1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết phải tiến hành sáng kiến
Bậc Tiểu học bậc học đặt nền móng trong quá trình hình thành phát
triển nhân cách học sinh. Mỗi môn học bậc học Tiểu học đều góp phần vào
hình thành phát triển những sở ban đầu của nhân cách con người. Trong
đó, môn Toán môn học kiến thức năng nhiều ứng dụng vào cuộc
sống thực tiễn, góp phần rèn luyện trí thông minh, sự nhanh nhạy trong tính
toán. Để đáp ứng với sự phát triển của hội trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, thời kỳ công nghệ thông tin phát triển n hiện nay thì môn Toán
càng vai trò quan trọng, giúp người học hình thành nhân cách con người mới
hội chủ nghĩa, làm việc khoa học, tiếp cận kịp thời với xu thế phát triển của
thời đại. Bên cạnh đó, môn Toán còn hỗ trợ nhiều cho việc học tập các môn học
khác ở bậc Tiểu học và là nền tảng cho việc học toán ở các bậc học trên.
Trong nội dung chương trình môn toán, phần giải toán lời văn một
mảng kiến thức có vị trí vô cùng quan trọng. Giúp học sinh củng cố kiến thức, kĩ
năng giải toán. Đồng thời giáo viên dễ dàng phát hiện những ưu điểm, những
thiếu sót trong kiến thức, năng của học sinh để giúp các em phát huy những
ưu điểm, khắc phục những thiếu sót. Thông qua dạy học giải toán sẽ giúp học
sinh hình thành và phát triển khả năng suy luận, lập luận và trình bày các kết quả
theo một trình tự hợp lí làm cơ sở cho quá trình học toán ở các lớp cao hơn.
Việc giải toán giúp học sinh luyện được những đức tính phong cách làm
việc của người lao động như ý thức vượt khó, tính cẩn thận, chu đáo, làm việc
kế hoạch, kiểm tra kết quả cuối cùng. Đồng thời từng bước hình thành
rèn luyện thói quen về khả năng suy nghĩ, tính toán độc lập, khắc phục được tính
rập khuôn, xây dựng được tính ham thích, tìm tòi, sáng tạo, phát triển duy,...
giải toán còn hoạt động gồm những thao c như xác lập được mối quan hệ
giữa c dữ liệu, giữa i đã cho cái phải tìm trong điều kiện của bài toán.
Chọn được phép tính thích hợp, trả lời đúng câu hỏi của bài toán.
Thực tế qua việc trực tiếp giảng dạy lớp 3, tôi nhận thấy học sinh khi giải
các bài toán lời văn thường chậm hơn so với các dạng i tập khác. Các em
thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, nhiều em làm phép tính
đúng nhưng không tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời giải chưa phù hợp. Một
số em mới chỉ đọc đề toán chứ chưa hiểu được đề. Khi trả lời câu hỏi của
giáo nêu: i toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì? thì còn lúng túng hoặc
trả lời chưa chính xác. Chính thế, bản thân i đã trăn trở tìm hiểu thực trạng
về giải các bài toán có lời văn, tìm tòi nghiên cứu giải pháp, biện pháp thực hiện
để nâng cao chất lượng dạy học. Xin được đưa ra Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn theo bộ sách Cánh diềuđể đồng
nghiệp cùng tham khảo và chia sẻ kinh nghiệm.
2. Mục tiêu của đề tài, sáng kiến.
Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán Tiểu học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh đồng thời rèn
năng giải toán có lời văn tốt hơn.
3. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Năm học 2023 – 2024
Học sinh lớp: 3D
Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến sáng kiến;
Nghiên cứu chương trình toán lớp 3 nói chung toán có lời văn lớp 3 nói
riêng;
Nghiên cứu cách dạy của giáo viên cùng khối.
3
NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Hiện trạng vấn đề
1.1. Về phía Giáo viên
Việc dạy học toán cho học sinh còn lệ thuộc nhiều vào sách giáo khoa
sách giáo viên. Chủ yếu cung cấp đ số lượng các bài tập trong một tiết dạy,
chưa chú trọng đi sâu vào việc phân tích, tổng hợp, tìm tòi cách giải bài toán,
cách hướng dẫn học sinh từng bước giải. Còn hạn chế trong việc dẫn dắt học
sinh quá trình tìm cái ẩn, mối quan hệ giữa cái đã biếti chưa biết, giữa các
đại lượng,... để từ đó học sinh tìm được đường lối chung giải bài toán, tìm câu
trả lời, thực hiện phép tính tương ứng. Một số giáo viên còn vận dụng chưa linh
hoạt các phương pháp dạy học truyền thống nên việc chiếm lĩnh tri thức của học
sinh chưa tích cực.
1.2. Về phía Học sinh
Việc tiếp thu kiến thức của học sinh một số em còn lệ thuộc vào người
khác, ít động não suy nghĩ. Chính vì vậy các em nắm kiến thức không vững,
không sâu, không hiểu được bản chất của vấn đ chỉ biết rập khuôn theo mẫu
một cách máy móc, nên những bài toán chỉ khác mẫu đi một chút hoặc thay
dự kiện là học sinh không làm được, nếu làm được thì kết quả cũng không chính
xác. Mặt khác ngôn ngữ của các em còn hạn chế nên việc tìm lời giải cho bài
toán còn gặp nhiều khó khăn;
Qua việc kiểm tra bài trao đổi trực tiếp với học sinh, tôi phát hiện được
một số học sinh còn mắc phải các lỗi sau trong giải toán: em đã biết giải
đúng (đúng lời giải phép nh tương ứng). Song em chỉ thực hiện được
phép tính đúng lời giải chưa phợp hay viết lời giải còn lủng củng chưa
ràng.
Điều tra thực trạng tại lớp tôi cho thấy kết quả như sau:
Tổng
số
HS có
lời
giải và
phép
tính
đúng,
trình
bày
khoa
học
HS có
lời
giải và
phép
tính
đúng,
trình
bày
chưa
khoa
học
HS có
phép
tính
đúng
mà lời
giải
chưa
hợp lý
HS chưa giải được bài toán
40
em
SL TL SL TL SL TL SL TL
15 em 37,5% 10 em 25% 11 em 27,5
%
4 em 10%
Như vậy việc dạy và học giải toán có lời văn ở lớp 3 có vai trò cực kỳ quan
trọng, đặc biệt giải toán đến 2 phép tính ( đây dạng toán các em mới
tiếp cận). thế để giúp học sinh biết giải toán đúng, giáo viên phải đặt ra yêu
cầu cho học sinh đó biết tìm hiểu đề toán, biết tóm tắt bài toán, biết tìm cách
giải hơn nữa biết tìm lời giải phù hợp cuối cùng biết tự đánh giá kết
quả.
2. Các giải pháp tổ chức thực hiện
Để giúp học sinh lớp 3 biết giải toán có lời văn trong sách giáo khoa toán 3
các bài toán phát triển dựa trên các bài toán đã cho để vận dụng giải các bài
toán trong thực tế đời sống, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp như sau:
Giải pháp 1: Phân loại đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học
Trong một lớp học thì lực học của học sinh thường không đồng đều nên
việc giáo viên nắm bắt được lực học của từng học sinh trong lớp nhiệm vụ
đầu tiên cũng hết sức quan trọng. Từ đó, giáo viên những giải pháp giúp
các em đạt được chuẩn kiến thức năng của môn học. Chính vậy, qua theo
dõi thực tế lực học của lớp, tôi chia học sinh thành các nhóm sau:
5
+ Nhóm 1: Học sinh bị rỗng kiến thức ở lớp dưới: 6 em
+ Nhóm 2: Học sinh thiếu điều kiện học tập do hoàn cảnh gia đình khó
khăn, bố mẹ không quan tâm: 6 em.
+ Nhóm 3: Học sinh không chú ý học, nghịch ngợm: 8 em
+ Nhóm 4: Học sinh tiếp thu bài tốt, tích cực học bài: 20 em.
Sau khi phân loại được đối tượng học sinh, tôi giải thích để các em hiểu
biết các em còn chưa đạt chuẩn phần kiến thức nào. Sau đó, i lập ngay kế
hoạch kèm cặp giúp đỡ và bồi dưỡng học sinh theo từng nhóm.
+ Nhóm 1: Đây nhóm học sinh tôi quan tâm nhiều nhất. Tôi vừa phải
giúp các em nhớ lại kiến thức cũ, vừa phải đạt được chuẩn kiến thức năng
trong từng tiết học. Nên tôi liên tục kiểm tra các phép tính cộng, trừ, nhân, chia
bằng nhiều hình thức khác nhau: đọc thuộc lòng, phiếu bài tập, chấm bài thường
xuyên,…
+ Nhóm 2: Với đối tượng học sinh này, tôi sẽ tìm hiểu điều kiện hoàn cảnh
của học sinh đó; vận động phụ huynh và học sinh trong lớp giúp đỡ về: sách vở,
đồ dùng…. Ngoài ra, tôi luôn lắng nghe tâm sự để chia sđộng viên các em kịp
thời.
+ Nhóm 3: Trường hợp học sinh nghịch ngợm, không chú ý trong giờ học,
tôi xếp cho các học sinh đó ngồi ngay bàn đầu xếp em học sinh ngoan, học
giỏi bên cạnh để giúp đỡ, kèm cặp. Trong giờ học, tôi thường xuyên quan tâm
đến học sinh đó bằng cách gọi trả lời các câu hỏi, khen ngợi động viên khích
lệ các em khi có sự tiến bộ…
+ Nhóm 4: Là nhóm học sinh ngoan, tiếp thu bài tốt, ngoài những bài tập
yêu cầu cần đạt chuẩn, tôi luôn chuẩn bị thêm một số bài tập nâng cao hơn đ
giúp các em phát huy khả năng của mình.
Ngoài ra, với học sinh nhóm 1, 2, 3 tôi luôn đánh giá các em theo hướng
động viên, khuyến khích còn nhóm 4 tôi đánh giá theo sự sáng tạo. Bên cạnh đó,
trong thời gian dạy buổi 2, tôi dành nhiều thời gian để ôn tập củng cố lại các
bảng nhân, chia, cộng, trừ với nhiều hình thức: đọc đồng thanh từng bảng nhân,
chia; bằng cách nối tiếp, cá nhân, thi đọc thuộc lòng, hỏi vấn đáp nhanh các