
4
Trước hết giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và
thao tác thực hành các kiến thức đã học, rèn luyện kĩ năng tính toán, vận dụng
kiến thức và rèn luyện kĩ năng thực hành vào thực tiễn (học tập, đời sống).
Qua các biểu hiện trên, giáo viên phát hiện được rõ hơn những gì học
sinh đã lĩnh hội và nắm chắc những gì học sinh chưa hiểu bài để có biện pháp
giúp học sinh phát huy hoặc khắc phục. Từng bước phát triển năng lực, tư duy
cho học sinh, rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận, khêu gợi và tập
dượt quan sát, phỏng đoán tìm tòi, độc lập sáng tạo trong suy nghĩ.
Việc áp dụng phương pháp tiếp cận năng lực lấy người học làm trung
tâm. Người dạy chủ yếu đóng vai trò là người tổ chức, cố vấn, hỗ trợ người
học chiếm lĩnh tri thức; chú trọng phát triển khả năng giải quyết vấn đề.
Người học được chủ động tham gia các hoạt động nhằm tìm tòi khám phá,
tiếp nhận tri thức mới và có nhiều cơ hội được bày tỏ ý kiến, quan điểm và
tham gia phản biện. Học sinh nhanh chóng chiếm lĩnh được tri thức một cách
chủ động và bộc lộ được rõ năng lực của bản thân. Từ đó giáo viên nắm bắt
và hỗ trợ kịp thời từng học sinh, giúp nâng cao chất lượng giờ học.
2. Cơ sở thực tiễn
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy: Học sinh khi giải toán có lời văn
thường chậm và lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính.
Các em còn rụt rè trong giao tiếp, không giám đứng lên phát biểu khi
bản thân chưa hiểu bài. Bên cạnh đó một số em kĩ năng đọc chưa thành thạo
nên việc tiếp cận nội dung bài gặp nhiều khó khăn.
Chính vì vậy học sinh xác lập các yếu tố toán học trong bài toán và mối
liên quan của các điều kiện cho biết và cái phải tìm chưa tốt. Các em tiếp thu
bài một cách thụ động, gò bó chưa linh hoạt khi sử dụng ngôn ngữ lời giải.
mặt khác các năng lực giao tiếp, độc lập, sáng tạo, giải quyết vấn đề còn
nhiều hạn chế. Một phần cũng do giáo viên trong quá trình tổ chức các hoạt
động học tập chưa thường xuyên khơi gợi, phát huy hết năng lực tự chủ của
học sinh, nguyên nhân do giới hạn thời lượng của tiết học nên không chờ đợi