
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN KỸ NĂNG LÀM VĂN BIỂU CẢM
CHO HỌC SINH THCS
Lĩnh vực : Ngữ văn
Cấp học : Trung học cơ sở
NĂM HỌC 2016- 2017
MÃ SKKN

Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: .............................................................................................. 1
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ............................................................................... 2
1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu: “Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho
học sinh THCS” .............................................................................................. 2
2. Thực trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài: ............................................... 2
3. Các biện pháp thực hiện: ............................................................................. 4
3.1. Đối với giáo viên ................................................................................... 4
3.2. Đối với học sinh .................................................................................. 11
4. Hiệu quả của sáng kiến: ............................................................................. 11
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................. 17
1. Kết luận: .................................................................................................... 17
2. Một số kiến nghị: ...................................................................................... 17
2.1. Đối với thầy cô: ................................................................................... 17
2.2. Đối với trò: .......................................................................................... 17
2.3. Đối với phụ huynh ............................................................................... 17
2.4. Đối với các cấp lãnh đạo ngành: .......................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 19

Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
1/19
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
N¨m häc 2010- 2011, được sự phân công của các cấp lãnh đạo, tôi được
chuyển về Hà Nội công tác, giảng dạy môn Ngữ văn của một trường THCS. Về
giảng dạy nơi đây, tôi nhận thấy đây là ngôi trường có bề dày thành tích, đội ngũ
giáo viên nhiệt tình giảng dạy, có tr×nh độ chuyên môn vững vàng. Nhiều
đồng chí được công nhận là giáo viên giỏi cấp Thành phố khi tuổi đời, tuổi nghề
còn rất trẻ. Trong nhiều năm giảng dạy tại trường tôi luôn được Ban giám hiệu
nhà trường quan tâm, phân công cho dạy môn học mà tôi tâm đắc nhất: môn
Ngữ văn. Càng tìm hiểu kỹ về bộ môn này tôi nhận thấy rõ người xưa nói thật
không sai: “Văn học là nhân học”. Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời
sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Bộ môn văn học là một môn
học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo
dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học
thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học
khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại,
các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng
cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực
tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống .
Môn văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn học,
Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn tập làm văn là
phân môn “nhẹ kí” nhất. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Dạy
làm văn là chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cài gì mình suy nghĩ, mình cần
bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nỗi bật điều mình muốn
nói”. . . (Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Nghiên cứu giáo dục,
số 28, 11/1973) .
Trong giảng dạy môn ngữ văn 7, tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm,
cảm xúc là một nhu cầu thiết yếu của con người nhưng học sinh chưa biết cách
bộc lộ cảm xúc của mình để “khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc” ( Văn 7 –
tập 1). Khi hành văn, các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ ràng, rạch ròi giữa
văn biểu cảm với các thể loại văn khác. Chính vì thế, điểm các bài kiểm tra và
điểm trung bình môn văn của các em còn thấp. Thực tế đó qủa là đáng lo ngại.
Thực trạng vấn đề này ra sao? Vì sao học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc
làm văn biểu cảm? Cần phải làm gì để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu
cảm cho học sinh THCS? Đó là những vấn đề tôi trăn trở,khiến tôi nhanh chóng
thực hiện đề tài này.

Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
2/19
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu: “Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm
cho học sinh THCS”
1.1: Văn biểu cảm là loại văn thể hiện nội tâm, tâm trạng của người viết.
Ngồi trước trang giấy, nếu tâm hồn trống rỗng không cảm xúc, đầu óc mông
lung không rõ ý nghĩ gì thì người viết không thể có được một bài văn biểu cảm
có hồn. Lúc đó, bài văn hoặc khô khan, nhạt nhẽo, ngắn ngủi hoặc giả tạo, vay
tình mượn ý. Người giáo viên, khi dạy văn THCS nói chung, dạy văn biểu cảm
nói riêng, ngoài nắm kiến thức, phương pháp lên lớp còn cần có một tâm hồn,
một trái tim sống cùng tác giả, tác phẩm.
1.2: Để dạy và học tốt văn biểu cảm ở THCS, người dạy và người học cần
nắm vững hệ thống 6 bài học và luyện tập về văn biểu cảm (trong số 14 tiết học
văn biểu cảm ở lớp 7 – học kì I ) gồm :
- Tìm hiểu chung về văn biểu cảm
- Đặc điểm của văn biểu cảm
- Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm
- Cách lập ý của bài văn biểu cảm
- Các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn biểu cảm
- Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học
2. Thực trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài:
Qua nhiều năm giảng dạy chương trình ngữ văn lớp 7, tôi nhận thấy kĩ
năng nhận diện các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm
xúc trong bài tập làm văn của một bộ phận học sinh còn yếu .
Năm học 2015 – 2016, khi viết bài tập làm văn số 2 với đề bài “Loài cây
em yêu”. Dù mới vừa học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm xong
nhưng nhiều học sinh không phân biệt được văn miêu tả, văn tự sự với văn biểu
cảm nên bài viết không viết về thái độ và tình cảm của mình đối với một loài
cây cụ thể mà tả, kể về loài cây đó. Hoặc tiết viết bài tập làm văn số 3 đề yêu
cầu “Cảm nghĩ của em về hình ảnh người bà thân yêu của mình”. Học sinh viết
“Bà nội hay thức khuya dậy sớm để làm việc mà tối nội chưa làm. Bà thường đi
làm thuê để kiếm tiền nuôi chúng em. Em thấy vậy bảo bà nội hay là nội đừng đi
làm thuê nữa, nội chuyển sang nấu xôi đi. Nội suy nghĩ một hồi lâu rồi nói, đó
cũng là một ý kiến hay”. Đoạn văn viết về người bà thân yêu của mình mà người
đọc cảm thấy như viết về một người xa lạ vì không hề có một tình cảm nào của
cháu với bà hơn nữa hầu như đó chỉ là kể. Cũng với đề văn như trên, một học

Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
3/19
sinh khác viết câu kết bài :“Cảm nghĩ của em về bà là một người bà yêu mến
con cháu”. Câu văn nêu rõ cảm nhận về bà nhưng gượng ép khô khan. Có lẽ với
cách viết văn như nghĩa vụ nên làm qua loa cho xong rồi đem nộp. Kể cả học
sinh khá, dù cảm và hiểu được yêu cầu của đề, xác định đúng hướng làm bài
nhưng kể vẫn nhiều hơn biểu cảm. Sau đây là bảng số liệu thống kê điểm trung
bình môn văn học kì I khối 7 năm học 2015 – 2016
Tỉ lệ học sinh
giỏi
Tỉ lệ học sinh
khá
Tỉ lệ học sinh
trung bình
Tỉ lệ học sinh
yếu
Tỉ lệ học sinh
kém
10%
70%
20%
0%
0%
*Nguyên nhân
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thì có nhiều song theo tôi, do một số
nguyên nhân chủ yếu sau :
- Đối với người dạy
+ Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm
đến học sinh nhưng vẫn còn những mặt hạn chế sau:
+ Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không
nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao.
+ Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương
pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của
học sinh.
+ Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được
mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái học sinh.
+ Do sĩ số lớp đông nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp
từng học sinh trong một tiết dạy.
+ Giáo viên chỉ nặng về giảng lý thuyết không đầu tư cho các tiết thực hành
như luyện tập, luyện nói…, không chịu khó sưu tầm các đoạn văn, bài văn hay
cho các em tham khảo.
+ Nhiều giáo viên cho học sinh chép nhiều gây nhàm chán cho học sinh.
- Đối với học sinh
+ Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho
giờ học văn.
+ Vì bố mẹ bận công việc chưa bám sát tốt thời gian tự học của các con.
+ Đa số các em lười hoặc không bao giờ đọc sách, kể cả văn bản trong
SGK.