QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ THEO QUAN ĐIỂM CỦA KARL MARX
lượt xem 59
download
Trong nền kinh tế tiền tệ, mọi quan hệ kinh tế đều được thực hiên thong qua công cụ tiền tệ. Vì vậy tất yếu dẫn đến các cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đều có nhu cầu về tiền tệ. Để thực hiện các quan hệ kinh tế. Bởi lẽ công tiền tệ là một công cụ thuận lợi nhất đẻ thực hiện các dịch vụ mua bán thõa mãn nhu cầu sinh hoạt và tiêu dùng cua mọi người, cũng như thõa mãn nhu cầu dự trữ nguyên liệu, mua sắm máy móc thiết bị, trả lương công nhân cua...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ THEO QUAN ĐIỂM CỦA KARL MARX
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ THEO QUAN ĐIỂM CỦA KARL MARX. Trong nền kinh tế tiền tệ, mọi quan hệ kinh tế đều được thực hiên thong qua công cụ tiền tệ. Vì vậy tất yếu dẫn đến các cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đều có nhu cầu về tiền tệ. Đ ể thực hiện các quan hệ kinh tế. Bởi lẽ công tiền tệ là một công cụ thuận l ợi nh ất đ ẻ th ực hiện các dịch vụ mua bán thõa mãn nhu cầu sinh ho ạt và tiêu dùng cua m ọi người, cũng như thõa mãn nhu cầu dự trữ nguyên liệu, mua sắm máy móc thiết bị, trả lương công nhân cua các doanh nghiệp… và khi có nhu c ầu v ề tiền tệ,tất nhiên dẫn đến việc tìm nguồn cung cấp tiền t ệ đ ẻ thõa man nhu cầu đó. Vấn đề ở đây là chúng ta nghiên cứu xem xét đ ến mức c ầu ti ền t ệ chịu những tác động của các yếu tố nào? Và trong nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà Nước, ngân hang trung ương cần ph ải can thi ệp vào l ưu thong tiền tệ như thế nào đẻ kiểm soát cung tiền tệ, phát triển nền kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị của tiền tệ. I. Nội dung và yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ theo quan điểm của Karl Marx: 1. Nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ.
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển Khi nghiên cứu về nền kinh tế Chủ Nghĩa Tư Bản. Karl Marx đã nghiên cứu một cách có khoa học và logic về sự vận động c ủa ti ền t ệ trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và Karl Marx đã phát hi ện r ằng “kh ối lượng tiền cần thiết cho lưu thong được ấn định thông qua tỉ số giữa tổng giá cả hang hóa trong lưu thông và tốc độ quay vòng bình quân của ti ền tệ” và được biểu hiện bằng công thức: Kc: Là khối lượng cần thiết cho lưu thông trong một thời gian. H: Là tổng giá cả hang hóa lưu thông. V: Là tốc độ quay vòng bình quân của tiền tệ trong một th ời gian. 2 . Yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ. Để đảm bảo cho hàng hóa lưu thông bình th ường thì kh ối l ượng tiền thực tế có trong lưu thông phải cân đối với khối lượng ti ền c ần thi ết cho lưu thông trong một thời gian. Nghĩa là Kt =Kc Vì vậy khi Kt tăng lên, trong điều kiện số lượng hàng hóa không thay đổi thì sẽ dẫn đến một sự biến động hoặc là giá cả hàng hóa gia tăng hoặc là vòng quay của tiền tệ chậm lại hoặc là cả hai: giá cả tăng và vòng quay của tiền tệ giảm để đảm bảo Kt = Kc. Ngược lại, khi khối lượng tiền tệ không tăng lên kịp thời so với tốc đọ phát triển của hàng hóa, nghĩa là Kt không đổi hoặc thay đổi ch ậm h ơn sự thay đổi của khối lượng hàng hóa theo hướng phát triển thì sẽ dẫn đến
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển tình hình là hoặc giá cả hàng hóa giảm xuống, hoặc vòng quay ti ền t ệ sẽ tăng lên để đảm bảo Kt = Kc. Quy luật lưu thông tiền tệ không thể hiện được đầy đủ mối quan hệ về mặt định lượng giữa các yếu tố ảnh hưởng đến lượng tiền cần thiết cho lưu thông va do đó khả năng áp dụng công thức này trong hoạt động thực tiễn là hết sức hạn chế, nhưng về phương diện lý thiết việc nghiên cứu quy luật lưu thông tiền tệ có ý nghĩa ở chỗ là: _Giúp chúng ta thấy được mối quan hệ định tính giữa các yếu tố, từ đó vận dụng thực tế và điều hành sản xuất va lưu thông hàng hóa. _Chỉ ra sự cần thiết phải kiểm soát khối lượng tiền và phương hướng tác động vào khối lượng tiền trong lưu thông. Lịch sử tiền tệ đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội và phát triển qua nhiều chế độ tiền tệ khác nhau, như: tiền vàng, tiền giấy khả hoán; tiền giấy bất khả hóa. Bởi vậy việc nghiên cứu quy luật lưu thông tiền tệ trong các điều kiện lưu thông tiền tệ khác nhau sẽ có nội dung khác nhau. Trong điều kiện lưu thông vàng. Quy luật lưu thông tiền tệ trong điều kiện lưu thông tiền vàng được phát triển như sau: “Với một tổng giá cả hàng hóa nhất định và với một tốc độ tuần hoàn bình quân nhất định của tiền tệ, số lượng tiền vàng trong lưu thông phụ thuộc vào giá trị nội tại cua chính bản than chúng”.
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển Vì vàng có đầy đủ giá trị nội tại nên tiền vàng có kh ả năng t ự phát điều chế trong lưu thông, tự phát làm chức năng cất trữ, t ự phát làm chúc năng phương tiện lưu thông, nên trong điều kiện lưu thông tiền vàng, n ếu xét trong một thời kì nhất định, yêu cầu của quy luật lưu thông ti ền t ệ luôn luôn được tôn trọng. Nghĩa là luôn luôn có sự cân b ằng gi ữa kh ối lượng tiền thực tế và khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian (Kt = Kc). Trong điều kiện lưu thông tiền giấy khả hoán Tiền giấy khả hoán là tiền giấy được đảm bảo bằng vàng và đ ược chuyển đổi ra vàng theo hàm kim lượng do Nhà nước quy định cho m ột đơn vị tiền tệ. Tiền giấy khả hoán có khả năng tự phát điều tiết thông qua chuy ển đổi ra vàng được đảm bảo. Quy luật lưu thông tiền tệ trong điều kiện lưu thông ti ền gi ấy kh ả hoán được phát biểu như sau: “Ngay từ khi phát hành tiền giấy vào lưu thông đã ch ứa đựng nh ững khả năng làm cho tiền giấy quay trở lại nơi phát hành”. Tiền giấy khả hoán quay trở lại nơi phát hành thông qua con đường chuyển đổi ra vàng hoặc con đường thu nợ tín dụng. Hay nói một cách khác trong điều kiện lưu thông tiền giấy kh ả hoán, với một khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông nhất định, giá trị thực tế của tiền giấy phụ thuộc vào số ngjcuar vàng và giá trị tìn d ụng làm đảm bảo.
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển Do đó trong điều kiện lưu thông tiền giấy khả hoán, nếu xét trong một thời kì, yêu cầu của quy luật lưu thông tiền t ệ luôn luôn đ ược tôn trọng. Nghĩa là luôn luôn có sự cân bằng giữa khối lượng tiền thực tế và khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian (Kt = Kc). Trong điều kiện tiền giấy bất khả hoán Tiền giấy bất khả hoán là tiền giấy không được đảm bảo bằng vàng và không được tự do chuyển đổi ra vàng, vì vậy tiền giấy không có khả năng tự phát điều tiết trong lưu thông. Quy luật lưu thông tiền tệ trong điều kiện lưu thông tiền giấy bất khả hoán đươc phát biểu như sau: “Ngay từ khi phát hành tiền giấy vào lưu thông đã ch ứa đựng nh ững khả năng không cho tiền giấy quay trở lai nơi phát hành”. Hay nói một các khác trong điều kiện lưu thông tiền giấy bất khả hoán,với một khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông nhất định, giá trị thực tế của tiền giấy phụ thuộc vào số lươnhj của chính bản thân nó l ưu thông. Do đó, lưu thông tiền giấy bất khả hóa, luôn chứa đựng khả năng lạm phát, do vậy đòi hỏi phải có những biện pháp can thiệp nh ằm qu ản lí và điều tiết phù hợp của nhà nước. Trong chương trình này,Karl Marx chi nghiên cứu khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian để hàng hóa l ưu thông bình thường chứ Karl Marx chưa đề cập đến số cung số cầu tiền tệ của một nền kinh tế có chịu sự tác động của những nhân tố nào? Nhưng sự nghiên cứu của Karl Marx cũng giúp ta hình dung ra là giữa khối lượng tiền cần
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển thiết cho lưu thông và mức cung cầu về tiền tệ có một mối quan h ệ mật thiết với nhau. Chẳng hạn, khi nhu cầu về tiền tệ của nền kinh tế gia tăng,tức là dân chúng giữ tiền trong tay nhiều để mua hàng hóa, thỏa mãn nhu c ầu tiêu dùng va nếu lượng hàng hóa không tăng lên kịp thời để đáp ứng sức mua của dân chúng sẽ làm cho giá cả hàng hóa tăng lên,ho ặc khi chính phủ thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ, nghĩa là tăng cung tiền tệ, nhưng dân chúng không có nhu cầu giữ tiền để chi tiêu, hoặc doanh nghiệp không có nhu cầu vay tiền để mua nguyên liệu, máy móc thiết bị đầu tư sản xuất, kinh doanh thì tiền trong lưu thông được coi là th ừa. Do đó làm cho giá cả của tiền tệ, tức là lãi suất b ị gi ảm đi và nh ư v ậy chúng ta có thể thấy khối lượng tiền cần thiết chi lưu thông trong công th ức c ủa Karl Marx là có khác với mức cầu tiền tệ của nền kinh tế. Vậy thế nào la mức cầu tiền tệ? Mức cầu tiền tệ có phải là khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một th ời gian hay không? Chúng ta hãy xem xét các vấn đề sau: 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy luật lưu thông tiền tệ: a. Cầu tiền tệ: Mức cầu tiền tệ chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, nhưng trước hết chúng ta cần xem xét các nguyên nhân nào dẫn đến nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế, hay nói khác đi chúng ta cần xem xét n ền kinh tế cần tiền để làm gì? Các nguyên nhân dẫn đến nhu cầu tiền tệ. Nguyên nhân chi trả: Mọi chủ thể kinh tế cần tiền để chi trả cho việc mua hàng hóa, trả nợ.
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển Ở đây chúng ta không xét đến mức cầu tiền t ệ, mà ch ỉ xét đ ến nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế mà thôi, vì vậy chúng ta không xét đến mỗi người,mỗi tổ chức cần bao nhiêu tiền để chi trả, mà chúng ta ch ỉ bi ết rằng, do các công dụng hữu hiệu của tiền tệ đặc biệt lá nó thu ận l ợi cho việc mua, bán nên người ta đều cần đến tiền để thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống hằng ngày của mình, cũng như nhu cầu đầu tư và s ản xu ất, kinh doanh. Nguyên nhân dự phòng: Các cá nhân cần dự trữ tiền tệ để dự phòng khi bất trắc như đau ốm, thỏa mãn các nhu cầu đột xu ất trong quan h ệ xã h ội hàng ngày, các doanh nghiệp dự trữ tiền tệ để đáp ứng các nhu cầu đột xuất khi có thời cơ dự trữ các loại nguyên liệu khan hiếm, thuê mướn them công nhân đ ể mở rộng sản xuất trong các cơ hội kinh doanh mà không lường trước được hoặc dữ trữ hàng hóa. Nguyên nhân tích lũy tài sản: Nhiều cá nhân muốn d ự trữ ti ền t ệ nh ư là để tích lũy tài sản, người có tiền không gửi vào ngân hàng, không mua các loại tài sản dược ngay vì khối lượng còn ít, không đầu tư tiền tệ vào các doanh nghiệp mà để nó ở trong túi,trong két để tích lũy dần một món tiền lớn, sau đó đem ra sử dụng cho việc mua sắm các loại tài sản co giá trị lớn như: đất, nhà, xe hơi, vàng,… Phương thức tích lũy tài sản bằng tiền tệ ngày càng có khuynh hướng giảm dần, vì tiền tệ có khuynh hướng mất giá so với vàng và các tái sản khác, nên ngày nay người ta tích lũy tài sản bằng nhi ều ph ương thức có lợi hơn như gởi tiết kiệm, mua công trái, mua bất đ ộng s ản, vàng …
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển Các yếu tố ảnh hưởng đến mức cầu tiền tệ: Trên đây chúng ta mới đề cập đến các nguyên nhân dẫn đ ến có nhu cầu về tiền tệ, còn mức cấu tiền tệ được ấn định bởi các yếu t ố nào l ại là một vấn đề khác có tính chất kinh tế hơn. Vì rằng trong c ơ ch ế th ị trường người ta luôn phải có tính toán nên giữ một kh ối tiền bao nhiêu thì có lợi nhất, có nghĩa là khi một người nhận được một khoản thu nh ập bằng tiền thì ta sẽ giữ lại bao nhiêu tiền mặt hoặc ti ền b ằng séc đ ể ph ục vụ cho nhu cầu chi tiêu, nhu cầu dự phòng và nên chuy ển bao nhiêu thành tiền vốn sinh lợi, tiền gửi định kỳ hoặc mua cổ phiếu, mua trái phiếu…….? Các yếu tố ảnh hưởng đến mức cầu tiền tệ: - Khối lượng hàng hóa dịch vụ: Để hàng hóa được chi trả, dịch vụ được thanh toán, xã hội cần phải có một lượng tiền tệ nhất định để đáp ứng nhu cầu đó. Khuynh h ướng tiêu dùng càng lớn cầu tiền tệ càng cao và ngược lại. Các nhà đ ầu t ư khi có cơ hội đầu tư sẽ làm tăng mức cầu về tiền tệ, h ọ c ần ti ền đ ể đ ể mua sắm máy móc, thiết bị, cần tiền để dự trữ nguyên liệu, cần tiền để chi trả cho công nhân… tất nhiên tiền tệ ở đây luôn gắn liền v ới lưu thông hàng hóa và dịch vụ, gấn liền với sản xuất và chi dùng. Vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ của Karl Marx, nếu giáo điều chủ nghĩa chúng ta dễ dàng suy nghĩ rằng là: chỉ lúc nào có một s ản ph ẩm thực sự đang được lưu thông thì lúc đó mới cần m ột l ượng ti ền c ần thi ết để lưu thông nó? Cụ thể: khi có nhu cầu về tiền phục vụ cho sản xuất, người ta sẽ cung ứng tiền để các nhà sản xuất có tiền mua sắm thiết bị, dự trữ nguyên liệu, trả lương công nhân… và đến giai đoạn hai ngân hàng lại cung ứng tiền cho lưu thông để tiêu thụ loại hàng hóa đã đ ược sán xuất ra. Trong điều kiện như vậy chỉ có những ai có tiền hay vay được tiền mới có thể tiến hành sản xuất hoặc mua sắm chi dùng, và nh ư vậy thì các cơ hội đầu tư sẽ bị bỏ qua khi mà nền hàng hóa đã phát triên đến mức độ cao, tiền tệ được sử dụng như là một công cụ để kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa, quy trình đó được vận dụng ngược lại nh ư sau: khi một nhà đầu tư nhận được một đơn đặt hàng, nhà đầu tư đó s ẽ phải sản xuất ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu hàng hóa của xã hội, đồng thời đối với nhà đầu tư, cầu tiền tệ sẽ phát sinh. Bởi vì nhà đầu tư phải có tiền để mua sắm máy móc thiết bị, mua sắm nguyên li ệu, thuê công nhân…để tiến hành sản xuất. Để đáp ứng nhu cầu tiền tệ của nhà đầu tư, hệ thống ngân hàng sẽ tìm cách cung ứng, tức là cung ứng tiền cho nhà đầu tư mặc dù chưa có hàng hóa cụ thể mà nhà đầu tư sẽ sản xuất ra. Khi
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển nhà đầu tư nhận được tiền, nhà đầu tư sẽ tiến hành sản xuất và khi đ ược người mua hàng thanh toán, nhà đầu tư sẽ hoàn lại số vốn lẫn lãi cho h ệ thống ngân hàng. Mức cầu tiền tệ chịu sự tác động của các yếu tố giao dịch, mua bán phát sinh hàng ngày trong nền kinh tế, mức cầu tiền tệ không hoàn toàn lệ thuộc vào khối lượng hàng hóa đang có trong nền kinh t ế và cũng chính vì vậy mà khi nhu cầu giao dịch mua bán tăng lên và kh ối l ượng hàng hóa không tăng kịp sẽ dẫn đến lạm phát. - Giá cả hàng hóa tác động đến mức cầu tiền tệ. Trong công thức: Chúng ta có thể thấy rằng khối lượng tiền cần thiết cho l ưu thong trong một thời gian (Kc) phụ thuộc vào lượng hang hóa lưu thong (h), giá cả hàng hóa (g) và vòng quay của tiền (V). Ở trên chúng ta đã đề cập đến lượng hàng hóa, dịch vụ tác động đến mức cầutiền tệ thế nào, ngoài mối quan hệ về khối lượng hàng hóa lưu thông thì ta còn thấy cầu tiền tệ còn chịu tác động bởi y ếu tố “ý muốn” mua sắm, đầu tư của người tiêu dùng và nhà đầu t ư nữa và khi mà ng ười đầu tư và người tiêu dùng tìm cách thực hiện ý muốn của mình mà s ản lượng hàng hóa và dịch vụ không tăng lên sẽ làm cho giá c ả hàng hóa tăng lên. Chính vì vậy mà các nhà kinh tế đều nhất trí với nhau là phải hạn chế mức cung tiền tệ, để hạn chế việc thực hiện “ý muốn” tiêu dùng và đầu tư nhằm hạn chế sự gia tăng có giá cả. Nhưng không phải c ứ h ạn ch ế s ự cung ứng tiền, là hạn chế được sự tăng giá cả. Vì sự hạn chế cung ứng tiền như vậy sẽ hạn chế đầu tư phát triển sản xuất và sẽ dẫn đến hàng hóa sẽ khan hiếm đi và đến lúc đó giá cả hàng hóa sẽ có cơ hội tăng lên. Vì vậy khi mà trong điều kiện sản xuất đang hưng thịnh người ta ph ải nâng cao việc cung ứng tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tiền tệ trong đi ều kiện giá cả tăng. Mức cầu tiền tệ trong điều kiện giá c ả tăng s ẽ làm tăng tiền tệ về số lượng.Ví như ngày trước đây khi mua 1Kg gạo ta chỉ cần
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển 6.000đ, nhưng bây giờ giá cả tăng gấp đôi nên người ta cần mua đến 12.000đ o Tốc độ quay vòng bình quân của tiền tệ tác động đến mức c ầu ti ền tền tệ. Vòng quay của tiền tệ là một chỉ tiêu khó tính toán và d ự ki ến chính xác trong toàn xã hội, cũng như trong một gia đình, hoặc ở một cá nhân nói riêng. Theo công thức K= mà yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ là Kt = Kc ta có thể suy ra V = . Tức là vòng quay của tiền tệ là tỷ số của tổng giá cả hàng hóa và dịch vụ chu chuyển trong một khoản thời gian nhất định chia cho khối lượng tiền thực có bình quân trong nền kinh tế. Do đó khi vòng quay của tiền tệ tăng hoặc giảm đều có ảnh hưởng đến mức cầu ti ền t ệ. N ếu vòng quay của tiền tệ tăng lên mức cầu tiền tệ giảm đi và khi vòng quay c ủa tiền tệ giảm mức cầu tiền tiền tệ sẽ tăng lên. Đối với một nhà sản xuất chẳng h ạn, n ếu chu kỳ s ản xu ất c ủa nhà sản xuất đó ngắn thì mức cầu về tiền tệ của nhà sản xuất đó th ấp và ngược lại nếu chu kỳ sản xuất của nhà sản xuất đó dài thì m ức c ầu v ề tiền tệ của nhà sản xuất đó cao. Ví dụ để luân chuyển một lượng hàng hóa có giá tr ị là 12 tri ệu đ ồng trong một năm sản xuất, nếu vòng quay của vốn là 6 vòng, nhà sản xuất cần một số tiền bình quân là 2 triệu đồng ((12 triệu)/6 = 2 triệu đồng). Nhưng nếu vòng quay đó giảm xuống còn 4 vòng trong năm, nhà s ản xuất phải cần một số tiền là ba triệu đồng để làm vốn luân chuyển ( (12 triệu)/4 = 3 triệu đồng). 2. Mức cung tiền tệ và vận dụng quy lu ật l ưu thông ti ền t ệ c ủa Karl Marx: Theo yêu cầu của quy luật lưu thông ti ền t ệ Kt = Kc. Nghĩa là kh ối lượng tiền thực tế trong lưu thông phải cân đối với khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian (khối lượng tiền thực tế trong lưu thông phải phù hợp với nhu cầu lưu thông hàng hóa). Trong đi ều ki ện n ền kinh tế sử dụng tiền vàng, hoặc tiền giấy khả hoán thì cơ ch ế đi ều ti ết khối lượng tiền tệ với nền kinh tế là cơ chế điều tiết tự động: khi giá trị tiền vàng trong lưu thông lớn hơn giá trị hàng hóa thì tiền vàng tự động đi vào cất trữ và khi giá trị tiền vàng trong lưu thông nh ỏ h ơn giá tr ị hàng hóa
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển thì tiền vàn cất trữ lại tự động “chảy” vào lưu thông để cân bằng giữa khối lượng tiền thực tế trong lưu thông với khối lượng tiền cần thiết (Kt = Kc). II.Áp dụng quy luật lưu thông tiền tệ của Karl Marx vào nền kinh tế: 1. Nền kinh tế Việt Nam thời kỳ bao cấp: Vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ của Karl Marx, trong thời kỳ thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các Nhà n ước Xã h ội Chủ nghĩa đã thực hiện kế hoạch khối lường tiền cung ứng cho lưu thông dựa trên các chỉ tiêu về phát triển kinh tế - xã hội. nghĩa là kh ối lượng tiền cung ứng cho lưu thông trong các năm kế hoạch đều được xác định trước với số lượng hàng hóa, dịch vụ đã được ấn định. Đặc biệt trong giai đoạn này giá cả hàng hóa, dịch vụ luôn đ ược cố đ ịnh v ới khoản thời gian dài, yếu tố vòng quay (V) của tiền tệ gần nh ư không có biến động gì, và như vậy chỉ tiêu gia tăng sản lượng hàng hóa, dịch vụ là chỉ tiêu duy nhất để cung ứng tiền cho lưu thông. Vì l ượng hàng hóa, dịch vụ sản xuất ra được tiêu dùng hoàn toàn dựa trên chế độ tem phiếu, hoặc định mức tiêu dùng cho mỗi thành viên của xã hội tùy theo mức thu nhập cũng đã được kế hoạch hóa. Chúng ta đã vận dụng quy luật này hết sức máy móc. Cứ theo kế hoạch từ đầu năm ta biết ngay mức hàng hóa sản xuất trong năm. Giá cả thì được quy định cụ thể vì nhà nước độc quyền buôn bán hàng hóa. Và tính được tốc độ lưu chuyển tiền tệ trung bình. Thế là ta biết được lượng tiền cần thiết trong năm và phát hành tưng đó tiền. Nhưng thực tế chúng ta đã không tính h ết đ ược các y ếu t ố ảnh hưởng tới lượng tiền theo cách chủ quan như thế. Và hậu quả là đất nước rơi vào tình trạng lạm phát nghiêm trọng. Lạm phát và không kiểm soát được tình hình lạm phát dẫn đến khủng hoảng trong lưu thông ti ền tệ vào những năm 1980-1988. Quá trình trình thực hiện kế hoạch hóa nh ư vậy, qua một th ời gian dài đã không mang lại hiệu quả cao trong phát triển nền kinh t ế, vì các lý do sau đây: Ý muốn tiêu dùng của người dân bị hạn ch ế c ả hai m ặt cung và c ầu. Do đó nó không kích thích được sản xuất, nó không gợi ý cho các nhà sản xuất ra những loại hàng hóa gì và sản xuất ra bao nhiêu. Việc sản xuất ra hàng hóa gì, sản xuất ra bao nhiêu là do các c ơ quan Nhà n ước có th ẩm quyền quyết định.
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển Các nhà sản xuất thực hiện công việc của mình theo k ế ho ạch đã định, do đó cũng không quan tâm đến ý muốn của người tiêu dùng, h ọ ch ỉ quan tâm đến kế hoạch của Nhà nước giao cho mà thôi. Hoàn thành ch ỉ tiêu kế hoạch là mục tiêu cao nhất của nhà sản xu ất. Vì v ậy, các nhà s ản xuất không quan tâm đến cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất l ượng hàng hóa vì không cần phải cạnh tranh. 2.Nền kinh tế Việt Nam hiện nay: Sau 1988, chúng ta thừa nhận rằng công thức của Mác là công thức đúng để tính lượng tiền cần thiết trong lưu thông nhưng thực tế không thể phát hành tiền theo cách tính như vậy được. Sự điều chỉnh lượng tiền cung ứng phải dựa vào những biểu hiện của thị trường. Khi chỉ số giá tiêu dùng tăng nghĩa là tiền đang mất giá, chứng tỏ thừa tiền cung ứng. Vì vậy phải cắt giảm lượng cung tiền tệ .Và ngược lại. Ngày nay,quản lý lưu thông tiền tệ là một chức năng riêng biệt của ngân hàng Trung ương và chúng ta quản lý theo các nội dung: + Xây dựng cơ sở phát hành tiền vào lưu thông: + Cơ sở phát hành tiền: Dự trữ tài sản quốc gia + Phát hành phải tuân thủ qui luật và các quan hệ khác trong nền kinh tế - Kết quả bước đầu của việc thực hiện quản lý lưu thông tiền tệ: + Sự ổn định giá trị của đồng tiền: Lạm phát thấp và có thể kiểm soát được (trung bình 5,6-7%/năm) + Ồn định của nền kinh tế + Tăng trưởng của nền kinh tế - Hạn chế và yêu cầu tiếp tục đổi mới: + Tăng giá đột biến năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 là một biểu hiện của lạm phát gây ảnh hưởng không có lợi cho sự tăng trưởng và phát triển của nền trong năm nay và có thể cả những năm tiếp theo. III. Đề xuất việc cung ứng tiền của Ngân Hàng Nhà Nước để đảm bảo nền kinh tế ổn định và phát triển: Hiện nay, hầu hết các nước Xã hội Chủ nghĩa đ ều chuy ển n ền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sang cơ chế của nền kinh tế thị trường có điều tiết. Vì vậy việc vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ của Karl Marx để thực hiện vai trò cung ứng tiền cho nền kinh tế đều có sự thay đổi quan trọng, Trước hết là sự thay đổi mô hình hoạt động của h ệ th ống ngân hàng, từ ngân hàng một cấp vừa làm nhiệm vụ phát hành tiền, vừa làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, sang hệ thống ngân hàng hai cấp, ngân hàng trung ương do Nhà nước độc quyền và ngân hàng kinh doanh.
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển Ngân hàng nhà nước trung ương chịu trách nhiệm đi ều khi ển h ệ thống ngân hàng thương mại thực hiện các chính sách tiền t ệ, trong đó có việc điều tiết khối cung, cầu tiền tệ cho phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế. Ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô nh ư lãi suất, tỷ lệ dự trữ pháp định… để điều tiết khối cung tiền t ệ một cách gián tiếp, mà không ấn định một khối cung tiền tệ kế hoạch trực tiếp như trước đây. Ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm ổn định giá trị đồng ti ền, ổn định tỷ giá hối đoái và kiểm soát lạm phát tạo điều kiện để ổn định và phát triển kinh tế, cũng như thực hiện các chính sách kinh tế đối ngo ại trong điều kiện thực hiện nền kinh tế mở cửa. Ở Việt Nam bước đầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có nh ững thay đổi quan trọng trong việc kế hoạch hóa khối lượng tiền cung ứng. Theo sự vận dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mức cung ti ền tệ được dựa trên cơ sở sau đây: - Tỷ lệ lạm phát hàng năm. - Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. - Thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế. - Nhu cầu thay thế tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông. - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cung ứng tiền cho lưu thông theo các kênh: kênh Ngân sách Nhà nước; kênh ngân hàng thương mại; kênh thị trường mở; kênh thị trường hối đoái. - Phát hành tiền qua ngân sách Nhà nước là việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tạm ứng tạm thời cho Chính phủ chi tiêu. - Phát hành tiền qua kênh ngân hàng thương mại là việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho vay các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng hoặc khi các ngân hàng thương mại thiếu khả năng thanh toán, việc cung ứng tiền tệ này nằm trong phạm vi kh ối lượng tiền được đưa thêm vào lưu thông đã được kế hoạch hóa. - Phát hành tiền qua kênh thị trường mở là việc ngân hàng Nhà n ước Việt nam tham gia mua hoặc bán các giấy tờ có giá ngắn h ạn với
- Tiền tệ và lưu thông tiền tệ GVHD: Võ Văn Hiển các ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ để điều hành chính sách tiền tệ theo kế hoạch đã được dự kiến. - Phát hành tiền qua kênh thị trường hối đoái là việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tham gia mua hoặc bán ngoại tệ ở thị trường hối đoái để bình ổn tỷ giá hối đoái nhằm ổn định tiền tệ.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn