RÈN LUYỆN TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG HỌC SINH SINH VIÊN<br />
PGS. TS. Nguyễn Thành Thi<br />
Trường ĐH Sư Phạm Tp. Hồ Chí Minh<br />
<br />
<br />
1. Một cách hiểu về phản biện, năng lực phản biện<br />
<br />
Phản biện là huy động vốn tri thức, kinh nghiệm và năng lực lập luận, biện bác<br />
của mình để chỉ ra những điểm (đúng) sai/ (hợp lý) bất hợp lý/ (khả thi) bất khả thi/ (khả<br />
dụng) bất khả dụng,… của đối tượng, vấn đề được đem ra tra vấn. Vì người phản biện<br />
luôn cần giữ vị thế độc lập và tính khách quan nên ý kiến phản biện thường có tính khác<br />
biệt, thậm chí có tính đối lập.<br />
<br />
Mục đích của phản biện nói chung là mang lại nhận thức đúng đắn, sâu sắc về đối<br />
tượng và từ đó, có giải pháp phù hợp/ hiệu quả tác động lên đối tượng. Vì thế, năng lực<br />
phản biện là năng lực nắm bắt, khai minh chân lý; chỉ ra các ngụy biện/ ngụy tạo, cảnh<br />
báo các ngộ nhận, các nguy cơ (nếu có). Nó làm xuất hiện nhu cầu phản tỉnh, thôi thúc<br />
nhận thức lại các đối tượng/ vấn đề trong chuyên môn hoặc trong sách lược, chiến lược<br />
liên quan đến quốc kế, dân sinh, liên quan đến toàn xã hội. Suy cho cùng, năng lực phản<br />
biện, chủ yếu là năng lực phát hiện những điểm bất cập/ bất hợp lý, bất khả thi, bất khả<br />
dụng và cất lên tiếng nói cảnh báo có ý nghĩa trên cơ sở lật trở vấn đề, quan sát đối tượng<br />
từ nhiều phía (nhất là phía nghịch, mặt trái). Phản biện là hành động thúc đẩy tái nhận<br />
thức, điều chỉnh thái độ, tái kiến tạo giải pháp cho thích đáng, hiệu quả.<br />
<br />
Trong xã hội tri thức ngày nay, với tinh thần đề cao dân chủ, hội nhập, xã hội hóa<br />
giáo dục, không chỉ các chuyên gia trong hoạt động chuyên môn, hoạt động xã hội mới<br />
cần ý kiến phản biện/ năng lực phản biện, mà ngay cả trong học tập, cả người dạy lẫn<br />
người học cũng cần được/ bị phản biện, cần rèn luyện ý thức, kĩ năng phản biện. Trong<br />
trường hợp này, “phản biện” cần được hiểu theo nghĩa rộng: đối thoại giữa người học với<br />
người dạy, người học với người học, để chiếm lĩnh nội dung bài học (giai đoạn học<br />
đường), đồng thời rèn tập ở người học một số kĩ năng, phẩm chất cần cho việc phản biện<br />
chuyên môn, phản biện xã hội trong tư cách công dân, khi rời ghế nhà trường, bước vào<br />
hoạt động ở một lĩnh vực chuyên môn, xã hội cụ thể (giai đoạn hậu học đường).<br />
Như vậy, Phản biện học đường (hay phản biện trong học tập), chủ yếu là phản<br />
biện của học sinh/ sinh viên, giới hạn trong khuôn khổ học đường, thường là phản biện<br />
(hay đối thoại về) các khía cạnh/ vấn đề liên quan trực tiếp, gián tiếp đến những nội dung<br />
kiến thức, quan niệm mà bài học và môn học đặt ra (phân tích, luận giải về tác phẩm văn<br />
chương trong khuôn khổ chương trình cấp học) và phần nào, phản biện xã hội (phản biện<br />
trong sinh hoạt tập thể của nhóm, lớp và qua các bài văn nghị luận xã hội).<br />
<br />
2. Tính chính đáng, khả thi của việc rèn luyện ở học sinh, sinh viên ngữ văn<br />
năng lực phản biện<br />
Trở lại với câu hỏi: Có cần thiết, khả thi không, việc hình thành phát triển năng<br />
lực phản biện ở học sinh, sinh viên qua dạy - học ngữ văn?<br />
<br />
Ở đây, có thể tìm câu trả lời cho tính chính đáng của công việc rèn luyện kĩ năng<br />
phản biện từ hai phía: mục tiêu, đặc trưng môn học và từ tính ích dụng, khả thi của việc<br />
hình thành năng lực phản biện.<br />
<br />
Từ phía thứ nhất: mục tiêu, đặc trưng của việc dạy học ngữ văn đã bao hàm một<br />
tiềm năng phát triển nhu cầu và năng lực phản biện của học sinh, sinh viên.<br />
<br />
Không thể hy vọng bất kì ai có năng lực phản biện tốt nếu ở họ các kĩ năng nghe,<br />
đọc, nói, viết còn hạn chế. Các loại kĩ năng này tất nhiên, chủ yếu được hình thành, phát<br />
triển thông qua môn ngữ văn. Như vậy, tính chính đáng nằm ngay trong mục tiêu của bộ<br />
môn. Điều đó đã quá rõ ràng. Nhưng, khía cạnh cần nhấn mạnh ở đây, theo tác giả tham<br />
luận này, nằm ở phía khác: tính khác biệt và sự đa dạng thẩm mĩ trong sáng tác, tiếp nhận<br />
văn học hóa ra lại là mảnh đất màu mỡ, thích hợp để người đọc, người học nuôi dưỡng,<br />
phát biểu ý kiến cá nhân, tức là qua đó, họ sẽ có thêm rất nhiều cơ hội để rèn luyện kĩ<br />
năng phản biện của mình. Cuộc tranh luận xung quanh những câu hỏi sau đây chẳng hạn,<br />
có thể cho ta nhiều cách trả lời, nhiều đáp án; có thể tạo ra những ý kiến khẳng định, bác<br />
bỏ, thuận chiều, nghịch chiều, phản biện lẫn nhau của học sinh, sinh viên: Triết lý sống<br />
vội vàng mà nhân vật “tôi” đề xướng trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu là nên đồng<br />
tình chia sẻ hay nên phê phán, chối từ?; Thực ra tác giả bài thơ Đàn ghi ta của Lorca có<br />
thái độ thế nào trước lời nguyện “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” của Lorca, mà<br />
viết: “Không ai chôn cất tiếng đàn/ tiếng đàn như cỏ mọc hoang”?; Nhân vật Chí Phèo<br />
trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao là đáng thương hay đáng ghét?; Nhân vật Hồn<br />
Trương Ba trong bi kịch của Lưu Quang Vũ có điểm khác biệt quan trọng nào so với<br />
nhân vật cùng tên trong truyện cổ tích Việt Nam?; Có đúng “Truyện Kiều còn thì nước ta<br />
còn…” như ý kiến của Phạm Quỳnh hay không?<br />
<br />
Từ phía thứ hai: tính ích dụng, khả thi của việc hình thành năng lực phản biện ở<br />
học sinh sinh viên qua môn học ngữ văn cũng là điều dễ thấy.<br />
<br />
Năng lực phản biện - mà một phần bộc lộ qua kĩ năng lập luận phản bác cũng như<br />
lập luận khẳng định trong nói, viết - rõ ràng là hết sức cần thiết trong học tập và trong<br />
công việc, với đời sống cá nhân cũng như với tồn tại cộng đồng. Nó giúp ta tránh được<br />
tình trạng đồng thuận dễ dãi, hời hợt, xuôi chiều trong khoa học, đời sống, ngăn chặn tình<br />
trạng học vẹt, đọc vẹt, nói vẹt trong học đường. Nếu như có người khéo tổ chức, khơi<br />
gợi; nếu như có tình huống, hoàn cảnh thích hợp, không khí cởi mở, hào hứng,… thì việc<br />
từng bước hình thành năng lực phản biện ở học sinh, sinh viên là hoàn toàn có thể. Như<br />
vậy, khả thi hay không, chủ yếu lệ thuộc vào chiến lược, phương pháp và kĩ thuật dạy<br />
học.<br />
<br />
3. Về lựa chọn, phối hợp các phương pháp, kĩ thuật dạy học để rèn luyện ở<br />
học sinh kĩ năng phản bác, phản biện qua dạy học Ngữ văn<br />
Năng lực phản biện rõ ràng là nên và cần được có rèn luyện cho các công dân<br />
tương lai trong bối cảnh hiện đại ngay từ trên ghế nhà trường. Nhưng bằng phương cách<br />
nào? Câu trả lời cụ thể, thỏa đáng không phải là nhiệm vụ của tham luận có tính nêu vấn<br />
đề này. Tuy nhiên, trên đại thể, có thể cần lưu ý một vài định hướng:<br />
<br />
Thứ nhất, giải pháp đặt ra tất nhiên phải đồng bộ, có tính hệ thống, từ vĩ mô đến vi<br />
mô. Đây là điều, tại thời điểm này, không dễ. Trong đợt thay sách sắp tới, trên tinh thần<br />
đổi mới giáo dục “toàn diện, vững chắc”, hoàn toàn có thể nói đến các giải pháp vĩ mô<br />
như việc đưa thêm năng lực phản biện học đường vào mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo dạy học<br />
bộ môn; xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa, đổi mới cách kiểm tra đánh<br />
giá, v.v… Nhưng trước mắt, ở cấp độ vi mô vẫn có thể nói đến việc thông qua sự lựa<br />
chọn, phối hợp các phương pháp và kĩ thuật dạy học để hình thành ý thức và phần nào kĩ<br />
năng phản biện cho học sinh, sinh viên ngữ văn.<br />
<br />
Chẳng hạn về dạng thức, có thể rèn luyện kĩ năng phản biện nói/ viết, theo đặc<br />
trưng chức năng của từng phân môn: văn học, ngữ học, làm văn; về phương pháp, kĩ<br />
thuật dạy học, có thể rèn luyện kĩ năng đối thoại phản biện qua dạy học nêu vấn đề có<br />
khuyến khích đối thoại; qua kĩ thuật tạo kịch tính làm phát sinh nhu cầu phản biện; qua kĩ<br />
thuật dàn dựng kịch bản phản biện có phân cảnh, phân vai phản biện; qua xây dựng, thực<br />
hiện hệ thống bài tập xây dựng luận chứng, phản biện luận chứng, bài tập luyện thủ thuật<br />
hùng biện hay chống ngụy biện; qua thảo luận nhóm; xem thị phạm phản biện,…<br />
<br />
4. Một số nhân tố tiền đề<br />
<br />
Phản biện học đường, phản biện chuyên môn, hay phản biện xã hội (hậu học<br />
đường) muốn có chất lượng, hiệu quả, theo tác giả tham luận này, đều phải bảo đảm một<br />
số nhân tố tiền đề/ điều kiện sau đây:<br />
<br />
Thứ nhất, tri thức đủ rộng và sâu. Tri thức đây rất cụ thể, tức là sự hiểu biết thấu<br />
đáo về đối tượng, lĩnh vực, vấn đề cần phản biện, thậm chí, luận điểm, luận cứ cần phản<br />
bác. Nhân tố này được hình thành trong quá trình học tập, tìm hiểu đối tượng. Không có<br />
tri thức thì dễ nói liều, nói phứa, nói càn theo kiểu “điếc không sợ súng”. Đây là nhân tố<br />
thuộc về “Điều kiện được trang bị”.<br />
<br />
Thứ hai, niềm tin đủ mạnh. Ở đây là niềm tin của người phản biện vào tính đúng<br />
đắn, sức thuyết phục của lẽ phải trong lập luận của chính mình, tin vào động cơ tốt đẹp<br />
của hành vi phản biện vào những gì mình khẳng định/ bác bỏ.<br />
<br />
Thứ ba: dũng khí đủ cao. Có tri thức, niềm tin mà thiếu dũng khí thì vẫn sợ đụng<br />
chạm, mất lòng, ngại tranh luận, né tránh đối thoại, hoặc tham gia phản biện nửa vời,<br />
thiếu tính chiến đấu. Tuy nhiên, có dũng khí mà thiếu niềm tin, tri thứcthì sự phản biện có<br />
nguy cơ biến thành hành động liều lĩnh, hời hợt, bốc đồng.<br />
<br />
Thứ tư: hứng thú đủ “nóng”. Hành vi phản biện chỉ được thực hiện khi chủ thể có<br />
nhu cầu nội tại làm nên nhiệt hứng thôi thúc từ bên trong.<br />
<br />
Các nhân tố thứ hai, thứ ba, thứ tư tập hợp thành nhóm nhân tố “Điều kiện về tâm<br />
lý, thái độ”.<br />
<br />
Thứ năm: kĩ năng đủ thuần thục. Kĩ năng đương nhiên không tự nó đến với ai<br />
trong chốc lát. Cần phải được rèn luyện và cần tích lũy trong quá trình sống, học tập, làm<br />
việc. Đây là nhân tố thuộc về “Điều kiện được rèn luyện”.<br />
Tuy nhiên, năm nhân tố trên không cùng một dãy điều kiện, mà thuộc về<br />
ba dãy điều kiện khác nhau (tạm gọi là): “Điều kiện được trang bị”, “Điều kiện về tâm lý,<br />
thái độ”, “Điều kiện được rèn luyện”.<br />
<br />
Từ đó, có thể thâu tóm các nhân tố điều kiện bằng công thức:<br />
<br />
Chất lượng, chiều sâu của phản biện = Điều kiện được trang bị (tri thức)<br />
+ Điều kiện về tâm lý, thái độ (niềm tin/dũng khí/ hứng thú) + Điều kiện được rèn<br />
luyện (kĩ năng) = 1+3+1<br />
Điều hiển nhiên là bốn nhân tố chủ yếu làm tiền đề cho kĩ năng phản bác, năng lực<br />
phản biện (trong cấu trúc nhân cách người phản biện): tri thức, niềm tin, dũng khí, hứng<br />
thú không thể đến sau kĩ năng; trái lại, chúng cần phải được chuẩn bị trước và không<br />
ngừng duy trì, tích lũy trong quá trình rèn luyện kĩ năng.<br />
<br />
5. Kết luận<br />
Phản biện là một loại công việc mang lại nhiều ích dụng trong các lĩnh vực chuyên<br />
môn học thuật cũng như các lĩnh vực hoạt động xã hội khác. Năng lực phản biện không<br />
phải tự nhiên mà có, mà là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện. Nhà trường, thông<br />
qua các môn học, nhất là ngữ văn, có thể và cần rèn tập cho học sinh, sinh viên năng lực<br />
này.<br />
<br />
Năng lực phản biện cần được rèn luyện một cách có phương pháp, kĩ thuật. Có<br />
nhiều biện pháp rèn luyện cho học sinh, sinh viên năng lực phản biện qua chính khóa,<br />
ngoại khóa, trong và ngoài lớp học. Nhà sư phạm cần lựa chọn, phối hợp tốt các phương<br />
pháp, kĩ thuật ấy.<br />
<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Nhiều tác giả (2008), Đổi mới dạy & học văn, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học,<br />
NXB. Văn hóa Sài Gòn<br />
<br />
2. Nhiều tác giả (2012), Ngữ văn 12, sách giáo khoa Bộ GD&ĐT, Hà Nội<br />
<br />
3. http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn<br />