
Cửa Khe, làng nghề nước mắm Trung Phường, làng nghề rau Trà Quế, gốm
Thanh Hà, Mộc Kim Bồng,…).
Quy hoạch phát triển làng nghề truyền thống theo hướng hình thành
các cụm công nghiệp làng nghề nhằm chuyển một số cơ sở sản xuất kinh
doanh khỏi khu dân cư để khỏi ô nhiễm môi trường và thuận lợi trong hoạt
động sản xuất kinh doanh như thuận tiện trong việc thu mua, vận chuyển
nguyên liệu; mở rộng và tìm kiếm thị trường tiêu thụ, quảng bá cho sản
phẩm,… Cần chủ động quy hoạch vùng nguyên liệu tương ứng với các sản
phẩm làng nghề, có kế hoạch đầu tư, gây dựng những loại giống nguyên liệu
có chất lượng cao, đảm bảo chất lượng sản phẩm, tập trung quy hoạch các
vùng nguyên liệu gỗ, may, tre, cói,... Nguyên liệu sản xuất của các làng nghề
truyền thống chủ yếu là khai thác tự nhiên hoặc các sản phẩm của nông
nghiệp. Chính vì vậy, với những nguyên liệu tự nhiên, các làng nghề truyền
thống cần có kế hoạch khai thác hợp lý, hạn chế việc khai thác ồ ạt, có tính
chất tận diệt. Căn cứ vào vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của tỉnh Quảng
74
Nam, quy hoạch vùng nguyên liệu theo hướng khoanh nuôi bảo vệ rừng tự
nhiên, rừng trồng hiện có, trồng mới và tạo nguồn nguyên liệu cho nghề thủ
công mỹ nghệ. Đẩy mạnh việc thâm canh, tăng năng suất cây trồng đối với
cây công nghiệp và cây nguyên liệu phục vụ cho sản xuất tại các làng nghề
truyền thống.
Tăng cường sự phối hợp của các cấp, các ngành để hoàn thành thủ tục,
công khai quy hoạch, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư vào sản
xuất trong các làng nghề truyền thống. Cần thực hiện sự phân cấp rõ ràng
trong quy hoạch để tránh tình trạng chồng chéo trong quản lý.
Năm là, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống, coi việc hướng dẫn, giúp đỡ phát triển làng nghề truyền thống là trách
nhiệm của các cấp, các ngành.
Khi có văn bản mới ban hành cần tổ chức tập huấn, phổ biến, hướng dẫn
các tổ chức, cá nhân có liên quan triển khai thực hiện. Cán bộ quản lý nhà
nước đối với làng nghề phải thường xuyên xuống cơ sở, hướng dẫn các cơ sở
nắm bắt kịp thời các thông tin, chính sách mới để các cơ sở sản xuất, kinh
doanh tại làng nghề có định hường phát triển. Tiếp tục đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và nhà
nước về bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, các chương trình phát
triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm của địa phương.
3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy trong quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống tỉnh Quảng Nam
Để thực hiện tốt hoạt động tổ chức về quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống cần tập trung vào các giải pháp sau:
- Một là, cần có sự thống nhất giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về làng
nghề truyền thống cho cơ quan chuyên môn ở cấp tỉnh, cấp huyện theo quy
định của văn bản cấp trên. Tăng cường hiệu lực quản lý, tập trung một đầu
75
mối về hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề.
Hiện nay, UBND tỉnh quy định Sở NN&PTNT quản lý các hộ, cá nhân
của làng nghề; Sở Công thương quản lý doanh nghiệp ở nông thôn trong đó
có làng nghề; ngoài ra, còn có các sở ngành khác tham gia phối hợp quản lý,
điều này dẫn đến hiệu quả hoạt động của các làng nghề chưa cao. Đồng thời,
trong thực tế khi có vấn đề cần giải quyết nhưng vì có nhiều cơ quan cùng
tham gia trong bộ máy tổ chức quản lý nên thường đùn đẩy trách nhiệm trong
quản lý, giải quyết không nhanh gọn các vấn đề phát sinh trong quá trình sản
xuất, kinh doanh của các làng nghề truyền thống. Để tránh tình trạng phân tán
như hiện nay, thống nhất đầu mối quản lý; cụ thể như sau:
Ở cấp tỉnh thành lập Ban quản lý làng nghề, làng nghề truyền thống trên
địa bàn tỉnh, trực thuộc UBND tỉnh, là cơ quan đầu mối ở tỉnh tham mưu UBND
tỉnh trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề, làng nghề truyền thống.
Ban quản lý làng nghề có toàn quyền quyết định các vấn về quản lý nhà nước
đối với làng nghề, làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh; trong những trường
hợp cần thiết, Ban quản lý làng nghề chủ trì và phối hợp với các sở, ban, ngành
chức năng của tỉnh để giải quyết vấn đề.
Ví dụ những vấn đề có tính phối hợp tham gia của nhiều cơ quan quản lý
chuyên sâu như về xây dựng nhãn hiệu, xúc tiến thương mại, xử lý ô nhiễm môi
trường, xây dựng liên kết tạo chuỗi sản phẩm làng nghề,...
Ở cấp huyện tập trung về đầu mối quản lý là giao Phòng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn/Phòng Kinh tế tham mưu, giúp UBND cấp huyện
thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương về ngành nghề, làng nghề
ở nông thôn, theo quy định tại Thông tư liên bộ số 14/2015/TTLB-
BNNPTNT-BNV ngày 25/3/2015 của Liên Bộ: Bộ Nông nghiệp và PTNT và
Bộ Nội vụ; đồng thời, Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn/Phòng
Kinh tế chịu sự quản lý của Ban quản lý làng nghề về hoạt động quản lý nhà
76
nước đối với làng nghề truyền thống của địa phương.
Ở cấp xã, tăng cường và phát huy vai trò của UBND cấp xã trong hoạt
động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, đẩy mạnh việc tuyên
truyền về giá trị của sản phẩm làng nghề, bảo vệ môi trường làng nghề, góp
phần thúc đẩy làng nghề phát triển một cách bền vững. Bộ phận tham mưu
giúp việc cho UBND cấp xã trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống là Ban Nông nghiệp xã.
Thứ hai, cần tăng cường sự phối hợp, chỉ đạo điều hành trong hoạt
động quản lý nhà nước giữa cấp tỉnh và các địa phương trong tỉnh
Để nắm bắt kịp thời thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước đối với
làng nghề truyền thống giữa các cấp quản lý cần có quy định về công tác báo
cáo định kỳ của các cơ quan tham mưu ở cấp huyện, xã về hoạt động quản lý
làng nghề truyền thống ở địa phương đối với cơ quan quản lý nhà nước về
làng nghề truyền thống ở cấp tỉnh (Ban quản lý làng nghề) và ngược lại là sự
chỉ đạo thường xuyên, xuyên suốt của cơ quan cấp tỉnh đối với các cơ quan
quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ở cấp huyện, cấp xã.
Từ việc đề xuất mô hình quản lý như đã nêu trên, chúng tôi mô phỏng
lại sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống của tỉnh Quảng Nam. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý được thể hiện ở
UBND tỉnh
Ban Quản lý làng nghề
UBND huyện
Phòng NN&PTNT/ Kinh tế
UBND xã
Ban Nông nghiệp
77
sơ đồ 2.
Sơ đồ 2. Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (theo mô hình mới)
Bộ máy hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
thực hiện theo mô hình trên sẽ tinh gọn, quy về một đầu mối quản lý và tăng
tính trách nhiệm, tránh được tình trạng đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau trong
hoạt động thực thi công vụ ở từng bộ phận, từng cấp tham mưu trong hoạt
động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống. Ở cấp tỉnh bộ phận
tham mưu giúp việc là Ban quản lý làng nghề, ở cấp huyện là phòng
NN&PTNT/Kinh tế và ở cấp xã là Ban Nông nghiệp xã.
Thứ ba, UBND các huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh nghiên cứu,
đưa nội dung phát triển làng nghề truyền thống vào Nghị quyết chuyên đề của
cấp ủy, chính quyền địa phương để chỉ đạo phát triển làng nghề truyền thống
gắn với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
- Thứ tư, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước đối với
làng nghề truyền thống của UBND cấp xã, xem đây là một trong các nội dung
quan trọng của Đề án phát triển sản xuất, tăng thu nhập của cư dân nông thôn,
khi thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Tăng cường hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
trong điều kiện hiện nay cần sự trực tiếp chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương.
UBND cấp xã cần theo dõi và nắm chắc tình hình sản xuất, kinh doanh
của các hộ, các cơ sở sản xuất tại các làng nghề truyền thống, tăng cường
công tác kiểm tra, kiểm soát để báo cáo các cơ quan quản lý nhà nước cấp
trên nhằm đưa ra các quyết định đúng đắn, có tính khả thi cao trong hoạt động
78
quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
3.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam
Để đảm bảo nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước đối với
làng nghề truyền thống, cần tập trung vào các giải pháp sau:
- Nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống chưa chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, cán bộ quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống ở các địa phương chủ yếu là kiêm nhiệm,
thường biến động về tổ chức nên việc tiếp cận, bám sát nội dung hoạt động
quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống bị hạn chế. Vì vậy, cần bố trí cán
bộ chuyên trách tại UBND các huyện, thị xã, thành phố thực hiện chức năng
quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống, nhằm đảm bảo sự ổn định
và nâng cao năng lực quản lý của cán bộ chuyên trách. Để thể hiện được tính
chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa thì trước hết trong công tác bố trí cán bộ
phải bố trí đúng ngành nghề khi tuyển dụng, trong quá trình công tác cần phát
huy năng lực của cán bộ để đào tạo nâng cao tay nghề mang tính chuyên
nghiệp; ví dụ như cán bộ chuyên về lĩnh vực báo cáo viên, tuyên truyền –
hướng dẫn phổ biến các văn bản, chính sách của nhà nước, cán bộ chuyên về
hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo kỹ năng tiếp thị, quảng bá, tìm kiếm mở rộng thị
trường,…
- Cần có kế hoạch cụ thể, định kỳ trong việc đào tạo nâng cao kỹ năng
quản lý nhà nước cho các cán bộ tham gia công tác quản lý nhà nước về làng
nghề truyền thống tại các địa phương.
+ Quy định ít nhất một năm hai lần tổ chức tập huấn cho cán bộ quản lý
nhà nước đối với làng nghề truyền thống từ cấp huyện đến cấp xã, có thể tập
huấn thông qua hình thức trực tuyến hoặc giới thiệu trực tiếp.
+ Trong các chương trình đào tạo kỹ năng quản lý làng nghề truyền
79
thống cần phải dựa vào các giáo trình, đi từ lý thuyết đến thực hành, khắc phục
tình trạng việc đào tạo không có giáo trình, chủ yếu được biên soạn theo kinh
nghiệm sẽ không đảm bảo tính khoa học, logic và thiếu hẳn phần lý thuyết.
+ Việc phổ biến các thông tin, kỹ năng quản lý có thể dưới hình thức văn
bản hướng dẫn hoặc phổ biến trên các tạp chí chuyên ngành để cán bộ quản lý
dễ tiếp cận và tìm hiểu.
- Cần có chế độ ưu đãi để thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, các
nghệ nhân, thợ giỏi tham gia vào phát triển ngành nghề, làng nghề. Ví dụ như
tham mưu ban hành các chính sách thu hút nhân tài tham gia trong hoạt động
quản lý nhà nước đối với làng nghề; như hỗ trợ các chế độ đãi ngộ về tiền
thưởng, bố trí chỗ ở cho cán bộ,...
- Đào tạo và xây dựng mạng lưới Ban quản lý làng nghề ở các
xã/phường (là thanh viên Ban Nông nghiệp của xã/phường), đây là lực lượng
nòng cốt để đề xuất, xây dựng và trực tiếp triển khai thực hiện các chương
trình phát triển làng nghề truyền thống nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ở địa phương.
- Cần có cơ chế khuyến khích hỗ trợ nghệ nhân, thợ giỏi truyền nghề và
tăng cường việc giao lưu học hỏi kinh nghiệm giữa các làng nghề có cùng
nhóm nghề.
+ Duy trì việc tổ chức các hoạt động phong tặng, tôn vinh các danh
hiệu nghệ nhân, thợ giỏi cho các làng nghề truyền thống. Có chính sách trợ
giúp chi phí tổ chức lớp học đào tạo nghề tại các làng nghề để khuyến khích
các nghệ nhân mở lớp truyền nghề, truyền bí quyết, người thiết kế mẫu sản
phẩm trong các làng nghề truyền thống.
+ Tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích và giúp đỡ nghệ nhân lao
động sáng tạo, tham gia nghiên cứu, truyền dạy nghề cho lớp trẻ: Các nghệ
80
nhân, thợ giỏi được tổ chức truyền nghề trực tiếp và được thu tiền của học
viên theo nguyên tắc thỏa thuận, được miễn các loại thuế trọng hoạt động
truyền, dạy nghề.
+ Hằng năm, cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
cần tổ chức các hoạt động như tham quan, học tập kinh nghiệm tại các mô
hình làng nghề phát triển cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh của các làng
nghề.
- Tập trung làm tốt công tác đào tạo nghề phi nông nghiệp cho lao động
ở các làng nghề; nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách hỗ trợ về đóng
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn cho người lao động tại các
làng nghề.
- Thực hiện hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại các làng
nghề theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”;
Nghị quyết số 12/2016/NQ-HĐND ngày 19/7/2016 của HĐND tỉnh về cơ chế
hỗ trợ đào tạo lao động cho chương trình, dự án trọng điểm và các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020 và các văn bản có liên quan.
3.2.4. Chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền thống
Để phát triển các làng nghề truyền thống, các doanh nghiệp, hợp tác xã,
tổ hợp tác và các hộ gia đình đơn lẻ tham gia sản xuất, kinh doanh tại các làng
nghề không thể thực hiện hiệu quả nếu không có vai trò quản lý Nhà nước
trong việc định hướng, hỗ trợ cho các làng nghề truyền thống và thông qua
công cụ chủ yếu là các chính sách. Một số giải pháp về xây dựng cơ chế,
chính sách cụ thể cần phải thực hiện để phát triển làng nghề truyền thống tại
địa phương:
Thứ nhất, cần tạo mọi điều kiện để huy động các nguồn vốn trong nước
và nguồn vốn nước ngoài để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các cơ
81
sở sản xuất, kinh doanh tại làng nghề truyền thống.
Có nguồn kinh phí ngân sách hỗ trợ bù lãi suất chênh lệch nhằm thu hút
các nhà đầu tư sản xuất, kinh doanh vào các làng nghề truyền thống.
Có sự hỗ trợ cần thiết khi làng nghề truyền thống có các dự án, hợp
đồng lớn như mở rộng thị trường xuất khẩu, mở rộng cơ sở sản xuất,… cần có
nhu cầu về vốn lớn.
Ưu tiên cho các đối tượng làng nghề truyền thống vay vốn ưu đãi, với
thủ tục đơn giản, lãi suất vay phù hợp với đặc điểm sản xuất ngành nghề từ
các chương trình của tỉnh thông qua các quỹ như ngân hàng Chính sách xã hội
tỉnh, Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ,...
Có vốn, các cơ sở sản xuất mới có thể đầu tư máy móc mới, áp dụng
công nghệ hiện đại ở những khâu sản xuất cần thiết có sự phụ trợ của máy
móc, thiết bị cũng như mở rộng quy mô sản xuất. Vì vậy, Nhà nước cần có
chính sách thông thoáng để các cơ sở sản xuất có tiềm năng phát triển nhưng
thiếu vốn dễ tiếp cận nguồn vốn như có cơ chế cho vay ưu đãi, ưu đãi thuế.
Thứ hai, cần có chính sách phát triển các làng nghề truyền thống sản
xuất ra sản phẩm mang hiệu quả kinh doanh cao, có thị trường xuất khẩu như
nghề mộc, đồ đồng, thực phẩm,… Để khuyến khích làng nghề phát triển cần có
chính sách miễn, giảm thuế thuê đất mở rộng sản xuất, thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế tài nguyên và các loại thuế có liên quan khác theo quy định.
Cùng với vốn, mặt bằng sản xuất cũng đang là một khó khăn mà các
làng nghề truyền thống muốn mở rộng quy mô sản xuất đang gặp phải. Vì
vậy, Nhà nước cùng cần có cơ chế, chính sách thông thoáng, ưu tiên việc giao
đất, ký hợp đồng cho thuê đất cho các cơ sở sản xuất trong các làng nghề
truyền thống.
Thứ ba, bên cạnh việc hỗ trợ về vốn, mặt bằng sản xuất thì việc tạo
điều kiện cho các làng nghề tiếp cận được các thông tin về công nghệ, khoa
82
học - kỹ thuật, thị trường để xây dựng chiến lược xuất khẩu hàng hóa hiệu quả
đáp ứng yêu cầu của thị trường là hết sức ý nghĩa. Vì vậy, cần có cơ chế cung
cấp thông tin cần thiết cho nghệ nhân, chủ sản xuất,… trong các làng nghề
truyền thống, hỗ trợ khả năng, kỹ năng khai thác và xử lý thông tin cho các
làng nghề, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các làng nghề tham gia hội chợ, triển
lãm, hội thảo… để họ tự tiếp cận thông tin.
Thứ tư, cần tăng cường và thực hiện hiệu quả chương trình năng suất
chất lượng trên địa bàn tỉnh, thông qua chương trình có các chính sách hỗ trợ
về tài chính để các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong làng nghề thực hiện đổi
mới công nghệ, thực hiện các công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường và các
công nghệ xử lý môi trường.
Thứ năm, tạo mọi điều kiện cho các cá nhân, tổ chức tư nhân được
tham gia và hưởng lợi từ những chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học
công nghệ liên quan đến phát triển làng nghề truyền thống do nhà nước tài
trợ.
Thứ sáu, cần đẩy mạnh cơ chế hỗ trợ việc tạo lập và quản lý phát triển
quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm của làng nghề truyền thống.
Nhìn chung, vấn đề xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề
truyền thống vẫn chưa được chính quyền địa phương và các cơ sở sản xuất tại
các làng nghề truyền thống quan tâm đúng mức, chưa chủ động, tích cực trong
việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc
khai thác thị trường và tạo lòng tin cho người tiêu dùng đối với các sản phẩm
làng nghề truyền thống. Trong quá trình hội nhập, vấn đề xây dựng thương
hiệu trở nên rất cần thiết, đó là điều kiện để sản phẩm làng nghề truyền thống
có thể vươn xa hơn, tránh bị sao chép và cạnh tranh không lành mạnh. Để thực
hiện được nội dung này, cần triển khai các giải pháp cụ thể sau:
- Tăng cường hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức cho chính
83
quyền địa phương, chủ các cơ sở sản xuất kinh doanh và người lao động tại
các làng nghề truyền thống về vai trò của thương hiệu trong việc phát triển
sản phẩm. Việc tập huấn, tuyên truyền cần phải thực hiện theo phương châm
thiết thực, dễ hiểu, gắn sát với đối tượng và thực tế tại làng nghề.
- Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước trong quá trình tạo lập, quảng bá
và phát triển thương hiệu các làng nghề truyền thống, như: khuyến khích, tạo
điều kiện thuận lợi cho làng nghề truyền thống đầu tư vào xây dựng thương
hiệu, đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong việc lập hồ sơ tạo lập thương
hiệu, tạo điều kiện và hướng dẫn làng nghề truyền thống tạo lập thương hiệu
một cách nhanh chóng; hỗ trợ trong đào tạo, huấn luyện, cung cấp thông tin,
tư vấn cho làng nghề truyền thống xây dựng thương hiệu.
- Rà soát lại các sản phẩm làng nghề đã được UBND tỉnh công nhận
nhưng chưa đăng ký quyền sở hữu công nghiệp cho sản phẩm và cả những
sản phẩm đã được đăng ký nhưng chưa biết cách quản lý và phát triển để xây
dựng kế hoạch tạo lập và quản lý phát triển thương hiệu đối với các sản phẩm
có tiềm năng phát triển. Bên cạnh đó, tiến hành lên kế hoạch tạo lập quyền sở
hữu công nghiệp cho những sản phẩm làng nghề truyền thống chưa được
UBND tỉnh công nhận nhưng có chiều hướng phát triển tốt.
- UBND tỉnh cần quan tâm bố trí kinh phí để triển khai Kế hoạch số
5308/KH-UBND ngày 26/10/2016 của UBND tỉnh về “Tạo lập, quản lý và
phát triển quyền sở hữu công nghiệp cho các sản phẩm đặc trưng, sản phẩm
làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016 – 2020”. Kế hoạch
thực hiện là một trong những giải pháp để tạo lập, quản lý và phát triển
thương hiệu cho các sản phẩm làng nghề truyền thống.
3.2.5. Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra làng nghề truyền thống
trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề
Thanh tra, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý nhà
84
nước, được quy định trong chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Hoạt động
thanh tra, kiểm tra nếu được diễn ra đúng quy định và thường xuyên theo định kỳ
hoặc đột xuất khi cần thiết sẽ giúp cho làng nghề truyền thống phát triển bền
vững. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra làng nghề
truyền thống trong hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề cần thực hiện
các giải pháp sau:
Thứ nhất, thực hiện nghiêm túc việc thanh tra, kiểm tra trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các cơ sở tại làng nghề truyền thống theo đúng quy
định của pháp luật, đẩy mạnh việc giáo dục ý thức pháp luật cho người dân,
khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của
pháp luật về sản xuất, kinh doanh và tổ chức sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, đối với cơ quan quản lý nhà nước về làng nghề ở cấp tỉnh cần
có kế hoạch thanh tra, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với từng làng nghề
truyền thống, qua đó để nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh của từng làng
nghề truyền thống để có định hướng trong quy hoạch, phát triển các làng nghề
của tỉnh.
Thứ ba, đối với Phòng chuyên môn cấp huyện có chức năng quản lý
nhà nước về làng nghề truyền thống cần phối hợp với UBND xã, phường có
làng nghề truyền thống điều tra khảo sát, nắm thông tin về tình hình hình hoạt
động tại làng nghề và báo cáo Ban quản lý làng nghề tổng hợp, báo cáo tham
mưu UBND tỉnh theo dõi, chỉ đạo, theo định kỳ, hằng quý, 6 tháng, 1 năm
hoặc đột xuất.
Thứ tư, nâng cao vai trò, chức năng, nhiệm vụ quản lý của cấp xã,
thường xuyên kiểm tra, kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, các đơn vị sản xuất nhằm uốn nắn kịp thời những mặt yếu kém, lệch
lạc và có hình thức xử lý thích đáng đối với các cơ sở vi phạm pháp luật.
Thứ năm, trong hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với các làng nghề
85
truyền thống cần tăng cường thanh tra, kiểm tra công tác bảo vệ môi trường,
trong đó tập trung vào những loại hình hoạt động của các làng nghề có nguy
cơ gây ô nhiễm môi trường cao, khu vực môi trường nhạy cảm; xử lý nghiêm
các vi phạm về bảo vệ môi trường.
Thứ sáu, cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống cần
có kế hoạch phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
thẩm, về môi trường tại địa phương trong hoạt động thanh tra, kiểm tra về
việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đảm bảo an toàn về môi trường,... để
tránh tình trạng kiểm tra chồng chéo, gây phiền hà, cản trở sản xuất kinh
doanh, góp phần cho các làng nghề truyền thống được phát triển bền vững.
Thực hiện tốt hoạt động thanh tra, kiểm tra sẽ kịp thời cung cấp các
thông tin về những tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, cung cấp kịp thời thông tin
ban đầu về thị trường cho các làng nghề, từ đó sẽ tạo điện kiện cho các làng
nghề nắm bắt các thông tin thị trường để có những định hướng, thay đổi hợp
lý trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
3.2.6. Xã hội hóa, hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý, phát triển làng
nghề truyền thống
Thứ nhất, tuyên truyền nâng cao nhận thức, tư tưởng của cán bộ cơ sở
và người lao động tại các làng nghề truyền thống về vai trò, ý nghĩa kinh tế -
xã hội quan trọng của làng nghề truyền thống đối với sự nghiệp CNH, HĐH ở
nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, nhằm kêu gọi sự tham gia
của nhân dân vào hoạt động quản lý và phát triển làng nghề truyền thống của
địa phương.
- Kêu gọi sự tham gia và đóng góp của người dân vào việc xây dựng và
phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho làng nghề truyền thống của địa
phương: Tham gia phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn, phát triển
86
mạng lưới cung cấp điện, phát triển hệ thống thông tin liên lạc,... ngoài sự hỗ
trợ chủ lực của nhà nước, cần huy động đóng góp trực tiếp, tại chỗ của dân cư
và các cơ sở sản xuất trong các làng nghề truyền thống.
- Cùng với việc gia tăng phát triển cả về số lượng làng nghề và loại
ngành nghề, ô nhiễm môi trường càng gia tăng, để đảm bảo vấn đề đảm bảo
an toàn môi trường tại các làng nghề thì ngoài những chính sách của nhà nước
như công tác quy hoạch, sản xuất sạch hơn, cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản
xuất,... thì rất cần sự tham gia huy động của cộng đồng đóng góp nguồn lực
cho công tác bảo vệ môi trường. Phát triển phong trào quần chúng tham gia
bảo vệ môi trường phải tác động trực tiếp đến nhận thức của người dân các
làng nghề truyền thống. Qua đó tuyên truyền, vận động và huy động sự tham
gia của toàn thể cộng đồng vào hoạt động bảo vệ môi trường. Dựa trên ý chí,
nguyện vọng, sự tự nguyện thỏa thuận và cũng là những quy tắc xử sự chung
trong việc xây dựng và thực hiện quy ước, cam kết về bảo vệ môi trường
trong các làng nghề truyền thống.
Thứ hai, cần đẩy mạnh “xã hội hóa” trong công tác đào tạo nghề, bên
cạnh hệ thống trường lớp, các cơ sở công lập cần thu hút các tổ chức xã hội,
hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp, các nghệ nhân tại các làng nghề truyền
thống tham gia vào việc dạy nghề; tổ chức những lớp dạy nghề ngay tại mỗi
làng nghề, học viên là lao động trong làng, thầy dạy là những nghệ nhân, thợ
giỏi.
Thứ ba, tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế như UNESCO,
JICA, ILO,... nhằm hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho làng nghề truyền thống,
hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, mở rộng các kênh bán hàng, mở rộng thị
87
trường tiêu thụ sản phẩm.
3.3. Kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị với Trung ương
- Chính phủ sớm ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định
66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề
nông thôn, trên cơ sở đó địa phương ban hành cơ chế, chính sách về ngành
nghề, làng nghề nông thôn phù hợp với Nghị định của Chính phủ.
- Hiện nay, đa phần cán bộ quản lý nhà nước về ngành nghề nông thôn
nói chung và làng nghề nói riêng còn rất lúng túng và chưa chuyên sâu, vì
vậy, kiến nghị Chính phủ ban hành sổ tay hướng dẫn quản lý nhà nước về
ngành nghề nông thôn, làng nghề nông thôn.
- Chính phủ xây dựng cơ chế huy động mọi nguồn vốn, tăng cường hỗ
trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước cho hoạt động xúc tiến thương mại, đào
tạo, bồi dưỡng, đổi mới ứng dụng khoa học công nghệ và phát triển sản xuất,
cải tạo, xử lý môi trường tại các làng nghề truyền thống.
- Chính phủ xây dựng cơ chế nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước
ngoài, các tổ chức phi Chính phủ đầu tư vào lĩnh vực phát triển liên quan đến
- Việc quản lý nhà nước đối với các làng nghề truyền thống còn phân
làng nghề truyền thống.
tán, chồng chéo: Chính phủ quy định Bộ NN&PTNT quản lý các hộ, cá nhân
ở nông thôn; Bộ Công thương quản lý doanh nghiệp ở nông thôn, nhưng mỗi
tỉnh lại phân công khác nhau dẫn đến phân tán, chồng chéo,…điều này khiến
hiệu quả hoạt động của các làng nghề chưa cao. Để tránh phân tán như hiện
nay, kiến nghị Chính phủ thống nhất đầu mối quản lý.
3.3.2 Kiến nghị với địa phương
- Thực hiện khảo sát, lập quy hoạch tổng thể cho các làng nghề truyền
88
thống trên cả tỉnh, tránh lập quy hoạch ngắn hạn, tự phát, thiếu đồng bộ.
- Quy hoạch, cải tạo vùng nguyên liệu cho một số làng nghề truyền
thống: Vùng nguyên liệu đất sét cho làng nghề gốm Thanh Hà, vùng nguyên
liệu cói lát cho các làng nghề đan lát,....
- Tăng cường sự chỉ đạo quản lý Nhà nước của UBND tỉnh và UBND
huyện đối với làng nghề truyền thống, đặc biệt bổ sung cán bộ chuyên trách và
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở sản xuất, kinh
doanh tại các làng nghề truyền thống để cung cấp và nắm bắt kịp thời các thông
tin phục vụ, hỗ trợ cho làng nghề phát triển.
- Xây dựng chuyên trang làng nghề tại cổng thông tin điện tử của tỉnh để
quảng bá, giới thiệu về các làng nghề truyền thống của tỉnh.
- Tăng nguồn kinh phí khuyến nông, khuyến công hằng năm để hỗ trợ
cho các đối tượng tại làng nghề với các nội dung hỗ trợ như: Xây dựng sản
phẩm nông nghiệp an toàn theo chuỗi giá trị; xây dựng thương hiệu, đăng ký
nhãn hiệu; mua sắm trang thiết bị; tham quan học tập,…
- Xây dựng các mô hình điểm về xử lý môi trường làng nghề; sửa chữa,
nâng cấp hệ thống xử lý ô nhiễm tại cơ sở ngành nghề tại làng nghề; xây dựng
hệ thống xử lý nước thải làng nghề; xây dựng hệ thống thu gom, phân loại
chất thải rắn.
- Đề nghị UBND huyện/thị xã/thành phố ban hành Quyết định quy định
chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của phòng
NN&PTNT/Kinh tế theo quy định tại Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT –
BNNPTNT –BNV của Bộ NN&PTNT và Bộ Nội vụ; trong đó có quy định
chức năng tham mưu quản lý nhà nước về ngành nghề, làng nghề nông thôn.
Đồng thời, chỉ đạo việc bàn giao chức năng quản lý nhà nước về ngành nghề,
làng nghề nông thôn từ Phòng Kinh tế Hạ tầng về cho phòng
89
NN&PTNT/Kinh tế để đảm bảo thống nhất trong quản lý.
Tiểu kết chương 3
Việc phát triển các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh đã góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập, tạo việc làm cho lao động
nông nhàn, cải thiện và nâng cao đời sống nông thôn, góp phần giảm nghèo.
Đồng thời, các làng nghề truyền thống đã tận dụng được nguồn nguyên liệu
tại chỗ, dư thừa của địa phương để tạo ra hàng hóa có giá trị kinh tế. Đồng
thời, giá trị làng nghề truyền thống không chỉ ở việc tạo ra việc làm, những
giá trị kinh tế, mà cao hơn là sản phẩm làng nghề truyền thống gắn với những
giá trị của người Việt từ văn hóa như ăn, mặc, ở, sản xuất, hoạt động văn hóa
nghệ thuật,... Việc gìn giữ giá trị của văn hóa làng nghề truyền thống là giữ lại
những giá trị văn hóa của cả dân tộc. Do đó, tăng cường hoạt động quản lý
nhà nước đối với làng nghề truyền thống là rất quan trọng; điều này trong
quan điểm của Đảng đã nêu rõ; cụ thể quan điểm của Đảng bộ tỉnh Quảng
Nam đã khẳng định:
Thứ nhất, quản lý phát triển làng nghề truyền thống là một bộ phận
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và tuân thủ chặt chẽ quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Thứ hai, bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống gắn với Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; khai thác các tiềm năng lợi
thế của địa phương, tạo ra những sản phẩm đặc trưng, mang dấu ấn, thương
hiệu của làng nghề Quảng Nam.
Thứ ba, phát triển làng nghề phải trên cơ sở phát triển hài hòa giữa sản
xuất hàng hóa với bảo vệ môi trường và gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống của địa phương.
Thứ tư, “Cần cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị
90
gia tăng và phát triển bền vững; thúc đẩy phát triển làng nghề truyền thống”.
Dựa trên những quan điểm của Đảng và thực trạng hoạt động quản lý
nhà nước đối với làng nghề truyền thống, luận văn đã đề xuất một số giải
pháp để nâng cao hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
tỉnh, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao hơn cần phải thực hiện theo các quan
điểm và đồng bộ các giải pháp từ hoạt động tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực
đến việc thực hiện, hướng dẫn và ban hành các văn bản, chính sách để quản lý
và phát triển làng nghề truyền thống, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI, nhiệm kỳ
91
2015 – 2020.
KẾT LUẬN
Các làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam được hình thành, xây
dựng và phát triển từ rất lâu, là nét đẹp văn hóa tạo ra đặc trưng cho bản sắc
dân tộc của địa phương. Trong thời gian qua, làng nghề truyền thống đã có
những đóng góp tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tăng thêm thu
nhập, cải thiện đời sống cho lao động nông thôn; góp phần quan trọng trong
tiến trình xây dựng nông thôn mới; giữ gìn nét văn hóa truyền thống đặc sắc
của mỗi miền quê xứ Quảng. Do đó, các làng nghề truyền thống cần được sự
quan tâm, tạo điệu kiện thuận lợi từ phía Nhà nước, địa phương và sự nổ lực tự
vươn lên của mỗi làng nghề để các làng nghề ngày càng được phát triển hơn.
Từ những vấn đề đã nêu, luận văn đã giải quyết được những vấn đề sau:
Thứ nhất, luận văn đã hệ thống hóa được tình hình nghiên cứu về làng
nghề, làng nghề truyền thống để tìm hiểu và kế thừa những kết quả nghiên
cứu, đồng thời tiếp tục đi sâu nghiên cứu về hoạt động quản lý nhà nước đối
với làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam.
Thứ hai, trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những kết quả nghiên cứu đã
được các nhà khoa học nghiên cứu, các nhà quản lý đưa ra, luận văn đã hệ
thống hóa một số khái niệm liên quan đến quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống, tìm ra sự cần thiết phải quản lý và các yếu tố ảnh hưởng đến
hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống.
Thứ ba, từ việc nghiên cứu những kinh nghiệm về quản lý và phát triển
làng nghề, làng nghề truyền thống của một số địa phương khác, luận văn đã
rút ra được những bài học kinh nghiệm có giá trị cho hoạt động quản lý và
phát triển làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Nam.
Thứ tư, trên cơ sở thu thập, tổng hợp số liệu, tài liệu và xử lý số liệu,
luận văn đã phân tích được thực trạng của làng nghề truyền thống trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam và hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
92
thống của tỉnh từ năm 2011 đến 2016. Từ đó, luận văn đã chỉ rõ những yếu tố
thuận lợi, những hạn chế và nguyên nhân của những yếu tố thuận lợi, những
hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống của
tỉnh Quảng Nam.
Thứ năm, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng về hoạt
động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam, luận văn đã đưa ra những giải pháp để tiếp tục quản lý làng nghề
truyền thống của tỉnh Quảng trong thời gian đến. Cụ thể gồm các giải pháp
sau:
- Nâng cao hiệu quả việc ban hành, hướng dẫn và tổ chức triển khai
thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường
trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống;
- Kiện toàn tổ chức bộ máy trong quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống tỉnh Quảng Nam;
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt động quản lý nhà nước
đối với làng nghề truyền thống tỉnh Quảng Nam;
- Tăng cường chính sách quản lý phát triển làng nghề truyền thống;
- Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra làng nghề truyền thống trong
hoạt động quản lý nhà nước về làng nghề;
- Xã hội hóa, hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý, phát triển làng
nghề truyền thống.
Em mong rằng kết quả nghiên cứu của Luận văn được chính quyền tỉnh
Quảng Nam và các địa phương có điều kiện tương đồng với tỉnh Quảng Nam
tham khảo và áp dụng vào thực tế trong hoạt động quản lý nhà nước đối với
93
làng nghề truyền thống./.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 1. Hà Thị Ánh Tuyết (2010) Ứng dụng công nghệ vi sinh để sản xuất
phân hữu cơ vi sinh phục vụ sản xuất nông nghiệp an toàn tại Quảng
Nam, Dự án Khoa học công nghệ cấp Bộ, chủ nhiệm dự án.
2. Hà Thị Ánh Tuyết (2013), Xây dựng chỉ dẫn địa lý Ngọc Linh cho sản
phẩm sâm củ của hai tỉnh Quảng Nam và KonTum, dự án khoa học cấp
Bộ, thành viên thư ký dự án.
3. Hà Thị Ánh Tuyết (2014), Quản lý và phát triển nhãn hiệu tập thể cho
một số sản phẩm đặc trưng của tỉnh Quảng Nam, đề tài khoa học cấp
tỉnh, chủ nhiệm đề tài.
4. Hà Thị Ánh Tuyết (2014), Quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý Trà My
cho sản phẩm quế vỏ, dự án khoa học cấp Bộ, thành viên dự án.
5. Hà Thị Ánh Tuyết (2017), Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Tạp chí Khoa học và Sáng tạo tỉnh
Quảng Nam (167-168).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2006), Thông tư 116/2006/TT-
BNN hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số
66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành
nghề nông thôn, Hà Nội.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, UBND tỉnh Nam Định (2012),
Hội thảo phát triển làng nghề gắn với du lịch, Nam Định.
3. Cục thống kê tỉnh Quảng Nam (2015), Niên giám thống kê 2015, Nxb
Thống kê, Quảng Nam.
4. Ngô Thành Can, Nguyễn Thị Ngọc Lan (2016), Tổ chức hành chính nhà
nước lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
5. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh
lần thứ XXI, Nxb , Quảng Nam.
6. Nguyễn Hữu Hải (2014), Quản lý học đại cương, Nxb Chính trị Quốc gia
– Sự thật, Hà Nội.
7. Nguyễn Hữu Hải (2016), Chính sách công, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự
thật, Hà Nội,
8. Vũ Ngọc Hoàng (2016), Làng nghề truyền thống tỉnh Nam Định trong hội
nhập Quốc tế, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, HàNội.
9. Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa (2015), Mỗi làng nghề truyền thống, một
nét đẹp riêng của người xứ Thanh, Công thông tin điện tử Hội Nông
dân tỉnh Thanh Hóa, Thanh Hóa.
10. Luật Thanh tra (2011), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
11. Nguyễn Tấn Nhan, Phú Văn Hẳn (2013), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Từ
điển Bách khoa, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Kim Ngân (2015), Quản lý nhà nước về phát triển làng nghề
truyền thống trên địa bàn huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội, Luận
văn thạc sỹ quản lý kinh tế, Hà Nội.
13. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Quảng Nam (2016), Báo cáo kết
quả khảo sát thực trạng làng nghề, làng nghề truyền thống được
công nhận trên địa bàn tỉnh và đề xuất những giải pháp đẩy mạnh
trong thời gian đến, Quảng Nam.
14. Sở Công thương tỉnh Quảng Nam (2016), Báo cáo tình hình hỗ trợ sản
xuất tiểu thủ công nghiệp làng nghề năm 2015, Quảng Nam.
15. Sở Công thương tỉnh Quảng Nam (2016), Báo cáo tình hình phát triển
Tiểu thủ công nghiệp năm 2016, Quảng Nam.
16. Nguyễn Thanh Tài (2012), Phát huy vai trò của làng nghề trong sự
nghiệp xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Nam, Đề tài khoa học
cấp tỉnh, Liên minh HTX tỉnh Quảng Nam chủ trì, Quảng Nam.
17. Ngô Thành Trung (2014), Quản lý nhà nước đối với các làng nghề trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.
18. Trần Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Hải (2015), Quản lý công, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
19. Tỉnh Hà Giang (2016), Tình hình phát triển và hiệu quả hoạt động của
các làng nghề, làng nghề truyền thống sau khi được công nhận,
Công thông tin điện tử tỉnh Hà Giang, Hà Giang.
20. Tỉnh ủy Quảng Nam (2016), Nghị quyết số 17/2016/NQ-HĐND ngày
19/7/2016 của HĐND tỉnh về Chiến lược phát triển khoa học và công
nghệ tỉnh Quảng Nam đến năm 2025, tầm nhìn 2030, Quảng Nam.
21. Từ điển Tiếng Việt.
22. UBND tỉnh Quảng Nam (2013), Kỷ yếu Hội thảo giải pháp phát triển kinh
tế làng nghề gắn với phát triển du lịch tỉnh Quảng Nam, Quảng Nam.
23. UBND tỉnh Quảng Nam (2016), Kết quả 5 năm thực hiện Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2015;
mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện giai đoạn 2016 - 2020 tỉnh
Quảng Nam, Quảng Nam.
PHỤ LỤC
1. Danh sách các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
2. Các làng nghề, làng nghề truyền thống được phân bố theo các huyện, thị
xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (tính đến năm 2016).
3. Số lao động tại các làng nghề truyền thống được UBND tỉnh Quảng
Nam công nhận.
4. Thống kế số hộ sản xuất tại các làng nghề truyền thốngđược UBND tỉnh
Quảng Nam công nhận.
5. Danh sách các làng nghề, làng nghề truyền thống đã đăng ký xác lập
quyền sở hữu công nghiệp.
6. Mẫu phiếu điều tra.
7. Hình ảnh một số làng nghề truyền thống ở tỉnh Quảng Nam.
Tên làng nghề/địa điểm
Xu hướng phát triển
TT
Thị trường/khả năng tiêu thụ sản phẩm
Vấn đề xử lý môi trường tại các làng nghề
Phát triển làng nghề có gắn với hoạt động phát triển du lịch
Thành phố Hội An
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
1
Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không:
Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
2
Tốt : Không tốt:
3
Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
4
Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
Làng nghề truyền thống mộc Kim Bồng Đ/c: Thôn Trung Hà, xã Cẩm Kim Làng nghề truyền thống Gốm Thanh Hà Đ/c: Thôn Nam Diệu, xã Thanh Hà Làng nghề truyền thống rau trà Quế Đ/c: Thôn Trà Quế, xã Cẩm Hà Làng nghề truyền thống tre dừa Đ/c: Thôn Trung Hà, xã Cẩm Kim
Huyện Duy Xuyên
5
6
7
8
Làng nghề Tơ lụa Mã Châu, thị trấn Nam Phước Làng nghề Dệt vải Phú Bông-Thi Lai, xã Duy Trinh Làng nghề Dệt Chiếu Bàn Thạch, xã Duy Vinh Làng nghề Dệt chiếu An Phước, xã Duy Phước
Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:
Phụ lục 1. Danh sách các làng nghề truyền thống trên địa bàn Quảng Nam
9
Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
Làng nghề chế biến hải sản An Lương, xã Duy Hải
10
Huyện Nông Sơn Có: Không:
Thuận lợi: Khó khăn:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
11
Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
Làng nghề thủ công mỹ nghệ bó Trầm hương, Nông Sơn Làng nghề trồng cây ăn quả Đại Bình, xã Quế Trung
12
Làng nghề Hương, TT Hà Lam
13
14
15
Làng nghề nước mắm Cửa Khe – Bình Dương Làng nghề rau sạch Hưng Mỹ- Bình Triều Làng nghề Đan tre Bình Phụng- Bình Quế
Huyện Thăng Bình Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không:
Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:
Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:
16
Làng nghề làm rượu cồn Tà Vạt
17
Làng nghề sản xuất ớt ARiêu
Làng nghề sản xuất chè dây
18
Huyện Đông Giang Có: Không: Có: Không: Có: Không:
Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:
Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:
19
Làng nghề dệt Thổ cẩm thôn PơRrong, xã Lăng
Thuận lợi: Khó khăn:
Huyện Tây Giang Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
20
Bánh tráng , Thị trấn Ái Nghĩa
21
22
Hương Phú Lộc, thôn Phú Lộc, xã Đại An Trống Lâm Yên, xã Đại Minh
23
Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:
Huyện Đại Lộc Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:
24
25
Làng nghề đan lờ truyền thống , thôn Trung An, Thị trấn Ái Nghĩa Làng nghề sản xuất dầu rái xã Đại Thạnh Làng lò rèn, thôn Thạnh Phú, xã Đại Chánh
Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không: Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:
26
27
28
29
30
Thị xã Điện Bàn Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không:
Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:
Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:
Đúc Đồng Phước Kiều, xã Điện Phương Chiếu chẻ Triêm Tây, xã Điện Phương Bánh tráng Phú Triêm, xã Điện Phương Nước mắm Hà Quảng, phường Điện Dương Làng nghề mỹ nghệ đát nung – làng Đông Khương, xã Điện Phương
31
Làng nghề đan đát Tam Vinh, Thạch Đức, Phú Thịnh
Thuận lợi: Khó khăn:
Huyện Phú Ninh Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
32
Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
Làng nghề truyền thống Văn Hà, thôn Văn Hà, Tam Thành
33
Làng nghề nước mắm Tam Tiến
Thuận lợi: Khó khăn:
34
Làng nghề mây tre Thuận lợi: Khó khăn:
Huyện Núi Thành Có: Không: Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:
35
36
37
38
39
Làng bún Phương Hòa, phường Hòa Thuận Làng nghề dệt chiếu cối, Thôn Thạch Tân Làng nghề rèn Hồng Lư, Hòa Hương Làng nghề đóng sửa tàu thuyền Tam Phú Làng nghề sản xuất nước mắm Tam Thanh
Thành Phố Tam Kỳ Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không: Có: Không:
Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:
Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:
40
41
Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:
Huyện Quế Sơn Có: Không: Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt: Tốt : Không tốt:
42
Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
43
Làng nghề mộc Đông Phú, thị trấn Đông Phú Làng nghề mây tre đan Quế Xuân 2, thôn Phú Bình, xã Quế Xuân 2 Làng nghề rèn Quế Châu, thôn Phú Đa, xã Quế Châu Làng nghề gốm Quế An
Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
Huyện Bắc Trà My
44
Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
45
Thuận lợi: Khó khăn:
Có: Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
Làng nghề sản xuất rượu cần, xã Trà Bui, huyện Bắc Trà My Làng nghề sản xuất bánh tráng gạo, xã Trà Sơn, huyện Bắc Trà My
46
Huyện Nam Giang Có: Không:
Thuận lợi: Khó khăn:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Tốt : Không tốt:
Làng nghề dệt thổ cẩm Zara, xã Tabing
Phụ lục 2. Các làng nghề, làng nghề truyền thống được phân bố theo
các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (tính đến năm
2016)
TT Tên huyện, thị xã, làng Ghi chú
thành phố Số nghề
Thị xã Điện Bàn Thành phố Hội An Huyện Đại Lộc Huyện Duy Xuyên Huyện Quế Sơn Huyện Nông Sơn Huyện Phước Sơn Huyện Hiệp Đức Huyện Thăng Bình
Thành phố Tam Kỳ
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Huyện Phú Ninh 11 12 Huyện Núi Thành 13 Huyện Tiện Phước 14 Huyện Nam Trà My 15 Huyện Bắc Trà My 16 Huyện Nam Giang 17 Huyện Tây Giang 18 Huyện Đông Giang
Tổng cộng Tỷ lệ % so với tổng số làng nghề 11 9 13 11 9 4 - - 9 4 11 4 - - 4 2 2 7 5 4 6 5 4 2 0 0 4 2 5 2 0 0 2 1 1 3 46
Phụ lục 3. Số lao động tại các làng nghề truyền thống được UBND
Tổng số lao động tham gia
Thu nhập BQ ở lao động (tr. đồng/lđ/th)
Lao động thời vụ
1 2 3
Trong đó Lao động thường xuyên 47 52 219
47 52 374
0 0 155
5.25 3.00 4.20
4
78
47
31
4.00
5
30
0
30
1.50
6
6
0
6
3.00
7
130
0
130
2.50
8
120
0
120
0.60
9
510
154
356
1.50
10
293
0
293
3.00
11
505
0
505
2.50
12
40
0
40
2.50
13
250
150
100
1.50
14
85
0
85
4.50
15
550
175
375
4.00
16 17
20 279
10 0
10 279
4.10 1.65
18
150
0
150
1.20
19
88
0
88
5.00
Làng nghề mộc Kim Bồng Làng nghề gốm Thanh Hà Làng nghề trồng rau Trà Quế Làng nghề đúc đồng Phước Kiều Làng nghề dệt chiếu chẽ Triêm Tây Làng nghề chế biến nước mắm Hà Quảng Làng nghề bánh tráng Phú Triêm Làng nghề dệt chiếu An Phước Làng nghề dệt chiếu Bàn Thạch Làng nghề dệt vải Phú Bông – Thi Lai Làng nghề dệt vải tơ lụa Mã Châu Làng nghề chế biến hải sản Trung Phường Làng nghề hương Quán Hương Làng nghề chế biến nước mắm Cửa Khe Làng nghề trồng rau Hưng Mỹ Làng nghề mộc Văn Hà Làng nghề đan lát Tam Vinh Làng nghề dệt chiếu Thạch Tân Làng nghề bún Phương Hòa
tỉnh Quảng Nam công nhận [13] TT Tên làng nghề
20
100
100
0
3.00
21
36
20
16
1.20
22
87
0
87
0.50
Làng nghề mây, tre, trúc Núi Thành Làng nghề chế biến nước mắm Tam Tiến Làng nghề dệt thổ cẩm thôn Pơrning
Phụ lục 4. Thống kế số hộ sản xuất tại các làng nghề truyền thống
được UBND tỉnh Quảng Nam công nhận
TT Tên làng nghề
Tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh DN HTX THT Hộ 0 0 0 4 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 5 12 21 202 12 22 6 60 70 294 174 245 10 120 41 294 6 132 140 44 0 36 50 1.991 0 0 1 0 0 0 0 0 1 0 0 0 1 1 0 1 0 0 0 0 0 0 5 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 3
Làng nghề mộc Kim Bồng 1 Làng nghề gốm Thanh Hà 2 Làng nghề trồng rau Trà Quế 3 Làng nghề đúc đồng Phước Kiều 4 Làng nghề dệt chiếu chẽ Triêm Tây 5 Làng nghề chế biến nước mắm Hà Quảng 6 Làng nghề bánh tráng Phú Triêm 7 Làng nghề dệt chiếu An Phước 8 9 Làng nghề dệt chiếu Bàn Thạch 10 Làng nghề dệt vải Phú Bông – Thi Lai 11 Làng nghề dệt vải tơ lụa Mã Châu 12 Làng nghề chế biến hải sản Trung Phường 13 Làng nghề hương Quán Hương 14 Làng nghề chế biến nước mắm Cửa Khe 15 Làng nghề trồng rau Hưng Mỹ 16 Làng nghề mộc Văn Hà 17 Làng nghề đan lát Tam Vinh 18 Làng nghề dệt chiếu Thạch Tân 19 Làng nghề bún Phương Hòa 20 Làng nghề mây, tre, trúc Núi Thành 21 Làng nghề chế biến nước mắm Tam Tiến 22 Làng nghề dệt thổ cẩm thôn Pơrning Tổng cộng
Phụ lục 5. Danh sách các làng nghề, làng nghề truyền thống đã đăng
Địa chỉ
Chủ sở hữu
1
Xã Đại Minh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp - kinh doanh tổng hợp Đại Minh
2
Xã Đại Hoà, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp - kinh doanh tổng hợp Đại Hoà
3
Khu 3, thị trấn ái Nghĩa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp - kinh doanh tổng hợp ái Nghĩa
4
truyền thống Trống Lâm Yên - LAM YEN DRUM Làng nghề truyền thống Trống Lâm Yên LAM YEN DRUM MAKING VILLAGE Hương Phú Lộc - PHU LOC INCENSE Làng Nghề Truyền Thống Hương Phú Lộc PHU LOC INCENSE MAKING VILLAGE Bánh Tráng Đại Lộc - Dai Loc Rice Paper Đặc Sản Truyền Thống Địa Phương LOCAL TRADITIONAL SPECIALITY BT ĐL Dai Loc Dist Bánh phở sắn – Đông Phú
Thị trấn Đông Phú, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
5
Đồ gỗ mỹ nghệ - Quế Sơn
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và kinh doanh tổng hợp thị trấn Đông Phú Hợp Tác Xã Nông nghiệp Quế Trung
6 Mộc Kim Bồng - Hội An
Trung Phước, xã Quế Trung, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam (nay là huyện Nông Sơn) Thôn Trung Hà, xã Cẩm Kim, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam
7
Nước mắm – Cửa Khe
Xã Bình Dương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
8
Nước mắm – Tam Thanh
Xã Tam Thanh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
9
Đúc Nhôm Đồng - Phước Kiều Thôn Thanh Chiêm, xã
Điện Phương, huyện
Hợp tác xã dịch vụ - du lịch làng nghề truyền thống Kim Bồng Hợp tác xã Dịch vụ sản xuất và kinh doanh tổng hợp Bình Dương Tổ hợp tác sản xuất nước mắm Tam Thanh Hội nghề đúc Phước Kiều
ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp TT Tên nhãn hiệu của làng nghề
10 Rau Trà Quế Hội An
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam Xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam
11 Trầm hương thô – Tiên Phước Thôn Cẩm Tây, xã
12 Gốm Thanh Hà - Hội An
Tiên Cẩm, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam Số 4 Ngô Gia Tự, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
13 Dệt thổ cẩm DHROONG
Hợp tác xã nông nghiệp Cẩm Hà Hợp tác xã dịch vụ Sản xuất Chế biến Nông Lâm Cẩm Hà Hiệp hội sản xuất- kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ Hội An Tổ hợp tác dệt thổ cẩm Dhrôồng
Thôn Dhrôồng, xã Tàlu, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam
Hội nông dân xã Cẩm Thanh
14 Tre Dừa Cẩm Thanh - Hội An Thôn 6, xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Phụ lục 6: Mẫu phiếu điều tra
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Quảng Nam, ngày …. tháng … năm 2016
PHIẾU KHẢO SÁT (Thuộc đề tài: Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Nam) Kính gửi:…………………………………………………………
Điện thoại: ………………
………………………………………………………........
Thị trường/khả năng tiêu thụ sản phẩm
Xu hướng phát triển
Tên làng nghề/địa điểm
Thuận lợi: Khó khăn:
Phát triển làng nghề có gắn với hoạt động phát triển du lịch Có : Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
Thuận lợi: Khó khăn:
Có : Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
I. Thông tin chung: 1. Người khảo sát: ……………………. ( Sở Khoa học và Công nghệ; 54 Hùng Vương, Tam Kỳ, Quảng Nam) Cơ quan được khảo sát:…………………………………………………… Địa chỉ: 4. Điện thoại liên lạc: ……………………………………………….......... II. Nội dung khảo sát: Xin Ông (Bà) vui lòng cho biết: 1. Đơn vị/cơ quan phụ trách quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống tại địa phương: - Trước năm 2015: - Năm 2015 đến nay: 2. Tổng số làng nghề của địa phương: - Số làng nghề truyền thống hiện nay: - Số làng nghề truyền thống đã mai một: - Số làng nghề truyền thống đã được UBND Quảng Nam công nhận: - Số làng nghề mới hình thành: 3. Hiện trạng các làng nghề hiện có tại địa phương: 3.1 Làng nghề truyền thống: Thứ tự
điểm
Xu hướng phát triển
1
Thị trường/khả năng tiêu thụ sản phẩm Thuận lợi: Khó khăn:
Có gắn với hoạt động phát triển du lịch Có : Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
2
Thuận lợi: Khó khăn:
Có : Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
3.2 Làng nghề truyền thống đã được UBND Quảng Nam công nhận: Thứ tự Tên làng nghề/địa
Thứ tự Tên làng nghề/địa
Xu hướng phát triển
điểm
1
Thị trường/khả năng tiêu thụ sản phẩm Thuận lợi: Khó khăn:
Có gắn với hoạt động phát triển du lịch Có : Không:
Tốt: Bình thường: Mai một:
2
Thuận lợi: Khó khăn: Thuận lợi: Khó khăn:
Có : Không: Có : Không:
Tốt: Bình thường: Mai một: Tốt: Bình thường: Mai một:
3.3 Làng nghề mới hình thành:
3.4 Danh sách làng nghề truyền thống đã mai một: 4. Việc ban hành các chính sách quản lý thúc đẩy phát triển làng nghề truyền thống tại địa phương trong thời gian qua (liệt kê các văn bản có liên quan đã được UBND tỉnh, UBND huyện ban hành và áp dụng tại địa phương) 5. Chính sách để thu hút nghệ nhân tâm huyết với nghề + Có + Không có 6. Chính sách của địa phương trong việc quy hoạch phát triển làng nghề: - Có: - Không: Liệt kê văn bản đã ban hành (nếu có) 7. Địa phương có chiến lược phát triển làng nghề gắn với du lịch:
Liệt kê văn bản đã ban hành (nếu có)
- Có: - Không: 8. Nguồn nhân lực hiện có tham gia trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống tại địa phương: - Số lượng nguồn nhân lực: - Trình độ: + Trên đại học: ..... người. + Đại học: ...... người + Cao đẳng, Trung cấp: ...... người. - Về khả năng đáp ứng nhu cầu quản lý làng nghề của nguồn nhân lực: + Đáp ứng nhu cầu quản lý làng nghề: + Không đáp ứng nhu cầu quản lý làng nghề: 9. Hoạt động đào tạo nhằm phát triển nghề cho làng nghề truyền thống: - Có hoạt động đào tạo: - Không có hoạt động đào tạo: 10. Chất lượng lao động tại các làng nghề: - Độ tuổi đa số của lao động tại các làng nghề + Từ 18 tuổi đến 40 tuổi: + Từ 40 tuổi đến 60 tuổi: + Trên 60 tuổi: Trình độ nghề: + Đã qua đào tạo: + Chưa qua đào tạo, làm việc theo kinh nghiệm: - Khả năng quản lý điều hành làng nghề: + Tốt: + Bình thường: + Không tốt: 11. Hoạt động thanh kiểm tra làng nghề truyền thống tại địa phương: - Định kỳ thực hiện hoạt động thanh kiểm tra: - Không thường xuyên thực hiện hoạt động thanh kiểm tra: - Không thực hiện hoạt động thanh kiểm tra: 12. Hình thức hoạt động thanh kiểm tra làng nghề truyền thống tại địa phương: - Yêu cầu gửi báo cáo định kỳ về hoạt động của làng nghề: - Kiểm tra tại làng nghề: 13. Các chương trình hỗ trợ phát triển làng nghề truyền thống từ 2011 đến nay: - Các chương trình của trung ương, địa phương hỗ trợ phát triển làng nghề truyền thống:.
Không đầu tư:
Xác nhận của tổ chức được lấy ýkiến
- Các chương trình khác hỗ trợ phát triển làng nghề truyền thống (từ các tổ chức quốc tế,...): 14. Việc huy động vốn trong nhân dân để phát triển làng nghề: - Có: + Mức độ đóng góp: . Cao: . Thấp: - Không: 15. Về việc đầu tư cơ sở vật chất để phát triển làng nghề từ 2011 đến nay Có đầu tư: Tổng kinh phí đầu tư:................................ Trong đó: Năm 2011 Năm 2012: Năm 2013: Năm 2014: Năm 2015: Năm 2016: 16. Việc tiếp cận các nguồn vay hỗ trợ phát triển làng nghề truyền thống: Dễ tiếp cận: Khó tiếp cận: Ý kiến khác: 17. Vấn đề xử lý môi trường tại các làng nghề: - Tốt: - Không tốt: 18. Những khó khăn mà hiện nay mà các làng nghề truyền thống của địa phương đang gặp phải: 19. Những thuận lợi của địa phương trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống trong thời gian qua: ……………………………………………………………………………………… 20. Vấn đề xã hội hóa của làng nghề tại địa phương ………………………………………………………………………………………… 21. Những Khó khăn của địa phương trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống thời gian qua: 22. Kiến nghị của địa phương trong hoạt động quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống thời gian đến: Người điều tra
Phụ lục 7. Một số hình ảnh của làng nghề truyền thống
Làng nghề làm gốm Thành Hà, Hội An
Làng mộc Kim Bồng Hội An
Làng nghề bánh tráng Đại Lộc
Làng nghề ở Đại Lộc
Làng nghề trống Lâm Yên
Làng nghề làm nhang hương Đại Lộc
Làng nghề đan lát Tam Vinh, Phú Ninh
Làng nghề mộc Văn Hà