SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: KINH NGHIỆM VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN DẠY HỌC PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM CHƯƠNG TRÌNH LỚP 12 THPT THEO ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC HỌC SINH
Năm 2021
KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Viết tắt
Chữ viết thường Phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá Giáo viên Học sinh Trung học phổ thông Sách giáo khoa Thực nghiệm Đối chứng Giáo dục và Đào tạo
PPDH và KTĐG GV HS THPT SGK TN ĐC GD & ĐT
Trang MỤC LỤC
1 2 2 2 3 3 4
5
5
13
17 18 19 31 31
A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 3. Phương pháp nghiên cứu 4. Các bước thực hiện đề tài B. NỘI DUNG 1. Cơ sở vấn đề nghiên cứu 1.1. Cơ sở lý luận 1.2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng vấn đề nghiên cứu 2. Một số kinh nghiệm hướng dẫn HS vận dụng kiến thức liên môn học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 THPT theo định hướng dạy học phát triển phẩm chất, năng lực học sinh 2. 1. Dự kiến phạm vi kiến thức liên môn có thể vận dụng 2.2. Vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình 12 cho học sinh ở trường THPT Hoàng Mai bằng cách phối hợp các phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt trong giờ dạy học 2.3. Đảm bảo các nguyên tắc cơ bản khi dạy học học phần Lịch sử Việt Nam chương trình 12 2.4. Năng lực nghệ thuật của giáo viên 3. Thực nghiệm C. KẾT LUẬN 1. Đóng góp của đề tài 2. Kiến nghị TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài
Lịch sử Việt Nam là một trong những nội dung chủ yếu của bộ môn Lịch sử ở bậc trung học phổ thông, có giá trị lớn lao trong việc giúp các em hiểu được sự phát triển của tiến trình Lịch sử nước nhà, đồng thời kết hợp cùng với các bộ môn khác trong nhà trường để giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm đúng đắn cho học sinh, giúp các em phát triển các năng lực và phẩm chất toàn diện. Đó cũng là mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018. Từ đó, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông theo Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đó là “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân” và “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”. Tuy nhiên, phần Lịch sử Việt Nam với những bài học viết về thời gian quá khứ cách các em một khoảng thời gian khá xa, nên khi dạy học nội dung này, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất và cũng là vấn đề trăn trở của ngành giáo dục, của mỗi giáo viên tâm huyết với nghề, đó là vấn đề phương pháp giảng dạy.
Trong khi phương pháp truyền thống đang dần mất đi vị thế của mình thì cũng là lúc nhiều phương pháp mới được ra đời với mong muốn đem lại những màu sắc tươi mới hơn cho việc dạy và học bộ môn Lịch sử. Những năm gần đây, giáo viên có nhiều điều kiện để làm quen và ứng dụng phương pháp tích cực mới, trong đó có phương pháp dạy học vận dụng kiến thức liên môn. Thực tiễn đã chứng tỏ rằng, hướng đi này trong giáo dục và dạy học sẽ giúp học sinh phát triển năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp và làm cho việc học tập trở nên có ý nghĩa hơn so với việc các môn học, các mặt giáo dục được thực hiện riêng lẻ. Qua thực tế giảng dạy ở trường phổ thông, tôi nhận thấy việc vận dụng kiến thức liên môn giữa Lịch sử với kiến thức các môn học khác làm cho hiệu quả của việc dạy học Lịch sử Việt Nam nói riêng và bộ môn Lịch sử nói chung được nâng cao.
Hiện nay, trong các tài liệu tham khảo, đã có nhiều tác giả đã đề cập đến việc dạy học tích hợp, nhưng chưa có nhiều tài liệu hướng dẫn giáo viên thực hiện vận dụng kiến thức liên môn vào dạy học Lịch sử (phần Lịch sử Việt Nam) lớp 12. Qua thực tế giảng dạy tại trường THPT, tôi đã thử nghiệm có hiệu quả những phương pháp nhằm vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử Việt Nam cho học sinh có hiệu quả. Từ thực tiễn đó tôi đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm và xin được trình bày đề tài: “Kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 THPT theo định hướng dạy học phát triển phẩm chất, năng lực học sinh”. 2.Mục đích và phạm vi nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu - Xác định thực tế giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12
cho học sinh trường THPT Hoàng Mai, Nghệ An.
- Trình bày những kinh nghiệm trong việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 cho học sinh ở trường THPT Hoàng Mai, Nghệ An.
- Đề xuất một số phương án triển khai có hiệu quả việc vận dụng kiến thức liên
môn trong giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12.
2.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ cho phép và qua thực tiễn giảng dạy, người viết chỉ nghiên cứu việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 ban cơ bản do Bộ giáo dục và Đào tạo biên soạn. 3.Các bước thực hiện đề tài
- Khảo sát thực tiễn giảng dạy phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 tại trường THPT Hoàng Mai: Bằng cách gặp gỡ, trao đổi với giáo viên và cho học sinh làm bài kiểm tra.
- Phân tích số liệu thu thập được và tổng hợp kết quả điều tra để đưa ra kết luận về thực trạng vấn đề và tính thiết thực, cần thiết của vấn đề nghiên cứu.
- Đề xuất các kinh nghiệm của bản thân đã đúc rút được trong quá trình giảng
dạy phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 đã có vận dụng kiến thức liên môn.
- Soạn giáo án tích hợp liên môn. Từ đó thực nghiệm tại các lớp đã chọn. Sau
khi giảng dạy cho học sinh thì làm bài kiểm tra để đánh giá tính hiệu quả của đề tài. - Phân tích kết quả sau khi đã tác động. Đưa ra kết luận về tính thiết thực, khả năng ứng dụng của đề tài nghiên cứu.
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở vấn đề nghiên cứu 1.1. Cơ sở lý luận
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế” và “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân. Trong đó có đổi mới phương pháp dạy học và chú trọng kiến thức liên môn trong trong dạy học”. Như vậy, tích hợp nhiều môn học khác nhau trong dạy học là một định hướng lớn của Đảng và nhà nước, là yếu tố quan trọng để đổi mới toàn diện và căn bản nền giáo dục nước nhà.
Nằm trong lộ trình đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá ở các trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trên tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, sau khi Quốc hội thông qua Đề án đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông, Bộ GD-ĐT tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên sẵn sàng đáp ứng mục tiêu đổi mới. Trong đó tăng cường năng lực dạy học theo hướng “tích hợp, liên môn” là một trong những vấn đề cần ưu tiên.
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của dạy học ở trường phổ thông nói chung và bộ môn Lịch sử nói riêng. Nguyên tắc liên môn tương đương với từ “Coordination” (Tiếng Anh) – Đây là nguyên tắc dạy học phối hợp sử dụng nhiều nguồn tri thức của các môn học ở trường phổ thông để làm sáng tỏ cho một môn học nào đó mà giáo viên cần cung cấp cụ thể. Dạy học liên môn có mối liên hệ gần gũi với nguyên tắc dạy học tích hợp hay nói cách khác liên môn chính là nguyên tắc tích hợp, được thực hiện ở mức thấp. Dạy học vận dụng kiến thức liên môn là phương pháp quan trọng góp phần bổ sung, làm phong phú thêm nội dung bài học, giúp cho học sinh say mê, hứng thú, giúp các em yêu môn học hơn, tránh cảm thấy Lịch sử là một môn học khô khan, khó học. Đồng thời làm cho các em thấy rõ mối quan hệ giữa các bộ môn, hình dung được một cách chân thực, sinh động về môi trường, xã hội, các quy luật tự nhiên. Việc sử dụng kết hợp các môn học như vậy để bồi dưỡng cho học sinh các thủ thuật và phương pháp tư duy lôgic sẽ góp phần thực hiện một trong những yêu cầu quan trọng nhất của lí luận dạy học là xác lập các mối liên hệ chặt chẽ giữa các bộ môn trong dạy học.
Mặt khác, ngày nay dưới tác dụng mạnh mẽ của sự phát triển khoa học công nghệ, thông tin liên lạc đã làm cho các lĩnh vực khoa học khác nhau có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Theo đó, các môn học vận dụng một phần tri thức của nhau để làm sáng tỏ cho một môn học cụ thể là điều tất yếu. Trong xu thế ấy, Lịch sử nói chung, Lịch sử Việt Nam nói riêng cũng không thể phát triển hơn nếu không liên hệ và sử dụng tri thức của các lĩnh vực khoa học khác, môn học khác. Mối liên hệ giữa các môn học ở trường phổ thông xuất phát từ mối liên hệ chặt chẽ giữa các khoa học, đối với Lịch sử các môn lân cận là Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục công dân, Giáo dục Quốc phòng... Các lĩnh vực khoa học này tuy có
đối tượng nghiên cứu khác nhau song trên một mặt nào đó lại cùng chung một khách thể – xã hội và đời sống con người. Vì vậy khi nghiên cứu và học tập, kiến thức những môn học này hỗ trợ cho nhau, giúp học sinh nhận thức sâu sắc về xã hội và đời sống của con người.
Thêm vào đó, các bài học được dạy học trong phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 nay cũng có những đặc điểm khiến cho việc thực hiện dạy học bằng cách vận dụng kiến thức liên môn rất thuận lợi. Ví dụ hiện tượng “văn - sử - triết bất phân” là một đặc trưng phổ biến, nhiều bài học Lịch sử chứa đựng nhiều loại kiến thức của các lĩnh vực chính trị xã hội, văn học. Nắm vững đặc điểm này khi dạy học, giáo viên Lịch sử không thể không vận dụng kiến thức liên môn Giáo dục công dân và Ngữ văn để giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12. Đặc biệt, Lịch sử Việt Nam nói riêng, môn Lịch sử nói chung trước hết là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đặc điểm này khiến cho việc vận dụng kiến thức liên môn giữa Lịch sử và Giáo dục công dân trở nên thuận lợi hơn bao giờ hết. Kiến thức liên môn sẽ hình thành nhân cách toàn diện cho các em. Môn Lịch sử còn là một môn học thuộc nhóm công cụ. Điều đó nói lên mối quan hệ giữa môn Lịch sử và các môn khác. Học tốt môn Lịch sử sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập các môn khác và các môn khác cũng góp phần giúp học tốt môn Lịch sử.
Việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy cũng có cơ sở từ yêu cầu phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Ở lứa tuổi học sinh THPT, năng lực nhận thức đã phát triển cao, sự trưởng thành và tính tích cực về mặt xã hội đã tăng rõ rệt, nhu cầu giao lưu đã mở rộng nhiều, “nhu cầu về tinh thần đã bộc lộ rõ rệt, hứng thú đối với các vấn đề thế giới quan và đạo đức đã thể hiện mạnh mẽ”. Vì vậy, khả năng và nhu cầu tìm hiểu kiến thức của học sinh THPT là rất lớn. Về phương diện tâm lý, học sinh tiếp nhận tốt kiến thức mới khi biết dựa vào kiến thức đã học không chỉ của một bộ môn này mà còn của nhiều bộ môn khác mang tính chất hỗ trợ cho nhận thức, làm cho giờ học hấp dẫn, sinh động, các em chú ý học tập hơn. Vì vậy, vấn đề quan trọng của dạy học liên môn là mỗi kiến thức được truyền thụ đến với học sinh bằng một hoạt động “liên kết giữa các kiến thức”. 1.2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng vấn đề nghiên cứu Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học bộ môn Lịch sử nói riêng, đây được coi là một trong những quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. Bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy kiến thức ở trường phổ thông.Tuy nhiên đây là một hình thức dạy học mới, giáo viên chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy các bộ môn còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Môn Lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu biết về Lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con
người. Tuy nhiên, thực trạng của việc dạy và học Lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng Lịch sử rất khô khan với nhiều sự kiện Lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập đến Lịch sử văn hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học, khoa học...nên chưa tạo được sự hứng thú học sử đối với học sinh. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, không nắm được mối quan hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn. Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai đặt cho giáo viên Lịch sử nhiệm vụ: làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử, kích thích sự hứng thú học sử cho học sinh, rèn luyện cho học sinh khả năng tự học, tự tìm tòi, làm thế nào để đặt kiến thức môn Lịch sử trong mối liên hệ với các kiến thức khác. Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi giáo viên dạy Lịch sử không chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn Lịch sử mà còn phải có những hiểu biết vững chắc về các bộ môn Địa lý, Văn học, Nghệ thuật, Khoa học,...Muốn vậy, giáo viên phải có sự tìm tòi, học hỏi ở tài liệu, sách báo và học hỏi ở đồng nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Sử dụng các phương pháp dạy học phải linh hoạt, khéo léo, phù hợp với các nội dung kiến thức liên môn giữa Lịch sử với các môn học khác để vận dụng vào bài giảng Lịch sử làm bài giảng thêm phong phú và hấp dẫn. 2. Một số kinh nghiệm hướng dẫn HS vận dụng kiến thức liên môn học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 THPT theo định hướng dạy học phát triển phẩm chất, năng lực học sinh
2.1. Dự kiến phạm vi kiến thức liên môn có thể vận dụng 2.1.1. Tích hợp với môn Ngữ Văn Văn học và Lịch sử có mối liên hệ mật thiết với nhau, kiến thức môn này sẽ hỗ trợ cho môn kia, văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu Lịch sử mà nhờ đó học sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng.
Trong khi dạy học phần Lịch sử Việt Nam, người giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc gợi nhớ lại cho học sinh các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những kiến thức trong sách giáo khoa thì khó mà có thể tạo dựng lại được không khí lịch sử cần thiết để thu hút các em đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, khám phá quá khứ của dân tộc ta cũng như của thế giới. Để khắc phục tình trạng này, việc vận dụng kiến thức văn học vào dạy Lịch sử sẽ góp phần làm cho bài giảng trở nên sinh động và hấp dẫn, nâng cao tính tích cực hứng thú học tập cho học sinh.
Văn học và Lịch sử có liên hệ chặt chẽ với nhau, kiến thức môn này sẽ hỗ trợ cho môn kia, Văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ đó học sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng và khắc sâu những kiến thức Lịch sử. Đối với việc tích hợp kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử áp dụng được với tất cả chương trình Lịch sử ở các khối lớp của bậc THPT bởi vì mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi sự kiện lịch sử đều liên quan đến văn học, đến sự nhận định của các danh nhân, nhân vật lịch sử trong nước.
Ví dụ: Trong khi dạy bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1950) tác giả sử dụng một số tác phẩm văn học để
làm sáng tỏ thêm sự kiện Lịch sử như: khi nói về nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945, giáo viên có thể tìm thấy trong tác phẩm “Vợ Nhặt” –Kim Lân (trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 12) để thấy cảnh người chết đói “người chết như ngả rạ”, hình ảnh đàn quạ đen đậu trên cây gạo đầu làng chờ để mổ xác người chết, hay vì cái đói mà Thị phải nhắm mắt mà lấy chồng-anh cu Tràng,...để khắc họa nạn đói. Đồng thời, Trong bài này, tác giả sử dụng tác phẩm “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của chủ tịch Hồ Chí Minh Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ ai là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ Quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!
Việc sử dụng tác phẩm “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của chủ tịch Hồ Chí Minh và tác phẩm “ Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh. Sử dụng 2 tác phẩm này để làm rõ sự kiện ngày toàn quốc ta tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp và giải thích về đường lối kháng chiến chống Pháp, Đảng và chính phủ ta sử dụng đường lối chiến tranh nhân dân, cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.
Khi giáo viên dạy về chiến thắng Điện Biên Phủ có thể mượn đoạn thơ
trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của Tố Hữu: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa sắt Năm mươi ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn! Những đồng chí thân chôn làm giá súng Đầu bịt lỗ châu mai Băng mình qua núi thép gai Ào ào vũ báo, Những đồng chí chèn lưng cứu pháo Nát thân,nhắm mắt, còn ôm...
Những bàn tay xẻ núi lăn bom Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện Và những chị, những anh ngày đêm ra tiền tuyến Mấy tầng mây gió lớn mưa to Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát Dù bom đạn xương tan, thịt nạt Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh... Hỡi các chị, các anh trên chiến trường ngã xuống Máu của anh chị, của chúng ta Không uổng! Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng... ( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên-Tỗ Hữu)
Không chỉ mô tả về khí thế của chiến dịch mà còn hướng cho học sinh đi tìm hiểu nguyên nhân thắng lợi cuộc cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, ta thấy rằng các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần cảm phục của học sinh đối với công lao của các thế hệ đi trước. Đồng thời cũng góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ quê hương đất nước trong nhận thức các em. Khi nói về ý nghĩa “Chiến thắng của Điện Biên Phủ” Ta trích câu thơ: “ Chín năm làm một Biên Biên Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” Hay “ Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” Nhìn chung có rất nhiều kiến thức để vận dụng văn học trong giảng dạy bộ môn Lịch sử. Ta có thể đưa vào bài giảng một câu thơ, một đoạn văn hay một trích đoạn nhằm giúp học sinh có thể nêu ra một kết luận khái quát cụ thể hóa một vấn đề hay một sự kiện Lịch sử đã được học.
Như vậy ta thấy rằng: Sử dụng tích hợp kiến thức văn học trong giảng dạy Lịch sử không những giúp các em nắm vững nhanh chóng, nhớ lâu bài học mà còn góp phần củng cố thêm kiến thức văn học, tạo điều kiện cho học sinh hình thành phương pháp liên hệ trong quá trình học tập của mình.
2.1.2. Tích hợp với môn Địa Lý Không chỉ có nội dung tích hợp gần gũi với kiến thức với môn Ngữ văn
mà bộ môn Lịch sử này còn có nhiều nội dung liên quan đến kiến thức môn Địa
lý. Đặc biệt với công tác phải thường xuyên phân tích lược đồ, miêu tả địa danh,
địa điểm.
Để thực hiện công việc này, giáo viên dạy môn Lịch sử trong quá trình
giảng dạy cần chú ý có thể tích hợp môn Địa lí thông qua những nội dung nào.
Chú ý xem sự kiện lịch sử đó diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định với
các điều kiện cụ thể, trong đó có các điều kiện địa lí đều gắn với những điều
kiện tự nhiên mà con người sinh sống tại những thời điểm nhất định. Thêm vào
đó, trong quá trình giảng dạy khi nói đến một khu vực, một quốc gia hay một
trận đánh, một chiến dịch diễn ra ở địa danh nào thì người giáo viên cần phải
cho học sinh biết rõ nơi đó là ở đâu, có địa hình như thế nào:
Khi giáo viên dạy Bài 17: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”, giáo viên phải sử dụng kiến thức địa lí để khắc họa vĩ tuyến 16 thuộc thành phố Đà Nẵng.
Khi giáo viên dạy bài 18: “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 -1950)” giáo viên sử dụng các lược đồ, yêu cầu học sinh chuẩn bị trước ở nhà nội dung và thuyết trình diễn biến các chiến dịch trên lược đồ.
Trong bài 20: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc” (1953-1954) ta sử dụng lực đồ “ Hình thái chiến trường trong Đông- Xuân 1953-1954” yêu cầu hoc sinh chẩn bị trước ở nhà (theo nhóm) nội dung và thuyết trình diễn biến các chiến dịch trên lược đồ.
Giáo viên sử dụng “ Lược đồ diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ 1954” khi trình bày cách bố phòng của địch ở cứ điểm Điện Biên Phủ (3 phân khu, 49 cứ điểm...)
Giáo viên yêu cầu học sinh thuyết trình diễn biến các chiến dịch trên lược
đồ (chuẩn bị trước ở nhà nội dung diễn biến)
Sử dụng lược đồ với mục đích không chỉ để khắc sâu cho học sinh về vị trí địa lý, giáo viên sử dụng lược đồ để phục vụ học về âm mưu bố trí, phòng thủ của địch, diễn biến của chiến dịch, học sinh rất hứng thú học tập và tiếp thu kiến thức một cách chủ động nhất.
2.1.3. Tích hợp với môn một số bộ môn nghệ thuật (Ngoài chương trình
THPT)
*Âm nhạc Việc tích hợp môn Lịch sử với Âm nhạc đây là một phương pháp dạy học
hiện đại trong dạy học Lịch sử, giúp học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt.
Giáo viên hướng dẫn học sinh ở nhà tìm một số bài hát như: Ca khúc “ Tiến quân ca” của nhạc sĩ Văn Cao, ca khúc “ Cùng nhau đi Hồng binh” của nhạc sỹ Hoàng Vân, Giải phóng Điện Biên... yêu cầu học sinh hát và nêu nội dung ý nghĩa của bài hát sau đó giáo viên chốt ý nghĩa giúp học sinh nghe và nắm bắt được nội dung, ý nghĩa của các bài hát.
Ví dụ: ca khúc “Tiến quân ca”( Quốc ca) của nhạc sỹ Văn Cao trong bài 17 “ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.
“ Đoàn quân Việt Nam đi Chung lòng cứu quốc Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa, cờ in máu chiến thắng mang hồn nước, súng ngoài xa chen khúc quân hành ca. Đường vinh quang xây xác quân thù, thắng gian lao cùng nhau lập chiến khu. Vì nhân dân chiến đấu không ngừng. Tiến mau ra sa trường. Tiến lên, cùng tiến lên. Nước non Việt Nam ta. Vững bền” Nhạc sỹ Văn Cao viết bài hát đó trong ngày năm 1944. Ngay từ khi ra đời, bài hát được coi là bài hát chính thức của Mặt trận Việt Minh. Sau cách mạng tháng Tám, ca khúc này được chọn làm Quốc ca của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong bài 20: “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc” (1953-1954), cho học sinh tìm hiểu, hát một số bài hát sau yêu cầu học sinh nêu ý nghĩa,nội dung bài hát sau đó giáo viên chốt ý nghĩa giúp học sinh nghe và nắm được.
*Nghệ thuật Tác giả sử dụng tranh ảnh chiến sĩ cảm tử quân ôm bom ba càng đón đánh xe tăng địch thể hiện tinh thần quyết tâm chiến đấu chống giặc Pháp khi giảng dạy bài 17 “ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946.”
Trong bài 20: “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953-1954)” tác giả sử dụng hình ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp để giới thiệu bài học.
2.1.4. Tích hợp liên môn kiến thức môn giáo dục công dân Nắm được tiểu sử, chiến công của các anh hùng, liệt sĩ như Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn,... Đặc biệt là đại tướng Võ Nguyên Giáp. Từ đó giúp học sinh biết trân trọng quá khứ, có ý thức phấn đấu vươn lên, học tập, rèn luyện, trở thành công dân tốt, để phần nào đền đáp công ơn dựng nước,giữ nước của thế hệ ông cha. Ngoài ra, ở bài 22: “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược, nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965-1973)”, giáo viên có thể sử dụng nội dung tình hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia ở môn Giáo dục công dân để nói về sự liên minh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam- Lào- Campuchia trong chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”
Như vậy, Lịch sử giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về văn học, như phải hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm đó như thế nào mới hiểu được dụng ý nghệ thuật cũng như nội dung sâu xa mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì. Ngược lại, Văn học, Mỹ thuật, Âm nhạc, Địa lí, Giáo dục công dân, Quân sự làm cho các sự kiện, các kiến thức Lịch sử dễ dàng thấm vào tiềm thức của con người.
Qua đó, có thể thấy sự tích hợp, liên môn giúp học sinh hiểu biết thêm nhiều kiến thức, bài dạy trở nên sinh động phong phú hơn, học sinh hào hứng tiếp thu bài học.
2.2. Vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình 12 cho học sinh ở trường THPT Hoàng Mai bằng cách phối hợp các phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt trong giờ dạy học. Có nhiều biện pháp, hình thức dạy học vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình 12 như đàm thoại, phân tích
ngôn ngữ, rèn luyện theo mẫu. Song trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy, các cách như tổ chức dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi, tổ chức hoạt động sắm vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học... tỏ ra có ưu thế và hiệu quả hơn hẳn trong việc kích thích khả năng suy nghĩ, phát biểu và trình bày của các em, từ đó nâng cao được tư duy, khả năng tổng hợp kiến thức liên môn của các em. Một giờ Lịch sử thành công chính là hiệu quả của việc sử dụng tổng hợp sáng tạo các phương pháp dạy học.
2.2.1. Thông qua việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm (dạy học hợp
tác).
Lịch sừ Việt Nam là phần bài học có nhiều ưu thế trong việc thảo luận nhóm khi giảng dạy. Thông qua việc học sinh đại diện nhóm trình bày quan điểm cá nhân để rèn kỹ năng nghe- nói- đọc viết cho các em, cũng như bày tỏ những hiểu biết cá nhân của mình về Lịch sử dân tộc. Biện pháp này khá thích hợp với những kiểu bài thực hành làm bài tập, các bài cần trình bày quan điểm. Không một nhà giáo dục nào phủ nhận vai trò, tác dụng của phương pháp này trong dạy học. Đây là một trong những phương pháp có sự tham gia tích cực của HS. Thảo luận nhóm là phương tiện học hỏi có tính dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp HS rèn luyện kĩ năng giải quyết các vấn đề khó khăn.
Kinh nghiệm bản thân cho thấy nên chia nhóm trong đó có cả HS giỏi, khá, trung bình, yếu là tốt nhất. Số lượng HS giỏi, khá, trung bình, yếu giữa các nhóm phải bằng nhau để đảm bảo công bằng. Quy mô nhóm có thể lớn hoặc nhỏ tuỳ theo vấn đề thảo luận. Tuy nhiên, nhóm từ 4 - 6 HS là tốt nhất. Quy trình giảng dạy với thời gian một tiết (45 phút), GV tiến hành tuần tự các bước lên lớp theo quy định chung. GV nêu chủ đề cần thảo luận, chia nhóm vào thời điểm thích hợp của tiết học, giao câu hỏi cho các nhóm. Yêu cầu các nhóm thảo luận, quy định thời gian thảo luận và phân công vị trí ngồi thảo luận cho các nhóm. Các nhóm tiến hành thảo luận. Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận. Các nhóm khác lắng nghe, chất vấn, trao đổi bổ sung ý kiến. GV bổ sung nội dung mà HS trình bày nếu còn thiếu cho hoàn thiện. GV đưa ra định hướng đúng những vấn đề HS cần nhớ sau khi thảo luận. HS ghi nhớ hoặc ghi chép nội dung chính của bài học vào vở.
Qua việc dự giờ đồng nghiệp và giảng dạy, bản thân tôi thấy rằng: Thông thường, sau khi thảo luận xong, các nhóm thường cử một người thay mặt nhóm lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình và hầu hết đó đều là những HS khá, giỏi, có kĩ năng trình bày vấn đề khá tốt. Kết quả thảo luận được trình bày chủ yếu bằng hình thức viết lên giấy khổ lớn dán lên bảng. Đến đây, HS coi như “xong nhiệm vụ”. Đến phần giáo viên chữa bài của HS, vì tâm lý sợ HS trình bày rườm rà sẽ “cháy” giáo án, nên GV thường chữa bài của các em thật nhanh. GV chỉ chú ý xem các em viết được bao nhiêu phần trăm kiến thức và xem nhẹ cách các em thức trình bày vấn đề trên giấy, bỏ qua cả lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu và sự thiếu hợp lý của bố cục trình bày. Thậm chí, học sinh sẽ không có cơ
hội được trình bày quan điểm cá nhân và như vậy sẽ không rèn được khả năng nói, phát biểu của mình.
Để khắc phục tình trạng này, theo tôi, trong phần trình bày của HS, GV cũng cần phải quy định điểm số cho cả phần viết trình bày sơ đồ, bảng phụ (nếu có), và cho điểm cả cách thuyết trình của HS. GV cần tạo điều kiện cho tất cả thành viên trong nhóm được trình bày quan điểm, kể cả những người rụt rè, e thẹn hay ngại trước đám đông, GV có thể yêu cầu HS đó đại diện trình bày ý kiến của nhóm mình. Thậm chí, qua sự quan sát của tôi, nếu thấy học sinh nào chưa thực sự tập trung, giáo viên có thể yêu cầu chính em đó đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm.
Về phần trình bày kết quả thảo luận. GV cần khuyến khích các em trình bày dưới nhiều hình thức như trình bày bằng lời; đóng vai; viết hoặc vẽ lên giấy khổ lớn; một người thay mặt nhóm trình bày, hoặc một người trình bày một ý tưởng… Trong quá trình HS trình bày, GV cần tập trung để điều chỉnh và sửa chữa cho các em để các em hoàn thiện được khả năng nói - viết của mình.
Các nhóm sẽ tiến hành thảo luận (GV có thể gợi ý các khía cạnh của vấn đề học HS suy nghĩ), trả lời câu hỏi, để giải quyết vấn đề mà GV đưa ra. Thời gian thảo luận nhóm là 7 phút, thời gian báo cáo trước lớp cho mỗi nhóm là 4 phút. Ở nhiều khía cạnh mà các nhóm trình bày sẽ có phản biện giữa các nhóm khi có ý kiến trái ngược nhau. GV phải vừa bao quát lớp vừa góp ý để các nhóm hoàn thành nhiệm vụ theo quan điểm của mình.
Sau khi các nhóm báo cáo và phản biện (nếu có) GV phải là người đánh giá lại, định hướng chọn phương án giải quyết tối ưu nhất cho vấn đề đặt ra. Đáp án này là trọng tâm của câu hỏi cũng là tâm điểm kiến thức mà HS cần lĩnh hội ở bài học.
2.2.2. Hình thức vừa chơi vừa học ở lớp Hình thức dạy học vừa chơi vừa học Lịch sử là dạy học bằng trò chơi, chơi là hình thức còn học là mục đích. Đây là hình thức dạy học có khả năng hấp dẫn, cuốn hút sự tham gia, sự tập trung của HS, đem lại hiệu quả nhất định bởi “biết mà học không bằng vui mà học” (Khổng Tử).
Hình thức dạy học này có thể được áp dụng ở đầu tiết học để tập trung sự chú ý của HS, từ đó tạo không khí sinh động cho lớp học, tạo hứng thú học tập cho các em, dẫn dắt HS đến với nội dung bài học.
Trò chơi này có thể diễn ra gần cuối tiết để củng cố bài học cho HS đồng
thời GV kiểm tra được mức độ hiểu bài của các em).
Hoặc GV cũng có thể tổ chức trò chơi cho HS vào cuối tiết học để củng
cố lại bài học Lịch sử nhằm khắc sâu kiến thức cho các em.
Có thể kể vào trò chơi học tập nổi bật là trò “sắm vai” các nhân vật lịch sử. Sắm vai trong dạy học là nhận một vai giao tiếp nào đó nhằm thể hiện sinh động nội dung học tập. Hình thức học tập sắm vai nhiều khi rất vui nhờ những chi tiết hài hước, ngộ nghĩnh do HS - “diễn viên bất đắc dĩ” tạo nên. Hình thức sắm vai đặc biệt phát huy tác dụng trong các giờ học, HS biết thêm được nhiều kiến thức lịch sử, xã hội xoay xung quanh vấn đề được học tập tại lớp, giúp các em hứng thú với môn học và có kiến thức hệ thống, khoa học.
Có thể tiến hành trò chơi sắm vai theo các bước sau: GV nêu chủ đề, phân vai theo từng nhóm hoặc mỗi cá nhân. Giao tình huống. Trong đó có quy rõ thời gian chuẩn bị, thời gian thể hiện. Các nhóm thảo luận/cá nhân chuẩn bị đóng vai. Các nhóm/cá nhân lên đóng vai. Lớp thảo luận, nhận xét. GV kết luận
Qua thời gian triển khai phương pháp này, tôi nhận thấy, nếu áp dụng nó trong không gian lớp học và thời lượng tiết học có hạn thì phương pháp này sẽ ít có hiệu quả. Nhưng khi sử dụng ở tiết ngoại khóa hoặc tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp lại rất có hiệu quả. Nếu tiến hành trong phạm vi lớp học thì GV cũng cần khích lệ (nhiều khi phải chỉ định) cả những HS nhút nhát cùng tham gia. Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng vai.
2.2.3. Qua hình thức thuyết trình nội dung bài học Lịch sử tại lớp Thuyết trình là một trong những phương thức hiệu quả giúp HS rèn luyện kỹ năng nói một cách bài bản. Tuy nhiên, phương pháp này không giống cách truyền thụ “một chiều” trong phương pháp dạy học truyền thống mà GV đã sử dụng để dẫn đến thói quen học thuộc lòng - nhớ - đọc trong đại bộ phận HS. Việc tổ chức cho HS thuyết trình nhằm rèn luyện cho HS có tinh thần tự học một cách tích cực, biết ăn nói lưu loát, phát biểu ý kiến một cách tự nhiên, rành mạch. Trong đó, HS chủ động chuẩn bị bài, trình bày và thảo luận. GV chỉ là người đóng vai trò hướng dẫn cách thức chuẩn bị, phân công trình bày chứ không trực tiếp tham gia chuẩn bị và trả lời thay học trò. Chỉ đến lúc các em kết thúc thảo luận, GV mới tổng kết và đưa ra nhận xét, đánh giá, cho điểm. Như vậy, rõ ràng phương pháp dạy học này đã thực sự biến các em HS trở thành trung tâm của giờ học.
Để có một buổi thuyết trình thành công, theo tôi, GV cần hướng dẫn HS thực hiện một số việc cần thiết sau: Phân nhóm (Cách phân nhóm như trong phương pháp thảo luận nhóm đã trình bày). Sau đó, GV hướng dẫn HS về cách thu thập thông tin và xây dựng cấu trúc bài thuyết trình. (Xác định rõ ràng chủ đề của bài thuyết trình; lên sơ thảo dàn ý cho bài thuyết trình (Bài có bao nhiêu phần, mỗi phần gồm mấy phần nhỏ)); lập dàn ý chi tiết; sắp xếp chỉnh sửa các ý cho phù hợp với tiến trình bài nói và hợp logic; biên tập lại câu chữ, bỏ các ý thừa, bổ sung ý thiếu, xem xét cách chuyển ý giữa các nội dung; đọc lại bài lần nữa, viết một bản tóm tắt gợi ý ngắn gọn để xem trong lúc thuyết trình (để dễ nhớ lại và tránh việc đọc lại nguyên văn bài thuyết trình). GV cần hướng dẫn HS các bước chuẩn bị trên để đảm bảo nội dung bài thuyết trình đúng trọng tâm, đầy đủ và rõ ràng. Trong quá trình hướng dẫn HS thực hiện những bước này, GV đã phần nào rèn luyện được cho các em cách thức trình bày nói, viết như thế nào.
Chủ đề bài học có thể xoay xung quanh những sự kiện lịch sử, địa danh Lịch sửmà các em đã được tham quan hoặc tìm hiểu qua sách báo. Các em cũng có thể bổ sung thêm những hiểu biết về các lĩnh vực khác để làm rõ hơn về kiến thức Lịch sửmà mình đang trình bày. Bằng cách này, kiến thức tích hợp liên môn được vận dụng một cách rõ nét.
GV phải có thang điểm cụ thể cho bài thuyết trình của HS dựa trên ba tiêu chí: phong cách thuyết trình (sử dụng phi ngôn từ khi thuyết trình có đạt hiệu quả không?), nội dung thuyết trình, phần giao lưu trả lời câu hỏi của các bạn
trong lớp…GV nên có điểm thưởng cho các bạn trong lớp có câu hỏi hay và cho các bạn có câu trả lời hấp dẫn. GV phải hình thành ở HS tinh thần phê và tự phê bằng cách yêu cầu cả lớp trước khi đặt câu hỏi cho bạn thuyết trình, đưa ra nhận xét về những mặt tích cực và hạn chế của bài thuyết trình của các bạn.
Tuy vậy, hình thức dạy học này đòi hỏi GV một bản lĩnh đứng lớp để can
thiệp kịp thời khi những tranh luận đi lệch mục tiêu dạy học.
Để các bài thuyết trình đạt chất lượng tốt, GV cần chỉ cho các em các cách luyện nói như: tập nói chậm và rõ ràng, tập nói trong thời gian quy định, lưu ý các em là nói, trình bày cho các bạn hiểu, chứ không phải đọc văn bản, đồng thời với lời nói là các hành động, cử chỉ phi ngôn ngữ, giúp bài thuyết trình trở nên sinh động, lôi cuốn hơn. GV nên giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm chuẩn bị trước ít nhất 1 tuần. Khuyến khích các em đưa nội dung bài học của mình vào những tình huống và hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Từ đó, hình thức thuyết trình sẽ được các em vận dụng linh động thông qua các phương tiện như trình chiếu Powerpoint, xây dựng tình huống giao tiếp, thuyết minh về tranh ảnh….để làm nổi bật nội dung bài học.
2.2.4. Qua hình thức tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp Tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp có thể “tạo nên chiếc cầu nối, sự liên kết chặt chẽ giữa tri thức lí thuyết với kĩ năng thực hành; giữa Lịch sử trong nhà trường với Lịch sửtrong thực tiễn đời sống xã hội… góp phần đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy học, giảm tải chương trình, phát huy tính linh hoạt, sáng tạo của quá trình dạy học, tạo hứng thú cho HS”.
Tham gia hoạt động ngoài giờ lên lớp về Lịch sử, HS có điều kiện sử dụng lịch sử trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Việc tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp cần tuân thủ những nguyên tắc sau: gắn với đời sống; tự nguyện; hấp dẫn, phù hợp với đối tượng; bổ trợ cho hoạt động dạy học chính khoá.
Một hình thức hoạt động ngoài giờ lên lớp có tính chất tập thể trong phạm vi trường học là tham quan một số di tích lịch sử do tổ chức Đoàn phát động vào các dịp lễ kỉ niệm lớn trong năm như 20.11, 26.03…kết hợp với thuyết minh giới thiệu vừa hiệu quả vừa giúp HS yêu thêm quê hương vừa phát huy khả năng thuyết trình của cá nhân.
Nếu chưa có điều kiện đưa HS đi tham quan các di tích Lịch sử ở các vùng miền khác nhau trên đất nước thì có thể tham quan các di tích ở địa phương hoặc cũng có thể tìm hiểu trên sách báo và thuyết minh, giới thiệu lại cho HS qua các video, slide… Đây cũng là một hoạt động lí thú thu hút được sự quan tâm chú ý của HS.
2.3. Đảm bảo các nguyên tắc cơ bản khi dạy học học phần Lịch sửViệt Nam chương trình 12 Đảm bảo tri thức Lịch sử
Dạy học Lịch sử, trước hết phải đảm bảo cung cấp đầy đủ kiến thức về Lịch sử, đó là điều hiển nhiên. Nhưng như đã trình bày, việc sử dụng kiến thức các môn hỗ trợ trong việc giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình 12 là điều rất cần thiết song điều đó không có nghĩa là biến một giờ học Lịch sử
thành một giờ Ngữ văn, Địa lý hay Giáo dục công dân. Giáo viên Lịch sử phải biết lựa chọn những tri thức liên môn phù hợp với nội dung và thời gian của giờ học để tránh quá ít hoặc quá nhiều sẽ làm “loãng” kiến thức Lịch sử.
Vì vậy, khi sử dụng những kiến thức các môn học khác phải đứng trên bình diện Lịch sử, tiếp cận dưới góc độ Lịch sử để giữ tính độc lập, dựa vào đặc trưng nội dung của bộ môn để nâng cao hiệu quả bài học, tránh sự trùng lặp, công thức, giáo điều.
Đảm bảo tính vừa sức Vận dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học học phần Lịch sử Việt Nam chương trình 12 cần chú ý đến tính vừa sức. Nghĩa là giáo viên không nên cung cấp cho học sinh những kiến thức liên môn một cách mơ hồ hoặc quá chi tiết, tỉ mỉ. Việc cung cấp như vậy sẽ dẫn đến tình trạng rối rắm, phức tạp làm cho học sinh khó nhận thức được mối liên hệ giữa Lịch sửvà các môn học khác.
Vận dụng kiến thức liên môn khi dạy phần này, tôi thường dựa vào mục đích, nội dung kiến thức của bài dạy và đặc điểm tâm lý lứa tuổi, trình độ nhận thức của học sinh từng khối, từng lớp.
Ở mức độ thấp, để học sinh có cái nhìn tổng quan về vấn đề và nhớ lại các kiến thức có thể vận dụng được. Tôi thường nhắc lại nhanh những tài liệu, sự kiện, kỹ năng của các môn có liên quan.
Ở mức độ cao hơn, với học sinh khá hơn, tôi đặt ra yêu cầu đòi hỏi học sinh nhớ lại và vận dụng kiến thức đã học của các môn học khác để giải quyết vấn đề đặt ra.
Ở mức độ cao nhất (mức độ ít học sinh thực hiện được): đòi hỏi học sinh phải độc lập giải quyết “bài toán nhận thức” bằng vốn kiến thức đã có huy động các môn có liên quan theo phương pháp nghiên cứu. (thường vận dụng cho học sinh khá giỏi)
Theo tôi, thước đo của sự vừa sức đó là học sinh có thể trả lời được câu
hỏi và thể hiện qua cách học sinh làm bài kiểm tra, bài thi…
2.4. Năng lực nghệ thuật của giáo viên Để vận dụng thành công những phương pháp dạy học vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 ở trường THPT, theo tôi, giáo viên không chỉ có trình độ chuyên môn vững vàng và trình độ khoa học cơ bản mà còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực nghệ thuật của giáo viên. Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi thường sử dụng kiến thức liên môn theo trình tự hợp lý linh hoạt và sáng tạo ở nhiều khâu trong tiến trình dạy học
Triển khai phương pháp liên môn ngay từ khâu kiểm tra bài cũ. Kiểm tra bài cũ là bước đầu tiên trong tiến trình tổ chức hoạt động dạy học một bài cụ thể. Mục đích của hoạt động này là để kiểm tra việc học ở nhà cũng như mức độ hiểu bài của học sinh. Ngoài ra, đây cũng là hoạt động có tính chất kết nối giữa bài đã học và bài đang học (bài mới). Vì vậy, việc thực hiện tích hợp trong quá trình kiểm tra bài cũ là vô cùng cần thiết. Vận dụng kiến thức liên môn từ phần kiểm tra bài cũ bằng các câu hỏi tích hợp kiến thức Lịch sử, Địa lý đã học. Hoặc giáo viên có thể kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của học sinh theo nhiệm vụ mà giáo viên đã giao trước đó (nếu có)
Ví dụ : khi dạy bài: 17 Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau 2-9-1945 đến trước 19-12-1946 có thể kiểm tra bài cũ diễn biến cách mạng tháng 8 và ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng 8.
Tiếp theo ở khâu giới thiệu bài mới giáo viên cũng có thể tích hợp kiến thức liên môn tạo tâm thế cho học sinh vào bài mới. Đây là một thao tác nhỏ, chiếm một lượng thời gian không đáng kể trong tiết dạy (và không phải bài nào, tiết dạy nào cũng cần giới thiệu vào bài một cách công phu bài bản). Tuy nhiên thao tác này lại có ý nghĩa khá lớn trong việc chuẩn bị hứng thú cho học sinh trước khi bước vào bài học. Vì vậy giáo viên có thể vận dụng thao tác này để thực hiện tích hợp kiến thức liên môn.
Ví dụ: khi dạy bài 17: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau 2-9-1945 đến trước 19-12-1946 có thể giới thiệu về tranh, ảnh những sự kiện được nói đến trong văn bản. ( Video Bác Hồ đọc tuyên ngôc độc lập).
Kiến thức liên môn được sử dụng nhiều và có hiệu quả nhất thông qua câu hỏi tìm hiểu bài, có thể kết hợp với tranh ảnh, bảng phụ. Đây chính là khâu giáo viên sử dụng những phương pháp vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy. Từ kiến thức mà học sinh tái hiện lại, nhờ vào hệ thống câu hỏi, giáo viên yêu cầu các em vận dụng kiến thức đó để tiếp nhận kiến thức mới của bài học Lịch sử. Cuối cùng, trên cơ sở các câu trả lời của học sinh giáo viên rút ra kết luận, tổng kết giờ học, củng cố bằng các bài tập về nhà… Các khâu này giáo viên có thể sử dụng phối kết hợp linh hoạt trong quá trình giảng dạy. Không phải bài nào cũng nhất thiết phải theo trình tự như vậy. Nhiều bài có thể lồng ghép bài cũ vào bài mới. Nhiều bài có thể kiểm tra kiến thức đã học bằng các bài tập thay cho phần bài cũ và giới thiệu bài mới. Trong quá trình giảng dạy, khi cần, giáo viên có thể kết hợp cho học sinh làm bài tập củng cố từng phần…
Để thực hiện phương pháp dạy học liên môn có hiệu quả đòi hỏi sự nỗ lực của học sinh, bởi vì mọi phương pháp đưa ra đều nhằm vào hoạt động nhận thức của học sinh. Vì thế, giáo viên hướng dẫn các em tìm hiểu những kiến thức môn học có liên quan đến Lịch sử nhất là Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục công dân… dưới nhiều hình thức: đọc sách tham khảo, vẽ bản đồ, sử dụng bản đồ… Giáo viên phải thực hiện công việc này thường xuyên. 3. Thực nghiệm sư phạm
3.1. Mục đích thực hiện Việc thực nghiệm của chúng tôi nhằm chứng minh trong thực tế tính khả thi, hiệu quả mang lại của những đề xuất cho việc vận dụng kiến thức liên môn để dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 THPT theo định hướng dạy học phát triển phẩm chất, năng lực.
3.2. Đối tượng thực hiện
Đối tượng chúng tôi tiến hành thực nghiệm là học sinh ở khối lớp 12, ở
Việc lựa chọn đối tượng này sẽ đảm bảo tính khách quan, chính xác trong
trường phổ thông Hoàng Mai, Nghệ An. quá trình thực nghiệm bởi vì:
- Qua quá trình thực nghiệm sư phạm, tôi đã giảng dạy tại hai lớp của mỗi khối này, tôi thấy ở hai lớp của mỗi khối học sinh có ý thức học tập tốt, có tinh thần tham gia xây dựng bài học.
- Mặt khác, đây là các lớp chọn khối tự nhiên, có trình độ nhận thức khá
và tương đương nhau.
3.3. Nội dung thực hiện Nội dung mà chúng tôi chọn thực hiện giáo án là: Khối 12, Bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng
8 (1939-1945) Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
3.4. Phương pháp thực hiện - Soạn giáo án tích hợp kiến thức liên môn - Giảng dạy ở các lớp đã chọn để bước đầu quan sát, rút ra nhận xét về thái độ, tinh thần, không khí học tập của học sinh cũng như mức độ tiếp nhận của các em.
- Sau đó chúng tôi tiến hành bài kiểm tra 15 phút tại cả hai lớp để kiểm tra
mức độ nhận thức bài học.
- Tiến hành chấm bài, tổng hợp kết quả, từ đó rút ra kết luận.
3.5. Giáo án đối chứng Về cơ bản, giáo án đối chứng được giảng dạy ở hai lớp 10A10 và 11A15 cũng giúp học sinh hình thành đầy đủ kiến thức, kỹ năng, thái độ cần có trong mỗi văn bản như giáo án minh họa. Điểm khác giữa giáo án đối chứng và giáo án minh họa là giáo án đối chứng sử dụng một số phương pháp khác và không vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy văn bản.
Vì vậy, trong thời lượng cho phép, tôi không trình bày chi tiết giáo án đối
chứng. 4. Giáo án minh họa Ngày soạn: 17.11.2020 Tiết PPCT: 22,23
Bài 16 PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG TÁM (1939 – 1945 ) NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ RA ĐỜI
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC. 1.Kiến thức cần đạt: - Đường lối đúng đắn, sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
- Công cuộc chuẩn bị, diễn biến, ý nghĩa Lịch sử và nguyên nhân thắng lợi
của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
2. Về thái độ, tình cảm, tư tưởng: - Bồi dưỡng niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng.
- Bồi dưỡng tinh thần nhiệt tình cách mạng; noi gương tinh thần Cách mạng tháng Tám của ông cha, trân trọng giữ gìn và biết phát huy thành quả Cách mạng tháng Tám.
3. Kỹ năng: - Rèn luyện kĩ năng xác định kiến thức cơ bản, sự kiện cơ bản. - Rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, đánh giá các sự kiện lịch sử. => Năng lực hướng tới:- Năng lực chung: Tự học, giao tiếp, hợp tác, sáng
tạo, giải quyết vấn đề.
- Năng lực bộ môn: Tái hiện quá khứ lịch sử, phân tích được hoàn cảnh Lịch sửvà chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng thời kì 1939 – 1945.
4. Nội dung tích hợp: Tích hợp kiến thức liên môn:Văn học, GDCD + Kiến thứcVăn học: Sử dụng kiến thức văn học và 1 số hình ảnh minh họa
cảnh người dân chết đói thời kỳ này.
+ Kiến thức môn GDCD: Giáo dục cho thanh niên tình yêu thiên nhiên, quê hương; trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân: yêu nước, thương dân, có ý thức xây dựng và bảo vệ tổ quốc... II. THIẾT BỊ,TÀI LIỆU DẠY HỌC.
- Lược đồ Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945…. Tranh ảnh, bảng biểu
III. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY- HỌC.
1. Kiểm tra bài cũ. Lồng vào học bài mới để kiểm tra 2. Bài mới: Trình bày khái quát những nội dung sẽ học trong bài. 3. Tiến trình tổ chức dạy - học.
Kiến thức liên môn cần tích hợp Tích hợp kĩ năng địa lí: Dùng bản đồ thế giới, khái quát diễn biến chính của chiến tranh thế giới thứ hai
Kiến thức cơ bản cần đạt I. Tình hình Việt Nam trong những năm 1939 – 1945 1) Tình hình chính trị - Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức, thực hiện chính sách thù địch với phong trào cách mạng thuộc địa. - Ở Đông Dương, Pháp thực hiện chính sách vơ vét sức người, sức của để dốc vào cuộc chiến tranh.
Các hoạt động của thầy và trò Hoạt động:Tình hình Việt Nam trong những năm 1939 – 1945. dùng bản đồ thế giới, khái quát diễn biến chính của chiến tranh thế giới thứ hai. Trong năm những 1939-1945, tình hình chính trị Việt Nam chịu tác động rất mạnh của tình hình thế giới và nước Pháp. Tháng 9-1940, quân Nhật vào miền Bắc Việt
thu được
Sử dụng kiến thức Lịch sử và một số hình ảnh về giao thông Việt Nam thời Pháp thuộc. Dùng bản đồ tài nguyên thiên nhiên để chứng minh nguồn nguyên-nhiên liệu phong phú của Việt Nam Để chứng minh vì những nguồn lợi mà Nhật- Pháp từnướcta. => lí giải nguyên do nhân dân ta bị đẩy đến chỗ cùng cực Tích hợp kiến thức Văn học để tô đậm hơn nữa nạn đói năm 1945 khiến hơn 2 triệu đồng bào chết đói + sử dụng kiến thức văn học và một số hình ảnh minh họa cảnh người dân chết đói thời kì này.
Thảo luận nhóm: Nhóm 1: Em hãy cho biết những sự nào của Lịch sử thế giới và nước Pháp có tác động đến Việt Nam? Nhóm 2: Em hãy cho biết chính sách kinh tế của Pháp - Nhật đối với Đông Dương? + Tháng 9-1939, Toàn quyền Pháp ra lệnh tổng động viên nhằm cung cấp cho “mẫu quốc” tiềm lực tối đa của Đông Dương về lực, quân sự, nhân nguyên liệu. + Pháp thi hành chính sách « kinh tế chỉ huy + Khi Nhật nhảy vào Đông Dương, Pháp buộc phải san sẻ quyền lợi của Đông Dương cho Nhật. Nam, Pháp đầu hàng. Nhật giữ nguyên bộ máy thống trị của Pháp để vơ vét kinh tế phục vụ cho chiến tranh. - Ở Việt Nam, các đảng phái thân Nhật ra sức tuyên truyền lừa bịp về văn minh, sức mạnh Nhật Bản, thuyết Đại Đông Á, dọn đường cho Nhật hất cẳng Pháp. - Bước sang năm 1945, ở châu Âu, Đức thất bại nặng nề; ở châu Á – Thái Bình Dương, Nhật thua to. Tại Đông Dương, ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp, các đảng phái chính trị ở Việt Nam tăng cường hoạt động. Quần chúng nhân dân sục sôi khí thế, sẵn sàng khởi nghĩa. 2) Tình hình kinh tế - xã hội - Về kinh tế: + Chính sách của Pháp: thi hành chính sách "Kinh tế chỉ huy", tăng thuế cũ, đặt thuế mới …, sa thải công nhân, viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm… + Chính sách của Nhật: cướp ruộng đất của nông dân, bắt nông dân nhổ lúa, ngô để trồng đay, thầu dầu, yêu cầu Pháp xuất các nguyên liệu chiến tranh sang Nhật với giá rẻ. Nhật đầu tư vào những ngành phục vụ cho quân sự như mănggan, sắt...
tranh
làm
=> Hình ảnh được tái hiện từ truyện Vợ nhặt của Kim Lân. + Nạn đói được chủ tích Hồ Chí Minh nêu rõ bản cáo trạng tội ác của giặc trong Tuyên ngôn Độc lập: Từ cuối năm bốn bốn đến đầu năm bốn lăm, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào chết đói. Nhóm 3: Em hãy cho biết hậu quả của chính sách kinh tế của Nhật- Pháp? Nhóm 4: Tình hình nước ta trong những năm 1939-1945 có chuyển biến như thế nào? Tìm hiểu về Hội nghị hành Ban Chấp Trung ương Đảng Cộng Đông sản Dương tháng 11-1939 Trình bày nội dung của Hội nghị? Qua nội dung Hội nghị em hãy đưa ra nhận xét và đánh giá về Hội nghị Trung ương tháng 11-1939? (gợi ý so với thời kì 1936-1939, chủ trương của Đảng ở Hội nghị này có gì khác) GV1936-1939, Đảng xác định nhiệm vụ trước mắt là nhiệm vụ dân chủ. Đảng ta đặt nhiệm vụ giải phóng - Về xã hội: + Chính sách bóc lột của Pháp – Nhật đẩy nhân dân ta tới chỗ cùng cực. Cuối 1944 đầu năm 1945, có gần 2 triệu đồng bào ta chết đói. + Các giai cấp, tầng lớp ở nước ta, đều bị ảnh hưởng bởi chính sách bóc lột của Pháp - Nhật. II. Phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9-1939 đến tháng 3- 1945 1) Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11-1939 + Hội nghị xác định. - Nhiệm vụ, mục tiêu trước mắt: đấu đánh đổ đế quốc và tay sai, cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. - Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn thực dân đế quốc và địa tay sai đế quốc, chủ chống tô cao, lãi nặng. - Khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công nông binh thay thế bằng khẩu hiệu lập Chính phủ dân chủ cộng hòa. -Về mục tiêu, phương pháp đấu tranh: Chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh dân chủ sang đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai. Từ hoạt động
dân tộc lên hàng đầu. Nhiệm vụ dân chủ được thực hiện từng bước sao cho phù hợp. Các khẩu hiệu đấu tranh, hình thức đấu tranh, tổ chức ... Như vậy Hội nghị Trung ương tháng 11- 1939 đã đánh dấu bước chuyển hướng chỉ đạo đấu tranh Hình thức: Hoàn thành bảng học tập theo nhóm
nghị Hội BCHTW DCS Đông Dương tháng 11/1939 Thời gian Nội dung Ý Nghĩa
hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật. - Thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương (gọi tắt là Mặt trận Phản đế Đông Dương) thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương. + Ý nghĩa lịch sử: Đánh dấu bước chuyển quan trọng - đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu đưa nhân dân ta bước vào thời kì trực tiếp vận động cứu nước. 2) Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kì mới (HS đọc thêm) 3) Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp ương hành Trung Đảng Cộng sản Đông Dương (5-1941) + Hoàn cảnh: 28-01- 1941, sau nhiều năm hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc Tích hợp kiến thức văn học Sau hơn 30 năm bôn ba, hoạt động ở nước ngoài, hình ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh về nước được tái hiện xúc động như thế nào HS: suy nghĩ và hoàn thành phiếu học tập GV: gọi một số bạn học sinh lên hoàn thành phiếu trên bảng. Gv: quan sát, hỗ trợ, nhận xét và chốt lại kết quả. Tiết2 Hoạt động: Nguyễn Ái Quốc về nước trực
đến
trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, từ ngày 10 19-5-1941. Người chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 ở Pắc Bó (Hà Quảng - Cao Bằng) + Nội dung Hội nghị
Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc.
lập mặt
thái khởi
Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, nêu khẩu hiệu giảm tô, thuế, chia lại ruộng công, tiến tới người cày có ruộng. Thành lập chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng (Việt Minh minh 19/5/1941). Và giúp đỡ việc thành lập mặt trận dân tộc thống nhất ở Lào và Campuchia.
tiếp lãnh đạo cách mạng. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5-1941) Hoàn cảnh của Hội nghị? - Thời gian - Địa điểm - Chủ trì - Nội dung Hội nghị: + Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt + Khẩu hiệu + Thành trận + Hình nghĩa + Ý nghĩa So sánh nội dung của 2 hội nghị TW VI và hội nghị TW VIII? Một số nội dung: Lúc này chiến tranh thế giới lan rộng và ngày càng ác liệt. Ở Đông Dương, Nhật - Pháp đã câu kết với nhau đẩy nhân dân ta vào cảnh 1 cổ 2 tròng. Mâu thuẫn dân tộc cao hơn bao giờ hết, nhiều Ôi sáng xuân nay, Xuân 41 Trắng rừng biên giới nở hoa mơ Bác về... Im lặng. Con chim hót Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ... Bác đã về đây, Tổ quốc ơi! Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ Mà đến bây giờ mới tới nơi! (Trích trường ca Theo chân Bác- Tố Hữu) Hình thái khởi nghĩa là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân. + Ý nghĩa: Hội nghị TW Đảng lần VIII có ý nghĩa Lịch sửto lớn đã hoàn chỉnh chủ trương được đề ra từ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc. 4) Chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang
thành
theo
cuộc đấu tranh vũ trang chống đế quốc Pháp đã nổ ra. Tinh hình trong nước rất khẩn trương, thời cơ giành chính quyền sớm muộn sẽ đến. Vì vậy Nguyễn Ái Quốc đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sự trở về của Người là một sự trở về đúng thời điểm, đúng lúc cách mạng Việt Nam can tới một vị lãnh đạo uy tín và tài năng giàu kinh cách nghiệm mạng, can có vai trò Lịch sửcủa 1 cá nhân kiệt xuất. Trước khi Nguyễn Ái Quốc về nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị Trung ương lần 6 và 7 nhằm chuyển hướng đường lối đấu tranh trong thời kì mới. Khi trở về Người chọn Cao Bằng làm căn cứ và tại đây Người đã chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần 8. sản Đảng Cộng Đông Dương đã tiến hành xây dựng lực lượng chính trị như thế nào? - HS theo dõi SGK trả lời - GV nhận xét, bổ sung và chốt lại - GV nhấn mạnh: Như giành chính quyền - Xây dựng lực lượng chính trị : + Nhiệm vụ cấp bách của Đảng là vận động quần chúng tham gia Việt Minh. Cao Bằng là nơi thí điểm cuộc vận động xây dựng các đoàn thể "Cứu quốc". Năm 1942, có 3 "châu hoàn toàn". Uỷ ban Việt Minh Cao Bằng và liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng thành lập. + Ở nhiều tỉnh Bắc Kì và Trung Kì, các hội cứu quốc được thành lập. + Năm 1943, Đảng ban hành Đề cương Văn hoá Việt Nam. Năm 1944, Hội Văn hoá cứu quốc và Đảng Dân chủ Việt Nam được lập, đứng trong Mặt trận Việt Minh… - Xây dựng lực lượng vũ trang : + Công tác xây dựng lực trang cách lượng vũ mạng được Đảng đặc biệt coi trọng. Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, chủ trương của Đảng một bộ phận lực lượng chuyển sang xây dựng thành những đội du kích. + Năm 1941, du kích Bắc Sơn chuyển thành Trung đội Cứu quốc quân I (2-1941). Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích 8 tháng, từ tháng 7-1941
thành
đến tháng 2-1942. Ngày 15-9-1941, Trung đội Cứu quốc quân II ra đời. - Xây dựng căn cứ địa: Công tác xây dựng căn cứ cũng được Đảng ta quan tâm. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai được xây dựng. Năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trương xây dựng căn cứ địa Cao Bằng. - Gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền : + Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, vạch ra kế hoạch chuẩn bị toàn diện cho khởi nghĩa vũ trang. Khắp nông thôn, thành thị Bắc Kì, các đoàn thể Việt Minh, các hội cứu quốc được thành lập. + Ở Bắc Sơn - Võ Nhai, Trung đội cứu quốc quân III ra đời (2-1944). + Ở Cao Bằng, các đội tự vệ vũ trang, đội du kích lập. Năm 1943, 19 ban "xung phong Nam tiến" được lập ra... + Tháng 5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị "Sửa soạn khởi nghĩa". + Ngày 22-12-1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập. Ngay sau khi ra đời, đội đánh thắng hai trận Phay Khắt và Nà Ngần. Tích hợp kiến thức GDQP Kể tên một số thành viên tham gia Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (ngày 22 tháng 12 năm 1944) vậy, từ tháng 5-1941 đến 1943, Đảng đã vận động, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân đứng trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng được một đội quân chính trị hùng hậu chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Em hãy cho biết công tác xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng? - HS theo dõi SGK trả lời - GV nhận xét, bổ sung và chốt ý. - GV trình bày về công tác xây dựng căn cứ địa cách mạng. Công tác xây dựng căn cứ địa cách mạng được Đảng quan tâm: Vùng Bắc Sơn-Võ Nhai được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11-1940) chủ trương xây dựng thành căn cứ địa cách mạng. Năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đó là hai căn cứ đầu tiên của cách mạng nước ta.
Tích hợp kiến thức GDQP và GDCD: Nêu trách nhiệm của học sinh trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời bình.
- Việt Nam trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai 1939-1945 - Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939? Nội dung, ý
- Nguyễn Ai Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng – Hội nghị lần
4. luyện tập: nghĩa? thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương 5/1941. 5. Dặn dò: Học bài và chuẩn bị bài mới. 6. Rút kinh nghiệm : 5. Kết quả thực nghiệm + Kết quả các bài kiểm tra đợt thực nghiệm cho 2 lớp thực nghiệm và lớp đối chứng .
Lớp thực nghiệm: 12A13 mỗi lớp 15 em ngẫu nhiên Lớp đối chứng: 12A4: mỗi lớp 15 em ngẫu nhiên Bảng thực nghiệm
THỰC NGHIỆM CHO KHỐI 12
thực nghiệm Nhóm đối chứng
12A4
đầu trước
Số học sinh KT sau tác động KT năm KT tác động KT sau tác động
Nhóm 12A13 KT đầu năm 5 7 5 7 8 4 6 5 6 5 4 5 6 6 5 KT trước tác động 6 7 6 7 9 5 6 7 6 7 6 6 7 7 7 8 7 6 9 10 6 7 8 7 8 7 7 9 8 8 4 5 5 7 5 8 8 4 5 6 5 6 7 4 6 6 6 5 6 6 8 9 6 6 5 5 7 6 6 8 7 7 5 6 5 9 10 6 7 5 6 7 7 5 7 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
5.0 7.0 8.0 5.0 6.0 7.0
5.0 7.0 8.0 5.0 6.0 7.0
5.60 6.60 7.67 5.67 6.33 6.60
1.12 0.91 1.11 1.35 1.18 1.45
0.54 0.49 0.03
Môt( mode) Trung vị(me dian) Giá trị trung bình(a verag e) Độ lệch chuẩn (stdev ) P(ttes s)
Điểm trung bình của nhóm thực nghiệm 12: 7,67 điểm, của lớp đối chứng: 6,60 điểm. Điểm trung bình, tỷ lệ bài kiểm tra đạt loại khá, giỏi ở lớp thực nghiệm cao hơn so với lớp đối chứng.
- Trong bảng thực nghiệm cho thấy kết quả kiểm tra của nhóm đối chứng có độ lệch chuẩn thấp hơn ( 1,11 so với 1,45; 1,25 so với 1,33) sau khi có sự tác động chứng tỏ sự đồng đều hơn trong các bài kiểm tra đã có hiệu quả.
- Phép kiểm chứng t-test độc lập giúp chúng ta xác định xem chênh lệch giữa giá trị trung bình của hai nhóm khác nhau có khả năng xảy ra ngẫu nhiên hay không. Trong phép kiểm chứng t-test độc lập, chúng ta tính giá trị p, trong đó: p là xác xuất xảy ra ngẫu nhiên. Với mức ý nghĩa p = 0,03 ( với khối 10 là 0,04) < 0,05 Giá trị p bằng 0,03 hay 0,04 của phép kiểm chứng t-test là có ý nghĩa và kết quả không có khả năng xảy ra ngẫu nhiên. Vậy ta đưa ra giả thuyết rằng kết quả về điểm trung bình và tỷ lệ đạt loại khá giỏi khi dạy bằng phương pháp tôi đưa ra sẽ tốt hơn so với kết quả dạy bằng phương pháp cũ. Điều này khẳng định thêm sự tiến bộ tích cực do tác động mang lại.
- Qua việc giảng dạy chúng tôi thấy không khí giờ học tại lớp 12a13 (lớp thực nghiệm) sôi nổi, thoải mái, học sinh hứng thú với bài giảng. Cả lớp đều chăm chú và làm việc tích cực.
- Qua thực nghiệm, chúng ta thấy nguyên tắc liên môn có ý nghĩa quan
trọng trong dạy học Lịch sử Việt Nam
C. KẾT LUẬN
1.Đóng góp của đề tài -Tính mới: Đây là đề tài đã được nghiên cứu, thực nghiệm thành công và đúc rút từ kinh nghiệm có tính thực tiễn cao. Đề tài đã kế thừa nhiều thành tựu trong nỗ lực đổi mới phương pháp giảng dạy Lịch sửnói chung, giảng dạy học phần Lịch sửViệt Nam nói riêng ở một số tài liệu. Từ đó tìm ra một hướng đi mới trong việc dạy và học Lịch sửViệt Nam trong chương trình theo tinh thần vận dụng kiến thức liên môn.
-Tính khoa học: Đề tài được trình bày bài bản, cẩn thận. Các phương pháp nghiên cứu được vận dụng phù hợp và phát huy hiệu quả của nội dung đề tài. Ngôn ngữ trong sáng, tường minh; cấu trúc gọn, rõ, chặt chẽ, dẫn chứng khách quan, xác thực.
-Tính hiệu quả + Phạm vi ứng dụng
Đề tài có khả năng ứng dụng rộng rãi trong việc dạy – học Lịch sửViệt Nam chương trình lớp 12 THPT theo định hướng dạy học phát triển phẩm chất, năng lực học sinh.
+ Đối tượng ứng dụng
Đề tài áp dụng chủ yếu cho giáo viên và học sinh trong việc dạy – học môn Lịch sửnói chung, dạy và học Lịch sửViệt Nam chương trình chương trình lớp 12 THPT nói riêng. + Hiệu quả
Đề tài đã được thể nghiệm tại trường THPT Hoàng Mai trong năm học 2020-2021, đem lại những hiệu quả thiết thực cho việc đổi mới phương pháp dạy học bộ phận Vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy học phần Lịch sửViệt Nam chương trình lớp 12 THPT đã giúp học sinh hứng thú hơn trong học tập cho học sinh. Các em đã bước đầu nhận thức được mối quan hệ mật thiết giữa Lịch sửvà văn học phát sinh; Lịch sửvới các hình thái ý thức xã hội khác đồng thời biết cách vận dụng kiến thức tổng hợp giải quyết vấn đề đặt ra, tránh “lãng phí kiến thức” đã học Với riêng bản thân tôi, quá trình thực hiện đề tài, tôi đã thu nhận cho mình nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Tôi nhận thấy, việc hình thành được phương pháp dạy học học phần Lịch sửViệt Nam rất quan trọng và cần thiết, hơn là cung cấp kiến thức cho học sinh theo từng đơn vị bài riêng rẽ. Qua đó, tôi càng nhận thấy vai trò quan trọng của việc vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học bộ môn Lịch sử. 1.Kiến nghị
-Với giáo viên: Thường xuyên trau dồi năng lực, phương pháp giảng dạy, phải tự học, tự nghiên cứu chương trình sách giáo khoa các môn học có liên quan đến Lịch sửđể có kế hoạch sử dụng kiến thức liên môn phù hợp với học sinh.
Tăng cường thăm lớp dự giờ, tăng cường sự hợp tác giữa giáo viên. Một mặt giúp giáo viên đúc rút được, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, mặt khác tích lũy thêm những kiến thức bổ ích để phục vụ cho bộ môn mình dạy
Linh hoạt trong cách tích hợp giữa các môn, sao cho lượng kiến thức vừa đủ để học sinh tiếp thu, tránh nặng nề, trùng lặp, không biến giờ dạy văn thành dạy các môn học có liên quan hoặc ngược lại, nhưng cũng không thể xem nhẹ bỏ qua, không nhắc đến như trước nay
Giáo viên cần chủ động tham gia tiếp cận chủ đề dạy học tích hợp liên môn, soạn giáo án liên môn, tích cực hưởng ứng các cuộc thi dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn dành cho giáo viên trung học mà Bộ GD-ĐT tổ chức
-Với học sinh: Đổi mới quan điểm về vị trí các môn học, tích cực học tập các môn học một cách toàn diện, không được coi nhẹ bất cứ môn học nào, vận dụng kiến thức tổng hợp để giải quyết những vấn đề được đặt ra
Chủ động tìm tòi, phát hiện các vấn đế có liên quan mang tính hệ thống với
nhau để tìm ra phương pháp học tập phù hợp
Tích cực tham gia các cuộc thi liên quan đến chủ đề tích hợp, liên môn mà bộ
đã phát động
-Với các cấp quản lý: Nhà trường cần tăng cường đưa chủ đề dạy học vào các dịp hội giảng Tăng cường cơ sở vất chất, thiết bị dạy học theo hướng tích hợp môn học. Đổi mới cách thức tổ chức quản lý trong Nhà trường, cách kiểm tra đánh giá
theo hướng tích hợp
Thiết kế lại nội dung chương trình-sách giáo khoa các môn học theo hướng
tích hợp.
Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên được giao lưu với các đơn vị trên địa
bàn thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề.
Ngành Giáo dục cần có thêm những hoạt động thiết thực, bổ ích như tổ chức tập huấn giáo viên, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức các cuộc thi thi dạy học tích hợp liên môn để đội ngũ giáo viên nói riêng và xã hội nói chung hiểu rõ, hiểu đúng vấn đề. Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ của tôi, mong được cùng đồng nghiệp chia sẻ, góp ý. Thiết nghĩ, việc tìm ra phương pháp dạy học phù hợp với từng đơn vị bài học, trong từng giai đoạn văn học phải là công việc của riêng ai. Tôi xin trân trọng cảm ơn những đóng góp của quý vị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử 12, NXB giáo dục, Hà Nội,2009 2. Ngữ Văn 12, NXB giáo dục, Hà Nội 2009 3. Địa lí 12, NXB giáo dục, Hà Nội 2009 4. Giáo dục công dân 12, NXB giáo dục, Hà Nội 2009 5. Điện Biên phủ hình ảnh và sự kiện, NXB Tổng hợp Hồ Chí Minh, 2004 6. Đại cương về Lịch sử Việt Nam, NXB giáo dục, Hà Nội, 2008 7. Một số trang Internet: video
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH GIẢNG DẠY