
1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRUNG TRỰC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------------------
Tri Tôn, ngày 10 tháng 2 năm 2020
BÁO CÁO
Kết quả thực hiện sáng kiến, cải tiến, giải pháp kỹ thuật, quản lý, tác nghiệp, ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật hoặc nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng
I- Sơ lược lý lịch tác giả:
- Họ và tên: CHÂU THỊ THANH TRÚC Nam, nữ: nữ
- Ngày tháng năm sinh: 04/09/1988
- Nơi thường trú: Khóm II, Thị Trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn, Tỉnh An Giang
- Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Trung Trực
- Chức vụ hiện nay: Phó Bí Thư Đoàn Trường.
- Lĩnh vực công tác: Giáo viên giảng dạy lịch sử và phụ trách công tác Đoàn.
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:
1. Những thuận lợi và khó khăn:
a. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm sâu sát của Ban giám Hiệu nhà Trường cũng như tổ chuyên môn.
- Cơ sở vật chất đảm bảo phục vụ việc giảng dạy theo phương pháp mới và ứng dụng
công nghệ thông tin.
- Phần lớn các em học sinh có ý thức học tập và chấp hành nề nếp khá tốt.
- Tổ chuyên môn luôn tạo điều kiện để trao đổi kinh nghiệm giúp nâng cao về chuyên
môn giữa các thành viên trong tổ.
b. Khó khăn:
- Một bộ phận học sinh chưa có ý thức trong học tập, chưa nhận thấy tầm quan trọng của
việc học lịch sử ở trường THPT.
- Đặc thù ở địa phương là huyện miền núi nên số lượng học sinh dân tộc Khmer ở
Trường khá nhiều. Các em gặp khó khăn trong việc giao tiếp, ghi chép tiếng Việt nên
đôi khi đạt kết quả chưa cao trong học tập.
- Đa phần các em học sinh nhà ở xa trường , hoàn cảnh gia đình khó khăn nên ngoài giờ
học các em phải phụ giúp gia đình. Do đó, việc học tập, tìm hiểu thêm các kiến thức
ngoài giờ học trên lớp còn hạn chế.
- Một số học sinh và phụ huynh chưa quan tâm đến môn lịch sử, xem đây là môn phụ chỉ
học để đối phó.

2
c. Tên sáng kiến: PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH THÔNG QUA
HÌNH THỨC LỒNG GHÉP CÁC TRÒ CHƠI TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 11
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
d. Lĩnh vực: giáo dục chuyên ngành lịch sử.
III- Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến:
Lịch sử là một môn học quan trọng, giá trị của môn lịch sử đối với mỗi con người
là không thể phũ nhận được, nhất là đối với thế hệ thanh niên Việt Nam ngày nay. Bởi lẽ
thông qua việc tìm hiểu lịch sử con người sẽ đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm.
Quan trọng hơn hết là hình thành lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ và xây dựng đất
nước.
Lịch sử dân tộc Việt Nam trãi qua hàng nghìn năm với những chiến công hào
hùng. Từ buổi đầu dựng nước đến nay, ông cha ta đã lần lượt đánh tan các cuộc xâm
lăng của phong kiến Trung Quốc, đánh bại hai Đế quốc lớn là Pháp và Mĩ. Dân tộc ta đã
gây tiếng vang với năm châu, từ một quốc gia nhỏ chưa có tên trên bản đồ thế giới thì
nay đã ghi dấu trong lòng nhân dân thế giới với tinh thần yêu nước, ý chí quật cường,
quyết hi sinh bảo vệ nền đôc lập, tự do cho dân tộc.
Có thể nói lịch sử Việt Nam là niềm tự hào với mỗi người Việt Nam chúng ta. Đã
là người Việt Nam dù ở nơi đâu, địa vị nào cũng cần phải biết về lịch sử dân tộc. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy:
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Câu nói của Bác Hồ dù đã trãi qua bao nhiêu năm lịch sử nhưng đến nay vẫn còn
nguyên giá trị bởi lẽ không một quốc gia, dân tộc nào có thể ngoảnh mặt lại với quá khứ
của quốc gia, dân tộc.
Nếu như việc tìm hiểu về lịch sử dân tộc giúp ta ngày càng yêu quê hương, đất
nước thì lịch sử thế giới giúp thế hệ trẻ hiểu rõ hơn về tiến trình phát triển của nhân loại,
bản chất bóc lột của Chủ nghĩa tư bản cũng như xu thế phát triển của thế giới…Để từ đó
rút ra được bài học kinh nghiệm cho bản thân và cộng đồng. Mặt khác hình thành quan
điểm chính trị, lập trường vững vàng, sẵn sàng đối mặt cũng như lên án, có những hành
động yêu nước, làm thất bại các âm mưu chống phá đất nước của kẻ thù.
Như vậy, không quá phô trương khi nói rằng môn lịch sử là môn học quan trọng
với mỗi cá nhân. Việc giáo dục lịch sử đối với thế hệ thanh niên Việt Nam, đặc biệt là
các em học sinh khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường là hết sức cần thiết bởi lẽ các em
là những mầm non của đất nước, là thế hệ kế nghiệp cho các cha anh trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tuy nhiên, thực trạng đáng buồn hiện nay là môn lịch sử đang dần mất đi vai trò
và vị trí vốn có của nó. Người học lịch sử không còn hứng thú với môn học này. Đa
phần học sinh khi nhắc đến lịch sử đều “ngao ngán”. Các em tìm mọi cách để “ đối phó”
với môn lịch sử như: học vẹt, học máy móc, thiếu tư duy. Nhiều em không dám chọn
môn lịch sử để thi tốt nghiệp vì “sợ không học nổi các nội dung” hoặc “ học hoài vẫn
không nhớ được các sự kiện, ngày tháng năm…”.

3
Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ phụ huynh học sinh cũng chưa nhận thấy
tầm quan trọng của môn học này nên không khuyến khích con em mình đầu tư cho môn
học này. Điều này gây tâm lí chán nản cho người học lẫn người dạy dẫn đến tình trạng: “
Thầy cố gắng truyền đạt hết kiến thức cho kịp chương trình, trò cắm cúi ghi chép rồi về
học thuộc lòng để lấy điểm”. Thực trạng này là bài toán khó cho những người yêu thích
môn lịch sử và giảng dạy lịch sử ở trường THPT nói riêng và các cấp học nói chung.
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến:
Không thể phũ nhận vai trò và tác dụng của lịch sử trong việc giáo dục lòng yêu
nước của thế hệ trẻ ngày nay nói riêng và với tất cả công dân Việt Nam nói chung. Tuy
nhiên, thực trạng đáng buồn hiện nay là có không ít cá nhân chưa nhận thấy được tầm
quan trọng của môn học này. Quan niệm môn lịch sử chỉ là môn phụ, không giúp ích cho
việc định hướng nghề nghiệp sau này. Nhiều học sinh khi học sử vẫn đặt câu hỏi “ Học
lịch sử để làm gì?”, “ Lịch sử chỉ là môn phụ, chỉ cần học thuộc lòng là được”… Vì
những quan niệm đó nên các em chỉ cần học để không bị “ điểm liệt” chứ chưa thật sự
hứng thú với môn học này. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ phụ huynh học sinh chỉ
khuyến khích con em học những môn khoa học tự nhiên để “ dễ xin việc làm, lương
cao”... Bản thân tôi cũng nhiều lần nhận được câu hỏi “ Vì sao lại dạy lịch sử? Sao
không dạy các môn khác?”…
Vấn đề được đặt ra là : “ Có phải môn lịch sử đã hết chỗ đứng trong nhà
trường?”, “ Liệu rằng xã hội đang xem nhẹ môn học này?”
Tuy nhiên, qua tìm hiểu của cá nhân tôi, không hẳn học sinh chán môn lịch sử, xã
hội vẫn đang dành sự quan tâm đến môn học này. Bằng chứng vẫn có không ít học sinh
đạt thành tích cao trong các kỳ thi liên quan đến lịch sử. Hàng năm có rất nhiều chương
trình tìm hiểu về lịch sử được phát động thu hút sự tham gia đông đảo của học sinh, sinh
viên và các tầng lớp khác trong xã hội. Như vậy, học sinh không phải chán học lịch sử,
theo nhận định chủ quan của tôi, việc giảng dạy lịch sử ở trường THPT chưa đạt kết quả
như ý là do một số nguyên nhân sau:
- Thứ nhất, như các em đã tâm sự, chương trình lịch sử ở trường THPT khá dài
nên cả thầy và trò phải tiếp thu lượng kiến thức khá nhiều trong một tiết học. Giáo viên
để dạy kịp chương trình đòi hỏi phải truyền đạt cho học sinh hết mức có thể nên việc
sáng tạo bị hạn chế. Học sinh để có đủ bài học thì phải cắm cúi ghi chép nên cũng chẳng
còn hứng thú để học tập. Điều này có thể xác thực bằng việc hỏi lại nội dung đã học của
học sinh sau khi phát bài kiểm tra đa phần các em ( kể cả học sinh kiểm tra được điểm
cao) đã quên hầu hết các nội dung sau một đến hai tuần làm bài kiểm tra.
- Thứ hai, tâm lí xem đây là môn phụ vẫn còn tồn tại ở một bộ phận học sinh. Các em
chỉ đầu tư cho các môn chuyên ngành, nên chủ yếu học sử để không bị “ điểm liệt”, do
đó việc thiếu đầu tư với môn học này là điều tất yếu.
- Thứ ba, hình thức dạy truyền thống thầy hướng dẫn, trò ghi bài. Qua đó, học sinh chỉ
tiếp thu kiến thức một cách thụ động, máy móc chứ chưa phát huy được vai trò là người
chủ động giải quyết nội dung bài học. Do đó, học xong tiết học, số lượng kiến thức học
sinh nhớ được trên lớp khá hạn chế.
- Thứ 4, vì chưa yêu thích môn học nên đôi khi học sinh còn khá thụ động trong giờ học,
có khi các em xung phong phát biểu cũng chỉ cầm sách giáo khoa và đọc như trong sách

4
mà không tóm tắt được nội dung chính của phần bài đang học. Nhà bác học thiên tài A.
Einstein đã từng nhận định “ Kiến thức chỉ có được qua tư duy của con người”. Như
vậy, nếu chỉ học vẹt, thiếu tư duy thì học sinh không thể có kiến thức ( nếu có cũng chỉ
là nhớ một cách máy móc, mau nhớ, chóng quên) cũng như không thể giáo dục lòng yêu
nước cho các em thông qua việc dạy học.
Nhà giáo dục học Uy-li-am Ba-tơ-dit đã nhận định:
“Nhà giáo không phải là người nhồi nhét kiến thức mà đó là công việc của người khơi
dậy ngọn lửa cho tâm hồn.”
Qua nhận định đó ta thấy rằng, vai trò của người dạy học là phải khơi dậy cho
học sinh sự hứng thú trong học tập. Bên cạnh đó, với những nguyên nhân và thực trạng
vừa nêu, yêu cầu đặt ra cho người dạy lịch sử hiện nay là phải phát huy tính tích cực cho
học sinh, hướng học sinh trở thành trung tâm của tiết học. Giúp các em từ chỗ bị động
tiếp thu kiến thức trở thành những đối tượng chủ động giải quyết các vấn đề trong tiết
học. Nhờ đó các em sẽ ngày càng yêu thích môn học, việc ghi nhớ bài trên lớp sẽ tốt
hơn. Kết quả thu được sau mỗi tiết dạy sẽ cao hơn và khi đó giáo viên còn hoàn thành
được nhiệm vụ là khơi gợi lòng tự hào dân tộc, yêu quê hương đất nước cho học sinh
ngay khi còn ngồi trên ghế nhà Trường.
3. Mô tả sáng kiến:
a. Tính mới, tính sáng tạo:
Phương pháp này có cải tiến hơn so với trước đây, giáo viên từ chỗ là người trực
tiếp cung cấp các kiến thức trở thành người hướng dẫn giúp học sinh chủ động tìm hiểu
kiến thức và giải quyết các vấn đề trong bài học.Từ đó tạo tính tích cực và năng động
cho học sinh thông qua việc tham gia các trò chơi, giải quyết các câu hỏi, các vấn đề
giáo viên đặt ra từ đó các em sẽ nhớ bài lâu hơn, tiết học sẽ bớt nặng nề hơn, sinh động
hơn.
b. Tính khả thi:
Phương pháp này hoàn toàn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và phù
hợp với các cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở trường THPT Nguyễn Trung Trực nói
riêng và các trường THPT của toàn quốc nói chung..
c. Tính hiệu quả:
- Học sinh hăng hái tham gia trò chơi để giải quyết các vấn đề của bài học làm tiết
học sinh động hơn.
- Tính tự giác trong học tập, phát biểu xây dựng bài và chuẩn bị bài trước khi đến
lớp của học sinh được nâng cao.
- Tỉ lệ học sinh ghi nhớ hơn 62 % kiến thức sau khi kết thúc tiết học tăng.
- Học sinh dễ ghi nhớ các nội dung bài học hơn, do đó việc học tập của học sinh
nhẹ nhàng hơn so với trước đây ( thay vì cầm tập học thuộc lòng, cố nhồi nhét kiến
thức).
- Hiệu quả giảng dạy của giáo viên tăng cao, học sinh hứng thú với bài học nên
giáo viên càng tâm huyết hơn trong việc đổi mới và nâng cao tay nghề.
- Thông qua việc cùng tham gia trò chơi giúp học sinh đoàn kết hơn.

5
- Rèn luyện kĩ năng phát biểu trước đám đông cho học sinh.
d. Tiến trình thực hiện:
Giáo viên cần xác định các nội dung sau
* Mục đích: Xác định chính xác mục đích của việc áp dụng trò chơi là giúp học sinh
ghi nhớ các sự kiện, các nhân vật lịch sử trong mỗi bài học. Khơi gợi khả năng hoạt
động nhóm, kĩ năng phát biểu trước đám đông. Tạo sự hứng thú học tập cho học sinh,
giúp các em nhớ bài lâu hơn.
* Thời điểm: Thực hiện đầu tiết học ( khởi động), giữa tiết học hoặc cuối tiết ( vận
dụng).
* Yêu cầu: Để việc áp dụng trò chơi vào tiết dạy hiệu quả, người dạy và người học cần
thực hiện các yêu cầu sau:
- Thứ nhất, giáo viên phải trang bị cho mình những kiến thức chuyên môn vững vàng
bên cạnh đó cũng cần bổ sung các kiến thức có liên quan ( VD: kiến thức xã hội, các
thông tin thời sự hiện nay,…).
- Thứ hai, chuẩn bị đồ dùng dạy học cần thiết phục vụ việc tổ chức trò chơi:
+ Tranh ảnh, tư liệu, bài hát, bản đồ,…
+ Các loại máy móc hỗ trợ ( máy chiếu, tivi, laptop…).
+ Các đồ dùng khác như giấy cứng, nam châm, bút lông, bảng phụ…
+ Quà phát thưởng cho đội chiến thắng ( bánh, kẹo, bút bi…)
- Thứ ba, muốn đạt được hiệu quả cao trong việc tổ chức trò chơi đòi hỏi người giáo
viên phải chuẩn bị thật chu đáo giáo án giảng dạy trước khi lên lớp,giáo án phải thể hiện
việc lồng ghép trò chơi ở đầu tiết, giữa tiết hay gần cuối tiết học để phù hợp. Khi thực
hiện lồng ghép phải định hướng rõ mục đích, đối tượng ( ví dụ như hoạt động theo nhóm
hay hoạt động cá nhân), hình thức tổ chức, cách thức chơi trò chơi như thế nào... Ngoài
ra, giáo viên phải dự tính các tình huống có thể xảy ra trong lúc tổ chức trò chơi để có
biện pháp giải quyết thích hợp ( Ví dụ: lớp quá ồn hoặc học sinh chưa chuẩn bị kĩ kiến
thức để có thể chơi trò chơi) nhằm tổ chức trò chơi có hiệu quả cũng như tránh làm ảnh
hưởng đến các lớp khác ( Ví dụ: nếu đội nào cố tình gây ồn ào có thể trừ điểm đội đó
hoặc dừng trò chơi vì không kiểm soát được các hoạt động thì hiệu quả đạt được không
cao).
- Thứ tư, việc lồng ghép trò chơi vào tiết học phải phù hợp, không tốn quá nhiều thời
gian nhưng phải bám vào nội dung bài dạy để học sinh có thể ghi nhớ kiến thức thông
qua trò chơi cũng như phát huy được tính tích cực cho các em.
- Thứ năm, giáo viên đánh giá công bằng, khách quan trong lúc diễn ra trò chơi mặt khác
phải khơi gợi tính tự giác tham gia trò chơi cho học sinh.
- Thứ sáu, về phía học sinh cần chuẩn bị bài trước ở nhà và có ý thức trong giờ học cũng
như khi tham gia trò chơi.
* Cách thức chơi: Giáo viên cần hướng dẫn thật kĩ, rõ ràng cách thức tổ chức trò chơi
để học sinh thực hiện đúng yêu cầu, đạt hiểu quả.
* Đối tượng: áp dụng cho tất cả học sinh trong lớp học
* Hình thức: